=
Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ Việt Bắc
Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn (15/15)
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
Bài ca tháng mười Thuở Anh chưa ra đời Trái đất còn nức nở Nhân loại chửa thành người Ðêm ngàn năm man rợ Nước mắt máu mồ hôi Ðong hàng bát hàng bát Bán đổi lấy cơm ôi Nhặt từng hạt từng hạt Từ khi Anh đứng dậy Trái đất bắt đầu cười Và loài người từ đấy Ca bài ca Tháng Mười Những mắt buồn sắp nhắm Bừng dậy thấy tương lai Những bàn tay lại nắm Cờ đỏ qua đêm dài Những đầu lên máy chém Nhìn đao phủ hiên ngang: "Muôn năm Ðảng Cộng sản! "Chào Xô-Viết Liên bang!" Ơi người Anh dũng cảm Lũy thép sáng ngời ngời Ðây Việt Nam Tháng Tám Em Liên Xô Tháng Mười! Hoan hô Sta-lin Ðời đời cây đại thọ Rợp bóng mát Hòa bình Ðứng đầu sóng ngọn gió! Hoan hô Hồ Chí Minh Cây hải đăng mặt biển Bão táp chẳng rung rinh Lửa trường kỳ kháng chiến! 1950 Ðời đời nhớ ông Bữa trước mẹ cho con xem ảnh Ông Sta-lin bên cạnh nhi đồng Áo ông trắng giữa mây hồng Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười Trên đồng xanh mênh mông Ông đứng với em nhỏ Cổ em quàng khăn đỏ Hướng tương lai Hai ông cháu cùng nhìn Sta-lin! Sta-lin! Yêu biết mấy, nghe con tập nói Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin! Mồm con thơm sữa xinh xinh Như con chim của hòa bình trắng trong Hôm qua loa gọi ngoài đồng Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao Làng trên xóm dưới xôn xao Làm sao, ông đã... làm sao, mất rồi! Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi! Hỡi ôi Ông mất! Ðất trời có không? Thương cha thương mẹ thương chồng Thương mình thương một thương Ông
thương mườiYêu con yêu nước yêu nòi Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu Ngày xưa khô héo quạnh hiu Có Người mới có ít nhiều vui tươi Ngày xưa đói rách tơi bời Có Người mới có được nồi cơm no Ngày xưa cùm kẹp dày vò Có Người mới có tự do tháng ngày Ngày mai dân có ruộng cày Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai Ơn này nhớ để hai vai Một vai ơn Bác một vai ơn Người Con còn bé dại con ơi Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông Thương Ông mẹ nguyện trong lòng Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con Ông dù đã khuất không còn Chân Ông còn mãi dấu son trên đường Trên đường quê sáng tinh sương Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng Ngày tay trắng những băng tang Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời 5-1953 Sáng tháng Năm Vui sao một sáng tháng Năm Ðường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ Suối dài xanh mướt nương ngô Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn Bác kêu con đến bên bàn Bác ngồi Bác viết, nhà sàn sơn sơ Con bồ câu trắng ngây thơ Nó đi tìm thóc nhởn nhơ quanh nhà. Bàn tay con nắm tay Cha Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng Bác ngồi đó, lớn mênh mông Trời xanh biển rộng ruộng đồng nước non Bác Hồ, cha của chúng con Hồn của muôn hồn! Cho con được ôm hôn má Bác Cho con hôn mái đầu tóc bạc Hôn chòm râu mát rượi hòa bình! Ôi! cái tên kính yêu Hồ Chí Minh! Trong sáng lòng anh xung kích Nửa đêm bôn tập diệt đồn Vững tay người chiến sĩ nông thôn Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo Anh thợ, má anh vàng thuốc pháo Cánh tay anh đầy sẹo lửa gang Ơi những em đốt đuốc đến trường làng Và các chị dân công mòn đêm vận tải! Các anh chị, các em ơi, có phải Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh Môi ta thầm kêu Bác: “Hồ Chí Minh”! Và mỗi trận mỗi mùa vui thắng lợi Ðôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi Ta lớn cao lên, bay bổng diệu kỳ Trên đường dài hai cánh đỡ ta đi... Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh Ôi người Cha đôi mắt mẹ hiền sao! Giọng của Người không phải sấm trên cao Thấm từng tiếng, ấm vào lòng mong ước Con nghe Bác tưởng nghe lời non nước Tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau... Bác Hồ đó, chiếc áo nâu giản dị Màu quê hương bền bỉ đậm đà Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta Ta bỗng lớn ở bên Người một chút Bác Hồ đó, ung dung châm lửa hút Trán mênh mông thanh thản một vùng trời Không gì vui bằng mắt Bác Hồ cười Quên tuổi già, tươi mãi tuổi đôi mươi Người rực rỡ một mặt trời cách mạng Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng Ðêm tàn bay chập choạng dưới chân Người Hồ Chí Minh Người ở khắp nơi nơi... Hồn biển lớn đón muôn lời thủ thỉ Lắng từng câu từng ý chưa thành Người là Cha, là Bác, là Anh Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ Người ngồi đó, với cây chì đỏ Chỉ đường đi từng bước từng giờ Không gì vinh bằng chiến đấu dưới cờ Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại! Con nhớ hết mỗi lời Người dạy: “Kháng chiến gian nan, kháng chiến trường kỳ” Bác bảo đi là đi! Bác bảo thắng là thắng! Việt Nam có Bác Hồ Thế giới có Sta-lin Việt Nam phải tự do Thế giới phải hòa bình! Chúng con chiến đấu hy sinh Tấm lòng son sắt, đinh ninh lời thề! Bắt tay Bác tiễn ra về Nhớ hoài buổi sáng mùa hè chiến khu 5-1951 Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên Tin về nửa đêm Hỏa tốc hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Ðuốc chạy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn đỏ lửa Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên! Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp! Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa! Vinh quang Hồ Chí Minh,
Cha của chúng ta ngàn năm
sống mãiQuyết chiến quyết thắng,
cờ đỏ sao vàng vĩ đại!Kháng chiến ba ngàn ngày Không đêm nào vui bằng đêm nay Ðêm lịch sử, Ðiện Biên sáng rực Trên đất nước, như huân chương trên ngực Dân tộc ta, dân tộc anh hùng! Ðiện Biên vời vợi nghìn trùng Mà lòng bốn biển nhịp cùng lòng ta Ðêm nay bè bạn gần xa Tin về chắc cũng chan hòa vui chung Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên Chiến sĩ anh hùng Ðầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi,
ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt.Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn Những đồng chí thân chôn làm giá súng Ðầu bịt lỗ châu mai Băng mình qua núi thép gai Ào ào vũ bão, Những đồng chí chèn lưng cứu pháo Nát thân, nhắm mắt, còn ôm Những bàn tay xẻ núi, lăn bom Nhất định, mở đường cho xe ta lên chiến
trường tiếp việnVà những chị, những anh
ngày đêm ra tiền tuyếnMấy tầng mây, gió lớn mưa to Dốc Pha Ðin chị gánh anh thồ Ðèo Lũng Lô anh hò chị hát Dù bom đạn xương tan thịt nát Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh Hỡi các chị, các anh Trên chiến trường ngã xuống Máu của anh chị, của chúng ta,
không uổngSẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng. Lũ chúng nó phải hàng, phải chết Quyết trận này tiêu diệt Ðiện Biên Quân giặc điên Chúng bay chui xuống đất? Chúng bay chạy đằng trời? Trời không của chúng bay Ðạn ta rào lưới sắt Ðất không của chúng bay Ðai thép ta thắt chặt! Của ta, trời đất, đêm ngày Núi kia, đồi nọ, sông này của ta! Chúng bay chỉ một đường ra: Một là tiêu diệt hai là tù binh. Hạ súng xuống, rùng mình run rẩy Nghe, pháo ta lừng lẫy thét gầm! Nghe, trưa nay, tháng 5 mồng 7 Trên đầu bay, thác lửa hờn căm! Trông, bốn mặt, lũy hầm sập đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông, chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Ðiện Biên toàn thắng! Hoan hô chiến thắng Ðiện Biên! Tiếng reo núi vọng sông rền Ðêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ Bác đang cúi xuống bản đồ Chắc là nghe tiếng quân hò quân reo Từ khi vượt núi qua đèo Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày Tin về mừng thọ đêm nay Chắc vui lòng Bác, giờ này đợi trông. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng Ở bên đó, chắc đêm nay không ngủ Tin đây Anh, Ðiện Biên Phủ hoàn thành Ngày mai vào cuộc đấu tranh Nhìn xuống mặt bọn Bi-đô, Smit Anh sẽ nói: "Thực dân, phát xít Ðã tàn rồi! Tổ quốc chúng tôi Muốn độc lập hòa bình trở lại Không muốn lửa bom đổ xuống đầu con cái Nước chúng tôi và nước các anh Nếu còn bom lửa chiến tranh Ở Việt Nam, các anh nên nhớ Chính nghĩa thật là đáng sợ! Và trận thắng Ðiện Biên Cũng mới là bài học đầu tiên!" Nhân dân Việt Nam anh dũng Ðã cầm súng tiến lên Nhất định hoàn toàn thắng lợi! 5-1954 Ta đi tới Ta đi giữa ban ngày Trên đường cái, ung dung ta bước Ðường ta rộng thênh thang tám thước Ðường Bắc Sơn - Ðình Cả - Thái Nguyên Ðường qua Tây Bắc, đường lên Ðiện Biên Ðường cách mạng, dài theo kháng chiến Ðến hôm nay đường xuôi về biển Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi! Ðẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca Ai qua Phú Thọ Ai xuôi Trung Hà Ai về Hưng Hóa Ai xuống khu Ba Ai vào khu Bốn Ðường ta đó, tự do cuồn cuộn Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi! Sông Thao nao nức sóng dồi Ai về Hà Nội thì xuôi cùng thuyền. Ờ đã chín năm rồi đấy nhỉ! Kháng chiến ba ngàn ngày không nghỉ Bắp chân, đầu gối vẫn săn gân! Ngẩng đầu lên: trong sáng tuyệt trần Tháng Tám mùa thu xanh thắm Mây nhởn nhơ bay Hôm nay ngày đẹp lắm! Mây của ta, trời thắm của ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa! Ðã tan tác những bóng thù hắc ám Ðã sáng lại trời thu tháng Tám Trên đường ta về lại Thủ đô Cờ bay quanh tóc bạc Bác Hồ! Mẹ ơi lau nước mắt Làng ta giặc chạy rồi! Tre làng ta lại mọc Chuối vườn ta xanh chồi Trâu ta ra bãi ra đồi Ðồng ta lại hát hơn mười năm xưa... Các em ơi, đã học chưa? Các anh dựng cho em trường mới nữa Chúng nó chẳng còn mong dội lửa Trường của em đứng giữa đồi quang Tiếng các em thánh thót quanh làng. Ai đi Nam Bộ Tiền Giang, Hậu Giang Ai vô thành phố Hồ Chí Minh Rực rỡ tên vàng Ai về thăm bưng biền Ðồng Tháp Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp Nơi chôn rau cắt rốn của ta! Ai đi Nam-Ngãi - Bình-Phú - Khánh Hòa Ai vô Phan Rang, Phan Thiết Ai lên Tây Nguyên, Công Tum, Ðắc Lắc Khu Năm dằng dặc khúc ruột miền Trung! Ai về với quê hương ta tha thiết Sông Hương, Bến Hát, Cửa Tùng Ai vô đó, với đồng bào, đồng chí Nói với Nửa Việt Nam yêu quý Rằng: nước ta là của chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa! Chúng ta con một cha, nhà một nóc Thịt với xương, tim óc dính liền. Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân Dù ai rào dậu ngăn sân Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ! Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa Chúng nó chẳng còn mong được nữa Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng Những bàn chân từ than bụi, lầy bùn Ðã bước dưới mặt trời cách mạng Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ,
Cao LạngLừng lẫy Ðiện Biên, chấn động địa cầu Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp! Ta đi tới trên đường ta bước tiếp Rắn như thép, vững như đồng Ðội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, dài như sông Chí ta lớn như biển Ðông trước mặt! Ta đi tới, không thể gì chia cắt Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau Trời ta chỉ một trên đầu Bắc Nam liền một biển Lòng ta không giới tuyến Lòng ta chung một Cụ Hồ Lòng ta chung một Thủ đô Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam! 8-1954 Việt Bắc - Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng. Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ? - Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi Áo chàm đưa buổi phân ly Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay... - Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già Mình đi có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son Mình về còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào Hồng Thái, mái đình cây đa? - Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu... Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê vơi đầy. Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi Thương nhau, chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Nhớ sao lớp học i tờ Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa... Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng dọi hòa bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây. Núi giăng thành lũy sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Ðất trời ta cả chiến khu một lòng. Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhớ từ Cao - Lạng, nhớ sang Nhị Hà Những đường Việt Bắc của ta Ðêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan Dân công đỏ đuốc những đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên. Tin vui chiến thắng trăm miền Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về Vui từ Ðồng Tháp, An Khê Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng Ai về ai có nhớ không? Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công Ðiều quân chiến dịch Thu Ðông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu. Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền Mười lăm năm ấy, ai quên Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. - Nước trôi nước có về nguồn Mây đi mây có cùng non trở về Mình về ta gửi về quê Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai Nâu này nhuộm áo không phai Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình Trâu về, xanh lại Thái Bình Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi - Nước trôi lòng suối chẳng trôi Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non Ðá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhòa Nứa mai mình gửi quê nhà Nước non đâu cũng là ta với mình Thái Bình đồng lại tươi xanh Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui. - Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng? Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng? Mình đi ta hỏi thăm chừng Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui? - Ðường về, đây đó gần thôi Hôm nay rời bản về nơi thị thành Nhà cao chẳng khuất non xanh Phố đông càng giục chân nhanh bước đường Ngày mai về lại thôn hương Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về Ngày mai rộn rã sơn khê Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng Phố phường như nấm như măng giữa trời Mái trường ngói mới đỏ tươi Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng Muối Thái Bình ngược Hà Giang Cày bừa Ðông Xuất, mía đường tỉnh Thanh Ai về mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Ðịnh, lụa hàng Hà Ðông Áo em thêu chỉ biếc hồng Mùa xuân ngày hội “lùng tùng” thêm tươi Còn non, còn nước, còn trời Bác Hồ thêm khỏe, cuộc đời càng vui. - Mình về với Bác đường xuôi Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi, rừng núi trông theo bóng Người... - Lòng ta ơn Bác đời đời Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song Ngàn năm xưa nước non Hồng Còn đây, ơn Bác nối dòng dài lâu Ngàn năm non nước mai sau Ðời đời ơn Bác càng sâu càng nồng. Cầm tay nhau hát vui chung Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô. 10-1954 Lại về Hà Nội ơi Hà Nội! Cay đắng tám năm ròng Quê ta thành đất giặc Ôi ngàn năm Thăng Long! Năm cửa ô rào thép Xe gíp bụi mù đường Nghênh ngang bầy mũ đỏ Tanh trường học nhà thương Còi hét ga Hàng Cỏ Ðêm này nó chạy đâu Bóng tối đè mái phố Bay đâu lũ diều hâu? Xé ruột lòng thao thức Giày đinh nghiến nửa đêm Tim đập dồn trống ngực Ai đấm cửa ngoài thềm? Ðầu phố ai kêu đó Ú ớ mấy thằng say Cuồng loạn quay đèn đỏ [1] Quỷ sứ cười đêm ngày! Hà Nội ơi Hà Nội! Ðến bao giờ bao giờ Hết đêm dài đen tối Ngày mai đỏ rực cờ? Hà Nội ta không mất Nước Hồ Gươm vẫn trong Ðêm đêm nhìn ảnh Cụ Mắt Người nhìn ấm lòng Hà Nội ta không khuất Hỏa Lò thêm Nhà Tiền Những đứa con vào chật Hà Nội ơi vùng lên! Giành lại bao năm tháng Giành lại mỗi người con Từng ngọn đèn tươi sáng Từng giọt nước lành ngon! Hà Nội ơi Hà Nội! Bao giờ
Giữa Thủ đôCụ Hồ về
Bộ độiTiến vào năm cửa ô? Về đến đây rồi Hà Nội ơi! Người đi kháng chiến tám năm trời Hôm nay về lại đây Hà Nội Ràn rụa vui lên ướt mắt cười Ðường quen phố cũ đây rồi Thủ đô tươi dậy mặt người như hoa Vườn hồng ngớt gió mưa qua Cờ hoa đỏ nắng mái nhà vàng sao Tay vui sóng vỗ rạt rào Người về kẻ đợi mừng nào mừng hơn? Biết bao sung sướng tủi hờn Trông nhau mà tưởng như hồn còn mơ! Hồ Gươm xanh thắm quanh bờ Thiên thu hồn Nước mong chờ bấy nay! Bây giờ đây lại là đây Quốc kỳ đỉnh Tháp sao bay mặt Hồ
10-1954
[1]Ðèn đỏ của những hộp đêm.
Nguồn: Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004
=
Wednesday, January 28, 2009
THẢO LUẬN THƠ VIỆT BẮC XIV
=
Phụ lục
Lời dẫn:
Ðể bạn đọc và bạn nghiên cứu đủ tài liệu tìm hiểu, bên cạnh sưu tập các bài báo trên, người sưu tầm in thêm sau đây tập thơ Việt Bắc theo văn bản 2 lần in thành sách riêng đầu tiên: bản in thứ nhất xong ngày 8.12.1954 và bản in thứ hai, xong ngày 15.4.1955. (NST) Tố Hữu Việt Bắc - tập thơ [Cùng một tác giả: Thơ (Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản 1946)] Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền Thuyền xô sóng dậy Sóng đẩy thuyền lên Thuyền ra khơi xa Gió căng buồm rộng Buồm là Lao động Gió là Ðảng ta Cá nước Tôi ở Vĩnh Yên lên Anh trên Sơn Cốt xuống Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi Anh là Vệ quốc quân Tôi là người cán bộ Hai đứa mỏi nhừ chân Nghỉ hơi ngồi một chỗ Gặp nhau mới lần đầu Họ tên nào có biết Anh người đâu, tôi đâu Gần nhau là thân thiết. Một thoáng lặng nhìn nhau Mắt đã tìm hỏi chuyện Ðôi bộ áo quần nâu Ðã âm thầm thương mến Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế! Tôi nhích lại gần anh Người bạn đường anh dũng Anh chiến sĩ hiền lành Tì tay trên mũi súng Anh kể chuyện tôi nghe Trận chợ Ðồn chợ Rã Ta đánh giặc chạy re Hai đứa cười ha hả Rồi Bông Lau, Ỷ La Ba trăm thằng tan xác Cành cây móc thịt da Thối inh rừng Việt Bắc Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước Mồm anh nở rất tươi Mặt anh vàng thắm lại Cánh đồng quê tháng mười Thơm nức mùa gặt hái Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già: Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau Bố đi đánh giặc còn lâu Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày Anh có nghe thấy không Ơi người anh Vệ quốc? Chắc có lúc lòng anh Nhớ nhà anh nhớ lắm Ơi người bạn hiền lành Mắt nhìn xa đăm đắm Trưa nay trên đèo cao Ta say sưa vài phút Chia nhau điếu thuốc lào Nào anh hút tôi hút Rồi lát nữa chia đôi Anh về xuôi tôi ngược Lòng anh và lòng tôi Mang nặng tình cá nước 1947 Phá đường Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng Ðèo Khế gió sang Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, nước làng em lo Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan Con ơi con ngủ cho ngoan Sang canh trăng lặn buổi tan mẹ về Trên đồi quê Trăng non mới hé Ðường thì dài, hố xẻ chưa sâu Chưa sâu thì cuốc cho sâu Có anh có chị cùng nhau ta đào Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Ðá lở đất nhào Nào anh bên trai Nào em bên nữ Ta thi nhau thử Ai nào hơn ai! Anh tài thì em cũng tài Ðường dài ta xẻ, sức dai ngại gì Ðường đi ngoắt ngoéo chữ chi Hố ngang hố dọc chữ i chữ tờ Thằng Tây mà cứ vẩn vơ Có hố này chờ chôn sống mày đây Ớ anh ớ chị nhanh tay Nhanh tay ta cuốc, chôn thây quân thù Ðêm nay gió rét trăng lu Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường... 1948 Bà mẹ Việt Bắc Ðêm nay trên sàn Bập bùng ngọn lửa Mé kề nguồn cơn Chuyện nhà chuyện cửa: Con mé có ba Trai hai gái một Gái gả chồng xa Trai còn đứa rốt Thằng hai ngày trước Trồn vào chiến khu Nó đi cứu nước Làm lính cụ Hồ. Một hôm lính lệ Theo thằng quan Châu Ðến nhà hoạnh họe Con mày đi đâu? Tôi sợ khiếp quá Lạnh chân lạnh tay Ðứng trơ như đá Hồn bay vía bay Ông Ké lắc đầu Một hai không biết Nó đỏ mũi trâu "Nói không, ông giết!" Nó giật mái tranh Nó tìm lục khắp Lấc láo nhìn quanh Như thằng ăn cắp Nó tung đĩa bát Nó đập héc vài [1] Nó gầm nó quát Ðá đít tạt tai Suốt ngày nó phá Nó chẳng thấy gì Nó trói thằng cả Lôi ông Ké đi Nó khảo nó tra Bố con nhừ tử Rồi tha ông già Còn con nó giữ Nó nộp cho Tây Ðày đâu không biết Biền biệt lâu ngày Nghe đồn nó chết Nó lành như đất Tội nghiệp con tôi Tây nó giết mất Con ơi, con ơi! Phên nan gió lọt lạnh lùng Ngọn lửa bập bùng mé khóc rưng rưng Nghẹn ngào chuyện cũ nửa chừng Từ đó ở nhà Gieo neo túng quá Hai ông bà già Vợ thằng con cả Rồi ông Ké mất Nhà lại còn hai Mẹ con quần quật Kiếm ăn qua ngày Bữa đói bữa no Chạy quanh chẳng đủ Ngày đôi bát ngô Lên rừng đào củ Tưởng rồi chết tất Biết đâu có ngày Trời còn có mắt Cụ Hồ về ngay Cụ Hồ ra lệnh Ðuổi Nhật đuổi Tây Cụ Hồ cho đánh Lấy hết châu này. Thằng Châu con chó Cúp đuôi chạy dài Mả bố nhà nó Nịnh Tây hết thời Ôi trời sướng quá Dân kéo về Châu Rầm rập hể hả Mổ bò mổ trâu Cờ treo đỏ chói Trên nóc trên cây Pí lè [2] inh ỏi Suốt đêm suốt ngày Cụ Hồ mở nước Chia thóc cho dân Tôi cũng lĩnh được Tôi cũng có phần Rồi ba tháng sau Thằng hai ngày trước Chẳng biết ở đâu Chạy về bất chợt Thoạt trông thấy nó Tôi chẳng biết ai Nó cao hơn bố Tôi chỉ bằng vai Bộ nó rõ oai Vai thì đeo súng Ngực tréo hai quai Áo thì thắt bụng Ðầu nó đội mũ Có cái sao vàng Trước nó lam lũ Bây giờ thấy sang Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi: Mé ơi đừng khóc Nước Ðộc lập rồi! Tôi bảo con tôi: Mày đi tao nhớ Tuổi đã lớn rồi Liệu mà cưới vợ Nó chỉ cười khì Vợ con gì gấp! Con còn phải đi Giữ gìn Ðộc lập! Ở chơi ít bữa Nó hát cả ngày Dọn nhà sửa cửa Xới vườn luôn tay Rồi nó xung phong Vào Nam đánh giặc Bao giờ giặc xong Lại về Việt Bắc! Tôi bảo: mày đi Mày lo cho khỏe Ðừng nghĩ lo gì Ở nhà có mé... Từ ấy đến nay Ngày đêm tôi khấn Tôi mong có ngày Nó về, thắng trận... Giữa thành phố trụi Ðến làm chi đây? Ta đã biết Ðô thành ta phá hết, lâu rồi! Tìm chi đây giữa đống gạch vôi Hoang tàn đổ nát? Ta đi trên đường đá rát Ðông lạnh ghê người Chiếc lá vèo rơi xuống cỏ Tường xiêu loét đỏ Mái gãy sườn đen Mảng buồng son kính vỡ rêu lên Ô cửa mắt tròn thăm thẳm Ai lên tiền tuyến đường muôn dặm? Lại ngồi dưới gốc di lăng ở đây còn có ai chăng với mình? - Có! - Ai nói đó? A! các anh chiến lũy! Sắt gỗ giăng thành Cả các anh Những di lăng, sấu, gạo Không tiếc lá cành xanh Vật ngang đường cản giặc Các anh nữa, những dòng chữ sắc - Thân cây tảng đá góc phòng - Phá tan tấn công Mùa Ðông của Pháp Bằng than bằng gạch bằng sơn Nét muôn tay hằn vạn đại căm hờn. Ta lại bước đi trên đường đá rát Gõ gót vui nghe tiếng hát Của mỗi hòn gạch nát mỗi cành khô: Ngày mai về lại Thủ đô Ngày mai sống lại từng mô đất này, Ngày mai xanh lại từng cây Ngày mai lại đẹp hơn rày hơn xưa, Mùa đông dài lạnh sẽ qua Phố ta lại dựng, nhà ta lại về, Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây từng giờ... 1947 Lên tây Bắc Sang nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay dao tay súng gạo đầy bao Chân cứng đạp rừng gai đá sắc Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo Quê hương anh đó gió sương mù Và rú rừng đây của chiến khu Cỏ ngập đồng khô mờ lối cũ Tan hoang làng cháy khói căm thù Anh đi tìm giặc, tôi tìm anh Người lính trường chinh áo mỏng manh Mỗi bước vàng theo đồng lúa chín Lửa vui từng mái nứa tươi xanh Po Tào Mường Khủa Mường Tranh Mường La Hát Lót chân anh đã từng Anh về cối lại vang rừng Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân Anh về sáo lại ái ân Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca Nhưng rồi khói từ xa gió thổi Núi kêu anh bộ đội lên đường Lại những ngày đi, vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương Ðên mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Ai biết trưa nay giữa bụi bờ Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ Tôi ngồi không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ 1948 Bao giờ hết giặc Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời Ðêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm Bà bủ không ngủ bà nằm Bao giờ thằng út về thăm một kỳ? Từ ngày nó bước ra đi Nó đi Giải Phóng đến khi nào về? Bao giờ hết giặc về quê? Ðêm đêm bà bủ nằm mê khấn thầm Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo càng nghĩ càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về Ðêm nay bộ đội rừng khe Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay Nó đi đánh giặc đêm này Bước run bước ngã bước lầy bước trơn Nhà còn ổ chuối lửa rơm Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì? Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con Bà bủ gan ruột bồn chồn Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi. 1948 Bầm ơi Ai về thăm mẹ quê ta Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm Bầm ơi có rét không bầm Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu Bầm ơi sớm sớm chiều chiều Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe Con đi trăm núi ngàn khe Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm Con đi đánh giặc mười năm Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi Con ra tiền tuyến xa xuôi Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền Nhớ thương con, bầm yên tâm nhé Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân Con đi xa cũng như gần Anh em đồng chí quây quần là con Bầm yêu con yêu luôn đồng chí Bầm quý con, bầm quý anh em Bầm ơi, liền khúc ruột mềm Có con có mẹ còn thêm đồng bào Con đi mỗi bước gian lao Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm Bao bà cụ từ tâm làm mẹ Yêu quý con như đẻ con ra Cho con nào áo nào quà Cho củi con sưởi cho nhà nghỉ ngơi Con đi, con lớn lên rồi Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con Nhớ con, bầm nhé đừng buồn Giặc tan, con lại về luôn với bầm. Mẹ già tóc bạc hoa râm Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con... 1948 Lượm Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè Cháu bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng - Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà! Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân - Thôi chào đồng chí! Cháu đi xa dần Cháu đi đường cháu Chú lên đường ra Ðến nay tháng sáu Chợt nghe tin nhà. Ra thế Lượm ơi! Một hôm nào đó Như bao hôm nào Chú đồng chí nhỏ Bỏ thư vào bao Vụt qua mặt trận Ðạn bay vèo vèo Thư đề "Thượng khẩn" Sợ chi hiểm nghèo Ðường quê vắng vẻ Lúa trổ đòng đòng Ca lô chú bé Nhấp nhô trên đồng Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một giòng máu tươi! Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng Lượm ơi, còn không? Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng 1949 Em bé Triều Tiên Em bé Triều Tiên ơi Mẹ của em đâu rồi? Tìm đâu mẹ của em Có ai đây mà hỏi Giặc bồn bề lửa khói Xác ai nằm ngổn ngang Bãi tuyết lặng quanh làng Phố đổ nhà hoang vắng Mẹ của em đấy ư Cái thân trắng lắc lư Ðầu giây treo lủng lẳng? Cha của em đấy ư Cái đầu lâu rũ tóc Máu chảy dài thân cọc? Không, không phải em ơi Mẹ của em đây rồi! Mẹ em đây người dân công tải đạn Mẹ em đây người nữ cứu thương Cha em đây giữa chiến trường Mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui Anh của em đã đến đây rồi Anh chí nguyện Con bác Mao đã đến Anh đã đến bên nôi em cháy dở Với cha em giết hết loài man rợ Cho mẹ em xây lại tổ mềm Cho em sướng cho em ca múa Trên đồng hoa bãi lúa Nhịp sóng vui muôn thuở của Triều Tiên Bé em ơi giữa súng rền Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều... 1951 Bắn Chúng ta ở đây Trên đầu chúng nó Ðại bác ta sau rèm tre nghểnh cổ Trông xuống khoanh đồi đỏ Ngon như một đĩa thịt bò tươi Dưới kia chúng nó đang cười Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết! Bao đồng chí của ta bay đã giết Chặt đầu cắm cọc phơi khô Chị em ta, bay căng thịt lõa lồ Con em ta bay quẳng chân vào lửa Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang! Chúng bay cười?
