| 
 Nhà  văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, đại tá công an (A 25) đã  nghỉ hưu. Nhận được bài ông gửi cho, sực nhớ cách đây hơn 20 năm, nhà  thơ Lê Đạt hồ hởi nói về việc Thái Kế Toại mang đến cho bản in thử bài  thơ Cửa hàng Lê Đạt từng bị “trên” cho bóc gỡ bát chữ, lại nói thác ra  rằng “công nhân nhà in Tiến bộ bất bình với bọn Nhân văn phản động nên  đã không in bài thơ này.” vanchinh.net trân trọng cảm ơn Lê Hoài Nguyên  và giới thiệu cùng bạn đọc 
 
 
I – Mấy vấn đề có tính phương pháp luận 
Hiện  nay còn tồn tại nhiều cách đánh giá về vụ Nhân Văn-Giai Phẩm. Có người  cực đoan cho rằng cốt lõi đây là vụ án chính trị phản động không dính  líu gì đến văn học, mà chỉ có một số anh em văn nghệ sĩ bị lôi kéo vào,  Đảng và nhà nước đã không xử án văn nghệ sĩ (1). Người thì cho là một vụ  án văn học, thuần túy oan sai về văn học, để đàn áp văn nghệ sĩ, nhà  nước đã biến một vụ việc văn học thành một vụ án chính trị. (2).Tât  nhiên là để bảo vệ các khuynh hướng, để đánh giá đúng thực chất của Nhân  Văn Giai Phẩm không phải dễ dàng, mà phản bác hoàn toàn cũng cần hết  sức thận trọng.  
Với tất cả những gì đã xảy ra xem  xét vụ Nhân Văn Giai Phẩm  nên được đánh giá dưới góc độ  là một trào  lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách tân văn học không thành thì đúng  hơn. Để đi tìm cách cắt nghĩa nó. Gìn giữ những gì nó đặt ra, nó để lại  cho đời sống chính trị, cho nền văn học nước nhà. Còn nếu coi là vụ án  chính trị phản động thì không cần tốn giấy mực để viết về nó trong lịch  sử văn học làm gì. 
Xem xét từ cốt lõi các vấn đề  chủ yếu, tức là hồn cốt vụ án, tức là hình thái của nó, các điều kiện  lịch sử của nó, các nhân vật của nó, các vấn đề nó đặt ra cho xã hội đều  thực sự là tư tưởng và văn học.Vài vấn đề về phương pháp luận:
 -  Đánh giá Nhân Văn Giai Phẩm như một trào lưu văn học nhưng vẫn phải ghi  nhận rằng không có thứ văn học thuần túy văn học. Từ trong thuộc tính  của văn học Nhà văn bao giờ cũng là người nhạy cảm và có trách nhiệm  trước các vấn đề của thời đại, của dân tộc mình. Như vậy văn học mang  tính chính trị theo ý nghĩa đó. Một trào lưu văn học ra đời, trước đó nó  đã chịu tác động của thời cuộc, của chính trị. Chính vì lí do đó văn  học xứng đáng là một loại hình cao cấp trong các loại hình văn học nghệ  thuật.
 - Đánh giá NVGP trong tiến trình tư tưởng Việt Nam từ 1945-  1948- 1954- 1960 cho đến 1986- và nay 2010. Tiến trình tư tưởng cách  mạng VN có đặc điểm riêng, khi du nhập chủ nghĩa Mác Lênin. Trước khi  ngả hẳn , thuần hóa chủ nghĩa Mao, nó có trạng thái lưỡng phân và giao  tranh giữa tư tưởng dân chủ với tư tưởng cộng sản, tư tưởng toàn trị với  tư tưởng pháp quyền (3).
 - Các vấn đề của NVGP đặt ra đều có nguồn  gốc từ các thời kỳ trước đó trong tiến trình cách mạng, tiến trình văn  học Việt Nam. NVGP xuất hiện vào lúc hội đủ điều kiện cả khách quan và  chủ quan. Vì mang tính tất yếu, những gì mà NVGP chưa làm xong thì các  thế hệ sau sẽ  phải tiếp tục thực hiện sứ mệnh của nó.
 - Đánh giá bản  chất của NVGP còn phải dựa trên tập quán hành xử chính trị của hệ thống  XHCN, của xã hội VN trên cơ sở thể chế hiện hành. Tức là không thể tin  cậy vào các lượng thông tin chính thống, vì loại thông tin đó đã bị biến  dạng và thường là không phản ánh trung thực, toàn diện bối cảnh xã hội  lúc đó, không phản ánh đúng bản chất các con người, sự việc lúc đó. Cần  phải tiếp cận NVGP từ nhiều phía, nhiều nguồn tư liệu khác nhau trong và  ngoài nước, quan trọng nhất là thông tin của những người trong cuộc,  thậm chí cả ở những tác phẩm văn học nghệ thuật sau này phản ánh về thời  kỳ này.
 - Xem xét vụ NVGP phải lấy việc xem xét nội dung văn bản văn  học của nó làm chính, cái nội dung ấy phản ánh tình trạng văn học lúc  đó thế nào, chứ không lệ thuộc vào việc nhà nước công bố nó là chống  đối, tức chống đối là không có giá trị văn học. Từ trước đến nay những  người viết về NVGP gần như theo quan niệm này và đã không xem xét giá  trị văn học của các sáng tác của nó trong tiến trình văn học Việt Nam,  cùng tham vọng đổi mới nền văn học miền Bắc của nó.
 
Trước hết có thể  khái quát như sau:NVGP  trước hết là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học đòi hỏi  dân chủ hóa ở miền Bắc Việt Nam năm 1954- 1960 có nguồn gốc và đã xảy ra  trong nội bộ Đảng CSVN, trong bộ máy Chính phủ Kháng chiến chống Pháp  do Hồ Chí Minh lãnh đạo trong quá trình đi từ chủ nghĩa dân chủ tư sản  đến chủ nghĩa cộng sản hình thái Mao Trạch Đông ( 1948 – 1954), bùng  phát vào thời điểm đặc biệt 1955-1957 trên các lĩnh vực triết học, tư  tưởng, pháp luật, giáo dục, văn học nghệ thuật, báo chí chủ yếu trên các  ấn phẩm báo Nhân Văn , Sáng Tạo, Trăm Hoa, Tự Do Diễn Đàn, Đất Mới-  Chuyện Sinh Viên, Văn... và các sách dạng tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân,  Giai Phẩm Mùa Thu, Giai phẩm Mùa Đông, Sách Tết, Vũ Trọng Phụng...do  khởi xướng hầu hết là số văn nghệ sỹ, trí thức tài năng, có nhiều công  lao trong kháng chiến chống Pháp, trong quân đội , bị đàn áp và xét xử  công khai bằng một vụ án Tổ chức chính trị hoạt động gián điệp lật đổ  chính quyền nhân dân với cái tên Nhân Văn- Giai Phẩm, tiếp theo là việc  xử lý bằng các hình thức trừng phạt nội bộ với hàng trăm giáo sư, thày  giáo, sinh viên, nhà văn, nghệ sỹ điện ảnh sân khấu, nhạc sỹ, họa sỹ,  kiến trúc sư, phóng viên, xuất bản , cán bộ lãnh đạo, nhân viên một số  bộ ngành, cơ quan nhà nước...
 
Sau khi bị đàn áp,  NVGP không chết ngay lập tức, nó còn tồn tại dai dẳng trong một số sáng  tác của Phùng Cung, Hoàng Cầm , Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan...thậm chí cả  Nguyễn Chí Thiện (4), nhóm Văn nghệ Chân đất ở Hà Nội những năm 70- 80  (5),cho đến vụ Hoàng Cầm, Hoàng Hưng bị bắt năm 1982 (6), cho đến lúc  Đổi mới, trao Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh cho một số  nhân vật chủ chốt của vụ NVGP 50 năm về trước. Còn mục tiêu tự do tư  tưởng, tự do sáng tác, dân chủ xã hội pháp quyền, cách tân nghệ thuật mà  NVGP đã đặt ra thì vẫn đang là câu hỏi cho các thế hệ người Việt Nam  cho đến hôm nay... 
Để có thể xem xét vụ NVGP một  cách thỏa đáng không bị ràng buộc về khía cạnh vụ án chính trị, tôi chọn  cách nhìn nó với tư cách là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng  văn học. 
II – Các tiền đề dẫn đến vụ NVGP 
1-  Bối cảnh chính trị Việt Nam 1945- 1954 và những tác động của quá trình  Mao hóa hệ tư tưởng phản ánh vào đời sống văn học nghệ thuật. 
Phản  ánh của các sử gia Việt  Nam về Cách mạng Tháng Tám 1945 và giai đoạn  kháng chiến chống thực dân Pháp là một cách viết sử đơn giản, dường như  chỉ lấy mục đích tường thuật các chiến thắng quân sự của chính phủ Hồ  Chí Minh với nguồn sử liệu nghèo nàn, một phía, hoặc với những đánh giá  không khách quan, thao tác tư duy lịch sử của chủ nghĩa Mác Lê nin. Khác  với các sử gia Việt Nam, các sử gia nước ngoài, chủ yếu là phương Tây ,  có nguồn tư liệu từ hai phía, nhất là hồ sơ của Pháp, Nga, Trung Quốc,  Mỹ, Đông Âu, hồ sơ các cuộc phỏng vấn trực tiếp các cá nhân tham gia các  sự kiện lịch sử, từ chỗ đứng khách quan với phương pháp tư duy phức tạp  hơn họ có thể nhìn ra sự thật tiến trình lịch sử đó dưới nhiều góc độ  khác nhau, đặc biệt là sự vận động của hệ tư tưởng ở những người cộng  sản Việt Nam đã tạo ra tình trạng phân hóa nội bộ trong giới lãnh đạo và  quần chúng, tạo ra các chính sách trước sau mâu thuẫn, các màu sắc  chính trị đối ngoại, các vụ án kiểu như NVGP (7)... 
Có hai điểm làm cho quá trình Mao hóa hệ tư tưởng ở VN dùng dằng ở trạng thái lưỡng phân trong một thời gian dài:-  Một là trong thời điểm 1945 Việt Minh giành được chính quyền trong  tương quan cùng có nhiều lực lượng quốc gia yêu nước tham gia. VM không  đủ thế lực quản lý đất nước khi họ chưa có được sự công nhận, hậu thuẫn  của phe XHCN, HCM vẫn còn phải tính toán con đường tồn tại trong khối  Liên hiệp Pháp. Xu thế này phản ánh trong chính bản Tuyên ngôn độc lập  do HCM đọc tai Ba Đình ngày 2- 9- 1945 và trong thành phần chính phủ  liên hiệp sau đó. Ngay cả khi cuộc chiến toàn quốc đã nổ ra, 19- 12-  1946, VM lập một chính phủ mới hoàn toàn là của họ nhưng vẫn còn một tỷ  lệ lớn là thành phần trí thức do Pháp đào tạo, đã từng cộng tác với  chính phủ Trần Trọng Kim, thuộc các đảng Dân chủ và Xã hội, trong đó có  các nhân sự chủ chốt của các ngành tư pháp, y tế, giáo dục, xã hội, thậm  chí cả một phần công an, quân đội nữa. Phương án muốn duy trì bộ mặt  khả ái của chính sách cai trị để đi theo khối Liên hiệp Pháp còn được  đẩy mạnh vào các thời điểm giữa năm 1947, giữa năm 1957 khi miền Bắc VN  vẫn còn hy vọng hiệp thương thống nhất đất nước(8).
 - Quá trình xây  dựng nhà nước VNDCCH theo hướng dân chủ bị biến dạng và bị phá vỡ bởi sự  thắng lợi của CNXH châu Á ở Trung Quốc. Không phải HCM không thấy hết  mặt trái của chủ nghĩa Mao nhưng do rất cần nguồn viện trợ và do Stalin  không mặn mà với ông, giao hẳn trách nhiệm cho cách mạng Trung Quốc giúp  đỡ cách mạng Việt Nam, ông phải mở cửa cho các cố vấn cộng sản Trung  Quốc mang theo chủ nghĩa Mao xâm nhập vào đất nước. Điều này dẫn đến sự  lệ thuộc của cộng sản Việt Nam vào cộng sản Trung Quốc, tạo cơ hội cho  Mao áp đặt hệ tư tưởng của ông ta lên Hồ Chí Minh và những người cộng  sản Việt Nam (9).
 
Bề mặt của quá trình này thể  hiện ở các mâu thuẫn trong nội bộ cộng sản Việt Nam, các cuộc thanh  trừng phe phái lúc thì phe thân Liên Xô, lúc phe thân Trung Quốc, ở các  cuộc chỉnh huấn, cải cách ruộng đất, tranh luận về văn học, luật pháp,  tư pháp, ở các cuộc thanh trừng những trí thức kiên trì với tư tưởng dân  chủ mới hoặc CNXH chân chính như Vũ Đình Hòe, Vũ Trọng Khánh, Nguyễn  Mạnh Tường, Dương Đức Hiền,  Nguyễn Hữu Đang… Lĩnh vực giải hóa luật  pháp và NVGP là điển hình của quá trình đó. 
Đối  với văn nghệ do cộng sản Việt Nam lãnh đạo Trường Chinh là người đã đưa  các quan điểm văn nghệ của Mao Trạch Đông vào hoạt động Văn hóa Cứu quốc  từ năm 1943, kiên trì bảo vệ nó cho tới khi đổi mới, đã tạo ra rất  nhiều vụ án văn nghệ khác nữa, là nhân tố chính làm cho nền văn nghệ  Việt Nam hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền nhưng tụt hậu so với sự phát  triển chung của văn nghệ nhân loại.Trong thời kỳ ban đầu Trường  Chinh không thể chi phối được mọi hoạt động của VHCQ do đa số những  người thực hiện là các trí thức có ảnh hưởng tư tưởng DCTS. Do điều kiện  kháng chiến, VM không thể thành lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt  đường lối của mình. Đọc Một nền văn hóa mới của Nguyễn Hữu Đang , Nguyễn  Đình Thi viết xong tháng 6-1945 để trình bày trong Hội nghị Quốc dân  Tân Trào tháng 8-1945, xuất bản tại Hà Nội cuối 1945, người ta thấy điểm  khác biệt cơ bản giữa hai ông và Trường Chinh là yếu tố  tư tưởng Dân  chủ.
 Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi quan niệm:
 …để thực hiện  nền văn hóa mới, trước hết chúng ta phải củng cố nền độc lập hoàn toàn  và làm thực hiện chính thể dân chủ cộng hòa triệt để.
 …Ban bố triệt  để quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận, chính là cởi mở cho văn hóa  trở nên sầm uất, và đem một luồng sinh khí mạnh mẽ thổi vào cái văn hóa  bao lâu phải sống trong những phòng ngục chật hẹp, thiếu ánh sáng,thiếu  hơi nóng của mặt trời. Sách vở và báo chí được xuất bản tự do, nền văn  nghệ của ta mới có thể dồi dào phong phú.
 Còn Trường Chinh thì xuyên  suốt các văn kiện từ khởi thủy cho đến sau này đều dựa trên các nguyên  lý văn nghệ của Mao Trạch Đông, bắt văn nghệ phục vụ chính trị, lấy mục  tiêu sáng tạo văn nghệ là phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền  như là một mệnh lệnh tuyệt đối  cho văn nghệ sĩ. Chưa bao giờ thấy ông  đưa ra các yếu tố tự do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do ngôn luận làm  điều kiện cho sự thành công của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Ấy là chưa  nói đến phương pháp lập luận của Trường Chinh đầy chất ngụy biện, giả  dối, phản khoa học, thực dụng về chính trị. Rất nhiều mệnh đề của ông  khi đưa vào vận hành quản lý văn nghệ đều đi ngược lại với tinh thần của  nó. Và chính bản thân ông trong một số trường hợp cụ thể đối với một số  tác phẩm đã thể hiện thái độ hẹp hòi, thiển cận, quy chụp, trù dập văn  nghệ sĩ.
 Mâu thuẫn đã bộc lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh  ngay từ lúc tổ chức Hội nghị VHCQ toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể  nói kết thúc bằng Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ VHCQ,  thành lập Hội Văn nghệ Việt Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn  nghệ Maois vào thời điểm tháng 7- 1948 (10). Từ thời điểm này sự rạn  nứt trong đội ngũ văn nghệ kháng chiến càng trở nên trầm trọng hơn.  Nhiều người bắt đầu bỏ về thành, số lượng nhiều hơn khi các cuộc chỉnh  huấn theo kiểu Mao mở ra (11). Số này sau trở thành lực lượng nòng cốt  của văn nghệ Sài Gòn : Tạ Tỵ, Mai Thảo, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Tiến  Lãng, Nguyễn Mạnh Côn, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ, Phạm  Duy, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Lê Văn Vũ  Bắc Tiến ...Trong số VNS ở lại vùng kháng chiến các cuộc tranh luận về  tự do sáng tác và dân chủ vẫn còn diễn ra với các ông Trương Tửu, Nguyễn  Mạnh Tường, Tô Ngọc Vân, Văn Cao, Sỹ Ngọc...Có khi trở thành đòn đánh  nhau công khai như việc phê bình thơ không vần của Nguyễn Đình Thi,  tranh lập thể của Văn Cao, Tạ Tỵ...Tuy vậy trong bộ máy của Chính phủ  kháng chiến HCM vẫn không có Bộ Văn hóa, Hội Văn nghệ đã phải làm thay  chức năng cho bộ này cho tới tháng 2-  1955. Đa số văn nghệ sĩ trong  kháng chiến đều gia nhập quân đội và thuộc quản lý của Phòng Văn nghệ  quân đội với các chính sách văn nghệ được quân sự hóa dưới sự lãnh đạo  của các chính ủy.
 
