Tuesday, January 25, 2011

NGUYỄN THIÊN THỤ * DƯƠNG KHUÊ





Dương Khuê
(1839-1902)


TÂM TRẠNG DƯƠNG KHUÊ

Năm 1995, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội ấn hành quyển Tâm Trạng Dương Khuê, Dương Lâm, của giáo sư Dương Thiệu Tống, sách dày 240 trang. Tôi may mắn được giáo sư tặng cho một bản. Nội dung tác phẩm này là viết về thân thế, sự nghiệp của hai cụ Dương Khuê, Dương Lâm, là những vị tổ của gia đình họ Dương, và cũng là những thi gia trong văn học Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn nữa, giáo sư đã lên tiếng thanh minh về bài "Hồng Hồng Tuyết Tuyết" của Dương Khuê là một ý kiến rất độc đáo vì xưa nay chưa ai nói về khía cạnh này.
Trước tiên, tôi xin ghi lại toàn bài hát nói này:

Hồng Hồng, Tuyết Tuyết

Mưỡu I.
Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông,
Ông chê Tuyết bé, Tuyết không biết gì.
Bây giờ Tuyết đã đến thì,
Ông muốn lấy Tuyết, Tuyết chê ông già.

Mưỡu II.
Nước, nước biếc, non, non xanh,
Sớm, tình tình sớm, trưa, tình tình trưa.
Nhớ ai tháng đợi năm chờ,
Nhớ người độ ấy, bây giờ là đây.

Nói:
Hồng Hồng, Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào chửa biết cái chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì,
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,
Kim quân hứa giá, ngã thành ông.
Cười cười, nói nói, sượng sùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.
Riêng một thú thanh sơn đi lại,
Khéo ngây ngây, dại dại với tình
Đàn ai? một tiếng dương tranh...




GS. Dương Thiệu Tống

GS. Dương Thiệu Tống đã viết tám trang ( trang 46- 53) về việc này. Tôi xin ghi lại sơ lược ý kiến của GS. Dương Thiệu Tống trong quyển sách trên.
Dương Khuê (1839-1902) đỗ tiến sĩ khoa mậu thìn (1868). Lúc này quan Pháp xâm chiếm Việt Nam, vua Tự Đức ra đề thi Hòa hay Chiến . Dương Khuê chủ chiến .



Thủ bút của GS. Dương Thiệu Tống

Cụ được vua bổ nhiệm Tri phủ Bình Giang, rồi thăng Bố Chánh. Tình hình chính trị, quân sự gay cấn, Pháp liên tiếp tấn công mà triều đình lại đi từ nhượng bộ này đến nhượng bộ khác. Dương Khuê dâng sớ xin vua quyết chiến. Vua phê vào sớ của ông bốn chữ" bất thức thời vụ" rồi giáng làm "chánh sứ sơn phòng" là một chức khai khẩn ruộng hoang ở nơi rừng núi hoang vu. Sau thăng án sát rồi lại bị tội trảm giam hậu, phải ra biên phòng khai khẩn ruộng hoang. Sau thăng Đốc học Nam Định, Tổng đốc Nam Định - Ninh Bình. Năm 1897 xin về hưu trí.


Ấn bản 1995

Nhiều người cho rằng bài Hồng Hồng TuyếtTuyết là một bài thơ trữ tình nhưng GS. Dương Thiệu Tống cho rằng đây là một bài thơ ngụ ý trần tình tâm trạng của cụ Dương Khuê. Vua Tự Đức phê " bất thức thời vụ" cũng giống như ông quan chê cô gái bé bỏng và " không biết gì"!
Ngày xưa , thuở còn trong trắng, tôi cũng muốn ra giúp ông ( vua Tự Đức) nhưng ông chê tôi " bất thức thời vụ ( không biết gì về thời cuộc. Bây giờ tôi đã khôn ngoan, hiểu biết rồi, ông muốn dùng tôi thì tôi lại chê ông quá già nua, nhu nhược! (48)

GS. Dương Thiệu Tống cho rằng Hồng Tuyết chỉ là nhân vật tượng trưng, không có đào nương nào tên Tuyết hay Hồng cả.. . Nếu xưa kia, tác giả có gặp cô đào nào tên Tuyết hay Hồng thì vào lúc ấy cô gái it nhất cũng 13 tuổi ( nữ thập tam) thì mới " muốn lấy ông" được, và 15 năm sau thì có gái ấy cũng đã 28 tuổi rồi, không thể nói là " tới kỳ tơ liễu" được nữa! (49)


Tâm Trạng Dương Khuê Dương Lâm

Ấn bản mới của KHXH, 2005

Sau đây là ý kiến của người trình bày. Khi nhận được quyển sách của GS. Dương, tôi đã nhận thấy ý kiến của GS. rất sâu sắc. Tuy nhiên vấn đề trên vẫn nổi cộm trong lòng. Mười lăm năm qua, nay tôi mới ghi lại cảm tưởng và ý kiến của tôi về việc trên.

Bài của GS. Dương Thiệu Tống quả là độc đáo vì xưa nay chưa ai đưa ra ý kiến như vậy. Văn chương và triết học rất bao la, có thể hiểu nhiều cách khác nhau. Chỉ có Marx mới kiêu căng cho rằng thiên hạ chỉ có ông là tiến bộ nhất, đúng nhất, khoa học nhất. Trong văn chương ta, lối ẩn dụ thường được dùng. Như bài Mẹ Mốc của Nguyễn Khuyến, bài " Vịnh bức đư đồ rách" của Tản Đà, " "Vịnh Vườn bách thú" của vô danh. .. Và đề tài đào nương, kỹ nữ cũng là đề tài thông thường như thơ của Bạch Cư Dị (Tỳ bà hành),Nguyễn Du ( Long thành cầm giả ca), Nguyễn Công Trứ ( Hát nói) , Cao Bá Quát ( Hát nói), Xuân Diệu (Lời kỹ nữ). .


Mỗi bài có một màu sắc khác nhau. Có bài nói về tình người, nỗi tang thương của con người và cuộc đời, nỗi cô đơn, và cũng có thể là tình yêu. Hơn nữa, đề tài trở về quê xưa gặp người cũ ( nhà cửa, ruộng vườn khác xưa, bạn bè lớp trước chết hết, cô gái ngày xưa đi lấy chồng, con bé khóc nhè thuở nào giờ mơn mởn đào tơ.. .) cũng là một đề tài quen thuộc trong tiểu thuyết và thơ Việt Nam.
GS. Dương Thiệu Tống dù đưa ra ý kiến cải chính , vẫn cho rằng bài hát nói trên có thể hiểu hai cách: " Tóm lại , bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết của Dương Khuê có thể hiểu theo hai nghĩa mà nghĩa nào cũng có thể gây thích thú cho người đọc"( 52).

Hát ả đào là một thú phong lưu. Cao Bá Quát đã ca tụng:
Cao sơn, lưu thủy, thi thiên trục
Minh nguyệt, thanh phong tửu nhất thuyền
Dang tay người tài tử khách thuyền quyên
Chén rượu thánh, câu thơ tiên thích chí .
(Đời người thấm thoắt)

Nguyễn Công Trứ tự hào về nghệ thuật sống của ông:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
(Bài ca ngất ngưỡng)

Hát ả đào

Hát ả đào là một thú phong lưu chỉ có những người cộng sản nhân danh vô sản mới mắng bà Quách Thị Hồ là tội phục vụ quan lại phong kiến (1). Hát ả đào là một nét văn hóa đặc thù của Việt Nam. Phạm Quỳnh trong bài VĂN CHƯƠNG TRONG LỐI HÁT Ả ĐÀO (2) đã ca tụng thú hát ả đào:

Phong lưu là gồm những cái thú êm đềm mát mẻ, khiến cho trong lòng được thư thái, trong trí được thảnh thơi, như đứng bóng mát trên bờ sông mà ngắm cảnh nhàn vân trôi trên giòng nước biếc vậy.Trong các thú phong lưu thì còn gì “phong lưu” bằng ngồi ngắm người đàn bà đẹp mà nghe giọng hát hay. Cái sắc đẹp, cái tiếng hay, trong thế gian còn có gì quý báu bằng? (172)

Đàn ông thường yêu gái đẹp, phụ nữ cũng yêu đàn ông đẹp. Trong chốn văn nghệ bây giờ, nhạc sĩ yêu ca sĩ, ca sĩ yêu ca sĩ, quần chúng yêu ca sĩ cũng là chuyện thường. Ngày xưa cũng vậy. Quan viên mê cô đào, cô đào yêu quan viên cũng là chuyện thường giữa tài tử giai nhân trong chế độ đa thê, người đàn ông mặc tình bay bướm. Cao Bá Quát đã dan díu với đào nương và ông diễn tả bằng những lời văn hoa:

Giai nhân nan tái đắc,
Trót yêu hoa nên dan díu với tình
Mái Tây hiên nguyệt gác chênh chênh
Rầu rĩ bấy xuân về, oanh nhớ.. .
( Nhớ người)

Trần Tế Xương ca tụng thú hát ả đảo và niềm say mê ca kỹ của ông với tính cách châm biếm cố hữu của ông:
Cái thú cô đầu nghĩ cũng hay,
Cùng nhau dan díu my đêm ngày.
Năm canh to nh tình dơi chut,
Sáu khc mơ màng chuyn nước mây.
Êm ái cung đàn chen tiếng hát
La đà k tnh dt người say.
Thú vui chơi mãi mà không chán,
Vô tn kho tri hết li vay.
(Thú cô đầu)

Phạm Quỳnh đã viết:

Hát ả đào không thể không nói chuyện tình; quan viên với cô đào không thể không có khi dan díu nhau.. . .
Nợ tình tình rầy lắm chị em ơi,
Đã dan díu trót vay thì phải trả
Khi đón gió khi chờ trăng khi xem hoa khi bẻ lá
Điệu đồng tâm nấn ná biết là bao

Tình tưởng là một sự chơi ai ngờ thành cái nợ cũng rầy thật. Lúc đầu mình tưởng dan díu chơi cho vui, ai ngờ mình dan díu, người ta cũng dan díu lại, đã trót vay thời phải trả , vay trả trả vay hai bên đắp đổi mà thành ra nán ná quá ngày… ấy sự tình là thế nhưng nợ tình là nợ phong lưu làm tài trai không thể tránh được. (185)

Nói tóm lại, hát nói là văn chương mà cũng là một nghệ thuật rất đẹp của văn hóa cổ truyền Việt Nam. Và chuyện tình giữa tài tử và giai nhân cũng là mối quan hệ đặc biệt.


Tôi rất thích hát quan họ và hát nói. Và đa số ai cũng thích bài Hồng Hồng Hồng Tuyết của Dương Khuê vì âm thanh, nhạc điệu và lời rất đẹp. Không ai chỉ trích một ông già có cảm tình với một đào nương trẻ đẹp. Tục lệ ta ngày xưa thê thiếp là chuyện thường., và ông già 60 nạp thiếp 15-18 cũng là bình thường. Và quan viên cưới cô đào về làm vợ cũng là chuyện thường.

Chúng ta thử đi sâu vào nội dung bài hát nói. Thường thì chỉ có một mưỡu, bài này có hai mưỡu là chuyện lạ. Dương tiên sinh cho rằng theo dư luận mấy câu mưỡu ( mưỡu thứ nhất) do người sau thêm vào (47). Theo thiển kiến, ý kiến này có lẽ đúng vì cô gái còn trẻ, con nhà quê mùa, thấp hèn, không dám trèo cao lấy quan sang. Quan trọng nhất là trong xã hội ta cũng như ở nhiều xã hội khác, trai đi hỏi vợ chớ con gái không chủ động trong tình yêu và hôn nhân. Lại nữa, trong phần Nói, quan nghè không đề cập việc đến việc nàng muốn lấy ông vì lúc đó nàng còn quá nhỏ, và nàng có nói thế đâu mà bảo Tuyết muốn lấy ông!

Cuối cùng, đoạn dưới, Dương Khuê đã nói là biết nàng từ thuở nhỏ, sau đó quan và nàng xa cách 15 năm, bây giờ mới gặp lại thì làm sao để nói trước đấy nàng mơ ước tơ duyên với một người mà nàng không gặp?
Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,

Kim quân hứa giá, ngã thành ông.

Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì,
Ngoảnh mặt lại đã tới kỳ tơ liễu.

Thành thử ý tưởng Ngày xưa Tuyết muốn lấy ông là không đúng như Dương giáo sư đã nêu lên ở đoạn trên.



Nhạc cụ trong ca trù

Quan nghè xa quê 15 năm, lúc trở về cô gái đã thành thiếu nữ đào tơ, nghĩa là khoảng 18 -20 tuổi. Có thể quan biết cô lúc 4, 5 tuổi, quan trở về nhiều lần nhưng không chú ý hoặc không gặp cô. Lần gặp sau 15 năm cô đã thành một thiếu nữ, thành một cô đào xinh đẹp. Gặp cô, quan cảm động. Câu chuyện chỉ có thế thôi. Đó là một bài thơ trữ tình. Việc nghe đào nương ca hát, việc một người làm thơ cảm xúc về cái đẹp của phụ nữ, về bi hài trong cuộc đời chẳng có gì để cho luân lý và xã hội chê trách!

Ngày xưa việc nghe hát ả đào cũng như nay ta đi xem ca nhạc kịch là thuần túy văn nghệ. Đến thời Pháp thuộc, một số đào nương vì nợ áo cơm mà phải chiều khách, và một góc phố nào đó của Khâm Thiên trở thành khu trụy lạc.Phật giáo và Nho giáo khuyên người ta sống lương thiện, tránh dâm ô, trụy lạc .Người ta cũng khinh ghét những người dùng thế lực để cưỡng ép phụ nữ:
Em là cô gái đồng trinh,
Em đi bán rượu qua dinh ông nghè
Ông nghè sai lính ra đe,
Trăm lạy ông nghè tôi đã có con.

Bộ Công, bộ Hộ, bộ Hình,
Ba bộ đồng tình ức hiếp con tôi!