- Ðến giờ chưa đồng chí?Năm phút nữa? Sao mà lâu thế nhỉ! Anh pháo binh anh còn đợi chờ gì? Anh còn trông anh còn ngắm từng ly Anh sửa lại cho ngay nòng súng Chúc đồng chí bắn thẳng vào cho đúng Xé tan đồn nát xác chúng ra! Có tiếng kèn gì thổi dưới đồi xa Cờ chúng nó phất phơ đầu cột ấy Chúng nó chào cờ! Ôi lá cờ hôi tanh biết mấy Kéo bao lần qua máu của ta! Anh pháo binh anh chưa bắn đi à? Một phút nữa? Ðầu tôi cháy bùng lên như cục lửa Sướng bao nhiêu chốc nữa sẽ thành than Sẽ ra tro tất cả trại đồn tan Thây chúng nó tung lên từng miếng đỏ Ðầu chúng nó óc phụt ra ngoài sọ Ơi các anh xung kích dưới cỏ âm thầm Hãy sẵn sàng tay mác nhảy lên đâm Giết, bắt sống, không mống nào được thoát! Anh đại bác, tôi chờ anh để hát! 1948 Voi [3] Voi là voi ơi Voi yêu voi quý Voi nằm voi nghỉ Voi nghỉ voi chơi Voi là voi ơi Voi ta đầu thép Voi cong chân đẹp Voi nghểnh vòi cười Voi là voi ơi Voi con voi mẹ Voi nặng voi nhẹ Nào đi, trưa rồi! Voi là voi ơi Voi đi đánh nhé Voi gầm voi ré Voi xé tơi bời Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng Ta đi qua rừng Lau tre san sát Voi nghe ta hát Núi dội vang lừng Ta đi lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi khó nhọc Khó nhọc cũng trèo Con đường gieo neo Là đường Vệ Quốc Tha hồ đèo dốc Ta hò ta reo Voi là voi ơi Ðường đi dằng dặc Chông gai cũng mặc Ta vui ta cười Một tí nữa thôi Ðứng trên đầu địch Nhanh lên đến đích Tới rồi voi ơi! Hoan hô voi ta Hoan hô Vệ pháo Yêu voi cởi áo Lau cho voi nhà Nào Voi nào Vệ Ta quyết một lòng Voi hăng voi nhé Trận này lập công! 1948 Ðợi anh về (dịch thơ Simonov) Em ơi đợi anh về Ðợi anh hoài em nhé Mưa có rơi dầm dề Ngày có dài lê thê Em ơi em, cứ đợi. Dù tuyết rơi gió nổi Dù nắng cháy em ơi Bạn cũ có quên rồi Ðợi anh về em nhé! Tin anh dù vắng vẻ Lòng ai dù tái tê Chẳng mong chi người về Thì em ơi cứ đợi! Em ơi em, cứ đợi! Dù ai nhớ thương ai Chẳng mong có ngày mai Dù mẹ già con dại Hết mong anh trở lại Dù bạn viếng hồn anh Yên nghỉ nấm mồ xanh Nâng chén tình dốc cạn Thì em ơi mặc bạn Ðợi anh hoài em nghe Tin rằng anh sắp về! Ðợi anh anh lại về Trông chết cười ngạo nghễ Ai ngày xưa rơi lệ Hẳn cho sự tình cờ Nào có biết bao giờ Bởi vì em ước vọng Bởi vì em trông ngóng Tan giặc bước đường quê Anh của em lại về Vì sao anh chẳng chết? Nào bao giờ ai biết Có gì đâu em ơi Chỉ vì không ai người Biết như em chờ đợi. 1947 Bài ca của người du kích (dịch dân ca Nam Tư) - Anh ơi mau trở về quê Vợ anh vò võ một bề canh suông - Thương chồng em hãy theo chồng Ở đây chiến đấu, anh không thể về! - Anh ơi mau trở về quê Con anh nó khóc đỏ hoe cả tròng - Con tôi có khó giòng giòng Ở đây chiến đấu, cha không thể về! - Anh ơi mau trở về quê Mẹ anh già yếu bên hè chờ mong - Mẹ ơi đừng giận đừng trông Ở đây chiến đấu, con không thể về - Anh ơi mau trở về quê Nhà anh giặc đốt đã loe lửa hồng - Cháy nhà thì cháy cam lòng Ở đây chiến đấy, tôi không thể về! - Anh ơi mau trở về quê Ðời anh chết trẻ làm gì uổng thân - Tôi dù chết mất tuổi xuân Miễn là thắng lợi, được phần tự do 1948 Cho đời tự do (dịch dân ca Nam Tư) Chuyện rằng ở xứ Coóc-đon Có người mẹ đến mồ con sụt sùi Khóc rằng: Con của mẹ ơi Con vàng con ngọc bỏ đời đi đâu Ðể cho bố khóc mẹ sầu Ðất ơi trả lại con đầu cho ta Con nghe thấy tiếng mẹ già - Mẹ ơi, đừng khóc nữa mà héo hon Ðất đen phủ nặng mình con Nhưng giòng nước mắt mẹ còn nặng hơn Mẹ đừng khóc bên mồ con nữa Trở về lo nhà cửa mẹ ơi Nhắn cho nhà biết một lời Rằng con mẹ chết cho đời tự do 1949 A-Liêu-sa nhớ chăng (dịch thơ Simonov) A-liêu-sa nhớ chăng Những con đường Smô-lăng Mưa dầm dề dai dẳng Các chị em nhọc nhằn từng chặng Ngực gầy ôm vò sữa che mưa Thầm lau nước mắt tiễn đưa Lạy trời phù hộ cho ta lên đường Thân gái cũng can trường chiến sĩ Yêu quê hương hùng vĩ Như lòng xưa chứa chan Cồn xanh quanh quất đường quan Bước đi trăm dặm mà ngàn lệ sa Xóm làng trắng bãi tha ma Chừng đây hồn nước non Nga tụ về Chừng đây sau dậu rào quê Tổ tiên giang cánh chở che cho mình Rủ nhau về họp cầu xin Thương đàn con cháu chẳng tin có trời Ta đã biết bạn ơi đất nước Ðâu chỉ nhà ta được nâng niu Mà làng quê những sớm chiều Với cây giá gỗ thân yêu bên mồ A-liêu-sa nhớ Bô-ri-xốp Tiếng khóc than xé ruột nhà nào Lệ người thiếu nữ tuôn trào Và người mẹ góa mái đầu hoa râm Áo tang trắng lạnh ướt đầm Biết làm sao nói biết làm sao khuây Xót lòng ta tính sao đây Nhưng người mẹ đã đoán ngay nhủ mình: - Các con ơi buổi chiến tranh Ði đi mẹ đợi các anh trở về Chúng tôi đợi các anh về! Rừng xanh vọng tiếng đồng quê nhắn lời Rừng xưa quê cũ xa rồi Ðêm đêm còn vọng giọng lời thiết tha Bạn với ta xông pha lửa đạn Nguy bao phen thoát nạn sống còn Lòng càng vui với nước non Nước non Nga ta yêu dấu Ta vui với đời ta chiến đấu Trên đất đau thương xương máu gia đình Ta vui vì mẹ Nga sinh Vui vì một sớm chiến chinh lên đường Có người vợ rất yêu thương Hôn ta ba bận, lệ thường tiễn đưa 1949 Hành khúc (dịch thơ Aragon) Giữa hồi phản phúc Tối đen tù ngục Suối đã đục giòng Chỉ lệ còn trong Tai nghe những tiếng ré điên cuồng Những lời tán tỉnh, lời quay quắt Giặc xanh [4] đến với lũ diều hâu Che ánh mặt trời, đen mặt đất Chúng bảo ta : Rồi bay đói khát Và giằng tay cướp bát cơm ta Chúng bảo ta: Rồi bay chết rét Và dân ta ăn tuyết nằm băng Chúng bảo ta: Phải quăng đốt sách Chủ đi đâu, chó xích theo sau Chúng bảo ta: Cúi đầu tôi mọi Phải phục tùng không nói năng chi Chúng bảo ta: Tất cả phải quỳ Những đứa khỏe thì đi sang Ðức Chúng bảo ta: Tên này vào ngục Những tên kia tống cổ đi đày Nhưng chúng quên còn những người ngay Lòng căm giận và bao người trẻ Nhưng chúng quên quyết tâm bao kẻ Mất hay còn một lẽ mà thôi Chúng ta như ào ào gió lốc Chúng ta như lửa bốc trong lò Phất cờ lên dành lại tự do Không liều lĩnh, không hy sinh vô ích Chúng ta đi đánh quân thù địch Chúng ta đi cứu nước non ta! Ðuổi đuổi đi những thằng chủ mới Quân giặc cướp, giết người, quân phản bội Phân rõ trắng đen, phân rõ chính tà Phải xứng danh Tổ quốc chúng ta! Phải giành lại từ tay gian ác Từng trái đồi ngọn núi vườn hoa Phải giành lại từ tay quân giặc Từng cửa nhà mồ mả ông cha Bao đồng cỏ ngàn xưa đẫm máu Và cả trời hiền hậu bao la Mây không vẩn giặc không còn bóng Tất tất cả kêu lên giải phóng Những gì ta yêu phải cứu thoát ra Tự mình ta, tự mình ta. 1950 Nếu thầy mẹ chết (dịch thơ Ethel Rosenberg) Nếu thầy mẹ chết, mai sau Các con sẽ hiểu vì đâu bỗng ngừng Ðời xuân tiếng hát nửa chừng Sách còn để mở, tay dừng giữa trang Việc còn để đó dở dang Vì đâu nửa kiếp lỡ làng bỗng rơi! Cũng đừng khóc nữa con ơi Vì đâu giá họa những lời vu oan Vì đâu nước mắt chảy tràn Vì đâu vùi dập muôn vàn bất công Nỗi niềm ngay thẳng trắng trong Mai sau người sẽ rõ lòng mẹ cha! Mai sau đời sẽ hát ca Mai sau cây cỏ nở hoa trên mồ Ðời ta phơi phới tự do Hòa bình thân ái tắt lò chiến tranh Các con đem tuổi xuân xanh Cần lao xây dựng lòng thành vui tươi Tin yêu giá trị con người Mà thầy mẹ giữ trọn đời cho con
1953
[1]Chảo trâu.[2]Kèn ở miền ngược.[3]Ðại bác.[4]Giặc Ðức mặc quần áo xanh.
==
Phụ lục
Lời dẫn:
Ðể bạn đọc và bạn nghiên cứu đủ tài liệu tìm hiểu, bên cạnh sưu tập các bài báo trên, người sưu tầm in thêm sau đây tập thơ Việt Bắc theo văn bản 2 lần in thành sách riêng đầu tiên: bản in thứ nhất xong ngày 8.12.1954 và bản in thứ hai, xong ngày 15.4.1955. (NST) Tố Hữu Việt Bắc - tập thơ [Cùng một tác giả: Thơ (Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản 1946)] Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền Thuyền xô sóng dậy Sóng đẩy thuyền lên Thuyền ra khơi xa Gió căng buồm rộng Buồm là Lao động Gió là Ðảng ta Cá nước Tôi ở Vĩnh Yên lên Anh trên Sơn Cốt xuống Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi Anh là Vệ quốc quân Tôi là người cán bộ Hai đứa mỏi nhừ chân Nghỉ hơi ngồi một chỗ Gặp nhau mới lần đầu Họ tên nào có biết Anh người đâu, tôi đâu Gần nhau là thân thiết. Một thoáng lặng nhìn nhau Mắt đã tìm hỏi chuyện Ðôi bộ áo quần nâu Ðã âm thầm thương mến Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế! Tôi nhích lại gần anh Người bạn đường anh dũng Anh chiến sĩ hiền lành Tì tay trên mũi súng Anh kể chuyện tôi nghe Trận chợ Ðồn chợ Rã Ta đánh giặc chạy re Hai đứa cười ha hả Rồi Bông Lau, Ỷ La Ba trăm thằng tan xác Cành cây móc thịt da Thối inh rừng Việt Bắc Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước Mồm anh nở rất tươi Mặt anh vàng thắm lại Cánh đồng quê tháng mười Thơm nức mùa gặt hái Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già: Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau Bố đi đánh giặc còn lâu Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày Anh có nghe thấy không Ơi người anh Vệ quốc? Chắc có lúc lòng anh Nhớ nhà anh nhớ lắm Ơi người bạn hiền lành Mắt nhìn xa đăm đắm Trưa nay trên đèo cao Ta say sưa vài phút Chia nhau điếu thuốc lào Nào anh hút tôi hút Rồi lát nữa chia đôi Anh về xuôi tôi ngược Lòng anh và lòng tôi Mang nặng tình cá nước 1947 Phá đường Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng Ðèo Khế gió sang Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, nước làng em lo Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan Con ơi con ngủ cho ngoan Sang canh trăng lặn buổi tan mẹ về Trên đồi quê Trăng non mới hé Ðường thì dài, hố xẻ chưa sâu Chưa sâu thì cuốc cho sâu Có anh có chị cùng nhau ta đào Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Ðá lở đất nhào Nào anh bên trai Nào em bên nữ Ta thi nhau thử Ai nào hơn ai! Anh tài thì em cũng tài Ðường dài ta xẻ, sức dai ngại gì Ðường đi ngoắt ngoéo chữ chi Hố ngang hố dọc chữ i chữ tờ Thằng Tây mà cứ vẩn vơ Có hố này chờ chôn sống mày đây Ớ anh ớ chị nhanh tay Nhanh tay ta cuốc, chôn thây quân thù Ðêm nay gió rét trăng lu Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường... 1948 Bà mẹ Việt Bắc Ðêm nay trên sàn Bập bùng ngọn lửa Mé kề nguồn cơn Chuyện nhà chuyện cửa: Con mé có ba Trai hai gái một Gái gả chồng xa Trai còn đứa rốt Thằng hai ngày trước Trồn vào chiến khu Nó đi cứu nước Làm lính cụ Hồ. Một hôm lính lệ Theo thằng quan Châu Ðến nhà hoạnh họe Con mày đi đâu? Tôi sợ khiếp quá Lạnh chân lạnh tay Ðứng trơ như đá Hồn bay vía bay Ông Ké lắc đầu Một hai không biết Nó đỏ mũi trâu "Nói không, ông giết!" Nó giật mái tranh Nó tìm lục khắp Lấc láo nhìn quanh Như thằng ăn cắp Nó tung đĩa bát Nó đập héc vài [1] Nó gầm nó quát Ðá đít tạt tai Suốt ngày nó phá Nó chẳng thấy gì Nó trói thằng cả Lôi ông Ké đi Nó khảo nó tra Bố con nhừ tử Rồi tha ông già Còn con nó giữ Nó nộp cho Tây Ðày đâu không biết Biền biệt lâu ngày Nghe đồn nó chết Nó lành như đất Tội nghiệp con tôi Tây nó giết mất Con ơi, con ơi! Phên nan gió lọt lạnh lùng Ngọn lửa bập bùng mé khóc rưng rưng Nghẹn ngào chuyện cũ nửa chừng Từ đó ở nhà Gieo neo túng quá Hai ông bà già Vợ thằng con cả Rồi ông Ké mất Nhà lại còn hai Mẹ con quần quật Kiếm ăn qua ngày Bữa đói bữa no Chạy quanh chẳng đủ Ngày đôi bát ngô Lên rừng đào củ Tưởng rồi chết tất Biết đâu có ngày Trời còn có mắt Cụ Hồ về ngay Cụ Hồ ra lệnh Ðuổi Nhật đuổi Tây Cụ Hồ cho đánh Lấy hết châu này. Thằng Châu con chó Cúp đuôi chạy dài Mả bố nhà nó Nịnh Tây hết thời Ôi trời sướng quá Dân kéo về Châu Rầm rập hể hả Mổ bò mổ trâu Cờ treo đỏ chói Trên nóc trên cây Pí lè [2] inh ỏi Suốt đêm suốt ngày Cụ Hồ mở nước Chia thóc cho dân Tôi cũng lĩnh được Tôi cũng có phần Rồi ba tháng sau Thằng hai ngày trước Chẳng biết ở đâu Chạy về bất chợt Thoạt trông thấy nó Tôi chẳng biết ai Nó cao hơn bố Tôi chỉ bằng vai Bộ nó rõ oai Vai thì đeo súng Ngực tréo hai quai Áo thì thắt bụng Ðầu nó đội mũ Có cái sao vàng Trước nó lam lũ Bây giờ thấy sang Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi: Mé ơi đừng khóc Nước Ðộc lập rồi! Tôi bảo con tôi: Mày đi tao nhớ Tuổi đã lớn rồi Liệu mà cưới vợ Nó chỉ cười khì Vợ con gì gấp! Con còn phải đi Giữ gìn Ðộc lập! Ở chơi ít bữa Nó hát cả ngày Dọn nhà sửa cửa Xới vườn luôn tay Rồi nó xung phong Vào Nam đánh giặc Bao giờ giặc xong Lại về Việt Bắc! Tôi bảo: mày đi Mày lo cho khỏe Ðừng nghĩ lo gì Ở nhà có mé... Từ ấy đến nay Ngày đêm tôi khấn Tôi mong có ngày Nó về, thắng trận... Giữa thành phố trụi Ðến làm chi đây? Ta đã biết Ðô thành ta phá hết, lâu rồi! Tìm chi đây giữa đống gạch vôi Hoang tàn đổ nát? Ta đi trên đường đá rát Ðông lạnh ghê người Chiếc lá vèo rơi xuống cỏ Tường xiêu loét đỏ Mái gãy sườn đen Mảng buồng son kính vỡ rêu lên Ô cửa mắt tròn thăm thẳm Ai lên tiền tuyến đường muôn dặm? Lại ngồi dưới gốc di lăng ở đây còn có ai chăng với mình? - Có! - Ai nói đó? A! các anh chiến lũy! Sắt gỗ giăng thành Cả các anh Những di lăng, sấu, gạo Không tiếc lá cành xanh Vật ngang đường cản giặc Các anh nữa, những dòng chữ sắc - Thân cây tảng đá góc phòng - Phá tan tấn công Mùa Ðông của Pháp Bằng than bằng gạch bằng sơn Nét muôn tay hằn vạn đại căm hờn. Ta lại bước đi trên đường đá rát Gõ gót vui nghe tiếng hát Của mỗi hòn gạch nát mỗi cành khô: Ngày mai về lại Thủ đô Ngày mai sống lại từng mô đất này, Ngày mai xanh lại từng cây Ngày mai lại đẹp hơn rày hơn xưa, Mùa đông dài lạnh sẽ qua Phố ta lại dựng, nhà ta lại về, Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá, ngày về sẽ xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây từng giờ... 1947 Lên tây Bắc Sang nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay dao tay súng gạo đầy bao Chân cứng đạp rừng gai đá sắc Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá ngụy trang reo với gió đèo Quê hương anh đó gió sương mù Và rú rừng đây của chiến khu Cỏ ngập đồng khô mờ lối cũ Tan hoang làng cháy khói căm thù Anh đi tìm giặc, tôi tìm anh Người lính trường chinh áo mỏng manh Mỗi bước vàng theo đồng lúa chín Lửa vui từng mái nứa tươi xanh Po Tào Mường Khủa Mường Tranh Mường La Hát Lót chân anh đã từng Anh về cối lại vang rừng Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân Anh về sáo lại ái ân Ðêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca Nhưng rồi khói từ xa gió thổi Núi kêu anh bộ đội lên đường Lại những ngày đi, vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương Ðên mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Ai biết trưa nay giữa bụi bờ Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ Tôi ngồi không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ 1948 Bao giờ hết giặc Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời Ðêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm Bà bủ không ngủ bà nằm Bao giờ thằng út về thăm một kỳ? Từ ngày nó bước ra đi Nó đi Giải Phóng đến khi nào về? Bao giờ hết giặc về quê? Ðêm đêm bà bủ nằm mê khấn thầm Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo càng nghĩ càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về Ðêm nay bộ đội rừng khe Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay Nó đi đánh giặc đêm này Bước run bước ngã bước lầy bước trơn Nhà còn ổ chuối lửa rơm Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì? Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con Bà bủ gan ruột bồn chồn Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi. 1948 Bầm ơi Ai về thăm mẹ quê ta Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm Bầm ơi có rét không bầm Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu Bầm ơi sớm sớm chiều chiều Thương con bầm chớ lo nhiều bầm nghe Con đi trăm núi ngàn khe Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm Con đi đánh giặc mười năm Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi Con ra tiền tuyến xa xuôi Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền Nhớ thương con, bầm yên tâm nhé Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân Con đi xa cũng như gần Anh em đồng chí quây quần là con Bầm yêu con yêu luôn đồng chí Bầm quý con, bầm quý anh em Bầm ơi, liền khúc ruột mềm Có con có mẹ còn thêm đồng bào Con đi mỗi bước gian lao Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm Bao bà cụ từ tâm làm mẹ Yêu quý con như đẻ con ra Cho con nào áo nào quà Cho củi con sưởi cho nhà nghỉ ngơi Con đi, con lớn lên rồi Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con Nhớ con, bầm nhé đừng buồn Giặc tan, con lại về luôn với bầm. Mẹ già tóc bạc hoa râm Chiều nay chắc cũng nghe thầm tiếng con... 1948 Lượm Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè Cháu bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng - Cháu đi liên lạc Vui lắm chú à Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà! Cháu cười híp mí Má đỏ bồ quân - Thôi chào đồng chí! Cháu đi xa dần Cháu đi đường cháu Chú lên đường ra Ðến nay tháng sáu Chợt nghe tin nhà. Ra thế Lượm ơi! Một hôm nào đó Như bao hôm nào Chú đồng chí nhỏ Bỏ thư vào bao Vụt qua mặt trận Ðạn bay vèo vèo Thư đề "Thượng khẩn" Sợ chi hiểm nghèo Ðường quê vắng vẻ Lúa trổ đòng đòng Ca lô chú bé Nhấp nhô trên đồng Bỗng lòe chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một giòng máu tươi! Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng Lượm ơi, còn không? Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng 1949 Em bé Triều Tiên Em bé Triều Tiên ơi Mẹ của em đâu rồi? Tìm đâu mẹ của em Có ai đây mà hỏi Giặc bồn bề lửa khói Xác ai nằm ngổn ngang Bãi tuyết lặng quanh làng Phố đổ nhà hoang vắng Mẹ của em đấy ư Cái thân trắng lắc lư Ðầu giây treo lủng lẳng? Cha của em đấy ư Cái đầu lâu rũ tóc Máu chảy dài thân cọc? Không, không phải em ơi Mẹ của em đây rồi! Mẹ em đây người dân công tải đạn Mẹ em đây người nữ cứu thương Cha em đây giữa chiến trường Mặt đen khói đạn, chặn đường giặc lui Anh của em đã đến đây rồi Anh chí nguyện Con bác Mao đã đến Anh đã đến bên nôi em cháy dở Với cha em giết hết loài man rợ Cho mẹ em xây lại tổ mềm Cho em sướng cho em ca múa Trên đồng hoa bãi lúa Nhịp sóng vui muôn thuở của Triều Tiên Bé em ơi giữa súng rền Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều... 1951 Bắn Chúng ta ở đây Trên đầu chúng nó Ðại bác ta sau rèm tre nghểnh cổ Trông xuống khoanh đồi đỏ Ngon như một đĩa thịt bò tươi Dưới kia chúng nó đang cười Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết! Bao đồng chí của ta bay đã giết Chặt đầu cắm cọc phơi khô Chị em ta, bay căng thịt lõa lồ Con em ta bay quẳng chân vào lửa Lúa ngô ta bay cướp về cho ngựa Xóm làng ta bay đốt cháy tan hoang! Chúng bay cười?
- Ðến giờ chưa đồng chí?Năm phút nữa? Sao mà lâu thế nhỉ! Anh pháo binh anh còn đợi chờ gì? Anh còn trông anh còn ngắm từng ly Anh sửa lại cho ngay nòng súng Chúc đồng chí bắn thẳng vào cho đúng Xé tan đồn nát xác chúng ra! Có tiếng kèn gì thổi dưới đồi xa Cờ chúng nó phất phơ đầu cột ấy Chúng nó chào cờ! Ôi lá cờ hôi tanh biết mấy Kéo bao lần qua máu của ta! Anh pháo binh anh chưa bắn đi à? Một phút nữa? Ðầu tôi cháy bùng lên như cục lửa Sướng bao nhiêu chốc nữa sẽ thành than Sẽ ra tro tất cả trại đồn tan Thây chúng nó tung lên từng miếng đỏ Ðầu chúng nó óc phụt ra ngoài sọ Ơi các anh xung kích dưới cỏ âm thầm Hãy sẵn sàng tay mác nhảy lên đâm Giết, bắt sống, không mống nào được thoát! Anh đại bác, tôi chờ anh để hát! 1948 Voi [3] Voi là voi ơi Voi yêu voi quý Voi nằm voi nghỉ Voi nghỉ voi chơi Voi là voi ơi Voi ta đầu thép Voi cong chân đẹp Voi nghểnh vòi cười Voi là voi ơi Voi con voi mẹ Voi nặng voi nhẹ Nào đi, trưa rồi! Voi là voi ơi Voi đi đánh nhé Voi gầm voi ré Voi xé tơi bời Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng Ta đi qua rừng Lau tre san sát Voi nghe ta hát Núi dội vang lừng Ta đi lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi khó nhọc Khó nhọc cũng trèo Con đường gieo neo Là đường Vệ Quốc Tha hồ đèo dốc Ta hò ta reo Voi là voi ơi Ðường đi dằng dặc Chông gai cũng mặc Ta vui ta cười Một tí nữa thôi Ðứng trên đầu địch Nhanh lên đến đích Tới rồi voi ơi! Hoan hô voi ta Hoan hô Vệ pháo Yêu voi cởi áo Lau cho voi nhà Nào Voi nào Vệ Ta quyết một lòng Voi hăng voi nhé Trận này lập công! 1948 Ðợi anh về (dịch thơ Simonov) Em ơi đợi anh về Ðợi anh hoài em nhé Mưa có rơi dầm dề Ngày có dài lê thê Em ơi em, cứ đợi. Dù tuyết rơi gió nổi Dù nắng cháy em ơi Bạn cũ có quên rồi Ðợi anh về em nhé! Tin anh dù vắng vẻ Lòng ai dù tái tê Chẳng mong chi người về Thì em ơi cứ đợi! Em ơi em, cứ đợi! Dù ai nhớ thương ai Chẳng mong có ngày mai Dù mẹ già con dại Hết mong anh trở lại Dù bạn viếng hồn anh Yên nghỉ nấm mồ xanh Nâng chén tình dốc cạn Thì em ơi mặc bạn Ðợi anh hoài em nghe Tin rằng anh sắp về! Ðợi anh anh lại về Trông chết cười ngạo nghễ Ai ngày xưa rơi lệ Hẳn cho sự tình cờ Nào có biết bao giờ Bởi vì em ước vọng Bởi vì em trông ngóng Tan giặc bước đường quê Anh của em lại về Vì sao anh chẳng chết? Nào bao giờ ai biết Có gì đâu em ơi Chỉ vì không ai người Biết như em chờ đợi. 1947 Bài ca của người du kích (dịch dân ca Nam Tư) - Anh ơi mau trở về quê Vợ anh vò võ một bề canh suông - Thương chồng em hãy theo chồng Ở đây chiến đấu, anh không thể về! - Anh ơi mau trở về quê Con anh nó khóc đỏ hoe cả tròng - Con tôi có khó giòng giòng Ở đây chiến đấu, cha không thể về! - Anh ơi mau trở về quê Mẹ anh già yếu bên hè chờ mong - Mẹ ơi đừng giận đừng trông Ở đây chiến đấu, con không thể về - Anh ơi mau trở về quê Nhà anh giặc đốt đã loe lửa hồng - Cháy nhà thì cháy cam lòng Ở đây chiến đấy, tôi không thể về! - Anh ơi mau trở về quê Ðời anh chết trẻ làm gì uổng thân - Tôi dù chết mất tuổi xuân Miễn là thắng lợi, được phần tự do 1948 Cho đời tự do (dịch dân ca Nam Tư) Chuyện rằng ở xứ Coóc-đon Có người mẹ đến mồ con sụt sùi Khóc rằng: Con của mẹ ơi Con vàng con ngọc bỏ đời đi đâu Ðể cho bố khóc mẹ sầu Ðất ơi trả lại con đầu cho ta Con nghe thấy tiếng mẹ già - Mẹ ơi, đừng khóc nữa mà héo hon Ðất đen phủ nặng mình con Nhưng giòng nước mắt mẹ còn nặng hơn Mẹ đừng khóc bên mồ con nữa Trở về lo nhà cửa mẹ ơi Nhắn cho nhà biết một lời Rằng con mẹ chết cho đời tự do 1949 A-Liêu-sa nhớ chăng (dịch thơ Simonov) A-liêu-sa nhớ chăng Những con đường Smô-lăng Mưa dầm dề dai dẳng Các chị em nhọc nhằn từng chặng Ngực gầy ôm vò sữa che mưa Thầm lau nước mắt tiễn đưa Lạy trời phù hộ cho ta lên đường Thân gái cũng can trường chiến sĩ Yêu quê hương hùng vĩ Như lòng xưa chứa chan Cồn xanh quanh quất đường quan Bước đi trăm dặm mà ngàn lệ sa Xóm làng trắng bãi tha ma Chừng đây hồn nước non Nga tụ về Chừng đây sau dậu rào quê Tổ tiên giang cánh chở che cho mình Rủ nhau về họp cầu xin Thương đàn con cháu chẳng tin có trời Ta đã biết bạn ơi đất nước Ðâu chỉ nhà ta được nâng niu Mà làng quê những sớm chiều Với cây giá gỗ thân yêu bên mồ A-liêu-sa nhớ Bô-ri-xốp Tiếng khóc than xé ruột nhà nào Lệ người thiếu nữ tuôn trào Và người mẹ góa mái đầu hoa râm Áo tang trắng lạnh ướt đầm Biết làm sao nói biết làm sao khuây Xót lòng ta tính sao đây Nhưng người mẹ đã đoán ngay nhủ mình: - Các con ơi buổi chiến tranh Ði đi mẹ đợi các anh trở về Chúng tôi đợi các anh về! Rừng xanh vọng tiếng đồng quê nhắn lời Rừng xưa quê cũ xa rồi Ðêm đêm còn vọng giọng lời thiết tha Bạn với ta xông pha lửa đạn Nguy bao phen thoát nạn sống còn Lòng càng vui với nước non Nước non Nga ta yêu dấu Ta vui với đời ta chiến đấu Trên đất đau thương xương máu gia đình Ta vui vì mẹ Nga sinh Vui vì một sớm chiến chinh lên đường Có người vợ rất yêu thương Hôn ta ba bận, lệ thường tiễn đưa 1949 Hành khúc (dịch thơ Aragon) Giữa hồi phản phúc Tối đen tù ngục Suối đã đục giòng Chỉ lệ còn trong Tai nghe những tiếng ré điên cuồng Những lời tán tỉnh, lời quay quắt Giặc xanh [4] đến với lũ diều hâu Che ánh mặt trời, đen mặt đất Chúng bảo ta : Rồi bay đói khát Và giằng tay cướp bát cơm ta Chúng bảo ta: Rồi bay chết rét Và dân ta ăn tuyết nằm băng Chúng bảo ta: Phải quăng đốt sách Chủ đi đâu, chó xích theo sau Chúng bảo ta: Cúi đầu tôi mọi Phải phục tùng không nói năng chi Chúng bảo ta: Tất cả phải quỳ Những đứa khỏe thì đi sang Ðức Chúng bảo ta: Tên này vào ngục Những tên kia tống cổ đi đày Nhưng chúng quên còn những người ngay Lòng căm giận và bao người trẻ Nhưng chúng quên quyết tâm bao kẻ Mất hay còn một lẽ mà thôi Chúng ta như ào ào gió lốc Chúng ta như lửa bốc trong lò Phất cờ lên dành lại tự do Không liều lĩnh, không hy sinh vô ích Chúng ta đi đánh quân thù địch Chúng ta đi cứu nước non ta! Ðuổi đuổi đi những thằng chủ mới Quân giặc cướp, giết người, quân phản bội Phân rõ trắng đen, phân rõ chính tà Phải xứng danh Tổ quốc chúng ta! Phải giành lại từ tay gian ác Từng trái đồi ngọn núi vườn hoa Phải giành lại từ tay quân giặc Từng cửa nhà mồ mả ông cha Bao đồng cỏ ngàn xưa đẫm máu Và cả trời hiền hậu bao la Mây không vẩn giặc không còn bóng Tất tất cả kêu lên giải phóng Những gì ta yêu phải cứu thoát ra Tự mình ta, tự mình ta. 1950 Nếu thầy mẹ chết (dịch thơ Ethel Rosenberg) Nếu thầy mẹ chết, mai sau Các con sẽ hiểu vì đâu bỗng ngừng Ðời xuân tiếng hát nửa chừng Sách còn để mở, tay dừng giữa trang Việc còn để đó dở dang Vì đâu nửa kiếp lỡ làng bỗng rơi! Cũng đừng khóc nữa con ơi Vì đâu giá họa những lời vu oan Vì đâu nước mắt chảy tràn Vì đâu vùi dập muôn vàn bất công Nỗi niềm ngay thẳng trắng trong Mai sau người sẽ rõ lòng mẹ cha! Mai sau đời sẽ hát ca Mai sau cây cỏ nở hoa trên mồ Ðời ta phơi phới tự do Hòa bình thân ái tắt lò chiến tranh Các con đem tuổi xuân xanh Cần lao xây dựng lòng thành vui tươi Tin yêu giá trị con người Mà thầy mẹ giữ trọn đời cho con
1953
[1]Chảo trâu.[2]Kèn ở miền ngược.[3]Ðại bác.[4]Giặc Ðức mặc quần áo xanh.