Hy vọng về một cuộc sống thoải  mái hơn về vật chất và tinh thần sau khi hòa bình lập lại bị héo úa về  cuộc Cải cách ruộng đất và những khó khăn trong đời sống, do cách thức  quản lý xã hội như hộ khẩu, cải tạo tư sản, thương nghiệp quốc  doanh...Trong văn nghệ đó là tệ lãnh đạo chính trị thô bạo, ép buộc  tuyên truyền một chiều, tệ bè phái cơ hội, tác phong lãnh đạo hống hách,  sáng tác đơn giản sơ lược ... 
2 – Bối cảnh quốc tế, cuộc cách mạng dân chủ lần thứ nhất của phe XHCN tác động đến CMDC ở Việt Nam. 
Sau  1945 không phải Liên Xô đã hoàn toàn chi phối được chính quyền  các  nước Đông Âu. Ở một vài nước vẫn còn chính phủ DCTS. Đến đầu những năm  50 các cuộc chính biến cộng sản ở các nước này nổ ra lật đổ các chính  phủ DCTS thì mới có được một hệ thống XHCN thuần nhất theo sự lãnh đạo  của Stalin. 
Cũng như ở Liên Xô toàn bộ các nước  XHCN dưới sự chỉ đạo của Stalin đã bộc lộ các mâu thuẫn gay gắt trong  nội bộ lãnh đạo các ĐCS, giữa nhân dân, trí thức, văn nghệ sĩ với ĐCS về  các vấn đề pháp quyền dân chủ. Nhiều cuộc đàn áp nội bộ nhằm vào trí  thức, văn nghệ sĩ, những người bất đồng chính kiến... Chỉ đợi đến lúc  Stalin chết thần tượng Stalin mới bị hạ bệ, bị kết tội về những tội ác  đã gây ra trong thời kỳ cai trị Liên Xô bằng chế độ độc tài và các cuộc  thanh trừng nội bộ đẫm máu. Trong Đại hội lần thứ XX Đảng Cộng sản Liên  Xô tháng 2- 1956 Tổng bí thư Khơ Rút sốp đã đọc báo cáo tổng kết các tội  ác thời Stalin và đề xuất chiến lược mới cho phe XHCN chung sống hòa  bình cũng có nghĩa là mở ra cho các nước xã hội chủ nghĩa một thời kỳ  dân chủ (12). 
Không phải đợi đến khi Khơ Rút Sốp  chính thức tuyên bố, ở các nước XHCN đều đã có các yếu tố đòi hỏi phải  cải cách dân chủ. Nhưng tiếc rằng khi hoa dân chủ nở rộ ngọn sóng dân  chủ đã làm cho các ĐCS ở đây lo sợ về nguy cơ khủng hoảng. Các phần tử  bảo thủ đã tìm mọi cách làm cho những người khởi xướng, ủng hộ cải cách  do dự rồi lật ngược thế cờ. Một số cuộc nổi dậy bị đàn áp, các văn nghệ  sĩ cấp tiến bị xử lý, thậm chí bị kết tội hoạt động lật đổ chính quyền  nhân dân. Có thể gọi đó là Cuộc cách mạng dân chủ XHCN lần thứ nhất. Sau  hai mươi năm cuộc Cách mạng dân chủ lần thứ hai đã nổ ra cũng khởi đầu  từ Liên Xô với ngọn cờ Công khai- Cải tổ của Goóc Ba Chốp Tổng bí thư  ĐCSLX và đã dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống XHCN . 
Vậy  cuộc cải cách dân chủ lần thứ nhất ở Việt Nam chính là Phong trào Nhân  Văn Giai Phẩm một trào lưu tư tưởng, trong đó theo truyền thống Á Đông  đặc trưng cơ bản của nó là phản ứng về ngôn từ chứ không phải là một vụ  bạo loạn. Tất nhiên khi yêu cầu cách mạng này đặt lên vai văn học thì từ  bên trong văn học xuất hiện những yêu cầu thay đổi về hình thức để đáp  ứng yêu cầu xã hội.  
3- Bối cảnh văn nghệ  miền Bắc 1945- 1954. 
Nền  văn hóa Việt Nam vốn từ vốn từ một nền văn hóa nho giáo trì trệ trong  nhiều thề kỷ trung cận đại bắt đầu được hiện đại hóa với chữ quốc ngữ từ  giữa thế kỷ XIX, phát triển từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với các  cuộc khai sáng, đỉnh cao là du nhập báo chí, hội họa, mỹ thuật, âm nhạc  Tây Âu, để có âm nhạc tiền chiến, Thơ Mới và Tự Lực Văn Đoàn. Hai phong  trào văn học này làm cho văn học Việt Nam vươn tới một nền văn học có  các phương pháp sáng tác của văn học hiện đại thế giới cả về ngôn ngữ,  nhân vật, thi pháp biểu hiện, chủ nghĩa cá nhân...Nếu nói về tiến  trình văn học, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã làm gián đoạn, nếu không nói  là đứt đoạn quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam. Ở đây không nói  toàn bộ nền văn học mà là bộ phận văn học do những người cộng sản Việt  Nam thực hiện quản lí. Các chính sách về VHVN của ĐCSVN bị ảnh hường  nặng nề chủ nghĩa Mao, sau nữa là chủ nghĩa Lê nin, Stalin đã đoạn tuyệt  gần như hoàn toàn với quá khứ nhất là bộ phận di sản văn nghệ quan  trọng nhất, 1930- 1945, đã tuyệt đối hóa chức năng tuyên truyền, lấy  quần chúng công nông binh làm mục tiêu , làm thước đo giá trị của văn  nghệ, đã thủ tiêu mọi ý tưởng thể hiện nghệ thuật bằng ký hiệu nghệ  thuật của người nghệ sĩ. Chính vì vậy người ta mới cường điệu việc tìm  đường, nhận đường cho văn nghệ sĩ, gọi nó cuộc lột xác đau đớn, là cuộc  sáng tạo mới với câu tuyên ngôn giết chết cái cũ trong con người họ.
 Chính  vì thế, văn nghệ kháng chiến đã đánh mất nhiều tài năng trong các cuộc  chỉnh huấn, các cuộc phê bình tâm hồn tiểu tư sản hoặc phê bình mạt sát  các loại hình nghệ thuật hiện đại. Một bộ phận đáng kể trí thức, văn  nghệ sĩ có tư tưởng tự do trong đó đa số là gốc Bắc đã ly khai văn nghệ  kháng chiến. Còn các văn nghệ sĩ tiền chiến thì co mình lại, hoang mang  không biết viết cái gì, vẽ cái gì. Lớp văn nghệ sĩ do công nông binh  sinh ra chưa thể trở thành những cây bút có tầm vóc. Nhìn vào chất lượng  các Giải thưởng văn nghệ trong kháng chiến thì thấy rõ điều đó, có thể  gọi là xuất sắc với vài bài thơ, một vài tiểu thuyết có phần đơn giản.
 Bước sang giai đoạn hòa bình trong khi bộ máy quản lí vẫn còn đang theo quán tính cũ, thì cuộc sống đã đặt ra những vấn đề mới.
 Cách  mạng đã chuyển giai đoạn. Thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, ai  cũng biết là một thời kỳ có nhiều biến chuyển sâu sắc triệt để hơn tất  cả các thời kỳ cách mạng trước. Cuộc sống thay đổi rất nhanh và một điều  làm cho nhiệm vụ của nhà văn trở nên phức tạp hơn, là công cuộc cải tạo  xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc còn đương tiến  hành, khó phân biệt trong đó cái gì đương xây dựng chưa xong, và cái gì  đương đổ sụp...
 Như Phong- Nhìn lại bước đường đã qua, Tuyển tập Như Phong.
 Trong  bối cảnh văn học riêng của miền Bắc như thế, trong bối cảnh văn học thế  giới, văn học Sài Gòn đang chuyển sang các chủ nghĩa hiện đại, bối cảnh  cuộc cách mạng dân chủ của toàn phe XHCN tất các văn nghệ sĩ phải đặt  ra việc cách tân văn học cả nội dung và hình thức. Đặc biệt của NVGP là  sứ mệnh cải cách lại do chính những trí thức, văn nghệ sĩ con đẻ của  cách mạng, những người đã ở tuyến đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp  khởi xướng.
 Nếu cố thoát ra khỏi lối mòn, nhìn theo tiến trình phát  triển văn học thế giới, có thể thấy rằng ở Việt Nam nhóm thơ Xuân Thu  Nhã Tập của Nguyễn Xuân Sanh đã báo hiệu sự bế tắc của chủ nghĩa lãng  mạn, chủ nghĩa hiện thực phê phán để chuyển qua chủ nghĩa siêu thực. Đó  không phải là dòng văn học tiêu cực mà là tích cực theo ý nghĩa nó là  một cố gắng của những nhà văn đi tìm lối thoát đưa văn học Việt Nam tiến  lên một trình độ tư duy cao hơn.
 Tiếp theo mọi người còn nhớ sau  trong những ngày mấp mé bờ vực chiến tranh của nước Việt Nam mới tiếp  tục xuất hiện nhóm thơ Dạ Đài của Trần Dần, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng,  Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch... Trong Bản Tuyên Ngôn Tượng Trưng nhóm Dạ  Đài đã nói rõ thái độ phủ định văn học giai đoạn cũ và không dấu diếm ý  đồ muốn tạo ra một dòng văn học mới:
 Vì thế, cái thi ca cổ rích, cái  thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn khóc bạn chẳng  làm chúng ta quên, ví chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu  bồng bềnh của bản thanh âm hoàn vũ.
 Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ  tượng trưng – chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng,  chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một  chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động.
 
Trần  Dần thủ lĩnh của nhóm Dạ Đài sau mười năm, ở một ngã ba, ngã tư thời  đại lại đã được trời đất cho nguồn cảm hứng về một cuộc lột xác cho nền  văn học.Hẳn là Trần Dần đã mang cái khát vọng sôi sục ấy vào các  trường ca Cách mạng Tháng Tám, Đi- Việt Bắc, Nhất định thắng... và lôi  cuốn các người bạn cùng theo. Trong nhật ký Ghi 1954 ông viết:
 Lúc  tôi muốn một thứ Thơ dễ dãi. Lúc một thứ Thơ không có vần. Lúc một thứ  Thơ như một hạt ngọc. Lúc một thứ Thơ kể chuyện. Lúc một thứ Thơ gồ ghề.  Lúc một thứ Thơ hiền lành, có cái khỏe của những bắp thịt hồng. Lúc một  thứ Thơ na ná như của anh lính, nó mát mà lành, nó hiền mà khỏe, nó  thực tế. Lúc là một thứ Thơ na ná như bài nói của anh cán bộ, nó đả  thông, nó giục giã, nó lý luận.
 Tôi thích Thơ thời sự, theo sát cái  hồi hộp, lo lắng của Đảng tôi, dân tôi, triệu triệu quả tim dân chúng và  quân đội, chiến sĩ và cán bộ, lãnh tụ và quần chúng.
 Tôi lại cũng  thích Thơ không thời sự, Thơ bao trùm đất nước và thời gian, Thơ ăn lấn  sang mọi thế kỉ, và Thơ nhập cả vào cái biện chứng bao la của sự vật.
 Vì  vậy bây giờ tôi muốn một thứ Thơ nào đó lấy đề tài ngay ở nhịp đập  trước mắt của trái tim dân tộc Việt Nam. Nhưng trong đề tài đó tôi đào  mãi đào mãi tới khi tôi tìm thấy quả tim Nhân Loại. Đó là thực sự mà  cũng là ý muốn của tôi. Quả tim dân tộc tôi có nghĩa là quả tim Nhân  Loại. Nhịp đập của nó là nhịp đi của Biện Chứng. Cái ngày hôm nay là dồn  ép của hàng triệu năm về trước và mở ra triệu thế kỷ về sau. Tôi muốn  một thứ Thơ nào đó vạch ra được sự thực đó. Hạt bụi, sợi tóc mây là cả  một vũ trụ. Một khoảnh khắc là cả lịch sử của trần gian. Một thắc mắc  của em là tất cả lo âu nhân loại.
 Qua những dòng này không ai có thể  nghĩ đó là một quan niệm suy đồi. Thời đại đã cho Trần Dần một quan niệm  thơ ca mới mẻ và rất biện chứng, rất tích cực đối với cuộc sống.
 Như  vậy có lẽ trước tiên NVGP đi từ cảm hứng của một cuộc cách tân văn học,  bị kích thích bởi thời cuộc Việt Nam 1954- 1956. Tuy vậy, vẫn phải nói  thêm rằng nếu không có cái thời cuộc đó sẽ không có NVGP!
 Trong NVGP  trào lưu tư tưởng chính trị và trào lưu tư tưởng văn học gặp nhau đã tạo  ra một sức mạnh xã hội to lớn làm chính quyền nhìn thấy một nguy cơ đe  dọa nguy hiểm cần phải loại bỏ hơn là để nó tồn tại. Lúc ấy miền Bắc  Việt Nam chưa hẳn là chưa đủ điều kiện để làm một cuộc cải cách dân chủ,  một cuộc cải cách văn học. Nhưng đáng tiếc cơ hội bị bỏ lỡ vì tham vọng  của bộ phận tả khuynh của ĐCSVN muốn ngay lập tức thống nhất đất nước,  thủ tiêu chính quyền phía bên kia bằng vũ lực. Tham vọng này gặp được bộ  phận những người chủ trương, tổ chức thực hiện CCRĐ lấy nguy cơ dân chủ  để biện minh cho đường lối và hậu quả việc làm của họ.
 Hai mươi năm  sau khi NVGP bị đánh dẹp, 1979 văn nghệ Việt Nam lại lâm vào bế tắc khi  chuyển giai đoạn thời chiến sang thời bình. Nhà văn Nguyên Ngọc với sự  giúp đỡ của các chiến hữu đồng nghiệp miền Trung đã viết bản Đề cương đề  dẫn thảo luận ở Hội nghị đảng viên bàn về sáng tác văn học. ĐCĐD đã  thẳng thắn nói ra những mặt yếu kém bế tắc của nền văn học Việt Nam lúc  đó ( trừ văn học miền Nam dưới chế độ cộng hòa) và đưa ra mấy vấn đề bức  thiết có ý nghĩa cách tân trong đó có vấn đề dân chủ, tự do sáng tác.  Tất nhiên là sự diễn đạt của Nguyên Ngọc còn ở mức độ lễ phép, phải đạo  nhưng ngay lập tức ông đã bị Tố Hữu cách chức Bí thư đảng đoàn HNVVN. ĐC  ĐD bị các phần tử bảo thủ cơ hội phê phán kịch liệt nhưng năm 2010  trong khi viết lịch sử HNVVN các ông Hồng Diệu, Hữu Nhuận, Thái Kế Toại,  Lê Quang Trang… đã coi ĐCĐD là hiện tượng tiền đổi mới của văn học Việt  Nam.
 Ba mươi năm sau,  bị tác động bởi cuộc cách mạng dân chủ lần  thứ hai của phe xã hội chủ nghĩa, đứng trước nguy cơ khủng hoảng nghiêm  trọng, ĐCSVN mới đưa ra sách lược đổi mới. Trường Chinh đã làm được việc  khởi xướng đổi mới, nền kinh tế đất nước đã có ít nhiều thay đổi, nhưng  về chính trị thì đó là cuộc đổi mới nửa vời phụ thuộc vào các bước đi  của ĐCS Trung Quốc. Vì thế những di sản văn hóa Maois mà Trường Chinh đã  áp đặt lên đất nước từ 70 năm nay dù đang hoen gỉ nhưng bộ khung của nó  thì vẫn còn tù hãm đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam.
 
4- Các điều kiện nảy sinh NVGP 
Mặc  dù chủ nghĩa Mao đã được chính thức thừa nhận trong cương lĩnh ĐCSVN  tại Đại hội lần thứ II tháng 2- 1951 nhưng do các điều kiện  của thời  kỳ  đó nội bộ lãnh đạo Đảng vẫn còn bị ràng buộc bởi các sự kiện sau: 
Họ  còn đang choáng váng về hậu quả của sai lầm do CCRĐ gây ra, Đảng phải  công khai xin lỗi nhân dân, Tổng bí thư Trường Chinh phải từ chức, một  số cán bộ lãnh đạo CCRĐ bị kỷ luật (13). Đảng buộc phải lên tiếng công  khai thừa nhận sai lầm về đường lối, về các căn bệnh trầm trọng trong  đảng và trong bộ máy chính quyền, phải đưa ra việc mở rộng tự do dân chủ  cho các tầng lớp nhân dân.  
Họ còn bị ràng buộc  những điều kiện để hy vọng tiếp tục quá trình hiệp thương thống nhất đất  nước và giành thắng lợi trong cuộc Tổng tuyển cử cho nên phải cố gắng  tạo bộ mặt sạch sẽ cho chính thể VNDCCH như tiếp tục sử dụng nhiều nhân  sĩ trí thức trong Chính phủ, Quốc hội, ban hành các đạo luật có tính  chất dân chủ cởi mở như Luật tự do báo chí, tự do xuất bản, tự do hội  họp, tự do lập hội...Cho đến giữa năm 1957 HCM vẫn còn tính đến khả năng  Việt Nam xin gia nhập Khối Liên hiệp Pháp (14). 
Những  người cộng sản Việt Nam, tuy có mức độ khác nhau nhưng đều chịu ảnh  hưởng chung của khối XHCN về quá trình dân chủ hóa đặc biệt là từ ĐCS  Liên Xô và sau là ĐCS Trung Quốc. Đối với các nước XHCN lúc đó dân chủ  hóa là đòi hỏi cấp bách nhưng chưa chín muồi, thế giới đang ở trạng thái  chiến tranh lạnh. Vì thế dẫn đến việc hành động dân chủ hóa trong trạng  thái mâu thuẫn nội bộ và ngập ngừng, dẫn đến thất bại khi bị phe bảo  thủ lật lại thế cờ. Quá trình chập chờn này được phản ánh vào cách hành  động nửa vời của Khơ rút sốp, quá trình giải quyết vụ Trăm hoa đua nở ở  Trung Quốc và vụ  NVGP ở Việt Nam. Có một vài nhận định rằng Mao Trạch  Đông và Hồ Chí Minh dùng thủ đoạn làm cho trí thức văn nghệ sĩ mắc bẫy  rồi tiêu diệt. Đó là nhận định chưa đúng về bản chất hình thái dân chủ  hóa trong lòng XHCN. Đặc điểm này còn được phản ánh rõ ràng hơn với vụ  hạ bệ Khơ  Rút Sốp năm 1964, Trung Quốc trong vụ Thiên An Môn năm 1989  với việc hạ bệ hai Tổng bí thư ĐCSTQ có tư tưởng cải cách là Hồ Diệu  Bang và Triệu Tử Dương, với vụ hạ bệ Trần Xuân Bách, Trần Độ ở Việt Nam  năm 1990.
 Các đặc điểm này có thể càng làm rõ  thêm điều  kiện xuất hiện của Phong trào NVGP, ý nghĩa chính trị tốt đẹp của nó.  Các nhà văn, trí thức NVGP đã dũng cảm làm trọn sứ mệnh công dân của họ.  Các mục tiêu mà họ hướng tới đều là mục tiêu tất yếu của ĐCSVN, trong  khuynh hướng cải cách do chính ĐCSVN đề ra, muốn cùng đảng thực hiện xây  dựng một xã hội dân chủ. Nhiều người trong NVGP là đảng viên và có cả  vị trí, chức vụ quản lý văn hóa văn nghệ. Vì vậy không việc gì phải né  tránh ý nghĩa và mục đích chính trị của phong trào NVGP khi người ta có  trong tay các văn bản nghị quyết của ĐCSVN trong thời kì đó. Bi kịch của  NVGP là do một số người có trách nhiệm về công tác tư tưởng được giao  xem xét vụ NVGP đã vì mục đich cá nhân dùng các thủ đoạn mờ ám lừa dối  Ban lãnh đạo và đảng viên của đảng đi ngược lại tinh thần chỉ đạo của  Trung ương đảng, biến NVGP từ một hiện tượng bất đồng chính kiến mâu  thuẫn nội bộ thành một vụ án chính trị gián điệp phản động có mục đích  lật đổ chính quyền.
 
Có thể tìm thấy sự tương phản  này trong chính Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai tháng 2-1957. Thư  của Ban chấp hành trung ương Đảng lao động Việt Nam gửi Đại hội đã đánh  giá tình hình văn nghệ như sau:Thật vậy sự lãnh đạo của Đảng về mặt  văn nghệ đã có những thiếu sót về đường lối chính sách. Và bên cạnh  những cố gắng, cơ quan trực tiếp phụ trách văn nghệ đã có những lệch  lạc, như coi nhẹ việc lãnh đạo tư tưởng trong hòa bình, hẹp hòi trong  lãnh đạo sáng tác, cô độc có tính bè phái trong lãnh đạo về tổ chức.  Những khuyết điểm ấy đã được thẳng thắn phê bình và cần phải kiên quyết  sửa chữa.
 Về phần các bạn văn nghệ sĩ thì hiện nay còn những khuyết  điểm về mặt tư tưởng và nghệ thuật cần phải khắc phục, ví dụ như: lập  trường cách mạng chưa được dứt khoát, rõ ràng, sự hiểu biết về đời sống  nhân dân chưa được sâu sắc, còn phạm chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tự  nhiên và chủ nghĩa sơ lược trong sáng tác.
 Nói về phương hướng xây dựng nền văn nghệ bức thư nêu:
 Sau  cùng một điều quan trọng là đoàn kết nhất trí tất cả những người công  tác văn học yêu nước và tiến bộ thành một mặt trận rộng rãi và chặt chẽ  dưới sụ lãnh đạo của Đảng và đứng trong Mặt trận dân tộc thống nhất của  ta. Những nhà văn nghệ yêu nước và tiến bộ miền Bắc và miền Nam, ở trong  nước cũng như ở ngoài nước, không phân biệt dân tộc, khuynh hướng chính  trị và tôn giáo, không phân biệt Bắc Nam, kháng chiến hay không kháng  chiến, không phân biệt khuynh hướng nghệ thuật, không phân biệt cũ, mới,  gái , trai, già, trẻ, các nhà văn nghệ nổi tiếng cũng như các nghệ sĩ  dân gian, tất cả đoàn kết hơn nữa, thành một đội quân văn hóa mạnh mẽ,  đông đảo, dũng cảm và nhất trí, để phục vụ Tổ quốc và nhân dân đắc lực  hơn.
 Bức thư này không có một dòng nào chỉ trích về Nhân Văn Giai  Phẩm. Thế mà trong bài phát biểu của Trường Chinh với tư cách cá nhân  ông ta đã kết tội NVGP rất nặng nề:
 Tính chất nguy hại nhất của báo “  Nhân văn” chính là ở chỗ nó nêu chiêu bài theo chủ nghĩa Mác-Lê nin mà  sự thật đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lê nin, nói là chịu sự lãnh đạo của  Đảng mà mà kỳ thực đả kích sự lãnh đạo đó, rêu rao là bảo vệ chế độ  nhưng cố nhằm bôi đen chế độ. Tính chất nguy hại của báo đó còn ở chỗ nó  dựa vào những ý kiến tự phê bình đúng đắn của Đảng rồi bơm to lên để  nịnh dân, và hành động phá hoại về mặt tư tưởng, nghệ thuật và dần dần  đi tới phá hoại về mặt chính trị nữa.
 
Kết quả bầu  cử Ban chấp hành Hội liên hiệp VHNT và sau đó Ban chấp hành các hội  chuyên ngành khá nhiều nhân vật có tên tuổi của phong trào NVGP đều  trúng cử, chứng tỏ ý kiến của Trường Chinh không áp đảo được giới văn  nghệ sĩ. Nhiều người vẫn hy vọng vào một cuộc chuyển biến về dân chủ  trong đời sống văn học nghệ thuật. Không ai nghĩ rằng đó chỉ là khúc dạo  đầu của Trường Chinh chuẩn bị cho một kế hoach nham hiểm hơn với đầy đủ  các thủ đoạn Maoism sau đó để đưa NVGP ra trước vành móng ngựa. Lẽ ra  với những tội ác mà CCRĐ đã gây ra, ở một đất nước có luật pháp thực sự,  Trường Chinh và các cộng sự đã phải bị khai trừ đảng hoặc ra đứng trước  vành móng ngựa. Và nếu như ngọn cờ của chủ nghĩa Maoism ở Việt Nam bị  đốn gục từ ngày ấy thì cái giá dân tộc Việt Nam phải trả cho Trung Quốc  có lẽ không đắt như hiện nay. 
III- DIỄN BIẾN VỤ NVGP 
1- Biên niên sự kiện 
Năm 1953:- Stalin qua đời ngày 5 – 3 - 1953
 - Ngày  17- 6 – 1953 dân chúng biểu tình tại Cộng hòa dân chủ Đức. B. Brecht và  J. R Becher phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và nhà  nước.
 - Trần Dần bị phê bình giảng sai chính sách văn nghệ của Đảng trong khóa đào tạo cán bộ văn công do ông phụ trách.
 - Luật  Cải cách ruộng đất được ban hành từ tháng 12-1953 nhưng trước đó ĐCSVN  đã tổ chức cuộc chỉnh huấn lớn kéo dài sang tới 1954 để đưa khí thế CCRĐ  của Trung Quốc vào cán bộ trí thức. Một số nơi đã tiến hành thí điểm. Ở  miền Nam Lê Duẩn phản đối chủ trương CCRĐ và đã tiến hành theo cách của  mình.
 
