37. Chế độ bắt đầu nứt rạn
Vào năm 1961 tôi bắt đầu nghe những luồng dư luận bất mãn đối với Tổng thống Diệm trong nhiều thành phần dân chúng.
Ít ai dám chỉ trích lớn tiếng, nhưng nhiều lúc tôi nhận thấy nhiều người khi phải nghe ca tụng suy tôn đã lấy làm ngượng ngập, khó chịu.
Sự bất mãn đó đã có cơ hội xuất hiện trong biến cố 1-1-1961. Vụ đảo chánh hụt năm đó không phải chỉ lôi cuốn được một số sĩ quan bất mãn mà thôi, mà còn kéo theo nhiều nhà trí thức, và giả sử trong thời gian cô lập được dinh Độc Lập, sử dụng được đài phát thanh, họ chỉ cần biết dùng đài này để đưa ra một vài đường lối xã hội thật táo bạo, thì tình thế đã có thể thay đổi ngay lúc bấy giờ không cần chờ đến 1963. Nhóm đảo chánh cũng không chú trọng đến công việc xách động quần chúng.
Xách động quần chúng là một việc làm dễ nếu biết và dám làm, nhưng rất khó nếu không hiểu tâm lý và những phản ứng quần chúng. Hơn nữa thời bấy giờ dân chúng đang sống yên ổn, thịnh vượng cho nên ít ai muốn xáo trộn. Sự bất mãn chỉ mới bắt đầu trong số trí thức không được trọng dụng, hay trong một số người sáng suốt nhận thấy trước con đường cụt mà chế độ đang đi dần vào.
Tôi đã thấy buồn cười khi nghe những hô hào hiệu triệu ngây ngô trên đài phát thanh. Tôi không nhớ rõ vì một công việc gì liên quan đến đại học Huế tôi có việc vào Sài Gòn trước ngày 1-11-1961 vài hôm và đêm đó tôi đang ở tại một nhà gần dinh Tổng thống Diệm và ông Nhu không có vẻ lo sợ gì cho lắm.
Các đơn vị Liên binh phòng vệ phủ Tổng thống tuy chỉ được võ trang bằng những loại vũ khí nhẹ, nhưng rất trung thành không một nhóm nào bị lung lạc. Quân đội nói chung đã không có đơn vị lớn nào ngã về phe đảo chánh. Ngay sáng hôm sau những điện tín bày tỏ sự trung thành được tấp nập gửi đến ông Diệm, sáng ngày 2-11 tôi làm lễ tạ ơn trong dinh. Ông Diệm, ông bà Nhu và đầy đủ những người thân cận tham dự buổi lễ đó. Ông Diệm cũng tin tưởng ở cái thiên mệnh mà ông coi như được chúa giao phó cho ông.
Biến cố này không thay đổi tình thế bề ngoài nhưng đã làm cho ông Diệm, ông Nhu bà Nhu và nhiều thuộc hạ thân tín trở nên độc đoán hơn. Những vụ thanh trừng,bắt bớ tiếp theo sau hẳn là đã có tác dụng dâng cao thêm sự bất mãn trong nhiều thành phần dân chúng.
Đặc biệt, nó làm cho nhiều người thấy rằng chế độ ông Diệm không phải là một chế độ không thể lật đổ được, và điều đó có lẽ làm cho nhiều người nghĩ đến câu tục ngữ: thua keo này bày keo khác.
Sáng hôm sau, dân chúng, nhiều đoàn thể, nhiều đại diện các cơ quan vội vàng kéo vào dinh hoan hô và bày tỏ sự ủng hộ đối với ông Diệm. Tôi vì tò mò đứng núp sau một chiếc cột trước dinh nhìn đám đông đang kéo vào chật sân trước dinh. Tôi thoáng thấy ông bà Nhu cũng nấp sau một chiếc cột khác ở góc dinh nhìn ra. Ông Diệm từ trong phòng bước ra đón nhận những lời hoan hô. Mặt ông hớn hở, kiêu hãnh. Khi đi ngang chỗ tôi đứng nấp, ông cau mày hỏi khó: - Sao cha lại ra đây? Ý ông hình như muốn trách tôi tại sao tôi lại ra đây để đón nhận và hưởng những sự hoan hô, ủng hộ đáng lẽ chỉ dành riêng cho ông. Tôi khó chịu và bỏ vào trong lập tức. Tôi hiểu thêm một khía cạnh của con người ông Diệm: tự kiêu, độc đoán, khó dùng ai được. Sự kiện nhỏ mọn này bắt đầu làm cho tôi suy nghĩ nhiều hơn và từ đó về sau, trước mọi việc làm của ông Diệm, tôi suy nghĩ đắn đo, và thường tìm ra hai lối giải thích, một lối không lợi gì cho ông.
Cũng từ đây, tôi bớt thân với ông Diệm. Mặt khác những công việc quanh đại học Huế đã ổn định, điều hòa, tôi ít cần phải vào dinh để yêu cầu ông Diệm trực tiếp giúp đỡ hay giải quyết một vấn đề gì quan trọng. Cũng từ đây tôi chỉ chú ý đến những công việc của đại học Huế, nó đã vững, tôi cố làm cho nó mạnh.
Có lẽ vì tâm trạng đặc biệt mà những biến cố dồn dập năm 1963 làm cho tôi hơi ngỡ ngàng. Năm đó, Đức cha Ngô Đình Thục đã được giữ chức Tổng Giám Mục địa phận Huế, và nghe nhiều tin đồn nói rằng có những cuộc vận động để đưa Đức cha Thục lên làm Hồng Y đầu tiên của Việt Nam. Tôi cũng chẳng quan tâm nhiều đến việc này.
Vào khoảng tháng ba 1963 nhiều ông Dân biểu, Tổng trưởng và những người tai mắt trong chính quyền thời đó đã tổ chức một Ủy ban mừng lễ Ngân khánh (25 năm thụ phong Giám mục) của Đức cha Thục. Ủy ban này bắt đầu quyên tiền khắp nước. Tôi nghĩ là ngoài số người muốn tìm cơ hội để xu nịnh, lợi dụng cơ hội tâng công với họ Ngô, cũng có một số người công giáo thành tâm muốn bày tỏ lòng kính mến khâm phục đối với Đức cha.
Khi còn làm Giám mục địa phận Vĩnh Long, Đức cha Thục đã làm được nhiều việc hữu ích cho địa phận và cho dân chúng trong vùng. Sự kính mến khâm phục thành thật đối với Đức cha Thục không phải là không có và số người thành thật không phải là ít.
Trong việc tổ chức mừng lễ Ngân khánh Đức cha Thục (nhằm ngày 29-6-1963) có vài chi tiết làm tôi chú ý.
Một buổi sáng cuối tháng ba, vào khoảng 7 giờ, Đức cha Thục đến gặp tôi tại nhà riêng, và nói thẳng với tôi:
- Cha Luận à, bây giờ các anh em ở Sài Gòn có lập một Ủy ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh của tôi, do ông Chủ tịch quốc hội đứng đầu, gồm cả ông Bộ trưởng giáo dục Nguyễn Quang Trình và Viện trưởng đại học Sài Gòn Lê Văn Thới với vài ông Bộ trưởng nữa. Cha là Viện trưởng đại học Huế, cha nên vào trong Ủy ban đó.
Ngay lúc này, tôi cho rằng mình đứng vào ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh Đức cha Thục cũng là một việc tự nhiên. Tôi chỉ hơi ngạc nhiên về cái việc là đích thân Đức cha lại đến gặp tôi nói chuyện đó. Tôi nghĩ là đáng lý một người nào đó trong Ủy ban tổ chức sơ khởi bàn với tôi việc đó thì đúng hơn.
Tôi im lặng một lúc rồi thưa: - Thưa Đức cha, cố nhiên con có bổn phận giúp vào việc tổ chức lễ Ngân khánh của Đức cha. Trước đây khi chưa nghe nói đến Ủy ban, con đã có ý định làm vài công việc nhỏ để mừng lễ Ngân khánh của Đức cha.
Đức cha Thục lần đó chỉ nói với tôi thế thôi, rồi ra về. Tôi nhân danh Viện trưởng viện đại học Huế viết thư cho ông Chủ tịch quốc hội (Trương Vĩnh Lễ) hỏi về Ủy ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh Đức cha Thục và tỏ ý sẵn sàng gia nhập Ủy ban này. Tôi thông báo cho ông biết rằng vì Huế xa xôi tôi lại bận bịu nên cử một đại diện vào hợp tác trực tiếp với Ủy ban là ông Nguyễn Hạnh.
Tôi cho Nguyễn Hạnh tới tiếp xúc với Ủy ban. Ông Hạnh có viết thư về cho tôi biết là Ủy ban có tổ chức một bữa tiệc với điều kiện là mỗi người 5000 đồng. Ông Hạnh được giao cho 20 phần ăn, và chỉ tìm được 10 người (những thương gia ở Chợ Lớn) đóng tiền dự tiệc, còn 10 phần ăn còn lại thì ông phải nhận hết và đóng tiền.
Vào tháng tư tôi nhận thấy những công việc chuẩn bị mừng lễ Ngân khánh của Đức cha Thục tiến đến một qui mô quá rộng lớn có hy vọng thành một quốc lễ chính thức. Các tỉnh cũng lập một tiểu ban tổ chức mừng lễ Ngân khánh và dĩ nhiên do ông Tỉnh trưởng đứng đầu, cũng có những trò đi quyên góp tiền bạc, và tất nhiên là xảy ra nhiều trường hợp cưỡng bách, hay ít ra áp lực đóng tiền cho tiểu ban.
Dư luận dân chúng bắt đầu xôn xao bàn tán chế nhạo. Tôi thấy điều này không có lợi gì cho quốc gia và giáo hội, trái lại có thể làm cho giáo hội mang tiếng và làm cho chế độ bị chỉ trích nặng nề và có cớ. Tôi nghĩ rằng chỉ nên tổ chức mừng lễ Ngân khánh của Đức cha Thục trong phạm vị địa phận hay giáo hội mà thôi. Tôi băn khoăn và đến gặp ông Cẩn. Lúc bấy giờ mọi người quanh ông đều gọi ông là cậu, cậu Cẩn. Tôi cũng không làm cách gì khác hơn.
- Thưa cậu, lễ Ngân khánh 25 năm làm Giám mục của Đức cha là một ngày đáng ghi nhớ đối với người thân cũng như đối với giáo hội. Đức cha lại đang là niên trưởng các Giám mục Việt Nam . Tôi nghĩ là nên tổ chức mừng lễ Ngân khánh của ngài một cách trọng thể, nhưng chỉ nên tổ chức trong phạm vi giáo hội và địa phận mà thôi, chớ không nên tổ chức trong phạm vi quốc gia theo một thứ quốc lễ. Vậy cậu nên tìm cách nói với Đức cha nên tổ chức lễ Ngân khánh của ngài một cách vừa phải thôi.
Ông Cẩn gật đầu đồng ý:
- Con đồng ý với cha hoàn toàn. Con cũng thấy trong tình thế hiện tại, nhiều người bất mãn với chúng ta, đang bới móc tìm cớ chỉ trích và gây hiềm khích với chính phủ. Làm như vậy thực ra không có lợi chi cả. Nhưng cha biết đó, từ khi Đức cha về Huế, con chẳng còn quyền hành gì nữa. Mọi việc Đức cha bao biện hết.
Thậm chí những anh em thân tín cũ ra vào gặp con còn bị người của Đức cha theo dõi và báo cáo cho Đức cha. Gia đình chúng con sau khi anh Khôi mất, thì Đức cha là kẻ quyền huynh thế phụ, lớn tuổi hơn con nhiều và nghiêm khắc lắm, con không nói gì với Đức cha cả. Hay nhất là cha nên vào gặp Tổng thống, xin Tổng thống nói lại với Đức cha, thì may ra Đức cha còn nghe theo mà không giận.
Vì việc đó tôi vào Sài Gòn xin gặp ông Nhu trước. Tôi định trình bày với ông Nhu những điều đã bàn với ông Cẩn, nhưng sợ đường đột nên tôi mở đầu bằng một vấn đề khác:
- Thưa ông cố vấn, tôi xin gặp ông cố vấn để được biết đại cương về quốc sách ấp chiến lược. Đại học Huế nhận được thông tri kêu gọi các giáo sư đi dự khóa huấn luyện về ấp chiến lược tại suối Lồ Ồ. Tôi muốn cho họ hăng hái đi dự khóa huấn luyện đó nên muốn hiểu rõ hơn mà về giải thích cho họ rõ.
Ông Nhu say mê nói về những cái hay cái tốt của ấp chiến lược sẽ đạt được hai mục đích lớn: bảo về an ninh nông thôn và thực hiện công cuộc cách mạng nông thôn. Ông Nhu nói liên miên về ấp chiến lược hơn một giờ đồng hồ. Lúc nghe ông thuyết xong tôi vào vấn đề.
- Thưa ông cố vấn, nhân dịp này tôi muốn trình bày với ông cố vấn một việc. Lễ Ngân khánh của Đức cha nhằm vào cuối tháng sáu. Bây giờ đã có một Ủy ban tổ chức lễ đó, gồm ông Chủ tịch quốc hội và nhiều Bộ trưởng. Theo lề lối hoạt động của Ủy ban thì tôi xem chừng họ muốn tổ chức lễ Ngân khánh hết sức trọng thể, không thua gì một quốc lễ. Trong tình thế hiện tại, tôi và ông Cẩn đã có bàn bạc với nhau nếu tổ chức trọng thể quá sẽ bất lợi cho chính thể cũng như cho giáo hội.
Ông Nhu cũng trả lời như ông Cẩn:
- Tôi cũng hoàn toàn đồng ý với nhận định của cha. Tôi và anh tôi đôi khi buồn Đức cha vì ngài lầm lẫn phạm vi tôn giáo với phạm vi quốc gia. Khi ở Vĩnh Long, tôi cũng đã không biết làm sao khi thấy từng đoàn từng lũ dân biểu, tỉnh trưởng, bộ trưởng nườm nượp kéo đến chầu Đức cha. Tôi tưởng rằng Đức cha ra Huế xa xôi một chút sẽ bớt được cái nạn đó, không ngờ họ lại viện cớ lễ Ngân khánh của ngài để làm ồn ào hơn. Nhưng cha cũng biết, gia đình chúng tôi anh cả mất sớm, Đức cha tuy là anh lớn trong gia đình, nhưng đối với chúng tôi chẳng khác gì bậc cha. Riêng tôi thì biết là không có cách gì, mà cũng không dám nói thẳng với Đức cha. Chỉ còn Tổng thống may ra có thể can gián được Đức cha vài phần, để rồi tôi liệu nói với Tổng thống khuyên can Đức cha bớt đi đôi chút, nhưng tôi sợ cũng không được.
Tôi về Huế lại với tâm trạng buồn rầu, chán nản khó chịu và lo lắng. Dựng được một uy quyền, thế lực như ông Diệm không phải là chuyện dễ, nhưng làm suy giảm uy quyền thế lực đó thì dễ lắm. Tôi không hy vọng có ai tài giỏi hơn thay thế được ông Diệm. Cho nên chẳng những vì cảm tình và sự tin tưởng nơi ông Diệm mà tôi lo lắng cho tương lai của chính phủ ông Diệm, mà cũng vì số phận quốc gia mà tôi lo lắng.
Nhưng tôi không có tư cách hay thẩm quyền gì đáng kể để chen lấn vào những việc làm của chính ông Diệm. Hình như độ sau này chẳng hiểu vì lý do nào, gia đình ông Diệm có vẻ bớt tin cậy nơi tôi mặc dầu sự giao thiệp vẫn bình thường, thân thiết.
Những nỗi lo lắng của tôi quả thực chẳng sai chút nào.
Ngày 7-5 Đức cha đi viếng La Vang trở về Huế dọc đường nơi nào cờ Phật giáo cũng tung bay. Điều này chẳng có chi lạ. Dân Huế 90 phần trăm theo đạo Phật và tại đây từ ngày tôi có mặt (1949) Phật giáo hoạt động rất mạnh, có tổ chức qui củ. Ở Huế nơi nào cũng có chùa chiền, sư tăng. Đức cha Thục có vẻ không bằng lòng, và ngay chiều đó, cho mời đại biểu chính phủ là ông Hồ Đắc Khương vào tòa Tổng Giám Mục Huế khiển trách tại sao đã có sắc lệnh cấm treo cờ tôn giáo hay đảng phái bên ngoài trụ sở hoặc khuôn viên mà nay Phật giáo lại treo cờ đầy đường như vậy.
Ông đại biểu chính phủ Hồ Đắc Khương không biết quyết định thế nào, vì ông cũng dư biết rằng nhắc lại nghị định cấm treo cờ Phật giáo ngay lúc này thật là không thích hợp, có thể bị hiểu lầm là cố tình làm nhục Phật giáo, cho nên ông đánh điện vào dinh Độc Lập xin chỉ thị. Không rõ điện văn của ông đại biểu chính phủ có đến Tổng thống hoặc ông cố vấn hay không nhưng có điện văn trả lời từ văn phòng phủ Tổng thống đánh ra Huế xác nhận rằng nghị định cấm treo cờ tôn giáo hay đảng phái bên ngoài khuôn viên và trụ sở vẫn có giá trị.
Ông đại biểu chính phủ ra lệnh cho chính quyền địa phương tại miền Trung phải triệt hạ cờ Phật giáo. Ông tỉnh trưởng Thừa Thiên là ông Nguyễn Văn Đẳng bị đặt trong một tình thế hết sức khó xử và khẩn cấp, ông xin vào gặp ông Cẩn để giải bày và xin bỏ qua việc triệt hạ cờ Phật giáo, ít ra cho hết ngày lễ Phật Đản năm nay. Ông Cẩn tỏ ra hiểu biết ra lệnh cho tỉnh trưởng rằng người ta (Phật tử) đã lỡ treo thì cứ để treo hết ngày lễ, sau sẽ liệu.
Ông Cẩn còn cho tỉnh trưởng Thừa Thiên đánh điện tín đi tất cả các tỉnh miền Trung chỉ thị mật không được hạ cờ Phật giáo. Tưởng vụ này tạm yên được, và cách giải quyết đó có thể trì hoãn được. Nhưng tối hôm 7 tháng 5 có nhà sư thuyết pháp ở chùa lớn ở Huế như Từ Đàm, Bảo Quốc, Diệu Đế v.v… Quần chúng địa phương đến tham dự đông đảo. Nhiều bài thuyết pháp đã lên tiếng đả kích chính quyền một cách nặng nề, tố cáo chính quyền có chủ trương đàn áp Phật giáo và nêu lệnh cấm treo cờ tôn giáo như nhắm riêng vào Phật giáo. Các nhà sư cũng nhắc đến những vụ lễ lạc của công giáo trước đây ít lâu, lúc đó cờ công giáo đã được treo khắp đường phố, sao lại không cấm, mà nhằm ngày lễ Phật Đản rồi cấm.
Các tổ chức Phật tử ở Huế yêu cầu phát thanh trực tiếp các cuộc thuyết pháp và các buổi lễ Phật Đản của chùa Từ Đàm. Vì có nhiều bài thuyết pháp đả kích chính quyền, tòa tỉnh và tòa đại biểu miền Trung ngần ngại không phát thanh. Một đám Phật tử đông đảo kéo đến đài phát thanh biểu tình đòi phải phát thanh trực tiếp và trọn vẹn các bài thuyết pháp và các cuộc lễ Phật giáo.
Trong lúc các nhà chức trách tìm cách dàn xếp, thì một trái lựu đạn không biết từ đâu đã nổ ngay giữa đám Phật tử biểu tình làm nhiều người chết và bị thương. Cuộc tranh đấu của Phật giáo chính thức bùng nổ từ ngày đó.
Có vài giả thuyết được nêu lên về xuất xứ của trái lựu đạn.
Giả thuyết thứ nhất, và khó tin nhất cho rằng một cán bộ chính quyền hoặc là binh sĩ hay cảnh sát bảo vệ đài phát thanh đã ném trái lựu đạn đó. Một giả thuyết thứ hai đổ cho mật vụ Mỹ là tác giả trong vụ này. Giả thuyết thứ ba thì cho rằng chính phe đấu tranh, tôi xin nói là phe đấu tranh trong đó còn nhiều thành phần khác ngoài Phật giáo đã thâm độc cho ném trái lựu đạn gây nên cảnh đổ máu để tạo căm phẫn trong quần chúng Phật tử hầu kích động mạnh hơn cuộc đấu tranh và dồn hai bên đến cái thế một sống một chết với nhau.
Tôi chỉ nêu lên những giả thuyết được bàn tán lúc bấy giờ, mà không nghiêng theo giả thuyết nào.
Tôi thấy tình hình gay cấn, và không lối thoát. Chiều hướng của cuộc đấu tranh và tương lai chế độ rõ rệt lắm rồi. Tôi lo sợ bị lôi cuốn vào một tình trạng khó xử. Ở cương vị một Viện trưởng đại học, với truyền thống tự trị của đại học mà tôi đã thâm nhiễm từ Pháp, tôi không thể nào đi ngược lại các phong trào sinh viên mà tôi biết chắc trước sau cũng bùng lên.
Thực tình tôi không chủ trương lánh mặt hay chạy trốn, nhưng biết mình bất lực trong các cuộc hỗn loạn sắp tới nên chỉ mong thoát ra ngoài. Tôi đi Mỹ, và sáng ngày 9-5 tôi vào chào Đức cha Thục để từ giã vào Sài Gòn thu xếp lên đường.
Tôi thưa với Đức cha:
- Thưa Đức cha, những sự việc vừa xảy ra mấy hôm nay làm cho con lo ngại lắm. Thủ phạm không rõ là ai, nhưng đã có chuyện đổ máu, con sợ sự chống đối sẽ lan rộng và nổ mạnh. Con nghĩ chính quyền nên mềm dẻo, khéo léo hơn một chút.
Đức cha Thục có vẻ coi thường:
- Cha cứ yên tâm ra đi đừng lo chi cả, các phong trào chống đối của quần chúng bất quá chỉ như ngọn lửa rơm, bùng lên một chốc rồi tắt ngay, có chi phải sợ.
- Đức cha nhận định như thế thật đúng nếu bên trong có những nguyên nhân sâu kín và mạnh mẽ. Nhưng xin Đức cha nhìn vào những nguyên nhân bên trong. Công giáo trước ngày di cư, ở miền Nam chỉ có vài trăm ngàn người. Sau di cư nhờ gần 1 triệu dân công giáo từ Bắc vào, con số đông hơn trước nhưng tỉ lệ cũng vẫn chỉ là 10 phần trăm hay kém hơn trong dân số Việt Nam, vậy mà hiện nay mọi chức vụ lãnh đạo quốc gia đều trong tay người công giáo.
Chỉ riêng điều này cũng có thể gây những bất mãn và chống đối trầm trọng, chưa nói chi đến những lầm lỗi không thể tránh được của bất cứ chính quyền nào.
Đức cha Thục xem chừng không muốn nghe và cũng chẳng để ý chi đến những điều tôi nêu lên. Đức cha trao cho tôi một số thư từ gửi tay cho các cha bên Mỹ.
Tôi vào Sài Gòn được mấy hôm thì có giấy mời đi dự lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất đại học Sư phạm Thủ Đức ngày 14-5. Sau lễ Tổng thống và quan khách gồm đủ ngoại giao đoàn đi xem xét sơ đồ và khu đất xây trường. Lúc bấy giờ đại sứ Nolting đến gần tôi hỏi về tình hình ở Huế.
- Theo ý cha thì chính phủ có lỗi gì trong vụ đài phát thanh Huế vừa rồi không?
Tôi ngập ngừng một lúc, rồi thành thật trả lời:
- Bàn chuyện lỗi phải của ai, thì hơi khó, nhưng tôi cho rằng chính phủ phải chịu trách nhiệm một phần, vì đã cố tình nhắc lại nghị định cấm treo cờ đúng vào ngày lễ Phật Đản. Tôi cho hành động này không đúng lúc, không thích hợp, dù nghị định có đứng đắn, hữu lý. Cách đây chỉ ít tháng có nhiều cuộc lễ bên công giáo, như lễ tựu chức các Giám mục, và các cuộc rước kiệu, bên công giáo đã treo cờ khắp nơi bên ngoài khuôn viên nhà thờ, sao lúc ấy không có lệnh cấm, và không thi hành lệnh cấm một cách nghiêm chỉnh?
Bây giờ nhằm vào lúc Phật giáo mừng Lễ Phật Đản mà nhắc lại lệnh cấm treo cờ thì có thể hiểu là cố tình nhằm vào Phật giáo, nhục mạ và đàn áp Phật giáo. Vả lại khi ra lệnh cấm treo cờ đã không có một sự giải thích nào cho dân chúng hiểu rằng lệnh này áp dụng cho mọi tôn giáo, và chỉ có mục đích tránh sự lạm dụng treo cờ.
