Saturday, January 30, 2010

*

297 * NỘI BỘ NVGP

*

Nhân Văn Giai Phẩm phần V : Nội bộ báo Nhân Văn

Thụy Khuê

Bài đăng ngày 16/08/2009 Cập nhật lần cuối ngày 05/12/2009 19:28 TU

Trang nhất tờ Nhân Văn số một (1956)(Nguồn : Tư liệu G. Boudarel)

Trang nhất tờ Nhân Văn số một (1956)
(Nguồn : Tư liệu G. Boudarel)

Nhân Văn Giai Phẩm do hai nhóm bạn hợp tác điều hành: Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo ba người bạn thân, trong kháng chiến, đã từng chủ trương việc xuất bản lại các tác phẩm có giá trị thời tiền chiến. Và Lê Đạt, Hoàng Cầm, là hai người bạn thân đã làm tờ Giai Phẩm mùa xuân. Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, trách nhiệm bài vở. Giai phẩm do Trương Tửu trông nom. Giai phẩm xuất hiện trước nhưng Nhân Văn vẫn được coi là "đầu não" của phong trào.

Trong vòng 4 tháng, từ cuối tháng 8 đến cuối tháng 12/56, phong trào đòi hỏi dân chủ và tự do tư tưởng bùng lên với hai tờ báo chính: Nhân VănGiai Phẩm do nhà xuất bản Minh Đức (Trần Thiếu Bảo) in hoặc giúp đỡ in ấn. Phần lớn những người viết cho Nhân Văn đều có mặt trên Giai Phẩm và ngược lại.

Nhân Văn Giai Phẩm do hai nhóm bạn song song hợp tác điều hành:

- Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo là ba người bạn, trong kháng chiến, đã từng chủ trương việc xuất bản lại các tác phẩm có giá trị thời tiền chiến (nhưng bị loại trừ sau cách mạng) như Tiêu Sơn tráng sĩ của Khái Hưng, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, v.v...

- Hoàng Cầm, Lê Đạt, hai người bạn thân đã tranh đấu đòi tự do sáng tác từ những ngày đầu trong quân đội cùng với Trần Dần, Tử Phác, năm 1955, và làm tờ Giai Phẩm mùa xuân.

Năm người này là những viên gạch nền móng, bằng những cố gắng xây dựng của họ, từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1956, đã quy tụ được một số đông văn nghệ sĩ trí thức, họp thành phong trào NVGP.

Nhân Văn do Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, trách nhiệm bài vở. Giai phẩm do Trương Tửu trông nom. Nhân Văn hướng về con đường đấu tranh chính trị. Giai Phẩm đi vào chiều sâu của tư tưởng.

Giai phẩm xuất hiện trước với Giai phẩm mùa thu tập I (29/8/56), nhưng Nhân Văn vẫn được coi là "đầu não" của phong trào.

Hiện nay, chúng ta chưa thể biết rõ về nội bộ tờ Giai phẩm vì Trương Tửu và Trần Thiếu Bảo đều không phát biểu gì, cho đến khi mất. Nhưng về nội bộ tờ Nhân Văn, chúng ta có thể biết được phần nào sự thật, nhờ tiếng nói của những thành viên chính.

Ảnh chụp Phan Khôi tại cuộc Hội thảo về Lõ Tấn năm 1956(Ảnh : DR)

Ảnh chụp Phan Khôi tại cuộc Hội thảo về Lõ Tấn năm 1956
(Ảnh : DR)

Ngày 20/9/1956, Nhân Văn số 1 ra đời, về mặt chính thức tờ báo do Phan Khôi làm chủ nhiệm và Trần Duy thư ký toà soạn. Nhưng thực sự, nội bộ báo Nhân Văn đã được cấu trúc như thế nào? Đó là câu hỏi đầu tiên cần được giải đáp.

Việc thành lập báo Nhân Văn

Để dựng lại sự việc đã xẩy ra, chúng tôi dùng hai loại chứng:

Những bản "thú nhận" của các thành viên chính, viết trong đợt đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm ở Thái Hà Ấp, giữa tháng 3 và 4 năm 1958 và những lời tuyên bố của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Duy, trên RFI, những năm gần đây.

Khi nói về cùng một dữ kiện, trong hai loại chứng trên thì những lời "thú nhận" sẽ ưu tiên, vì đã được viết trong thời gian bi kịch xẩy ra, tại chỗ, nên không bị nhớ lầm, như trường hợp những lời viết hoặc tuyên bố sau này, nửa thế kỷ qua, trí nhớ có thể sai lạc.

Nhưng về những lời "thú nhận" này, chúng ta cần biết:

1- Những lời "thú nhận" này đã viết trong điều kiện như thế nào?

- Viết trong "lớp học" thứ nhì (đúng ra là "đấu trường" thứ nhì) ở Thái Hà giữa tháng 3 và 4/58 (có 304 người dự). Chúng tôi sẽ đề cập đên không khí gay gắt của hai đợt đấu tranh chống NVGP ở ấp Thái Hà trong chương VI, ở đây, chỉ xin nêu lên một số điểm liên quan đến các bài "thú nhận", được sử dụng trong chương này:

-Theo Lê Đạt, ở hội trường, mọi người đứng lên "phát hiện tội" "Nhân Văn". Và "Sau khi tất cả mọi người phát hiện các tội của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội". Rồi sau đó, các "Nhân Văn" về tổ của mình làm "bài khai". "Bài khai phải được tổ thông qua, và lại phải đưa ra hội trường thông qua nữa, thì anh mới được xong". Tức là anh mới được về.

- Như thế, những "bài khai" này, đã được viết dưới áp lực của "đấu trường" kéo dài trong một tháng, và cũng là bài "tổng kết tội trạng" mà mỗi thành viên Nhân Văn phải tự mình viết ra. Khi viết, họ không được trao đổi với nhau, sau đó phải đọc trong tổ, tổ thông qua, rồi mới đọc cho hội trường nghe và duyệt. Vì những lẽ đó, họ khó có thể "khai man" (vì sợ không đúng với những lời tố, lời khai, của người khác); vì vậy, chúng ta nên thận trọng, đối với một số dư luận buộc tội người này, người kia "khai man" trong lớp Thái Hà.

- Vì những điều kiện trên, chúng tôi xem những bài khai hay bài thú nhận này là những văn bản sớm nhất (viết từ tháng 3/58) thuật lại một số sự việc thật đã xẩy ra trong nội bộ Nhân Văn.

2- Bài thú nhận của Trần Dần và Lê Đạt, "hai tên thơ phản động nhất nước", được/bị trích đăng trên hai báo Văn Học số 1 (25/5/1958) và Văn Nghệ số 12 (5/58), bài thú nhận của Hoàng Cầm và Phùng Quán đăng trên Văn Nghệ số 12, của Văn Cao trên Văn Học số 3 (5/6/58), của Trần Đức Thảo trên Nhân Dân số 1532-1533 (23-24/5/58), và trích in một số đoạn trong cuốn Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận.

3- Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Duy, "không được" dự lớp Thái Hà vì thuộc diện những "phần tử xấu". Vì vậy, không có bản "thú nhận" của họ.

"Không phải là chị Thụy An, anh Trần Duy và ông Phan Khôi không chịu đi học. Ở đấy người ta chia ra: Những người nào hoạt động chính trị mà người ta cho là có tính chất phản động, là những phần tử xấu thì người ta "không cho" đi học lớp ấy: Phan Khôi, Thụy An, Trần Duy "không được" học. Chỉ có những văn nghệ sĩ mà người ta cho là những người vì quan điểm lầm lạc, được Ðảng chiếu cố cải tạo giúp đỡ, thì mới được đi học lớp ấy thôi. Cho nên đi học lớp ấy, gay go thế cũng là một "ưu tiên". (Lê Đạt trả lời RFI).

4- Các văn bản "thú tội" phản ảnh tâm thức của người viết: Qua những bài khai, Lê Đạt và Trần Đức Thảo giữ được phong cách của người trí thức: Chịu trách nhiệm việc mình làm. Không đổ lỗi cho người khác. Không gọi bạn đồng hành là tên, là , là bọn. Có lẽ đó là cách phải gọi những người Nhân Văn Giai Phẩm trong "đấu trường", nó phản ảnh không khí trù dập, đàn áp, xuống cấp và thù nghịch ở ấp Thái Hà và sức chịu đựng của từng người: Trong ba người bạn thân Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, thì Lê Đạt có bản lãnh hơn cả.

Ý định ra báo

Ý định ra báo là của Nguyễn Hữu Đang. Nguyễn Hữu Đang thuyết phục Hoàng Cầm trước. Hoàng Cầm về bàn với 5 người thân nhất trong nhóm Giai phẩm mùa xuân: Trần Dần, Lê Đạt, Tử Phác, Văn Cao và Đặng Đình Hưng. Phần đông đều e ngại, không muốn cộng tác vì nghi ngờ Nguyễn Hữu Đang là người làm chính trị. Một mặt khác, sau vụ đàn áp Giai phẩm mùa xuân, Trần Dần và Lê Đạt đều muốn nghỉ (một phần vì chuyện gia đình, mới lấy vợ, mới có con...). Hoàng Cầm nhận phụ trách phần văn nghệ của Nhân Văn. Đến Nhân Văn số 2, Lê Đạt mới thực sự vào ban biên tập.

Hoàng Cầm thuật lại trên RFI:

"[Sau lớp học 18 ngày] Thì lúc bấy giờ anh Đang anh ấy mới nẩy ra một ý: Đang lúc văn nghệ sĩ có nhiều thắc mắc như thế này thì chúng mình nên ra một tờ báo. Tôi bảo: Ra báo thì phải có tiền, chứ tự nhiên ra thế nào được. Anh Đang bảo: Tiền thì tôi sẽ nhờ người bạn đi vay và chắc chắn chỉ vài số báo là đã có thể trả được. (...)

"Đầu tiên tôi không nhận lời, vì lúc ấy tôi đang làm ở nhà xuất bản của Hội Văn nghệ, nhiều công việc bận lắm. Nhưng mà anh ấy vẫn không tha. Anh ấy cứ bám riết lấy.(...) giữ riệt lấy tôi và thúc đẩy tôi. Thế rồi cuối cùng tôi cũng phải nhận lời. Bởi tôi cũng dễ tính và hay nể bạn". (Hoàng Cầm, RFI, 8/2/2008).

Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Hoàng Cầm viết:

"Bàn về tiền ra báo, tôi tán thành tên Tước [là một người thân thuộc của nhà xuất bản Minh Đức] do Nguyễn Hữu Đang giới thiệu, bỏ tiền ra làm vốn. Tôi đã đi họp hai lần ở nhà tên Tước, lần đầu với Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Tước bàn về thể tài tờ báo. – Tư tưởng tôi lúc đó phản đối mọi đường lối, chính sách của Đảng nên tôi nghĩ: Báo Văn nghệ hay Văn hoá xã hội cũng được, miễn là ra được, nhưng chỗ tôi biết hơn cả là mặt văn nghệ, thì tôi tự nhận phần văn nghệ, còn ngoài ra ai muốn viết về vấn đề gì, tôi cũng tán thành. Một lần nữa, có Nguyễn Bính, Đang, Tước bàn về tên tờ báo và mời Nguyễn Bính làm thư ký toà soạn, thì tôi nghĩ là “tên báo gì gì cũng được” miễn là có báo ra được". (Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958).

