CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤTXin đừng quên! NỬA THẾ KỶ TRƯỚC...
Tội Ác của Ðảng CSVN: Cuộc Cải Cách Ruộng Ðất năm 1953 - 1956 tại miền Bắc
Có thể bạn đọc sẽ trách tôi:
trong dịp đầu năm mà nhắc đến chuyện quá buồn. Xin các bạn lượng thứ
cho! Nhưng chuyện này không thể không nói đến! Nó cũng khủng khiếp không
kém gì chuyện Tết Mậu Thân (1968). Vậy mà chuyện Tết Mậu Thân chúng ta
vẫn phải đành lòng nhắc đến trong dịp Tết cơ mà!
Cần phải nhắc đến các tấn bi kịch, các thảm hoạ dân tộc đã qua và hiện đang còn đang tiếp diễn dưới nền chuyên chính của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), để mọi người yêu nước thương dân thắp một nén hương cho vong linh biết bao người vô tội đã ngã xuống, để tưởng nhớ đến bao nhiêu người oan ức đã chịu những cực hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ lại biết bao bạo hành của một đảng độc tài đã gây ra trong quá khứ và trong hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí đấu tranh cho công cuộc dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần lắm thay! Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền đang cố xuyên tạc lịch sử, cố làm mọi cách để dân tộc ta quên đi các tội ác tày trời của họ, nhất là để các thế hệ mới lớn lên không hề hay biết gì đến các tội ác đó và những kẻ tội phạm chính danh!
Chuyện tôi muốn nói đến hôm nay là cuộc CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm hoạ khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã thực tế bắt đầu diễn ra từ năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết thúc năm 1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn mãi cho đến tận ngày nay. Hồi đó, CCRĐ chẳng khác nào một trận bão táp ác liệt đổ ập xuống miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng khiếp, biết bao đảo lộn kinh người, biết bao tang tóc, đau thương cho người dân lương thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này? Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva (đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông (lúc đó đang có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Đảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRĐ ở các vùng gọi là “giải phóng”.
Sau khi về nước, ông Hồ đã cùng Thường vụ Trung ương (Bộ chính trị sau này) ĐCS trong hai năm trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến hành CCRĐ. Chuẩn bị cả về mặt tư tưởng, cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn về mặt tổ chức. Theo sự phân công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt Nam, nên ông Hồ đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố vấn là La Quý Ba đồng thời là đại sứ Bắc Kinh tại Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH). Vi Quốc Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự, còn đứng đầu đoàn cố vấn CCRĐ là Kiều Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng Tây. Đó là chưa kể đủ loại cố vấn khác, như cố vấn chỉnh huấn, cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền... Để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quân đội, năm 1952, Bộ chính trị (BCT) Trung ương (T/Ư) Đảng thực hiện “cuộc chỉnh huấn” trong Đảng và “cuộc chỉnh quân” trong quân đội, theo đúng mẫu mã “cuộc chỉnh phong” của ĐCS Trung Quốc, chỉ có cái tên hơi khác một chút mà thôi. Chuẩn bị về mặt tổ chức, BCT T/Ư đã thành lập Uỷ ban CCRĐ Trung ương (UBCCRĐTƯ), gồm có Trường Chinh, Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn Lương, uỷ viên BCT, còn uỷ viên thường trực là Hồ Viết Thắng, uỷ viên T/Ư Đảng. Dưới UBCCRĐTƯ là các đoàn CCRĐ, dưới các đoàn là các đội CCRĐ. Cả một đạo quân hùng hậu để làm “chiến dịch” đánh phong kiến!
ĐCS coi CCRĐ là “một cuộc cách mạng long trời lở đất”, cho nên cần phải “phóng tay phát động quần chúng” để thực hiện, có nghĩa là phải làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng sản thường nhấn mạnh ĐCS là đảng cách mạng thì nhất định phải làm CCRĐ theo tinh thần “cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất”! Họ cao ngạo phê phán các cuộc CCRĐ hoà bình ở nhiều nước là cải lương chủ nghĩa, tư sản và phản cách mạng: vì tại các nước đó, chính quyền hạn định mức ruộng đất tối đa cho điền chủ được có, còn phần thừa thì nhà nước mua lại để chia cho người ít hay không có ruộng đất. Còn khi giải thích cho cán bộ mấy chữ “phóng tay phát động quần chúng” khó hiểu này, ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được. Hình như ông cũng khoái cái lối giải thích hóm hỉnh ấy, không nghĩ rằng cái tinh thần “quá đi một tí” sau này chính là mối hoạ lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRĐ được tung về nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền hạn không hạn chế, họ cảm thấy mình nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp trên đã “phóng tay” cho họ và họ cũng tự “phóng tay”...
Vì thế, trong dân gian thường nói “nhất đội, nhì Trời”, và các “anh đội” cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi còn nhớ một lần, thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chủ tịch uỷ ban quân quản thành phố Hà Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông bị đội CCRĐ bắt giữ cùng với anh cần vụ (lính hầu) và xe ô tô, van xin gì cũng không được thả ra. Về sau do một sự tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới cho người đến nhận ông về. Đại thần của chế độ mà còn bị như thế huống hồ dân đen!
Cần phải nhắc đến các tấn bi kịch, các thảm hoạ dân tộc đã qua và hiện đang còn đang tiếp diễn dưới nền chuyên chính của Đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), để mọi người yêu nước thương dân thắp một nén hương cho vong linh biết bao người vô tội đã ngã xuống, để tưởng nhớ đến bao nhiêu người oan ức đã chịu những cực hình man rợ phải ngậm hờn mãi mãi, để nhớ lại biết bao bạo hành của một đảng độc tài đã gây ra trong quá khứ và trong hiện tại, để mọi người hun đúc ý chí đấu tranh cho công cuộc dân chủ hoá đất nước. Âu cũng là việc cần lắm thay! Hơn nữa, ngày nay tập đoàn cầm quyền đang cố xuyên tạc lịch sử, cố làm mọi cách để dân tộc ta quên đi các tội ác tày trời của họ, nhất là để các thế hệ mới lớn lên không hề hay biết gì đến các tội ác đó và những kẻ tội phạm chính danh!
Chuyện tôi muốn nói đến hôm nay là cuộc CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT (CCRĐ) đầy kinh hoàng ở miền Bắc Việt Nam, thảm hoạ khủng khiếp chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Cuộc CCRĐ đã thực tế bắt đầu diễn ra từ năm 1953, đúng 50 năm trước đây, và kết thúc năm 1956. Nhưng dư âm và hậu hoạ của nó vẫn còn mãi cho đến tận ngày nay. Hồi đó, CCRĐ chẳng khác nào một trận bão táp ác liệt đổ ập xuống miền Bắc Việt Nam gây ra biết bao tàn phá khủng khiếp, biết bao đảo lộn kinh người, biết bao tang tóc, đau thương cho người dân lương thiện.
Xuất phát từ đâu mà trận bão táp ghê rợn đó đã tràn đến cái xứ sở đau thương này? Số là trong chuyến đi bí mật của ông Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc (hồi cuối năm 1950) đến Moskva (đầu năm 1951), ông đã gặp Stalin và Mao Trạch Đông (lúc đó đang có mặt tại Moskva). Hai ông này đã nhận xét là Đảng Việt Nam coi nhẹ nhiệm vụ phản phong (ý nói hữu khuynh), và chỉ thị phải tiến hành cách mạng phản phong để “bồi dưỡng động lực cách mạng là nông dân lao động”, nói cụ thể là phải làm CCRĐ ở các vùng gọi là “giải phóng”.
Sau khi về nước, ông Hồ đã cùng Thường vụ Trung ương (Bộ chính trị sau này) ĐCS trong hai năm trời bí mật và tích cực chuẩn bị tiến hành CCRĐ. Chuẩn bị cả về mặt tư tưởng, cả về mặt chính sách, đường lối, lẫn về mặt tổ chức. Theo sự phân công của Stalin, Trung Quốc sẽ giúp đỡ cho Việt Nam, nên ông Hồ đã mời các đoàn cố vấn Trung Quốc đến miền Bắc Việt Nam – tổng cố vấn là La Quý Ba đồng thời là đại sứ Bắc Kinh tại Việt Nam dân chủ cộng hoà (VNDCCH). Vi Quốc Thanh đứng đầu đoàn cố vấn quân sự, còn đứng đầu đoàn cố vấn CCRĐ là Kiều Hiểu Quang, vốn là phó bí thư tỉnh uỷ Quảng Tây. Đó là chưa kể đủ loại cố vấn khác, như cố vấn chỉnh huấn, cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền... Để chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và quân đội, năm 1952, Bộ chính trị (BCT) Trung ương (T/Ư) Đảng thực hiện “cuộc chỉnh huấn” trong Đảng và “cuộc chỉnh quân” trong quân đội, theo đúng mẫu mã “cuộc chỉnh phong” của ĐCS Trung Quốc, chỉ có cái tên hơi khác một chút mà thôi. Chuẩn bị về mặt tổ chức, BCT T/Ư đã thành lập Uỷ ban CCRĐ Trung ương (UBCCRĐTƯ), gồm có Trường Chinh, Tổng bí thư ĐLĐVN làm chủ nhiệm, hai phó chủ nhiệm là Hoàng Quốc Việt, uỷ viên BCT và Lê Văn Lương, uỷ viên BCT, còn uỷ viên thường trực là Hồ Viết Thắng, uỷ viên T/Ư Đảng. Dưới UBCCRĐTƯ là các đoàn CCRĐ, dưới các đoàn là các đội CCRĐ. Cả một đạo quân hùng hậu để làm “chiến dịch” đánh phong kiến!
ĐCS coi CCRĐ là “một cuộc cách mạng long trời lở đất”, cho nên cần phải “phóng tay phát động quần chúng” để thực hiện, có nghĩa là phải làm hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhượng, không thương xót, cho dù có những hành động quá trớn, quá tả cũng không đáng sợ. Nhiều lãnh tụ cộng sản thường nhấn mạnh ĐCS là đảng cách mạng thì nhất định phải làm CCRĐ theo tinh thần “cách mạng”, “cách mạng long trời lở đất”! Họ cao ngạo phê phán các cuộc CCRĐ hoà bình ở nhiều nước là cải lương chủ nghĩa, tư sản và phản cách mạng: vì tại các nước đó, chính quyền hạn định mức ruộng đất tối đa cho điền chủ được có, còn phần thừa thì nhà nước mua lại để chia cho người ít hay không có ruộng đất. Còn khi giải thích cho cán bộ mấy chữ “phóng tay phát động quần chúng” khó hiểu này, ông Hồ đã dùng hình ảnh dễ hiểu sau: khi uốn thanh tre cong cho nó thẳng ra, phải uốn quá đi một tí và giữ lâu lâu, rồi thả tay ra thì nó mới thẳng được. Hình như ông cũng khoái cái lối giải thích hóm hỉnh ấy, không nghĩ rằng cái tinh thần “quá đi một tí” sau này chính là mối hoạ lớn cho dân! Các đội, các đoàn CCRĐ được tung về nông thôn. Họ tung hoành gần như với quyền hạn không hạn chế, họ cảm thấy mình nắm trong tay quyền sinh quyền sát. Cấp trên đã “phóng tay” cho họ và họ cũng tự “phóng tay”...
Vì thế, trong dân gian thường nói “nhất đội, nhì Trời”, và các “anh đội” cũng khoái tai khi nghe như thế! Tôi còn nhớ một lần, thiếu tướng Vương Thừa Vũ, chủ tịch uỷ ban quân quản thành phố Hà Nội, về quê thăm nhà ở làng Tó (Thanh Oai) thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông bị đội CCRĐ bắt giữ cùng với anh cần vụ (lính hầu) và xe ô tô, van xin gì cũng không được thả ra. Về sau do một sự tình cờ, chính quyền Hà Nội biết được mới cho người đến nhận ông về. Đại thần của chế độ mà còn bị như thế huống hồ dân đen!
Trong năm 1952, BCT T/Ư Đảng lao động Việt Nam (ĐLĐVN), tức là ĐCS khoác tên mới từ năm 1951, cho làm thí điểm CCRĐ ở sáu xã thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Trong lần thí điểm này có một sự kiện “động trời”: toà án CCRĐ xử tử hình bà Nguyễn Thị Năm, tức là Cát Thành Long, người mà thời trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Lê Giản... Còn trong Tuần lễ Vàng, gia đình bà đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà đã hoạt động trong Hội Phụ nữ, lại có con trai đi bộ đội làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà đã bị quy là địa chủ cường hào ác bá, bị đoàn CCRĐ xử án tử hình, UBCCRĐ TƯ duyệt y và BCT T/Ư ĐLĐVN cũng chuẩn y! Những người lãnh đạo cộng sản trong BCT và đứng đầu chính phủ đã từng được bà che giấu, nuôi ăn, tặng vàng, nay đang làm Chủ tịch nước, Tổng bí thư, uỷ viên BCT, Thủ tướng, phó thủ tướng đã lạnh lùng chuẩn y một cái án tử hình như vậy! Phát súng đầu tiên của CCRĐ nổ vào đầu một người phụ nữ yêu nước đã từng giúp đỡ cho những người cộng sản! Phát súng đó tự nó đã nói lên nhiều điều về các lãnh tụ cộng sản! Nó báo hiệu trước những tai hoạ khôn lường cho toàn dân tộc!
Năm 1953, thực tế là năm bắt đầu tiến hành CCRĐ, năm ĐCS chuẩn bị toàn bộ đường lối, chính sách và “luật pháp hoá” các chính sách của Đảng bằng quyết nghị của Quốc hội, sắc lệnh và nghị định của Chính phủ, thông tư của các bộ. Dựa trên tài liệu chính thức của ĐCS, tôi xin ghi lại những cái mốc lịch sử đau thương của dân tộc ta trong cuộc CCRĐ đẵm máu và nước mắt này:
- cuối tháng 01.1953 – hội nghị lần thứ tư của TW ĐLĐVN để thông qua bản Dự thảo cương lĩnh Đảng về chính sách ruộng đất. Tại hội nghị, ông Hồ đọc báo cáo đề ra nhiệm vụ triệt để giảm tô, tiến tới CCRĐ.
- đầu tháng 03.1953 – Hội đồng Chính phủ họp thảo luận báo cáo của Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng về mục đích, phương châm, kế hoạch phát động quần chúng. Hội đồng Chính phủ đã thông qua các văn bản về chính sách ruộng đất và phát động quần chúng, tức là đã “luật pháp hoá” nghị quyết của TW Đảng.
- 01 – 05.03.1953 – báo Nhân Dân đăng tải bài “Chỉnh đốn chi bộ” của uỷ viên Bộ chính trị ĐLĐVN, trưởng ban tổ chức TW Lê Văn Lương, người trực tiếp phụ trách cuộc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ, và ngày 16.03.1953 – Chính phủ VNDCCH ra thông tư về việc chỉnh đốn chính quyền cấp xã qua việc phát động quần chúng. Đây là những hướng dẫn cho việc gắn liền cuộc Chỉnh đốn tổ chức với CCRĐ, với tinh thần “không dựa vào (thực tế là đánh vào – Người viết) tổ chức cũ mà lập nên tổ chức mới” ở nông thôn!
