CỔ HỌC TINH HOA
Cổ Học Tinh Hoa Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân
Cổ Học Tinh Hoa
Chào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di động Nguồn: http://vnthuquan.net/ Tạo ebook: Nguyễn Kim Vỹ.
MỤC LỤC
Lời Tựa
Tinh Hoa của thánh nhân
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân
Cổ Học Tinh Hoa
Lời Tựa
"Có mới, nới cũ" thường tình vẫn thế. Tân học mỗi ngày một tiến, tất Cựu học phải lùi và có khi sợ rồi mai một đi mất. Nhưng, Tân học mà hay, tất là Tân học có một nền tảng vững chắc. Nền tảng ấy tức là tinh hoa của Cựu học. Cựu học nước nhà là một thứ học trải qua bao nhiêu đời, đã làm cho ông cha ta phù thực được cương thường, chấn chỉnh được phong hóa, bảo tồn được quốc thể, duy trì được thế đạo nhân tâm, thật không phải là một cái Học không có giá trị đáng khinh rẻ hay quên bỏ được. Vả chăng: "Tri kim, nhi bất tri cổ, vị chi manh cổ; tri cổ, nhi bất tri kim, vị tri lục trầm" ta đã biết truyện đời nay, ta lại cần phải học truyện đời xưa, ta ôn lại việc đời xưa mà ta rõ được việc đời nay, có như thế, thì cái Học của ta mới không đến nỗi khiếm khuyết. Vì, tuy chia làm cổ, kim, nhưng chẳng qua cũng chỉ là buổi sớm, buổi chiều trong một ngày của trời đất, kẻ học giả mà câu nệ chấp nhất, chỉ biết cổ không muốn biết kim, hay chỉ biết kim không muốn biết cổ, thì sao gọi là "bác cổ thông kim" được! Cựu học của ta là gì? Cựu học của ta tức là Hán học nghĩa là một cái Học chung cho cả mấy dân tộc ở Á Đông đã chịu cái văn hóa của giống người Hán, tức là người Trung Hoa. Cựu học không phải là chỉ có Tứ Thư, Ngũ Kinh, xưa kia đa số quen dùng làm cái học cử nghiệp mà thôi. Ngoại giả, còn
Bác gia chư tử thật là man mác rộng như bể, học thuyết đủ mọi mặt, lý tưởng rất xâu xa, muốn học cho tới nơi, phải mất bao nhiêu công phu, thời giờ mới được. Nay, chúng tôi biên tập quyển sách nầy, không phải là muốn chuyên tâm nghiên cứu riêng một phái nào hay một nhà nào. Chúng tôi chỉ góp nhặt một đôi chút lý tưởng trong Cổ học gọi là để cho người đọc thiệp liệp qua được một ít tinh hoa của lối học cũ mà thôi. Nên chúng tôi mới lạm dụng bốn chữ "Cổ Học Tinh Hoa" làm nhan sách. Chúng tôi có ý chọn những bài ngắn mà nghĩa lý hàm súc dồi dào. Những bài ấy tuy là truyện từ đời xưa bên Tàu, nhưng ứng dụng vào đời nào và ở đâu cũng được. Vì truyện tuy cổ, nhưng cái chân lý thì bao giờ cũng là một, mà bao giờ cũng như mới. Nào hiếu đệ, nào trung tín, nào lễ nghĩa, nào liêm sĩ, đến cả những việc kỳ quái, sinh tử; bài nầy chính giọng huấn giáo, bài kia rõ thể ngụ ngôn, truyện nầy nghiêm trang khắc khổ, truyện kia khôi hài lý thú; đức Khổng nói "Nhân" hồn nhiên như hóa công; ông Mạnh bàn "Nghĩa" chơm chởm như núi đá, Tuân Tử nói "Lễ" thật là đường bệ, Mặc Tử nói "Ái" thật là rộng rãi, hình danh như Hàn phi tử thật là nghiêm nghị khiến người mất bụng làm xằng, ngôn luận như Án Tử thật là thâm thiết khiến người dễ đường tỉnh ngộ, đến nói đạo đức như Lão Tử, bàn khoáng đạt như Trang Tử thật lại biến hóa như rồng, phấp phới như mây... các lý thuyết mỗi nhà một khác, có khi phản đối hẳn nhau, nhưng thực khiến cho người đọc vừa được vui, vừa phải đem tâm suy nghĩ. Dịch những bài văn như thế, chúng tôi lấy làm rất khó.