Và người ta cũng chế nhạo những " ông già chơi trống bỏi".
Quan nghè không phạm những điều trên. Quan nghè chỉ làm thơ ghi lại cảm xúc của mình. Quan tủi hổ vì mình đã già nua trong khi cô gái ngày xưa rực rỡ, tươi đẹp! Trong tư tưởng, quan không hề có ý chiếm hữu nàng, và trong thực tế quan cũng không thu nàng làm hầu non, dù quan làm thế, xã hội và luật pháp đều cho phép!




Bài hát nói này rất lạ. Không phải là một bài thơ sáng tác tại chỗ và trao cho cô đào hát ngay lúc ấy như các cụ ta ngày xưa thường làm. Có lẽ đây là một hồi ký. Quan nghè về sau nhớ lại giây phút gặp gỡ cô gái ngày xưa mà sáng tác thành khúc " Hồng Hồng Tuyết Tuyết":
Nước, nước biếc, non, non xanh,
Sớm, tình tình sớm, trưa, tình tình trưa.
Nhớ ai tháng đợi năm chờ,
Nhớ người độ ấy, bây giờ là đây.

Từ ngày gặp gỡ đó, thời gian trôi đi khá xa ( tháng đợi năm chờ), và cô gái đó cũng đã đi xa, có lẽ đi lấy chồng vì lúc đó nàng đã hứa hôn rồi ( hứa giá) cho nên bây giờ quan hồi tưởng đến người độ ấy chính là Hồng Hồng Tuyết Tuyết ...Tám câu Nói chính là hồi tưởng, hồi ký ( Hồng Hồng Tuyết Tuyết... ái ngại).

Câu chuyện đã qua. Bây giờ quan thường lấy thú du sơn du thủy làm vui (Nước, nước biếc, non, non xanh/Sớm, tình tình sớm, trưa, tình tình trưa). Không hiểu tại sao Dương Quảng Hàm cho rằng thanh sơn là làng " cô đầu" (28)? Ngay trong Mưỡu, quan nghè đã nói "Nước, nước biếc, non, non xanh" , và trong văn chương, các cụ vẫn dùng thanh sơn để nói về việc du sơn, du thủy, và cũng dùng " thanh sơn"( núi xanh) để liên kết hoặc để đối với " bạch phát" ( đầu bạc).

Nguyễn Khuyến viết: Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc ( Hỏi phỗng đá); Dương Lâm viết:" Thanh sơn hựu hoán bạch đầu lai" (Trùng du Hương sơn tự)
; " Kìa núi biếc vẫn quen đầu bạc" (Vịnh chùa Hương Tích)...
Nguyễn Du khi lên chùa trong núi cũng đã cảm thán trong bài Vọng Thiên Thai tự:
Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
(Đầu bạc mà còn long đong/ Cho nên không thể vui cùng non xanh).
Nguyễn Trãi trong bài "Thu nhật ngẫu thành" cũng nói đến nước non và đầu bạc:
Hồ sơn thanh hứng nhập thu cao/Kính trung bạch phát nhân giai lão.
Các nhà thơ Trung Quốc cũng dùng các chữ bạch phát, thanh sơn như Tư Không Thự:
他 乡 生 白 髮 旧 国 见 青 山
Tha hương sinh bạch phát,
Cựu quốc kiến thanh sơn.

(Tặc bình hậu tống nhân bắc quy)

Không có sách nào ghi điển tích Thanh sơn là cô đào, hoặc làng có nhiều cô đào. Đơn giản thanh sơn là non xanh, núi biếc, là thú du sơn du thủy chứ không phải làng cô đầu cho dù tại một nơi nào đó có làng Thanh Sơn nổi tiếng về ca trù. Quan nghè bây giờ vui thú sơn thủy, thỉnh thoảng nghe đàn, đó là lòng say mê, tình nghệ sĩ của quan:
Riêng một thú thanh sơn đi lại,

Khéo ngây ngây, dại dại với tình
Đàn ai? một tiếng dương tranh...
Nói tóm lại, theo thiển kiến, đó là một hồi ức về một người con gái đã có chồng và đã đi xa, và quan cũng chỉ gặp nàng một lần rồi chia tay ...
Cháu chắt các đời trước mộ tổ Dương Lâm


Đa số người đọc thơ và thưởng thức hát nói đều ca tụng Hồng Hồng Tuyết Tuyết. Tại sao GS. Dương Thiệu Tống lại bận lòng?
Bởi vì Dương Tiên sinh buồn vì hai hạng người đã hiểu không đúng thơ và tâm trạng của Dương Khuê.
(1). Những bậc giáo sư uyên thâm như GS. Dương Quảng Hàm trong Văn Học Việt Nam về bài Gặp cô đầu cũ ( Hồng Hồng Tuyết Tuyết) và giải thích câu :Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu/Kim quân hứa giá, ngã thành ông thành "lúc ta chơi bời phóng túng thì người còn nhỏ, bây giờ ngươi đến tuổi lấy chồng thì ta đã thành ông" (28)
Chữ "Du" là chơi, là đi tới chỗ có cảnh đẹp như du sơn, du thủy. Đi từ nơi này qua nơi khác cũng là du như du học, công du. Thầy Huyền Trang đi Tây phương thỉnh kinh cũng là du (Tây Du Ký). Vua Càn Long đi xem dân tình Giang Nam cũng là du ( Càn Long Du Giang Nam).

Lãng du cũng có nhiều nghĩa. Dương Quảng Hàm dịch Ngã lãng du thời ra lúc ta chơi bời phóng túng thì không đúng nghĩa, đi quá xa, quá rộng khiến cho người đọc hiểu lầm. Tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa lãng du là đi chơi chỗ này chỗ khác. Thanh Nghị cũng định nghĩa lãng du là đi nơi này, nơi khác. Tự Điển Eugène Gouin chú là vagabonder. Khang Hy Tự điển, Từ Hải, Thiều Chửu không giải thích chữ này.

Nói tóm lại, lãng du có nghĩa đẹp là đi qua nhiều nơi.. Đi xem những danh lam thắng cảnh cũng là lãng du. Người Hà Nội vào Nam một thời gian như Tản Đà, Nguyễn Tuân cũng là lãng du. Ngay cả những chính trị gia lưu vong, du sinh , những dân tị nạn, những người lao động XHCN, cũng có thể coi mình là những kẻ lãng du.. .Vậy lãng du không phải là chơi bời lãng mạn, trác táng.

Ngay chữ chơi và chơi bời đã mang hai ý nghĩa khác nhau và rất tế nhị. Từ Điển Thanh Nghị định nghĩa:
Chơi là giải trí như chơi cờ, chơi đá banh, chơi đàn.
Chơi là đi lại, giao thiệp :chọn bạn mà chơi.
Còn chơi bời thì khác, mang nghĩa xấu:
Chơi bời: theo đuổi những trò tốn tiền, hại sức khoẻ, mất thì giờ : tay chơi bời.

Chữ tình cũng phải hiểu rộng rãi. Tình không phải chỉ là tình yêu nam nữ mà tình cảm nói chung : tình cha con, tình nhà, tình anh em, tình nhân loại, tình yêu giang sơn, yêu cây cỏ, yêu nghề nghiệp. . Tản Đà dùng chữ tình nhân là nói chung những người có cảm tình với ông.

(2). Nhân thế cũng có kẻ chê bai, mai mỉa:" Đối với họ, bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết mô tả mối tình "trái khoáy" giữa một ông già và một cô đào trẻ đáng tuổi con cháu" (31).

Ở một bài báo nọ, tôi thấy Hải Nguyệt chỉ trích bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết:

Trong một buổi hát chơi trên hiên nhà, 4 nghệ nhân làng ca trù cổ Lỗ Khê - Đông Anh - Hà Nội (nơi có giáo đường truyền dạy ca trù và thành lập giáo phường hàng phủ vào khoảng thời gian năm 1426) nhất định lắc đầu không thèm hát "hồng hồng tuyết tuyết". 4 cụ nghệ nhân trên gồm nghệ nhân trống chầu cổ Hoàng Kỷ, nghệ nhân đàn Nguyễn Thế Hối và vợ chồng nghệ nhân chồng đàn vợ hát Nguyễn Văn Hân, Phạm Thị Điền đều thuộc những gia tộc có truyền thống nghề tổ gần 600 năm nay. Hỏi ra mới biết, chẳng riêng gì 4 cụ mà cả làng Lỗ Khê, từ các cụ nghệ nhân khác đến những người mới võ vẽ học ca trù xưa nay đều tẩy chay "hồng hồng tuyết tuyết".

Nghệ nhân Hoàng Kỷ giải thích: Bài hát nói Đào Hồng Tuyết của Dương Khuê ngoài ý nghĩa là chỉ tên một cô đào người ta muốn nói lên một đào nương từ lọt lòng mẹ như một bông hoa rất trong trắng, trẻ, đẹp. Đào nương được quý trọng từ thuở bé, 3 - 4 tuổi đã học đánh phách. Đứa bé còn thơ dại, chưa biết gì về con đường tình ái. Nhưng 15 năm sau đứa bé đã đến kỳ tơ liễu... Ngã lãng du thời quân thượng thiếu là lời tự sự của ông già là người chơi bời lãng du từ còn nhỏ kia, nay đã già nhưng còn chưa hết chơi bời lãng mạn. Bạch phát tức là tóc trắng, chỉ ra một người đã quá già. Tuy nay gặp lại, nàng đã lớn nhưng ta đã già, vẫn còn quá chênh lệch nên gặp nhau vẫn cười nói sượng sùng.
http://vietbao.vn/Giai-tri/Vi-sao-lang-ca-tru-Lo-Khe-tay-chay-hong-hong-tuyet-tuyet/45236017/50/

Người này giải thích sai lầm. Người lãng du không phải là người chơi bời lãng mạn nay đã già nhưng còn chưa hết chơi bời lãng mạn. Du có nghĩa là chơi, nhưng chữ " chơi" ngày xưa có khác và ý nghĩa rộng rãi.
Chơi như thế nào? Có nhiều cách chơi. Chơi xấu, chơi đẹp, chơi ác, chơi lịch sự.
Nguyễn Công Trứ nói:
"Chơi cho lịch mới là chơi!"
Và chơi cái gì? Nguyễn Công Trứ đã nói:
Cầm kỳ thi tửu,
Đường ăn chơi mỗi vẻ mỗi hay...
Đàn năm cung réo rắt tính tình đây
Cờ đôi nước rập rình xe ngựa đó
Thơ một túi phẩm đề câu nguyệt lộ
Rượu ba chung tiêu sái cuộc yên hà
Thú xuất trần, tiên vẫn là ta
Sánh Hoàng Thạch, Xích Tùng, ờ cũng đáng!...

Tản Đà tự xưng mình là tay ăn chơi :
Trăm năm hai chữ Tản Đà,
Còn sông còn núi còn là ăn chơi.
nhưng cách chơi của Tản Đà là rượu thơ:

Trời đất sinh ta rượu với thơ
Không thơ không rượu sống như thừa
.

Và cái say của Tản Đà cũng như của Lý Bạch là cái say của thi nhân, khác cái say của bọn phàm phu tục tử, của bọn nát rượu:
Trăm năm thơ túi, rượu vò/Ngàn năm thi sĩ tửu đồ là ai?” (Thơ Rượu).


Và chữ " lãng mạn" không có nghĩa xấu. Lãng mạn là một trào lưu văn học nghệ thuật ở Tây phương, thoát khỏi văn học cổ điển nặng nề, để tiến đến một nền văn học mới, chú trọng tình cảm cá nhân, tự do, sáng tạo. Duy thực và lãng mạn khác nhau vì một bên tả thực, một bên tưởng tượng. Chủ nghĩa cộng sản trong văn học, nghệ thuật và trường phái lãng mạn khác nhau:

Lãng mạn

Cộng sản

Tôn trọng cá nhân

Cá nhân hy sinh cho tập thể

Tự do

Nô lệ đảng

Sáng tạo

Phải theo lệnh đảng khi sáng tác

Mơ mông

Phải thực tế, đấu tranh, chém giết, tố cáo

Tình yêu

Phải đề cao lãnh tụ, đảng

Cộng sản xuyên tạc và mạt sát lãng mạn, coi lãng mạn đồng nghĩa với trụy lạc. Sau này cộng sản chủ trương hiện thực nhưng mà là hiện thực xã hội chủ nghĩa. Charles Dickens, Victor Hugo, Ngô Tất Tố, Nam Cao là trường phái hiện thực khác với hiện thực xã hội chủ nghĩa của cộng sản mà Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải .. .là những văn nô thực hiện là đường lối tuyên truyền láo khoét, không nói đúng sự thật về xã hội cộng sản.


Ngày xưa, các cụ ăn chơi thanh lịch, sau khi thi đỗ, làm quan , về hưu mới cầm, kỳ thi tửu. Còn lúc trẻ, các cụ học hành ác liệt lắm mới đỗ cử nhân ,tú tài, làm sao có thời giờ ăn chơi? Ngoài ra các cụ cũng có đạo đức chứ không bê tha như một số người thời Pháp thuộc và thời cộng sản mở cửa. Có lẽ Hải Nguyệt đã không biết rõ thân thế và sự nghiệp của Dương Khuê .

Hơn nữa, Hải Nguyệt dường như hiểu sai chữ sượng sùng: vẫn cười nói sượng sùng.
Nghĩa là hai bên bề ngoài cố giữ vẻ tự nhiên nhưng trong lòng cả hai bên ngượng ngùng! Sượng sùng là mất tự nhiên, xấu hổ, hổ thẹn, ngượng ngùng. Chữ sượng sùng tác giả dùng rất hay và đúng tâm trạng. Cô gái lớn và đẹp thường ngại ngùng ,xấu hổ khi đứng trước khách lạ hay quan lớn; còn ông già lụm khụm cảm thấy mất tự nhiên trước sắc đẹp giai nhân. Sượng sùng chứ không phải là sỗ sàng đâu!

Hải Nguyệt lại lầm lẫn nghề hát ả đào ngày xưa và thời Pháp thuộc. Hơn nữa, không thể coi tất cả đào nương là gái giang hồ và tất cả quan viên nghe hát ả đào là khách làng chơi! Cũng như ngày nay, trong giới người mẫu, ca sĩ, hoa hậu vẫn có người làm hai ba nghề khác nhau mà ta bảo tất cả đều là gái làng chơi, gái gọi, gái bao!