- 12.04.1953 – Chính phủ VNDCCH ra ba sắc lệnh: 1/ sắc lệnh quy định chính sách ruộng đất, trong đó có việc tịch thu, trưng thu, trưng mua ruộng đất chia cho nông dân; 2/ sắc lệnh quy định việc thành lập Toà án nhân dân ở những nơi phát động quần chúng; 3/ sắc lệnh quy định việc trừng trị những địa chủ ở những nơi phát động quần chúng tiến hành CCRĐ.
- 01.06.1953 – báo Nhân Dân đăng bài về Chương trình CCRĐ.
- tháng 06.1953 – ĐLĐVN tổ chức cái gọi là “đợt chỉnh huấn chính trị” để nâng cao lập trường giai cấp cho cán bộ đảng viên trong cuộc đấu tranh CCRĐ.
- 14.11.1953 – hội nghị lần thứ năm T/Ư và Hội nghị toàn quốc của ĐLĐVN để quyết định tiến hành CCRĐ. Ông Hồ đã phát biểu ý kiến tại hội nghị nhấn mạnh phải “phóng tay phát động quần chúng tiến hành CCRĐ”.
- 01–04.12.1953 – kỳ họp thứ ba của Quốc hội khoá 1, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc báo cáo “Tình hình trước mắt và nhiệm vụ CCRĐ” và ngày 04.12.1953 – Quốc hội nhất trí thông qua Luật CCRĐ. Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh ban hành Luật CCRĐ do Quốc hội thông qua.
Từ đó, bắt đầu các đợt CCRĐ, mà đợt đầu tiến hành ở 47 xã tỉnh Thái Nguyên và 6 xã tỉnh Thanh Hoá, sau đó lan tràn trên khắp miền Bắc, trừ các vùng miền núi. Đợt năm là đợt cuối cùng, phần lớn diễn ra ở các xã đồng bằng Bắc bộ và các vùng bị Pháp chiếm trước đây. May mắn cho đồng bào miền núi, vì ĐLĐVN chủ trương sau khi hoàn thành CCRĐ ở vùng đồng bằng mới làm ở miền núi. Do sự phẫn nộ của quần chúng đã bùng lên dữ dội, nhiều cuộc nổi dậy của nông dân đã nổ ra ở Quỳnh Lưu, Phát Diệm, nên về sau, T/Ư ĐLĐVN chỉ tiến hành cái gọi là “cải cách dân chủ” ở miền núi, nghĩa là dẹp bỏ phong kiến địa phương (tức là các phìa tạo) mà không dùng bạo lực quá mạnh vì sợ dân chúng chạy sang Trung Quốc, Lào... Còn ở huyện Vĩnh Linh tỉnh Quảng Trị, vì nằm sát giới tuyến, tiếp giáp Việt Nam Cộng hoà, nên cũng được chiếu cố, nghĩa là dùng bạo lực vừa phải “để không gây ảnh hưởng xấu đến miền Nam”.
- tháng 09.1956 – hội nghị lần thứ 10 của T/Ư ĐLĐVN kiểm điểm tình hình CCRĐ. Do ảnh hưởng của đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô vạch trần những tội ác của Stalin, do sự bất mãn trong dân chúng, cộng thêm sự phản ứng khá mạnh của cán bộ, T/Ư Đảng buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ và chủ trương sửa sai. Tại hội nghị, T/Ư đã thi hành kỷ luật như sau: Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, chỉ còn làm uỷ viên BCT, còn Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương mất chức uỷ viên BCT, Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TW ĐLĐVN. Ông Hồ Chí Minh kiêm nhiệm Tổng bí thư, còn Lê Duẩn làm bí thư TW, thường trực BCT.
- 29.10.1956 – mít tinh lớn tại Nhà Hát Nhân dân Hà Nội, uỷ viên BCT đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh và TW ĐLĐVN chính thức công nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ. Nhân đây, xin nói rõ: một vài người viết không đúng là cuộc mít tinh tổ chức tại sân vận động Hàng Đẫy và ông Hồ đã đến dự và khóc trước dân chúng. Hà Nội được giao cho việc tổ chức mít tinh nên tôi biết rõ. Hồi đó, chúng tôi được giải thích: “Bác đến không tiện”, nhưng chúng tôi đều hiểu là ông Hồ muốn đưa ông Giáp ra “chịu trận” thay mình, nên không hề có việc ông Hồ khóc trước dân chúng.
*
Ở hải ngoại, cho đến nay cũng
đã có một số tài liệu nói đến những bạo hành, những tội ác trong CCRĐ,
cuốn sách nói về đề tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất (1964, bằng tiếng
Anh) là cuốn “Từ Thực Dân Đến Cộng Sản” của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở
trong nước thì đến nay, chưa có một công trình nghiêm túc nào nghiên
cứu, chưa ra một tiểu thuyết nào viết riêng về đề tài CCRĐ. Tại sao? Dễ
hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa nhận những sai lầm trong CCRĐ, BCT
T/Ư Đảng ra lệnh miệng tuyệt đối cấm không được nói đến đề tài này.
Người đầu tiên “vi phạm” tabou thiêng liêng đó là nhà văn Hà Minh Tuân –
anh đã viết lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài cấm kỵ đó trong tác phẩm
“Vào Đời”. Tức thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán lên là “tư tưởng địa chủ
ngóc đầu dậy”, và anh bị hành hạ hết nước. Từ đó mọi người ai cũng im
re, “lo giữ cái đội nón của mình” (nhóm từ thông dụng hồi đó có nghĩa là
giữ đầu mình)... Mãi sau này, chỉ có vài nhà văn rụt rè mon men đến đề
tài đó mà thôi. Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu
trong nước vượt qua nỗi sợ “truyền kiếp”, dám đề cập đến đề tài đau
thương này một cách nghiêm túc và toàn diện.
Thứ nhất.
Tội tàn sát thường dân vô tội – tội ác chống nhân loại. Người nông dân
Việt Nam hiền hoà, chất phác đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp
vào cuộc kháng chiến chống Pháp, bỗng dưng ĐCS giáng cho họ một đòn chí
mạng. ĐCS nói rằng CCRĐ là một cuộc cách mạng để thực hiện ước mơ muôn
đời của nông dân: “người cày có ruộng” – nhưng thực tế thì không phải
như vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí mạng! Tầng lớp năng nổ,
giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa chủ, phú nông,
thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống, còn một loạt
cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ làm nhiệm vụ lãnh đạo
kháng chiến, sản xuất thì bỗng nhiên bị quy là phản động, gián điệp,
Việt gian, v.v... bị trừng trị, nhiều người bị bắn giết vô cùng man rợ.
Ngay cả nhiều người trung nông, thậm chí một số bần nông cũng “bị kích
lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái gở 5% địa chủ (so với dân số thôn
xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà ĐCS dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ
quái gở 5% đó lại kèm thêm những “kết luận” quái đản khác: đã có địa
chủ, tất phải có cường hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao
nỗi oan khuất không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ
sót”, cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã gây
ra tình trạng “kích thành phần”, “nống thành tích” cố tìm ra nhiều địa
chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá... để có được bằng khen, huân chương,
để ngoi lên địa vị cao hơn... càng làm cho nỗi khổ đau của người dân
tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRĐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và Đặng Thí, phó bí thư khu uỷ, khét tiếng hiếu sát trong CCRĐ, họ đều là trưởng và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Đặng Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: một đội tới làm CCRĐ ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở đây). Đặng Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa chủ. Đội sợ trên “đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì... Liếc mắt qua không thấy có danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn” vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRĐ kể lại chuyện thương tâm này. Đội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn! Làng nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là “đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”. Địa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi “cổ máy nghiền thịt” của Đảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì ĐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi được Thành uỷ Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRĐ ở ngoại thành Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Đôi khi chúng tôi cũng nói chuyện với nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông: trong CCRĐ có bao nhiêu người bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi thêm cụ thể hơn – thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Đảng. Cho đến nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRĐ và Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán là chừng năm-sáu nghìn người. Đó là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý do khác, như tự tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v... Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số về người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân loại!
Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hoả mù” chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Đảng mà thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ... thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dở ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Đó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này làm được là trả tự do cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của T/Ư ĐLĐVN hồi tháng 09.1956, T/Ư buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, người ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ TW Đảng không nghiêm khắc tự phê phán mình, họ vẫn coi “đường lối của T/Ư về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư khẳng định: CCRĐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi lớn”. Điều đó nói lên sự giả dối, nguỵ biện, sự không thực lòng hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa sai được?! Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo CCRĐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là uỷ viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời, đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui chột trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác liệt nhất” chẳng những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành uỷ Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi T/Ư Đảng thì lại cho làm uỷ viên thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước! Trái lại, người ngoài Đảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ĐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRĐ và đưa ra những đề nghị hợp lý thì Đảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TW Đảng thành thực sám hối về những sai lầm, những tội ác của mình hay không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến ngày nay, ĐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRĐ đã giành được thắng lợi lớn: “thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân - đem lại ruộng đất cho người cày. Đây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được chia đó thì năm 1957-1958, ĐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể hoá nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của họ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của Đảng? Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến pháp, Đảng đã nhẹ nhàng quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất trong cả nước! Thế thì làm sao có thể nói là Đảng “đem lại ruộng đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của dân tộc. Truyền thống hiếu hoà, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt Nam được dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm đã bị ĐCS phá vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRĐ. Nếu ai đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”, trước CCRĐ đều cảm nhận cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách” còn khá đậm đà trong mối quan hệ giữa người với người. Cố nhiên, không ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần chung ở nông thôn ta là như vậy. Với cái chính sách “phân định thành phần giai cấp”, ĐCS chia cư dân nông thôn thành cố nông, bần nông, trung nông (có ba loại, trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng), phú nông (có hai loại, phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa chủ – đây là “sáng kiến” của người chấp hành để khi cần thì dễ “kích” họ lên địa chủ, chứ trong chính sách thì không chia ra), địa chủ (có mấy loại, địa chủ yêu nước và kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào ác bá, địa chủ phản động). Sự phân chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất cả đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của “đội” (khi trên bắt phải đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác bá, phản động để bắn, thì cứ phải “kích” lên cho đủ số), do ý muốn chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, thấy thái độ của đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên cho bõ ghét). Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì phải “tố khổ”, phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với lối xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến trong CCRĐ, nên từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau. Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị đội CCRĐ coi là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v... cuối cùng thì ai cũng tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình. Đây là số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rễ”, làm “cốt cán”, làm cán bộ, để được chia “quả thực” nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo túng vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử lưu manh, nhưng thường lại được đội coi như là bần cố nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm... hoàn thành nhiệm vụ của đội. Một điều kỳ quái cần nói nữa là: mọi lời “tố” của nông dân đều không cần bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng! Không cần có bất cứ một sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận” chung hồi đó là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao động đã nói là đúng”. Thế là không còn ai cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư hay chủ tịch uỷ ban kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Đảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ chỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRĐ làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRĐ... Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc, hoà hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá huỷ từ ngày CCRĐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác?
Thứ ba. Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên một cách quái đản như trong CCRĐ. Các đội CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó – đội tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”! Ngay cả đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó! Đúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc bị kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ mới. Đến sau này thấy sai, người bị bắt đi tù nay được trở về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để “giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn được tình cảm yêu thương trong gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệt như thế – để giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với người yêu thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Đây cũng là một nét về đạo đức nữa cần phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả dối trắng trợn được đề cao như trong CCRĐ. Chẳng cần phải nói tới việc các “anh đội”, “chị đội” báo cáo láo cho đoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở đây chính là người ta ép buộc, khuyến khích người nông dân nói dối, làm láo. Dần dà rồi người nông dân cũng thấy cần phải nói dối, làm láo để “qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ cũng “tố bậy”, “tố điêu” dù trong thâm tâm biết mình đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ phải trả giá đắt cho điều đó. Cho nên cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Đội cũng dạy thêm cho nông dân quen làm những việc giả dối, chẳng hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh xuất hiện hình địa chủ thì phải hô “đả đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình địa chủ để tỏ lòng uất hận của mình. Thế là nông dân cũng làm theo. Tất nhiên, cũng không loại trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám đông”, khi người ta hành động như trong một cơn lên đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần chiếu phim “Bạch Mao Nữ” củaTrung Quốc, thì có nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện hình địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh. Chính vì thế, các diễn viên kịch thường từ chối lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của UBCCRĐTW là trong các cuộc đấu địa chủ, nhất là địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để ra “đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi “rễ”, “chuỗi”, dân quân, công an, toà án, chủ tịch đoàn... đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên “đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người “tố” phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả đảo” (khi người bị “tố” không nhận tội...), lúc nào thì bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì “hoan hô” (khi toà tuyên án tử hình, tịch thu tài sản...). Chủ tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta lúng túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra “đấu trường”, thường “anh đội”, “chị đội” phải ngồi sau lưng nhắc, như người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc mãi không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội” giật micro và điều khiển luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết ngượng! Nhưng cái nguy hại chính là sự giả dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và người dân, tạo nên một nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội phá huỷ truyền thống tâm linh và văn hoá của dân tộc. Bằng cuộc CCRĐ, ĐCS cố tình triệt hạ các tôn giáo và truyền thống tâm linh của dân tộc. Trước CCRĐ, các nhà thờ Thiên chúa giáo, các tu viện, nhà cô nhi... đều có ruộng đất riêng, các chùa có ruộng hậu do tín chủ cúng cho chùa, các nhà thờ họ có ruộng họ, các đình có ruộng làng... để lo việc sửa sang, tu bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng tế hàng năm, việc từ thiện, v.v... và để nuôi sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người chuyên lo việc trông nom, thờ phụng... Nhờ thế hoạt động tôn giáo, tâm linh, từ thiện được tiến hành bình thường không có trở ngại. Nhưng với chính sách CCRĐ của ĐCS, tất cả các ruộng đất đó đều nhất loạt bị coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng thu để chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa đó, tất cả các nhà thờ, tu viện, nhà cô nhi, chùa chiền, điện thờ, miếu mạo, nhà thờ họ, đình... đều trở nên điêu đứng và đần dần tàn tạ. Riêng đối với nhà thờ Thiên chúa giáo, do phong trào giáo dân ồ ạt di cư vào Nam, nên về sau Đảng đã phải để lại cho các nhà thờ một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng các cơ sở thờ cúng vào việc họp hành, đóng quân, làm hội trường, làm kho hợp tác xã mua bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v... Có nơi thậm chí người ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con tín đồ bí mật cứu các tượng Phật, đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần lớn các tượng gỗ đều mục nát, thế nhưng cũng có ít tượng còn giữ được, vào thập niên 80 bà con mới đưa lại vào chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xoá bỏ. Chữ “thiện”, chữ “nhân” một thời gian dài chẳng ai dám nói đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến chữ “thiện”, chữ “nhân” thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối! Trong lúc đó, người ta lại đề cao bạo lực, cổ vũ đấu tranh giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất nhân, điều vô đạo. Một điều rất quái dị trong CCRĐ mà ĐCS lại coi là tự nhiên hoặc là cần thiết: người ta thường xuyên huy động các cháu thiếu niên từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRĐ. Bắt chúng mang trống ếch đi cổ động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự các cuộc đấu tố, các phiên toà CCRĐ, các buổi hành quyết công khai. Nhiều cháu, nhất là các cháu gái, vốn có tâm lý hiền lành bị bắt buộc phải tham gia, đã không chịu nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu ngất xỉu trước cảnh hãi hùng, súng bắn, máu đổ... Còn các cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại thích thú hoan hô, thậm chí sau khi “được” tham dự những cảnh tượng đó, có nơi chúng lại bày trò chơi “đấu tố”, bắt con cái địa chủ quỳ để con cái nông dân lên đấu, cũng xỉa xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội... Chẳng biết có ai xúi giục không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra những “trò chơi” quái đản đó! Khi cái thiện bị nén xuống mà cái ác được cổ vũ, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên là đạo đức bị suy đồi, băng hoại dưới chế độ của những người cộng sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ “cởi trói”, đã được đọc truyện ngắn “Bước Qua Lời Nguyền” của Tạ Duyên Anh đăng trên tuần báo “Văn Nghệ” (1989) ở Hà Nội, truyện đó phản ánh phần nào tấn bi kịch của giới trẻ nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc CCRĐ đầy kinh hoàng.