Như vậy, theo lời Hoàng Cầm, Nguyễn Bính đã có mặt trong những buổi họp trước khi ra báo Nhân Văn.

Lê Đạt, kể lại trên RFI như sau:

"Trong buổi học tập văn nghệ đó [lớp học 18 ngày], anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ.

Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm (...)

"Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt, rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ. Anh Ðang lại không thuộc nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Ðang là một cán bộ chính trị cũ, anh ấy chỉ biết tôi thôi, thế còn quan hệ với anh em Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Đang lại không có. Mà các anh ở Giai Phẩm Mùa Xuân cũng không thích anh Ðang. Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao cho anh Cầm; tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang". (Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI).

Trong bài "thú nhận", tháng 3/1958, Lê Đạt viết:

"… Sau thời gian lớp học 18 ngày Nguyễn Hữu Đang cùng với Hoàng Cầm ra báo. Hoàng Cầm đặt vấn đề với nhóm Giai phẩm mùa xuân.

Văn Cao, Trần Dần, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm và tôi bàn ở tiệm trà Phúc Châu.

Đa số đồng ý là không tham gia biên tập vì cho Nguyễn Hữu Đang không phải là người văn nghệ, có thể nhiều động cơ cá nhân không tốt, hai là tập họp anh em đông quá trong số đó có nhiều phần tử chạy theo, cơ hội không nắm chặt được, sợ manh động (viết lách ẩu, quá khích bị lãnh đạo đánh)".

(Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958, trang 74).

Vẫn về việc này, Trần Dần trong bài "thú nhận", viết:

"… Đến lớp học mười tám ngày, Nguyễn Hữu Đang từ lâu nằm phục xuống, nhờ cơ hội này đứng dậy phất cờ. Nếu không có Đang sẽ không có tham luận với những đề nghị: Gặp Trung ương, ra báo v.v… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn.

Tư tưởng chống đối trong tôi cũng ngóc dậy. Tuy đồng tình với Nguyễn Hữu Đang, song không đồng tình về phương pháp (...).

Nguyễn Hữu Đang định kéo nhóm Giai phẩm mùa xuân làm vốn cho hắn ra báo, đấu tranh với Đảng, vì từ lâu hắn đã ngửi thấy ở đó có vấn đề có thể kiếm chác được. Vấp phải sự rùng rằng không muốn tham gia của nhóm Giai phẩm mùa xuân (vì nhiều lẽ), hắn kéo lẻ từng người. Đầu tiên là Hoàng Cầm (...)

"... Đến khi Nhân văn thông qua bài số 1, tôi đến, thấy hỗn độn táp nham quá, mình dự đây là dại, nên nửa chừng bỏ về. Lúc đó tôi đã nghi Nguyễn Hữu Đang, cho là thằng quá tả, vấn đề gì cũng định đưa ra công khai, tôi cho rằng hắn sẽ làm hỏng phong trào của lớp học mười tám ngày thôi. Sẽ lại thất bại như hồi bộ đội. Nên tôi tự đặt nhiệm vụ dùng Hoàng Cầm, Lê Đạt mà ghìm hắn lại." (Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, 5/1958, trang 61).

Trần Dần vì nghi kỵ Nguyễn Hữu Đang, không muốn tham dự, nhưng cũng không bỏ hẳn. Như vậy, trong nội bộ Nhân Văn, từ đầu, đã có những khuynh hướng khác nhau: Nguyễn Hữu Đang muốn mở rộng cuộc tranh đấu sang chính trị: đòi hỏi tự do dân chủ. Hoàng Cầm thì thế nào cũng được. Trần Dần chỉ muốn đòi tự do sáng tác. Lê Đạt giữ vị trí trung gian: Đồng ý với Nguyễn Hữu Đang về đấu tranh tự do dân chủ nhưng muốn thực hiện bằng con đường sáng tác.

Đó là những "khó khăn" mà Lê Đạt muốn nói đến khi lập tờ Nhân Văn, nhưng không chỉ có những "khó khăn" nội bộ, mà còn cả những khó khăn do áp lực bên ngoài. Một chủ trương "rầm rộ" như vậy, lãnh đạo không thể không biết. Và Trung ương đã tìm cách khuyên nhóm Nhân Văn dẹp ý định làm báo đối lập, bằng cách nói riêng với từng người.

Bộ chính trị khuyên nên bỏ ý định ra báo

Hoàng Cầm kể trên RFI: "...Trước khi ra báo thì các anh em đã rậm rịch nói với nhau rồi, cho nên tin tức đều đến tai lãnh đạo cả. Thì lãnh đạo, tức là bộ chính trị, đã bố trí cho cho ông Võ Nguyên Giáp mời Nguyễn Hữu Đang lên nói chuyện, mời riêng đấy. Còn ông Lê Đức Thọ, lúc bấy giờ cũng là bộ chính trị, thì mời Lê Đạt và ông Lê Liêm lúc bấy giờ là Tổng cục phó Tổng cục chính trị (về sau này ông ấy mới chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ giáo dục), thì mời tôi. Như vậy là ba ông ủy viên bộ chính trị gặp những người chủ chốt của Nhân Văn, và nếu mà ba ông ấy thuyết phục được ba người đó đừng ra báo, thì thôi, coi như là yên ổn cả, không có chuyện gì. Ông Lê Liêm gặp tôi đến ba buổi tối trong nhà khách của quân đội, ông Giáp thì gặp anh Đang, ông Lê Đức Thọ gặp anh Lê Đạt, tất nhiên là để nói đến chuyện ra tờ báo, thì họ cũng lấy tình đồng chí, tình bạn bè, khuyên bảo, chứ không phải để ra lệnh gì. Ông Lê Liêm gặp tôi rất khiêm tốn, nói hết những cái Đảng có thể có những sai lầm này, sai lầm khác v.v... trong việc lãnh đạo văn nghệ. Tự ông ấy nói ra để cho mình hiểu và yên tâm là Đảng cũng biết đấy, để Đảng sửa dần, để cho mình muốn nói cái gì về Đảng trên tờ báo của mình thì mình rút đi, rút lui cái ý kiến trên báo ấy đi. Mục đích của những cuộc gặp đó là như thế. Khổ một nỗi là lúc bấy giờ những thắc mắc của anh em văn nghệ nó ồn ã lắm. Mà nó nhiều cái sâu sắc lắm, cho nên anh Đang anh ấy kiên quyết là không, cứ phải ra báo, phải ra báo thì mới nói được. Anh Đang kiên quyết ra báo. Tôi thì ra cũng được mà không ra cũng được. Thế là trong nội bộ của mấy anh em hoạt động nhất trong báo Nhân Văn là Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và tôi cùng thống nhất với nhau là cứ ra. Thế là ra được Nhân Văn số 1". (Hoàng Cầm, RFI, 8/2/2008).

Việc mời Phan Khôi làm chủ nhiệm

Việc này do Nguyễn Hữu Đang nghĩ ra. Lê Đạt kể: "Ðang bảo: "Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay" (Lê Đạt trả lời RFI).

Việc mời Trần Duy làm thư ký toà soạn

Họa sĩ Trần Duy (DR)

Họa sĩ Trần Duy (DR)

Trần Duy, nói trên RFI:

"Tôi không biết Trần Dần, tôi cũng không biết Hoàng Cầm. Mãi sau buổi họp ở 51 Trần Hưng Đạo, đưa bài Nhất định thắng của Trần Dần -hôm đó là cuộc hội rất lớn- kết tội bài đó [Buổi "hội lớn" của Hội văn nghệ, đánh Trần Dần (vắng mặt) với 150 người dự, một buổi tối giữa tháng 2/1956, chưa xác định được ngày]. Tôi với ông Phan Khôi ngồi gần nhau (...) Người ta quy rằng Trần Dần như thế là ngã về địch, bị gián điệp (...). Ông Phan Khôi nói với tôi: Quy cho người ta là gián điệp, là chính trị, nhanh quá, rất nguy hiểm (...). Vì thế tôi không quen biết những người này nhưng vì ông Phan Khôi, tôi đứng trên quan điểm của ông Phan Khôi, tôi rất ủng hộ ông Trần Dần mà tôi không biết ông Trần Dần là ai cả. Tôi cũng không biết ông Hoàng Cầm. Tôi biết anh Lê Đạt vì tôi cùng về báo Văn Nghệ (....) Do ông Phan Khôi tôi biết nhóm Lê Đạt và Trần Dần". (Trần Duy trả lời RFI, tháng 7/2008).

Cũng về việc này, Hoàng Cầm viết trong bài "thú nhận" tháng 3/58, như sau:

"Chỉ có việc Nguyễn Hữu Đang mời tôi làm thư ký toà soạn là tôi không nhận, lý do chỉ vì sợ trách nhiệm, muốn đùn trách nhiệm cho người khác. Tôi đã đùn cho Trần Duy trong một buổi tình cờ gặp Trần Duy ở nhà Minh Đức. Tôi gọi nó lên gác nhà tên Đang, giới thiệu nó với tên Đang. Trần Duy nhận lời ngay." (Hoàng Cầm, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/1958).

Ai quyết định nội dung bài vở báo Nhân Văn?

Trong bài "thú nhận", Lê Đạt viết:

"Tôi tham gia Nhân văn với ý thức là người lãnh đạo lý luận của tờ báo vì tôi cho tôi vững vàng hơn Nguyễn Hữu Đang. Ban biên tập lúc đó gồm bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và tôi." (Lê Đạt, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ số 12, tháng 5/58, trang 75).

Vậy trong bốn người: Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Hoàng Cầm và Lê Đạt, ai quyết định nội dung tờ báo?

Trần Duy trả lời trên RFI:

"Tất cả bài vở là do Đang và Đạt quyết định và bài vở tập hợp vào tôi, khi thiếu bài hoặc mise mà không có thì bảo tôi làm cái remplissage lấp lỗ trống hoặc thu dọn bài này, bài nọ, trang mấy, trang mấy có tranh, thì bảo tôi làm. Sự thật ra quyết định bài vở phần lớn là Đang, quyết định nội dung bài là Đạt. Còn thầy cò thầy kiện là ông Văn Cao. Ông Trần Dần, ông Hoàng Cầm là đứng sau lưng. Người chủ động và trực tiếp với tôi là Lê Đạt, người chủ động bài vở là ông Nguyễn Hữu Đang. Tất nhiên là tôi không quyết định được bài vở rồi, nhưng có bài nào cần thiết thì Lê Đạt bảo: Ông viết đi, vấn đề này ông viết được, ông viết hộ tôi, ví dụ như tự do sáng tác hay là gì đó thì ông cứ viết, ông lại hơi có cái giọng humour thì ông làm cho tôi... không phải chuyện cười, những chuyện thời sự ông đi góp nhặt các nơi. Thì tôi phụ trách mục đó và tôi đề TD, là Trần Duy đó. Sau khi mise những bài chính rồi thì tôi là người lấp remplissage phần còn lại của tờ báo. Sự thực ra người ta không bao giờ hỏi ông Phan Khôi về một cái gì cả." (Trần Duy trả lời RFI)

Vẫn theo lời Trần Duy, Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang thường hay cãi nhau. Vậy sự bất đồng ý kiến đó là gì? Có phải về mục tiêu đấu tranh, hay là cái gì khác?