Chẳng những chữ Hán dịch ra chữ Nam, lắm câu không hết được nghĩa, nhiều bài, chính nguyên văn cũng mỗi nơi chép một khác không lấy gì làm xác định. Nên khi dịch, chúng tôi phải châm chước cân nhắc từng bài, bài thì địch thẳng nguyên văn, bài thì chỉ dịch lấy đại ý, hoặc có bài phải rút bớt, hay thêm ra, hay đúc lại, cốt cho nó xuông tiếng Nam mà không hại đến nghĩa bài thì thôi. Dịch Hán văn ra quốc văn, tất phải dùng nhiều chữ Hán. Song chữ nào bất đắc dĩ phải dùng, thì ở dưới chúng tôi đã có "giải nghĩa" rõ ràng. Nghĩa ấy thường chỉ là nghĩa riêng trong bài, chớ không phải hết mọi nghĩa của từng chữ. Những tên người, tên đất, muốn cho tinh tường, đáng lẽ phải có một cái biểu liệt đủ tên những tác giả cùng những người nói trong chuyện và một bức địa đồ Trung Hoa trải qua các thời đại. Nhưng việc ấy xin để nhường những nhà chuyên về Bắc sử sau nầy, đây chúng tôi chỉ chua qua để cho độc giả đủ biết cái đại cương mà thôi. Đọc một bài văn hay, mà tư tưởng đã thấm thía vào tâm não, thì tất không sao để yên ngòi bút mà không phê bình được. Đó cũng là một cái thông bệnh của những người hâm mộ văn chương hay có cái thú ngâm nga và đưa ngòi bút khuyên liền, khuyên kín vậy. Chúng tôi cũng không tránh khỏi cái bệnh ấy. Nên dưới mỗi bài chúng tôi cũng góp "Lời Bàn", cốt là để giải rõ các đại ý trong bài hoặc lạm bình một, đôi câu ứng với cái thời buổi bây giờ.
Cổ Học Tinh Hoa Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân
Chúng tôi mạo muội biên dịch quyển sách nầy là quyển đầu, có ý bảo tồn tinh hoa của cổ học và mong các bạn thiếu niên ta nhớ đến nguồn gốc từ bao nghiêu nghìn năm về trước, rõ các điển tích thường dẫn trong văn chương nước nhà, thêm trước được ít tài liệu có khi làm văn phải dùng đến, rộng được ít tri thức tuy thuộc về Cổ học mà thật khác nào "như thóc gạo, như vải lụa", thường cần đến hàng ngày. Nếu quyển sách này, giúp được một phần trong muôn phần ấy, thì chúng tôi lấy làm hoan hỷ lắm vậy. Hà Nội, ngày 21 tháng 10 năm Ất Sửu (1925) Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc Từ An Trần Lê Nhân
Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân
Cổ Học Tinh Hoa
Tinh Hoa của thánh nhân
1. Không quên cái cũ
Đức Khổng-tử ra chơi ngoài đồng, thấy một người đàn bà đứng khóc nỉ non ở chỗ bờ đầm. Đức Khổng-tử lấy làm lạ, bảo học trò hỏi vì cớ gì mà khóc. Người đàn bà nói: "Độ trước tôi cắt cỏ thi, tôi đánh mất cái trâm cài đầu bằng cỏ thi, cho nên tôi khóc." - Đức Khổng-tử hỏi: Đi cắt cỏ thi, mà mất cái trâm bằng cỏ, thì việc gì mà phải khóc? - Người đàn bà nói: Không phải vì tôi đánh mất cái trâm cỏ thi mà tôi khóc; tôi sở dĩ khóc, là tôi thương tiếc một vật cũ, dùng đã lâu, mà ngày nay không sao thấy được nữa. Lời Bàn: - Cái gì đã là của mình, mình có bụng yêu, mà lỡ khi mất, thì về sau dù có được cái khác giống như thế, hay hơn thế, mình cũng không thể sao yêu cho bằng. Thường, lại chỉ vì thấy cái mới mà hồi nhớ đến cái cũ, sinh ra chạnh lòng, nên câu ta thán, có khi ngậm ngùi thương khóc nỉ non. Tại sao vậy? Tại đối với mình, cái của mất không chỉ có giá của mà thôi, lại hình như còn có một phần tâm hồn mình hay tâm hồn người để lại cho mình ngụ ở trong nữa. Sự cảm động đầu tiên bao giờ cũng là sự cảm động hay nhất, bền nhất. Ôi! Cáo chết ba năm quay đầu về núi, con người ta, dù cho lông bông xiêu bạt đến thế nào, còn có chút tâm tình cũng không sao quên được gốc tích xứ sở mình. "Hồ mã tê bắc phong, Việt điểu sào nam chi". Con ngựa rợ Hồ (phía bắc nước Tàu) thấy gió bắc còn cất tiếng kêu, con chim đất Việt (phía nam nước Tàu) chọn cành nam mới chịu làm tổ, huống chi là người mà lại quên được nguồn gốc ư.