Năm 1954:- Chiến thắng Điện Biên Phủ.
 - Cải  cách ruộng đất. Sau đó cán bộ và dân chúng còn bàn luận đến ngày nay về  việc xử bắn địa chủ đầu tiên ở chiến khu là bà Nguyễn Thị Năm một người  có nhiều con tham gia kháng chiến có người là chính ủy trung đoàn, đã  hiến 100 lạng vàng cho chính phủ, đã nuôi Hồ Chí Minh, Bộ chính trị và  nhiều đơn vị quân đội. Sự kiện này tạo ra ấn tượng kinh hãi về sự bất  nhân, lật lọng của Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông.
 Cải  cách ruộng đất đã xử lí đấu tố, xử bắn gần nửa triệu địa chủ, gần trăm  ngàn đảng viên, gây điêu dứng cho hàng triệu người là con em của những  gia đình này. Điều quan trọng là CCRĐ đã tàn phá các quan hệ đạo đức, xã  hội truyền thống của làng xóm miền Bắc.
 - Hiệp định Giơ  ne vơ. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập tại Sài Gòn.
 - 700.000  ngàn người miền Bắc di cư vào Nam trong đó có nhiều trí thức văn nghệ  sĩ có tên tuổi. Đó là một cuộc lựa chọn-nhận đường, phân hóa có ý nghĩa  lịch sử với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, còn có ý nghĩa văn học lâu  dài. Vũ Khắc Khoan viết các truyện ngắn Thần Tháp Rùa, Trương Chi, Thiên  Thai, Người Đẹp Trong Tranh với chủ đề về sự phân vân của trí thức Hà  Nội đi tìm một căn bản tư tưởng. Tại sao lại cứ bắt tôi phải hoặc là đen  hoặc là trắng.
 - Tháng 7 Hồ Phong công bố thư ngỏ gửi BCHTƯĐCSTQ phê phán năm lưỡi dao đâm vào óc các nhà văn cách mạng.
 - 10- 10 Chính phủ kháng chiến tiếp quản Hà Nội
 - Trần  Dần và Đỗ Nhuận, Hoàng Xuân Tùy được cử đi Trung Quốc viết lời bình cho  phim tài liệu về Điện Biên Phủ. Đến 12- 12 trở về Hà Nội. Có thể không  khí yêu cầu cải cách dân chủ ở Trung Quốc đã có ảnh hưởng đến Trần Dần  và Đỗ Nhuận.
 
Năm 1955:- Tháng 1 Hồ Phong công khai tự phê bình, đến tháng 5 thì bị bắt và bị kết án cải tạo.
 - 63 nhà văn Hung Ga Ry lên tiếng phản đối chế độ độc quyền.
 - Ngày  4-3-1855 Phòng Văn nghệ quân đội do Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm Lê  Đạt tổ chức Thảo luận phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
 - 11-3-1955  Báo Văn Nghệ số 65 công bố mở “ tự do diễn đàn” thảo luận về tập thơ  Việt Bắc. Mở đầu bằng việc đăng bài Tập thơ “ Việt Bắc” có hiện thực  không? Của Hoàng Yến. Tranh luận kéo dài đến tháng 8-1955 với sự căng  thẳng của hai nhóm. Nhóm Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Hoàng Yến…cho thơ  Tố Hữu nghèo vốn sống thực tế, đơn điệu, ủy mị. Nhóm của nguyễn Đình  Thi, Tú Mỡ, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông… ca ngợi thơ Tố Hữu là ngọn cờ  đầu của thơ kháng chiến Việt Nam . Tháng 3-1956 tập thơ Việt Bắc vẫn  được Giải Nhất Giải thưởng văn học của Hội Văn Nghệ Việt Nam 1954-1955.  Cuộc thảo luận này sau được coi như là một cái mốc mở đầu cho phong trào  NVGP. Nhóm phản đối thơ Tố Hữu sau trở thành lực lượng chủ chốt của  phong trào NVGP, nhóm ủng hộ Tố Hữu trở thành lục lượng nòng cốt đánh  NVGP. Còn Tố Hữu thì đã nhân việc NVGP thẳng tay với những kẻ đã dám hạ  bệ mình.
 - Tháng 4 Trần Dần cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Tử Phác,  Hoàng Cầm, Trúc Lâm... đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn  hóa lên Tổng cục chính trị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo  văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các  đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội.
 - Bị  phê bình Trần Dần viết đơn xin ra khỏi Đảng, xin giải ngũ đồng thời  quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Khuê gia đình Thiên chúa giáo di cư  bất chấp sự phản đối của quân đội.
 - Trần Dần  bị giam tại doanh trại từ 13- 6 đến 14- 9 để kiểm thảo, sau đó tham gia cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh.
 - Ngày  2- 9- 1955 tuần báo Trăm Hoa do Nguyễn Mạnh Phác làm Chủ nhiệm ra số I ,  báo tồn tại đến tháng 5 – 1956. Báo này có đăng 3 bài phê bình tập thơ  Ngôi sao của Xuân Diệu.
 - Mãi đến 20- 9- 1955 Chính phủ mới thành lập Bộ Văn hóa trên cơ sở Bộ Tuyên truyền.
 
Năm 1956:- Tháng  1 Hoàng Cầm, Lê Đạt chủ trương xuất bản sách dạng tạp chí Giai Phẩm Mùa  Xuân với các tác phẩm: Làm thơ và Mới – Gửi Vũ, Mỗi ngày mỗi lớn- Gửi  kế hoạch nhà nước 1956 của Lê Đạt, Mùa xuân đến rồi đây, Thơ qua đài  phát thanh của Hoàng Cầm, Anh có nghe thấy không của Văn Cao, Nhất định  thắng, Lão Rồng  của Trần Dần, Thi sĩ và công nhân của Phùng Quán, Hoa  đào vẫn nở của Nguyễn Sáng, Sổ tay của Sỹ Ngọc và sự cộng tác của Tô  Vũ...
 - Ngay lập tức GPMX bị tịch thu.
 - Lê Đạt bị gọi lên Ban Tuyên huấn kiểm điểm.
 -   Hội Văn nghệ tổ chức Hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng của Trần  Dần với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Trần Dần bị kết án là đồ đệ của Hồ  Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối văn nghệ của  Đảng.
 - Trần Dần và Tử Phác bị giam ba tháng tại Hỏa Lò Hà Nội. Trần  Dần dùng dao lam cứa cổ tự tử, được tướng Nguyễn Chí Thanh can thiệp  thả hai người.
 - Hoài Thanh viết bài Vạch trần tính chất phản động  trong bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần đăng trên báo Văn Nghệ số 110  ra ngày 7- 3- 1956.
 - Ngày 24- 2- 1956 Đại hội XX ĐCSLX công bố các  tội ác của Stalin. Chủ tịch Hội nhà văn Liên Xô Pha đê ép tự sát. Liên  Xô phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị kết án và bị giết dưới thời  Stalin. Văn nghệ Liên Xô gọi thời kỳ này là luồng gió ấm, sinh ra một  thế hệ văn nghệ sĩ tài năng xuất sắc như Paxtecnhac, Xônjenitsin, Ép tu  senko, Tru khơ rai, Bôn đa suc, Vôznêxenxky, Rôtdextvenxky,  Aimatôp...với các tác phẩm như Bác sĩ Jivago, Đàn sếu bay qua, Hai người  lính, Người thứ 41, Không thể sống bằng bánh mì, Ngày của binh nhất  Ivan...
 - Dư luận văn nghệ sĩ bất bình về việc trao Giải thưởng văn  nghệ 1954- 1955. Một số nhà văn cho là chấm giải theo bè phái, những  người trong Ban giám khảo tự chấm giải cho mình, nhiều tác phẩm chưa  xứng đáng với giải, trong đó có tác phẩm của Tố Hữu, Xuân Diệu, Hoài  Thanh, nguyễn Huy Tưởng, Trần Kim Trắc, Hồ Khải Đại...Có nhiều tác phẩm  có tiếng vang rộng rãi trong kháng chiến không được giải.
 - Vấn đề sai lầm CCRĐ đang được đặt ra, trở thành bức xúc lớn của xã hội, nhất là làm sôi sục bầu không khí ở nông thôn.
 - Ngày 26- 5 Mao Trạch Đông phát động phong trào Trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng.
 - Ngày 28- 6 các cuộc biểu tình ở Ba Lan.
 - Tại  Việt Nam ĐCS ngả theo khuynh hướng nới rộng tự do. Nguyễn Hữu Đang lúc  đó là Biên tập của tạp chí Văn Nghệ được giao tổ chức lớp học dân chủ 18  ngày của Hội Văn nghệ. Văn nghệ sĩ chỉ trích gay gắt đường lối lãnh đạo  văn nghệ của Đảng. Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi thừa nhận những sai lầm  nghiêm trọng và hứa hẹn sửa chữa. Hoài Thanh viết bài nhận lỗi tả khuynh  trong phê bình Trần Dần. Sau đó đến tháng 10 Thường vụ Hội Văn Nghệ  Việt Nam ra thông báo nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất định  thắng.
 - Tháng 7- 1956 kết thúc CCRĐ.
 - Tháng 9 Hội nghị lần thứ  10 BCHTƯ đánh giá di hại cuộc CCRĐ rất nặng nề, bàn về sửa chữa sai lầm  trong CCRĐ, nhấn mạnh việc tăng cường mở rộng tự do dân chủ cho nhân  dân. Trường Chinh từ chức Tổng bí thư ĐCSVN. Kỷ luật Hoàng Quốc Việt, Lê  Văn Lương, Hồ Viết Thắng...Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh xin lỗi  nhân dân về sai lầm trong CCRĐ.
 - Ngày 29- 8 Giai phẩm Mùa thu tập I  ra đời với các bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, Tỉnh giấc  chiêm bao của Nguyễn Bính, Tiếng sáo tiền kiếp của Trần Duy, Nhật ký đêm  hè của Huy Phương, Bức thư gửi một người bạn cũ của Trần Lê Văn...
 - Ngày  15- 9 ra mắt báo Nhân Văn ra số 1 do Phan Khôi làm Chủ nhiệm, Trần Duy  làm Thư ký tòa soạn, Nguyễn Hữu Đang, Hoàng Cầm, Lê Đạt làm Biên tập. Có  bài Phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường về vấn đề nỗ lực mở rộng tự do và dân  chủ, Nhân câu chuyện mấy người tự tử của Lê Đạt, Con người Trần Dần của  Hoàng Cầm, Chống bè phái trong văn nghệ của Trần Công, tranh minh họa  của Nguyễn Sáng.
 - Báo Nhân Văn 15 ngày một kỳ ra tiếp số 2 vào ngày  30- 9- 1956 với các bài Phỏng vấn Đào Duy Anh về mở rộng tự do dân chủ,  Phấn đấu cho Trăn hoa đua nở của Trần Duy, Trả lời Nguyễn Chương và báo  Nhân dân của Nguyễn Hữu Đang...
 - Giai phẩm Mùa thu tập II với các  bài Bệnh sùng bái cá nhân của Trương Tửu, Ông bình vôi của Phan Khôi,  Những người khổng lồ của Trần Duy, Chống tham ô lãng phí của Phùng  Quán...
 - Tập thơ Cửa Biển xuất bản có các trường ca Tiếng hát quan  họ của Hoàng Cầm, Những ngày trên cửa biển của Văn Cao, Cách mạng Tháng  Tám của Trần Dần và các bài thơ Máy, Đụng long mạch, Cha tôi ... của Lê  Đạt .
 - Ngày 8- 10 tái bản Giai phẩm Mùa xuân.
 - Ngày 15- 10 Báo  Nhân Văn ra số 3. Kỷ niệm ngày Vũ Trọng Phụng mất và các bài Nỗ lực phát  triển tự do dân chủ của Trần Đức Thảo, Phỏng vấn bác sĩ Đặng Văn Ngữ về  mở rộng tự do và dân chủ...
 - Tướng Nguyễn Sơn người bạn của văn nghệ sĩ kháng chiến Khu Bốn qua đời.
 - Ngày  20- 10 báo Trăm Hoa bộ mới do nhà thơ Nguyễn Bính làm Chủ nhiệm kiêm  Chủ bút ra số I, phát hành được 11 số, đến tháng 1- 1957 thì đình bản.  Trên báo này có bài Vì những sai lầm nghiêm trọng cần phải xét lại toàn  bộ Giải thưởng văn học 1954- 1955 của chính Nguyễn Bính, bài bênh vực  bài thơ Chiếc lược của Thụy An sáng tác theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch  mà các báo không nhận đăng, bài Chúng tôi đề nghị bỏ lệ khai báo trong  chính sách quản lý hộ khẩu, Thông báo của Hội nghị TƯ 10 về sai lầm  trong CCRĐ, bài Để phát triển chế độ ta, phải bảo đảm cho nhân dân được  tham gia quản lý kiểm soát tích cực mọi công việc của nhà nước...
 - Ngày  30- 10 Giai Phẩm Mùa Thu tập III với các bài Văn nghệ và chính trị của  Trương Tửu, Muốn phát triển học thuật của Đào Duy Anh  và bài của Phan  Khôi, Phùng Quán, Chu Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường...
 - Cũng ngày này Giáo  sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận rất quan trọng Qua những sai lầm  trong cải cách ruộng đất xây dựng quan điểm lãnh đạo tại cuộc họp của  Trung ương Mặt trận Tổ quốc, Hà Nội.
 - Tháng 11 nổ ra bạo loạn của giáo dân Thiên chúa giáo tại Quỳnh Lưu Nghệ An.
 - Bạo  loạn tại Hung Ga Ri, Chính phủ dân chủ Nagy tuyên bố Hung Ga Ry trung  lập. Liên Xô đưa quân vào Hung Ga Ry, cuộc tắm máu phong trào dân chủ  xảy ra ở Bu đa pet. Các nhà văn cộng sản có tên tuổi ở Châu Âu Laxness,  Sartre, Beauvoir, Vercors... lên tiếng phản đối Liên Xô.
 - Tại Sài  Gòn, ra đời nhóm văn học Sáng Tạo gồm Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn  Quốc Sỹ... Nhóm này chủ yếu gồm các nhà văn trẻ từ miền Bắc vào đã làm  thành công cuộc cách mạng ngôn ngữ thơ ca hiện đại ở Việt Nam thế kỷ XX.
 - Ngày  5- 11 báo Nhân Văn số 4 với bài Cần chính quy hơn nữa của Nguyễn Hữu  Đang, Thành thật đấu tranh cho dân chủ của Trần Duy, Con ngựa già của  chúa Trịnh của Phùng Cung, Những ngày báo hiệu mùa xuân của Văn Cao, Sự  thật về vụ xúc phạm thi sĩ Nguyễn Bính và báo Trăm Hoa của Người Quan  sát...
 - Cũng ngày này xuất hiện thêm tờ Sáng Tạo , báo Điện ảnh- Sân  khấu của nhóm Sáng Tạo với Ban biên tập gồm Hoàng Tích Linh, Trần Công,  Cao Nhị, Thanh Châu, Nắng Mai Hồng, Trúc Lâm, Phan Vũ, Phan Tại, Nguyễn  Đình Phúc, Sỹ Ngọc, Phạm Kỳ Nam, Trung Sơn, Vũ Phạm Từ, Anh Tâm, Lửa  Mới, Nguyễn Sáng.
 - Ngày 10- 11 Tập san  Đất mới tập I - Chuyện sinh  viên được NXB Minh Đức xuất bản với bài Phê bình lãnh đạo sinh viên của  Q.Ngọc và T.Hồng, các bài của Dương Viết Á, Nguyễn Bao, Bùi Quang Đoài,  Thúc Hà, Văn Tâm, Lê Tự Gia, Nguyễn Đức Tiếu.
 - Ngày 20- 11 báo Nhân  Văn số 5 với các bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa  bảo đảm tự do dân chủ thế nào? của Nguyễn Hữu Đang,  Bài học Ba Lan và  Hung Ga Ri của Lê Đạt kí Người Quan Sát...
 - Tháng 12- 1956 Ra mắt  Giai Phẩm Mùa Đông tập I với các bài : Tư tưởng tự do của văn nghệ sĩ và  sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn- sê- vích của Trương Tửu, Nội dung xã  hội và hình thức tự do của Trần Đức Thảo và bài của Trần Dần, Hoàng  Cầm, Tử Phác, Sĩ Ngọc, Trúc Lâm, Hữu Loan, Trần Công, Nguyễn Mạnh Tường.
 - Ngày  24- 1- 1957 Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I thông qua các Luật về quyền tự  do hội họp, Luật về quyền tự do lập hội, Luật quyền tự do báo chí...Đến  kỳ họp thứ 7 tháng 9- 1957 lại thông qua Luật về quyền tự do xuất  bản... Các luật này một mặt thể hiện tinh thần tự do tư tưởng, văn học  nghệ thuật báo chí, thừa nhận tự do báo chí xuất bản tư nhân nhưng mặt  khác lại có những điều cấm kỵ để các cơ quan quyền lực dựa vào hành xử  với những người muốn mở rộng giới hạn của tự do dân chủ.
 - Ngày 15-  12- 1956 báo Nhân Văn số 6 đang in bị đình chỉ. Ngày 18- 12 chỉ thị  ngừng phát hành báo Nhân Văn và Giai phẩm cùng các ấn phẩm khác của nhóm  NVGP, đóng cửa NXB Minh Đức, tịch thu các số báo cũ, cảnh cáo những  người còn lưu giữ và phân phối các báo này. Một chiến dịch báo chí đã  được tung ra để hạ uy tín các tờ báo và những người trong nhóm NVGP.
 - Cuối  tháng 12- 1956 Tập san Tự do diễn đàn do NXB Minh Đức phát hành bị cấm.  TDDĐ có các bài Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm  lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết  với cuộc đấu tranh văn nghệ? Của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học  không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Chú bé làm văn của  Trần Dần, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm,  Sinh hoạt văn hóa của Trương Tửu- Trần  Đức Thảo.
 
Năm 1957: 
-  Trong dịp Tết 1957 NXB Minh Đức còn xuất bản cuốn Sách Tết coi như tiếp  tục của Giai Phẩm với các tác phẩm của Quang Dũng, Trần Lê Văn, Huy  Phương, Lê Đại Thanh, Hoàng Tich Linh, Tô Vũ, Tử Phác, Thanh Châu, Hữu  Loan, Lưu Quang Thuận, Trần Công, Trần Dần, Hồng Lực, Trần Thịnh, Trúc  Lâm, Tạ Hữu Thiện, Lộng Chương, Hoàng Huế, Phan Khôi, Sỹ Ngọc, Cao Nhị,  Trần Huyền Trân, Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Khắc Dực, Nguyễn Sáng, Hoàng  Cầm.-Ngày 20 đến 28- 2- 1957 Đại hội văn nghệ toàn quốc  lần thứ II tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Trường Chinh sau thất bại  của CCRĐ đang muốn tìm một sự kiện để lật lại thế cờ trong Đảng, kêu gọi  đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn Giai phẩm. Thành lập Hội  Liên hiệp văn học Nghệ thuật Việt Nam. Trong Ban chấp hành vẫn có một  số người tham gia, liên quan NVGP như hai Phó Tổng thư ký Văn Cao, Lương  Xuân Nhị...Ở nhiều Hội khác các ông Nguyễn Sáng, Nguyễn Văn Tý, Hoàng  Cầm, Hoàng Tích Linh, Nguyễn văn Tỵ,...vẫn trúng Ban chấp hành.
 - Riêng Hội Nhà văn Việt Nam, nhà văn Tô Hoài làm Tổng thư ký. Hoàng  Cầm, Hoàng Tích Linh vẫn trúng BCH. Báo Văn cơ quan ngôn luận của Hội  Nhà văn ra số I từ 10- 5 do Nguyễn Công Hoan làm Chủ bút, Nguyễn Tuân là  Phó Chủ bút, Nguyên Hồng làm Tổng thư ký tòa soạn. Nhà xuất bản Hội Nhà  văn cũng được thành lập do Tô Hoài làm Giám đốc, Hoàng Cầm làm Phó Giám  đốc.
 
