Tuesday, September 21, 2010

Thursday, September 9, 2010

TRỊNH HOÀI ĐỨC * GIA ĐINH THÀNH THÔNG CHÍ IV









Hậu học LÝ VIỆT DŨNG (dịch và chú giải)

Tiến sĩ HUỲNH VĂN TỚI (hiệu đính, giới thiệu) Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai (tái bản)

Quyển IV: PHONG TỤC CHÍ [chép về phong tục] Phương Nam thuộc quẻ Ly, hành Hỏa, thiên về hào văn minh, nên kẻ sĩ chuộng điều tiết nghĩa, tôn trọng lý học, dân thì chuyên nghề cày ruộng dệt cửi, làm thợ, đi buôn. Nhưng địa cuộc lại thuộc về khu vực sao Dương Châu. Dương là phát dương, tức tánh khí hay bồng bột; mà phong hóa tốt hay xấu, tập tục hậu hay bạc, thì tùy vào thời thế và vùng đất hoặc có thay đổi khác nhau. Nay Thánh Thiên tử có hóa đức tác thành, nhân sâu nuôi dưỡng. Gia Định là nền móng của sự phục hưng, nên ban ơn bồi dưỡng, nghĩ định ra chế độ, ban bố điều luật, đặt chức Huyện quan để dạy bảo khuyên răn cho có công bình, ủy cho Trấn quan lo việc an dân. Lại đặt quan Đốc học để lo dạy dỗ cho dân, khiến quan Tổng trấn dùng tiết chế vỗ về nhân dân [1b] làm cho nơi lều xanh ngõ hẻm cũng bước lên cảnh thái bình thạnh trị, tạo sự biến đổi ngày càng tốt đẹp. Ôi tốt đẹp lắm vậy!