Chú thích: Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho.
Chú thích: Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho.
2. Lúc Đi Trắng, Lúc Về Đen
Một hôm trời nắng Dương Bố đi chơi. Khi ở nhà ra, thì mặc áo trắng, đi được nửa đường, gặp trời mưa, quần áo ướt hết, mới vào ẩn mưa ở nhà bà con. Người ấy thấy Dương Bố ướt cả cho mượn cái áo thâm. Một lúc trời tạnh, Dương Bố mặc áo thâm về nhà. Con chó trông thấy, vừa cắn vừa xua đuổi. Dương Bố giận toan cầm gậy đánh. Anh là Dương Chu chạy ra bảo: "Đừng đánh nó làm gì! Nó đuổi như thế cũng phải. Giả sử con chó trắng nhà ta, lúc đi, thì trắng, lúc về thì đen, phỏng em có không lấy làm lạ mà không ngờ được không?" Lời Bàn: Lúc đi mặc áo trắng, lúc về mặc áo thâm, chính mình không biết mình thay đổi, con chó thấy khác thì xua đuổi. Mình đánh nó chẳng hóa ra lầm lắm ru! Lỗi tại mình thay đổi không tại con chó cắn xằng. Vậy nên ở đời khi mình làm điều gì khác thường, mà người ta không rõ, thì tất nhiên người ta bàn trái bàn phải. Nếu mình không tự xét mình thay đổi hay dở, chỉ biết trách người nghị luận nọ kia, thì chẳng khác nào như Dương Bố đánh chó trong truyện này.
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
Liệt Tử: sách của Liệt Ngữ Khấu hay người truyền học thuyết của Liệt Ngữ Khấu soạn ra, có tám quyển, sau nhà Đường, nhà Tống đặt tên là Sung Hư Chân Kinh, hay Sung Hu chí đức chân kinh.
3. Lợi Mê Lòng Người
Nước Tống có kẻ mất cái áo thâm. Anh ta ra đường tìm. Thấy người đàn bà mặc áo thâm, níu lại đòi
rằng: "Tôi vừa mất cái áo thâm, chị phải đền trả tôi cái nầy". Rồi cứ giữ chặt cái áo không buông ra nữa. Người đàn bà cãi: "Ông mất áo thâm, tôi biết đấy là đâu? Áo tôi mặc đây là áo của tôi, chính tay tôi may ra". Anh kia nói: "Chị cứ phải đền trả áo cho tôi. Cái áo thâm tôi mất dầy, cái áo thâm chị mặc mỏng. Lấy áo thâm mỏng của chị đền cho áo thâm dầy cho tôi, còn phải nói gì lôi thôi nữa! Lời Bàn: Mất áo trong nhà mà ra đường tìm, đã là chuyện bật cười. Mất áo đàn ông mà đòi áo đàn bà lại là chuyện bật cười. Mất áo thâm dầy bắt đền áo thâm mỏng mà cho là phải, lại là chuyện bật cười nữa. Ôi cái lợi nó làm cho lòng người mê muội, chỉ biết có mình không biết có ai, chỉ vụ lợi cho mình mà quên cả phải trái. Kẻ nào đã vụ lợi như thế, thì cái gì mà chẳng dám làm, cái gì mà chả dám nói! Than ôi! Cái đời kim tiền bây giờ biết bao nhiêu phường đòi áo như người nói trong chuyện này.
Nước Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu sau phải nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thượng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ. Áo thâm: áo sắc đen
Nước Tống: một nước chư hầu thời Xuân Thu sau phải nước Tề lấy mất, ở vào huyện Thượng Khưu tỉnh Hà Nam bây giờ. Áo thâm: áo sắc đen
4. Lấy Của Ban Ngày
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: "Cái nầy tôi ăn được, cái nầy tôi mặc được, cái nầy tôi tiêu được, cái nầy tôi dùng được." Lấy rồi đem đi. Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói: "Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau nầy tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả lại". Người coi chợ thấy càn dỡ, đánh cho mấy roi, bắt của ai phải trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắng: "Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của của người. Ta đây tuy thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi cười ta là các người chưa nghĩ kỹ!"