==
THẢO LUẬN THƠ VIỆT BẮC XIII
==
48. Trọng Anh
Ðồng bào miền Nam với thơ Tố Hữu
Qua nhiều chuyến công tác cơ sở ở Liên khu 5, tôi thấy đồng bào rất hoan nghênh và ham thích thơ Tố Hữu. Từ anh bộ đội, anh cán bộ đến nhân dân lao động đều quen với thơ Tố Hữu, ngâm thơ Tố Hữu. Ở một vùng sau lưng địch tỉnh Quảng Nam, trên một quãng đường dài không quá 5 cây số, đầu trên đầu dưới là đồn bốt địch, đoạn giữa chi chít những lô cốt địch, đồng bào trong thôn rủ nhau đi phá đường. Trong khi ra sức đào, cuốc, đập, họ hát đủ bài, đủ điệu. Xen vào, có giọng lanh lảnh vang lên: Thằng Tây mà cứ vẩn vơ, Có hố này chờ chôn sống mày đây. Ớ anh ớ chị nhanh tay, Nhanh tay ta cuốc chôn thây quân thù. Hết anh này đến chị kia, mỗi người tiếp nhau mỗi đoạn trong cả bài thơ “Phá đường”. Họ ngâm, hò, hát, quên cả mệt nhọc. Họ khúc khích cười trong câu hát: Hì hà hì hục, Lục cục lào cào, Anh cuốc em cuốc, Ðá lở đất nhào… Rồi nhường cho một chị kết thúc bằng giọng hò khoan trong trẻo: Ðêm nay gió rét trăng lu, Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường. Cũng ở vùng sau lưng địch, có những anh du kích đánh giặc rất tài, sản xuất rất giỏi, luôn luôn đọc lên “Bài ca của người du kích” mà Tố Hữu đã dịch của dân ca Nam-tư. Hôm ấy, một đêm trăng, tôi đi họp với mấy tổ du kích ở Ð.H.. Vừa đến địa điểm đã nghe mấy câu đối đáp theo điệu giã gạo: Anh ơi mau trở về quê, Vợ anh vò võ một bề canh suông. Tức thì một giọng khác đáp lại: Thương chồng em hãy theo chồng, Ở đây chiến đấu, anh không thể về! Mỗi người lắp vào một câu. Hết ngâm đến hò, hết hò đến hố, bài thơ dứt, lại được lắp lại nhiều lần. Anh em nói: - Khi nào mệt, hát bài này lên là đánh giặc cứ hăng như thường. Năm 1952, xã T. H. đang ra sức cứu đói. Một đội văn công về công tác ở xã. Bài “Bầm ơi!” do đội văn công trình bày làm cho đồng bào cảm xúc mạnh. Những giọt nước mắt chảy ướt gò má của các mẹ, các chị. Chưa dứt cuộc biểu diễn đã có người đến xin và nhờ chép hộ bài thơ. Qua hết xóm này đến thôn kia, trên chuyến về, đội công tác đã được nghe lại những câu thơ thốt ra từ miệng các mẹ: Con đi trăm núi nghìn khe, Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm, Con đi đánh giặc mười năm, Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi Một bà cụ nói với chúng tôi: - Rõ ràng là con tôi cũng nhớ, cũng hiểu nỗi khổ của cha mẹ, của bà con xóm làng, nhưng mà nước tan thì nhà phải mất, cho nên nó gắng công đánh giặc, thì mình cũng phải ra sức tăng gia sản xuất. Ngày 16-5-1955 là ngày bộ đội ta hoàn thành việc chuyển quân, tập kết ở Liên khu 5. Trước đó mấy hôm, tôi xuống công tác ở một xã. Ðồng bào ngỏ ý xin những bài thơ nói về Hồ Chủ tịch. Ðồng bào muốn có thơ nói về Bác để mừng Sinh nhật Bác một cách thân thiết, kín đáo. Tôi chép bài “Sáng tháng 5” tặng đồng bào. Khi nhận được bài thơ, nét mặt mọi người tươi hẳn lên: Bác bảo đi là đi! Bác bảo thắng là thắng! Việt Nam có Bác Hồ, Thế giới có Stalin. Việt Nam phải tự do, Thế giới phải hòa bình! Chúng con chiến đấu hy sinh, Tấm lòng son sắt đinh ninh lời thề Ðồng bào nói: - Ðúng y như vậy, chúng tôi xin coi đó là một lời thề. Cho đến bây giờ, tuy đồng bào sống dưới chế độ phát xít của Mỹ - Diệm, tôi tin rằng lời thơ vẫn ghi trong lòng mọi người. Một số bài thơ khác như “Em bé Triều Tiên”, “Nếu thầy mẹ chết”, được học sinh rất thích. Họ dùng làm bài học, biểu diễn trong các buổi họp, liên hoan, để nâng cao lòng yêu nước, chí căm thù giặc. Những bài “Ðợi anh về”, “Bắn”, được phổ biến rộng rãi. Cũng như những đồng chí chiến sĩ của Quân đội Liên Xô, người cán bộ và chiến sĩ của ta ở miền Nam đã ghi bài “Ðợi anh về” trong cuốn sổ tay hoặc học thuộc lòng. Một bạn văn nghệ đem phổ nhạc bài thơ ấy và trình bày trong nhiều đêm văn nghệ; bài ấy được quần chúng hoan nghênh và xin chép lại. Sau ngày hòa bình được lập lại, bài “Ta đi tới” là bài đồng bào biết nhiều hơn cả. Ở đâu cũng nghe đọc, nghe ngâm, cũng chuyền tay nhau chép lại.
Trên những chuyến đò dọc, trên sông Thu Bồn, ở Quảng Nam, anh lái đò say sưa cất giọng hát: Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng ta vẫn vững nhu kiềng ba chân. Dù ai rào dậu ngăn sân, Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ. Ðến đầu tháng 9-1954, đối phương tiếp thu toàn tỉnh Quảng Nam, anh chị em cán bộ bề bộn công việc. Thế mà đi đến đâu, đồng bào cũng "yêu cầu đọc cho nghe bài ‘Ta đi tới’ rồi hãy đi", hoặc năn nỉ: "Anh chép lại cho chúng tôi bài thơ ấy." Ngày tạm giao càng đến gần, đồng bào càng học bài thơ cho thật thuộc. Tôi nhớ khi tôi còn công tác ở Phòng thông tin Quy Nhơn, đồng bào thường đến mua tập thơ Việt Bắc hay xin chép lại bài “Ta đi tới”. Tập thơ Việt Bắc gửi vào không đủ bán. Riêng một ngày đầu, đồng bào chen nhau mua hết 200 cuốn. Người ở Cực Nam ra mua, người ở Quảng Nam, Quảng Ngãi vào mua. Họ mua đủ thứ sách báo, nhưng cuối cùng thì "yêu cầu đồng chí cho tập thơ Việt Bắc". Trong các đêm phát thanh, người nghe thường yêu cầu chúng tôi trình bày nhiều lần bài “Ta đi tới”. Họ bảo: "Càng nghe càng thấm thía". Ðến khi biết chúng tôi để đĩa hát, có người đến yêu cầu mua cho được đĩa hát đó. Một chị từ Cực Nam ra thăm bà con ở Bình định, ghé ngủ nhờ ở đồn công an, mượn tập thơ Việt Bắc đọc suốt một đêm. Sáng ngày, chị ấy nài mua lại cho được tập thơ. Chị trao đổi ý kiến với các đồng chí công an về tập thơ Việt Bắc và cuối cùng đọc thuộc một đoạn dài trong bài “Ta đi tới”: …Bắc Nam liền một biển Lòng ta không giới tuyến Lòng ta chung một Cụ Hồ Lòng ta chung một thủ đô Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam. Chị nói: - Thật là đúng y như lòng dạ chúng tôi. Ðó là lòng người dân miền Nam cảm thông với tác giả tập thơ Việt Bắc.
Tôi nghĩ rằng: Hiện nay miền Nam là vùng đối phương tạm thời kiểm soát, nhưng trong ấy ngoài này vẫn là một, sống chung trên một lãnh thổ, không sức nào chia cắt được. Dù hiện nay, bè lũ Mỹ - Diệm thực hiện một chế độ phát xít đầu độc nhân dân miền Nam bằng một thứ văn hóa ngu dân, dâm ô, đồi trụy, thì những bài thơ của Tố Hữu nói đúng tâm tình và nguyện vọng tha thiết của nhân dân, vẫn giữ mãi trong lòng đồng bào miền Nam, có một sức mạnh thúc giục mọi người ra sức đấu tranh để mau làm cho Nam-Bắc "liền một biển" và đất nước Việt Nam không có giới tuyến ngăn đôi. Nhân dân, 7.8.1955 49. Hoàng Trung Thông
Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc Cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc là cuộc phê bình rộng lớn đầu tiên trong phong trào văn nghệ nước ta. Ðã mấy tháng nay nhiều cuộc họp trong trường học, trong xí nghiệp, trong đơn vị bộ đội, thảo luận về thơ Tố Hữu. Hàng trăm bài phê bình từ khắp nơi gửi về báo Nhân dân và báo Văn nghệ. Ðã đến lúc chúng ta có thể rút ra những nhận định chính về tập thơ Việt Bắc đồng thời đánh giá những ưu khuyết điểm của cuộc phê bình vừa qua. I. Nhận định về tập thơ Việt Bắc Yêu nước trên cơ sở giai cấp: Lòng yêu nước là tình cảm nổi bật trong thơ Tố Hữu ngót hai chục năm nay từ khi anh mới bước chân vào con đường cách mạng và con đường thơ ca. Trong tập thơ Việt Bắc, lòng yêu nước mạnh mẽ đó có những phát triển mới. Ðó là giai đoạn thơ Tố Hữu đi sâu vào đời sống thực của quần chúng lao động. Lòng yêu nước trong thơ anh có một nội dung giai cấp rõ rệt.
Nhận định này về căn bản trái ngược với ý kiến một số bài phê bình cho rằng bản chất thơ Tố Hữu là bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa ái quốc trong tập thơ Việt Bắc là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản. Ðây là điểm mấu chốt của bao nhiêu ý kiến khác nhau. Con người mới hay không mới, thực hay không thực, tình cảm yếu đuối hay lành mạnh, tư tưởng sai hay đúng, tất cả bấy nhiêu vấn đề của một số bài phê bình nêu ra đều xoay xung quanh vấn đề lập trường giai cấp. Qua tập thơ Việt Bắc, ta nhận thấy rõ lòng yêu nước và lòng yêu nhân dân là một. Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người lao động và chiến đấu của đất nước. Hầu hết những nhân vật được biểu hiện lên trong tập thơ đều là những người nông dân lao động, từ anh bộ đội nghỉ chân trên lưng đèo Nhe, anh pháo binh vác voi ra trận, bà mẹ trên nhà sàn Việt Bắc đến bà bủ nằm ổ chuối khô, hay chị phụ nữ phá đường. Ngay từ đầu kháng chiến, trong khối toàn dân đoàn kết giết giặc, Tố Hữu đã nhận rõ nông dân là lực lượng trụ cột. Anh đem hết nhiệt tình biểu hiện họ lên thành những nhân vật chủ yếu của thơ anh. Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo.
Tình cảm của nhân vật thơ anh được biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc chính là người nông dân nghèo khổ Bữa đói bữa no Chạy ăn chẳng đủ Ngày hai bát ngô Lên rừng đào củ Vào bộ đội được sự rèn luyện của Ðảng của giai cấp công nhân, những người nông dân mặc áo lính đó chan chứa tình yêu nước, yêu nhân dân. Quyền lợi giai cấp và quyền lợi dân tộc nhất trí, đời họ gắn chặt với cách mạng và kháng chiến. Từ nhân dân mà ra, họ anh dũng vì nhân dân mà chiến đấu. Gian khổ bao nhiêu cũng quyết tâm vượt qua. Càng gian khổ càng hăng hái tin tưởng. Con đường gieo neo Là đường Vệ quốc Tha hồ đèo dốc Ta hò ta reo Chỉ có một quân đội như thế mới lấy thân làm giá súng đầu bị lỗ châu mai, anh dũng hy sinh không bờ bến. Những tình cảm người bộ đội trong thơ Tố Hữu không phải máy móc, một chiều chỉ biết đạn lửa chiến trường, một đi không trở lại. Khi Tố Hữu nói: Chắc có lúc lòng anh Nhớ nhà anh nhớ lắm là Tố Hữu đã thấu hiểu nỗi lòng người chiến sĩ. Tình cảm đó diễn tả sâu sắc trong bài “Bầm ơi!” Ở đây tình yêu gia đình, yêu đồng chí, yêu nước đã quyện lấy nhau. Phải chăng đó là "những tình cảm nhỏ bé của những nhân vật bộ đội nhỏ bé?" hay chính là những nét tình cảm sâu sắc cao quý của người chiến sĩ Việt Nam đã được biểu hiện rõ rệt trong thơ Tố Hữu. Những bà mẹ lao động Việt Nam cũng được Tố Hữu biểu hiện lên với lòng kính yêu đằm thắm. Ðó là những bà mẹ nông dân nghèo khổ, cần cù, chất phác, thắt lưng buộc bụng nuôi con.
Ðó là những bà mẹ ở hậu phương lòng luôn luôn hướng về tiền tuyến, theo rọi từng bước chân của những đứa con đi giết giặc. Bà mẹ Việt Bắc, bà bầm, bà bủ, những hình ảnh bà mẹ nông dân nghèo khổ đã được vẽ lên bằng những nét đậm đà không thể nào phai nhạt. Chính vì biểu hiện lòng yêu nước thiết tha của những người lao động nghèo khổ mà lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu thật vững chắc và có sức rung động mạnh mẽ. Lòng yêu giai cấp và lòng yêu nước đó kết hợp chặt chẽ trong lòng yêu lãnh tụ. Tố Hữu đã viết nhiều về Hồ Chủ tịch và đã gợi lên những tình cảm sâu sắc của nhân dân đối với lãnh tụ. Bà mẹ Việt Bắc thiết tha yêu kính Cụ Hồ là vì Cụ Hồ mở nước, chia thóc cho dân. Anh chiến sĩ Ðiện Biên ra trận lòng hướng về Bác là vì biết rằng: Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày. Người dân Hà Nội đêm đêm nhìn ảnh Cụ, mặt Người nhìn ấm lòng, và: Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Hồ Chủ tịch là quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ, lời của Bác là lời non nước, tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau. Người đã gắn chặt với lòng chị dân công tải đạn, anh thợ má vàng thuốc pháo và anh chiến sĩ xung kích diệt đồn. Lãnh tụ từ quần chúng mà ra, kết tinh cao nhất trí tuệ thông minh của quần chúng. Những hình ảnh về lãnh tụ trong bài “Sáng tháng Năm” có khi còn trừu tượng, khó khăn chưa biểu hiện được những tình cảm kính yêu giản dị mà thắm thiết của quần chúng. Nhưng không phải vì vậy mà cho rằng lãnh tụ ở đây đã bị "thần thánh hóa", "tách rời ra khỏi quần chúng", "làm cho quần chúng bé nhỏ đi". Cũng như nói Bác Hồ ung dung yên ngựa bên đường suối reo không phải là "đẩy lùi lãnh tụ vào quá khứ". Lòng yêu nước và yêu giai cấp, yêu lãnh tụ trong thơ Tố Hữu nhất định không thể là lòng yêu nước của giai cấp tiểu tư sản, mà chính là lòng yêu nước của giai cấp công nhân. Nhưng một số anh em lại cho rằng: Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu căn bản là đúng, "thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm về ý nghĩa chính trị", thơ Tố Hữu "tuyên truyền chính sách tốt" thật, nhưng đó chỉ mới là đề tài, là chính sách, là chính trị. Một người "tiểu tư sản cách mạng" cũng có thể viết đúng về nông dân, về lãnh tụ, về quốc tế v.v... Cũng những anh em đó nói: Ðiều quan trọng là phải xét xem cái "hồn thơ" cái "điệu tâm hồn" của thi sĩ đã là của giai cấp chưa? Ðó mới thật là cốt tủy của thơ, là chỗ rung động sâu kín nhất mà nhà thơ không thể tự dối mình hay dối người được. Ðó là sự chân thành của người cầm bút. Thực tế khách quan (chính sách, chính trị) có thể tốt đúng, nhưng điệu tâm hồn của nhà thơ vẫn có thể yếu đuối lệch lạc như thường. Ðiệu tâm hồn mới thật quyết định nội dung tình cảm của nhà thơ. Mới nghe thì lý luận đó có vẻ tinh tế và cũng dễ xuôi tai. Nhưng đi sâu mới thấy đó là một lý luận chủ quan, siêu hình nấp sau những danh từ "hồn thơ" "điệu tâm hồn" rất bóng bảy, rất kêu, dễ choáng tai, nhưng rất lầm lạc. Thứ lý luận này đã lấy điệu cảm xúc riêng của mỗi thi sĩ (hừng hực, bừng bừng...) thay thế cho lập trường và quan điểm giai cấp. Nó tách rời hiện thực khách quan phản ảnh trong tác phẩm với tình cảm chủ quan của thi sĩ, và coi tình cảm chủ quan là quyết định. Hoàng Cầm cho rằng: "thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm về ý nghĩa chính trị trong tập thơ Việt Bắc" nhưng lại cũng cho rằng "hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ yếu đuối". Chúng ta càng khó hiểu khi Lê Ðạt cho rằng thơ Tố Hữu "giải thích chính sách tốt" (tức là nguyện vọng cao nhất của công nông) biểu hiện "chính sách có rung cảm" và "được số đông trong quần chúng hoan nghênh" mà lại là không phải là thơ công nông, chỉ là mức tiểu tư sản cách mạng! Ðối với các đồng chí đó, thì có lẽ chính trị, chính sách, và thực tế đều chỉ là cái vỏ mà tất cả các thi sĩ đều có thể biểu hiện lên giống nhau. Ðiệu tâm hồn mới thật là tình cảm thực của thi sĩ. Mà điệu tâm hồn của Tố Hữu là "rơi rớt nhiều tính chất ngậm ngùi buồn buồn ít hành động". Bản chất thơ Tố Hữu vì thế là bản chất tiểu tư sản cách mạng. Các đồng chí đó đã cắt đứt chính sách với tình cảm, lập trường tư tưởng với tâm hồn, lấy ngọn làm gốc, lấy hiện tượng làm bản chất. Từ sai lầm căn bản đó một số bài phê bình càng ngày càng đi xa hơn: Bà mé vừa kể chuyện vừa khóc rưng rưng cũng là tiểu tư sản, cảnh phá đường giữa đêm gió rét trăng lu cũng là tiểu tư sản. Rồi “Việt Bắc”, “Lại về” và cả “Ta đi tới” nữa cũng đều là những cuộc hẹn hò, những lời gặp gỡ, những tình cảm lạc quan tiểu tư sản! Bản chất tiểu tư sản là gì? Dù là tiểu tư sản cách mạng đi nữa thì bản chất giai cấp tiểu tư sản vẫn là bấp bênh, dao động, khi thuận chiều thì bốc anh hùng rơm, khi khó khăn thì nghiêng ngả, buồn nản hoài nghi; Cái gốc của nó vẫn là tự do. Chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy quần chúng, lấy cái lợi ích của cá nhân mình mà đánh giá cả thế giới. Phải chăng thơ Tố Hữu chứa đựng bấy nhiêu yếu tố của bản chất tiểu tư sản? Trái lại, từ căn bản giai cấp công nhân đang lãnh đạo cách mạng, Tố Hữu đã nhìn người nhìn cảnh sâu sắc. Những nét hình ảnh của quê hương đất nước được Tố Hữu biểu hiện lên, nhất là trong bài “Ta đi tới” và “Việt Bắc”, đều mang sức sống mãnh liệt của dân tộc, của những người lao động làm ra lịch sử. Những con người trong tập thơ Việt Bắc đều luôn luôn lo lắng đến vận mạng của giai cấp và dân tộc, gắn chặt quyền lợi của giai cấp và dân tộc, đời sống riêng và vận mệnh chung trong một tình cảm tin tưởng và lạc quan cách mạng. Bà bủ nằm nhớ con suy nghĩ: Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con là đã hiểu sự khác nhau giữ hai chế độ cũ và mới mặc dầu nông thôn chưa phát động. Anh bộ đội ra trận diệt thù: Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi. đã hiểu rằng giết giặc cũng là đập tan được một ách nặng đè trên đầu giai cấp. Ðến người mẹ trong bài “Ðời đời nhớ ông”: Ngày mai dân có ruộng cày Ngày mai độc lập ơn này ơn ai Thì ý thức giai cấp đã rõ rệt. Ruộng đất và độc lập gắn chặt vào nhau trong tình cảm người nông dân lao động. Chính từ căn bản giai cấp đó mà trong toàn bộ tập thơ Việt Bắc toát lên một tinh thần tự hào dân tộc rất cao. Lòng tự hào dân tộc đó biểu hiện sảng khoái nhất trong hai bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” và “Ta đi tới”. Ðó không thể là lòng tự hào của tiểu tư sản mà nhất định là lòng tự hào của một giai cấp đang giữ chắc được đất nước và cầm chắc vận mạng của mình. Giai cấp tính và đảng tính trong thơ không phải chỉ là có một số bài thơ nói về công nhân hay về Ðảng. Chúng ta rất yêu cầu các nhà thơ viết về công nhân và Ðảng. Nhưng điều trước tiên, điều cần thiết là tư tưởng tình cảm trong thơ phải có lập trường của giai cấp và của Ðảng. Tố Hữu chưa có một bài thơ về công nhân, nhưng tư tưởng công nhân đã chỉ đạo cho tình cảm thơ ca của Tố Hữu. Tư tưởng công nhân đã soi rọi cho tư tưởng, tình cảm của những nhân vật trong thơ Tố Hữu. Trong tập thơ Việt Bắc thỉnh thoảng còn một ít tình cảm bùi ngùi (“Bao giờ hết giặc”), heo hút (“Lên Tây Bắc”), lạnh lẽo (“Những thành phố trụi”) v.v... Những tình cảm này một phần nào đã hạn chế bản chất hiện thực của thơ anh, nhưng nó không đến độ làm cho tập thơ biến chất thành tiếng nói của tình cảm "tiểu tư sản cách mạng". Cái khuyết điểm chủ yếu của tập thơ Việt Bắc là ở chỗ cuộc đấu tranh chống phong kiến chưa được biểu hiện lên rõ, nhất là trong những bài thơ sau này của Tố Hữu. Tố Hữu nhìn thấy sâu sắc cuộc đời của người nông dân dưới ách đế quốc và lòng yêu nước thiết tha của họ. Nhưng trong thực tế cách mạng Việt Nam, cuộc đấu tranh chống phong kiến không thể nào thiếu sót được trong đời sống của người nông dân lao động. Tố Hữu hiểu nhiều cảnh đời đói cực của người nông dân nhưng chưa thông cảm hết nỗi khổ của người nông dân trong cái tròng tô tức. Anh thấy kẻ thù đế quốc rất rõ và anh đã tập trung ngọn lửa căm thù vào nó. Nhưng đối với giai cấp địa chủ anh chưa nhìn thấy rõ hình thù và chưa đập thẳng vào nó. Không phải chúng ta đòi hỏi Tố Hữu phải có những bài thơ về cải cách ruộng đất từ những ngày đầu kháng chiến. Nhưng đến một giai đoạn phát triển của cách mạng, khi vấn đề tô tức đặt ra, nhất là khi có cuộc phát động quần chúng cải cách ruộng đất thì lòng căm thù đế quốc và căm thù địa chủ gắn chặt vào nhau trong thực tế tình cảm những người nông dân lao động Việt Nam. Tố Hữu biểu hiện những người chiến sĩ Ðiện Biên ngày đêm anh dũng hy sinh không dựa trên cơ sở tình cảm đó, là một thiếu sót. Ngay cả trong bài “Việt Bắc” là bài thơ Tố Hữu gửi gắm nhiều tình cảm thiết tha mặn nồng nhất của mình với người nông dân lao động miền núi, những hình ảnh, những tình cảm về cải cách ruộng đất cũng không có. Ðó là khuyết điểm chủ yếu của tập thơ Việt Bắc. Chính sách và nghệ thuật: Tố Hữu tha thiết đem nghệ thuật thơ ca phục vụ chính sách của Ðảng. Chính sách không phải là những mệnh lệnh chính trị ngăn cản người nghệ sĩ nói lên tình cảm chân thực của mình và thực tế của cuộc sống. Chính sách vừa là lý trí nhưng cũng vừa là tình cảm. Chính sách là đường lối kết tinh lại từ nhiều mặt của sự sống. Nhà thơ không phải tự khép chặt mình trong những khẩu hiệu của chính sách mà biết nhìn thấy chính sách trong cuộc đấu tranh dồi dào và sâu sắc của quần chúng. Ðọc thơ Tố Hữu người ta ít nghĩ đến chính sách, nhưng thực tế thì tư tưởng của chính sách, tình cảm của chính sách vào sâu trong chúng ta.
Cuộc đời của bà mẹ, hình ảnh chị phá đường hay em bé liên lạc, những cảnh vác voi ra trận hay cuộc chiến đấu anh dũng trên chiến trường đều là những nhân vật, sự việc và hình ảnh biểu hiện lên từ sự sống. Những con người thực, việc thực đó đã lần lượt hiện lên trong tập thơ Việt Bắc, có máu có thịt, và có suy nghĩ, có tâm hồn. Cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động không còn là những danh từ trừu tượng khô khan, mà đã thành những hình ảnh rất thực. Bàn tay cấy mạ, tiếng hát ru con, ổ chuối khô, vạt áo tứ thân phai bạc, những tiếng nói câu cười, nỗi đau thắt ruột hay niềm tin tưởng vui tươi cùng với những khóm tre, bụi lúa, con đường gốc đa, tất cả những hình ảnh thực của cuộc sống đã được nhào nặn lại để sáng tạo nên những bài thơ chứa chan tình cảm: “Cá nước”, “Bầm ơi”, “Phá đường”, “Lượm”, “Voi”... Tố Hữu không từ chính sách suy luận ra nhân vật và sự việc. Anh từ cuộc sống dựng lên những con người, những sự việc tự nó bật lên những tư tưởng, tình cảm có chính sách. Nhiều bài phê bình đều nói thơ Tố Hữu giàu tình cảm: Mến thương và thắm thiết. Giàu tình cảm, thực chất cũng là giàu sự sống. Ngay cả những bài thơ sau này của Tố Hữu “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, “Ta đi tới”, “Việt Bắc”, mà nhiều người cho là những bài thơ có nhiều tư tưởng tính đánh dấu sự lớn lên của thơ Tố Hữu, thì tính chất trữ tình cũng rất mạnh rất sắc. Có thể nói những bài thơ đó mang nhiều tư tưởng tính mà ít sự sống được không? Có thể nói những bài thơ tổng hợp nhiều mặt của sự sống rồi nâng lên trình độ tư tưởng rộng lớn là kém hiện thực hơn những bài thơ nói một góc cạnh của tình cảm hay một mẩu của cuộc đời không? Không nên so sánh như vậy và cũng không nên coi đó là một khuyết điểm của người làm thơ. Vấn đề chính là tìm xem từ trong những bài thơ đó sự sống đã được biểu hiện lên đến mức độ nào, cảm xúc, tình cảm, tư tưởng của bài thơ có bắt nguồn từ thực tế cuộc sống hay không, hay chỉ là những khẩu hiệu chính trị. Thơ trữ tình không phải chỉ gợi lên những tình cảm trong phạm vi đời sống bình thường. Ngày nay trong cuộc đấu tranh chính trị gay gắt chúng ta còn cần có những bài thơ thay cho những bài diễn văn bốc lửa.
Chúng ta vừa muốn có những bài thơ đi sâu vào một mẩu nhỏ của cuộc sống, chúng ta vừa thèm đọc những bài thơ rộng rãi bao la "có những cái vỗ cánh hùng mạnh của tư tưởng". Tập thơ Việt Bắc đã có cả hai phương diện đó. Nhưng trong một số bài thơ của Tố Hữu sự sống còn nghèo, sức rung cảm chưa mạnh, tình cảm của nhân vật chưa gắn chặt với thực tế cuộc sống. Những bài này đã hạn chế phần nào tính chất hiện thực của tập thơ Việt Bắc. Tình cảm nhớ thương con trong bà bủ rất thực nhưng chưa gắn được với tình yêu nước mạnh mẽ cũng rất thực trong lòng bà mẹ cố nông. Người chiến sĩ đi lên Tây Bắc lặng lẽ quá. Hình ảnh anh hiện lên rất đẹp giữa núi rừng. Nhưng tình cảm anh đối với quê hương đất nước ra sao? - chưa được nhà thơ biểu hiện. Bước chân nhà thơ vắng vẻ giữa thành phố trụi chưa hòa nhịp được lời ca xây dựng mai sau. Tình cảm của nhà thơ với nỗi lòng người chiến sĩ trong bài “Bắn” cũng vẫn còn xa nhau dù hai người cùng đứng bên nòng súng nhằm thẳng vào mặt quân thù. Những bài thơ phản ảnh bước chuyển vĩ đại của kháng chiến sau này của Tố Hữu đều là những bài thơ mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Thực tế đấu tranh vĩ đại bên ngoài đã xô vào thơ Tố Hữu những luồng sóng lớn. Ðó là những bài thơ tổng hợp sự sống trong những nét tình cảm điển hình.
Nhưng nó còn "ít những hình ảnh dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong cảnh cụ thể đang sống trước mắt chúng ta". Nhất là bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”. Nhưng không phải vì vậy mà tập thơ Việt Bắc đã rơi vào chủ nghĩa công thức nặng nề như một số nhà phê bình đã phân tích. Những nhà phê bình này muốn thơ phải xuất phát từ thực tế cuộc sống và không rơi vào lối biểu hiện một chiều. Ðó là một yêu cầu rất đúng. Nhưng từ yêu cầu đó mà bắt Tố Hữu phải biểu hiện tâm trạng bà bủ từ năm 1947 "trằn trọc suốt đêm là vì căm thù thằng địa chủ cướp mất ruộng", bắt Tố Hữu làm bài thơ “Ta đi tới” ngay khi hiệp định Giơ-ne vừa ký kết xong phải biểu hiện được "lòng tin cụ thể vào từng bước đấu tranh gay go gian khổ" như Hoàng Cầm, thì thật là những yêu cầu quá xa thực tế. Hình thức dân tộc: Thơ Tố Hữu gần gũi với quần chúng, rung động sâu sắc trong lòng quần chúng vì nội dung tư tưởng tình cảm của nó, và một mặt nữa, vì ngôn ngữ và nhịp điệu của thơ Tố Hữu nằm trong truyền thống thơ ca của dân tộc. Cốt cách dân tộc hiện lên rất rõ. Càng là những bài lấy lời của quần chúng biểu hiện lên tâm trạng và đời sống của quần chúng, Tố Hữu càng chú ý đến thể thơ dân tộc, âm điệu dân tộc (“Phá đường”, “Bà mẹ Việt Bắc”, “Bầm ơi”, “Voi”, “Việt Bắc”, “Ðời đời nhớ ông”, v.v...) Và cũng vì vậy tình cảm thơ Tố Hữu càng chan chứa thiết tha mang được cái giản dị tự nhiên của tâm hồn quần chúng. Thơ Tố Hữu vì vậy rất dễ vào quần chúng. Và ai đã đọc thơ Tố Hữu nếu không nhớ cả bài cũng nhớ vài câu.