Lê Đạt viết trong bài "thú nhận":

"Về mục tiêu đấu tranh của Nhân văn: Một mặt, lật đổ bộ phận lãnh đạo mà tôi cho là bè phái (đồng chí Tố Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi), một mặt nữa đấu tranh với Trung ương về tự do dân chủ, tôi tán thành nhưng vẫn muốn đấu tranh bằng hình thức văn nghệ. Lúc đó tôi có khuyên Hoàng Cầm nên đẩy mạnh mặt văn nghệ của tờ báo còn phần đấu tranh cho tự do dân chủ thì làm một phần nhẹ thôi" (Lê Đạt, Thú nhận).

"Xét cho cùng lúc đầu tôi với Nguyễn Hữu Đang chỉ khác nhau về chiến thuật. Tuy không tham gia biên tập nhưng khi in số 1 thỉnh thoảng tôi cũng có đến". (Lê Đạt, Thú nhận).

Nhân văn số 1: Ra ngày 20/9/56, gồm những bài chính: bài thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt; bài Tiến tới xét lại một vụ án văn học: Con người Trần Dần của Hoàng Cầm, bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo trên cổ; và bài Luật sư Nguyễn Mạnh Tường trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ.

Nhân văn số 2: Ra ngày 30/9/1956, với ba bài chính: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở của Trần Duy; Đào Duy Anh trả lời về vấn đề mở rộng tự do dân chủ và bài Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân, do Nguyễn Hữu Đang viết.

Nhân văn số 3: Nhân Văn số 3 (ra ngày 15/10/1956), xác định rõ ràng hơn đường lối tranh đấu cho tự do dân chủ với hai bài chính Nỗ lực phát triển dân chủ của Trần Đức Thảo và Đặng Văn Ngữ trả lời về mở rộng tự do dân chủ.

Sau Nhân Văn số 3, có hai sự việc quan trọng xẩy ra: Trung ương tổ chức tọa đàm và Trần Duy lên gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Trần Duy lên gặp Phạm Văn Đồng

Trần Duy thuật lại trên RFI:

"Tôi gặp anh Phạm Văn Đồng, ông Đồng gọi tôi lên, khi đó là số 3 rồi. Khi đó có những tin đồn là Nhân Văn muốn ngả về những mouvement, những phong trào đòi dân chủ ở Hung hay là ở Nam Tư gì đó, thì anh Đồng có cho gọi ban biên tập và tòa soạn lên, cuối cùng anh em bảo Trần Duy lên gặp, thì tôi lên. Việc tôi lên gặp ông Đồng cũng có một số anh em tán thành, một số không tán thành, cho rằng như thế là tự mình ràng buộc với... chính quyền.

Nhưng tôi nghĩ rằng anh không thể nào vượt chính quyền được và anh không thể nào vượt khỏi tổ chức của đảng được, không thể chống lại được nó, làm cái gì cũng phải nằm trong cơ sở tổ chức của đảng thôi. Tôi lên gặp ông Đồng. Thái độ của ông Đồng rất cởi mở, gặp tôi bảo: Tôi hiện nay rất bận (...) , tôi ủy cho anh Phan Mỹ thay tôi để giải quyết những vấn đề gì của anh em còn vướng mắc, theo tôi thì đừng nói chữ đấu tranh, các anh cần gì, yêu cầu gì, các anh cứ việc đề ra và chúng tôi giải quyết chứ đừng đấu tranh, đòi hỏi cái gì mà phải đấu tranh (...). Ông Đồng đi thì tôi ngồi nói chuyện với anh Phan Mỹ, anh Phan Mỹ bảo: Các anh cần gì, vấn đề tài chính thì tất nhiên chính phủ làm được việc đó, các anh cần mua giấy thì chúng tôi cấp giấy cho các anh mua.

Xong việc ấy tôi về gặp anh em ở một cái quán nhỏ đầu Hàng Nón, mọi người ở đấy, có Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, ... và tôi. Một lúc thì Đang đến, tôi nói chuyện tôi gặp như thế thì tất cả mọi người, trừ Lê Đạt, đều cho rằng thái độ của tôi là thái độ đầu hàng". (Trần Duy, trả lời RFI).

[Theo tin trong Nhân Văn số 3: Sở dĩ Nhân Văn phải bán giá cao hơn các báo khác, vì "chỉ được Cơ Quan Mậu Dịch Trung ương cung cấp giấy đủ để in 2000 số", trong khi số 2, in 6000 và số 3, in 7000 số, vì vậy phải mua thêm giấy ngoài thị trường với giá đắt gấp đôi giá mậu dịch". Tin trong Nhân Văn số 4: "Kỳ này, in 12.000 số, mà vẫn chỉ được Sở Báo Chí và Mậu Dịch Trung ương cung cấp giấy đủ in 2000 số, tuy chúng tôi đã nhiều lần xin thêm].

Trung ương tổ chức toạ đàm

Về việc Trung ương tổ chức toạ đàm, Võ Hồng Cương, Cục phó cục Tuyên huấn, trong bài tổng kết "Cuộc đấu tranh giai cấp trên mật trận văn nghệ hiện nay" (Văn Nghệ quân đội, số 6, tháng 6/58), viết:

"Ngay từ khi chúng xuất bản "Giai phẩm mùa thu" tập I và Nhân Văn số I, giới văn nghệ sĩ ta đã thấy rõ tính chất phản động của chúng, nên đã kịp thời phê phán chúng trước dư luận nhân dân. Trung ương Đảng Lao động Việt nam muốn mở đường cho chúng hối cải, nên tuy rất bận về công tác sửa sai rất khẩn trương, cũng đã để thì giờ gặp chúng đến ba lần, để nghe chúng phát biểu thắc mắc nguyện vọng và nghe chúng phê bình sự lãnh đạo của cán bộ phụ trách văn nghệ của Đảng rồi khuyên bảo chúng những điều nên làm và những việc nên tránh". (Hồng Cương, Văn Nghệ quân đội, số 6, tháng 6/58, trang 36).

Theo tin trên Nhân Văn số 4 (5/11/56), thì ngày 20/10/56 bắt đầu cuộc tọa đàm giữa đại diện ban chấp hành Trung ương đảng Lao Động Việt nam và các ngành văn học nghệ thuật. Ba buổi tọa đàm này được tổ chức những ngày: 20, 21, và tối 23/10/56. Nhân Văn đề cử ba đại biểu đến tham dự.

Như vậy những buổi toạ đàm này không chỉ dành riêng cho Nhân Văn. Một trong ba người của Nhân Văn đi dự tọa đàm là Trần Dần. Hai người kia có thể là Lê Đạt và Nguyễn Hữu Đang.

Lê Đạt viết trong bài thú nhận:

"Sau cuộc tọa đàm với Trung ương, tôi viết bài “Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng” để gây thanh thế cho báo Nhân văn. Một mặt khác tôi luôn luôn đả kích chuyên chính vô sản mà tôi cho là độc tài. Tôi tung ra trong anh em lập luận: “Từ khi về hoà bình mất đối tượng đế quốc và địa chủ, Đảng chĩa nhầm mũi dùi chuyên chính vào nhân dân.” (Lê Đạt, Thú nhận)

Trần Dần viết lời "thú nhận" như sau:

"Khoảng Nhân văn số 3, tôi được cử đi gặp Trung ương Đảng. Tôi chuẩn bị kết án sự lãnh đạo văn nghệ trước, và đòi trăm hoa đua nở. Song mọi người nói cả rồi nên thôi (sau có viết bài đăng báo Nhân văn). Trước cuộc họp tọa đàm này, Nguyễn Hữu Đang có họp [Nhân Văn] tôi không dự, nội dung đâu như chuẩn bị ra một số đặc biệt, lợi dụng cuộc tọa đàm với Trung ương đem mọi lời phát biểu phơi trần ra công khai đánh vào Đảng". (Trần Dần, Thú nhận).

Theo lời khai trên đây của Trần Dần, thì từ số 3, Trần Dần không còn "ở ngoài" Nhân Văn (như ông đã khai ở đoạn trên) mà đã vào trong Nhân Văn, vì được cử đi gặp Trung ương. Trần Dần đến dự buổi tọa đàm này với mục đích "kết án sự lãnh đạo văn nghệ" và "đòi hỏi trăm hoa đua nở", nhưng chưa kịp nói thì "mọi người đã nói cả rồi". Tuy ông không cho biết mọi người là những ai, nhưng điều này chứng tỏ nhóm NVGP, đối diện với Trung ương Đảng, trong các buổi toạ đàm tháng 10/56, có vẻ dứt khoát không sợ hãi gì cả. Và đi dự tọa đàm về họ còn viết hai bài rất mạnh trên Nhân Văn số 4:

- Bài "Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa" ký tên Người Quan Sát (có thể là của Nguyễn Hữu Đang) nêu lên việc Nguyễn Bính bị hành hung vì không đăng bài đả kích Nhân Văn trên báo Trăm Hoa, và yêu cầu Thủ tướng (Phạm Văn Đồng) lưu ý vụ này.

- Bài "Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng" ký tên Nhân Văn, do Lê Đạt viết, đề cao hành động của "anh em văn nghệ đã đứng trong hàng ngũ tiên phong đấu tranh cho tự do dân chủ" và chỉ trích những kẻ đã gán cho họ cái mũ "phản động".

Về phía Trung ương Đảng, kết quả các buổi toạ đàm được Võ Hồng Cương đánh giá như sau:

"... Chúng đã cố tình chống đối. Chẳng những chúng đã không nghe những lời khuyên bảo chân thành đầy thiện ý của Trung ương, mà còn lợi dụng những buổi gặp gỡ đó để tuyên truyền xuyên tạc, tự đề cao uy tín và tiến hành hoạt động phá hoại. Chẳng những chúng đã không chịu đứng ở phạm vi đấu tranh nội bộ về vấn đề văn nghệ mà chúng còn cố tình chuyển sang chống đối về chính trị công khai và trắng trợn.

Từ Nhân văn số 4 trở đi, tức là sau khi bọn phản cách mạng ở Hung-ga-ry được bọn đế quốc giúp đỡ, đã thực hiện được vụ bạo động phản cách mạng ở Buy-đa-pet, thì chúng đã chuyển hẳn sang chống đối bằng chính trị, kích động quần chúng biểu tình chống lại Đảng và Chính phủ ta nhân lúc Quốc hội ta đang họp". (Hồng Cương, Văn Nghệ quân đội, số 6, tháng 6/58, trang 36).