Tôi không hiểu trong thâm tâm ông Nolting nghĩ gì chỉ thấy lúc đó ông gật gù.
- Cha nói có lý.
Sau đó câu chuyện không có gì đặc biệt.
Ngày 15-5 tôi vào dinh Độc Lập gặp ông Diệm để chào ông đi Mỹ, ông Diệm trách tôi:
- Sao hôm qua cha chỉ trích chính phủ trước một đại sứ ngoại quốc như vậy? Tôi thật tình thưa lại:
- Thưa Tổng thống tôi không dám chỉ trích chính phủ trong câu chuyện tôi chỉ đưa ra một vài giải thích sau khi tường thuật cho ông đại sứ Mỹ nghe những biến cố xảy ra ở Huế. Tôi thiết tưởng trong một quốc gia tự do mọi người đã được biết những chuyện đó, và cũng có quyền phê phán. Nhưng thực tình tôi không phê phán điều gì đáng coi là bất lợi cho chính quyền. Tôi chỉ nói rằng đáng tiếc là khi ra lệnh cấm treo cờ tôn giáo ngoài khuôn viên chùa hay nhà thờ, cán bộ thông tin đã không giải thích rõ điều đó là có mục đích để làm cho cờ quốc gia trở nên có giá trị hơn, thành ra gây sự hiểu lầm cho một số người, và gây cớ cho họ bất mãn và chỉ trích.
Ông Diệm im lặng, nhưng vẫn có vẻ không bằng lòng. Tôi tiếp:
- Thưa cụ, nhân dịp này, tôi xin thưa dài dòng hơn đôi chút. Nếu cụ muốn hiểu tâm trạng những Phật tử Việt Nam cụ nên đặt mình vào địa vị của họ. Trước khi cụ về, số giáo dân chỉ vài trăm ngàn, nhờ phong trào di cư, có thêm gần một triệu giáo dân từ Bắc vào. Tỷ lệ công giáo trong toàn quốc vẫn là thiểu số, mà nay Tổng thống và các chức vụ lớn trong chính quyền đều do người công giáo đảm trách. Dù không có sự thiên vị nào, mà chỉ dựa theo tài năng mà chọn người, thì bên ngoài người ta cũng có thể hiểu rằng cụ thiên vị bên công giáo mà bạc đãi các tôn giáo khác. Mặt khác, ai cũng thấy từ khi cụ cầm quyền, thì nhà thờ mọc lên khắp nơi, các nhà thờ bị phá hủy trong chiến tranh đều đã được tái thiết gần hết, cả những nơi không có bao nhiêu giáo dân cũng có nhà thờ đồ sộ. Số người theo đạo mới cũng tăng lên mau chóng. Những sự kiện này làm cho Phật giáo có mặc cảm bị chèn ép, bị bạc đãi, bị bỏ rơi, hay là bị lép vế. Cụ nên hiểu tâm lý đó của họ mà đối xử cho tế nhị hơn mới có thể dàn xếp dễ dàng được.
Ông Diệm cau mày:
- Cha có thể thấy là nếu đôi lúc tôi tin người công giáo cũng chỉ vì nghĩ rằng người công giáo ít có ai theo cộng sản dễ dàng. Hơn nữa nhiều người không công giáo vẫn được tôi tin cậy và trọng dụng. Tôi cũng đã giúp cho nhiều chùa chiền. Tôi cho chùa Xá Lợi 500.000đ để xây cất. Tôi cũng giúp cho các chùa Từ Đàm, Diệu Đế để trùng tu. Tại các tỉnh tôi có nhắc các tỉnh trưởng giúp đỡ trùng tu các chùa chiền.
Bây giờ cụ nói ra tôi mới biết. Đáng lý cụ nên nói rõ điều đó cho toàn dân biết để họ khỏi hiểu lầm, và đặt những công việc đó vào một chính sách chung đối với mọi tôn giáo. Tôi vẫn biết nhiều công cuộc kiến thiết của công giáo do sự đóng góp của giáo dân và các tổ chức công giáo ngoại quốc, nhưng dân chúng bên ngoài không hiểu nguồn gốc những khoản tiền lớn lao đó, nghĩ rằng chỉ có chính quyền giúp tiền cho công giáo. Nhiều cha còn quá nhiệt thành đến thẳng tỉnh trưởng, các bộ trưởng xin giúp đỡ, và có nhiều trường hợp, hoặc là tỉnh bộ trưởng có đạo nên hăng hái giúp đỡ, hoặc là họ nể cụ là người công giáo, nên cũng tìm cách giúp đỡ, tưởng làm như thế được lòng cụ. Những điều đó tạo nên dư luận chỉ trích chính quyền của cụ thiên vị bên công giáo.
Ông Diệm làm thinh không nói gì. Tôi giã từ ông ra về.
Hôm sau tôi đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ, mục đích là vận động sự giúp đỡ ở Mỹ để mở một trung tâm kỹ thuật ở Huế, đồng thời cũng muốn tìm hiểu dư luận ngoại quốc đối với chính quyền ông Diệm trong lúc này.
38. Chế độ bị dư luận và Chính quyền Mỹ chống đối
Những biến cố ở Huế đã gây xúc động mạnh tại Sài Gòn đối với giới Phật tử cũng như toàn thể dân chúng. Những ngày cuối cùng tôi lưu lại Sài Gòn trước khi đi Mỹ, nhiều người đã đến tìm tôi hỏi han về những chuyện xảy ra ở Huế. Với những người thân thiết hoặc thành thật tôi biết sao kể lại vậy. Đối với những người đến hỏi tôi với mục đích dò xét, thì tôi cũng kể sự thật nhưng là những sự thật dưới mắt mọi người, làm hài lòng mọi người.
Nếu tôi nhớ không lầm thì hôm tôi vào Sài Gòn được một ngày tức vào sáng ngày 10-5-1963 một phái đoàn đại diện Phật giáo gồm các tăng ni đến yết kiến Tổng thống Diệm để bày tỏ các nguyện vọng. Những nguyện vọng của họ thì ai cũng biết, chẳng có gì quá đáng. Ít ra là lúc bây giờ, đại để là huỷ bỏ nghị định cấm treo cờ Phật giáo, trừng phạt thủ phạm gây ra cảnh đổ máu ở đài phát thanh, chấm dứt tình trạng đàn áp Phật giáo nếu quả thực chính quyền có chủ trương đó.
Theo chỗ tôi biết, thì ông Diệm đã tiếp đón phái đoàn Phật giáo một cách cởi mở, ghi nhận và hứa thoả mãn phần lớn những nguyện vọng của họ. Ông Diệm giải thích rằng nghị định cấm treo cờ tôn giáo ngoài khuôn viên chùa chiền hay nhà thờ áp dụng chung cho mọi tôn giáo, không phân biệt Công giáo hay Phật giáo, và không nhằm hạ nhục gì Phật giáo cả. Còn đối với vụ đổ máu ở đài phát thanh Huế, thì ông Diệm hứa sẽ đem ra xét xử và trừng trị những thủ phạm sau khi có cuộc điều tra kỹ lưỡng.
Cuộc hội kiến gay go, kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ, từ hơn 10 giờ sáng đến 1 giờ trưa. Sở dĩ tôi biết được việc này là tôi mấy lần gọi điện thoại vào chánh văn phòng phủ Tổng thống để xin giờ gặp ông Diệm, và được người trong văn phòng cho biết giờ giấc trong ngày của ông Diệm.
Cũng trong ngày 10-5 có lẽ để tránh những hiểu lầm và lạm dụng, Đức cha Nguyễn Văn Bình ra thông cáo nhắc nhở giáo dân về việc treo cờ toà thánh đúng theo nghị định của chính phủ, là chỉ được treo trong nhà thờ, và phạm vi các cơ sở giáo hội mà thôi.
Như tôi đã kể đoạn trước, chiều 15-5 tôi vào gặp ông Diệm để sáng hôm sau lên đường sớm. Tôi được biết rằng sáng hôm sau, tức là ngày 16-5 sẽ có một cuộc họp báo của phái đoàn Phật giáo tại chùa Xá Lợi, có sự tham dự của Bộ trưởng công dân vụ Ngô Trọng Hiếu, để trình bày kết quả cuộc tiếp xúc ngày 15-5 với Tổng thống. Những lời lẽ trong cuộc họp báo thì ai cũng biết rồi.
Ngày 16-5 tôi lên máy bay đi Mỹ với Âu Ngọc Hồ đến San Francisco. Một trong những mục đích của chuyến đi này là vận động sự giúp đỡ của các giới ở Mỹ trong việc thành lập một trung tâm kỹ thuật tại Huế, trong khu vực đồng An Cựu. Mục đích thứ hai dự định là qua Ba-Lê, gặp các giáo sư Đức, và sẽ cùng họ sang Tây Đức vận động thêm những sự giúp đỡ cho đại học Y khoa Huế.
Nhưng một mục đích khác của tôi là muốn tìm hiểu dư luận Mỹ và thế giới đối với tình hình Việt Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ. Tôi vẫn hiểu rằng vai trò của Mỹ trong việc tồn tại của chính quyền Ngô Đình Diệm rất quan trọng, sự giúp đỡ của họ rất cần thiết, và sự lạnh nhạt của họ rất nguy hiểm.
Tôi đã được nghe những dư luận Mỹ từ ít lâu nay và phần lớn những dư luận đó không có lợi cho chế độ ông Diệm. Tôi muốn tìm hiểu sự thật, để may ra còn kịp thì giờ cảnh giác những người có trách nhiệm trong chế độ.
Lúc tôi đến San Francisco thì ông Chủ tịch tổ chức Asi Foundation đang có mặt tại nơi này. Ông Chủ tịch tiếp đón hết sức niềm nở, mời tôi ăn cơm thân mật với ông một bữa. Tôi trình bày dự án thành lập viện kỹ thuật Huế và yêu cầu ông giúp đỡ. Ông hứa sẽ giúp đỡ tuỳ phương tiện và khả năng của tổ chức, tuy nhiên ông cho biết rằng tổ chức không được dồi dào lắm, cho nên sự giúp đỡ nếu có cũng không quan trọng lắm.
Từ San Francisco tôi đến Hoa Thịnh Đốn. Lúc này ông Trần Văn Chương, nhạc phụ ông Ngô Đình Nhu làm đại sứ ở đây, đã biết trước chương trình thăm viếng Mỹ của tôi, ra tận phi trường đón tôi và hướng dẫn về toà đại sứ. Do sự sắp xếp của ông Chương tôi gặp nhiều chính khách và nhân vật chính phủ Mỹ thời đó.
Đầu tiên tôi gặp Thượng nghị sĩ (TNS) Mike Mansfield, thuộc đảng Dân chủ đang nắm quyền đơn vị trách nhiệm của ông là tiểu bang Motana, vốn là nơi Âu Ngọc Hồ theo học trước đây và do đó hiểu biết về tiểu bang này rất nhiều. Nhờ đó câu chuyện giữa chúng tôi rất cởi mở vui vẻ. Câu chuyện kéo dài suốt một buổi chiều.
Ông Mansfield có vẻ lưu tâm nhiều đến tình hình chính trị Việt Nam, lo lắng cho chế độ ông Diệm khó qua được cơn sóng gió. Ông trình bày sự đổi hướng của dư luận Mỹ, những năm trước 1960 thì hết sức thiện cảm với ông Diệm, và ủng hộ ông tích cực, nhiệt thành, nhưng sau cuộc bầu cử Tổng thống ngày 9-4-1961 báo chí Mỹ bắt đầu chỉ trích chế độ ông Diệm là một chế độ độc tài, và cuộc bầu cử lần thứ hai này có nhiều trò gian dối, đôi lúc không cần thiết vì lúc đó uy tín của ông Diệm trong nước còn khá lớn, đủ để ông đắc cử dễ dàng.
TNS Mansfield cho tôi biết rằng hiện nay chẳng những dư luận báo chí Mỹ mà phần lớn các nhân vật chính phủ Mỹ đều cho rằng chế độ ông Diệm là một chế độ độc tài, gia đình trị, công giáo trị, không đoàn kết được toàn dân, đẩy những kẻ đối lập quốc gia đến bước đường cùng phải chống đối bằng bạo động, do đó không thể thắng được cộng sản. Chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ hết sức lo lắng và thất vọng. Ông khuyên tôi nên trình bày lại với ông Diệm hiểu chiều hướng của dư luận Mỹ, và nếu có thể nên giúp ông Diệm thay đổi đường lối, nhân sự thì mới được sự ủng hộ của Mỹ, bằng không rất có thể Mỹ sẽ bỏ rơi ông Diệm, nếu không phải là bỏ rơi Việt Nam.
Tôi cố gắng biện hộ cho ông Diệm, trả lời rằng theo chỗ tôi thấy thì không có nạn cuồng tín tôn giáo tại Việt Nam lúc này, và cũng không có sự xung đột tôn giáo nào giữa Phật giáo và Công giáo. Có thể có những mâu thuẫn hiềm khích giữa chính quyền và Phật giáo.
Ông Diệm không mấy tin tưởng Phật giáo và Phật tử tích cực chống cộng cho nên dè dặt đối với Phật giáo. Tôi cũng trình bày về chuyện cấm treo cờ, biến cố ở Huế, vừa đưa ra lối giải thích cùng quan điểm của tôi . Những giải thích và biện hộ của tôi xem chừng không đủ sức thuyết phục được TNS Mansfield.
Trước khi chia tay, TNS Mansfield nhắc nhở lần nữa rằng nếu ông Diệm không có những thay đồi chính trị sâu rộng, nhằm đưa ra một chế độ dân chủ thật sự kết hợp nhiều thành phần chính trị dị biệt, thì chính phủ Mỹ cũng như dân chúng Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ ông Diệm lâu hơn được nữa.
Lúc bấy giờ đảng Dân chủ của Tổng thống Kennedy đang nắm quyền nhiệm kỳ một và ông Mansfield là một lãnh tụ nhiều uy tín của đảng này. Lập trường cũng như ý kiến của ông có thể được coi như lập trường không chính thức của đảng và chính phủ Dân chủ.
Do đó những lời ông Mansfield nói ra làm tôi lo lắng nhiều lắm. Tôi có cảm tưởng là người Mỹ đã hết tin ở ông Diệm và đang nghĩ đến một thay đổi lớn lao không phải chỉ là thay đổi nhân sự hay chính sách.
Tôi muốn biết thêm quan điểm của đảng Cộng hoà đối lập, do đó tôi thu xếp gặp TNS Dirksen, một lãnh tụ Cộng hoà lão thành. Ông Dirksen cũng cho tôi biết những ý kiến tương tự như ông Mansfield, nói rằng dân chúng Mỹ, các chính khách Mỹ không phân biệt Cộng hoà hay Dân chủ đều tỏ ý thất vọng với chế độ ông Diệm, và coi như sự ủng hộ của Mỹ đối với ông Diệm nên được chấm dứt càng sớm càng tốt.
Báo chí Mỹ có vẻ đã thổi phồng những xung đột giữa chính phủ ông Diệm và Phật giáo với một dụng ý nào đó tôi không hiểu rõ lúc bấy giờ.
Trong lúc tôi đang ở Hoa Thịnh Đốn thì có tin về những cuộc lễ cầu siêu cho các nạn nhân vụ đổ máu tại đài phát thanh Huế và lễ cầu siêu đã biến thành biểu tình ở Huế và Sài Gòn, ngày 30-5 báo chí Mỹ đăng những tin tức về những hành động đàn áp Phật giáo, như quân đội hay các lực lượng an ninh canh gác các chùa ở Huế, cúp điện nước trong khu chùa Từ Đàm.
Trong thời gian này, tôi gặp ông Robert Kennedy, bào đệ TT Kennedy, hiện là Bộ trưởng tư pháp. Ông Kennedy chỉ trích mạnh mẽ những hành động độc tài và đàn áp đối lập, kỳ thị tôn giáo của ông Diệm. Ông nói rằng nếu tình trạng này không thay đổi thì chính phủ Mỹ không thể tiếp tục ủng hộ ông Diệm được nữa, vì dư luận dân chúng và quốc hội Mỹ sẽ áp lực buộc chính phủ Mỹ bỏ rơi ông Diệm hoặc là bỏ rơi hẳn Việt Nam.
Trong cuộc họp báo ngày 22-5 về Việt Nam, TT Kennedy đã có những lời lẽ chỉ trích chính phủ ông Diệm, và một câu nói của ông như một lời giận dỗi: Mỹ sẽ rút hết quân đội và chấm dứt viện trợ cho Việt Nam bất cứ lúc nào chính phủ Việt Nam yêu cầu. Trả lời báo chí, ông ngụ ý là Việt Nam muốn chiến thắng cộng sản, cần phải có những thay đổi chính trị sâu rộng, từ căn bản.
Trong cuộc gặp gỡ với Bộ trưởng tư pháp Mỹ Robert Kennedy tôi được nghe ông nhắc lại những luận điệu này, và ông nói rõ hơn là ông Diệm phải mở rộng chính phủ, lập thủ tướng, tăng quyền cho các Bộ trưởng, kêu gọi các thành phần chính trị đối lập tham gia tân chính phủ, chấm dứt những sự bắt bớ đàn áp vì lý do chính trị hay tôn giáo.
Giọng ông có vẻ gay gắt khi nhắc đến những tin tức quanh việc đàn áp Phật giáo. Ông châm biếm rằng không nên vì cái chuyện cờ quạt mà làm mất lòng 80 phần trăm dân chúng Việt Nam. Ông đề cập đến ông bà Nhu và tuy ông không nói rõ, nhưng ngụ ý rằng cách hay nhất để xoa dịu dư luận Việt Nam cũng như Mỹ, là ông Diệm nên cho các ông Nhu, ông Cẩn và bà Nhu rời khỏi chính trường trong ít lâu, hay đi du lịch thế giới với tư cách cá nhân. Đến đây thì tôi không thể nghi ngờ gì được nữa. Tôi hiểu ảnh hưởng của ông Robert Kennedy đối với TT Kennedy, vậy quan điểm của ông em cũng có thể coi như quan đểim của ông anh.
Mặc dầu ông Robert Kennedy không nói rõ ra, nhưng tôi hiểu ý muốn dành cho ông Diệm một cơ hội cuối cùng, muốn tôi khuyên ông Diệm nên cải tổ chính trị sâu rộng để tránh khỏi bị Mỹ bỏ rơi.
Đến nơi nào tôi cũng được nghe những dư luận tương tự. Những sinh viên Việt Nam mà tôi gặp ở các nơi cũng tỏ vẻ bất mãn với ông Diệm, có lẽ vì bị ảnh hưởng của dư luận Mỹ nhiều hơn là do chính kiến của họ. Dĩ nhiên là tôi cố gắng bênh vực ông Diệm, nhưng tôi chẳng thuyết phục được ai cả.
Ở lại Hoa Thịnh Đốn hơn một tuần thì có máy bay của đại học Chio, tỉnh Athenes lên đón tôi về thăm đại học này. Một khoa trưởng và một giáo sư đại học lên theo máy bay hướng dẫn tôi. Từ nhiều năm, đại học Chio đã bảo trợ và giúp đỡ đại học Sư phạm Huế, và hằng năm tôi gửi sang nhiều sinh viên du học, đồng htời Chio cũng đã gửi sang nhiều giáo sư giảng dạy tại đại học Sư phạm Huế.
Tại đại học đường Chio, tôi được tiếp đãi nồng hậu, than dự nhiều cuộc tiếp tân, thuyết trình liên hoan. Đại học đường Chio cấp cho tôi một bằng danh dự. Sau mấy ngày thăm viếng các cơ sở của Đại học, đàm luận với các viện trưởng, khoa trưởng, giáo sư, sinh viên, tôi lại được Đại học dùng máy bay riêng chở đến Chicago để gặp một số sinh viên Việt Nam du học tại đây.
Hầu hết các sinh viên đều bất mãn với ông Diệm, nhất là ông Nhu, bà Nhu, và chỉ trích các hành động đàn áp chính trị và tôn giáo.
Một số ký giả Mỹ đến gặp tôi. Tôi không có ý định họp báo, hay dành cho họ một cuộc phỏng vấn nào. Nhưng khi tiếp họ, dĩ nhiên tôi phải trao đổi với họ nhiều câu chuyện quanh những đề tài thời sự Việt Nam. Tôi cố tránh không nêu lên quan điểm của tôi, chỉ giải thích các sự kiện theo hiểu biết của mình. Trong câu chuyện, tôi được biết rằng báo chí Mỹ hầu hết bây giờ quay qua chỉ trích ông Diệm, bênh vực Phật giáo.
Vài hôm sau tôi lên Nữu Ước, và tại đây tôi gặp một chuyện bất ngờ đau lòng: người từng giúp đỡ cho văn hoá Việt Nam, cho đại học Huế tích cực nhiều nhất, là giáo sư Buttinger, trước là chủ tịch hội New Land Foundation và bây giờ là chủ tịch hội “Những người Mỹ bạn Việt Nam” tỏ ra chán nản thất vọng về Việt Nam, về ông Diệm và không còn sốt sắng giúp đỡ cho Việt Nam như trước nữa. Tôi định gặp ông để ngỏ lời cám ơn về những sự giúp đỡ của ông đối với đại học Huế, và đề cập đến dự án lập trường Kỹ thuật Huế, nhưng khi thấy thái độ của ông như vậy tôi không còn nghĩ đến việc xin ông giúp đỡ nữa. Những chỉ trích của giáo sư Buttinger cũng tương tự như của các ông Mansfield, Kennedy, Dirksen.
Giáo sư Buttinger còn nói rõ hơn, là nếu ông Diệm không kịp thời thay đổi sâu rộng, thì Mỹ sẽ bỏ rơi ông.
Ông khuyên tôi nên làm cách gì cho ông Diệm hiểu mà thay đổi chính phủ cải tổ nội các, bớt quyền Tổng thống, lập thủ tướng tổng trưởng có thực quyền gồm những chính khách có uy tín, và tốt nhất nên mời một số chính khách đối lập tham gia tân chính phủ, bàn về những biến cố thời sự. Giáo sư Buttinger cho rằng ông Diệm cần phải giải quyết cấp thời vấn đề Phật giáo, chấm dứt mọi hành động có tính cách đàn áp hay kỳ thị.
Hôm sau tôi gặp một ông giáo sư khác, ông Fishell từng là bạn thân của ông Diệm từ khi ông còn lưu vong ở Mỹ. Về sau tôi biết rằng ông Fishell là một nhân viên Trung ương tình báo Mỹ, thuộc hàng cao cấp.
Ông đã từ Michigan lên Nữu Ước tìm gặp tôi. Tôi nói chuyện với ông Fishell từ chiều đến 12 giờ khuya và câu chuyện vẫn quanh những đề tài chính trị Việt Nam. Những nhận định và chỉ trích mà ông Fishell nêu lên tương tự như các nhận định và chỉ trích của những nhân vật Mỹ tôi đã từng gặp trước, nhưng ông Fishell nhấn mạnh hơn. Một lúc, không hiểu vô tình hay cố ý để cảnh cáo, nhắn nhủ, ông Fishell nói rõ rằng nếu ông Diệm không thay đổi sâu rộng đường lối chính trị của ông thì nội trong năm 1963, Mỹ phải tìm cách loại bỏ ông Diệm khỏi sân khấu chính trị Việt Nam và biện pháp thủ tiêu có thể được xét tới. Dĩ nhiên là ông Fishell lúc bấy giờ chỉ nói điều này ra như một lời nhận định về kế hoạch trong tương lai gần của chính phủ Mỹ.
Ỏ Nữu Ước được vài ngày thì tôi nhận được điện tín tại toà đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn cho biết Tổng thống gọi tôi về nước gấp. Tôi để Âu Ngọc Hồ ở lại Mỹ tiếp tục công cuộc vận động sự giúp đỡ cho Viện Kỹ thuật Huế, còn tôi rời Mỹ trở về, qua ngã Ba-Lê.
Tôi hẹn gặp các giáo sư Đức tại đây, và dự định sẽ cùng họ sang thăm viếng Đức. Bây giờ vì lệnh triệu hồi khẩn cấp của Tổng thống Diệm tôi đành huỷ bỏ chuyến tham viếng Tây Đức. Tôi dùng cơm trưa với các giáo sư Đức, trình bày tình hình có vẻ khẩn trương ở Việt Nam, xin lỗi họ và ngày hôm sau tôi về thẳng Sài Gòn.
Tôi nhớ thì hình như tôi đến Sài Gòn vào khoảng đầu tháng sáu. Tôi vào ngay dinh Độc Lập gặp ông Diệm. Chính ông cho tôi biết rằng: Các sinh viên và nhiều giáo sư đại học Huế đã biểu tình ủng hộ Phật giáo. Ý ông Diệm định cách chức một số khoa trưởng, giáo sư, vì họ không kiểm soát được sinh viên. Tôi chưa hiểu gì, xin ông Diệm cho tôi một thời gian.
