Tuesday, June 14, 2011

GIỚI THIỆU I



NGUYỄN VĂN THỚI


KIM CỔ KỲ QUAN






NGUYỄN THIÊN THỤ
chú giải và hiệu đính


Tây An tự-Châu Đốc












GIA HỘI2011








LỜI NÓI ĐẦU


Sau 1975, tôi được một vài bạn thì thầm: các kinh sách Phật giáo Hòa Hảo nói hay lắm, nào là Bắc Kỳ cai trị Nam kỳ, nào là Gia Định thì còn, Sài gòn thì mất. . Tôi đi chợ sách ở ngõ Cá Hấp đường Bùi Quang Chiêu Sài gòn mà chỉ mua được một cuốn Kim Cổ Kỳ Quan rất mỏng nhưng bên trong lại đề Tứ Thánh. Tôi không hiểu tại sao. Tuy nhiên, đọc vào thì thấy rất thần diệu!

Trước 1975, tôi có về dạy học tại Đại Học Hòa Hảo, được các đạo hữu tặng một số kinh sách Hòa Hảo nhưng không thấy, cũng không nghe ai nói đến Kim Cổ Kỳ Quan. Trên báo chí trước 1975, tôi cũng chưa đọc được một bài nào viết về Kim Cổ Kỳ Quan. Kim Cổ Kỳ Quan hoàn toàn xa lạ với quảng đại quần chúng và giới văn học cũng như tôn giáo.



Quyển I, in năm 1957 tại Long Xuyên


Xưa nay tôi nghĩ rằng KIM CỔ KỲ QUAN là một truyện Tàu, không lẽ Việt Nam cũng có tác phẩm giống vậy hay sao. Rồi ngày tháng trôi qua, biết bao việc xảy đến, nhất là việc biên khảo về văn học sử chưa xong, tôi không bận tâm đến Kim Cổ Kỳ Quan nữa.

Cuối năm 2009, tôi tìm được trên các trang nhà của Phật giáo Hòa Hảo, các tài liệu về Hòa Hảo trong đó có Kim Cổ Kỳ Quan . Tôi thích thú đọc kỹ và viết bài này để giới thiệu cùng độc giả một khối ngọc thạch quý trong văn chương Miền Nam.

Tôi cũng tìm hiểu về các tài liệu liên hệ đến Bửu Sơn Kỳ Hương và Kim Cổ Kỳ Quan thì thấy GS Nguyễn Văn Hầu và một vài người đã giới thiệu sơ lược. nhưng chưa ai chú thích. Tôi thấy đây là một khối thạch trung ẩn ngọc, cần khai phá cho nhân dân ta thưởng thức và hiểu biết những vấn đề trọng đại của Việt Nam hiện tại và tương lai mà ông Nguyễn Văn Thới cách đây gần một thế kỷ đã quan tâm.

Trước đây vì chưa đủ bộ, vì sức khoẻ suy tàn nên tôi chỉ chú thích sơ sài. Nay các độc giả bốn phương người bổ túc, người đánh máy, khiến cho tôi phấn khởi, cố gắng làm việc chú thích và bình giải trọn vẹn hơn. Trong Sơn Trung Thư Trang, chúng tôi để hai bản:
-Nguyên bản Quốc ngữ của Nguyễn Văn Thới .Bản này trung thành với nguyên bản quốc ngữ trước đây, gồm sách, và bản đánh máy theo tinh thần văn hóa miền Nam "bổn cũ soạn lại".
-Và bản " Kim Cổ Kỳ Quan Chú giải " này. Bản này chỉ sửa chính tả và chú giảng, không tùy tiện sửa đổi câu và chữ. Nếu có, chúng tôi sẽ nói rõ.
-Các audio của Hòa Hảo.
Các bạn có thể lựa chọn các bản.

