I. NHỮNG NÉT ĐẸP CỦA VĂN HÓA VIỆT NAM
Câu đối là một nét đặc thù của văn hóa Việt Nam, mang nhiều đặc điểm về văn hóa, xã hội , tư tưởng và lịch sử.
Ngày xuân, người Việt Nam yêu văn chương cho nên thi ca đã đóng một vai trò trong đời sống nhân dân. Ca hát, hò, vè, truyện vui là sản phẩm của nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương. Trong các loại văn chương, câu đối giữ một vai trò khá đặc thù và cũng khá phổ biến. Ngày xưa dân ta thường viết câu đối, hoậc làm thơ xuân dán trong nhà, ngoài cổng nhà mình và nhà bạn bè. . Câu đối chính là một phần của tết Việt Nam:
"Thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo , bánh chưng xanh. ".
Chợ Tết cũng là một phần của Tết Việt Nam. Nào chợ hoa, bánh chưng, mứt, trái, và câu đối đỏ. Vũ Đình Liên đã ghi được hình ảnh độc đáo này trong bài thơ " Ông đồ ".
Về văn hóa rõ rệt là con người yêu văn chương chữ nghĩa, yêu học hành, biết kính trọng kẻ sĩ.
Về văn hóa, câu đối cũng thể hiện phong cách sống, trang trí nội thất cũng như trang trí ở cung đình và các cơ sở tôn giáo.
Về đạo đức, con người ca tụng trung hiếu, nhân nghĩa.
Về tình cảm, con người đề cao tình yêu tổ quốc, yêu gia đình và tình nhân loại. Hát quan họ, hò huê tình là tình yêu nam nữ. Làm thơ, viết câu đối trao tặng là để chia xẻ cùng nhau niềm vui, nỗi buốn giữa anh em, bạn bè và người với người.
Nét văn hóa đâm đà nhất của câu đối là niềm vui trong sáng tạo nghệ thuật. Khi làm đưọc một câu đối hay là bản thân người viết có được niềm vui vì tìm được một ý sâu sắc và một chữ đắt. Bạn bè cũng vui, dân chúng cũng vui khi đọc một câu đối thú vị. Người được tặng càng vui hơn. bởi vì đời sống của họ có người quan tâm. Trong câu đối có cả đạo đức, lòng yêu nước, và tình người. Câu đối có thể được viết ra trên giấy, trên lụa hay khắc chạm vào gỗ hay cột vôi, vách đá nhưng đôi khi chỉ là những câu thơ truyền khẩu. Thi nhân xúc cảnh sinh tình mà nói ra, không viết, không treo tường, không dán cột.
Ngày xưa, hoành phi, câu đối là nếp sống văn hóa Việt Nam do ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc. Từ nhà dân giả bậc trung bình trở lên cho đến cung đình, miếu mạo đều có treo hoành phi và câu đối. Mỗi khi có việc quan, hôn, tang, tế, người ta thường nhờ các thi nhân cho chữ và thư gia viết câu đối (Có thể thi gia và thư gia là một người).
Thường thì dân chúng đến thi gia nói miệng, hay biện cơi trầu, hoặc long trọng hơn nữa thì
mang thêm be rượu để xin câu đối:
“Kiếm một cơi trầu sang biếu cụ
Xin đôi câu đối để thờ ông”
(Nguyễn Khuyến)
Lộc của các thi gia hay thư gia chỉ là vậy nhưng đầy tình làng xóm, và sự gắn bó giữa nho sĩ với nông gia, thợ thuyền, vì tất cả đều là anh em, làng xóm, họ hàng, không phân biệt giai cấp. Trong khi đó. cộng sản khơi dậy hận thù giai cấp, đem trí thức và nông dân ra chém giết, đày ải với tội danh địa chủ, phong kiến.
Thời Pháp thuộc, tại các tỉnh thành, người ta mở cửa hàng đối trướng thì mới thu tiền, vì tiền thuê cửa hàng, tiền thầy viết, gấm vóc, mực xạ, kim nhũ khá đắt. Có lẽ từ xưa, việc khắc hoành phi, câu đối là một nghề đặc biệt, khá công phu và tốn kém cho nên gia chủ đặt hàng, mua hàng phải trả tiền cho cửa hàng hoặc cho thợ.
Các loại như chia vui, chia buồn, tặng... có thể do tác giả làm, hay làm hộ người khác để đưa đến đương sự hoặc cho gia đình đương sự để chia vui hoặc chia buồn, hoặc tặng. Cũng có thể tác giả làm để bày tỏ cảm xúc hay phê phán mà không đưa đến cho đương sự, để phát biểu cảm tưởng hay châm biếm, chỉ trích.
Thí dụ: câu đối của Nguyễn Khuyến mừng cô Tư Hồng có thể xảy ra trong các trường hợp sau:
+Nguyễn Khuyến làm để đưa đến tặng cô Tư Hồng.
+Gia đình cô Tư Hồng hay ai đó nhờ Nguyễn Khuyến làm để mừng cô Tư Hồng.
+Nguyễn Khuyến hay ai đó làm để châm biếm nhưng không công khai.
Vậy thì những chữ tặng, mừng, khóc. . . mang nhiều ý nghĩa, nhiều trường hợp. Phần nhiều đã trở thành giai thoại lưu truyền trong dân gian cho nên có thể sai lạc về câu văn và tác giả.
Ngày nay, viết câu đối rất khó bởi vì không còn là thời Hán học nữa. Mất môi trường cựu học là mất nhiều thứ. Muốn viết câu đối, về hình thức phải thạo viết chữ Hán, nhất là thạo viết đại tự, phải giỏi thư pháp. Viết đại tự thì dùng bút lông to bằng cổ tay để viết hoành phi và trướng. Bây giờ với thư pháp mới, các sinh viên, các thư gia có thể dùng bút thường để viết đại tự.
Cao Bá Quát nổi tiếng chữ đẹp được nhiều người xin chữ . Không phải ai học chữ Hán đều có thể viết chữ đẹp. Phải có hoa tay và phải luyện tập. Các cụ nghè, cụ cử chưa chắc đã viết câu đối đẹp. Đó là nói hình thức của câu đối. Còn nội dung câu đối thì phải có học Hán tự, và phải có óc văn chương thi phú.
Ngày nay, nhiều người giỏi chữ Hán nhưng không đọc được văn học cổ điển, và không biết làm thơ, câu đối, vì họ chuyên về văn bạch thoại, it chú ý đến văn học cổ điển. Tại Chợ Lớn, các ông Tàu in các câu liễn riêng lẻ, không phải là câu đối như là
出 入平 安 Xuất Nhập Bình An;
恭 祝 新 春 Cung Chúc Tân Xuân,
新 春 大 吉 Tân Xuận Đại Cát
開 張 洪 發 Khai Trương Hồng Phát.
五 福 臨 門 Ngũ phúc lâm môn
2. TÔN GIÁO, TƯ TƯỞNG
Câu đối là một nghệ thuật, phô ra rõ ràng dưới nét chữ đẹp của thư gia, và cái cao sịêu của ý tưởng văn thi nhân. Nhìn chung, câu đối ở cung điện, đền thờ và gia đình thường thể hiện tư tưởng Nho, Lão Phật. Tuy nói tam giáo hòa đồng, trong câu đối tư tưởng Nho, Phật chiếm thế ưu thắng.. Tư tưởng Phật giáo được truyền bá vì chùa chiền ở Việt Nam rất nhiều. Nhưng đa số là tư tưởng Nho gia, vì tại các cung đình, miếu đền, trong học đường và tại tư gia, ngay tại chùa chiền, người ta luôn dạy tam cương, ngũ thường, trung hiếu. . .
+Câu đối khuyết danh
天 知 地 知 爾 知 我 知 何 謂 無 知
Thiện báo, ác báo, trì báo, tốc báo, chung tu hữu báo;
Thiên tri, địa tri, nhĩ tri, ngã tri, hà vị vô tri.
(Thiện báo, ác báo, chậm báo, nhanh báo, rốt cụộc có báo;
Trời biết, đất biết, anh biết, tôi biết, sao không ai biết.)
少 壯 不 經 勤 學 苦
老 來 方 悔 讀 書 遲
Thiếu tráng bất kinh cần học khổ
Lão lai phương hối độc thư trì
(Tuổi trẻ không khổ học,đến già sẽ hối hận).
學 焉 新 又 新,君 子 及 時 修 德 業
政 者 正 不 正,王 臣 居 作 守 彝 章
Chính giả chính bất chính, vương thần cư tác thủ di chương.
(Học để luôn mới, người quân tử kíp tu đức nghiệp.
Sửa cho thật đúng, bậc vương thần cần giữ đạo thường)
慈 孝 錫 嘉 名 勸 天 下 之 為 父 為 子
楊 春 成 淨 土 忘 斯 世 之 如 秋 如 冬
Từ Hiếu tứ gia danh, khuyến thiên hạ chi vi phụ, vi tử,
Dương Xuân thành Tịnh độ, vọng tư thế chi như thu, như đông
(Từ Hiếu tạo tiếng thơm, khuyên thiên hạ tròn đạo hiếu,
Dương Xuân thành cõi Phật, giúp thế gian vẹn cảnh xuân).
緣 慈 悟 脫 于 彼 岸 先 登
Duyên từ ngộ thoát, vu bỉ ngạn tiêu đăng
Lấy chữ hiếu làm trung vào cửa Phật,
Theo lòng từ ngộ đạo vượt bến mê).
Tư tưởng trong câu đối là tư tưởng bình dân, hiện thực. Câu đối nêu rõ khát vọng cơ bản của con người là được cơm no, áo ấm, hòa bình, hạnh phúc và thịnh vượng qua những lới cầu chúc ngũ phúc , tam đa, mưa thuận gió hòa, trăm năm đầu bạc. . .Con người quân chủ và tư bản rất thành thực trong khi người cộng sản trước đây to tiếng chỉ trích những điều đó là lạc hậu , phong kiến, cầu an. . .Họ đã theo Marx hô hào bênh vực quyền lợi vô sản, san bằng bất công xã hội , đặt quyền lợi tập thể trên quyền lợi cá nhân trong khi đó thì họ lại làm ngược lại. Họ sùng bái cá nhân, tham ô nhũng lạm, phản dân, bán nước.
Trong sử sách cũng như trong đền miếu người ta thường nhắc nhở các bậc anh hùng. Lòng yêu nước, kính tổ tiên đã ăn sâu trong tiềm thức Việt Nam cho nên trong nhà, con cái thờ cha mẹ, ngoài nhà thờ các họ, cháu chắt các đời thờ tổ tiên, và cao hơn nữa, người ta luôn nghĩ đến quốc tổ Hùng vương và các bậc anh hùng đã thực sự vì nhân dân mà kiến quốc và vệ quốc. Hàng năm có hội đền Hùng, và các hội hè khác để nhớ công tiền nhân. Tại đền Hùng, có nhiều câu đối ca tụng sự nghiệp mở nước của các vua Hùng:
鴻 貉 故 基 存 疊 嶂 層 巒 群 水 合
帝 王 靈 氣 在 嗥 風 怒 雨 一 山 高
Hồng lạc cố cơ tồn, điệp chướng tầng loan quần thuỷ hợp.
Đế vương linh khí tại, hào phong nộ vũ nhất sơn cao.
(Nền móng Hồng Lạc còn đây, núi đồi trùng điệp muôn sông hợp lại,
Khí thiêng đế vương vẫn đó, mưa gió thét gào một núi vươn cao).
南 天 十 八 世 車 書 初 頭 第 一 聖
西 岳 億 萬 年 香 火 上 等 最 靈 神
Nam thiên thập bát thế xa thư, sơ đầu đệ nhất thánh.
Tây nhạc ức vạn niên hương hỏa, thượng đẳng tối linh thần.
(Trời Nam mười tám đời cơ nghiệp, bậc thánh đệ nhất,
Tây Nhạc ức vạn năm hương khói, vị thần tối cao).
Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu có câu đối về Hùng vương:
Có tổ có tông, có tông có tổ, tổ tổ tông tông, tông tổ cũ
Còn non còn nước, còn nước còn non, non non nước nước, nước non nhà
Trần Hưng Đạo đưọc thờ nhiều nơi. Trước kia tại chùa Hựu Linh thờ ngài đến thế kỷ 19 chuyển về đền Ngọc Sơn. Ở hậu sơn có câu đối chữ nôm:
Võ lược luyện hùng binh, Lục Thủy nghìn thu ghi sử Việt.
Văn tài mưu Thượng tướng, Bạch Đằng một trận thắng quân Nguyên.
Đền Sơn Hải, quân Hoàn Kiếm, Hà Nội có câu đối:
白 滕 水 陣 留 清 績
東 海 雄 兵 萬 古 神
Bạch Đằng thủy trận lưu thanh tích
Đông Hải hùng binh vạn cổ thần
( Chiến trận Bạch Đằng ghi vết tích,
Binh sĩ Đông Hải hóa thần linh).