- Xin cụ khoan đưa ra những biện pháp mạnh lúc này. Cụ cho phép tôi ra Huế cố gắng dàn xếp nếu không xong, sau đó cụ muốn có biện pháp nào tuỳ ý cụ.
Tôi đã được biết đại biểu chính phủ miền Trung là ông Hồ Đắc Khương bị thay thế, tỉnh trưởng Thừa Thiên Nguyễn Văn Đẳng và phó tỉnh trưởng Đặng Sỹ bị triệu hồi về Bộ nội vụ. Nhiều cuộc biểu tình có bạo động xảy ra tại Huế, các chùa bên kia sông Phú Cam bị phong toả, và ngày nào cũng có những cuộc tiếp xúc giữa Ủy ban liên phái Phật giáo và Ủy ban liên bộ của chính phủ, nhưng không giải quyết được tình trạng căng thẳng khắp toàn quốc.
Tình hình tại Huế rất lộn xộn. Nhiều cuộc biểu tình đã liên tiếp diễn ra mấy hôm nay, mà theo lời ông thì thành phần tham dự đông đảo là học sinh sinh viên Phật tử.
39. Lần gặp gỡ cuối cùng với Tổng thống Diệm
Tôi cho rằng tình hình đã đi quá đà, nay dù ở trung ương có những nỗ lực dàn xếp thì các địa phương một số người quá khích của bên chính phủ, hoặc bên Phật giáo vẫn cứ gây ra những hành động nguy hiểm, khiêu khích.
Tôi trở về Huế giữa lúc tình hình tại đấy hết sức căng thẳng. Các sinh viên hay tin tôi đã trở về, kéo vào gặp tôi rất đông. Một đại diện sinh viên trình bày các biến chuyển vừa qua, cho biết một số sinh viên bị bắt giam, tra tấn và một số khá bị đe đoạ. Họ đòi hỏi chính phủ phải trả tự do cho tất cả những kẻ bị bắt và chấm dứt những hành động áp bức đối với những sinh viên Phật tử.
Tôi hứa sẽ can thiệp với nhà chức trách để yêu cầu trả tự do cho những người bị bắt, kêu gọi các sinh viên bình tĩnh. Nhân danh một linh mục, tôi xác nhận với anh em sinh viên Phật tử rằng không hề có chuyện công giáo bách hại, hay đàn áp Phật giáo mà chỉ có thể có chuyện một chính phủ có những hành động có thể không đúng đối với Phật giáo. Tôi cam kết với các sinh viên rằng nếu quả thực chính phủ có chủ trương đàn áp Phật giáo thì chính tôi với tư cách linh mục và viện trưởng sẽ đứng về phía các anh em sinh viên.
Trong lúc số sinh viên đang tụ tập trong và ngoài phòng tôi, tôi gọi điện thoại ngay cho đại biểu chính phủ miền Trung, lúc đó là ông Nguyễn Xuân Khương vừa được bổ nhiệm thay thế ông Hồ Đắc Khương được triệu hồi về. Tôi yêu cầu ông đại biểu chính phủ trả tự do mau chóng cho những sinh viên bị bắt. Ông Khương hứa giải quyết ngay.
Các sinh viên còn cho tôi biết rằng nếu vụ Phật giáo không dàn xếp yên được ngay, thì sẽ có nhiều vị sư sãi ở chùa Từ Đàm tự thiêu, nhiều sinh viên cũng sẽ tự thiêu, và nhiều cuộc biểu tình sẽ diễn ra khắp thành phố Huế.
Tôi chỉ khuyên các sinh viên bình tĩnh, đừng lầm lẫn phạm vi chính trị với tôn giáo, còn những hoạt động của anh em sinh viên thì tuỳ theo lương tâm, mọi người tự do tham dự vào các hoạt động họ thấy là chính đáng.
Ngày hôm sau ông đại biểu chính phủ và toà tỉnh Thừa Thiên trả tự do cho một số sinh viên bị bắt giam mấy hôm trước. Các sinh viên tuy chưa được thoả mãn hoàn toàn, nhưng có vẻ hoà hoãn hơn đôi chút.
Hôm sau tôi vào gặp ông Cẩn, mặc dù là người ít học, nhưng ông Cẩn, theo nhận xét của tôi không hẹp hòi thiển cận như nhiều người lầm tưởng.
Khi nghe tôi trình bày về dư luận quần chúng và các chính khách ở Mỹ đối với chế độ và vụ Phật giáo, ông Cẩn đã đặc biệt lưu tâm, tỏ ra hết sức lo lắng khuyên tôi nên vào gặp thẳng ông Diệm để trình bày sự thật đầy đủ, may ra còn cảnh tỉnh chăng:
- Cha cần phải về Sài Gòn nói rõ mọi chuyện cho “cụ” biết (ông Cẩn gọi Diệm bằng tiếng cụ). Con hiểu nhưng không biết làm cách nào giúp cho cụ hiểu được. Cha biết là con khó mà nói gì cụ tin. Con có ý thưa với cha, là chẳng những cha nói miệng, mà cha nên ghi lại trên giấy những điều cha định nói với cụ, rồi lúc cha ra về cha để lại tấm giấy đó cho cụ, để cụ có dịp đọc lại mà suy nghĩ kỹ hơn. Cha làm như thế có thể cụ sẽ đưa cho ông Nhu và Đức cha đọc.
Lúc này quyền hành của ông Cẩn trên thực tế chẳng có gì. Những ảnh hưởng đối với các nhà chức trách thì đã lọt vào tay Đức cha Thục, cho nên dù ông Cẩn hết sức hoà dịu, cố gắng dàn xếp, nhưng vì thiếu quyền hành, ảnh hưởng nên khó làm được việc gì ích lợi quan trọng để ổn định tình hình.
Trong lúc đó, tình hình biến chuyển mau chóng, trưa 11-6 Thượng toạ Thích Quảng Đức tự thiêu, báo chí quốc tế, các hãng truyền hình lớn đã chụp hình, quay phim và tường thuật vụ này, làm cả thế giới lên án chế độ ông Diệm. ông Diệm hiệu triệu quốc dân, và ý ông muốn kêu gọi dân chúng bình tĩnh, tin tưởng vào thiện chí dàn xếp của ông, nhưng câu nói cuối cùng của ông có thể bị hiểu lầm là một câu nói đầy kiêu căng, khinh miệt: “Sau lưng Phật giáo trong nước hãy còn có hiến pháp nghĩa là có tôi!”.
Ngày 16-6 các tăng ni biểu tình trước toà đại sứ Mỹ đồng thời tại chùa Giác Minh hàng ngàn Phật tử tụ tập dự tang lễ Thượng Toạ Quảng Đức. Cuộc tụ tập biểu tình, có xô xát với cảnh sát, làm cho nhiều người bị thương, hàng trăm bị bắt. Tại Huế, không khí thật ngột ngạt, làm tôi có cảm tưởng như không khí một buổi chiều sắp dông bão lớn.
Ngày 23-6 tôi vào Sài Gòn và sáng hôm sau ngày 24-6, lễ Thánh Gioan Baptista, quan thầy của Tổng thống, tôi đã vào dinh để chúc mừng ông. Theo lời khuyên của ông Cẩn tôi đã viết sẵn lên giấy những điều sắp nói cầm theo vào phòng làm việc của ông Diệm.
Tôi vào đề ngay:
- Thưa cụ vừa đi Mỹ về tôi được lệnh cụ phải ra Huế giải quyết vụ sinh viên ngay chưa có dịp nào thưa chuyện với cụ về dư luận Mỹ đối với Việt Nam. Nay nhân dịp vào mừng lễ bổn mạng cụ, tôi muốn thưa với cụ những khuynh hướng chính trong dư luận Mỹ đối với tình thế hiện nay. Khuynh hướng thứ nhất của một nhóm chủ chiến thiểu số do một tướng lãnh chủ trương muốn đánh mạnh để thắng mau.
Khuynh hướng này không được chính phủ, quốc hội và dân chúng ủng hộ. Khuynh hướng thứ hai chủ hoà, chấp nhận một giải pháp trung lập. Khuynh hướng này do các chính khách Dân chủ như Harrimam, Hillman chủ xướng. Khuynh hương này tuy được quần chúng và giới trẻ ở Mỹ ủng hộ rầm rộ, nhưng không được chính phủ Mỹ nghe theo hoàn toàn.
Một khuynh hướng có vẻ ôn hoà trung dung muốn rằng chính phủ Kennedy vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam với một số những điều kiện đặc biệt nào đó. Khuynh hướng này được chính phủ Kennedy lưu ý đặc biệt. Theo khuynh hướng này thì một trong những điều kiện mà Mỹ đòi hỏi ở Việt Nam là cụ phải có những thay đổi chính trị sâu rộng, lập Thủ tướng và các tổng trưởng có thực quyền, chọn những người không có liên hệ gia đình, và nếu thấy ai có tài năng thì dù họ thuộc một đảng phái đối lập cũng nên dùng họ. Các bộ trưởng nên được nâng lên hàng tổng trưởng để tăng thêm uy tín và quyền hành. Tại Quốc hội cũng phải cố gắng lập khối đối lập thực sự. Nếu cụ có những thay đổi chính trị như vậy thì Mỹ có thể tiếp tục ủng hộ Việt Nam để chiến thắng cộng sản, nếu không nội cuối năm 1963 Mỹ sẽ dùng Phật giáo làm cái cớ để lật đổ chế độ của cụ, vì Tổng thống Kennedy sắp phải ra tranh cử nhiệm kỳ 2, cần gây uy tín để đắc cử. Đối với cử tri Mỹ trong mùa vận động tuyển cử này, thì xem chừng lật cụ là việc làm ăn khách nhất.
Ông Diệm có vẻ trầm ngâm, nhưng là cái trầm ngâm của một người không muốn biết một sự thật không vừa ý, hơn là sự trầm ngâm của một người muốn tìm một con đường mới. Ông chống chế:
- Những thay đổi ở thượng tầng kiến thiết quốc gia không cần thiết lắm. Những người nào có chút khả năng thì như cha biết tôi đã dùng hết rồi, và có mấy ai ra gì đâu. Cha thử nghĩ xem, nếu đặt Thủ tướng thì lấy ai xứng đáng bây giờ? Nhóm Caravelle thì cha đều biết qua cả có ai xứng đáng giữ chức Thủ tướng đâu? Điều quan trọng là tổ chức hạ tầng kiến thiết tức là ấp chiến lược.
Tôi cố gắng thêm lần cuối để thuyết phục ông Diệm chấp nhận những thay đổi cần thiết trên thượng tầng:
- Thưa cụ, nói rằng thượng tầng cơ sở không quan trọng thì e không đúng lắm. Cụ chẳng đang ở vị thế cao nhất trong thượng tầng cơ sở, và giữ một trách nhiệm quan trọng nhất, nặng nề nhất đó sao. Chẳng những cụ cần những người thuộc hạ trung thành ở thượng tầng cơ sở, mà cụ còn cần những cộng tác viên tài năng can đảm, liêm sỉ, nhiều sáng kiến. Có thể lúc này cụ không tìm ra những người như thế để xây dựng thượng tầng, nhưng với sự nới rộng sẽ khích lệ những kẻ tài năng đến với cụ nhiều hơn, tạo cơ hội cho những nhân tài kiêu căng hoặc e thẹn đến hợp tác với chế độ. Đó là nói về những lợi ích trong nước, trong nội bộ. Bây giờ, thưa cụ chúng ta cần người Mỹ, lệ thuộc nhiều vào người Mỹ, chịu ảnh hưởng nặng nề vì sự thương hay ghét của họ. Nếu không vì những lợi ích thiết thực mà phải cải tổ chính phủ, thì cũng nên vì để làm hài lòng người Mỹ mà cải tổ, để họ khỏi phá hoại. Cụ cũng đã hiểu câu châm ngôn “ai chi tiền thì kẻ đó cai trị”. Hiện nay người Mỹ đang chi tiền. Nếu cụ cứng rắn quá sẽ bị bẻ gẫy.
Ông Diệm có dáng suy nghĩ, lo lắng, chú ý hơn lúc đầu một chút:
- Nếu bây giờ chúng ta nhượng bộ một bước thì Mỹ sẽ lại đòi thêm, biết nhượng bộ đến bao giờ cho vừa lòng họ? Tôi muốn võ trang đầy đủ cho Bảo an, Dân vệ, thanh niên chiến đấu. Mỹ không chịu. Tôi muốn tăng cường quân đội, Mỹ từ chối không cấp vũ khí và phương tiện, Mỹ chỉ muốn đưa quân qua Việt Nam mà thôi.
Ông Diệm ngưng một lúc, nhìn mơ màng lên trời rồi bắt đầu thuyết về ấp chiến lược. Ông cho rằng ấp chiến lược là giải pháp hay nhất để đánh bại cộng sản ở nông thôn, thực hiện những cải cách cần thiết cho nông dân. Tôi đã được nghe ông Nhu nói về ấp chiến lược một cách say sưa. Những lý lẽ ông Diệm đưa ra quanh vấn đề ấp chiến lược cũng không khác gì luận điệu của ông Nhu. Tôi tán đồng chủ trương đó, chỉ tiếc rằng đã không được thực hiện từ khi mọi cơ hội còn thuận tiện, ngày tháng còn dài, chờ đến bây giờ thì e muộn quá rồi.
- Thưa cụ, tôi xin đồng ý với cụ là quốc sách ấp chiến lược hay lắm, nhưng chúng ta cần có thì giờ và phương tiện để thực hiện. Nếu làm cho người Mỹ bực tức, họ không ủng hộ ta, thì lấy đâu phương tiện mà thực hiện. Hơn nữa người Mỹ có thể không cho chúng ta có thì giờ để thực hiện đủ với phương tiện riêng của chúng ta.
Ông Diệm im lặng, có vẻ không muốn nghe tôi nói thêm. Tôi biết ý ông nên kiếu từ ra về. Thấy không lung lạc được ông Diệm tôi cảm thấy gần như tuyệt vọng, nhìn thấy trước những viễn ảnh đen tối cho chế độ và cho quốc gia. Hơn nữa những hỗn loạn quanh vụ Phật giáo càng ngày càng lớn thêm. Không cần Mỹ phải trực tiếp nhúng tay vào, chỉ cần một lực lượng chính trị hay quân sự nào đủ gan liều một chút, biết khai thác đúng cách và đúng lúc những xáo trộn chính trị và tôn giáo hiện nay cũng có thể lật đổ được chế độ ông Diệm. Dù kính mến ông Diệm vì những thân tình cá nhân, những liên hệ bằng hữu, tôi nghĩ rằng, nếu có một lãnh tụ nào tài đức hơn ông Diệm đứng lên làm công việc đó, thì vì quyền lợi quốc gia dân tộc, tôi sẽ chấp nhận.
Nhưng trước mắt tôi, đếm kỹ những nhân vật tên tuổi trong danh sách những chính khách Việt Nam, tôi không nhìn thấy một ai đủ khả năng thay thế ông Diệm để lãnh đạo quốc gia. Vì những ý nghĩ đó, hơn là vì cảm tình riêng của tôi đối với ông Diệm và gia đình ông, tôi cố gắng tìm mọi cách để cứu vãn chế độ ông Diệm, mặc dầu tôi linh cảm mọi nỗ lực của tôi đều vô ích, vô vọng.
Tôi nghĩ rằng ông Diệm rất mộ đạo, kính nể những bậc lãnh đạo tôn giáo, nên tôi đến gặp Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình ngay sau khi rời văn phòng ông Diệm. Tôi lại trình bày những điều tôi vừa trình bày với ông Diệm:
- Thưa Đức cha, con đi Mỹ về, nhận thấy dư luận Mỹ đã hết thiện cảm với chế độ này và chính phủ Mỹ vì áp lực của dư luận quần chúng và quốc hội, chỉ có thể tiếp tục ủng hộ chế độ nếu có những cải tổ chính trị sâu rộng ở thượng tầng, bằng không Mỹ có thể tính cách triệt hạ chế độ và lật đổ ông Diệm. Như Đức cha biết, một sự hỗn loạn chính trị lúc này có thể đưa quốc gia chúng ta đến nguy vong. Con đã cố gắng trình bày những nhận định của con với Tổng thống nhưng cụ không nghe, con chỉ là một linh mục, dù cụ có lúc coi con như bạn, nhưng không thể gây ảnh hưởng gì quan trọng đối với cụ. Con nghĩ rằng nếu bây giờ các Đức cha trên toàn quốc gửi cho cụ một văn thư khuyến cáo cụ thay đổi chính sách và cải tổ nội các, thì có lẽ cụ sẽ nghe theo.
Đức cha Bình gật gù:
- Tôi cũng nhận thấy tình thế lúc này thật khó khăn, phức tạp. Tôi chấp nhận ý kiến của cha và sẽ bàn sau với các Đức cha khác để thảo văn thư và gửi Tổng thống.
Tôi không rõ về sau Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình và các Đức cha có gặp gỡ nhau thảo văn thư khuyến cáo ông Diệm thay đổi chính sách và cải tổ chính phủ hay không, nhưng tôi không còn được nghe tin gì.
Cũng ngày hôm đó tôi đến gặp Đức khâm sứ toà thánh là Đức cha Asto khoảng 5 giờ chiều. Đức khâm sứ mới được cử sang Việt Nam ít lâu. Tôi trình bày mọi việc, từ những nhận xét về dư luận Mỹ, đến hai cuộc gặp gỡ ông Diệm và Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, cùng mọi ý kiến riêng của tôi. Đức khâm sứ cũng đồng ý với những nhận định của tôi, tỏ ra lo lắng về những diễn biến dồn dập của tình thế. Ngài có ý dịch bản điều trần của tôi gởi về Toà thánh và xin Đức giáo hoàng khuyến cáo ông Diệm, hy vọng làm như thế thì với tư cách một tín đồ Công giáo ông sẽ chịu nghe dễ dàng hơn. Lúc bấy giờ Đức Giáo hoàng Gioan XXIII vừa băng hà ngày 4-6, và Đức Hồng y Gio-Vanni Battita Montini vừa được bầu lên ngôi giáo hoàng, lấy hiệu là Giáo hoàng Phao Lô VI hôm 21-6.
Tôi thưa với Đức khâm sứ rằng tôi chỉ viết tay một bản mà thôi nên nay không thể nào có bản thứ hai y hệt như bản điều trần để lại trên bàn ông Diệm. Đức khâm sứ ngỏ ý muốn tôi ngồi lại, viết thật giống như bản điều trần đã đưa ông Diệm, rồi trao cho ngài để ngài cho dịch ra. Tôi thưa rằng bây giờ tôi không có thì giờ, vì lát nữa, lúc 7 giờ tối, tôi phải dự một bữa cơm chiều với một số trí thức, nhân sĩ, và 8 giờ sáng thì tôi đã phải lên máy bay về Huế. Đức Khâm sứ nhất định buộc tôi phải cố nhớ mà viết lại bản điều trần, ngài nói:
- Cha đi ăn về trễ lắm thì cũng đến 10 giờ là cùng. Cha nên chịu khó thức khuya một chút viết lại bản điều trần bằng tiếng Pháp, càng giống càng tốt, rồi bất cứ giờ nào viết xong thì đưa lên cho tôi, để gửi sang Toà thánh Vatican.
Tôi đi dùng cơm tối với một số trí thức như Tôn Thất Thạch, Đại tá Tung, Nguyễn Trân v.v… Sau đó tôi vội về nhà trọ, cố nhớ lại, viết lại bản điều trần bằng tiêng Pháp, 5 giờ sáng tôi lên gặp Đức khâm sứ toà thánh, và ngài yêu cầu tôi ký tên dưới bản điều trần. Tôi cười:
- Thưa Đức khâm sứ, bên La Mã ai biết đến tên tuổi con mà ký làm gì?
- Cha lầm đó, bên La Mã người ta biết đến cha lắm chứ. Tôi hy vọng Đức thánh cha sẽ có thư khuyến cáo ông Diệm và ông sẽ nghe mà sửa đổi.
Tôi nói chuyện với Đức khâm sứ một chút rồi ra phi trường về Huế.
40. Cơn hấp hối của chế độ
Trong những ngày cuối tháng bảy tôi theo dõi tin tức thấy rằng những cuộc dàn xếp giữa Ủy ban liên phái Phật giáo và uỷ ban liên bộ vẫn chưa đi đến một kết quả dứt khoát nào.
Bên Phật giáo vẫn còn tố cáo chính phủ không thi hành đúng đắn thông cáo chung ba điểm được thoả thuận giữa đôi bên ngày 16-5. Ở Huế trong lúc đó tình hình có vẻ yên tịnh nhưng vẫn căng thẳng, sự căng thẳng trước một cơn dông bão. Ngày 5-7 Toà án quân sự đặc biệt ở Sài Gòn xử vụ đảo chánh hụt ngày 1-11-60.
Vụ án này diễn ra lúc này chắn chắn không có lợi gì cho chế độ, trái lại càng làm cho lòng người thêm bất mãn với chế độ. Tiếp đến để phản đối vụ xử án này, nhà văn và nhà cách mạng Nhất Linh uống thuốc ngủ tự tử được đem vào bệnh viện Grall, nhưng không cứu được.
Bức thư tuyệt mệnh của ông lên tiếng phản đối vụ xử án các nhân sĩ liên can vụ đảo chánh hụt, chính sách đàn áp chính trị và tôn giáo của ông Diệm, đây là một đòn nặng đập vào chế độ vì nhà văn Nhất Linh có nhiều uy tín trong quần chúng, sinh viên, chính khách.
Từ ngày vào Nam ông gần như không còn hoạt động chính trị nữa, và những tác phẩm văn chương của ông sau này, như Dòng Sông Thanh Thuỷ v.v… không được nổi tiếng như những tác phẩm tiền chiến.
Tuy vậy ông là một người được nhiều giới kính mến vì quá trình cách mạng và văn chương của ông. Cái chết của ông gây xúc động mạnh trong quần chúng toàn chúng. Ông cũng có tên trong danh sách 14 nhân sĩ bị xét xử trước toà án quân sự, và đến ngày 11-7 toà tuyên án, ông được tha bổng. Dù tha bổng nhà văn Nhất Linh, vụ án này vẫn gây căm phẫn cho mọi người. Đám tang nhà văn Nhất Linh ngày 13-7 tưởng đã thành một vụ biểu tình hỗn loạn lớn. Các giới sinh viên, Phật giáo hình như cũng đã có ý định biến đám tang thành cuộc biểu tình.
Nhưng sau vì những biện pháp phòng ngừa quá nghiêm ngặt của chính quyền, nên đám tang chỉ là đám tang. Ngay trong ngày đó, toà án quân sự lại xử vụ 19 nhân sĩ họp ở khách sạn Caravelle, được gọi là nhóm Caravelle đòi hỏi cải cách chính trị. Tất cả 19 bị can được tha bổng.
Đến hôm sau, 16-7 nhiều cuộc biểu tình của tăng ni Phật tử diễn ra nhiều nơi tại Sài Gòn như trước toà đại sứ Mỹ, chợ Bến Thành. Nhiều nhà sư lên tiếng đòi tự thiêu để phản đối hành động đàn áp Phật giáo, trong đó có sư bà Diệu Huệ, thân mẫu giáo sư Bửu Hội hiện là đại sứ.
Như đổ thêm dầu vào lửa chính phủ lại tổ chức một cuộc biểu tình trước chùa Xá Lợi, gồm toàn những dân vệ và thanh niên Cộng hoà, cùng một số thương phế cựu chiến binh. Phật giáo lại lên tiếng tố cáo hành động này, coi đó như một hành động phá hoại những cuộc điều đình giữa Phật giáo và chính quyền, có mục đích kích động phá hoại. Để trấn an, chính quyền cách chức ông Thanh tra dân vệ đoàn, nhưng xem chừng vẫn không làm dịu được tình hình.
Tình hình ở Huế thoạt nhìn không có gì đặc biệt, có thể cho như yên tịnh nhưng bên trong dân chúng đa số Phật giáo coi như sớm muộn cũng phải đi đến một hành động quyết liệt, một mất một còn với chế độ ông Diệm. Không có một cuộc biểu tình lớn nào diễn ra tại Huế nhưng những tin đồn từ chùa, các đoàn thể Phật tử được loan truyền về những người bị bắt, mất tích và về những hành động tàn bạo, bí mật của chế độ. Chính vì sự yên tịnh bề mặt đó, có người đã hiểu lầm là tình hình đã ổn định. Vào đầu tháng 8 Trần Quang Ngọc ra gặp tôi:
- Thưa cha, Đức cha (Ngô Đình Thục) sai con ra gặp cha, nói rằng cha không chịu họp các giáo sư, sinh viên để giải thích về đường lối của chính phủ đối với Phật giáo, nên Đức cha thấy cần phải đích thân tụ họp giáo sư, sinh viên để Đức cha đích thân nói chuyện với họ. Vậy cha tụ họp các giáo sư và sinh viên tại giảng đường để nghe Đức cha nói chuyện.