Theo nguyên tắc , chúng ta phải có bản nôm và bản Quốc ngữ đầu tiên và một vài bản quốc ngữ khác. Nhưng từ khi tác giả mất cho đến nay gần một thế kỷ, mối mọt, mưa gió, bão lụt, chiến tranh, chế độ khắc nghiệt đã hủy hoại nhiều công trình văn hóa trong đó có Kim Cổ Kỳ Quan. Nhất là người nghiên cứu xa quê hương vạn dặm, không đủ phương tiện kê cứu. Thôi thì được bao nhiêu hay bấy nhiêu trong tinh thần " tri túc tiện tức " vậy.

Trước đây, chúng tôi thiếu quyển thứ nhất, nhưng chúng tôi đã phổ biến trong năm 2009 và 2010 vì được các độc giả bổ túc.. Nay tháng 5-2011, tình cờ tìm trong tủ sách thấy có quyển này, mua từ lâu, có lẽ trước hoặc sau 1975 rồi bỏ quên. Phật nói đúng. Chúng ta có bảo vật mà không biết, chúng ta phải tu tập để chơn tâm hiện rõ. Thế là tài liệu đã tạm đầy đủ, tôi sẽ tiếp tục phổ biến chú giảng, đồng thời bổ túc những cái thiếu sót trước kia cho công đức trọn vẹn.

Với những tài liệu có sẵn, chúng tôi có thể nói rằng hiện nay it nhất còn hai ấn bản là ấn bản quốc ngữ 1957 và ấn bản quốc ngữ 1964. Bản của Hòa Hào ( Mỹ quốc), bản của Đỗ Tấn và bản của Đạo Thiện có lẽ chung gốc với bản 1964.

Tác phẩm này đồ sộ hơn Lục Vân Tiên, Thơ Cậu Hai Miêng nhưng vì thực dân cấm đoán, lòng người sợ hãi nên chỉ truyền tụng bí mật. Cũng vì thực dân tự xưng hùng mạnh, khoa học tối tân, và cũng vì cộng sản tuyên truyền duy vật khoa học cho nên một số người bỏ Nho, Phật,Lão, và nghi ngờ Nho, Phật Lão. Thực tế , tôn giáo nào mà chẳng dị đoan, phản khoa học, ngay cả chủ nghĩa Marx cũng duy tâm, phản khoa học và thêm vào đó là tàn ác, độc tài. Lại nữa, tôn giáo nào mà chẳng có những thần thoại, phép màu và các bậc tiên tri. Ông Nguyễn Văn Thới viết sách khuyên người hành thiện, còn Marx khuyên người hành ác. Ông Ba tiên tri có nhiều điều đúng còn Marx tiên tri không những sai lầm mà còn gây ra nạn diệt chủng ghê gớm.

Tóm lại, Kim Cổ Kỳ Quan là một tác phẩm văn học vĩ đại của Việt Nam đầu thế kỷ XX, có giá trị văn chương, lịch sử và tâm linh. Về văn chương thì đây là một tác phẩm thơ dài nhất Việt Nam . Như đã thưa cùng độc giả, toàn bộ Kim Cổ Kỳ Quan gồm 9 quyển hay 9 thiên, lấy tên quyển thứ nhất làm tên chung cho toàn bộ. Ta có thể làm bản liệt kê công trình đồ sộ này:

Lời tựa : 140 câu
(1).Kim Cổ Kỳ Quan: 2820 câu
(2).Giác Mê: 1195 câu
(3). Cáo Thị: 3135 câu
(4). Vân Tiên : 1233 câu
(5). Ngồi Buồn: 988 câu
(6).Thừa Nhàn: 4475 câu
(7)Tiền Giang: 5675 câu
(8). Kiểng Tiên 2284 câu
__________
Tổng cộng; 21.945 câu

Ngoài ra, có Bổn tuồng là một vở tuồng độc thoại, gần ba ngàn câu, và gần 30 bài thơ chép vào quyển Tiền Giang.