Việc Tọa đàm của Trung ương và việc Trần Duy lên gặp thủ tướng Phạm Văn Đồng không có kết quả: Nhân Văn số 4 nghiêng hẳn sang đấu tranh chính trị.

Ngõ quặt chính trị của Nhân văn số 4

Nhân Văn số 4 ra ngày 5/11/1956, Nguyễn Hữu Đang lần đầu tiên ký tên thật, trong bài xã luận chính Cần phải chính quy hơn nữa, ông đặt vần đề cần phải xây dựng một nhà nước pháp trị.

Ngoài hai bài Sự thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa, và Hoan nghênh Trung ương Đảng lắng nghe cán bộ và quần chúng, đã nói ở trên, Trần Duy viết bài Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ, chỉ trích đảng cố tình đàn áp tờ Nhân Văn. Phùng Cung xuất hiện với truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh. Văn Cao đăng bài Những ngày báo hiệu mùa xuân. Thanh Châu viết phóng sự Mua hàng mậu dịch.

Những bài chính luận và sáng tác trong Nhân văn số 4 mang tính cách đấu tranh chính trị, xã hội rất mạnh.

Hoàng Cầm viết trong bản "tự thú":

"Từ sau số 3 Nhân văn, càng ngày tôi càng thấy tờ báo bị công kích dữ, nhất là sau số 4, Nhân văn bị thi hành kỷ luật, [Nhân Văn bị thi hành kỷ luật vì số 4, nộp lưu chiểu chậm. Cảnh cáo đầu của chính quyền]. Tôi bắt đầu chùn và muốn lảng ra, không phải vì tư tưởng chống Đảng đã giảm đi mà chính là vì sợ, muốn tìm chỗ yên thân, nên tôi lại cố sức đi vận động Trần Duy đóng cửa báo. - Muốn lảng ra không được, tên Trần Đức Thảo lại thuyết phục, tôi vẫn bị hút vào, nhưng vẫn chân trong chân ngoài chỉ chực trốn. - Thời kỳ cuối Nhân văn, cái tính chất “văn dốt, vũ rát” của tôi biểu hiện rất rõ ràng: nghe ý kiến của Trần Đức Thảo, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang nêu ra những “trách nhiệm với lịch sử” để tiếp tục ra báo, tôi cũng thấy phải - Về gặp Văn Cao, Trần Dần nêu ra vấn đề “đóng cửa báo, vì tờ báo đang phiêu lưu, dễ bị đánh chết” tôi lại thấy phải." (Hoàng Cầm, Thú nhận).

Qua lời khai của Hoàng Cầm thì, sau số 4, Hoàng Cầm, Văn Cao, Trần Dần muốn rút lui, đóng cửa báo; trong khi Nguyễn Hữu Đang, Trần Đức Thảo và Lê Đạt nhất quyết tiếp tục ra báo trong hướng đấu tranh chính trị.

Báo Văn Nghệ số 12 với những lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần và Phùng Quán

Báo Văn Nghệ số 12 với những lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần và Phùng Quán

Vai trò hướng dẫn tư tưởng của Trần Đức Thảo, và hướng dẫn văn bản của Lê Đạt nổi bật trong Nhân Văn số 4.

Trần Dần khai:

"Tới Nhân văn số 4 tôi nhận được giấy triệu tập đến họp về vấn đề: Báo có chuyển sang chính trị hay không? Trần Duy ký. Địa điểm ở nhà Trần Duy. Thực ra từ số 1 bọn Đang, Phan Khôi đã đòi làm chính trị và báo Nhân văn đã đề cập đến vấn đề tự do dân chủ ở mức độ nào đó rồi. Âm mưu chính trị có từ đó, đến nay nhân thời cơ thế giới, bọn họ muốn đẩy mạnh phần chính trị lên hòng làm sôi sục tình hình Việt Nam, gây ra những sự biến chính trị, nếu có thể. Tôi ngửi thấy sự nguy hiểm đó, tuy không rõ. Đến cuộc họp tôi can họ “sang chính trị sẽ bị bóp chết ngay.” Vẫn chỉ là cái ý thức sợ phong trào bị tổn thất nặng. Song Trần Đức Thảo (tôi gặp lần đầu) hắn nói: “Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác? Báo nên sang mọi vấn đề chính trị tùy cách mà bàn thôi!” Ý kiến hắn có poids [có trọng lượng], cuộc họp bị hắn dắt mũi đi.

Tình hình gay gắt lắm rồi, tôi tìm Văn Cao. Văn Cao bảo “nên vận động đóng cửa báo, anh em đỡ thiệt hại, trên có đánh sẽ bị hẫng! Tôi hoàn toàn đồng ý. Đi vận động một số người đã ngả rồi, đến cuộc họp có Trường Xuân dự (bịa tin là Hồ Chủ tịch bảo con dao mổ trâu không đem giết gà) thì anh em lại bị bọn Trần Duy, Trường Xuân chúng dắt đi." (Trần Dần, Thú nhận).

Lê Đạt trong bài "thú nhận", viết:

"Lúc này tôi vẫn còn ở trong Đảng, nhưng tư tưởng chống đối trong tôi đã phát triển mạnh.

Tôi còn tán thành và đi nói với anh em quan điểm của Nguyễn Hữu Đang. Bản thân tôi cũng từng nói “Đảng trị” cho nên trong cuộc họp số 4, Trần Đức Thảo, Trần Duy đưa ra chủ trương đề cập đến những vấn đề chính trị mạnh hơn nữa tôi cũng đồng ý". (...)

"Tôi góp ý kiến với Trần Duy trong bài “Thành thật đấu tranh cho tự do dân chủ” sửa chữa nhiều đoạn:

“Đấu tranh cho tự do dân chủ là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ vì nó là một cuộc tấn công quyết liệt vào những tệ lậu hủ bại của xã hội. Nó sẽ bị những phần tử tệ lậu và hủ bại hiện đương còn quyền hành và thế lực cản trở xuyên tạc phá hoại có khi bằng cả những phương pháp đen tối độc ác (chỗ này tôi ám chỉ các đồng chí lãnh tụ) đấu tranh cho tự do dân chủ không bao giờ chỉ là một công việc thuần tuý có tính chất quần chúng rộng rãi (...).

Để tấn công quan điểm vô sản chuyên chính của Đảng, tôi vận động Thanh Châu viết bài "Mậu dịch" và còn dự định vận động Thanh Châu viết về vấn đề nhà cửa. Tôi góp ý kiến vẽ tranh một người đẽo chân cho vừa giày mậu dịch (...).

Tôi lại viết "lời toà soạn" cho truyện "Con ngựa già" của Phùng Cung, đả kích và vu khống lãnh đạo văn nghệ không chú ý đến các nhà văn trẻ" (Lê Đạt, Thú nhận).

Tóm lại, những cố gắng của Trung ương Đảng về việc tổ chức tọa đàm và việc gặp riêng Trần Duy, chỉ gây được ít nhiều chia rẽ trong nội bộ Nhân Văn, nhưng cuối cùng, khuynh hướng đấu tranh chính trị vẫn thắng. Nguyễn Hữu Đang đặt nền móng đầu tiên cho một nhà nước pháp quyền, trong Nhân Văn số 4, và đến Nhân Văn số 5, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt còn tiến xa hơn nữa.

Nhân văn số 5 ra ngày 20/11/1956 với hai bài xã luận chính: Hiến pháp Việt nam 1946 và Hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang, nội dung đề nghị sửa đổi Hiến pháp 1956, hoặc làm một hiến pháp mới, và Bài học Ba Lan và Hung ga ry ký tên Người Quan Sát, do Lê Đạt viết, ngụ ý nếu chính quyền không chịu cải tổ chính trị thì miền Bắc Việt Nam sẽ trở thành một Ba Lan, một Hung-ga-ry.

Lê Đạt viết trong bài "Thú nhận":

"Tôi đồng ý với Nguyễn Hữu Đang đề cập đến vấn đề Hiến pháp để làm áp lực chuẩn bị cho việc sửa đổi Hiến pháp sắp đem bàn ở Quốc hội (...)

"Trên thế giới lúc đó xẩy ra hai sự kiện: Vụ Poznan và vụ Hung-ga-ri. Lúc đó tôi rất bất mãn với nhận định của Đảng về vấn đề Hung-ga-ri mà tôi cho là “đổ tất cả cho địch” đồng thời đề ra khẩu hiệu tăng cường chuyên chính. Tôi viết bài “Bài học Ba lan, Hung-ga-ri” để làm áp lực đấu tranh với quan điểm đó (...)

Quan điểm của Trần Dần trong bài “Phải để cho trăm hoa đua nở” [Tức là bài "Không có lý gì mà không tán thành trăm hoa đua nở" ký tên H.L, trên NV số 5] cũng là quan điểm của tôi và Trần Dần thường bàn chủ trương “Đảng không thể quyết định, quần chúng mới là trọng tài tối cao.”(Lê Đạt, Thú nhận).

Nhân Văn số 6

Về Nhân Văn số 6, Trần Duy cho biết:

"Xong số 3 thì tôi chuẩn bị mấy số sau, tôi chuẩn bị cái affiche về Ba Lan thì chính tôi lên tiếp xúc với sứ quán Ba Lan, họ cho tôi tất cả tài liệu, affiche, tranh ảnh về Ba Lan và tôi đang định làm số đó. Nhưng sau vụ tôi lên gặp ông Đồng ấy, thì ông Đang ông đùng đùng ông tự động thay đổi. Lê Đạt cũng bảo cái chuyện mà Đang lên nhà in tự động thay đổi nội dung rất là nguy hiểm. Thì rồi xẩy ra việc mà bên công an can thiệp, nhưng không can thiệp đến ban biên tập, không can thiệp đến người, chỉ đình số báo lại và không cho phát hành. Nếu số báo ấy ra thì chưa biết tình hình sẽ đi đến đâu. Tất cả số báo đó tôi hoàn toàn không biết"

(Trần Duy trả lời RFI).

Lê Đạt viết trong lời thú nhận:

"Đến số 6, Đang mượn được một số France Observateur, bàn nên ra một số đặc biệt về Ba lan. Tôi rất tán thành cho rằng Đảng ta hay bưng bít tài liệu bây giờ đấu tranh bằng cách trình bày những tài liệu nước ngoài tác dụng rất tốt mà Đảng có muốn phê bình cũng không làm gì được. Đây cũng là một chiến thuật tốt để tấn công Đảng."