Tôi không dám chắc làm như vậy có lợi hay có hại, điều đó còn tuỳ thuộc những điều Đức cha Thục sẽ nói. Nhưng tôi không thể đưa ý kiến gì trái ngược vì đây là một mệnh lệnh.
Vả lại lúc này tôi có tâm trạng một người vượt biển gặp dông tố lớn biết thuyền sắp chìm, sức người không thể cứu vãn được nữa, chỉ còn trông vào phép lạ, mà phép lạ thì ít khi xảy ra lắm, nhất là với những người không cầu xin. Tôi ngại là giảng đường thì quá rộng mà số giáo sư hay sinh viên đến tham dự thì thưa thớt quá, sẽ làm buồn lòng Đức cha và gây cho ngài nhiều phản ứng không có lợi gì cho việc hoà giải, nên tôi đưa ra một yêu cầu nhỏ:
- Hay lắm, nếu Đức cha muốn nói chuyện với sinh viên, giáo sư thì cũng là một điểm tốt. Nhưng lúc này vào kỳ nghỉ hè, không thể nào cưỡng bách sinh viên hay giáo sư đến dự đông đảo. Để phòng trống nhiều quá khó coi, vậy yêu cầu ông mời các học sinh trung học đệ nhị cấp một vài trường và thanh niện Cộng hoà của ông đến cho đông cho chật giảng đường.
Mọi việc được thu xếp đúng như đề nghị của tôi, nên mặc dù dưới mắt tôi số người tham dự buổi nói chuyện của Đức cha Ngô Đình Thục tại đại giảng đường viện đại học Huế phần lớn không phải là sinh viên giáo sư, nhưng dưới mắt bất cứ ai khác thì có thể coi như giảng đường đã chật ních sinh viên, giáo sư cũng được. Đức cha cố gắng giải thích và biện hộ cho việc cấm treo cờ và ngỏ ý tiếc về vụ đổ máu ở đài phát thanh Huế ngày 8-5.
Đức cha cho biết rằng chính phủ sẵn sàng điều tra trừng phạt thủ phạm và bồi thường đích đáng cho gia đình các nạn nhân bị thương tích hoặc thiệt mạng. Đức cha tha thiết kêu gọi sinh viên đoàn kết để đối phó với nguy cơ cộng sản.
Đã có những sự dàn xếp trước, nên sau mỗi đoạn và cuối bài nói chuyện, mọi người vỗ tay hoan hô rầm rộ, làm cho Đức cha có vẻ hài lòng lắm. Lúc bước xuống khỏi khán đài, tôi thấy nét mặt Đức cha rất tươi tỉnh, vui vẻ.
Ngài nhìn tôi mỉm cười, vừa như tỏ dấu hài lòng, vừa như ngụ ý khoe: thu phục đám sinh viên giáo sư này có khó chi đâu. Tôi cũng mỉm cười với ngài, nhưng với y khác hẳn: đã chắc gì?
Đức cha không hề hay biết, những người nghe Đức cha nói chuyện phần đông không phải là sinh viên giáo sư đại học Huế mà là những thanh niên cộng hoà Phú Cam, học sinh các trường trung học tư thục công giáo như Thiên Hựu.
Đức cha lại có ý muốn nói chuyện với sinh viên học sinh một lần thứ hai, sau đó độ một tuần lễ.
Trong thời gian này tại Sài Gòn trong một buổi lễ của Phụ nữ bán quân sự, bà Ngô Đình Nhu đã lên tiếng gay gắt chỉ trích cuộc tranh đấu của Phật giáo, có những lời lẽ chế giễu nhục mạ các nhà sư, và tỏ ra không tôn kính những vị sư tự thiêu.
Ngày lễ Phụ nữ bán qs vào ngày 3-8 và sáng hôm sau 4-8 tại Phan Thiết một nhà sư tự thiêu.
Từ Hoa Thịnh Đốn, trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo chí Mỹ, đại sứ Trần Văn Chương, thân phụ bà Nhu, nhạc phụ ông Nhu dĩ nhiên chỉ trích bà Nhu đã ăn nói kém lễ độ đối với các tăng ni và Phật giáo. Mấy hôm sau, bà Nhu bằng giọng gay gắt và chế giễu cho rằng dù bà có thiếu lễ độ đối với Phật giáo chăng nữa, thì có lúc cần phải thiếu lễ độ, nếu điều đó nói ra có một ích lợi và một tầm quan trọng lớn. Đối với người Việt Nam dù ai trái ai phải cái việc cha con chỉ trích nhau công khai đều được coi chẳng tốt đẹp gì, do đó dân chúng vốn đã ít cảm tình với bà Nhu, sau vụ cãi vã công khai giữa cha con này, lại càng mất hết những cảm tình còn lại đối với bà Nhu. Cùng lúc những tin đồn về đức hạnh của bà Nhu được tung ra, bằng những câu chuyện mập mờ chuyển từ miệng người này sang tai người khác. Tôi không biết sự thật như thế nào, nhưng tôi nhận thấy có một chiến dịch được điều khiển nhằm hạ uy tín gia đình ông Diệm, bắt đầu bằng cách hạ phẩm cách, đức hạnh của bà Nhu. Như cái việc bà Nhu mặc áo hở cổ, thực ra chẳng có gì quan trọng lắm, vậy mà cũng thành đề tài để chế giễu, chê bai bà Nhu.
Áo hở cổ của đàn bà Việt Nam cũng chẳng phải là một thời trang hoàn toàn mới lạ, và nhìn từ một khía cạnh khác thì đó là một đóng góp cho thẩm mỹ y phục của phụ nữ Việt Nam, nhưng vào lúc này mọi hành động của bà Nhu đều bị nhìn bằng con mắt chê bai có thành kiến xấu.
Có lẽ mất bình tĩnh vì bị chỉ trích và vì không khí thù nghịch chung quanh hoặc quá tự kiêu, bà Nhu lại tuyên bố với báo chí Mỹ rằng cần phải cứng rắn, thẳng tay, quyết liệt với phong trào đấu tranh của Phật giáo.
Hình như bà Nhu có đề cập đến vụ tự thiêu của Hoà thượng Thích Quảng Đức, và đã có những lời lẽ khiếm nhã trong lúc toàn dân, toàn thế giới đều xúc động vì vụ đó. Mấy hôm sau ngày 12-5, sau lễ cầu siêu cho một vị sư tự thiêu tại chùa Xá Lợi, nữ sinh Mai Tuyết An đã tự nguyện chặt bàn tay để tỏ ý phản đối những hành động đàn áp Phật giáo, và những lời lẽ khiếm nhã của bà Nhu đối với các nhà tu Phật giáo. Ngày 13-8 tại Huế trước chùa Phước Duyên, quận Hương Trà, Đại đức Thích Thanh Tuệ tự thiêu. Dân chúng, sinh viên Phật tử biểu tình ở khắp mọi đường phố ở Huế, ở các quận.
Vài cuộc xung đột và bạo động xảy ra một vài nơi. Chính quyền địa phương lo ngại, ban hành tình trạng giới nghiêm trong thành phố Huế và khắp tình Thừa Thiên.
Càng ngày tình hình càng đen tối thêm, vậy mà có người vẫn không chịu nhìn thấy sự thật. Khoảng giữa tháng 8, Đức cha Ngô Đình Thục vào Sài Gòn đề nghị với ông Diệm bãi chức Viện trưởng đại học của tôi và bổ nhiệm Viện trưởng mới. Đức cha có lẽ đã nghĩ rằng tôi không tích cực trong việc vận động sinh viên Phật tử, hoặc ít ra im lặng để cho sinh viên Phật tử tham gia các cuộc đấu tranh Phật giáo.
Ngài còn nghĩ rằng sau hai lần nói chuyện với sinh viên giáo sư mà ngài cho như thành công lớn, ngài đã có uy tín với sinh viên giáo sư Huế và vai trò của tôi không cần thiết để trấn an sinh viên nữa. Trong lúc ở Sài Gòn Đức cha gặp Trần Hữu Thế nguyên Bộ trưởng quốc gia giáo dục lúc đó đang làm đại sứ tại Phi Luật tân vừa về Sài Gòn, và ngài đề nghị lên ông Diệm cho ông Thế làm Viện trưởng đại học Huế thay tôi. Ông Diệm bằng lòng ngay, và ngày 14-5, Đức cha cùng với Bộ trưởng quốc gia giáo dục Nguyễn Quang Trình và ông Thế ra Huế.
Chiều ngày 15-8, lúc năm giờ, một nhân viên của Viện đại học Huế đến cho tôi hay rằng có ông Bộ trưởng quốc gia giáo dục Nguyễn Quang Trình có mặt tại Toà đại biểu chính phủ muốn gặp tôi có việc cần gấp. Tôi lên và gặp ông ngay. Ông Trình có vẻ lúng túng:
- Thưa cha, tôi có một tin buồn muốn báo cho cha biết.
Tôi đã đoán được vài phần cái tin buồn này:
- Tin chi mà buồn?
- Thưa cha, Tổng thống muốn cho cha nghỉ, và đã quyết định đưa ông Trần Hữu Thế ra thay thế cha giữ chức viện trưởng. Sáng mai lúc tám giờ yêu cầu cha làm lễ bàn giao.
Thú thực là khi nghe tin này một cách chính thức tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong người. Trong bụng tôi muốn reo lên:
- Tôi tưởng có chuyện gì khác, chớ chuyện đó có chi mà buồn. Tôi đã đoán trước được sự việc này rồi. Tôi là bạn của ông Diệm và gia đình ông, khi lên làm Viện trưởng đại học Huế, cố gắng phát triển đại học Huế này, một phần vì muốn giúp ích cho đất nước, một phần cũng muốn giúp cho họ Ngô. Nay gặp tình thế gay cấn này, Tổng thống không muốn tôi giúp cho ông nữa, không có gì là buồn mà lại vui là đàng khác. Thưa ông Bộ trưởng, ông là bạn của tôi, cũng là người đồng hương với tôi, tôi xin nói thật để ông biết trước, chế độ này đã đến thời mạt rồi, tôi đã khuyến cáo Tổng thống, nài xin ông sửa đổi mà ông không chịu, lẽ ra tôi đã tự ý xin thôi; nhưng làm như thế tỏ ra là thiếu trung thành với một người mà mình đã phục vụ mấy năm nay, nên tôi đã bỏ ý định từ chức, nay Tổng thống cho thôi, thì thật là may mắn cho tôi, ra đi mà khỏi mang tiếng là phản bội.
Ông Nguyễn Quang Trình có vẻ lúng túng không nói gì thêm về tương lai chế độ mà chỉ nói:
- Thôi đêm nay chúc cha ngủ yên giấc và cũng xin cha đừng để lộ tin này ra ngoài cho các giáo sư hay sinh viên nào biết, sáng mai đúng tám giờ cha đến làm lễ bàn giao một cách kín đáo với ông Thế.
- Được, tôi sẽ cho mời các khoa trưởng và vài giáo sư đến dự, nhưng không nói lý do.
Đêm đó thú thực tôi không chợp mắt được. Tôi ôn lại những việc mình đã làm từ chín năm nay, nhớ đến mối giao tình thân thiết với ông Diệm, những lần gặp gỡ thân mật. Tôi vẫn cầu mong cho ông Diệm sớm tỉnh ngộ để kịp thoát khỏi nguy cơ lần này, nhưng tôi rất ít hy vọng. Tôi cũng nhẩm trong đầu óc những điều sẽ nói trong lễ bàn giao.
Sáng hôm sau, trước 7 giờ, tôi đã cho các tuỳ phái đi mời các khoa trưởng và một số giáo sư đến văn phòng Viện đại học Huế.
Không có một sinh viên nào hay biết đến dự. Đúng 8 giờ sáng, ông Nguyễn Quang Trình, Trần Hữu Thế đã có mặt. Ông Bộ trưởng tuyên bố lý do: Tôi được bãi chức và ông Trần Hữu Thế lên thay tôi làm Viện trưởng Viện đại học Huế. Tôi ứng khẩu một diễn văn ngắn đại ý nói rằng tôi xin cảm ơn ông Bộ trưởng quốc gia giáo dục Nguyễn Quang Trình đã dời gót ra chứng kiến lễ bàn giao, và xin ông Bộ trưởng chuyển lời lên cám ơn Tổng thống Ngô Đình Diệm đã cất cho tôi cái gánh nặng làm Viện trưởng Viện đại học Huế trong giai đoạn khó khăn và nhiều trách nhiệm này.
Tôi nhắc lại những nỗ lực của tôi và những khoa trưởng giáo sư đã cộng tác với tôi dựng lên đại học Huế và tạo cho nó bộ mặt hôm nay. Ngày nay tình thế đã thay đổi sợ tôi không đủ khả năng gánh vác trách nhiệm nặng nề đối phó với những khó khăn, nên Tổng thống đã cho tôi được trở lại đời sống tu hành, tôi hết lòng cám ơn.
Tôi ra đi không buồn phiền chi cả, mà mừng vì ngọn đuốc văn hoá mà tôi và các cộng sự viên đã cố gắng nhóm lên ở Huế, nay được trao cho một bàn tay khác hy vọng đủ khả năng tiếp tục làm bừng sáng lên vì ông tân Viện trưởng kế tiếp nhiệm vụ của tôi là một nhà ngoại giao, chính trị và trí thức tài ba.
Như tên ông đã tiền định ông là người “có thế”, ông được lòng tin của Tổng thống và Đức Tổng Giám Mục, ắt sẽ làm tròn nhiệm vụ một cách dễ dàng.
Tôi kêu gọi các khoa trưởng giáo sư trước đã hợp tác với tôi, hãy tiếp tục hợp tác với ông tân Viện trưởng và đừng buồn vì chuyện ra đi của tôi, vì ai cũng cần phải tâm niệm rằng chẳng có nhân vật nào là không thể thay thế. Những người mà người ta tưởng không thể thay thế ngày nay đã nằm chặt nghĩa địa, như lời nói của một văn hào quốc tế. Có tôi, hay không, thì Viện đại học vẫn tiếp tục bình thường.
Tôi dứt lời. Toàn thể giáo sư, khoa trưởng ngơ ngác chưa hiểu được biến cố nhỏ vừa xảy ra bị việc bất ngờ. Họ nhìn tôi, nhìn ông Trình, nhìn ông Thế với những đôi mắt ngơ ngác, nhiều người cúi đầu. Rồi một phản ứng mà tôi đã đoán trước bột phát trong đám khoa trưởng và vài giáo sư. Nhiều người lên tiếng phản đối việc thay thế tôi giữa lúc này và tuyên bố không công nhận lễ bàn giao. Nhiều người bỏ đi ra ngoài một cách lặng lẽ, âm thầm. Ông Trình và ông Thế có vẻ lúng túng. Nhưng rồi lễ bàn giao cũng chấm dứt theo đúng nghi lễ.
Khoảng chín giờ, sau lễ bàn giao, vừa về đến nhà tôi lấy làm ngạc nhiên, thấy ngoài đường, trong sân, trên thềm chật đầy những sinh viên. Tôi đoán chừng ngay sau khi ông Trình tuyên bố quyết định của Tổng thống, một vài giáo sư bất mãn đã bỏ ra về và báo tin cho sinh viên biết.
Thấy tôi, các sinh viên reo hò vẫy tay:
- Cha không thể đi được.
- Cha không thể bỏ chúng con lúc này.
- Cha hãy ở lại với chúng con.
- Trần Hữu Thế cút đi.
- …
Vài sinh viên lớn tuổi và có vẻ đầu đàn trong bọn xúm lại gần tôi, nắm tay tôi dẫn lên thềm, rồi đưa hai tay tôi giơ lên cao hô to:
- Hoan hô Viện trưởng Cao Văn Luận.
Cả bọn lặp lại nhiều lần, và càng lúc số sinh viên kéo đến ngoài đường càng đông thêm.
Tôi lo sợ nếu cứ nhùng nhằng thế này thì chẳng mấy lúc số sinh viên tụ tập ở đây lên đến hàng ngàn, và từ bất mãn này cộng thêm bất mãn khác, họ có thể biến cuộc tụ họp ôn hoà này thành một cuộc biểu tình mà hậu quả chưa biết ra sao.
Tôi cũng lo sợ trong đám sinh viên thực tình thương mến tôi, có một số trong phong trào tranh đấu muốn lợi dụng sự bất mãn của các sinh viên ngây thơ nhẹ dạ để lôi cuốn họ vào những hành động chống đối.
Tôi vẫy tay chào và ra hiệu cho đám sinh viên yên lặng:
- Các anh chị về đi, cha chưa đi ngay đâu mà sợ. Nếu cha có đi thì ít ra cũng phải đến mai.
Đám sinh viên dùng dằng chưa muốn giải tán ngay. Tôi nói những anh đứng gần nhất:
- Các anh nên nói với anh chị em giải tán đi thôi, kẻo người ta hiểu lầm là cha xách động các anh chị.
Tôi nói câu này như một lời nói đùa mà thôi.
Đám sinh viên từ từ giải tán, từng tụm năm ba người kéo ra về, bàn tán xôn xao về việc giải nhiệm chức Viện trưởng của tôi.
Tôi vào nhà gọi người nhà dọn cơm sớm. Thu xếp một ít quần áo rồi lúc hơn 12 giờ trưa mượn chiếc xe hơi riêng của ông Vũ Đình Chính vô Đà Nẵng ngay. Tôi đến cha Ngô Đình Phú cho ông biết chỗ ở, và nhờ giữ kín.
Về sau tôi được biết, lúc 3 giờ chiều hàng ngàn sinh viên kéo đến trước nhà tôi khiêng theo một chiếc kiệu, dự định rước tôi lên Viện đại học, biểu tình đòi ông Thế phải từ chức và yêu cầu Tổng thống huỷ bỏ quyết định giải nhiệm tôi. Các khoa trưởng giáo sư phản đối ôn hoà hơn, nhưng ngay trong ngày đó họ cũng làm kiến nghị, gởi lên Bộ giáo dục và phủ Tổng thống yêu cầu trả chức Viện trưởng lại cho tôi.
Các sinh viên tìm không thấy tôi, hay tin tôi đã bỏ đi lại càng tỏ ra bất mãn hơn, khiêng kiệu trống kéo xuống đường tiến về phía Viện đại học.
Lúc đầu đám sinh viên có lẽ không đông lắm nhưng dọc đường có thêm nhiều sinh viên và học sinh trung học gia nhập làm cho đám biểu tình lên đến hàng ngàn người đến Viện đại học. Trần Hữu Thế không dám ra tiếp họ. Các giáo sư khoa trưởng phần lớn đều tán đồng cuộc biểu tình này nên chẳng có ai ra can thiệp để yêu cầu sinh viên giải tán, vì thế mà càng về chiều thì cuộc biểu tình càng đông đảo và ồn ào. Ông Cẩn, Đức cha Thục bây giờ thấy hậu quả nguy hiểm của việc giải nhiệm tôi, lo lắng lắm, và Đức cha Thục cho hai cha là cha Phát, Tổng đại diện toà giám mục Huế và cha Bính vào Đà Nẵng tìm tôi, trao cho tôi một lá thư yêu cầu tôi trở lại dàn xếp ổn thoả vụ biểu tình của sinh viên vì sợ sinh viên sẽ làm loạn và tạo nên tình hình gay cấn thêm.
Trong bức thư Đức cha Thục kêu gọi tinh thần hiểu biết và bác ái của một vị linh mục nơi tôi hãy giúp Đức cha trấn an các sinh viên trong ít lâu. Đức cha cũng giải thích việc giải nhiệm tôi và nói rằng Tổng thống nhận thấy lúc này vì tình thế quá khó khăn, phức tạp, sợ một vị linh mục giữ chức vụ Viện trưởng viện đại học Huế sẽ gặp tình cảnh khó xử, nên Tổng thống mới cho một người đời thay thế chứ thực tâm Tổng thống không có ý gì là buồn lòng hoặc hết tin cậy tôi cả.
Tổng thống cũng đã có ý định cho tôi thôi chức Viện trưởng để cử tôi làm đại diện VNCH tại cơ quan văn hoá Liên hiệp quốc (UNESCO).
Tôi đọc thư Đức cha Thục trong lúc cha Phát và cha Bình ngồi chờ. Tôi nhờ hai cha thưa lại với Đức cha rằng tôi không hề buồn phiền gì cả đối với Tổng thống và Đức cha về việc cho tôi thôi làm Viện trưởng, trái lại tôi vui mừng và cám ơn vì hai vị đã gỡ cho tôi một gánh nặng lớn lao.
Tôi cũng sẵn sàng làm mọi việc để giúp Đức cha giải quyết vấn đề sinh viên, nhưng việc tôi trở ra Huế lúc này quả thực không thể làm sao để cho vụ sinh viên yên được. Tôi ra Huế lúc này chẳng những không giúp làm ổn định tình hình, mà trái lại có thể gây nên những phản ứng bất ngờ và tai hại nơi sinh viên.
Tôi nêu lên trường hợp nếu bây giờ tôi trở ra Huế sinh viên quyết liệt đòi tôi làm Viện trưởng trở lại, và đòi huỷ chức ông Thế, thì Đức cha và Tổng thống sẽ xử cách nào?
Tôi, Đức cha và Tổng thống vì danh dự và tự ái mỗi người không thể thay đổi quyết định được. Như thế sinh viên lại càng bất mãn, và vụ lộn xộn càng nổ lớn thêm.
Vậy tôi nhờ hai cha về thưa lại với Đức cha điều đó và xin phép Đức cha cho tôi được nghỉ ở Đà Nẵng mấy hôm rồi vô Sài Gòn, còn về cái chức đại diện chính phủ VNCH tại UNESCO thì tôi xin cám ơn Đức cha và Tổng thống, nhưng không dám nhận, vì sau bảy năm làm Viện trưởng tôi đã ngao ngán và lo sợ trách nhiệm lắm rồi, nay chỉ muốn được yên ổn để lo việc đạo mà thôi.
Tôi ở Đà Nẵng được hai hôm nữa thì ông Cẩn sai Phan Quang Đông vào tìm gặp tôi và cho tôi biết rằng ông Nhu đánh điện ra cho ông Cẩn nói phải tìm mọi cách mời tôi ra Huế. Phan Quang Đông cũng cho tôi biết trong mấy ngày qua, phong trào sinh viên trở nên gay cấn, lộn xộn hơn, tuy chưa có đám biểu tình nào thật lớn, nhưng mầm chống đối trong dân chúng nay lại được các sinh viên tham dự gần như đồng loạt, cùng dâng cao hơn. Mọi nhà Phật tử đều đóng cửa cầu siêu cho Đại đức Tiêu Diêu tự thiêu ngày 18-8, tức là cùng ngày tôi ra đi khỏi Huế.
Tôi cũng trả lời tương tự như đã trả lời với Đức cha Thục.
Đêm 20-8 tại Đà Nẵng có cuộc biểu tình lớn của Phật tử. Cuộc biểu tình lan khắp các đường phố lớn. Nhiều vụ xô xát với cảnh sát xảy ra làm cho nhiều người bị thương ở cả hai phía Phật giáo và cảnh sát. Lệnh giới nghiêm được áp dụng tại Đà Nẵng. Cũng trong đêm này Cảnh sát chiến đấu đến bao vây lục soát chùa Xá Lợi lúc bấy giờ là trụ sở của Ủy ban liên phái Phật giáo. Những Phật tử tụ tập ở đây đã chống lại cảnh sát và gây ra nhiều cuộc xô xát.
Cảnh sát nổ súng làm nhiều người bị thương, và một số tăng ni, Phật tử bị bắt. Hoà thượng Thích Tịnh Khiết bị cảnh sát xô ngã bị thương ở mắt. Các chùa khác ở Sài Gòn như chùa Ấn Quang, Kỳ Viên Tự cũng bị lục soát. Gần sáng ông Diệm triệu tập hội đồng nội các, tuyên bố cần phải quyết liệt và cứng rắn đối với Phật giáo, vì có tin Việt cộng sắp lợi dụng các vụ lộn xộn này để gây loạn ở Thủ đô. Sáng hôm đó, ông Diệm ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn quốc, tuyên bố tình trạng khẩn trương, và giao trách nhiệm bảo vệ an ninh cho quân đội.