Giả sử như quan nghè có say mê đào nương ,yêu đào nương hay cưới đào nương làm hầu thiếp thì cũng chẳng sao cả vì Pháp luật và xã hội ngày xưa công nhận việc này nếu quan nghè không dùng tiền bạc, quyền lực ép buộc người ta. Đó là tục đa thê.
"Trai năm thê bảy thiếp/Gái chính chuyên chỉ lấy một chồng"
Và mục đích sống đời xưa là đạt tam đa ( đa tử, đa tôn, đa phú quý) , ngũ phúc ( phúc, lộc, thọ, khang, ninh).

Xã hội thay đổi. Luân lý và pháp luật thay đổi. Tuy nhiên căn bản làm người cũng không khác mấy vì căn bản làm người vẫn là theo đạo đức và pháp luật. Về pháp luật và luân lý xưa nay thì nhiều nơi cấm mua dâm bán dâm. Pháp luật nhiều nước cấm xâm phạm trẻ vị thành niên và cưỡng bách, sách nhiễu tình dục. Tránh luân lý và pháp luật, con người có tự do luyến ái.

Thiên hạ thường lắm mồm, lắm chuyện, ưa chê người khác"cao chê ngõng, thấp chê lùn".
Nam cần nữ, nữ cần nam, tình yêu không phân biệt tuổi tác. Một ông già 80 kết hôn với một bà già 70 hay yêu một cô gái trẻ hoặc một bà già 70 ,80 kết hôn với chàng trai không phải là tội lỗi cho dù có kẻ nhạo báng:
Mẹ già đã tám mươi tư/Ngồi trong cửa sổ viết thư lấy chồng!
Mẹ ơi con muốn lấy chồng/ Con ơi mẹ cũng một lòng như con.
Tư tưởng tự do, tình yêu không phân biệt tuổi tác này đã có tự ngày xưa. Những ai cười cợt " già chơi trống bỏi " hay " chồng già vợ trẻ" là những kẻ kỳ thị, thiên kiến. Ngày xưa Nguyễn Công Trứ (1778–1858) ngoại 70 mà còn cưới nàng hầu:
Tân nhân dục vấn lang niên kỷ,
Ngũ thập niên tiền nhị thập tam.
Tình đã chung lứa cũng phải vam,
Suốt kim cổ lấy làm phận sự,
(Già Cưới Nàng Hầu )

Người già vẫn có thể và có quyền yêu đương, còn người phụ nữ có quyền đáp lại hay từ chối. Người phụ nữ trẻ có thể yêu người già vì tiền, vì quyền lực hoặc vì tình yêu chân thật. Bà Nguyễn Thị Nga một phụ nữ trẻ sau 1975 yêu nhạc sĩ Dương Thiệu Tước (1916- 1995) gần 70 và sinh một con trai thì đó là tình yêu dâng hiến. Đó là những mối tình lãng mạn và chung thủy rất đẹp.

Bùi Giáng (1926-1998) lớn tuổi yêu Kim Cương trẻ đẹp cũng không có gì đáng trách nếu Bùi Giáng không quấy nhiễu Kim Cương. Thương yêu có lẽ như là/ Nghi ngờ nhau mãi vẫn là Kim Cương
Dù Bùi Giáng có gây ồn ào thì cũng nên thông cảm vì Bùi Giáng là con người bất bình thường. Cái đáng chê trách là mình cũng xấu như người hay xấu hơn người ta mà lên giọng đạo đức, giả bộ thần thánh.

Mình thì những lấm mê mê,
Tay cầm bó đuốc mà rê vào người!

Phải chăng Ưng Bình Thúc Giạ Thị viết bài này:
Đêm khuya một chiếc thuyền nan,
Một cô gái Huế một quan đại thần.
Ban ngày quan lớn như thần,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Ban ngày quan lớn là cha,
Ban đêm quan lớn ngầy ngà như con…

Ai có thể lên tiếng kết tội người khác là đồi trụy, lãng mạn? Ngày xưa, chúa Jésus thấy một số đông vây quanh và ném đá vào một phụ nữ phạm tội dâm dục, ngài bèn nói: " Các ngươi thử xét mình có tội không, nếu mình trong sạch thì hãy ném đá vào phụ nữ này! Mọi người nghe nói bèn xấu hổ mà bỏ đi.

Làm sao có thể kết tội người khác về đồi trụy và lãng mạn nếu có nguồn gốc tự nguyện hay tình yêu trong sạch mà pháp luật không ngăn cấm? Làm sao có thể kết tội một bài thơ trữ tình và tác giả của nó dù quý vị là một nhà tu hành chân chính? Cái đáng kết tội là ăn cắp, ăn trộm tài sản quốc gia và tài sản nhân dân, và tội bán nước, hại dân. Ai có tội thì có pháp luật xét xử, còn phạm vi văn nghệ, xin người đừng kết án khắc nghiệt nó!

Ông Hồ cũng có vợ có con, tại sao lại bảo là ông lo việc nước mà không có thì giờ lo cho hạnh phúc riêng tư? Mới đầu nghe thì cũng hơi phục, nhưng cái kim trong bọc lâu cũng thòi lòi ra. Té ra ông có vợ và có con khắp nơi mà làm bộ thánh tăng tu hành đắc đạo! Tại sao ông Hồ không sống bình thường như mọi người? Marx, Lenin, Stalin, Mao đều có vợ, có con không lẽ ông muốn chứng minh ông cao hơn họ, thánh thiện hơn bậc thầy của ông sao? Ông có vợ con sao lại che giấu để làm thần thánh giả dối? Vì giả đối mà ông phạm tội giết người. Có bao nhiêu phụ nữ đã bị giết để che giấu hành vi xấu xa, gian trá của ông hay chỉ có chị em Nông Thị Xuân?

Các ông công sản điêu toa. Chủ nghĩa Marx giết hằng trăm triệu người có gì hay mà tự hào, mà dám kết án toàn thể xã hội người ta là lạc hậu, phong kiến, phản động, lãng mạn, đồi trụy?

Lại nữa, các ông cộng sản đều giả dối. Tại sao các ông cộng sản từ Hồ Chí Minh đến Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Trà , Trần Văn Trà có nhiều thê thiếp , cưỡng bách người, biến cái bọn trung ương đảng, trung ương cục thành ra những tay ma cô mà vẫn lớn tiếng về đạo đức cách mạng, kết tội các văn thi sĩ, binh lính, cán bộ, sinh viên, học sinh về tội hủ hóa, và lãng mạn? Ngày nay, gần như các công ty, cơ quan nào cũng nhậu nhẹt rồi đi bia ôm, karaoké ôm , thế mà gọi là sống và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh sao? Thế thì tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh ở chỗ nào?

Cộng sản luôn giả dối. Cộng sản dâm ô mà lúc nào cũng kết tội người khác là dâm ô, đồi trụy và lãng mạn. Họ kết án bọn tiểu tư sản lãng mạn làm như vô sản, cộng sản là thần thánh, không hề biết cái váy đàn bà ! Cộng sản miệng hô hào chống bóc lột, tham nhũng nhưng chính họ tham nhũng hơn quân chủ và tư bản. Cộng sản hứa hẹn bênh vực vô sản nhưng người nghèo phải đói khổ, không nhà cửa, không trường học, không thuốc men.. . Cộng sản toàn là giả dối trong khi người xưa rất chân thật và tài nghệ, không ai trừng phạt người khác vì mơ mộng, yêu đương, không ai lên giọng đạo đức ,nhân nghĩa và cách mạng. Xin mọi người mở rộng cửa để đón ánh bình minh, nghe chim ca hót cùng nhìn hoa nở ngoài vườn.

____
(1).Năm 1988, bà Quách thị Hồ được nhận danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, là nghệ nhân ca trù duy nhất nhận danh hiệu này.
Năm 1930, bà đi ra Hà Nội hát, sau đó làm chủ nhà hát Vạn Thái ở phố Bạch Mai. Bà trở thành đào nương nổi tiếng cùng với bà Nguyễn Thị Phúc. Sau Cách mạng tháng 8, rồi kháng chiến chống Pháp, bà đi hát ở Vĩnh Yên, Phú Thọ, Thái Nguyên.Năm 1954, hoà bình lập lại ở miền Bắc, bà làm cộng tác viên cho chuyên mục ngâm thơ của Đài tiếng nói Việt Nam cùng với bà Nguyễn Thị Phúc. Do hoàn cảnh lúc này nghệ thuật ca trù bị coi là tàn dư của chế độ phong kiến cũ nên những đào kép đều từ bỏ nghề Tổ .http://music.maivoo.com/singer_Quach-Thi-Ho

Bà Quách thị Hồ kể rằng: Hồi trước có mấy ông lãnh đạo văn hóa nói thẳng vào mặt tôi rằng: "Cái nghề ca trù của bà chỉ phục vụ bọn thực dân phong kiến, cái cây đã chết, cho nó chết, lấy đâu hoa mà nở". Lúc đó tôi cười: "Rồi xem, hoa có nở không?".(Báo Lao Động cuối tuần, số 40). Nguyễn Xuân Diện. NSND Quách Thị Hồ chết mà không có đất chôn. http://nguyenxuandien.blogspot.com/2009/10/nsnd-quach-thi-ho-chet-ma-khong-co-at.html
(2). Nam Phong tạp chí, số 69, năm 1923.

Sau đây, tôi xin giới thiệu vài nghệ sĩ trình bày bài Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Xin bấm vào đây để nghe giọng ca của nghệ sĩ Quách Thị Hồ





Giọng ca của nghệ sĩ Kim Luyến



Giọng ca Trang Nhung



Sunday, January 9, 2011

SƠN TRUNG * HIỆN TƯỢNG NGUYỄN VĂN AN




Ông Nguyễn Văn An sinh ngày 1 tháng 10 năm 1937, tại xã Mỹ Tân, ngoại thành Nam Định. Xuất thân công nhân điện Nhà máy điện Hà Nội, rồi học về điện tại Trường đại học Bách khoa Donesk (Liên Xô, nay thuộc Ukraina) 5 năm. Đường công danh của ông khá thuận lợi, từ Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Nam Ninh, rồi Đại biểu Quốc hội khoá VII, Uỷ viên Uỷ ban Kinh tế Kế hoạch và Ngân sách của Quốc hội. Ngày 27 tháng 6 năm 2001: tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá X, được Quốc hội bầu làm Chủ tịch Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. Ở địa vị này, ông có có thể trở thành Tổng Bí thư như Nông Đức Mạnh, không ngờ đường công danh ông chỉ có thế rồi bị về hưu!

Ông Nguyễn Văn An, năm nay 73 tuổi, là đã quá tuổi hưu, nay tuyên bố nhiều câu xanh rờn . Trước tiên, chúng tôi xin giới thiệu bài viết của ông đăng trên Tuần Việt Nam, nhan đề do Tuần Việt Nam đặt ra là Nguyên Chủ tịch Quốc hội bàn về phương thức cầm quyền của Đảng, đăng ngày 6-12-2010. (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-05-nguyen-chu-tich-quoc-hoi-ban-ve-phuong-thuc-cam-quyen-cua-dang )

Bài của ông nhấn mạnh về dân chủ. Ông phê phán chủ nghĩa cộng sản phi dân chủ:

Dân chủ là mục tiêu nền tảng, là quốc hiệu của Việt Nam: "Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", song tính dân chủ còn yếu hơn rất nhiều so với tính dân tộc...

Ông đề cao vai trò nhân dân, mặc dầu một đời ông đã theo Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng giết hại và bóp chẹt tự do và đời sống nhân dân:

Dân làm chủ thì dân phải quyết, quyết trực tiếp và quyết gián tiếp thông qua cơ quan đại diện. Song về bản chất là dân quyết chứ không phải vua quyết, cũng không phải đảng quyết.

Ông lên tiếng chỉ trích toàn bộ cơ chế cộng sản. Cộng sản xảo trá. Dân chủ của họ là dân chủ giả tạo. Các nước đặt ra tam quyền phân lập, cộng sản cũng phân biệt tam quyền: Dân làm chủ, đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý nhưng sự thực dân làm nô lệ, đảng nắm nhà nước và quốc hội cho nên đảng nắm trọn, không có đảng phái nào chen vô vì tất cả đã bị tiêu diệt. Dân thực tế không có quyền bầu cử và ứng cử. Không ai ngoài đảng được ứng cử, và dân chỉ được bầu một trong hai người đảng chọn! Quốc hội là bù nhìn đóng vai nghi gật trong màn trình diễn dân chủ giả tạo, mà thương ôi, chính ông Nguyễn Văn An là chủ gánh hát này với danh nghĩa chủ tịch Quốc hội trong bao nhiêu năm. Nay thì cóc mở miệng. Ông thú nhận tính phi dân chủ của cộng đảng vì mô hình Việt Nam là mô hình sao chép Liên Xô, tuy hiến pháp nói phân quyền, thực tế đảng cộng sản nắm hết:
Đây là mô hình của cộng hòa Xô Viết. Thông lệ quốc tế không có như vậy. Quốc hội là nhánh lập pháp có quyền lực cao nhất, song cũng còn nhiều hình thức, thực chất là Trung ương, Bộ Chính trị quyết. Chính phủ là nhánh hành pháp song cũng rất yếu, chủ yếu là chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng.

Và ông đòi hỏi:
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, dân làm chủ là cơ chế gồm ba chủ thể có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn riêng, không ai làm thay ai, không ai quyết thay ai. Nếu Đảng làm thay, quyết thay thì Nhà nước và dân sẽ trở thành hình thức, hữu danh vô thực, người ta sẽ có cảm giác Đảng là vua. Không phải là một ông vua như thời phong kiến mà là vua tập thể thời CH XHCN".