PHONG TỤC CỦA TOÀN THÀNH Theo sách Chu lễ, thiên Chức phương thị ([1][1]) nói: Vùng phía đông nam, dân số cứ 2 người trai thì có 5 người gái, địa khí thì âm ít mà dương nhiều, trong thân người thớ thịt thưa, chim muông thì ít lông, tánh chịu đựng được nắng nóng. Vùng Gia Định nước Việt ta đất rộng, thực vật phong phú, không lo đói rét, nên dân ít dự trữ, quen thói xa hoa, phong cách kẻ sĩ thì hiên ngang, do người từ bốn phương tụ lại nên mỗi nhà đều có riêng phong tục. Đất thuộc Dương Châu gần với mặt trời, thiên khí phấn phát, ngay thẳng, văn vẻ, nên con người hay chuộng tiết nghĩa, họ học Ngũ kinh ([2][2]), Tứ thư ([3][3]), Thông giám ([4][4]), tinh thông nghĩa lý, lúc mới Trung hưng đã đặt chức Đốc học, ban bố quy chế học tập, mở khoa thi, lối học khoa cử thạnh hành, từ đó lý học và văn chương đều cùng tốt đẹp, nên văn phong mới phấn chấn. Gia Định ở về phương Nam vị trí Dương Minh ([5][5]) người đủ tính trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài, dẫu phụ nữ cũng thế. [2a] Giai nhân mỹ nữ lại nhiều mà hạng giàu sang, cao thọ, khôn khéo cũng xuất phát từ tên tuổi của giới phụ nữ. Họ sùng đạo Phật, tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần, như: bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động (tục gọi phụ nữ sang trọng bằng bà), bà Hỏa Tinh, bà Thủy Long, cô Hồng, cô Hạnh v.v... tức là có ý mọi việc đều theo hào âm của quẻ Ly vậy. Lại thờ thần Táo quân (Ông Táo), ở 2 bên vẽ 2 hình người nam, ở giữa vẽ 1 hình người nữ, cũng tượng trưng của quẻ Ly Hỏa có ý là hai hào dương ở giữa một hào âm làm chủ. Ngày xưa chỉ dùng xương gà để xem bói, nhưng nay thì dùng cỏ thi, mu rùa, các khoa nhâm độn, các môn học như y, bói, thuật số, tính lịch (coi ngày giờ) và địa lý đều tinh thông. Phong tục gồm đủ lễ: quan, hôn, tang, tế ([6][6]); hôn lễ tuy dựa vào mai mối mà định duyên, nhưng thường dùng cau trầu làm trọng, nhưng đủ 6 ([7][7]) lễ thì chỉ có gia đình sĩ phu mới thực hiện nổi, lại có tục đi làm rể trước khi cưới vợ về. Nhiều nhà có con trai hay con gái phải thế chấp ruộng đất, trâu bò cho việc chi tiêu cưới gả. Về việc tang lễ thì hay dùng gia lễ Văn Công và nghi tiết Khâu Thị ([8][8]) [2b] phần nhiều trong tang tế thường dùng nhạc. Áo tang dùng tơ lụa sắc xanh hoặc đen, chính như Tô Đông Pha ([9][9]) nói: Chuông trống không phân biệt được việc buồn vui, áo mũ khó biết được người lành dữ; Nay cứ theo luật lệ lễ nghi mà thay đổi được phong tục, khiến việc lễ nghĩa trong nước càng sáng thêm. Lại có tục cử tang theo kiểu nhà Phật, cúng cơm chay trong 49 ngày mới thôi, đám tang thì sắm rượu thịt cỗ bàn để khao đãi khách khứa đến phúng điếu tống táng, và tin theo thầy địa lý, quàn quan tài cả năm, để đi tìm đất theo luật phong thủy, nay đã có lệnh nghiêm cấm, và đã thấy có sự thay đổi. Gia Định ở về phía nam nước Việt, khi mới khai thác, thì có lưu dân nước ta cùng người Đường (tục gọi người nhà Đại Thanh là Đường nhân, cũng như người dân tộc tứ di gọi người Trung Quốc là Hán nhân, người Hán đây không phải là Lưu Hán ([10][10]), người Đường đây không phải là Lý Đường ([11][11]). Sách Quảng Đông tự nhận mình là người Đường của đời Đường Ngu ([12][12]) chẳng qua chỉ là lời quá khoa trương). Người Tây Dương (các nước như Phú Lãng Sa ([13][13]), Hồng Mao ([14][14]), Mã Cao ([15][15]), đều gọi là Tây Dương) [3a] Cao Miên, Đồ Bà (người Sơn man, ở núi đảo theo đạo Bái Nhật (lạy mặt trời) ([16][16]) ở trong 36 cửa bể Mãn Lạt Gia, đều gọi là Đồ Bà), những người các nước ấy đến sinh sống chung nhau rất đông mà y phục đồ dùng đều theo kiểu của dân tộc họ. Duy có người Việt ta theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đội khăn cao sơn (khăn đóng) mặc áo phi phong (áo dài), mang giày bì đà; hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân đất, trai gái đều mặc áo ngắn tay bâu cổ thẳng, may kín hai nách, không có quần dài, quần ngắn, trai thì dùng 1 tấm vải buộc từ lưng thẳng đến dưới háng vòng đến rún, gọi là cái khố, gái thì mặc váy không gấp nếp, đội nón lá lớn; hút điếu bình, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi không dùng bàn ghế. Năm Mậu Ngọ (1738) đời Thế Tông Hiếu Võ hoàng đế (Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4, Đại Thanh Càn Long thứ 3), định lại sắc phục, y phục các quan văn võ châm chước theo chế độ các đời Hán, Đường, đến Đại Minh, cho đến hình thức mới như phẩm phục quan chế ngày nay đã được Hội điển ban hành gồm đủ cả văn chất. Còn y phục, nhà cửa vật dụng của hàng sĩ thứ đại để như thể chế người Minh, [3b] bỏ hết hủ tục ở Bắc Hà mà làm nên một nước y quan văn hiến vậy. LỄ TẾT CUỐI NĂM Ở NÔNG NẠI Đêm 28 tháng chạp, Na nhân ([17][17]) (tục gọi là Nậu sắc bùa) đánh trống mọi, gõ phách, một đoàn năm, mười người đi theo dọc đường, thấy nhà hào phú thì đẩy cửa ngõ vào dán lá bùa nơi cửa, niệm thần chú, rồi nổi trống phách lên, hát những lời chúc mừng, chủ nhà dùng cỗ bàn chè rượu khoản đãi và gói tiền thưởng tạ, xong nhà này lại qua nhà khác, cũng làm như vậy, cho đến trừ tịch mới thôi, ấy là có ý đuổi tà ma, tiễn cũ rước mới. Ngày trừ tịch ([18][18]), ở trước cửa lớn mọi nhà đều dựng 1 cây tre, trên buộc cái giỏ bằng tre, trong giỏ đựng trầu cau vôi, ở bên giỏ có treo giấy vàng bạc, gọi là dựng nêu. Việc này không thể khảo cứu nguyên do được, mà có người cho đó là chia ra 3 giới thống trị [4a] cũng là thuyết hoang đường không nên tin, nhưng suy ý làm như vậy cũng như người Trung Quốc ngày đầu năm đốt pháo tre, treo bùa đào, ngày Đoan ngọ treo lá ngải, lá xương bồ vậy, ý là để làm tượng trưng cho năm mới mà tảo trừ những việc xấu xa trong năm cũ. Đến ngày mùng 7 Tết thì triệt hạ, gọi là hạ nêu. Trong mấy ngày Tết phàm những khoản nợ nần thiếu thốn đều không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu rồi mới được đòi. Tục ở đây thường đến cuối năm thì lo may sắm áo quần mới, quét dọn nhà cửa, dán treo câu liễn năm mới, đặt bàn ghế, trang trí bàn thờ tổ tiên, trên đó trưng bày các vật gì tốt đẹp để khoe diện, dặn con cháu phải cẩn thận trong mọi việc để bói điềm lành trọn năm. Bắt đầu giờ Dần ngày đầu năm phải dậy thắp hương đèn và dâng trà lễ bái tiên tổ, sau đó lạy mừng tuổi người trưởng thượng, chúc tụng phước thọ, đầu xuân mới được giàu sang, khỏe mạnh ([19][19]), và đặt cỗ bàn dâng lên tiên tổ, [4b] mỗi ngày 2 lần sớm và chiều, phụng sự như khi còn sống vậy, lễ vật gồm quả phẩm, bánh mứt, tất cả vật thực đều đem trưng bày, đến ngày mùng 3 đưa thần, gọi là đệ tiễn, lễ này dùng đồ dán giấy như đồ hàng mã đem đốt và đốt cả pháo, có thứ pháo đồng, pháo thiếc, tiếng nổ chấn động cả rừng núi rền vang không dứt. Ngày Tết họ còn uống rượu nếp than ([20][20]) và ăn bánh tét ([21][21]). Nay xét lễ ngày Nguyên đán, tuy sách Lễ không thấy chép, nhưng đó cũng là sự thể hiện cái đạo lý sâu dày không hại đến điều nghĩa, chỉ hàng sĩ phu tuân theo điển lệ quốc gia, tùy theo chức phận của mình mà kính cẩn vâng theo, không dám tự tiện thay đổi, ngoài những việc phải chiếu theo điều kiện điển lễ ra, còn có những việc trái lễ như tục truyền ngày mùng 3 Tết là ngày của quan tiễn đưa tiên tổ, thì hàng thứ dân không được cúng cùng ngày ấy, để tránh cho tiên tổ ở cõi u minh khỏi bị ép bắt đi khiêng gánh những đồ vật công, [5a] vì thế phải đợi đến ngày mùng 5, mùng 7 mới được cúng mà mỗi ngày chỉ được dùng vật cũ để cúng. Ấy là sự sai lầm quái đản, xem thường việc tế tự, vậy cứ tuân theo điển lệ quốc gia đến ngày mồng 3 làm lễ tống tiễn là phải, còn những việc sai ấy thì nên châm chước lễ nghi mà bỏ đi. Tết Nguyên đán ở Gia Định có trò chơi đánh đu, nhưng khác với thể thức đu ở Trung Quốc. Cột tre làm trụ, ở hai bên tả hữu đều trồng 3 cây một chỗ chân dạng theo vòng tròn. Khoảng giữa giá đu chỗ hai càng đu đưa qua lại, hai bên tả hữu trước sau chia trồng xiên 4 cây trụ tre chân cách rộng ra, buộc chúm đầu tre vào cây giá cho chặt. Sáu đầu tre (mỗi bên 3) tại hai trụ chân được buộc túm đầu thật chặt rồi gác ngang ở giữa 1 cây gỗ tròn, xâu 2 cái ròng rọc treo tiếp liền với 2 cán tre dài gần đến đất, ước chừng cho người leo lên được, đầu dưới 2 cán tre gác ngang 1 miếng ván để làm chỗ đứng, một người leo lên 2 tay cầm 2 cán tre 2 bên, uốn mình nhún xuống đứng lên để đưa đu theo gió chao qua lại giữa không trung [5b], ấy gọi là đánh đu. Có người hiếu sự, treo những khăn, quạt, tiền bạc để làm vật thưởng, ai đu lên cao đến chỗ treo vật thưởng ấy, nhanh tay chộp lấy, được tiếng là xuất chúng, nếu rủi tuột tay ngã xuống thì bị thương, có khi rất nặng. Cho nên việc treo thưởng ấy không nên làm nữa. Có khi 2 người hoặc 3,4 người cùng đu một lượt nhưng trai cùng đu với trai, gái cùng đu với gái, trai gái không đu chung với nhau. Lại có trò chơi vân xa thu tiên (tục gọi là đu tiên): hai bên trồng 2 trụ gỗ cao, gác ngang một cái trục bằng gỗ xoay động được, khoét lỗ bánh xe bằng ván luồn vô trục như bánh xe guồng lấy nước vậy. Ngoài vành bánh xe đặt 8 ròng rọc bằng ván để làm chỗ ngồi, rồi 8 người phụ nữ trang sức đẹp đẽ, y phục lộng lẫy, lên ngồi theo thứ tự 8 miếng ván ấy, đầu tiên mượn người đứng bên xây ([22][22]) bánh xe cho chạy tròn, rồi tiếp theo người ngồi trên bánh xe khi tới phiên mình xuống ngang mặt đất thì lấy chân đạp mạnh lên mặt đất cho trớn đẩy bánh xe xoay chuyển [6a], trông thấy y phục phơ phất như bầy tiên bay múa trong mây mù rất đẹp mắt, cuộc chơi này khởi sự buổi mai Nguyên đán cho đến đêm rằm tháng giêng mới thôi. Có trò chơi trồng 2 cây trụ, trên gác ngang một cây tròn, vắt cái dây thật bền dẻo lên trên cây ấy, một đầu dây buộc một cây ngắn, đầu kia thả thòng xuống, người chơi đứng trên cái cây ngắn ấy rút thẳng mối dây cho ngay sát theo mình, 2 tay cầm đầu dây thả thòng ấy rồi dùng lực rút dây xuống cho thân người mình nổi dần lên cao rồi thả xuống, kéo lên kéo xuống, để làm trò vui (tục gọi là đu rút). Có một trò chơi nữa, trồng 1 trụ ngắn ở giữa, bề cao đến rún, đầu trên đẽo nhỏ như đầu búp măng, dùng một thanh cây dài độ 6, 7 thước ta ([23][23]) tròn chừng 7, 8 tấc ta ([24][24]), chính giữa cây khoét một cái lỗ sâu vào nửa thân cây, gác ngang trên đầu trụ nhọn vừa khít nhau rồi 2 người trai chia đều ngồi mỗi đầu cây xà đối diện nhau, 2 tay cầm giữ lấy cây ấy, 2 chân nhún đạp lên xuống, xoay chuyển, khi thuận khi nghịch để chơi (tục gọi là đu dàng (xoay) xay); cũng có đào lỗ đất để các giải thưởng dưới lỗ; [6b] đôi khi người ngồi đầu này dùng lực đè mạnh xuống, khiến người ngồi đầu kia vổng lên trên cao không chỗ đạp chân, khiến cho nghiêng ngả để đùa giỡn, có khi bị tổn thương. Hai trò chơi trên dở cả, đều do bọn thiếu niên lêu lổng chơi, không phải là trò chơi phong lưu. Ngày Nguyên đán cúng tổ tiên, có người bày cây mía đủ cả gốc ngọn, treo đủ các loại quả phẩm thực vật trên thân mía, tục cho rằng cây mía là để tổ tiên dùng làm gậy người già chống, đến nỗi có kẻ đê tiện lấy việc ấy kê vào văn từ khấn vái, thật là sai lầm đáng cười. Ngày Nguyên đán bất kể là kẻ sang hèn, lớn nhỏ, đều no say vui chơi, tuy người nghèo trong thôn dã cũng đủ lễ. Từ ngày dựng nêu trở đi, nhà nào cũng đều đua tranh cờ bạc vui chơi đủ trò không ai ngăn cấm, đến ngày hạ nêu mới thôi. Các tết Đoan dương, Thất tịch, Trung thu và Trùng cửu phần nhiều là theo tục người Hoa. Về tế xã: Cúng Kỳ yên; mỗi làng có dựng một ngôi đình, ngày cúng tế phải chọn cho được ngày tốt, đến buổi chiều ngày ấy lớn nhỏ đều nhóm tại đình, họ ở lại suốt đêm ấy, gọi là túc yết. Sáng ngày mai [7a] học trò lễ mặc áo, mão, gióng trống khua chiêng làm lễ chánh tế, ngày sau nữa làm lễ dịch tế, gọi là đại đoàn, lễ xong lui về. Ngày giờ cúng tế tùy theo tục từng làng không đều nhau, hoặc lấy tháng giêng cầu phúc gọi là Tế xuân; hoặc lấy tháng 8, 9 báo ơn thần là Tế thu, hoặc lấy trong 3 tháng mùa đông là tế tròn năm thành công. Tế chưng, tế lạp chạp là đáp tạ ơn thần. Việc tế đều có chủ ý chung gọi là Kỳ yên. Ngoài tế phẩm ra có mổ trâu, bò, và ca hát hay không ấy là tùy lệ từng làng, việc ngồi có thứ tự đều nhượng cho vị hương quan ngồi trên, hoặc làng nào có học thức thì làm theo lễ Hương ẩm tửu ([25][25]), cùng giảng quốc luật và hương ước, ấy gọi là làng có tục tốt. Cũng trong ngày ấy xét sổ sách làng coi trong một năm ấy thâu nạp thuế khóa, tiêu dịch, lúa tiền thiếu thế nào, ruộng nương được mất thế nào trình bày tính toán công khai; rồi cử người chức sự làm việc làng và cũng bàn giao chức vụ trong ngày ấy. [7b] Ở Gia Định, vào tháng cuối năm thường lo chạp phần mộ tổ tiên, việc ấy là vâng theo quốc điển, vì cho rằng gần tiết Nguyên đán, nhà cửa mọi người còn trang hoàng cho khang trang, huống chi cái lễ con cháu thờ người chết cũng như khi còn sống, chẳng lẽ ngồi xem cây cỏ rậm rạp, dơ dáy, mồ mả sụt lở mà không đắp sửa. Tuy đời xưa không có lễ tế mộ, nhưng lễ là do nghĩa mà ra, xem ở Trung Hoa có lễ Thanh minh tảo mộ, thì nước ta làm lễ tảo mộ trong tháng chạp cũng là phải nghĩa hơn. Ở Gia Định, khi khách đến nhà, đầu tiên gia chủ bày trầu cau, sau dọn tiếp cơm bánh, thết đãi chu đáo đầy đủ, không kể là người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, tất cả đều được đón nhận tiếp đãi đàng hoàng cho nên người đi chơi không cần đem theo lương thực, nhưng lại khiến có nhiều người trốn tránh pháp luật hay đến xứ này, bởi đã có chỗ ăn ở vậy. Phong tục ở đây khi có cầu đảo, hoặc nhà có hỉ sự đều mở trò diễn tuồng, như nhà Giáp sắp mở rạp tuồng [8a], trước hết giết heo chia gởi cho những người quen biết, rồi báo ngày mời đến xem hát, gọi là (phiêu) tiêu lễ (lễ biếu). Đến ngày ấy, tùy tình hậu bạc mà đem tiền đến làm lễ mừng, coi hát, ăn uống no say rồi về. Sau này, những người quen biết ấy có mở trò hát thì cũng đưa (phiêu) tiêu lễ đến Giáp, thì Giáp thế nào cũng phải đi, ví như Ất đã đi mừng cho Giáp một quan tiền, thì nay Giáp phải đi trả cho Ất thành 2 quan, sau Giáp có việc mừng nữa thì Ất phải đi thành 3 quan, rồi cứ đi qua đi lại như thế lên đến 100 quan, đến nỗi có người phải cầm thế vay mượn để trả phiêu lễ ấy, hoặc có người nghèo không trả cho đủ số, thì người làm phiêu lễ đến hỏi vặn, có khi còn kiện cáo nhau. Tục ấy đã bị cấm, nay đã hết. Ngày trước, người Tàu gọi dân Gia Định là người Xích Cước (nghĩa là đi chân không) vì từ trước chỉ có quan quyền, người giàu có [8b] phong lưu ở phố chợ mới đi giày vớ. Nay đã nhiễm tục người Tàu, dù người làm thuê và bọn tì nữ cũng mang guốc quai da, giày vải. Đất Gia Định nhiều sông kinh, cù lao, bãi cát, nên trong 10 người đã có 9 người giỏi nghề lội bơi, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn 3 bữa cơm mà ít khi ăn cháo. Tục ở đây khi nhà có người sinh đẻ thì dùng một đoạn củi đã tắt rồi chẻ đầu cây cán gỗ kẹp ngang dựng ngay trước cửa, nếu sinh con trai thì trở đầu củi đã tắt lửa vào trong nhà, con gái thì trở đầu củi ra ngoài để làm hiệu ngăn cấm (tục gọi là cấm khem). Nếu ai bị sản nạn như không nuôi được con, bệnh xây xẩm, bệnh cục máu nhà con hay có hung táng v.v... đều không cho vào. Sản phụ nằm trên giường, bên dưới để lửa than đỏ ngày đêm không dứt, lại dùng nồi lửa để hơ bụng mỗi ngày 1, 2 lần, ăn những thứ cay, mặn, khô, [9a] uống nước thì tùy theo từng vùng, từng nhà hoặc quen dùng thuốc Nam như các loại rễ cây bằm nhỏ rồi nấu nước uống thường ngày; khi đầy tháng ra ngoài thì dùng củ nghệ thoa đầy mình để ngăn gió. Đầy tháng thì làm bánh trôi nước (xôi nước) cúng tạ 12 mụ bà ([26][26]), con trai thì sụt lui một ngày, con gái sụt lui 2 ngày, ấy là lễ đầy tháng. Giáp năm làm lễ thôi nôi (tôi tôi) y như tục Trung Hoa. Chồng người sản phụ không kể quân hay dân đều được miễn cho 1 tháng xâu dịch, gọi là cáo lợi thủy, đó cũng là hậu đạo châm chế cho người bận việc nuôi dưỡng vợ con. Lại có tục của người thôn dã, khi có việc thù hiềm nhau thì đến miếu xưa hoặc ngã ba đường, chặt cây chuối trồng ngược lên, rồi xé con gà ở trên ấy, lén đem tên họ của người thù thầm đọc chú, người bị thù ấy có khi ngẫu nhiên đau ốm hoặc bị tai ách thật, ấy là bắt chước theo tục man rợ vậy. [9b] Ngày trước có bọn vô liêm sỉ, có việc gì tranh cãi nhau, bất luận người kia có đấm đá mình hay không, liền nằm vật xuống đất, xé rách áo quần, tự cào cấu thân thể, rên rỉ kêu la, vu họa cho người để yêu sách phạt tạ, gọi là nằm vạ, gần đây phép quan đã trừng trị, nên tất cả đều bãi bỏ. Người nước ta đều học sách vở của Tàu. Nếu có quốc âm và tiếng địa phương thì cũng dùng chữ trong sách Trung Quốc có thanh âm gần nhau rồi tùy loại mà gia thêm bên cạnh, như kim loại, thì thêm bộ kim, loại mộc thì thêm bộ mộc, loại ngôn ngữ thì thêm bộ khẩu v.v... phỏng theo phép lục thư ([27][27]), hoặc giả tá, hoặc hội ý hay là hài thanh để ráp với nhau, chứ nước ta vốn không có loại chữ riêng. Khi viết chữ cũng trải giấy trên bàn, có 4 kiểu chữ: chân, thảo, triện, lệ, thì tùy nghi mà viết. Có người tay trái cầm giấy, tay mặt cầm bút viết thoăn thoắt [10a], cổ tay không đụng mặt giấy, mà thành ra chữ thảo, cách viết thảo ấy có phẩy, sổ, đá hất, biến hóa không giống như Trung Quốc, bởi cốt cho thuận tiện chữ mà thôi, cũng như phép viết thảo của bách gia ở Trung Quốc đều khác nhau, bởi không có ý bắt chước nhau, vậy nên trong việc quan phần nhiều không dùng lối chữ thảo. Đất Gia Định có nhiều sông ngòi, cù lao, bãi bến, nên 10 người đã có 9 người giỏi việc chèo thuyền, bơi lội, ưa ăn mắm, có người một bữa ăn hết 2 hũ mắm ([28][28]) độ hơn 20 cân, để đố cuộc nhau cho vui. Lại có người đố cuộc uống trà Huế: xưa có ông Nguyễn Văn Thạnh đố cuộc với người về việc uống nước trà; ông dùng cái vò to miệng chứa đầy nước ngọt, tự nấu lấy trà, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi mấy bát, mình ông mặc áo đôi, mồ hôi ra như tắm, giây lát uống hết nước ấy tức thắng cuộc. [10b] Người ở đây nói tiếng địa phương thường hay pha tiếng Tàu, tiếng Cao Miên, người nghe tập quen lần rồi tự biết, mà không để ý phân biệt chỗ khác lạ được một cách rõ ràng. Như quát mãi (mua sỉ) thì nói là óa; khi trám (lừa phỉnh) thì nói là khí xổ; ấp tạ (vái chào) thì nói là xá; phốc tái (chở bằng ghe chài lớn) thì nói là bốc chài; thi (là cái muỗng) thì nói là thưng xỉ; đối trừ (khấu trừ) thì nói là tụi; phiến trụy (cái rụi (tua) treo ở cán quạt) thì nói là xí tụi; thải nghi (khúc lụa màu) thì nói là xái kỷ ([29][29]); trư đỗ (bao tử heo) thì nói là tư tấu ([30][30]); trư thận (cật heo) thì nói là tư yêu ([31][31]); miến tuyến (sợi miến) thì nói là mỳ xọa (xụa), ấy là nói theo tiếng của người Tàu. Còn như sang sông thì gọi tầm long; chủ sự thì nói là tằng khạo ([32][32]); thần thuyền là thần dục; cái bao nhỏ thì nói là cà ròn ([33][33]) ; đối trừ (sang nợ qua) thì nói là gật, ấy là nói theo tiếng Cao Miên. Những tiếng ấy người ở nơi khác đều không biết. Các tiếng loại này còn rất nhiều, đây chỉ đơn cử ra để nêu sự lạ mà thôi. Ở Gia Định chỗ nào cũng có ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi chợ, hay để đi thăm người thân, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi mà ghe thuyền đi lại chật sông suốt ngày đêm nối đuôi nhau, [11a] cho nên nhiều khi đụng nhau bị hư hỏng rồi sinh ra kiện cáo, nhưng ai phải ai quấy thì thật khó xử đoán cho đúng lẽ. Lúc bấy giờ có quan Điều khiển Tham mưu đồn dinh là Nghi Biểu hầu (Nguyễn Cư Trinh) ra lệnh rằng: phàm ghe thuyền đi bất luận gặp gió nước thuận hay nghịch, khi gần gặp nhau thì đều phải hô là bát, (tục gọi ghe đi phía trái là cạy, đi phía phải gọi là bát) thì ghe mình đi về phía phải, ghe kia cũng phải đi phía phải để thuận lái cho dễ điều khiển mà tránh nhau. Nếu ghe nầy đã hô bát mà ghe kia còn đi về phía trái không tránh để đụng nhau làm hư hỏng, thì lỗi ấy về ghe không tránh kia. Trường hợp còn có kẻ biện bạch chưa chịu khuất phục, thì phải xét ghe nào chở nhẹ hơn và đi thuận dòng nước, thừa thế chạy mau, thì ghe ấy bị lỗi, cho nên ngày nay người đi ghe muốn bảo nhau để tránh, thì chỉ hô tiếng bát; còn như có hô cạy thì chỉ ở nơi vũng bến đậu mà gặp gió hay mắc cạn, có sự cố gì mới được hô như vậy, nhưng cũng ít khi hô như vậy, [11b] ấy là luật đi ghe phải nhất định như thế. Trên sông thường có bọn cướp bôi mặt để cướp bóc làm người chủ ghe do hoảng hốt nhất thời không nhận được là ai, lại không có vật gì làm bằng nên rất khó cho việc truy cứu, nên Nghi Biểu hầu (Đạm Am Nguyễn Cư Trinh) ra lệnh tất cả ghe thuyền lớn nhỏ trong hạt, quan nha sở tại phải buộc chủ thuyền khai báo tên họ làm sổ sách rõ ràng, rồi khắc chữ đóng vào đầu thuyền, ai trái lệnh thì bị tội, làm hồ sơ ghe thuyền để lưu chiếu. Từ đó người bị cướp nhận ra được tên kẻ cướp, chỉ tên ra tố cáo, tìm ra được kẻ gian nên bọn côn đồ mới chịu yên. Hai huyện Phước Lộc và Thuận An thuộc trấn Phiên An, huyện Kiến Hòa thuộc trấn Định Tường đều ở gần biển, ruộng bùn nước mặn, trong có đào ao vét giếng, nước tuy có hơi lợ ([34][34]) nhưng đun sôi thì lại mặn, không thể dùng pha trà nấu cơm được. Cho nên hằng năm từ tháng 10 hết mưa cho đến tháng 4 chưa mưa, trong thời gian ấy có người chuyên nghiệp rửa sạch lòng thuyền [12a] đi chở đầy nước ngọt, đến các xứ nầy đổi lấy lúa gạo, thu được nhiều lợi. ([35][35]) Tục lệ cứ 10 giạ ([36][36]) lúa gạo gọi là trăm; 100 giạ gọi là thiên, khi cân hoặc dùng cân Tư Mã đời Lê, hoặc dùng cân đương thời, có khi thêm 3 thêm 5, nặng nhẹ không chừng. Thước đo thì chế ra dài, ngắn khác nhau, việc mua bán trước hết phải nói rõ sẽ dùng thước nào, cân nào sau mới định giá, nếu không thì sẽ sinh ra tranh hơn thua, gây nên kiện cáo. Vì vậy khi gặp giữa đường hỏi nhau, như nói mua một thước vải giá tiền 1 quan, đầu nghe chưa biết mắc rẻ ra sao, phải hỏi xem dùng loại thước nào mới biết rõ. Phàm hầu hết các vật khác cũng như thế, người mua cứ châm chước thầm trong bụng mà theo hoặc không, chứ không cần biết cân thước lớn nhỏ dài ngắn ra sao, thật là lạ. Hiện nay đã ban hành phép nước, cân ([37][37]), thước ([38][38]), đấu ([39][39]), hộc ([40][40]) đều có chuẩn định, người nào tự tạo không đúng thì chiếu luật xử trị. Nhờ có phép mới của nhà vua mà mọi vật mới được quy định yên ổn. [12b] NĂM TRẤN TRẤN PHIÊN AN Kẻ sĩ trọng danh tiết, phong tục chuộng sự xa hoa. Văn vật, nhà cửa, y phục, đồ dùng ở trấn Phiên An phần nhiều giống như Trung Quốc. Hai huyện Bình Dương, Tân Long dân cư trù mật, chợ phố chen chúc liền nhau, rường nhà mái ngói liền nhau. Nhiều người thạo tiếng nói người Phước Kiến, Quảng Đông, Triều Châu, Hải Nam ([41][41]), Tây Dương và Xiêm La. Tàu hải dương ([42][42]) đến buôn bán qua lại cột buồm nối liền nhau, hàng hóa tấp nập, trở thành nơi đô hội to lớn của Gia Định cả nước không đâu sánh bằng. Quen nghề thương mãi phần đông là dân bận rộn thành thị ([43][43]). Có kẻ ở thuyền gọi là dân giang hồ, có đám xứ khác tụ họp gọi là dân tứ chiếng (chữ chiếng là chánh nghĩa là người gốc ở bốn phương trôi nổi đến ở, tụ hội thành một chỗ) [13a] chợ Bình An gọi là ổ tụ tập dân anh chị. Tại hai huyện Phước Lộc và Thuận An, trong 10 nhà thì có 9 nhà làm ruộng, chỉ có 1 nhà buôn bán, nên tập tục hãy còn chất phác như xưa. TRẤN BIÊN HÒA Núi đẹp sông trong, phong tục thuần hậu, công việc giản dị, kẻ sĩ chuộng thi thư, dân siêng năng cày cấy, dệt cửi, họ đều có sản nghiệp. Văn vật, y phục, nhà cửa giống như phong tục Trung Hoa, duy có vùng Toái Đàm (Đầm Nát) thuộc huyện Long Thành có nhiều kinh mương đan nhau, rừng ao xanh rậm, đất trống, không có dân cư nên trộm cướp thường núp ở đấy, khách buôn qua lại thường phải đề phòng. TRẤN VĨNH THANH Chỉ hai xứ Long Hồ và Sa Đéc có phong tục giống như trấn Phiên An, lại thường quen giao dịch qua lại với người Cao Miên, cho nên có nét khác hơn là nhiều người biết được tiếng của nước ấy. Ngoài ra dân cư đều chuộng sự thật thà [13b]. Họ chuyên nghề cày ruộng làm vườn và đều có sản nghiệp, được xem là nơi giàu có đông đúc. Địa thế cách trở, sông rạch chằng chịt, không nhờ ghe thuyền thì không đi lại được, vậy nên ai cũng thạo chèo chống. Xứ ấy có nhiều rừng cây sầm uất, nhà ở xa nhau, cho nên nhiều trộm cướp nổi lên. Lúc Tây Sơn vào chiếm cứ, thì người ta đều chôn giấu của cải không dám để bày dấu vết, cho nên bọn trộm cướp không lấy được gì. Thuở ấy có tên dân địa phương là Nguyễn Văn Ngữ tụ tập thành đảng cướp, thường thừa ban đêm lẻn vào nhà bắt người bỏ vào bao lác buộc lại, mang đi để vào trong rừng sâu chỗ vắng không cho nhận mặt biết chỗ, cử người canh giữ, rồi đưa thư nặc danh ước hẹn đem tiền của đến chỗ nào đó để đòi chuộc, nếu không chịu lại tiết lộ cho ai biết, thì chúng sẽ giết. Người đời gọi là giặc Đâu Bao ([44][44]) do Văn Ngữ bày ra, rồi bọn trộm cướp khác bắt chước làm theo, di hại rất thảm khốc, cho nên những nhà giàu có [14a] ở xứ ấy đều phải dời về thành thị để lánh nạn, làng xóm trở thành hoang hóa. Rồi có kẻ vốn là thất phu trơ trọi hay đàn bà cô đơn không có bè đảng gì chỉ viết khống trong thẻ giấy, tự xưng là Lục lâm đại trại tướng quân, Thanh Sơn vô địch tướng quân phô trương danh hiệu, thầm đưa thư hù dọa người lấy của, sau lâu ngày bị khám phá ra, phép quan nghiêm trị, từ ấy dân cư mới được yên ổn. Trấn này vốn có nhiều cá sấu và cọp dữ, nhưng dân cư đã quen nên không sợ hãi, tuy là trẻ con và đàn bà chỉ dùng liềm cắt cỏ và đòn xóc lúa cũng bắt được cọp dữ. Năm trước ở sông Tiên Thủy có con cá sấu lớn được 5 ôm dài tới 6 trượng, thường đón ghe thuyền đi qua quất đuôi cho người rơi xuống, hoặc làm lật úp chìm ghe để bắt người nuốt sống, gọi là ông Luồng. Người ta tìm đủ cách để trừ đi mà không được. Sau có người thợ câu dùng lưỡi câu lớn bằng sắt, móc một con vịt sống rồi [14b] lấy mây lớn xỏ buộc sau lưỡi câu thật chặt, tay ôm con vịt bơi xuống sông để nhử con cá sấu, trông chờ nó tới đuổi theo. Cá sấu không có cái mang tai, ở dưới nước không dám há miệng, mà có vẫy đuôi cũng không làm gì được. Người câu vốn từng biết vậy, nên đùa giỡn với cá sấu, đợi khi cá đến gần trồi lên mặt nước há miệng đến táp, thì anh ta thừa cơ bỏ con vịt vào trong miệng nó. Khi cá sấu nuốt rồi anh ta lặn vào bờ sông cho đông người kéo dây mây vào, rồi xúm lại đâm chết cá sấu, mới trừ được hại ấy. Tài nghệ của người câu ấy, người các nước nghe đến cũng đều khiếp sợ. TRẤN ĐỊNH TƯỜNG Phong tục xứ Mỹ Tho cũng giống với trấn Phiên An. Người huyện Kiến Đăng chuyên việc ruộng vườn, tuy không thiếu người trung dũng thực thà, mà cũng không ít trộm cướp ẩn núp. Đất huyện Kiến Hưng nửa ruộng, nửa vườn, [15a] dân chuyên nghề cày ruộng và trồng dâu nuôi tằm, có nhiều sĩ phu dũng cảm tiết nghĩa. Huyện Kiến Hòa đất ruộng màu mỡ, nhìn mút mắt không thấy ranh bờ ([45][45]), nên người ở đây lấy nghề nông làm gốc, trong nhà có vựa chứa trống nắp ([46][46]) lúa gạo tràn đầy, lại có đức tính trung hậu cần kiệm, ưa làm việc nghĩa, sống yên vui, là nơi lưu giữ được phong tục đời xưa vậy. TRẤN HÀ TIÊN Phong tục ở đây còn chịu ảnh hưởng phong hóa người Tàu, mà ít có hạng thân sĩ ([47][47]) Người Việt người Thổ ở xen nhau, họ chuyên việc buôn bán, phần lớn người Hoa, người Cao Miên, người Đồ Bà (Chà Và) ở ven theo bờ biển, đất đai chưa được khai khẩn, dân không có đất đai chánh thức, nên hay di chuyển bất thường. Ở 2 đạo Long Xuyên (Cà Mau) và Kiên Giang ít nông dân nhưng biết chăm lo căn bản, cho nên cả trấn này đều nhờ lúa gạo của 2 đạo ấy cung cấp. Tánh người ở đây nông nổi, ưa trang sức phong nhã. Con trai hay dùng lược nhỏ chải đầu, bới cao tóc rồi dùng khăn bao lại, [15b] bên mái tóc thường giắt cái thoa cong dùng khi cần vẹt tóc và gãi đầu khi ngứa, lại dùng sáp thơm bôi râu mép vuốt thẳng ra hai bên như hình hai chữ nhất cân nhau. Con gái thì mặc áo ngắn chật tay, họ ưa dùng màu non lợt của thiên thanh ngọc lam, thúy vũ ([48][48]), ngư bạch, lục đậu. Bao đầu thì trước hết búi cao tóc lên, xức dầu phấn rồi lấy tay đè xuống cho tóc rũ cong xuống theo cổ như cái ức gà, còn đúm tóc thì dùng tay đè tóc xuống cho nhọn, gọi là dạng trang sức mới. Họ đeo xuyến, đeo hoa tai bằng vàng ngọc pha lẫn. Bộ đi thẳng đứng không có phong thái bay bướm uyển chuyển, ưa dùng khăn dài trùm đầu mà đi, hoặc là quàng vai, hoặc cầm ở tay, không dùng nón lá, ăn trầu cau thì lấy thuốc rê xát 2 hàm răng rồi ngậm vào môi phía tả, có ý để khoe hàm răng ngời ([49][49]) láng chỉnh tề. Họ biết những việc thêu đan, may vá kim chỉ, làm mứt, làm bánh [16a], đường kim mũi chỉ và nấu nướng rất khéo. Thời Mạc Đô đốc có Tống Thị Sương là con gái nhà giàu tuổi vừa cặp kê, nữ công tuyệt xảo, mai mối tới lui nhưng không đồng ý, cô nói: đợi có Phật dạy, thì mới kết nhân duyên, cha mẹ không hiểu ý, phải miễn cưỡng nghe theo. Lúc ấy có vị tăng là Ngộ Chân tu hành nghiêm túc, chỉ niệm Phật hiệu, không học kinh điển, không ăn vật hôi tanh và ngũ cốc, chỉ ăn rau quả, mỗi ngày một bữa, lại có nhiều phép lạ ([50][50]), người ta quen gọi là Thái tăng (thầy tu ăn rau). Có bữa thầy đi ngang qua ngõ, thấy Tống Thị Sương phơi áo lót, hớn hở vào năn nỉ hỏi xin, bảo là dùng để nguyện cúng Phật. Khi ấy cha mẹ cô mắng nhiếc đuổi đi, cô ra khuyên giải mới được yên. Thầy tăng cười lớn một tiếng rồi đi luôn. Từ đấy cô phát lòng từ bi, miệng thường niệm Phật, nguyện bỏ hết việc đời, cắt tóc làm ni cô theo hầu [16b] đức Quán Âm Đại Sĩ ở thế giới cực lạc. Gia đình khuyên bảo mãi mà không được, bất đắc dĩ phải làm cái am ở phía tả đảo Đại Kim. Cô mừng vui đến ở, thêu tượng Quán Âm cao bằng mình người, mỗi lần cô đâm cây kim xuống mặt vải thì niệm Phật một tiếng, trong 3 tháng thêu mới xong, sắc thái tượng linh động như vị Phật sống, tuy họa sĩ có tài vẽ đến đâu cũng không bằng được. Tăng đồ ở trấn này hay vào đất Việt (ở Trung Quốc) ([51][51]) đến chùa Hải Tràng ([52][52]) để tìm học người giảng giải chính xác Nam tông ([53][53]), cho nên pháp giới kinh điển và thanh điệu tụng tán khá học được tông chỉ của Thiền môn, được thời ấy coi là duyệt diệu.
([1][1]) Chu lễ, Chức phương thị (周禮職方氏) theo sách Chu lễ Hạ quan có Chức phương thị chỉ địa đồ trong thiên hạ, chỉ cống nạp từ bốn phương. Nhiều đời bỏ đi, đến Hậu Chu mới lập lại. Đầu đời Đường có Chức phương thị (侍) lang. Đời Đường đổi lại là Lang trung thuộc bộ Binh. Minh Thanh gọi là Chức phương ty, phân địa giới, cung vực trong thiên hạ đều vẽ thành địa đồ, ba năm trình lên vua một lần. ([2][2]) Ngũ Kinh (五經): Năm quyển sách quan trọng của Nho giáo thời xưa là kinh Dịch, kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Xuân thu. ([3][3]) Tứ Thư (四書): Bốn quyển sách quan trọng của đạo Nho xưa là Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử. ([4][4]) Thông giám, còn gọi là Tư trị thông giám (資治通鑑) do Tư Mã Quang đời Tống làm, là cuốn biên niên sử chép việc trong 2000 năm từ thời Chiến Quốc đến Ngũ Đại gồm 294 quyển. Tám quyển đầu do Tư Mã Quang tự soạn và gọi là Thông chí (通志) chỉ kể đến Tần Nhị thế. Tống Anh Tông ra lịnh soạn tiếp và tứ danh Tư trị thông giám. ([5][5]) Dương minh (陽明): Tức quang minh, sáng chói. ([6][6]) Lễ: Hương thôn xưa theo tục Trung Quốc có sáu lễ là quan, hôn, tang, tế, hương nghinh tân, hương ẩm tửu. Quan là con trai đến 20 tuổi làm lễ đội mũ. Hôn là lễ đám cưới, tang là lễ đám ma. Tế là lễ cúng bái thần thánh. Hương nghinh tân, và Hương ẩm tửu là hai lễ theo cổ chế, cứ ba năm trong làng tuyển chọn người hiền, kẻ giỏi dâng lên vua. Ngày họ lên đường, hương chức làng lấy lễ nghinh tân tiếp đón họ và mời họ uống rượu tiễn, gọi là hương nghinh tân và hương ẩm tửu. ([7][7]) Lục lễ: Tức sáu lễ trong hôn nhân gồm: (1) Nạp thái: ta gọi là lễ dạm. Sách Nghi lễ sĩ hôn lễ viết: Sai người nạp lễ thái trạch. Nạp thái là đem lễ vật đến ra mắt để nhà gái chọn lựa rể, vì mảng sợ nhà gái chối từ. Nạp thái hàm ý sự chọn lựa cho nhà gái. (2) Vấn danh: ta gọi là lễ hỏi. Ông mai đến hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ, giờ... của cô dâu. (3) Nạp cát: sau vấn danh, đàng trai đến miếu bói xem tên tuổi cô dâu có hợp với chú rể không. Nếu bói được quẻ tốt rồi thì sai người đến báo tin tốt cho nhà gái, đồng thời hàm ý cô dâu đã được chọn. (4) Nạp trưng: còn gọi là nạp tệ, tức đàng trai đem tiền và lễ vật đến nạp cho nhà gái. Nhà gái nhận rồi thì coi như việc hôn nhân đã định. Chữ trưng có nghĩa là thành, ý nói sau lễ nạp trưng là hôn nhân đã thành tựu. (5) Thỉnh kỳ: nhà trai đến nhà gái trình ngày rước dâu (chỉ lễ này không dùng chim nhạn). (6). Nghinh thân: là lễ rước dâu. ([8][8]) Văn Công và Khâu Thị: hai nhà soạn lễ của Trung Quốc thời xưa. Văn Công gia lễ của Chu Hy đời Tống. ([9][9]) Tô Đông Pha: tên là Thức, người đời Tống. ([10][10]) Vua Cao tổ nhà Hán họ Lưu tên Quí, thường gọi Lưu Bang. Ý nói không phải người Hán của Hán triều. ([11][11]) Vua Cao tổ nhà Đường họ Lý tên Uyên, tự Thúc Đức, nhường ngôi cho con là Thế Dân, ở ngôi được 9 năm. Ý nói người Đường gọi đây không phải là người ở Đường triều. ([12][12]) Đường Ngu là đời hai vua Đường Nghiêu và Ngu Thuấn của Trung Quốc thời cổ. ([13][13]) Pháp. ([14][14]) Anh. ([15][15]) Áo môn (Ma Cao). ([16][16]) Tức người theo đạo Hồi có tục lạy mặt trời người bình dân ta quen gọi là "người Chà Và". Mãn Lạt Gia là phiên âm lại của Malacca, cũng gọi là Mã Lục Giáp. ([17][17]) Na nhân (儺人): Là người dán bùa, đọc chú cuối năm để trừ ma quỷ, dịch lệ, ôn thần cho chủ nhà. Thiên Hương đảng trong Luận ngữ: Hương nhân na. Khổng chú: "Na, có nghĩa là xua đuổi quỷ ôn dịch". Đây là một tập tục, thay cho lời chúc tụng mạnh khỏe đầu năm. ([18][18]) Trừ tịch (除夕): Theo cựu tục cho đêm cuối cùng tháng chạp trong năm là trừ tịch, ý nói năm cũ đến đêm này là dứt, qua sáng hôm sau đổi sang năm mới. Sách Phong thổ ký chép: "Đêm trừ tịch thức cho tới sáng, gọi là nắm giữ năm" (Chí trừ tịch đạt đán bất miên, vị chi thủ tuế). ([19][19]) Tùy theo phong cách mỗi nhà mà lời chúc tụng ông bà có khác nhau đôi chút, nhưng tựu trung không thể thiếu câu này: "Năm mới năm mủn, chúc (ông nội, bà nội, ba má v.v...) sống lâu muôn tuổi, may mắn, mạnh khỏe từ đầu năm đến cuối năm". ([20][20]) Rượu nấu bằng nếp than, loại nếp màu tím sẫm, ngọt ngọt chát chát uống rất ngon còn gọi là rượu lễ hay rượu ịch. ([21][21]) Bánh tét (có lẽ là bánh Tết đọc trại hay khi ăn phải tét lớp vỏ ra) là loại bánh dùng nếp nhứt, bọc nhưn bên trong gồm đậu xanh và mỡ heo thỏi, gói lại bằng lá chuối, cột bằng dây lát thành đòn cỡ bắp chuối dài chừng 3 tấc. Nguyên tắc và nguyên liệu cũng giống như bánh chưng, nhưng bánh chưng hình vuông và chất nếp mềm hơn. ([22][22]) Xoay. ([23][23]) Khoảng 2,5m. ([24][24]) Khoảng 0,3m. ([25][25]) Hương ẩm tửu lễ (鄉飲酒禮): Theo thể chế ngày xưa, thiên Hương ẩm tửu lễ sách Nghi lễ định rằng cứ ba năm thi một lần, chọn người hiền tài để vị Hương đại phu ở nước chư hầu dâng tiến họ lên Thiên tử. Đến ngày đưa đi, dùng nghi lễ uống rượu tiễn khách gọi là "Hương ẩm tửu lễ". Từ Hải, trang 4399 (中) có chép Nghi lễ hữu Hương ẩm tửu thiên, nghĩa là: sách Nghi lễ có thiên: Hương ẩm tửu. ([26][26]) Khi cúng thì vái "mười hai mụ bà, mười ba đức thầy". ([27][27]) Lục thư: (六書). Sách Thuyết Văn giả tự tập giải Lục thư là: Một: Chỉ sự, là nhìn thấy mà biết nghĩa chữ, xét mà biết ý chữ hoặc biết thuộc trên, dưới, như chữ上, chữ下; Hai: Tượng hình, là vẽ phác đơn sơ hình vật loại, như hình mặt trời, mặt trăng ở hai chữ日,月chẳng hạn; Ba: Hài thanh, là nhìn thấy trong chữ có một phần âm của một chữ mà biết chữ đó có âm thanh một thứ hay tương tự; Bốn: Hội ý, là nhóm ý nghĩa các phần của chữ suy ra mà đọc được ý nghĩa chữ; Năm: Chuyên chú, là nắm được một phần chữ giống một phần chữ khác mà biết có âm tương tự; Sáu: Giả tá, là vốn chữ này không có, nhân mượn một chữ khác mà đọc giống hay tương đương nhưng nghĩa hoàn toàn khác nhau. ([28][28]) Người Việt nhận mắm trong hũ chớ không đựng trong ống như người dân tộc thiểu số, gọi là cái chình. ([29][29]) Đọc xái kỷ vì chữ xái (綵) nguyên văn phiên âm viết là "xích tái" tức xái. ([30][30]) Đọc tầu vì chữ tầu嘈 nguyên văn phiên thiết âm là "tàm hầu" tức tầu (đọc nhẹ là tấu). ([31][31]) Chữ tư yêu (司天) nếu đọc theo giọng Quảng Đông là xí yếu có nghĩa là cật heo. ([32][32]) Đọc khạo vì chữ (靠) khạo này nguyên văn phiên thiết âm là "khổng đạo" tức khạo. Miền Tây gọi người thay mặt chủ điền để coi sóc công việc ruộng nương là "tằng khạo". "Tằng khạo" cũng chỉ người thay mặt chủ trông coi một chiếc ghe chài. Có người cho đây là âm hai chữ đồng khảo của tiếng Hoa, nhưng có người cho đây là thổ ngữ Quảng Tây chỉ cặp rằn ghe chài. ([33][33]) Miền Đông và Tây Nam Bộ ai cũng biết cái bao nhỏ dệt bằng cỏ bàng là cái "cà ròn". Người vùng Sài Gòn Gia Định phát âm thành cái "cà dòn". ([34][34]) Theo Việt Hán từ điển tối tân do Nhà xuất bản Chin Hua ấn hành năm 1962 và cũng theo tập quán người Hoa thì nước mặn gọi là hàm thủy (鹹水), nước ngọt gọi là đạm thủy (淡水), còn nước lợ là đạm hàm thủy (淡鹵水). Trong GĐTTC, cách biểu thị của Trịnh Hoài Đức lại khác. Nước ngọt ông viết là cam thủy (甘水), nước lợ ông viết là đạm thủy (淡水). Vậy trong ngữ cảnh câu văn trên, xin dịch đạm thủy là nước lợ, cho hợp với ngữ cảnh. ([35][35]) Không gọi "bán nước" mà gọi "đổi nước". ([36][36]) Một giạ lúa bằng 40 lít lúa. Một giạ lúa vê sạch lúa buôi, lúa lép qui ra 22 ký. ([37][37]) Cân = 600g ([38][38]) Thước = 0,4m (qui định chính thức năm 1900, còn thời Trịnh Hoài Đức là 0,324m) ([39][39]) Đấu = 10 lít ([40][40]) Hộc = 50 lít ([41][41]) Tục gọi đảo Quỳnh Châu là Hải Nam. ([42][42]) Tục gọi thuyền đi biển to là tàu. ([43][43]) Nguyên văn bản VHN lưu trữ chỉ viết: Quán tập thương cổ, đa thị tỉnh chi nhân, nghĩa là: "Quen nghề thương mãi phần đông là dân thành thị" nghe rất hợp lý. Bản in kèm bản dịch Nguyễn Tạo và bản VSH lại đều chép: Quán tập thương cổ, đa thị tỉnh du đãng (遊蕩) chi nhân, nghĩa là "Quen nghề thương mãi phần đông là dân du đãng thành thị", nhưng thật ra chữ du đãng (遊蕩) chỉ có nghĩa là "không nhàn tản, luôn bận rộn tất bật", ý nói kẻ quen buôn bán là dân thành thị luôn bận rộn chẳng có thì giờ nhàn hạ chớ không phải có nghĩa dân du đãng đâm thuê chém mướn. ([44][44]) Đâu bao: Đâu (丟) là đem đi mất. Vậy đâu bao là bắt bỏ vô bao đem đi mất, tức bắt cóc bỏ vô bao. ([45][45]) Người ta còn nói ví von cách khác là "Ruộng cò bay thẳng cánh, chó chạy bẹt đùi". ([46][46]) Tức cái bồ lúa, dùng cà tăng làm vách bọc tròn xung quanh, trong lòng bồ ken lót lá trầm, trên không có nắp đậy nhưng vẫn đặt trong nhà chớ không phải ngoài trời như nhiều người hiểu lầm. ([47][47]) Nguyên văn viết thân khâm (紳¶). Thân là tấn thân (搢紳) tức sĩ hoan; khâm là thanh khâm (青¶) tức sĩ tử. Hạng sĩ đại phu ở trong làng cũng gọi là thân khâm, cũng còn gọi là hương thân hay thân sĩ. Vậy xin dịch chữ này là "thân sĩ". ([48][48]) Thúy vũ là màu xanh lông con chim trả. ([49][49]) Nguyên văn viết: Dĩ khoa thị xỉ chi hắc quang chỉnh tề thì không còn dịch cách nào khác hơn là "Để khoe cho thấy răng mình đen nhánh chỉnh tề". Không biết chữ Hắc (黑) tác giả dùng còn có nghĩa nào khác nữa không, chớ nếu viết "Khoe răng đen bóng" e không đúng thực tế vì phụ nữ miền Nam tuy ăn trầu răng không trắng bóng như bây giờ nhưng cũng không "đen nhánh" được vì họ đâu có nhuộm răng đen như chị em phụ nữ ngoài Bắc thời Trịnh Hoài Đức. Vậy chúng tôi xin dịch né là "ngời láng chỉnh tề". ([50][50]) Nguyên văn viết "頗多奇行", nếu đọc Phả đa kỳ hành thì phải dịch là "có nhiều hành vi kỳ bí", tức nhiều phép lạ. Nếu đọc Phả đa kỳ hạnh thì phải dịch là "Có nhiều nết hạnh lạ". ([51][51]) Tức vùng Quảng Đông, Quảng Tây ở Trung Quốc. ([52][52]) Hải Tràng tự: Là một trong tám cảnh của Dương Thành (Quảng Châu) ở Quảng Đông. Tương truyền đất nầy là di chỉ của Thiên Thu tự thời Hán triều. Vào năm Khang Hy thứ 18 nhà Thanh, Thượng Khả Hỷ xuất tiền trùng tu điện Thiên Vương, vợ ông trùng tu Đại Hùng bửu điện, Tổng đốc Hứa Nhĩ Hiển trùng tu điện hai bên và gác sau, Tuần phủ Lưu Bỉnh Quyền dựng sơn môn. Nhân đó mà phạm vi chùa nới ra hết sức rộng rãi. Trong chùa trồng nhiều kỳ hoa, dị thảo, đại thọ, trong đó cây Ưng Trảo là một trong những cây quý của chùa. Lại có nhiều tảng đá kỳ lạ tên là "Thái Hồ Thạch". Lại có đá hình thù kỳ quái như "Vân Đầu Vũ Cước" và "Mãnh Hổ Hồi Đầu". Tứ Đại Kim Cương trong chùa là những tượng đắp trứ danh mỗi tượng cao 20m, khí phách hùng vĩ, hiếm có tượng nào sánh bằng. Chùa có lắm cao tăng uyên thâm Phật lý, triệt kiến chỉ ý Thiền tông. ([53][53]) Là Nam tông đốn ngộ của Huệ Năng chớ không phải Nam tông Therevada.
Trước - Tiếp >>
Người post bài: Vanhoahoc
Tin mới: Sơn Nam. Lịch sử khẩn hoang Miền Nam (1) -27/04/2008 Phan Quốc Anh. Nghi lễ vòng đời người Chăm (1) -13/04/2008 Bá Dương. Người Trung Quốc xấu xí (2) -23/02/2008 Bá Dương. Người Trung Quốc xấu xí (1) -23/02/2008 Ngô Đức Thịnh. Lên đồng trong đạo Mẫu -21/02/2008 Các bài khác: Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành thông chí (phần 3) -05/02/2008 Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành thông chí (phần 2) -05/02/2008 Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành thông chí (1) -05/02/2008 Trần Ngọc Thêm. Tìm về bản sắc văn hóa VN -04/02/2008 Trần Văn Đoàn. Bàn về văn hoá đa dạng -29/01/2008 <<> Trang sau>> <>
Tiếp > [ Quay lại ]