Không những CCRĐ đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo lý và truyền thống nhân bản, mà nền văn hoá dân tộc cũng vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều miếu đền uy nghiêm bề thế, nhiều bia đá là những di tích văn hoá lâu đời của dân tộc đã bị huỷ hoại trong CCRĐ. ĐCS giấu kín những chuyện này, nhưng cũng có thể nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần, trong và ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm. Chẳng hạn, cụ Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, gọi thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đời thứ 11 là bác. Đầu năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và đoàn CCRĐ quy là địa chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống) lại bị “kích” lên thành phần phong kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi), mà thật ra cụ không hề nhận chức tước, phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật. Cụ bị đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm tù khổ sai, bị giam ở trại Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên ngay mùa thu năm ấy, cụ bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác ở ven rừng. Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất hận là nỗi đau lớn, nhưng nỗi đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị quy oan như vậy, mà đội CCRĐ đã phá huỷ nhiều đền đài, bia, miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa đã đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó có di cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất mát lớn lao về văn hoá không có gì bù lại được! (Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của Đặng Cao Ruyện, NXB Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện này nữa. Trong cuộc hội nghị cán bộ do TW Đảng triệu tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong CCRĐ hồi tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận, lúc đó là thứ trưởng Bộ văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã bị đội CCRĐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp tốc thuê làm bia khác giống hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ cũ và phải tuyệt đối giữ bí mật để không ai biết là bia mới! Tôi không có điều kiện kiểm chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ trưởng văn hoá lại nói sai?!
Một anh bạn đi làm CCRĐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu uỷ, và Đặng Thí, phó bí thư khu uỷ, khét tiếng hiếu sát trong CCRĐ, họ đều là trưởng và phó đoàn CCRĐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Đặng Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: một đội tới làm CCRĐ ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở đây). Đặng Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa chủ. Đội sợ trên “đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại cho Đặng Thí thì... Liếc mắt qua không thấy có danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn” vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Đặng Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRĐ kể lại chuyện thương tâm này. Đội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn! Làng nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là “đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”. Địa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi “cổ máy nghiền thịt” của Đảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì ĐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi được Thành uỷ Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRĐ ở ngoại thành Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Đôi khi chúng tôi cũng nói chuyện với nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông: trong CCRĐ có bao nhiêu người bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi thêm cụ thể hơn – thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Đảng. Cho đến nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRĐ và Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán là chừng năm-sáu nghìn người. Đó là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý do khác, như tự tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v... Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số về người bị thiệt mạng trong CCRĐ vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân loại!
Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hoả mù” chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Đảng mà thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ... thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dở ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Đó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này làm được là trả tự do cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của T/Ư ĐLĐVN hồi tháng 09.1956, T/Ư buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, người ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ TW Đảng không nghiêm khắc tự phê phán mình, họ vẫn coi “đường lối của T/Ư về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư khẳng định: CCRĐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi lớn”. Điều đó nói lên sự giả dối, nguỵ biện, sự không thực lòng hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Đảng sửa sai được?! Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo CCRĐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là uỷ viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời, đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui chột trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác liệt nhất” chẳng những trong CCRĐ mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành uỷ Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi T/Ư Đảng thì lại cho làm uỷ viên thường trực Uỷ ban Kế hoạch nhà nước! Trái lại, người ngoài Đảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ĐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRĐ và đưa ra những đề nghị hợp lý thì Đảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TW Đảng thành thực sám hối về những sai lầm, những tội ác của mình hay không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến ngày nay, ĐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRĐ đã giành được thắng lợi lớn: “thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân - đem lại ruộng đất cho người cày. Đây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được chia đó thì năm 1957-1958, ĐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể hoá nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của họ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của Đảng? Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến pháp, Đảng đã nhẹ nhàng quốc hữu hoá toàn bộ ruộng đất trong cả nước! Thế thì làm sao có thể nói là Đảng “đem lại ruộng đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai. Tội phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của dân tộc. Truyền thống hiếu hoà, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông thôn Việt Nam được dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm đã bị ĐCS phá vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRĐ. Nếu ai đã từng sống ở nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”, trước CCRĐ đều cảm nhận cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách” còn khá đậm đà trong mối quan hệ giữa người với người. Cố nhiên, không ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột, nhưng tinh thần chung ở nông thôn ta là như vậy. Với cái chính sách “phân định thành phần giai cấp”, ĐCS chia cư dân nông thôn thành cố nông, bần nông, trung nông (có ba loại, trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng), phú nông (có hai loại, phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa chủ – đây là “sáng kiến” của người chấp hành để khi cần thì dễ “kích” họ lên địa chủ, chứ trong chính sách thì không chia ra), địa chủ (có mấy loại, địa chủ yêu nước và kháng chiến, địa chủ thường, địa chủ cường hào ác bá, địa chủ phản động). Sự phân chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất cả đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của “đội” (khi trên bắt phải đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác bá, phản động để bắn, thì cứ phải “kích” lên cho đủ số), do ý muốn chủ quan của “ông đội” (nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, thấy thái độ của đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên cho bõ ghét). Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì phải “tố khổ”, phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với lối xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến trong CCRĐ, nên từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau. Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì không muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị đội CCRĐ coi là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v... cuối cùng thì ai cũng tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng mình. Đây là số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để ngoi lên làm “rễ”, làm “cốt cán”, làm cán bộ, để được chia “quả thực” nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo túng vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử lưu manh, nhưng thường lại được đội coi như là bần cố nông để dựa, o bế, sử dụng nhằm... hoàn thành nhiệm vụ của đội. Một điều kỳ quái cần nói nữa là: mọi lời “tố” của nông dân đều không cần bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều được coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng! Không cần có bất cứ một sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận” chung hồi đó là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao động đã nói là đúng”. Thế là không còn ai cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư hay chủ tịch uỷ ban kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Đảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Đảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ chỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRĐ làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Đến khi ĐCS tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: những vụ ẩu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRĐ... Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc, hoà hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá huỷ từ ngày CCRĐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác?
Thứ ba. Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên một cách quái đản như trong CCRĐ. Các đội CCRĐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó – đội tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”! Ngay cả đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó! Đúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc bị kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ liên luỵ phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ mới. Đến sau này thấy sai, người bị bắt đi tù nay được trở về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để “giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn được tình cảm yêu thương trong gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng một tờ thông tư vô hồn của Bộ tư pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệt như thế – để giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với người yêu thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Đây cũng là một nét về đạo đức nữa cần phải nói đến. Chưa bao giờ sự giả dối trắng trợn được đề cao như trong CCRĐ. Chẳng cần phải nói tới việc các “anh đội”, “chị đội” báo cáo láo cho đoàn, vì nó quá thường, mà cái cần vạch ra ở đây chính là người ta ép buộc, khuyến khích người nông dân nói dối, làm láo. Dần dà rồi người nông dân cũng thấy cần phải nói dối, làm láo để “qua khỏi cái đận CCRĐ”, họ cũng “tố bậy”, “tố điêu” dù trong thâm tâm biết mình đang nói dối, vu khống. Cũng có người cố giữ lương tâm trong sạch, nhưng thường họ phải trả giá đắt cho điều đó. Cho nên cơn dịch dối trá cứ lan tràn. Đội cũng dạy thêm cho nông dân quen làm những việc giả dối, chẳng hạn như dặn họ: khi thấy trên màn ảnh xuất hiện hình địa chủ thì phải hô “đả đảo”, hay vừa hô vừa ném đá vào hình địa chủ để tỏ lòng uất hận của mình. Thế là nông dân cũng làm theo. Tất nhiên, cũng không loại trừ cái hiện tượng gọi là “tâm lý đám đông”, khi người ta hành động như trong một cơn lên đồng tập thể. Chẳng hạn, mỗi lần chiếu phim “Bạch Mao Nữ” củaTrung Quốc, thì có nhiều người khóc nức nở, và khi xuất hiện hình địa chủ là bên dưới ào ào ném đá vào màn ảnh. Chính vì thế, các diễn viên kịch thường từ chối lên sân khấu đóng vai địa chủ vì sợ vỡ đầu sứt trán.
Chủ trương của UBCCRĐTW là trong các cuộc đấu địa chủ, nhất là địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để ra “đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi “rễ”, “chuỗi”, dân quân, công an, toà án, chủ tịch đoàn... đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên “đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào người “tố” phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô “đả đảo” (khi người bị “tố” không nhận tội...), lúc nào thì bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!), lúc nào thì “hoan hô” (khi toà tuyên án tử hình, tịch thu tài sản...). Chủ tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”, cốt cán mới đào tạo trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu, lúng ta lúng túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra “đấu trường”, thường “anh đội”, “chị đội” phải ngồi sau lưng nhắc, như người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc mãi không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội” giật micro và điều khiển luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò giả dối lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết ngượng! Nhưng cái nguy hại chính là sự giả dối đó cứ thấm dần vào tiềm thức cán bộ và người dân, tạo nên một nếp sống giả dối vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tư. Tội phá huỷ truyền thống tâm linh và văn hoá của dân tộc. Bằng cuộc CCRĐ, ĐCS cố tình triệt hạ các tôn giáo và truyền thống tâm linh của dân tộc. Trước CCRĐ, các nhà thờ Thiên chúa giáo, các tu viện, nhà cô nhi... đều có ruộng đất riêng, các chùa có ruộng hậu do tín chủ cúng cho chùa, các nhà thờ họ có ruộng họ, các đình có ruộng làng... để lo việc sửa sang, tu bổ nhà thờ, chùa, đình, cúng tế hàng năm, việc từ thiện, v.v... và để nuôi sống các linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người chuyên lo việc trông nom, thờ phụng... Nhờ thế hoạt động tôn giáo, tâm linh, từ thiện được tiến hành bình thường không có trở ngại. Nhưng với chính sách CCRĐ của ĐCS, tất cả các ruộng đất đó đều nhất loạt bị coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng thu để chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa đó, tất cả các nhà thờ, tu viện, nhà cô nhi, chùa chiền, điện thờ, miếu mạo, nhà thờ họ, đình... đều trở nên điêu đứng và đần dần tàn tạ. Riêng đối với nhà thờ Thiên chúa giáo, do phong trào giáo dân ồ ạt di cư vào Nam, nên về sau Đảng đã phải để lại cho các nhà thờ một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng các cơ sở thờ cúng vào việc họp hành, đóng quân, làm hội trường, làm kho hợp tác xã mua bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v... Có nơi thậm chí người ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều nơi bà con tín đồ bí mật cứu các tượng Phật, đem chôn, đem giấu hầm kín, sau này phần lớn các tượng gỗ đều mục nát, thế nhưng cũng có ít tượng còn giữ được, vào thập niên 80 bà con mới đưa lại vào chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm linh hoàn toàn bị xoá bỏ. Chữ “thiện”, chữ “nhân” một thời gian dài chẳng ai dám nói đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến chữ “thiện”, chữ “nhân” thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối! Trong lúc đó, người ta lại đề cao bạo lực, cổ vũ đấu tranh giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất nhân, điều vô đạo. Một điều rất quái dị trong CCRĐ mà ĐCS lại coi là tự nhiên hoặc là cần thiết: người ta thường xuyên huy động các cháu thiếu niên từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRĐ. Bắt chúng mang trống ếch đi cổ động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự các cuộc đấu tố, các phiên toà CCRĐ, các buổi hành quyết công khai. Nhiều cháu, nhất là các cháu gái, vốn có tâm lý hiền lành bị bắt buộc phải tham gia, đã không chịu nổi, run sợ, khiếp đảm, có cháu ngất xỉu trước cảnh hãi hùng, súng bắn, máu đổ... Còn các cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại thích thú hoan hô, thậm chí sau khi “được” tham dự những cảnh tượng đó, có nơi chúng lại bày trò chơi “đấu tố”, bắt con cái địa chủ quỳ để con cái nông dân lên đấu, cũng xỉa xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội... Chẳng biết có ai xúi giục không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra những “trò chơi” quái đản đó! Khi cái thiện bị nén xuống mà cái ác được cổ vũ, thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên là đạo đức bị suy đồi, băng hoại dưới chế độ của những người cộng sản. Tôi còn nhớ trong thời kỳ “cởi trói”, đã được đọc truyện ngắn “Bước Qua Lời Nguyền” của Tạ Duyên Anh đăng trên tuần báo “Văn Nghệ” (1989) ở Hà Nội, truyện đó phản ánh phần nào tấn bi kịch của giới trẻ nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc CCRĐ đầy kinh hoàng.
Không những CCRĐ đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo lý và truyền thống nhân bản, mà nền văn hoá dân tộc cũng vì nó mà bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều miếu đền uy nghiêm bề thế, nhiều bia đá là những di tích văn hoá lâu đời của dân tộc đã bị huỷ hoại trong CCRĐ. ĐCS giấu kín những chuyện này, nhưng cũng có thể nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần, trong và ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm. Chẳng hạn, cụ Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, gọi thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đời thứ 11 là bác. Đầu năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và đoàn CCRĐ quy là địa chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống) lại bị “kích” lên thành phần phong kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi), mà thật ra cụ không hề nhận chức tước, phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật. Cụ bị đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm tù khổ sai, bị giam ở trại Đâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên ngay mùa thu năm ấy, cụ bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác ở ven rừng. Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất hận là nỗi đau lớn, nhưng nỗi đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ bị quy oan như vậy, mà đội CCRĐ đã phá huỷ nhiều đền đài, bia, miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn Tiên Điền và nghiêm trọng hơn nữa đã đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy thư tịch quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, trong đó có di cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất mát lớn lao về văn hoá không có gì bù lại được! (Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ Nguyễn Du” của Đặng Cao Ruyện, NXB Miền Đông Hoa Kỳ, 2002, tr. 200, 201).
Còn một chuyện này nữa. Trong cuộc hội nghị cán bộ do TW Đảng triệu tập sau khi có nghị quyết sửa sai trong CCRĐ hồi tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận, lúc đó là thứ trưởng Bộ văn hoá, nói ở cuộc họp tổ là tấm bia đá của Lê Lợi đã bị đội CCRĐ phá huỷ. Bộ văn hoá phải cấp tốc thuê làm bia khác giống hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ cũ và phải tuyệt đối giữ bí mật để không ai biết là bia mới! Tôi không có điều kiện kiểm chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ trưởng văn hoá lại nói sai?!