Có những bài thơ đã thành tiếng hát ru em của các mẹ già, em nhỏ ở nông thôn. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thơ Tố Hữu vang xa trong những làng xóm nhỏ tít mũi Cà Mau hay những trạm liên lạc xa xôi trên đỉnh núi Cực Nam Trung Bộ. Ở các nông thôn Liên khu 4 giữa các cuộc nhóm họp cán bộ thường đọc thơ Tố Hữu. Anh du kích ở địch hậu, anh bộ đội ở đồn biên phòng đều coi thơ Tố Hữu là người bạn chiến đấu. Tố Hữu thường dùng nhiều nhất là thể thơ lục bát mà câu thơ lục bát của anh rất giàu có. Nó vừa kết hợp được điệu lục bát rất cổ của bình dân Nhà em con bế con bồng, Em cũng theo chồng đi phá đường quan vừa phảng phất lối đối từng vế của những câu thơ cổ điển trong Kiều hay Chinh phụ: Anh về cối lại vang rừng Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân. Và đây là một câu thơ mà một chữ "thương" láy đi láy lại tạo nên cái dáng điệu chỉ thơ ta mới có: Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một thương ông thương mười. Trừ một số câu thơ kém mà nhiều bạn đã trích trong bài “Lại về” phần lớn là câu thơ lục bát của Tố Hữu đều uyển chuyển. Những câu thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu tiếp tục được cái truyền thống của ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam. Trong những thể thơ bốn chữ, năm chữ Tố Hữu cũng có nhiều sáng tạo. “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm”, “Voi”, cùng một thể thơ mà mỗi bài có những nhịp điệu khác nhau do sự việc, hình ảnh và tình cảm của từng bài quyết định. Ðọc những bài thơ đó, ta phảng phất nhớ lại những bài vè kể chuyện của quần chúng. Nhưng ở đây, Tố Hữu đã phát triển và nâng cao nhịp điệu và ngôn ngữ lên, làm cho những bài thơ đó còn giữ hơi vè mà đã thành thơ phong phú, súc tích. Những bài thơ của Liên Xô, Nam Tư... đã được Tố Hữu Việt Nam hóa thành những bài thơ rất quen thuộc với nhịp điệu tình cảm của nhân dân ta. Tuy nhiên, hình thức trong những bài “Những thành phố trụi”, “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” hãy còn lúng túng chưa ổn định. Tố Hữu muốn phá vỡ thể thơ, uốn cho nhịp thơ rung động theo nhịp tình cảm của mình. Nhưng những bài thơ đó của anh có nhiều chỗ chưa đạt. Chúng ta mong đợi Tố Hữu cố gắng nâng cao hơn nữa tiếng nói và hình thức dân tộc trong thơ anh. Sự chuyển biến về hình thức nghệ thuật dân tộc rất rõ rệt trong thơ Tố Hữu từ tập thơ trước kháng chiến đến tập Việt Bắc. Sự chuyển biến đó chứng tỏ Tố Hữu ngày càng đi sâu vào con đường phục vụ quần chúng, đi sâu vào con đường hiện thực của thơ ca. Vì nói đến chủ nghĩa hiện thực không thể không nói đến hình thức dân tộc. II. Vài nhận xét về cuộc phê bình Lần đầu tiên chúng ta mở một cuộc phê bình rộng lớn về một tác phẩm văn nghệ. Cuộc phê bình đã được sự hưởng ứng nhiệt liệt của bạn đọc các nơi và sự tham gia đông đảo của giới văn nghệ. Trên báo chí, trong các hội nghị, chúng ta cũng đã đề cao được tinh thần mạnh dạn phát biểu ý kiến. Chúng ta cũng có thể nói: trong cuộc thảo luận lần này ngòi bút phê bình của chúng ta lần đầu cũng đã đụng chạm đến những vấn đề lớn của thơ ca: Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không? Giai cấp tính trong tập thơ Việt Bắc. Nhân vật điển hình trong tập thơ Việt Bắc, v.v... Ngòi bút phê bình không còn vờn quanh vấn đề, phát biểu ý kiến hời hợt, trốn tránh những góc cạnh gay go nữa. Nhiều bài báo, nhiều ý kiến phát biểu có khi thống nhất có khi trái ngược nhau đều có thể giúp cho tác giả và những người làm văn nghệ suy nghĩ thêm được nhiều vấn đề. Ðó là thắng lợi tốt đẹp của cuộc phê bình. Tuy vậy, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc vừa qua bộc lộ nhiều khuyết điểm lớn, mà ban Văn của Hội có nhiệm vụ hướng dẫn cuộc phê bình phải chịu trách nhiệm chính. Phê bình văn nghệ tức là đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ, không thể tách rời khỏi đấu tranh chính trị trước mắt của chúng ta. Trong khi mở ra cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc ban Văn đã không nắm vững được nguyên tắc đó để đề ra những mục đích yêu cầu thích đáng. Cuộc thảo luận kéo dài đã nhiều khi rơi vào những tranh cãi vụn vặt, chiếm rất nhiều thì giờ và trang báo. Ban Văn đã không hướng dẫn cho cuộc thảo luận đi vào những ưu điểm và thiếu sót của tập thơ, trực tiếp giúp ích cho những nhiệm vụ đấu tranh hiện thời của nhân dân ta.
Bọn đế quốc và tay sai đang muốn thổi vào phong trào văn nghệ của chúng ta một luồng gió độc: "Văn nghệ tách rời chính trị". - Một số đồng chí chúng ta trong khi phê bình tập thơ Việt Bắc ít nhiều đã rơi vào khuynh hướng đó, ban Văn không kịp thời đề ra và tích cực đấu tranh lại. Ðó là khuyết điểm chủ yếu của cuộc phê bình. Ngoài ra còn một khuyết điểm nữa không kém phần quan trọng là: thái độ phê bình. Thái độ phê bình trong văn nghệ cũng không thể nào khác được thái độ phê bình và tự phê bình trong đời sống chính trị hằng ngày của chúng ta. Phải biết phân biệt bạn, thù, kiên quyết đấu tranh chống lại những tư tưởng phản nhân dân nhưng thành khẩn và ái hộ [1] vạch ra những sai lầm của bạn và tìm hết sức biểu dương những cái hay cái đúng. Cái nguyên tắc căn bản đó, nhiều lúc cuộc phê bình đã bỏ rơi mất. Nhiều bài phê bình, nhiều ý kiến phát biểu đã rơi vào lối tranh cãi tư sản lỗi thời, có khi đã dùng những lời độc ác hoặc thô bỉ để mạt sát lại ý kiến của người khác. Ðó không phải là thái độ xứng đáng của những ngòi bút phê bình văn học của chúng ta. Thái độ đó đã biểu lộ nhiều lần trong các cuộc phê bình, nhưng ban Văn không kịp thời uốn nắn và hướng dẫn, tưởng rằng cứ để phát biểu lung tung như vậy mới là đảm bảo "tự do tư tưởng". Những khuyết điểm trên đây đã hạn chế nhiều những kết quả tốt đẹp của cuộc phê bình. III. Kết luận Cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc đã mang lại cho chúng ta những bài học lớn. Bài học đó là con đường đi của thơ Tố Hữu, con đường phục vụ lợi ích của cách mạng của quần chúng. Người làm thơ phải đem hết nhiệt tình đi vào thực tế cuộc sống, biểu hiện lên những con người chính yếu của xã hội, những con người lao động và chiến đấu trong những tình cảm chân thực và sâu sắc. Người làm thơ phải nắm vững chính sách của Ðảng, lấy ánh sáng của chính sách Ðảng soi rọi vào cuộc sống và tình cảm tư tưởng mình. Người làm thơ phải đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc để cho nhịp điệu của thơ mình gần gũi quần chúng, chứa đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của thời đại. Và trong khi đi vào phương hướng dân tộc, nhà thơ không phải tự xóa mờ mình đi mà chính là để tạo một cá tính cho mình. Ðó là con đường hiện thực của tập thơ Việt Bắc mà cũng là con đường hiện thực mà thơ ca Việt Nam đã mạnh mẽ đi theo.
Văn nghệ, số 81 (11.8.1955) Nhân dân, 11.8.1955; 12.8.1955
[1]ái hộ: thương yêu và che chở (theo Ðào Duy Anh: Hán Việt từ điển, 1932).
=="
48. Trọng Anh
Ðồng bào miền Nam với thơ Tố Hữu
Qua nhiều chuyến công tác cơ sở ở Liên khu 5, tôi thấy đồng bào rất hoan nghênh và ham thích thơ Tố Hữu. Từ anh bộ đội, anh cán bộ đến nhân dân lao động đều quen với thơ Tố Hữu, ngâm thơ Tố Hữu. Ở một vùng sau lưng địch tỉnh Quảng Nam, trên một quãng đường dài không quá 5 cây số, đầu trên đầu dưới là đồn bốt địch, đoạn giữa chi chít những lô cốt địch, đồng bào trong thôn rủ nhau đi phá đường. Trong khi ra sức đào, cuốc, đập, họ hát đủ bài, đủ điệu. Xen vào, có giọng lanh lảnh vang lên: Thằng Tây mà cứ vẩn vơ, Có hố này chờ chôn sống mày đây. Ớ anh ớ chị nhanh tay, Nhanh tay ta cuốc chôn thây quân thù. Hết anh này đến chị kia, mỗi người tiếp nhau mỗi đoạn trong cả bài thơ “Phá đường”. Họ ngâm, hò, hát, quên cả mệt nhọc. Họ khúc khích cười trong câu hát: Hì hà hì hục, Lục cục lào cào, Anh cuốc em cuốc, Ðá lở đất nhào… Rồi nhường cho một chị kết thúc bằng giọng hò khoan trong trẻo: Ðêm nay gió rét trăng lu, Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường. Cũng ở vùng sau lưng địch, có những anh du kích đánh giặc rất tài, sản xuất rất giỏi, luôn luôn đọc lên “Bài ca của người du kích” mà Tố Hữu đã dịch của dân ca Nam-tư. Hôm ấy, một đêm trăng, tôi đi họp với mấy tổ du kích ở Ð.H.. Vừa đến địa điểm đã nghe mấy câu đối đáp theo điệu giã gạo: Anh ơi mau trở về quê, Vợ anh vò võ một bề canh suông. Tức thì một giọng khác đáp lại: Thương chồng em hãy theo chồng, Ở đây chiến đấu, anh không thể về! Mỗi người lắp vào một câu. Hết ngâm đến hò, hết hò đến hố, bài thơ dứt, lại được lắp lại nhiều lần. Anh em nói: - Khi nào mệt, hát bài này lên là đánh giặc cứ hăng như thường. Năm 1952, xã T. H. đang ra sức cứu đói. Một đội văn công về công tác ở xã. Bài “Bầm ơi!” do đội văn công trình bày làm cho đồng bào cảm xúc mạnh. Những giọt nước mắt chảy ướt gò má của các mẹ, các chị. Chưa dứt cuộc biểu diễn đã có người đến xin và nhờ chép hộ bài thơ. Qua hết xóm này đến thôn kia, trên chuyến về, đội công tác đã được nghe lại những câu thơ thốt ra từ miệng các mẹ: Con đi trăm núi nghìn khe, Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm, Con đi đánh giặc mười năm, Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi Một bà cụ nói với chúng tôi: - Rõ ràng là con tôi cũng nhớ, cũng hiểu nỗi khổ của cha mẹ, của bà con xóm làng, nhưng mà nước tan thì nhà phải mất, cho nên nó gắng công đánh giặc, thì mình cũng phải ra sức tăng gia sản xuất. Ngày 16-5-1955 là ngày bộ đội ta hoàn thành việc chuyển quân, tập kết ở Liên khu 5. Trước đó mấy hôm, tôi xuống công tác ở một xã. Ðồng bào ngỏ ý xin những bài thơ nói về Hồ Chủ tịch. Ðồng bào muốn có thơ nói về Bác để mừng Sinh nhật Bác một cách thân thiết, kín đáo. Tôi chép bài “Sáng tháng 5” tặng đồng bào. Khi nhận được bài thơ, nét mặt mọi người tươi hẳn lên: Bác bảo đi là đi! Bác bảo thắng là thắng! Việt Nam có Bác Hồ, Thế giới có Stalin. Việt Nam phải tự do, Thế giới phải hòa bình! Chúng con chiến đấu hy sinh, Tấm lòng son sắt đinh ninh lời thề Ðồng bào nói: - Ðúng y như vậy, chúng tôi xin coi đó là một lời thề. Cho đến bây giờ, tuy đồng bào sống dưới chế độ phát xít của Mỹ - Diệm, tôi tin rằng lời thơ vẫn ghi trong lòng mọi người. Một số bài thơ khác như “Em bé Triều Tiên”, “Nếu thầy mẹ chết”, được học sinh rất thích. Họ dùng làm bài học, biểu diễn trong các buổi họp, liên hoan, để nâng cao lòng yêu nước, chí căm thù giặc. Những bài “Ðợi anh về”, “Bắn”, được phổ biến rộng rãi. Cũng như những đồng chí chiến sĩ của Quân đội Liên Xô, người cán bộ và chiến sĩ của ta ở miền Nam đã ghi bài “Ðợi anh về” trong cuốn sổ tay hoặc học thuộc lòng. Một bạn văn nghệ đem phổ nhạc bài thơ ấy và trình bày trong nhiều đêm văn nghệ; bài ấy được quần chúng hoan nghênh và xin chép lại. Sau ngày hòa bình được lập lại, bài “Ta đi tới” là bài đồng bào biết nhiều hơn cả. Ở đâu cũng nghe đọc, nghe ngâm, cũng chuyền tay nhau chép lại.
Trên những chuyến đò dọc, trên sông Thu Bồn, ở Quảng Nam, anh lái đò say sưa cất giọng hát: Dù ai nói ngả nói nghiêng, Lòng ta vẫn vững nhu kiềng ba chân. Dù ai rào dậu ngăn sân, Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ. Ðến đầu tháng 9-1954, đối phương tiếp thu toàn tỉnh Quảng Nam, anh chị em cán bộ bề bộn công việc. Thế mà đi đến đâu, đồng bào cũng "yêu cầu đọc cho nghe bài ‘Ta đi tới’ rồi hãy đi", hoặc năn nỉ: "Anh chép lại cho chúng tôi bài thơ ấy." Ngày tạm giao càng đến gần, đồng bào càng học bài thơ cho thật thuộc. Tôi nhớ khi tôi còn công tác ở Phòng thông tin Quy Nhơn, đồng bào thường đến mua tập thơ Việt Bắc hay xin chép lại bài “Ta đi tới”. Tập thơ Việt Bắc gửi vào không đủ bán. Riêng một ngày đầu, đồng bào chen nhau mua hết 200 cuốn. Người ở Cực Nam ra mua, người ở Quảng Nam, Quảng Ngãi vào mua. Họ mua đủ thứ sách báo, nhưng cuối cùng thì "yêu cầu đồng chí cho tập thơ Việt Bắc". Trong các đêm phát thanh, người nghe thường yêu cầu chúng tôi trình bày nhiều lần bài “Ta đi tới”. Họ bảo: "Càng nghe càng thấm thía". Ðến khi biết chúng tôi để đĩa hát, có người đến yêu cầu mua cho được đĩa hát đó. Một chị từ Cực Nam ra thăm bà con ở Bình định, ghé ngủ nhờ ở đồn công an, mượn tập thơ Việt Bắc đọc suốt một đêm. Sáng ngày, chị ấy nài mua lại cho được tập thơ. Chị trao đổi ý kiến với các đồng chí công an về tập thơ Việt Bắc và cuối cùng đọc thuộc một đoạn dài trong bài “Ta đi tới”: …Bắc Nam liền một biển Lòng ta không giới tuyến Lòng ta chung một Cụ Hồ Lòng ta chung một thủ đô Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam. Chị nói: - Thật là đúng y như lòng dạ chúng tôi. Ðó là lòng người dân miền Nam cảm thông với tác giả tập thơ Việt Bắc.
Tôi nghĩ rằng: Hiện nay miền Nam là vùng đối phương tạm thời kiểm soát, nhưng trong ấy ngoài này vẫn là một, sống chung trên một lãnh thổ, không sức nào chia cắt được. Dù hiện nay, bè lũ Mỹ - Diệm thực hiện một chế độ phát xít đầu độc nhân dân miền Nam bằng một thứ văn hóa ngu dân, dâm ô, đồi trụy, thì những bài thơ của Tố Hữu nói đúng tâm tình và nguyện vọng tha thiết của nhân dân, vẫn giữ mãi trong lòng đồng bào miền Nam, có một sức mạnh thúc giục mọi người ra sức đấu tranh để mau làm cho Nam-Bắc "liền một biển" và đất nước Việt Nam không có giới tuyến ngăn đôi. Nhân dân, 7.8.1955 49. Hoàng Trung Thông
Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc Cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc là cuộc phê bình rộng lớn đầu tiên trong phong trào văn nghệ nước ta. Ðã mấy tháng nay nhiều cuộc họp trong trường học, trong xí nghiệp, trong đơn vị bộ đội, thảo luận về thơ Tố Hữu. Hàng trăm bài phê bình từ khắp nơi gửi về báo Nhân dân và báo Văn nghệ. Ðã đến lúc chúng ta có thể rút ra những nhận định chính về tập thơ Việt Bắc đồng thời đánh giá những ưu khuyết điểm của cuộc phê bình vừa qua. I. Nhận định về tập thơ Việt Bắc Yêu nước trên cơ sở giai cấp: Lòng yêu nước là tình cảm nổi bật trong thơ Tố Hữu ngót hai chục năm nay từ khi anh mới bước chân vào con đường cách mạng và con đường thơ ca. Trong tập thơ Việt Bắc, lòng yêu nước mạnh mẽ đó có những phát triển mới. Ðó là giai đoạn thơ Tố Hữu đi sâu vào đời sống thực của quần chúng lao động. Lòng yêu nước trong thơ anh có một nội dung giai cấp rõ rệt.
Nhận định này về căn bản trái ngược với ý kiến một số bài phê bình cho rằng bản chất thơ Tố Hữu là bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa ái quốc trong tập thơ Việt Bắc là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản. Ðây là điểm mấu chốt của bao nhiêu ý kiến khác nhau. Con người mới hay không mới, thực hay không thực, tình cảm yếu đuối hay lành mạnh, tư tưởng sai hay đúng, tất cả bấy nhiêu vấn đề của một số bài phê bình nêu ra đều xoay xung quanh vấn đề lập trường giai cấp. Qua tập thơ Việt Bắc, ta nhận thấy rõ lòng yêu nước và lòng yêu nhân dân là một. Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người lao động và chiến đấu của đất nước. Hầu hết những nhân vật được biểu hiện lên trong tập thơ đều là những người nông dân lao động, từ anh bộ đội nghỉ chân trên lưng đèo Nhe, anh pháo binh vác voi ra trận, bà mẹ trên nhà sàn Việt Bắc đến bà bủ nằm ổ chuối khô, hay chị phụ nữ phá đường. Ngay từ đầu kháng chiến, trong khối toàn dân đoàn kết giết giặc, Tố Hữu đã nhận rõ nông dân là lực lượng trụ cột. Anh đem hết nhiệt tình biểu hiện họ lên thành những nhân vật chủ yếu của thơ anh. Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo.
Tình cảm của nhân vật thơ anh được biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực. Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc chính là người nông dân nghèo khổ Bữa đói bữa no Chạy ăn chẳng đủ Ngày hai bát ngô Lên rừng đào củ Vào bộ đội được sự rèn luyện của Ðảng của giai cấp công nhân, những người nông dân mặc áo lính đó chan chứa tình yêu nước, yêu nhân dân. Quyền lợi giai cấp và quyền lợi dân tộc nhất trí, đời họ gắn chặt với cách mạng và kháng chiến. Từ nhân dân mà ra, họ anh dũng vì nhân dân mà chiến đấu. Gian khổ bao nhiêu cũng quyết tâm vượt qua. Càng gian khổ càng hăng hái tin tưởng. Con đường gieo neo Là đường Vệ quốc Tha hồ đèo dốc Ta hò ta reo Chỉ có một quân đội như thế mới lấy thân làm giá súng đầu bị lỗ châu mai, anh dũng hy sinh không bờ bến. Những tình cảm người bộ đội trong thơ Tố Hữu không phải máy móc, một chiều chỉ biết đạn lửa chiến trường, một đi không trở lại. Khi Tố Hữu nói: Chắc có lúc lòng anh Nhớ nhà anh nhớ lắm là Tố Hữu đã thấu hiểu nỗi lòng người chiến sĩ. Tình cảm đó diễn tả sâu sắc trong bài “Bầm ơi!” Ở đây tình yêu gia đình, yêu đồng chí, yêu nước đã quyện lấy nhau. Phải chăng đó là "những tình cảm nhỏ bé của những nhân vật bộ đội nhỏ bé?" hay chính là những nét tình cảm sâu sắc cao quý của người chiến sĩ Việt Nam đã được biểu hiện rõ rệt trong thơ Tố Hữu. Những bà mẹ lao động Việt Nam cũng được Tố Hữu biểu hiện lên với lòng kính yêu đằm thắm. Ðó là những bà mẹ nông dân nghèo khổ, cần cù, chất phác, thắt lưng buộc bụng nuôi con.
Ðó là những bà mẹ ở hậu phương lòng luôn luôn hướng về tiền tuyến, theo rọi từng bước chân của những đứa con đi giết giặc. Bà mẹ Việt Bắc, bà bầm, bà bủ, những hình ảnh bà mẹ nông dân nghèo khổ đã được vẽ lên bằng những nét đậm đà không thể nào phai nhạt. Chính vì biểu hiện lòng yêu nước thiết tha của những người lao động nghèo khổ mà lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu thật vững chắc và có sức rung động mạnh mẽ. Lòng yêu giai cấp và lòng yêu nước đó kết hợp chặt chẽ trong lòng yêu lãnh tụ. Tố Hữu đã viết nhiều về Hồ Chủ tịch và đã gợi lên những tình cảm sâu sắc của nhân dân đối với lãnh tụ. Bà mẹ Việt Bắc thiết tha yêu kính Cụ Hồ là vì Cụ Hồ mở nước, chia thóc cho dân. Anh chiến sĩ Ðiện Biên ra trận lòng hướng về Bác là vì biết rằng: Ta đi, Bác vẫn nhìn theo từng ngày. Người dân Hà Nội đêm đêm nhìn ảnh Cụ, mặt Người nhìn ấm lòng, và: Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Hồ Chủ tịch là quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ, lời của Bác là lời non nước, tiếng ngày xưa và cả tiếng mai sau. Người đã gắn chặt với lòng chị dân công tải đạn, anh thợ má vàng thuốc pháo và anh chiến sĩ xung kích diệt đồn. Lãnh tụ từ quần chúng mà ra, kết tinh cao nhất trí tuệ thông minh của quần chúng. Những hình ảnh về lãnh tụ trong bài “Sáng tháng Năm” có khi còn trừu tượng, khó khăn chưa biểu hiện được những tình cảm kính yêu giản dị mà thắm thiết của quần chúng. Nhưng không phải vì vậy mà cho rằng lãnh tụ ở đây đã bị "thần thánh hóa", "tách rời ra khỏi quần chúng", "làm cho quần chúng bé nhỏ đi". Cũng như nói Bác Hồ ung dung yên ngựa bên đường suối reo không phải là "đẩy lùi lãnh tụ vào quá khứ". Lòng yêu nước và yêu giai cấp, yêu lãnh tụ trong thơ Tố Hữu nhất định không thể là lòng yêu nước của giai cấp tiểu tư sản, mà chính là lòng yêu nước của giai cấp công nhân. Nhưng một số anh em lại cho rằng: Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu căn bản là đúng, "thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm về ý nghĩa chính trị", thơ Tố Hữu "tuyên truyền chính sách tốt" thật, nhưng đó chỉ mới là đề tài, là chính sách, là chính trị. Một người "tiểu tư sản cách mạng" cũng có thể viết đúng về nông dân, về lãnh tụ, về quốc tế v.v... Cũng những anh em đó nói: Ðiều quan trọng là phải xét xem cái "hồn thơ" cái "điệu tâm hồn" của thi sĩ đã là của giai cấp chưa? Ðó mới thật là cốt tủy của thơ, là chỗ rung động sâu kín nhất mà nhà thơ không thể tự dối mình hay dối người được. Ðó là sự chân thành của người cầm bút. Thực tế khách quan (chính sách, chính trị) có thể tốt đúng, nhưng điệu tâm hồn của nhà thơ vẫn có thể yếu đuối lệch lạc như thường. Ðiệu tâm hồn mới thật quyết định nội dung tình cảm của nhà thơ. Mới nghe thì lý luận đó có vẻ tinh tế và cũng dễ xuôi tai. Nhưng đi sâu mới thấy đó là một lý luận chủ quan, siêu hình nấp sau những danh từ "hồn thơ" "điệu tâm hồn" rất bóng bảy, rất kêu, dễ choáng tai, nhưng rất lầm lạc. Thứ lý luận này đã lấy điệu cảm xúc riêng của mỗi thi sĩ (hừng hực, bừng bừng...) thay thế cho lập trường và quan điểm giai cấp. Nó tách rời hiện thực khách quan phản ảnh trong tác phẩm với tình cảm chủ quan của thi sĩ, và coi tình cảm chủ quan là quyết định. Hoàng Cầm cho rằng: "thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm về ý nghĩa chính trị trong tập thơ Việt Bắc" nhưng lại cũng cho rằng "hồn thơ Tố Hữu là hồn thơ yếu đuối". Chúng ta càng khó hiểu khi Lê Ðạt cho rằng thơ Tố Hữu "giải thích chính sách tốt" (tức là nguyện vọng cao nhất của công nông) biểu hiện "chính sách có rung cảm" và "được số đông trong quần chúng hoan nghênh" mà lại là không phải là thơ công nông, chỉ là mức tiểu tư sản cách mạng! Ðối với các đồng chí đó, thì có lẽ chính trị, chính sách, và thực tế đều chỉ là cái vỏ mà tất cả các thi sĩ đều có thể biểu hiện lên giống nhau. Ðiệu tâm hồn mới thật là tình cảm thực của thi sĩ. Mà điệu tâm hồn của Tố Hữu là "rơi rớt nhiều tính chất ngậm ngùi buồn buồn ít hành động". Bản chất thơ Tố Hữu vì thế là bản chất tiểu tư sản cách mạng. Các đồng chí đó đã cắt đứt chính sách với tình cảm, lập trường tư tưởng với tâm hồn, lấy ngọn làm gốc, lấy hiện tượng làm bản chất. Từ sai lầm căn bản đó một số bài phê bình càng ngày càng đi xa hơn: Bà mé vừa kể chuyện vừa khóc rưng rưng cũng là tiểu tư sản, cảnh phá đường giữa đêm gió rét trăng lu cũng là tiểu tư sản. Rồi “Việt Bắc”, “Lại về” và cả “Ta đi tới” nữa cũng đều là những cuộc hẹn hò, những lời gặp gỡ, những tình cảm lạc quan tiểu tư sản! Bản chất tiểu tư sản là gì? Dù là tiểu tư sản cách mạng đi nữa thì bản chất giai cấp tiểu tư sản vẫn là bấp bênh, dao động, khi thuận chiều thì bốc anh hùng rơm, khi khó khăn thì nghiêng ngả, buồn nản hoài nghi; Cái gốc của nó vẫn là tự do. Chỉ nhìn thấy mình mà không nhìn thấy quần chúng, lấy cái lợi ích của cá nhân mình mà đánh giá cả thế giới. Phải chăng thơ Tố Hữu chứa đựng bấy nhiêu yếu tố của bản chất tiểu tư sản? Trái lại, từ căn bản giai cấp công nhân đang lãnh đạo cách mạng, Tố Hữu đã nhìn người nhìn cảnh sâu sắc. Những nét hình ảnh của quê hương đất nước được Tố Hữu biểu hiện lên, nhất là trong bài “Ta đi tới” và “Việt Bắc”, đều mang sức sống mãnh liệt của dân tộc, của những người lao động làm ra lịch sử. Những con người trong tập thơ Việt Bắc đều luôn luôn lo lắng đến vận mạng của giai cấp và dân tộc, gắn chặt quyền lợi của giai cấp và dân tộc, đời sống riêng và vận mệnh chung trong một tình cảm tin tưởng và lạc quan cách mạng. Bà bủ nằm nhớ con suy nghĩ: Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con là đã hiểu sự khác nhau giữ hai chế độ cũ và mới mặc dầu nông thôn chưa phát động. Anh bộ đội ra trận diệt thù: Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi. đã hiểu rằng giết giặc cũng là đập tan được một ách nặng đè trên đầu giai cấp. Ðến người mẹ trong bài “Ðời đời nhớ ông”: Ngày mai dân có ruộng cày Ngày mai độc lập ơn này ơn ai Thì ý thức giai cấp đã rõ rệt. Ruộng đất và độc lập gắn chặt vào nhau trong tình cảm người nông dân lao động. Chính từ căn bản giai cấp đó mà trong toàn bộ tập thơ Việt Bắc toát lên một tinh thần tự hào dân tộc rất cao. Lòng tự hào dân tộc đó biểu hiện sảng khoái nhất trong hai bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” và “Ta đi tới”. Ðó không thể là lòng tự hào của tiểu tư sản mà nhất định là lòng tự hào của một giai cấp đang giữ chắc được đất nước và cầm chắc vận mạng của mình. Giai cấp tính và đảng tính trong thơ không phải chỉ là có một số bài thơ nói về công nhân hay về Ðảng. Chúng ta rất yêu cầu các nhà thơ viết về công nhân và Ðảng. Nhưng điều trước tiên, điều cần thiết là tư tưởng tình cảm trong thơ phải có lập trường của giai cấp và của Ðảng. Tố Hữu chưa có một bài thơ về công nhân, nhưng tư tưởng công nhân đã chỉ đạo cho tình cảm thơ ca của Tố Hữu. Tư tưởng công nhân đã soi rọi cho tư tưởng, tình cảm của những nhân vật trong thơ Tố Hữu. Trong tập thơ Việt Bắc thỉnh thoảng còn một ít tình cảm bùi ngùi (“Bao giờ hết giặc”), heo hút (“Lên Tây Bắc”), lạnh lẽo (“Những thành phố trụi”) v.v... Những tình cảm này một phần nào đã hạn chế bản chất hiện thực của thơ anh, nhưng nó không đến độ làm cho tập thơ biến chất thành tiếng nói của tình cảm "tiểu tư sản cách mạng". Cái khuyết điểm chủ yếu của tập thơ Việt Bắc là ở chỗ cuộc đấu tranh chống phong kiến chưa được biểu hiện lên rõ, nhất là trong những bài thơ sau này của Tố Hữu. Tố Hữu nhìn thấy sâu sắc cuộc đời của người nông dân dưới ách đế quốc và lòng yêu nước thiết tha của họ. Nhưng trong thực tế cách mạng Việt Nam, cuộc đấu tranh chống phong kiến không thể nào thiếu sót được trong đời sống của người nông dân lao động. Tố Hữu hiểu nhiều cảnh đời đói cực của người nông dân nhưng chưa thông cảm hết nỗi khổ của người nông dân trong cái tròng tô tức. Anh thấy kẻ thù đế quốc rất rõ và anh đã tập trung ngọn lửa căm thù vào nó. Nhưng đối với giai cấp địa chủ anh chưa nhìn thấy rõ hình thù và chưa đập thẳng vào nó. Không phải chúng ta đòi hỏi Tố Hữu phải có những bài thơ về cải cách ruộng đất từ những ngày đầu kháng chiến. Nhưng đến một giai đoạn phát triển của cách mạng, khi vấn đề tô tức đặt ra, nhất là khi có cuộc phát động quần chúng cải cách ruộng đất thì lòng căm thù đế quốc và căm thù địa chủ gắn chặt vào nhau trong thực tế tình cảm những người nông dân lao động Việt Nam. Tố Hữu biểu hiện những người chiến sĩ Ðiện Biên ngày đêm anh dũng hy sinh không dựa trên cơ sở tình cảm đó, là một thiếu sót. Ngay cả trong bài “Việt Bắc” là bài thơ Tố Hữu gửi gắm nhiều tình cảm thiết tha mặn nồng nhất của mình với người nông dân lao động miền núi, những hình ảnh, những tình cảm về cải cách ruộng đất cũng không có. Ðó là khuyết điểm chủ yếu của tập thơ Việt Bắc. Chính sách và nghệ thuật: Tố Hữu tha thiết đem nghệ thuật thơ ca phục vụ chính sách của Ðảng. Chính sách không phải là những mệnh lệnh chính trị ngăn cản người nghệ sĩ nói lên tình cảm chân thực của mình và thực tế của cuộc sống. Chính sách vừa là lý trí nhưng cũng vừa là tình cảm. Chính sách là đường lối kết tinh lại từ nhiều mặt của sự sống. Nhà thơ không phải tự khép chặt mình trong những khẩu hiệu của chính sách mà biết nhìn thấy chính sách trong cuộc đấu tranh dồi dào và sâu sắc của quần chúng. Ðọc thơ Tố Hữu người ta ít nghĩ đến chính sách, nhưng thực tế thì tư tưởng của chính sách, tình cảm của chính sách vào sâu trong chúng ta.