Hôm sau 21-8 tôi hay tin ông Vũ Văn Mẫu xuống tóc để phản đối sự đàn áp Phật giáo. Ngày 21-8 tôi vào Sài Gòn ở tại nhà ông Nguyễn Hạnh đường Hiền Vương. Tôi lại được tin Đại sứ Trần Văn Chương tại Hoa Thịnh Đốn được chấm dứt nhiệm vụ. Bà Ngô Đình Nhu lúc đó đi vòng quanh thế giới, đến đâu cũng tuyên bố những lời lẽ có luận điệu đả kích, thoá mạ Phật giáo và để cho cộng sản xách động các vụ tranh đấu của Phật giáo. Dư luận Mỹ và quốc tế lúc bấy giờ như tôi đã trình bày trước, hoàn toàn chống lại ông Diệm, và nhất là bà Nhu, cho nên những lời lẽ của bà Nhu, cũng như sự xuất hiện của bà càng làm cho dư luận quốc tế phản ứng bất lợi đối với chính phủ.
Tôi nhận được một điện tín của ông Trần Văn Chương báo tin cho tôi biết ông cũng bị giải nhiệm và chúc mừng tôi đã thoát khỏi cái “nợ”.
Thời gian mấy tháng ở Sài Gòn, tôi gần như bị canh chừng và bao vây. Lúc nào trước cửa nhà ông Hạnh cũng có một vài cảnh sát chìm và cảnh sát đồng phục lảng vảng. Tôi biết vậy nên chẳng đi đâu cũng không gặp ai. Chẳng phải tôi lo cho bản thân mà sợ phiền luỵ đến những người tôi gặp gỡ. Từ Đà Nẵng vào vài hôm, tôi đến gặp Đức khâm sứ của toà thánh.
Ngài cho biết rằng có lẽ nhờ sự can thiệp của Đức giáo hoàng nên có một lúc Tổng thống đã quyết định cho ông bà Nhu đi Pháp trong ít lâu, và thay đổi thành phần nội các, bãi bỏ những biện pháp cứng rắn đối với Phật giáo, nhưng sau một phiên họp hội đồng gia tộc thu hẹp, không có bà Nhu, ông Cẩn, chỉ có ba người là ông Diệm, ông Nhu và Đức cha Thục, Tổng thống đã quyết định dùng các biện pháp cứng rắn như đã ban hành ngày 21-8. Đức khâm sứ lấy làm tiếc về việc tôi bị giải chức. Nhưng ngài tỏ ra lo lắng hơn vì tình hình đất nước Việt Nam.
Đức khâm sứ toà thánh cho tôi biết rằng, theo nhận định của ngài thì chế độ họ Ngô khó thoát khỏi cơn thử thách định mệnh này, và để tránh những hậu quả tai hại cho đạo Công giáo, Đức khâm sứ đã mời Đức cha Thục đi La Mã sớm để dự cộng đồng Vatican mặc dù cộng đồng chưa khai mạc. Ngài cho tôi hay rằng trong trường hợp các cuộc hỗn loạn xảy ra Đức cha Thục khó có thể tránh được những tai hoạ khó lường, và trong trường hợp đó Toà thánh phải can thiệp. Nếu thành công Toà thánh cũng mang tiếng là dùng áp lực, nếu thất bại thì mất uy tín giáo hội.
Đức cha Thục được mời đi dự cộng đồng Vatican và ngài lên đường vào tháng 9, sang Romma rồi qua Nữu Ước phát một thông cáo biện hộ cho các biện pháp cứng rắn của chính phủ, nhưng dư luận Mỹ bấy giờ đã có thành kiến với ông Diệm cho nên chẳng có lời biện hộ nào thay đổi được chiều hướng dư luận. Đức Hồng Y Spellman ngày trước rất thân thiết với gia đình ông Diệm, và quen Đức cha Thục, cũng không tiếp. Trong thời gian này, tôi hay tin ông Đại sứ Henry Cabot Lodge đến sg làm đại sứ, thay thế Đại sứ Nolting bị triệu hồi về nước và hình như bị khiển trách là đã báo cáo sai lạc về chế độ ông Diệm.
Tất cả các trường học bị đóng cửa vô hạn định. Cũng trong thời gian này, tôi nằm nhà đọc sách, ngóng tin tức, và ngày nào cũng có nghe tin biểu tình lớn của sinh viên, Phật tử tăng ni trước chợ Bến Thành. Hơn ngàn người phần lớn các tăng ni trẻ bị bắt và đem giam tại trại huấn luyện Quang Trung.
Vấn đề Pháp tại Việt Nam được đưa ra trước Liên hiệp quốc và Đại sứ Bửu Hội đề nghị Liên hiệp quốc cử phái đoàn sang Việt Nam điều tra. Tình thế càng ngày càng gay cấn, và đến cuối tháng mười tất cả bảy vụ tự thiêu trên toàn quốc.
Thời gian này tôi không tiếp xúc với ai nhiều, nhưng vẫn để ý theo dõi tình hình và dư luận trong ngoài nước. Nếu tôi nhớ không lầm thì ngày 25-8 trong chương trình phát thanh của Đài tiếng nói Hoa Kỳ, Tổng thống Kennedy họp báo tuyên bố rằng muốn công cuộc ngăn chặn cộng sản tại Việt Nam hữu hiệu cần phải thay đổi chính sách, và không chừng, thay đổi hệ thống nhân sự lãnh đạo tại Sài Gòn. Cũng khoảng thời gian này, bà Ngô Đình Nhu họp báo tại Los Angeles tuyên bố rằng Mỹ đang dự định tổ chức một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm. Bà tố cáo rằng hiện thời ở Việt Nam bất cứ một cuộc đảo chánh nào cũng không thể thành công được trừ khi được Mỹ xúi giục và hậu thuẫn.
Những tờ báo Mỹ như News week, Business week, Washington Fost đề cập đến một cuộc đảo chánh do các tướng lãnh Việt Nam chủ mưu, hay thực hiện, có sự đồng tình của Bộ ngoại giao Mỹ. Tờ News week viết rằng không có gì bảo đảm, nếu Mỹ chủ mưu một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm hiện nay thì công cuộc chống cộng sẽ hữu hiệu hơn. Tạp chí Business week thì viết với tựa đề Mỹ sắp đào hố dưới chân chế độ ông Diệm, rằng có thể chúng ta (Mỹ) sẽ phải hậu thuẫn cho một cuộc đảo chánh bằng lực lượng quân sự. Hoa Thịnh Đốn đã ngỏ ý cách khác rõ ràng cho mọi người đủ hiểu rằng nơi này không còn ủng hộ ông Diệm nữa, bất cứ hành động nào âm mưu lật đổ chế độ Diệm đều được cứu xét với chiều hướng thiện cảm.
Tôi được nghe những tin đồn nói rằng Bộ ngoại giao Mỹ họp với một vài dân biểu và Thượng nghị sĩ Mỹ. Mỹ đang gây áp lực mạnh mẽ đối với Tổng thống Kennedy để xúi ông này bật đèn xanh cho phép nhóm Á Châu Sự vụ tại Bộ ngoại giao công khai hậu thuẫn một cuộc đảo chánh lật đổ ông Diệm.
Sự thành công của nhóm này được chứng minh bằng sự triệu hồi Đại sứ Nolting, giám đốc cơ quan Trung ương tình báo Mỹ CIA tại VN là ông Richarsdson về Hoa Thịnh Đốn, và thay thế bằng Đại sứ Lodge. Nhóm chủ trương loại trừ ông Diệm tại Bộ ngoại giao do các ông Roger Hilsman, Averell Harriman, Paul Mỹ Kattenburg. Đặc biệt ông Kattenburg, giám đốc Việt Nam Vụ tại Bộ ngoại giao Mỹ, trước đây từng là sĩ quan tình báo trong cơ quan tình báo quân đội OSS tại Á Châu vào năm 1955, đã chủ trương lật đổ ông Diệm một lần.
41. Cuộc đảo chánh và cái chết của Tổng thống Diệm
Theo một tài liệu được tiết lộ tại Quốc hội, thì từ khi trở lại chức vụ giám đốc Việt Nam vụ, ông Kettenburg chủ xướng một phong trào chống ông Diệm, gây ác cảm với ông Diệm trong hàng ngũ chính khách và Bộ ngoại giao Mỹ. Ông đã thành công ngoài sức tưởng tượng, nhờ những sự vụng về của ông Diệm trong vụ Phật giáo. Báo chí Mỹ khi nghe nói đến đàn áp tôn giáo thì lập tức có thiện cảm với kẻ bị đàn áp và chống lại chính quyền chủ trương đàn áp.
Một bằng chứng khác về thái độ ác cảm của Mỹ lúc bấy giờ đối với ông Diệm, là trước ngày đảo chính vài tháng Mỹ ngưng tài trợ cho LLĐB, do đại tá Lê Quang Tung chỉ huy, chỉ vì một lý do duy nhất là đơn vị thiện chiến này ủng hộ ông Diệm.
Mặt khác, Mỹ cũng ngưng viện trợ mười hai triệu Mỹ kim cho Việt Nam để mua thực phẩm và máy móc. Những hành động có tính cách áp lực của Mỹ lập tức gây ra những hậu quả trông thấy. Trước hết một số tướng lãnh, quân nhân cao cấp nhận thấy Mỹ đã bật đèn xanh cho họ tổ chức đảo chánh. Ngoài dân chúng, vật giá vọt tăng lên gây bất mãn nặng nề đối với chế độ hiện thời. Giá Mỹ kim đang ở khoảng 75$ Việt Nam tăng vọt giá gấp đôi, một Mỹ kim đổi được một trăm bảy mươi đồng Việt Nam.
Ông Diệm và ông Nhu biết những tin đồn về một cuộc đảo chánh, nhưng vẫn không tin rằng Mỹ chủ động.
Tuy nhiên hai ông cũng biết rằng ông đại sứ Henre Cabot Lodge lúc mới đến Sài Gòn, trước khi vào trình uỷ nhiệm thư đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo phong trào Phật giáo đấu tranh chống ông Diệm. Trong một cuộc tiếp xúc với ông Lodge, ông Diệm nêu lên những tin đồn về một cuộc đảo chánh và hỏi thái độ của Mỹ, của Toà đại sứ Mỹ trong trường hợp đó như thế nào. Ông Lodge đã trả lời cách mỉa mai rằng Toà đại sứ Mỹ lúc nào cũng sẵn sàng giúp ông bảo toàn tánh mạng và ra khỏi nước yên lành.
Đêm hai mươi bốn tháng tám, một điện tín khẩn của Bộ ngoại giao Mỹ theo lối ám hiệu phổ biến trên đài tiếng nói Hoa Kỳ: Nhờ bạn mua giùm một chai huyt-ki tại P.X, đó là ám hiện nói rằng ngày giờ hành động (đảo chánh) đã rất gần, hãy chuẩn bị gấp. Cũng trong chương trình phát thanh đó, đài tiếng nói Hoa Kỳ công khai xúi giục các đơn vị quân đội chống lại ông Diệm.
Hôm sau, ông Diệm điện mật cho các chỉ huy trưởng gởi kiến nghị và điện văn để chống lại lời xúi giục của Mỹ và lên tiếng ủng hộ ông.
Tôi vừa buồn phiền, vừa lo lắng khi nghe những tin tức trên đây, và mong muốn được hiểu rõ tình trạng trong nước hơn, nhưng như đã nói lúc này ông Diệm cho người canh chừng tôi, báo cáo lên ông Nhu và ông Diệm mọi sự đi lại của tôi nên tôi không thể đến gặp bất cứ ai, nhiều khi tôi muốn viết một bản điều trần thứ hai, cảnh giác ông Diệm một lần chót.
Nhưng tôi nghĩ rằng tôi đã làm hết sức mình. Ông Diệm đã nghe ý kiến tôi, bây giờ có nhắc lại những khuyến cáo chân thành trước, thì chỉ làm cho ông Diệm khó chịu mà chẳng ích lợi gì. Tôi cũng hết sức thất vọng từ khi nghe Đức khâm sứ nói chuyện với tôi và cho biết ông Diệm đã có thái độ và đường lối chủ trương cứng rắn, sau cuộc họp Hội đồng gia tộc thu hẹp.
Tôi chẳng còn biết làm gì hơn là ngồi nhà mở radio nghe đủ các đài và càng nhận thấy rõ ràng hơn là người Mỹ đã thực hiện lời đe doạ trước đây, nhắn nhủ qua tôi: cuối năm 1963 phải thanh toán ông Diệm thực sự.
Một sự nhầm lẫn tai hại khác của ông Diệm là đã chọn một vị tướng lãnh làm Tổng trấn Sài Gòn, lúc bấy giờ, vì tin tưởng vị tướng ấy trung thành tuyệt đối với ông, với chế độ. Quả thực lúc đầu tướng Đ. lên nắm quyền Tổng trấn chưa có ý nghĩ lật đổ ông Diệm.
Nhưng vào giữa tháng 10 khi tướng Đ. tìm cách đưa các đơn vị LLĐB của đại tá Lê Quang Tung đi xa Sài Gòn lấy cớ rằng các mặt trận khác cần đến LLĐB hơn là Sài Gòn vì tại Sài Gòn, ông đủ quân số thiện chiến và trung thành phòng ngừa mọi bất trắc, thì người ta thấy ngay sự thay đổi lập trường của tướng Đ.
Tôi nghe một nhà báo Mỹ nói rằng Mỹ và những kẻ chủ mưu đã tốn rất nhiều công khó và cơ mưu để thu phục tướng Đ về phe đảo chánh.
Tôi nghe một nhà báo Mỹ nói rằng, Mỹ và những kẻ chủ mưu một nhân viên C.I.A Mỹ đã tiếp xúc với một thầy tướng số mà tướng Đ rất tin nghe để ông thầy tướng này dùng tướng số bói toán lung lạc lập trường của tướng Đ. Người Mỹ đã nghiên cứu kỹ tính tình, tâm lý và gần như là một cuộc phân tâm học kỹ lưỡng cho tất cả các tướng lãnh Việt Nam có chức quyền thời bấy giờ, và đã dựa vào những hiểu biết tâm lý đó để xúi giục họ chống lại ông Diệm. Đại loại thì lúc bấy giờ ông tướng này cũng thấy mình nhỏ bé trước mặt ông Diệm, Đức cha Thục và cả bà Nhu và họ đã dùng những người thân cận để nịnh bợ, đề cao, xúi giục.
Một người Mỹ, sau ngày đảo chánh đã kể lại rằng những tướng lãnh Việt Nam rất tin tướng số. Người Mỹ biết điều đó đã khổ công mua chuộc các thầy tướng số được các tướng lãnh tin nghe để các ông thầy tướng nói cho họ rằng còn ông Diệm thì sự nghiệp quân sự và chính trị của họ khó mà thành công được.
Các thầy tướng tường thạo chữ nho, dùng lối chiết tự tên tuổi của các tướng lãnh, nói tên của những người trong gia đình họ Ngô, để chứng minh rằng trên cuộc đời của họ có một chướng ngại vật to lớn mà theo lối chiết tự, thì chướng ngại vật đó không ai khác hơn anh em ông Diệm. Từ chỗ đó gợi cho họ có ý phải loại trừ ông Diệm, quả thật chẳng khó khăn chi lắm. Người Mỹ cũng đã hết ủng hộ ông Diệm và bất cứ hành động chống đối ông Diệm nào cũng được Mỹ thuận tình.
Sau ngày Quốc khánh năm 63, tức là ngày 26-10, những tin đồn về các cuộc đảo chánh lại càng được loan truyền khắp nơi. Tôi chẳng đi đâu cũng được nghe đầy đủ những tin đồn đó. Hình như ngày 30 hay 31-10 tôi được một người quen cho biết các đơn vị LLĐB của đại tá Tung đã được lệnh của Tổng thống rời Sài Gòn gấp. Ngày 31-10 ông Diệm tuyên bố trả tự do cho tất cả những tăng ni Phật tử bị bắt trong các cuộc biểu tình và khám xét chùa chiền trước đây.
Điều kỳ cục là chính tin này đã làm cho cuộc đảo chánh xảy ra ngày hôm sau, 1-1. Điều đó nghĩ lại cũng dễ hiểu. Phe chủ trương đảo chánh có một số người Mỹ trong đó, lo sợ biện pháp hoà dịu của ông Diệm sẽ làm cho Phật giáo hết chống đối chế độ, và như thế đã gỡ được một cái ngòi chống đối, cho nên họ phải hành động gấp trước khi những kẻ bị bắt giam thật sự được phóng thích. Trước hành động này của ông Diệm hình như một số người Mỹ trong đó có đại sứ Lodge có vẻ bớt quyết liệt trong chủ mưu hạ ông Diệm.
Trong cuộc tiếp xúc cùng ngày 1-11-1963 giữa ông Diệm và ông Lodge và Đô đốc marry Felt, tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Viễn đông ở dinh Gia Long, ông Lodge đã nói rằng ông hy vọng tình hình chính trị sẽ được cải thiện. Đô đốc Felt rời Sài Gòn ngay sáng hôm đó, và hình như những người Mỹ tổ chức chương trình thăm viếng Đô đốc Felt muốn tránh cho ông trường hợp khó xử trên nếu ông ở lại thêm vài giờ. Điều này đủ chứng tỏ người Mỹ biết rõ cuộc đảo chánh sắp xảy ra trong ngày này.
Cuộc đảo chánh đã được quyết định vào ngày 1-11, thứ sáu nhằm lễ các Thánh giờ khởi sự định vào lúc 1 giờ 30 chiều. Trong sáng thứ sáu 1-11, dân chúng thấy nhiều đoàn xe nhà binh chở đầy lính tráng có súng ống chạy qua lại nhiều đường phố Sài Gòn.
Những việc tôi kể sau đây, đúc kết những tin tức, hiểu biết thu lượm về sau, về sự chính xác khó được hoàn toàn. Sáng 1-11, khoảng chín giờ, Đô đốc Hồ Tấn Quyền, Tư lệnh hải quân Việt Nam tiếp hai sĩ quan thân cận đến chúc mừng ngày sinh nhật của ông.
Mở đầu câu chuyện hai người này yêu cầu ông Quyền theo phe Cách mạng, nhưng ông Quyền từ chối và đã bị bắt lên xe hơi đem ra ngoại ô thủ tiêu ngay lập tức. Tuy vậy Hải quân vẫn trung thành với ông Diệm.
Vào trưa ngày thứ sáu, các đơn vị tham gia cuộc đảo chánh đã chiếm giữ các vị trí then chốt trong và quanh đô thành bao vây dinh Gia Long, thành Cộng Hoà, tức là căn cứ của Liên binh phòng vệ phủ Tổng thống, tiếng súng đầu tiên nổ khoảng 1 giờ 30. Chỉ có hai nơi chống trả thật sự là Bộ Tư lệnh hải quân ở bến Bạch Đằng và thành Cộng Hoà.
Vào lúc gần 5 giờ chiều, đài phát thanh Sài Gòn loan tin cuộc đảo chánh và đọc đi đọc lại nhiều lần tuyên ngôn của phe đảo chánh. Lúc đó ông Diệm điện thoại cho đại sứ Lodge báo tin rằng một vài đơn vị quân đội nổi loạn và hỏi thăm thái độ của Mỹ đối với vụ này ra sao. Ông Lodge trả lời lạnh lùng rằng: ông đang nghe một vài tiếng súng ngoài đường phố, và nếu ông Diệm cần được bảo đảm sự an toàn sinh mạng thì ông có thể cho một trực thăng đến chở hai anh em ông đến Toà đại sứ, lên Tân Sơn Nhất đi ngoại quốc. Nghe đâu ông Diệm và ông Nhu đã giận dữ nói rằng: ông sẽ dẹp tan đám quân nổi loạn hôm nay như đã làm lần trước 11-11-1960. Ông Lodge nhắc lại rằng nếu ông Diệm và ông Nhu cần giúp đỡ để bảo vệ sinh mạng và ra ngoại quốc thì lúc nào ông cũng sẵn sàng.
Vào sẫm tối khoảng 8 giờ chiều anh em ông Diệm thoát ra ngõ sau dinh Gia Long, nghe nói theo một đường hầm từ dinh trổ ra một căn nhà ở đường Lê Thánh Tôn, rồi dùng xe hơi mang bảng số đến nhà Mã Tuyên. Tại đây ông Diệm và ông Nhu vẫn chưa hiểu rõ tình hình, tin tưởng rằng tướng Đ. vẫn còn trung thành và gọi điện thoại cho tướng Đ. nhiều lần.
Lần cuối tướng Đ. đã xẵng giọng trả lời ông đã cứu thoát ông Diệm nhiều lần, nhưng lần này thì không thể được. Có lẽ chính những lần gọi điện thoại đã giúp cho phe đảo chánh biết được nơi ẩn nấp của ông Diệm và ông Nhu. Sáng ngày thứ bảy 2-11, ông Diệm và ông Nhu vừa từ nhà Mã Tuyên đến nhà thờ Thánh Phan-Xi-Cô Xa Vi Ê còn được gọi là nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn được vài phút thì ba xe thiết giáp đến bao vây nhà thờ.
Tướng Mai Hữu Xuân đích thân chỉ huy cánh quân này cùng với thiếu tá Nguyễn Văn Nhung, tuỳ viên của tướng Dương Văn Minh.
Quân đảo chánh ập vào nhà thờ, bắt trói anh em ông Diệm kéo lên xe thiết giáp. Những chuyện xảy ra sau đó được kể lại tuỳ theo từng nhân chứng, có nhiều chi tiết mâu thuẫn.
Trong ngày thứ bảy 2-11, đài phát thanh loan tin anh em ông Diệm tự tử sau khi bị bắt. Sau đó lại có bản tin nói rằng ông Nhu đã chống cự, xỉ vả quân cách mạng gây một cuộc xô xát nên bị bắn chết và cái chết xảy ra như một tai nạn vô tình.
Khi xác chết anh em ông Diệm được đưa vào nhà thương Saint-Paul thì dây trói quặt cánh khuỷu hai người vẫn còn nguyên.
Trên ngực ông Nhu có nhiều vế thương sâu do dao đâm vào và một vết đạn súng lục trên đầu. Trên thân thể ông Diệm, chỉ có một vết thương ở đầu.
Một người lính thiết giáp kể rằng ông Nhung (thiếu tá) vốn có một người bà con theo đảng Đại Việt bị bắt và xử tử hay thủ tiêu trong thời kỳ cực thịnh của chế độ họ Ngô, đã cãi vả mắng chửi ông Nhu.
Ông Nhu nhìn ông Nhung cách lạnh lùng, khinh bỉ, và nói vài tiếng tỏ ý khinh miệt.
Ông Nhung đã giật súng có gắn lưỡi lê của một người lính thiết giáp đâm ông Nhu nhiều lát sau lưng, rồi ông Nhu ngã gục nhưng vẫn chưa chết ngay, thì ông Nhung bắn một phát đạn súng lục vào đầu. Các cuộc khám nghiệm sau đó và các phóng ảnh cho thấy ông Nhu bị nhiều vết thương do vật bén nhọn đâm từ lưng trổ ra bụng, và một vết đạn ở đầu.
Sau khi ông Nhu bị đâm nhiều lát, ông Nhung đã bắn một phát súng lục vào đầu ông Diệm, và phát đạn này kết liễu cuộc đời ông Diệm ngay lập tức.
Một người khác kể thêm rằng, khi bắt được hai anh em ông Diệm trói quặt cánh khuỷu, dẫn từ trong nhà thờ ra xe thiết giáp, tướng Mai Hữu Xuân đã đánh điện về các tướng lãnh tại Bộ Tổng tham mưu chỉ huy cuộc đảo chánh xin chỉ thị, sau một lúc bàn cãi, các tướng lãnh đã bỏ phiếu với đa số quyết định phải thủ tiêu ông Diệm gấp, vì lo sợ nếu để ông Diệm sống sót, thì một số đơn vị quân đội có thể ủng hộ ông chống lại phe đảo chánh.
Hiện nay về cái chết của anh em ông Diệm, nhiều người trong cuộc biết rõ, nhưng phần lớn đang sống nên không ai chịu nói ra, vì vậy nhiều bí mật vẫn còn bao trùm xung quanh. Một điều làm tôi chua xót là chuyện ông Cẩn.
Ông Cẩn khi hay tin hai ông Diệm và Nhu bị giết, đã liên lạc với Toà lãnh sự Mỹ tại Huế xin được tị nạn trong Toà lãnh sự Mỹ nhưng đã bị từ chối và hình như chỉ thị từ chối từ Toà Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn gởi ra.
Lúc bấy giờ ông Cẩn đã đến ẩn núp tại dòng Chúa cứu thế ở Huế, và các Cha dòng Chúa cứu thế muốn cho ông Cẩn được an toàn tính mạng đã xin cho ông Cẩn được tị nạn trong Toà lãnh sự Mỹ.