Lời Bàn: Đã là kẻ thấy của tối mắt, tham vàng bỏ nghĩa, thì dù ít, dù nhiều cũng là đáng khinh cả, song đem những kẻ mặt to, tai lớn, vì ham mê phú quý mà lường thầy, phản bạn, hại ngầm đồng bào so với những quân cắp đường, cắp chợ giữa ban ngày để nuôi miệng thì tội đến nặng hơn biết bao nhiêu. Thế mà trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm cướp vặt chớ không biết trừng trị những kẻ đại gian đại ác. Long Môn Tử: tức là Tư Mã Thiên làm quan Thái Sư nhà Hán là một nhà sử ký có danh. Hiếu lợi: ham tiền của quên cả phải trái. Lửa tham: lòng tham muốn bốc lên làm ngốt người. Mờ cả hai con mắt: chỉ để cả vào của muốn lấy, ngoài ra không trông thấy gì nữa. Thế gian: cõi đời người ta ở. Thiên phương bách kế: mưu nầy, chước khác xoay đủ trăm nghìn cấp Ban ngày: lúc sáng sủa dễ trông thấy.
Lời Bàn: Đã là kẻ thấy của tối mắt, tham vàng bỏ nghĩa, thì dù ít, dù nhiều cũng là đáng khinh cả, song đem những kẻ mặt to, tai lớn, vì ham mê phú quý mà lường thầy, phản bạn, hại ngầm đồng bào so với những quân cắp đường, cắp chợ giữa ban ngày để nuôi miệng thì tội đến nặng hơn biết bao nhiêu. Thế mà trách đời chỉ biết chê cười những quân trộm cướp vặt chớ không biết trừng trị những kẻ đại gian đại ác. Long Môn Tử: tức là Tư Mã Thiên làm quan Thái Sư nhà Hán là một nhà sử ký có danh. Hiếu lợi: ham tiền của quên cả phải trái. Lửa tham: lòng tham muốn bốc lên làm ngốt người. Mờ cả hai con mắt: chỉ để cả vào của muốn lấy, ngoài ra không trông thấy gì nữa. Thế gian: cõi đời người ta ở. Thiên phương bách kế: mưu nầy, chước khác xoay đủ trăm nghìn cấp Ban ngày: lúc sáng sủa dễ trông thấy.
5. Khổ Thân Làm Việc Nghĩa
Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề, qua nhà người bạn cũ, vào chơi. Người bạn nói chuyện với Mặc Tử rằng: "Bây giờ thiên hạ ai còn thiết đến việc "nghĩa", một mình ông tự khổ thân để làm việc nghĩa, thì có thấm vào đâu! Chẳng thà thôi đi có hơn không? - Mặc Tử nói: "Bây giờ có người ở đây, nhà mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn không, thì đứa cày chẳng nên càng chăm cày hơn lên ư? Tại sao thế? Tại đứa ăn không nhiều, đứa đi cày ít. Bây giờ thiên hạ chẳng ai chịu làm việc nghĩa, thì ông phải biết khuyên tôi càng làm lắm mới phải, có đâu lại ngăn tôi như thế!" Lời Bàn: Trong khi nhân tâm thế đạo suy đồi, mình là người còn đứng vững được, thì sao lại chịu suy đồi với thiên hạ cho cùng trôi một loạt. Vì nếu ai cũng như thế cả, thì còn đâu là người cảnh tỉnh được kẻ u mê để duy trì lấy nhân tâm thế đạo nữa? Cho nên những người thức thời, có chí, dù ở vào cái đời biến loạn đến đâu, cũng không chịu đắm đuối vào cái bất nghĩa, khác nào như: cây tòng, cây bách, mùa đông sương tuyết, mà vẫn xanh, như con gà trống, mưa gió tối tăm mà vẫn gáy. Những bậc ấy chẳng những thế mà thôi, lại còn đem bao nhiêu tinh lực tâm trí ra, cố gắng giữ lấy phong hóa mà dìu dắt, mà đưa đường cho những kẻ u mê đắm đuối. Như Mặc Tử đây, cho là đời là suy biến, coi sự làm việc "Nghĩa", sự cổ động việc nghĩa như cái chức vụ của mình phải làm, thực là người có công với loài người vậy.
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Nghĩa: việc phải, việc hay mà người ta nên làm.