Như vậy việc đánh NVGP đợt II đã kết thúc  nhưng chưa có kết quả khả quan. Tại các Hội VHNT một số người có vai trò  tích cực trong NVGP vẫn còn được đồng nghiệp tín nhiệm bầu vào các vị  trí cao, bất chấp những tai tiếng họ đã gây ra trên mặt các số Nhân Văn  và Giai Phẩm và sức ép từ lời kêu gọi của Trường Chinh. Bản thân Trường  Chinh cũng không thể đẩy cao hơn tốc độ cuộc chiến chống NVGP vì ông ta  không còn đầy đủ quyền lực như trước nữa. Mặt khác Liên Xô và Trung Quốc  sau khi dẹp xong vụ Ba Lan- Hung Ga Ry vẫn chưa tiến đến đỉnh dao động,  chưa dứt khoát tiến công vào những văn nghệ sĩ trí thức bị gọi là phái  hữu. Bản thân những người NVGP vẫn còn được sự ủng hộ của lãnh đạo báo  Văn , họ vẫn có thể tiếp tục đăng các sáng tác mới trên báo này. Vào  tháng 7 tháng 8- 1957  khi tạp chí Học Tập, cơ quan ngôn luận của ĐCSVN  lên tiếng phê phán báo Văn, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài còn đứng  ra tranh luận bảo vệ quan điểm dân chủ của mình.- Ảnh hưởng của trào  lưu NVGP còn lan sang một tờ báo nhà nước vừa ra đời là tờ bán nguyệt  san Điện Ảnh, số 1 ra ngày 20- 7- 1957. Trong 10 số đầu báo Điện Ảnh vẫn  còn phê phán bệnh công thức sơ lược của phim Liên Xô và Trung Quốc để  phải kiểm điểm công khai trong số Tết 1958.
 - Ngày 27- 9 báo Văn số 21 in bài Lời mẹ dặn của Phùng Quán.
 - Ngày 15- 11 báo Văn số 28 in bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần
 - Trong  thời gian này  tại Trung Quốc, chiến dịch chống phái hữu đã bắt đầu.  Một số nhà văn bị phê phán: Trần Xí Hà, Đặng Thác… Nữ nhà văn Đinh Linh  người được Giải thưởng văn học Stalin với tiểu thuyết Mùa xuân trên sông  Tang Càn bị khai trừ khỏi ĐCSTQ, sau đó bà bị ngồi tù cho tới năm 1975.
 - Trong  thời gian này Hồ Chí Minh đi thăm Liên Xô, Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên  có ghé thăm Bắc Kinh, chứng kiến và có thể học hỏi các kinh nghiệm tổ  chức phong trào đánh phái hữu . Việt Nam cử Tố Hữu, Huy Cận và Hà Xuân  Trường sang  học tập kinh nghiệm, chính sách của Trung Quốc.
 - Các chiến dịch chỉnh huấn văn nghệ diễn ra ở Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức.
 - Tại Sài Gòn nhóm trí thức Bách Khoa  của Võ Phiến, Vũ Hạnh, Nguyễn Hiến Lê, nguyễn Ngu Ý…ra đời.
 
Năm 1958:- Ngày  6- 1- 1958 ĐCSVN ra Nghị quyết 30 về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.  Nghị quyết này là một điển hình cho tình trạng cực đoan về lãnh đạo văn  nghệ của ĐCSVN, sau này nó gần như bị loại bỏ không thấy đưa vào các  tập văn kiện lãnh đạo văn hóa văn nghệ của Đảng.
 - Ngày 10- 1- 1958  báo Văn số 36 in truyện ngắn Ông Năm Chuột của Phan Khôi. Đây là số báo  Văn làm giọt nước tràn ly. Đến số 37 báo bị đình bản. Từ đây kết thúc  thời kỳ phát ngôn công khai của nhóm NVGP. Năm 1958 là năm đen tối của  họ, đấu tố, kỷ luật, ngồi tù, cải tạo lao động...
 - Từ cuối tháng 1  đến cuối tháng 2- 1958 Lớp học đấu tranh tư tưởng lần thứ 1 tại Thái Hà  ấp với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự.
 - Từ 3- 3 đến 14- 4 Lớp học  đấu tranh tư tưởng lần 2 cũng tại Thái Hà ấp với 304 cán bộ văn hóa văn  nghệ tham dự. Trong khi họp thì ngày 10-4 công an Hà Nội bắt giam  Nguyễn Hữu Đang, Thụy An, Trần Thiếu Bảo..
 Cách tổ chức hai  lớp học này là dùng thủ đoạn đấu tố và áp lực tâm lý tập thể, sự vu cáo  bịa đặt tội lỗi cho những thành viên nhóm NVGP. Kết quả là không cần  điều tra người ta đã có đầy đủ tội trạng của các nhân vật để quyết định  bắt họ, kỷ luật họ.
 - Ngày 4- 6 Hội nghị Ban chấp hành Hội Liên hiệp  VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống NVGP. Tố Hữu đọc báo cáo Qua  cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn- Giai Phẩm trên mặt trận văn  nghệ (15). Bản báo cáo này là nhát gươm chính thức kết liễu số phận  Nhân Văn Giai Phẩm trên công luận với sự hằn học ghê gớm của một tên đao  phủ chứ không phải của một nhà thơ với đồng nghiệp của mình. Ông ta  viết: Đường lối thứ hai, là đường lối văn nghệ của những phần tử phản  động mà đại biểu là bọn cầm đầu nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm . Đó là  đường lối làm đồi trụy văn nghệ sĩ, đường lối đen tối phản cách mạng.
 - Ngày  5- 6 Nghị quyết với chữ ký của 800 văn nghệ sĩ nhưng không có danh sách  hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống NVGP.
 - Ngày  2- 7 Ban chấp hành mới của Hội Nhà văn Việt Nam bầu Tổng thư kí mới là  Nguyễn Đình Thi. Chủ tịch BCH nguyễn Công Hoan, Phó Chủ tịch Tú Mỡ, Tổng  thư ký Tô Hoài chỉ còn là Ủy viên Ban thường vụ. Phó Tổng thư ký Nguyễn  Xuân Sanh , Ủy viên thường vụ Nguyên Hồng, Tế Hanh, Đoàn Giỏi chỉ còn  là Ủy viên BCH. Hoài Thanh được bổ xung vào Ban chấp hành và vào thẳng  Ban thường vụ. NXB Hội Nhà văn sáp nhập vào NXB Văn học của Bộ Văn hóa.  NXB này cũng bị kết tội đã xuất bản một số tác phẩm bị coi là non yếu về  tư tưởng, một số tác phẩm từ trước 1945 thiếu chọn lọc, hoặc xuất bản  một số tác phẩm nước ngoài có ý tuyên truyền cho tư tưởng trái với chủ  nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
 - Ngày 7- 7 Thông báo kỷ luật các  văn nghệ sĩ đã tham gia NVGP. Hoàng Cầm bị cảnh cáo, khai trừ khỏi BCH  HNV, khai trừ 1 năm khỏi HNV. Cho Hoàng Tích Linh rút khỏi BCH. Phan  Khôi, Trương Tửu, Thụy An bị khai trừ vĩnh viễn khỏi HNV. Khai trừ trong  thời hạn 3 năm đối với Lê Đạt, Trần Dần. Khai trừ 1 năm khỏi HNV đối  với Phùng Quán. Cảnh cáo một số người:
 - Hội Mỹ thuật cảnh cáo Sĩ Ngọc, cho Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng rút khỏi BCH. Khai trừ Trần Duy khỏi HMT.
 - Hội Nhạc sĩ cho Văn Cao, Nguyễn Văn Tý rút khỏi BCH.Khai trừ 3 năm Tử Phác, Đặng Đình Hưng ra khỏi HNS.
 - Tại  các đợt học tập chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội  các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo  cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi  giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân  Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy, ...Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như  Bùi Quang Đoài ( Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ ( Thúc Hà  )...
 - Một số trí thức là nhân sĩ đã có thái độ ủng hộ NVGP cũng  chịu các hình thức đối xử như Dương Đức Hiền, Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục,  Hoàng Văn Đức, Đặng văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng...Ngoài ra tại các địa  phương những giáo viên, cán bộ , học sinh có hưởng ứng NVGP mua báo NVGP  đều bị xử lý với nhiều hinh thức.
 - Trong vòng ba đến sáu tháng các  VNS đi cải tạo lao động tại các nhà máy, nông trường, hợp tác xã...Một  số người phải cư trú lâu dài tại các địa phương như Hoàng Tố Nguyên,  Nguyễn Bính, Hải Bằng, Trần Lê Văn, Nguyễn Khắc Dực...
 
Năm 1959:- Tiếp tục các đợt lao động cải tạo
 - Phan Khôi từ trần ngày 16 tháng Giêng 1959 thọ 73 tuổi.
 - Sau  khi báo Văn bị đình bản, báo Văn Học ra đời do Nguyễn Đình Thi làm Chủ  nhiệm. Báo Văn Học không thuộc Hội Nhà văn quản lí mà do HLHVHNTVN. Hội  NVVN bị tước hết cơ quan ngôn luận xuất bản cho tới sauu 1975.
 - Nhà xuất bản Hội Nhà văn bị sáp nhập vào Nhà xuất bản Văn Học của Bộ Văn hóa.
 - Nhất Linh thành lập nhóm Văn Hóa Ngày Nay  ở Sài Gòn.
 - Mao Trạch Đông phát động chiến dịch Đại nhảy vọt.
 - Pasternak nhà văn xô viết đầu tiên được Giải thưởng văn học Nobel, không được sang Thụy Điển nhận giải.
 - Ngày 10- 12- 1959 Tòa án nhân dân Hà Nội khai mạc phiên tòa xử Vụ án gián điệp hoạt động phá hoại hiện hành.
 
- Nội dung bản án kết tội  như sau:Chúng là những tên gián điệp phản cách mạng, phá hoại hiện hành,hoạt  động có tổ chức, thực hiện âm mưu của địch, tiến hành những hoạt động  chiến tranh tâm lý đê hèn nhất, những hoạt động phá hoại thâm độc nhất,  để cuối cùng lật đổ chế độ chúng ta ở miền Bắc.
 
 - Kết quả tuyên án như sau:
 Nguyễn Hữu Đang 15 năm tù giam, 5 năm quả chế sau khi ra tù.
 Lưu Thị Yến tức Thụy An 15 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù,
 Trần Thiếu Bảo tức Minh Đức 10 năm tù giam, 5 năm quản chế sau khi ra tù.
 Phan Tại 6 năm tù giam, 3 năm quản chế.
 Lê Nguyên Chí 5 năm tù giam, 3 năm quản chế.
 
 Năm 1960:
 - Bắt đầu xung đột hai nước lớn trong phe XHCN Liên Xô và Trung Quốc.
 - Đại hội ĐCSVN lần thứ III. Lê Duẩn được bầu làm Tổng bí thư. Trường  Chinh chỉ còn phụ trách công tác lý luận và Tạp chí Học Tập.
 
Năm 1961:- Phùng Cung bị bắt. Lý do: Tiếp tục sáng tác các truyện ngắn có nội dung bất mãn, chống đối, phản động.
 
Năm 1968:- Vụ  án xét lại chống Đảng. Bắt giam Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Đặng  Kim Giang, Trần Minh Việt, Trần Thư, Vũ Thư Hiên, Lê Trọng Nghĩa, Huy  Vân...Nhiều văn nghệ sĩ nhất là những người đi học ở Liên Xô về hoặc có  quan hệ với Liên Xô bị đưa vào diện phân biệt đối xử.
 
 Năm 1973:
 -Thụy An, Nguyễn Hữu Đang ra tù.
 - Phùng Cung ra tù.
 
Năm 1982:-Hoàng  Cầm bị bắt cùng Hoàng Hưng vì việc định đưa tập thơ Về Kinh Bắc ra nước  ngoài. Hoàng Cầm bị giam 18 tháng, Hoàng Hưng bị giam 39 tháng.
 
Năm 1986:- Đại hội ĐCSVN lần thứ VI với đường lối đổi mới, cởi trói cho VHNT.
 - Trần Độ được cử làm Trưởng ban Văn hóa văn nghệ trung ương.
 -  Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh gặp gỡ văn nghệ sĩ, trí thức tiêu biểu, với  lời phát biểu nổi tiếng: Hãy tự cứu mình trước khi trời cứu. Có một số  người đặt vấn đề xem xét lại vụ NVGP.
 - Nghị quyết 05 Bộ Chính trị  ĐCSVN : Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ  thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và  văn hóa phát triển lên một bước mới.
 - Công an và các ban ngành liên  quan tiến hành làm chính sách cho các đối tượng NVGP. Tác giả viết báo  cáo về tình hình các đối tượng NVGP và đề xuất phương hướng giải quyết  chế độ chính sách.
 - Phục hồi hội tịch cho Trần Duy, Trần Dần, Hoàng  Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Giải quyết chế độ lương hưu  cho Nguyễn Hữu Đang, Phùng Cung.
 
Năm 1987:- Hoàng Cầm in tập thơ trở lại đầu tiên Mưa Thuận Thành, NXB Văn hóa.
 - Phùng Quán in trở lại công khai đầu tiên trên báo Quảng Nam- Đà Nẵng Trường ca Cây Cà.
 
Năm 1988:-Văn  Cao xuất bản tập thơ Lá, NXB Tác phẩm mới, với sự ủy nhiệm cho các thi  hữu đàn em Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, Thanh Thảo tuyển chọn biên  tập.
 - Nguyễn Hữu Đang được chuyển lên Hà Nội, được cấp nhà.
 
Năm 1991:- Tháng  4 , BCHTƯ ĐCSVN ra thông báo về hai vụ án NVGP và Xét lại chống Đảng.  Quan điểm của Đảng là không thừa nhận sai lầm, vẫn đánh giá hai vụ án  như trước đây.
 - Trần Dần xuất hiện trở lại với tập thơ Bài thơ Việt Bắc, NXB Hội Nhà văn
 - Từ 23-11 đến 10- 12 Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam mở Triển lãm tranh Trần Duy tại Nhà triển lãm tranh 16 Ngô Quyền Hà Nội.
 
 Năm 1992:
 - Lần đầu tiên in Kỷ yếu nhà văn Việt Nam , danh sách có tên Phan Khôi
 - Hoàng Cầm xuất bản kịch thơ Kiều Loan
 
 Năm 1993:
 - Hoàng Cầm xuất bản Bên kia sông Đuống, NXB Văn hóa
 
Năm 1994:- Lê Đạt xuất bản tác phẩm trở lại đầu tiên Bóng chữ, NXB Hội Nhà văn.
 - Hoàng Cầm in được tập thơ Về Kinh Bắc, NXB Văn Học.
 -NXB Văn Học in Tuyển tập Văn Cao
 -Trần Dần in Tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh, NXB Hội Nhà văn.
 
Năm 1995:-Phùng Cung xuất hiện trở lại lần đầu tiên với tập thơ Xem Đêm, NXB Văn hóa – Thông tin.
 - NXB Hội Nhà văn in Tuyển tập thơ Phùng Quán.
 
Năm 1996: Tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Đặng Văn Ngữ, Cao Xuân Huy, Văn Cao, nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng. 
Năm 1997:- Bắt  đầu in lại các tác phẩm cũ trước 1945 của Phan Khôi. Đáng chú ý là Lại  Nguyên Ân đã sưu tầm và cho xuất bản Tác phẩm đăng báo hàng năm của Phan  Khôi, các tập 1928, 1929, 1930, 1931...
 - Bắt đầu in một vài tác phẩm mới của Trần Đức Thảo.
 
 Năm 2000: Trao Giải thưởng Hồ Chí Minh cho Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo,  Ngyễn Bính, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sỹ Ngọc, Lộng Chương, Nguyễn Văn Tý.
 
Năm 2001- 2002 :- NXB hội Nhà văn in Hoàng Cầm Tác phẩm 3 tập.
 
 Năm 2003:
 - NXB Văn hóa- Thông tin xuất bản cuốn Nguyễn Bách Khoa- Khoa học văn chương. (NBK là một bút danh của Trương Tửu).
 
Năm 2007:- Tặng Giải thưởng Nhà nước cho Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Yến Lan, Phạm Kỳ Nam.
 -NXB Lao Động xuất bản TRƯƠNG TỬU- Tuyển tập nghiên cứu phê bình 1088 trang khổ 16-24.
 
Năm 2008:- Tuyển  tập Trần Dần Thơ 492 trang khổ 15-23 được NXB Đà Nẵng xuất bản. Gồm tất  cả những bài thơ tiêu biểu của ông, kể cả các bài đã in trong báo NV-  GP. Cơ quan chức năng can thiệp, bị công luận phản đối, sau xử phạt vi  phạm hành chính.
 - Tại Ngày Thơ Việt Nam ở Văn Miếu có Cây Thơ Thanh Tâm Tuyền.
 
Năm 2009:-  Tuyển tập thơ Lê Đạt Đường Chữ 644 trang khổ 16-24 do NXB Hội Nhà văn  in. Cũng gồm tất cả các bài thơ đã in và bị cấm trong thời kỳ NVGP.
 
Năm 2010:-  Tháng 4 tại Đại hội cơ sở các Chi hội Điện ảnh lực lượng vũ trang các  đại biểu Nguyễn Thành Lập, Lê Thi, Thái Kế Toại lên tiếng đề nghị xem  xét tới những nghệ sĩ điện ảnh đã tham gia NVGP như Phạm Kỳ Nam, Phan  Vũ, Hồng Lực, Trần Công, Trần Thịnh, Cao Nhị, Vũ Phạm Từ, Nắng Mai  Hồng...
 - Chuẩn bị cho Đại hội lần thứ VIII Hội Nhà văn Việt Nam tổ  chức viết Biên niên sự kiện và Lịch sử Hội bàn đến việc viết về NVGP như  thế nào.
 - Trước Đại hội Nhà văn Việt Nam lần thứ VIII BCH khóa VII  ra quyết định kết nạp lại nhà văn Trương Tửu. Trước đó, từ Kỷ yếu 1992  nhà văn Phan Khôi đã mặc nhiên có tên trong danh sách hội viên HNVVN.  Còn Thụy An chưa được phục hồi hội viên HNVVN.
 
2- Nhận xét nhân sự 
Số  người gọi là tham gia NVGP tại Hà Nội do Bộ Công an và Công an Hà Nội  quản lí do tác giả thống kê được gồm khoảng 170 người. Số bị xử lí nặng  khoảng gần 100 người, còn số bị đưa vào danh sách để phân lọai xử lí  tính trên toàn miền Bắc ở tất cả các lĩnh vực phải tới hàng ngàn người  (16). Bởi vì các ấn phẩm của phong trào NVGP đã được đón nhận nồng  nhiệt, được hưởng ứng không chỉ ở Hà Nội, mà xuống đến tận các vùng nông  thôn miền núi. Tác giả ở Tiền Hải Thái Bình có người thầy học là ông  Trịnh Hồng Phát con cả của nhà nho Trịnh Đình Rư là sinh viên văn ĐHTH  HN do hưởng ứng tập san Đất Mới phải về Tiền Hải dạy cấp II. Tác giả có  người cậu thứ hai dạy cấp I thời đó là Tô Nhật Mỹ  đã cho đọc báo Văn,  cho đến nay tác giả vẫn còn giữ ấn tượng về số báo Văn in truyện Ông Năm  Chuột.Đa số họ là trí thức văn nghệ sĩ có tài năng đã tham gia tích  cực trong kháng chiến chống Pháp, nhiều người còn tham gia hoạt động  cách mạng từ thời Văn hóa Cứu quốc.
 Theo thống kê của tác giả trong  số 64 đối tượng chính là văn nghệ sĩ có tên tuổi chỉ riêng trong lĩnh  vực VHNT, chưa tính số trí thức bên ngành giáo dục đã có :
 -23 người là hội viên Hội viên Hội Nhà văn
 - 4 người là Hội viên Hội Sân khấu
 - 6 người sau là Hội viên Hội Điện ảnh
 - 12 người là Hội viên Hội Mỹ thuật
 - 4 người là hội viên Hội nhạc sĩ
 
3- Nhận xét nội dung tư tưởng các tác phẩm của nhóm NVGP 
Có  người nói rằng cách thức tiến hành đánh NVGP mô phỏng lại cách Trung  Quốc đấu tố phái hữu. Có thể chính Hồ Chí Minh đã chứng kiến việc này ở  Bắc Kinh và Tố Hữu, Huy Cận, Hà Xuân Trường mang các bài học của Trung  Quốc về áp dụng ở Việt Nam. Đặc biệt là hình thức chỉnh huấn đấu tố tập  thể, tra tấn tinh thần để đối tượng tự nhận tội. Các văn bản phê  phán  đều mang màu sắc CCRĐ rất rõ với các quan điểm tả khuynh về chính trị,  nặng về mạt sát mạ lỵ, quy kêt chụp mũ, thậm chí có chỗ vu khống, bịa  đặt trắng trợn. Trong các bài tham luận, phát biểu trích dẫn văn bản thì  cắt xén, suy luận xuyên tạc ý nghiã chủ quan của tác phẩm. Các bản tự  kiểm điểm do sức ép nặng nề về tâm lý và để nhanh chóng thoát khỏi các  hình thức tra tấn về tinh thần đều nhận tội quá lên, tự xỉ vả mình và  đồng nghiệp. Vì thế khi người ta muốn tìm hiểu sự thật trong các văn bản  này nên thận trọng và phải đối chiếu với các nguồn thông tin khác. 
Kết tội nhóm NVGP có 3 nguồn chính thức như sau:-Nghị quyết 30 của BCTĐCSVN ngày 6- 1- 1958 về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.
 -  Báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn- Giai Phẩm  của Tố Hữu taị Hội nghị Ban chấp hành Hội liên hiệp văn học nghệ thuật  Việt Nam ngày 4- 6- 1958.
 - Bản án của Tòa án nhân dân Hà Nội ngày 19- 1- 1960 xử vụ gián điệp Nguyễn Hữu Đang, Thụy An.
 Dù  có cách đánh lạc hướng nhưng cáo trạng đều toát lên tinh thần các đối  tượng dùng báo chí, văn nghệ sĩ  kích động tư tưởng chống chế độ tức là  tinh thần của một vụ án văn học chứ chưa phải là một vụ án hình sự về an  ninh quốc gia.
 