Cuộc đời của bà mẹ, hình ảnh chị phá đường hay em bé liên lạc, những cảnh vác voi ra trận hay cuộc chiến đấu anh dũng trên chiến trường đều là những nhân vật, sự việc và hình ảnh biểu hiện lên từ sự sống. Những con người thực, việc thực đó đã lần lượt hiện lên trong tập thơ Việt Bắc, có máu có thịt, và có suy nghĩ, có tâm hồn. Cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động không còn là những danh từ trừu tượng khô khan, mà đã thành những hình ảnh rất thực. Bàn tay cấy mạ, tiếng hát ru con, ổ chuối khô, vạt áo tứ thân phai bạc, những tiếng nói câu cười, nỗi đau thắt ruột hay niềm tin tưởng vui tươi cùng với những khóm tre, bụi lúa, con đường gốc đa, tất cả những hình ảnh thực của cuộc sống đã được nhào nặn lại để sáng tạo nên những bài thơ chứa chan tình cảm: “Cá nước”, “Bầm ơi”, “Phá đường”, “Lượm”, “Voi”... Tố Hữu không từ chính sách suy luận ra nhân vật và sự việc. Anh từ cuộc sống dựng lên những con người, những sự việc tự nó bật lên những tư tưởng, tình cảm có chính sách. Nhiều bài phê bình đều nói thơ Tố Hữu giàu tình cảm: Mến thương và thắm thiết. Giàu tình cảm, thực chất cũng là giàu sự sống. Ngay cả những bài thơ sau này của Tố Hữu “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”, “Ta đi tới”, “Việt Bắc”, mà nhiều người cho là những bài thơ có nhiều tư tưởng tính đánh dấu sự lớn lên của thơ Tố Hữu, thì tính chất trữ tình cũng rất mạnh rất sắc. Có thể nói những bài thơ đó mang nhiều tư tưởng tính mà ít sự sống được không? Có thể nói những bài thơ tổng hợp nhiều mặt của sự sống rồi nâng lên trình độ tư tưởng rộng lớn là kém hiện thực hơn những bài thơ nói một góc cạnh của tình cảm hay một mẩu của cuộc đời không? Không nên so sánh như vậy và cũng không nên coi đó là một khuyết điểm của người làm thơ. Vấn đề chính là tìm xem từ trong những bài thơ đó sự sống đã được biểu hiện lên đến mức độ nào, cảm xúc, tình cảm, tư tưởng của bài thơ có bắt nguồn từ thực tế cuộc sống hay không, hay chỉ là những khẩu hiệu chính trị. Thơ trữ tình không phải chỉ gợi lên những tình cảm trong phạm vi đời sống bình thường. Ngày nay trong cuộc đấu tranh chính trị gay gắt chúng ta còn cần có những bài thơ thay cho những bài diễn văn bốc lửa.
Chúng ta vừa muốn có những bài thơ đi sâu vào một mẩu nhỏ của cuộc sống, chúng ta vừa thèm đọc những bài thơ rộng rãi bao la "có những cái vỗ cánh hùng mạnh của tư tưởng". Tập thơ Việt Bắc đã có cả hai phương diện đó. Nhưng trong một số bài thơ của Tố Hữu sự sống còn nghèo, sức rung cảm chưa mạnh, tình cảm của nhân vật chưa gắn chặt với thực tế cuộc sống. Những bài này đã hạn chế phần nào tính chất hiện thực của tập thơ Việt Bắc. Tình cảm nhớ thương con trong bà bủ rất thực nhưng chưa gắn được với tình yêu nước mạnh mẽ cũng rất thực trong lòng bà mẹ cố nông. Người chiến sĩ đi lên Tây Bắc lặng lẽ quá. Hình ảnh anh hiện lên rất đẹp giữa núi rừng. Nhưng tình cảm anh đối với quê hương đất nước ra sao? - chưa được nhà thơ biểu hiện. Bước chân nhà thơ vắng vẻ giữa thành phố trụi chưa hòa nhịp được lời ca xây dựng mai sau. Tình cảm của nhà thơ với nỗi lòng người chiến sĩ trong bài “Bắn” cũng vẫn còn xa nhau dù hai người cùng đứng bên nòng súng nhằm thẳng vào mặt quân thù. Những bài thơ phản ảnh bước chuyển vĩ đại của kháng chiến sau này của Tố Hữu đều là những bài thơ mang hơi thở nóng hổi của cuộc sống. Thực tế đấu tranh vĩ đại bên ngoài đã xô vào thơ Tố Hữu những luồng sóng lớn. Ðó là những bài thơ tổng hợp sự sống trong những nét tình cảm điển hình.
Nhưng nó còn "ít những hình ảnh dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong cảnh cụ thể đang sống trước mắt chúng ta". Nhất là bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên”. Nhưng không phải vì vậy mà tập thơ Việt Bắc đã rơi vào chủ nghĩa công thức nặng nề như một số nhà phê bình đã phân tích. Những nhà phê bình này muốn thơ phải xuất phát từ thực tế cuộc sống và không rơi vào lối biểu hiện một chiều. Ðó là một yêu cầu rất đúng. Nhưng từ yêu cầu đó mà bắt Tố Hữu phải biểu hiện tâm trạng bà bủ từ năm 1947 "trằn trọc suốt đêm là vì căm thù thằng địa chủ cướp mất ruộng", bắt Tố Hữu làm bài thơ “Ta đi tới” ngay khi hiệp định Giơ-ne vừa ký kết xong phải biểu hiện được "lòng tin cụ thể vào từng bước đấu tranh gay go gian khổ" như Hoàng Cầm, thì thật là những yêu cầu quá xa thực tế. Hình thức dân tộc: Thơ Tố Hữu gần gũi với quần chúng, rung động sâu sắc trong lòng quần chúng vì nội dung tư tưởng tình cảm của nó, và một mặt nữa, vì ngôn ngữ và nhịp điệu của thơ Tố Hữu nằm trong truyền thống thơ ca của dân tộc. Cốt cách dân tộc hiện lên rất rõ. Càng là những bài lấy lời của quần chúng biểu hiện lên tâm trạng và đời sống của quần chúng, Tố Hữu càng chú ý đến thể thơ dân tộc, âm điệu dân tộc (“Phá đường”, “Bà mẹ Việt Bắc”, “Bầm ơi”, “Voi”, “Việt Bắc”, “Ðời đời nhớ ông”, v.v...) Và cũng vì vậy tình cảm thơ Tố Hữu càng chan chứa thiết tha mang được cái giản dị tự nhiên của tâm hồn quần chúng. Thơ Tố Hữu vì vậy rất dễ vào quần chúng. Và ai đã đọc thơ Tố Hữu nếu không nhớ cả bài cũng nhớ vài câu.
Có những bài thơ đã thành tiếng hát ru em của các mẹ già, em nhỏ ở nông thôn. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi thơ Tố Hữu vang xa trong những làng xóm nhỏ tít mũi Cà Mau hay những trạm liên lạc xa xôi trên đỉnh núi Cực Nam Trung Bộ. Ở các nông thôn Liên khu 4 giữa các cuộc nhóm họp cán bộ thường đọc thơ Tố Hữu. Anh du kích ở địch hậu, anh bộ đội ở đồn biên phòng đều coi thơ Tố Hữu là người bạn chiến đấu. Tố Hữu thường dùng nhiều nhất là thể thơ lục bát mà câu thơ lục bát của anh rất giàu có. Nó vừa kết hợp được điệu lục bát rất cổ của bình dân Nhà em con bế con bồng, Em cũng theo chồng đi phá đường quan vừa phảng phất lối đối từng vế của những câu thơ cổ điển trong Kiều hay Chinh phụ: Anh về cối lại vang rừng Chim reo quanh mái, gà mừng dưới sân. Và đây là một câu thơ mà một chữ "thương" láy đi láy lại tạo nên cái dáng điệu chỉ thơ ta mới có: Thương cha, thương mẹ, thương chồng Thương mình thương một thương ông thương mười. Trừ một số câu thơ kém mà nhiều bạn đã trích trong bài “Lại về” phần lớn là câu thơ lục bát của Tố Hữu đều uyển chuyển. Những câu thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu tiếp tục được cái truyền thống của ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam. Trong những thể thơ bốn chữ, năm chữ Tố Hữu cũng có nhiều sáng tạo. “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm”, “Voi”, cùng một thể thơ mà mỗi bài có những nhịp điệu khác nhau do sự việc, hình ảnh và tình cảm của từng bài quyết định. Ðọc những bài thơ đó, ta phảng phất nhớ lại những bài vè kể chuyện của quần chúng. Nhưng ở đây, Tố Hữu đã phát triển và nâng cao nhịp điệu và ngôn ngữ lên, làm cho những bài thơ đó còn giữ hơi vè mà đã thành thơ phong phú, súc tích. Những bài thơ của Liên Xô, Nam Tư... đã được Tố Hữu Việt Nam hóa thành những bài thơ rất quen thuộc với nhịp điệu tình cảm của nhân dân ta. Tuy nhiên, hình thức trong những bài “Những thành phố trụi”, “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” hãy còn lúng túng chưa ổn định. Tố Hữu muốn phá vỡ thể thơ, uốn cho nhịp thơ rung động theo nhịp tình cảm của mình. Nhưng những bài thơ đó của anh có nhiều chỗ chưa đạt. Chúng ta mong đợi Tố Hữu cố gắng nâng cao hơn nữa tiếng nói và hình thức dân tộc trong thơ anh. Sự chuyển biến về hình thức nghệ thuật dân tộc rất rõ rệt trong thơ Tố Hữu từ tập thơ trước kháng chiến đến tập Việt Bắc. Sự chuyển biến đó chứng tỏ Tố Hữu ngày càng đi sâu vào con đường phục vụ quần chúng, đi sâu vào con đường hiện thực của thơ ca. Vì nói đến chủ nghĩa hiện thực không thể không nói đến hình thức dân tộc. II. Vài nhận xét về cuộc phê bình Lần đầu tiên chúng ta mở một cuộc phê bình rộng lớn về một tác phẩm văn nghệ. Cuộc phê bình đã được sự hưởng ứng nhiệt liệt của bạn đọc các nơi và sự tham gia đông đảo của giới văn nghệ. Trên báo chí, trong các hội nghị, chúng ta cũng đã đề cao được tinh thần mạnh dạn phát biểu ý kiến. Chúng ta cũng có thể nói: trong cuộc thảo luận lần này ngòi bút phê bình của chúng ta lần đầu cũng đã đụng chạm đến những vấn đề lớn của thơ ca: Tập thơ Việt Bắc có hiện thực không? Giai cấp tính trong tập thơ Việt Bắc. Nhân vật điển hình trong tập thơ Việt Bắc, v.v... Ngòi bút phê bình không còn vờn quanh vấn đề, phát biểu ý kiến hời hợt, trốn tránh những góc cạnh gay go nữa. Nhiều bài báo, nhiều ý kiến phát biểu có khi thống nhất có khi trái ngược nhau đều có thể giúp cho tác giả và những người làm văn nghệ suy nghĩ thêm được nhiều vấn đề. Ðó là thắng lợi tốt đẹp của cuộc phê bình. Tuy vậy, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc vừa qua bộc lộ nhiều khuyết điểm lớn, mà ban Văn của Hội có nhiệm vụ hướng dẫn cuộc phê bình phải chịu trách nhiệm chính. Phê bình văn nghệ tức là đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ, không thể tách rời khỏi đấu tranh chính trị trước mắt của chúng ta. Trong khi mở ra cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc ban Văn đã không nắm vững được nguyên tắc đó để đề ra những mục đích yêu cầu thích đáng. Cuộc thảo luận kéo dài đã nhiều khi rơi vào những tranh cãi vụn vặt, chiếm rất nhiều thì giờ và trang báo. Ban Văn đã không hướng dẫn cho cuộc thảo luận đi vào những ưu điểm và thiếu sót của tập thơ, trực tiếp giúp ích cho những nhiệm vụ đấu tranh hiện thời của nhân dân ta.
Bọn đế quốc và tay sai đang muốn thổi vào phong trào văn nghệ của chúng ta một luồng gió độc: "Văn nghệ tách rời chính trị". - Một số đồng chí chúng ta trong khi phê bình tập thơ Việt Bắc ít nhiều đã rơi vào khuynh hướng đó, ban Văn không kịp thời đề ra và tích cực đấu tranh lại. Ðó là khuyết điểm chủ yếu của cuộc phê bình. Ngoài ra còn một khuyết điểm nữa không kém phần quan trọng là: thái độ phê bình. Thái độ phê bình trong văn nghệ cũng không thể nào khác được thái độ phê bình và tự phê bình trong đời sống chính trị hằng ngày của chúng ta. Phải biết phân biệt bạn, thù, kiên quyết đấu tranh chống lại những tư tưởng phản nhân dân nhưng thành khẩn và ái hộ [1] vạch ra những sai lầm của bạn và tìm hết sức biểu dương những cái hay cái đúng. Cái nguyên tắc căn bản đó, nhiều lúc cuộc phê bình đã bỏ rơi mất. Nhiều bài phê bình, nhiều ý kiến phát biểu đã rơi vào lối tranh cãi tư sản lỗi thời, có khi đã dùng những lời độc ác hoặc thô bỉ để mạt sát lại ý kiến của người khác. Ðó không phải là thái độ xứng đáng của những ngòi bút phê bình văn học của chúng ta. Thái độ đó đã biểu lộ nhiều lần trong các cuộc phê bình, nhưng ban Văn không kịp thời uốn nắn và hướng dẫn, tưởng rằng cứ để phát biểu lung tung như vậy mới là đảm bảo "tự do tư tưởng". Những khuyết điểm trên đây đã hạn chế nhiều những kết quả tốt đẹp của cuộc phê bình. III. Kết luận Cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc đã mang lại cho chúng ta những bài học lớn. Bài học đó là con đường đi của thơ Tố Hữu, con đường phục vụ lợi ích của cách mạng của quần chúng. Người làm thơ phải đem hết nhiệt tình đi vào thực tế cuộc sống, biểu hiện lên những con người chính yếu của xã hội, những con người lao động và chiến đấu trong những tình cảm chân thực và sâu sắc. Người làm thơ phải nắm vững chính sách của Ðảng, lấy ánh sáng của chính sách Ðảng soi rọi vào cuộc sống và tình cảm tư tưởng mình. Người làm thơ phải đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc để cho nhịp điệu của thơ mình gần gũi quần chúng, chứa đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của thời đại. Và trong khi đi vào phương hướng dân tộc, nhà thơ không phải tự xóa mờ mình đi mà chính là để tạo một cá tính cho mình. Ðó là con đường hiện thực của tập thơ Việt Bắc mà cũng là con đường hiện thực mà thơ ca Việt Nam đã mạnh mẽ đi theo.
Văn nghệ, số 81 (11.8.1955) Nhân dân, 11.8.1955; 12.8.1955
[1]ái hộ: thương yêu và che chở (theo Ðào Duy Anh: Hán Việt từ điển, 1932).
=="
THẢO LUẬN THƠ VIỆT BẮC XII
=
44. Tú Mỡ
Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Có nhiều người bảo rằng chính trị làm khô khan con người cho nên thơ kháng chiến thiếu tính chất lãng mạn là hồn của thơ. Tập thơ Việt Bắc đã chứng tỏ rất hùng hồn rằng tưởng như vậy là sai, và thơ Tố Hữu là tiêu biểu nhất về lãng mạn Cách mạng, lãng mạn của thơ kháng chiến. Một đặc điểm của thơ Tố Hữu là rất giàu tình cảm và một đặc điểm nữa là tình cảm ấy chính là tình cảm của nhân dân. Người kháng chiến mừng gì hơn mừng chiến thắng. Tố Hữu đã tả cái mừng đó một cách hồn nhiên: Trận chợ Ðồn, chợ Rã Ta đánh giặc chạy re Hai đứa cười ha hả và rất tưng bừng: Tin về về nửa đêm Hỏa tốc, hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Ðuốc cháy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Tố Hữu thực đã thông cảm với nhân dân khi tả cái mừng của một “Bà mẹ Việt Bắc” gặp con bộ đội về thăm nhà, vui sướng rất chất phác khi trông thấy con đã lớn lên trong kháng chiến cả về thân thể, cả về tinh thần: Thoạt trông thấy nó Tôi chẳng biết ai Nó cao hơn bố Tôi chỉ bằng vai ... Bộ nó rõ oai.... ... Trước nó lam lũ Bây giờ thấy sang... Và bài “Ta đi tới” đã nói lên tất cả nguồn phấn khởi của quần chúng nhân dân sau khi hòa bình đã được lập lại, được "đi giữa ban ngày" bước "ung dung trên đường cái". Thật là tả đúng sự vui sướng thông thường của nhân dân. Ðiểm vào đó sự rung cảm của nhà thơ nhìn theo: Mây nhở nhơ bay, Hôm nay trời đẹp lắm Mây của ta, thắm của ta... [1] Người cách mạng giận ghét gì hơn giận ghét địch. Tố Hữu đã tả cái căm thù anh dũng của một người "lính Cụ Hồ" khi nghe bà Mé kể lại tội ác của quân cướp nước. Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi. Mẹ ơi đừng khóc Nước độc lập rồi. Cái căm thù ấy nổi bật trong lời của chiến sĩ Ðiện Biên Phủ quyết tâm tiêu diệt giặc, không để chúng chạy thoát. Chúng bay chui xuống đất, Chúng bay chạy đằng trời Trời không của chúng bay Ðạn ta rào lưới sắt Ðất không của chúng bay Ðai thép ta thắt chặt Lời thơ thật là mạnh và rất "bộ đội".
Tố Hữu đã nói lên tất cả lòng khinh bỉ của nhân dân căm ghét lũ tay sai của địch, chỉ trong bốn câu thơ tứ tự: Thằng châu con chó Cúp đuôi chạy dài Mả bố nhà nó Nịnh Tây hết thời Ở đây ta thấy Tố Hữu, nhà thơ trữ tình lại kiêm cả trào phúng rất chua cay. Một nhược điểm của thơ Tố Hữu mà nhiều bạn phê bình đã nói tới, là cái rây rớt của lãng mạn tiểu tư sản còn toát ra một thứ buồn rười rượi trong một vài bài thơ. Như bài “Giữa thành phố trụi” với những câu: Ðông lạnh ghê người Chiếc lá vèo rơi xuống cỏ Tường xiêu loét đỏ Mái gẫy sườn đen Mảng buồng son kính vỡ rêu lên cho ta thấy Tố Hữu còn để tâm hồn vương víu cái cảm sầu của những nhà "thơ thẩn" lối cũ, nhưng chỉ là thoảng qua chốc lát, ta lại thấy nhà thơ cách mạng nổi dậy ngay trong câu: Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá, ngày về quyết xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây từng giờ. Nhà thơ cách mạng của chúng ta khác nhà thơ thường ở chỗ đó. Trong bài “Lên Tây Bắc”, ta thấy Tố Hữu có cái xúc cảm như Bà huyện Thanh Quan với những câu: Cỏ ngập đồng khô mờ lối cũ Tan hoang làng cháy khói căm thù trong đó ta thấy cái căm thù không được hừng hực, và có cái cảm xúc như Chinh phụ ngâm với những câu: Lại những ngày đi vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt nước lưng bương Ðêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Tôi chắc người chiến sĩ đi lên Tây Bắc đánh giặc chả ai có những xúc cảm như vậy. Ðến bài “Bao giờ hết giặc” thì ta thấy Tố Hữu tả thực chứ không phải hiện thực. Tố Hữu đã nói đúng tâm lý một Bà Bủ tầm thường nằm ổ chuối khô, nhớ con đi bộ đội, thương con gian khổ, khiến người đọc chỉ thấy cái khổ. Tuy trong bài thơ ấy có câu: Càng lo, càng nghĩ, càng căm, càng thù nhưng câu ấy không đủ vớt vát lại những cái bi đát, và cái mà ý kiến riêng tôi cho là nguy hiểm nhất là không rõ rệt Bà Bủ căm thù gì, căm thù ai. Tình thương yêu của thơ Tố Hữu đất dào dạt. [2] Tố Hữu yêu anh bộ đội. Trong bài “Cá nước”, có người thấy tả những cử chỉ thường thường, gặp nhau chỉ trong chốc lát "chia nhau điếu thuốc lào" thì cho là hời hợt, nhưng tôi thấy cử chỉ thường thường ấy ngụ một tình thân mật rất thắm thiết. Thơ Tố Hữu tài tình và lý thú cũng ở chỗ đó. Tố Hữu yêu chú bé liên lạc, điển hình của những cháu trung dũng của Bác Hồ. Ngay trong những nét phác tả chú bé ấy ta đã thấy yêu rồi. Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhẩy trên đường vàng. Tấm lòng tôn kính lãnh tụ đã được tả trong bài “Sáng tháng Năm”. Tác phong giản dị của Hồ Chủ tịch chỉ tóm tắt trong ba câu thơ: Bác ngồi Bác viết, nhà sàn đơn sơ. Con bồ câu trắng ngây thơ Nó đi tìm thóc nhở nhơ quanh nhà. Câu cuối này hình như trước là "Nó đi tìm thóc trên bồ công văn", sau mới đổi lại, nhưng tôi cho rằng cứ để như cũ lại hay hơn. Và chỉ một câu này: Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh. Môi ta thầm kêu: "Bác Hồ Chí Minh!" đủ tả lòng nhân dân luôn luôn hướng về Hồ Chủ tịch, tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Người. Lòng bộ đội yêu quý vũ khí đã được tả rất vui nhộn và hóm hỉnh trong bài “Voi”, khiến ta thấy khẩu đại bác thực như một người bạn chiến đấu của các chiến sĩ pháo binh. Tình quyến luyến của những người kháng chiến đối với núi rừng Việt Bắc đã được nói lên trong bài thơ từ biệt. Tuy có vẻ ngậm ngùi như tình của đôi người yêu trước khi chia tay, nhưng rất đằm thắm, trung hậu trong những lời gắn bó, hẹn hò. Tình quốc tế đã được nói lên trong bài “Em bé Triều Tiên” với câu: Em bé ơi giữa súng rền Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều và trong bài “Ðời đời nhớ ông” với câu: Yêu con, yêu nước, yêu nòi, Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu. thực là những lời thơ nồng nhiệt, tả được tình quốc tế của đại chúng. Thơ Tố Hữu rất nhiều hình ảnh đẹp. Tuy công việc bề bộn, nhưng nhà thơ trong Tố Hữu cũng cố tranh thủ được những phút rung cảm với thiên nhiên, nên mới nẩy ra những câu tuyệt đẹp như: Trên đồi quê trăng non mới hé Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Lá ngụy trang reo với gió đèo Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nhớ sao tiếng sáo rừng chiều Chầy đêm nện cối đều đều suối xa Do đó, thơ Tố Hữu tươi sáng, lai láng hồn thơ dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu rất trau chuốt, nôm na như ca dao, vần phong phú, âm điệu êm dịu. Mọi tầng lớp nhân dân, quân đội, cán bộ, tuy sở thích khác nhau nhưng mỗi người đều thấy trong tập thơ Việt Bắc những bài vừa ý riêng mình để ngâm nga, học thuộc, nhớ lâu. Riêng tôi, tôi thấy Tố Hữu đã thành công nhất trong những bài viết theo thể thơ vốn cũ, quen thuộc với đại chúng. Những bài ấy được phổ biến và truyền tụng sâu rộng hơn cả. Trong những cuộc phê bình trước đây, các bạn đã phân tích khá nhiều về vấn đề hiện thực trong thơ Tố Hữu. Tôi cũng đồng ý là một tập thơ Việt Bắc chưa phản ảnh đầy đủ tất cả mọi mặt của cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân ta, lý do tại Tố Hữu vì hoàn cảnh công tác chưa được sống thực sát với quần chúng công nông binh. Nhưng tôi thấy tập thơ Việt Bắc đã nói lên được những nét điển hình và những khía cạnh tiêu biểu tình cảm của những người kháng chiến, và trong số nhà thơ cách mạng của chúng ta - thực ra còn hiếm hoi quá - Tố Hữu là người tiêu biểu nhất, và có thể coi là một nhà thơ lãng mạn cách mạng của thời đại. 24-5-1955 Văn nghệ, số 75 (20.6.1955) 45. Nguyễn Ðình Thi
Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng Mở cuốn sách nhỏ in những bài thơ của Tố Hữu, mắt tôi đọc, nhưng lòng tôi đã như động tới những ngày không thể quên, từ những năm mới kháng chiến. Tôi nhớ lại những ngày lo âu hồi cuối năm 1947, khi quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn và ào ạt tiến lên Việt Bắc. Tố Hữu vừa ở khu Bốn ra, một lần anh đi với tôi từ Thái Nguyên xuống Bắc Giang. Tôi vẫn nhớ tiếng cười, tiếng huýt sáo và giọng nói chuyện vui của anh, trên dọc đường, gặp mỗi đoàn bộ đội, mỗi bóng áo chàm, mỗi sườn đồi trồng sắn, mỗi ngã ba, tôi luôn luôn có cảm tưởng như anh sắp cất tiếng hát. Rồi những ngày quân Pháp từ trên đổ về, từ dưới tràn lên, những đêm mưa rét, súng nổ, lửa cháy, chúng tôi sống giữa những gia đình gồng gánh chạy tơi tả, và những anh bộ đội, du kích bắn nhau với giặc, bám lấy từng bờ đá, gốc tre. Sau trận Sông Lô, đi qua những làng cháy trụi bên ven con sông im lặng, chúng tôi gặp những mái lá còn xanh của đồng bào mới trở về. Quân giặc cuối cùng đã phải tháo chạy. Khắp Việt Bắc, cuộc sống lại nhóm lên. Một đêm, trong một xóm nhỏ vùng núi Phú Thọ, Tố Hữu thức suốt sáng, làm bài thơ ca ngợi chiến thắng và những người làm nên chiến thắng ấy: đó là bài “Cá nước”. Chiến thắng Việt Bắc của bộ đội và nhân dân ta đã làm cho Tố Hữu tạo nên được một chiến thắng Việt Bắc trong thơ. Anh viết liền một hơi những bài “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm”, “Bao giờ hết giặc”, rồi đến “Bầm ơi”, “Voi”, “Giữa thành phố trụi”, “Phá đường”. Tôi cùng đi với anh theo các đồng chí pháo binh, ban ngày hành quân, đến tối, anh trung đội trưởng chạy tìm cho chúng tôi một ống dầu dọc, và Tố Hữu đã viết ngay bài hành khúc “Voi ơi”, để sáng hôm sau, bộ đội có thơ hát cho nhẹ vai gánh đại bác.
Anh nói chuyện với bà cụ chủ nhà chúng tôi ở, và anh ngồi bên bếp viết ngay “Bà bủ không ngủ, bà lo bời bời”. Những con người thực, những sự việc thực của đời sống hàng ngày lúc đó như một luồng sống ào ạt thổi vào tâm hồn anh, làm nảy lên những bài thơ như "măng mọc sau mưa xuân", như những đóa hoa đồng tươi thắm. Thơ Tố Hữu trước cách mạng là ngọn lửa cháy trong tâm hồn một người tuổi trẻ yêu nước, yêu đời, yêu những người cực khổ, được Ðảng chỉ cho thấy con đường cách mạng, nhưng chưa kịp biết cuộc sống thực, cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động. Trong nhà ngục, chí bất khuất của người thanh niên vẫn gầm lên hoặc hát lên tha thiết, anh quyết vì Ðảng chiến đấu đến cùng, ngọn lửa của anh luôn luôn cháy bỏng, - nhưng khi lắng nghe tiếng đập của cuộc sống bên ngoài, anh mới nghe thấy tiếng chim kêu, gió thổi, tiếng dơi chiều, tiếng ngựa hí. Khi anh nói dưới đường xa, nghe tiếng guốc đi về, mà bỗng làm ta lay động cả tâm hồn, là vì anh vừa nói đến một cái gì rất thực trong cuộc sống hàng ngày của những con người thực. Tiếng hát của Tố Hữu lúc ấy sôi nổi và cảm động, nhưng còn thiếu gốc rễ trong những cái rất thực ấy của đời sống quần chúng. Vì vậy tiếng hát của anh chưa thoát ra được ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn bấy giờ. Ta nghe trong “Ðá” uy nghiêm trầm mặc dưới trời tro còn hơi thở của Ðiêu tàn, hoặc trong “Bạn đời ơi”, vui chút với trời hồng còn phảng phất câu thơ Xuân Diệu. Ngay lúc đó, có những bài thơ của Tố Hữu đã bắt được rễ chắc hơn trong đời sống thực của nhà tù và những con người thực anh gặp lúc đó, trong cuộc đấu tranh hàng ngày của những chiến sĩ cách mạng, như bài “Nghĩa đời trong ba tiếng”, “Châu Ro”, hoặc đoạn thơ thất ngôn “Than ôi, xưa cũng chốn này đây” trong bài “Tiếng hát đi đầy”. Những khi ấy, hơi thơ hiện thực đã chớm lên. Những bài ca dao tiền khởi nghĩa, nói lên lời của nông dân chống đi phu, chống thóc tạ, trồng đay, cũng mở ra một hướng mới. Nhưng nhìn về căn bản, cho đến sau cách mạng, khi Tố Hữu nói lên niềm vui giải phóng, khi anh ca ngợi “Tình khoai sắn”, khi anh muốn bay múa trong Ðêm hoa đăng kỷ niệm cách mạng, thơ của anh vẫn là tự biểu hiện của anh, và tâm hồn tự ca hát ấy vẫn còn chưa bắt liền được mạch sống với những vất vả, lo lắng, vui buồn của quần chúng. Kháng chiến nhào nặn lại xã hội Việt Nam, như trong một trận động đất. Quần chúng đông đảo vào trong lửa cháy, thành những người anh hùng mới, đổ máu giành sống còn cho Tổ quốc, đổ mồ hôi làm thay đổi cuộc đời. Bước chuyển biến trong thơ Tố Hữu phản ảnh sự thay đổi lớn lao ấy của thực tế Việt Nam, mà con mắt đảng viên của anh đã nhận ra. Nhà thơ không đặt vấn đề tự nói mình nữa mà muốn nói anh bộ đội, bà cụ áo chàm, em bé giao thông, những con người thực hàng ngày sống chung quanh, những con người bình thường mà vĩ đại. Thơ Tố Hữu chuyển mạnh, đi hẳn vào thực tế của quần chúng cách mạng. Bước chuyển ấy trước hết là chuyển đề tài. Nhưng chỉ chuyển đề tài mà thôi chưa đủ. Có nhà thơ mượn đề tài công nông binh để tự biểu hiện mình, có người muốn nói công nông binh nhưng đi vào quần chúng như "chắt chắt vào rừng xanh". - Muốn biểu hiện quần chúng một cách trung thành, nhà thơ phải hiểu quần chúng, thuộc quần chúng, tự hòa vào quần chúng, đến trình độ nghe được bằng tai của quần chúng, nhìn được bằng mắt của quần chúng, nói được bằng tiếng nói của quần chúng. Bước chuyển của Tố Hữu sang thơ hiện thực, không những chỉ là chuyển đề tài, mà là chuyển cả hồn thơ và tiếng nói. Ðó là nhờ trong nhà tù, trong hoạt động cách mạng, anh đã thu được một cái vốn sống của quần chúng mà trước kia anh chưa biết đường nói ra rõ ràng. Thực tế quyết liệt của kháng chiến ném công việc làm thơ vào giữa cuộc hành quân vất vả của pháo binh hay nỗi lo âu thắt ruột của bà mẹ chiến sĩ, sự lay động đến gốc rễ của tâm hồn người làm thơ và cái trách nhiệm sâu xa mà người làm thơ cảm thấy trên vai, khi nhìn vào những sống chết hàng ngày của quần chúng, - tất cả những cái đó đã giúp cho Tố Hữu đập vỡ được nốt cái vỏ lãng mạn cũ còn kìm thơ anh lại. Mới cách ít lâu, anh còn viết: Nhân loại trườn lên trên biển máu. Ðang mơ xuân đến với môi cười. những câu đẹp, chữ và hình ảnh lôi cuốn người làm thơ. Ðến nay anh nói: Tôi ở Vĩnh Yên lên, Anh trên Sơn Cốt xuống, Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi Tình cảm và tiếng nói của anh trở lên mộc mạc đơn giản, - cái đơn giản thực thà của cuộc chiến đấu nghiêm khắc. Tôi còn muốn dẫn nhiều đoạn thơ của anh, đạt tới cái thật chất đơn giản của sự sống. Những “tiếng guốc đi về” ngày trước ít vang động trong thơ anh. Nay trong mỗi bài đều nghe thấy tiếng thở của đời sống, của những con người ta gặp hàng ngày. Từ cây tre, tảng đá, từ tiếng chim kêu, gà gáy đều thay đổi. Xưa, trên đường đi đày, giữa đèo cao núi thẳm anh nghe Gà đâu gáy động im lìm Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây Nay cùng anh vệ pháo, anh hát: Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng Ta đi qua rừng Lau tre san sát Voi nghe ta hát Núi dội vang lừng Ta bước lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi, khó nhọc Khó nhọc cũng trèo Tôi không thể không dừng lại bài “Voi” ấy của Tố Hữu, một bài thơ mà tôi nghĩ là rất quý cho thơ Việt Nam. Tôi muốn chép lại cả bài thơ ở đây. Trong tiếng hát của anh pháo binh chúng ta nghe như vang dội tiếng hò của người kéo gỗ. Bài thơ vui đùa mà chắc nịch, thật lạc quan, nó mang tính chất chiến đấu của những người lao động, thấy rằng do sức lao động của mình mà làm được tất cả. Lao động ấy xưa kia là nỗi khổ nhục, vì phải dùng để cung phụng cho bọn áp bức bóc lột, thì ngày nay trở nên vui tươi, vì nó phục vụ cho người lao động. Tôi thiết nghĩ cái điển hình nhất trong đời sống quần chúng chính là lao động, là chiến đấu. Bài “Voi” đã đem vào thơ ta tiếng hát khỏe mạnh và tự hào của quần chúng lao động và chiến đấu, Cùng một giòng ấy, bài “Phá đường” uyển chuyển hơn, nhưng theo tôi không được chắc mạnh bằng. Ðó là những bài thơ hiện thực mang nhiều cái “mới” đang sinh thành trong đời sống chúng ta. Tố Hữu đã tìm biểu hiện quần chúng trong hình thái sinh hoạt điển hình tức là lao động, mà lao động chính là chiến đấu của quần chúng. Cũng do biểu hiện được sinh hoạt lao động, những bài thơ ấy mang một tình cảm lạc quan có cơ sở vững chắc, hướng rộng về tương lai. Tố Hữu chuyển sang hiện thực và đi vào biểu hiện quần chúng không phải bài nào cũng thành công và trong một bài, không phải câu nào cũng thành công. Nhưng phương hướng chung của thơ anh đã rất rõ. Tố Hữu không biểu hiện những con người quần chúng một cách cứng nhắc, giả tạo. Mỗi nhân vật của anh đều khá rõ nét, không lẫn lộn với nhau, những trường hợp anh đưa ra khác nhau và những tình cảm của nhân vật thơ anh cũng nhiều vẻ.