Mặc Tử: tên sách của Mặc Địch soạn, chủ nghĩa là kiêm ái yêu người như yêu mình cũng gần giống chủ nghĩa của đạo Cơ Đốc và đạo Thích Ca.
Tề: một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến Quốc, cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Đông bây giờ.
Nghĩa: việc phải, việc hay mà người ta nên làm.
Tự khổ thân: tự mình làm cho mình khóc nhọc vất vả.
6. Cách Cư Xử Ở Đời
Thầy Nhan Uyên, hỏi Đức Khổng Tử: "Hồi nầy muốn nghèo mà cũng được như giàu, hèn mà cũng được như sang, không phải khỏe mà có oai, chơi bời với người ta suốt đời không lo sợ gì, muốn như vậy, có nên không?" Đức Khổng Tử nói: "Người hỏi thể phải lắm. Nghèo, mà muốn cũng như giàu, thế là biết bằng lòng số phận không ham mê gì. Hèn, mà cũng muốn như sang, thế là biết nhún nhường và có lễ độ. Không khỏe, mà muốn có oai, thế là biết thận trọng, cung kính không lầm lỗi gì. Chơi bời với mọi người mà muốn suốt đời không lo sợ, thế là biết chọn lời rồi mới nói. Lời Bàn: Không cần công danh phú quí thế là biết giữ thiên tước hơn là nhân tước, không để ai khinh lờn được, thế là biết trọng phẩm giá mình, không muốn đeo cái lo vào mình, thế là biết giữ thân không phiền lụy đến ai. Ở đời mà giữ trọn vẹn được mấy điều như thế, tưởng thật là một cách vui thú rất cao thượng vậy.
Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho. Nhan Uyên: tên là Hồi, người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử. Hồi: theo lễ xưa, hầu chuyện những bậc trên, như vua, cha, thầy học, thường hay xưng tên. Lễ độ: phép tắc mực thước. Thận trọng: cẩn thận, trọng hậu.
Khổng Tử Tập Ngữ: sách chép những lời nói, những truyện về đức Khổng Tử. - Khổng Tử tên là Khưa, tên tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, thời Xuân Thu nhà Chu, học về Lễ, Nhạc, Văn chương đời cỗ, đi nhiều nước chư hầu không được dụng bỏ về làm kinh Xuân Thu, san định các kinh Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và dạy học trò được ba nghìn người, có bảy mươi hai người giỏi. Nước Tàu xưng làm Tổ đạo Nho. Nhan Uyên: tên là Hồi, người nước Lỗ, thời Xuân Thu, học trò giỏi nhất của Đức Khổng Tử. Hồi: theo lễ xưa, hầu chuyện những bậc trên, như vua, cha, thầy học, thường hay xưng tên. Lễ độ: phép tắc mực thước. Thận trọng: cẩn thận, trọng hậu.
7. Tu Thân
Thấy người hay, thì phải cố mà bắt chước; thấy người dở thì phải tự xét xem có dở như thế không để mà sửa đổi. Chính mình có điều hay, thì phải cố mà giữ lấy; chính mình có điều dở, thì phải cố mà trừ đi. Người chê ta, mà chê phải, tức là thầy ta; người khen ta, mà khen phải, tức là bạn ta; còn người nịnh hót ta lại là người cừu địch hại ta vậy. Cho nên người quân tử trọng thầy, quí bạn và rất ghét cừu địch, thích điều phải mà không chán, nghe lời can mà biết răn... như thế dù muốn không hay cũng không được. Kẻ tiểu nhân thì không thế. Cực bậy, mà lại ghét người chê mình; rất dở, mà lại thích người khen mình; bụng dạ như hổ lang, ăn ở như cầm thú, mà thấy người ta không phục, lại không bằng lòng; thân với kẻ siểm nịnh, xa cách kẻ can ngăn, thấy người chính trực thì cười, thấy người trung tín thì chê... Như thế thì dù muốn không dở cũng không được.
Lời Bàn: Cái đạo tu thân rút lại chỉ có biết theo điều hay, biết tránh điều dở. Mà muốn tới cái mục đích ấy, thì không những là tự mình phải xét mình lại còn phải xét cái cách người ở với mình nữa. Đối với người, cần phải biết hai điều: Ai khen chê phải, khuyên răn hay, thì phục, thì bắt chước; ai chiều lòng nịnh hót, thì tránh cho xa, coi như quân cừu địch. "Nên ưa người ta khuyên mình hơn người ta khen mình" có như thế, thì mới tu thân được.