Theo ấn bản 1964, Kim Cổ Kỳ Quan gồm có:
Kim Cổ Kỳ Quan: tr. 1- đến 33 trang
Giác Mê: 35- -- 49tr
Cáo Thị 41- -89 tr.
Vân Tiên 91-- 106
Ngồi Buồn 107-- 117
Bổn Tuồng 119--139
Thừa Nhàn 141-- 193
Tiền Giang 195-- 268
Kiểng Tiên 269--295.


Thơ của Nguyễn Văn Thới rất đặc biệt. Về nội dung, tác phẩm thể hiện tư tưởng Phật giáo, đặc biệt là tư tưởng Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương. Và trên hết là một tâm linh siêu việt, nhìn xuyên suốt chiều dài lịch sử Việt Nam với những tiên đoán đã nhiều ứng nghiệm. Xin cảm tạ tác gỉả ông Nguyễn Văn Thới đã khổ công viết tác phẩm này. Xin cảm ơn về các tài liệu của các đạo hữu Hòa Hảo , và các bạn Đỗ Tân, Đạo Thiện , Tuý Như...

Canada tháng 5 năm 2011
Nguyễn Thiên Thụ


MỤC LỤC

PHẦN THỨ NHẤT
GIỚI THIỆU

Lời Nói Đầu
1. Tác giả và tác phẩm
2.Cơ sở sáng tạo và tư tưởng của tác giả
3.Những tiên đoán đã ứng nghiệm
4. Những tiên đoán về tương lai.

PHẦN THỨ HAI
CHÚ GIẢI KIM CỔ KỲ QUAN

Tựa
1- Kim Cổ
2- Giác Mê
3- Cáo Thị
4- Vân Tiên
5- Ngồi Buồn
6- Bổn Tuồng
7- Thừa Nhàn
8- Tiền Giang
9- Kiếng Tiên

PHẦN THỨ BA
PHỤ LỤC



















Add Video
Remove Formatting from selection









BẢN I * MAI LĨNH 1939


NGUYỄN BỈNH KHIÊM







SẤM KÝ TOÀN TẬP

Sơn Trung sưu tập, hiệu đính và chú giải



GIA HỘI
2010




LỜI NÓI ĐẦU
CỦA SƠN TRUNG THƯ TRANG CHỦ NHÂN

Chim xa bầy thương cây nhớ cội! Vì tự do mà chúng ta phải ly hương rất là đau đớn. Chúng ta bị nhiều thiệt thòi vì ở ngoại quốc thiếu tài liệu nghiên cứu . Mà đồng bào ở quốc nội cũng gặp khó khăn vì sự ngăn cấm tự do văn hóa của bạo quyền. Vì vậy mà tôi lập Sơn Trung thư trang để làm một thư viện nhỏ với tinh thần vô vị lợi, tôi có thể giữ cho tôi và cống hiến cho moi người. Khi còn ở Việt Nam, tôi đã thu thập một số sách, một số tài liệu, trong đó có Sấm Trạng Trình.

Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều người sửa đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi san định, nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài liệu.
Tại các thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản Sấm Trạng Trình chữ Nôm và các bản này cũng khác nhau. Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.`

Ngoài bản A còn có ít nhất ba dị bản về sấm Trạng Trình.
Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7 bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội. Trước 1975, tại miền Nam đã có khoảng 20 bản quốc ngữ, nay Hà Nội cũng in thêm vài bản. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 mà hiện nay vẫn chưa tìm được. Riêng tôi có hai bản nôm.

Từ lâu tôi đã có ý phổ biến nhưng bệnh hoạn lâu ngày chưa thực hiên được. Nay cơ duyên đã đến, là do bạn xa khêu gợi, tôi cố gắng ngồi dậy sao chép dần để trình chư vị . Tôi tuyển chọn những bản xưa nhất và đáng tin cậy để tái bản trong thư trang của tôi.
Tôi tập hợp các bản lại được gọi là " Sấm Ký Trạng Trình" thành một tập và gọi là Sấm Ký Toàn Tập để tiện việc nghiên cứu. Tôi mong ước sau này chúng ta có điều kiện sẽ nghiên cứu các bản nôm và bản quốc ngữ để đi đến một nhận định bao quát và rõ ràng hơn. Nay việc tôi làm chi là một phần nhỏ.
Ottawa ngày 20 tháng 9 năm 2010
Sơn Trung