Hình ảnh Góc ảnh video Hướng về 1000 năm TL-HN: Xem phim “Tử Cấm Thành - bản di chúc của một bạo chú Phim "Chuyện tử tế" – tập 2 (?!) của “Hà Nội trong mắt ai” Hà Nội trong mắt ai (phim của Trần Văn Thủy) Lễ hội truyền thống Văn hóa học 2010 - tin HTV Phóng sự video: Lễ hội Truyền thống Văn hoá học 2010 Video-clip vui: Văn hoá học muôn màu Khoa Văn hóa học đi tìm hiểu văn hóa Tây Nam Bộ tại An Giang Video: Quê hương Đất Tổ Video: Trò chơi dân gian ngày Tết Trần Ngọc Thêm - Phan An - Tôn Nữ Quỳnh Trân. Phong tục Tết Việt Gõ cửa ngày mới: GS. Trần Ngọc Thêm Trần Ngọc Thêm. Văn hoá hip-hop qua video Dàn nhạc ghi-ta của Đại học Fullerton trình diễn bài “Trống cơm” tại Bulgaria Trần Ngọc Thêm. Văn hoá cơ thể nữ Trần Ngọc Thêm. Văn hoá phát biểu tại Quốc hội Những vị chủ điên (Les maîtres fous) Nanook ở phương Bắc Văn hoá xếp hàng Văn hoá bình dân của các nhà lãnh đạo: Hồ Chí Minh, Obama, Putin Trần Ngọc Thêm. Văn hoá dương vật Tủ sách VHH Phùng Hoài Ngọc. Nữ sĩ Băng Tâm và tập thơ Phồn Tinh (tt) Phùng Hoài Ngọc. Nữ sĩ Băng Tâm và tập thơ Phồn Tinh Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc(phần 2:Bài 80-100) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc(phần 2: Bài 50-79) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc (phần 5) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc(phần 4) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc(phần 3) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc(phần 2) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc (phần 1) Thi ca từ Trung Hoa. Phùng Hoài Ngọc (phần mở đầu) Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 3 - hết) Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 2) Đoàn Văn Chúc. Văn hóa học (Phần 1) Hoàng Trọng Canh. Dấu ấn văn hóa của người Nghệ Tĩnh... Nguyễn Trần Bạt. Văn hóa & Con người Bùi Quang Thắng. Hành trình vào văn hóa học (c3-hết) Bùi Quang Thắng. Hành trình vào văn hóa học (c1+2) Bình-nguyên Lộc. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc VN-C9-11 Bình-nguyên Lộc. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc VN-C6-8 Bình-nguyên Lộc. Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc VN-c5 (cuối)