Tuân Tử: tên thật là Huống, tên tự là Khanh, người nước Triệu, sinh ra sau Mạnh Tử độ 50 năm, thấy đời bấy giờ cứ loạn luôn mãi và phong hóa suy đồi, làm sách nói về lễ nghĩa, lễ nhạc, cốt ý để chỉnh đức và hành đạo. Quân tử: Người có tài đức hơn người. Tiểu nhân: Kẻ bất chính, gian ác, tự tư, tự lợi. Cầm thú: cầm: giống có hai chân và hai cánh; thú: giống có bốn chân, hai chữ chỉ loài chim và loài muông. Chính trực: ngay thẳng. Trung tín: hết lòng, thật bụng.
Một người nước Tống đang cày ruộng. Giữa ruộng có một cây to. Có con thỏ đồng ở đâu chạy lại, đâm vào gốc cây, đập đầu chết. Người cày ruộng thấy thế, bỏ cày, vội chạy đi bắt thỏ. Đoạn, cứ ngồi khư khư ôm gốc cây, mong lại được thỏ nữa. Nhưng đợi mãi chẳng thấy thỏ đâu, lại mất một buổi cày. Thiên hạ thấy vậy, ai cũng chê cười.
Lời Bàn: Thấy mùi, quen mui làm mãi. Ở đời những kẻ ngẫu nhiên gặp may, mà ước ao được gặp may luôn như thế nữa, không biết sự may là tình cờ mới có, thì có khác gì người nước Tống ôm cây đợi thỏ nầy. Anh ôm cây đợi thỏ này lại còn là người cố chấp bất thông, không hiểu thời thế, không thấu tình cảnh, khư khư đười ươi giữ ống, cũng một phường với những hạng chơi đàn gắn chặt phím, khắc mạn thuyền để nhớ chỗ gươm rơi. Hàn Phi Tử: Công tử nước Hàn, học trò Tuân Tử chuyên về bình danh pháp luật, nước Hàn không dùng, sang ở nước Tần, được đại dụng, nhưng sau bị kẻ gièm pha, rồi tự tử. Sách của Hàn Phi Tử có 50 thiên, đặt tên Hàn Tử. Nhà Tống sau thêm chữ Phi để khỏi lầm lẫn với Hàn Dũ. Đoạn: nghĩa đen là đứt, việc nầy đứt đến việc khác.
9. Đánh Dấu Thuyền Tìm Gươm
Có người nước Sở đi đò qua sông. Khi ngồi đò, vô ý, đánh rơi thanh gươm xuống sông. Anh ta vội vàng đánh dấu vào mạn thuyền, nói rằng: "Gươm ta rơi ở chỗ nầy đây". Lúc thuyền đỗ vào bến, anh ta cứ theo chỗ đánh dấu, lặn xuống nước tìm gươm. Thuyền đã đi đến bến, chớ gươm rơi đâu thì vẫn ở đấy, có theo thuyền mà đi đâu? Tìm gươm như thế, chẳng khờ dại lắm ư! Lời Bàn: Thanh gươm rơi xuống sông, thì ở ngay chỗ rơi. Nếu muốn tìm thấy gươm, tất phải lặn ngay xuống chỗ rơi mà tìm. Chớ sao lại đánh dấu vào thuyền, đợi đến lúc thuyền đỗ vào bến, mới lặn xuống bến tìm? Người tìm gươm nầy có khác nào như người đánh đàn sắt đem gắn cả ngựa lại, tưởng ngựa không di dịch được là các âm vận tự nhiên điều hòa được đúng! Than ôi! người cố chấp bất thông, chỉ câu nệ biết giữ chặt một cái đã nắm chặt trong tay, chớ không hiểu nghĩa chờ "thời" là gì?
Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng". Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Thanh gươm: tục xưa người ta đi đâu cũng hay đeo gươm để thủ thân mà lại giữ lễ nữa.
Lã Thị Xuân Thu: Sách của Lã Bất Vi làm. Lã Bất Vi người đời nhà Tần thời Chiến quốc, trước là lái buôn to, sau làm tướng, chính là cha đẻ của Tần Thủy Hoàng. Khi làm quyển Lã Thị Xuân Thu xong, Bất Vi đem treo ở cửa Hàm Dương, nói rằng "Ai bớt được, hay thêm được một chữ, thì thưởng cho ngàn vàng". Sở: một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ. Thanh gươm: tục xưa người ta đi đâu cũng hay đeo gươm để thủ thân mà lại giữ lễ nữa.