Thời kháng Nguyên, vua Trần Nhân Tông đã cảm xúc mà thành hai câu thơ. Phải chăng ngài chỉ làm hai câu , hay toàn bài mà nay còn lại hai câu? Đó là thơ hay câu đối? Ta có thể coi đó là thần cú, là hai câu đối tuyệt diệu:
會 稽 舊 事 君 須 記
驩 愛 猶 存 十 萬 兵
Cối Kê cựu sự quân tu ký,
Hoan Ái do tồn thập vạn binh.
(Cối Kê vệc cũ, ngươi nên nhớ,
Hoan, Ái đang còn chục vạn quân).
社 稷, 兩 回 勞 石 馬
山 河 千 古 奠 金 甌
Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.
( Xã tắc hai phen bon ngựa đá,
Non sông thiên cổ vững âu vàng )
Thời Pháp xâm lược, tại Huế, Pháp ở bên này sông Hương, triều đình bên kia sông, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm quyền phế lập các vua, Ông Ích Khiêm chống hai đại thần, bị bắt giam. Ông làm câu đối:
四月三王兆(甚)不 祥
Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu (thậm) bất tường .
Một sông hai nước, khó phân biệt,
Bốn tháng ba vua, điềm chẳng lành.
(Dị bản viết là thậm, câu này có hai tên Tường,Thuyết)
Dù triều đình Huế phải nhượng đất và chịu để Pháp cai trị, các vua Hàm Nghi, Duy Tân vẫn cương quyết chống Pháp. Đây là giai thoại về câu đối của một cố đạo người Pháp thử vua Duy Tân:
Rút ruột ông vua, tam phân thiên hạ
Chặt đầu thằng Tây, tứ hải giai huynh!
(Đây là câu đối chiết tự. Chữ Hán "vương" 王 là "vua", nếu bỏ đi nét dọc (rút ruột...) thì thành chữ "tam" 三 (ba). Cũng bằng cách chiết tự, vua cắt bỏ phần đầu chữ "tây" 西 (chặt đầu tây) thì thành chữ "tứ"四 (bốn).
Và đây là câu đối vua Duy Tân ra cho thượng thư Nguyễn Hữu Bài để dò la ý tứ:
Ngồi trên nước, không ngăn được nước. Buông câu ra, đã lỡ phải lần!
Sống ở đời, mà ngán cho đời. Nhắm mắt lại, đến đâu hay đến đó
Khi Pháp đô hộ Việt Nam, các sĩ phu như Phan bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng đã đứng lên hô hào duy tân.Khi Phan Chu Trinh mất, dân chúng đã thương khóc cụ:
"Ngán nỗi trời đất chẳng thương người chí sĩ, hết lòng bênh vực quyền dân, cho non nước mở mang mày mặt;
Than ôi giang sơn còn thiếu mặt anh hùng, lấy ai lo toan việc nước, để đàn con luống những đau lòng".
Nhà kinh doanh nổi tiếng xứ Bắc Bạch Thái Bưởi đã viếng cụ Phan:
Sáu mươi tuổi thân già, bao phen hiểm trở, chí Ngu Công, hồn Tinh Vệ, đau đớn nhẽ, nửa đêm mưa gió, tằm tuy hết ruột hãy còn vương".
Sấm sét khéo vô tình, trời đâu nỡ giết ta chăng, mấy mươi năm hồn nước lại hồn nhà, chuông gióng trống rung, những ước tự do là hạnh phúc;
Non sông chung gánh nặng, ai thảy cũng như ông cả, ngoài mười dặm tiếng ca liền tiếng khóc, mưa hoà gió thuận, còn mong bất tử ấy tinh thần".
II.NGHỆ THUẬT VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐỐI
Có hai phép đối:
1. Đối tiếng (đối thanh) :Trắc đối bằng, bằng đối trắc.
2. Đối nghĩa ( đối ý) : ý nghĩa tương phản, đôi khi tương hòa.
Ta phải đối các tự loại với nhau.Các cụ ngày xưa chia các chữ ra hai loại là thực tự 實字 và hư tự虛字. Thực tự : đối với thực tự ; hư tư đối với hư tự. Hư tự là các tiếng không có ý nghĩa, hoặc ý nghĩa phụ thuộc , là những liên tự hay những tiếng đưa đẩy. như đã ,chưa, sắp, rồi, mà, rằng, hả, hử, ơi, ời .. Ngoài những chữ trên đều là thực tự, còn gọi là chữ nặng tức là những chữ có ý nghĩa.
Theo văn pháp ngày nay, thực tự gồm danh tự, động tự, tính từ, túc từ, trạng từ. . .
Động tự: đứng/ ngồi ; cười /khóc.
Tính từ: tươi/ héo; béo/ gầy; cao/thấp.
Trạng từ: chậm/ nhanh; lạnh lùng,/ấm áp
Chữ Hán đối với chữ Hán; chữ Nôm đối với chữ Nôm.
Tiếng và nghĩa phải đi đôi với nhau như:
Gió thổi/ Mây bay
Trăng soi đầu núi/ Gió thổi bên thềm.
Xét về cấu trúc của câu đối, trong thi phú có hai cách đối:
1. Tiều đối:
Trong một câu vài chữ hay những đoạn đối nhau như trong thơ lục bát:
-Khi tỉnh rươu/ lúc tàn canh
-Khi xem hoa nở/khi chờ trăng lên
2. Bỉnh đối:
Câu trên đối với câu dưới như trong thơ thất ngôn bát cú, song thất lục bát, hay trong các câu đối:
+Cung Oán Ngâm Khúc:
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
+Vua Lê Thánh tông và thiếu nữ:
Gạo trắng nước trong mến cảnh lại càng thêm mến cả…
Cát lầm gió bụi lo đời đâu đấy hãy lo cho…
+Nguyễn Công Trứ:
Ba vạn anh hùng đè xuống dưới
Chín tầng thiên tử đội lên trên.
Trong văn chương, ý nghĩa quan trọng nhất. Đối tiếng là phương pháp, là nghệ thuật để phục vụ cho việc đối nghĩa.
Nếu các câu đối đúng quy luật và hay thì gọi là đối chỉnh( chỉnh đối ) hoặc đối cân . Nếu các chữ cùng tự loại mà trái với nhau như cao đối thấp, béo đối gầy, gần gũi đối xa xôi thì gọi là đối chọi.Nếu không đúng quy luật thì bị phê là đối không chỉnh không cân.
Những quy luật trên đã được các bậc thầy truyền lại trong đời sống, trong học đường hay trong sách vở. Những điều trên là quy luật chung nhưng thực tế có nhiều ngoại lệ.
+ một số không theo luật bằng trắc như câu đối ở chùa Giác Lâm (Saigon):
朝 朝 朝 朝 朝 拜朝 朝 朝 拜
齊 齊 齋 齊 齊 戒 齊 齊 齋 戒
Triêu triêu triều, triêu triêu bái, triêu triêu triều bái
Tề tề trai, tề tề giới, tề tề trai
(Rộn rịp chầu, rộn rịp bái, rộn rịp chầu bái
(Câu đối của họa sĩ kiêm thư gia Vũ Hối)
白 頭 皆 老
同 心 永 結
Bạch đầu giai lão
Đồng tâm vĩnh kết
( Đầu bạc cùng già
Đồng tâm kết mãi).
Hai câu trên rất hay nhưng đều vần trắc, không theo luật đối thanh, có lẽ tác giả là người Trung Quốc ở Việt Nam nên phát âm khác ta. Hơn nữa ta hay Trung Quốc, ngày xưa khi làm thơ, phú phải theo quy luật của các sách ngữ âm quy định thống nhất các thanh vận như Quảng- Văn Vận Phủ, Bội Văn Vận Phủ . . . .cho nên đọc khác âm Hán Việt của ta.
Hoặc trường hợp Nguyễn Khuyến nôm đối Hán:
-Nguyễn Khuyến, viết mừng một chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.
一 近 市 二 近 江 此 地 可丰 佳 辟 屋
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc
Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
(bản khác chép: thử địa tích tằng xưng tị ốc, và chú Xưng tị ốc: do câu “”Đường Ngu chi thời ốc nhi phong”. Ý nói đời Đường Ngu, trong nước có nhiều người hiền, nên nhiều nhà ở liền vách nhau được khen thưởng. )
Nói chung, luật là một việc, nó cần thiết trong trường học, trường thi, còn trong xã hội và văn nghệ, các tác giả có tự do hơn, đôi khi phá cả luật lệ mặc dù họ là những bậc đại khoa hay thi văn hào.
III.VÀI QUY LUẬT VIẾT CÂU ĐỐI
Quy luật đối là chung cho thi ,phú, văn tế, hịch và câu đối. Ở đây, tôi xin nhấn mạnh về cách làm các câu đối . Câu đối tiếng Hán tự gọi là doanh thiếp 楹帖 hay doanh liên 楹聯 ( Doanh là cột; thiếp là mảnh giấy có viết chữ, liên là đối nhau).
Câu đối có hai thành phần, gọi là hai câu hay hai vế.Người ta thường gọi là vế xuất hay vế đối, hoặc câu trên, câu dưới.
1. QUY LUẬT CHUNG
Căn cứ vào chữ cuối của câu xuất mà người ta gọi là câu đối trắc hay bằng. Vế xuất thường là trắc, tất nhiên vế đối là bằng. Như câu đối trong điện Thái Hòa:
子 能 承 父 業
臣 可 報 君 恩
Tử năng thừa phụ nghiệp,
Thần khả báo quân ân.
(Con thừa được nghiệp cha,
Tôi trả tròn ơn chúa)
Nhưng cũng có khi ngược lại như câu trên đã đưọc Nguyễn Hàm Ninh hay Cao Bá Quát sửa lại:
父 業 子 能 承
君 恩 臣 可 報
"Phụ nghiệp, tử năng thừa,
Quân ân, thần khả báo".
(Nghiệp cha, con thừa hưởng,
Ơn chúa, tôi trả tròn)
Và câu xuất của Đặng Trần Thường và câu đối của Ngô Thời Nhiệm:
-Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai?
-Thế chiến quốc, thế xuân thu, gặp thời thế, thế thời phải thế!
Câu xuất có bao nhiêu chữ thì câu đối cũng có bấy nhiêu chữ. Câu xuất thanh như thế nào thì câu đối phải làm trái lại, bằng đối trắc, trắc đối bằng.
Ngoài ra, vế trên theo nghệ thuật nào thì vế dưới cũng phải vậy. Thí dụ câu xuất dùng nghệ thuật chiết tự, dùng điển tích, địa danh, nhân danh, tục ngữ, ca dao, câu nôm pha chữ Hán, nói lái, điệp tự, liên hoàn, tiếng đôi, tiếng ba., chữ có nhiều nghĩa . . thì người đối cũng phải theo cho sát.
Số chữ trong câu đối không nhất định, song it ai làm câu đối dài hơn mười chữ.
Tuy nhiên, cũng có người làm câu đối Tết rất dài. Thí dụ câu đối sau đây của Phạm-Thái dài tới 124 chữ. Có lẽ Phạm Thái giật giải quán quân về viết câu đối dài nhất:
Xuân mới gọi là Xuân, Xuân thiều quang thục úc, Xuân xướng mậu huyên hòa, ai chẳng mong Xuân mãi để vui đời, kìa xem nơi kia đình, nơi nọ đáo, nơi ấy điếm đua cờ người, kéo hội, bắt chạch, gieo đu, Xuân năm ngoái vui lắm, năm nay lại vui ghê, muốn Xuân mãi để nhẩn nha ngày tháng Bụt;
Tuổi cũng thì là tuổi, tuổi phú quí vinh hoa, tuổi công danh sự nghiệp, ai chẳng muốn tuổi dài cho sướng kiếp, nhưng mà ngày nay cờ, ngày mai bạc, ngày kia chè rượu, quay đất, bài phu, tổ tôm, xóc đĩa, tuổi ngày trước dại vừa, ngày rày còn dại mãi, nhiều tuổi chi cho tổn ải nước non Trời.
Câu đối của Huỳnh Mẫn Đạt tế Nguyễn Trung Trực:
劍 拔 堅 江 泣 鬼 神
Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỉ thần.
Trong câu này, các chữ thứ nhất đều trắc. Nhưng đôi khi không cần luật lệ chặt chẽ . Có lẽ một số quan niệm sao cho hai chữ cuối hai vế và ý đối nhau là được.
福 深 似 海
禄 高 如 山
Phước thâm tự hải
Lộc cao như sơn
(Hạnh phúc nhiều sâu như biển;
Của cải nhiều cao như non)
Ngay các thi hào Trung Quốc cũng có những câu đối rất đặc biệt, rất phóng khoáng như câu đối của Tô Đông Pha (1036-1101) :
春 風 春 雨 春 色
新 年 新 景 新 家
Xuân phong xuân vũ xuân sắc
Tân niên tân cảnh tân gia
(Gió xuân, mưa xuân, sắc xuân)
Năm mới, cảnh mới, nhà mới)
2. CÁC THỂ LOẠI ĐỐI
Theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các thể sau:
(1). Câu tiểu đối:
là những câu 4 chữ trở xuống.