Toà lãnh sự Mỹ điện cho Toà Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn, và một máy bay Mỹ ra Huế chở ông Cẩn vô Sài Gòn tưởng là để cho ông Cẩn tị nạn tại Toà Đại sứ, chờ cơ hội ra khỏi nước nhưng sự kiện đau đớn là Toà Đại sứ Mỹ đã giao ông Cẩn cho phe đảo chánh. Về trách nhiệm của Mỹ trong vụ đảo chánh này tôi xin ghi lại một đoạn trong những lời tiết lộ của ông Nhu với nữ ký giả Sugan Lebin:
“Ông Lodge luôn luôn hành động chống lại chúng tôi, với một thành kiến bất di bất dịch mà quan thái thú tại một xứ bảo hộ có thể có được, trước đây ba mươi năm đối với một xứ bảo hộ. Mặc dù Tổng thống Ngô Đình Diệm cố gắng hết sức để chứng minh rằng mỗi cái trò chơi của ông Lodge chắc chỉ có thể làm lợi cho Cộng sản, và đang rơi vào bẫy của Cộng sản nhưng càng cố gắng chứng minh sự thật, thì ông Lodge lại càng hiểu ngược ý chúng tôi.
Ông Lodge đã có gan buộc tôi và vợ tôi rời khỏi Việt Nam. Cô thử tưởng tượng nếu Đại sứ Việt Nam tại Hoa Thịnh Đốn lên tiếng buộc Tổng thống Kennedy phải ra lệnh cho bào đệ của ông là TNS Robert Kennedy và em dâu phải rời Mỹ, thì phản ứng của gia đình Kennedy sẽ như thế nào?
Theo những gì chúng tôi được nghe, được thấy, thì ông Đại sứ Lodge không hề làm phận sự một Đại sứ tại quốc gia độc lập đồng minh, là nâng cao tinh thần chiến đấu và hợp tác của quân đội Mỹ được gởi đến đây giúp chúng tôi chống Cộng sản mà ông ta chỉ lo việc âm mưu chống lại chính phủ hợp pháp mà ông đã đến trình uỷ nhiệm thơ…”
Nhìn lại tấn tuồng đảo chánh những việc trước và sau đó chúng ta không khỏi bùi ngùi cho số phận một dân tộc nhược tiểu, mang tiếng độc lập, nhưng mối dây cai trị đều trong tay một thế lực ngoại quốc.
Sau ngày lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, những xáo trộn và hỗn loạn chính trị, xã hội đã xảy ra đúng như sự lo sợ của tôi. Một vài người biết sự bạc đãi của ông Diệm đối với tôi trong ngày cùng của chế độ, đã đến gặp tôi gần như để chia mừng. Có người nói với tôi: Những điều Cha cảnh cáo cụ Ngô bây giờ xảy ra đúng như tiên tri, có lẽ Cha hài lòng lắm. Tôi đã cau mặt xin người đó đừng nói vậy, vì dù sao thì ông Diệm đối với Tôi cũng có mối tình tri ngộ, tình bằng hữu.
Tôi không hề mong cho ông Diệm và các chế độ của ông sụp đổ mà chỉ mong sao cho ông và chế độ của ông tránh được những lầm lỗi để tồn tại, hướng dẫn dân tộc Việt Nam qua đại nạn. Tôi đau xót nhiều hơn là hài lòng vì mình biết rằng những điều phải xảy ra.
Vài ngày sau khi hay tin ông Diệm mất, tôi được biết những đứa con của ông Nhu còn được phe cách mạng giam giữ.
Chính thức tôi không có tư cách gì để can thiệp nhưng tôi đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo Công giáo trong đó có Đức Khâm sứ Toà thánh, để ngỏ ý nhờ ngài can thiệp cho những đứa con của ông Nhu được gởi sang La Mã gặp bà Nhu. Hình như lúc bấy giờ phe cách mạng đang gặp những phản ứng bất lợi của giới ngoại giao tại Sài Gòn, và dư luận thế giới cho nên muốn có cơ hội xoa dịu sự phẫn nộ của giới ngoại giao và dư luận thế giới bằng hành động nhân đạo.
Việc cho phép các con ông Nhu đi ngoại quốc đã được coi như cơ hội chuộc tội và phe cách mạng đã cho các con ông Nhu ra ngoại quốc một cách dễ dàng.
Những ngày đầu tháng 11 thỉnh thoảng tôi ra đường nhìn cảnh tượng sinh viên dân chúng hân hoan chào mừng những đơn vị tham dự đảo chánh, hò reo ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh, tôi thấy lo hơn mừng. Tôi biết phản ứng của đám đông, nhiều khi chân thành nhưng sai lầm, thiếu thận trọng và đắn đo. Sự bồng bột của đám đông là sức mạnh lớn, đáng sợ nhưng khó bền bỉ nếu không được nuôi dưỡng và sẽ rất nguy hiểm, nếu bị hướng dẫn sai lầm. Tôi lo sợ những phản ứng quá khích của dân chúng và phe cách mạng sẽ đạp đổ mọi công trình xây dựng của ông Diệm, kể cả những việc làm chính đáng hữu ích cho dân tộc.
Tôi nghe kể những màn cướp giựt, hôi của dinh Gia Long, những cảnh đốt phá đối với vài cơ sở được coi là của chế độ cũ hay thân chế độ cũ mà ngao ngán.
Tôi lại nghe một tướng lãnh cầm đầu phe cách mạng tuyên bố rằng ấp chiến lược không cần thiết, không ích lợi, những hàng rào quanh ấp chiến lược là hàng rào nhà tù.
Không cần ông phải ký sắc lệnh cho phép dân chúng phá các hàng rào ấp chiến lược thì các cán bộ nằm vùng của Cộng sản cũng dựa lời tuyên bố vội vàng hớ hênh đó, giải thích sai lạc thêm lời tuyên bố đó, để mở ra một phong trào phá bỏ ấp chiến lược, gỡ rào, san bằng hào luỹ giải giới thanh niên chiến đấu. Nhiều ấp chiến lược trước đây lập được những thành tích ngăn chận Cộng sản hữu hiệu, nay thanh niên chiến đấu và cán bộ công dân lo sợ bị tân chế độ đàn áp bắt bớ, vứt súng bỏ trốn, bỏ ngỏ các ấp chiến lược lại cho du kích Việt cộng và các cán bộ nằm vùng. Việt cộng xúi dân nổi lên phá hàng rào, san luỹ, giải giới thanh niên chiến đấu, mở ngỏ đón bọn Cộng sản nằm vùng. Nhiều ấp chiến lược kiểu mẫu, qui tụ phần lớn giáo dân trở thành nạn nhân đầu tiên của phong trào sai lầm này.
Tại thành phố Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế một vài hành động kỳ thị tôn giáo được khai thác, thổi phồng. Những đám đông Phật giáo quá khích suy luận sai lầm, qui tội lỗi cho Công giáo rục rịch kéo đến xóm đạo mở đầu những cảnh đốt phá hành hạ đàn áp giáo dân.
Rất may uy tín và uy quyền của Mỹ tại Việt Nam còn rất mạnh, và các tướng lãnh thuộc phe đảo chánh cũng rất sợ dư luận Mỹ cho nên đã kịp thời ngăn chận những vụ kỳ thị tôn giáo vừa phát khởi, như vụ lộn xộn ở khu trường Nguyễn Bá Tòng, Thanh Bồ, Đức Lợi. Tuy vậy một bàn tay bí mật nào đó có thể là Cộng sản đã cố tình thổi phồng sự kỳ thị tôn giáo, gây thêm hiềm khích và chia rẽ giữa người Công giáo Việt Nam và dân chúng Việt Nam không Công giáo.
Cũng rất may các lãnh tụ Phật giáo nhiều lần chính thức lên tiếng khuyên ngăn những vụ kỳ thị do các đám đông quá khích gây ra ở một vài nơi. Nhờ những điều đó mà nạn kỳ thị tôn giáo, bắt bớ người công giáo đã không xảy ra quy mô và toàn diện như lo sợ của tôi.
Cũng vài hôm sau tôi hay tin ông Cẩn trước trốn vào dòng Chúa cứu thế rồi đến tị nạn tại Toà lãnh sự Mỹ tại Huế và được một máy bay riêng của Toà đại sứ Mỹ tại Sài Gòn ra đón vào Sài Gòn.
Tôi đã biết vị Đức Khâm mạng Toà thánh can thiệp với ông Đại sứ Mỹ, xin cho ông Cẩn thoát chết, và được ông Lodge cam đoan sẽ bảo đảm sinh mạng cho ông Cẩn, nên tôi đinh ninh ông Cẩn vào Sài Gòn rồi sẽ được giam trong ít lâu và sẽ được phép lưu vong.
Vì nhân đạo cũng như vì thân thiện giữa tôi và ông Cẩn, tôi rất lo lắng cho tánh mạng của ông. Nhưng lúc này tôi không biết làm cách nào để giúp đỡ ông. Tôi chỉ còn biết tìm gặp một vài người trong tân chế độ trình bày cho họ hiểu ông Cẩn không có tội lỗi và trách nhiệm gì lớn lao nào trong vụ đàn áp Phật giáo miền Trung, trái lại như tôi đã trình bày trước, ông Cẩn đã hết sức can thiệp với chánh quyền địa phương cũng như Đức cha Thục để ngăn ngừa những hành động sai lầm của chánh quyền địa phương và Trung ương đối với Phật giáo.
Tôi nhận thấy ông Cẩn là một người không đến nỗi xấu xa gì hơn ai, và dù sao thì với hai cái chết của ông Diệm và ông Nhu, những người của tân chế độ không nên mang thêm một cái chết thứ ba của ông Cẩn vào lương tâm. Tôi trình bày những sự lợi hại đó với một vài người của tân chế độ để yêu cầu họ suy xét kỹ lưỡng trước khi có quyết định nào đối với tánh mạng ông Cẩn.
42. Tôi trở lại Huế
Sự việc đang ở chỗ đó thì tôi được tin một Ủy ban đại diện các sinh viên và giáo sư Đại học Huế vào Sài Gòn gặp tôi. Trước hết họ trình bày sự kính mến của họ đối với tôi, và yêu cầu tôi trở lại giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế.
Tôi cũng hơi vui mừng vì nhận thấy những việc làm của mình suốt thời gian làm Viện trưởng Đại học Huế ít ra còn để lại một số tình cảm tốt đẹp cho sinh viên và giáo sư Huế.
Nhưng thật tình tôi đã mệt mỏi lắm, và cũng không muốn mang tiếng là một người phục vụ chế độ ông Diệm, nay ông Diệm mới khuất, chế độ mới đổ mà tôi đã vội vàng nhận sự ưu đãi của tân chế độ, của những người lật đổ ông Diệm.
Dĩ nhiên là những ưu tư này tôi không thể trình bày thẳng với phái đoàn đại diện Viện Đại học Huế được, tôi tìm cách từ chối khéo và nói với họ:
-Các anh em có lòng tốt tưởng nhớ đến tôi, làm tôi rất cảm động và ghi nhớ tấm lòng đó của anh em. Nhưng quyền làm Viện trưởng hay không, thì không ở trong tay tôi. Tôi là một công dân Việt Nam. Trước đây ông Diệm với tư cách Tổng thống Việt Nam yêu cầu tôi giữ chức Viện trưởng thì tôi nhận và hết lòng làm việc cho Viện Đại học Huế lớn mạnh. Nay quốc gia chúng ta có một chính quyền mới, thì sự quyết định cử tôi làm Viện trưởng hay cử ai khác thay thế ông Viện trưởng Trần Hữu Thế là quyền của chính quyền đó. Anh em đến thăm tôi thì tôi xin cám ơn và gửi lời cám ơn tất cả anh em sinh viên, khoa trưởng, giáo sư Viện Đại học Huế, nhưng việc nhận chức Viện trưởng như lời yêu cầu anh em thì không thuộc quyền tôi, vậy các anh em nên nói với những người hữu trách trong tân chế độ thì hơn.
Tôi hiểu một vài người bạn, hoặc quen biết nghĩ rằng tôi đã được ông Diệm tin dùng thì nên giữ tiết tháo, đóng cửa nằm nhà đọc sách lo việc đạo thì hơn là trở ra làm việc với chính quyền mới. Một vài người theo quan niệm ấy đã gửi nhắn lời đến can gián tôi, khi hay tin có một phái đoàn đại diện Đại học Huế vào tiếp xúc với tôi. Những lời can gián đó cũng làm tôi suy nghĩ khá nhiều và quả thực tôi do dự. Nhưng tôi đinh ninh rằng tân chính phủ không hề nghĩ đến việc cử tôi làm Viện trưởng Viện Đại học Huế lần thứ hai.
Tuy nhiên tôi cũng lo lắng đến những xáo trộn ở Huế, những kỳ thị tôn giáo có thể xảy ra ở vùng miền Trung nơi mà tâm lý dân chúng có những phản ứng quá khích. Tôi nghĩ rằng nếu trở lại chức vụ Viện trưởng Đại học tôi có thể chứng minh được rằng trước cũng như bây giờ, đạo công giáo không hề có chủ trương kỳ thị tôn giáo.
Tôi cũng hy vọng với những cảm tình mà sinh viên Đại học Huế dành cho tôi, tôi có thể ngăn chận được phần nào cái hoạ kỳ thị tôn giáo. Tôi biết ở Huế sinh viên đóng vai trò hết sức quan trọng trong sinh hoạt xã hội và chính trị, cho nên nếu sinh viên Huế không gia nhập vào các hoạt động kỳ thị tôn giáo thì quần chúng Huế sẽ khó gây ra những vụ kỳ thị đáng kể nào.
Những điều này tôi chưa nói ra, mặc dầu đến nay vẫn còn nhiều người trách tôi đã nhận chức Viện trưởng Viện Đại học Huế lần thứ hai, do chính quyền cách mạng bổ nhiệm. Bây giờ chúng tôi nói ra không phải để biện hộ cho mình, nhưng chỉ để nói lên một nỗi ưu tư của tôi.
Sau khi nghe tôi trình bày như vậy, phái đoàn Đại học Viện Đại học Huế lên gặp các tướng lãnh phe cách mạng và tân Thủ tướng Nguyễn Ngọc Thơ. Ít hôm sau tôi được ông Nguyễn Ngọc Thơ mời lên gặp và chính thức yêu cầu tôi trở ra Huế giữ chức Viện trưởng Viện Đại học Huế.
Trong những câu chuyện ông Thơ cũng tỏ ý lo lắng rằng, nếu sinh viên Huế không có một vị Viện trưởng có uy tín hướng dẫn, thì có thể tham gia vào những phong trào kỳ thị tôn giáo gây ra không biết bao nhiêu tang thương cho đất nước và khó khăn cho chính phủ. Đại tướng Dương Văn Minh cũng mời tôi vào gặp riêng và ông cũng tỏ ý lo sợ tương tự như ông Thơ. Những lời nói của hai vị này làm tôi suy nghĩ thêm và ảnh hưởng đến quyết định và nhận lời yêu cầu của họ.
Tôi chưa ra Huế liền, mặc dầu ít hôm sau khi tiếp xúc với ông Thơ và tướng Minh đã có sắc lệnh bổ nhiệm tôi làm Viện trưởng Viện Đại học Huế. Tôi đi gặp các Đại sứ ngoại quốc tại Sài Gòn và ông Giám đốc phái bộ viện trợ Mỹ.
Trước hết tôi đến gặp Đại sứ Đức là ông Von Wenland. Ông này phàn nàn về cái chết của ông Diệm và ông Nhu. Tuy nhiên ông biết ông Diệm và chế độ của ông không tránh khỏi một vài tiếng khiếm khuyết nhưng không ai có thể phủ nhận những thiện chí của ông Diệm đối với quốc gia.
Cái chết của ông Diệm làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Tôi còn nhớ một đoạn trong câu chuyện của ông Đại sứ Đức:
- Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đây linh hồn ông Diệm sẽ phảng phất nơi đây và sẽ gieo nhiều tai hoạ cho xứ sở mình. Mặt ông đượm buồn và giọng ông hết sức chua chát. Ông cho biết ông đã đệ đơn từ chức và sẽ rời Việt Nam trong ít lâu. Nghe vậy tôi không còn đề cập đến việc yêu cầu nước Đức giúp đỡ cho Viện Đại học Huế nữa.
Người thứ hai mà tôi gặp là Giám đốc viện trợ Hoa Kỳ. Ông hỏi tôi về cảm tưởng đối với cuộc cách mạng vừa qua, và những nhận định của tôi đối với tương lai đất nước tôi. Lúc bấy giờ báo chí Mỹ bắt đầu phân chia làm hai khuynh hướng chớ không thuần nhứt một chiều chỉ trích ông Diệm như trước. Cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay trở lại có cảm tình với ông Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế ông Diệm cũng dần dần hiện rõ và người Mỹ thấy bộ mặt thật đó chẳng đẹp đẽ gì hơn.
Những người Mỹ trong đó có cựu Đại sứ Nolting, tướng Harkine, ông Richardson giám đốc Trung ương tình báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1-11 chẳng những sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt quân sự Quân đội Việt Nam mải lo canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho Việt cộng.
Lúc bấy giờ có thể nói rằng chính quyền Việt Nam chỉ kiểm soát được vài thành phố lớn. Và cũng chỉ kiểm soát được một cách lỏng lẻo. Các đảng phái vận động tìm chỗ đứng trong tân chế độ và chỉ vận động bằng cách liên kết với các tướng lãnh cách mạng mà không nghĩ đến việc tổ chức quân chủng. Sau cuộc cách mạng, Phật giáo bắt đầu bất mãn vì nghĩ rằng họ có công nhiều mà không được trọng vọng xứng đáng. Tổ chức Phật giáo còn quá mới mẻ, thời kỳ tranh đấu quá ngắn ngủi chưa kịp ra ánh sáng, chưa có một số lãnh tụ chính trị đáng giá nào cho nên giả sử lúc bấy giờ chính quyền được giao cho Phật giáo thì tình hình Việt Nam, có lẽ còn bi đát gấp mấy lần giao cho tướng lãnh.
Dựa trên những điều quan sát được kể đó, các chính khách Mỹ và dư luận báo chí Mỹ đã bắt đầu hối hận đã hạ bệ ông Diệm. Ít lâu sau cách mạng Đại sứ Nolting có trả lời một cuộc phỏng vấn và viết một tờ báo nhận định rằng rồi đây sẽ không có một nhân vật chính trị nào có khả năng thay ông Diệm để lãnh đạo dân tộc Việt Nam trong công cuộc chống Cộng.
Ông nhận định rằng người Mỹ đã phạm vào một lầm lỗi rất nặng khi hạ bệ ông Diệm, hoặc ít ra để cho chuyện hạ bệ này xảy ra trước mắt mình, và nhìn hành động này với đôi mắt đồng loã.
Những báo chí Mỹ trước đây chỉ trích ông Diệm nặng lời bao nhiêu bây giờ sự thật đã hiện rõ cũng bắt đầu chỉ trích tân chế độ bấy nhiêu. Lúc ông Giám đốc viện trợ Mỹ hỏi tôi về cuộc cách mạng ông đã biểu lộ sự lúng túng, lo sợ của số người Mỹ trước những bất ngờ sắp đến.
Tôi hỏi lại ông, thế thì người Mỹ nghĩ như thế nào, tiên liệu như thế nào, dự đoán như thế nào. Nhưng tôi biết có hỏi cũng vô ích, vì ông sẽ trả lời mập mờ, nước đôi, đưa ra những nhận định tổng quát của báo chí Mỹ.
Điều đó, như tôi đã trình bày trên, chia làm hai khuynh hướng, một khuynh hướng đông đảo tỏ ra hối hận vì đã xảy ra cuộc cách mạng, và một khuynh hướng khác tiếp tục ca tụng cách mạng một cách dè dặt, ngượng ngùng, gượng gạo.
Nghe ông hỏi tôi về cảm tưởng nhận định của tôi đối với cuộc cách mạng tôi mỉm cười chua chát:
- Tôi không có cảm tưởng gì đặc biệt, hay nhận định gì lạ lùng hết, vì tôi đã đoán trước những gì xảy ra và cũng đoán được những thế lực nào ở đằng sau gây ra. Tôi cũng làm hết mọi cách để ngăn chận những tai nạn cho ông Diệm, đưa những đề nghị chân thành lên ông Diệm nhưng tất cả nỗ lực của tôi vô ích. Ngày xưa, lúc mới về nước, ông Diệm tin cậy và sáng suốt nghe lời khuyên của tôi bao nhiêu, thì về sau này có vẻ không muốn nghe lời khuyên của tôi bấy nhiêu. Tôi sợ rằng chỉ trong một tương lai gần tình hình Việt Nam sẽ hỗn loạn. Dân chúng sau thời gian ngắn say sưa vì thành công, náo nức vì mới lạ, hứng khởi vì hy vọng, sẽ bắt đầu thất vọng, quay lại khiển trách tân chế độ và tiếc đã mất ông Diệm. Hẳn là ông nhớ câu chuyện cổ Hy Lạp: Một người dân dưới một chế độ độc tài vào đền thờ thần Jupiter cầu nguyện cho nhà độc tài sống lâu, làm một triết gia ngạc nhiên hỏi lý do. Người dân trả lời: tôi đã lớn tuổi, và đã sống dưới quyền ba nhà độc tài liên tiếp. Kinh nghiệm cho tôi biết kẻ đến sau bao giờ cũng bạo ngược hơn người trước, cho nên tôi lo sợ nếu nhà độc tài ngày nay mà chết thì kẻ thay thế ông ta sẽ còn độc tài hơn ông này vài phần, và khi đó không ai sống nổi với ông. Vì đó trí thức không mong ông chết để có ông mới…
Hai chúng tôi nhìn nhau chua chát. Tôi nói tiếp:
- Tôi quan niệm quốc gia Việt Nam chúng tôi như một cơ thể, hay ít ra chính quyền Việt Nam này như một cơ thể, mà ông Diệm là cái đầu, những kẻ phụ tá ông là những tay chân, những bộ phận trong cơ thể, và một chứng bệnh kỳ quái nào đó, những tay chân và những bộ phận trong cơ thể nổi loạn chặt cái đầu đi, thì dĩ nhiên là tay chân và các bộ phận khác không còn người chỉ huy, sẽ hành động rối loạn đấm đá lẫn nhau. Rồi các ông sẽ thấy, những tướng lãnh, những chính khách cầm quyền thay ông Diệm sẽ nghi kỵ lẫn nhau, thanh toán nhau, tranh giành nhau và gây thêm nhiều xáo trộn chính trị mới, nhiều hỗn loạn xã hội mới. Tôi là kẻ tin vào những uy lực thiêng liêng, nên tôi cho rằng không một việc làm nào dựa trên cái chết của kẻ khác, nhất là cái chết của chủ mình, thầy mình mà có thể tốt đẹp được. Dân chúng Việt Nam lên án nặng nề những kẻ phản vua phản thầy. Hay những kẻ dự phần vào cuộc đảo chánh cũng sẽ mang nặng cái mặc cảm đó, và sẽ lúng túng trong những nỗ lực để chạy tội mà không làm được gì khá. Họ sẽ mất tự tin, bị dằn vặt bởi những hối hận, những mặc cảm tội lỗi vì hầu hết họ đều được ông Diệm đào tạo nên, đưa từ chỗ tối tăm lên địa vị cao sang, cho nên cái bóng lớn của ông Diệm không thể nào phai nhoà trong tâm trí họ được, dù thân xác ông Diệm đã tan rã. Lãnh đạo mà thiếu tự tin thì làm sao gây tin tưởng cho dân chúng được?