TRỊNH HOÀI ĐỨC * GIA ĐINH THÀNH THÔNG CHÍ III

Quyển III: CƯƠNG VỰC CHÍ [chép về bờ cõi]


Khí trong nổi lên trời, chất đục tụ xuống đất, từ thời Bàn Cổ khai phá khí chất hỗn mang mà thoát ra, từ đó các thứ loài càng phồn thịnh. Khoảng đất giữa chiếm vị trí rộng lớn gọi là trung châu, bốn phía đông, tây, nam, bắc đều tùy nơi mà đặt tên, chứ ban đầu chưa vạch ra cương giới này nọ. Kịp khi khí vận càng mở mang, nhân dân càng đông đúc, vua Hoàng Đế (2697 - 2596 tr. CN) mới vạch ra khu vực, vua Thần Vũ (2205 - 2198 tr. CN) mở rộng đất đai. Sách vở để lại chỉ biết Trung Quốc có 9 châu trong thiên Vũ cống ([1][1]).

Nhưng ngoài 9 châu ấy, lại còn 9 châu nữa, ngoài 4 biển lại còn 4 biển nữa; cũng như sách nhà Phật gọi là Bốn đại bộ châu vậy. Như vậy thì ngoài những nước biết ăn gạo, mặc tơ, không biết còn có bao nhiêu châu nữa, kỳ thực chỉ tại sách xưa [1b] thiếu sót mà thôi. Vậy thì núi sông nhân vật chẳng phải đến ngày nay mới sinh ra đâu, như người Tây Dương bảo có Tân thế giới ấy là thứ kiến thức sâu mùa hạ ([2][2]) ếch ngồi đáy giếng ([3][3]) điều đó không thể hợp lý được.


Từ khi chân con ngao ([4][4]) được dựng, móng chim hồng đã chia ([5][5]) trời mở ra ở chi Tý thì trời Gia Định cũng có từ đấy, đất mở ra ở chi Sửu thì đất Gia Định cũng có từ đấy, người sinh ở chi Dần thì người Gia Định cũng sinh ra từ đấy, nguyên trong ấy không có việc riêng sinh, riêng dưỡng, riêng che, riêng chở gì. Còn như cương thường, thân thể, ăn uống, nói năng, hành động thì người thời ấy cũng bẩm thụ thiên tính như người đời nay.


Nếu có khác là khác về ăn mặc, vật dụng, xưng hô, tên gọi, ấy là theo tập tục của người, tùy vào cái văn chất của từng thời mà biến chuyển, ấy là lý đương nhiên thông thường. Kỳ thật người thời ấy {2a} không biết mình sẽ làm gì, khi đi không biết mình sẽ đi đâu, cả đời cho đến chết không biết qua lại với nhau, trong lúc trời đất thì mênh mông, núi sông lại hiểm trở mà kiến thức con người thì có hạn, ví như kẻ nhìn biển dừng chân bên bờ, ráng hết sức phóng mắt trông ra khơi, chỉ thấy lai láng mịt mù, mặt biển tiếp với chân trời, khựng lại không tiến lên nữa, rồi lấy chỗ mình thấy làm nơi tận cùng của trời đất, thế thì lời nói đó đâu phải do sự thấy, sự biết một cách rõ ràng? Cho nên thời vua Thần Nông, đất phía nam chỉ đến Giao Chỉ ([6][6]), thời Hoàng Đế đến sông Trường Giang ([7][7]), Ngũ đế sắp xếp lại việc hóa dục phương Nam ([8][8]), Hạ Vũ tuần thú phương Nam, cho hội chư hầu ở Đồ Sơn ([9][9]) (Trung Quốc), ấy là căn cứ vào nơi đã có thanh giáo và dấu tích bước chân đến đâu thì ghi chép vào sách vở đến đấy mà thôi.


Ngoài ra thế nào tất phải đợi đến người đời sau chứ chưa truy cứu đến cùng được. Do đó xứ Gia Định của nước Việt ta [2b] cũng đại để như vậy. Nếu không phải như vậy thì tại sao đường đường một khu vực lớn chỉ cách tỉnh Hà Nam ([10][10]) (Trung Quốc) là nơi kinh đô của các đế vương xưa có 13.189 dặm, mà đất ấy (Gia Định) lại tiếp giáp bốn biển, các nước đều đã giao thông, các nước nhỏ bé xa xôi không làm sao so sánh nổi, vậy mà từ năm Giáp Thìn đời Đế Nghiêu đến năm Nhâm Tuất niên hiệu Gia Khánh thứ bảy đời Thanh, trải qua 4.164 năm ([11][11]) mà sách vở Trung Quốc chưa từng chép đến? Mãi cho đến năm Gia Khánh ấy khi nước ta bắt đầu có lệ triều cống thì tên Nông Nại (Gia Định tục gọi là Đồng Nai, người Thanh gọi Gia Định là Nông Nại) mới được nêu rõ nơi Sử quán.


Ấy là một đoạn thiếu sót lớn của sách vở xưa vậy. Lại đơn cử thêm một chuyện na ná nữa để nói, như phía bắc Trung Hoa có Mông Cổ ([12][12]), Mãn Châu ([13][13]), phía tây có Tây Dương ([14][14]) Thổ Lỗ ([15][15]), phía đông [3a] có Lưu Cầu ([16][16]), Lữ Tống ([17][17]); những nước ấy đất đai lớn thì hơn vạn dặm, nhỏ thì cũng không dưới vài ngàn dặm, đều có các nước phụ dung lệ thuộc la liệt như sao, sách vở đời sau luôn nêu rõ mồn một trước tai mắt mọi người, vậy chớ nên vì sách vở xưa không ghi chép mà xem thường bỏ ra ngoài. Đó là kẻ thư sinh chỉ theo lời vô căn cứ nhét vào tai chớ chẳng phải là sự học sâu rộng như biển của bậc sư Nho được in đậm trong tâm. Nhưng thời đại cách xa nhau, sự nghiệp lại khác nhau, việc thắt nút dây ([18][18]) để ghi nhớ sự kiện sẽ không ghi chép được xa, chỉ chép được việc gần, chỉ nghị luận mà không sáng tác được, vì thế mà chẳng lạ gì sách Ngoại kỷ của Lưu Đạo Nguyên chỉ nhặt nhạnh toàn những việc kỳ quái.


Nay chỉ lấy những gì cốt yếu, có thật để khảo chứng mà ghi chép lại, chẳng những đấy là lý đương nhiên mà còn là việc chẳng làm khác đi được. Gia Định [3b] xưa nguyên là đất của Chân Lạp (Chenla) ([19][19]) (nay là nước Cao Miên, phân ra làm Thủy Chân Lạp và Lục Chân Lạp). Đây là vùng đất đai màu mỡ, địa lợi có đủ ruộng đồng, đầm phá, sông, biển; muối, lúa, đậu rất nhiều. Các tiên hoàng liệt thánh triều ta chưa rảnh để mưu tính việc xa nên tạm để đất này cho Cao Miên ở, đời đời xưng là Nam Phiên, lo việc triều cống không bao giờ dứt. Tháng 9 mùa thu năm thứ 11 Mậu Tuất (1658) (Lê Thần Tông niên hiệu Vĩnh Thọ năm đầu, Minh Vĩnh Lịch thứ 12, Đại Thanh Thuận Trị thứ 14) thời Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế (Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần) vua Cao Miên là Nặc Ong Chăn ([20][20]) xâm phạm biên giới (Người Cao Miên không có họ, con cháu nhà vua đều xưng là Nặc Ong, Chăn là tên, khi đặt tên thì thích dùng chữ hay, ông cháu cùng tên mà không kiêng, nước ta gửi thư xuống thì xưng là Cao Miên Quốc vương Nặc Ong Mỗ, ấy là lấy tên của vị vương tử mới được phong mà gọi.