Ô! Quạ tha gà!
Xà! Rắn bắt ngóe!
hay:
Chó giữ nhà
Mèo bắt chuột.
鴛 鴦 對 舞
鸞 鳳 和 鳴
Uyên ương đối vũ
Loan phượng hoà minh
(Uyên ương cùng múa
Loan phượng đều ca).
(2). Câu đối thơ:
là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
-Kính thành hai chữ lễ
Trung hiếu một lòng thờ.
-Miệng nhà quan có gang có thép
Đồ nhà khó vừa lọ lại vừa thâm.
-Duyên thiên 天 chưa thấy trồi đầu dọc 夫,
Phận liễu 了 sao đà nảy nét ngang 子?
hay:
Nước trong leo lẻo, cá đớp cá,
Trời nắng chang chang, người trói người" -
(3).Câu đối phú:
là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú, gồm có:
+ Lối câu song quan (hai cửa): là những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền:
Ruồi đậu mâm xôi đậu,
Kiến bò đĩa thịt bò.
-Cổng chùa Từ Hiếu (Huế) 四 海 名 人 題 古 寺
一 山 風 物 媚 禪 深
Tứ hải danh nhân đề cổ tự,
Nhất sơn phong vật mỵ thiền thâm
( Danh nhân bốn bể đề cổ tự.
Phong cảnh một đồi đẹp thiền môn)
-Câu đối ở tháp Hòa thượng Nhất Định, chùa Từ Hiếu, Huế
翠 竹 黃 花 霑 法 雨長 松 細 草 蔭 慈 雲
Thúy trúc hoàng hoa triêm pháp vũ.
Trường tùng tế thảo ấm từ vân.”
(Trúc biếc hoa vàng mưa pháp gội,
Tùng cao cỏ thấp mây từ che.)
+Lối cách cú: (cách :ngăn ra, cú:câu), nghĩa là mỗi vế, mỗi câu chia thành hai đoạn, đoạn ngắn, đoạn dài.
-Ngói đỏ lợp nghè,/ lớp trên đè lớp dưới.
Đá xanh xây cống/, hòn dưới nống hòn trên.
-Đất dân chùa làng/, phong cảnh phật.
Người đời của thế /nước non tiên
-Ông Thông đến gốc cây đề/, ông Thông không đi là ông Thông lại.
Cụ Tú đi qua cửa cống, /cụ tú nhảy được ấy cụ tú tài.
- Nguyễn Khuyến mừng Quản Long (chột mắt):
Cung kiếm ra tay, /thiên hạ đổ dồn hai mắt lại;
Triều đình cử mục, /anh hùng chỉ có một ngươi thôi.
+Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế có 3 đoạn trở lên.
-Bán rượu,/ bán trầu,/ không bán nước;
Buôn trăm,/buôn chục,/ chẳng buôn quan.
+ Trần Tế Xương dán Tết:
Đào tiên đã chín hay chưa, /bác mẹ em già,/ chắp cánh bay lên xin một quả;
Đối Tết không hay cũng dán, /bà con ai biết,/ dừng chân đứng lại ngắm vài câu.
+Nguyễn An Cư thi hỏng:
Nghển cổ cò/ trông bảng không tên/: Giời đất hỡi,/ văn chương xuống bể!
Lủi đầu cuốc,/ về nhà gọi vợ/: Mẹ đĩ ơi,/ tiền gạo lên giời!
+Điếu chiến sĩ cách mạng có lẽ thời Phan Bội Châu ( không rõ tác giả)
乾 坤 翻 覆 以 來 間 豈 無 轟 轟 烈 烈 好 場 誰 似 君 家 三 攖 虜 刃 再 殉 孤 城 幾 回 看 寶 劍 掌中 魂 到 九 原 猶 殺 賊
身 世 浮 沈 至 此 日 常 抱 鬱 鬱 孛 孛 奇 氣 欲 揮 吾 手 拔 崑 崙 山 平芹 徐 海 一 聲 語 姪 兒 海 外 身 先 同 志 厲 誅 仇
Càn khôn phiên phúc dĩ lai,/ gian khởi vô oanh oanh liệt liệt hảo trường,/ thùy tự quân gia,/ tam anh lỗ nhận, /tái tuẫn cô thành, /kỷ hồi khan bảo kiếm chưởng trung,/ hồn đáo cửu nguyên do sát tặc.
Thân thế phù trầm chí thử, /nhật thường bão uất uất bột bột kỳ khí,/ dục huy ngô thủ, /bạt Côn Lôn sơn,/ bình Cần Giờ hải,/ nhất thanh ngữ diệt nhi hải ngoại,/ thân tiên đồng chí lệ tru cừu.
(Trời nghiêng đất ngả đến nay, há không trường liệt liệt oanh oanh, ai như nhà ông, ba người đánh giặc chết, hai bận giữ thành cô, bao lần xem báu kiếm trong tay, hồn đến suối vàng còn giết giặc.
Bẩy nổi ba chìm là thế, ôm cái chí uất uất bột bột, muốn giơ tay tớ, san phẳng núi Côn Lôn, lấp bằng bể Cần Giờ, một tiếng gọi cháu trai ngoài cõi, hàng đầu đồng chí gắng phanh thù).
Tuy là chia ra song quan, cách cú, gối hạc nhưng biên giới không rõ rệt vì xưa Hán và nôm không ngắt dấu như quốc ngữ; việc ngắt câu là tùy mỗi người viết và mỗi người đọc. Thật ra, quốc ngữ bây giờ cũng vậy, một câu có thể ngắt nhiều đoạn tùy theo cá nhân người viết, người đọc.
Trong trường hợp cách cú hay gối hạc, thì mỗi vế có nhiều đoạn. Mỗi vế có nhiều đoạn thì cũng phải theo luật bằng trắc. Ta phải xem chữ cuối vế mà ấn định chữ cuối đoạn. Chữ cuối đoạn được gọi là "đậu câu". Chữ cuối vế là bằng thì chữ cuối đoạn phải trắc, và ngược lại.
Trong câu đối hạc tất sau đây, Nguyễn Khuyến đã đối rất chỉnh:
Quan chẳng quan thì dân (b), / chiếu trung đình ngất ngưởng ngồi trên (b), / nào lình, nào cả, nào bàn ba (b), / xôi làm sao, thịt làm sao, đóng góp làm sao (b); thủ lợn nhìn lâu trơ cả mắt (t).
Già chẳng già thì trẻ (t), / đàn tiêu tử nhấp nhô đứng trước (t), / này phú, này thơ, này đoạn một (t), / bằng là thế, trắc là thế (t); mắt gà đeo mãi mỏi bên tai (b).
Tuy nhiên, vì câu có nhiều đoạn nên chữ cuối đoạn khó làm giống nhau. Câu dưới đây, Nguyễn Khuyến áp dụng phương thức khác câu trên:
Không tham,/ không hãi,/ không ngại,/ không lo/, không cứng cổ,/ không to khí tượng,
Có phúc,/ có phần/, có nhân, /có nở, /có lọt lòng/ có nợ quân thân".
Dù gối hạc có nhiều đoạn, ta có thể chia ra hai đoạn chính và theo đó mà áp dụng luật bằng trắc chứ không nhất thiết theo luật trên.
Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con/, con ai con nấy?
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa,/ đứa nào đứa này?
Trong câu trên, các đoạn theo đúng luật bằng trắc, nhưng chữ đầu, chữ lưng không theo luật bằng trắc.Lẽ tất nhiên, mỗi người có một cách phân đoạn khác nhau cho nên áp dụng bằng trắc cũng có khác.
Như câu trên, ta có thể phân đoạn một cách khác:
Tự (字) là chữ/ cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?
Vu (于) là chưng,/ bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa này?
Nói chung, luật lệ là vậy nhưng thực tế, các bậc đại gia phóng khoáng cũng không câu nệ. Ngay cả thơ Trần Tế Xương rất hay nhưng xem kỹ thì đối không chỉnh lắm, Tuy nhiên, thi phú của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát thì đối rất chỉnh và rất hay.
Tóm lại, trong câu đối, các chữ cuối câu và một số chữ trong câu hay cuối đoạn và ý đối nhau là được. Điều cần nhất là câu đối có ý nghĩa, có âm thanh nhạc điệu, và hình ảnh, gây được cảm xúc ở lòng người đọc. Gò ép, miễn cưỡng thì không hay. Đấy là luật của thơ, của câu đối.
IV . CÁC LOẠI CÂU ĐỐI
Câu đối Việt Nam gồm có nhiều loại.Nếu căn cứ vào các văn tự thì nước ta có ba loại câu đối:
-Câu đối chữ Hán
-Câu đối chữ nôm
-Câu đối quốc ngữ
Nếu căn cứ vào công dụng của câu đối, ta có thể phân nhiều loại.
Ta có thể phân loại như sau:
1. CHẤT VẤN, THỬ TÀI
Loại này thường dùng để thử tài, thuộc loại vấn đáp, phải trả lời ngay, không viết.
(1). Nguyễn Văn Cẩm tức nhà cách mạng Kỳ Đồng (1875-1929) lúc nhỏ đi thi , quan tỉnh thấy ông tuổi quá trẻ , muốn thử sức bèn ra câu đối và Nguyễn Văn Cẩm đối lại:
Đứng giữa làng Trung Lập.
Dấy trước phủ Tiên Hưng.
Các quan lại ra câu khác:
孔 門 傳 道 諸 賢 曾 子思 子 孟 子
周 室 開 基 列 聖 太 王 王 貴 文 王
Khổng môn truyền đạo chư hiền, Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử
Chu thất khai cơ liệt thánh, Thái vương, Vương quý, Văn vương.
Lần sau quan Đốc học cũng ra câu đối
玉 亭 亭 上 人 如 玉
金 牓 牓 中 士 似 金
Ngọc đình đình thượng nhân như ngọc
Kim bảng bảng trung sĩ tự kim.
Người đứng trên đình cao, người là ngọc,
Sĩ ở trong bảng vàng, sĩ như vàng.
(Ngọc Đình, Kim Bảng là tên hai làng ở gần Hà Nội)
(2). Đây là câu xuất của đám người theo phong tục cũ chăng dây chận đường trong đám cưới ở Quảng bình, cụ Nguyễn Hàm Ninh lúc trẻ có tham dự đám cưới đối lại:
Chân dậm, tay mò bơn hói Kịa,
Mà kề, miệng ngậm bống khe Dang
(Cá bơn dẹt, bầu bỉnh, giống hình tam giác; cá bống tròn, dài, có ý tếu)
(3). Lúc Vũ Công Duệ còn nhỏ, một vị quan muốn thử tài, Vũ Công Duệ đồng ý và vị quan ra câu đối như sau:
童 子 六 七 人 無 如 爾 巧
Đồng tử lục thất nhân, vô như nhĩ sảo
(Trẻ nít sáu bảy đứa, không biết ai khéo hơn mày )
Trước khi đối, Công Duệ hỏi vị quan:
- Thế ông là gì đã? Vị quan trả lời:
-Ta là Lang Trung, mỗi tháng lãnh hai ngàn thạch lúa.
Quan nói xong, Công Duệ liền ứng khẩu đối:
郞 中 二 千 石 莫 若 公. . . .
(Quan Lang hai ngàn thạch, ông là quan... không ai bằng ông )
Nghe Công Duệ đối như thế, vị quan ngạc nhiên mới hỏi:
-Tại sao mày đối thiếu một chữ?
Cậu bé Công Duệ mỉm cười, trả lời một cách hóm hỉnh:
- Còn một chữ nữa tôi để dành, hể quan lớn thưởng tiền thật thì tôi đối là “廉 Liêm”, bằng không thì tôi đối là “貪 Tham”.(Ông này nhỏ mà thông minh, biết cách làm tiền!)
(4). Đoàn Thị Điểm khi lên 6 tuổi, đang học Sử Ký Trung Hoa, anh là Đoàn Doãn Luân lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối:
白 蛇 當 道 貴 拔 劍 而 斬 之
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi.
(Rắn trắng giữa đường, ông Quý (Lưu Bang) tuốt gươm mà chém)
Bà Điểm liền lấy một câu cũng trong Sử Ký đối lại:
黄 龍 傅 舟 禹 仰 天 而 歎 曰
Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết.
(Rồng vàng đội thuyền, ông Vũ (Hạ Vũ) ngửa mặt lên Trời mà than.)
Ông Luân thấy bà Điểm đang soi gương trang điểm nơi cửa sổ, liền ra câu đối:
對 鏡 畫 眉 一 點 番 成 兩 點
Đối kính họa mi, nhứt điểm phiên thành lưỡng điểm.