Người Mỹ đối diện với tôi gật gù có vẻ đồng ý. Tôi trầm ngâm một lúc rồi tiếp:
- Những việc vừa xảy ra được đặt tên là một cuộc cách mạng, nhưng như ông thấy và mọi người Việt Nam chúng ta đều thấy không có gì đáng được gọi là một cuộc cách mạng hết. Những căn bản xã hội không thay đổi. Những tệ đoan xã hội không bị bãi bỏ, trái lại sẽ trầm trọng hơn, những bất công và chênh lệch xã hội sẽ nặng nề hơn. Tục ngữ Việt Nam chúng tôi có câu: Đục nước béo cò. Những hỗn loạn sắp tới sẽ làm cho tình hình trong nước chúng tôi chẳng khác nào một vũng nước đục, làm cho những con cá nhỏ, những người dân nghèo đói thiệt thòi hơn và đó là cơ hội tốt nhất để bọn hoạt động chính trị, bọn con buôn chiến tranh lợi dụng làm giàu, bóc lột. Những kẻ thay thế ông Diệm ngày nay không có tư tưởng, chính sách, sáng kiến gì khác hơn ông Diệm, trái lại những việc làm của họ chỉ là những học hỏi từ ông Diệm, và học hỏi không thuộc kỹ, áp dụng sai lầm. Dân chúng nhìn vào những người đó chẳng hạn ông Nguyễn Ngọc Thơ, Thủ tướng hiện nay, đã là một Phó Tổng thống vô quyền dưới thời ông Diệm và sẽ không thấy có gì mới lạ, gây được phấn khởi, hào hứng. Dân chúng sẽ nghĩ rằng đây là cái phần xấu, coi phần tệ của ông Diệm được dịp đem ra chưng bày, và tai hại hơn nữa, không còn ông Diệm để lãnh đạo và dạy bảo họ. Những thành phần chính phủ là những chuyên viên hạng hai nếu không nói là còn tệ hơn thế. Trước đây họ giữ chức giám đốc trong một chế độ trung ương tập quyền, nghĩa là họ không hề có dịp đưa ra sáng kiến, mà chỉ ngoan ngoãn thi hành lệnh. Nay họ làm bộ trưởng làm sao để một sớm một chiều họ có thể có khả năng đảm trách chức vụ mới? Dân chúng Việt Nam nhìn vào họ làm sao có thể tin tưởng họ làm được gì khác hơn chế độ cũ. Vì những lý lẽ trình bày trên, tôi tin chắc rằng chế độ gọi là cách mạng này sẽ không làm được gì tốt, và tình hình chung sẽ không sáng sủa hơn chút nào. Những mong ước mà dư luận và báo chí Mỹ đặt vào cuộc đảo chánh sẽ không thành tựu được. Người Mỹ rồi sẽ còn hối hận và tiếc đã mất ông Diệm hơn dân chúng Việt Nam nhiều.
Ông Giám đốc viện trợ Mỹ nghe tôi nói vậy có vẻ suy nghĩ lắm, một lúc sau ông gọi điện thoại cho ông Đại sứ Henry Cabot Lodge, và dứt cuộc điện đàm ông cho tôi biết rằng Đại sứ Lodge rất muốn gặp tôi. Tôi về nhà được mấy tiếng đồng hồ, chỉ chiều đó có người đại diện của Toà đại sứ Mỹ đến nói là ông Lodge muốn gặp tôi ngay và xe đã chờ sẵn.
Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông Lodge. Nét mặt, dáng điệu của ông làm cho tôi nhớ đến hình ảnh một “Businessman” thành công đầy tự tin khinh bạc và kiêu ngạo, tuy nhiên bề ngoài và trong lời ông hết sức niềm nở, cởi mở, vui vẻ. Câu chuyện giữa tôi và ông Lodge cũng bắt đầu như câu chuyện với ông Giám đốc viện trợ Mỹ, nhưng tôi trình bày các nhận định của tôi cặn kẽ hơn.
Cuối cùng ông Lodge có vẻ thành khẩn tha thiết hỏi tôi:
- Theo ý cha thì bây giờ chúng ta phải làm cách nào để thành công, để thoát qua những khó khăn mà cha nêu lên?
Tôi mỉm cười:
- Đáng lý các ông đã tính đến chuyện này trước khi có cuộc đảo chánh mới phải chớ, tôi không phải là một chính trị gia, cũng không tham dự gì vào những biến động vừa qua, cho nên tôi không thể đưa ra một giải pháp nào toàn vẹn, nhưng tôi nghĩ rằng nếu muốn thành công phải làm cách nào để gây được và nuôi dưỡng được niềm phấn khởi, hào hứng, tin tưởng trong dân chúng. Sự thay đổi chính trị này đem lại một yếu tố thuận là đem lại cho dân chúng nhất là phía những người không thích ông Diệm một niềm hy vọng tương lai sẽ khá hơn. Nhưng nếu không hành động gấp thì chỉ ít lâu là dân chúng sẽ thất vọng chán chường và hết tin tưởng nổi vào chế độ mới. Mặt khác không phải tất cả chế độ ông Diệm đều sai lầm, vậy thì phải cố gắng duy trì những thành công tốt của ông Diệm. Tôi đang nghe người ta đồn rằng ấp chiến lược bị phá bỏ, các cán bộ ấp và thanh niên chiến đấu đang bị giải giới. Hẳn là ông hiểu cái gì sẽ xảy ra ở nông thôn sau đó, và ai sẽ được lợi, ai chịu thiệt hại.
Một việc phải làm khác là tránh thanh toán người của chế độ cũ, và làm sao kết hợp các đảng phái, các phần tử đối lập thành hai ba lực lượng chính trị mạnh, có thực lực, có quần chúng. Nếu không thể làm được việc này thì tôi thấy chỉ có một cách, giao quyền hành cho quân đội. Ít ra trật tự còn được duy trì.
Câu chuyện giữa tôi và ông Lodge chấm dứt ở đây. Khi đề cập đến việc nên tránh những vụ thanh toán, trả thù người chế độ cũ, tôi đã nghĩ đến trường hợp ông Cẩn và những người của chế độ hiện đang trốn tránh hay bị giam cầm. Trong đó dĩ nhiên có một vài người có tội, nhưng số đông chỉ là những kẻ hành động theo lệnh, và do đó thực tình họ chẳng có tội lỗi gì.
Nếu chỉ vì theo chế độ cũ mà trừng phạt thì cả những tướng lãnh và những nhân vật đang ở trong tân chế độ cũng đáng trừng phạt lắm, vì chính họ đã từng là người của chế độ cũ.
Những chuyện thanh toán và trừng phạt những người chế độ cũ đang xảy ra, nhưng theo tôi thấy thì không đến nỗi qui mô và tàn bạo như tôi lo sợ. Không có những cuộc đàn áp, bắt bớ, xử bắn tập thể. Cũng không nghe nói đến những vụ thủ tiêu rùng rợn, ngoại trừ một vài trường hợp lẻ loi và như tôi có lần trình bày, những kỳ thị tôn giáo và chính trị ngắn tuy có nhưng không lấy gì làm trầm trọng lắm.
Chỉ có điều đáng ngại, là sau ngày đảo chánh, giá sinh hoạt vọt lên cao, vật giá đắt đỏ chưa từng thấy, dân chúng đang cơn say sưa chính trị ngắn ngủi bắt đầu nghĩ đến chuyện thực tế, và ca thán khắp nơi về nạn vật giá leo thang. Những con đường tiếp tế bị cắt đứt, những hệ thống phân phối bị tắt nghẽn, và nhiều vùng thiếu thốn các nhu yếu phẩm.
Vào khoảng cuối tháng mười một, tôi ra Huế. Máy bay đang lượn trên sân bay Phú Bài, tôi đã nhìn thấy nhiều đám đông tụ họp trên bãi đất trống trước phòng khách sân bay này. Hàng đoàn xe gắn máy và xe lam, xe hơi đậu dài trên đường từ sân bay Phú Bài hướng về thành phố Huế. Một vài biểu ngữ đã được căng ra.
Tôi vừa bước xuống khỏi máy bay, lập tức một đám sinh viên học sinh nhào đến, giành nhau trèo lên thang máy bay, và tôi chưa kịp làm một cử chỉ gì hay nói một lời nào thì các sinh viên đã công kênh tôi lên vai đến trước đám đông sinh viên đang tụ họp. Tiếng reo hò ầm ĩ, tôi không còn nghe rõ tiếng nào thành tiếng nào.
Sau một vài phút lộn xộn, những sinh viên công kênh tôi dừng lại trước đám đông sinh viên. Tôi nhận ra những khuôn mặt quen thuộc, trong đó có một số giáo sư, khoa trưởng đã cộng tác với tôi lâu năm. Bây giờ đám đông đã hơi yên lặng đôi chút, và những tiếng hoan hô nghe đã rõ.
Tôi cảm động nhưng không khỏi lo ngại. Sự bồng bột này của các sinh viên làm cho nhiệm vụ của tôi trở nên khó khăn hơn. Làm sao tôi vừa có thể thoả mãn những đòi hỏi của sự khôn ngoan, của tình thế? Sự đón tiếp hôm nay càng nồng nhiệt bao nhiêu thì sau này nếu tôi không thành công trong nhiệm vụ khó khăn, sự thất vọng của họ lại càng lớn hơn bấy nhiêu. Tôi chỉ vẫy tay chào các sinh viên học sinh, và hình như chỉ lẩm bẩm một vài tiếng cám ơn.
Các sinh viên lại công kênh tôi ra xe. Đoàn người đón tiếp tôi kéo dài trên trăm thước.
Đến Huế, một đám sinh viên khác không có phương tiện lên Phú Bài đã chờ sẵn, nhập đoàn, rước tôi qua cầu Trường Tiền, chợ Gia Hội rồi mới quay trở về Toà Viện trưởng Đại học Huế. Bây giờ tôi bước lên thềm đại học, đứng trước hàng ngàn sinh viên học sinh vẫy tay chào, tôi yêu cầu im lặng, rồi nói một vài lời. Thực tình tôi rất cảm động, cho nên giọng nói của tôi có phần ấp úng:
- Bây giờ chúng ta đã lật qua một trang lịch sử. Những hận thù, hiểu lầm, kỳ thị nên chôn theo dĩ vãng. Mọi người Việt Nam chúng ta, dù là Công giáo hay Phật giáo đều chung một số phận khốn đốn như nhau hết. Moi người Việt Nam chúng ta, nhất là thành phần trí thức, giáo sư, sinh viên, phải đoàn kết lại để viết một trang sử đẹp đẽ hơn, ít lầm lỗi hơn, nhiều hứa hẹn hơn.
Các sinh viên reo hò inh ỏi, nhiều anh em đứng gần chạy lại ôm chầm lấy tôi. Một đại diện sinh viên đứng ra bày tỏ nỗi hân hoan được gặp lại tôi, cám ơn chính phủ cách mạng đã thoả mãn yêu cầu của anh em, và tỏ ý tin tưởng rằng sự hợp tác giữa tôi và các anh em sinh viên học sinh Huế sẽ bền chặt và tốt đẹp.
43. Những cơn sóng gió mới
Đám đông dần dần giải tán trong sự yên tĩnh. Sau buổi ồn ào, tôi càng lo sợ nhiều hơn. Tình hình Huế vẫn còn sôi động, tuy bề ngoài chẳng có gì rõ rệt. Tôi nhận thấy một số phần tử quá khích vẫn còn muốn tiếp tục cuộc đấu tranh dưới một hình thức mới. Phía Phật giáo vẫn không cho rằng việc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm đã đủ thoả mãn họ.
Trong bầu không khí ngột ngạt của thành phố Huế, những ngày cuối năm 1963 và đầu năm 1964 tôi nhận thấy nhiều hứa hẹn bùng nổ nay mai, thú thật là tôi vùi đầu vào công việc bề bộn của Viện Đại học, ít để ý đến những sinh hoạt chính trị bên ngoài. Thỉnh thoảng có vài đám đông Phật tử kéo đi biểu tình ngoài đường phố, nêu những đòi hỏi không rõ rệt. Phía chính quyền địa phương thì cố gắng mị dân và trấn an mọi người, đưa ra những hứa hẹn mập mờ chẳng thoả mãn được ai.
Vào khoảng đầu tháng ba năm 1964 sau Tết ít lâu, một hôm ông Lãnh sự Mỹ tại Huế, là ông Helble đến gặp tôi, nói rằng ông Đại sứ Lodge muốn ra Huế, gặp riêng tôi nay mai, vậy ông đem tin cho tôi biết trước. Theo chương trình thì ông Lodge sẽ ra vào buổi sáng, gặp tôi tại tư thất rồi hai ông bà Đại sứ lên lăng Tự Đức ăn trưa tại đó, và về Sài Gòn trong ngày. Tôi trả lời:
- Ông Đại sứ Mỹ đích thân ra thăm tôi thật là vinh hạnh lớn cho tôi, nhưng tôi thiết nghĩ trong hoàn cảnh hiện tại, việc ông Đại sứ đến tư thất tôi, gặp riêng tôi không tiện lắm, có thể gây ra một số hiểu lầm từ nhiều phía. Vì vậy tôi nghĩ rằng chỉ ít lâu nữa, việc xây cất trường Đại học Sư phạm Huế, do quỹ viện trợ Hoa Kỳ đài thọ một phần phí tổn sắp hoàn tất. Hoặc là ông Đại sứ cố chờ đến lúc đó ra khánh thành trường và gặp tôi nhân dịp đó tốt hơn. Nếu ông Đại sứ muốn gặp tôi sớm hơn thì lấy cớ ra thăm trường đang xây cất, tôi sẽ hướng dẫn ông đi coi công trường, rồi nói chuyện trong dịp đó, nhờ ông Lãnh sự chuyển lời với ông Đại sứ như thế.
Ông Helble điện thoại ngay cho ông Lodge, nhưng ông Lodge trả lời rằng ông muốn ra Huế gặp tôi ngày mai. Ông sẽ đến Huế lúc mười một giờ trưa, và gặp ông ngay sau đó, đôi bên nói chuyện khoảng một giờ, rồi sau đó ông bà Đại sứ đi thăm lăng Tự Đức. Tôi không còn cách gì thoái thác được, đành làm mặt vui nhận lời vậy.
Hôm sau khoảng mười một giờ, ông đến tại nhà riêng của tôi. Vừa bước vào cửa, nhìn tôi ông Lodge nói một câu ca ngợi tôi bằng tiếng Pháp.
- Cha là một nhân vật nổi tiếng nhất Việt Nam , tôi không thể đến Việt Nam mà không đến dâng lên cha lòng kính mến của tôi.
Dĩ nhiên là tôi chỉ cho rằng đây là một câu nói xã giao hơi quá, chớ thực tình tôi chẳng dám nghĩ mình là nhân vật nổi tiếng chi cả.
Trong phòng chỉ có tôi và ông Lodge. Câu chuyện xoay quanh tình hình chính trị Việt Nam và những nhân vật lãnh đạo lúc bấy giờ. Khởi đầu ông Lodge hỏi tôi một cách tổng quát:
- Cha nghĩ thế nào về những tướng lãnh hiện đang lãnh đạo Việt Nam ?
Thực tình tôi không biết rõ và quen thân với một tướng lãnh nào lúc bấy giờ, vả lại tôi cũng không muốn trả lời, dù biết:
- Tôi chỉ quen nhiều trong giới giáo sư, trí thức, chính trị, ngoại giao. Đối với các tướng tá, thì số lớn tôi có nghe nói đến, có biết mặt một số, và giao thiệp theo phép lịch sự và xã giao với một số khác khi làm Viện trưởng Viện Đại học Huế lần thứ nhất, tôi không hiểu rõ một tướng lãnh nào quan trọng trong tân chế độ.
Ông Lodge hỏi rõ ràng hơn:
- Chắc là cha có biết nhiều về tướng Trần Văn Đôn?
Lúc bấy giờ chính phủ Nguyễn Khánh vừa được thành lập ngày 1-2 sau cuộc chinh lý ngày 31-1. Chính phủ dưới quyền tướng Khánh Thủ tướng gồm một số nhân vật chính trị tên tuổi như Nguyễn Tôn Hoàn, Hà Thúc Ký, Lê Văn Hoạch, Âu Trường Thanh, Nguyễn Xuân Oánh.
Hình như trước ngày ông Lodge ra Huế gặp tôi vài hôm thì có Bộ trưởng quốc phòng Mỹ Mak Namara và tướng Maxwell Taylor sang Việt Nam xem xét tình hình quân sự và duyệt xét chương trình bình định.
Để xoa dịu Phật giáo tướng Khánh chấp nhận hiến chương Phật giáo 4-1-64 ngày 14-3-64 dành cho Phật giáo nhiều quyền lợi và biệt đãi tối đa. Lúc đó tướng Trần Văn Đôn không còn giữ một chức vụ gì quan trọng trong chính phủ Nguyễn Khánh cho nên nghe ông hỏi đến tướng Đôn tôi hơi ngạc nhiên:
- Tôi quen biết trong thời kỳ ông làm tư lệnh tại vùng này. Tôi thường gặp ông trong các dịp lễ lạc, nhưng cũng không thân tình lắm hay biết về ông nhiều, tuy nhiên tôi nghe nhiều người nói rằng ông Đôn là một tướng lãnh có trình độ văn hoá cao, đối xử với các quân nhân tử tế, nên được nhiều người trọng nể mến phục. Về chính kiến của ông thì tôi không dám bình phẩm chi hết.
Ông Lodge lần lượt hỏi tôi về một số các tướng lãnh và chính khách trong ngoài chính phủ Nguyễn Khánh bấy giờ. Tôi tránh né trả lời, bởi vì tôi không muốn phê bình ai hết, cũng chẳng có tư cách gì để phê bình ai. Tôi sợ những lời mình nói ra có thể bị hiểu lầm và gây nên những ảnh hưởng mình không muốn. Cuối cùng, tôi trình bày với ông Lodge trường hợp ông Cẩn.
- Nhân dịp ông Đại sứ ra đây thăm tôi, tôi lấy làm cảm kích lắm, và nhân tiện muốn trình bày với ông Đại sứ một việc mà tôi đã muốn tìm dịp thưa với ông từ lâu. Đó là trường hợp ông Ngô Đình Cẩn. Tôi nói thật là tôi quen thân với ông Cẩn, và nhận thấy ông không phải là người xấu, ông lại cũng không có trách nhiệm và tội lỗi gì trong việc gây ra những cuộc đàn áp Phật giáo trước đây.
Trái lại theo chỗ tôi biết thì chính ông đã cố gắng dung hoà, nềm dẻo, nhưng tình thế dồn dập không cho phép ông làm được việc tốt cho đất nước chúng tôi. Sau cái chết của ông Diệm, ông Nhu mới đây, và ông Khôi thời Việt Minh, hiện nay trong gia đình họ Ngô, một gia đình cách mạng lừng danh ở Việt Nam, chỉ còn mình ông Cẩn đang sống sót, nhưng hiện nay bệnh hoạn, vì bị đau trong tù, vì bị đối xử không lấy gì làm nhân đạo lắm.
Vì tình nhân đạo cũng như vì lẽ phải, sự công bằng, tôi tha thiết xin ông Đại sứ dùng những ảnh hưởng sẵn có của ông để cứu ông Cẩn khỏi chết, và nếu có thể giúp cho ông ra ngoại quốc thoát nạn chữa bệnh luôn thể.
Bây giờ ông Diệm, ông Nhu đã bị ám sát, ông Cẩn không còn là kẻ đáng sợ đối với các tướng lãnh cách mạng nữa, giết ông chẳng ích lợi gì cho ai, mà chỉ gây thêm một tội ác.
Ông Lodge có vẻ đặc biệt lưu ý đến việc này:
- Tôi xin long trọng hứa với cha rằng tôi sẽ làm mọi cách để ông Cẩn khỏi bị khép án tử hình. Lời tôi hứa với cha hôm nay cũng là lời tôi đã hứa với Đức giáo hoàng. Trong dịp tôi về Mỹ dự tang lễ cố Tổng thống Kennedy, tôi được lệnh của tân Tổng thống Johnson sang ngay La Mã gặp các Giám mục Mỹ và Đức giáo hoàn để đưa ra lời hứa đó. Dịp đó Đức Hồng y Spellman đưa tôi vào bệ kiến Đức giáo hoàng và tôi đã hứa với ngài rằng tôi sẽ làm mọi cách để cứu ông Cẩn bằng được. Vậy bây giờ trước mặt cha, tôi xin nhắc lại lời hứa đó, và nếu tôi không làm tròn lời hứa này, tôi sẽ từ chức Đại sứ Mỹ tại Việt Nam lập tức.
Câu chuyện giữa tôi và ông Lodge đến đây thì chấm dứt, và đó cũng là ngày cuối cùng tôi gặp ông Lodge với tư cách Đại sứ Mỹ tại Việt Nam .
Ít lâu sau, toà án cách mạng ở Huế xử vụ Phan Quang Đông, và đến ngày 8 tháng 3 Phan Quang Đông bị kết án tử hình, bồi thường 18 triệu đồng cho các nạn nhân do y ra lệnh hạ sát. Các tội danh được nêu lên để kết án Phan Quang Đông là mưu sát, bắt giam người trái phép, sách thủ tiền tài, lũng đoạn kinh tế v.v…
Đến ngày 16-4 toà án cách mạng Sài Gòn xử vụ ông Cẩn. Phiên toà kéo dài đến ngày 22-4 thì ông Cẩn bị kết án tử hình về các tội danh tương tự như trường hợp Phan Quang Đông. Lúc ra trước toà, ông Cẩn đi không nổi, phải có người dìu đi. Tiếng ông thều thào trả lời thật chân thành:
- Tôi, quân sự không biết, hành chánh không biết, học hành tầm thường, làm sao có thể ra lệnh cho ai được.
Vài hôm sau, ông Cẩn và Phan Quang Đông xin ân xá. Tình trạng mập mờ kéo dài đến ngày 5-6 thì đại tướng Dương Văn Minh, quốc trưởng bác đơn xin ân xá, và ngày 5-6 Phan Quang Đông bị xử tử tại Huế, cùng ngày đó ông Cẩn bị xử bắn tại Sài Gòn. Ngày 23-6 ông Lodge chính thức đệ đơn từ chức, và tướng Maxwell Taylor được cử thay thế.
Tôi không hiểu vì thất bại trong việc cứu ông Cẩn như đã hứa với Đức giáo hoàng hay vì lý do nào khác mà ông Lodge từ chức Đại sứ Mỹ tại Việt Nam , nhưng rất có thể lý do thứ nhất là lý do chính.
Khi rời Sài Gòn ngày 28-6 ông Lodge còn tiếp tục đóng kịch, lấy tư cách được tặng là công dân danh dự của Việt Nam, ông mặc áo gấm, đội khăn đóng nói vài tiếng Việt tung hô Việt Nam và từ giã đám tiễn đưa ở phi trường Tân Sơn Nhất.
Cái chết của ông Cẩn làm tôi buồn lắm, và từ đó tôi ít chú ý đến những biến cố chính trị. Tình hình chính trị chung có vẻ bình thường, nhưng tôi nhận thấy dân chúng bắt đầu chán chường đối với cuộc cách mạng 1-11. Những phần tử tham gia vào cuộc cách mạng, cách riêng Phật giáo, lại càng bất mãn hơn bất cứ ai, vì họ có cảm tưởng họ bị cướp công.
Trong các chính phủ sau cách mạng phe Phật giáo không có một chân gì được coi là xứng đáng. Nhiều nơi bắt đầu có những cuộc biểu tình lẻ tẻ phản đối chính phủ. Phía Công giáo thì lo sợ nạn kỳ thị tôn giáo, đôi lúc cũng có vài hành động vội vàng, như cuộc biểu tình của giáo dân từ các trại định cư ở Biên Hoà kéo về công trường Lam Sơn, tố cáo những kẻ lợi dụng cách mạng gây nên những vụ đàn áp Công giáo.
Tại Huế, hôm 15-9 hàng vạn giáo dân biểu tình trên các đường phố lớn, nêu lên những lời tố cáo tương tự như ở Sài Gòn. Tôi lo sợ sẽ có những cuộc chống lại các cuộc biểu tình của Công giáo. Rất may chuyện này không xảy ra, ít nhất trên một qui mô rộng lớn.
Sở dĩ những cuộc chống đối giữa Phật tử Huế và những cuộc xuống đường lên án kỳ thị tôn giáo của giáo dân Phủ Cam không bùng nổ trên một qui mô rộng vì sau cách mạng đa số Phật tử Huế đã hiểu thế nào là sự tiến công, sự phản bội sau nhiều ngày tranh đấu cam go, không khí cách mạng đã mang lại những đột biến không ngờ ngoài sức tưởng tượng của họ.
Hầu hết những lãnh tụ sinh viên Phật tử, từng nắm giữ vai trò quan trọng trong công cuộc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, có vẻ bơ vơ, dường như họ bị thời cuộc mới bỏ quên hoặc có nhớ tới họ chăng nữa cũng chỉ dùng họ vào những vai trò đánh bóng quá trớn cho luồng khí mới.
Đành rằng, trong suốt thời gian dài trước đây, Phật tử cố đô bị ngược đãi, bị khống chế nhưng tôi thấy khi cách mạng hình thành họ lại không muốn khơi thêm hố sâu của sự chia rẽ. Hơn ai hết dân Huế hiểu rằng chia rẽ cũng không mang lại lợi ích gì, chỉ tạo đau thương thêm, ngộ nhận thêm.
Tôi nói vậy là nói một cách bao quát rộng lớn. Thời gian bấy giờ, làm sao tránh khỏi một vài cá nhân xách động cho việc kỳ thị. Họ mang một số thanh niên đột nhập khu Công giáo Phủ Cam gây những vụ thanh toán nhau lẻ tẻ.