Ông cho rằng cộng đảng thiếu dân chủ vì không thực hiện Hiến Pháp 1946. Công sản đưa hiến Pháp 1946 để trang trí, còn thực chất là con số không vĩ đại. Lý thuyết cộng sản và Hiến Pháp thì tự do bầu cử và dân có quyền phủ quyết Hiến Pháp nhưng đó cũng là những lời giả dối của Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Văn An thú nhận:
Song đến nay dân ta mới được bầu và bãi miễn đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bầu và bãi miễn Đại biểu Quốc hội, bầu và bãi miễn trưởng thôn. Chúng ta đều biết, chất lượng bầu cử còn thấp, còn việc bãi miễn thì hầu như chưa làm được bao nhiêu, nguyên nhân thì có nhiều.

Dân ta chưa được phúc quyết Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia thông qua trưng cầu dân ý. Tuy Hiến pháp 1946 đã ghi song chưa thực hiện được vì chiến tranh đã xảy ra ngay sau đó. Đến các Hiến pháp sửa đổi sau này lại bỏ quyền đó của dân mà Quốc hội tự giao cho Quốc hội có quyền lập hiến và lập pháp. . .Nghĩa là còn rất nhiều quyền dân chủ đương nhiên của một công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, mà nhân dân ta đến nay vẫn chưa được hưởng một cách trọn vẹn.

Ngoài ra, ông còn trả lời các báo chí trong nuớc những câu rất oai hùng. Viêt Studies
(http://viet-studies.info/kinhte/NguyenVanAn_DoiMoiHeThong.htm) và Tuần Việt Nam đều đăng tải bài này vào ngày 7-12-2010 với nhan đề Nguyên chủ tịch quốc hội khuyến nghị đổi mới hệ thống chính trị do Thu Hà ghi nhận (http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-07-nguyen-chu-tich-quoc-hoi-khuyen-nghi-doi-moi-he-thong-chinh-tri )

Ông cho rằng toàn bộ hệ thống, cái hệ thống mà ông phục vụ và đã đưa ông lên đỉnh cao danh vọng là sai lầm, cần phá bỏ.

Về cương lĩnh đảng cộng sản cho đại hội XI, ông nói:
Cương lĩnh 2010 phải vượt qua cái khung cơ bản của Cương lĩnh 91 như dự thảo, để xây dựng một Cương lĩnh 2010 mới đáp ứng yêu cầu của Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, giai đoạn đổi mới toàn diện, triệt để, cả kinh tế và chính trị, tức là hoàn thiện ở mức độ cao hơn, mức độ SỬA LỖI HỆ THỐNG.. . khuynh hướng đổi mới tư duy toàn diện và triệt để, cả kinh tế và chính trị thì chúng ta mới khắc phục được lỗi hệ thống, vì chúng ta mắc lỗi hệ thống mà chúng ta chỉ chỉnh sửa theo khuynh hướng thứ nhất thì chúng ta không ra khỏi lỗi hệ thống được.

Ông nói đến lỗi hệ thống, và ông nói rõ đó là hệ thống độc tài, dân chủ giả mạo của Liên Xô mà Việt Nam cũng như Trung Quốc, Miên . . . là những đệ tử trung thành:
Quyền lực nhà nước được phân công ra làm ba nhánh song lại thống nhất ở nơi Đảng. Vậy, Đảng trở thành ông vua tập thể rồi. Không phải dân chủ nữa mà là đảng chủ rồi. Mô hình của cộng hòa Xô Viết là như vậy. Đây là cái sai từ gốc về hệ thống tổ chức quyền lực gây nên lỗi của hệ thống cần phải được khắc phục theo quy luật phổ quát là phân chia ba nhánh quyền lực nhà nước một cách rạch ròi, minh bạch, thống nhất theo Hiến pháp và Pháp luật, tức là thống nhất ở nơi dân, (tam quyền phân lập).

Nếu chúng ta hiểu ba nhánh quyền lực nhà nước đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng đã được thể chế hoá trong Hiến pháp và Pháp luật là đúng, còn nếu hiểu thống nhất trực tiếp ở ban lãnh đạo hoặc cá nhân lãnh đạo cụ thể nào đó thì lại là sai, lại là có vua cộng sản mất rồi, dân chỉ còn là người chủ hình thức, nhà nước trở thành công cụ của đảng chứ không phải công cụ của dân nữa rồi. Mọi chủ trương chính sách của đảng phải được cụ thể hoá bằng Hiếp pháp và Pháp luật.

Ông cho biết lỗi hệ thống chính là chủ nghĩa cộng sản diệt trừ tư hữu, tập trung kinh tế quốc dân vào tay cộng sản. Trong Tuyên Ngôn đảng Cộng sản. Marx đã tuyên bố bãi bỏ tư hữu, lập kinh tế quốc doanh, bắt nhân dân lao động cưỡng bách. Thêm vào chính sách hộ khẩu, đày nhân dân lên rừng thiêng nước độc, cộng sản đã bắt dân làm tù nhân , làm nô lệ.Danh nghĩa là tài sản nhà nước , tài sản công nhưng thực tế bọn cộng sản lãnh đạo đã cướp đoạt tài sản nhân dân mà bỏ túi. Giai cấp mới chính là bọn cộng sản nắm quyền, phổ biến từ Liên Xô, Hung, Ba Lan, Trung Quốc, Việt Nam.. . Vì tài sản nằm trong tay bọn gian tham và độc tài nên chúng tha hồ bán buôn, cướp đoạt như vụ Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Nông Đức Mạnh, Đỗ Mười bán nước, Nguyễn Tấn Dũng cướp đoạt tài sản quốc gia trong vụ Vinashin.. . bắt dân làm nô lệ và chịu bao nỗi thống khổ.

Ông Nguyễn Văn An nói:
Sở hữu tư nhân thực chất vẫn là vấn đề dân chủ tự do trên lĩnh vực kinh tế, trong mưu cầu hạnh phúc của mỗi người, nó là cội nguồn cảm hứng, là động lực to lớn cho sự phát triển. Kết quả của nó kỳ diệu như thế nào mọi người đã biết.
Vẫn biết rằng nó cũng đẻ ra những bất công mới, những mâu thuẫn mới đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn khách quan trong từng giai đoạn. Song đây là con đường dân chủ, con đường phát triển, con đường sống ngày càng hạnh phúc hơn.

Chúng ta cần sửa cái sai từ gốc này một cách toàn diện hơn, triệt để hơn như nhiều ý kiến đề xuất của quần chúng, của nhiều tổ chức và nhiều nhà khoa học, trí thức, nhân sĩ trong và ngoài nước.
Sở hữu tư nhân là động lực vô cùng to lớn, song không phải không cần đến sở hữu nhà nước. Nhưng sở hữu nhà nước không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện trong giai đoạn nào, thời điểm nào, trong lĩnh vực cụ thể nào, vì lợi ích đích thực của nhân dân và của nhà nước chứ không phải vì mục đích tự thân.

Được hỏi vì sao thành trì cộng sản Liên Xô sụp đổ, ông cho là do nguyên nhân nội tại, nghĩa là chính đảng cộng sản tàn bạo, thối nát đã tự diệt vong. Ông nhận thức rằng nguồn tội lỗi là đảng cộng sản. Đảng cộng sản phản dân hại nước, cản trở bước tiến của dân tộc:
Nhà nước và Xã hội do lỗi hệ thống gây ra. Đảng đã trở thành lực lượng cản trở sự phát triển của xã hội, đã trở thành lực cản của sự phát triển tự do dân chủ của xã hội. Nói theo tinh thần của Marx thì cái gì cản trở sự phát triển là thối nát, là phản động. Chính những người cộng sản chân chính, chính liên minh giai cấp công nhân với nông dân và nhân dân lao động, chính độ ngũ trí thức cũng không muốn bảo vệ một Đảng đã thoái hóa biến chất như vậy. Đó mới là nguyên nhân chính, chứ không phải do kẻ thù của chủ nghĩa xã hội phá hoại là chính. Chính những người cộng sản chân chính cũng muốn giải tán Đảng đã biến chất để xây dựng Đảng mới, để sửa lỗi hệ thống, để làm lại từ đầu.

Ở trên ông nói mọi sai lầm là do hệ thống Mác Lê và đảng cộng sản , chính cộng sản đã cản trở bước tiến của dân tộc, là thế lực phản động nhưng đoạn dưới ông lại muốn bảo vệ đảng, tuân theo chủ nghĩa Mác Lê :
Do đó, khi xây dựng Đảng, tôi đề nghị trở về với Lý luận - Hành động, với Tư tưởng - Minh triết Hồ Chí Minh làm nền tảng và kim chỉ nam cho hành động của chúng ta. Tôi đề nghị chúng ta vẫn giữ học thuyết Marx-Lenin .

Cộng sản chủ trương chuyên chế ( vô sản chuyên chính) thì sao có thể dân chủ. Ở trên ông đã nói đảng cộng sản thiếu dân chủ thế mà đoạn dưới cũng tờ báo trên ,ông hô hào dân chủ, quả là ông thích đùa!Và dân chủ sao được khi ông vẫn muốn độc đảng, chống đa đảng:
Nếu ta làm như các Đảng ở các nước có đa Đảng tham chính thì chẳng hóa ra Đảng ta tranh giành lá phiếu với dân à?

Ông nói đảng cộng sản sai lầm từ gốc nhưng ông vẫn muốn cái đảng thối nát đó tiếp tục cầm quyền , giữ vai trò " đảng lãnh đạo", " Đảng phải giành quyền lãnh đạo thông qua tranh cử trong Đảng và ngoài Xã hội" . Ông chủ trương độc đảng thì đảng độc quyền ứng cử , có ai trong xã hội nữa mà bảo là tranh cử ngoài xã hội?
Ông cho rằng Marx sai lầm, cả hệ thống sai lầm nghĩa là cả bè lũ cộng sản sai lầm tại sao ông vẫn ca tụng Marx và Hồ Chí Minh?




Một số báo đã khen ngợi . Một tờ báo nêu lên một hàng tít lớn Nguyễn Văn An , Người dám vượt lên chính mình . Cũng có tờ báo kẻ hàng chữ đặc biệt: Cựu CT Quốc hội Nguyễn Văn An nã đại pháo thẳng vào nhóm độc tài .


Trong thế giới cộng sản hiện nay có nhiều loại người. Một loại quyết tâm theo đảng để được quyền lợi . Hạng này thì nhiều lắm như Nông Đức Mạnh, Trương Tấn Sang, hai ông vẫn luôn miệng ca tụng Hồ Chí Minh, chống diễn biến hòa bình.
Một hạng giác ngộ, nói thẳng quan điểm minh dù có bị nguy hiểm đến bản thân. Hạng này có it như Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang. . .
Hạng thứ ba rất khôn ngoan, nửa nạc nửa mỡ, trong đó có Nguyễn Văn An.
Trước tiên, ở vào hàng chủ tịch Quốc Hội, ông An không phải là kẻ ngu dại và yếu thế. Trong bài trên, ông đứng vào phe nã trọng vào Nguyễn Tấn Dũng và vụ Vinashin. Và quá khứ, ông cũng ghê gớm lắm mới được đưa vào làm chủ tịch Quốc Hội.

Không biết sự thực như thế nào mà tờ Tuổi Trẻ Lên Đường viết vào 6-8-2002 có đoạn tố cáo Nguyễn Văn An là thầy của Năm Cam, là tay đại Mafia trong hệ thống trung ương đảng:
Tại Hà Nội, dư luận cho rằng Năm Cam nằm trong hệ thống tổ chức mà NguyễnVăn An trước đây làm Trưởng ban tổ chức phụ trách. Khi Nguyễn Văn An không còn làm trưởng ban tổ chức và được đề bạt lên làm Chủ tịch quốc hội thay thế Nông Đức Mạnh từ tháng 5 năm 2001, thì những liên hệ trong đường dây kinh tài đen của đảng bị thay đổi. Người thay thế Nguyễn Văn An trong vai trò Trưởng ban tổ chức trung ương đảng hiện nay là Trần Đình Hoan, nguyên bộ trưởng lao động - thương binh - xã hội. . . Vì thế, khi Trần Đình Hoan nắm vai trò tổ chức đảng thì đương sự phải bố trí lại hệ thống quyền lực của mình với những nhân sự mới và vì vậy mà Năm Cam và những liên hệ với nó đã phải cáo chung bằng những đòn thù nội bộ. Trần Mai Hạnh đã khai rằng Nguyễn Văn An có yêu cầu Lê Đức Anh can thiệp nhưng bất thành, như vậy thế lực của Nguyễn Văn An đã không thể nào che chở cho Bùi Quốc Huy, Trần Mai Hạnh và cho Năm Cam. http://www.lenduong.net/spip.php?article672


Ngoài ra, Nguyễn Văn An đúng là một con người cộng sản, đã hành động và nói năng đúng theo phong cách và truyền thống cộng sản. Phong cách đó, truyền thống đó là gì?

1. Nói dối
Marx là tay tổ nói dóc. Ông bảo Tư bản đang hấp hối và giai cấp vô sản chôn sống giai cấp tư bản! Marx còn bảo sau khi giết tư bản và cướp tài sản của giai cấp bóc lột thì xã hội không còn người bóc lột người.

Những danh từ Marx đưa ra như chủ nghĩa Marx khoa học, chủ nghĩa Marx tất yếu là những danh từ dối trá. Khoa học thì phải có thí nghiệm, chứng minh nhưng chủ nghĩa Marx chưa thí nghiệm, chứng minh mà đã áp dụng và kết quả thất bại. Chủ Nghĩa Marx thực ra cũng duy tâm, chủ quan, không khoa học. Nước sôi 100 độ thì ở Nga, Mỹ nước cũng sôi ở 100 độ nhưng lý thuyết của Marx đã bị Lenin, Stalin và Mao thay đổi. Nay thì Đặng Tiểu Bình quăng vào sọt rác. Chủ nghĩa cộng sản là tất yếu thì khi có điều kiện cần và đủ, tư bản sẽ tự động quỳ xuống đầu hàng, dân chúng sẽ xếp hàng cả ngày lẫn đêm để vào đảng, đảng không cần phù phép, cần khẩn, tuyên truyền và khủng bố nhân dân, bắt nhân dân phải tuân theo lệnh mình.