Nhà thơ nhìn vào cuộc sống thực và cố trung thành với quần chúng thực chung quanh anh chứ không suy luận ra những nhân vật, tình cảm cho đúng với một kiểu "hiện thực xã hội chủ nghĩa" nào tưởng tượng ra trong óc. Một điểm chứng tỏ tính chất hiện thực ấy của thơ Tố Hữu là những con người anh mô tả đều rất rõ bản sắc dân tộc. Anh bộ đội hiền lành "tì tay trên mũi súng" ấy là anh bộ đội Việt Nam của năm 1947, còn quen tì tay trên cán cuốc, khi ngồi nghỉ ngoài đồng. Bà mẹ ấy, em bé ấy, chị nông dân đi phá đường ấy, là bà mẹ, em bé, là chị nông dân Việt Nam. Khung cảnh đất nước, ánh sáng bầu trời, bóng tre, màu lúa, hay tiếng mưa trong núi, rồi tấm áo nâu hay vạt áo chàm, nét mặt con người, giọng cười câu nói, cho đến lối nhìn, nghe, lối ví von, tất cả những cái ấy quyện vào nhau tạo cho những bài thơ Tố Hữu một "không khí" dân tộc không thể nào đem tách ra thành từng điểm "một, hai, ba" được. Tính chất dân tộc làm cho những nhân vật "sống" một cách cụ thể, in sâu vào lòng người. Và ngược trở lại, chính nhờ đi vào đời sống quần chúng, mà Tố Hữu đã hiểu được đất nước và biết yêu dân tộc một cách sâu sắc hơn trước. Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người của đất nước, những người nông dân chịu thương chịu khó, làm nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bền gan bền chí, rất dễ vui, ngay trong kháng chiến gian khổ. Tình yêu ấy của Tố Hữu dịu dàng, đầm ấm, chan chứa kính mến và đượm cả xót thương, có đôi khi đến bùi ngùi. Mỗi khi đọc lại những câu bà ru cháu trong bài “Cá nước”, tôi không thể ngăn được mình như nghe thấy tiếng võng đưa kẽo kẹt, đầu một "xóm tre xanh" nào. Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau Bố đi đánh giặc còn lâu Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày Khi Tố Hữu tả Bà bủ nằm ổ chuối khô nhớ con suốt đến sáng, bài thơ ngắn gọn, những câu thơ gân guốc, và như những tảng đất của một luống cày, những cảnh đất nước phác ra vừa đủ, đời sống đất nước, người của đất nước rõ mồn một. Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời Ðêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa tết rồi hết năm. Và lòng người mẹ thương con ấy cũng là lòng thương không cùng của bà mẹ Việt Nam. Nhà còn ổ chuối lửa rơm Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con Bà bủ gan ruột bồn chồn Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi. Diễn tả sự sống dân tộc, cũng nhờ đi vào quần chúng, cố gắng nói tiếng nói của quần chúng, Tố Hữu đã tìm được tiếng nói Việt Nam trong sáng của ca dao. Trong những bài thơ nhiều hơi lãng mạn cũ, câu thơ của Tố Hữu mới đọc thì thấy bóng bẩy chải chuốt, nhưng đem soi ra thì còn sạn vì những bởi những với, những của, những chữ trừu tượng và cầu kỳ, những cách đặt câu trúc trắc hoặc lai. Trong một câu thơ còn thấy những chữ cố gắng gắn vào nhau để tạo nên hình ảnh. Ði vào quần chúng, tìm cách diễn đạt dân tộc, câu thơ của Tố Hữu trở nên liền mạch, chữ sau theo chữ trước, câu trước nối với câu sau, tự nhiên như chân tay nối với thân thể, như những bước đi của một người sống. Và tiếng nói Việt Nam luôn luôn hát lên thành âm nhạc trong thơ Tố Hữu. Có những câu thơ trong suốt, mới nhìn không thấy gì lạ cũng như khi ta nhìn vào một giòng suối. Nhưng đọc rồi nhớ mãi, cái ngọt của nước suối ấy uống không chán. Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan... hay là: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh... ... Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng Văn nghệ, số 77 (14.7.1955) 46. Nguyễn Ðình Thi Lập trường giai cấp và Ðảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn Ðặt vấn đề giai cấp như thế nào? Trong cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc có bạn nêu lên vấn đề "giai cấp tính" và cho rằng "giai cấp tính" ấy, tức là cái "điệu tâm hồn" của nhà thơ. Theo bạn đó, "giai cấp tính" của thơ Tố Hữu là tiểu tư sản cách mạng. Chứng cớ là tập thơ Việt Bắc không có bài nào nói đến Ðảng và giai cấp công nhân, và "điệu tâm hồn" của Tố Hữu nhiều buồn rơi rớt. Tôi chưa nói "điệu tâm hồn" của Tố Hữu có buồn rơi rớt hay không. Theo tôi nghĩ, trước hết cách đặt vấn đề "giai cấp tính là điệu tâm hồn" như trên đây, đã sai từ đầu và làm nẩy ra nhiều lầm lẫn. Mỗi nhà thơ có tâm hồn riêng, cũng như mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von. Có nhà thơ là dòng suối trong thấm thía, có nhà thơ là dòng thác dữ xô đẩy. Nói "tính chất vô sản" là "điệu tâm hồn" này hay "điệu tâm hồn" kia, cũng khác nào nói tất cả những cán bộ là phải mặc áo nâu, ai không mặc áo nâu thì không phải là cán bộ. Sự lầm lẫn nguy hiểm đó đưa tới chỗ bắt người sáng tác phải chịu cái "khuôn chết" của một thứ "giai cấp tính" mơ hồ. Thực tế của thời đại chúng ta có cả tiếng kèn lẫn tiếng sáo, dòng suối và dòng thác, và còn "trăm hoa đua nở" nữa. Nên trong thơ ca hiện thực, chúng ta cần rất nhiều tiếng nói khác nhau của các nhà thơ. Vấn đề chủ yếu là nhà thơ mưu lợi ích cho ai? Cho một thiểu số thống trị, hay cho nhân dân cách mạng? Cho những giai cấp bóc lột áp bức hay cho quần chúng lao động? Nhà thơ nhìn nhận xã hội này là của ai? Và tương lai là của ai? Ðó là lập trường, quan điểm giai cấp của nhà thơ. Quần chúng lao động là anh hùng của thời đại: Những bài thơ của Tố Hữu không nói trực tiếp đến Ðảng và giai cấp công nhân (tất nhiên nếu nói được thì càng tốt) nhưng đều phản ảnh sự thực căn bản là quần chúng lao động làm ra lịch sử. Thơ Tố Hữu cho ta thấy những người nông dân lao động bình thường chính là những người gánh cả kháng chiến trên vai và làm cho kháng chiến thắng lợi. Chỉ có tư tưởng của giai cấp công nhân, chỉ có Ðảng mới soi được ánh sáng đó vào ý thức và tâm hồn nhà thơ. Anh bộ đội rất hiền lành, trong bài “Cá nước”, cùng với người mẹ già của anh ở "đầu xóm tre xanh", và người vợ anh "cày cấy ruộng sâu tối ngày", đấy chính là những người đã làm cho tàu giặc đắm sông Lô... máu tanh đến bây giờ..., làm cho cánh đồng quê tháng mười, sau những ngày quân giặc lồng lộn, vẫn thơm nức mùa gặt hái. Anh chiến sĩ có thể đi đánh giặc ở tiền tuyến là vì ở quê nhà mẹ anh, vợ anh, hàng ngày cặm cụi làm ruộng nuôi con anh, và ngược trở lại, cánh đồng quê nhà anh đến mùa vẫn vàng, vẫn chín, cũng là vì có anh ở tiền tuyến. Tất cả kháng chiến là công sức của quần chúng và quần chúng bao giờ cũng vẫn còn, không sức gì tiêu diệt được, vì chỉ có bàn tay quần chúng hàng ngày làm ra được tất cả sự sống của xã hội. Bỏ mất ý nghĩa đó, thì đọc bài “Cá nước” chỉ còn thấy câu chuyện tâm tình của anh bộ đội nhớ nhà, có người lại nói "tiểu tư sản", hình như các anh bộ đội không biết nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ bao giờ! Những lời kể chuyện rất thực thà, đơn giản của "bà mẹ Việt Bắc" nghèo khổ cũng vậy, đó là những câu thơ anh hùng ca của thời đại chúng ta. Từ cuộc đời nô lệ, bữa đói bữa no, ngày đôi bát ngô, những thằng quan châu có quyền bắt người nghèo như bắt trâu bò, từ đêm dài tối tăm ấy, những đứa con "lành như đất" của các bà mẹ nông dân can đảm đã làm ra cách mạng. Ðến khi mẹ gặp lại con, nhà thơ viết mấy câu giản dị: Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau
Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi "Mé ơi đừng khóc Nước độc lập rồi!" Tôi nghĩ không có cảnh "Nhạc Phi với mẹ" nào so sánh được với cảnh gặp gỡ giữa người mẹ và người con ấy của cách mạng chúng ta. Có những bài thơ của Tố Hữu đã truyền cho chúng ta cảm thấy cái vĩ đại trong đời sống giản dị của quần chúng. Ðó không những vì tài năng của nhà thơ, mà căn bản là vì trong thực tế, chính quần chúng vĩ đại thực, chính quần chúng thực sự làm ra lịch sử bằng lao động hàng ngày của mình. Tin vào quần chúng thực: Tố Hữu tin vào quần chúng thực, quần chúng sống hàng ngày, có vui buồn, đôi khi còn những lo lắng quanh quẩn nữa. Nếu một anh chính trị viên thấy một chiến sĩ có lúc nhớ nhà mà đến phê bình luôn là "tiểu tư sản hiu hắt", thì anh chính trị viên ấy không hiểu gì về bộ đội và cũng không thể nào được bộ đội nghe theo. Một bà mẹ nghèo, đêm mùa đông sắp đến tết, bà cụ nằm trên ổ chuối khô bồn chồn nghĩ đến đứa con đi bộ đội, quên cả mình đang rét, đang khổ, chỉ thương con vất vả ở mặt trận. Nếu một anh cán bộ thấy bà mẹ ấy mà cho là "tiểu tư sản" hoặc lạc hậu, chẳng đáng nói đến, thì anh cán bộ ấy cũng không làm cán bộ được.
Nhà thơ là người chính trị viên, người cán bộ tâm hồn của quần chúng, nếu không dám đi vào quần chúng đang sống thực, chỉ tô vẽ ra một hình ảnh giả tạo của quần chúng, cho hợp với mong muốn của mình, thì những sáng tác chỉ là những mảnh giấy, chạm phải cơn bão thực của đời sống sẽ bị thổi rách tan, bay đi đâu mất. Tố Hữu biết người chiến sĩ trên đèo Nhe nhớ nhà lắm vì gia đình anh chiến sĩ ấy còn nghèo đói, vất vả, nhưng chính vì biết yêu gia đình quê hương mà người chiến sĩ đánh cho "giặc chạy re". Tố Hữu nhìn thấy lòng yêu con của bà mẹ nông dân chất phác là một lòng yêu không cùng. Vì thương đứa con ra đi "giải phóng" bà mẹ ấy có thể làm những việc chuyển trời. Và cũng chỉ có những đứa con của những bà mẹ ấy mới có thể chân đi đất mà dẫm qua dây thép gai của đồn giặc. Tố Hữu còn nhìn thấy trong đời sống vất vả, gian nan của quần chúng, đã hé lên ánh sáng của ý thức mới, ý thức người lao động từ nay làm chủ vận mệnh của mình, và tươi vui với cuộc sống mới do mình làm ra, do mình bảo vệ. Chú bé Lượm, với tiếng nói thật thà của đứa trẻ, đã bảo chú nó Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà. Chị nông dân Bắc Giang lo việc nhà, con mọn, nhưng trong đêm rét, vẫn vui vẻ phá đường, vì chị biết chị phá đường đây là để giữ lấy ngô sắn, giữ lấy đời sống cho đứa con đang ngủ ngoan đợi mẹ về. Thơ Tố Hữu yêu đời và tin tưởng ở tương lai là do lòng tin thực sự đó vào quần chúng. Ðảng tính trong thơ Tố Hữu chính là ở chỗ luôn luôn tin quần chúng, cố gắng gần quần chúng, nói đúng đời sống của quần chúng, nói thế nào cho quần chúng hiểu, tìm ra cái mới do quần chúng sáng tạo, để đem dắt dẫn cho quần chúng tiến lên. Từ quần chúng mà ra và trở về với quần chúng. Ðó là đảng tính của người chiến sĩ văn nghệ thực sự làm nhiệm vụ văn nghệ mà Ðảng giao cho, giữa cuộc chiến đấu gay go, phức tạp hàng ngày của quần chúng. Yêu nước trên cơ sở giai cấp: Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu gốc rễ cũng ở quần chúng. Thơ Tố Hữu tự hào, yêu từ ngọn lúa, ánh nắng của đất nước, là vì đất nước ấy ngày nay đã là của nhân dân. Ta thường nói: người cộng sản là người yêu nước nhất. Người cộng sản yêu quý đất nước vì nhìn thấy đất nước là bao nhiêu công sức mồ hôi nước mắt của những bàn tay lao động đời này qua đời khác làm ra. Người cộng sản tự hào về Ðảng vì thấy nhờ Ðảng soi đường mà quần chúng tự giải phóng được, sức lao động sáng tạo của nhân dân phát triển được đến vô cùng làm cho đất nước đẹp thêm mãi, và những con người trước kia chưa hề được sống như con người, nay mới thành con người thật. Không phải thơ Tố Hữu không còn khuyết điểm, nhưng chúng ta cần nhận rõ trong thơ Tố Hữu, những vấn đề Ðảng, giai cấp, quần chúng, dân tộc, không thể tách rời ra được. Mà sở dĩ như vậy là vì trong thực tế hàng ngày của xã hội ta, Ðảng, giai cấp, quần chúng, dân tộc không thể tách rời nhau được. Chúng ta thử nhìn chế độ thống trị của bọn địa chủ, và tư sản mại bản ở miền Nam nước ta hiện thời. Mồm chúng cũng nói dân tộc, nói quốc gia, giống nòi, nhưng quyền làm chúa đất và bóp cổ dân cày, quyền bóc lột áp bức của chúng đi ngược hẳn với nhân dân. Chúng không thể yêu nước vì chúng chỉ có bám đít đế quốc mới sống được. Nhìn thấy sông Khung hay cánh đồng Tháp Mười, nhìn thấy chú bé áo nâu nhảy nhót tự do trên đường, nhìn thấy một người trong sạch, khảng khái, chúng hằn học, muốn giết, muốn giam cầm, muốn phá hoại. Những bọn chó săn của đế quốc, địa chủ, dù có đưa ra chiêu bài nghệ thuật quốc gia dân tộc gì để lừa bịp những người ngay thật, chúng cũng không thể nào hiểu và yêu được nghệ thuật mang sức sống mạnh mẽ và trong sáng của nhân dân ta. Chúng chỉ có thể thích thú và bắt chước "lối sống" và thứ nghệ thuật vô tổ quốc kiểu Mỹ, dựa vào sự sa đọa và lưu manh hóa con người. "Nghệ thuật vị nghệ thuật" kiểu tư sản cũng vậy, có nói tìm cái mới, phá cái cũ, nhưng thực chất vẫn không thể thoát ra khỏi cái cũ được, thực chất nó cũ kỹ, lụ khụ, bế tắc và chỉ đẻ ra được những quái thai chết yểu, vì nó xa rời quần chúng, là những người đang thực sự làm đổi mới cuộc đời. Người yêu nước không thể không yêu nhân dân, và nếu đi vào nhân dân, thì không thể không thấy Ðảng sống giữa nhân dân, như ánh sáng của ban ngày.
Thơ Tố Hữu mang được hơi thở của quần chúng, và dạt dào lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, chính là nhờ có ánh sáng của Ðảng từ bên trong tâm hồn chiếu ra. Ðời sống riêng của nhà thơ và quần chúng: Trên bước đường chuyển vào thực tế quần chúng, nhà thơ Tố Hữu ít nói đến mình. Nhưng trong khi tìm cách tả cho đúng thực anh bộ đội, bà mẹ chiến sĩ hoặc em bé giao thông, thì Tố Hữu đã tự tạo được cái điệu thơ riêng, cái cá tính mà trong thơ Tố Hữu trước Cách mạng, ta chưa thấy thành hình hẳn. Trong khi nhà thơ nói đến những con người khác, mà ta nghe được rõ những điều không nói ra, trong tâm hồn anh. Trong khi đi vào cuộc sống chung quanh, nhà thơ đã tự tìm thấy mình. Nhưng ngoài việc mô tả quần chúng, Tố Hữu cũng tự đem mình ra nói trong mấy bài thơ: “Giữa thành phố trụi”, “Lên Tây Bắc”, “Bắn”. Cái "tôi" mà nhà thơ nói lên trong mấy bài thơ đó không lúc nào là một cá nhân tự quay vào mình, tự đóng cửa tâm hồn để soi gương, mà trái lại đó là một tâm hồn đang muốn suy nghĩ, ca hát, căm giận cùng với những cảnh, những người của kháng chiến. Nhưng đọc ba bài thơ, tôi cảm thấy một giọng nói, những tình cảm, những cảnh vật và con người khác với trong những bài thơ mô tả quần chúng. Khi tả những cảnh đẹp những tình cảm muốn bay lên, thì những cái đẹp và bay lên ấy của nhà thơ chơi vơi, có khi cầu kỳ: Ta lại bước đi trên đường đá rát Gõ gót vui nghe tiếng hát Của mỗi hòn gạch nát mỗi cành khô (“Giữa thành phố trụi”) Cái gõ gót ấy khác hẳn với ta đi lên đèo, ta leo lên dốc của anh chiến sĩ pháo binh. Một mặt khác, khi nói đến căm thù, những cảnh chết chóc mà nhà thơ đưa ra thường như một bức ảnh tỉ mỉ nhưng ghê rợn: Thây chúng nó tung lên từng miếng đỏ Ðầu chúng nó óc phọt ra ngoài sọ Trái lại, ta hãy nghe anh vệ quốc trong “Cá nước” nói đến quân giặc chết: Rồi Bông Lau, ỷ La, Ba trăm thằng tan xác Cành cây móc thịt da, Thối inh rừng Việt Bắc, Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước. Ta nghe thấy tiếng anh chiến sĩ cười thắng trận và ta cảm thấy lòng anh căm thù và khinh quân giặc chứ không phải anh thích thú cảnh máu xương. Trong bài “Bắn”, người đọc thấy nhà thơ nóng nẩy vì căm thù, nhưng anh không có việc giữa lúc chiến sĩ đang bận túi bụi và hết sức căng thẳng. Những lời giục "Sao mà lâu thế nhỉ", "Anh còn đợi chờ gì?" "Chúc đồng chí bắn thẳng vào cho đúng" "Ơi các anh xung kích dưới cỏ âm thầm", tất cả càng làm cho sự nóng nẩy, bồn chồn của nhà thơ trái ngược với người chiến sĩ mà ta cảm thấy đang lầm lì, bình tĩnh, cố gắng sửa soạn trận đánh cho thật chu đáo. Rồi khi tác giả gọi "Anh đại bác tôi chờ anh để hát", thì ta nghĩ: bao nhiêu chiến sĩ sắp lăn vào chỗ sống chết, đâu có phải chỉ để cho nhà thơ hát.
Nhìn chung, khi nhà thơ Tố Hữu tự nói đến mình (trong mấy bài thơ trên đây), tôi thấy những ý nghĩ và tình cảm của anh còn kém gắn bó với quần chúng. Do đó, sự sống trong thơ kém thực chất của lao động và chiến đấu, cảnh nhiều hơn tình, chữ nhiều hơn ý, lời nói nhiều hơn việc làm. Không phải đó là vì nhà thơ đã nói đến mình quá nhiều. Trái lại, trong ba bài thơ, ta chưa thấy rõ hình bóng cuộc đời của nhà thơ ra sao. Nhà thơ làm gì giữ thành phố trụi, hay giữa các chiến sĩ, anh ở đâu tới, đi đâu, anh có yêu ai không, tình yêu của anh có ảnh hưởng gì đến sự suy nghĩ hoặc lòng căm thù của anh không, tất cả những cái đó đều còn mờ nhạt, hoặc chưa có hình bóng. Ðời sống riêng của nhà thơ còn như bị nén lại, và hình như nhà thơ cho rằng những chuyện riêng của mình là không đáng nói giữa cuộc đấu tranh sống chết của quần chúng. Nhưng thực ra khi nhà thơ đã nói "tôi" thì chính quần chúng hỏi "đồng chí là ai, và đến có việc gì? " Cái "tôi" ấy lúc bấy giờ là của quần chúng chứ không phải của riêng nhà thơ nữa. Vì nhà thơ mới nói đến mình một cách chung chung nên những gắn bó của cuộc đời ấy với sự sống chết của quần chúng cũng mới chung chung. Có lúc tôi nghĩ trong bài “Bắn”, giả thử ý căm thù chung được gắn vào lòng căm thù riêng của thi sĩ, - ví dụ nhà thơ nhắc đến một kỷ niệm hay một người thân yêu trong đời mình, - thì có lẽ ý căm thù của bài thơ sẽ "sống" và mạnh lên rất nhiều. Và ví dụ nhà thơ nói rõ cho ta thấy vận mệnh của anh và của thơ anh gắn bó với công việc chiến đấu của các chiến sĩ như thế nào, thì có lẽ người đọc không bị cảm giác "nhà thơ không có việc" như khi nghe câu kết Anh đại bác tôi chờ anh để hát. Nhà thơ chỉ có thể lớn do thời đại phản ảnh vào bản thân mình. Tiếng sáo của nhà thơ chỉ có thể rung động và vang xa khi nào có luồng gió của thời đại, của nhân dân thổi vào. Nhưng đời sống riêng của nhà thơ mang được hơi thở của quần chúng, thì nó cũng sẽ lớn lao, sâu sắc và nhà thơ tự nói đến mình càng rõ rệt lại càng gần gụi với mọi người.
Theo tôi, những vấn đề riêng của nhà thơ mà gắn bó nhất với quần chúng là cái lao động của nhà thơ, tức là việc làm thơ, và tình yêu là một tình cảm căn bản của mọi người. Văn nghệ, số 78 (21.7.1955) 47. Nguyễn Ðình Thi Nhà thơ lớn lên với thời đại [3] Nay hòa bình, kháng chiến thắng lợi, những người kháng chiến chào Việt Bắc về xuôi. Cái ý nghĩa của tất cả lời chào ấy theo tôi cũng ở mấy câu, như một nút động thứ hai của bài thơ, khi nhìn về tương lai. Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng... Hòa bình tới, chiến tranh đã chấm dứt, "từ thôn quê chuyển về thành thị" đời sống sẽ thay đổi, nhưng chúng ta không muốn để cho phai nhạt mất những cái quý báu mà Việt Bắc đã rèn luyện cho mỗi con người trong kháng chiến: cái đạo đức giản dị, trong sạch, cái tinh thần chiến đấu gian khổ, tự lực cánh sinh. Ngay từ lúc ấy nhà thơ đã nhìn thấy phải đấu tranh với cái mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi, hưởng lạc, nó sẽ có thể nẩy ra trong lòng mỗi người, khi về giữa "nhà cao, phố đông, đèn sáng". Nhưng không, nhà cao chẳng khuất non xanh, ta về nhưng lòng ta vẫn ở với Việt Bắc.
Ta nhớ bà mẹ trên nương vẫn còn cháy lưng vì nắng, ta nhớ em gái hái măng, em phải được sống một cuộc đời mới. Chỉ có phấn đấu nữa, ra sức xây dựng đất nước mới của chúng ta, cho Việt Bắc trở nên giầu có sung sướng, ta mới làm cho lòng thương nhớ Việt Bắc thành sức mạnh. Nhận ra được phương hướng đó, bản hợp tấu khi thiết tha, khi hùng tráng, khi thánh thót, khi sôi sục, đã kết thúc bằng những âm thanh trong sáng chan hòa. Nhớ ông cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người Hồ Chủ tịch rời Việt Bắc để đưa dân tộc ta tới những ngày mới. Tư tưởng phải bám chắc lấy thực tế: Tôi đã phải trích dẫn nhiều, và nhắc lại những câu thơ mà bạn đọc đã nghe nhiều người giải thích mỗi người một cách. Và chính tôi khi trích dẫn hoặc phân tích cũng thấy rằng được mặt này thì thiếu mặt kia. Ðó là vì trong những câu thơ ấy đã có những con người, những sự việc, những tình cảm, ý nghĩ có thực của một giai đoạn lịch sử còn đang nóng hổi trong mỗi chúng ta.
Khi có dấu vết sự sống, thì tác phẩm nghệ thuật cũng mang được cái dồi dào của sự sống, nó làm cho mọi phân tích đều vẫn cứ chưa nói hết được. Nhưng tôi đã không ngại bỏ sót nhiều điểm khác mà nhằm theo dõi những bước cố gắng của Tố Hữu để làm cho thơ anh lớn lên về tư tưởng. Vì tôi nghĩ đó là một điều còn hiếm trong văn nghệ chúng ta ngày nay. Chúng ta còn ít suy nghĩ quá trong cuộc sống và trong sáng tác. Mỗi người làm nghệ thuật còn chưa nhận hết trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân. Nghệ thuật mới của chúng ta phải là nghệ thuật có những suy nghĩ sâu sắc, những tình cảm lớn lao. Phục vụ đối với người nghệ sĩ nghĩa là đem hết sức suy nghĩ, và đem hết tâm hồn vào cuộc đấu tranh của quần chúng. Nhưng sự suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ phải luôn luôn bắt nguồn và nhào nặn trong thực tế quần chúng, nó đổi mới và phát triển không ngừng. Và rút lại đến cùng, quyết định cho sự sáng tác, chính là thực tế cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật xét đến gốc vẫn là một phản ảnh của cuộc sống. Ðiều đó không làm giảm sút giá trị suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ mà trái lại nó bảo đảm cho sự suy nghĩ và rung cảm ấy không bao giờ cạn. Nhìn lại thơ Tố Hữu trong giai đoạn về sau, bên sự trưởng thành về tư tưởng, chúng ta cũng phải nhận thấy có một thiệt thòi rất lớn nó giới hạn sự sáng tác của nhà thơ và làm cho sự sáng tác ấy chật vật thêm rất nhiều: là nhà thơ không có nhiều điều kiện (hay là anh chưa cố gắng tạo cho mình thêm điều kiện?) sống hàng ngày giữa thực tế quần chúng, ở những nơi đấu tranh điển hình nhất, - như là ngày đầu kháng chiến. Do đó, cái phần "tươi mới", cái tính chất còn ròng ròng sự sống của thơ Tố Hữu về sau này không được như trước.
Những hình ảnh đạt nhất mà anh tạo ra là những hình ảnh có tính chất so sánh và tổng quát (Ðêm lịch sử Ðiện Biên sáng rực, v.v...). ít những hình ảnh dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong cảnh cụ thể đang sống trước mắt chúng ta. Thơ Tố Hữu về sau thiếu cái luồng rung động trong giây phút mà còn lâu mãi của bài “Cá nước”, hay “Lượm”, thiếu cái nhuần nhụy tự nhiên của những cái đang sống, của con người đi lại, nói cười, của ngọn lúa có hạt mưa phùn rơi, của cái đêm đông có gà gáy sáng. Tôi có cảm tưởng nhiều khi nói đến chiến sĩ ngoài mặt trận, hay chị dân công trên đèo, nhà thơ phải dùng sức tưởng tượng mà bồi đắp cho những hình ảnh về thực tế mà anh đã thâu lượm được từ trước. Có lúc sự bồi đắp ấy thành công vì cái vốn cũ của nhà thơ đủ dồi dào, nhưng cũng nhiều lúc, sự bồi đắp đó đuối sức, vì thực tế đã vượt lên những trình độ mới mà không sức tưởng tượng nào có thể đuổi kịp và giúp ta biểu hiện lên được. Những khi ấy, hình ảnh trong thơ trở nên chung chung, làm cho ý của câu thơ bị phơi trần ra, không sống lên linh động được. Ví dụ như những câu tả chiến sĩ Ðiện Biên: Chiến sĩ anh hùng Ðầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn, v.v... Nhưng cái ảnh hưởng rõ rệt và thiệt thòi nhất của sự thiếu thực tế đó là nhà thơ chưa sáng tác được về cải cách ruộng đất. Vì thực tế của cải cách ruộng đất là một thực tế vĩ đại và mới mẻ, nó làm cho nông thôn và người nông dân có một biến đổi về chất lượng, đang từ một thời đại lịch sử này sang một thời đại lịch sử khác, đang từ một cuộc sống kéo dài từ hàng nghìn năm sang hẳn một cuộc sống mới.