( Trước gương vẽ mày, một điểm hóa thành hai điểm, cũng có nghĩa là một cô Điểm hóa thành hai cô Điểm.)
Bà Điểm liền đối lại:
臨 池 玩 月 隻 輪 轉 作 雙 輪
Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
(Tới ao xem trăng, một vừng tròn chuyển thành hai vừng, cũng có nghĩa là một ông Luân chuyển thành hai ông Luân).
Sứ Tàu đùa bà Đoàn thị Điểm:
安 南 一 寸 土 不 知 幾 人 耕
An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.
(An Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày)
Bà Điểm đứng đó liền đáp lại rằng:
北 國 大 丈 夫 皆 由 此 途 出
Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.(Bậc đại trượng phu Trung Quốc đều bởi đường ấy mà ra)
2. CẢM ĐỀ, TỰ THUẬT, TỰ THÁN
Phần nhiều là do tác giả tự làm cả hai câu để bày tỏ tư tưởng và tình cảm của mình khi vui vẻ hay khi đau khổ.
(1). Cao Bá Quát đề nơi dạy học:
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi!
Mấy câu sau do Cao Bá Quát tự thán, tự thuật:
Một chiếc cùm lim chân có đế,
Hai hàng xích sắt, bước thì vương!
(Cao Bá Quát)
Ba hồi trống giục, mồ cha kiếp.
Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời!
(Cao Bá Quát)
(2).Nguyễn Công Trứ
-Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác. Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh.
3. HỶ SỰ
Câu đối thường dùng trong các việc hỉ như tặng người trong những dịp vui mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...
(1).Mừng đám cưới:
同 心 生 產 好
合 意 感 情 深
Đồng tâm sinh sản hảo Hợp ý cảm tình thâm.
(Đồng lòng làm ăn tốt
Hợp ý cảm tình sâu.)
良 日 良 時 良 偶
佳 男 佳 女 佳 緣
Lương nhật lương thời lương ngẫu Giai nam giai nữ giai duyên
(Ngày tốt, giờ tốt, tốt đôi lứa,
Trai đẹp, gái đẹp, đẹp tơ duyên)
四 季 花 長 好
百 年 月 永 圓
Tứ quí hoa trường hảo Bách niên nguyệt vĩnh viên.
(Bốn mùa hoa luôn nở
Trăm năm trăng vẫn tròn).
+Yên Đổ làm câu đối mừng tân hôn:
鶯 啼 鳳 語 迎 花 帳 雁 舞 鸞 飛 拂 錦 屏
Oanh đề phượng ngữ nghênh hoa trướng; Nhạn vũ loan phi phất cẩm bình.
Oanh kêu, phượng hót chào trướng hoa;
Nhạn múa, loan bay lay bình gấm.
(Cái tài tình của câu này là đọc Hán, Nôm cũng được mà đọc xuôi, đọc ngược cũng hay).
屏 錦 拂 飛 鸞 舞 雁
帳 花 迎 語 鳳 啼 鶯
Bình gấm phất phơ loan múa nhạn
Trướng xuân nghiêng ngửa phượng đề oanh.
Cũng có thể đọc:
Bình gấm phất phơ loan mó nhạn;
Trướng hoa nghiêng ngửa phượng đè oanh.
(2). Mừng thọ
四 德 俱 全 逢 九 秩 三 多 咸 憊 祝 千 秋
Tứ đức câu toàn phùng cửu trật. Tam đa hàm bị chúc thiên thu.
(Tứ đức vẹn toàn lên chín chục.
Tam đa đầy đủ chúc ngàn năm.)
九 旬 鶴 髮 同 金 母
七 秩 斑 衣 學 老 萊
Cửu tuần hạc phát đồng kim mẫu. Thất trật ban y học lão Lai.
(Chín mươi tóc hạc cùng kim mẫu.
Bảy chục áo hồng học lão Lai.)
+Hà Sĩ Phu mừng Hoàng Cầm thọ 84 tuổi:
-Khúc nhạc trong thơ mỗi tiếng thêm say hồn Lạc Thổ,
Câu thơ như vẽ, thiên thu còn nặng vết Đông Hồ.
(Làng Lạc thổ, tổng Đông Hồ là quê của Hà Sĩ Phu và Đông Hồ)
-黃 琴 詩 句 了
京 北 迷 魂 長
-Hoàng Cầm thi cú liễu,
Kinh Bắc mê hồn trường!
(Đà Lạt xuân bính tuất 2006)
Chữ liễu không hay, làm cho người ta tưỏng Hoàng Cầm đã mất, dù ông đã mất cũng không nên dùng chữ này vì danh tiếng ông và sự nghiệp của ông còn mãi với thời gian. Tôi xin phép được sửa như sau:
黃 琴 事 業 千年 永
北 京 詩 歌 百世 長
Hoàng Cầm sự nghiệp thiên niên vĩnh,
Kinh Bắc thi ca bách thế trường.
(Ngàn năm sự nghiệp Hoàng Cầm,
Trăm đời thi ca Kinh Bắc)
-Nguyễn Thiên Thụ mừng thọ giáo sư Nguyễn Đăng Thục 88 tuổi (1995)
仲 尼 弟 子 三 千 花 開 滿 地
老 子 春 秋 一 百 鶴 舞 中 天
Trọng Ni đệ tử tam thiên, hoa khai mãn địa
Lão tử xuân thu nhất bách, hạc vũ trung thiên.
(Khổng tử ba ngàn học trò, hoa nở khắp mặt đất;
Lão Tử thọ trăm tuổi, hạc múa ở lưng trời)
-Mừng giáo sư Nguyễn Đăng Thục 90 tuổi (1997)
Đào tạo bao thế hệ, một hai lần khoa trưởng vẻ vang,
Nghiên cứu mấy thập niên, ba bốn chục công trình phong phú.
九 旬 上 壽 南 山 堅 固
三 教 深 揅 北 斗 光 輝
Cửu tuần thượng thọ, Nam Sơn kiên cố,
Tam giáo thâm nghiên, Bắc Đẩu quang huy.
(Tuổi thọ 90 vững vàng tựa Nam Sơn,
Nghiên cứu tam giáo, rực rỡ như Khuê Đẩu)
(3). Mừng thi đỗ:
雀 屏 喜 中 穿 楊 手
虎 榜 旋 登 折 桂 才
Tước bình hỷ trúng xuyên dương thủ.
Hổ bảng toàn đăng chiết quế tài.
(Bắn sẻ mừng tay xuyên dương.
Bảng hổ khen tài bẻ quế.)
(4). Mừng thi đỗ, lấy vợ:
試 把 蟾 宮 攀 桂 手
好 從 繡 閣 畫 蛾 眉
Thí bả thiềm cung phan quế thủ.
Hảo tòng tú các hoạ nga my.
(Gặp khoa thi. cung thiềm bẻ cành quế.
Kết duyên lành, lên tú các vẽ mày ngài.)
芳 名 此 日 登 天 府
花 燭 今 宵 映 洞 房
Phương danh thử nhật đăng thiên phủ.
Hoa chúc kim tiêu ánh động phòng.
(Danh thơm ngày ấy lừng thiên phủ.
Hoa đuốc đêm nay rực động phòng).
(5).Thăng quan tiến chức:
+Nguyễn Khuyến mừng ông tiên chỉ:
Đám công danh có chí thời nên, ơn làng giấy trắng, ơn vua giấy vàng, chiếu trung đình ngất ngưỡng ngồi trên, ngôi tiên chỉ cũng rất là đáng,
Nhờ phúc ấm sống lâu lên lão, anh cả bàn năm, anh hai bàn sáu, đoàn tiểu tử xênh xang múa trước, tranh tam đa ai khéo vẽ nên ?
4. TẶNG
Do cảm hứng hay có ý khuyên khích mà khen ngợi, đề tặng.
+Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán trầu và nước:
Nếp giầu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
+Thiên hạ tặng ông Trần Phỉ ( hay Trần Phỉ Khanh) ở Chi Nê, Thanh Oai, Hà Đông, đậu Thám hoa, triều Đoan Khánh, làm quan thượng thư triều Mạc:
歷 代 魁 科 天 下 有
一 門 致 仕 世 間 無
Lịch đại khôi khoa thiên hạ hữu,
Nhất môn trí sĩ thế gian vô.
(Khôi khoa nhiều đời, thế gian có,
Hưu trí một nhà, thiên hạ không )
+Đức Bảo,sứ nhà Thanh tặng Nguyễn Nghiễm:
兩 朝 名 宰 相
一 世 大 儒 師
Lưỡng triều danh Tể tướng
Nhất thế đại Nho sư”
(Hai triều làm tể tướng,
Một đời danh đại nho.)
Và bức hoành phi:
奕 世 書 香
Dịch Thế Thư Hương
(Giòng dõi thư hương).
(Đức Bảo là sứ thần của vua Càn Long viết tặng Tể tướng Nguyễn Nghiễm vào trước tháng Chạp năm Tân Tỵ (1761) một ngày (sau đó được khắc lên bức hoành phi này), đến đời Minh Mạng trùng tu Càn Long Tân Tỵ, Lạp tiền nhất nhật sách phong Chánh sứ Đức Bảo đề. Bên trái là: Minh Mệnh Giáp Ngọ… vọng phụng… ư Vĩnh Tường tân tu.)
+Vua Thiệu Trị tặng hàng thợ nhuộm:
天 地 玄 黄 都 我 手
朝 廷 朱 紫 總 吾 門
Thiên địa huyền hoàng đô ngã thủ,
Triều đình chu tử tổng ngô môn.
(Đen trời vàng đất nhờ tay mỗ,
Mũ tía xiêm điều chật của ông).
+Vua Thiệu Trị tặng Nguyễn Hàm Ninh khi ông làm Hành tẩu bộ Lễ:
野 外 秀 才 齊 天 大 聖
部 中 行 走 陸 地 神 仙
Dã ngoại tú tài, Tề thiên đại thánh,
Bộ trung hành tẩu, lục địa thần tiên.
(Tú tài ở làng to như Tề thiên đại thánh.
Hành tẩu trong bộ khoẻ như lục địa thần tiên
+Nguyễn Công Trứ mừng xuân nhà bán quan tài (thọ đường:
天 増 歲 月人 増 壽
春 滿 乾 坤 福 滿 堂
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường
(Trời đất ngày tăng ngày tháng, người mỗi năm thêm
Tuổi thọ; xuân đầy Trời Đất; hạnh phúc đầy nhà)
5. TANG CHẾ:
Câu đối làm để khóc người chết.
(1). Nguyễn Hàm Ninh làm cho một bà có chồng người Tàu sang Việt Nam buôn bán bị bệnh mà chết phải đưa linh cửu về Trung Quốc trong khi bà có thai:
結 髮 訂吾 緣 誰 謂今 朝 鴻 北 去
茫 心 憑 客 地 吁 嗟 何日雁 南 歸
Kết phát đính ngô duyên, thùy vị kim triêu hồng bắc khứ,
Mang tâm bằng khách địa, hu ta hà nhật nhạn nam quy!
Kết tóc hẹn duyên ta, một phút ai xui hồng về bắc,
Ôm lòng nương đất khách, bao giờ còn thấy nhạn sang nam?)
(Câu này tác giả dùng ngô, khách,mang để nói việc bà lấy chồng Tàu, có mang),
(2).Bùi Hữu Nghĩa khóc vợ:
-Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biện bạch này oan nọ ức; đấng hiền lương mắt thấy thảy đau lòng.
Chốn tỉnh đường một tiếng hét vang, hẳn hoi lẽ chánh lời nghiêm, lũ bằng đảng tai nghe đều mất vía.
Đôi liễn thờ vợ như sau
我 貧 卿 能 助 我 冤 卿 能 明 朝 郡 皆 稱 卿 是 婦
卿 病 我 不 藥 卿 死 我 不 喪 江 山 膺 笑 我 非 夫
-Ngã bần khanh năng trợ; ngã oan khanh năng minh, triều quận giai xưng khanh thị phụ,
Khanh bệnh ngã bất dược, khanh tử ngã bất tang, giang sơn ưng tiếu ngã phi phu
-Ta nghèo mình hay giúp đỡ; ta tội mình biết kêu oan; trong triều ngoài quận đều khen mình mới thật là đáng vợ.
Mình bệnh ta không thuốc thang; mình chết ta không mai táng; non sông cùng cười ta chẳng xứng gọi là chồng.
( Lời giản dị, chân thành làm cảm động lòng người, có thể nói là câu đối khóc vợ hay nhất)
(3).Nguyễn Khuyến khóc vợ:
Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,tất tưởi chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm?
-Nguyễn Khuyến viết cho góa phụ bán thịt lợn:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy -
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang"
-Quanh năm luôn chung thủy;
Thân bồ liễu muốn điểm trang;
(tiết canh, bồ dục là chỉ nghề làm thịt heo).