Lenin, Hồ Chí Minh lúc chưa cầm quyền thì tranh đấu cho tự do báo chí nhưng khi nắm quyền thì hai ông liền giết chết báo chí và đàn áp nhà báo. Hai ông ban đầu tuyên bố đoàn kết dân tộc nhưng khi lên cầm quyền, hai ông thẳng tay tàn sát đối lập. Hồ Chí Minh bày ra Hiến pháp 1946, nhưng hiến pháp nay không bao giờ được thực hiện. Ông Hồ đưa ra khẩu hiệu Độc lập, Tự do Hạnh phúc nhưng ông bán Tổ quốc cho Nga Tàu, bắt toàn dân làm nô lệ cộng đảng. Đặng Tiểu Bình buôn bán với tư bản, phá bỏ Hợp Tác xã tức là trở lại con đường tư bản chủ nghĩa. Thế mà ông dùng danh từ "xã hội chủ nghĩa định hướng " là một thuật ngữ dối trá. Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc trở lại kinh tế tư bản, nghĩa là bắt chước kinh tế xưa cũ , sao gọi là "đổi mới"?

2. Đầu đuôi mâu thuẫn, hoặc mập mờ lươn lẹo.
Mao Trạch Đông chủ trương " Bước đại nhảy vọt" , Lê Duẩn bắt chước Mao mà kêu gào" Tiến mạnh, tiến nhanh, tiến vững chắc" .Người Trung Hoa có câu" dục tốc bất đạt", và người Việt Nam có câu:
"Đi đâu mà vội, mà vàng,
Mà vấp phải đá, mà quàng phải giây.
Thủng thỉnh như chúng anh đây,
Chẳng đá nào vấp, chẳng giây nào quàng".

Tiến mạnh , tiến nhanh thì lao xuống hố như ông Mao chứ làm thế nào mà vững chắc? Cách nói này là phổ biến. Vũ Thư Hiên trong chương 15 Đêm Giữa Ban Ngày đã kể đến văn tài thượng thừa của Trường Chinh trong nghị quyết 9 . Ông viết
Thế là vào cuối năm 1963, xuất hiện Nghị quyết 9, một nghị quyết nửa dơi nửa chuột, không có lập trường rõ ràng đối với cuộc xung đột tư tưởng đang diễn ra gay gắt trong lòng phong trào cộng sản quốc tế. Trong nghị quyết này Ðảng Việt Nam vừa nói chống chủ nghĩa xét lại hiện đại vừa nói chống chủ nghĩa giáo điều, với câu chữ kín kẽ, rất kinh viện, trong một hệ khái niệm độc đáo, khó mà hiểu được người viết nghị quyết muốn gì. Liên Xô đọc cũng không thể bực mình, Trung Quốc đọc cũng không thể tức giận. Theo lời đồn thì tác giả của cái nghị quyết nước đôi này, hay nói cho đúng hơn, người chấp bút nó, là nhà kinh viện Trường Chinh, đã nhoài người ra giúp rập chủ soái Lê Duẩn đóng thật đạt màn kịch "em chã, em chã" với cả hai bên tranh chấp.

Ây thế mà cái Nghị quyết 9 lươn lẹo, được nhào nặn bởi chủ gánh xiếc ngôn ngữ Trường Chinh, lại ra đời không được thông đồng bén giọt như các nghị quyết khác, theo thông lệ bao giờ cũng được "nhất trí" thông qua bằng những cánh tay giơ cao. Khốn thay, trong giai đoạn này đã xuất hiện làn sóng ngầm của xu hướng dân chủ trong Ðảng, được cả một số ủy viên Trung ương tán thành. Nghị quyết 9 là cái Lê Ðức Thọ và đàn anh Lê Duẩn cần có để trấn áp trào lưu dân chủ nọ. Nó phải được ra đời, bằng bất cứ giá nào. Và, về đại thể, Duẩn-Thọ đã thành công.
Trong Nghị quyết này, mặc dầu lời lẽ mù mờ, lập trường mao-ít của liên minh Duẩn-Thọ, là rõ ràng đối với bất cứ ai không mù.

Văn phong của Trường Chinh thật ra là vừa nói nước đôi, vửa giả dối bởi vì nghị quyết chống cả hai phe giáo điều và xét lại nhưng thực tế là chỉ giết phe xét lại.

Trong bài " Thư ngỏ gửi bạn đọc và nhà báo Huy Đức" đề ngày 16-12-2010 ,đăng trên DCVonline, bà Dương Thu Hương viết:
Nếu độc giả lật lại mớ báo cũ từ những năm 80, sẽ gặp mục “Thư bạn đọc”. Thời ấy, dù không phải người đọc báo thường xuyên nhưng cũng đã hai lần tôi bắt gặp tại mục trên, thư của các đảng viên kì cựu. Họ than thở, họ phàn nàn về tình trạng tham nhũng, về sự hà hiếp dân chúng của đám cán bộ sở tại, họ tha thiết đề nghị đảng sửa đổi chính sách, chấn chỉnh nội bộ và sau khi cầu khẩn bề trên dòm ngó lại đạo đức, họ cam kết lòng trung thành của mình bằng câu “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”.

Khi đọc những dòng chữ này, tôi lặng đi vì kinh hoàng và mặt tôi nóng như hơ lửa vì nhục nhã. Dù đã biết từ lâu rằng dân ta bị ràng trói bởi các quan niệm phong kiến (điều này xảy ra trong chính gia đình tôi và tôi là nạn nhân đầu tiên), nhưng dẫu sao, tôi cũng không hình dung được cái di sản thối rữa kia còn khiến con người u mê đến thế.

http://dailyvnews.wordpress.com/2010/12/16/d%C6%B0%C6%A1ng-thu-h%C6%B0%C6%A1ng-th%C6%B0-ng%E1%BB%8F-g%E1%BB%ADi-b%E1%BA%A1n-d%E1%BB%8Dc-va-nha-bao-huy-d%E1%BB%A9c-ph%E1%BA%A7n-cu%E1%BB%91i/

Đấy, văn chương khuôn mẫu các đảng viên là thế đấy. Ngôn ngữ của Nguyễn Văn An cũng vậy. Vừa chửi, vừa lạy, là lối nói đầu đuôi mâu thuẫn và mập mờ đánh lận con đen. Dân chủ làm sao khi vẫn theo cộng sản độc tài? Hòa hợp tinh hoa Nho, Lão, Phật, Thiên Chúa giáo khi cộng sản vẫn tôn thờ Marx? Chỉ trích Marx sao lại muốn ôm xác chết của Mác Lê? Người cộng sản luôn nói "trí tuệ" và "logic", xem ra một số người trong bọn họ không có cả hai. Ôi, sao thơ văn Nhân Văn Giai Phẩm, và những bút ký của Trần Xuân Bách, Trần Độ, Nguyễn Kiến Giang thuận lý và thuận lòng người đến thế, còn văn chương của Marx, Lenin, Stalin, Hồ chí Minh, Tố Hữu thì giả dối , lường gạt!

Cách nói của Nguyễn Văn An cũng là cách nói tân thời của cộng sản. Gần đây, từ các anh bé như Chế Lan Viên, Nguyễn Khải, Tô Hải cho đến ông đầu bự như Dương Danh Dy, Hoàng Tùng, Trần Quang Cơ, Nguyễn Văn An đều hành xử giống nhau, nghĩa là lúc đương nhiệm thì cúc cung tận tụy, đến lúc về hưu , gần trời xa đất mới lên tiếng chỉ trích Đảng. . .

Sao họ không lên tiếng sớm hơn? Xin đừng trách họ! Ngu sao mà lên tiếng chống đảng? Đây là lúc đang có quyền, có thế, đang lúc ăn, dại gì mà bỏ? Đi xe hơi, ở nhà lầu ,mâm cao cỗ đầy không sướng mà lại muốn ngồi tù ư?

Họ là những người khôn ngoan và rất khéo léo mới lên đến chức tỉnh ủy, trung ương đảng và bộ chính trị, hoặc làm đầy tớ điếu đóm cho chủ. Họ hiểu cộng sản là một đảng bất lực, gian tham, thối nát nhưng vì quyền lợi của họ, họ phải theo, phải bám, dù phải giết cha mẹ, anh em, đồng bào. Tại sao họ không im miệng , sống để dạ, chết mang đi?

Họ phải nói vì họ là người khôn ngoan. Họ biết trong đảng, trong bàn tiệc, trong rạp hát cùng ngồi với họ có những kẻ cũng như họ phải đóng vai đầy tớ trung thành, hoặc vai Thúy Kiều trong lầu xanh. Và họ cũng biết quần chúng nhân dân ngoài kia đang chửi rũa cộng sản và bọn tay sai mà họ nếu không là chính phạm thì cũng tòng phạm. Họ phải nói lên dù muộn màng để thanh minh với nhân dân rằng họ vô tội, rằng họ cũng là người hiểu biết, biết cái xấu xa, tàn ác của cộng sản nhưng vì bắt buộc mà phải theo.

Và cũng lý do tâm lý. Họ không thể giữ mãi bí mật ở trong lòng. Họ buộc phải nói ra sự thực. Đó là chuyện vua Hy Lạp Midrat tai lừa. Nhà vua vì muốn bảo toàn bí mật này cho nên sau mỗi lần hớt tóc đều ra lệnh giết chết người thợ cắt tóc. Thế rồi cả kinh thành chỉ còn sót lại một ông thợ duy nhất, nếu nhà vua giết luôn thì lấy ai hớt tóc cho mình, nên nhà vua buộc người thợ phải thề là không được tiết lộ ra ngoài đôi tai lừa của mình, nếu không sẽ tru di tam tộc. Ông thợ thề với vua sẽ giữ bí mật, nhưng điều bí mật này lớn thành khối nặng trong lòng ông thợ. Ông tìm cách thổ lộ tâm tình một cách bí mật. Ông ra bờ sông, moi một hốc đá thật sâu và trút vào đó điều bí mật mà ông biết được. Ông gào to: "Vua Midrat có đôi tai lừa"...Dù đã lấp đất chôn chặt bí mật chết người đó, tin tức vẫn truyền qua cây sậy rồi theo gió rì rào đưa đi, khiến cho gần xa, ai đi qua bờ sông đều nghe rõ và khắp kinh thành rồi lan ra toàn quốc, ai cũng biết vua Midrat có đôi tai lừa.

Nói tóm lại, cộng sản gian dối. Chúng ta không thể tin vào những gì cộng sản nói và viết, nhất là bọn cộng sản cầm quyền và có thế lực. Họ nói giả dối, nói mù mờ, nói đầu đuôi xuôi ngược lươn lẹo, và dù họ lý luận đúng nhưng thực tế thì họ hành động trái với những điều họ nói và viết. Họ lừa dối nhân dân, họ khinh nhân dân và họ khinh họ.

Sơn Trung
Cuối tháng 12-2010.


____

Tài liệu:
(1).http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2010-12-05-nguyen-chu-tich-quoc-hoi-ban-ve-phuong-thuc-cam-quyen-cua-dang
(2).http://viet-studies.info/kinhte/NguyenVanAn_DoiMoiHeThong.htm.
(3).http://baotoquoc.maxforum.org/2010/12/15/nguyen-chu-tich-quoc-hoi-nguyen-van-an-khuyen-nghi/
(4). Dương Thu Hương. Thư ngỏ gửi bạn đọc và nhà báo Huy Đức" đề ngày 16-12-2010 ,đăng trên DCVonline.
(5). Vũ Thư Hiên .Đêm Giữa Ban Ngày, chương 15

TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẦN HỒNG CHÂU

TÌNH YÊU TRONG THƠ TRẦN HỒNG CHÂU
(1921-2003)

Nguyễn Thiên Thụ

Trần Hồng Châu tên thật là Nguyễn Khắc Hoạch, sinh ngày 15-5-1921 tại Hưng Yên, đậu Tiến sĩ quốc gia văn chương Pháp tại Đại Học Sorbonne Pháp. Năm 1957, giáo sư về làm giáo sư dạy văn chương Pháp và văn chương Việt Nam tại trường Đại Học Văn Khoa Sài gòn và Sư Phạm Sàigòn, và giáo sư thỉnh giảng tại Đại Học Huế.

Khoảng 1967-1969, giáo sư làm khoa trưởng Đại Học Văn Khoa Sài gòn. Năm 1970-1974, giáo sư sang Mỹ dạy Đại học Illinois rồi trở lại Việt Nam và kinh qua cuộc đổi đời tại đây. Khoảng 1990, giáo sư sang Mỹ theo diện gia đình bảo lãnh, cư trú tại quận Cam, California. Giáo sư là một nhà văn, đã viết văn, làm thơ và biên khảo với các bút hiệu Hữu Minh, Lân Hồ, Hoàng Tuấn, Trần Hồng Châu. Trước 1945, giáo sư đã viềt các tạp chí Gió Mới, Tiền Phong (Hà Nội). Về Việt Nam, ngoài dạy học, giáo sư đã tích cực hoạt động văn hóa. Năm 1960, giáo sư sáng lập tạp chí Thế Kỷ XX Trong lúc này, giáo sư cũng đã cộng tác với tạp chí Văn Hóa Nguyệt San của Bộ Giáo Dục do giáo sư Nguyễn Đình Hòa làm chủ bút, và Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục. Ra ngoại quốc, giáo sư tiếp tục làm thơ, viết văn dưới bút hiệu là Trần Hồng Châu, cộng tác với Văn, Văn Học, và Thế Kỷ XXI. Giáo sư đã tạ thế ngày 7-12-2003 tại California, Mỹ quốc, thọ 83 tuổi.

Các tác phẩm :

-Ba Lan vận động độc lập, Hà Nội 1945.
- Le Roman Vietnamien aux 18e et 19e siècles. Đại Học Sorbonne, 1955.
- Contribution à l' Étude Critique et Biographique des principaux Romans en vers Vietnamiens. Đại học Sorbonne, 1955.
- Le Japon et le Traité de Paix de San Francisco, Đại học Paris, 1955.
- Les Relations Russo-Japonaises depuis 1951. Đại học Nancy, 1957.
- Xây Dựng và Phát Triển Văn Hóa Giáo Dục, Lửa Thiêng, Sàigòn, 1970.
- Thành Phố Trong Hồi Tưởng ( Tùy Bút). An Tiêm, Los Angeles, 1991.
- Nửa Khuya Giấy Trắng( Thơ), Thanh Vân,USA, 1992.
- Nhớ Đất Thương Trời ( Thơ), Thế Kỷ,USA, 1995.
- Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây( thơ). Văn Học, USA, 1999.
- Dăm Ba Điều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật. ( Tiểu Luận). Văn Nghệ, USA, 2002.
- Suối Tím. Văn Nghệ, USA, 2003.
- Tuyển Tập Trần Hồng Châu. Viện Việt Học, USA. 2004.