TIỂU THUYẾT NHẬT BÁO
KHOA HỌC HUYỀN BÍ
Năm thứ hai số 250
18-7-1939 tr.770-772.
254 ngày 1-8 tr.805-827
số 256 ngày8-8, 788-790

Mai Lĩnh xuất bản



1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay (1)
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên (2)
15. Ðông A âm vị nhi truyền (3)
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh (4)
Chấn cung hiện nhật quang minh (5)
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật (6).
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25.Kìa liệt vương khí hủ (7) đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở riếng (8) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35.Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn (9) than
Dưới trên dốc trí lo toan
40.Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống ru nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có ý an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45.Dư đồ chia rẽ càn khôn (10)
Mối giường ( 11) man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi (12)
Việc làm bất chính tơi bời
50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia (13) ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần (14)
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75.Nội thành hoảng hốt hư kinh (15)
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán (16)
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi (17)
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra (18)
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về (19)
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới (20),
Gặp nước bung (21) con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
110.Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.




115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến
(22) đã dời đất cũ
120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) (23) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn


125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai (24) những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vi vương
140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long
Thánh nhân cư có thụy cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí (25) đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy, thần kinh
Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng


185.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn (26)
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền đầu khỉ cuối thu (27)
200.Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215.Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225,Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình (28)
235.Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250.Chẳng phiền binh nhọc chẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255.Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường


Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày) Tào khê (29)
Có thầy Nhân thập (30) đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265.Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài


II



281. Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian
(31)
285.Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
... . . . . . . . . .
... . . . . . . .
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
290.Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn mà đi (32)
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay (33)
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn hết sau ,
310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (34) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn

. . . . . . . . .
. . . . . . . .
. . . . . . . .

315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
320.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340.Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
350.Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355.Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
360.Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
365.Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông (35) hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370.Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến thời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này

375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn


Kìa cơn gió thổi lá rung cây (36)
380. Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385.Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay


Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.

395.Canh niên tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình


Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ khởi đao binh
400. Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
(37)

Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405.Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.

410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định (38)
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.

Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang


Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
425.Thất thập cổ lai xuân


Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành (39).
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh


430.Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Man cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trâm nhi bắc kinh
Ký mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
440.Chư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình


Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành


Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lường


450. Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Mại dữ lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dữ thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
460. Nhân nghĩa thùy vi địch.
Ðạo đức thùy dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch thán hung hoang.
470.Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tái vô lường
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Ðoài phương phúc điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân.
480. Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .


Nguyễn Bỉnh Khiêm


____

Sơn Trung chú thích:
Bản này là bản phổ biến nhất.
Gốc là bản AB.444 tại viện Hán Nôm Hà Nội. BẢN ĐÔNG NAM Á, Saigon 1964 (1962?) cũng giống bản này chỉ khác vài chữ vì đánh máy sai hoặc đọc sai. Các bản khác cũng vậy.


Tài liệu này có hai phần, phần thứ hai có thể là một phụ bản hoặc một bản khác.
(1). Đao: chỉ họ Lê
梨, 棃
.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
(2). Thập bát tử: họ Lý
nối ngôi
(3). Đông A là nhà Trần 陳. Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
(4). Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.
(5).Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
(6).Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có chữ nhật.
Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
.
Họ Trịnh là cường hầu, lấn áp vua Lê, thay đổi mọi khuôn phép.
(7). Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.
(8). riếng: chữ giếng viết sai chính tả. Người Bắc viết sai d,g,r như tự ro, rân chủ, Khánh Giư . .
(9).Cưu, nhạn là chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
(10).Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.
(11). Mối giường: mối giềng.
(12).Đôi: đôi chối, đôi co: nghĩa là cãi cọ, tranh luận.