Lại như vương tước của nước ấy thì dùng đến 11, 12 chữ cho đến 23, 24 chữ tùy theo cách gọi chứ không có định lệ). Khâm mệnh dinh Trấn Biên (thời mới khai thác thì những chỗ đầu biên giới gọi là Trấn Biên, ở đây tức Phú Yên ngày nay), Phó tướng quân Yến Vũ {4a} hầu, Tham mưu Minh Lộc hầu, Tiên phong Cai đội Xuân Thắng hầu đem 3 ngàn quân đi trong 2 tuần đến thành Mô Xoài ([21][21]) của nước Cao Miên, phá thành và bắt vua Nặc Ong Chăn giải về Quảng Bình là nơi hành tại ([22][22]). Vua ra dụ xá tội cho, rồi phong làm Cao Miên quốc vương, luôn phải giữ đạo phiên thần, thường xuyên phải triều cống, không được xâm lấn cư dân ở ngoài biên, rồi sai quan binh hộ tống cho về nước ([23][23]). Lúc ấy địa đầu của Gia Định là Mô Xoài và Đồng Nai (nay là trấn Biên Hòa) tại hai xứ ấy đã có dân của nước ta đến cùng với dân Cao Miên khai khẩn ruộng đất. Người Cao Miên rất khâm phục uy đức của triều đình, họ đem nhượng đất ấy rồi kéo nhau tránh đi nơi khác, chẳng dám tranh chấp điều gì. Tháng 2 mùa xuân năm thứ 27, Giáp Dần (1674) (Lê Gia Tông, niên hiệu Đức Nguyên năm đầu, Đại Thanh Khang Hy thứ 13) [4b], Nặc Đài (Neac Ang Dai) nước Cao Miên ([24][24]) (sách Nam Việt chí của Nguyễn Bảng Trung chép là Nặc Ô Đài, sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn chép là Nặc Đài) đánh đuổi vua nước ấy là Nặc Ong Non; Nặc Ong Non chạy sang ta tránh, vua sai tướng Dương Lâm hầu ở dinh Thái Khang (nay là trấn Bình Hòa) làm Thống suất, Tham mưu Diên Phái hầu làm Hiệp lý biên vụ, đưa quân tiến đánh.



Mùa hạ tháng 4 phá được ba lũy: Sài Côn (nay là đất trấn Phiên An), Gò Vách và Nam Vang, Nặc Đài thua chạy rồi chết. Nặc Thu xin lạy hàng (Theo sử nước Cao Miên, ngôi vương có 3 cấp: Chính vương, Nhị vương và Tam vương. Thời Nặc Sô (Neac Sor) làm Chính vương, em là Nặc Tân làm Nhị vương, con trưởng của Nặc Sô là Nặc Xá Phủ Tâm không được làm vua, y bèn giết cha rồi tự lập ngôi. Nặc Tân cùng con người em [5a] là Nặc Non (Neac Ang Non) chạy sang nước ta. Sau đó Nặc Xá Phủ Tâm bị vợ giết chết, con là Nặc Chi (Neac Ang Chei) kế vị. Năm Giáp Dần niên hiệu Thiên Vận ([25][25]) (1594), quan quân tiến đánh, Nặc Chi bỏ chạy rồi chết, quan quân đưa Tân và Non về nước, con thứ của Nặc Sô là Nặc Su xin hàng, Nặc Tân thì chết vì bệnh, triều đình cho lập Nặc Su làm Chính quốc vương, Nặc Non làm Nhị quốc vương, chia nhau mà cai trị.

Như vậy tên gọi không giống Nặc Đài mà sự tích cũng hơi khác, nghi rằng hai chữ Su và Thu do tiếng nước ta vốn gần nhau nên có sự nhầm lẫn chăng). Tháng 6 mùa hạ được tiệp báo ([26][26]), triều đình nghị sự chuẩn cho Nặc Thu là nhánh đích được làm Cao Miên Chính quốc vương, đóng dinh ở thành Vũng Luông; Nặc Non làm Phó quốc vương, đóng dinh ở thành Sài Côn, giữ lệ triều cống như cũ. Lại còn gia phong cho Dương Lâm hầu làm Trấn thủ dinh Thái Khang (Khánh Hòa) lo việc phòng ngự ngoài biên. [5b]

Tháng 4 mùa hạ năm thứ 32, Kỷ Mùi (1679) (Lê Hy Tông niên hiệu Vĩnh Trị thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 18), quan Tổng binh thủy lục trấn thủ các xứ ở Long Môn thuộc Quảng Đông nước Đại Minh là Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tấn, quan Tổng binh trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm là Trần Thắng Tài, Phó tướng Trần An Bình dẫn quân và gia nhân hơn 3000 người cùng chiến thuyền hơn 50 chiếc xin được vào Kinh bằng hai cửa Tư Dung và Đà Nẵng (nay là cửa Hàn thuộc Quảng Nam). Sớ tâu lên rằng số người này tự xưng là người nhà Minh bỏ trốn đi, họ thề quyết tận trung với nước, nhưng nay đã thế cùng lực tận, vận nhà Minh đã dứt, họ không thể thần phục triều Thanh nên chạy sang nước Nam nguyện được làm dân mọn.

Lúc ấy ở Bắc Hà đang có biến, vả lại họ ở xa mới đến, hư thực chưa hay, lại y phục ngôn ngữ bất đồng, nhất thời thật khó giải quyết ngay. Nhưng họ đang cùng quẫn mà chạy sang, lại tỏ bày lòng trung thực, về nghĩa cũng không thể từ chối được [6a]; vả lại xứ Đông Phố ([27][27]) (một tên khác của đất Gia Định xưa) của nước Cao Miên, đất đai màu mỡ có đến ngàn dặm, triều đình chưa rỗi để lo liệu, chi bằng tận dụng sức lực của họ, giao cho họ khai hoang đất đai để ở, ấy cũng là một cách làm mà được ba điều lợi.

Nghĩ vậy, triều đình mới tổ chức khao đãi ân cần, chuẩn y cho giữ nguyên chức hàm, phong cho quan tước rồi lệnh cho tới Nông Nại (Đồng Nai) làm ăn, gắng sức khai thác đất đai. Mặt khác, triều đình còn hạ chỉ dụ cho Quốc vương Cao Miên (Thủy Chân Lạp) biết việc ấy để không xảy ra chuyện ngoài ý muốn. Được lệnh, các ông Dương, Trần ([28][28]) vào Kinh tạ ơn rồi phụng chỉ lên đường. Bọn tướng Long Môn họ Dương đem binh thuyền tiến nhanh vào cửa Xoài Rạp [nay gọi là Lôi Lạp (Soi Rạp)] và cửa Đại cửa Tiểu (thuộc trấn Định Tường) dừng trú tại xứ Mỹ Tho (nay là trấn lỵ của Định Tường).

Bọn tướng các xứ Cao, Lôi, Liêm họ Trần thì đem binh thuyền tiến vào cửa Cần Giờ [6b] rồi đồn trú tại xứ Bàn Lân thuộc Đồng Nai (nay là lỵ sở trấn Biên Hòa). Họ lo mở mang đất đai, lập thành phố chợ, giao thông buôn bán. Tàu thuyền người Hoa, người phương Tây, người Nhật, người Đồ Bà (Chà Và), tụ tập tấp nập, phong hóa Trung Quốc dần dần lan ra thấm đượm cả vùng Đông Phổ (Phố). Tháng 6 mùa hạ năm thứ 2, Mậu Thìn (1688) đời Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế (Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 9, Đại Thanh Khang Hy thứ 27), Phó tướng Long Môn là Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, y cầm quân tấn công giết Dương Ngạn Địch rồi dời đến đóng ở xứ Rạch Năn (thuộc huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường), chiếm cứ vùng hiểm yếu, đóng thuyền chiến, đúc thêm súng lớn, không cho thương nhân qua lại, quấy nhiễu cướp bóc người Cao Miên.

Vua Cao Miên là Nặc Ong Thu phải cho đắp lũy đất ở ba xứ Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách, lại kết bè nổi ở sông Cầu Nôm và giăng dây thép [7a] chắn ngang cửa sông để cự thủ. Phó vương Cao Miên là Nặc Non đang đóng giữ Sài Côn vội tâu lên hết mọi chuyện. Tháng 10 mùa đông, triều đình sai Phó tướng dinh Thái Khang là Vạn Long hầu làm Thống suất, Thắng Long hầu và Tân Lễ hầu làm Tả hữu vệ trận, Vị Xuyên hầu làm Tham mưu cầm quân đi chinh phạt Hoàng Tấn, đồng thời ủy cho quyền mưu tính việc mở mang biên cương. Quan quân kéo đến đóng ở Rạch Gầm (thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường) rồi nói thác là đi đánh Nặc Thu, giả bộ ra lịnh cho Hoàng Tấn làm tiên phong, dụ Tấn hội ở giữa sông rồi cho phục binh ụp ra bắt và phá hết đồn trại của hắn.


Hoàng Tấn thoát chạy rồi bị chết. Quan quân chiêu dụ đội quân Long Môn, những kẻ bị Tấn bắt ép phải theo đều được tha thứ. Quan quân thừa thế tiến đánh Nặc Thu, ủy cho tướng Cao Lôi Liêm là Thắng Tài hầu kiêm quản tướng sĩ đội quân Long Môn [7b] làm tiên phong, bắt chước như Vương Tuấn đời Tấn ([29][29]) hồi xưa đốt hết dây thép chắn ngang sông, tiến công chiếm được ba lũy Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách. Nặc Thu rút quân lui về Vũng Luông rồi lập mưu sai nữ sứ giả là Chiêm Luật đến xin hàng và đề nghị quan quân rút lui để họ chuẩn bị lễ vật cống hiến.

Thực ra ấy là mưu kế để họ kịp mộ binh tiếp viện tính việc chống cự. Vạn Long hầu nhẹ dạ tin theo rồi cho lui quân về đóng ở Bến Nghé (nay là chợ Điều Khiển). Đã hơn một năm trôi qua mà Nặc Thu không chịu tiến cống, lúc ấy lại bỗng xảy ra bệnh dịch, quân sĩ nhiều người bị bệnh và chết, các tướng cùng nhau làm tờ tấu đàn hạch Vạn Long hầu về tội chần chừ làm hỏng quân cơ. Mùa đông năm thứ 3 Kỷ Tỵ (1689) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 10, Đại Thanh Khang Hy thứ 28) [8a], triều đình sai Cai đội Hào Lương hầu Nguyễn Hữu Hào ([30][30]) (con của Chiêu Võ hầu Nguyễn Hữu Dật) làm thống suất, Hòa Tín hầu làm Tham mưu, Cai đội Thắng Sơn hầu làm Tiên phong, tuyển lựa tinh binh ở các xứ Phú Yên, Thái Khang và Bình Thuận để tiến đánh Cao Miên, rồi cho bắt trói bọn Vạn Long hầu cùm đưa về kinh sư. Sau đó triều đình miễn chức Vạn Long hầu cho về làm thường dân, giáng Vị Xuyên hầu xuống làm tướng thần thuộc lại.


Tháng ba mùa xuân năm thứ 4 Canh Ngọ (1690) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 11, Đại Thanh Khang Hy thứ 29), Hào Lương hầu đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định. Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, [8b] do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm).

Mùa xuân năm thứ 8, Mậu Dần (1698) thời Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (Quốc chúa Nguyễn Phúc Chu), (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 19, Đại Thanh Khang Hy thứ 37), triều đình sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành hầu họ Nguyễn (Hữu Cảnh) ([31][31]) sang kinh lược đất Cao Miên, ông lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên (lỵ sở nay là thôn Phước Lư), lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn (quận sở nay gần Tân Đồn).

Mỗi dinh lập ra chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để cai trị. Về vệ thuộc thì có hai ty Xá, Lại để làm việc, quân binh thì có tinh binh cơ đội thuyền thủy bộ và thuộc binh để hộ vệ. Ngàn dặm đất đai, dân hơn 4 vạn hộ, chiêu mộ lưu dân từ châu Bố Chính đến lập nghiệp, lập ra thôn xã phường ấp, phân định địa giới, ruộng đất, lập ra tô thuế, xây dựng đinh điền bạ tịch.

Con cháu người Hoa nếu ở Trấn Biên được quy lập thành xã Thanh Hà, còn ở Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương rồi cho phép vào hộ tịch. Mùa thu năm thứ 9, Kỷ Mão (1699) (Lê Hy Tông niên hiệu Chính Hòa thứ 20, Đại Thanh Khang Hy thứ 38), triều đình [9b] tra xét bắt đạo Hoa Lang (tức đạo Thiên Chúa của người Tây Dương), phàm nhân dân ta ai có đạo thì phải bỏ để trở lại làm dân bình thường, lấy nhà tu làm nhà ở, lại còn đốt sách vở của đạo ấy, còn người phương Tây thì buộc họ phải về nước.


Tháng 8 mùa thu năm thứ 18, Mậu Tý (1708) (Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 4, Đại Thanh Khang Hy thứ 47), triều đình phong cho người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông là Mạc Cửu làm Thống binh Hà Tiên. Mùa xuân năm thứ 8, Nhâm Tý (1732) thời Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế (Đĩnh Quốc công Nguyễn Phúc Chú) (Lê Thuần Tông niên hiệu Long Đức năm đầu, Đại Thanh Ung Chính thứ 10), triều đình sai quan Khổn súy ([32][32]) Gia Định phân chia đất ấy để lập ra châu Định Viễn và dinh Long Hồ (lỵ sở nay là thôn An Bình Đông thuộc huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường, tục gọi là dinh Cái Bè). Năm Bính Thìn (1736) (Lê Ý Tông năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Hựu, năm đầu niên hiệu Càn Long nhà Đại Thanh), phong Mạc Thiên Tứ, tự Sĩ Lân, trưởng tử của Mạc Cửu, làm Đô đốc Tông Đức hầu, kế tập cha ([33][33]). [10a]


Tháng 6 mùa hạ năm thứ 12, Bính Thìn (1736) (Lê Ý Tông niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4, Đại Thanh Càn Long thứ 3), triều đình định lại quan chế, cải cách sắc phục, thay đổi phong tục, mọi người đều theo lối mới, tránh cái thô lậu của Bắc hà từ trước tới nay (lúc ấy từ sông Linh Giang (1) thuộc châu Bố Chính trở vào Nam gọi là Nam hà, trở ra Bắc gọi là Bắc hà). Miền Nam từ đây rạng rỡ một vùng y quan văn vật. Mùa đông năm thứ 16, Quý Dậu (1735) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 14, Đại Thanh Càn Long thứ 18), triều đình sai Cai đội Thiện Chánh hầu làm Thống suất, Ký lục Nghi Biểu hầu Nguyễn Cư Trinh (2) làm Tham mưu điều khiển tướng sĩ 5 dinh: Bình Khang (Năm thứ 4 Canh Ngọ đổi Thái Khang làm dinh Bình Khang), Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ (Chức Điều khiển được thiết lập từ đây) [10b] đi kinh lược đất Cao Miên, quan quân đồn trú ở xứ Bến Nghé, lập nên dinh trại, gọi tên là Đồn Dinh (nay là chợ Điều Khiển), rồi lo luyện tập quân sĩ, điều độ lương thảo, tính kế mở mang.


Tháng 6 mùa hạ năm thứ 17, Giáp Tuất (1754) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 15, Đại Thanh Càn Long thứ 19), chia quân Gia Định ra làm hai đạo, Nghi Biểu hầu đem kỳ binh từ sông Bát Đông tiến phát, quân đến đâu địch thua đến đó, rồi đến Tần Lê Bắc ra sông lớn hội cùng chính binh Tiền Giang của Thiện Chính hầu ở đồn Lò Yêm. Bốn phủ Xoài Lạp (Soi Rạp) (những nơi người Bắc Địch sinh sống, chỗ lớn gọi là bộ, nhỏ gọi là lạc, người Xiêm La và Ai Lao thì gọi mường ([34][34]), người Cao Miên thì gọi là sóc. Sóc Xoài Lạp (Soi Rạp) ban đầu ở bờ biển, tức nay là cửa Lôi Lạp (Soi Rạp) thuộc trấn Định Tường.


Vì lúc ấy Cao Miên nhượng đất cho dân ta rồi cả sóc dời [11a] đến xứ Quang Hóa (Trảng Bàng) nay là địa giới trấn Phiên An, tên sóc nay vẫn còn), Tầm Đôn, Cầu Nôm và Nam Vang của Cao Miên đều hàng (sóc lớn cai quản các sóc nhỏ, gọi là phủ và có đặt chức quan An phủ trông coi). Tiếp đó liền sai thuộc tướng Cai đội Chấn Long hầu đến phủ Tầm Phong Tiêm chiêu dụ người Côn Man Thuận Thành (trước gọi là Chiêm Thành, sau đổi lại là Thuận Thành. Tù trưởng bộ lạc ở tại trấn Bình Thuận nhưng cũng có số đông ở đất Cao Miên) để gây thanh thế. Lúc ấy quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên chạy lánh sang phủ Tầm Phong Thu (nay là phủ La Vách) lại gặp trận lụt mùa thu quá lớn, quan quân phải trở về đồn nghỉ ngơi.