Đa số thi nhân đều làm thơ khi còn trẻ, dường như tuổi trẻ là tuổi mơ mộng, là mùa thơ. Chính yêu đương lúc trẻ trung là động cơ sáng tạo của thi ca . Có lẽ Trần Hồng Châu cũng vậy. Thi sĩ đã làm thơ, viết văn rất sớm nhưng vốn là người thận trọng, thi sĩ không muốn in vội tác phẩm của mình. Rồi cơn địa chấn và hỏa sơn bùng nổ tại Việt Nam năm 1975 đã phá hủy một quốc gia và những sự nghiệp văn học, nghệ thuật của cá nhân và của một thời đại. Các tác phẩm thi ca, tùy bút của thi sĩ chỉ mới xuất bản tại Mỹ sau khi thi sĩ rời bỏ Việt Nam, ở vào lứa tuổi thất thập. Trần Hồng Châu đã trở lại với thi văn đàn và đóng góp cho văn học hải ngoại một số tác phẩm quý giá.

Những tác phẩm của thi nhân đã chuyên chở tâm tình của thi nhân. Thi sĩ đã sống trong bao đêm dài bên cạnh những trang tâm tư đang rộng mở ( Nửa Khuya Giấy Trắng), Thi sĩ đã nhớ đến những thành phố Việt Nam thân yêu, và những thành phố của nhân loại mà thi sĩ đã đi qua và đã sống ( Thành Phố Trong Hồi Tưởng). Và bao giờ tâm hồn nhà thơ cũng rộng mở, ấp yêu vũ trụ ( Nhớ Đất Thương Trời). Thi ca và bút ký của Trần Hồng Châu biểu lộ một tình yêu tha thiết. Thi sĩ yêu quê hương, yêu gia đình , yêu giai nhân, yêu nghệ thuật, yêu vạn vật, và lòng lúc nào cũng thảnh thơi, an lạc ( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây).

I. TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG

Trọng điểm của thơ Trần Hồng Châu là tình yêu quê hương. Ra khỏi quê hương Việt Nam yêu quý, thi sĩ luôn sống trong hồi tưởng:

chúng ta đứng giữa dòng sông ký vãng
dòng thời gian không gian bắt đầu và không tận cùng
chúng ta được kết tụ bằng muôn vàn phân tử của hồi tưởng xa xưa
chúng ta tắm trong quê hương tâm tưởng
trong tuổi ngọc miên trường
(Nửa Khuya Giấy Trắng.Về đây kỷ niệm)

Cũng như những nhà thơ, nhà văn hải ngoại, Trần Hồng Châu đã nhận thức được thân phận của kẻ lưu đày. Thi nhân đã đồng hóa mình với người áo xanh đất trích ngày xưa:

Ai đi mấy độ trăng tròn
Một ta đất trích mỏi mòn áo xanh
( Nửa Khuya Giấy Trắng .Cỏ vong Ưu)

Bên trời lận đận
Lau lách đìu hiu
Ta muốn hôn
Cánh vạc lẻ
Ngoài đầm vắng
Đất bùn xa lạ
Sình lầy quê hương
. . . . . . .

Cây si tùng bách
Linh hồn xứ lạ
Có những tổ chim
Nhìn về phương Đông

. . . . . . .

Người lữ khách cô độc
Bốn bề trùng vây
Thương cây hay thương mình? . . .
( Nhớ Đất Thương Trời. Florida)

sầu đông trong gió lộng
tuyết lạc hoàng hoa tư cố hương
( Hạnh Đến Từng Phút Giây, Hạnh Đến Từng Phút Giây)

Thi nhân đã đau khổ khi nhớ quê hương khổ đau bên kia đại dương:

Mây cho ta nhắn gửi
Lời về thăm cố lý
nơi có từng giọt nước mắt rơi
Trên từng hòn đất xót xa
Nơi có những nụ cười héo hắt
(Nửa Khuya Giấy Trắng . Xuân và biển thiếu quê hương)

Tại Việt Nam, thi sĩ vẫn còn người thân ở lại và thi nhân ước mong ngày trở lại:

Quê hương đau buốt mùa ly biệt
Mộng cũ đoàn viên sớm thỏa lòng
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Từ thuở vương xe mối chỉ hồng)

Thi nhân bao giờ cũng nhớ quê hương. Khi đến Florida, một miền nắng ấm đã khiến thi nhân liên tưởng đến Việt Nam:

Ôi cái nóng quê hương
Nóng vỡ tung mặt đất
Nóng nung mủ
Trái bơ xù xì
Nóng vọt máu
Trắi tim lựu đỏ
Nóng căng đứt thần kinh
Chùa Đàn sợi giây huyền thoại
Ta muốn hôn
Muốn hút từng giọt
Cái nóng quê hương
Trên bờ Đại Tây Dương
(Nhớ Đất ThươngTrời . Florida)

Thi sĩ đã sống tại Sài gòn cho nên nhớ Sài gòn nhiều nhất. Trong hồi tưởng của thi sĩ, ta thấy có hai quê hương. Một quê hương tươi đẹp của quá khứ xa xưa trước 1975, và một quê hương tàn tạ sau 1975. Thi sĩ đã tưởng nhớ một Sài gòn thơ mộng:

Ai lên Phú Nhuận Cầu Bông
Hỏi thăm cô Tú có chồng hay chưa?
Xe đi ngang dọc mấy mùa
Xe ơi có nhớ ngọt chua cuộc đời?
. . . . . . . . .

Xe đưa tôi về Nhà Bè nước chảy chia đôi
Lòng phân vân chẳng biết ở hay đi
Xe qua Tân cảng tới cầu ái ân
Cong cong mình liễu như màu mắt em
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Xe đi ngang dọc mấy mùa)

Trong tập bút ký Thành Phố Trong Hồi Tưởng, nhà văn Trần Hồng Châu đã viết về Cầu Ông Lãnh, đường Trần Hưng Đạo, và con đò Thủ Thiêm:

Năm tháng qua, như nước chảy dưới cầu Khánh Hội, như mây bay trên mười tám thôn Vườn Trầu, tôi vẫn không hết ngạc nhiên., xúc động đến thảng thốt, mỗi khi mưa Sài gòn bủa vây, tới tấp, hay khi nắng Sài gòn nung nấu đến rùng mình cả một bầu khí quyển đến siêu thực, vàng ánh như tranh Van Gogh với cái chói chang bỏng lửa của trưa hè đúng ngọ. Mỗi khi hoa mai bừng nở ở Minh Phụng hay khi con đò Thủ Thiêm đủng đỉnh bắc cầu cho những Sâm Thương thời đại. Mỗi khi sông Nhà Bè bồn chồn nước chảy chia đôi hy khi tấm lòng son của những trái dưa Hà Tiên bằng ngọc thạch được giải bày trên lề đường đi về Cầu Ông Lãnh trong những ngày đầu xuân. (Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Buổi chiều hằng cửu).

Thi nhân đã nghĩ về trường đại học Văn Khoa Sài gòn, nơi ông đã giảng dạy, đã đào tạo hàng ngàn môn sinh. Ông viết với tất cả tấm lòng tha thiết bằng những lời rất đẹp:

Tôi yêu những tấm lòng trinh bạch và màu trắng đơn sơ, hồn hậu, màu thanh bần lạc đạo trên vách tường Văn Khoa, Văn Khoa linh hồn thầm kín của Đại học và quê hương trong những mùa lịch sử, nóng bỏng, sôi động. . . Tôi yêu màu trắng chiều đông, hơi ngả sang màu xám hay xanh nhạt, của trường cũ cũng như trường mới, thoáng gợi cái mong manh, u buồm của lớp phấn light blue shadow nằm dài trên mí mắt, khi những cửa sổ linh hồn bâng khuâng, ngỡ ngàng, dường như mở rộng, cuốn chúng ta vào muôn vạn nẻo đường mịt mùng, xa vời vợi, hun hút sâu như vực thẳm giữa lòng đại dương. . . .Nhớ thương luôn nên mắt có quầng viền!

Tôi yêu màu trắng ngà của tơ lụa nõn, của áo vân Hà Đông trên mình người nữ sinh viên, trên mình đàn bướm trắng biết tha thiết yêuVăn, Triết, Sử ( nhưng cũng biết rùng mình sợ chính những đối tượng quyến rũ đó. . . . những khi mùa hè xích lại gần hay hoa phượng nở nhiều thêm). Đàn bướm trắng ngày ngày chập chờn, tản mác trong giảng đường, ngoài dãy hành lang xa tít tắp và trên ngọn cỏ lá cây của khuôn viên Cường Đễ, lúc nắng chia nửa bãi chiều rồi. . . .
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng. Tình khúc đại học)

Thi nhân hồi tưởng sông Hồng và các hệ thống của nó ở tam giác châu đất Băc trong đó có con sông nhỏ chảy qua Hưng Yên là quê hương của thi nhân:

Khởi đầu là dòng sông quê mẹ. Dòng sông bé nhỏ trong hệ thống giăng tơ và kết lưới của sông Hồng ngàn vạn cánh tay vừa dịu dàng, vừa cuồng nhiệt. Sông kia bên lỡ bên bồi. Nước phù sa mầu mỡ, đầy tình mẫu tử. Sông đỏ như son, sông đỏ rực những cánh hoa gạo rơi rắc trên bờ sông vắng lặng. Ai cũng có một dòng sông ấu thơ, một dòng sông quê mẹ. Nằm nôi trong dòng nước đó, nghe nhịp đời và nhịp nước âu yếm, vỗ về.
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Dòng sông trầm tư)

Thi nhân nhớ đến Hà Nội của ba mưoi sáu phố phường ngày xưa:
Một mùa hương cốm vòng
Ta thở đến trăm năm
Một bàn tay Hàng Đào
Ta mê đến triệu ngày

Bàn tay Tố Tâm
Vàng phai khuê các
Trầm thủy Hồ Gươm
Bàn tay cô Phượng ngoài mồ
Tay Liên gánh hàng đỏ tóc xanh. . .
. ... . . . . . . . .
Rưng rưng sông Hồng
Nghiêng mãi mái thu
Nơi đó ta từng yêu
Những người con gái bàn tay búp măng. . .
( Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây .Bàn tay hàng đào)

Ông cũng nhớ Huế:

Tôi nhớ sông Hương. Nhớ đến đau nhói, dòng nước như ngưng đọng trong thời gian ngưng đọng của một đô thành cổ kính, dường như cũng đứng ngoài cái trôi chảy không ngừng của lịch sử. Sông xanh như mắt. Sen nở quanh thành. Hương cỏ bồ và hồn huệ trắng của những người thanh nữ rất đỗi yêu thơ và yêu những người làm ra thơ.
(Thành Phố Trong Hồi Tưởng, Dòng sông trầm tư)

Trí tưởng đã đưa thi nhân trở về quá khứ xa xưa, Việt Nam là một quê hương đã nhiều năm nằm trong đạn bom, khói lửa:

Lạc bước phiếm du mùa đỏ lửa
Cố đô ly loạn khói mờ say
Ai đi chập chờn trong nắng biếc
Mái nhạt đền xưa ẩn bóng mây
(Nửa Khuya Giấy Trắng . Áo biếc mùa xưa)

Nhiều nhà thơ hải ngoại đã viết về lịch sử Việt Nam nhưng không ai viết rõ và thực với phong cách văn hoa bóng bảy như Trần Hồng Châu. Thơ của Trần Hồng Châu một phần mang tính hiện thực. Ông và dân tộc này cũng như Thuý Kiều đã qua khổ ải đoạn trường:

Mười lăm năm tang tóc,
Mười lăm năm hoang tàn.
Mười lăm năm trong sổ đoạn trường.
Có tên!
Thay đời đổi kiếp,
Hờ ơi! Bình minh nào
Đất trời mờ mịt bốn phương.
Lưỡi lê giáo mác chật đường âm binh.
Đô thành không người vuốt mắt,
Bức tử
Niềm oan khiên rừng rực
Thái hằng sơn!
( Suối Tím. Mười lăm năm)

Thi sĩ đã chứng kiến bao cuộc sống của Sài gòn đã bị vô sản hóa, bần cùng hóa sau 1975. Dưới ngọn bút của ông, chúng ta thấy từng cảnh một. Khởi đầu là hình ảnh những chuyến xe lam, xe bus:

Tôi đi xe bus Sài gòn
Xa cảng miền Tây
Xe Cây Mai Phú Thọ Hòa
Xe tã như giẻ rách
Trong lòng quê hương
Rách tơi bời!
Kính chiếu hậu vỡ từng mảng vụn
Như con ngươi mắt trợn trừng nhìn vào thực
tế phủ phàng
Mui xe gồ ghề mu rùa cong cong
Đập mạnh vào sọ não người tài xế già
theo nhịp bánh xe quay
. . . . . . . . . .
Xe nêm cối có đứa trẻ mồ côi
Mặt rầu rầu bán trái cóc với kẹo đồng đôi
Có anh thương phế binh gãy đàn tay trái
Chiều nay ta trở về bại tướng què chân. . .
Có thằng móc túi bị lôi phăng xuống bến
Vào trụ sở quân cướp ngày oai phong
Có hơi người nồng nặc giữa chiều đông
Có mùi rác rưởi trên xe gầy ốm tong teo
Đồng bào tôi áo chằng áo đụp
Mình võ vàng ngàn nỗi thiếu ăn
Đồng bào tôi đi về đâu chiều vô định
Giòng lịch sử lênh đênh chiếc bách
Đồng bào tôi có tội tình gì?
(Nhớ Đất ThươngTrời . Sài gòn xe bus nội ngoại thành)

Tiếp theo là cảnh dân đi kinh tế mới, vì quá khốn khổ phải lui về Sài gòn nằm ngổn ngang như những người tiền sử từ xa xăm hiện về:

Ngã Sáu Sài gòn có những bộ lạc về từ rừng sâu tiền sử
Từ kinh tế mới âu sầu mất hướng
Trại lưu đày dựng bên bờ đại lộ quê hương
Bên kim tự tháp rác rưởi trầm ngâm
Lửa hờn căm đốt sôi lòng nồi nhỏ
Sưởi ấm ruột gan rét cóng giữa trưa hè
Bằng những hạt cơm trừu tượng
Bằng vài lời hứa. . . thiên đường trần gian. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Tháng 4.. . Mưa Ngâu dầm dề)

Thi sĩ đã nói đến thân phận người ca sĩ trong chế độ mới:
chiều nhỏ lệ,
u mê trùm lên đầu thành phố âm u.
sân khấu Sàigon
ngàn năm lời nguyền rủa!
lời ca đoàn ngũ hóa
âm thanh đi vào hợp tác
sóng nhạc từng đợt quốc doanh
như tư tưởng và thơ
hơn một lần rách nát
trong máu sắt bàn tay quản lý.
Tám giờ đêm,
Nhà hát cửa đóng kín
như tâm hồn bức tử
vì cường quyền run sợ
trước mặt tuổi hai mươi
gươm quật khởi
em hát
thờ ơ buông xuôi
hồn đi chơi vắng
sông Volga lạnh buốt
chuông đồng hồ Cẩm Linh
đội vào lồng ngực đau nhói
( Suối Tím. Đoạn trường của ngườI nữ ca sĩ).