*
Như trên tôi đã viết, tuy là
chuyện CCRĐ đã qua từ lâu rồi, nhưng ngày nay, vẫn cần phải nói đến, vì
ngày nay tập đoàn lãnh đạo ĐCS đang cố viết lại lịch sử, đang cho bọn
bồi bút xuyên tạc lịch sử để chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho ĐCSVN
trong CCRĐ và cả trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói công bằng
là trước năm 1950, ông Hồ và ĐCSVN không nói đến CCRĐ, chỉ nói đến giảm
tô, mà cũng chỉ trên giấy tờ và rất coi nhẹ việc thực hiện. Chỉ từ năm
1952, vấn đề giảm tô và CCRĐ mới đặt ra một cách gắt gao. Như vậy có thể
nói là việc CCRĐ là do sức ép của Stalin và Mao Trạch Đông. Nhưng khi
ông Hồ đã nhận làm CCRĐ là ông và ĐCSVN đã làm một cách tin tưởng và
tích cực. Cũng có thể do yếu tố tâm lý của một người trước đây đã từng
bị Stalin và Quốc tế Cộng sản coi là hữu khuynh, thậm chí bị nghi ngờ,
không giao việc trong thời hạn dài, nay lại bị nhận xét là coi nhẹ nhiệm
vụ phản phong, thì ông càng phải cố tỏ rõ tinh thần mẫn cán, kiên quyết
của mình. Quả là hồi đó, ông Hồ và ĐCSVN cũng thật tình rất tin tưởng
vào Stalin và Mao Trạch Đông. Chẳng thế mà ông đã công khai nói trước
hội nghị cán bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc để chuẩn bị cho đại hội 2
của ĐCS sẽ họp năm sau là: “Các cô các chú nên biết rằng: ai đó thì có
thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể
nào sai được”. Chính tôi có mặt trong cuộc hội nghị đó, tôi nghe rõ,
nhiều người khác cũng nghe rõ như thế, có điều bây giờ họ không muốn hay
không dám nhắc lại mà thôi. Đến đại hội 2 của Đảng (tháng 03.1951), ông
Hồ lại cũng nói đúng như thế, và cụ Nguyễn Văn Trấn cũng đã kể lại
chuyện đó trong sách của cụ “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”. Cho nên ông Hồ
làm CCRĐ rõ ràng với sự tin tưởng và tích cực. Vì thế, không phải ngẫu
nhiên mà cụ Vũ Đình Huỳnh, người gần gũi ông nhất thời gian đó sau này
đã “khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong sự gây ra những sai
lầm trong CCRĐ là ông Hồ Chí Minh, chứ không phải ông Trường Chinh, như
đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho
sai lầm của ông Hồ” (xem “Đêm Giữa Ban Ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên).
Theo tôi, đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm chính, như cụ Vũ đã nói,
nhưng Trường Chinh chẳng phải là “con dê tế thần” với cái nghĩa “oan
dương” đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư, vừa là chủ nhiệm UBCCRĐTW, ông
ta là người điều hành mọi việc CCRĐ hồi đó, cho nên, nếu Trường Chinh
không phải là thủ phạm số một thì cũng phải là thủ phạm số hai. Cái ý
của cụ Vũ, theo tôi hiểu, là TW Đảng trong hội nghị lần thứ 10 (09.1956)
đã không đả động gì đến Hồ Chí Minh, đã không dám nói đến trách nhiệm
của ông Hồ (vì thi hành kỷ luật Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước thì... ôi
thôi, ĐCS còn gì nữa!) mà chỉ đưa Trường Chinh và các ông khác ra “chịu
trận” mà thôi. Sau này, trong giới thân cận với giai cấp cầm quyền,
có những người hay tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh không tán
thành chủ trương CCRĐ, không tán thành việc xử tử bà Nguyễn Thị Năm,
không tán thành làm Chỉnh đốn tổ chức trong CCRRĐ, v.v... Nhưng, xét cho
cùng, loại chuyện đó chỉ là những huyền thoại không hơn không kém.
Những huyền thoại ấy nhằm đánh lừa những người không biết tình hình thực
tế hồi thập niên 50 ở miền Bắc và những thế hệ trẻ hậu sinh, nhằm chạy
tội cho ông Hồ để vớt vát cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm phao cứu
mạng cho tập đoàn thống trị cộng sản. Hoàng Tùng, nguyên tổng biên tập
báo Nhân Dân, nguyên bí thư TW ĐCSVN, nhiều năm làm tuyên huấn, v.v...
là một trong số những “chuyên gia” sáng tác huyền thoại kiểu đó. Trong
hồi ký “Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, ông ta có kể lại về thái độ của ông Hồ
đối với án tử hình bà Nguyễn Thị Năm như sau: “Họp Bộ chính trị Bác
nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không
phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy
cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ
đánh bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc La Quý Ba đề nghị mãi,
Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải”. Và họ
cứ thế làm” (xem đoạn trích, đăng trên tờ “Diễn Đàn Forum” ở Paris, số
123/11.2002, tr.15). Khi kể chuyện này, Hoàng Tùng đã cố lờ đi mấy điều
thực tế lịch sử rất quan trọng: 1/ vào thời điểm nửa đầu thập niên 50,
uy thế của ông Hồ trong Đảng là tuyệt đối, một lời của ông đã nói ra thì
không một ai, kể cả các ông trong BCT, dám làm trái ý ông hết; 2/ tất
cả các ông trong BCT TW, không trừ một ai hết, đều răm rắp giữ đúng tư
cách một người học trò khiêm tốn, không bao giờ được phép quyết định
những chủ trương lớn mà không có ý kiến ông, huống hồ là việc làm trái ý
ông. Hồi 1952-1953 thì không thể nào có chuyện “Thôi tôi theo đa số” và
“Và họ cứ thế làm” được! Nếu thật sự ý thức được là “không nên đánh đàn
bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa”, mà ông Hồ chỉ lắc đầu một cái thôi,
chứ không cần phải nói nhiều lời như Hoàng Tùng kể, thì chắc chắn là
ông đã cứu được bà Nguyễn Thị Năm! Mà không chỉ một mình bà Năm! Thêm
nữa, cái chữ “họ” trong câu của Hoàng Tùng “Và họ cứ thế làm” rất mập
mờ: “họ” là ai? Các ông trong BCT hay các cố vấn? Các ông trong BCT thì
chắc chắn là không. Còn các ông cố vấn có thể họ trái ý với ông Chủ tịch
nước, Chủ tịch Đảng của Việt Nam, nhưng họ không thể bắt ép ông được,
họ chỉ là cố vấn, chứ không có quyền biểu quyết, quyết định. Những cơ
quan nào đã từng làm việc với cố vấn Trung Quốc hồi đó đều biết cái
nguyên tắc đó. Cho nên có thể khẳng định rằng: Trong vụ án Nguyễn Thị
Năm, đúng là ông Hồ đã không cứu bà Năm. Cũng như sau này, trong vụ án
Xét lại – chống Đảng, ông đã không cứu ông Vũ Đình Huỳnh. Dù rằng ông
biết rõ về họ.
Hơn nữa, một câu hỏi hoàn toàn chính đáng được đặt
ra: trong suốt ba-bốn năm đằng đẵng lẽ nào ông Hồ và BCT không hề hay
biết gì hết đến những thảm hoạ của người dân ở nông thôn mà họ cai trị
hay sao? Lẽ nào ông Hồ, Trường Chinh và các ông khác trong BCT không
biết rằng ở quê hương mình những người đồng hương của họ đang khốn khổ
ra sao? Lẽ nào trong giới thân cận của ông Hồ và các uỷ viên BCT không
có một ai dám phản ánh tình trạng bi đát của người dân cho họ biết hay
sao? Câu trả lời dứt khoát là: các ông ấy đều có biết, nhưng các ông đều
im lặng! Im lặng đến nỗi ông Vũ Đình Huỳnh một lần đang ốm cũng cố
chống gậy lên Chủ tịch phủ gặp ông Hồ và nói toạc vào mặt ông: “Máu đồng
bào, đồng chí đã đổ mà Bác ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học,
chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa xây dựng chính quyền, vì dốt nát
chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta
nhuốm máu đồng bào, đồng chí!” (Xem “Đêm Giữa Ban Ngày”). Hoàng Tùng
cũng đã lờ tịt cái thực tế lịch sử phũ phàng này: Trong suốt thời gian
CCRĐ, ông Hồ, với tư cách là Chủ tịch nước, chưa hề ký một lệnh ân xá
nào cho một ai bị án tử hình. Chỉ từ sau Đại hội lần thứ 20 ĐCS Liên Xô
và nhất là sau hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp của Đảng (từ 28.04
đến 03.05.1956), do phản ứng rất mạnh của cán bộ thì mới có lệnh tạm
thời chưa thi hành các án tử hình. Nhưng, than ôi, lúc đó thì... CCRĐ về
cơ bản đã gần xong rồi! Lúc đó các đoàn và UBCCRĐTW đang bắt tay làm
báo cáo tổng kết để chuẩn bị cho hội nghị TW Đảng kiểm điểm CCRĐ (tháng
09.1956).
Ngay cả việc Chỉnh đốn tổ chức trong CCRĐ, Hoàng Tùng cũng
cố tình đổ lỗi cho cố vấn Trung Quốc là chính, chứ không phải lỗi của
ông Hồ và ĐCSVN. Ông Tùng viết: “Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức
cũ mà tổ chức lại một số tổ chức của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức
khác, như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám
thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế
mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích
của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào Đảng ta. May mà dến năm 1956 ta
kịp dừng lại (bao nhiêu đầu rơi, máu đổ và CCRĐ cũng đã gần xong, thế
mà bảo là “kịp”! – Người viết), nếu không thì tan nát hết”. Một đoạn
khác: “Đánh thuế công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung
Quốc đề ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội cho
Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta vội, làm ẩu, đánh tràn
hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm chí trung nông cũng đánh.
Đảng viên tốt cũng bị đánh. Kết quả của những chính sách, cải cách lúc
đó là như thế” (xem tờ “Diễn Đàn Forum” nói trên). Đúng là các cố vấn
Trung Quốc chỉ biết có kinh nghiệm CCRĐ ở Hoa Nam, khi Hồng quân tiến
xuống phía Nam, hầu như không có cơ sở tổ chức của ĐCS, nên có nhiều
người không phải cộng sản cũng đã đứng ra lập tổ chức, lập chính quyền,
vì thế khi làm CCRĐ thì ĐCS Trung Quốc cố tình nhân cơ hội ấy quét sạch
các tổ chức đó đi lập những tổ chức mới của họ. Còn ở miền Bắc Việt Nam,
tình hình hoàn toàn khác hẳn. Không thể làm rập khuôn theo kinh nghiệm
Hoa Nam được. Tôi cũng chẳng thích gì các cố vấn Trung Quốc, nhưng tôi
nghĩ rằng cần phải xét vấn đề khách quan theo đúng sự thật lịch sử, chứ
không thể đổ lỗi, đổ tội tùm lum cho họ tất cả được. Ông Hồ và BCT TW
ĐLĐVN sống và làm việc ở Việt Nam, có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông
cố vấn Trung Quốc xúi gì là làm nấy? Chẳng qua chỉ vì khi đã say men
“lập trường giai cấp đấu tranh”, say men Marxisme-Leninisme, Stalinisme,
Maoisme... trong cuộc lên đồng tập thể, thì chính các ông lãnh tụ cộng
sản Việt Nam cũng “hăng hái” không kém gì người ta. Tôi còn nhớ, có lần
đọc bài nói chuyện của ông Hồ với cán bộ CCRĐ đăng trên tờ nội san “Cải
cách Ruộng đất” (tạp chí lưu hành trong nội bộ), trong đó ông giải thích
rất mộc mạc chủ trương không được dựa vào tổ chức cũ như sau: “Tổ chức
cũ là “tổ kén”, các cô, các chú không được dựa vào...”. Lại cũng cái lối
dùng hình ảnh như việc uốn tre đã nói trên! Năm 1962, khi nói chuyện về
Tuyển tập Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Kiến Giang, lúc đó là phó giám đốc
Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng: “Làm tuyển tập đó chúng tôi mệt lắm,
phải rà soát lại cả, bao nhiêu bài nói của ông cụ trong CCRĐ phải loại
bỏ hay thu gọn lại”. Tôi hỏi anh có nhớ bài ông cụ nói “Tổ chức cũ là
“tổ kén” không? Anh trả lời: “Có chứ! Bài đó phải loại bỏ. Cán bộ đảng
viên nông thôn người ta đang oán giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế
nào được!”. Nếu ông Hồ không tán thành chủ trương của các cố vấn đối với
tổ chức cũ ở nông thôn thì có ai bắt ông phải nói thế đâu?
Tôi kể
lại những chuyện đó chỉ để đi đến kết luận này: ĐCSVN chớ nên đổ lỗi, đổ
tội cho ai cả, mà cần thấy hết cái trách nhiệm lớn lao của mình trong
CCRĐ. Chừng nào ĐCSVN chưa sám hối được về những tội ác đã gây ra, thì
người dân chớ có hy vọng là Đảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và sẽ không tái
diễn lại những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi người đừng quên: CCRĐ
không phải là thảm hoạ đầu tiên, cũng chẳng phải là thảm hoạ cuối cùng
mà tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi
không kể những thảm hoạ trước CCRĐ, mà chỉ nói ngay liền sau CCRĐ là vụ
án Nhân Văn – Giai Phẩm, vụ án Xét lại – chống Đảng, rồi Cải tạo công
thương nghiệp, đánh đổ tư sản ở miền Bắc, rồi cái nghị quyết số
49/NQ/TVQH của Thường vụ Quốc hội do Trường Chinh ký ngày 20.06.1961,
nhốt hàng chục vạn người vô tội ở miền Bắc vào các trại tập trung khủng
khiếp, rồi Tết Mậu Thân, v.v... và v.v... Nếu kể hết thì ta thấy cả một
chuỗi dài tội ác khủng khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến tận
ngày nay. Cố nhiên, ngày nay người ta dùng thủ đoạn tinh vi hơn, nhưng
bản chất tội ác vẫn thế. Tội ác mới gần đây nhất là vụ án Lê Chí
Quang, xử một nhà yêu nước chân thành, một chí sĩ đáng kính dù chỉ mới
ngoài ba mươi tuổi! Cái “tội” của anh là đã dũng cảm dấn thân vì nước,
đã dám kêu gọi đám cầm quyền hiện nay hãy cảnh giác kẻo mang tội bán
nước cho Bắc triều, đã dám đứng chân vào “Hội Nhân Dân Chống Tham Nhũng”
những mong trừ được quốc nạn cho dân tộc. Tập đoàn thống trị cộng sản
Việt Nam đã trắng trợn bày trò xử án để tống người thanh niên yêu nước
vào tù, người thanh niên đã từng tuyên bố đanh thép chí hướng của anh
trong bài tiểu luận nổi tiếng “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”: “Tôi viết
bài này khi đang bị kìm kẹp trong vòng nghiệt ngã của các lực lượng bảo
thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng, bài viết này không làm cho hào
quang lấp lánh trên đầu tôi mà trái lại, càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng
nguy hiểm. Ngay như đối với một công thần của cách mạng, mà họ còn ngang
nhiên tuyên bố xanh rờn: "Sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để bảo vệ
chế độ". Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị biến thành vật tế
thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu sao trước hiểm hoạ khôn lường của tồn
vong đất nước, tôi đâu dám nề hà xả thân, bởi tôi tâm niệm câu nói của
Hàn Phi Tử: "Nước mất, mà không biết là bất tri. Biết mà không lo liệu,
là bất trung. Lo liệu, mà không liều chết là bất dũng". Chỉ mong sao tấc
lòng nhỏ mọn này, được lương tri dân tộc trong và ngoài nước soi thấu,
và hết lòng, hết sức chỉ giáo” (01.10.2001).