Mùa xuân năm thứ 18, Ất Hợi (1755) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 16, Đại Thanh Càn Long thứ 20), đại binh của Thiện Chính hầu đã về trước ở đồn Mỹ Tho, rồi lệnh cho người Côn Man Thuận Thành phải bỏ vùng Ca Khâm [11b], (Kha Khom?) đem hết bộ lạc xe cộ xuống đồn trú ở Bình Thanh (nay là Gò Bắp) ([35][35]), tinh tráng hơn vạn người, khi đến đất Vô Tà Ân liền bị hơn một vạn binh của Cao Miên thừa cơ tập kích, quân Côn Man sức yếu thế cô, liền đem hết xe chất thành lũy và một lòng chống giữ, mặt khác cho quân đi cấp báo. Thiện Chính hầu vì ao đầm ngăn trở nhất thời khó bề cứu viện ngay được, chỉ Nghi Biểu hầu dẫn 5 đội tùy quân đến ứng cứu, quân Cao Miên nghe hơi đã phải rút lui. Nghi Biểu hầu đón hơn 5000 dân Côn Man cả nam lẫn nữ về trú dưới chân núi Bà Đinh (Đen) rồi hạch tấu Thiện Chánh hầu về tội làm hỏng quân cơ, rút quân thiếu kỷ luật, bỏ rơi người mới quy phụ, không cứu viện - để quân giặc bắt đi.


Tấu được dâng lên, triều đình cho tra xét rồi giáng Thiện Chánh hầu xuống làm Cai đội, thu quyền Thống suất, ra lệnh cho Cai đội Du chính hầu Trương Phúc Du làm Thống suất [11a], dùng người Côn Man dẫn đường để tiến đánh Cầu Nôm và Nam Vang và giết được một số Ốc nha. Vua nước ấy quá sợ nên phải chạy sang nương thân vào Đô đốc Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ ở trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ thay lời tâu rằng: Việc ấy do biên tướng Cao Miên là Chiêu trùy Ếch đàn áp người Côn Man, vua nước ấy xin chịu nhận tội. Năm thứ 19, Bính Tý (1756) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 17, Đại Thanh Càn Long thứ 21), Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên xin hiến đất hai phủ Tầm Đôn và Xoài Lạp (Soi Rạp) ([36][36]) để chuộc tội, đồng thời xin cống nạp lễ vật còn thiếu ba năm trước đó. Triều đình trách tội, hạ lệnh phải bắt kẻ cầm đầu cuộc loạn ấy là Chiêu trùy Ếch đóng cũi giải nộp.


Nặc Ong Nguyên gọi Chiêu trùy Ếch bằng cậu, vốn tình thân ái mà việc tập kích ấy y ta cũng có dự mưu nên nói dối rằng đã đưa Chiêu trùy Ếch ra xử tội rồi. Triều đình biết Nguyên [12b] không tâu thật, nhưng tạm không vặn hỏi đến cùng, rồi sai phải bắt giải vợ con của Chiêu trùy Ếch đến, Nặc Ong Nguyên lại nói thác rằng chúng hiện còn trốn tránh. Lúc ấy Nghi Biểu hầu tâu xin chuẩn cho lời chuộc tội của Nguyên, và xin lấy đất hai phủ nầy nhập vào châu Định Viễn ([37][37]) để được toàn vẹn một vùng. Triều đình chuẩn y. Năm thứ 20, Đinh Sửu (1757) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 18, Đại Thanh Càn Long thứ 22), Quốc vương Cao Miên là Nặc Ong Nguyên mất, người chú họ là Nặc Ong Nhuận thay quyền coi việc nước, Khổn thần ([38][38])


Gia Định tâu rằng nhân đấy mà lập cho luôn thể để tỏ rõ ân ý mà cũng để biên thùy thêm bền vững. Vua xuống chiếu rằng phải hiến thêm đất đai hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc ([39][39]) mới chuẩn cho lập ngôi. Gặp lúc ấy rể của Nặc Ong Nhuận là Nặc Hinh cướp ngôi, giết Nặc Ong Nhuận, con của Nhuận là Nặc Ong Ton chạy [13a] qua Hà Tiên, Du Chính hầu thừa thế tiến đánh, Hinh chạy đến Tầm Phong Xoài rồi bị phiên liêu là Ốc nha Uông giết chết. Lúc ấy Mạc Thiên Tứ vì Nặc Ong Ton mà dâng tấu, vua sắc phong cho Nặc Ong Ton làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Mạc Thiên Tứ cùng binh tướng 5 dinh đưa Nặc Ong Ton về nước nhưng buộc phải hiến thêm đất Tầm Phong Long ([40][40]).


Quan quân khải hoàn về Gia Định, sau đó Du Chính hầu và Nghi Biểu hầu dâng tấu xin dời dinh Long Hồ qua xứ Tầm Bao ([41][41]) (tức địa phận thôn Long Hồ ngày nay). Lại lấy xứ Sa Đéc đặt thành đạo Đông Khẩu, xứ Cù Lao Giêng ([42][42]) (tục gọi cồn cát giữa sông là cù lao) ở Tiền Giang đặt làm đạo Tân Châu, xứ Châu Đốc ở Hậu Giang làm đạo Châu Đốc, rồi lấy binh dinh Long Hồ đến gìn giữ nơi địa đầu trọng yếu ấy [13b]. Lúc ấy, Nặc Ong Ton lại đem đất 5 phủ là Vũng Thơm, Cần Bột, Chân Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh biếu Mạc Thiên Tứ để đền ơn đã bảo toàn cho. Thiên Tứ đặt xứ Rạch Giá ([43][43]) làm đạo Kiên Giang, Cà Mau làm đạo Long Xuyên, lại đặt quan trông coi, chiêu mộ cư dân lập nên thôn ấp, do đó mà đất đai xứ Hà Tiên mới rộng lớn ra.


Năm Kỷ Hợi, Thế Tổ Cao hoàng đế năm thứ 2 (1779) (Lê Hiển Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40, Đại Thanh Càn Long thứ 44, ngụy Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc niên hiệu Thái Đức thứ 2), vua lệnh vẽ địa đồ phân chia thêm bớt địa giới 3 dinh Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ cho được liền nhau. Lại lấy yếu địa 3 dinh tọa lạc ở xứ Mỹ Tho lập thành dinh Trường Đồn, đặt lỵ sở ở giồng Cai Yến. [14a] Đất Nông Nại xưa vốn nhiều đầm ao rừng rú, buổi đầu mới lập ra 3 dinh, mộ dân đến lập nghiệp, phép tắc hãy còn khoan dung giản dị.


Có khi đất ở hạt Phiên Trấn mà lập thuế ở hạt Trấn Biên, và ngược lại đất ở hạt Trấn Biên mà trưng thuế ở Phiên Trấn ấy là tùy theo lòng dân, không hề ràng buộc, cốt sao khiến dân khai hoang mở đất cho thành ruộng, lập nên thôn xã mà thôi. Nhiều nơi là đất bùn cỏ mà trưng làm ruộng đóng thuế, hoặc ruộng núi nơi đất gò đống mà trưng làm ruộng cỏ, chuyện đó có thường thôi. Đến như sào, mẫu, khoảng (khoảnh), sở, cũng chỉ dựa vào lời khai mà biên vào sổ bộ chứ không đặt thước xuống đo và phân biệt tốt xấu, còn thuế nhiều hay ít, đấu hộc to hay nhỏ cũng tùy vào lệ cũ từng nơi để phỏng theo mà làm [14b] không giống nhau. Đến lúc này mới châm chước để làm cho đúng, nhưng nếu so với các dinh trấn ở Bắc thì phép tắc ở Gia Định còn rất khoan dung mà thuế lệ cũng còn nhẹ. Năm thứ 21, Canh Thân (1800) (Ngụy Tây Sơn Nguyễn Quang Toản niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8, Đại Thanh Gia Khánh thứ 5), đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định. Ngày 17 tháng 6 mùa hạ năm Ất Sửu (1805), niên hiệu Gia Long thứ 4 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 10), vua sai 5 dinh trấn của Gia Định là Phiên Trấn, Trấn Biên, Vĩnh Trấn, Trấn Định, và Hà Tiên phải kê khảo đầy đủ về sự tích, cương vực và thổ sản trong địa hạt, cùng với đường sá xa gần, núi sông chỗ nào bình thường, chỗ nào hiểm yếu, vẽ thành bản đồ, chép thành biên bản, ghi chú rõ ràng để làm thành trình lục. [15a]


Tháng 7 mùa thu năm Đinh Mão (1807), niên hiệu Gia Long thứ 6 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 12). Nước Cao Miên sai sứ là là Ốc nha Bôn Lịch và Ốc nha Lịch Gia Phủ Phủ Rách dâng biểu đến kinh đô Phú Xuân để xin phong vương. Theo sử Cao Miên, năm Đinh Sửu (1757), Nặc Ong Ton làm vua nước Cao Miên, Nặc Ong Non chạy sang đầu Xiêm La. Năm Kỷ Sửu (1769), vua Xiêm là Phi nhã Tân sai binh đưa Nặc Ong Non về đánh lấy lại Cao Miên nhưng việc không thành, bèn đến phủ Lò Gò Vật đánh cướp rồi trở lui. Năm Tân Mão (1771), quân Xiêm sang tập kích phủ Nam Vang bắt mất dân hơn vạn người, lại gặp lúc đang xảy ra đại dịch bịnh nên xứ này bị tổn thất rất nặng.


Năm Ất Mùi (1775), Nặc Ong Ton nhường ngôi cho người em là Nặc Ong Vinh làm Chính vương còn Nặc Ong Ton xuống làm Nhị vương [15b], Nặc Ong Thâm làm Tam vương. Năm Bính Thân (1766), Nặc Ong Vinh không giữ phận thần chức nên Tiết chế Tuấn Quận công phải đem quân chinh phạt. Năm Đinh Dậu (1777), Cao Miên có nội biến, Nặc Ong Thâm bị giết, Nặc Ong Ton vì uất ức rồi lâm bệnh mà chết. Năm Mậu Tuất (1778), vua Xiêm là Phi nhã Tân sai Phi nhã Chất Tri ([44][44]) và Phi nhã Sô Sĩ đem một vạn binh Xiêm và mượn thêm một vạn binh Cao Miên phân làm hai đạo thủy lục, lấy đường Cao Miên để tấn công Xương Tỉnh, Lao Khổng và Ba Thắc rồi tiến thẳng đến Viên Chăn - Lào, tất cả các nơi đều hàng phục.


Lúc ấy, Cao Miên phải chuyên chở lương hướng làm nước nghèo, dân đều xiêu tán. Năm Kỷ Hợi (1779), Nặc Ong Vinh trị nước thất chính lịnh, ([45][45]) anh em Chiêu trùy Mô chiếm phủ Phong Xoài, Vị Bôn Sưu chiếm phủ La Vách rồi xin binh Gia Định đánh giết chết Nặc Ong Vinh và lập con của Nặc Ong Ton là Nặc Ong [16a] In lên làm vua. In mới vừa 8 tuổi nên phải dùng Chiêu trùy Mô làm phụ chính. Năm Tân Sửu (1781), vua Xiêm là Phi nhã Tân chia quân làm 3 đạo, sai con là Chiêu Nỗi đánh phủ La Vách, Phi nhã Chất Tri đánh phủ Lò Gò Vật, Phi nhã Sô Sĩ đánh lộ Phong Xoài. Cao Miên xin viện binh, triều đình sai quan Điều khiển Thoại Ngọc hầu đi cứu viện. Tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Dần (1782), Thoại Ngọc hầu cùng tướng Xiêm giảng hòa rồi cùng phân địa giới nước Xiêm La, Chân Lạp, xong thì đem quân trở về. Năm Quý Mão (1783), cựu thần của Nặc Ong Vinh là Ốc nha Nhum Rạch Bèn từ nước Xiêm trở về giết Chiêu trùy Mô và Tham Đích Sưu, Nhum Rạch Bèn còn tự xưng là Chiêu trùy ([46][46]).


Năm ấy có người Đồ Bà là Toàn Sét Cháu Voi Vuốt khởi loạn, Nặc Ong In và Chiêu trùy Bèn chạy sang Xiêm La, vua Xiêm thấy Nặc Ong In đang tuổi nhỏ, chưa thể kham được việc lớn nên lưu lại nuôi ở Xiêm rồi sai Chiêu [16b] trùy Bèn giữ chức A phi phù biệt trấn thủ đất Cao Miên. Năm Giáp Dần (1794), Chiêu trùy Luyện giết được Toàn Sét, viện binh của Xiêm La quét sạch luôn bè đảng quân Đồ Bà. Năm Ất Tỵ, (1785) ngụy Đô úy Trấn của Tây Sơn đánh cướp phủ Nam Vang ([47][47]). Ngày 27 tháng 5 năm Giáp Dần (1794), quân Xiêm đưa Nặc Ong In về nước khôi phục lại ngôi vua, Chiêu trùy phụ chính, còn quan Phù biệt Bèn về trấn Bắc Tầm Bôn ([48][48]).


Năm Bính Thìn (1796), Nặc Ong In chết, con là Nặc Ong Chăn kế vị. Nước Cao Miên vốn là phiên thần của ta từ rất nhiều đời, họ luôn giữ trọn chức phận chưa hề thất lễ, nhưng từ khi nước ta gặp vận suy vi nửa chừng, Tây Sơn gây rối, nước Cao Miên gặp rất nhiều khó khăn mà ta chưa rảnh rang để cứu giúp. Năm Tân Dậu (1801), quan quân lấy lại đất thần kinh, năm Nhâm Tuất (1802), dẹp hết loạn lạc, đến năm này Nặc Ong [17a} Chăn sai sứ đến xin được kế ngôi. Ngày 2 tháng 9 mùa thu, vua phong cho Nặc Ong Chăn làm Quốc vương Cao Miên rồi sai Hữu tham tri bộ Binh là Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhơn Tĩnh, Ký lục dinh Vĩnh Trấn là Đàn Ngọc hầu Trần Công Đàn làm Chánh phó sứ mang sắc phong và ấn mạ vàng có núm hình lạc đà đến nước Cao Miên, làm lễ sách phong, rồi định ra lệ cống, lấy năm Đinh Mão (1807) làm đầu, sau đó cứ 3 năm một lần, vào các năm Tỵ, Thân, Hợi, Dần, thì dâng cống. Vật cống gồm: 2 thớt voi đực (mỗi con cao trên 5 thước ta), 2 sừng tê, 2 ngà voi, 50 cân đậu khấu, (từ đây trở xuống mỗi thứ thêm 5 cân) 50 cân sa nhân, 50 cân sáp vàng, 50 cân tử ngạnh, 50 cân trần hoàng, 20 vò ô tất.


Sứ bộ gồm một Chánh sứ, 1 Phó sứ, 2 thông ngôn, 6 tùy tùng, cộng [17b] lại là 10 người. Đến kỳ dâng biểu và vật cống, vào tháng 4 đoàn sứ phải đến thành Gia Định để trình kiểm phẩm vật, sau khi được xem xét xong thì ủy cho người dẫn theo đường trạm hộ tống đến kinh để nộp, còn những việc cung đốn khoản đãi thì đã có cơ quan bộ Lễ cứ theo lệ mà làm. Ngày 12 tháng Giêng mùa xuân năm Mậu Thìn (1808), niên hiệu Gia Long thứ 7 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 13), đổi trấn Gia Định ra thành Gia Định, rồi lệnh cho Khâm sai chưởng Chấn võ quân là Nhơn Quận công Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng trấn và Khâm sai Thượng thư bộ Hộ [thần] đây là An Toàn hầu Trịnh Hoài Đức làm Hiệp tổng trấn (Phó tổng trấn), đồng thời ban cho ấn bạc có núm hình sư tử và được dùng mực son. Trấn thành đóng tại huyện Bình Dương thuộc phủ Tân Bình [18a]. Ngày mùng 4 tháng 10 mùa đông năm Canh Ngọ (1810), niên hiệu Gia Long thứ 9 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 15), vua hạ chiếu sai Tả dinh Đô thống chế Thần sách quân là Phong Đăng hầu Lê Văn Phong và Ký lục trấn Định Tường là Minh Đức hầu Bùi Văn Minh lãnh 3000 quân và thuyền chiến đến trấn đóng ở vùng Tân Châu để canh phòng biên ải.


Trước đó, vua Xiêm đưa em của Nặc Ong Chăn là Nặc Ong Nguyên, Nặc Ong Yêm và Nặc Ong Đuông ([49][49]) về Cao Miên rồi lệnh cho Nặc Ong Chăn phải chia đất ấy ra cho Nguyên làm Nhị vương và Yêm làm Tam vương. Nặc Ong Chăn còn chưa chịu thi hành thì vừa gặp lúc tháng 8 niên hiệu Gia Long thứ 8 (1809), vua Xiêm gửi trát nói rằng Xiêm La đang cùng Miến Điện (tục gọi là Ô Đỗ hoặc là Phù Ma) ([50][50]) đánh nhau ở vùng Xa Lãng, một địa [18b] phương trên đất Xiêm, nên phải kêu gọi một vạn binh Cao Miên, nhưng phải có đủ 3000 binh đi trước theo đường biển đến thành Vọng Các (tên cũ của thành vua Xiêm là Mang Cóc, Vọng Các là tên do nước ta gọi) để chờ lệnh sai khiến. Nhưng số lính chưa kịp xuất phát thì vào ngày 13 tháng ấy, Ốc nha Cao la hâm Mang ([51][51]) và Ốc nha Ca tri ([52][52]) Bèn (hai người này vốn phụng mệnh vua Xiêm làm phụ thần cho vua Cao Miên) mưu làm phản, chúng bị Nặc Ong Chăn giết, đồ đảng là Đê Đô Minh chống lại và chiếm lấy phủ Phong Xoài.