Gác lại một bên, các quy kết, trào lưu tư tưởng NVGP có những gì? 
Cốt  lõi của NVGP vẫn là vấn đề dân chủ, câu hỏi muôn thưở đối với các xã  hội toàn trị. Nhu cầu về một cuộc sống có tự do dân chủ lúc ấy là khát  vọng chung cho tất cả các tầng lớp nhân dân miền Bắc, nhưng nó được biểu  hiện một cách mãnh liệt ở những trí thức có nhiều ảnh hưởng của tư  tưởng dân chủ tư sản, ở những văn nghệ sỹ công thần, nhạy cảm, dũng cảm  và lãng mạn.Rõ rệt nhất là ở các lĩnh vực sau:
 
Về chính trị : 
Mấy dòng ra mắt báo Nhân Văn số 1 viết:Vào  lúc Đảng và Chính phủ đang có kế hoạch phát triển văn hóa, cải thiện  sinh hoạt xã hội, chúng tôi cho ra tờ báo Nhân Văn để đóng góp một phần  nhỏ mọn vào công việc đó.
 Vì vậy nên phần ngôn luận chủ yếu của nó được nêu lên là: văn hóa và xã hội.
 Ngoài  ra, trong nước nay mai sẽ có Đại hội Văn nghệ toàn quốc. Báo Nhân Văn  cũng coi trọng việc ấy, dành một phần tờ báo cho việc thảo luận các vấn  đề văn nghệ để góp phần xây dựng Đại hội.
 Tóm lại, báo Nhân Văn đứng  dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, theo chủ nghĩa Mác- Lênin  với tinh thần thực tiễn, để xúc tiến công cuộc củng cố miền Bắc, thống  nhất nước nhà, để dọn đường đi đến thực hiện chủ nghĩa xã hội, theo như ý  muốn của Đảng cũng là ý muốn của nhân dân cả nước.
 
Nguyễn Hữu Đang viết trong bài Cần phải chính quy hơn nữa, báo Nhân Văn số 4:Hòa  bình lập lại đã hai năm, dù cuộc đấu tranh thống nhất đất nước có phức  tạp, gay go thế nào thì cũng không thể coi miền bắc như ở một hoàn cảnh  bất thường để duy trì mãi một nền pháp trị hẳn hoi.
 ...Do pháp trị  thiếu sót mà Cải cách Ruộng đất hỏng to đến thế. Do pháp trị thiếu sót  mà quân đội chưa có chế độ binh dịch hợp lý, công an hỏi giấp giá thú  đôi vợ chông ngồi ngắm cảnh trăng lên ở bờ hồ, hộ khẩu rình bên cửa sổ  khiến người ta mất ăn mất ngủ, cán bộ thuế tụ tiện vào khám nhà người  kinh doanh, ở khu phố có chuyện đuổi nhà lung tung hoặc ép buộc người ở  nhà rộng phải nhường một phần cho cán bộ hay cơ quan ở. Do pháp trị  thiếu sót mà nhiều cơ quan bóc xem thư của nhân viên và một ngành rất  quan trọng noí đòi thông qua những bài báo nói đến mình, làm như một bộ  phận của Nhà nước lại có quyền phục hồi chế độ kiểm duyệt mà chính nhà  nước đã bãi bỏ. Do pháp trị thiếu sót, người ta đã làm những việc vu cáo  và đe dọa chính trị trắng trợn, ngăn cản việc mua đọc báo Nhân Văn,  hành hung báo Trăm hoa v.v...
 Tưởng đã đến lúc nhân dân phải tích cực  bảo vệ chế độ bằng cách tố cáo những hành động phi pháp ở bất cứ trường  hợp nào đã có luật lệ rồi.
 Về mặt xúc tiến xây dựng ngay một chế độ pháp trị đầy đủ tinh vi, chúng tôi đề nghị:
 1- Thi  hành Hiến pháp ( hoặc là Hiến pháp 1946 sửa đổi cho thích hợp với hoàn  cảnh ngày nay, hoặc là Hiến pháp mới sẽ đặt ra), Trên cơ sở Hiến pháp,  Quốc hội sẽ biểu quyết các đạo luật thay cho các sắc lệnh và nhiều văn  kiện khác.
 2- Quốc hội họp đều sáu tháng một kỳ. Không có lý do trong  hoàn cảnh hòa bình mà công việc của Quốc hội vẫn khoán trắng cho một  Ban thường trực gần như không hoạt động gì.
 3-Chấn chỉnh ngành tư pháp, chủ yếu là tăng quyền hành thực sự của Bộ tư pháp.
 
 Trong bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Ông lại viết:
 Hiến pháp 1946 của ta sau khi được Quốc hội thông qua liền bị hoãn thi  hành vì tình hình trong nước nghiêm trọng. Nhưng từ sau Hiệp định Giơ ne  vơ, tình hình miền Bắc, mặc dầu còn nhiều khó khăn kinh tế và cuộc đấu  tranh thực hiện thống nhất gau go phức tạp, cũng phải coi là đã trở lại  bình thường rồi. vậy chúng ta có thể đề ra hoặc việc thi hành Hiến  pháp  1946 sửa đổi lại, hoặc việc đặt một Hiến pháp mới.
 ... Ở đây tôi  chỉ muốn cả quyết một điều là dù Hiến pháp sẽ được ban bố có nội dung  thế nào đi nữa, cái phần bảo đảm tự do dân chủ của nó về căn bản vẫn  không thể thay đổi so với Hiến pháp 1946. Vì đó là một điều kiện “ không  có không được” của một chính thể dân chủ.
 ...Chúng ta thấy các quyền  tự do dân chủ bị hạn chế quá nhiều. Và chúng ta nhiệt liệt hoan nghênh  nghị quyết của hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng Lao động đã nhấn  mạnh sự cần thiết phải mở rộng tự do dân chủ.
 ...Chuyên chính với  địch thì bao nhiêu cũng chưa đủ và từ trước đến nay chúng ta có lúc nào  buông lỏng đâu mà phải hô hào? Còn chuyên chính với nhân dân thì cần xét  kỹ. Nếu không hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những biến  cố ở Ba Lan và Hung ga ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là  vì thiếu chuyên chính?
 
 Giáo sư Trần Đức Thảo viết trong bài Nỗ lực phát triển tự do dân chủ , báo Nhân Văn số 3 :
 Sau khi chúng ta đã đánh bại đế quốc và hoàn thành Cải cách Ruộng đất ở  miền Bắc, chính bệnh quan liêu, bè phái, sùng bái cá nhân là những di  tích của chế độ cũ trong tổ chức mới. Đấu tranh chống những bệnh ấy là  nhiệm vụ của nhân dân và đường lối của Đảng, một trọng tâm công tác để  đẩy mạnh công cuộc kiến thiết kinh tế và văn hóa, nhanh chóng tiến lên  chủ nghĩa xã hội.
 ...Trong nhiệm vụ thực hiện phương châm của Đại hội  XX của Đảng Cộng sản Liên Xô, đặng hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng Cộng  sản Việt Nam, hưởng ứng phong trào phát triển tự do dân chủ trong những  nước dân chủ nhân dân anh em, người trí thức Việt Nam có phần trách  nhiệm quan trọng. Người trí thức hoạt động văn hóa, cần tự do như khí  trời để thở. Có tự do mới đẩy mạnh được sáng tác văn nghệ, nghiên cứu  khoa học, cải tiến kỹ thuật. Phát triển tự do là nhu cầu thiết thân đồng  thời cũng là nhiệm vụ số 1 của người trí thức cũng như của toàn dân.
 
Trong  bài Nội dung xã hội và hình thức tự do , Giai phẩm Mùa Đông tập I ông  viết cụ thể hơn về nguồn gốc của căn bệnh sai lầm như sau:
 ...Cơ cấu của bộ máy lãnh đạo có hướng một chiều, rất nặng về tổ chức và  phương tiện đả thông, cưỡng bách , mà những ý kiến phê bình của nhân  dân hay cấp dưới thì lại hoàn toàn để cho cấp trên quyết định có nên xét  đến và thảo luận hay không, cho nên những bệnh quan liêu, bè phái, sùng  bái cá nhân trong tổ chức lãnh đạo đã có điều kiện khách quan để phát  triển, đẩy mạnh tác phong đàn áp tư tưởng, phớt qua quy tắc dân chủ,  biến những ý kiến chủ quan thành lập trường bất di bất dịch. Nhờ những  sự kiện ấy mà những phần tử lạc hậu bảo thủ, đã ngăn cản ý kiến của quần  chúng, cản trở việc sửa chữa sai lầm, cho đến lúc tác hại lớn quá, cơ  sở đã bị tổn thương nặng nề, chỉnh đốn tổ chức ở huyện và tỉnh phát  triển theo một thứ chủ nghĩa nông dân lưu manh hóa. Rõ ràng những phần  tử quan liêu bè phái đã lấy thành kiến của họ làm đường lối lịch sử ,  biến những sai lầm của họ thành bánh xe vô tình của lịch sử. Một bộ máy  hùng mạnh, xây dựng để diệt kẻ thù, đến lúc không thấy thù thì lại quay  về bạn, lấy bạn làm thù mà đập phá bừa bãi.
 ...Không có lý do gì mà  không tin tưởng ở nhân dân, không tin tưởng rằng những thắc mắc đề ra,  những ý kiến phê bình căn bản là nhằm phục vụ mục đích chung, lấy kinh  nghiệm thực tiễn mà sửa chữa sai lầm, chấn chỉnh tổ chức, cải tiến chính  sách. Những ý kiến ấy phát biểu tự do có thể phạm vào địa vị, thành  kiến hoặc thói quen của một số người trong tổ chức lãnh đạo, nhưng nhất  định đấy không phải là thoát ly lãnh đạo, mà chính là củng cố lãnh đạo.
 
 Về pháp luật
 
Luật  sư Nguyễn Mạnh Tường  qua bài phát biểu rất quan trọng trước Mặt trận  Tổ quốc Hà Nội ngày 30- 10- 1956 đã phân tích những sai lầm của chính  quyền đi từ sai lầm CCRĐ ở nông thôn sang sai lầm trong chế độ mậu dịch ở  thị thành,, tất cả nằm trong bản chất thiếu dân chủ. Ông chỉ ra nguồn  gốc các sai lầm đó và trình bày những nguyên tắc để sửa sạng lại bộ máy  pháp luật, chính trị của đất nước (17). 
Ông phê  phán khẩu hiệu Thà chết 10 người oan còn hơn để sót một địch không những  quá tả một cách vô lý mà còn phản lại cách mạng. 
Ông nhắc lại những nguyên tắc cơ bản của pháp lý đã không được áp dụng trong CCRĐ:-Không phạt các tội đã lâu ngày mà bây giờ mới khám phá ra.
 - Chỉ một mình phạm nhân chịu trách nhiệm của việc mình làm, không có trách nhiệm chung của vợ con, gia đình.
 - Muốn kết án một người phải có bằng cớ xác đáng.
 - Thủ tục điều tra xét xử phải đảm bảo quyền lợi của bị tố nhân. Bị tố nhân có quyền nhờ luật sư bào chữa cho mình.
 
Sở dĩ có sai lầm như vậy vì 3 nguyên nhân:Quan điểm ta- địch, thù-bạn mơ hồ
 Bất chấp pháp luật
 Bất chấp chuyên môn.
 
Nguyễn  Mạnh Tường cho rằng lẽ ra Quốc hội là cơ quan lập pháp nhưng lại bị  quan niệm rằng đó chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi. 
Ông đề nghị hướng sửa chữa sai lầm là phải xây dựng một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự. 
Ông khẳng định :Một chế độ dân chủ thực sự trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp mà cả trong thực tế nữa.
 Lịch  sử các phong trào cách mạng trong hơn một thế kỷ nay, chưa bao giờ,  chưa ai có thể ngăn cản được một phong trào quần chúng đòi tự do dân  chủ.
 
Về Văn hóa, văn học nghệ thuật 
Đào  Duy Anh , Đặng Văn Ngữ trong trả lời phỏng vấn của báo Nhân Văn (18)  nhấn mạnh đến việc thực hành dân chủ cho đội ngũ những người nghiên cứu,  giảng dạy ở các trường đại học, đội ngũ bác sĩ, trí thức cần được đầu  tư phù hợp, cần có quan niệm đúng về vai trò chuyên môn, có phương pháp  đánh giá đúng thực chất người trí thức, tránh lãnh đạo thô bạo bằng  chính trị. Các ông đòi công tác chuyên môn cơ bản phải do những người  chuyên môn phụ trách (19). 
Làn sóng phê bình sai  lầm trong lãnh đạo văn nghệ vô cùng mạnh mẽ. Những phát súng đầu tiên  lại xuất phát từ Phòng văn nghệ Quân đội , nơi quản lý cả một đội ngũ  VNS hùng hậu bằng chế độ chính ủy. 
Từ tháng 4-  1955 Trần Dần cùng với Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Tử Phác,  Trúc Lâm...gửi Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hóa lên Tổng cục  chinh trị. Bản Dự thảo yêu cầu để cho văn nghệ sĩ tự do sáng tác, trả  lãnh đạo văn nghệ cho văn nghệ sĩ, đòi thành lập một chi hội văn nghệ  trực thuộc Hội Văn nghệ không qua Cục tuyên huấn và Tổng cục chính trị,  bỏ hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, bỏ mọi chế  độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Sau đó là sự kiện  Tử  Phác, Trần Dần bị bắt giam, Trần Dần dùng dao lam cứa cổ tự tử, viết thư  gửi Nguyễn Chí Thanh. Ông Thanh phải ra lệnh thả hai người. Việc bắt  giam hai người, Hoàng Cầm chứng kiến Tố Hữu ra lệnh cho Văn Phác: Bắt nó  về, tống giam nó! 
Với bài Phê bình lãnh đạo văn  nghệ (20) Phan Khôi không ngần ngại phê phán tác phong lãnh đạo văn nghệ  quan liêu, hách dịch, bè phái, sùng bái cá nhân của Trường Chinh, Tố  Hữu, Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi.  
Khan Khôi cho  rằng từ khi vể Hà Nội trong văn nghệ đã hình thành hai phe lãnh đạo văn  nghệ và quần chúng văn nghệ mà Lãnh đạo văn nghệ đã xâm phạm mỗi ngày  một hơn vào quyền riêng nghệ thuật của văn nghệ sĩ đặc biệt là việc ép  buộc văn nghệ sĩ một cách nghiệt ngã phải phục vụ đúng đường lối chính  trị. Với việc Hồ Chí Minh viết truyện mẫu cho các nhà văn viết theo, ông  nhận xét:Nhược bằng bắt mọi người phải viết theo một lối với mình,  thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn  thọ hết.
 Ông chất vấn việc Hội Văn nghệ tổ chức phê phán bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần mang tính ấu trĩ quy chụp, đàn áp.
 
Phan  Khôi dược mời tham gia Ban giám khảo Giải thưởng văn học 1954- 1955 để  làm vì. Ông tố cáo sự thối nát của Ban Giám khảo, những người như Hoài  Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm dự thi mà đều ở Ban sơ  khảo và Ban chung khảo, đều được giải thưởng mà chất lượng tác phẩm của  họ không xứng đáng với giải. 
Cùng với Khan Khôi,  Trương Tửu cũng quyết liệt phê phán Bệnh sùng bái cá nhân trong giới  lãnh đạo văn nghệ (21). Xin nói rõ hơn là trong nghị quyết của Hội nghị  TƯ 10 tháng 10-1856 cũng nhấn mạnh việc chống sùng bái cá nhân đang rất  nặng nề trong đảng, trong đó có việc sùng bái Hồ chí Minh.Trương Tửu  xác định bệnh sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo  văn nghệ...Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ, vì rằng hôm qua  cũng như hôm nay , người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự  sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là  phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa, có cái này  thì không có cái kia được.
 
Trương Tửu nêu lên tấm  gương không chịu sùng bái cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với  Trường Chinh. Ông quy tội cho số lãnh đạo văn nghệ:Giống như bọn  thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn yểm tất  cả tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó tròn  méo mặc dầu tay kẻ nặn. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá  nhiều: mất lập trường, phạm chính sách,phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ  luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề,  bất mãn cá nhân, óc địa  vị,v,v... còn gì nữa?
 
Theo ông chính lãnh đạo đã tạo ra một tình trạng u ám trong văn nghệ:Một  số văn nghệ sĩ non gan...biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh  trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm  tư trĩu nặng hờn oán và uất ức. Một số khác nữa cất kín cá tính và nghệ  thuật xuống đáy ba lô, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng  chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu- đánh giặc  đã!Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường  lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị  hành hạ, bị gạt sang một bên...
 
Trương Tửu đề nghị:Đã  đến lúc phải sa thải những  nhà lãnh đạo thiếu tư cách mà quần chúng  tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều  khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.
 Đã đến  lúc phải thanh toán lối đàn  áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng,  mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ  nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra,  để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói.
 
Trương Tửu kêu gọi trả lại sự tự do cho văn nghệ sĩ:Muốn  sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc  đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một  lối nói độc đáo. Phải duy trì bảo vệ tính độc đáo ấy không để một sức  mạnh bên ngoài nào xâm phậm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự  thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng  ngôn ngữ nghệ thuật- để có thể phản ánh hiện thực một cách trung  thành.Tự do ở đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh  lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều minh không muốn  nói,nghĩ diều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai,  không yêu những cái mà mình ghét, không ca tụng những cái mà mình phản  đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo.
 
Cũng với tinh thần phê phán các sai lầm của lãnh đạo văn nghệ, đề nghị các giải pháp cho tự do sáng tác còn có các bài của: 
Hoàng Huế : Một bản đề án về Đại hội Văn nghệ lần thứ hai.Trần  Duy: Phấn đấu cho trăm hoa đua nở. Thành thật đấu tranh cho tự do dân  chủ. Góp ý kiến về phần tự do dân chủ trong Nghị quyết T.Ư lần thứ mười.
 Chu Ngọc: Nguyễn Sơn , người đi đầu trong đường lối văn nghệ rộng rãi.
 Sĩ Ngọc: Làm cho hoa nở bốn mùa.
 Q. Ngọc và T. Hồng: Phê bình lãnh đạo sinh viên.
 Dương Viết Á: Những bóng mây đen đã bay qua. Chúng ta hãy giữ lấy ánh sáng mới.
 Văn Tâm: Những người ấy muốn gì.
 Bùi Quang Đoài: Chủ nghĩa nhân văn của ông Hoàng Xuân Nhị
 H.L: Không có lí gì mà không tán thành Trăm hoa đua nở.
 Trần Công: Chống bè phái trong văn nghệ.
 Trần Công: Mấy ý kiến về vấn đề lãnh đạo ở Phòng văn nghệ quân đội.
 Người Quan sát: Một đợt học tập và đấu tranh của giới văn nghệ. Bài học Ba Lan và Hung ga ri.
 Trần Lê Văn: Chúng ta đã bàn tới những vấn đề gì trong Đại hội?. Cần mở rộng phê bình để đẩy văn nghệ tiến lên.
 
Còn một số bài về điện ảnh của Cao Nhị, Vũ Phạm Từ, Phạm Kỳ Nam, Phan Vũ, Chu Ngọc, Trần Công, Nắng Mai Hồng, Trần Thịnh...Trần Công: Tiến tới thành lập Hội của những người công tác điện ảnh.( ST1)
 Nắng Mai Hồng: Cần xét lại quan niệm của những người lãnh đạo nghệ thuật điện ảnh.( ST 1+2)
 Cao Nhị: Nửa tháng liên hoan phim Liên Xô: Mấy bộ phim dở. (NV 5)
 
Như  vậy sau văn học những phản ứng mạnh mẽ ở trên đã làm nóng diễn đàn điện  ảnh. Lúc đó Ban vận động thành lập Hội Điện ảnh đã hoạt động nhưng mãi  đến năm 1970 những người làm điện ảnh mới có hội nghề nghiệp của mình.  Có hai lí do :Thứ nhất các ĐCS theo lí thuyết của Lê nin đề cao điện  ảnh là vũ khí số một của nghệ thuật vô sản. Họ luôn luôn nắm chặt vũ  khí này cho đến hiện nay cả về chỉ đạo và cả về đầu tư.
 Thứ hai là  sau NVGP điện ảnh phải hứng chịu tiếp cơn bão thứ hai lớn hơn là Vụ án  xét lại. Hầu hêt các nghệ sĩ và quản lý điện ảnh đều được đào tạo ở Liên  Xô về, nhiều người đã bị coi là có tư tưởng xét lại. Chỉ sau khi giải  quyết xong vụ án xét lại 1968 thì đến tháng 1- 1970 Hội Điện Ảnh mới  được thành lập.
 