Rất mong rằng trong dịp
nhớ lại thảm hoạ CCRĐ, “lương tri dân tộc trong và ngoài nước”, nhất là
lương tri giới trẻ nhận thức rõ rằng chế độ độc tài đảng trị mà còn thì
những thảm hoạ tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập đoàn thống trị cộng
sản không tôn trọng con người, không tôn trọng sinh mạng và quyền tự do
của con người, không tôn trọng luật pháp mà chỉ coi trọng quyền lực của
họ là tối thượng mà thôi. Nhắc lại thảm hoạ CCRĐ, chúng tôi rất mong
mọi người, nhất là giới trẻ noi gương Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh
đấu sớm xoá bỏ chế độ độc tài nhằm chuyển hoá đất nước ta thành một xã
hội dân chủ đích thực, tạo điều kiện cho sự phát triển và phồn vinh của
Tổ quốc chúng ta.
15.12.2002 Nguyễn Minh Cần
Xin xem thêm các tài liệu:- Cải Cách Ruộng Đất
- Cải Cách Ruộng Đất: Thắng Lợi to lớn của Hồ Viết Thắng
- Cải Cách Ruộng Đất: Sửa sai và tiến lên của Trường Chinh
- Cải Cách Ruộng Đất: Xét lại hồ sơ của Trần Huy Liệu
Xin
đừng quên bài học Cải Cách Ruộng Ðất nửa thế kỷ trước (II)
Nguyễn Minh Cần
LTS
- Dù cuộc đấu tố đẫm máu trong chiến dịch Cải Cách Ruộng
Ðất do Hồ Chí Minh chủ trương là một sự kiện diễn ra cách
đây trên 5 thập niên, nhưng cho đến nay, điều này vẫn còn là
bài học đáng suy nghĩ. Nguyễn Minh Cần
Phần II
Ở
hải ngoại, cho đến nay cũng đã có một số tài liệu nói đến
những bạo hành, những tội ác trong CCRÐ, cuốn sách nói về đề
tài này khá kỹ ra mắt sớm nhất (1964, bằng tiếng Anh) là
cuốn “Từ Thực Dân Ðến Cộng Sản” của ông Hoàng Văn Chí. Còn ở
trong nước thì đến nay, chưa có một công trình nghiêm túc
nào nghiên cứu, chưa ra một tiểu thuyết nào viết riêng về đề
tài CCRÐ. Tại sao? Dễ hiểu là sau khi bị bắt buộc phải thừa
nhận những sai lầm trong CCRÐ, BCTTƯ Ðảng ra lệnh miệng
tuyệt đối cấm không được nói đến đề tài này. Người đầu tiên
“vi phạm” tabou thiêng liêng đó là nhà văn Hà Minh Tuân -
anh đã viết lướt qua rất nhẹ nhàng đến đề tài cấm kỵ đó
trong tác phẩm “Vào Ðời”. Tức thì Nguyễn Chí Thanh hô hoán
lên là “tư tưởng địa chủ ngóc đầu dậy”, và anh bị hành hạ
hết nước. Từ đó mọi người ai cũng im re, “lo giữ cái đội nón
của mình” (nhóm từ thông dụng hồi đó có nghĩa là giữ đầu
mình)... Mãi sau này, chỉ có vài nhà văn rụt rè mon men đến
đề tài đó mà thôi. Hy vọng rồi đây sẽ có nhiều nhà văn, nhà
nghiên cứu trong nước vượt qua nỗi sợ “truyền kiếp”, dám đề
cập đến đề tài đau thương này một cách nghiêm túc và toàn
diện.
Nếu nói về những tội ác trong CCRÐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau đây:
Nếu nói về những tội ác trong CCRÐ, theo tôi, cần nêu bật mấy loại chính sau đây:
Thứ nhất
Tội
tàn sát thường dân vô tội - tội ác chống nhân loại
Người nông dân Việt Nam hiền hòa, chất phác đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Pháp, bỗng dưng ÐCS giáng cho họ một đòn chí mạng. ÐCS nói rằng CCRÐ là một cuộc cách mạng để thực hiện ước mơ muôn đời của nông dân: “Người cày có ruộng” - nhưng thực tế thì không phải như vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí mạng! Tầng lớp năng nổ, giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa chủ, phú nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống, còn một loạt cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất thì bỗng nhiên bị quy là phản động, gián điệp, Việt gian, v.v... bị trừng trị, nhiều người bị bắn giết vô cùng man rợ. Ngay cả nhiều người trung nông, thậm chí một số bần nông cũng “bị kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái gở 5% địa chủ (so với dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà ÐCS dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm thêm những “kết luận” quái đản khác: Ðã có địa chủ, tất phải có cường hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao nỗi oan khuất không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ sót”, cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã gây ra tình trạng “kích thanh phần”, “nống thành tích” cố tìm ra nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá... để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao hơn... càng làm cho nỗi khổ đau của người dân tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRÐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu ủy, và Ðặng Thí, phó bí thư khu ủy, khét tiếng hiếu sát trong CCRÐ, họ đều là trưởng và phó đoàn CCRÐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Ðặng Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: Một đội tới làm CCRÐ ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở đây). Ðặng Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa chủ. Ðội sợ trên “đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại cho Ðặng Thí thì... Liếc mắt qua không thấy có danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn” vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Ðặng Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRÐ kể lại chuyện thương tâm này. Ðội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn! Làng nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là “đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”. Ðịa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi “cổ máy nghiền thịt” của Ðảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì ÐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi được Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRÐ ở ngoại thành Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Ðôi khi chúng tôi cũng nói chuyện với nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông: Trong CCRÐ có bao nhiêu người bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi thêm cụ thể hơn - thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Ðảng. Cho đến nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRÐ và Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán là chừng năm-sáu nghìn người. Ðó là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý do khác, như tự tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v... Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số về người bị thiệt mạng trong CCRÐ vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân loại! Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hỏa mù” chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Ðảng mà thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ... thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dỡ ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Ðó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này làm được là trả tự do cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của TƯ ÐLÐVN hồi tháng 09.1956, TƯ buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRÐ, người ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ TƯ Ðảng không nghiêm khắc tự phê phán mình, họ vẫn coi “đường lối của TƯ về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư khẳng định: CCRÐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi lớn”. Ðiều đó nói lên sự giả dối, ngụy biện, sự không thực lòng hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Ðảng sửa sai được?! Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo CCRÐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là ủy viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời, đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui chột trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác liệt nhất” chẳng những trong CCRÐ mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành ủy Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TƯ Ðảng thì lại cho làm ủy viên thường trực Ủy ban Kế hoạch nhà nước! Trái lại, người ngoài Ðảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ÐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRÐ và đưa ra những đề nghị hợp lý thì Ðảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TƯ Ðảng thành thực sám hối về những sai lầm, những tội ác của mình hay không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến ngày nay, ÐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRÐ đã giành được thắng lợi lớn: “Thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân - đem lại ruộng đất cho người cày. Ðây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được chia đó thì năm 1957-1958, ÐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể hóa nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của họ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của Ðảng? Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến pháp, Ðảng đã nhẹ nhàng quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất trong cả nước! Thế thì làm sao có thể nói là Ðảng “đem lại ruộng đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Người nông dân Việt Nam hiền hòa, chất phác đang làm ăn sinh sống và hết lòng đóng góp vào cuộc kháng chiến chống Pháp, bỗng dưng ÐCS giáng cho họ một đòn chí mạng. ÐCS nói rằng CCRÐ là một cuộc cách mạng để thực hiện ước mơ muôn đời của nông dân: “Người cày có ruộng” - nhưng thực tế thì không phải như vậy, thực tế là nông dân bị đánh đòn chí mạng! Tầng lớp năng nổ, giỏi giang biết làm ăn nhất ở nông thôn thì bị quy là địa chủ, phú nông, thậm chí cường hào ác bá, bị triệt hạ hết đường sinh sống, còn một loạt cán bộ ở nông thôn đã từng chịu đựng gian khổ làm nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, sản xuất thì bỗng nhiên bị quy là phản động, gián điệp, Việt gian, v.v... bị trừng trị, nhiều người bị bắn giết vô cùng man rợ. Ngay cả nhiều người trung nông, thậm chí một số bần nông cũng “bị kích lên” làm địa chủ cho đủ cái tỷ lệ quái gở 5% địa chủ (so với dân số thôn xã!) và họ phải cam chịu cái số phận mà ÐCS dành cho địa chủ. Cái tỷ lệ quái gở 5% đó lại kèm thêm những “kết luận” quái đản khác: Ðã có địa chủ, tất phải có cường hào ác bá! Thế là người dân chịu chết! Biết bao nỗi oan khuất không thể nào kể hết. Cái phương châm “thà sai hơn là bỏ sót”, cộng thêm với việc “thi đua lập thành tích đánh phong kiến” đã gây ra tình trạng “kích thanh phần”, “nống thành tích” cố tìm ra nhiều địa chủ, phản động, xử tử nhiều ác bá... để có được bằng khen, huân chương, để ngoi lên địa vị cao hơn... càng làm cho nỗi khổ đau của người dân tăng lên nhiều gấp bội! Chỉ xin dẫn vài chuyện mà thôi.
Một anh bạn đi làm CCRÐ ở Khu Bốn kể lại. Ở Khu Bốn, hồi đó ai cũng biết danh Chu Văn Biên, bí thư Khu ủy, và Ðặng Thí, phó bí thư khu ủy, khét tiếng hiếu sát trong CCRÐ, họ đều là trưởng và phó đoàn CCRÐ. Thậm chí trong dân gian lưu truyền bài vè có câu “Giết người nổi tiếng gã Chu Biên”. Anh bạn tôi kể chuyện Ðặng Thí ký hai án tử hình trên ghi đông (guidon) xe đạp! Chuyện như sau: Một đội tới làm CCRÐ ở một xã nghèo ở Nghệ An, quê hương của ông Hồ Chí Minh và Hồ Viết Thắng, tìm mãi mà không thể quy ai là địa chủ được (những ai đã từng đến tỉnh này đều biết cảnh nghèo chung của dân chúng ở đây). Ðặng Thí “đả thông tư tưởng” là cố vấn Trung Quốc dạy rồi phải có 5% địa chủ. Ðội sợ trên “đì”, tính ra cả làng từng này hộ, từng ấy nhân khẩu, thôi thì cũng buộc phải kiếm ra năm địa chủ. Tưởng thế là xong, nào ngờ khi báo cáo lại cho Ðặng Thí thì... Liếc mắt qua không thấy có danh sách “lên thớt”, bực mình Thí mới xạc cho “anh đội” một trận: “Có địa chủ mà không bắn thằng nào cả à?” và ném cả tập giấy vào mặt đội trưởng. Cuối cùng thì đội cũng lọc ra được “hai địa chủ để bắn” vội chạy lên đoàn báo cáo. Giữa đường gặp Ðặng Thí đang đi xe đạp, tay đội trưởng đưa báo cáo và danh sách bắn hai người. Thí còn đang vội, vẫn ngồi trên yên xe, chẳng thèm xem hết nội dung, đặt “đơn đề nghị bắn hai người” lên ghi đông xe đạp, mở vội xà cột (sacoche), rút bút ký toẹt vào. Xong rồi Thí đạp xe đi thẳng.
Một ông bạn làm việc ở Viện Khoa học Việt Nam đã đi làm CCRÐ kể lại chuyện thương tâm này. Ðội mà ông bạn có chân về một làng nghèo ở Thái Bình, không thể nào tìm đâu ra đủ số địa chủ, và cũng không thể nào tìm ra địa chủ ác bá để bắn. Họ lo lắm. Thế là họ đưa một ông chăn vịt vào danh sách bị bắn! Làng nào cũng thế thôi, mấy ông “gột vịt” (ấp trứng nuôi vịt con) chẳng bao giờ được dân làng ưa cả, vì lùa vịt con xơi thóc lúa của dân, thế mà lại hay to mồm cãi lại, gây gổ. Thế là “đủ yếu tố cấu thành tội”, trong đó có tội “bị dân làng ghét cay ghét đắng”. Ðịa chủ bóc lột thóc của nông dân, vịt cũng ăn cướp thóc của nông dân, vịt không thể bắn được thì chủ nó phải chịu thay! Ai cũng vui vẻ cả. Ông bạn biết là sai nhưng không dám mở miệng khi “cổ máy nghiền thịt” của Ðảng đã khởi động rồi!
Cho đến nay, không ai biết số người bị quy oan, bị tù oan và bị giết oan là bao nhiêu vì ÐCS giấu tịt. Những con số mà nhiều người đưa ra chỉ là ước đoán. Hồi cuối năm 1956, khi tôi được Thành ủy Hà Nội giao cho trách nhiệm sửa sai CCRÐ ở ngoại thành Hà Nội. Vì tính chất quan trọng của việc đó ở thủ đô, nên ông Võ Nguyên Giáp được BCT phân công giúp đỡ việc sửa sai ở Hà Nội. Vì thế, thỉnh thoảng tôi đến nhà ông Giáp làm việc. Ðôi khi chúng tôi cũng nói chuyện với nhau về những vấn đề chung. Một hôm tôi hỏi thẳng ông: Trong CCRÐ có bao nhiêu người bị oan. Ông Giáp nói hai vạn. Lúc đó tôi không dám hỏi thêm cụ thể hơn - thế thì bao nhiêu người bị chết oan, vì tôi biết là mình đã đụng đến vấn đề cấm kỵ nhất của Ðảng. Cho đến nay, tôi không biết con số mà ông Giáp nói với tôi có thật hay không, nhưng hôm đó ông trả lời tôi tức thì, không nghĩ ngợi gì, nên tôi cũng có phần tin. Còn số người bị hành quyết trong CCRÐ và Chỉnh đốn tổ chức thì tôi ước đoán là chừng năm-sáu nghìn người. Ðó là chưa kể nhiều người bị chết vì các lý do khác, như tự tử trước khi xét xử, chết khi bị tra của hay bị giam cầm ở xã, chết trong tù, người nhà địa chủ chết đói do bị bao vây, v.v... Tại cuộc mít tinh tối 29.10.1956, ông Võ Nguyên Giáp chỉ cho biết con số 12 nghìn cán bộ và đảng viên đã được trả tự do mà thôi! Con số đó đúng hay không, ai mà biết được! Tóm lại, những con số về người bị thiệt mạng trong CCRÐ vẫn chưa xác định được. Dù thế chăng nữa, với những con số ước tính đã cho thấy đây là một tội ác tày trời. Tội ác này chính là tội ác chống nhân loại! Còn chuyện “sửa sai” thì cũng chỉ là một lối “tung hỏa mù” chủ yếu để làm dịu đi phần nào nỗi công phẫn dữ dội của dân chúng, tránh những cuộc bùng nổ bất lợi cho Ðảng mà thôi. Chúng tôi đã từng đi làm sửa sai nên biết khá rõ. Có nhiều cái sai không thể nào “sửa” được. Bắn giết người ta, làm què quặt thân thể, làm tổn hại tâm thần người ta (có không ít người bị điên, bị mất trí, bị lẩn thẩn), làm gia đình người ta tan vỡ... thì chỉ có Trời mới sửa được! Ngay cả những việc tưởng chừng không khó sửa lắm, nhưng cũng không thể sửa nổi, chẳng hạn, gia đình bị quy là địa chủ, nhà cửa bị tịch thu chia cho mấy hộ nông dân, khi được xét là quy oan phải trả lại nhà cho người chủ cũ. Nhưng, khi biết là phải trả lại nhà, các ông bà nông dân bèn cạy gạch, cạy cửa, dỡ ngói, rút rui mè, cất giấu hết, phá phách gần như tan nát cả ngôi nhà họ đang ở. Nên cái nhà được trả lại đâu còn nguyên vẹn như trước. Còn các “quả thực” khác khi đã chia rồi thì sửa sai làm sao được! Thóc lúa, nông dân ăn hết, bán hết rồi (hoặc khai như thế), nông cụ bị tiêu tán hết (hoặc khai hư hỏng rồi), thì lấy gì mà trả lại cho người ta. Ðó là không nói đến những quan hệ tình cảm đã bị tổn thương, giữa vợ chồng, giữa anh em, giữa họ hàng, giữa thầy trò, giữa hàng xóm, láng giềng thì chẳng làm gì được, ngoài việc khuyên nhủ chung chung. Trong sửa sai chỉ có việc này làm được là trả tự do cho những người bị tù oan. Còn việc khôi phục lại chức vụ cho một số cán bộ đã bị đấu tố cũng đã thực hiện, nhưng cũng không giản đơn vì quan hệ khá phức tạp giữa cán bộ mới với cán bộ cũ.