-Nguyễn Khuyến viết cho cô đầu khóc bà Trùm:
Giàu làm kép hẹp làm đơn, tống táng cho yên hồn phách mẹ
Cá kể đầu rau kể mớ, tình tang thêm tủi phận đàn con .
(Nhà cô đầu cho nên tác giả dùng các chữ kép, phách, tình tang, đàn)
-Nguyễn Khuyến viết hộ người vợ thợ nhuộm khóc chồng:
Thiếp từ thuở lá thắm xe duyên, khi vận tía lúc cơm đen, điều dại điều khôn nhờ bố đỏ;
Chàng ở dưới suối vàng nghĩ lại, vợ má hồng, con răng trắng, tím gan tím ruột với trời xanh .
(Nhà thợ nhuộm nên có nhiều màu: thắm, tía, đen,điều, đỏ,vàng, hồng, trắng tím, xanh)
-Nguyễn Khuyến viếng bà Vũ Văn Báo:( Vũ Văn Báo người làng Vĩnh Trụ ,Nam Hà, đỗ phó bảng, làm tổng đốc Nam Định, là “thế huynh” (con trai thầy học) và thông gia của nhà thơ)
Ôi thương ôi ! Hơn một ngày chẳng ở, kém một ngày chẳng đi, bà năm mươi tám mà bà nhà tôi sáu mươi tư, xuân thu tuổi đã cao rồi, lọ là bon chen bảy tám chín mười mươi, thôi đừng cầu phật cầu trời chín suối không nên ân hận nữa;
- Ấy quái nhỉ ! Sống mỗi người một nết, chết mỗi người một tật, bà tháng năm này mà bà nhà tôi tháng tư trước, ngày tháng cũng không cách mấy, nào có lâu la một năm năm bảy tháng, ví chẳng dâu gia dâu giáo, đường mây sao khéo rủ rê nhau
(Lời tự nhiên theo lối kể lể của người bình dân, và dùng tục ngữ)
+Nguyễn Khuyến khóc con (Nguyễn Hoan, đỗ phó bảng và làm tri phủ Kiến Xương ,tỉnh Thái Bình, bị bệnh chết . )
Bảng vàng bia đá nghìn thu, tiếc cho người ấy
Tóc bạc da mồi trăm tuổi, thiệt lắm con ơi !
(4). Vãn Phan Thanh Giản:
+Sĩ phu Nam Kỳ điếu Phan công:
泉 未 釋 羣 戎 憾
一 忍 能 全 六 省 民
Cửu tuyền vị thích quần nhung hám,
Nhất nhẫn năng toàn lục tỉnh dân.
(Suối vàng còn giận quân giặc dữ
Nhẫn nhục cho yên đám dân lành.)
+Sĩ phu Trung Kỳ phúng Phan công:
三 朝 耿 耿 敦 從 事
一 老 哀 哀 不 憗 遺
Tam triều cảnh cảnh đôn tùng sự
Nhất lão ai ai bất ngận di.
(Gắn bó ba triều lo việc trọn,
Xót thương một lão chẳng sống lâu)
+ Sĩ phu Bắc kỳ khóc Phan Thanh Giản:
南 中 再 覩 文 承 相
北 地 驚 魂 郭 子 儀
Nam trung tái đổ Văn thừa tướng,
Bắc địa kinh hồn Quách Tử Nghi.
(Trong Nam lại thấy Văn thừa tướng,
Ngoài Bắc càng kinh Quách Tử Nghi)
(5).Khóc Tản Đà
+Đồng Sơn (Nam Định) khóc Tản Đà:
-Nặng "Khối tình con, tài tử giai nhân trời khéo cợt;
Còn "Thề Non Nước", văn chương sự nghiệp đất khôn vùi!
(Dùng các tác phẩm của Tản Đà)
+Nguyễn Văn Luận ( giáo học Nam Định) khóc Tản Đà:
Côi Vị ngày nào, chếnh choáng giang sơn ba chén rượu;
Hà Đồ số hẳn, rỡ ràng sự nghiệp mấy vần thơ.
+ Mai Lâm Đoàn Văn Thăng (Hoàng Mai, Hè 1933) khóc Tản Đà:
Bác thật "về" ư? Tiệc Rượu Thần Tiên mong đãi khách;
Tôi còn ở mãi! Tình Thơ Non Nước vẫn lưu người!
Câu đối này sau được Đái Ngoạn Quân ( điêu khắc gia, và cũng là học giả người Trung Quốc ở Chợ Lớn, đã có lúc làm giáo sư thỉnh giảng môn Văn Chương Việt Nam tại Đại Học Văn Khoa, Saigon trước 1975) dịch Hán văn năm 1966:
公 果 歸 乎 酒 席 神 仙 方 待 客我 由 在 也 詩 情 山 水 永 留 人
Công quả quy hồ? Tửu tịch Thần Tiên phương đãi khách!
Ngã do tại dã! Thi tình Sơn Thủy vĩnh lưu nhân!
(6).Khóc Nhất Linh
+Vũ Hoàng Chương viếng Nhất Linh:
Người quay tơ, đôi bạn, tối tăm, anh phải sống chứ sao đoạn tuyệt
Đời mưa gió, lạnh lùng, bướm trắng, buổi chiều vàng đâu chỉ nắng thu!
(Đặc điểm ở đây tác giả dùng tên các tác phẩm của Nhất Linh)
+.Đông Hồ truy điệu Nhất Linh :
Một thời còn nức thanh danh, nền xã hội chí canh tân sắp sẵn, trào lưu phơi rộng ngõ tâm tình trước rồi sau Phong Hóa Ngày Nay, đoàn Tự Lực gây nên, bút tài hoa lỗi lạc, mũi thép sắc ngời, làng báo đàn văn tay lãnh tụ;
Nấm đất không chôn sự nghiệp, tòa cường quyền, án chuyên chế đừng tuyên, xét công tội để cho phần lịch sử, khinh với trọng lòng non Thái, nghĩa thành nhân chọn lấy, tiệc chánh khí huy hoàng, ruợu đời cạn chén, đường mây nẻo gió bước thung dung (18-7- 1963).
+Nạn độc tài một sớm đánh tan, hùng chí quân dân cách mạng,
Nền Văn Hóa Ngày Nay xây dựng, thiếu rồi lãnh tụ Nhất Linh.
( Lễ truy điệu tại vườn Tao Đàn sau 5-1-1964. Văn Học 109, 22).
(Trong các câu trên, Đông Hồ đèu kể các công trình của Nhất Linh)
(7).Nguyễn Thiên Thụ tưởng niệm giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch
Văn tài uyên bác, đông tây kim cổ đều lão thông, trí tuệ rạng ngời tày Bắc Đẩu;
Cốt cách thanh cao, giảng dạy luận bàn thường vui vẻ, ân tình cao lớn tựa Thái Sơn.
(8). Nguyễn Thiên Thụ điếu giáo sư Nguyễn Khắc Kham:
一 片 冰 心 月 明 照
百 年 塵 世 鶴 高 飛
Nhất phiến băng tâm, nguyệt minh chiếu,
Bách niên trần thế, hạc cao phi.
( Một tấm tuyết băng , trăng chiếu sáng;
Trăm năm trần thế, hạc bay cao).
+Hà Si Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh viếng Xuân Sách:
Mấy cuộc thăng trầm, XUÂN ở lại Một cuốn Chân dung, SÁCH để đời
+Bùi Minh Quốc điếu Xuân Sách
Vung bút để đời trăm tướng mạo
Lẩy thơ truyền kiếp một chân dung.
(1). TRIÊU LÊ
- CHÚA TRỊNH
+Trong phủ đường:
乾 御 奠中區,肅 穆 位 成 朝 左 右
旅 庭 趨 下 駿,濟 蹌 序 列 作 西 東
Kiền ngự điện trung khu, túc mục vị thành triều tả hữu;
Lữ đình xu hạ tuấn, tế thương tự liệt tác tây đông.
(Ngai chúa ở giữa, chầu chực hai bên tả hữu
Sân chầu phía dưới, dập dìu các dãy đông tây
當 宇 穆 晨 旒 , 豈 弟 為 綱 徵 壽 考
正 朝 恢 治 体 , 時 幾 懋 勉 挽 凝 熙
Đương vũ mục thần lưu, khải đễ vi cương trưng thọ khảo;
Chính triều khôi trị thể, thời cơ mậu miễn vãn ngưng hi.
(Gánh triều đình, cân đai rực rỡ, rường cột tốt, điềm dài lâu,
Sửa chính trị, nền móng vững vàng, vận hội lành, phúc to lớn).
籬 照 四 方 瞻, 虎 步 龍 行 昭 瑞 彩
泰 和 千 古 見 , 鳳 儀 麟 舞 荐 嘉 祥
Ly chiếu tứ phương chiêm, hổ bộ long hành chiêu thụy thái;
Thái hoà thiên cổ kiến, phụng nghi lân vũ tiến gia tường.
(Hào quang tỏa bốn cõi, hổ bước rồng đi, điềm tốt đẹp,
Hòa bình để ngàn thu, phượng chầu lân múa, phúc lâu dài)
百 姓 總 吾 胞 , 遍 照 無 私, 光 是 燭
八 方 皆 我 闥 , 併 包 罔 外, 豁 如 心
Bách tính tổng ngô bào, biến chiếu vô tư, quang thị chúc;
Bát phương giai ngã đát, tinh bao võng ngoại, hoát như tâm.
(Trăm họ đều anh em, điềm nhiên soi sáng, sáng như đuốc.
Tám phương ấy nhà cửa, thung dung mở rộng, rộng như lòng).
才 難 得, 亦 難 知, 較 若 驪 黃 歸 藻 鑑
民 可 近 ,不 可 下, 儼 然 軒 陛 見 茅 茨
Tài nan đắc, diệc nan tri, hiệu nhược ly hoàng quy tảo giám;
Dân khả cận, bất khả hạ, nghiễm nhiêm hiên bệ kiến mao từ.
(Tài khó được, khó hay, như màu vàng ngựa đen, phải dùng gương sáng để chiếu,
Dân nên gần, nên mến, giống bậc thềm mái hiên, nên đến lều tranh mà thăm).
萬 里 奉 明 威,蕃 閫 瘽 瞻 華 萼 邇
四 時 宣 雅 化,絲 綸 遙 仰 彩 雲 來
Vạn lý phụng minh uy, phiên khổn cận chiêm hoa ngạc nhĩ;
Tứ thì tuyên nhã hoá, ti luân dao ngưỡng thái vân lai.
(Muôn dặm quyền uy, phiên khổn cận kể hoa thắm,
Bốn mùa giáo hóa, chiếu chỉ rạng rỡ mây lành).
邦 國 樹 藩 翰 遵 奉 典 常 勤 述 職
聖 賢 留 範 軌 講 明 學 問 要 存 心
Bang quốc thụ phiên hàn, tuân phụng điển thường cần thuật chức
Thánh hiền lưu phạm quỹ, giảng minh học vấn yếu tồn tâm.
(Phiên dậu nước nhà, noi phép thường, tròn chức vụ,
Khuôn mẫu thánh hiền, giảng đạo lớn, hết tâm can.)
夙 夜 彈 厥 心, 忠 愛 恪 敦 臣 子 職
終 始 典 于 學,言 行 敬 佩 聖 賢 書
Túc dạ đàn quyết tâm, trung ái khác đôn thần tử chức;
Chung thuỷ điển vu học, ngôn hành kính bội thánh hiền thư.
(Sớm tối dốc lòng, trung ái giữ phận thần tử;
Trước sau lo học, ngôn hành theo sách thánh hiền).
大 化 奉 宣 揚, 溫 室 德 音 常 在 耳
小 心 存 洞 屬,閶 門 威 令 不 違 顏
Đại hoá phụng tuyên dương, ôn thất đức âm thường tại nhĩ;
Tiểu tâm tồn động thuộc, xương môn uy lệnh bất vi nhan.
Tuyên dương đức lớn, lời Ôn Thất bên tai mãi mãi,
Giữ gìn việc nhỏ, lệnh Xương Hạp cạnh vua ngày ngày.
(Ôn thất :nhà ở về mùa đông của nhà vua, cũng gọi là nơi cơ mật về hành chính.Xương hạp, cửa của nhà vua).
雍 睦 燦 堯 名 ,晝 省 夕 修 兼 懋 勉
瞻 依 環 禹 服,南 成 北 始 慶 清 夷
Ung mục xán Nghiêu danh, trú tỉnh tịch tu kiêm mậu miễn;
Chiêm y hoàn Vũ phục, nam thành bắc thuỷ khánh thanh di
(Rạng rỡ danh Nghiêu hòa thuận, tu tập ngày đêm,
Theo đòi nghiệp Vũ thái bình, đánh dẹp nam bắc ).