Trên lĩnh vực sáng tác phong trào NVGP còn có các tác phẩm tiêu biểu như sau:Thụy An: Truyện ngắn Trường hợp tòng quân của thiếu úy Lâm, Bich xu ra.
 Nguyễn Bính:Thơ Tỉnh giấc chiêm bao.
 Văn Cao:Trường ca Những người trên cửa biển. Thơ  Anh có nghe thấy không.
 Hoàng Cầm: Bút kí Con người Trần Dần. Trường ca Tiếng hát quan họ. Kịch thơ Tiếng hát.
 Phùng Cung: Truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh
 Trần Dần: Trường ca Nhất định thắng. Hãy đi mãi.
 Trần Duy: Truyện ngắn Những người khổng lồ. Tiếng sáo tiền kiếp.
 Lê Đạt: Thơ Nhân câu chuyện mấy người tự tử. Cửa hàng Lê Đạt.
 Minh Hoàng: Truyện ngắn Đống máy
 Phan Khôi: Tạp văn Ông bình vôi. Truyện ngắn Ông Năm Chuột.
 Hữu Loan: Thơ Những thằng nịnh hót.
 Như Mai: Truyện ngắn Thi sĩ máy
 Phùng Quán: Thơ Chống tham ô lãng phí. Lời mẹ dặn.
 Trần Lê văn: Tùy bút Bức thư gửi một người bạn cũ.
 
Vậy đặc điểm của cuộc cách mạng văn học NVGP là gì? 
Về nội dung:Trong  lúc đa số văn nghệ sĩ đang băn khoăn không biết viết về cuộc sống hiện  tại như thế nào để không trái với yêu cầu tuyên truyền, viết tiếp về  kháng chiến thì khó viết, các tác giả NVGP chủ trương sáng tác của mình  trực tiếp phản ánh những vấn đề cấp thiết của xã hội với thái độ thẳng  thắn, trung thực. Họ cho rằng nếu với thái độ đó văn học sẽ giúp ích  nhiều cho nhân dân, cho Đảng, cho nhà nước. Họ không né tránh sự đau khổ  của nhân dân, nghèo túng, oan ức trong cải cách ruộng đất, sự bế tắc  của người nghệ sĩ. Họ lên án các tật xấu của cán bộ, nạn tham ô lãng  phí, trong đó có cán bộ lãnh đạo văn nghệ, chỉ đạo chính trị thô bạo,  sùng bái cấp trên, bè phái, áp bức cấp dưới và nhân dân, làm ảnh hưởng  đến sáng tạo, đến chất lượng nghệ thuật. Họ góp ý thẳng thắn về các chủ  trương chính sách không hợp với lòng dân đang làm tổn thương lòng tin  vào chế độ mới. Họ tố cáo với Đảng những kẻ thù mới đó, những con người  đang làm hại sự nghiệp của Đảng, khẳng định đây là một cuộc đấu tranh  mới đầy quyết liệt:
 
 Chúng nó còn ở lại
 Trong những áo dài đen nham hiểm
 Bẻ cổ bẻ chân đeo tội ác cho người
 Chúng nó còn ở lại
 Trong những tủ sách gia đình
 Ở những điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
 Từng bước chân cô gái
 Từng con đường bãi cỏ bóng tối
 Mắt quầng thâm còn nhớ mãi đêm
 
Chúng nó còn ở lạiTrong những tuổi bốn mươi
 Đang đi vào cuộc sống
 Như nấm mọc trên những thân gỗ mục
 
 Văn Cao- ( Anh có nghe thấy không)
 
 Trong những ngày khó khăn chồng chất
 Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
 Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
 Lẫn trong hàng ngũ
 
 Những con bói cá
 Đậu trên những dây buồm
 Đang đo mực nước
 Những con bạch tuộc
 Bao tay chân cố dìm một con người
 
Đất nước đang lên da lên thịtĐất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
 Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
 Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
 Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
 Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
 Làm rỗng những con người lụi dần niềm hy vọng
 Héo dần mầm sáng taọ mất phẩm giá con người
 Chúng nó ở bên ta trong ta lén lút
 Đào rỗng từng kho tiền gạo thuốc men
 Tôi đã thấy từng mặt từng tên xâu chuỗi
 Tôi sẽ vạch mặt từng tên
 
 Văn Cao- (Trường ca Những người trên cửa biển)
 
Họ cũng sớm lên án sự can thiệp thô bạo vào đời sống riêng tư con người:
 Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
 Mà sao họ chết?
 Người công an đứng ngã tư
 đường phố
 Chỉ huy
 bên trái
 bên phải
 Xe chạy
 Xe dừng
 Rất cần cho việc giao thông
 Nhưng đem bục công an
 máy móc
 đặt giữa tim người
 Bắt tình cảm ngược xuôi
 Theo đúng luật đi đường nhà nước
 Có thể gây rất nhiều chua xót
 ngoài đời
 
 Lê Đạt- (Nhân câu chuyện mấy người tự tử)
 
Với  ngày nay những câu thơ trên là rất bình thường nhưng vào lúc đó nó bị  cắt xén, suy diễn gán ghép kết tội, làm cho những người lãnh đạo cả tin  vào đội ngũ thư lại mất bình tĩnh. Cũng như vậy, kể cả câu Tôi bước đi .  Không thấy phố , không thấy nhà. Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. đã bị  cắt ra khỏi kết cấu của bài thơ dài Nhất định thắng và gán cho ý nghĩa  phản động. Câu thơ này là tâm trạng tác giả lúc cuộc sống khó khăn nhất.  Cuối bài thơ lúc miền Bắc vượt qua khó khăn, với tinh thần nhất định  thắng tác giả lại thấy :Nắng lên đỏ phố đỏ cờ
 Đỏ cả buồng tim lá phổi.
 Trong  nội dung các tác phẩm này, có thể thấy tính chất thật, cuộc sống thật  của đời sống nhân dân. Các sáng tác NVGP cũng giống như lời các bài hát  của Phạm Duy trong giai đoạn đầu kháng chiến như Bà mẹ Gio Linh, Nương  chiều, Đường về miền Trung...đầy hơi thở cuộc sống không chung chung như  các bài thơ, các nhạc phẩm của các văn nghệ sĩ kháng chiến khác.
 Hiện  thực mà văn học NVGP biểu hiện rõ ràng trái ngược với thứ hiện thực của  văn học kháng chiến, nó là cho văn học trở lại với đời sống nhân dân,  làm nên nhựa sống cho người nghệ sĩ.
 
 Về Nghệ thuật:
 
Các  nhà văn NVGP muốn tạo ra sự chuyển biến về hình thức sáng tạo. Trước  hết về thể thơ họ tiếp tục mở rộng thể thơ tự do mà trong kháng chiến  Nguyễn Đình Thi đã từng bị phê phán nhưng Hoàng Cầm đã thành công rực rỡ  với Bên kia sông Đuống. Mạnh mẽ hơn họ còn thể nghiệm lối thơ bậc thang  của Maiacopski. Mức độ thành công có khác nhau, nhưng ở Trần Dần có lúc  đã có thành công, nhất là với Trường ca Việt Bắc.Đây!
 Việt Bắc!
 Sông Lô
 nước xanh
 tròng trành mảnh nguyệt!
 Bình Ca
 Sương xuống
 lạc
 con đò!
 Cần thấy ở việc học tập thơ Maia ngoài ý đồ cách tân nghệ thuật, Trần  Dần, Lê Đạt còn muốn thơ phải có tính chiến đấu quyết liệt như Maia.
 Ở một hướng cách tân khác Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Phùng Quán cũng có nhiều thành công.
 
 Về  bút pháp, văn xuôi NVGP đã không còn là lối văn tả thực, tường thuật  đơn giản. Nó thực sự đã có những ẩn dụ, biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc mà  trong văn học kháng chiến còn vắng bóng. Các hình tượng nghệ thuật của  họ đã tiến tới sự khái quát nghệ thuật, đa nghĩa, mang ẩn dụ tư tưởng .  Đó là các truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp, Những người khổng lồ của Trần  Duy, Ông Năm Chuột của Phan Khôi, Con ngựa già của Chúa Trịnh của Phùng  Cung, Em bé làm văn của Trần Dần, tiểu luận Ông bình vôi của Phan Khôi,  Thi sĩ máy của Như Mai...
 Từ các ẩn dụ của NVGP người ta nhận ra  thái độ phê phán đường lối lãnh đạo văn nghệ của ĐCSVN, các căn bệnh của  bộ máy lãnh đạo văn nghệ, của cán bộ chính trị, bất cập của các chính  sách cộng sản trại lính áp dụng vào đời sống thời bình, tinh thần dũng  cảm chống cái xấu, cái ác, khát vọng tự do dân chủ và cả sự thất vọng về  bi kịch tiền định của thân phận nghệ sĩ.
 Trong thời kỳ đấu tranh với  NVGP, các đồng nghiệp đã tấn công quyết liệt vào bút pháp của NVGP. Họ  kết tội  NVGP xỏ xiên mượn xưa nói nay, mượn thú vật nói người, lấy cũ  nói mới... Sự quy kết này đã được lấy làm chuẩn mực trong một thời gian  dài cho phương pháp phê bình gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa, tạo ra  các vụ phát hiện phê phán nhiều tác phẩm tiêu cực trong các thời kỳ tiếp  theo đã làm thui chột các ý tưởng thể nghiệm nghệ thuật, ý tưởng sáng  tạo hình thức thể hiện của một thế hệ văn nghệ sĩ trên tất cả các thể  loại văn học nghệ thuật văn chương, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, điện  ảnh...
 
Như vậy các nhà văn NVGP đã có ý thức làm  mới một nền văn học đã bị xơ cứng vì chủ trương phục vụ tuyên truyền, vì  bị lãnh đạo quan liêu gò ép mệnh lệnh trong 9 năm kháng chiến. Nhìn lại  sáng tác của các nhà thơ tiền chiến như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ,  Nguyễn Xuân Sanh, Anh Thơ... trong thời kỳ này dễ nhận thấy họ vẫn còn  bế tắc còn chưa viết lại được nhuần nhuyễn.  
Vào  thời điểm đó trên thế giới cũng bước vào một cuộc cách mạng văn học với  sự xuất hiện của các trào lưu hiện đại mới. Ở Sài Gòn, những văn nghệ sĩ  trẻ di cư từ Hà Nội vào đã lập nên nhóm văn học Sáng Tạo, nhóm trí thức  Bách Khoa đã tạo ra cuộc cách mạng ngôn ngữ thơ ca trừu tượng và văn  học hiện sinh. Phải nói rằng ngôn ngữ văn học miền Nam đã đi trước hiện  đại hóa so với ngôn ngữ văn học miền Bắc mấy chục năm. Phải chăng đó là  hậu quả của việc thủ tiêu cuộc cách mạng văn học của NVGP? 
Thành  quả của cuộc cách mạng văn học của NVGP tiếc rằng chưa gây được ảnh  hưởng rộng lớn trong một thời gian ngắn ngủi. Nó tạo ra sự hoảng sợ ở  những văn nghệ sĩ bảo thủ quen viết theo chỉ thị cấp trên. Nó đã đặt ra  cho nền văn học miền Bắc những tiền đề quan trọng, để lại ảnh hưởng đến  nhiều thế hệ văn nghệ sĩ mặc dù ngay sau đó nó bị che phủ trong  bóng  tối. Những nhà văn chủ chốt của nó vẫn không chịu thoái lui. Họ cố thủ  trong lô cốt cá nhân của riêng mình, vật lộn với nghèo túng, đói khát,  vẫn tiếp tục thể nghiệm và đã biến ý tưởng thành hiện thực, cuối cùng dù  muộn màng đã được ghi nhận là những nhà cách tân thành công thơ hiện  đại Việt Nam . Đó là những Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình  Hưng... 
Cũng như các trào lưu dân chủ ở các nước  XHCN khác tất cả các tư tưởng sáng tác của NVGP đều bị quy kết ám chỉ,  đả kích, là phá hoại phản động. Cũng như Hồ Phong, Đinh Linh, cũng như  Tru khơ rai, Paxternac, Xonjênitxin, Lu cat, Owen, Kớt slơ.. mà sau này  đến thời kỳ cải tổ, đổi mới người ta phải trả lại danh dự cho họ.Tư  tưởng của họ phù hợp với các tiêu chí chung về tiến bộ xã hội của nhân  loại, của một xã hội văn minh, một xã hội con người được tự do tư tưởng,  một nền nghệ thuật được tự do sáng tạo...
 
4-Tính chất và hình thái hoạt động 
Trong  các văn bản và phát biểu cá nhân người ta kết tội NVGP là tổ chức phản  động , hoạt động gián điệp, nhận tiền và được chỉ đạo của nước ngoài,  dùng văn học nghệ thuật hoạt động phản tuyên truyền , kích động quần  chúng nổi loạn lật đổ chính quyền. 
Về tư tưởng thì  ở trên đã trình bày cho chúng ta thấy rõ những đòi hỏi cải cách dân chủ  của họ là phù hợp với tiến trình lịch sử. Nếu ĐCSVN đi theo con đường  đó thì có thể khủng hoảng đã không thể xảy ra, đất nước không ở tình  trạng như hiện nay. Có người lấy việc giải phóng miền Nam để biện minh  cho việc đàn áp NVGP là chính đáng. Nhưng sau khi có sự sụp đổ của phe  XHCN, sau khi nước Đức thống nhất thì lý do này khó đứng vững. 
Về  tập thể hàng trăm trí thức, văn nghệ sỹ với nhân thân đã biết ở trên và  nhất là đa số là những trí tuệ tài năng hàng đầu ở miền Bắc thì không  thể nói rằng họ là một tập thể mù quáng. Bây giờ thì lịch sử đã chứng  minh rằng những điều họ dám nói ra lúc đó đã đi trước 30 năm. 
Qua các tài liệu và các cuộc phỏng vấn sau này có thể đánh giá như sau: 
NVGP  không phải là một tổ chức vì thực sự không có một ngọn cờ nào chỉ đạo,  điều khiển NVGP. Nó là một xu thế, cùng bùng lên ở nhiều lĩnh vực, được  nhiều người hưởng ứng quy tụ xung quanh nhóm sáng tác chính của báo Nhân  Văn và tạp chí Giai Phẩm. Theo lời các chủ chốt thí dường như chỉ có  hai người là Nguyễn Hữu Đang và Lê Đạt có tính chất thủ lĩnh về tinh  thần, còn trong công việc thì thường xuyên họ mâu thuẫn với nhau. Họ  không có một nghị quyết, một chương trình hành động cụ thể, một mô hình  tổ chức nào. Theo ông Trần Duy họ luôn luôn trong tình trạng cãi nhau về  chủ trương, không ai bảo được ai (22). 
NVGP không  hoạt động gián điệp. Cái tội gọi là hoạt động gián điệp ở đây là sự gán  ghép suy diễn buộc tội. Nguyễn Hữu Đang không liên quan gì đến những  người Pháp còn ở Hà Nội. Còn Thụy An thì được một cơ quan giao nhiệm vụ  nắm ý đồ của mấy người Pháp đối với tình hình Hà Nội lúc đó. Sau đó  những lời báo cáo của bà trở thành chứng cứ buộc tội bà hoạt động gián  điệp. Họ cũng không có tài liệu bí mật để chuyển giao cho cái gọi là cơ  quan tình báo Pháp. 
NVGP không nhận tiền của nước ngoàiCó  một nguồn giúp đỡ cho tạp chí Giai Phẩm là NXB Minh Đức. Chủ nhân của  nó là Trần Thiếu Bảo con một gia đình khá giả ở Thái Bình, trước 1945 có  nhà in ở Hà Nội. Ông Bảo có tham gia VHCQ, tản cư về Thái Bình sau  tháng 12- 1946 là Ủy viên BCH HVHCQ Khu III, sau tản cư vào vùng tự do  Thanh Hóa lại lập Nhà xuất bản Minh Đức có Nguyễn Hữu Đang  giúp, xuất  bản sách kháng chiến cho đến 1954 thì mang nhà xuất bản này về Hà Nội.
 
Còn nguồn tài chính cho báo Nhân Văn thì do các cá nhân tự vay góp tiền để làm báo. Ông Trần Duy, Thư ký tòa soạn báo cho biết:Có  người nói rằng tôi nhận tiền của Durand, tôi có nói với mọi người là  tôi không biết ông Durand. Hơn nữa nếu nói ông Durand là một nhà trí  thức thì người trí thức Pháp không bao giờ làm mật thám đâu. Trí thức  Pháp là trí thức Pháp nhiều khi họ còn chống cả mật thám. Tôi không tin  ông Durand, một nhà nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam, về cổ học Việt Nam  mà lại là mật thám.
 Có người lại cho rằng tôi nhận tiền của Ủy Ban  Quốc Tế. Tôi bảo tôi không biết Ủy Ban Quốc Tế nằm ở đâu mà tôi nhận  tiền. Trong quá trình làm báo tôi không tiếp xúc với một người châu Âu  nào cả, một người ngoại quốc nào hết... Nghĩa là Nhân Văn  tay trắng  không có một đồng xu nào cả, từ khi nó lên là tay trắng, và khi đổ thì  cũng chẳng có một đồng xu nào trong quỹ cả.(23)
 
5-Kết luận về bản chất NVGP. Niềm tin của tác giả 
Vậy bản chất của NVGP là gì?NVGP  là một đợt bột phát trào lưu tư tưởng dân chủ ở miền Bắc Việt Nam có  tiền đề ngay từ khi hình thành nhà nước VNDCCH lưỡng sinh giữa DCTS và   toàn trị cộng sản tiến dần đến mô hình kiểu chủ nghĩa Mao, phát sinh  trên nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nhưng mạnh mẽ nhất là lĩnh vực ngôn  luận mà lực lượng hăng hái nhất là trí thức khoa học xã hội và văn nghệ  sỹ, tập trung xung quanh hai ấn phẩm là báo Nhân Văn và tập san Giai  Phẩm.
 
Có lẽ cần phải cho mọi người nghe ý kiến của  Ông Nguyễn Hữu Đang trả lời Thụy Khuê ngày  tháng 9- 1995 khi bà hỏi  thực chất của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là gì :Thực chất phong  trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc  đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về  chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản đâu, mà là chống  cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Đông. Sự thâm nhập  của chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao trạch Đông đưa đến nhiều hiện  tượng- nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị,  nó gay gắt ghê lắm...Nó gay gắt ghê lắm!
 
Tác giả  là người đã được đọc lại toàn bộ hồ sơ nghiệp vụ chuyên án NVGP, tiếp  xúc với hầu hết thành viên chủ chốt của vụ án, một số văn nghệ sỹ tham  gia vào đấu tranh với NVGP, tiếp xúc sớm nhất với các tài liệu nghiên  cứu, các bài viết về NVGP từ nước ngoài, tiếp xúc tương đồi đầy đủ các  bài viết về các nhân vật NVGP ở trong nước từ sau đổi mới. Tác giả tin  rằng NVGP không phải là một vụ án gián điêp phản động. Các văn nghệ sỹ  trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN,  chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp  trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ  thuật tự do sáng tạo.Còn vụ án được đem xét xử công khai  có thể  nói đấy là một vụ án xử vì mục đích chính trị chưa đủ chứng cứ cấu thành  tội danh hoạt động gián điệp mà động cơ của nó có thể có sự lợi dụng để  khuất lấp tai tiếng và bảo vệ vị trí của chính những người lãnh đạo  Đảng đã mắc sai lầm trong CCRĐ.
 
6-Nhận xét về các biện pháp đấu tranh chống NVGP, những người đấu tranh 
Các  biệp pháp áp dụng để đấu tranh chống NVGP được gọi là biện pháp tổng  hợp, là chế độ thông thường đối với các vụ án chính trị có quy mô lớn  của các nước XHCN.  
Gồm như sau: 
-Huy  động hầu hêt các phương tiện thông tin đại chúng của chính quyền tham  gia phê phán. Báo Nhân Dân, Hà Nội Mới, Quân Đội Nhân dân, Tạp chí Học  Tập, Tạp chí Văn Nghệ, Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, Văn Nghệ Quân  Đội, Tạp chí Điện Ảnh... Đặc trưng của các cơ quan ngôn luận cộng sản là  chỉ cho phép sự phê bình chính thống, không cho phép người bị phê bình  được nói lại. 
-Huy động các cơ quan quản lý trí  thức, văn nghệ sỹ tổ chức các cuộc kiểm thảo, phê bình đấu tố những  người tham gia NVGP, sau khi đấu tố đương sự phải viết bản tự thú tội để  công khai hóa trên các phương tiện tuyên truyền. 
-Sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của hệ thống công an. 
-Sử  dụng các biện pháp quản lý hành chính như khai trừ Đảng, khai trừ BCH  khai trừ hội viên các hội VHNT, treo bút không cho xuất bản tác phẩm có  thời hạn hoặc vĩnh viễn, cách chức, chuyển công tác, hạ lương, đưa ra  khỏi biên chế, bắt buộc cư trú ở những vùng xa Hà Nội, đưa đi cải tạo  bằng lao động chân tay ở nông trường, nhà máy, hợp tác xã nông nghiệp... 
-  Ngoài ra gia đình các đối tượng còn phải chịu sự đối xử khắc nghiêt của  các cơ quan quản lý xã hội và toàn xã hội như việc học hành, thi cử,  phân công công tác, lấy vợ lấy chồng... 
Đáng lẽ có  những hình thức kỷ luật chỉ có thời hạn vài ba năm nhưng cuối cùng kéo  dài cho tới thời kỳ đổi mới. Các đối tượng hết hạn tù và quản chế đang  là công dân bình thường nhưng vẫn bị quản lý như người mất quyền công  dân. 
Nói chung là cái biện pháp tổng hợp ấy có một  mãnh lực vô hình ghê gớm, nó làm tê liệt mòn mỏi sức lực và tinh thần  của một bộ phận trí thức tinh hoa  trong thời gian dài 30 năm. 
Việc  đấu tranh đã tạo ra nhiều bi hài kịch cho các trí thức văn nghệ sỹ, tạo  ra những vêt thương đau đớn  giữa thầy và trò (24), giữa những người  bạn thân cùng chiến đấu trong một chiến hào ngày hôm qua (25), giữa vợ  chồng, cha con, anh em (26), giữa con cháu với chú bác ruột (27). Những  vết thương ấy cũng kéo dài suốt ba mươi năm, cá biệt tổn thương còn tới  ngày nay.Trong số các quan hệ làm cho vấn đề NVGP phức tạp lên,  nghiêm trọng hơn có thể còn có sự thù ghét cá nhân như quan hệ Trường  Chinh- Nguyễn Hữu Đang, quan hệ Tố Hữu- Hữu Loan, Tố Hữu- Phùng Quán,  Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt..và các tham vọng cá nhân như đã nói ở phần  trên...(28)
 Một đảng viên cộng sản châu Âu đã có nhiều năm sống ở  Việt Nam trong cả kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã ví rằng vụ NVGP  và vụ án Xét lại sau này là hai cơn bão lớn quét qua bầu trời trí thức  Việt Nam.
 