Nhân thể cũng xin nói thêm, khi hội nghị lần thứ 10 của TƯ ÐLÐVN hồi tháng 09.1956, TƯ buộc phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng trong CCRÐ, người ta cũng đổ lỗi một phần cho cấp dưới đã thi hành sai, chứ TƯ Ðảng không nghiêm khắc tự phê phán mình, họ vẫn coi “đường lối của TƯ về cơ bản là đúng”, chỉ có “việc tổ chức thực hiện không đúng” mà thôi. Họ vẫn khư khư khẳng định: CCRÐ dù có sai lầm “nhưng về cơ bản vẫn giành được thắng lợi lớn”. Ðiều đó nói lên sự giả dối, ngụy biện, sự không thực lòng hối hận của họ. Thế thì làm sao mà Ðảng sửa sai được?! Còn cái gọi là thi hành kỷ luật với các ông lãnh đạo CCRÐ cũng chỉ là trò hề “giơ cao đánh khẽ” để lừa dối dư luận mà thôi. Trường Chinh mất ghế Tổng bí thư, nhưng lại vẫn là ủy viên BCT, chuyển sang ngồi ghế Chủ tịch Quốc hội, lại phụ trách công tác tư tưởng, rồi chính ông ta đã cùng Tố Hữu bày ra vụ Nhân Văn Giai Phẩm đàn áp quyết liệt anh chị em trí thức ưu tú, khao khát tự do, làm bao văn nghệ sĩ tài ba bị tù dày, bị đàn áp, bị treo bút trong hàng mấy chục năm trời, đánh một đòn nặng nề vào nền văn học miền Bắc, làm nó bị thui chột trong nhiều thập niên. Hoàng Quốc Việt (một người nổi tiếng “ác liệt nhất” chẳng những trong CCRÐ mà trong nhiều vụ trước nữa, chẳng hạn, vụ H122 xảy ra trong kháng chiến chống Pháp, ông phụ trách xét vụ này, đã bắt giam nhiều cán bộ, phần đông là cán bộ quân đội, và làm chết oan nhiều người), bị đưa ra khỏi BCT thì lại trao chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao là chức vụ nắm quyền sinh quyền sát con người, Lê Văn Lương chịu trách nhiệm về Chỉnh đốn tổ chức đã làm cho nhiều cán bộ đảng viên ở xã bị bắn giết, bị tù đày, phải ra khỏi BCT thì sau này lại được đưa về làm bí thư Thành ủy Hà Nội, còn Hồ Viết Thắng bị đưa ra khỏi TƯ Ðảng thì lại cho làm ủy viên thường trực Ủy ban Kế hoạch nhà nước! Trái lại, người ngoài Ðảng mà dám thẳng thắn phát biểu ý kiến với ÐCS, cho dù nhẹ nhàng chăng nữa, như trường hợp luật sư Nguyễn Mạnh Tường đọc bài tham luận tại hội nghị Mặt trận Tổ quốc phê phán cuộc CCRÐ và đưa ra những đề nghị hợp lý thì Ðảng trù dập ông, dồn ông vào cảnh khốn cùng cho đến chết! Và thử hỏi có bao giờ TƯ Ðảng thành thực sám hối về những sai lầm, những tội ác của mình hay không?
Chẳng những không sám hối mà cả cho đến ngày nay, ÐCS vẫn cứ nói lấy được là CCRÐ đã giành được thắng lợi lớn: “Thực hiện ước mơ nghìn đời” của nông dân - đem lại ruộng đất cho người cày. Ðây là một sự dối trá trắng trợn. Vì ruộng đất nông dân được chia thì một phần đáng kể là của những người bị quy oan, khi sửa sai cuối cùng phải trả lại. Phần ruộng đất chia còn trong tay nông dân, họ chưa kịp được hưởng gì trên mảnh đất được chia đó thì năm 1957-1958, ÐCS đã bắt đầu lùa họ vào hợp tác xã để tập thể hóa nông nghiệp, nghĩa là họ không còn làm chủ ruộng đất của họ! Vả lại, xét cho cùng, “đem lại ruộng đất cho người cày” đâu có phải là mối quan tâm chính yếu hay là mục đích tối hậu của Ðảng? Cho nên đến khi sửa đổi Hiến pháp sau ngày thống nhất đất nước, bằng một điều khoản mới trong Hiến pháp, Ðảng đã nhẹ nhàng quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất trong cả nước! Thế thì làm sao có thể nói là Ðảng “đem lại ruộng đất cho người cày” được?! Quả thật là người nông dân chịu bao nhiêu đau thương tang tóc cuối cùng chẳng được gì cả!
Thứ hai
Tội
phá hoại truyền thống tốt đẹp mấy nghìn năm của dân tộc
Truyền thống hiếu hòa, thương yêu, đùm bọc lẫn nhau ở nông
thôn Việt Nam được dân tộc ta xây dựng hàng nghìn năm đã bị
ÐCS phá vỡ trong vòng ba-bốn năm CCRÐ. Nếu ai đã từng sống ở
nông thôn Việt Nam trước “cách mạng”, trước CCRÐ đều cảm
nhận cái tinh thần “đùm bọc nhau”, “lá lành đùm lá rách” còn
khá đậm đà trong mối quan hệ giữa người với người. Cố nhiên,
không ai nói là ở các làng quê không có những kẻ bóc lột,
nhưng tinh thần chung ở nông thôn ta là như vậy. Với cái
chính sách “phân định thành phần giai cấp”, ÐCS chia cư dân
nông thôn thành cố nông, bần nông, trung nông (có ba loại,
trung nông yếu, trung nông vừa, trung nông cứng), phú nông (có
hai loại, phú nông thường, phú nông ngấp nghé địa chủ - đây
là “sáng kiến” của người chấp hành để khi cần thì dễ “kích”
họ lên địa chủ, chứ trong chính sách thì không chia ra), địa
chủ (có mấy loại, địa chủ yêu nước và kháng chiến, địa chủ
thường, địa chủ cường hào ác bá, địa chủ phản động). Sự phân
chia có vẻ “khoa học” lắm, nhưng khi thực hiện thì tất cả
đều do cảm tính chủ quan, do nhu cầu của “đội” (khi trên bắt
phải đủ 5% địa chủ, bắt phải có ác bá, phản động để bắn, thì
cứ phải “kích” lên cho đủ số), do ý muốn chủ quan của “ông
đội” (nhiều khi ý muốn đó rất quái đản, thấy thái độ của
đương sự có vẻ ngang bướng thì cứ “kích” lên cho bõ ghét).
Về nguyên tắc, muốn phân định thành phần thì phải “tố khổ”,
phải “tố” nhau, vạch nhau ra để “xếp” thành phần. Với lối
xúi giục, cưỡng ép người dân tố giác lẫn nhau rất phổ biến
trong CCRÐ, nên từ đó họ chia rẽ nhau, thù ghét nhau.
Cũng có nhiều người lúc đầu không muốn “tố” ai hết vì không
muốn làm trái lương tâm, nhưng ai không chịu “tố” thì bị đội
CCRÐ coi là chưa “dứt khoát”, “có liên quan”, v.v... cuối
cùng thì ai cũng tham gia vào cuộc “tố” lẫn nhau để giữ mạng
mình. Ðây là số đông. Nhưng cũng có không ít những kẻ hoặc
vì tư thù, hoặc vì muốn trục lợi, “tố điêu”, “tố láo” để
ngoi lên làm “rễ”, làm “cốt cán”, làm cán bộ, để được chia
“quả thực” nhiều hơn. Mà thường cái đám người này nghèo túng
vì lười biếng, vì rượu chè, cờ bạc, có khi là những phần tử
lưu manh, nhưng thường lại được đội coi như là bần cố nông
để dựa, o bế, sử dụng nhằm... hoàn thành nhiệm vụ của đội.
Một điều kỳ quái cần nói nữa là: Mọi lời “tố” của nông dân
đều không cần bằng chứng, hơn nữa mọi lời “tố” của họ đều
được coi là bằng chứng, đều được ghi vào hồ sơ tội trạng!
Không cần có bất cứ một sự kiểm chứng nào hết! “Lý luận”
chung hồi đó là “phải tin tưởng ở quần chúng”, “nông dân lao
động đã nói là đúng”.
Thế là không còn ai cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư hay chủ tịch ủy ban kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Ðảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Ðảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ trỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRÐ làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Ðến khi ÐCS tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: Những vụ ẩu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRÐ... Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc, hòa hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá hủy từ ngày CCRÐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác?
Thứ ba
Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên một cách quái đản như trong CCRÐ
Các đội CCRÐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó - đội tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”! Ngay cả đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó! Ðúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Thế là không còn ai cãi được nữa! Chính vì thế, khi đội cần “đánh vào” bí thư hay chủ tịch ủy ban kháng chiến trước ở vùng tạm bị chiếm, nay bị coi là tổ chức cũ, mà có một ai đó “tố” là “chúng nó họp Quốc Dân Ðảng” thì bị “lên hồ sơ” ngay là “bí thư Quốc Dân Ðảng”, và anh ta khó tránh khỏi cái án tử hình! Một nông dân “tố” một người bị “kích” lên địa chủ là “hồi kháng chiến, khi máy bay địch tới, tôi thấy hắn nhìn lên trời và chỉ trỏ cái gì đó”, tức thì bị quy ngay là “gián điệp” và số phận anh ta coi như là “đi đứt”! Có thể là thế hệ mới lớn lên, nhất là những người đang sống ở các nước dân chủ tiên tiến, thì khó mà tin là đã có những chuyện như thế. Khốn thay đó lại là sự thật đắng cay đã từng xảy ra trong lịch sử nước nhà!
Tóm lại, CCRÐ làm cho nội bộ nông dân chia rẽ trầm trọng, làng xóm đảo lộn lung tung! Ðến khi ÐCS tuyên bố sửa sai thì tình hình nông thôn lại cực kỳ hỗn loạn: Những vụ ẩu đả, đâm chém, trả thù nhau giữa những người bị “tố oan” với những kẻ “tố điêu”, giữa những người bị tước đoạt tài sản với những người được hưởng “quả thực”, giữa cán bộ cũ bị quy kết phản động và bị tù tội với cán bộ mới “ngoi lên” trong CCRÐ... Di sản nghìn năm rất đáng quý mà cha ông ta đã để lại là tinh thần đùm bọc, hòa hiếu nhau của người dân nông thôn miền Bắc đã bị phá hủy từ ngày CCRÐ. Lẽ nào đó không phải là một tội ác?
Thứ ba
Tội phá hoại đạo lý, luân thường của dân tộc. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên một cách quái đản như trong CCRÐ
Các đội CCRÐ không từ một cách nào hết để “tìm ra địa chủ”, “tìm ra phản động”, “tìm ra của chìm”, họ ép buộc con cái “đấu tố” cha mẹ, con dâu “đấu tố” bố mẹ chồng, con rể “đấu tố” bố mẹ vợ, vợ “đấu tố” chồng, anh em “đấu tố” lẫn nhau, trò “đấu tố” thầy, kẻ hàm ơn “đấu tố” người đã làm ơn, láng giềng hàng xóm “đấu tố” lẫn nhau! (Cũng có trường hợp cha mẹ bấm bụng khuyên con cái “đấu tố” mình để mong cứu mạng cho con cái). Thật là một tấn bi kịch hãi hùng! Những người bị quy là địa chủ ngay lập tức bị tước mọi quyền làm người, bị hạ nhục, bị chà đạp, ngay lập tức phải thay đổi cách xưng hô trước nông dân, phải cúi đầu lễ phép “thưa các ông, các bà nông dân”, phải xưng “con” trước mặt nông dân, dù đó chỉ là một đứa trẻ con. Còn nông dân thì tha hồ gọi người kia là “thằng kia”, “mụ kia”, “con kia”, là “mày”, “chúng bay” và tự xưng là “tao”, “chúng tao”, thậm chí có thể chửi mắng, xỉ vả. Chẳng ai dám làm trái lại cái “lệ mới” đó - đội tuyên bố phải đối xử như thế mới “nâng cao uy thế nông dân”, mới “đánh gục giai cấp địa chủ” được! Không làm thế là “bênh địa chủ”, “mất lập trường giai cấp”, thậm chí “có liên quan với địa chủ”! Ngay cả đứa bé con cũng có thể mắng mỏ, sỉ nhục người lớn đã bị quy là địa chủ. Những người này, dù là thứ bậc thế nào trong họ tộc cũng đều bị bà con họ tộc xa lánh, để không “bị liên quan”. Còn khi hành quyết người bị án tử hình thì những người thân thích, ruột thịt của người ấy, từ già cả cho đến trẻ con, đều bắt buộc phải có mặt để chứng kiến tận mắt cảnh tượng đó! Ðúng là sự khủng bố tinh thần cực kỳ vô nhân đạo!