萬 里 隔 隕 長, 地 廠 日 南 增 式 廓
九 畿 基 本 壯, 天 高 辰 北 屹 綱 維
Vạn lý cách vẫn trường, địa sưởng Nhật Nam tăng thức quách;
Cửu kỳ cơ bản tráng, thiên cao Thần Bắc ngật cương duy.
Muôn dặm xa xôi, Nhật Nam mở rộng,
Chín châu vững chãi, Thần Bắc xây cao.
(Nhật Nam là khu vực các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế ngày nay.Thần Bắc, tức sao Bắc Thần, chỉ vào ngôi vua.)
+Các nơi khác trong phủ chúa ( nhà mát, nơi du ngoạn. . .):
四 序 昭 融 清 晏 會
重 門 軒 豁 照 臨 中
Tứ tự chiêu dung thanh yến hội;
Trùng môn hiên khoát chiếu lâm trung.
(Bốn bức tường sáng, nước yên, giang hải lặng,
Hai lần cửa lớn, hiên rộng, nhật nguyệt soi).
卷 阿 伴 渙 時 遊 豫
天 保 升 恒 會 泰 亨
Quyền A bạn hoán thời du dự;
Thiên Bảo thăng hằng hội thái hanh
(Khi du ngoạn, đủng đỉnh chốn Quyền A,
Buổi thanh bình, rạng rỡ trời Thiên Bảo.)
(Thơ Quyền A, Kinh Thi, do Khang Công theo vua Thành Vương vui chơi ở trên chiếc gò queo (quyền a) làm ra, trong có câu: "Bạn hoán nhĩ du hĩ, ưu du nhĩ hữu hĩ" (Nhởn nhơ, ung dung ông chơi).Thơ Thiên bảo, Kinh Thi do các đình thần làm để chúc tụng nhà vua, trong có câu: Như nguyệt chi hằng, như nhật chi thăng (Như mặt trăng mặt trời rạng rỡ).
鐘 鼓 樂 同 魚 躍 沼
簫 韶 和 奏 鳳 儀 庭
Chung cổ lạc đồng ngư dược chiểu;
Tiêu thiều hoà tấu phụng nghi đình.
(Chuông trống reo vui, trong ao cá nhảy,
Ca nhạc hòa điệu, trước sân phượng bay)
五 絃 聲 繞 臨 風 院
八 闕 歌 喧 得 月 樓
Ngũ huyền thanh nhiễu lâm phong viện;
Bát khuyết ca huyên đắc nguyệt lâu.
(Đàn năm dây réo rắt nơi hóng gió,
Nhạc tám khúc vang lừng chốn thưởng trăng).
兌 澤 一 泓 妝 寶 鏡
坤 儀 億 載 鞏 璇 庭
Đoài trạch nhất hoằng trang bảo kính;
Khôn nghi ức tải củng tuyền đình.
(Hồ tây là gương báu,
Nghĩa mẹ ấy ngai vàng).
玉 燭 宣 煇 光 四 表
金 波 闡 瑞 慶 千 秋
Ngọc chúc tuyên huy quang tứ biểu;
Kim ba xiển thụy khánh thiên thu.
(Đuốc ngọc soi bốn cõi,
Sóng vàng lưu ngàn thu).
僊 仗 裝 成 連 岸 柳
天 香 飛 入 滿 湖 蓮
Tiên trượng trang thành liên ngạn liễu;
Thiên hương phi nhập mãn hồ liên.
(Trượng tiên bên bờ liễu,
Hương trời trong hồ sen).
(2).NHÀ NGUYỄN
+Điện Thái Hòa (Huế)
厚 澤 深 恩 遐 夷 慕
神 功 聖 德 史 書 垂
Hậu trạch thâm ân hà di mộ
Thần công thánh đức sử thư thùy
( Nghĩa cả ơn sâu, xa gần mến,
Thần công thánh đức, sử sách truyền)
霧 散 陰 消 清 宇 宙
雲 開 日 曜 麗 山 河
Vụ tán âm tiêu thanh vũ trụ,
Vân khai nhật diệu lệ sơn hà
(Hết mưa, khí âm tan, trời đất sáng,
Mây bay, ánh dương rạng, núi sông tươi).
閭 閻 醇 厚 民 風 美
天 氣 溫 和 室 宇 春
Lư diêm thuần hậu dân phong mỹ,
Thiên khí ôn hòa thất vũ xuân.
(Xóm thôn thuần hậu phong tục đẹp,
Khí hậu ôn hòa gia đình vui).
萬 物 氣 和 齊 發 育
九 州 光 備 自和 勻
Vạn vật khí hòa tề phát dục
Cửu châu quang bị tự hòa quân
Khí hòa, vạn vật phát triển
Trời sáng, chín châu hòa đồng.
(Hòa quân:Bản khác ghi là hòa chung) 陶 功 渙 零 千 秋 似
華 政 仁 輪 萬 世 傳
Đào công hoán linh thiên thu tự,
Hoa chính nhân luân vạn thế truyền.
(Ngàn năm còn mãi công giáo hóa,
Muôn kiếp chẳng mờ nếp nhân luân).
新 圍 湖 水 環 青 帶
三 面 雲 山 列 錦 屏
Tân vi hồ thủy hoàn thanh đới
Tam diện vân sơn liệt cẩm bình.
(Một dòng nước chảy như giải ngọc,
Ba mặt núi bao tựa bình phong).
倚 院 新 梅 升 壁 白
從 簷 古 樹 入 階 青
Ỷ viện tân mai thăng bích bạc,
Tùng thiềm cổ thụ nhập giai thanh
(Mai nở vươn mình trên tường trắng,
Cây xanh tỏa bóng theo hiên nhà).
+Thái bình lâu (Thư lâu)
一 統 山 河 重 光 日 月
八 荒 户 牖 六 合 庭 除
Nhất thống sơn hà trùng quang nhật nguyệt
Bát hoang hộ dũ lục hợp đình trừ
(Đất nước thống nhất, nhật nguyệt hội tụ,
Sơn hà thống nhất, nhật nguyệt hội tụ.
Nhà cửa xa xôi, sân vườn hợp hòa)
殫 心 萬 歲 勞 神 百 姓
希 蹤 二 帝 換 美 三 王
Đàn tâm vạn tuế, lao thần bách tính,
Hy tung nhị đế, hoán mỹ tam vương
(Gắng sức vạn năm vì trăm họ,
Bắt chước hai vua ( Nghiêu Thuấn) bởi ba vua).
大 同 之 世 外 户 不 閑
三 代 之 民 直 道 而 行
Đại đồng chi thế ngoại hộ bất bế,
Tam đại chi dân trực đạo nhi hành.
(Đời Đại Đồng cửa ngoài không đóng,
Dân tam đại đạo phải cứ theo ).
+Triệu tổ miếu
四 面 光 凝 瓊 闥 日 林 千 載 樹
九 霄 風 定 蘭 庭 香 滿 百 枝 花
Tứ diện quang ngưng quỳnh thát, nhật lâm thiên tải thụ,
Cửu tiêu phong định lan đình hương mãn bách chi hoa.
( Bốn mặt sáng cửa ngọc, mặt trời ngàn năm chiếu rừng cây,
Tám cõi gió lặng sân lan, hương thơm trăm hoa tỏa cành lá. )
7.THỜ PHỤNG :
Đây là những nơi thờ phụng các thánh thần, anh hùng và danh nhân cùng các cơ sở tôn giáo như chùa chiền, đền miếu, lăng mộ.
(1). Quốc gia:
Những nơi này do triều đình xây cất, hoặc tu bổ.
+Văn miếu:
東 西 南 北 由 斯 道
公 卿 夫 士 出 此 途
Đông, tây, nam, bắc do tư đạo
Công, khanh, phu sĩ, xuất thử đồ
(Đông, tây, nam, bắc đều theo đạo ấy ( đạo Nho)
Công, khanh, phu sĩ xuất thân từ đường này(cửa Khổng)
+ Đền Ngọc Sơn
潑 島 墨 痕 湖 水 滿
擎 天 筆 勢 石 峯 高
Bát đảo, mặc ngân hồ thủy mãn
Kình thiên, bút thế thạch phong cao.
(Tràn quanh đảo ngấn mực đầy hồ
Chạm bầu trời, thế bút ngất núi)
劍 有 餘 靈 光 若 水
文 從 大 塊 壽 如 山
Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy
Văn tòng đại khối thọ như sơn
(Kiếm có khí thiêng ngời tựa nước
Văn cùng trái đất thọ như non. )
+.Nhà thờ Nguyễn Trãi:
勲 業 赫 南 邦 文 謨 武 略
科 名 留 越 史 國 廟 鄕祠
Huân nghiệp hách Nam bang, văn mô vũ lược
Khoa danh lưu Việt sử, quốc miếu hương từ.
(Công lớn dậy trời Nam, ca tụng tài văn mưu võ
Danh cao ghi sử Việt, phụng thờ miếu nước, đền làng)
謀 王 將 略 爭 天 地
憂 國 臣 心 照 斗 奎
Mưu vương tướng lược tranh thiên địa
Ưu quốc thần tâm chiếu Đẩu Khuê.
(Bậc tướng có mưu lược, công to như trời đất
Bề tôi lo việc nước, sáng tựa Đẩu, Khuê.)
-Phạm Quý Thích (Lập Trai) soạn những câu đối như sau ở nhà thờ Nguyễn Trãi:
事 業 文 章 開 國 首,
旂 常 帶 礪 故 家 聲
Sự nghiệp văn chương khai quốc thủ,
Kỳ thường đái lệ cố gia thanh.
(Văn chương sự nghiệp công khai quốc,
Cờ biển non sông tiếng cố gia)
功 存 開 國 藍 山 錄
慶 衍 傳 家 故 邑 祠
Công tồn khai quốc Lam Sơn lục,
Khánh diễn truyền gia cố ấp từ.
(Công lao khai quốc, sách sử cũ,
Cúng tế truyền đời , thôn ấp xưa.)
英 雄 氣 魄 依 高 廟
翊 濟 勲 勞 感 聖 朝
Anh hùng khí phách y cao miếu ,
Dực tế huân lao cảm thánh triều.
( Cao miếu anh hùng còn khí phách,
Thánh triều tả hữu vẫn khuông phù).
功 齊 藍 岳千 峯 峙
慶 共 蘇 江 一 帶 流
Công tề Lam nhạc thiên phong trĩ,
Khánh cộng Tô giang nhất đái lưu.
(Lam lĩnh công lao nghìn ngọn thẳm,
Tô giang phúc trạch một giòng xuôi)
( Ức Trai Tập, tập hạ, QVK,Saigon, 1972)
+ Đền thờ Lê Lai (Ngọc Lặc Thanh Hóa):
黎 朝 顯 迹 忠 良 將
南 國 芳 名 上 等 神
Lê triều hiển tích trung lương tướng;
Nam quốc phương danh thượng đẳng thần
(Bậc tướng trung lương của Lê triều,
Vị thần lừng danh của Nam quốc)
+Mộ Lê Văn Duyệt (Lăng Ông, Gia Định)
天 光 生 俊 傑
地 好 出 英 才
Thiên quang sanh tuấn kiệt
Địa hảo xuất anh tài
(Trời sáng sinh tuấn kiệt.
Đất tốt tạo anh tài.)
四 時 花 不 落
八 節 鳥 無 飛
Tứ thời hoa bất lạc
Bát tiết điểu vô phi
(Bốn mùa hoa chẳng rụng;
Tám tiết chim không bay).
+ Mộ Phan Thanh Giản:
江 山 鍾 秀 氣
歐 亞 慕 威 靈
Giang sơn chung tú khí,
Âu Á mộ uy linh.
(Sông núi đúc khí tốt;
Âu Á mến oai linh)
節 義 留 天 地
精 神 貫 斗 牛
Tiết nghĩa lưu thiên địa
Tinh thần quán Đẩu Ngưu.
(Tiết nghĩa truyền trời đất,
Tinh thần cao tận Đẩu, Ngưu)
(2). CHÙA CHIỀN
+Chùa Kim Sơn (Phạm Thái đề)
Khách hồng trần lơ láo kiếp phù hư, lối kim cổ ra vào sinh tử mãi ;
Thợ huyền tạo khéo khôn tay ảo diệu, then càn khôn đóng mở tịch triêu mau
+ Chùa Linh Mụ (Huế).
開 發 菩 提 心 而 化 統 萬 類
弘 施 方 便 力 以 覺 悟 群 生
Khai phát bồ đề tâm, nhi hóa thống vạn loại;
Hoằng thi phương tiện lực, dĩ giác ngộ quần sinh
(Mở tâm bồ đề để hóa thông vạn vật;
Làm các phương tiện để giác ngộ chúng sinh).