IV- Hậu Nhân Văn Giai Phẩm
 
 Nhân văn Giai Phẩm tuy bị dập tắt nhưng nó có sức sống bất diệt, cứ âm  thầm thao thiêt chảy dưới bề mặt của chế độ toàn trị. Những gì tinh túy  của nó đã kết tinh lại để rồi đến khi cởi trói các bảo vật ấy lại được  sống tiếp cuộc sống công khai giữa xã hội.
 
1-Thời kỳ 1960- 1986 
Trong  thời gian dài các tác phẩm của các thành viên chủ chốt NVGP không được  in ấn công khai trên mặt sách báo. Họ được trả một chút lương để làm  công việc dịch thuật. Các văn bản do họ thực hiện không được mang tên  thật. Tranh vẽ mang tên người khác, thơ và truyện nếu phù hợp với đường  lối tuyên truyền có thể xuất bản được thì mang tên một người cụ thể  khác. Đó là sáng tác thuê, họ chỉ được một phần nhuận bút. Nguyễn Hữu  Đang thì được trợ cấp lĩnh qua đơn vị nghiệp vụ công an. Người nào ra  khỏi biên chế thì tự kiếm sống. Có như như Tử Phác đã rơi vào hoàn cảnh  cực kỳ thê thảm.Tuy vậy họ vẫn sáng tác , tất nhiên là cảm hứng sáng  tác bị thu hẹp và gắn liền với tâm trạng cá nhân. Đáng chú ý nhất là  các trường hợp Phùng Cung, Hoàng Cầm, Phùng Quán.
 
Phùng  Cung sinh năm 1928 tại Vĩnh Yên, tham gia kháng chiến chống Pháp, sau  hòa bình bố ông bị quy sai địa chủ bị chêt trong tù, ông công tác ở Văn  phòng Hội Nhà văn. Khi có phong trào NVGP ông cho đăng truyện ngắn Con  ngựa già của Chúa Trịnh trên báo Nhân Văn số 4. Thời gian này ông bị  đình chỉ công tác, kiểm điểm. Tháng 5- 1961 ông bị bắt , bị giam đến đầu  1973 mới được thả ra. Trong các bản thảo của Phùng Cung có khoảng chục  truyện ngắn mang nội dung phê phán gay gắt CCRĐ, cuộc sống hiện tại, tha  nhân của cán bộ, văn nghệ sĩ...Năm 2003 tuyển tập tác phẩm của ông được  xuất bản tại Mỹ gồm tập thơ Xem Đêm  đã xuất bản trong nước, 10 truyện  ngắn và tập thơ Trăng Ngục với những bài thơ ông viết trong 12 năm tù  đầy. Ông đã mất năm 1997. 
Sau thời gian đi cải tạo  lao động, Hoàng Cầm trở về Bắc Ninh quê hương ông. Vượt qua những dằn  vặt đau đớn di chấn của vụ NVGP ông sống đằm mình vào văn hóa Kinh Bắc  cái mạch nguồn đã cho ông làm nên Bên kia sông Đuống. Tập thơ liên hòan  Về Kinh Bắc có thể nói là một lâu đài thơ ca tráng lệ có không gian văn  hóa cổ kính hòa trộn với tâm linh hiện đại, những ẩn ức về thân phận con  người cùng với khát vọng sống của nó.Về Kinh Bắc là đỉnh cao trong sự  nghiệp thơ ca của Hoàng Cầm, tiếc rằng 35 năm sau nó mới được ra mắt bạn  đọc, sau khi Hoàng Cầm phải ngồi tù 1 năm rưỡi  cùng người bạn thơ  Hoàng Hưng ngồi tù 39 tháng vì hệ lụy tập thơ. Trong thời gian 35 năm ấy  một vài bài của Về Kinh Bắc, đặc biệt là Lá diêu bông đã được giới yêu  thơ, thanh niên Hà Nội chuyền tay nhau cùng bản nhạc phổ lời bài thơ,  tôi biết chính xác có bài của nhạc sĩ Ngọc Thanh, nhạc sĩ Lê Yên, sau  này có bài của nhạc sĩ Phạm Duy. Chuyện tình của Lá diêu bông cũng như  Quả vườn ổi, Cây tam cúc, Cỏ Bồng thi chỉ là một phương tiện thể hiện,  đặt các bài thơ ấy trong bối cảnh 1958- 1960 mới hiểu được chủ nghĩa  nhân văn, ám ảnh thân phận người nghệ sĩ, nỗi thất vọng to lớn giữa lý  tưởng và cuộc đời của một thế hệ nhà văn...Ông vừa mới mất ngày 6- 5-  2010. 
Hành trình tư tưởng của Phùng Quán thực ra  đơn giản. Suốt đời ông ca ngợi lý tưởng, kêu gọi người ta chiến đấu cho  độc lập dân tộc, cho hạnh phúc của nhân dân. Nhưng tính bộc trực, lòng  nhiệt thành khi đăng bài trên NVGP đã làm ông chịu nhiều oan ức. Vừa câu  cá trộm ở hồ Tây để sống ông phải viết hàng trăm truyên thiếu nhi,  truyện tranh cho các nhà xuất bản với bút danh mới hoặc mượn tên người  khác.Trong nhiều năm ông đã hoàn thành bộ tiểu thuyết 3 tập gần 1000  trang về quãng đời niên thiếu chiến đấu trong đơn vị độ đội do Đàm  Quang Trung chỉ huy với tên Tuổi thơ dữ dội xuất bản lần đầu ở Huế với  bút danh Đào Phương. Tuổi thơ dữ dội được Giải thưởng của Hội Nhà văn  năm 1987. Ông đã mất năm 1995.
 
Văn Cao gần như  không công bố thơ của mình trên báo, chỉ chuyên làm bìa sách và vẽ minh  họa cho các báo. Bắt đầu đổi mới ông công bố bài thơ dài Năm buổi sáng  không có trong sự thật trên tạp chí Sông Hương tạo ra sự ngạc nhiên của  dư luận. Ông đã mất năm 1995. 
Đặng Đình Hưng cũng  âm thầm thể nghiệm một thể thơ hiện đại trên chất liệu chính cuộc sống  mòn mỏi, tù túng của ông, sau này in thành tập Ô Mai và Bến Lạ.Tôi lại đi...
 Jiữa  cái nong hình dáng lưng tôi, một bảng đen trước mặt, một vòng phấn dưới  chân, zính zính… những con 8 lộn zọc nhẵn thín nam châm gói tronghatj  thóc zống của không biết
 … Tôi hề biết
 / kể cả quả mít nứt
 Tôi đã tìm ở sau cái gương/ cũng không có jì hết
 Tôi đã tiếp đau thương những nhỏ nhỏ
 thường thường
 Đã húp ra đi từng bát những nhạt nhạt
 mềm mềm
 
 ,và rất ngon
 
Ông đã mất năm 1990 tại thành phố HCM. 
Trân  Duy từ bỏ văn chương tuy không phải nghề chính nhưng ông cũng được đánh  giá cao với truyện ngắn Tiếng sáo tiền kiếp trên Giai phẩm Mùa Thu tập  I. Ông chuyên tâm với tranh lụa mà đề tài là các di tích văn hóa lịch  sử, các danh thắng và có được một bộ sưu tập có giá trị. Ông được khôi  phục Hội viên Hội nghệ sĩ tạo hình năm 1988, mở Triển lãm tranh năm 1991  . Gần đây ông lại tái xuất giang hồ với vài truyện ngắn và đoạt ngay  giải thưởng truyện hay trong năm của báo Văn Nghệ. 
Nguyễn  Hữu Đang ra tù từ năm 1973 nhưng bị quản chế kéo dài ở quê ông Vũ Thư  Thái Bình. Ông nghiên cứu về triết học Trung Quốc, đặc biệt là Lão  Trang, về Lịch sử Đảng cộng sản Liên Xô. Ông có viết, đăng một số bài  báo về Hội truyền bá quốc ngữ, về Văn hóa Cứu quốc, về điện ảnh trước  1945 và một vài truyện ngắn. Ông đã mất năm 2007. 
Thụy  An cũng ra tù từ 1973, an trí tại quê làng Hòa Xá Hà Tây, sau chuyển  vào thành phố Hồ chí Minh sống với con cháu. Có nguồn nói rằng trong  thời gian ở tù bà có làm được một số bài thơ nhưng chưa thấy công bố.  Con trai của bà là Bùi Thụy Băng ở Ca Na Đa đã công bố cuốn hồi ký về  bà. Bà đã mất năm 1989 tại thành phố Hồ Chí Minh. Nói thêm về Thụy An:  Bà đã có mặt trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan xứng đáng với tư  cách là một nhà văn nữ viết tiểu thuyết. Bà còn là một nhà báo có năng  lực, dũng cảm đấu tranh cho nữ quyền, từng là Chủ nhiệm báo Đàn bà mới,  Quyền Tổng Giám đốc Việt tấn xã, là hội viên HNVVN khóa I 1957.  
Trần  Dần là người tỏ ra bền bỉ và dẻo dai kiên trì với đường lối thơ cách  tân siêu thực theo một kế hoạch nghiêm túc. Ông có nhiều tập thơ sau này  đã in trong Trần Dần Thơ năm 2008, tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh xuất bản  1994 được Giải thưởng HNVVN năm 1995, tiểu thuyết Những ngã tư, những  cột đèn, Một ngày Cẩm Phả...Ông đã mất năm 1997. 
Lê  Đạt sau thời gian dịch sách và đọc sách phương Tây đã tập trung vào  cách tân hình thức thơ mà sau đổi mới ông đã in thành tập Bóng chữ gây  nhiều tranh cãi. Đồng thời ông còn sáng tác truyện ngắn phần lớn mượn đề  tài lịch sử hoặc phương Tây. Ông đã mất năm 2008. 
Các  nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ khác bị xử lý nhẹ hơn vẫn tiếp tục sáng tác và  công bố tác phẩm như bộ tứ Nguyễn Tư Nghiêm – Dương Bích  Liên- Nguyễn  Sáng – Bùi Xuân Phái, Nguyễn Bính, Trần Lê Văn, Huy Phương, Thái Vũ (  Bùi Quang Đoài), Phan Vũ, Quang Dũng, Hoàng Tố Nguyên, Yến Lan, Nguyễn  Thành Long, Hải Bằng, Nguyễn Văn Tý, Phạm Kỳ Nam, Văn Tâm, Hoàng Yến ... 
Có  một số người sau NVGP không hoặc hầu như không sáng tác hoặc không công  bố tác phẩm cho đến thời kỳ đổi mới  như Nhuyễn Khắc Dực, Chu Ngọc, Sĩ  Ngọc, Lê Đại Thanh, Hữu Loan, Thanh Châu, Hoàng Tích Linh, Trần Công,  Trần Thịnh, Hoàng Huế, Thúc Hà, Trương Tửu... 
Trong  thời gian này có một sự kiện đáng chú ý là ở Hà Nội xuất hiện một nhóm  văn nghệ sĩ trẻ lấy tên là nhóm Văn nghệ chân đất với tuyên ngôn nêu  gương các đàn anh NVGP, đòi tự do sáng tác và thể nghiệm nghệ thuật.  Nhóm này chỉ sinh hoạt bí mật, tùy hứng chưa có tổ chức nhưng đến năm  1983 một thành viên là Diệu Tô Minh làm việc ở Đài Phát thanh TNVN vượt  biên và công bố trước một tòa án nhân quyền ở Paris bản Tuyên ngôn của  nhóm Văn Nghệ Chân đất, tài liệu Một nền thơ ly khai chủ nghĩa xã hội ở  Hà Nội, trong đó có nhiều người sau này đã trở thành hội viên HNVHN,  HNVVN như Lê Huy Quang, Chu Hoạch, Phan Đan, Lương Vĩnh...(29) 
2-Thời kỳ 1987 đến nay
 
Sau  khi có Nghị quyêt 05 của Bộ Chính trị ĐCSVN  Về đổi mới công tác quản  lí văn học nghệ thuật trong tình hình hiện nay vấn đề NVGP đã được đặt  ra ở góc độ xem xét phục hồi hội tịch cho số người bị khai trừ có thời  hạn nhưng kéo dài vô thời hạn, đồng thời giải quyết chế độ chính sách  như cấp nhà, nâng lương cho một số người. Nguyễn Hữu Đang được tự do đi  lại,được bố trí chuyển lên Hà Nội được cấp nhà ở. Tất cả những người  tham gia NVGP được công bố tác phẩm  nếu như tác phẩm của họ không vi  phạm các điều cấm theo quy định. Họ tham gia vào các sinh hoạt văn học  nghệ thuật bình thường. Và không thấy trong hoạt động của họ có vấn đề  gì phức tạp như thời kỳ NVGP trước đây. 
Các ông  Văn Cao, Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Hữu Loan, Lê Đại  Thanh, Phùng Cung, Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo Trần Duy...lần lượt cho  in tác phẩm taị các nhà xuất bản trong nước. Có quy mô và bề thế là  tuyển tập của các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán, Trương  Tửu, Phan Khôi... 
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT  đã được trao cho các ông Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư  Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Dương Bích Liên, Nguyễn Sĩ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ,  Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Nguyễn Bính, Lộng Chương, Đặng Văn Ngữ... 
Giải  thưởng Nhà nước về VHNT đã được trao cho các ông Trần Dần, Hoàng Cầm,  Lê Đạt, Phùng Quán, Yến Lan, Phạm Kỳ Nam, Nguyễn Thành Long ... và nhiều  ông khác. 
Dư luận đòi hỏi ĐCSVN, Nhà nước không  nên mập mờ mà phải bày tỏ công khai việc đánh giá lại vụ NVGP cùng những  sai lầm trong xử lý vụ án này.  
Việc chiêu tuyết  cho các nhân vật còn lại vẫn được tiếp tục như đối với Phan Khôi,Trương  Tửu, Nguyễn Mạnh Tường, Hữu Loan, Thụy An, Tử Phác, Trần Thiếu Bảo, Phan  Tại... 
3-Nguồn tư liệu và các kết quả nghiên cứu về NVGP 
Đã  sinh ra một tập quán kỳ lạ trong giới VHNT và NCKHXH là người ta né  tránh NVGP suốt thời gian dài đến 55 năm. Cho đến nay tôi chưa thấy  trong nước có bất cứ bài viết có hệ thống hoặc công trình nghiên cứu nào  về NVGP đã được công bố. Vì thế tài liệu về các ấn phẩm NVGP bị rơi  rụng gần hết. Tài liệu của các cá nhân NVGP thì đã bị tịch thu hoặc đem  giao nộp, các gia đình không dám tàng trữ, chỉ các thư viện quốc gia mới  được bảo quản và cũng không phục vụ bạn đọc. Chỉ còn trong hồ sơ công  an một số ấn phẩm và một số bản thảo thời kỳ NVGP và sau NVGP. Ví dụ khi  tác giả đang phụ trách công tác về chuyên đề NVGP đã trao lại cho ông  Lê Đạt bản thảo bài Cửa hàng Lê Đạt, trao lại cho ông Nguyễn Hữu Đang  bức ảnh có ông đứng trên lễ đài Độc Lập cùng Hồ Chủ tịch ngày 2- 9-  1945, trao lại cho Trần Dần bản thảo tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh, bản thảo  tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn... 
Mới  đây ông Lại Nguyên Ân đi tìm dấu vết của tờ Sáng Tạo  cũng cho biết rằng  tại Thư viện Quốc gia cũng không tìm thấy 2 số báo hiếm hoi này. Mà nội  dung của nó hầu như không được đề cập đến trong các bài nghiên cứu ở  nước ngoài. 
Vậy có thể một số ấn phẩm NVGP còn nằm rải rác trong một số các nhân, người chơi sách, bán sách cũ từ thời NVGP. 
Tại  miền Bắc cuốn Bọn Nhân Văn Giai phẩm trước tòa án dư luận là tài liệu  duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống về NVGP. Một số  người nghiên cứu do không có tư liệu thường dựa viết theo cuốn này khi  phải nói về giai đoạn 1954- 1960. Tiếc rằng hầu hết các bài trong tập  sách đều viết theo lối tố khổ CCRĐ, rất thiếu tinh thần khách quan khoa  học. 
Tại miền Nam, công trình sớm nhất về NVGP là  cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí, một người cháu rể  của Phan Khôi. Cuốn này có một bài tổng quan và tuyển tập các bài văn cơ  bản của NVGP nhưng trừ ra 4 người quan trọng là Thụy An, Nguyễn Hữu  Đang, Trương Tửu, Lê Đạt. Bên cạnh cuốn này một vài tuyển thi ca chung  có một số bài của các nhà thơ NVGP. Các sách này trước 1975 lưu hành ở  miền Nam, còn sau 1975 thì dược coi là sách cấm trong cả nước. 
Như  vậy trong nước chưa có một cơ quan nghiên cứu nào, một nhà nghiên cứu  nào thực sự bắt tay nghiên cứu về NVGP.  Hầu như toàn bộ các thế hệ sau  không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ lặp lại các  luận điệu chính thống mỗi khi nói về nó. 
Gần đây  Ngành Điện ảnh đã biên soạn xong và phát hành cuốn Lịch sử Điện ảnh Việt  Nam tương đối công phu dày hơn 1000 trang, nhưng coi như không có hiện  tượng NVGP trong làng điện ảnh thời kỳ 1955- 1958. 
Cũng  may là trong số các hàng binh châu Âu khi hồi hương có người đã mang  được một số ấn phẩm NVGP về Paris. Trong điều kiện đó, ở Đài RFI, BBC  một vài nhà nghiên cứu văn học, sử học đã kêt hợp các tài liệu này với  các cuộc phỏng vấn bằng điện thoại hoặc trực tiếp tại Paris, mới bắt đầu  công bố những phác thảo gương mặt NVGP hoặc đánh gía về giai đoạn này. 
Cho đến nay đã có các công trình và các tác phẩm của những người tham gia NVGP xuất bản ở nước ngoài như sau: 
- Cent  fleurs écloses dans la nuit du Vietnam ( Trăm hoa đua nở trong đêm Việt  Nam ) của Georges Boudarel xuất bản năm 1991. Trướ c đó năm 1987 đầu  1988 ông đã viết bài tựa đề  Disidences intellectueles au Vietnam L  áfaire Nhân Văn- Giai Phẩm ( Trí thức phản kháng tại Việt Nam, vụ Nhân  Văn – Giai Phẩm) in trên hai số tập san ở Paris Sudestasie và Politique  Aujourdhui en Europe. Boudarel là hàng binh đã tham gia công tác cho  kháng chiến chống Pháp, sau hòa bình ông làm biên dịch buổi phát thanh  tiếng Pháp ở Đài Tiếng nói Việt Nam đến năm 1966 thì hồi hương. Ông là  bạn của nhiều nhân vật NVGP trong quân đội. 
- Thụy  Khuê ở Paris cuối năm 2004 có bài  Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và  công bố loạt bài phỏng vấn Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Duy.  Từ giữa năm 2009 bà công bố từng phần trên website đài RFI như một công  trình nghiên cứu tương đối hoàn chỉnh với tựa đề Tìm hiểu Phong trào  Nhân Văn Giai Phẩm. Đặc biệt sau phần nghiên cứu chung bà đã dựng lại  chân dung tinh thần NVGP từng cá nhân trí thức văn nghệ sỹ tiêu biểu của  phong trào. 
- Công trình mới nhất xuất bản năm  2009 tại Berlin  Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Vietnam 1954-  1960( Năm mươi năm sau:Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954- 1960) của nhà  nghiên cứu Heinz Schutte giảng dạy tại Khoa Đông Nam Á Đại học  Hamburger. Độc đáo của công trình này là tác giả đã khai thác được hồ sơ  của Sứ quán Đông Đức tại Hà Nội phản ánh sự kiện NVGP, đồng thời tác  giả đã vào Việt Nam nhiều lần và kiểm chứng tư liệu cũng như đánh giá  của mình qua rất nhiều nhân vật chính khách, văn nghệ sĩ thời kỳ đó. 
- Năm  1992 tại Paris nhà xuất bản Quê mẹ của Võ Văn Ái in cuốn hồi ký bằng  tiếng Pháp của Luật sư Nguyễn Mạnh Tường Un Excommunie ( Kẻ bị khai trừ)  với tiểu tựa Hanoi 1954- 1991: Proces d ún intellectuel ( Hà Nội 1954-  1991: Kết án một nhà trí thức). 
- Năm 2001 Nhà  xuất bản Văn Nghệ California Hoa Kỳ xuất bản cuốn nhật kí của Trần Dần   tên là Trần Dần ghi trích những ghi chép của Trần Dần trong hai thời kỳ  CCRĐ và NVGP 1954- 1960. Đặc biệt đây là một cuốn sách thật nhất về  NVGP, về cuộc sống thời kỳ này của dân tộc mà người ta không thể tìm  thấy các hình ảnh rớm máu ấy trong các tác phẩm tuyên truyền công khai ở  miền Bắc.  
- Ngoài ra còn có một số cuốn khác đề  cập đến NVGP như : Hồi ký Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên do NXB Văn  nghệ ở Hoa Kỳ, của Nguyễn Minh Cần, Trần Trung Phụng, Bùi Tín, Hoàng  Giang, Kim.N.B. Ninh, Website của Trần Hữu Dũng, Talawas, một số bài  viết trong nước, ngoài nước về các nhân vật chủ chốt NVGP và bài viết  của chính họ về họ. 
- Để hiểu thấu đáo bối cảnh xã  hội của phong trào NVGP còn có một số tài liệu lịch sử nước ngoài  nghiên cứu về Việt Nam giai đoạn 1945- 1954 đặc biệt là quan hệ giữa chủ  nghĩa Mao và cách mạng Việt Nam của Vũ Ngự Chiêu (30), Vũ Tường (31),  Trình Ánh Hồng (32), Davis Mar (33), Huỳnh Kim Khánh , Ninh Kim N. B  (34),... 
Tuy nhiên do điều kiện thiếu tư liệu  và khả năng kiểm chứng, kể cả Schutte, trong các tác phẩm nói trên có  một số chi tiết không chính xác. Cũng do động cơ đánh giá chưa thật sự  khách quan các tác giả thường nhìn toàn bộ phong trào Nhân Văn Giai Phẩm  qua hệ quy chiếu đối kháng với ĐCSVN, với chính quyền Việt Nam. Điều  này có thể làm sai lệch nội dung các văn bản và gây mất thiện cảm đối  với một thế hệ độc giả trong nước.
 