Bản thân nhà thơ vốn đã không sống cuộc đời bị địa chủ áp bức bóc lột, mà bây giờ lại không được tham gia trong một phần nào vào thực tế cuộc đấu tranh của nông dân đang lật nhào giai cấp địa chủ, thì tôi nghĩ thật khó tạo ra hình ảnh gì cho sống, cho thực về cuộc đấu tranh đó. Cái vốn cũ của nhà thơ về nông thôn và nông dân, tới cuộc cải cách ruộng đất, đã bị vượt quá xa. Và thiếu thực tế ấy, thì sự suy nghĩ, tình cảm, ý thức giai cấp của nhà thơ, cũng còn thiếu hẳn một phần căn bản, và không nẩy nở đến mức có thể của nó, cũng như mũi tên còn giương trên nỏ mà chưa có đủ sức để bắn đi và chưa thật rõ đích để bắn đúng. Con đường của thơ Tố Hữu: Thơ Tố Hữu còn đang tiến và có những thành công làm cho chúng ta thấy được rằng nó sẽ còn tiến xa. Theo tôi nghĩ, thơ Tố Hữu chưa phải đã phản ảnh được đầy đủ cuộc kháng chiến và thời đại vĩ đại của chúng ta, có thể nói nó phản ảnh còn nhiều thiếu sót lớn nữa. Nhưng điều căn bản là con đường mà thơ Tố Hữu vạch ra đã rõ, và là con đường đúng: đó là con đường phục vụ lợi ích của quần chúng, bám chắc lấy cuộc đấu tranh của quần chúng và không lúc nào rời ánh sáng chính sách của Ðảng. Ðó là con đường đi hẳn vào thực tế, và đem hết sức suy nghĩ và tình cảm để tìm hiểu và soi sáng thực tế ấy. Con đường tiến lên của thơ Tố Hữu sẽ do thực tế cuộc đấu tranh của dân tộc của giai cấp làm cho rõ nét, và nẩy nở thêm. Tôi chỉ có mấy ý kiến, cũng như những đề nghị còn chưa được chắc chắn, cần suy nghĩ và bàn thêm. Tôi cảm thấy Tố Hữu cần đi vào thực tế nhiều hơn nữa. Tôi vẫn không thể quên những ngày anh ngồi bên ổ chuối của bà bủ nghe bà kể chuyện hoặc đi theo đại đội pháo binh đầu tiên của quân đội ta. Ngày nay, thực tế quần chúng đã tới một quy mô khác, và nhà thơ cũng đã ở một trình độ khác. Nhưng dù bằng cách nào, nhà thơ vẫn cần được thấy đời sống hàng ngày và cuộc đấu tranh của quần chúng ở những nơi và những mặt điển hình. Ðó vẫn là cái nguồn căn bản của tất cả mọi sáng tác. Tôi mong nhiều sáng tác của Tố Hữu thuộc về loại kể chuyện hoặc mô tả nhân vật quần chúng, cùng một dòng với những bài thơ của anh ngày đầu kháng chiến. Vì tôi thấy những bài đó đã đánh dấu một bước chuyển căn bản trong thơ của anh. Và tôi nghĩ nhiệm vụ thứ nhất của mọi ngành nghệ thuật, kể cả thơ ca, vẫn là biểu hiện thực tế cuộc sống, biểu hiện những con người, nhất là những người lao động, là anh hùng của thời đại chúng ta. Nếu nhìn vào truyền thống thơ ca của dân tộc ta, từ những bài ca dao nói chuyện con cò đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi nghĩ truyền thống lớn ấy vẫn là mô tả và biểu hiện con người và xã hội. Trong khi biểu hiện cuộc sống, dưới ánh sáng của tư tưởng Mác Lê-nin, tôi thấy Tố Hữu cần đi sâu hơn nữa vào cái lao động sáng tạo của con người. Trong đấu tranh gay go hàng ngày của quần chúng, luôn luôn có sáng tạo của lao động, và có tất cả những quan hệ tỉ mỉ của đời sống lao động. Có tình yêu, có vợ chồng, con cái, có bè bạn, xóm giềng, có những vất vả của con người làm ra hạt gạo, miếng vải. Biểu hiện cuộc đấu tranh của quần chúng mà thiếu những cái đó là thiếu mất một phần căn bản. Có đi sâu vào đời sống và lao động hàng ngày của quần chúng mới có thể nói thẳng với lòng người và những tư tưởng mới tới được mức thật và giản đơn, tước bỏ được mọi hoa hòe hoặc khung khổ không cần thiết. Tại sao đã bao năm, chưa có một bài thơ của Tố Hữu tả tình yêu của anh chiến sĩ mà nhà thơ yêu mến hết sức? Và tại sao chưa có một bài thơ tình yêu của Tố Hữu, hoặc những bài cho ta thấy rõ đời sống riêng của nhà thơ hơn? Gần đây, bài “Quê mẹ” đã có một cái gì mới về phương diện ấy, nhà thơ đã thoải mái và chân thành mà kể chuyện mình, và câu chuyện riêng của đời anh đã gắn liền với vận mệnh của Huế và của mọi người. Vì khi nhà thơ biết nhìn sâu sắc và khách quan vào thực tế của bản thân thì có nhiều khía cạnh thấy được dấu vết của thời đại trong ấy. Cuối cùng, tôi nghĩ Tố Hữu đã trả về cho chúng ta cái nguồn dân tộc và tiếng nói dân tộc trong thơ. Câu thơ của anh trong những bài như “Việt Bắc”, hay “Quê mẹ” đã có dáng dấp câu thơ cổ điển, đồng thời nó mang sự suy nghĩ và cách nói mới của thời đại chúng ta. Nhưng câu thơ của Tố Hữu còn chưa được đều, có lẽ vì nhà thơ chưa có công phu gọt rũa hơn. Tôi mong đợi anh chú ý nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc hơn nữa, và làm cho hình thức ấy không đóng khung lại, mà phát triển lên. Ðến lúc thơ Việt Nam cần đón lấy những tìm tòi rất lớn hiện nay của những nhà thơ tiền tiến trên thế giới, nhất là ở các nước bạn. Và nhà thơ Việt Nam cũng đến lúc có trách nhiệm đem tiếng nói của dân tộc chúng ta góp chung vào văn nghệ quốc tế.
Văn nghệ, số 79 (28.7.1955)
[1]Chỗ này trích thơ sai chệch một vài chữ (NST).[2]Có lẽ phải là “rất dào dạt” (bản gốc in sai?) (NST).[3]Ba bài đăng báo của Nguyễn Ðình Thi về tập Việt Bắc thật ra nằm trong một bài viết chung. So với toàn văn bài viết đó (“Tập thơ Việt Bắc” trong Mấy vấn đề văn học của Nguyễn Ðình Thi; in lần 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.143-177) thì các bài đăng báo bỏ một đoạn dài 8 trang, nằm giữa kỳ đăng thứ hai và thứ ba. Sưu tập này không in thêm đoạn đó (NST).
=
44. Tú Mỡ
Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu
Có nhiều người bảo rằng chính trị làm khô khan con người cho nên thơ kháng chiến thiếu tính chất lãng mạn là hồn của thơ. Tập thơ Việt Bắc đã chứng tỏ rất hùng hồn rằng tưởng như vậy là sai, và thơ Tố Hữu là tiêu biểu nhất về lãng mạn Cách mạng, lãng mạn của thơ kháng chiến. Một đặc điểm của thơ Tố Hữu là rất giàu tình cảm và một đặc điểm nữa là tình cảm ấy chính là tình cảm của nhân dân. Người kháng chiến mừng gì hơn mừng chiến thắng. Tố Hữu đã tả cái mừng đó một cách hồn nhiên: Trận chợ Ðồn, chợ Rã Ta đánh giặc chạy re Hai đứa cười ha hả và rất tưng bừng: Tin về về nửa đêm Hỏa tốc, hỏa tốc Ngựa bay lên dốc Ðuốc cháy sáng rừng Chuông reo tin mừng Loa kêu từng cửa Làng bản đỏ đèn đỏ lửa. Tố Hữu thực đã thông cảm với nhân dân khi tả cái mừng của một “Bà mẹ Việt Bắc” gặp con bộ đội về thăm nhà, vui sướng rất chất phác khi trông thấy con đã lớn lên trong kháng chiến cả về thân thể, cả về tinh thần: Thoạt trông thấy nó Tôi chẳng biết ai Nó cao hơn bố Tôi chỉ bằng vai ... Bộ nó rõ oai.... ... Trước nó lam lũ Bây giờ thấy sang... Và bài “Ta đi tới” đã nói lên tất cả nguồn phấn khởi của quần chúng nhân dân sau khi hòa bình đã được lập lại, được "đi giữa ban ngày" bước "ung dung trên đường cái". Thật là tả đúng sự vui sướng thông thường của nhân dân. Ðiểm vào đó sự rung cảm của nhà thơ nhìn theo: Mây nhở nhơ bay, Hôm nay trời đẹp lắm Mây của ta, thắm của ta... [1] Người cách mạng giận ghét gì hơn giận ghét địch. Tố Hữu đã tả cái căm thù anh dũng của một người "lính Cụ Hồ" khi nghe bà Mé kể lại tội ác của quân cướp nước. Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi. Mẹ ơi đừng khóc Nước độc lập rồi. Cái căm thù ấy nổi bật trong lời của chiến sĩ Ðiện Biên Phủ quyết tâm tiêu diệt giặc, không để chúng chạy thoát. Chúng bay chui xuống đất, Chúng bay chạy đằng trời Trời không của chúng bay Ðạn ta rào lưới sắt Ðất không của chúng bay Ðai thép ta thắt chặt Lời thơ thật là mạnh và rất "bộ đội".
Tố Hữu đã nói lên tất cả lòng khinh bỉ của nhân dân căm ghét lũ tay sai của địch, chỉ trong bốn câu thơ tứ tự: Thằng châu con chó Cúp đuôi chạy dài Mả bố nhà nó Nịnh Tây hết thời Ở đây ta thấy Tố Hữu, nhà thơ trữ tình lại kiêm cả trào phúng rất chua cay. Một nhược điểm của thơ Tố Hữu mà nhiều bạn phê bình đã nói tới, là cái rây rớt của lãng mạn tiểu tư sản còn toát ra một thứ buồn rười rượi trong một vài bài thơ. Như bài “Giữa thành phố trụi” với những câu: Ðông lạnh ghê người Chiếc lá vèo rơi xuống cỏ Tường xiêu loét đỏ Mái gẫy sườn đen Mảng buồng son kính vỡ rêu lên cho ta thấy Tố Hữu còn để tâm hồn vương víu cái cảm sầu của những nhà "thơ thẩn" lối cũ, nhưng chỉ là thoảng qua chốc lát, ta lại thấy nhà thơ cách mạng nổi dậy ngay trong câu: Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá, ngày về quyết xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây từng giờ. Nhà thơ cách mạng của chúng ta khác nhà thơ thường ở chỗ đó. Trong bài “Lên Tây Bắc”, ta thấy Tố Hữu có cái xúc cảm như Bà huyện Thanh Quan với những câu: Cỏ ngập đồng khô mờ lối cũ Tan hoang làng cháy khói căm thù trong đó ta thấy cái căm thù không được hừng hực, và có cái cảm xúc như Chinh phụ ngâm với những câu: Lại những ngày đi vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt nước lưng bương Ðêm mưa rình giặc tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương Tôi chắc người chiến sĩ đi lên Tây Bắc đánh giặc chả ai có những xúc cảm như vậy. Ðến bài “Bao giờ hết giặc” thì ta thấy Tố Hữu tả thực chứ không phải hiện thực. Tố Hữu đã nói đúng tâm lý một Bà Bủ tầm thường nằm ổ chuối khô, nhớ con đi bộ đội, thương con gian khổ, khiến người đọc chỉ thấy cái khổ. Tuy trong bài thơ ấy có câu: Càng lo, càng nghĩ, càng căm, càng thù nhưng câu ấy không đủ vớt vát lại những cái bi đát, và cái mà ý kiến riêng tôi cho là nguy hiểm nhất là không rõ rệt Bà Bủ căm thù gì, căm thù ai. Tình thương yêu của thơ Tố Hữu đất dào dạt. [2] Tố Hữu yêu anh bộ đội. Trong bài “Cá nước”, có người thấy tả những cử chỉ thường thường, gặp nhau chỉ trong chốc lát "chia nhau điếu thuốc lào" thì cho là hời hợt, nhưng tôi thấy cử chỉ thường thường ấy ngụ một tình thân mật rất thắm thiết. Thơ Tố Hữu tài tình và lý thú cũng ở chỗ đó. Tố Hữu yêu chú bé liên lạc, điển hình của những cháu trung dũng của Bác Hồ. Ngay trong những nét phác tả chú bé ấy ta đã thấy yêu rồi. Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhẩy trên đường vàng. Tấm lòng tôn kính lãnh tụ đã được tả trong bài “Sáng tháng Năm”. Tác phong giản dị của Hồ Chủ tịch chỉ tóm tắt trong ba câu thơ: Bác ngồi Bác viết, nhà sàn đơn sơ. Con bồ câu trắng ngây thơ Nó đi tìm thóc nhở nhơ quanh nhà. Câu cuối này hình như trước là "Nó đi tìm thóc trên bồ công văn", sau mới đổi lại, nhưng tôi cho rằng cứ để như cũ lại hay hơn. Và chỉ một câu này: Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh. Môi ta thầm kêu: "Bác Hồ Chí Minh!" đủ tả lòng nhân dân luôn luôn hướng về Hồ Chủ tịch, tin tưởng vững chắc vào sự lãnh đạo sáng suốt của Người. Lòng bộ đội yêu quý vũ khí đã được tả rất vui nhộn và hóm hỉnh trong bài “Voi”, khiến ta thấy khẩu đại bác thực như một người bạn chiến đấu của các chiến sĩ pháo binh. Tình quyến luyến của những người kháng chiến đối với núi rừng Việt Bắc đã được nói lên trong bài thơ từ biệt. Tuy có vẻ ngậm ngùi như tình của đôi người yêu trước khi chia tay, nhưng rất đằm thắm, trung hậu trong những lời gắn bó, hẹn hò. Tình quốc tế đã được nói lên trong bài “Em bé Triều Tiên” với câu: Em bé ơi giữa súng rền Ngày mai tươi mát hát trên đất Triều và trong bài “Ðời đời nhớ ông” với câu: Yêu con, yêu nước, yêu nòi, Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu. thực là những lời thơ nồng nhiệt, tả được tình quốc tế của đại chúng. Thơ Tố Hữu rất nhiều hình ảnh đẹp. Tuy công việc bề bộn, nhưng nhà thơ trong Tố Hữu cũng cố tranh thủ được những phút rung cảm với thiên nhiên, nên mới nẩy ra những câu tuyệt đẹp như: Trên đồi quê trăng non mới hé Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Lá ngụy trang reo với gió đèo Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương Nhớ sao tiếng sáo rừng chiều Chầy đêm nện cối đều đều suối xa Do đó, thơ Tố Hữu tươi sáng, lai láng hồn thơ dân tộc. Lời thơ của Tố Hữu rất trau chuốt, nôm na như ca dao, vần phong phú, âm điệu êm dịu. Mọi tầng lớp nhân dân, quân đội, cán bộ, tuy sở thích khác nhau nhưng mỗi người đều thấy trong tập thơ Việt Bắc những bài vừa ý riêng mình để ngâm nga, học thuộc, nhớ lâu. Riêng tôi, tôi thấy Tố Hữu đã thành công nhất trong những bài viết theo thể thơ vốn cũ, quen thuộc với đại chúng. Những bài ấy được phổ biến và truyền tụng sâu rộng hơn cả. Trong những cuộc phê bình trước đây, các bạn đã phân tích khá nhiều về vấn đề hiện thực trong thơ Tố Hữu. Tôi cũng đồng ý là một tập thơ Việt Bắc chưa phản ảnh đầy đủ tất cả mọi mặt của cuộc kháng chiến anh dũng của quân dân ta, lý do tại Tố Hữu vì hoàn cảnh công tác chưa được sống thực sát với quần chúng công nông binh. Nhưng tôi thấy tập thơ Việt Bắc đã nói lên được những nét điển hình và những khía cạnh tiêu biểu tình cảm của những người kháng chiến, và trong số nhà thơ cách mạng của chúng ta - thực ra còn hiếm hoi quá - Tố Hữu là người tiêu biểu nhất, và có thể coi là một nhà thơ lãng mạn cách mạng của thời đại. 24-5-1955 Văn nghệ, số 75 (20.6.1955) 45. Nguyễn Ðình Thi
Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng Mở cuốn sách nhỏ in những bài thơ của Tố Hữu, mắt tôi đọc, nhưng lòng tôi đã như động tới những ngày không thể quên, từ những năm mới kháng chiến. Tôi nhớ lại những ngày lo âu hồi cuối năm 1947, khi quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn và ào ạt tiến lên Việt Bắc. Tố Hữu vừa ở khu Bốn ra, một lần anh đi với tôi từ Thái Nguyên xuống Bắc Giang. Tôi vẫn nhớ tiếng cười, tiếng huýt sáo và giọng nói chuyện vui của anh, trên dọc đường, gặp mỗi đoàn bộ đội, mỗi bóng áo chàm, mỗi sườn đồi trồng sắn, mỗi ngã ba, tôi luôn luôn có cảm tưởng như anh sắp cất tiếng hát. Rồi những ngày quân Pháp từ trên đổ về, từ dưới tràn lên, những đêm mưa rét, súng nổ, lửa cháy, chúng tôi sống giữa những gia đình gồng gánh chạy tơi tả, và những anh bộ đội, du kích bắn nhau với giặc, bám lấy từng bờ đá, gốc tre. Sau trận Sông Lô, đi qua những làng cháy trụi bên ven con sông im lặng, chúng tôi gặp những mái lá còn xanh của đồng bào mới trở về. Quân giặc cuối cùng đã phải tháo chạy. Khắp Việt Bắc, cuộc sống lại nhóm lên. Một đêm, trong một xóm nhỏ vùng núi Phú Thọ, Tố Hữu thức suốt sáng, làm bài thơ ca ngợi chiến thắng và những người làm nên chiến thắng ấy: đó là bài “Cá nước”. Chiến thắng Việt Bắc của bộ đội và nhân dân ta đã làm cho Tố Hữu tạo nên được một chiến thắng Việt Bắc trong thơ. Anh viết liền một hơi những bài “Bà mẹ Việt Bắc”, “Lượm”, “Bao giờ hết giặc”, rồi đến “Bầm ơi”, “Voi”, “Giữa thành phố trụi”, “Phá đường”. Tôi cùng đi với anh theo các đồng chí pháo binh, ban ngày hành quân, đến tối, anh trung đội trưởng chạy tìm cho chúng tôi một ống dầu dọc, và Tố Hữu đã viết ngay bài hành khúc “Voi ơi”, để sáng hôm sau, bộ đội có thơ hát cho nhẹ vai gánh đại bác.
Anh nói chuyện với bà cụ chủ nhà chúng tôi ở, và anh ngồi bên bếp viết ngay “Bà bủ không ngủ, bà lo bời bời”. Những con người thực, những sự việc thực của đời sống hàng ngày lúc đó như một luồng sống ào ạt thổi vào tâm hồn anh, làm nảy lên những bài thơ như "măng mọc sau mưa xuân", như những đóa hoa đồng tươi thắm. Thơ Tố Hữu trước cách mạng là ngọn lửa cháy trong tâm hồn một người tuổi trẻ yêu nước, yêu đời, yêu những người cực khổ, được Ðảng chỉ cho thấy con đường cách mạng, nhưng chưa kịp biết cuộc sống thực, cuộc sống cơm áo, mồ hôi nước mắt của quần chúng lao động. Trong nhà ngục, chí bất khuất của người thanh niên vẫn gầm lên hoặc hát lên tha thiết, anh quyết vì Ðảng chiến đấu đến cùng, ngọn lửa của anh luôn luôn cháy bỏng, - nhưng khi lắng nghe tiếng đập của cuộc sống bên ngoài, anh mới nghe thấy tiếng chim kêu, gió thổi, tiếng dơi chiều, tiếng ngựa hí. Khi anh nói dưới đường xa, nghe tiếng guốc đi về, mà bỗng làm ta lay động cả tâm hồn, là vì anh vừa nói đến một cái gì rất thực trong cuộc sống hàng ngày của những con người thực. Tiếng hát của Tố Hữu lúc ấy sôi nổi và cảm động, nhưng còn thiếu gốc rễ trong những cái rất thực ấy của đời sống quần chúng. Vì vậy tiếng hát của anh chưa thoát ra được ảnh hưởng của thơ ca lãng mạn bấy giờ. Ta nghe trong “Ðá” uy nghiêm trầm mặc dưới trời tro còn hơi thở của Ðiêu tàn, hoặc trong “Bạn đời ơi”, vui chút với trời hồng còn phảng phất câu thơ Xuân Diệu. Ngay lúc đó, có những bài thơ của Tố Hữu đã bắt được rễ chắc hơn trong đời sống thực của nhà tù và những con người thực anh gặp lúc đó, trong cuộc đấu tranh hàng ngày của những chiến sĩ cách mạng, như bài “Nghĩa đời trong ba tiếng”, “Châu Ro”, hoặc đoạn thơ thất ngôn “Than ôi, xưa cũng chốn này đây” trong bài “Tiếng hát đi đầy”. Những khi ấy, hơi thơ hiện thực đã chớm lên. Những bài ca dao tiền khởi nghĩa, nói lên lời của nông dân chống đi phu, chống thóc tạ, trồng đay, cũng mở ra một hướng mới. Nhưng nhìn về căn bản, cho đến sau cách mạng, khi Tố Hữu nói lên niềm vui giải phóng, khi anh ca ngợi “Tình khoai sắn”, khi anh muốn bay múa trong Ðêm hoa đăng kỷ niệm cách mạng, thơ của anh vẫn là tự biểu hiện của anh, và tâm hồn tự ca hát ấy vẫn còn chưa bắt liền được mạch sống với những vất vả, lo lắng, vui buồn của quần chúng. Kháng chiến nhào nặn lại xã hội Việt Nam, như trong một trận động đất. Quần chúng đông đảo vào trong lửa cháy, thành những người anh hùng mới, đổ máu giành sống còn cho Tổ quốc, đổ mồ hôi làm thay đổi cuộc đời. Bước chuyển biến trong thơ Tố Hữu phản ảnh sự thay đổi lớn lao ấy của thực tế Việt Nam, mà con mắt đảng viên của anh đã nhận ra. Nhà thơ không đặt vấn đề tự nói mình nữa mà muốn nói anh bộ đội, bà cụ áo chàm, em bé giao thông, những con người thực hàng ngày sống chung quanh, những con người bình thường mà vĩ đại. Thơ Tố Hữu chuyển mạnh, đi hẳn vào thực tế của quần chúng cách mạng. Bước chuyển ấy trước hết là chuyển đề tài. Nhưng chỉ chuyển đề tài mà thôi chưa đủ. Có nhà thơ mượn đề tài công nông binh để tự biểu hiện mình, có người muốn nói công nông binh nhưng đi vào quần chúng như "chắt chắt vào rừng xanh". - Muốn biểu hiện quần chúng một cách trung thành, nhà thơ phải hiểu quần chúng, thuộc quần chúng, tự hòa vào quần chúng, đến trình độ nghe được bằng tai của quần chúng, nhìn được bằng mắt của quần chúng, nói được bằng tiếng nói của quần chúng. Bước chuyển của Tố Hữu sang thơ hiện thực, không những chỉ là chuyển đề tài, mà là chuyển cả hồn thơ và tiếng nói. Ðó là nhờ trong nhà tù, trong hoạt động cách mạng, anh đã thu được một cái vốn sống của quần chúng mà trước kia anh chưa biết đường nói ra rõ ràng. Thực tế quyết liệt của kháng chiến ném công việc làm thơ vào giữa cuộc hành quân vất vả của pháo binh hay nỗi lo âu thắt ruột của bà mẹ chiến sĩ, sự lay động đến gốc rễ của tâm hồn người làm thơ và cái trách nhiệm sâu xa mà người làm thơ cảm thấy trên vai, khi nhìn vào những sống chết hàng ngày của quần chúng, - tất cả những cái đó đã giúp cho Tố Hữu đập vỡ được nốt cái vỏ lãng mạn cũ còn kìm thơ anh lại. Mới cách ít lâu, anh còn viết: Nhân loại trườn lên trên biển máu. Ðang mơ xuân đến với môi cười. những câu đẹp, chữ và hình ảnh lôi cuốn người làm thơ. Ðến nay anh nói: Tôi ở Vĩnh Yên lên, Anh trên Sơn Cốt xuống, Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi Tình cảm và tiếng nói của anh trở lên mộc mạc đơn giản, - cái đơn giản thực thà của cuộc chiến đấu nghiêm khắc. Tôi còn muốn dẫn nhiều đoạn thơ của anh, đạt tới cái thật chất đơn giản của sự sống. Những “tiếng guốc đi về” ngày trước ít vang động trong thơ anh. Nay trong mỗi bài đều nghe thấy tiếng thở của đời sống, của những con người ta gặp hàng ngày. Từ cây tre, tảng đá, từ tiếng chim kêu, gà gáy đều thay đổi. Xưa, trên đường đi đày, giữa đèo cao núi thẳm anh nghe Gà đâu gáy động im lìm Mơ mơ mấy xóm tranh chìm trong mây Nay cùng anh vệ pháo, anh hát: Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng Ta đi qua rừng Lau tre san sát Voi nghe ta hát Núi dội vang lừng Ta bước lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi, khó nhọc Khó nhọc cũng trèo Tôi không thể không dừng lại bài “Voi” ấy của Tố Hữu, một bài thơ mà tôi nghĩ là rất quý cho thơ Việt Nam. Tôi muốn chép lại cả bài thơ ở đây. Trong tiếng hát của anh pháo binh chúng ta nghe như vang dội tiếng hò của người kéo gỗ. Bài thơ vui đùa mà chắc nịch, thật lạc quan, nó mang tính chất chiến đấu của những người lao động, thấy rằng do sức lao động của mình mà làm được tất cả. Lao động ấy xưa kia là nỗi khổ nhục, vì phải dùng để cung phụng cho bọn áp bức bóc lột, thì ngày nay trở nên vui tươi, vì nó phục vụ cho người lao động. Tôi thiết nghĩ cái điển hình nhất trong đời sống quần chúng chính là lao động, là chiến đấu. Bài “Voi” đã đem vào thơ ta tiếng hát khỏe mạnh và tự hào của quần chúng lao động và chiến đấu, Cùng một giòng ấy, bài “Phá đường” uyển chuyển hơn, nhưng theo tôi không được chắc mạnh bằng. Ðó là những bài thơ hiện thực mang nhiều cái “mới” đang sinh thành trong đời sống chúng ta. Tố Hữu đã tìm biểu hiện quần chúng trong hình thái sinh hoạt điển hình tức là lao động, mà lao động chính là chiến đấu của quần chúng. Cũng do biểu hiện được sinh hoạt lao động, những bài thơ ấy mang một tình cảm lạc quan có cơ sở vững chắc, hướng rộng về tương lai. Tố Hữu chuyển sang hiện thực và đi vào biểu hiện quần chúng không phải bài nào cũng thành công và trong một bài, không phải câu nào cũng thành công. Nhưng phương hướng chung của thơ anh đã rất rõ. Tố Hữu không biểu hiện những con người quần chúng một cách cứng nhắc, giả tạo. Mỗi nhân vật của anh đều khá rõ nét, không lẫn lộn với nhau, những trường hợp anh đưa ra khác nhau và những tình cảm của nhân vật thơ anh cũng nhiều vẻ.