(13): Gia: giơ
(14). Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi rtrong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh để xem xét kẻ gian phi.
(15). Từ câu 75-86 nói năm mậu thân 1788, vua Lê và hoàng thái hậu chạy sang Trung Quốc cầu viện, rồi quân nhà Thanh sang Thăng Long. Năm kỷ dậu 1789, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.
(16). Câu 89-99: Nhà Trịnh mua quan bán tước, làm khổ dân như hai vua Hoàn Đế (146-168) , và Linh Đế 156 – 189) tin dùng hoạn quan, giết hại trung thần, khiến chế độ suy tàn.
(17). Báo thù: Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị về, báo ơn báo oán, gây nhiều việc thất đức. Xem Hoàng Lê Nhất Thống Chi và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
(18). Câu 100: Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra . Cát lầm bốn bể can qua . . .
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về .
Nói việc Nguyễn Huệ ra Bắc lấy cớ phù Lê diệt Trịnh xong lại vào Nam, sau đem quân ra Bắc đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị.
(19).
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về: Nguyễn Huệ ra Băc lại về Thuận Hóa..
(20).
Ăn rau ăn rới: có bản ghi "giới". Giới là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)
(21). Bung: phát ra, nổ ra, tràn ra.
(22).
Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống 黎愍宗, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm trong có chữ Kiến 毽 , . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó một thời gian thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
(23).
Chổ viết sai, ch/tr, trổ là lộ ra, nở ra (trổ bông, trổ mã), nghĩa là kéo binh ra.
(24).Đẩu, Thai: tên hai ngôi sao. Nói về triều Nguyễn quần thần tốt đẹp.
(25). Có bản ghi một thí. Một tí, hay một thí: là một chút (ngôn ngữ miền Trung).
(26). Đỉnh Hoành sơn: nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn tại miền Trung.
(27). Câu 199-200: Phá điền đầu khỉ cuối thu / Tái binh mới động thập thò liền sang.
Phá điền là quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền giống chữ Quốc , cả hai chữ thuộc bộ vi 囗.
Tái binh là binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc Nói việc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam, đánh Gia Định, Đà Nẵng trong năm canh thân (1860).
(28). Câu 231-240: " Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người /Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giãi lần chơi trú đình / . ,. . . . . . ,. .
Bắc kinh mới thật đế kinh / Dấu thân chưa dễ dấu danh được nào .
Thái Nguyên là nơi núi rừng ở biên giới, đời Mạc, anh em Vũ Văn Mật đã xây dựng thành một vùng trù phú. Sau Hoàng Hoa Thám trong khoảng 1900 đã lập chiến khu tại đây, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng muốbn giúp sức Hoàng Hoa Thám. Việt Nam Quang Phục hội sau khi Hoàng Hoa thám thảm bại vẫn hoạt động cho đến 1913. Năm 1917, Truịnh Văn Cấn và Lương NGọc Quyến khởi binh chống Pháp,. Năm 1944, Trần Trung Lập đem quân về vùng Lạng Sơn và Thái Nguyên chống Pháp nhưng bị Nhật và Pháp đánh tan. Sau, Hồ Chí Minh lập căn cứ ở Thái Nguyên, ăn dầm ở dề tại nhà bà Nguyễn Thị Năm , tức Thái Hanh Long ở Thái Nguyên,. Trong CCRD 1954, ông giết bà Nguyễn Thị Năm, khiến con trai bà là chính trị viên trung đoàn đã cùng một số cán bộ, bộ đội tự tử sau khi nhận thấy bọn cộng sản phản bội nhân dân. Ông Hồ làm tay sai Nga Tàu, lấy Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa làm thủ đô của cộng sản Việt Nam và cộng sản thế giới. Nhiều người giải thích Bắc kinh là Hà Nội, nhưng Hà Nội chỉ có tên Đông thành, Đông kinh chứ không phải là Bắc kinh. Ông Hồ là người giấu danh tánh, luôn ẩn thân khắp nơi dưới nhiều bí danh, nhưng ai cũng biết ông là là Nguyễn Tất Thành, mang danh Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy, Hồ Chí Minh. . .
(29). Giầy, dầy: Rầy, rày. Sau thời Hồ Chí Minh sẽ có người họ Nguyễn ( Phụ nguyên) ở ngoại quốc trở về xây dựng đất nước? Tào Khê vốn ở huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, nói rộng ra là ở nước ngoài).
(30). Thầy Nhân Thập : trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?
Theo thiển kiến, có thể là tên có chữ Thập
十, như chữ thiên千 , Mộc , Lâm, Sâm 森, Bản 本. .
(31). Lục thất: Nhiều tài liệu sấm nói đến lục thất nhưng chưa ai giải thích .Lục phải chăng họ Nguyễn vì chữ lục có chữ Nguyễn nằm bên trong.
(32). Nhân Doãn : Doãn hay Duẫn允, chỉ Lê Duẩn. Từ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, nước ta lệ thuộc Trung Quốc và Liên Xô, đảng lãnh đạo và cán bộ là một lũ gian tham tàn ác.
Chờ cho nhân doãn hết sau ,
310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt ( ác?) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn. . .
Nhân Doãn hết sau là nói sau khi Lê Duẩn chết.
(33). Ti hào: tơ hào: nhỏ như sợi tơ, sợi lông.
(34). Bản khác ghi là ác.
(35). Bản khác ghi là trông vời
(36). Kìa cơn gió thổi lá rung cây / Hưng địa tràng giang hóa nước đầy : nói việc Nguyễn Thái Học
lãnh đạo Việt Nam Quốc dân đảng khởi nghĩa năm 1930 và bị Pháp tàn sát .
(37).
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ loạn đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình

Hai phe Trục và Đồng minh đánh nhau. Đệ nhị thế chiến chấm dứt năm ất dậu (1945).
(38).
Cửu cửu kiền khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Trường an
.
-Cửu cửu: Cứ chín năm, hoặc gặp con số 9, nước ta lại có một biến cố. 1945, cộng sản cướp chính quyền, 1954, hiệp định Geneve, 1963, Ngô Đình Diệm chết, 1972, bắt đầu hiệp định Paris. . .
-Dương đầu mã vĩ: Năm mậu ngọ (1954) , quân Hồ Chí Minh vào Hà Nội.
(39). Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành.

Hai miền Nam Bắc thành hai nước có hai kinh đô là Hà Nội và Sài Gòn là thành vàng và thành ngọc, hai bên giao chiến liên miên.
(40).
Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tai vô lương
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng
Cơ nhị ngủ thư hùng vị quyết
Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân

Cộng sản thắng Pháp, nhưng cộng sản sẽ bị trời tiêu diệt. Cụ Dương Bá Trạc cầu cơ bút của Liễu Hạnh Công Chúa năm 1938 tại Đền Ngọc Sơn, Hà Nội có thơ:
Quỉ Ma giao chiến khắp nơi
Quỉ ở trên trời, Ma ở dưới hang
Cỏ cây non nước điêu tàn
Quỉ nọ ra hàng, Ma ấy mới thôi.
Ma là cộng sản nấp dưới hố, dưới hang, quỷ là Pháp thường dùng máy bay bắn phá xóm làng. Pháp hàng cộng sản tại Điện Biên phủ. Sau hiệp định Geneve 1954, nước ta chia đôi, lấy Bến Hải làm giới hạn. Dân ta phải sống trong chủ nghĩa cộng sản " Ta hồ vô phụ, vô quân" (Ta hồ là than ôi! Than ôi dân ta phải sống trong chế độ cộng sản tam vô. . .)
Sau đó thánh nhân xuất hiện lập đời Thuấn Nghiêu
Tướng thần hệ xuất y chu /Thứ kỵ phục kiến Ðường ngu thi hành/ Hiệu xưng thiên hạ thái bình/ Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
Sơn Trung
sưu tập, hiệu đính và chú thích.
Thủ đô Ottawa ngày 29-9-2010.