- Cũng nên nói  thêm ở trong nước đã có người đang tập hợp hồ sơ về NVGP. Đó là nhà  nghiên cứu Lại Nguyên Ân. Ông đã công bố một phần sưu tập này trên  Talawas và một vài bài viết về các tờ báo Trăm hoa, Sáng Tạo, về Hội Nhà  văn Việt Nam trong thời kì này (35). 
- Ở các ấn  phẩm khác mới xuất bản gần đây, đặc biệt là các tuyển tập của các nhà  văn có vai trò nhất định trong thời kì NVGP người ta đã cắt bỏ những bài  viết về NVGP, còn trong tuyển tập của các nhà văn NVGP vẫn còn có những  trường hợp loại bỏ tác phẩm mặc dù nó không sai trái theo quan điểm  hiện nay như của Trương Tửu, Phan Khôi, Trần Duy. Ở một số cuốn hồi kí  khi đến giai đoạn này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí  của Đào Duy Anh, Vũ Đình Hòe, Gia đình Khan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu, .  Nghĩa là việc nói lại một cách rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc  cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói! 
4-Món nợ với lịch sử 
Công  cuộc đổi mới của đất nước đã đem lại những thay đổi to lớn về tinh thần  cho nhân dân và văn nghệ sĩ. Nghị quyết 05 của Bộ chính trị khóa VI với  các tiêu chí dân chủ không những đã cho các nhà nghiên cứu và văn nghệ  sĩ tư tưởng tự do trong sáng tác mà còn định hình lại những giá trị tinh  thần của dân tộc đã bị bỏ qua. Các di sản văn hóa khoa học đóng góp vào  hành trình hiện đại hóa ngôn ngữ, tư duy dân tộc của Tự Lực Văn Đoàn,  của Trương Vĩnh Ký, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hồ Biểu Chánh, Lan Khai  ... đã được xem xét đánh giá lại.Đáng lí ra những vụ án chính trị  trong quá khứ của nước ta sau một thời gian dài đã phải được công khai  về tư liệu, minh bạch về kết luận. Nếu ĐCSVN và chính quyền sai lầm thì  phải sửa chữa các sai lầm đó như Liên Xô, Nga, các nước Đông Âu và Trung  Quốc đã làm. Nhưng tất cả vẫn mù mờ. Những người tham gia đấu tranh và  các đối tượng hầu hết đã chết mà những người lãnh đạo hiện nay vẫn im  lặng, các nhà nghiên cứu không dám khai thác tài liệu hoặc phỏng vấn các  nhân chứng. Hầu hết các bài viết cơ bản của NVGP trước đây bị quy kết  là có tư tưởng phản động đều đã được in lại trong các tuyển tập văn học,  tuyển tập cá nhân của họ, trên một số trang mạng và báo viết. Họ được  ca ngợi , được giải thưởng HCM, GTNN nhưng công khai thì không ai dám  nói NVGP là vụ án gì?
 
Trong lần trả lời phỏng vấn RFI lão hoạ sỹ Trần Duy nói:Cái  gì trong cuộc đời cũng dở dang, con người mình cũng dở dang, năm nay 90  tuổi rồi, không biết mình đi đúng hay mình đi sai, mình đi đúng thì  sống đến 90 tuổi rồi, mà mình đi sai thì đã chết từ 50 tuổi rồi. Bây giờ  sống đến 90 tuổi thì cũng không biết con đường đã đi là con đường nào.  Ai ghét mình? Ai yêu mình? Mình nên yêu ai, nên ghét ai? Thực tế ra sống  đến chừng này tuổi tôi không nghĩ là tôi ghét ai cả, nhưng yêu ai thì  cũng rất khó.(36)
 
Ở bài Tưởng niệm Phan Khôi ông viết:Ông Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có lời giải!
 Nỗi  oan của nàng Đậu Nga trong Kinh dịch nổi tiếng của Trung Quốc đã được  minh oan. Nỗi oan của gia đình Nguyễn Trãi – Thị Lộ đã được minh giải.  Nguyễn Du chưa đến ba trăm năm sau đã được đồng bào mình thấu hiểu.  Riêng nỗi oan của Phan Khôi , cái mà ông quý nhất, gìn giữ nhất là phẩm  giá thì đã bị bôi nhọ , bị chà đạp. Ai là người minh giải?
 Tiếng thở  dài và tiếng chép miệng của ông trong những ngày cuối cùng như còn vọng  lại. Sinh thời mỗi lần ông nói đến nỗi oan khuất nào đó của người đời,  ông vẫn thường nhắc đến tiếng cóc kêu với trời! Gió mưa là do chuyển hóa  Đông- Tây của thời tiết, nhưng vẫn có người tốt bụng tin rằng: Trời mưa  là nhờ có cóc kêu. (37)
 
Còn Phùng Quán sau đổi mới có viết : 
Tôi chết giữa Hồng Hà sóng đỏBa mươi năm sau
 Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn giang. (38)
 
Trong  tư liệu của tác giả có lá thư Trần Dần viết gửi một người lãnh đạo ngay  sau chiến thắng 1975. Đó là một cái giọng rất tội nghiệp kiểu Trần Dần,  không thể nghĩ là tâm tư của một kẻ phản trắc.Rồi đám cháy tắt. Đất  nước dập tắt cái đám cháy ngoại xâm ấy. Mỹ cút...Tôi hy vọng...vấn đề  cuộc đời tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi, vợ con, gia đình, ở  ngưỡng cửa của Đất nước chiến thắng... Tôi vẫn hy vọng. Tôi còn ít nhiều  năm tháng. Còn một phần đời. Một phần đời, một ngày cũng đáng sống. Dù  một buổi chiều. Nhất là trong khi ngày ấy, buổi chiều ấy, phần đời ấy dù  bé bỏng nhưng nằm ở ngưỡng cửa Khải hoàn môn... Tôi hy vọng. Tôi còn  một phần đời. Để sống nó. Để làm việc. Con cái. Sự gây dựng. Sự chuộc  lại...Tôi xin sự giúp đỡ. Sự rộng lượng. Ở các anh. Ở tổ chức. (39)
 
Đáng  tiếc là lời kêu cứu của Trần Dần, cũng là nguyện vọng chung của các nạn  nhân NVGP đã rơi vào im lặng. Họ phải đợi thêm 12 năm nữa mới có ngọn  gió đổi mới.Trần Dần từ trần tại Hà Nội ngày 17- 1- 1997. Mười năm sau 2007 ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
 
Dù sao Trần Dần, cũng như Hoàng Cầm, Lê Đạt, Phùng Quán còn được may mắn hơn nhiều người khác.Cần có câu trả lời cho tất cả những người đã làm Bông hồng nở sớm (40) cho mùa xuân của đất nước.
 
V- Phần kết 
Trong  một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế kỷ về sự mê muội  dân trí, về sự độc  tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc để có sự đồng thuận về vụ NVGP  và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể mò kim...Nhưng trong đêm tối  không phải không có những người đã nhìn thấy ánh sáng của chân lý. Sẽ có  nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Mỗi người chỉ  là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên nữa, người ta cả tin.  Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý trí, là không hiểu ,  không thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ đã sống và tàn sát  đồng loại và tự biện ninh bằng một cái mục đích hão huyến vô nhân tính.  Vào những năm đầu đổi mới tôi đã viết trong bài thơ Thế giới đang tồn  tại: 
Bi kịch thay cho những dân tộc chỉ tin vào những thần tượng, những tín điều.Người ta đã trả giá
 Một tuổi thanh xuân, một đời người, một thế hệ, một thiên niên kỷ để hiểu ra cái giản đơn giữa bao mê cung rắc rối: Con người.
 
Cắt thế giới ra từng khúc, từng đoạn ư? Hay để nguyên nó mà trầm tưởng, mà chiêm ngưỡng. 
Tôi là một phần không thể chia cắt khỏi thế giới.Tôi hiểu:
 Cần phải đối xử với thế giới như nó đang tồn tại. (41)
 
Cuộc  đời của các nhân vật NVGP cho tôi cảm hứng viết bài thơ Bông hồng nở  sớm. Bài thơ được in trong Tuyển tập Văn học hiện đại Việt Nam 1945-  1993. NXB VH 1993.Hai mươi lăm năm qua tôi đã cố gắng hóa thân vào  hàng nghìn trang tài liệu, vào hàng trăm con người để hiểu một câu hỏi  duy nhất NVGP là cái gì?.
 Nay tôi thấy cần phải lên tiếng về sự kiện  này. Nếu không thì đã quá chậm trễ, là có tội với vong linh những người  đã khuất. Cả những người là NVGP. Cả những người đã vùi dập NVGP vì  cuồng tín ngây thơ hoặc nhờ đàn áp NVGP mà tiến thân. Họ có thể cần nói  một lời sám hối với các bạn bè đồng nghiệp oan khuất của mình, những  người bị mình sát hại một cách lương thiện mà vẫn còn bị ám ảnh bởi nỗi  sợ hãi vô hình, đã nhắm mắt mà vẫn chưa nói được.
 Với chức nghiệp éo  le của mình, tôi đã cứu được nhiều người, đã giữ bình yên cho nền VHNT  nhiều năm nhưng tôi đã trả giá cuộc đời mình cho những nhà văn đã dám  đốt mình lên trước vận mệnh của đất nước, của nhân dân.(42)
 Tôi không mảy may ân hận, luyến tiếc về việc đã làm.
 
 
Chú thích_________________________________
 
1-Tố Hữu: Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta thời đại ta, Nxb Văn học 1973, trang 132-219. 
2- Hoàng Tiến: Nhìn lại vụ án Nhân Văn Giai Phẩm cách đây 40 năm, tài liệu nghiên cứu 1997. 
3-  Vũ Tường: Ngày nay cách mạng Đông Dương phải hiện nguyên hình: Bước  ngoặt dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp và nội chiến Việt Nam vào năm  1948. Journal of Southeast Asian Studies, 40, 3 (10- 2009), 519- 542.  Bản dich tiếng Việt trên Talawas số Mùa Thu chuyên đề Bao nhiêu chủ  nghĩa dân tộc là đủ? 
4- Nhà thơ, sinh năm 1939 quê  Hải Phòng, sống ở Hà Nội bị bắt năm 1980 vì đưa tập thơ Tiếng vọng từ  đáy vực gồm 400 bài vào Sứ quán Anh. Trước đó đã bị bắt và đi tù 2 lần  vì tội phản tuyên truyền. Được trả tự do năm 1991, tổng cộng ngồi tù 27  năm, được nhập cư vào Mỹ năm 1995. Tập thơ của ông với có tựa đề Bản  Chúc thư của Một Người Việt Nam – Hoa Điạ Ngục được Văn Bút Quốc Tế tặng  Giải thưởng Thơ ca Quốc tế năm 1985. Ông còn có tập truyện Hỏa Lò do Tổ  hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ xuất bản nảm 2001 và Tuyển tập thơ Nguyễn  Chí Thiện 700 bài xuất bản năm 2006. 
5- Các bài  Tuyên ngôn của nhóm Văn nghệ Chân đất, Họp báo về phong trào ly khai ở  Hà Nội, Lá thư của người Hà Nội, Hà Nội một mối buồn dài, 30 năm văn học  ly khai ở miền Bắc in trong tạp chí văn học Quê Mẹ của người Việt Hải  ngoại ở Paris số 40- 41- 42, 1980.  
6- Nam Dao: Hoàng Cầm ( 1922 – 2010 ). Talawas tháng 10- 2010 
7-  Trình Ánh Hồng: Không chỉ có Moskva: Ảnh hưởng của Trung Quốc ở Đông  Âu  và Bắc Việt thời kỳ hậu Stalin. Bản dịch Lê Quỳnh, Talawas. Tham  khảo thêm ở Năm mươinăm sau: Trăm hoa đua nở ở Việt Nam 1954 – 1960 của  Heinz Schutte, Berlin 2009. 
8- Vũ Tường, Bđd. 
9- Trình Ánh Hồng, Bđd. 
10- Vũ Tường, Bđd. 
11- Hoàng Giang: La Révolte des Intellectuels au Viêt- Nam en 1956, The Vietnam Forum 13.Georges Boudarel, Université de Paris VII: Intellectual dissidence in  the 1950s THE NHÂN- VĂN GIAI- PHẨM AFFAIR. The Vietnam Frum 13.
 
12-  Sau đổi mới tài liệu này đã phát hành công khai trên Bản tin Thông tấn  xã Việt Nam. Có thể tham khảo thêm trong Hồi ký Khơ rút Sốp, trên mạng. 
13- Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9+10 BCHTƯ ĐCSVN khóa II. Văn kiện Đảng. 
14- Vũ Tường, Trình Ánh Hồng Bđd. 
15- Tố Hữu: Sđd. 
16- Thái Kế Toại: Luận văn tốt nghiệp ĐHAN HN Về các đối tượng NVGP và giải pháp trong tình hình đổi mới hiện nay, năm 1987. 
17- Nguyễn Mạnh Tường: Hồi ký bản tiếng Việt Kẻ bị mất phép thông công – Hà Nội 1954- 1991: Bản án cho một trí thức. Trên mạng.  
18- Phỏng vấn Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ với chủ đề Nỗ lực phát triển tự do dân chủ, báo Nhân Văn số 2 – 3. 
19- Đào Duy Anh: Muốn phát triển học thuật. Giai phẩm Mùa Thu tập III. 
20- Phan Khôi: Phê bình lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập I.  
21- Trương Tửu: Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, Giai phẩm Mùa Thu tập II. 
22- Thụy Khuê: Nói chuyện với họa sĩ Trần Duy. Website Thụy Khuê. 
23- Thụy Khuê: Bđd. 
24- Nguyễn Mạnh Tường có nhắc đến việc bị học trò đấu tố trong hồi kí Kẻ bị mất phép thông công... 
25-Nguyễn  Huệ Chi trong bài viết Trao đổi cùng Nguyễn Văn Hoàn trên Talawas về  thắc mắc của ông trường hợp Toàn tập Trần Thanh Mại không có bài đấu  tranh trong thời kì NVGP, cho biết bố ông nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi  bị ép viết bài phê phán Phan Khôi coi đó là một việc vẫn lấy làm xấu  hổ, một vết nhơ không gột nổi. Khi chết ông dặn con tìm cơ hội gột rửa  giúp mình.Tác giả được nghe từ các nhân vật NVGP nhiều chuyện khôi hài về sự quay quắt tráo trở của tình bạn văn nghệ sĩ thời NVGP.
 
26-  Trong bài trả lời phỏng vấn của Thụy Khuê, Trần Duy cho biết em ruột  mình, một sĩ quan quân đội khai lý lịch đổi tên lót truyền thống của  dòng họ, không khai tên ông và chỉ nhận là con nuôi bố ông. 
27-  Trong bài phỏng vấn của Thụy Khuê với các ông Hoàng Cầm, Lê Đạt có nhắc  trường hợp vợ chồng Vũ Ngoc Phan- Hằng Phương. Hằng Phương gọi Phan  Khôi là bác ruột anh mẹ, khi xảy ra NVGP họ viết bài đấu tố Phan Khôi,  không dám đi đưa ma Phan Khôi. Một trường hợp nữa là quan hệ Tố Hữu –  Phùng Quán, Tố Hữu là anh cùng cha khác mẹ với mẹ Phùng Quán.Phan Thao là con Phan Khôi vẫn phải ký tên vào tuyên bố lên án NVGP.
 
28- Trong phỏng vấn của Thụy Khuê với Lê Đạt, Trần Duy. 
29- Tạp chí Quê Mẹ đã dẫn. 
30- Vũ Ngự Chiêu: Hồ Chí Minh nhà ngoại giao 1945- 1946.Chuyến đi cầu viện bí mật năm 1950 của Hồ. Tạp chí Hợp Lưu
 
31- Vũ Tường, Bđd. 
32- Trình Ánh Hồng, Bđd. 
33- David G. Marr: Vietnam 1945 The quest for Power 
34-Ninh  Kim N.B: A World Transformed: The Politics of Culture in Revolutionary  Vietnam, 1945- 1965. University ò Michigan Press 2002. 
35-  Lại Nguyên Ân có các bài: Hội Nhà văn Việt Nam: Sự thành lập và hai năm  đầu tiên tồn tại ( 1957- 1958 ). Đi tìm dấu tích tờ Sáng Tạo ( Hà Nội,  1956). Nguyễn Bính và tuần báo Trăm Hoa (1955- 1957). Xuân Diệu trong  những năm 1954 – 1958. 
36- Trần Duy trả lời phỏng vấn Thụy Khuê. 
37- Trần Duy: Tưởng niệm Phan Khôi. Talawas. 
38- Trong trường ca Cây Cà báo Đà Nẵng tháng 1-  năm 1987. Tên Phùng Quán lần đầu tiên trở lại công khai trên mặt báo. 
39- Thái kế Toại: Bđd. 
40- Bông hồng nở sớm:
 Sau mùa giông bão xác xơ
 Hàng cây thu mình trong gió rét
 Đón anh về sáng nay
 Vườn mẹ nở bông hồng.
 
Màu đỏ thắm chạm vào nỗi đau của mẹSuốt một đời mòn mởi lo âu
 Màu đỏ thắm đánh thức nỗi buồn của đất
 Bao năm mặt đất khô cằn
 
Màu đỏ cháy lên ký ức của anhMột tình yêu vụt mất hai mươi năm
 Bao mộng mơ khao khát âm thầm.
 
Có ai nói với anh:Ngày mai thôi bông hồng sẽ chết
 Nhưng hề chi
 Màu đỏ kiêu sa cứ cháy trong gió rét
 Và ở chân trời
 Đang thì thầm cơn gió mùa xuân.
 
1988
 
41- Tập thơ Thế giới đang tồn tại, Nxb Văn học 1994
 
42-  Đó là việc tác giả và nhà văn Ma Văn Kháng bảo vệ cuốn tiểu thuyết Chúa  Trời ngủ gật của Nguyễn Dậu in ở Nhà xuất bản Lao Động năm 1993 bị cơ  quan Tổng công đoàn lao động ( đằng sau là A25 ) quyết định nghiền hủy  làm bột giấy. Ma Văn Kháng đã viết lại một phần vụ này, những gì có thể  viết được công khai nhưng bị kiểm duyệt cắt bỏ một số đoạn trong hồi kí  Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, NXB Hội Nhà văn xuất bản năm  2009, trang 385- 400.  
Qua vụ này có thể rút ra vài điều :Bộ  máy văn nghệ Việt Nam và Luật xuất bản Việt Nam đã tạo ra rất nhiều cơ  quan cảnh sát văn hóa với tư cách là cơ quan chủ quản của nhà xuất bản.  Một khi sức ép trực tiếp với nhà xuất bản của A25 và Ban Tuyên giáo  không thành, người ta dùng quyền lực của cơ quan chủ quản ép nhà xuất  bản tiêu hủy cuốn sách. Trong trường hợp của Chúa Trời ngủ gật Bộ VHTT  do nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm Thứ trưởng đã có công văn ủng hộ gửi Thủ  tướng Võ Văn Kiệt xin vẫn cho sách được xuất bản. Tuy vậy các cán bộ chủ  chốt của A25 vẫn gây được sức ép buộc Tổng công đoàn lao động Việt Nam  bóp chết cuốn sách.
 |