Bài vở số này do Đang và Trần Duy sắp xếp. Về bài xã luận của Nguyễn Hữu Đang tôi cũng xem cũng như những bài xã luận mấy số 4, 5 trước khi Nguyễn Hữu Đang đưa in. Đọc đến chỗ “nhân dân có quyền biểu tình”, tôi hỏi. Nguyễn Hữu Đang trả lời “Báo Nhân dân đã khoẻ chửi, đánh cho một đòn như thế là chịu”. [Chỗ này chắc Nguyễn Hữu Đang chơi chữ: Lê Đạt hỏi nhân dân, Nguyễn Hữu Đang trả lời Nhân Dân]

Lúc đó tất cả tâm trí tôi chỉ lo đối phó với các báo của Đảng, nên đồng tình. Trong lúc đương in số 6, thì phong trào phản đối lên mạnh. Tôi muốn đóng cửa. Nhưng trong cuộc họp chủ trương tiếp tục, Trần Đức Thảo và Trường Xuân, Phan Khôi thắng thế. Nhưng kết quả báo cũng bị đóng cửa. Tôi ngại Chi bộ thi hành kỷ luật và cũng hoang mang, ngại sự phẫn nộ của quần chúng không biết làm thế nào nên lánh mặt và không gặp anh em nữa".

"Đôi lúc tôi có nghĩ “Giá có biểu tình để Trung ương thay đổi đường lối thì tốt”. Nhưng lại lo không muốn biểu tình xảy ra vì nếu có “một là tôi sẽ bị bắt vào Hoả lò, hai là trong lúc hỗn quân hỗn quan sẽ bị treo cổ”.

"Giữa tôi và Nguyễn Hữu Đang lúc đầu không phải là khác nhau về lập trường chống đối mà chính chỉ khác nhau về phương pháp mà thôi." (Lê Đạt, "Thú nhận")

Như vậy, trong những ngày cuối cùng của Nhân Văn: Trần Đức Thảo và Phan Khôi vẫn là những kiện tướng, Trường Xuân không rõ là ai.

Ngày 09/12/1956, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh: Báo chí phải "phục vụ công nông binh", phục vụ nền "chuyên chính vô sản". Phạt tù 5 năm đến khổ sai chung thân kẻ nào vi phạm những cấm điều.

Theo Hoàng Văn Chí, những điều khoản trong sắc lệnh 15/12/56 đã được ban bố từ tháng 10/54, sau khi tiếp thu Hà Nội. Nhưng lúc đó báo chí phần lớn đều là của Đảng, nên những cấm điều chỉ "giao hẹn mồm" mà vẫn được áp dụng triệt để:

-Không được chống chính phủ, chống chế độ.

-Không được xúi dục nhân dân làm loạn.

-Không được nói xấu các nước bạn.

-Không được tiết lộ bí mật quân sự.

-Không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục. (THĐNTĐB, trang 31).

Nhưng từ khi Nhân Văn Giai Phẩm xuất hiện, những tờ báo "đối lập" này không tuân thủ những cấm điều nữa: Nội dung bài vở chuyển tải rõ ràng ý chống Đảng, chống chế độ.

15/12/1956, Nhân Văn số 6 đang in, bị chận lại và bị thu hồi.

*

Chúng ta vừa nhìn lại quá trình hình thành và một số sự kiện xẩy ra trong nội bộ báo Nhân Văn. Rất tiếc là điều kiện tư liệu hiện nay chưa thể soi tỏ những gì xẩy ra trong nội bộ Giai Phẩm. Nhưng qua những chứng nhân, đặc biệt của Lê Đạt trong phần Thú nhận, ông cho biết rõ sự thực về hậu trường Nhân Văn; về sự tranh đấu cũng như óc chia rẽ, phân hoá trong mỗi con người, trước hoàn cảnh lịch sử.

Về mặt văn bản, Nhân Văn, với những bài viết của Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt... mở mặt trận đấu tranh chính trị. Giai Phẩm với những bài của Trương Tửu, Trần Đức Thảo... mở mặt trận tư tưởng. Phan Khôi như một vị thủ lĩnh tinh thần của hai tờ báo.

Toàn bộ Nhân Văn Giai Phẩm là một kết hợp chặt chẽ giữa văn nghệ sĩ và trí thức trong cuộc đấu tranh cho tự do sáng táctự do dân chủ. Hai hình thái đấu tranh này đi đôi với nhau, không thể tách rời, như lời Trần Đức Thảo: "Văn nghệ và chính trị không thể tách được, không có tự do dân chủ, làm sao có tự do sáng tác? "

Hết phần thứ V

http://www.rfi.fr/actuvi/articles/116/article_4597.asp


*

296 * GIAI PHẨM MÙA XUÂN

*

Nhân Văn Giai Phẩm phần III : Giai phẩm mùa xuân

Thụy Khuê

Bài đăng ngày 29/06/2009 Cập nhật lần cuối ngày 05/12/2009 14:08 TU

Trong Giai phẩm mùa xuân bài thơ quyết liệt nhất, hỏi tội bọn nịnh thần, là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao, tác giả quốc ca. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần, Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Chính vì vụ đánh Trần Dần, Lê Đạt mà Phan Khôi trở lại vai "ngự sử văn đàn" với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ và các nhà trí thức khác tích cực tham gia phong trào.

Hình bìa Giai Phẩm Mùa Xuân và Mùa Đông xuất bản năm 1956

Hình bìa Giai Phẩm Mùa Xuân và Mùa Đông xuất bản năm 1956

Tổ chức Giai phẩm mùa xuân
Giai phẩm mùa xuân do Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương. Trần Dần có tham dự vào việc tổ chức ra báo và bài vở không ?
Hoàng Cầm trong bài Con người Trần Dần, in trên Nhân văn số 1 (8/1956) và cả đến sau này, trong bài phỏng vấn trên RFI, đều xác định là Trần Dần không biết gì về việc in bài thơ Nhất định thắng vì lúc đó đang tham gia Cải cách ruộng đất ở xa. Có lẽ là để gỡ tội cho Trần Dần.

Nhưng sự thực thì Trần Dần có tham gia vào việc ra Giai Phẩm mùa xuân : Sau khi bị bắt lần thứ nhất, bị cấm trại 3 tháng cùng với Tử Phác [vì "phạm kỷ luật quân đội" nhưng trên thực tế vì tổ chức phê bình thơ Tố Hữu và viết bản dự thảo đòi tự do sáng tác], Trần Dần, Tử Phác được gửi đi tham quan Cải cách ruộng đất.

Trong lời "thú tội", Trần Dần viết về thời điểm này như sau :

"Sau thời gian đó, trên có cho tôi đi tham quan Cải cách ruộng đất để tự cải tạo. Song, tôi lại dựa vào cái thế tham quan, cứ đi lại Hà nội, tiếp tục quan hệ với một người vợ chưa được phép. Hơn nữa lại quan hệ với Hoàng Cầm, Lê Đạt, ra Giai phẩm mùa xuân. Tuy là họ đề ra, song sau khi thống nhất trước với nhau là : “Tự do lấy bài tôi đưa vào”, thì tôi hoàn toàn đồng tình. Mỗi lần gặp lại thúc đẩy, dục dã, ra cho nhanh. Việc tập hợp bài vở, tôi không rõ chi tiết. Bài Lão Rồng là do tôi viết. Tôi ví đồng chí Văn Phác như tên lý trưởng đã chà đạp Lão Rồng". (Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/1958, trang 60).

Phía Lê Đạt, ông xác định việc chủ trương và tổ chức Giai Phẩm mùa xuân như sau :

"Trần Dần ra rồi, chúng tôi mới nghĩ đến chuyện này : bây giờ làm sao mà in được một tập thơ, trái với nguyên tắc lúc bấy giờ - nguyên tắc bấy giờ là tất cả các bài đều bị kiểm duyệt. Tôi chủ trương tập này phải là một tập tự do sáng tác hoàn toàn, tức là mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm về bài của mình và không có kiểm duyệt gì cả. Tôi có bàn với Dần, Cầm, với Văn Cao, Tử Phác và mấy anh hội họa nữa là Sỹ Ngọc và Nguyễn Sáng. Lúc đó thì chưa tìm được chữ gì hay lắm. Tôi cũng không thích chữ Giai Phẩm tại chữ Giai Phẩm có vẻ Tự Lực Văn Ðoàn, nghe chữ ấy nó sang trọng quá tôi không thích. Nhưng lúc đó anh Minh Ðức (nhà xuất bản) và anh Ðang đều thích chữ ấy. Trước tôi định cái tít là "Thơ năm người", nhưng mọi người bảo thế là "gây sự" quá, thì sau cũng đành lấy chữ Giai Phẩm". (Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI).

Về mặt văn bản, căn cứ vào các sáng tác in trong Giai Phẩm mùa xuân, chúng ta có thể xác định rằng : Giai Phẩm mùa xuân là tạp chí văn học đầu tiên ở miền Bắc sau Cách mạng tháng Tám, đáp ứng hai đòi hỏi : tự do sáng tác và đổi mới văn học do Lê Đạt, Hoàng Cầm chủ trương, với sự cộng tác của Trần Dần, Văn Cao, Tử Phác...

Nội dung Giai phẩm mùa xuân

Giai phẩm mùa xuân chuyên về thơ. Tất cả có 9 bài thơ (Lê Đạt ba, Hoàng Cầm hai, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Phùng Quán, mỗi người một và bài Nhất định thắng của Trần Dần), ngoài ra còn một truyện ngắn của Sỹ Ngọc và truyện phiếm Lão Rồng của Trần Dần.

Về hình thức, thơ trong Giai phẩm mùa xuân khác với Thơ Mới : các câu dài, ngắn, không đồng đều; nhịp điệu phóng khoáng; có thể nói đây là tạp chí thơ đầu tiên thể hiện cách làm thơ hiện đại không vần ở miền Bắc. Tất nhiên cũng mới chỉ là những thử nghiệm, các tác giả chưa xác định được căn cước của riêng mình, như sau này Lê Đạt với Bóng chữ, Trần Dần với Cổng tỉnh, Hoàng Cầm với Về Kinh Bắc, Đặng Đình Hưng với Ô mai, Bến lạ.

Về nội dung tư tưởng, sáng tác trong Giai phẩm mùa xuân có ba hướng khá rõ :

- Khuynh hướng tuyên truyền cách mạng : Chống địa chủ, cường hào ác bá, đề cao cách mạng (Mùa xuân đến rồi đây của Hoàng Cầm), thơ chiêu hồi gửi miền Nam (Thơ qua đài phát thanh, Hoàng Cầm). Thơ đề cao chiến thắng và công lao của Đảng (Hoa đào vẫn nở, Nguyễn Sáng). Thơ kiến thiết đất nước, xây dựng xã hội mới (Mỗi ngày mỗi lớn - Gửi kế hoạch nhà nước 1956, Lê Đạt). Thơ ca tụng công nhân quét đường (Thi sĩ và công nhân, Phùng Quán). Văn tả cảnh đói khổ của người dân lao động, sự bóc lột của địa chủ, nhưng nhờ ánh sáng của Đảng, từ nay, trời sẽ "trong sáng vĩnh viễn" (Sổ tay, Sỹ Ngọc).

- Khuynh hướng vừa chống vừa theo :Trần Dần (Nhất định thắng).

- Khuynh hướng chống đối và đòi tự do sáng tác : Văn Cao (Anh có nghe thấy không) và Lê Đạt (Làm thơMới).