Nhà thơ nhìn vào cuộc sống thực và cố trung thành với quần chúng thực chung quanh anh chứ không suy luận ra những nhân vật, tình cảm cho đúng với một kiểu "hiện thực xã hội chủ nghĩa" nào tưởng tượng ra trong óc. Một điểm chứng tỏ tính chất hiện thực ấy của thơ Tố Hữu là những con người anh mô tả đều rất rõ bản sắc dân tộc. Anh bộ đội hiền lành "tì tay trên mũi súng" ấy là anh bộ đội Việt Nam của năm 1947, còn quen tì tay trên cán cuốc, khi ngồi nghỉ ngoài đồng. Bà mẹ ấy, em bé ấy, chị nông dân đi phá đường ấy, là bà mẹ, em bé, là chị nông dân Việt Nam. Khung cảnh đất nước, ánh sáng bầu trời, bóng tre, màu lúa, hay tiếng mưa trong núi, rồi tấm áo nâu hay vạt áo chàm, nét mặt con người, giọng cười câu nói, cho đến lối nhìn, nghe, lối ví von, tất cả những cái ấy quyện vào nhau tạo cho những bài thơ Tố Hữu một "không khí" dân tộc không thể nào đem tách ra thành từng điểm "một, hai, ba" được. Tính chất dân tộc làm cho những nhân vật "sống" một cách cụ thể, in sâu vào lòng người. Và ngược trở lại, chính nhờ đi vào đời sống quần chúng, mà Tố Hữu đã hiểu được đất nước và biết yêu dân tộc một cách sâu sắc hơn trước. Lòng yêu nước của Tố Hữu trước hết là lòng yêu những người của đất nước, những người nông dân chịu thương chịu khó, làm nhiều mà nói ít, hiền lành mà anh dũng, giản dị mà trung hậu, bền gan bền chí, rất dễ vui, ngay trong kháng chiến gian khổ. Tình yêu ấy của Tố Hữu dịu dàng, đầm ấm, chan chứa kính mến và đượm cả xót thương, có đôi khi đến bùi ngùi. Mỗi khi đọc lại những câu bà ru cháu trong bài “Cá nước”, tôi không thể ngăn được mình như nghe thấy tiếng võng đưa kẽo kẹt, đầu một "xóm tre xanh" nào. Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau Bố đi đánh giặc còn lâu Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày Khi Tố Hữu tả Bà bủ nằm ổ chuối khô nhớ con suốt đến sáng, bài thơ ngắn gọn, những câu thơ gân guốc, và như những tảng đất của một luống cày, những cảnh đất nước phác ra vừa đủ, đời sống đất nước, người của đất nước rõ mồn một. Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời Ðêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa tết rồi hết năm. Và lòng người mẹ thương con ấy cũng là lòng thương không cùng của bà mẹ Việt Nam. Nhà còn ổ chuối lửa rơm Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con Bà bủ gan ruột bồn chồn Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi. Diễn tả sự sống dân tộc, cũng nhờ đi vào quần chúng, cố gắng nói tiếng nói của quần chúng, Tố Hữu đã tìm được tiếng nói Việt Nam trong sáng của ca dao. Trong những bài thơ nhiều hơi lãng mạn cũ, câu thơ của Tố Hữu mới đọc thì thấy bóng bẩy chải chuốt, nhưng đem soi ra thì còn sạn vì những bởi những với, những của, những chữ trừu tượng và cầu kỳ, những cách đặt câu trúc trắc hoặc lai. Trong một câu thơ còn thấy những chữ cố gắng gắn vào nhau để tạo nên hình ảnh. Ði vào quần chúng, tìm cách diễn đạt dân tộc, câu thơ của Tố Hữu trở nên liền mạch, chữ sau theo chữ trước, câu trước nối với câu sau, tự nhiên như chân tay nối với thân thể, như những bước đi của một người sống. Và tiếng nói Việt Nam luôn luôn hát lên thành âm nhạc trong thơ Tố Hữu. Có những câu thơ trong suốt, mới nhìn không thấy gì lạ cũng như khi ta nhìn vào một giòng suối. Nhưng đọc rồi nhớ mãi, cái ngọt của nước suối ấy uống không chán. Nhà em phơi lúa chưa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan... hay là: Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh... ... Ca lô đội lệch Mồm huýt sáo vang Như con chim chích Nhảy trên đường vàng Văn nghệ, số 77 (14.7.1955) 46. Nguyễn Ðình Thi Lập trường giai cấp và Ðảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn Ðặt vấn đề giai cấp như thế nào? Trong cuộc thảo luận về tập thơ Việt Bắc có bạn nêu lên vấn đề "giai cấp tính" và cho rằng "giai cấp tính" ấy, tức là cái "điệu tâm hồn" của nhà thơ. Theo bạn đó, "giai cấp tính" của thơ Tố Hữu là tiểu tư sản cách mạng. Chứng cớ là tập thơ Việt Bắc không có bài nào nói đến Ðảng và giai cấp công nhân, và "điệu tâm hồn" của Tố Hữu nhiều buồn rơi rớt. Tôi chưa nói "điệu tâm hồn" của Tố Hữu có buồn rơi rớt hay không. Theo tôi nghĩ, trước hết cách đặt vấn đề "giai cấp tính là điệu tâm hồn" như trên đây, đã sai từ đầu và làm nẩy ra nhiều lầm lẫn. Mỗi nhà thơ có tâm hồn riêng, cũng như mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von. Có nhà thơ là dòng suối trong thấm thía, có nhà thơ là dòng thác dữ xô đẩy. Nói "tính chất vô sản" là "điệu tâm hồn" này hay "điệu tâm hồn" kia, cũng khác nào nói tất cả những cán bộ là phải mặc áo nâu, ai không mặc áo nâu thì không phải là cán bộ. Sự lầm lẫn nguy hiểm đó đưa tới chỗ bắt người sáng tác phải chịu cái "khuôn chết" của một thứ "giai cấp tính" mơ hồ. Thực tế của thời đại chúng ta có cả tiếng kèn lẫn tiếng sáo, dòng suối và dòng thác, và còn "trăm hoa đua nở" nữa. Nên trong thơ ca hiện thực, chúng ta cần rất nhiều tiếng nói khác nhau của các nhà thơ. Vấn đề chủ yếu là nhà thơ mưu lợi ích cho ai? Cho một thiểu số thống trị, hay cho nhân dân cách mạng? Cho những giai cấp bóc lột áp bức hay cho quần chúng lao động? Nhà thơ nhìn nhận xã hội này là của ai? Và tương lai là của ai? Ðó là lập trường, quan điểm giai cấp của nhà thơ. Quần chúng lao động là anh hùng của thời đại: Những bài thơ của Tố Hữu không nói trực tiếp đến Ðảng và giai cấp công nhân (tất nhiên nếu nói được thì càng tốt) nhưng đều phản ảnh sự thực căn bản là quần chúng lao động làm ra lịch sử. Thơ Tố Hữu cho ta thấy những người nông dân lao động bình thường chính là những người gánh cả kháng chiến trên vai và làm cho kháng chiến thắng lợi. Chỉ có tư tưởng của giai cấp công nhân, chỉ có Ðảng mới soi được ánh sáng đó vào ý thức và tâm hồn nhà thơ. Anh bộ đội rất hiền lành, trong bài “Cá nước”, cùng với người mẹ già của anh ở "đầu xóm tre xanh", và người vợ anh "cày cấy ruộng sâu tối ngày", đấy chính là những người đã làm cho tàu giặc đắm sông Lô... máu tanh đến bây giờ..., làm cho cánh đồng quê tháng mười, sau những ngày quân giặc lồng lộn, vẫn thơm nức mùa gặt hái. Anh chiến sĩ có thể đi đánh giặc ở tiền tuyến là vì ở quê nhà mẹ anh, vợ anh, hàng ngày cặm cụi làm ruộng nuôi con anh, và ngược trở lại, cánh đồng quê nhà anh đến mùa vẫn vàng, vẫn chín, cũng là vì có anh ở tiền tuyến. Tất cả kháng chiến là công sức của quần chúng và quần chúng bao giờ cũng vẫn còn, không sức gì tiêu diệt được, vì chỉ có bàn tay quần chúng hàng ngày làm ra được tất cả sự sống của xã hội. Bỏ mất ý nghĩa đó, thì đọc bài “Cá nước” chỉ còn thấy câu chuyện tâm tình của anh bộ đội nhớ nhà, có người lại nói "tiểu tư sản", hình như các anh bộ đội không biết nhớ mẹ, nhớ con, nhớ vợ bao giờ! Những lời kể chuyện rất thực thà, đơn giản của "bà mẹ Việt Bắc" nghèo khổ cũng vậy, đó là những câu thơ anh hùng ca của thời đại chúng ta. Từ cuộc đời nô lệ, bữa đói bữa no, ngày đôi bát ngô, những thằng quan châu có quyền bắt người nghèo như bắt trâu bò, từ đêm dài tối tăm ấy, những đứa con "lành như đất" của các bà mẹ nông dân can đảm đã làm ra cách mạng. Ðến khi mẹ gặp lại con, nhà thơ viết mấy câu giản dị: Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau
Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù Mắt nó đỏ nọc Nó cầm tay tôi "Mé ơi đừng khóc Nước độc lập rồi!" Tôi nghĩ không có cảnh "Nhạc Phi với mẹ" nào so sánh được với cảnh gặp gỡ giữa người mẹ và người con ấy của cách mạng chúng ta. Có những bài thơ của Tố Hữu đã truyền cho chúng ta cảm thấy cái vĩ đại trong đời sống giản dị của quần chúng. Ðó không những vì tài năng của nhà thơ, mà căn bản là vì trong thực tế, chính quần chúng vĩ đại thực, chính quần chúng thực sự làm ra lịch sử bằng lao động hàng ngày của mình. Tin vào quần chúng thực: Tố Hữu tin vào quần chúng thực, quần chúng sống hàng ngày, có vui buồn, đôi khi còn những lo lắng quanh quẩn nữa. Nếu một anh chính trị viên thấy một chiến sĩ có lúc nhớ nhà mà đến phê bình luôn là "tiểu tư sản hiu hắt", thì anh chính trị viên ấy không hiểu gì về bộ đội và cũng không thể nào được bộ đội nghe theo. Một bà mẹ nghèo, đêm mùa đông sắp đến tết, bà cụ nằm trên ổ chuối khô bồn chồn nghĩ đến đứa con đi bộ đội, quên cả mình đang rét, đang khổ, chỉ thương con vất vả ở mặt trận. Nếu một anh cán bộ thấy bà mẹ ấy mà cho là "tiểu tư sản" hoặc lạc hậu, chẳng đáng nói đến, thì anh cán bộ ấy cũng không làm cán bộ được.
Nhà thơ là người chính trị viên, người cán bộ tâm hồn của quần chúng, nếu không dám đi vào quần chúng đang sống thực, chỉ tô vẽ ra một hình ảnh giả tạo của quần chúng, cho hợp với mong muốn của mình, thì những sáng tác chỉ là những mảnh giấy, chạm phải cơn bão thực của đời sống sẽ bị thổi rách tan, bay đi đâu mất. Tố Hữu biết người chiến sĩ trên đèo Nhe nhớ nhà lắm vì gia đình anh chiến sĩ ấy còn nghèo đói, vất vả, nhưng chính vì biết yêu gia đình quê hương mà người chiến sĩ đánh cho "giặc chạy re". Tố Hữu nhìn thấy lòng yêu con của bà mẹ nông dân chất phác là một lòng yêu không cùng. Vì thương đứa con ra đi "giải phóng" bà mẹ ấy có thể làm những việc chuyển trời. Và cũng chỉ có những đứa con của những bà mẹ ấy mới có thể chân đi đất mà dẫm qua dây thép gai của đồn giặc. Tố Hữu còn nhìn thấy trong đời sống vất vả, gian nan của quần chúng, đã hé lên ánh sáng của ý thức mới, ý thức người lao động từ nay làm chủ vận mệnh của mình, và tươi vui với cuộc sống mới do mình làm ra, do mình bảo vệ. Chú bé Lượm, với tiếng nói thật thà của đứa trẻ, đã bảo chú nó Ở đồn Mang Cá Thích hơn ở nhà. Chị nông dân Bắc Giang lo việc nhà, con mọn, nhưng trong đêm rét, vẫn vui vẻ phá đường, vì chị biết chị phá đường đây là để giữ lấy ngô sắn, giữ lấy đời sống cho đứa con đang ngủ ngoan đợi mẹ về. Thơ Tố Hữu yêu đời và tin tưởng ở tương lai là do lòng tin thực sự đó vào quần chúng. Ðảng tính trong thơ Tố Hữu chính là ở chỗ luôn luôn tin quần chúng, cố gắng gần quần chúng, nói đúng đời sống của quần chúng, nói thế nào cho quần chúng hiểu, tìm ra cái mới do quần chúng sáng tạo, để đem dắt dẫn cho quần chúng tiến lên. Từ quần chúng mà ra và trở về với quần chúng. Ðó là đảng tính của người chiến sĩ văn nghệ thực sự làm nhiệm vụ văn nghệ mà Ðảng giao cho, giữa cuộc chiến đấu gay go, phức tạp hàng ngày của quần chúng. Yêu nước trên cơ sở giai cấp: Lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu gốc rễ cũng ở quần chúng. Thơ Tố Hữu tự hào, yêu từ ngọn lúa, ánh nắng của đất nước, là vì đất nước ấy ngày nay đã là của nhân dân. Ta thường nói: người cộng sản là người yêu nước nhất. Người cộng sản yêu quý đất nước vì nhìn thấy đất nước là bao nhiêu công sức mồ hôi nước mắt của những bàn tay lao động đời này qua đời khác làm ra. Người cộng sản tự hào về Ðảng vì thấy nhờ Ðảng soi đường mà quần chúng tự giải phóng được, sức lao động sáng tạo của nhân dân phát triển được đến vô cùng làm cho đất nước đẹp thêm mãi, và những con người trước kia chưa hề được sống như con người, nay mới thành con người thật. Không phải thơ Tố Hữu không còn khuyết điểm, nhưng chúng ta cần nhận rõ trong thơ Tố Hữu, những vấn đề Ðảng, giai cấp, quần chúng, dân tộc, không thể tách rời ra được. Mà sở dĩ như vậy là vì trong thực tế hàng ngày của xã hội ta, Ðảng, giai cấp, quần chúng, dân tộc không thể tách rời nhau được. Chúng ta thử nhìn chế độ thống trị của bọn địa chủ, và tư sản mại bản ở miền Nam nước ta hiện thời. Mồm chúng cũng nói dân tộc, nói quốc gia, giống nòi, nhưng quyền làm chúa đất và bóp cổ dân cày, quyền bóc lột áp bức của chúng đi ngược hẳn với nhân dân. Chúng không thể yêu nước vì chúng chỉ có bám đít đế quốc mới sống được. Nhìn thấy sông Khung hay cánh đồng Tháp Mười, nhìn thấy chú bé áo nâu nhảy nhót tự do trên đường, nhìn thấy một người trong sạch, khảng khái, chúng hằn học, muốn giết, muốn giam cầm, muốn phá hoại. Những bọn chó săn của đế quốc, địa chủ, dù có đưa ra chiêu bài nghệ thuật quốc gia dân tộc gì để lừa bịp những người ngay thật, chúng cũng không thể nào hiểu và yêu được nghệ thuật mang sức sống mạnh mẽ và trong sáng của nhân dân ta. Chúng chỉ có thể thích thú và bắt chước "lối sống" và thứ nghệ thuật vô tổ quốc kiểu Mỹ, dựa vào sự sa đọa và lưu manh hóa con người. "Nghệ thuật vị nghệ thuật" kiểu tư sản cũng vậy, có nói tìm cái mới, phá cái cũ, nhưng thực chất vẫn không thể thoát ra khỏi cái cũ được, thực chất nó cũ kỹ, lụ khụ, bế tắc và chỉ đẻ ra được những quái thai chết yểu, vì nó xa rời quần chúng, là những người đang thực sự làm đổi mới cuộc đời. Người yêu nước không thể không yêu nhân dân, và nếu đi vào nhân dân, thì không thể không thấy Ðảng sống giữa nhân dân, như ánh sáng của ban ngày.
Thơ Tố Hữu mang được hơi thở của quần chúng, và dạt dào lòng yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, chính là nhờ có ánh sáng của Ðảng từ bên trong tâm hồn chiếu ra. Ðời sống riêng của nhà thơ và quần chúng: Trên bước đường chuyển vào thực tế quần chúng, nhà thơ Tố Hữu ít nói đến mình. Nhưng trong khi tìm cách tả cho đúng thực anh bộ đội, bà mẹ chiến sĩ hoặc em bé giao thông, thì Tố Hữu đã tự tạo được cái điệu thơ riêng, cái cá tính mà trong thơ Tố Hữu trước Cách mạng, ta chưa thấy thành hình hẳn. Trong khi nhà thơ nói đến những con người khác, mà ta nghe được rõ những điều không nói ra, trong tâm hồn anh. Trong khi đi vào cuộc sống chung quanh, nhà thơ đã tự tìm thấy mình. Nhưng ngoài việc mô tả quần chúng, Tố Hữu cũng tự đem mình ra nói trong mấy bài thơ: “Giữa thành phố trụi”, “Lên Tây Bắc”, “Bắn”. Cái "tôi" mà nhà thơ nói lên trong mấy bài thơ đó không lúc nào là một cá nhân tự quay vào mình, tự đóng cửa tâm hồn để soi gương, mà trái lại đó là một tâm hồn đang muốn suy nghĩ, ca hát, căm giận cùng với những cảnh, những người của kháng chiến. Nhưng đọc ba bài thơ, tôi cảm thấy một giọng nói, những tình cảm, những cảnh vật và con người khác với trong những bài thơ mô tả quần chúng. Khi tả những cảnh đẹp những tình cảm muốn bay lên, thì những cái đẹp và bay lên ấy của nhà thơ chơi vơi, có khi cầu kỳ: Ta lại bước đi trên đường đá rát Gõ gót vui nghe tiếng hát Của mỗi hòn gạch nát mỗi cành khô (“Giữa thành phố trụi”) Cái gõ gót ấy khác hẳn với ta đi lên đèo, ta leo lên dốc của anh chiến sĩ pháo binh. Một mặt khác, khi nói đến căm thù, những cảnh chết chóc mà nhà thơ đưa ra thường như một bức ảnh tỉ mỉ nhưng ghê rợn: Thây chúng nó tung lên từng miếng đỏ Ðầu chúng nó óc phọt ra ngoài sọ Trái lại, ta hãy nghe anh vệ quốc trong “Cá nước” nói đến quân giặc chết: Rồi Bông Lau, ỷ La, Ba trăm thằng tan xác Cành cây móc thịt da, Thối inh rừng Việt Bắc, Tàu giặc đắm sông Lô Tha hồ mà uống nước Máu tanh đến bây giờ Chưa tan mùi bữa trước. Ta nghe thấy tiếng anh chiến sĩ cười thắng trận và ta cảm thấy lòng anh căm thù và khinh quân giặc chứ không phải anh thích thú cảnh máu xương. Trong bài “Bắn”, người đọc thấy nhà thơ nóng nẩy vì căm thù, nhưng anh không có việc giữa lúc chiến sĩ đang bận túi bụi và hết sức căng thẳng. Những lời giục "Sao mà lâu thế nhỉ", "Anh còn đợi chờ gì?" "Chúc đồng chí bắn thẳng vào cho đúng" "Ơi các anh xung kích dưới cỏ âm thầm", tất cả càng làm cho sự nóng nẩy, bồn chồn của nhà thơ trái ngược với người chiến sĩ mà ta cảm thấy đang lầm lì, bình tĩnh, cố gắng sửa soạn trận đánh cho thật chu đáo. Rồi khi tác giả gọi "Anh đại bác tôi chờ anh để hát", thì ta nghĩ: bao nhiêu chiến sĩ sắp lăn vào chỗ sống chết, đâu có phải chỉ để cho nhà thơ hát.
Nhìn chung, khi nhà thơ Tố Hữu tự nói đến mình (trong mấy bài thơ trên đây), tôi thấy những ý nghĩ và tình cảm của anh còn kém gắn bó với quần chúng. Do đó, sự sống trong thơ kém thực chất của lao động và chiến đấu, cảnh nhiều hơn tình, chữ nhiều hơn ý, lời nói nhiều hơn việc làm. Không phải đó là vì nhà thơ đã nói đến mình quá nhiều. Trái lại, trong ba bài thơ, ta chưa thấy rõ hình bóng cuộc đời của nhà thơ ra sao. Nhà thơ làm gì giữ thành phố trụi, hay giữa các chiến sĩ, anh ở đâu tới, đi đâu, anh có yêu ai không, tình yêu của anh có ảnh hưởng gì đến sự suy nghĩ hoặc lòng căm thù của anh không, tất cả những cái đó đều còn mờ nhạt, hoặc chưa có hình bóng. Ðời sống riêng của nhà thơ còn như bị nén lại, và hình như nhà thơ cho rằng những chuyện riêng của mình là không đáng nói giữa cuộc đấu tranh sống chết của quần chúng. Nhưng thực ra khi nhà thơ đã nói "tôi" thì chính quần chúng hỏi "đồng chí là ai, và đến có việc gì? " Cái "tôi" ấy lúc bấy giờ là của quần chúng chứ không phải của riêng nhà thơ nữa. Vì nhà thơ mới nói đến mình một cách chung chung nên những gắn bó của cuộc đời ấy với sự sống chết của quần chúng cũng mới chung chung. Có lúc tôi nghĩ trong bài “Bắn”, giả thử ý căm thù chung được gắn vào lòng căm thù riêng của thi sĩ, - ví dụ nhà thơ nhắc đến một kỷ niệm hay một người thân yêu trong đời mình, - thì có lẽ ý căm thù của bài thơ sẽ "sống" và mạnh lên rất nhiều. Và ví dụ nhà thơ nói rõ cho ta thấy vận mệnh của anh và của thơ anh gắn bó với công việc chiến đấu của các chiến sĩ như thế nào, thì có lẽ người đọc không bị cảm giác "nhà thơ không có việc" như khi nghe câu kết Anh đại bác tôi chờ anh để hát. Nhà thơ chỉ có thể lớn do thời đại phản ảnh vào bản thân mình. Tiếng sáo của nhà thơ chỉ có thể rung động và vang xa khi nào có luồng gió của thời đại, của nhân dân thổi vào. Nhưng đời sống riêng của nhà thơ mang được hơi thở của quần chúng, thì nó cũng sẽ lớn lao, sâu sắc và nhà thơ tự nói đến mình càng rõ rệt lại càng gần gụi với mọi người.
Theo tôi, những vấn đề riêng của nhà thơ mà gắn bó nhất với quần chúng là cái lao động của nhà thơ, tức là việc làm thơ, và tình yêu là một tình cảm căn bản của mọi người. Văn nghệ, số 78 (21.7.1955) 47. Nguyễn Ðình Thi Nhà thơ lớn lên với thời đại [3] Nay hòa bình, kháng chiến thắng lợi, những người kháng chiến chào Việt Bắc về xuôi. Cái ý nghĩa của tất cả lời chào ấy theo tôi cũng ở mấy câu, như một nút động thứ hai của bài thơ, khi nhìn về tương lai. Mình về thành thị xa xôi Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng Phố đông còn nhớ bản làng Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng... Hòa bình tới, chiến tranh đã chấm dứt, "từ thôn quê chuyển về thành thị" đời sống sẽ thay đổi, nhưng chúng ta không muốn để cho phai nhạt mất những cái quý báu mà Việt Bắc đã rèn luyện cho mỗi con người trong kháng chiến: cái đạo đức giản dị, trong sạch, cái tinh thần chiến đấu gian khổ, tự lực cánh sinh. Ngay từ lúc ấy nhà thơ đã nhìn thấy phải đấu tranh với cái mệt mỏi, muốn nghỉ ngơi, hưởng lạc, nó sẽ có thể nẩy ra trong lòng mỗi người, khi về giữa "nhà cao, phố đông, đèn sáng". Nhưng không, nhà cao chẳng khuất non xanh, ta về nhưng lòng ta vẫn ở với Việt Bắc.
Ta nhớ bà mẹ trên nương vẫn còn cháy lưng vì nắng, ta nhớ em gái hái măng, em phải được sống một cuộc đời mới. Chỉ có phấn đấu nữa, ra sức xây dựng đất nước mới của chúng ta, cho Việt Bắc trở nên giầu có sung sướng, ta mới làm cho lòng thương nhớ Việt Bắc thành sức mạnh. Nhận ra được phương hướng đó, bản hợp tấu khi thiết tha, khi hùng tráng, khi thánh thót, khi sôi sục, đã kết thúc bằng những âm thanh trong sáng chan hòa. Nhớ ông cụ mắt sáng ngời Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường Nhớ Người những sáng tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người Hồ Chủ tịch rời Việt Bắc để đưa dân tộc ta tới những ngày mới. Tư tưởng phải bám chắc lấy thực tế: Tôi đã phải trích dẫn nhiều, và nhắc lại những câu thơ mà bạn đọc đã nghe nhiều người giải thích mỗi người một cách. Và chính tôi khi trích dẫn hoặc phân tích cũng thấy rằng được mặt này thì thiếu mặt kia. Ðó là vì trong những câu thơ ấy đã có những con người, những sự việc, những tình cảm, ý nghĩ có thực của một giai đoạn lịch sử còn đang nóng hổi trong mỗi chúng ta.
Khi có dấu vết sự sống, thì tác phẩm nghệ thuật cũng mang được cái dồi dào của sự sống, nó làm cho mọi phân tích đều vẫn cứ chưa nói hết được. Nhưng tôi đã không ngại bỏ sót nhiều điểm khác mà nhằm theo dõi những bước cố gắng của Tố Hữu để làm cho thơ anh lớn lên về tư tưởng. Vì tôi nghĩ đó là một điều còn hiếm trong văn nghệ chúng ta ngày nay. Chúng ta còn ít suy nghĩ quá trong cuộc sống và trong sáng tác. Mỗi người làm nghệ thuật còn chưa nhận hết trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu của nhân dân. Nghệ thuật mới của chúng ta phải là nghệ thuật có những suy nghĩ sâu sắc, những tình cảm lớn lao. Phục vụ đối với người nghệ sĩ nghĩa là đem hết sức suy nghĩ, và đem hết tâm hồn vào cuộc đấu tranh của quần chúng. Nhưng sự suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ phải luôn luôn bắt nguồn và nhào nặn trong thực tế quần chúng, nó đổi mới và phát triển không ngừng. Và rút lại đến cùng, quyết định cho sự sáng tác, chính là thực tế cuộc sống. Tác phẩm nghệ thuật xét đến gốc vẫn là một phản ảnh của cuộc sống. Ðiều đó không làm giảm sút giá trị suy nghĩ và rung cảm của người nghệ sĩ mà trái lại nó bảo đảm cho sự suy nghĩ và rung cảm ấy không bao giờ cạn. Nhìn lại thơ Tố Hữu trong giai đoạn về sau, bên sự trưởng thành về tư tưởng, chúng ta cũng phải nhận thấy có một thiệt thòi rất lớn nó giới hạn sự sáng tác của nhà thơ và làm cho sự sáng tác ấy chật vật thêm rất nhiều: là nhà thơ không có nhiều điều kiện (hay là anh chưa cố gắng tạo cho mình thêm điều kiện?) sống hàng ngày giữa thực tế quần chúng, ở những nơi đấu tranh điển hình nhất, - như là ngày đầu kháng chiến. Do đó, cái phần "tươi mới", cái tính chất còn ròng ròng sự sống của thơ Tố Hữu về sau này không được như trước.
Những hình ảnh đạt nhất mà anh tạo ra là những hình ảnh có tính chất so sánh và tổng quát (Ðêm lịch sử Ðiện Biên sáng rực, v.v...). ít những hình ảnh dựng ngay lên một con người, một hành động, một phong cảnh cụ thể đang sống trước mắt chúng ta. Thơ Tố Hữu về sau thiếu cái luồng rung động trong giây phút mà còn lâu mãi của bài “Cá nước”, hay “Lượm”, thiếu cái nhuần nhụy tự nhiên của những cái đang sống, của con người đi lại, nói cười, của ngọn lúa có hạt mưa phùn rơi, của cái đêm đông có gà gáy sáng. Tôi có cảm tưởng nhiều khi nói đến chiến sĩ ngoài mặt trận, hay chị dân công trên đèo, nhà thơ phải dùng sức tưởng tượng mà bồi đắp cho những hình ảnh về thực tế mà anh đã thâu lượm được từ trước. Có lúc sự bồi đắp ấy thành công vì cái vốn cũ của nhà thơ đủ dồi dào, nhưng cũng nhiều lúc, sự bồi đắp đó đuối sức, vì thực tế đã vượt lên những trình độ mới mà không sức tưởng tượng nào có thể đuổi kịp và giúp ta biểu hiện lên được. Những khi ấy, hình ảnh trong thơ trở nên chung chung, làm cho ý của câu thơ bị phơi trần ra, không sống lên linh động được. Ví dụ như những câu tả chiến sĩ Ðiện Biên: Chiến sĩ anh hùng Ðầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn, v.v... Nhưng cái ảnh hưởng rõ rệt và thiệt thòi nhất của sự thiếu thực tế đó là nhà thơ chưa sáng tác được về cải cách ruộng đất. Vì thực tế của cải cách ruộng đất là một thực tế vĩ đại và mới mẻ, nó làm cho nông thôn và người nông dân có một biến đổi về chất lượng, đang từ một thời đại lịch sử này sang một thời đại lịch sử khác, đang từ một cuộc sống kéo dài từ hàng nghìn năm sang hẳn một cuộc sống mới.
Bản thân nhà thơ vốn đã không sống cuộc đời bị địa chủ áp bức bóc lột, mà bây giờ lại không được tham gia trong một phần nào vào thực tế cuộc đấu tranh của nông dân đang lật nhào giai cấp địa chủ, thì tôi nghĩ thật khó tạo ra hình ảnh gì cho sống, cho thực về cuộc đấu tranh đó. Cái vốn cũ của nhà thơ về nông thôn và nông dân, tới cuộc cải cách ruộng đất, đã bị vượt quá xa. Và thiếu thực tế ấy, thì sự suy nghĩ, tình cảm, ý thức giai cấp của nhà thơ, cũng còn thiếu hẳn một phần căn bản, và không nẩy nở đến mức có thể của nó, cũng như mũi tên còn giương trên nỏ mà chưa có đủ sức để bắn đi và chưa thật rõ đích để bắn đúng. Con đường của thơ Tố Hữu: Thơ Tố Hữu còn đang tiến và có những thành công làm cho chúng ta thấy được rằng nó sẽ còn tiến xa. Theo tôi nghĩ, thơ Tố Hữu chưa phải đã phản ảnh được đầy đủ cuộc kháng chiến và thời đại vĩ đại của chúng ta, có thể nói nó phản ảnh còn nhiều thiếu sót lớn nữa. Nhưng điều căn bản là con đường mà thơ Tố Hữu vạch ra đã rõ, và là con đường đúng: đó là con đường phục vụ lợi ích của quần chúng, bám chắc lấy cuộc đấu tranh của quần chúng và không lúc nào rời ánh sáng chính sách của Ðảng. Ðó là con đường đi hẳn vào thực tế, và đem hết sức suy nghĩ và tình cảm để tìm hiểu và soi sáng thực tế ấy. Con đường tiến lên của thơ Tố Hữu sẽ do thực tế cuộc đấu tranh của dân tộc của giai cấp làm cho rõ nét, và nẩy nở thêm. Tôi chỉ có mấy ý kiến, cũng như những đề nghị còn chưa được chắc chắn, cần suy nghĩ và bàn thêm. Tôi cảm thấy Tố Hữu cần đi vào thực tế nhiều hơn nữa. Tôi vẫn không thể quên những ngày anh ngồi bên ổ chuối của bà bủ nghe bà kể chuyện hoặc đi theo đại đội pháo binh đầu tiên của quân đội ta. Ngày nay, thực tế quần chúng đã tới một quy mô khác, và nhà thơ cũng đã ở một trình độ khác. Nhưng dù bằng cách nào, nhà thơ vẫn cần được thấy đời sống hàng ngày và cuộc đấu tranh của quần chúng ở những nơi và những mặt điển hình. Ðó vẫn là cái nguồn căn bản của tất cả mọi sáng tác. Tôi mong nhiều sáng tác của Tố Hữu thuộc về loại kể chuyện hoặc mô tả nhân vật quần chúng, cùng một dòng với những bài thơ của anh ngày đầu kháng chiến. Vì tôi thấy những bài đó đã đánh dấu một bước chuyển căn bản trong thơ của anh. Và tôi nghĩ nhiệm vụ thứ nhất của mọi ngành nghệ thuật, kể cả thơ ca, vẫn là biểu hiện thực tế cuộc sống, biểu hiện những con người, nhất là những người lao động, là anh hùng của thời đại chúng ta. Nếu nhìn vào truyền thống thơ ca của dân tộc ta, từ những bài ca dao nói chuyện con cò đến Truyện Kiều của Nguyễn Du, tôi nghĩ truyền thống lớn ấy vẫn là mô tả và biểu hiện con người và xã hội. Trong khi biểu hiện cuộc sống, dưới ánh sáng của tư tưởng Mác Lê-nin, tôi thấy Tố Hữu cần đi sâu hơn nữa vào cái lao động sáng tạo của con người. Trong đấu tranh gay go hàng ngày của quần chúng, luôn luôn có sáng tạo của lao động, và có tất cả những quan hệ tỉ mỉ của đời sống lao động. Có tình yêu, có vợ chồng, con cái, có bè bạn, xóm giềng, có những vất vả của con người làm ra hạt gạo, miếng vải. Biểu hiện cuộc đấu tranh của quần chúng mà thiếu những cái đó là thiếu mất một phần căn bản. Có đi sâu vào đời sống và lao động hàng ngày của quần chúng mới có thể nói thẳng với lòng người và những tư tưởng mới tới được mức thật và giản đơn, tước bỏ được mọi hoa hòe hoặc khung khổ không cần thiết. Tại sao đã bao năm, chưa có một bài thơ của Tố Hữu tả tình yêu của anh chiến sĩ mà nhà thơ yêu mến hết sức? Và tại sao chưa có một bài thơ tình yêu của Tố Hữu, hoặc những bài cho ta thấy rõ đời sống riêng của nhà thơ hơn? Gần đây, bài “Quê mẹ” đã có một cái gì mới về phương diện ấy, nhà thơ đã thoải mái và chân thành mà kể chuyện mình, và câu chuyện riêng của đời anh đã gắn liền với vận mệnh của Huế và của mọi người. Vì khi nhà thơ biết nhìn sâu sắc và khách quan vào thực tế của bản thân thì có nhiều khía cạnh thấy được dấu vết của thời đại trong ấy. Cuối cùng, tôi nghĩ Tố Hữu đã trả về cho chúng ta cái nguồn dân tộc và tiếng nói dân tộc trong thơ. Câu thơ của anh trong những bài như “Việt Bắc”, hay “Quê mẹ” đã có dáng dấp câu thơ cổ điển, đồng thời nó mang sự suy nghĩ và cách nói mới của thời đại chúng ta. Nhưng câu thơ của Tố Hữu còn chưa được đều, có lẽ vì nhà thơ chưa có công phu gọt rũa hơn. Tôi mong đợi anh chú ý nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc hơn nữa, và làm cho hình thức ấy không đóng khung lại, mà phát triển lên. Ðến lúc thơ Việt Nam cần đón lấy những tìm tòi rất lớn hiện nay của những nhà thơ tiền tiến trên thế giới, nhất là ở các nước bạn. Và nhà thơ Việt Nam cũng đến lúc có trách nhiệm đem tiếng nói của dân tộc chúng ta góp chung vào văn nghệ quốc tế.
Văn nghệ, số 79 (28.7.1955)
[1]Chỗ này trích thơ sai chệch một vài chữ (NST).[2]Có lẽ phải là “rất dào dạt” (bản gốc in sai?) (NST).[3]Ba bài đăng báo của Nguyễn Ðình Thi về tập Việt Bắc thật ra nằm trong một bài viết chung. So với toàn văn bài viết đó (“Tập thơ Việt Bắc” trong Mấy vấn đề văn học của Nguyễn Ðình Thi; in lần 2, Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.143-177) thì các bài đăng báo bỏ một đoạn dài 8 trang, nằm giữa kỳ đăng thứ hai và thứ ba. Sưu tập này không in thêm đoạn đó (NST).
=
Subscribe to:
Posts (Atom)