10. Ba Con Rận Kiện Nhau
Ban con rận hút máu một con lợn, tranh nhau ăn, đem nhau đi kiện. Một con rận khác gặp, hỏi: "Ba anh kiện nhau về việc gì thế? - Ba con rận đáp: Chúng tôi kiện nhau, vì tranh nhau một chỗ đất mầu mỡ. - Con rận kia nói: Tôi tưởng các anh chẳng nên tranh lẫn nhau thế làm gì. Các anh chỉ nên lo đến con dao của người đồ tể giết lợn, ngọn lửa của bó rơm thui lợn mà thôi." Ba con rận nghe ra, biết là dại, thôi không đi kiện nữa, cùng nhau quần tụ, làm ăn với nhau, dù no, dù đói, cũng không bỏ nhau. Con lợn thành mỗi ngày một gầy, người ta không làm thịt cứ để nuôi, ba con rận nhờ thế mà no đủ mãi.
Lời Bàn: Nhân dân một xứ mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt, không nghĩ gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng mấy con rận nói trong truyện nầy. Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương kết, lợi chẳng thấy đâu, chỉ thấy hại, hại cho một mình lại hại cho cả đàn, cả lũ nữa. Sao không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn: trùng hại vật, vật chết thì trùng cũng hết kiếp. Quần tụ: quây quần ăn ở bao bọc lấy nhau. Đồ tể: người làm thịt các giống vật để bán.
Lời Bàn: Nhân dân một xứ mà cứ tranh giành lẫn nhau cái lợi trước mắt, không nghĩ gì đến cái việc lâu dài cho cả toàn thể, thì trí khôn thật không bằng mấy con rận nói trong truyện nầy. Tranh nhau, cãi nhau, đánh nhau, kiện nhau, thì oan oan tương kết, lợi chẳng thấy đâu, chỉ thấy hại, hại cho một mình lại hại cho cả đàn, cả lũ nữa. Sao không biết: Sâu đục cây, cây đổ thì sâu cũng chẳng còn: trùng hại vật, vật chết thì trùng cũng hết kiếp. Quần tụ: quây quần ăn ở bao bọc lấy nhau. Đồ tể: người làm thịt các giống vật để bán.
11. HAI PHẢI
Sông Vĩ nước lên to . Một nhà giàu không may có người chết đuối . Có kẻ vớt được xác .
Người nhà giàu xin chuộc, kẻ ấy đòi nhiều tiền . Người nhà giàu đem câu chuyện thưa với Ðặng Tích . Ðặng Tích bảo :"Cứ để yên . Nó còn bái cái xác cho ai được mà sợ ?"
Lã Thị Xuân Thu
CHÚ THÍCH: Vĩ là tên sông, chảy ở địa phận Hà Nam, Trung Quốc .
Ðặng Tích: quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu, là một nhà luật pháp giỏi .
LỜI BÀN: Cứ như người giảng giải việc nói trong bài này cho phải đạo lý, thì một bên, nên khuyên người nhà giàu liệu trả kẻ vớt được xác thêm ít nhiều tiền, mà lấy ngay xác về; còn một bên, nên dụ kẻ vớt được xác chớ có coi sự chẳng may của người ta làm một món bổng, mà bắt bí người ta . Giữ cái xác, không cho chuộc, chẳng những không được tiền, mà lại còn mang tội nữa . Nhưng khốn thay ! Lý sự là cái nguồn bắt phải, bắt trái đều được cả . Cho nên Ðặng Tích mới có chốn súi bẩy được cả đôi bên kiện tụng lẫn nhau mà ngấm ngầm lấy lợi cho mình . Thế tức là cái chủ nghĩa "Hai phải" ngụy biện, rất hại cho dân gian ngu dại mà lại hay kiện tụng . Biện bác mà không đáng lý tức là giả dối , khôn ngoan mà không đáng lý tức là gian trá, những kẻ ấy phải trừng phạt thì mới yên dân, lợi nước được . Người trị dân tưởng phải thấu cái tình, để xét cái lý, mới là người trị dân sáng suốt vậy .
Sông Vĩ nước lên to . Một nhà giàu không may có người chết đuối . Có kẻ vớt được xác .
Người nhà giàu xin chuộc, kẻ ấy đòi nhiều tiền . Người nhà giàu đem câu chuyện thưa với Ðặng Tích . Ðặng Tích bảo :"Cứ để yên . Nó còn bái cái xác cho ai được mà sợ ?"