Không riêng Sài gòn mà toàn thể đất nuớc Việt Nam đều đau khổ:

Nội ngoại khoa với hằng hà sa số bệnh hoạn
Đau buồn, lở lói
Trong, ngoài trần gian
Trước, sau, hiện tại
Những bệnh căn đè nặng thập tự giá trên
vai con người trôi dạt trong thung lũng
nước mắt không hề vơi
Khoa da liễu vẫn còn ghi nhiều vết sẹo rằn ri
Trên da thịt người dân và đất nước thảm thương
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Nhà thương )

Trong thơ, thi sĩ đã nói đến các thuyền nhân vì tự do, vì trốn tránh cộng sản mà bị chết oan ức:

nhưng dưới sâu
sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân
sớm đi tối về
vẫn oan khiên
ngập tràn biển đông
. . . . . . .
đoàn hải khấu
ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non
. . . . . . . . . .
người thiếu nữ trên đảo san hô
ta sẽ dựng tượng em
giữa muôn trùng sóng
hãy nói lên niềm đau dân tộc
hãy vẽ lên dáng đứng quê hương!
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Biển oan khiên)

Trần Hồng Châu kết án các cường quốc đã coi Việt Nam như một con tốt trên bàn cờ quốc tế. Và thi sĩ đã gọi chủ nghĩa Marx là ‘’ý thức hệ đen’’ đã gây ra bao thảm cảnh cho dân Việt Nam:

nước biển có giải oan
trắng tinh hồn nhược tiểu?
nước biển có mặn chát
vạn niềm đau?
nước biển có rửa sạch
ý thức hệ đen
đồ thán
chất ngất trời xanh?
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Biển oan khiên)

Gần đây nhất là việc buôn bán người tại Việt Nam, do đảng ‘’xuất cảng lao động’’:

Tin AFP rao truyền khắp năm châu bốn biển
‘’Trong năm năm gần đây 5000 (hay 50,000?) con gái Việt Nam đã được bán buôn dưới nhiều hình thức’’
Những người con gái từng thấy trong ca dao
Trong thơ Nguyễn Bính chân quê
Trong thơ Hàn Mặc Tử chị ấy năm nay còn gánh
thóc dọc bờ sông trắng nắng chang chang?
50 năm trước đây, thời thực dân mấy đời
bánh đúc có xương
Họ còn được là cô dâu trinh trắng nón quai thao về
nhà những chàng trai quan họ quần chùng
áo dài nguyên nếp tình quê
5000 ngưồi con gái Việt Nam ấy, hôm nay sau cơn mê sảng ý thức hệ,
mà họ không hề tạo nên,
đã là món hàng tươi sống xuất khẩu

1. Về những phường dạ lạc Hồng Kông
2. Về những xóm yên hoa Ma Cao
3. Về đảo quốc Đài Loan xả xui bằng chữ ngàn vàng
4. Về vùng Lưỡng Quảng chiều mưa biên giới em đi về đâu?
5. Về niềm tủi nhục ngửa nghiêng Vọng Các thủ đô
ổ nhện suốt sáng thâu đêm. . . .
( Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây. Mẹ Âu Cơ hôm nay khóc hay cười?)

Một đôi khi thi sĩ cũng châm biếm chủ nghĩa cộng sản:

Lằn đường, lane đường
Mù mịt tít mù
Chạy mút mùa như đời cải tạo không án lệnh
Chạy phân minh nhị nguyên
Như đường ranh tư bản dẫy chết. . . vẫn sống nhăn răng
Như đường ranh vô sản tiến nhanh tiến mạnh về thiên đường mù
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây . Buổi chiều góc cạnh)

Thi sĩ tin tưởng một ngày kia dân Việt Nam sẽ vùng lên đập tan xích xiềng để giành lấy tự do:

nhất định
sấm sét cuồng phong sẽ vùng dậy
từ những đốm lửa nhỏ
từ những di động vi ba
Tần Thủy hoàng chết khô
Trong lửa đỏ Hàm Dương
phần thư! phần thư!
nhưng bài thơ vẫn tồn tại
trọn vẹn
ung dung
trên nẻo đường khai phá
nẻo đường tự do
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây. Làm thơ sau cơn hồng thủy)

Trần Hồng Châu là người yêu nước, thương dân, là người quốc gia chân chính, người trí thức chân chính , và có ý thức chính trị rất cao.

II.TÌNH YÊU GIA ĐÌNH

Rất ít nhà thơ nói đến gia đình trong tác phẩm của mình. Trần Hồng Châu thì khác. Ông là một người thâu thái Tây học trọn vẹn nhưng vẫn giữ tâm hồn Á Đông với đầy đủ trung, hiếu, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Thi sĩ đã thờ song thân rất mực hiếu thảo.

Thân phụ của thi sĩ đã cùng thi sĩ kinh qua những ngày đen tối sau 1975 và mất trước khi thi sĩ rời Việt Nam. Bài thơ khóc cha sau đây là một trong những bài thơ hay nhất trong văn học Việt Nam . Chúng ta đã có những bài thơ khóc vợ, khóc chồng, khóc bạn nhưng chưa có bài thơ nào khóc bố mẹ đạt nghệ thuật như bài này. Bài thơ này rất có giá trị vì tâm tình chân thành với nghệ thuật giản dị, câu thơ tự nhiên, mộc mạc không trau chuốt nhưng đã đi sâu vào trái tim người đọc. Bài thơ này cũng cho chúng ta biết tình cảm sâu xa của thi sĩ đối với cha già :

Bố nằm xuống
Bố nằm xuống đất rồi, càng thương bố
đời loạn lạc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố thèm chén rượu nhạt
( một đôi khi thôi, đâu có nghiện ngập gì!)
con cũng chẳng có tiền mua
túi sạch sành sanh
sau mấy chuyến đi chui chẳng thành công
Bố muốn bộ đồ xá xị tầm thường
để bận cho thoải mái
Con cũng chỉ mua được vải tám lai rai
Trông bố ăn
Rất ngon lành
Củ khoai lang buổi sáng
Con muốn khóc quá trời!
Đời loạn lạc
chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ lớn mới
về Đại thế giới
để dành tiền vé xe buýt
bố mua hai đồng ô mai
một gói đậu phụng
Bên cửa bếp
Hai bố con ngồi nhắm nháp
vị xá muội mặn chát
chua ơi là chua
ôi men đắng cuộc đời!
ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
vỏ lạc lá vàng bay
Hai bố con lặng lẽ
cắn từng miếng me khô
muối ớt cay cay
từng quả cóc ngâm đường
dôn dốt ngọt chua
bố bảo: bố con mình thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố
đời loạn lạc. . .
(Nhớ Đất Thương Trời)

Bài thơ này có giá trị ngang bài Thạch hào lại của Đỗ Phủ. Cả hai thi sĩ đều sống vào thời tao loạn và nói về cảnh thời loạn. Cả hai bài thơ đều có lời giản dị, trong sáng mang nghệ thuật tả thực và tính xã hội, nhưng thơ của Trần Hồng Châu còn mang tính chất riêng tư và mạnh mẽ của tình cảm gia đình, của tình phụ tử trong hoàn cảnh khó khăn của gia đình và của đất nước.

Thi sĩ Trần Hồng Châu còn làm thơ khóc mẹ khi thi nhân đã ngoại thất tuần.

Sau cơn sốt nhẹ mẹ đã ra đi trên đường thênh thang
Thanh thản
Nhẹ tênh một vẫy gọi hồn thu thảo
Bên kia bờ vĩnh hằng
Có còn giòng lệ đắng
Có còn đớn đau và biển lớn quên mình?
. . . . . . . . . . . .

Hôm nay Mẹ bước vào
Im lặng Yên Tĩnh Tịch Mịch
Để lại đằng sau các con mẹ cổ lai hy nhưng vẫn là
bé bỏng thuở nào
Hôm nay
Tàn hương và lời kinh bát minh hồng phấn
Rụng xuống cùng những quân bài số mệnh
Cùng nằm im bên chuỗi tràng
Trong sáu bức tường vàng - tâm ngát thơm lòng mẹ
Con máu thịt mẹ
Mẹ bồng một phần con ra đi
Con giữ lại một phần Mẹ
Ở đây bụi đỏ kinh thành
Ở đây bốn biển cùng đành sầu riêng. . . .
(Hạnh Phúc Đến Từng Phút Giây . Mẹ )

Thi sĩ Trần Hồng Châu cũng viết về người vợ hiền của thi sĩ. Hai ông bà đã sống bên nhau cho đến tóc bạc răng long, tình cảm rất thắm thiết. Có lẽ tình yêu ở những vợ chồng già cũng nồng đượm vì người già thì cảm thấy cô đơn. Các con đã lớn, đã đi xa, và bố mẹ cũng đã không còn ở trần thế, mà bạn bè cũng thưa thớt, kẻ mất người còn. Và giờ đây chỉ còn hai vợ chồng già với bao khó khăn của cuộc sống. Nhưng với một nụ cười, và một cử chỉ săn sóc ân cần cũng làm cho nhau hạnh phúc. Bài thơ ‘’Chỉ còn nụ cười em’’ có lẽ được viết trong hoàn cảnh này, lời thơ nhẹ nhàng, thắm thiết:

một bóng ta một mình
đèn khuya mờ giấy trắng
tấc lòng người xưa
trăn trở hôm nay
quá khứ ngàn cân
trùng điệp vẫn vòng vây
tương lai mịt mờ
đường hầm không lối sáng
đời khép kín
trắng đôi tay
hồn ngắt lạnh
chỉ còn nụ cười em
bình minh rực rỡ
ngoài chân trời cuộc sống
không sắc, không vị
không một thanh âm
chỉ còn nụ cười em
mỗi buổi sớm em mời anh
chén trà xanh đầu ngày!
(Hạnh Phúc đến Từng Phút Giây

III. TÌNH YÊU VÀ NGHỆ THUẬT

Nghệ sĩ nào cũng có hình ảnh một vài giai nhân trong tác phẩm. Trong thơ Trần Hồng Châu, chúng ta cũng thấy có nhiều bản tình ca rất đẹp. Bài Bướm trắng là một bài thơ hay:

Sóng xanh xanh, sông chở đầy ân ái
Trường hồng hồng, trường mang mãi tình non
Quá gần nhau sao vẫn còn quan ải
Mấy mưoi lớp phù kiều dáng mắt em!
Chủ nhật dây nắn nót chữ thơ hồng
Lòng phơi phới hội mở gió như nhung
Ghé Thiên Thai anh trao tình thứ nhất
Tay ghi dòng nhật ký buổi tương phùng
Áo trắng xưa bướm cũ còn vương vấn
Đêm thao thức hồn trĩu nặng buồn thơ
Mộng mơ anh say say mầu hồng phấn
Tóc huyền châu trong khung cửa trường bên
Bờ sông thơ gió vương tình áo trắng
Em đi nhanh nón nhỏ gót hồng son
Bỗng hoa lá chập chờn trong vắng lặng
Hồn bâng khuâng rực rỡ ánh lưu ly
Bước ngập ngừng vân vi mi chớp lẹ
Tình mang mang hò hẹn mái đò xưa
Mộng thanh xuân tuổi ngọc về đây nhé
Về đây nhé bướm trắng mộng thanh xuân
(Nửa Khuya Giấy Trắng)

Thi sĩ là người đa tình đa cảm. Thi sĩ đã ghi lại những xúc động khi gặp nhiều giai nhân trong những trường hợp khác nhau, và những góc độ cuộc đời khác nhau. Phải chăng những giai nhân ở đây tượng trưng cho cái đẹp muôn nơi muôn thuở của đất nước Việt Nam tự do, của nhân loại hòa bình? Bài thơ Em là ai? Từ phương trời nào? là một bài thơ xuất sắc:

Người đẹp bao nhiêu từng thoáng gặp
Như gió hội ngộ mây hồng trôi
Bốn phương trời rộng vẫn bồi hồi
Ngàn năm đâu có lại hẹn hò
Em là ai, từ phương trời nào tới?
Chỉ còn lại hương rơi tiếng đoạn trường
Em chợt đến chợt đi tinh cầu lạc
Một cánh bướm, trăng soi vạn nẻo đường. . .
Anh gặp em bé bỏng chiều dạ hội
Mình xoay xoay luân vũ nửa về khuya
Anh thấy em bâng khuâng chân bước vội
Mắt ngỡ ngàng đại lộ cửa thành đô
Anh gặp em vương mắc sầu thương cảng
Cánh buồm trắng ra khơi màu ly biệt
Anh thấy em trầm ngâm buông cây viết
Trong giảng đường tuổi trẻ mắt đầy sao
Anh gặp em reo vui chuyến tàu sớm
Sương gió lạnh anh mê tình sưởi ấm
Anh thấy tóc em mộng hái mơ vàng
Suối Giải Oan về em có giải oan?
Anh gặp em chân đỏ ruộng phù sa
Môi cắn chỉ hồng duyên nếp mới
Anh thấy em bến cũ trời hoa lá
Mái đò đưa sóng mắt gợi tình đầu
Em là mây gió nước sông đày
Em từ đâu tới em về đâu
Gặp em chớp mắt nhớ vạn ngày
Sớm chiều mưa nắng mắt em buồn
Anh đi ngang dọc kinh vỹ tuyến
Nửa đêm chợt tỉnh lại tình em
Lên non xuống biển mộng hư huyền
Tiên về bích động tình rơi cõi trần!
(Nhớ Đất Thương Trời)

Trên đây, Trần Hồng Châu viết bằng lời thơ giản dị, mộc mạc, nhưng qua phần này, thi nhân viết bằng nghệ thuật tượng trưng. Như một khúc đàn đang dạo những âm thanh nhịp nhàng, đều đặn, đến đây, âm thanh, tiết táu đổi khác, đưa người qua một khung trời khác.