法 雨 弘 施 萬 木 昆 虫 沾 利 益
身 雲 變 滿 虛 空 世 界 放 光 明
Pháp vũ hoằng thi, vạn mộc côn trùng triêm lợi ích,
Thân vân biến mãn, hư không thế giới phóng quang minh
(Mưa pháp ban hành mọi chốn , cây cỏ, côn trùng hưởng lợi ích,
Thân Phật biến hóa khắp nơi , hư không , thế giới tỏa hào quang)
心 即 佛 濟 人 歸 萬 善
色 是 空 闡 教 定 一 心
Tâm tức Phật, tế nhân qui vạn thiện
Sắc tức không, xiển giáo định nhất tâm”.
(Tâm tức Phật, cứu người về vạn thiện;
Sắc tức không, truyền giáo hướng nhất tâm).
永 留 勝 跡 睹 碑 文 而 金 碧 曾 暉
圓 滿 善 緣 聽 鐘 響 而 寶 朱 覺 悟
Vĩnh lưu thắng tích, đổ bi văn nhi kim bích tăng huy
Viên mãn thiện duyên, thính chung hưởng nhi bảo châu giác ngộ.
(Thắng tích lưu truyền, thấy văn bia, vàng ngọc sáng láng,
Thiện duyên đầy đủ, nghe chuông ngân, châu báu rỡ ràng ).
+ Chùa Từ Hiếu, Huế.
慈 孝 表 徽 稱人 心 世 道 有 關 梵 宇 鐘 聲 宣 大 覺
楊 春 多 美 景 古 剎 名 藍 所 在 如 來 慧 日 照 中 天
Tứ Hiếu biểu huy xưng, nhân tâm thế đạo, hữu quan Phạm Vũ chung thanh tuyên đại giác.
Dương Xuân đa mỹ cảnh, cổ sái danh lam, sở tại Như Lai tuệ nhật chiếu trung thiên
(Từ Hiếu dậy danh thơm, đạo đời hòa hợp; Tiếng chuông chùa đưa vào đại giác .
Dương Xuân nhiều cảnh đẹp, chùa núi êm đềm; Trí Như Lai chiếu đến trung thiên).
上 方 月 出 前 溪 肖 後 溪
Đâu Suất thiên cao kinh quốc đồng Phật quốc
Thượng phương nguyệt xuất tiền khê tiếu hậu khê.
(Đâu suất trời cao, đất vua, đất Phật là một,
Thượng phương trăng tỏ, khe trước, khe sau chẳng hai ).
善 信 有 良 緣 佛 恩 似 海
孝 慈 皆 福 果 帝 澤 如 春
Thiện tín hữu lương duyên, Phật ân tự hải,
Hiếu Từ giai phúc quả, để trạch như xuân”.
Hiếu từ là quả, lộc vua tựa xuân
福 果 自 圓 成 妙 覺 得 聞 丞 佛 力
善 根 皆 偉 應 慈 航 濟 渡 荷 天 恩
Phúc quả tự viên thành, diệu giác đắc văn thừa Phật lực,
Thiện căn giai vĩ ứng, từ hàng tế độ hà Thiên ân.
(Phúc quả tự tròn đầy, đạo giác diệu kỳ nhờ Phật lực,
Thiện căn đếu ứng nghiệm, thuyền từ tế độ bởi Thiên tôn)
(3).CÁC DÒNG HỌ
Đây là những nhà thờ , miếu, mộ của các dòng họ, Người ta làm câu đối để ca tụng anh hùng, danh nhân , tổ tiên của dòng họ.
+Nhà thờ họ Vũ Hồn (Làng Mộ Trạch, Huyện Đường An, tỉnh Hải Dương)
中 下 儒 宗 鄕 始 祖
南 天 民 牧 國 名 臣
-Trung hạ Nho tông hương thuỷ tổ
Nam thiên dân mục quốc danh thần”
(Tổ tiên vốn nhà Nho gốc Trung Quốc,
Chăm nom dân Nam, trở thành danh thần nước Nam)
+Đền Bia (xã Cẩm Văn, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương) thờ Tuệ Tĩnh:
-Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm giang.
+Nhà thờ họ Nguyễn ở xã Đà Sơn, Đô Lương, Nghệ An
花 袍 蹟 記 山 南 石
畫 棟 輝 聯 鳳 塢 雲
Hoa bào tích ký sơn Nam thạch
Họa đống huy liên Phượng ổ vân.
(Gốc tích ở đá Sơn Nam,
Huy hoàng ở mây Phượng Ổ)
科 甲 蜚 英 花 宦 譜
箕 表 裕 蔭 歷 書 香
Khoa giáp phi anh hoa hoạn phổ
Kỳ biểu dụ ấm lịch thư hương
(Khoa giáp anh hào ghi trong sử sách,
Biển cờ phúc ấm lưu mãi tháng năm)
南 郡 碑 傳 花 譜 鐷
鳳 山 蔭 裕 玉 庭 皆
Nam quận bi truyền hoa phổ điệp
Phượng sơn ấm dụ ngọc đình giai.
(Quận (Sơn) Nam bia đá ngời tộc phổ,
Núi Phượng khí mạch rạng ngọc đình).
花 峰 氣 脉 栽 培 厚
鳳 塢 文 章 引 翼 長
Hoa phong khí mạch tài bồi hậu
(Đỉnh Hoa khí mạch luôn truyền thế
+Nhà thờ họ Nguyễn tại Linh Giang:
橫 山 一 帶 萬 年 禄
靈 水 二 源 百 世 榮
Hoành sơn nhất đái vạn niên lộc
Linh thủy nhị nguyên, bách thế vinh.
(Một dải Hoành Sơn, vạn năm lộc;
Hai giòng Linh Thủy, trăm đời vinh )
功 德 永 遷 百 世 本 支 靈 水 遠
繼 承 無 斁 千 龝 花 衮 御 山 高
Công đức vĩnh thiên bách thế bản chi Linh thủy viễn,
Kế thừa vô dịch thiên thu hoa cổn Ngự sơn cao.
( Bảo Đại năm thứ 16)
Công đức trăm đời, nguồn ngọn sông Gianh chảy xa,
Kế thừa ngàn năm, hoa gấm núi Ngự cao ngất.
水 源 木 本 山 河 壽
春 露 秋 霜 歲 月 新
Thủy nguyên mộc bản hà sơn thọ,
Xuân lộ thu sương tuế nguyệt tân.
(Nguồn nước, gốc cây, núi sông vẫn lâu dài
Mưa xuân, sương thu, năm tháng càng mới mẻ.)
(4). Các tư gia:
Các câu đối loại này dùng để thờ phụng tổ tiên, để trang trí trong nhà hay khắc ở cổng để răn dạy bản thân và con cháu. hoặc bày tỏ ước mong thịnh vưọng, vững bền, hạnh phúc.
Loại này đa số là phổ thông và chung chung, nhà nào dùng cũng được.
祖 宗 功 德 千 年 盛
子 孝 孫 賢 萬 代 榮
Tổ tông công đức thiên niên thạnh,
Tử hiếu tôn hiền vạn đại vinh
.(Tổ tiên công đức ngàn năm thịnh,
Con cháu hiếu hiền muôn thuở vinh)
福 滿 堂 年 曾 富 貴
德 流 光 日 進 榮 花
Phúc mãn đường niên tăng phú quý,
Đức lưu quang nhật tiến vinh hoa
(Phúc tràn đầy, mỗi năm tăng phú quý
Ðức rực rỡ, càng ngày thêm vinh hoa)
寶 劍 鋒 從 磨 砺 出
梅 花 香 自 苦 寒 來
Bảo kiếm phong tùng ma lệ xuất
Mai hoa hương tự khổ hàn lai
(Bảo kiếm không mài thì không sắc;
Hoa mai không qua mùa lạnh thì hương không thơm)
四 季 花 長 好
百 年 月 永 圓
Tứ quý hoa trường hảo,
Bách niên nguyệt vĩnh viên.
(Bốn mùa hoa luôn nở,
Trăm năm nguyệt vẫn tròn)
天 地 無 私 積 善 自 然 善
聖 賢 有 教 修 身 可 以 榮
Thiên địa vô tư, tích thiện tự nhiên thiện
Thánh hiền hữu giáo, tu thân khả dĩ vinh
(Trời đất vô tư, làm thiện tự nhiên gặp thiện
Thánh hiền có dạy, tu thân có thể được vinh)
千 秋 歲 月 千 秋 美
萬 里 江 山 萬 里 春
Thiên thu tuế nguyệt thiên thu mỹ,
Vạn lý giang sơn vạn lý xuân.
(Nghìn thu năm tháng nghìn thu đẹp;
Muôn dặm non sông muôn dặm xuân)
倒 海 移 山 豪 情 永 在
改 天 換 地 樂 趣 無 窮
Đảo hải di sơn hào tình vĩnh tại;
Cải thiên hoán địa lạc thú vô cùng.
(Lấp biển dời non tinh thần còn mãi;
Đổi trời thay đất hứng thú khôn cùng)
+Câu đối tại nhà họ Nguyễn (Quảng Bình):
-Gương đức nêu lên danh phải rạng
Mạch nhân truyền lại phúc thêm dày
芝 蘭 階 下 來 飛 燕
詩 禮 庭 前 謂 伯 魚
Chi lan giai hạ lai phi yến
Thi lễ đình tiền vị Bá Ngư.
(Dưới thềm thơm ngát mùi lan chi nên chim yến đến;
Trước sân, Bá Ngư (con Khổng tử) được dạy về Thi, Lễ.
8. CÂU ĐỐI TẾT
Thường là những câu chúc tụng đầu năm như chúc tam đa ngũ phúc, làm ăn thịnh vượng, bình an. Loại này phần nhiều là phổ thông, ai dùng cũng được. So với Tây phương, ta có nhiều cách chúc mừng năm mới hơn.
年 年 如 意 春
歲 歲 平 安 日
Niên niên như ý xuân
Tuế tuế bình an nhật
(Năm năm xuân như ý
Tuổi tuổi ngày bình an).
歲 有 四 時 春 在 首
人 於 百 行 孝 為 先
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
( Năm có bốn mùa, mùa xuân mở đầu;
Người có trăm nết, lòng hiếu đứng trước)
新 年 納 餘 慶
嘉 節 號 長 春
Tân niên nạp dư khánh
Gia tiết hiệu trường xuân
(Năm mới, hỉ kéo dài,
Tiết lành, xuân còn mãi)
新 年 幸 福 平 安 到
春日 榮 花 富 貴 來
Tân niên, hạnh phúc bình an đáo
Xuân nhật, vinh hoa phú quý lai
(Năm mới, hạnh phúc bình an đến
Ngày xuân, vinh hoa phú quý về)
(2).Hồ Xuân Hương:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, ních chặt lại kẻo ma vương đưa quỷ tới
Sáng mồng một, lỏng theo tạo hóa,mở toang ra, cho thiếu nữa đón xuân vào.
(3). Nguyễn Công Trứ:
-Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Chọc trời ngất một cây nêu, hết tối ba mươi, gì cũng hết
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mồng một, thế là xuân.
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân.
(4). Nguyễn Khuyến:
Tết đến, rượu ngon đưa mấy chén
Xuân về, bút mới thử vài trang
-Tranh pháo vui xem đàn trẻ nhỏ
Tóc râu them một sợi tuổi trời cao.
(5). Trần Tế Xương:
Đì đẹt, ngoài sân, tràng pháo chuột
Lập loè trên vách, bức tranh gà.
(6).Tản Đà dán nhà cô đầu ở Hải-phòng
Ai đẻ mãi ra Xuân, Xuân ấy đi, Xuân khác về, năm nay năm ngoái Xuân hơn, kém?
Nhà lại sắp có khách, khách quen vào, khách lạ đến, năm ngoái năm nay khách vắng, đông?
V.CÂU ĐỐI & CAC DẠNG TƯƠNG CẬN
Người ta dùng văn chương trong đời sống hàng ngày, nhất là những dịp quan trọng. Ngoài thơ văn, câu đối còn có khác đó là trướng . Trướng thường là từ hai đến bốn năm chữ , cũng có khi là một bài văn để dùng trong tang và hỉ .Tang và hỉ thì lưu lại treo trong nhà ở bàn thờ hay phòng khách.
Tang thì treo đến mãn tang, trướng có thể bằng vải lụa, viết ngang hay dọc, còn hoành phi thường bằng gỗ sơn son thiếp vàng và viết chữ nằm ngang hoành phi là tấm bảng bằng gỗ sơn son thiếp vàng để thờ hay chúc mừng.Trướng và hoành phi mừng thì treo mãi.
(1).Chúc mừng
-Mừng hai anh em thi đỗ cử nhân (ở một nhà họ Nguyễn, Quảng Trạch, Quảng Bình):
菊 園 連 第
Cúc viên liên đệ"
+Mừng thọ mẹ:
萱 堂 晉 夀
Huyên đường tấn thọ
+Mừng thầy giáo:
誨 人 不 倦
Hối nhân bất quyện" .