Một tình trạng thương tâm nữa là nhiều gia đình ở nông thôn (và cả ở thành phố có liên hệ với nông thôn) đã tan vỡ, con cái bơ vơ, vì khi một trong hai người có gia đình bị quy (hoặc bị kích lên) thành phần địa chủ, bị gán tội phản động, thì bên kia, tức là vợ hay chồng, sợ liên lụy phải bỏ nhau. Nhiều người đi lập gia đình khác, có con hoặc chưa có con với chồng hay vợ mới. Ðến sau này thấy sai, người bị bắt đi tù nay được trở về, thế là bao nhiêu chuyện rắc rối xảy ra đến nỗi Bộ tư pháp VNDCCH phải ra thông tư ngày 19.04.1956 để “giải quyết những vụ vợ chồng bỏ nhau”. Thật là mỉa mai, người ta cho rằng có thể hàn gắn được tình cảm yêu thương trong gia đình đã bị thương tổn nặng nề bằng một tờ thông tư vô hồn của Bộ Tư Pháp! Tình yêu của nam nữ cũng bị xâm phạm nghiêm trọng giống hệt như thế - để giữ lập trường giai cấp ai cũng phải cắt đứt với người yêu thuộc thành phần địa chủ, phản động!
Chủ
trương của UBCCRÐTƯ là trong các cuộc đấu địa chủ, nhất là
địa chủ cường hào ác bá đều phải chuẩn bị rất chu đáo để ra
“đấu trường” không được vấp váp. Thế là trước ngày đấu, mọi
“rễ”, “chuỗi”, dân quân, công an, tòa án, chủ tịch đoàn...
đều phải “diễn tập” như thật, ai lên “đấu” trước, ai lên
“đấu” sau, “tố” thế nào, xỉa xói ra sao, nói gì, khi nào
người “tố” phải cảm động khóc lóc, khi nào người dân phải hô
“đả đảo” (khi người bị “tố” không nhận tội...), lúc nào thì
bắt địa chủ quỳ (quỳ là biểu hiện của sự “bị đánh gục”!),
lúc nào thì “hoan hô” (khi tòa tuyên án tử hình, tịch thu
tài sản...) Chủ tịch đoàn những cuộc đấu lớn đều là “rễ”, “chuỗi”,
cốt cán mới đào tạo trong vài tháng, nói năng ngượng nghịu,
lúng ta lúng túng, điều khiển thế nào nổi, nên khi ra “đấu
trường”, thường “anh đội”, “chị đội” phải ngồi sau lưng nhắc,
như người nhắc tuồng (souffleur) ở rạp hát! Cũng có khi nhắc
mãi không được, chủ tịch đoàn cuống lên, thì “anh đội” giật
micro và điều khiển luôn. Tóm lại, một sự diễn kịch, một trò
giả dối lố bịch, trắng trợn, mà không hề không biết ngượng!
Nhưng cái nguy hại chính là sự giả dối đó cứ thấm dần vào
tiềm thức cán bộ và người dân, tạo nên một nếp sống giả dối
vô đạo đức của nhiều người!
Thứ tưTội phá hủy truyền thống tâm linh và văn hóa của dân tộc. Bằng cuộc CCRÐ, ÐCS cố tình triệt hạ các tôn giáo và truyền thống tâm linh của dân tộc
Trước CCRÐ, các nhà thờ Thiên chúa giáo, các tu viện, nhà cô
nhi... đều có ruộng đất riêng, các Chùa có ruộng hậu do tín
chủ cúng cho Chùa, các Nhà Thờ họ có ruộng họ, các đình có
ruộng làng... để lo việc sửa sang, tu bổ Nhà Thờ, Chùa, đình,
cúng tế hàng năm, việc từ thiện, v.v... và để nuôi sống các
linh mục, tu sĩ, tăng ni và những người chuyên lo việc trông
nom, thờ phụng... Nhờ thế hoạt động tôn giáo, tâm linh, từ
thiện được tiến hành bình thường không có trở ngại. Nhưng
với chính sách CCRÐ của ÐCS, tất cả các ruộng đất đó đều
nhất loạt bị coi là ruộng đất phong kiến và bị trưng thu để
chia cho nông dân. Với cái đòn độc địa đó, tất cả các Nhà
Thờ, Tu viện, nhà cô nhi, Chùa chiền, điện thờ, miếu mạo,
nhà thờ họ, đình... đều trở nên điêu đứng và đần dần tàn tạ.
Riêng đối với Nhà Thờ Thiên chúa giáo, do phong trào giáo
dân ồ ạt di cư vào Nam, nên về sau Ðảng đã phải để lại cho
các Nhà Thờ một ít ruộng đất. Người ta công nhiên dùng các
cơ sở thờ cúng vào việc họp hành, đóng quân, làm hội trường,
làm kho hợp tác xã mua bán, kho hợp tác xã sản xuất, v.v...
Có nơi thậm chí người ta cho các tượng Phật trôi sông. Nhiều
nơi bà con tín đồ bí mật cứu các tượng Phật, đem chôn, đem
giấu hầm kín, sau này phần lớn các tượng gỗ đều mục nát, thế
nhưng cũng có ít tượng còn giữ được, vào thập niên 80 bà con
mới đưa lại vào Chùa. Tóm lại, cuộc sống tâm linh hoàn toàn
bị xóa bỏ. Chữ “thiện”, chữ “nhân” một thời gian dài chẳng
ai dám nói đến, vì giữa lúc cái ác tràn đầy mà nói đến chữ “thiện”,
chữ “nhân” thì có thể bị coi là biểu hiện sự phản đối!
Trong lúc đó, người ta lại đề cao bạo lực, cổ vũ đấu tranh
giai cấp, khuyến khích điều ác, điều bất nhân, điều vô đạo.
Một điều rất quái dị trong CCRÐ mà ÐCS lại coi là tự nhiên
hoặc là cần thiết: người ta thường xuyên huy động các cháu
thiếu niên từ 9-10 tuổi trở lên tham gia CCRÐ. Bắt chúng
mang trống ếch đi cổ động, đi “đả đảo”, “hoan hô”, tham dự
các cuộc đấu tố, các phiên tòa CCRÐ, các buổi hành quyết
công khai. Nhiều cháu, nhất là các cháu gái, vốn có tâm lý
hiền lành bị bắt buộc phải tham gia, đã không chịu nổi, run
sợ, khiếp đảm, có cháu ngất xỉu trước cảnh hãi hùng, súng
bắn, máu đổ... Còn các cháu vốn có tâm lý hung dữ thì lại
thích thú hoan hô, thậm chí sau khi “được” tham dự những
cảnh tượng đó, có nơi chúng lại bày trò chơi “đấu tố”, bắt
con cái địa chủ quỳ để con cái nông dân lên đấu, cũng xỉa
xói vào mặt, cũng xỉ vả, vạch tội... Chẳng biết có ai xúi
giục không, nhưng nhiều nơi đã xảy ra những “trò chơi” quái
đản đó! Khi cái thiện bị nén xuống mà cái ác được cổ vũ, thì
chẳng có gì đáng ngạc nhiên là đạo đức bị suy đồi, băng hoại
dưới chế độ của những người cộng sản. Tôi còn nhớ trong thời
kỳ “cởi trói”, đã được đọc truyện ngắn “Bước Qua Lời Nguyền”
của Tạ Duyên Anh đăng trên tuần báo “Văn Nghệ” (1989) ở Hà
Nội, truyện đó phản ánh phần nào tấn bi kịch của giới trẻ
nông thôn đã lớn lên trong và sau cuộc CCRÐ đầy kinh hoàng.
Không những CCRÐ đánh một đòn rất mạnh vào nền đạo lý và
truyền thống nhân bản, mà nền văn hóa dân tộc cũng vì nó mà
bị tổn hại rất nặng nề. Nhiều miếu đền uy nghiêm bề thế,
nhiều bia đá là những di tích văn hóa lâu đời của dân tộc đã
bị hủy hoại trong CCRÐ. ÐCS giấu kín những chuyện này, nhưng
cũng có thể nêu ra vài trường hợp. Mong rằng các bạn xa gần,
trong và ngoài nước sưu tầm và bổ sung thêm. Chẳng hạn, cụ
Nguyễn Mai (1876-1954) là hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ
Nguyễn Tiên Ðiền, gọi thi hào Nguyễn Du (1765-1820) đời thứ
11 là bác. Ðầu năm 1954, lúc 78 tuổi cụ bị đội và đoàn CCRÐ
quy là địa chủ (vì có vài mẫu cho phát canh để sống) lại bị
“kích” lên thành phần phong kiến cường hào (vì cụ từng đỗ cử
nhân khoa Canh Tý (1900) lúc 24 tuổi, lại đỗ Tiến sĩ khoa
Giáp Thìn (1904) lúc 28 tuổi), mà thật ra cụ không hề nhận
chức tước, phẩm hàm gì, chỉ cam phận sống thanh nhàn ẩn dật.
Cụ bị đấu ba đêm liền, bị kết án 15 năm tù khổ sai, bị giam
ở trại Ðâng, tỉnh Hà Tĩnh, là nơi nước rất độc, nên ngay mùa
Thu năm ấy, cụ bị phù thũng chết trong trại tù, vùi xác ở
ven rừng. Cụ Nghè Nguyễn Mai từ trần trong uất hận là nỗi
đau lớn, nhưng nỗi đau còn lớn hơn nữa cho dân tộc là do cụ
bị quy oan như vậy, mà đội CCRÐ đã phá hủy nhiều đền đài,
bia, miếu thờ của các danh nhân họ Nguyễn Tiên Ðiền và
nghiêm trọng hơn nữa đã đốt cháy ngôi nhà năm gian chứa đầy
thư tịch quý giá của dòng họ Nguyễn Tiên Ðiền, trong đó có
di cảo của thi hào Nguyễn Du. Một sự mất mát lớn lao về văn
hóa không có gì bù lại được! (Xem sách “Bể Dâu Trong Dòng Họ
Nguyễn Du” của Ðặng Cao Ruyện, NXB Miền Ðông Hoa Kỳ, 2002,
tr. 200, 201).Còn một chuyện này nữa. Trong cuộc hội nghị
cán bộ do TƯ Ðảng triệu tập sau khi có nghị quyết sửa sai
trong CCRÐ hồi tháng 09.1956, tôi được nghe ông Cù Huy Cận,
lúc đó là thứ trưởng Bộ văn hóa, nói ở cuộc họp tổ là tấm
bia đá của Lê Lợi đã bị đội CCRÐ phá hủy. Bộ văn hóa phải
cấp tốc thuê làm bia khác giống hệt bia cũ rồi đặt vào chỗ
cũ và phải tuyệt đối giữ bí mật để không ai biết là bia mới!
Tôi không có điều kiện kiểm chứng, nhưng chẳng lẽ ông thứ
trưởng văn hóa lại nói sai?!
(Còn tiếp)
Xin
đừng quên bài học CCRĐ (Phần III)
Nguyễn Minh Cần
Nguyễn Minh Cần
(Phần
III)
Như trên tôi đã
viết, tuy là chuyện CCRÐ đã qua từ lâu rồi, nhưng ngày nay,
vẫn cần phải nói đến, vì ngày nay tập đoàn lãnh đạo đảng
Cộng Sản đang cố viết lại lịch sử, đang cho bọn bồi bút
xuyên tạc lịch sử để chạy tội cho ông Hồ Chí Minh và cho
đảng Cộng Sản Việt Nam trong CCRÐ và cả trong nhiều việc
khác nữa. Như trên tôi đã viết, tuy là chuyện CCRÐ đã qua từ
lâu rồi, nhưng ngày nay, vẫn cần phải nói đến, vì ngày nay
tập đoàn lãnh đạo đảng Cộng Sản đang cố viết lại lịch sử,
đang cho bọn bồi bút xuyên tạc lịch sử để chạy tội cho ông
Hồ Chí Minh và cho đảng Cộng Sản Việt Nam trong CCRÐ và cả
trong nhiều việc khác nữa.
Cần phải nói công
bằng là trước năm 1950, ông Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam
không nói đến CCRÐ, chỉ nói đến giảm tô, mà cũng chỉ trên
giấy tờ và rất coi nhẹ việc thực hiện. Chỉ từ năm 1952, vấn
đề giảm tô và CCRÐ mới đặt ra một cách gắt gao. Như vậy có
thể nói là việc CCRÐ là do sức ép của Stalin và Mao Trạch
Ðông. Nhưng khi ông Hồ đã nhận làm CCRÐ là ông và đảng Cộng
Sản Việt Nam đã làm một cách tin tưởng và tích cực. Cũng có
thể do yếu tố tâm lý của một người trước đây đã từng bị
Stalin và Quốc tế Cộng sản coi là hữu khuynh, thậm chí bị
nghi ngờ, không giao việc trong thời hạn dài, nay lại bị
nhận xét là coi nhẹ nhiệm vụ phản phong, thì ông càng phải
cố tỏ rõ tinh thần mẫn cán, kiên quyết của mình. Quả là hồi
đó, ông Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam cũng thật tình rất tin
tưởng vào Stalin và Mao Trạch Ðông. Chẳng thế mà ông đã công
khai nói trước hội nghị cán bộ (1950) tại chiến khu Việt Bắc
để chuẩn bị cho đại hội 2 của đảng Cộng Sản sẽ họp năm sau
là: “Các cô các chú nên biết rằng: ai đó thì có thể sai, chứ
đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Ðông thì không thể nào
sai được”. Chính tôi có mặt trong cuộc hội nghị đó, tôi nghe
rõ, nhiều người khác cũng nghe rõ như thế, có điều bây giờ
họ không muốn hay không dám nhắc lại mà thôi. Ðến đại hội 2
của Ðảng (tháng 03.1951), ông Hồ lại cũng nói đúng như thế,
và cụ Nguyễn Văn Trấn cũng đã kể lại chuyện đó trong sách
của cụ “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội”.
Những hình ảnh đấu tố do nhiếp ảnh gia Liên Xô Dmitri Baltermants (1912-1990) chụp năm 1955 tại Việt Nam.
Chuẩn bị thi hành bản án xử tử
Địa chủ bị đấu tố
Địa chủ bị xử bắn tại chỗ
Trẻ thơ cũng bị buộc đi dự tòa án nhân dân
Cho nên ông Hồ làm CCRÐ rõ
ràng với sự tin tưởng và tích cực. Vì thế, không phải ngẫu
nhiên mà cụ Vũ Ðình Huỳnh, người gần gũi ông nhất thời gian
đó sau này đã “khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong
sự gây ra những sai lầm trong CCRÐ là ông Hồ Chí Minh, chứ
không phải ông Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài
nhiều năm. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của
ông Hồ” (xem “Ðêm Giữa Ban Ngày” của nhà văn Vũ Thư Hiên).
Theo tôi, đúng là ông Hồ phải chịu trách nhiệm chính, như cụ
Vũ đã nói, nhưng Trường Chinh chẳng phải là “con dê tế thần”
với cái nghĩa “oan dương” đâu, vì ông ta vừa là Tổng bí thư,
vừa là chủ nhiệm Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất Trung Ương, ông
ta là người điều hành mọi việc CCRÐ hồi đó, cho nên, nếu
Trường Chinh không phải là thủ phạm số một thì cũng phải là
thủ phạm số hai. Cái ý của cụ Vũ, theo tôi hiểu, là TW Ðảng
trong hội nghị lần thứ 10 (09.1956) đã không đả động gì đến
Hồ Chí Minh, đã không dám nói đến trách nhiệm của ông Hồ (vì
thi hành kỷ luật Chủ tịch Ðảng, Chủ tịch nước thì... ôi thôi,
đảng Cộng Sản còn gì nữa!) mà chỉ đưa Trường Chinh và các
ông khác ra “chịu trận” mà thôi. mà chỉ đưa Trường Chinh và
các ông khác ra “chịu trận” mà thôi.