Quan A phi phù biệt ([53][53]) Bèn lo đắp đồn Tầm Bôn có ý muốn hại Nặc Ong Chăn, do đó việc canh phòng biên ải xa nói trên là một cách gây thanh thế để giúp đỡ Cao Miên vậy. Ngày mùng 8 tháng 11 mùa đông, vua ra chiếu cho Khâm sai Tổng trấn Chưởng Chấn võ quân Nhơn Quận công ([54][54]) đích thân đem đại binh [19a] đi kinh lược Cao Miên để gây thế bảo hộ cho nước ấy. Lúc ấy tướng Xiêm là Phi nhã Rồng Mang, Phi nhã Na Trật và Phi nhã Ba Lạc Ân Gò Rạch đem đại binh đến đóng ở Bắc Tầm Bôn. Nặc Ong Chăn xin binh bảo hộ.


Ngày mùng 7 tháng 12, Nhơn Quận công tiến quân đến dinh La Vách (chỗ ở của Quốc vương Cao Miên) để trù tính việc ngoài biên, quân Xiêm thấy thế nên đóng yên không dám khinh động. Ngày 14 tháng Giêng niên hiệu Gia Long thứ 10 (1811), Nhơn Quận công đem quân về thành Gia Định. Ngày 16 tháng 12 mùa đông năm Tân Mùi (1811), niên hiệu Gia Long thứ 10 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 16), Nặc Ong Nguyên đang đêm trốn qua trú ẩn ở phủ Phủ Lật, phần nhiều các tội thần của Cao Miên đang ẩn trốn đều theo về với y. Nặc Ong Chăn sai bọn Rạch Y Giá Thiên lần lượt đến đón, Nặc Ong Nguyên chống lệnh, lại còn bắt giữ bọn Thiên [19b], mặt khác lo sửa sang binh bị và cho đòi lại đất 3 phủ Ca Gò, Phủ Trông ([55][55]) và Phủ Trong. Nặc Ong Chăn rất lo sợ bèn đem việc ấy khai báo.


Thành Gia Định ủy cho trấn thủ Định Tường là Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại đem 500 (?) quân đến dinh La Vách giả vờ đốn gỗ, thực ra đó là kế sách bảo hộ Cao Miên. Lúc ấy vua Xiêm sai thêm Phi nhã Nhum Ba Lạc làm Đại tướng quản lĩnh binh tướng của bọn Phi nhã Thái Nam đem quân tiếp đến Bắc Tầm Bôn, khí thế rất hung hăng. Ngày 24 tháng 3 mùa xuân năm Nhâm Thân (1812), niên hiệu Gia Long thứ 11 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 17), tướng Xiêm Phi nhã Nhum ([56][56]) Ba Lạc chia quân ra làm 2 đạo thủy lục tiến thẳng đến dinh La Vách, Thoại Ngọc hầu đem quân binh ngăn lại khiến chúng không dám xâm phạm.


Ngày 28, Nặc Ong Chăn [20a] đưa môn quyến xuống thuyền rồi giục bọn bề tôi chạy xuống đạo Tân Châu, em của Nặc Ong Chăn là Nặc Ong Yêm và Nặc Ong Đuông thì trước đêm 29 đã đầu hàng quân Xiêm, gặp lúc ấy viện binh của Gia Định vừa đến, hộ tống đưa Nặc Ong Chăn về thành (Tân Châu). Thoại Ngọc hầu thống quản đồn Oai Viễn, còn Dung Ngọc hầu Nguyễn Văn Dung thì đóng ở xứ Lò Yêm, trấn thủ Vĩnh Thanh là Tường Quang hầu Lưu Phước Tường đóng ở đạo Châu Đốc để gìn giữ nơi địa đầu. Quân Xiêm đóng tạm tại Vũng Long, niêm phong kho tàng, sửa sang thành lũy, không có ý tiến quân. Ngày 15 tháng 4, quan quân bố trí Nặc Ong Chăn ở tại một ngôi dinh thự bên bờ sông cái cạnh phía đông thành (Tân Châu), còn bọn tùy tùng như bề tôi, binh lính, trai gái lớn nhỏ đều được cấp tiền gạo đầy đủ. [20b]


Ngày 15 tháng Giêng mùa xuân năm Quý Dậu (1813), niên hiệu Gia Long thứ 12 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 18), nước Xiêm sai sứ là Phi nhã A Ha Mặc và Phi nhã Lạc Đô Tha Sá Thông Sừ đến thành Gia Định trình quốc thư rồi theo đường trạm đến kinh đô bái kiến. Đại để trong thư viết: Nặc Ong Chăn với Nặc Ong Nguyên vốn tình thân anh em ruột thịt nhưng họ đã không có lòng hiếu hữu. Khi Nặc Ong Nguyên chạy trốn qua phủ Phủ Lật để chỉ xây dựng kế phòng thân, thì Nặc Ong Chăn lại cho quân truy nã rất gắt, gây thành cuộc đánh giết lẫn nhau.


Chỉ vì sợ tổn thương tình máu mủ mà lại phụ nghĩa vun bồi của hai nước (Xiêm - Việt) mình, nên nước chúng tôi mới sai trọng thần thân tín đến nơi để hòa giải, ngờ đâu Nặc Ong Chăn bỏ nước mà đi, đành phải niêm phong kho tàng, sửa sang thành lũy để đợi y trở về. [21a] Ngày 15 tháng 2, vua hạ chiếu cho Tổng trấn thành Gia Định là Chưởng Tả quân Bình Tây tướng quân Duyệt Quận công Lê Văn Duyệt và Hiệp tổng trấn Thượng thư bộ Công là Tĩnh Viễn hầu Ngô Nhơn Tĩnh rằng: Trong thư của vua Xiêm, lý tình rất thuận hòa đôn hậu, các khanh nên sửa soạn thuyền bè binh bị để cùng sứ nước Xiêm đưa Nặc Ong Chăn về nước.


Ngày mồng 3 tháng 4, Duyệt Quận công và Tĩnh Viễn hầu thống lãnh thuyền chiến và 13.000 quân cùng với sứ nước Xiêm là bọn Phi nhã A Ha Mặc hộ tống Nặc Ong Chăn lên đường. Vua cấp cho tiền đi đường là 5.000 quan, ban lúa kho là 20.000 phương và bạc thỏi trị giá 10.000 quan để chi dùng. Ngày 14, quan quân đến dinh La Vách cùng hội kiến với các tướng Xiêm là Phi nhã Phì Sai Phủ Liên Tra và Phi nhã Phì Phạt Phạt Cô Sả để sửa sang sắp đặt mọi việc. [21b] Ngày 18 tháng 7, quân ta đắp xong thành Nam Vang rồi rước Quốc vương đến ở, tướng nước Xiêm bàn giao kho tàng thành lũy xong rồi triệt binh về nước. Các em của Quốc vương là Nguyên, Yêm và Đuông thì đã ngầm trốn sang Xiêm La từ trước.


Tháng 8, giao Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu cùng 1.500 quân ở lại để bảo hộ nước Cao Miên. Ngày 16, Duyệt Quận công và Tĩnh Viễn hầu dẫn toàn quân khải hoàn. Vậy là nhờ vào oai phúc của triều đình mà Xiêm La phải kính phục, từ đó tình giao hảo láng giềng càng tốt đẹp, nước Cao Miên cũng do đó mà được yên ổn. Ngày 26 tháng 8, dựng đài An Biên ở xứ Ngỗi Tràng Oa, trên đài dựng nhà Nhu Viễn, đến những ngày lễ như Tết, Trừ tịch, Đoan dương, Vạn thọ, ngày rằm mồng một thì vua tôi nước ấy đến trước tiền đường chiếu theo nghi thức để làm lễ vọng bái. Ngày 25 tháng 9, vua ban dụ cho Chưởng cơ Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại và Tham tri bộ Binh là Đàn Ngọc hầu Trần Văn Đàn đóng quân giữ thành Nam Vang để bảo vệ cho nước Cao Miên.


Ngày mùng 5 tháng 10, đồn Lò Yêm được xây xong, lấy đó làm nơi chứa tiền và lương thực cho các súc. Ngày mùng 2 tháng 12, vua ban triều phục cho Nặc Ong Chăn như khăn bịt đầu nạm vàng, áo mãng bào màu hồng và đai lưng có đính ngọc. Ngày mùng 6 tháng 7, mùa thu năm Bính Tý (1816), niên hiệu Gia Long thứ 15 (Đại Thanh Gia Khánh thứ 21), vua ban quan phục cho các quan văn võ nước Cao Miên. Từ đó y phục, đồ dùng của quan dân nước Cao Miên đều bắt chước theo phong tục Tàu ([57][57]), các man tục như mặc áo xỏ qua đầu, dùng vải vận làm quần (xà rong), quì dài mà lạy, bốc cơm ăn đều đổi bỏ cả. [22b]

CƯƠNG VỰC CỦA TOÀN THÀNH Gia Định là đất Chân Lạp xưa, phía đông nam giáp với biển, có tất cả 17 hải cảng lớn, đó là: Xích Ram, Tắc Ký, Cần Giờ, Đồng Tranh, Lôi Lạp (Soi Rạp), Cửa Đại, Cửa Tiểu, Ba Lai, Băng Côn (Cung), Ngao Châu, Cổ Chiên, Ba Thắc, Mỹ Thanh, Hào Bàn (Gành Hàu), Long Xuyên, Kiên Giang và Hà Tiên, còn các cửa nhỏ thì nhiều gấp đôi.


Tuy vậy các cửa này do bùn cát nên khi mở khi lấp, khi cạn khi sâu, dời đổi bất thường. Ở đây sông ngòi lại chằng chịt như mắc cửi, nếu không phải là thổ nhân quen thuộc thì ắt bị lạc hố, lộn bờ. Duy cảng Cần Giờ phía đông Nam có núi Thát Sơn (tục gọi là núi Gành Rái) che quanh ở ngoài, Thuyền Úc (tục gọi là Vũng Tàu) là vũng lớn ở trong, lòng cảng vừa sâu vừa rộng, bốn mùa tám hướng gió đều yên ổn, không lo nạn cát ẩn và đá ngầm cũng như sóng to gió cả, [23a] các nước đều khen đây là một hải cảng tốt bậc nhất. Phía ngoài biển của núi Thát Sơn có chỗ giới hạn nước quợn tụ, gọi là hải chẩn ([58][58]) (tục gọi là giáp nước), lúc mùa gió nam thì giáp nước dời sang bắc, lúc mùa gió bắc thì giáp nước dời vào nam, thuyền bè đi lại từng biết giới hạn ấy thì sẽ tránh trước, khỏi gặp tai nạn. Phía tây bắc giáp với vùng sơn man Cao Miên, phía tây từ Lào đến phủ Sơn Bô của Cao Miên toàn núi non trồi hụp, xuyên qua ruộng đồng eo đất, chạy ven Đại Giang của Cao Miên (tục gọi Sông Lớn) từ xa mà đến, rồi giữa đất bằng bỗng nổi lên ngọn núi Bà Đinh (Đen), chằm ao giăng ngang, cỏ tạp bùn sâu, đường lát bằng cây cũng không đi được.


Từ đó mà chuyển qua phía bắc thì núi rừng tốt tươi trải dài ngàn dặm, tại đó các động sách của dân man chia nhau để ở và chịu tô thuế. Phía bắc giáp với núi Thần Mẫu (tục gọi là mũi Bà Kéc) ([59][59]) của trấn Bình Thuận. Từ đông qua bắc núi rừng [23b] trùng điệp kéo dài cả ngàn dặm, ở đó có những sóc, mường, động, sách của các dân tộc man đã thuần thuộc, trong những dãy núi cao ở phía bắc còn có những tộc người mọi rừng chưa được thấm nhuần thanh giáo. Phía nam giáp với Cao Miên, có 4 đạo trấn giữ là Quang Hóa, Tuyên Oai, Tân Châu, và Châu Đốc, lấy sông Tiền, sông Hậu làm hào tự nhiên và kéo dài tiếp với đất 5 phủ của trấn Hà Tiên và Lình Quỳnh, Chơn Giùm, Sài Mạt, Cần Vọt, và Vũng Thơm.


Thành Gia Định này từ đông sang tây cách nhau 352 dặm rưỡi, đi hết 5 ngày đường, từ nam đến bắc cách 742 dặm rưỡi, hết 10 ngày đường. Từ thành lớn Gia Định đến kinh đô (Huế) cách 2340 dặm rưỡi, hết 30 ngày đường, đến biên giới Cao Miên cách 447 dặm, hết 7 ngày đường. Thành có nhiệm vụ trông coi các việc binh dân, thuế dịch, và hình án của năm trấn: Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên, đồng thời còn kiêm lãnh đạo từ xa thêm trấn Bình Thuận ở phía bắc. Phàm việc binh thì do thành chỉ huy, còn các việc thuế dịch, hình án khác [24a] thì các trấn tự sắp đặt. Đất Gia Định là nơi có núi sông hiểm yếu, quân mạnh lương nhiều, dân giỏi nghề chèo thuyền, sai khiến được các man dân, khống chế được cả hai nước Xiêm La và Chân Lạp, đây còn là nơi tụ hội người của các nước nên đã làm thành một miền Nam hùng mạnh của nước Việt ta.


([1][1]) 9 châu (xem chú thích Cửu châu ở trước). ([2][2]) Hạ Trùng: Thiên Trang tử, Thu thủy chép: Hạ trùng bất khả dĩ ngữ vu băng giả đốc ư thời dã, nghĩa là: con sâu cái trùng chỉ sống có mùa hạ không thể nói tới băng tuyết mùa đông, luôn chịu thời gian khống chế. ([3][3]) Tỉnh oa: Theo Hậu Hán thư: Công Tôn Thuật xưng đế đất Thục, Ngỡi Ngao bảo Mã Viện đến dò xét. Mã Viện nói với Ngỡi Ngao rằng: "Tử Dương (Thuật) là con ếch ngồi đáy giếng, mà cuồng vọng tự tôn tự đại, chi bằng ta quyết ý đi về Đông". ([4][4]) Ngao túc: Theo Từ Nguyên: Sách Sử ký, bổ Tam Hoàng ký: "Họ Cung Công đánh Chúc Dung thua trận nổi giận húc đầu vào núi Bất Chu làm trụ trời gãy. Bà Nữ Oa phải chặt đứt bốn chân con ngao (một loại rùa) để làm bốn cột chống". ([5][5])


Hồng trảo: Hồng trảo do câu nói xưa Hồng trảo ấn tuyết nê, tức "móng chim hồng còn in trên tuyết", ý nói việc xưa còn in dấu tích. ([6][6]) Giao Chỉ (交趾): Thông thường chỉ quận huyện phía nam trong các đời Tần, Hán, Tùy, Tống. Chữ chỉ (趾) đồng nghĩa chữ túc (足), tức cái chân. Sách Trung Quốc nói người Nam Man khi ngủ đầu ló ra ngoài hai chân giấu bên trong và giao lại cho nên mới gọi là Giao Chỉ. Có sách nói người Giao Chỉ khi đi, hai đầu ngón chân cái giao đụng nhau là nhầm lẫn. Từ Giao Chỉ thường chỉ miền Bắc bộ của Việt Nam. Thật ra chữ Giao Chỉ trong đoạn văn nầy của GĐTTC không phải chỉ riêng quận Giao Chỉ của các đời Tần, Hán tức nước Việt Nam thời xa xưa mà theo sách Đường nghiêu, Nam phủ Giao Chỉ thì Giao Chỉ là dãy đất phía nam nằm ngoài Ngũ Lĩnh của Trung Quốc. ([7][7])

Trường Giang: Nguyên văn chỉ viết trơn chữ Giang (江), vì sông Trường Giang khi xưa gọi một tiếng là Giang (江) hay Giang thủy (江水). Nhân do đời sau gọi chung các sông lớn là giang, sợ có lầm lộn, người ta phải gọi sông Giang là Trường Giang (長江). ([8][8]) Việc hóa dục phương Nam: Nguyên văn viết Bình sất Nam ngoa (平抶南訛). Chữ ngoa (訛) đồng nghĩa với hóa (化). Bình sất Nam ngoa là "sắp xếp lại việc hóa dục phương Nam". Điển trong Kinh Thi Bình sất nam ngoa. Truyện: "Bình tập Nam phương hóa dục chi sự". ([9][9]) Đồ Sơn (塗山): Là nơi vua Vũ đi tuần thú phương Nam hội chư hầu, mà cũng là nơi vua Vũ cưới Đồ Sơn nữ. Về vị trí địa lý có ba thuyết: a. Nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang; b. Nay thuộc Ba Huyện, tỉnh Tứ Xuyên; c. Nay thuộc huyện Hoài Viễn, tỉnh An Huy. Sách Thanh nhất thống chí cho rằng vua Vũ cưới vợ ở núi Đương, Đồ Thọ Xuân chớ không phải núi Đồ Sơn ở Giang Châu. ([10][10]) Hà Nam tỉnh (河南省):

Ở Trung bộ nước Trung Quốc, đại bộ phận đất đai tỉnh nầy là ở phía nam sông Hoàng Hà cho nên mới gọi là Hà Nam (ở phía nam sông Hoàng Hà). Hà Nam xưa gọi là Dự Châu, gọi tắt là Dự. Vì Dự Châu ở ngay trung tâm của Cửu Châu nên cũng còn gọi là Trung Châu (cũng gọi là Biện Lương). ([11][11]) Nguyên văn bản in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo chép 1.164 năm là nhầm; thời khoảng nầy đúng là 4.164 năm. ([12][12]) Mông Cổ (蒙古): Vị trí ở phía bắc nước Trung Quốc, Đông giáp tỉnh Đông Cửu, Tây giáp Tân Cương, Nam giáp Hà Bắc, Sơn Tây, Lũng Tây, Cam Túc. Bắc giáp vùng băng giá Tây Bá Lợi Á (Sibérie) của nước Nga. Thời mạt Tống, Mông Cổ xưng quốc hiệu là Nguyên, Nam hạ thống nhất nước Trung Quốc, sau bị Châu (Chu) Nguyên Chương đánh bại lập nhà Minh. Kể từ khi nhà Đại Thanh thống nhất nước Trung Quốc, Mông Cổ tùng phục nhà Thanh.