Thơ Hoàng Cầm

Nhà thơ Hoàng Cầm thời còn đi Kháng chiến(Ảnh : DR)

Nhà thơ Hoàng Cầm thời còn đi Kháng chiến
(Ảnh : DR)

Tiểu biểu cho khuynh hướng đầu tiên là thơ Hoàng Cầm. Là một trong những người chủ chốt xây dựng nên phong trào, nhưng khác với Trần Dần và Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi, Hoàng Cầm thuộc lớp đàn anh, đã có vị trí vững vàng trên nhiều địa hạt văn nghệ như một nhà thơ, kịch tác gia, diễn viên và đạo điễn.

Về mặt thi ca, Hoàng Cầm có phần nổi tiếng hơn Tố Hữu : những bài Đêm liên hoan, Tâm sự đêm giao thừa, Bên kia sông Đuống... tuy không được phổ biến rộng rãi trên báo của đảng, nhưng vẫn truyền qua các kênh đại chúng, trở thành những tác phẩm tiêu biểu của thi ca kháng chiến và đã đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền cho tinh thần chiến đấu vệ quốc quân.

Thơ Tố Hữu, vì có nhiều câu kêu gọi sự giết chóc (dù là giết "quân thù") : "Giết giết nữa bàn tay không ngừng nghỉ...", lại có những câu ca tụng đảng trơ trẽn : "Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt" hoặc "Đảng ta Mác - Lê nin vĩ đại...", hoặc những câu thờ phụng lãnh tụ ngoại lai : Thờ Mao chủ tịch, thờ Xít- Ta-Lin bất diệt, đôi khi đi đến chỗ vong bản như : Xít- ta- lin ! Xít- ta- lin ! / Yêu biết mấy, nghe con tập nói / Tiếng đầu lòng con gọi Xít-Ta - Lin... nên dù Tố Hữu có quyền thế, dù thơ Tố Hữu được học, được tung hô trong hơn nửa thế kỷ, nhưng thơ ông vẫn không được toàn dân chấp nhận. Tố Hữu cũng có những câu thơ hay, nhưng chúng bị ngập trong rừng thơ tuyên truyền. Đối với số đông người Việt, Tố Hữu là chủ soái của trường thơ ca tụng Bác và Đảng.

Hoàng Cầm là nhà thơ đích thực, từ Bắc chí Nam, trước và sau 1954, thơ Hoàng Cầm được mọi người yêu mến, bởi thơ ông nói lên tâm sự đớn đau của con người. Hoàng Cầm cũng tuyên truyền, nhưng thường tuyên truyền cho lòng yêu nước, rất ít những câu ca tụng đảng, ca tụng lãnh tụ hay một chủ nghĩa ngoại lai như trường hợp Tố Hữu.

Cho nên, không phải tình cờ mà Nguyễn Hữu Đang, năm 1956, khi ra Nhân Văn số 1, đã nhờ Hoàng Cầm viết bài bênh vực Trần Dần : Bởi trong nền thi ca cách mạng, chỉ Hoàng Cầm mới có đủ tư thế văn học để đương đầu với Tố Hữu lúc bấy giờ.

Trong NVGP, Hoàng Cầm giữ vị trí điều hoà và liên lạc mời những người có "vai vế" như Văn Cao, Phan Khôi... tham gia phong trào. Hoàng Cầm cùng với Lê Đạt tổ chức Giai phẩm mùa xuân, nhưng thơ ông trong Giai phẩm mùa xuân không có tính cách quyết liệt như thơ Văn Cao, không tố giác như thơ Trần Dần và cũng không đòi đổi mới thi ca như thơ Lê Đạt.

Đó cũng là phong cách của Hoàng Cầm : trung dung, ôn hoà, cũng có thể như ông tự nhận mình là nhát, ít nhất trong những bước đầu. Nhưng khi cần bênh vực Trần Dần, ông đã lên tiếng mạnh mẽ trong bài Con người Trần Dần.

Bài Mùa xuân đến rồi đây của ông nói lên nỗi khổ của người dân trong bảy mươi năm nô lệ, đói khổ, dưới sự thống trị của bọn "địa chủ cường hào ác bá", nhưng rồi cách mạng thành công, công bằng, ấm no, hạnh phúc trở lại :

Bẩy mươi mùa xuân không xuân

Bảy mươi năm cùng tháng tận

Dòng sông Nhị ơi ! Con cò lận đận

Bãi ngô dài cát trắng

Lòng sông cuốn nặng

Phù sa

Nước mắt mẹ con ta

Chảy ra ngoài biển rộng

Réo lên đầu sóng

Đùn đùn mây đen

Mưa lọt mái nhà rách thủng.

Mưa thốc xuống tàu chuối khô

Ướt đẫm manh tải

Mẹ con nằm trong đêm mưa

Nằm trong nước mắt đỏ như máu

Nằm trong nước sông đầy bùn nhơ

Dòng sông Nhị ơi ! Lúa mượt hai bờ

Địa chủ đứng trên đê

Mắt ngầu hổ dữ...

Sau khi duyệt lại những năm tháng tối tăm cùng khốn của con người trong đói khổ, bị đàn áp, Hoàng Cầm ca tụng mùa xuân trở về (cách mạng thành công), mang lại ấm no, công bằng :

Dòng sông Nhị ơi ! Mùa xuân đến rồi đây

Mẹ con được chia : hai gánh thóc đầy (Mùa xuân đến rồi đây)

"Thơ qua đài phát thanh" là một bài thơ "chiêu hồi" gửi "người em" bên kia vĩ tuyến, có những câu rất lãng mạng :

Tôi tìm Em trên sóng điện bao la

Thơ đã đứng lên, vút đi, cao lớn

Ống nói như môi em chờ đón

Trầm ngâm, ấp một nụ cười

Tôi sung sướng truyền thơ tôi

Cho những Người yêu khắp nước

Tóm lại, Hoàng Cầm trong Giai phẩm mùa xuân mới chỉ thử nghiệm những câu thơ không vần, trong tinh thần tuyên truyền cách mạng, chưa đả động đến những vấn đề gai góc như tự do tư tưởng, tự do sáng tác, và trong văn bản, chưa có câu nào "bôi đen" chế độ.

Thơ Trần Dần

Nhà thơ Trần Dần thời trẻ. Chân dung do Nguyễn Sáng vẽ năm 1956 và in trên Nhân Văn số 1 (Ảnh : DR)

Nhà thơ Trần Dần thời trẻ. Chân dung do Nguyễn Sáng vẽ năm 1956 và in trên Nhân Văn số 1
(Ảnh : DR)

Trần Dần đưa ra nhân vật kỳ quái trong truyện ngắn Lão Rồng, một bần nông say rượu bét nhè, nhưng là một "nhà sáng tác", chuyên làm những bài vè phạm thượng, chế giễu, từ bọn sư mô đến lũ tai to mặt lớn trong làng. Lão Rồng vừa "sáng tác" xong một bài vè là đã có bọn con nít lập tức "xuất bản và phát hành". Cuối cùng lão bị người ta lập mưu đánh chết.

Bài thơ Nhất định thắng là tác phẩm chính trong thời kỳ NVGP của Trần Dần, phản ánh khá rõ tính cách mâu thuẫn trong tư tưởng tác giả với giọng anh hùng ca. Trần Dần lồng bi kịch cá nhân của mình (yêu người con gái ở phố Sinh Từ) trong bối cảnh chung của đất nước sau hiệp định Genève :

- Miền Bắc nghèo đói, thất nghiệp "Anh bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ".

- Miền Nam dưới gót dày của "giặc" : "Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô, tài của hắn là Khuyển Ưng của Mỹ".

- Nhưng chúng ta "Nhất định thắng", đất nước sẽ thống nhất : "hàng triệu tâm hồn, đã bỏ miền Nam ra Bắc", "kẻ thù" (nghèo đói, Ngô, Mỹ) sẽ phải thua : "bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi".

- Rồi trời lại xanh : "Anh bước đi đã thấy phố đã thấy nhà, không thấy mưa sa, chỉ thấy nắng lên, trên màu cờ đỏ".

Nhất định thắng như một bài thơ tuyên truyền

Đây là đoạn mở đầu :

Tôi ở phố Sinh Từ :

Hai người

Một gian nhà chật.

Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?

Tổ Quốc hôm nay

tuy gọi sống hoà bình

Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất

Chúng ta còn muôn việc rối tinh...

Chúng ta

Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc

Vợ con đau thì rối ruột thuốc men

Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên

Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt,

Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt.

Ta biết đâu bên Mỹ Miếc tít mù

Chúng còn đương bày kế hại đời ta ?

Người ta nói thằng Ngô con đĩ

Ở miền Nam có tên giặc họ Ngô

Tài của hắn là : Khuyển Ưng của Mỹ

Bửu bối gớm ghê là : một lưỡi đao cùn

Hắn nhay mãi cố xẻ đôi Tổ Quốc.

Tác phẩm trình bày cảnh đói khổ của miền Bắc, nhưng thầm ngụ ý Mỹ Diệm mới là nguồn cơn của mọi đớn đau : "Em ơi, Em có biết đâu, Ta khổ thế này, Vì sao ? Em biết đâu, Mỹ Miếc, Ngô Nghê gì ?". Khi chửi Ngô Đình Diệm, Trần Dần có những câu sắt máu, đại loại : "Hắn thét lên ộc máu mũi máu mồm", "Đất trời sâu / đương vẩy máu / đuổi theo chân hắn. Hắn run sợ - Quỳ xin đã muộn ! / Dù đêm khuya, bóng tối đặc ngầu ngầu / Máu vẫn đỏ / trúng đầu trúng mặt / Tên tội nhân kia ! / Lịch sử vang tên mày !"

Bài thơ kết thúc có hậu : "Em có thấy bay trên trời xanh / Hàng triệu tâm hồn / Họ đã bỏ miền Nam ra Bắc ! / Chúng đem súng mà ngăn / Đem giây mà trói ! / Giữ thân người không giữ được nhân tâm / Người Nam gửi tâm hồn ra Bắc cả / Bọn Mỹ Diệm ôm đầu sợ hãi / Đổ lên chúng nó / Mây đen / lửa loạn / bão thù".

Và khi "ta" đã toàn thắng : "Anh bước đi / đã thấy phố thấy nhà / Không thấy mưa sa / Chỉ thấy nắng lên / trên màu cờ đỏ". Người dân phố Sinh Từ đóng cửa xuống đường đi mít tinh : "Vung cờ đỏ hát hò vỡ phổi".

Đó là một bài anh hùng ca theo đường lối thơ cách mạng, có nhiều câu tuyên truyền theo thông tin nhà nước. Thực ra, tháng 4/1955, khi Trần Dần viết bài Nhất định thắng, người Mỹ chưa vào miền Nam. Ngô Đình Diệm mới về, chỉ là thủ tướng, đang lo dẹp Bình Xuyên, Hoà Hảo, chưa thật sự nắm quyền và có chính sách chống Cộng triệt để như sau này. Ngày 23/10/1955, Ngô Đình Diệm mới tổ chức cuộc trưng cầu dân ý "truất phế" Bảo Đại.