Thi nhân lại đưa chúng ta qua một khung trời khác nữa. Thi nhân đưa chúng ta trở về khung trời ca dao với trầu quế, hoa bưởi của thời Nguyẽn Du, Hồ Xuân Hương. Một bài thơ của Trần Hồng Châu rất gần hồn thơ Nguyễn Bính:

Núi cao chi lắm núi ơi,
Núi che mặt trời chẳng thấy người thương
Thời gian tỏa bóng đoạn trường
Thời gian che khuất nẻo đường thiên thai
Tôi từ kinh khuyết một hai
Núi cao cao mãi sông dài dài ghê
Nhớ nhung mấy thuở đi về
Cùng nhau sớm tối lời thề nước mây
. . . . . . . . .
Người thơ thơ cả bàn tay
Em xinh xinh cả nét mày gần xa
Nhà em ở xóm Chợ Ngà
Có giây trầu quế đậm đà ngọt chua
Nhà tôi bên ngõ giếng Chùa
Cuối thôn hoa bưởi nửa mùa ngát hương
Ước gì cho núi bình thường
Cho sông bé nhỏ tôi thường sang chơi. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Ước gì sông rộng một gang)

Bài thơ Em vẫn ngồi đây vầng trăng khuyết là một bài thơ rất đặc biệt vì thi sĩ đã dùng trí tưởng tượng trở về thời xưa khi còn những tráng sĩ, những vương tôn, công tử và những nàng ca kỹ tài sắc lừng danh.

Từ biên cương ruổi ngựa về bắc khuyết
Ta tìm em đâu phải mộng vương hầu
Ta tìm em lạc phách Tây hồ xưa
Những vương tôn ngõ liễu màu hồng phấn
Cung đàn say dàn trải mộng thanh xuân
Gió bụi kinh thành đường vạn dặm
Vàng son cửa võng ngói lưu ly
Em vẫn ngồi đây vầng trăng cũ
Nửa mùa ly loạn nét đan thanh?
Hoa cỏ ngàn năm cỏ hoa xuân
Mây trắng rưng rưng bước lữ hành
Mây trắng về đâu hồn bỏ ngỏ
Nhớ nhung đất Hứa có về chăng
Sông vẫn đò đưa chèo mái cũ
Núi vẫn giăng màn bóng mi xưa?
Em vẫn ngồi đây vừng trăng khuyết
Nửa mùa ly loạn nét điêu tàn
Phấn son lợt lạt buồn năm tháng
Thành quách đau lòng lớp phế hưng
Đá cũng pha phôi màu sương gió
Nhung lụa còn đâu dáng Ngọc Kiều
Đàn kêu như khóc lệ Tầm dương
Nhỏ máu năm dây khúc đoạn trường!
Bốn vách vơi đầy như xa cách
Người đi người ở mấy phương trời. . . .
Ngày mai đây xuất phát lại hoàng hoa
Bóng thời gian bạc ố những phím đàn
Đường Yên kinh vó ngựa chập chờn say
Ai khóc ta như ta đã khóc người
Thôi bút nghiên đàn phách cũng đều sai!
( Nhớ Đất Thương Trời)

Bài thơ này và Bài ca man rợ của Đinh Hùng giống nhau vì cả hai đều đặt bài thơ vào một không gian và thời gian xa xưa, tuy rằng một bên là truyện tình của một tráng sĩ, còn một bên là tâm sự của một dã nhân. Bài thơ này và bài Màu thời gian của Đoàn Phú Tứ có điểm giống nhau vì cả hai đều dùng chữ và hình ảnh rất cổ kính và theo nghệ thuật tượng trưng.

Những bài Em là hồi tưởng em là âm vang, Chiều đô thành ( Nhớ Đất Thương Trời),Tro tàn kỷ niệm (Nửa Khuya Giấy Trắng) là những bản tình ca rất giá trị.

Một vài bài thơ của Trần Hồng Châu mang một ý nghĩa khác. Giai nhân ở đây là nàng Thơ, nàng Ly Tao:

Em Giáng Thơ kiều mị
Hôm nay ngày của Em
Ngày tôn vinh Thơ
Thơ xóa nhòa biên giới thời, không gian
Thơ không trường phái, không khẩu hiệu
Thơ hoàn toàn giải thoát. . . .
Em Giáng Thơ kiều mi
Gió đã lên!
Anh đang chắp cánh cho Em, cho Thơ
Trên hoa tiên những trang giấy rực màu ánh sáng!
( Nửa Khuya Giấy Trắng, Chắp cánh cho thơ)

Vắng em hồn mộng đỗ quyên
Nước non hiu hắt tiếng huyền bâng khuâng
Ly tao giòng cạn khơi vần
Mưa đan đan mãi giọt sầu ý thơ
( Nửa khuya giấy trắng )

Chính thi nhân đã gọi đó là ‘’em thơ trừu tượng’’:

Em thơ trừu tượng
Hoa vàng phương thảo
Anh sẽ cô đọng thời gian thành một tụ
điểm nóng bỏng đam mê
Để đốt cháy những sa mạc sầu tủi
những băng dương bàng bạc nhớ nhung. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng.’Em thơ trừu tượng’.)

Thi nhân cho mình là đấng Sáng Tạo , và giai nhân là những sáng tạo phẩm của thi nhân trên đỉnh Thi Sơn:

giờ hợp hôn tình giấy trắng
Anh bỗng thấy mình là người khổng lồ
Thổi sáo ngọc
Trên đỉnh Thi sơn sương mịt mờ
Là Hoàng thiên muôn trượng
Thượng đế cao siêu
Anh tạo nên Em
lấy thịt da Anh đắp tượng hình Em. . . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng. Anh , Em, bài thơ)

Giai nhân nhiều khi là ý niệm trừu tượng, và đó là nghệ thuật trừu tượng của Trần Hồng Châu::

Em và Thơ chỉ là ý niệm
Mông lung cõi trống vẫn muôn vàn
Chiều huyền không hoa trôi cửa động
Cánh bướm hồng vô thủy vô chung. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng .Ý niệm )

IV. TÌNH YÊU NHÂN LOẠI

Thuở thiếu thời, thi sĩ Trần Hồng Châu đã du học ngoại quốc, sau đó sang dạy học tại Mỹ, rồi trở lại Mỹ quốc sau 15 năm sống trong hỏa ngục. Cũng như đa số người Việt hải ngoại, đã ra ngoại quốc tất tâm hồn sẽ có chút rộng rãi, cởi mở. Là một người có tâm hồn nghệ sĩ và nhân ái, thi sĩ Trần Hồng Châu yêu quê hương , yêu cả loài người, và yêu vũ trụ. Tình yêu của thi sĩ vượt qua giới hạn quốc gia. Trong thơ cũng như trong tùy bút, thi sĩ đã ca tụng những con người và xứ sở đã nở hoa, và đã cho thi nhân những kỷ niệm êm đềm. Tấm lòng của thi nhân ở đây mới đích thực là tấm lòng nhân ái, và tình thương nhân loại:

Tôi yêu Tô Châu, Venise và Thuận Hóa
Sông xanh như mắt
Sen nở quanh thành
(Nửa Khuya Giấy Trắng Chắp cánh cho thơ)

Nhớ một bông hồng Fontenay
Một hành lang biển rộng Sorbonne
Một thảm cỏ đồi Montsouris
Nhớ đôi chân son và hồn song song giữa lòng
ga Saint Lazare một chiều ly bôi mà ánh vàng
cô đọng trên tóc xõa
và trong rượu mạch hoàng hoa. . .
(Nửa Khuya Giấy Trắng , Paris chiều chia ly)

Tôi là con tàu lênh đênh sóng vỗ
Lắc lư say theo nhịp hải hành
Về những thương cảng buồm thuyền như bướm lượn
Về những chân trời lộng gió biển mù khơi
. . . . . . . . . . .

Lòng Phi châu nóng bỏng
Bến Hồng Hải biển xanh
Aden, đen trong nắng xế
Suez mấy thuở ê chề!
. . . . . . .

Tôi nương theo hướng mặt trời mọc
Về thăm Hương Cảng một chiều xưa
. . . . . . . . . .

Tôi nương theo hướng mặt trời lặn
Về thăm Nữu Ước mỏi chờ mong. . . .
(Nhớ Đất ThươngTrời.. Ở biển về ngòi)

Trần Hồng Châu không những là du khách mà là một người sống trong hồi tưởng, là ngườI lãng tử trở lại quê nhà. Với Trần Hồng Châu, đi du lịch nghĩa là đi tìm lại quá khứ đã mất hay quá khứ mà mình chưa được sống. Trở lại Paris, lòng thi sĩ vô cùng xúc động. Thi sĩ tỏ ra yêu quý những mái trường đại học. Thi sĩ đã ca tụng đại học Sorbonne:

Tôi yêu màu xám Paris của nửa chừng thế kỷ trong những năm 50, màu xám quen thuộc, màu xám huyền diệu mà H. Miller vẫn bùi ngùi cảm động nhắc tới như một nguồn thơ trìu mến, dịu ngọt tuổi thanh xuân... Tôi yêu Sorbonne trước thời chỉnh trang đô thành cuả A. Malraux, Sorbonne chìm đắm trong màu xám ảo diễm đó, vừa mờ mờ ẩn hiện như sương đêm Bắc hải, vừa trong sáng như những lâu đài, đình tạ trầm ngâm soi bóng trên bờ biển Địa Trung.. (Thành Phố Trong Hồi Tưởng. Tình khúc đại học)

Thi sĩ xúc động khi đến đại học Cambridge:

Tôi yêu điệu blue ‘’ Dòng sông xanh’’ của Cambridge, điệu moderato tịch mịch, chầm chậm, nhẹ nhàng, buông lơi, điệu nhạc tươi sáng vừa dựng cho chính mình.. .Tôi yêu những lời nhỏ to của Cambridge thầm thì như rót vào tai.(Tình khúc đại học)

Ông ca tụng đại học Harvard:

Tôi yêu màu nâu pha đỏ, màu đỏ nâu, ấm áp, bền vững - màu bordeau, hay huyết dụ?- của tường nhà Harvard. Ấm áp ngay cả khi tuyết rơi trắng muốt, xóa mờ những bãi cỏ xanh. . .( Tình khúc đại học)

Thi sĩ Trần Hồng Châu yêu vũ trụ, yêu tất cả. Lúc tuổi ngoại thất tuần, thấy ngày ra đi đã gần kề, thi sĩ đã luyến thương những đồ vật đã sống bên thi sĩ nhiều năm.

Đã Ở Cùng Ta
Cánh trà lênh đênh chát
Ngọt chữ thảo Đường thi
Trên hổ phách buồn vui
Ấm chén ở cùng ta
Hồn xưa nhiều hò hẹn
Chữ nhỏ lắm vân vi
Mắt thơ nghiêng nhạc tóc
Sách vở ở cùng ta
Cái ghế ta nghiêng ngửa
Cái bàn ta gác chân
Cây bút mòn giấy trắng
Tay áo mực vết đau
Tất cả ở cùng nhau
Mai này có theo ta
Trong chuyến đi cùng tận
Lạnh đời đếm bơ vơ
Đã cùng ta ăn nằm
Nhớ cùng ta đi nhé!
(Hạnh Đến Từng Phút Giây)

Thế giới thơ của Trần Hồng Châu mang nhiều màu sắc. Thơ của ông có cái cao quý của trừu tượng, đôi khi giản dị và sát thực tế của nghệ thuật hiện thực. Thơ Trần Hồng Châu cũng như con người ông là sự kết hợp tài tình giữa kiến thức hiện đại với nghệ thuật truyền thống dân tộc. Những bài thơ tình của thi sĩ là những bản tình ca êm ái. Trái tim của ông luôn tràn ngập tình yêu quê hương, yêu gia đình, yêu nhân loại, yêu cái đẹp và yêu những sự vật xung quanh. Trong loại này, thơ của ông mang màu sắc tượng trưng nhẹ nhàng kiểu Vũ Hoàng Chương và Đinh Hùng, không khó hiểu như Đoàn Phú Tứ, Xuân Sanh.

Trần Ngọc Ninh đã nhận định khá chính xác về thơ Trần Hồng Châu:

Thơ Trần Hồng Châu là thơ trí thức đẹp một cách trang nhã với nhiều hương hoa kì diệu của bốn bể năm châu và một tâm hồn cao quý luôn luôn rung động theo âm hưởng với tất cả những cái đẹp vi tế của cuộc đời và những hoài ảnh văn chương cổ điển ( Tuyển Tập Trần Hồng Châu xvii).

Thật vậy, văn thơ của Trần Hồng Châu nội dung luôn luôn súc tích, nhưng lời thơ có khi bay bướm , có lúc bình dị, như cung đàn khi trầm khi bổng làm rung động tâm hồn người đọc. Ông là tổng hơp hồn thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ và nghệ của Rimbaud, Verlaine và Ezra Pound.

Nguyễn Thiên Thụ
Canada 2003