Nay Mông Cổ là một quốc gia độc lập (từ năm 1921). ([13][13]) Mãn Châu (滿洲): Mãn Châu nguyên là tên một bộ tộc, sau gọi luôn thành tên đất. Thật ra bộ tộc nầy ở phía đông của Trường Bạch sơn tại Ngạc Đa Lý Thành, vốn là bộ tộc Nữ Chân của Trung Quốc. Thái Tổ nhà Thanh từng gọi tên nước là Kim, tức Hậu Kim, đến đời Thái Tông mới gọi là Đại Thanh, từ phương bắc vào chiếm Trung Quốc. Nay là một vùng đất của Trung Quốc. ([14][14]) Tây Dương (西洋): Có hai nghĩa: Một, chỉ chung các nước Thái Tây, tức Âu Mỹ, không phải nghĩa trong ngữ cảnh đoạn nầy; Hai, là chỉ quần đảo Nam Dương (Indonésia). Xét sách Minh sử, Trịnh Hòa truyện, vua sai Trịnh Hòa và Vương Cảnh Hoằng thông sứ với Tây Dương. Xét chuyện Trịnh Hòa 7 lần đi sứ xuống miền Tây Dương thì phần lớn lãnh thổ Tây Dương thuộc Nam Dương quần đảo (Indonésia) ngày nay. ([15][15]) Thổ Lỗ (土魯): Tức Thổ Lỗ Phiên (土魯潘) là vùng đất tại Tân Cương mà đời Nguyên hay phong các Thân vương cai trị nơi đó. Đời Minh đặt thành Ngoại Phiên.

Thanh sơ đặt thành Nội Phủ. Cuối đời Thanh thuộc Trực Lệ sảnh thuộc Tân Cương. Nay đổi thành huyện trực thuộc Địch Hóa. ([16][16]) Lưu Cầu (琉球): Vị trí phía nam Nhật Bổn (Bản), đông bắc Đài Loan, bao gồm 50 hòn đảo ở Xung Thằng. Đời Thanh, Lưu Cầu giao thiệp với Trung Quốc. Hoàng đế nhà Thanh từng phong cho Tù trưởng Lưu Cầu làm Trung Sơn vương. Sau toàn thể quần đảo nầy thuộc Nhật Bổn. Đời Quang Tự nhà Thanh, Nhật Bổn chiếm nước nầy đặt thành huyện Xung Thằng. Sau đệ nhị thế chiến, đảo nầy do Mỹ cai quản một thời gian. ([17][17]) Lữ Tống (呂宋): Tức Luzon, là đảo lớn nhất của quần đảo Philippines, diện tích 106.110 km2. Trong đảo có nhiều núi non, dài theo mé biển đất đai phì nhiêu. Thủ đô là Manila. ([18][18]) Thời xưa khi chưa có chữ, sử quan thường dùng dây thắt nút làm ký hiệu để chép sự việc, dĩ nhiên từ rất hạn chế, không thể ghi được đầy đủ. ([19][19]) Chân Lạp (真臘): Chân Lạp (Chenla) là tên người Trung Quốc đời Tùy và đầu đời Hán gọi người Khơme, nhưng thật ra cũng không có gì chính xác. Đời Hán người Trung Quốc gọi Khơme là Phùnam (Funan).

Đến đời Nguyên lại gọi Cát Bột Trí hay Cam Bột Trí. Từ niên hiệu Vạn Lịch về sau gọi là Campuchia. Tên nước Chân Lạp lần đầu tiên thấy chép trong truyện Chân Lạp ở sách Tùy thư, ghi ban đầu là thuộc quốc của Phùnam. Còn theo Tân Đường thư ở đoạn Hạ Chân Lạp truyện thì: "Khoảng sau đời Thần Long (705-706) Chân Lạp chia làm hai bộ phận: Phía bắc có nhiều núi non gọi là Lục Chân Lạp. Nửa nước phía nam, men theo bờ biển, đất bùn đầm lầy gọi là Thủy Chân Lạp. Đất đai Thủy Chân Lạp (Chenla of the Water or Lower Chenla) bao gồm đất đai cũ của Phùnam, thủ đô là Vyadhapura, nay là Akơr Bonei.

Đất đai của Lục Chân Lạp (Chenla of the Land or Upper Chenla) bao gồm đất Chân Lạp cũ, thủ đô ở Sambhor, bao gồm vùng trung du sông Mêkông và từ núi Dagretk trở về phía bắc." ([20][20]) Nặc Ong Chăn tức Neac Ang Chan, em của vua Ponhya Nu, đảo chánh năm 1642 giết cả triều thần. Để lấy lòng nhóm Hồi giáo Cham-Malay giúp mình lên ngôi, Chăn đổi tên Ibrahim, cưới một người Mã Lai làm vợ. ([21][21]) Nặc Ong Chăn là vua của Chân Lạp, khi xâm phạm Việt Nam đã đóng binh tại thành Mô Xoài (Bà Rịa sau nầy). Vùng Thủy Chân Lạp của Cao Miên vào thời khoảng 1658 nầy, phía bắc đất Phù Nam cũ, tức phía nam Chiêm Thành gần tới Khánh Hòa, Phú Yên, rất khớp với lời chú thích của Trịnh Hoài Đức: "Trấn Biên tức ải địa đầu của đàng Trong Nam hà là Phú Yên" chớ chưa phải Biên Hòa. Khớp thứ hai nữa là quân phải đi trong hai tuần tức 20 ngày mới tới thành Mô Xoài (Bà Rịa) đánh bắt Nặc Ong Chăn. ([22][22]) Hành tại: Chỗ vua chúa đi tuần thú tạm ở gọi là hành tại, cung đang ở gọi là hành cung. ([23][23])

Hộ tống về nước: Tức đưa về nước Chân Lạp trên Nam Vang. ([24][24]) Nước Cao Miên: Nước Cao Miên nầy là nước Lục Chân Lạp do vua Nặc Ong Non cai trị. ([25][25]) Niên hiệu Cao Miên. ([26][26]) Tiệp văn: Sớ tâu tin thắng trận lên vua. ([27][27]) Có người cho gọi đủ là Giản bộ Trại, nhưng vì chữ giản柬và chữ đông東tự dạng rất giống nhau nên có nhiều sách đã chép là Đông Phổ hoặc Đông Phố. ([28][28]) Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài. ([29][29]) Vương Tuấn đời Tấn dùng bè lửa đốt cháy xích sắt của quân Ngô giăng ngang sông, khiến Ngô chúa Tôn Hạo phải đầu hàng (Tam Quốc Chí). ([30][30])

Không rõ Nguyễn Hữu Hào sanh năm mấy, chỉ biết ông tạ thế năm 1713. ([31][31]) Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (禮成候阮有鏡) sanh năm 1650 mất năm 1700; quê làng Giạ Mưu (có sách chép: Gia Miêu), huyện Tống Sơn, Thanh Hóa (có sách nói Quảng Bình). ([32][32]) Nguyên văn Khổn súy (閫帥). Khổn là cổng thành ngoài. Sách Sử ký có câu: "Khổn dĩ nội quả nhân chế chi, khổn dĩ ngoại tướng quân chế chi", nghĩa là: "Từ cổng thành ngoài trở vào thì quả nhân coi xét, từ cổng thành ngoài trở ra thì tướng quân coi xét".

Nay gọi vị quan thống lãnh đại binh ở cõi ngoài, xa kinh đô là Chuyên khổn hay Khổn súy. ([33][33]) Bởi nhũ danh của Mạc Thiên Tứ là Tông cho nên tước phong cho ông là Tông Đức hầu. ([34][34]) Chữ Nôm nguyên văn viết茫đọc là mương, còn chữ mường phải viết là q nhưng đọc là "mường" mới hợp nghĩa. ([35][35]) Nguyên văn chỗ này có bản chép Gò Bắp (r hay s) có bản chép Gò Chua (墥珠). Nguyễn Tạo ghi là Gò Vấp chưa đúng, gây hiểu nhầm Gò Vấp ở Gia Định, trong khi Gò Bắp ở đây thuộc Tây Ninh ngày nay.

Có người chép là Gò Vầu e không ổn, vì không thấy tự điển Nôm nào có chữ Vầu cả. Cả hai cuốn tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi và Vũ Văn Kính đều ghi là bắp, chữ r cũng còn viết là s. ([36][36]) Tầm Đôn - Soi Rạp: Đất thuộc Thủy Chân Lạp. ([37][37]) Định Viễn châu (定遠洲): Tên cũ đất Vĩnh Long đời đàng cựu gồm hai huyện Vĩnh Bình tức Long Hồ Trà Vinh và Vĩnh Trị tức Vũng Liêm. ([38][38]) Như Khổn súy (xem chú thích phần trước). ([39][39]) Trà Vinh - Ba Thắc: Đất thuộc Thủy Chân Lạp. ([40][40]) Tầm Phong Long: Đã chú thích ở trước. ([41][41]) Tầm Bao (尋u): Là vùng đất chạy dài từ Long Hồ qua Sa Đéc lên tận Châu Đốc. Có lẽ Tầm Bôn cũng là đất nầy. ([42][42])

Cù lao Giêng: Đã chú thích ở trước. ([43][43]) Rạch Giá (瀝架): Giá đây không phải là cọng giá mà là một loại tràm bông trắng, ong ăn bông nầy cho sáp thật trắng. ([44][44]) Phi nhã Chất Tri là Phya Chakkri, Đại tướng, sau trở thành vua Xiêm (Phật vương) Rama I. Dòng họ Chakkri làm vua Thái Lan cho tới ngày nay. Các vua đều xưng là Rama I, Rama II v.v... ([45][45]) Nguyên văn thất chính (失政) là nhà vua trị nước không có chính lịnh, không đúng phép chính trị làm mất lòng dân. ([46][46]) Chiêu trùy: Là tên gọi một chức quan to của Khơ me như Phụ chính đại thần. ([47][47]) Đoạn này có thể Trịnh Hoài Đức nhắc lại chuyện cũ (Bt). ([48][48]) Battambang. ([49][49])

Nguyên văn viết匿螉墩đọc là Nặc Ong Đuông (chữ墩có nghĩa là con đuông, còn viết là F). ([50][50]) Ô Đỗ Phù Ma (烏肚扶魔): Tức nước Miến Điện, nay đổi là Myanma, người phương Tây gọi nước nầy là Burma, Barma, Birma, đều là do từ Brahma chuyển âm thành. Nước Phù Ma nầy phía đông bắc giáp với Vân Nam, Tây Tạng của Trung Quốc, phía tây giáp Ấn Độ và Pakixtan, phía đông giáp Thái Lan và Lào, phía nam giáp vịnh Bengal. Thời xưa, Phù Ma và Xiêm thường xảy ra chiến tranh biên giới. Còn Ô Đỗ tức Bụng Đen là do người Miến Điện thích xâm bụng ngực bằng chàm đen các hình tượng thường liên quan đến sự tích Phật giáo. ([51][51])

Ốc nha Cao la hâm (屋牙高羅歆): Ốc nha Cao la hâm không phải tên vị Ốc nha là Cao La Hâm. Ốc nha Cao la hâm là tên một chức quan to ở triều đình Khơ me được mặc áo đỏ, thường phụ trách bộ hải quân. Cao la hâm là đọc trại tiếng Khơ me Kralahâm có nghĩa là màu đỏ. ([52][52]) Ốc nha Ca tri (屋牙伽知): Ốc nha Ca tri cũng là tên một chức quan của Cao Miên. ([53][53]) A phi phù biệt (阿丕扶別): A phi phù biệt cũng là một chức quan to của Cao Miên, tương đương như Nhiếp chính vương. ([54][54]) Tổng trấn Chưởng chấn võ quân Nhơn Quận công (總鎮掌振武軍仁郡公): Đây không phải Phương Quận công Đỗ Thanh Nhơn, chúa Đông Sơn, mà là Tổng trấn thành Gia Định Nguyễn Văn Nhân, hay đọc theo trong Nam là Nguyễn Văn Nhơn. ([55][55]) Phủ Trông (府x): Bản lưu trữ ở VHN chép x, còn bản in kèm bản dịch của VSH chép là y và đọc là lùng. Cả hai chữ x và y đều không thấy chép trong các từ điển chữ Nôm.

Đọc lùng không đúng vì chữ lùng tức cỏ lùng phải viết là |, đọc trông cũng không đúng vì trông phải viết }~hoặc |. Vậy xin đọc tạm là Trông. ([56][56]) Nguyên văn viết W tra không thấy ở các tự điển chữ Nôm. Đọc Nhẫm cũng không ổn, vậy xin đọc tạm Nhum. ([57][57]) Hoa phong (華風): Trong GĐTTC, từ Hoa nhân chỉ người Việt, Đường nhân chỉ người Hoa, nhưng từ Hoa phong lại chỉ phong tục của người Trung Quốc. Ở ngữ cảnh nầy, cách ăn mặc của người Khơ me bắt chước phong hóa người Hoa, tức bắt chước trực tiếp cách ăn mặc của người Việt ta, vì người mình trước đó đã bắt chước ăn vận theo phong hóa Trung Quốc. ([58][58]) Hải chẩn (海畛): Nguyên văn bản VHN viết ¤ không thấy trong từ điển chữ Hán, chữ Nôm. Nguyên văn in kèm bản dịch của nhóm dịch giả VSH viết ¤ cũng không thấy trong tự điển chữ Hán, chữ Nôm.

Theo chúng tôi đây là chữ chẩn畛bị sao chép nhầm. Chữ chẩn (畛) nầy có nghĩa là bờ ruộng, là lằn ranh phân chia các thửa ruộng. Trong ngữ cảnh nầy, chữ chẩn là lằn ranh phân chia các luồng nước. Vậy hải chẩn là lằn ranh phân chia luồng nước trên biển, coi như "bờ nước" trên biển vậy. ([59][59]) Nguyên văn viết: $婆G tức "Mũi Bà Khịt". Chữ Nôm G nầy Thượng Tân Thị đọc là Hét, Đào Duy Anh đọc là Khế. Chúng tôi tra Tự điển chữ Nôm của Vũ Văn Kính và Tự điển chữ Nôm của Yonosuke Takeuchi đều phiên âm là Khịt nhưng viết là H. Tuy nhiên, Trương Vĩnh Ký, trong PCGPC cho núi nầy có tên cũ đọc theo tiếng Miên là Phnom Sek, có nghĩa núi Kéc (tự điển Miên - Pháp của T.B. Bernard dịch Sek là "perroquet" có nghĩa là con Kéc). Như vậy phải chăng núi này có tên trong thư tịch là Bà Khịt và được người địa phương gọi theo tên cũ của Miên là Bà Kéc? Cũng cần nói rõ thêm là bản đồ của Taberd in năm 1838 cũng ghi mũi nầy là mũi Bà Kéc. Ngoài ra, nguyên văn in kèm bản dịch của Nguyễn Tạo lại chép là潔 và dịch giả Tu Trai đọc là Khiết.



>Phan Quốc Anh. Nghi lễ vòng đời người Chăm (1) -13/04/2008
  • Bá Dương. Người Trung Quốc xấu xí (2) -23/02/2008
  • Bá Dương. Người Trung Quốc xấu xí (1) -23/02/2008
  • Ngô Đức Thịnh. Lên đồng trong đạo Mẫu -21/02/2008
  • Trịnh Hoài Đức. Gia Định Thành thông chí (phần 4) -05/02/2008
  • Các bài khác:
    <>


    http://www.vanhoahoc.edu.vn/content/view/319/103/