Cho nên khi Hoài Thanh viết : "Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài “Nhất định thắng” trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài “Nhất định thắng” của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh". (Hoài Thanh, Vạch trần chất phản động của bài Nhất định thắng của Trần Dần, Báo Văn nghệ, Hà Nội, số 110 (1.3.1956), Lại Nguyên Ân sưu tầm). Viết như vậy, Hoài Thanh không còn đứng ở cương vị một nhà phê bình đứng đắn dựa trên văn bản để xét mà ông đã xuyên tạc, hoặc nói ngược lại ý nghiã trong bài thơ của Trần Dần.

Nhưng tại sao Trần Dần cũng lại viết :

"Bài Nhất định thắng sinh ra trong cái nôi những tư tưởng chống đối như thế. Dưới chiêu bài “phát hiện mâu thuẫn xã hội”, "chống công thức, tìm cái mới”, bài Nhất định thắng bôi đen miền Bắc. Thất nghiệp hàng ế, đi Nam, hai năm không thống nhất được v.v… và cái điệp khúc “mưa sa trên màu cờ đỏ” nó nhấn mạnh : “Đảng là nguyên nhân của cái xã hội thê thảm này.” Những sự quy kết khác ép cho địch, thực chất chỉ là chiêu bài. Có những câu đả kích cán bộ chính trị “nhà chính trị lắm mưu trong bụng” về sau in xoá đi. Bài Nhất định thắng là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng". (Trần Dần, Những lời thú nhận bước đầu, Văn Nghệ, số 12, tháng 5/1958, trang 60).

"Thú nhận" như thế tức là tức là hoàn toàn nhận lỗi chống chế độ về mình. Mà thực tế văn bản đâu phải thế ? Tại sao ? Vậy có thể hiểu là, ở thời điểm 1958, trong bối cảnh trù dập của lớp học Thái Hà, Trần Dần đã phải thú nhận tất cả mọi "tội", kể cả những tội không phải của mình, ví dụ như "phát hiện mâu thuẫn xã hội", "chống công thức, tìm cái mới" là "tội" của Lê Đạt. Những lời thơ trong Nhất định thắng chưa thể gọi "là một cuộc đánh thẳng vào tư tưởng của Đảng, trắng trợn và hung hăng" như Trần Dần đã (phải) xác nhận.

Vì vậy, chúng ta nên thận trọng khi tìm hiểu hiện tượng những thành viên trong NVGP, người này tố cáo người kia, trong không khí thanh trừng này, kể cả việc phải tố cáo chính mình.

Tóm lại xung quanh bài Nhất định thắng có ba vấn đề :

- Tính cách mâu thuẫn trong tư tưởng Trần Dần

- Việc bắt buộc phải nhận tội dưới áp lực cách mạng.

- Bi kịch Trần Dần.

Nhất định thắng như một tác phẩm văn học

Nhất định thắng trước hết là một bài thơ tuyên truyền, nhiều câu khẩu hiệu, có lẽ vì thế mà cả Hoàng Cầm lẫn Phan Khôi (hai người cực lực bênh vực Trần Dần) đều không cho Nhất định thắng là một bài thơ hay.

Nhưng nếu cắt những đoạn tuyên truyền máu mê thô thiển đi, như Hoàng Văn Chí đã làm thì bài Nhất định thắng trở thành một tác phẩm văn học giá trị. Bởi khi đem bi kịch riêng lồng vào lịch sử, Trần Dần đã có những câu thơ thật xúc động :

Tôi ở phố Sinh Từ

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ

Gặp em trong mưa

Em đi tìm việc

Mỗi ngày đi lại cúi đầu về

- Anh ạ !

họ vẫn bảo chờ...

Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?

Trời mưa, trời mưa

Ba tháng rồi

Em đợi

Sống bằng tương lai

Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi

Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...

Em đi

trong mưa

cúi đầu

nghiêng vai

Người con gái mới mười chín tuổi

Khi nói đến tình trạng thất nghiệp ở miền Bắc, Trần Dần có những hình ảnh thơ mộng và nhức nhối :

Gặp em trong mưa

Em đi tìm việc

Mỗi ngày đi lại cúi đầu về

- Anh ạ.

Họ vẫn bảo chờ...

Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?

Trời mưa, trời mưa

Ba tháng rồi

Em đợi

Sống bằng tương lai

Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi

Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...

Em đi

trong mưa

cúi đầu

nghiêng vai

Người con gái mới mười chín tuổi.

Nói đến nghịch cảnh chia đôi đất nước, Trần Dần có những lời lẽ thiết tha, đòi đoạn :

Tôi đã sống rã rời cân não

Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam

Những cơn mưa rơi mãi tối sầm

Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng

....

Tôi nức nở giữa trời mưa bão.

Họ vẫn ra đi.

- Nhưng sao bước rã rời ?

Sao họ khóc ?

Họ có gì thất vọng ?

Đất níu chân đi,

gió cản áo bay về

Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống

...

Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió

Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi

Tôi cúi xuống - Quỳ xin mưa bão

Chớ đổ thêm lên đầu họ

Khổ nhiều rồi !"

Chính những câu thơ này đã khiến bài Nhất định thắng sống mãi trong lòng người dân miền Nam.

Toàn bài phản ánh những suy nghĩ của Trần Dần về tình hình đất nước năm 1955, những suy nghĩ này thường mâu thuẫn nhau : vừa nói lên cái khổ của người dân miền Bắc dưới chế độ cộng sản : tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà... nhưng lại mong miền Bắc thắng trong cuộc thống nhất đất nước. Hoặc nói về màu cờ : Trần Dần vừa thấy "mưa sa trên màu cờ đỏ", nhưng lại cũng thấy "nắng lên đỏ phố đỏ cờ", "cờ bay đỏ phố đỏ nhà", có lúc "cầm cờ đỏ hét hò vỡ ngực".

Phần dở là những câu, những đoạn tuyên truyền khơi gợi căm thù, kiểu : "Hôm nay hàng triệu mối thù sâu / tới đập cửa lão già Ngô đòi mạng / Vung đao cùn chém phải quãng trời không".

Phần hay là những đoạn thơ nhân bản, nói lên những đau đớn xót xa của người dân đói khổ, thất nghiệp, ở Bắc; của người dân lìa bỏ quê cha đất tổ, trong Nam, và tác giả mong một ngày sẽ có hiệp thương, thống nhất đất nước, để hai miền cùng đọc tác phẩm của mình, và như thế độc giả sẽ tăng lên gấp bội.

Hoàng Văn Chí khi in bài Nhất định thắng trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, đã cắt những câu, đoạn, những lời sắt máu, oán thù, khiến bài thơ hay hơn, nhân bản hơn. Nhưng việc cắt xén này làm thay đổi ý nghĩa của bài thơ và lập trường chính trị của Trần Dần năm 1956, làm cho Nhất định thắng trở thành một tác phẩm chống cộng, được chính quyền miền Nam trưng dụng như một biểu tượng "tố cộng". Và chính quyền miền Bắc dựa vào đó để buộc tội Trần Dần. Bi kịch của nhà thơ là tác phẩm của ông, đã bị/được, bên này, bên kia gán cho những ý nghĩa không có trong văn bản, đem trưng dụng để tung hô hay buộc tội.

Độc giả miền Bắc, năm 1956, theo lời Lê Đạt, khi đọc Nhất định thắng, cũng chỉ giữ lại những câu hay nhất : "Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ". Bởi nó đã nói lên được tâm sự của con người sống dưới chế độ cộng sản. Hậu thế sẽ nhớ đến Trần Dần qua hai câu thơ kiệt tác đó.

Văn Cao và Lê Đạt : tác giả đích thực "có vấn đề"

Hai tác giả đích thực "có vấn đề" phải là Văn Cao và Lê Đạt, bởi họ đã nói đến thực chất của chế độ, đòi quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác, và chủ trương đổi mới văn học trên Giai phẩm mùa xuân.
Thơ Văn Cao

Nhạc sĩ Văn Cao vào năm 1993 (Ảnh : DR)

Nhạc sĩ Văn Cao vào năm 1993
(Ảnh : DR)

Với bài Anh có nghe thấy không Văn Cao nói đến sự bế quan toả cảng tinh thần trong chế độ cộng sản, đến khát vọng tự do của con người :

Cửa đóng lại từ chín giờ

Không một cuốn sách chờ đợi

Dù những ngôi sao đang nở trên trời

Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại

Tất cả hướng về biển

Bọt cứ tan trên bãi cát xa

Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở

Bao giờ nghe được bản tình ca

Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật

Bao giờ

Bao giờ chúng nó đi tất cả

Những con người không phải của chúng ta

Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống

Chúng nó còn ở lại

Trong những áo dài đen nham hiểm

Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người


Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ở điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân các cô gái
Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mắt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm


Chúng nó còn ở lại
Trong những tuổi bốn mươi
Đang đi vào cuộc sống
Như nấm mọc trên những thân gỗ mục


Người bán giấy cũ
Đã hết những trang tiểu thuyết ế
Những trang báo ngày xưa
Đang bán đến những trang sách mới
Những bài thơ mới nhất của anh


Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy năm một điệu sáo
Như giọng máy nước thâu đêm chảy

Chung quanh còn những người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng
(...)
Bây giờ không còn những tiểng nổ to
Nhưng còn những tiếng rạn vỡ
Có thể thu hết những khẩu súng phản động
Nhưng vẫn còn
Những khẩu súng đưa người tự tử.

Anh có nghe thấy không
Chỗ nào cũng có tiếng
Chưa nói lên

Những người của chúng ta
Đang mờ mờ xuất hiện
Le lói hy vọng
Trên những cánh đồng lầy

Nghìn năm cũ phủ mất nhiều giá trị
Đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời

Vào một cuộc đấu tranh mới
Với những người không phải của chúng ta
Anh có nghe thấy không

Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta

Giọng thơ Văn Cao nhẹ nhàng, nhưng ý thơ rất quyết liệt : đòi tự do, lên án sự bưng bít của chế độ và kêu gọi mọi người đứng dậy tranh đấu đến cùng. Những lời đầu, Văn Cao mở vào không gian kín mít, không gian nghẹt thở sau khi cách mạng thành công :

Cửa đóng lại từ chín giờ

Không một cuốn sách chờ đợi

Dù những ngôi sao đang nở trên trời

Dù đêm mùa xuân bắt đầu trở lại

Đó là thứ không khí thiết quân luật. Cửa đóng. Không có sách hay không còn sách. Mặc dù sao (vàng) lấp lánh trên trời. Mặc dù mùa xuân đã đến. Mọi con mắt hướng ra biển (về phía tự do), nhưng cửa biển vẫn im ỉm đóng :

Tất cả hướng về biển

Bọt cứ tan trên bãi cát xa

Mà cửa bể vẫn im lìm chưa mở

Vẫn giọng ôn hoà, nhưng không kém phần khắc hạch, Văn Cao trỏ thẳng vào bọn gian thần, bọn dốt nát, bọn kìm kẹp văn hoá tư tưởng, mắng và đuổi, khi nào "chúng nó" còn đây thì :

Bao giờ nghe được bản tình ca

Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật

Bao giờ

Bao giờ chúng nó đi tất cả

Chúng nó là ai ?