Về những vụ thanh toán nhau lẻ tẻ này, tôi được một người bạn sinh viên Văn khoa cho biết, nhóm quá khích kia thành lập một Ủy ban thanh trừng của sinh viên học sinh cách mạng, kê danh sách những người mà họ mệnh danh là “tay sai chế độ cũ” để tìm cách thanh toán hành hung.
Sinh viên này nói: một buổi sáng đang ngồi uống café ở Lạc Sơn thì bị Ủy ban kia đến “hỏi thăm sức khỏe”. Bọn họ khoảng chín người vây quanh, đánh anh cho đến lúc ngã gục rồi mới bỏ đi.
Nhiều trường hợp xích mích lẻ tẻ tương tự đã xảy ra ở Huế trong thời gian này. Nên đa số người Công giáo lo ngại mỗi khi xuất hiện một mình ngoài thành phố. Đi đâu họ cũng rủ bạn bè thật đông. Một đôi lần xảy tới những cuộc xô xát lớn. Có một số lánh vào Nam .
Tuy nhiên như tôi đã nói, đây chỉ là những hành động đơn phương của một số cá nhân quá khích, trên tổng quát, giữa Phật giáo và Công giáo Huế không hề có những chia rẽ, đố kỵ diễn ra quá đáng.
Người Công giáo phần nhiều tuy không hưởng lợi lộc gì của chế độ cũ khi cách mạng đã tỏ ra thức thời. Họ sống khép nép, thu mình trong giáo khu Phủ Cam, hoặc Cầu Kho. Mọi hình thức phô diễn vào các ngày lễ cũng được giới hạn. Ngôi thánh đường Phủ Cam đang xây cất dở dang, vội vàng ngưng ngang. Cho tới bây giờ vẫn chỉ có mặt tiền uy nghi vươn lên giữa trời xanh, phô bày nhiều vết tích loang lở, tội nghiệp. Những hào khí của cách mạng thực sự tàn đi, để lại một cố đô trầm mặc và mơ mộng cũ.
Trong khi đó, sau nhiều tháng, chính phủ cách mạng đã không thực thi được điều gì mà toàn dân trông chờ. Vẫn chỉ là những khuôn mặt cũ, những chương trình cũ khiến đại đa số những kẻ trực tiếp góp phần vào công cuộc lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm chán nản.
Họ mang cảm tưởng sự góp phần xương máu của họ trở thành vô duyên, hoặc chỉ là một cái thang cho một vài cá nhân leo lên danh vọng để rồi tà tà hưởng thụ.
Những lãnh tụ cách mạng của Phật giáo và sinh viên, thay vì giúp Hội đồng quân nhân cách mạng nhiều ý kiến, đã không ai bảo ai, đột ngột thu mình vào những nơi trú ngụ an toàn. Có một lãnh tụ sinh viên tâm sự với tôi, anh ta đầy chán nản khi thấy mỗi ngày luồng gió cách mạng thêm nhuốm mùi băng hoại. Anh tỏ vẻ bi quan về tình thế hiện tại. Đôi mắt của anh tôi thấy đã buồn, nhắc chuyện cách mạng, anh càng buồn hơn.
Sở dĩ tôi phải nhắc nhở đến những sự kiện này là để chứng minh rằng đa số đồng bào Phật giáo cũng như Công giáo Huế khác với Sài Gòn đã không bước vào hành trình đối chọi nhau, gây thêm rắc rối thù hận cho nhau.
Hơn bất cứ nơi nào hết trên quê hương, ở miền đất được mệnh danh là lỗ rốn của cách mạng này, người ta lại ít nghe thấy dân chúng trầm trồ về bầu khí cách mạng. Tôi có dịp ghe qua nhiều nơi, dưới tầm mắt tôi người dân Huế đang cố gắng sống thu mình vào cuộc sống bình thường, như thời gian tiền chế độ.
Sau cách mạng, người ta tổ chức rất nhiều buổi nói chuyện, vạch mặt những chỗ mà người ta gọi là các thủ đoạn độc tài của chế độ Diệm từ thành thị đến thôn quê.
Những cuộc mít tinh tập trung dân chúng địa phương kéo dài nhiều tháng. Những sinh viên, lãnh tụ Phật giáo được sử dụng trong vai trò thuyết trình viên, họ hô hào cách mạng vùng lên, tàn tích của chế độ Diệm phải được triệt hạ. Tuy nhiên các lãnh tụ sinh viên tranh đấu chân chính, oái oăm thay, lại kín miệng cẩn trọng và khi xuất hiện nói chuyện giữa đám đông, chỉ có những sinh viên lãnh tụ lạ hoắc.
Tôi có tham dự một vài buổi nói chuyện kiểu này, và thấy thuyết trình viên quả thực đã thành công. Một thuyết trình viên sinh viên văn khoa, học trò của tôi, đã khóc ròng khi diễn tả lại cảnh tra tấn tù đày, cảnh chín hầm, cảnh thủ tiêu rồi anh giơ tay lên trời hô hào toàn dân hãy huỷ diệt làn sóng độc tài của chế độ cũ.
Lối diễn tả của sinh viên này làm nhiều kẻ cảm động, nhưng làm tôi buồn cười. Vì có lẽ nhiều lãnh tụ sinh viên Huế thời đó biết rõ thực chất của sinh viên kia. Thời gian đấu tranh, anh ta chỉ tham gia cầm chừng. Ngục tối anh ta chưa từng nếm. Cảnh dã man anh chưa từng chứng kiến, tham dự.
Anh không hề có mặt ở chùa Từ Đàm, suốt thời gian ngôi chùa này bị phong toả. Cơm chay anh không hề ăn như rất nhiều bạn bè Quốc Học, Đồng Khánh. Ấy vậy mà anh nói năng như thật, diễn tả như thật. Hội đồng tướng lãnh cách mạng rất thành công trong việc sử dụng đường lối tuyên truyền này, nhưng họ không ngờ, những lãnh tụ sinh viên thực sự, thái độ xa rời họ, mất niềm tin tưởng nơi họ.
Tôi không có ác ý gì với sinh viên kia, nhưng phải ghi lại điều này, để cho mọi người thấy rằng, ngay những công cuộc bé nhỏ, những tướng lãnh cách mạng đã không tìm cách hoàn bị chu toàn, huống gì những công cuộc lớn.
Bởi vậy, dân chúng miền Trung sống xa cách, âm thầm, sự xa cách và âm thầm đáng quan ngại, cho thấy những bùng nổ lớn trong tương lai…
Đúng như điều tôi dự đoán trước, những manh nha của một sự phản kháng chính trị đã bắt đầu hình thành từ những thành phần trí thức của cố đô đưa tôi đến sự chán nản tột độ. Cho tới bây giờ, tôi cũng không biết động lực nào thúc đẩy những cộng sự của tôi, học trò của tôi bước vào hành trình phiêu lưu đưa đất nước vốn rối loạn, lại càng thêm rối loạn như vậy.
Vào năm 1964 tôi vừa chẵn hai mươi lăm tuổi linh mục. Vì không còn nao nức gì, lại buồn hoa thời đại mình đang sống, tôi quyết định không tổ chức lễ Ngân khánh to tát làm gì, dường như tôi đã giấu hết bạn bè thân thuộc. Tôi dự định nhân dịp này suy nghiệm về những chuyện đã trải qua trong đời, như một tấm gương thanh khiết, tôi muốn soi lại đời mình trong đó thế thôi.
Tuy nhiên những giáo sư và sinh viên trong Đại học cũng tìm ra, họ kéo tới chúc mừng thật đông ngoài sức tưởng tượng.
Cầm đầu số giáo sư, sinh viên tới mừng lễ Ngân khánh của tôi là bác sĩ Lê Khắc Quyến, lúc bấy giờ đang giữ chức Khoa trưởng y khoa, ông Quyến có mang theo một bức Hoành Phi bằng gỗ mít khắc mấy chữ Hán sơn son thiếp vàng: “Thiện Mỹ lưỡng toàn”.
Thú thực lúc bấy giờ tôi cảm động lắm. Số giáo sư đến đông đủ như vậy, chứng tỏ sau cách mạng mối giao hảo giữa chúng tôi vẫn bền chặt, thắm thiết. Tình hình mới của chính trị không hề ảnh hưởng đến tình thân thiện trong Viện đại học với nhau.
Tôi còn cảm động hơn lúc giáo sư Lê Tuyên với một người bạn gái tới mừng tôi cùng với bức Hoành Phi ghi mấy chữ “Sư sinh đại nghĩa”. Tuyên là học trò của tôi, chọn mấy chữ này, tôi thấy vừa khéo vừa cảm động.
Những sinh hoạt Đại học trở lại bình thường như xưa đó là điều làm tôi hãnh diện. Mặc dù ở Sài Gòn hoặc ở Cố đô Huế đã sôi sục những xáo trộn vừa nổi rõ lên, vừa âm thầm, nhưng trong Viện Đại học cả giáo sư lẫn sinh viên không có xảy ra chuyện chi.
Tôi hằng duy trì Đại học chỉ duy nhất có một thiên chức là phát huy văn hoá thuần tuý.
Chính trị không thể tự do vào tung hoành hoặc lũng đoạn trong lãnh vực Đại học dưới quyền tôi điều khiển. Ngay thời gian đấu tranh chống chế độ Ngô Đình tôi cũng không bao giờ chấp nhận cho các giáo sư và sinh viên chọn Đại học làm địa điểm tập trung xách động.
Mặc dù đôi lần có mấy giáo sư thân tình tới yêu cầu tôi thay đổi quan điểm này, tôi nhất định từ chối đến cùng.
Bây giờ sau cách mạng tôi càng muốn không khí Đại học Huế phải được bình thường hơn bao giờ. Cuộc tìm kiếm và phát huy văn hoá phải được tiếp tục.
Bởi vậy dù không chống đối những phong trào mà sinh viên học sinh tham dự trước đây, nhưng tôi cũng không chấp nhận để nó bành trướng trong những lãnh vực sinh hoạt Đại học. Thà là tôi không còn hiện diện ở sinh hoạt này hơn là ngoảnh mặt chấp nhận những điều ngược hẳn với chủ trương vững mạnh của mình.
Lúc bấy giờ tôi có nghe nhiều sinh viên rục rịch kéo về miền quê, tham dự những sinh hoạt cộng đồng với những người dân nghèo khó như hát cho đồng bào nghe, nói chuyện với đồng bào… tìm hiểu ra, tôi được biết những sinh viên của tôi tham dự vào chương trình bình định của chính quyền do Phó Thủ tướng Nguyễn Tôn Hoàn phát động.
Nhiều giáo sư có tới gặp tôi yêu cầu tôi có thái độ về sự việc này, nhưng trong thâm tâm tôi thấy việc làm đó không có gì nguy hại, còn đáng cổ võ thêm lên, tuy nhiên tôi chỉ im lặng không bác bỏ, cũng không chấp nhận.
Sinh viên làm gì ngoài khu Viện Đại học thì làm, miễn việc học hành không gián đoạn, các kỳ thi không đến nỗi tệ, đó là tâm trạng thực nhất của bất cứ vị nào điều khiển, coi sóc ngành giáo dục.
Tôi nghĩ đa số sinh viên Huế sau một mùa tranh đấu đầy nước mắt và cam go họ đã thức tỉnh. Nhìn chung quanh đất nước vẫn chẳng thay đổi bao nhiêu, dân chúng không hưởng lợi bao nhiêu, có lẽ họ đã nhận ra cuộc cách mạng không thể ngày một, ngày hai là đạp đổ được tất cả, thay đổi tất cả.
Phải có một cuộc cách mạng lâu dài mới hy vọng đem đến những mục đích cao đẹp mà mọi người mong muốn. Để có một cuộc cách mạng xã hội hữu hiệu như vậy trước hết tuổi trẻ phải có căn bản văn hoá, phải kiên gan tìm tòi mới không gặp những cam go, thất bại…
Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên. Ơn trên đã không chìu lòng những kẻ trần tục tội lỗi của Ngài. Không khí im lìm chỉ kéo dài một thời gian, như tôi đã dự đoán trước đây, nó đã tới giai đoạn bùng dậy.
Huế cố đô thân yêu, mảnh đất trầm mặc nghìn năm của dòng sông Hương đang chuẩn bị bước tới một chuyển mình khác kinh khủng hơn, không chỉ ngắn hạn như cuộc tranh đấu có máu và nước mắt trước đây, nó kéo dài hơn và tạo thêm những xáo trộn cho một chính phủ, một quốc gia đang đối đầu với kẻ thù ghê gớm của thế kỷ: Cộng sản.
Tôi tưởng qua thời gian nổi sóng cũ, những kẻ thức thời ỏ Huế đã học được mớ kinh nghiệm, đã hiểu thế nào là lạm dụng chiếm đoạt, bất công. Câu nói của anh sinh viên ngày nào chúng tôi còn nhớ rõ ràng: “Chúng con đã chán nản”. Đôi mắt buồn của anh tôi cũng nhớ như đinh đóng cột. Không nhẽ lúc này nó đã đổi thay, nó đã bỏ rơi kẻ hằng suy nghĩ về nó.
Tôi không nhớ rõ phong trào chính trị hậu cách mạng ở Huế được chuẩn bị từ thời gian nào, với động lực nào thúc đẩy. Tôi vốn không quan tâm tới chính trị, nên muốn tìm hiểu lúc này thật khó khăn. Tuy nhiên tôi có thể ghi lại đây không sai chạy cái ngày mà tổ chức nhân dân Cứu quốc Huế hình thành, khởi đầu cho giai đoạn đấu tranh chống đối mãnh liệt thời đó.
Điều mà tôi không mấy quản ngại trước đây khi giáo dân Hố Nai kéo về Sài Gòn biểu tình chống kỳ thị nay đã thực sự là đáng lưu ý ở Huế, phong trào chính trị mới đang cố tình đào sâu cái hố kỳ thị giữa Phật tử và giáo dân Ky-tô.
Người ta có muốn ngăn chận cũng không cứu vãn lại được nữa.
Trước đó, khi có dịp gặp gỡ những giáo sư hoặc sinh viên trong Viện Đại học tôi khoác lác đề cập đến những xáo trộn xảy ra tại Thủ đô Sài Gòn không ngoài mục đích cho họ thấy rằng:
Những xáo trộn như vậy không đi đến đâu, chỉ tạo thêm những ngộ nhận, những mặc cảm giữa người và người với nhau. Mệnh danh là xuống đường đòi bình đẳng, nhưng bình đẳng đâu thấy, chia rẽ hiện hình nguyên vẹn, nồng nàn. Đó là điều bất hạnh nhất, đáng lấy làm đề tài suy ngẫm nhất.
Những người gặp gỡ tôi đã phát biểu những ý kiến đồng nhất như vậy. Lúc đó tôi hân hoan và tin tưởng rằng Đại học Huế phải được trưởng thành thêm và bành trướng thêm. Tuy nhiên khi hay tin phong trào chính trị bắt đầu hoạt động, mà những kẻ khởi xướng chính là những người cộng sự với tôi, đã làm cho tôi bàng hoàng không ít…
Thoạt đầu nhóm hoạt động chính trị mang tên là Phong trào nhân dân cứu quốc qui tụ một số giáo sư như Lê Tuyên, Mai Văn Lễ, Cao Huy Thuần, Tôn Thất Hanh và do bác sĩ Lê Khắc Quyến, Khoa trưởng y khoa làm chủ tịch, nhưng sau đó phong trào lan rộng trong hàng ngũ sinh viên Huế, thực sự biến Đại học Huế làm môi trường hoạt động chính trị, trái hẳn với những nguyện ước của tôi.
Giáo sư Lê Khắc Quyến còn ngang nhiên đặt văn phòng của phong trào trong Viện Đại học. Họ lấy mọi phương tiện trong cơ sở văn hoá này để dùng vào các chương trình chính trị của họ. Tôi có nghe một vài sinh viên thân tín tường trình lại những hoạt động này, nhưng tôi không tin, vì mới hôm nào đây Lê Khắc Quyến, Lê Tuyên còn tới mừng lễ Ngân khánh của tôi bằng mấy bức hoành phi, mang những dòng chữ chí tình “Thiện mỹ lưỡng toàn”, “Sư sinh đại nghĩa”.
Qua nhiều lần gặp gỡ ông Quyến cũng như người học trò cũ của tôi Lê Tuyên đã quá hiểu nguyện vọng của tôi là gạt hẳn những không khí, những phong trào chính trị ngoài ngưỡng cửa Đại học. Tôi còn ân cần tâm sự với họ rằng, Đại học chỉ dùng vào công cuộc kiếm tìm và phát huy văn hoá mới, gây dựng và nuôi dưỡng những bác học cho tương lai, không thể đem những thứ thành quả ngắn, những xáo động nửa vời vào lũng đoạn chi phối sinh hoạt hướng thượng đó. Hơn những người nào hết, chính Quyến và Lê Tuyên là những người vồn vã nhất trong việc ủng hộ mục đích của tôi. Không ngờ vật đổi sao dời, ngày một ngày hai họ đã phát lộ một bộ mặt khác, chủ trương khác, tới khi Lê Khắc Quyến đích thân đến gặp tôi và mời tôi tham gia phong trào nhân dân cứu quốc lúc đó mới thấy thực sự chán nản bàng hoàng. Tôi đã cố gắng giữ vững tinh thần trong lúc đó với Quyến để câu chuyện diễn ra trong vòng thân thiết bình thản.
Tôi im lặng nghe Quyến trình bày về phong trào nhân dân cứu quốc, có lẽ Quyến nói khá nhiều về mọi vấn đề, mọi khía cạnh. Nhưng cho tới nay tôi chẳng còn nhớ được gì. Tuy nhiên điều làm tôi không bao giờ quên đi, Quyến ngỏ lời yêu cầu tôi ủng hộ phong trào chính trị này. Và tôi thành thực nói với giáo sư chủ tịch Lê Khắc Quyến:
- Các anh lập phong trào chính trị tôi không có quyền ngăn cản. Nếu lập phong trào tranh đấu tự do dân chủ cho quê hương, tôi càng tán thành là đằng khác. Hơn lúc nào hết anh thấy quê hương đang cần nhiều hậu thuẫn để đánh bại hay đối đầu với làn sóng đỏ Cộng sản…
Tôi nhấn mạnh với bác sĩ Quyến rằng, tư cách một Linh mục Viện trưởng viện đại học không cho phép tôi có ý kiến rõ ràng về phong trào chính trị của ông ấy. Tôi còn nhắc lại lập trường cũ của tôi là tách rời chính trị khỏi sinh hoạt Đại học và nói với ông Quyến là tôi không chấp thuận việc phát động phong trào trong giới sinh viên của tôi.
Bác sĩ Quyến có vẻ bất bình, ông ta biện dẫn một vài lý do để bênh vực cho lập luận của ông. Tuy nhiên tôi vẫn trầm tĩnh nói:
- Anh dư biết mơ ước của tôi là phát huy văn hoá dân tộc. Trước đây tôi đã nhiều lần nói với các anh rằng chính trị là nhất thời văn hoá mới trường cửu. Nếu Đại học muốn trường cửu, Đại học không nên làm những chuyện nhất thời. Các anh đã đồng ý với tôi về điểm đó trước, thì bây giờ tôi cũng xin các anh cho tôi giữ vững lập trường ấy.
Bác sĩ Quyến chống chế:
- Trước đây tình thế khác, chúng tôi đã chấp thuận lập trường của cha. Bây giờ với không khí chính trị mới, phải có sinh khí mới trong Đại học.
Tôi mỉm cười, có lẽ nụ cười bấy giờ chua xót lắm, buồn thảm lắm.
- Tôi xác định với anh một lần nữa: Tôi không muốn cho Đại học có Đảng phái chính trị. Chẳng phải lúc này tôi mới có chủ trương lập trường này mà ngay từ khi Đại học khai sinh, tôi cũng đã nhấn mạnh đến lập trường của tôi. Khi nào tôi còn giữ chức coi sóc Đại học Huế, tôi còn tranh đấu tới cùng. Không ngờ lúc này các anh đặt văn phòng của phong trào ở Đại học mà không cho tôi hay. Lại khám xét sinh viên trước khi họ vào trường nữa. Đó là chuyện trái ngược với không khí Viện Đại học này. Nếu các anh tiếp tục hoạt động, các anh gắng tìm chỗ khác đặt văn phòng, xin trả Đại học cho tôi ngay.
Giáo sư Lê Khắc Quyến lớn giọng:
- Cha đuổi chúng tôi đi hả?
Tôi lắc đầu:
- Không phải đuổi. Anh nói quá. Tôi chỉ yêu cầu các anh trả lại không khí trầm mặc cho Đại học. Tôi chưa hiểu rõ lắm về phong trào của các anh, nhưng có đi phố và nhìn thấy nhiều khẩu hiệu đả đảo tướng lãnh, đồng hoá người Công giáo với Cần lao.
Tôi là Công giáo, nhưng không phải bất cứ người Công giáo nào cũng là đảng viên Đảng Cần lao của chế độ cũ. Tập thể Cần lao không xấu, chỉ có cá nhân xấu mà thôi. Cho nên các anh đừng lẫn lộn…
Các anh cần phân tích người nào tốt, kẻ nào xấu, đừng đồng hoá tập thể tôn giáo và Cần lao, làm như thế không đạt được mục tiêu gì, chỉ gây chia rẽ giữa tôn giáo này và tôn giáo khác mà thôi.
Tôi cũng nhấn mạnh với ông Quyến:
- Lực lượng duy nhất hiện nay để chống Cộng sản là lực lượng quân đội. Bây giờ các anh nêu đích danh những tướng lãnh cầm đầu quân đội đả kích. Hành động đó có khác nào chúng ta phá đi bức thành trì chống cộng. Điều đó không thể chấp nhận được. Đất nước chúng ta đã chìm đắm bao nhiêu năm. Không thể tạo cơ hội thuận tiện để cho mảnh đất còn lại của quê mẹ khốn khổ này rơi vào tay Cộng sản.
Tôi còn nói với giáo sư Quyến một lần nữa là, ông ta hãy dời văn phòng của phong trào ra khỏi Viện Đại học để tôi khỏi lấy làm thất tín vì đã không giữ vững lập trường duy trì ch của mình. Giáo sư Quyến không nói gì. Ông ta đứng dậy cùng với mấy giáo sư đi theo xin cáo lui.
Tôi tiễn ông Quyến ra tận cửa. Tuy ông không phản đối những ý kiến của tôi trong cuộc mạn đàm, nhưng tôi thấy nét mặt ông có vẻ buồn buồn, và tức bực. Thú thực tôi đã hết sức khiêm tốn trong câu chuyện với mục đích duy trì hoà khí giữa những kẻ cộng tác hàng ngày với nhau. Vậy mà câu chuyện không ít thì nhiều đã đem lại sự nghi kỵ, nếu không nói là bất bình giữa tôi và giáo sư chủ tịch Lê Khắc Quyến. Trong lúc Quyến lẳng lặng lên xe, các giáo sư khác, trong phong trào chính trị có lẽ thông cảm cho mục tiêu tối thượng của tôi, đã thân ái hứa hẹn với tôi rằng, phong trào nhân dân cứu quốc không đả kích tập thể giáo dân Ky-tô nữa và ngưng lại mọi chương trình đồng hoá Cần lao với Công giáo. Những giáo sư này đoán chắc rằng, họ chỉ tranh đấu cho tự do dân chủ mà thôi.
Sở dĩ tôi góp ý họ về những vấn đề đả kích tướng lãnh, tố khổ Cần lao là vì, ngay sau khi phong trào nhân sân cứu quốc hình thành, họ ra một tờ báo lấy tên là Lập Trường làm cơ quan ngôn luận. Tờ báo đặt ngay ở nhà in của Viện Đại học dưới chân cầu Bạch Hổ.
Và mọi phương tiện của nhà in này, phong trào đều xung công vào việc ấn loát tờ báo này.
Từ những số đầu tiên, những tờ báo này vạch mặt chỉ tên những kẻ họ cho là Cần lao ác ôn, tay sai hoặc công an mật vụ của chế độ cũ. Hầu như tất cả những nhân vật nắm những chức vụ từ hạ tầng cơ sở như xã quận đến tỉnh thành đều là những mục tiêu chính để cho họ nguyền rủa, mặc dầu trên thực tế, những kẻ bị chỉ trích chỉ là công cụ mọn hèn của chế độ Ngô Đình Diệm.
Qua tờ báo địa phương này, phong trào Nhân dân cứu quốc của giáo sư Lê Khắc Quyến lên án gắt gao đảng Cần lao, quan trọng và nguy hiểm hơn nữa họ còn dùng những luận cứ để đồng hoá người Công giáo với Cần lao nòng cốt. Tạo phong trào chống Cần lao kịch liệt trên báo chí, với đủ mọi phương tiện, đủ mọi lập luận, họ gây căm hờn giữa quần chúng và giáo dân cố đô Huế.