Sau này, trong
giới thân cận với giai cấp cầm quyền, có những người hay
tung ra những câu chuyện về Hồ Chí Minh không tán thành chủ
trương CCRÐ, không tán thành việc xử tử bà Nguyễn Thị Năm,
không tán thành làm Chỉnh đốn tổ chức trong CCRRÐ, v.v...
Nhưng, xét cho cùng, loại chuyện đó chỉ là những huyền thoại
không hơn không kém. Những huyền thoại ấy nhằm đánh lừa
những người không biết tình hình thực tế hồi thập niên 50 ở
miền Bắc và những thế hệ trẻ hậu sinh, nhằm chạy tội cho ông
Hồ để vớt vát cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” làm phao cứu
mạng cho tập đoàn thống trị cộng sản. Hoàng Tùng, nguyên
tổng biên tập báo Nhân Dân, nguyên bí thư TW đảng Cộng Sản
Việt Nam, nhiều năm làm tuyên huấn, v.v... là một trong số
những “chuyên gia” sáng tác huyền thoại kiểu đó. Trong hồi
ký “Những Kỷ Niệm Về Bác Hồ”, ông ta có kể lại về thái độ
của ông Hồ đối với án tử hình bà Nguyễn Thị Năm như sau:
“Họp Bộ chính trị Bác nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải
xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu
tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy cũng giúp đỡ cho
cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh
bằng một cành hoa”. Sau cố vấn Trung Quốc La Quý Ba đề nghị
mãi, Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là
không phải”. Và họ cứ thế làm” (xem đoạn trích, đêăng trên
tờ “Diễn Ðàn Forum” ở Paris, số 123/11.2002, tr.15). Khi kể
chuyện này, Hoàng Tùng đã cố lờ đi mấy điều thực tế lịch sử
rất quan trọng: 1/ vào thời điểm nửa đầu thập niên 50, uy
thế của ông Hồ trong Ðảng là tuyệt đối, một lời của ông đã
nói ra thì không một ai, kể cả các ông trong BCT, dám làm
trái ý ông hết; 2/ tất cả các ông trong BCT TW, không trừ
một ai hết, đều răm rắp giữ đúng tư cách một người học trò
khiêm tốn, không bao giờ được phép quyết định những chủ
trương lớn mà không có ý kiến ông, huống hồ là việc làm trái
ý ông. Hồi 1952-1953 thì không thể nào có chuyện “Thôi tôi
theo đa số” và “Và họ cứ thế làm” được! Nếu thật sự ý thức
được là “không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành
hoa”, mà ông Hồ chỉ lắc đầu một cái thôi, chứ không cần phải
nói nhiều lời như Hoàng Tùng kể, thì chắc chắn là ông đã cứu
được bà Nguyễn Thị Năm! Mà không chỉ một mình bà Năm! Thêm
nữa, cái chữ “họ” trong câu của Hoàng Tùng “Và họ cứ thế làm”
rất mập mờ: “họ” là ai? Các ông trong BCT hay các cố vấn?
Các ông trong BCT thì chắc chắn là không. Còn các ông cố vấn
có thể họ trái ý với ông Chủ tịch nước, Chủ tịch Ðảng của
Việt Nam, nhưng họ không thể bắt ép ông được, họ chỉ là cố
vấn, chứ không có quyền biểu quyết, quyết định. Những cơ
quan nào đã từng làm việc với cố vấn Trung Quốc hồi đó đều
biết cái nguyên tắc đó. Cho nên có thể khẳng định rằng:
Trong vụ án Nguyễn Thị Năm, đúng là ông Hồ đã không cứu bà
Năm. Cũng như sau này, trong vụ án Xét lại - chống Ðảng, ông
đã không cứu ông Vũ Ðình Huỳnh. Dù rằng ông biết rõ về họ.
Dù rằng ông biết rõ về họ.
Hơn nữa, một câu
hỏi hoàn toàn chính đáng được đặt ra: trong suốt ba-bốn năm
đằng đẵng lẽ nào ông Hồ và BCT không hề hay biết gì hết đến
những thảm họa của người dân ở nông thôn mà họ cai trị hay
sao? Lẽ nào ông Hồ, Trường Chinh và các ông khác trong BCT
không biết rằng ở quê hương mình những người đồng hương của
họ đang khốn khổ ra sao? Lẽ nào trong giới thân cận của ông
Hồ và các ủy viên BCT không có một ai dám phản ánh tình
trạng bi đát của người dân cho họ biết hay sao? Câu trả lời
dứt khoát là: các ông ấy đều có biết, nhưng các ông đều im
lặng! Im lặng đến nỗi ông Vũ Ðình Huỳnh một lần đang ốm cũng
cố chống gậy lên Chủ tịch phủ gặp ông Hồ và nói toạc vào mặt
ông: “Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác ngồi yên được à?
Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa
làm vừa xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi
sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm
máu đồng bào, đồng chí!” (Xem “Ðêm Giữa Ban Ngày”). Hoàng
Tùng cũng đã lờ tịt cái thực tế lịch sử phũ phàng này: Trong
suốt thời gian CCRÐ, ông Hồ, với tư cách là Chủ tịch nước,
chưa hề ký một lệnh ân xá nào cho một ai bị án tử hình. Chỉ
từ sau Ðại hội lần thứ 20 đảng Cộng Sản Liên Xô và nhất là
sau hội nghị cán bộ cao cấp và trung cấp của Ðảng (từ 28.04
đến 03.05.1956), do phản ứng rất mạnh của cán bộ thì mới có
lệnh tạm thời chưa thi hành các án tử hình. Nhưng, than ôi,
lúc đó thì... CCRÐ về cơ bản đã gần xong rồi! Lúc đó các
đoàn và UBCCRÐTW đang bắt tay làm báo cáo tổng kết để chuẩn
bị cho hội nghị TW Ðảng kiểm điểm CCRÐ (tháng 09.1956).
Ngay cả việc
Chỉnh đốn tổ chức trong CCRÐ, Hoàng Tùng cũng cố tình đổ lỗi
cho cố vấn Trung Quốc là chính, chứ không phải lỗi của ông
Hồ và đảng Cộng Sản Việt Nam. Ông Tùng viết: “Thuyết của họ
là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức
của Ðảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác, như chính quyền,
các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai
lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà
họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử.
Mục đích của họ không phải là CCRÐ mà là đánh vào Ðảng ta.
May mà dến năm 1956 ta kịp dừng lại (bao nhiêu đầu rơi, máu
đổ và CCRÐ cũng đã gần xong, thế mà bảo là “kịp”! - Người
viết), nếu không thì tan nát hết”. Một đoạn khác: “Ðánh thuế
công thương nghiệp, cải tạo tư sản cũng là do Trung Quốc đề
ra. Hậu quả là hơn một triệu người di cư vào Nam. Ta đổ tội
cho Pháp, Mỹ, điều đó chỉ đúng phần nào, còn là do ta vội,
làm ẩu, đánh tràn hết. Không phải địa chủ mà phú nông, thậm
chí trung nông cũng đánh. Ðảng viên tốt cũng bị đánh. Kết
quả của những chính sách, cải cách lúc đó là như thế” (xem
tờ “Diễn Ðàn Forum” nói trên). Ðúng là các cố vấn Trung Quốc
chỉ biết có kinh nghiệm CCRÐ ở Hoa Nam, khi Hồng quân tiến
xuống phía Nam, hầu như không có cơ sở tổ chức của đảng Cộng
Sản, nên có nhiều người không phải cộng sản cũng đã đứng ra
lập tổ chức, lập chính quyền, vì thế khi làm CCRÐ thì đảng
Cộng Sản Trung Quốc cố tình nhân cơ hội ấy quét sạch các tổ
chức đó đi lập những tổ chức mới của họ. Còn ở miền Bắc Việt
Nam, tình hình hoàn toàn khác hẳn. Không thể làm rập khuôn
theo kinh nghiệm Hoa Nam được. Tôi cũng chẳng thích gì các
cố vấn Trung Quốc, nhưng tôi nghĩ rằng cần phải xét vấn đề
khách quan theo đúng sự thật lịch sử, chứ không thể đổ lỗi,
đổ tội tùm lum cho họ tất cả được. Ông Hồ và Bộ Chính Trị
trung ương đảng Lao Ðộng Việt Nam sống và làm việc ở Việt
Nam, có phải là trẻ con đâu mà bảo các ông cố vấn Trung Quốc
xúi gì là làm nấy? Chẳng qua chỉ vì khi đã say men “lập
trường giai cấp đấu tranh”, say men Marxisme-Leninisme,
Stalinisme, Maoisme... trong cuộc lên đồng tập thể, thì
chính các ông lãnh tụ cộng sản Việt Nam cũng “hăng hái”
không kém gì người ta. Tôi còn nhớ, có lần đọc bài nói
chuyện của ông Hồ với cán bộ CCRÐ đăng trên tờ nội san “Cải
cách Ruộng đất” (tạp chí lưu hành trong nội bộ), trong đó
ông giải thích rất mộc mạc chủ trương không được dựa vào tổ
chức cũ như sau: “Tổ chức cũ là “tổ kén”, các cô, các chú
không được dựa vào...”. Lại cũng cái lối dùng hình ảnh như
việc uốn tre đã nói trên! Năm 1962, khi nói chuyện về Tuyển
tập Hồ Chí Minh với anh Nguyễn Kiến Giang, lúc đó là phó
giám đốc Nhà xuất bản Sự Thật, anh kể rằng: “Làm tuyển tập
đó chúng tôi mệt lắm, phải rà soát lại cả, bao nhiêu bài nói
của ông cụ trong CCRÐ phải loại bỏ hay thu gọn lại”. Tôi hỏi
anh có nhớ bài ông cụ nói “Tổ chức cũ là “tổ kén” không? Anh
trả lời: “Có chứ! Bài đó phải loại bỏ. Cán bộ đảng viên nông
thôn người ta đang oán giận đùng đùng, đưa vào tuyển tập thế
nào được!”. Nếu ông Hồ không tán thành chủ trương của các cố
vấn đối với tổ chức cũ ở nông thôn thì có ai bắt ông phải
nói thế đâu? Nếu ông Hồ không tán thành chủ trương của các
cố vấn đối với tổ chức cũ ở nông thôn thì có ai bắt ông phải
nói thế đâu?
Tôi kể lại những
chuyện đó chỉ để đi đến kết luận này: đảng Cộng Sản Việt Nam
chớ nên đổ lỗi, đổ tội cho ai cả, mà cần thấy hết cái trách
nhiệm lớn lao của mình trong CCRÐ. Chừng nào đảng Cộng Sản
Việt Nam chưa sám hối được về những tội ác đã gây ra, thì
người dân chớ có hy vọng là Ðảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi mới và
sẽ không tái diễn lại những tội ác trước đây. Chừng nào đảng
Cộng Sản Việt Nam chưa sám hối được về những tội ác đã gây
ra, thì người dân chớ có hy vọng là Ðảng sẽ sửa đổi, sẽ đổi
mới và sẽ không tái diễn lại những tội ác trước đây.
Cũng xin mọi
người đừng quên: CCRÐ không phải là thảm họa đầu tiên, cũng
chẳng phải là thảm họa cuối cùng mà tập đoàn thống trị cộng
sản Việt Nam đã gây ra cho dân tộc ta! Tôi không kể những
thảm họa trước CCRÐ, mà chỉ nói ngay liền sau CCRÐ là vụ án
Nhân Văn - Giai Phẩm, vụ án Xét lại - chống Ðảng, rồi Cải
tạo công thương nghiệp, đánh đổ tư sản ở miền Bắc, rồi cái
nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Thường vụ Quốc hội do Trường
Chinh ký ngày 20.06.1961, nhốt hàng chục vạn người vô tội ở
miền Bắc vào các trại tập trung khủng khiếp, rồi Tết Mậu
Thân, v.v... và v.v... Nếu kể hết thì ta thấy cả một chuỗi
dài tội ác khủng khiếp đã qua và đang tiếp tục mãi cho đến
tận ngày nay. Cố nhiên, ngày nay người ta dùng thủ đoạn tinh
vi hơn, nhưng bản chất tội ác vẫn thế. Cố nhiên, ngày nay
người ta dùng thủ đoạn tinh vi hơn, nhưng bản chất tội ác
vẫn thế.
Tội ác mới gần
đây nhất là vụ án Lê Chí Quang, xử một nhà yêu nước chân
thành, một chí sĩ đáng kính dù chỉ mới ngoài ba mươi tuổi!
Cái “tội” của anh là đã dũng cảm dấn thân vì nước, đã dám
kêu gọi đám cầm quyền hiện nay hãy cảnh giác kẻo mang tội
bán nước cho Bắc triều, đã dám đứng chân vào “Hội Nhân Dân
Chống Tham Nhũng” những mong trừ được quốc nạn cho dân tộc.
Tập đoàn thống trị cộng sản Việt Nam đã trắng trợn bày trò
xử án để tống người thanh niên yêu nước vào tù, người thanh
niên đã từng tuyên bố đanh thép chí hướng của anh trong bài
tiểu luận nổi tiếng “Hãy Cảnh Giác Với Bắc Triều”: “Tôi viết
bài này khi đang bị kìm kẹp trong vòng nghiệt ngã của các
lực lượng bảo thủ và tay sai cho Bắc Triều. Biết rằng, bài
viết này không làm cho hào quang lấp lánh trên đầu tôi mà
trái lại, càng đẩy tôi sâu thêm vào vòng nguy hiểm. Ngay như
đối với một công thần của cách mạng, mà họ còn ngang nhiên
tuyên bố xanh rờn: “...Sẵn sàng hy sinh Hoàng Minh Chính để
bảo vệ chế độ”. Huống chi tôi chỉ là con tốt đen dễ dàng bị
biến thành vật tế thần cho bàn thờ Bắc Triều. Dẫu sao trước
hiểm họa khôn lường của tồn vong đất nước, tôi đâu dám nề hà
xả thân, bởi tôi tâm niệm câu nói của Hàn Phi Tử: “Nước mất,
mà không biết là bất tri. Biết mà không lo liệu, là bất
trung. Lo liệu, mà không liều chết là bất dũng”. Chỉ mong
sao tấc lòng nhỏ mọn này, được lương tri dân tộc trong và
ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết sức chỉ giáo”
(01.10.2001). Chỉ mong sao tấc lòng nhỏ mọn này, được lương
tri dân tộc trong và ngoài nước soi thấu, và hết lòng, hết
sức chỉ giáo” (01.10.2001).
Rất
mong rằng trong dịp nhớ lại thảm họa CCRÐ, “lương tri dân
tộc trong và ngoài nước”, nhất là lương tri giới trẻ nhận
thức rõ rằng chế độ độc tài đảng trị mà còn thì những thảm
họa tương tự vẫn sẽ còn tiếp tục, vì tập đoàn thống trị cộng
sản không tôn trọng con người, không tôn trọng sinh mạng và
quyền tự do của con người, không tôn trọng luật pháp mà chỉ
coi trọng quyền lực của họ là tối thượng mà thôi. Nhắc lại
thảm họa CCRÐ, chúng tôi rất mong mọi người, nhất là giới
trẻ noi gương Lê Chí Quang, thêm quyết tâm tranh đấu sớm xóa
bỏ chế độ độc tài nhằm chuyển hóa đất nước ta thành một xã
hội dân chủ đích thực, tạo điều kiện cho sự phát triển và
phồn vinh của Tổ quốc chúng ta.
Nguyễn
Minh Cần