( Dạy người không biết mệt)
(2).Tang ma:
西 方 極 樂
Tây phương cực lạc
往 生 極 樂
Vãng sinh cực lạc
(Về nước Phật)
鶴 駕 登仙
Hạc giá đăng tiên
(Xe hạc lên cõi tiên).
(3). Giáo dục
Trong bàn thờ tư gia hay nhà thờ tổ có những câu:
飲 水 思 源
Ẩm thủy tư nguyên
(Uống nước nhớ nguồn)
本 源
Bổn Nguyên
(Cội nguồn)
(4). Ca tụng tiền nhân
流 芳 百 世
Lưu phương bách thế
(Lưu tiếng thơm muôn đời)
德 流 芳
Đức lưu phương
(Đức của tổ tiên thơm ngát )
德 流 光
Đức lưu quang
(Đức của tổ tiên sáng chói )
+Hoành phi họ Vũ Hồn:
聖 澤 萬 世
“Thánh trạch vạn thế”
(Ơn thánh vạn đời”)
萬 世 澤
Vạn thế trạch”
(Ân vạn đời)
道 義 門
(Cổng đạo nghĩa ).
萬 代 基
“Vạn đại cơ”
Nền móng vạn đời).
Câu đối còn gọi là liễn, mang nhiều hình thức to, nhỏ, ngắn dài, gỗ, tường vôi, hay vải vóc..trang trí nhiều kiểu cách khác nhau thường treo ở nhà trong phòng khách, hay trước bàn thờ, hoặc trước cổng. Mỗi vế là mỗi tấm liễn. Cũng có khi câu đối được trình bày hai vế trong cùng một tấm vải hay lụa dài hơn một mét, rộng khoảng nửa mét; giữa là hàng "lạc khoản" túc là ghi chữ nhỏ ở phần khoảng giữa bên phải tên tuổi người làm câu đối và ngày tháng.Chữ Hán viết từ phải sang trái cho nên câu vế xuất bao giờ cũng treo và viết bên phài. Tuy nhiên cũng có khi treo hay viết ngược lại.
Câu đối viết hai bên cửa, hai bên cột nhà thờ, bàn thờ viết trên cột vôi, tường vôi, hay bằng gỗ sơn son thiếp vàng hay chữ đen treo trên cột nhà, hay vải vóc treo trong phòng khách, Câu đối xấu hay tốt là tùy theo lụa , vải , mực tốt hay xấu .Nếu vải xấu, mực xấu thì khi viết bị nhoè , nếu không nhòe thì cũng không thể để lâu được. Ngày xưa người ta dùng tơ lụa và mực xạ nên rất bền lâu, vài chục năm vẫn còn tốt.
Trước đây, trong CCRĐ, cộng sản đã đem tài sản địa chủ gồm sách, câu đối, hoành phi nhóm bếp và làm củi đun. Sau 1975, các đồng chí tỉnh ngoài đã vào Huế lấy hoành phi câu đối làm chuồng heo. Nay, các đại gia cộng sản đua nhau mua hoành phi ,câu đối về chưng ở nhà để vỗ ngực xưng "cha là ông tú, chú là quan nghè"! Giá hoành phi, câu đối rất đắt. Hoành phi trên mười triệu, câu đối khoảng năm triệu.http://www.vatgia.com/5469/hoanh-phi-cau-doi.html
VI. NHỮNG BẤT TIỆN TRONG VIỆC VIẾT CÂU ĐỐI
Như đã trình bày, viêt câu đối là một phong tục tao nhã, một nghệ thuật, một nét đẹp của văn chương. Song bên cạnh đó, câu đối cũng đưa cho con người một vài nỗi khó khăn hoặc buồn phiền.
Thứ nhất là "xuất đối dị; đối đối nan", nghĩa là ra câu đối thì dễ, đối lại được thì khó.
Có những vế câu đối rất khó đối như:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
+Da trắng vỗ bì bạch.
Thứ nhì là người ta lợi dụng câu đối để xiên xỏ cá nhân , chửi bới đời tư nhau làm mất vẻ đẹp của văn chương. Nguyễn Khuyến làm câu đối mừng bà Tư Hồng, một me tây ở Hà Nội. Nguyên bà nhờ thế lực chồng xin cho bà tước ngũ phẩm, và bố hàm Thị Độc rồi về quê mở tiệc ăn mừng. Người ta đồn rằng Nguyễn Khuyến làm câu đối để xiên xỏ:
-Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh Nào biển, nào cờ, nào sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người
-Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn,
Nghìn năm công đức của bà to!"
(Tục ngữ có câu:" Làm đĩ có tàn, có tán". Các từ "hàm cụ lớn". " của bà to" là nói về sự nghiệp kinh doanh của bà Tư).
Hà Tôn Quyền đọc vế đối, lấy nguyên một câu trong sách “Trung Dung” để công kích Nguyễn Công Trứ:
君 子 惡 其 文 之 著
Quân tử ố kỳ văn chi trứ.
(Người quân tử rất ghét cái lòe loẹt bề ngoài, nhưng lại hàm ý: Người quân tử rất ghét cái giọng văn của ông Trứ).
Nghe xong, Nguyễn Công Trứ cũng lấy luôn một câu trong sách “Trung Dung” để đối lại:
聖 人 不 得 已 用 權
Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền”
( Bất đắc dĩ bậc thánh nhân mới dùng quyền lực, cũng có nghĩa ông Quyền không có tài cán, vua bất đắc dĩ mới cho làm quan.)
Một ông họ Lại, nguyên làm lái lợn, làm lễ mửng khánh thành sinh phần.Ai đó dán câu đối ở sinh phần:
- Rực rỡ mé đường Tây, kẻ lại người qua, ca tụng sinh phần quan lớn Lại (quan lái lợn).
- Vang lừng trong thân Bắc, trên kinh dưới rái, một lòng tôn trọng cụ trong dân (rận trong cu).
Tuy nhiên một vài câu đối mang tính cách châm biếm có giá tri lịch sử. Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, một tay sai đắc lực của Pháp đã tàn sát dã man các nghĩa quân. Nhân ngày Tết, ông ra câu đối ca tụng nhà ông và treo giải thưởng nếu ai đối được:
Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ, Ðỗ một nhà, ngũ phước tam đa
Có người gởi đến câu đối lại:
-Cù Lao Rồng có lũ thằng phung (phong, hủi)"Phung một lũ: Cửu trùng bát nhã.
Chắc người ấy không bao giờ đến nhận giải thưởng của họ Đỗ!
Thứ ba là dễ gây hiểu lầm và thù oán.Viết câu đối khó hơn làm thơ vì trong hai câu, mỗi câu năm, bảy, chín chữ nên quá súc tích. Cái nguy hiểm là dễ bị hiểu lầm hoặc bị xuyên tạc mà đi đến cảnh tù đày hoặc chém giết. Như việc Nguyễn Văn Thuyên con của Nguyễn Văn Thành và toàn gia đã bị giết chỉ vì một bài thơ ngông và bị kẻ thù dèm pha, xuyên tạc.
Ví như khoa tân mão (1831) Cao Bá Quát đậu thủ khoa, em ông Cao Bá Đạt đậu á nguyên, quan trường ra cho ông câu đối:
一 胞 雙 生 難 爲 兄 難 爲 弟
千 載 一 遇 有 是 君 有 是 臣
Nhất bào song sinh nan vi huynh nam vi đệ.
Thiên tải nhất ngộ,hữu thị quân hữu thị thần.
(Một bọc sinh đôi, biết ai là anh, ai là em. Nghìn đời dễ có mấy vua ấy có tôi ấy !)
Đa số người hiểu là: Nếu ông làm vua thì Cao Bá Đạt làm tôi!Nếu ai đó có ác tâm mà đi tố cáo thì Cao Bá Quát đã bị đứt đầu ngay sau khi đỗ cử nhân!
Nguyễn Cao một danh sĩ thời đầu Pháp thuộc đã làm câu đối cho một người mừng một tiến sĩ theo Pháp:
大 家 積 德 百 年 而 今 也 高 名 顯 宦
聖 朝 開 科 取 士 所 求 乎 子 孝 臣 忠
Đại gia tích đức bách niên, nhi kim giã cao danh hiển hoạn.
Thánh triều khai khoa thủ sĩ, sở cầu hồ tử hiếu thần trung.
(Nhà đại gia tích đức hàng trăm năm, nên ngày nay ông nghè được làm quan to nổi danh lừng lẫy;
Nhà vua mở khoa thi kén học trò, mong muốn rằng chọn được người làm con có hiếu, làm tôi phải trung).
Ngày xưa văn thơ mà nói trung hiều là chuyện thường nhưng ông này làm quan cho Pháp nên nghĩ rằng Nguyễn Cao mỉa mai ông bất trung, ông bèn ngầm báo quan trên đến bắt họ Nguyễn về tội chống Pháp. Khi Nguyễn Cao bị bắt, học trò và cả dân làng Kim Giang, rủ nhau gom góp mỗi người một quan tiền xanh để lo lót để Nguyễn Cao được thả về.
Ông Phan Văn Trị có họa bài Tôn phu nhân quy Thục, có câu: Trai ngay thờ chúa, gái thờ chồng mà Tôn Thọ Tường không để tâm.
Tam nguyên Yên Đổ viết cho Hàn Soạn:
一 脈 貫 通 往 者 過 來 者 續
三 神 恭 拜 幼 在 後 長 在 前
Nhất mạch quán thông, vãng giả quá, lai giả tục.
Tam thần cung bái, ấu tại hậu, trưởng tại tiền.
(Một mạch thông suốt, người trước qua, người sau tiếp.
Ba vì lễ bái, trẻ lễ sau, già lễ trước).
Câu này ca tụng gia phong nhà này hưng thịnh và đạo hạnh. Sau có người tán ra rằng cụ Nguyễn Khuyến muốn nói đến nguồn gốc thợ mộc và sự quỳ lụy của gia đình Hàn Soạn: Trước kia ba đời nhà anh làm thợ xẻ, bây giờ mới khá giả đã vênh vang, kênh kiệu, khinh người.
Một mạch cưa thông suốt, kẻ kéo qua, người kéo lại.
Ba vì lạy nhau, con lạy trước, cha lạy sau.
Hàn Soạn căm tức Nguyễn Khuyến từ đó. Không biết có phải là bản ý của Nguyễn Khuyến? Người ta nói đúng hay tán láo?
Cái bất lợi cuối cùng là ngày nay it người biết chữ Hán để thưởng thức các câu đối Hán tự.
Cộng sản đã ra sức tiêu diêt văn hóa cũ nhưng văn hóa và tư tưởng tự nó có một sức phản kháng mãnh liệt. Qua cơn bão, cây cỏ trở lại bình thường. Nay nhân dân ta đã khôi phục những nét văn hóa cao đẹp của truyền thống dân tộc. Hy vọng nhân ta sẽ đạt nhiều thắng lợi to lớn hơn trong sự nghiệp xây dựng tự do, dân chủ.
___
Tài liệu tham khảo
-Bùi Kỷ (1888-1960),Quốc văn cụ thể, Tân Việt Nam thư xã, Trung Bắc tân văn, Hà Nội 1932.
- Cao Tự Thanh. Về Một Đôi Câu Đối Độc Đáo Ở Chùa Giác Lâm.
http://daitangkinhvietnam.org/lich-su-phat-giao/tai-lieu-han-nom-phat-giao-vn/1001-ve-mot-doi-cau-doi-doc-dao-o-chua-giac-lam.html
-Diễn đàn Kiến Thức. http://www.blogger.com/%C3%A1%C2%BB%C2%A9
- Dương Quảng Hàm (1898-1946), Việt Nam Văn Học Sử Yếu, 1941.
- Huỳnh Minh Đức: Từ Ngọ Môn đến điện Thái Hòa, Nxb. Trẻ, 1994.
-Lê Quý Đôn (1726-1784). Kiến Văn Tiểu Lục (1777)
-Phan Kế Bính (1875 – 1921), Hán Việt văn khảo, 1918.
-Nguyễn Khắc Bảo . Bức hoành phi của sứ thần. . http://home.thuhoavn.com/?p=63
-Nhược Thủy. Bộ Sưu Tập Câu Đối Chữ Hán.
http://http//omaniblog.wordpress.com/2010/01/08/b%E1%BB%99-s%C6%B0u-t%E1%BA%ADp-cau-d%E1%BB%91i-ch%E1%BB%AF-han/
http://www.hoangthantai.com/forum/index.php?topic=1908.30
-Trần Thị Thanh, Câu đối ở chùa Từ Hiếu . http://daitangkinhvietnam.org/lich-su-phat-giao/tai-lieu-han-nom-phat-giao-vn/1030-cau-doi-o-chua-tu-hieu-.html
-Viện Hán Nôm. Chủ đề câu đối. . http://%c3%83%c2%b4/
- Ức Trai Tập, tập hạ, QVK,Saigon, 1972
*