Nhà thơ trả lời - Chúng là :

Những con người không phải của chúng ta

Vẫn ngày ngày ngang nhiên sống

Chúng nó còn ở lại

Trong những áo dài đen nham hiểm

Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người.

"Chúng nó", bọn áo thụng, len lỏi khắp nơi, từ trong tủ sách gia đình đến điếu thuốc trên môi đứa bé mười lăm, quẩn trong bước chân người con gái. "Chúng nó" nấp trong mọi lứa tuổi, mọi từng lớp xã hội, "chúng nó" trà trộn vào đời sống hàng ngày, làm ô uế không gian, lũng đoạn thời gian. Sách cũ, sách mới đem bán cân giấy lộn, đến cả những bài thơ mới nhất của anh. Những kẻ "khôn ngoan" thì ngậm miệng "mắt không bao giờ nhìn thẳng".

Nhưng Anh người nghệ sĩ tự do, Anh có nghe thấy không ? Bọn chúng đã "đốt nghìn kinh chưa thắp sáng cuộc đời". Còn Anh, anh phải bước vào cuộc đấu tranh mới : mở tung các cửa bể, và anh phải tung ra những con người thật của chúng ta, để thay thế "chúng nó", những con người giả.

Thơ Văn Cao là nộ khí trầm lặng của một nghệ sĩ bị giam hãm tư tưởng, của một kẻ sĩ can trường hạch tội gian thần. Giọng nhẹ nhàng nhưng tha thiết kêu gọi mọi người đứng lên đấu tranh cho tự do tư tưởng. Văn Cao là một nghệ sĩ và cũng là một kẻ sĩ.

Nhưng lạ lùng là cả triều đình và bọn nịnh thần không ai dám động đến Văn Cao. Chẳng lẽ họ không hiểu ? Kể cả những người lắm chữ như Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi ?

Dĩ nhiên là họ hiểu. Nhưng bởi Văn Cao là một tài năng lớn, trên tất cả "chúng nó" và Văn Cao là tác giả quốc ca. Chính bài quốc ca đã đỡ đòn cho Văn Cao trong toàn bộ hành trình Nhân Văn Giai Phẩm.

Thơ Lê Đạt

Nhà thơ Lê Đạt vào năm 1996 qua ống kính nhiếp ảnh gia Gerhard và nét cọ họa sĩ Từ Duy (Nguồn : Tập thơ Đường Chữ / Diendan.org)

Nhà thơ Lê Đạt vào năm 1996 qua ống kính nhiếp ảnh gia Gerhard và nét cọ họa sĩ Từ Duy
(Nguồn : Tập thơ Đường Chữ / Diendan.org)

Lê Đạt là nhà thơ trẻ chưa có tên tuổi gì khi chủ trương Giai phẩm mùa xuân, nhưng đường lối tranh đấu của Lê Đạt đã rõ ràng qua hai bài : Làm thơMới.

Bài Làm thơ nói lên tâm trạng và hoài bão của một nhà thơ trẻ, trước tình thế đất nước :

Đêm khuya

Bóng đầu anh

Hằn lên trang sách nhỏ

Như bóng hàng cây

quặn gió

Lắng xuống mặt đường

Giông bão mênh mông

Anh nhìn Tổ quốc

Đất nước đêm nay trĩu đầu ngòi bút


Hàng vạn vần thơ mang nặng tình người

Anh nghe tiếng đất trời

Xao động lùm cây ngọn cỏ

Như hiệu thính viên

Đêm không ngủ

Ghi những lời cuộc sống

điện về

Những tiếng nặng nề

Những tiếng cục cằn uất ức
Những tiếng căm thù chua xót
Những tiếng yêu thương

Lê Đạt tự coi mình như một hiệu thính viên lắng nghe tất cả những tiếng đau thương do người đồng loại điện về và thầm kín nói lên tham vọng "Anh nghe tiếng đất trời" của một "lãnh tụ". Năm 1956, với những câu thơ :

Ghi những lời cuộc sống

điện về.

Hoặc :

Óc anh là một công trường

Mỗi dòng thơ là một cây số mới.

Hoặc :

Một tiếng súng tương lai

Nổ vào đầu dĩ vãng

Lê Đạt đã trở thành người đầu tiên làm thơ hiện đại ở miền Bắc, đã thực sự đưa ra cách suy nghĩ, cách tạo hình và kiến trúc tư tưởng rất mới (Trước đó có Nguyễn Đình Thi, bài Đất nước, nhưng thơ Nguyễn Đình Thi vẫn còn nằm trong không gian lãng mạn).

Lê Đạt còn là người đầu tiên đặt vấn đề nhà văn dấn thân (écrivain engagé), nhà văn không thể làm ngơ trước những khó khăn của dân tộc, của con người và của cuộc sống. Sự dấn thân này, do tự thân Lê Đạt, không do ảnh hưởng của Sartre, vì năm 56, Lê Đạt chưa đọc Sartre và cả sau này ông cũng không mấy chú ý đến tư tưởng của Sartre.

Tóm lại, Lê Đạt là người có hoài bão chính trị cho dân tộc ngay từ những bước thơ đầu, khác hẳn với Trần Dần là nhà thơ "nổi loạn" chống lại mọi áp bức bó buộc bản thân, nhưng không có mục đích tranh đấu chính trị cho quốc gia dân tộc.

Lê Đạt xác định một lần nữa, bản chất và nhiệm vụ của một nhà thơ dấn thân, phải đi vào cuộc sống, phải tìm cách thay đổi xã hội, xây dựng lại con người :

Người làm thơ nắng mưa thiêu đốt

Ăn nằm với cuộc đời

Thai nghén đất trời

Sinh ra sự sống

Năng tâm tư của trăm ngàn quần chúng

Đau xót hơn bao nhiêu

Em ơi !

Anh thức thâu đêm suốt sáng

Moi óc làm thơ

Moi tim làm thơ

Như người thợ

Chui xuống lòng hầm mỏ

Moi than moi lửa

Đốt sáng cuộc đời

Anh muốn Đảng gọi anh đến nơi

Hội ý về cuộc sống

Điều động anh vào Bộ Tâm hồn quần chúng

Giúp Trung ương

Xây dựng

Những con người

Từng từng giọt mồ hôi

Đẫm bản đồ chính sách

Anh mở lối giữa cuộc đời ngóc ngách

Óc anh là một công trường

Mỗi dòng thơ là một cây số mới

Trên con đường đi tới

Xã hội

Ngày mai

Một tiếng súng tương lai

Nổ vào đầu dĩ vãng

Anh vác bút đi theo Đảng

Xông lên hàng đầu

Năm 1956, khi chủ trương Giai phẩn mùa xuân, Lê Đạt vẫn còn làm việc ở tuyên huấn, cạnh những cột trụ Trường Chinh, Tố Hữu. Lê Đạt chưa thể tách rời khỏi Đảng. Đoạn kết bài Làm thơ có những câu tỏ ý vẫn tin tưởng vào Đảng, một Đảng sẽ lành mạnh hơn, biết đặt văn nghệ sĩ vào những vị trí xứng đáng để họ có thể nhả tơ xây dựng lại đời sống con người. Đó là một chiến lược của nhà chính trị Lê Đạt, hay là niềm tin tưởng thật của nhà thơ Lê Đạt. Khó biết được.

Tố Hữu nhìn thấy những "nguy cơ" trong bài thơ thứ nhì của Lê Đạt, bài Mới, như một lời tố cáo, mạnh mẽ và quyết liệt của lớp đảng viên trẻ, muốn đổi mới văn học, muốn "đập cánh bay lên", muốn chống lại "bao nhiêu gồng xiềng tập quán / cột lấy bước chân", muốn chống lại những thành phần kỳ cựu đã sống quá lâu, trở thành những ông bình vôi, khép kín trong công thức, bị xỏ dây vào mũi :

Tôi mới hai mươi lăm tuổi

Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi

Thất bại cúi đầu

Công thức xỏ giây vào mũi

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Ỳ như một chiếc bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại

Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại

Khôn ngoan không dám làm người

Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi

Nhà thơ nhìn quanh : một xã hội "công thức giả tạo", với những ông bình vôi hủ lậu kéo dài cuộc sống và nhìn lại chính mình, còn trẻ, nhưng đã tự đánh mất mình, vì khôn ngoan, nên không dám làm người ! Cuối cùng nhà thơ mạnh dạn đứng lên hô hào đổi mới toàn diện thi ca xã hội và con người :

Mới Mới !
Luôn luôn Mới
Bay cho cao
Bay cho xa
Trên những vết già nua cũ kỹ
Trên lề đường han rỉ
Vượt ngày hôm nay
Vượt ngày mai, ngày kia,
Vượt mãi

Tố Hữu khó chịu nhất những câu thơ trên đây, có thể coi là bản tuyên ngôn, là lời kêu gọi của Lê Đạt cho một đường hướng sáng tác mới vượt trên lối mòn cũ của các bậc đàn anh Tố Hữu, Xuân Diệu. Thấy sự nghiệp thi ca cách mạng của mình có thể bị chao đảo, sẵn quyền uy trong tay, Tố Hữu đã thẳng tay triệt hạ mầm mống nổi loạn, đòi thay đổi cục diện văn nghệ, đòi "chôn đàn anh" của ngòi bút trẻ Lê Đạt.

Giai phẩm mùa xuân là tác phẩm đầu tiên ở miền Bắc chủ trương đổi mới thi ca, tự do sáng tác, với những khuynh hướng khác nhau : thơ tuyên truyền theo đường lối cách mạng của Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Phùng Quán... Thơ nói lên tình hình nghèo khổ thất nghiệp ở Bắc và tố cáo tội ác Mỹ Diệm trong Nam của Trần Dần. Thơ đòi tự do tư tưởng và chửi bọn nịnh thần của Văn Cao. Thơ xây dựng một xã hội mới, một nền thơ mới của Lê Đạt.

Bài thơ quyết liệt nhất là của Văn Cao. Nhưng không ai dám đánh Văn Cao. Tất cả mũi dùi đổ vào Trần Dần và Lê Đạt, hai nhà thơ trẻ chưa nổi tiếng. Và chính vì vụ đánh Trần Dần và Lê Đạt mà trí thức tham gia.

Lúc đầu trí thức chưa tham gia, nhưng vì vụ đánh Trần Dần, Lê Đạt Phan Khôi trở lại vai "ngự sử văn đàn" với bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ. Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang đọc trước lớp học 18 ngày và bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi là hai tác phẩm chủ chốt, đã thuyết phục Trương Tửu và những nhà trí thức khác tham gia tích cực, tạo nên một phong trào rộng lớn : Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

(Hết phần thứ ba)

http://www.rfi.fr/actuvi/articles/114/article_4022.asp

*