Kẻ vớt được xác, thấy nhà kia không hỏi nữa, lấy làm lo, cũng đem câu
chuyện thưa với Ðặng Tích . Ðặng Tích bảo: "Cứ để yên . Nó còn mua cái
xác ấy của ai được mà sợ ?"
Lã Thị Xuân Thu
CHÚ THÍCH: Vĩ là tên sông, chảy ở địa phận Hà Nam, Trung Quốc .
Ðặng Tích: quan đại phu nước Trịnh thời Xuân Thu, là một nhà luật pháp giỏi .
LỜI BÀN: Cứ như người giảng giải việc nói trong bài này cho phải đạo lý, thì một bên, nên khuyên người nhà giàu liệu trả kẻ vớt được xác thêm ít nhiều tiền, mà lấy ngay xác về; còn một bên, nên dụ kẻ vớt được xác chớ có coi sự chẳng may của người ta làm một món bổng, mà bắt bí người ta . Giữ cái xác, không cho chuộc, chẳng những không được tiền, mà lại còn mang tội nữa . Nhưng khốn thay ! Lý sự là cái nguồn bắt phải, bắt trái đều được cả . Cho nên Ðặng Tích mới có chốn súi bẩy được cả đôi bên kiện tụng lẫn nhau mà ngấm ngầm lấy lợi cho mình . Thế tức là cái chủ nghĩa "Hai phải" ngụy biện, rất hại cho dân gian ngu dại mà lại hay kiện tụng . Biện bác mà không đáng lý tức là giả dối , khôn ngoan mà không đáng lý tức là gian trá, những kẻ ấy phải trừng phạt thì mới yên dân, lợi nước được . Người trị dân tưởng phải thấu cái tình, để xét cái lý, mới là người trị dân sáng suốt vậy .
12. TĂNG SÂM GIẾT NGƯỜI
Ông Tăng Sâm ở đất Phi . Ở đấy có kẻ trùng tên với ông giết chết người .
CHÚ THÍCH:Tăng Sâm: người thời Xuân Thu, tính chất chân thật và rất có hiếu, học trò đức Khổng Tử và sau truyền được đạo của ngài .
Ông Tăng Sâm ở đất Phi . Ở đấy có kẻ trùng tên với ông giết chết người .
Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng: "Tăng Sâm giết
người " . Bà mẹ nói: "Chẳng khi nào con ta lại giết người". Rồi bà điềm
nhiên ngồi dệt cửi .
Một lúc, lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người". Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi .
Một lúc nữa lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người". Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn .
Quốc SáchMột lúc, lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người". Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi .
Một lúc nữa lại có người đến bảo: "Tăng Sâm giết người". Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn .
CHÚ THÍCH:Tăng Sâm: người thời Xuân Thu, tính chất chân thật và rất có hiếu, học trò đức Khổng Tử và sau truyền được đạo của ngài .
LỜI BÀN: Tăng Sâm vốn là người hiền hậu hiếu thảo, bà mẹ vốn là người
trung tín, một bụng tin con . Thốt nhiên có kẻ bảo: "Tăng Sâm giết
người". Bà mẹ không tin, người thứ hai bảo, còn chưa tin; đến người thứ
ba bảo, thì cuống cuồng chạy trốn . Như thể mới hay cái dư luận của
thiên hạ rất là mạnh . Một việc, dù cho sai lầm đến mười mươi, nhiều
người đã dùng có một nghị luận đều như thế cả, thì cũng dể khiến cho ta
nghi nghi hoặc hoặc rồi đem bụng tin mà cho là phải, nom đỉa hóa ra
rươi, trông con chó thành ra con cừu . Ðến như giữa chợ làm gì có cọp !
Thế mà một người, hai người, đến ba người nói có cọp, thiên hạ cũng tin
có cọp thật nữa là ! Những bậc ra được ngoài vòng dư luận, giữ vững được
bụng như cây giữa rừng, như kiềng ba chân rất là hiếm, nhưng có thế
được, mới cao . Một chân lý có chứng minh rõ ràng mười phần chắc chán,
thì mới nên công nhận .
13. BÁN MỘC BÁN GIÁO
Có người nước Sở làm nghề vừa bán mộc, vừa bán giáo .
Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe rằng: "Mộc này thật chắc, không gì đâm thủng"
Ai hỏi mua giáo thì anh ta khoe rằng: "Giáo này thật sắc, gì đâm cũng thủng".
Có người nghe nói, hỏi rằng: "Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào mộc của bác thì thế nào ?"
Anh ta không đáp ra làm sao được .
Hàn Phi Tử
Có người nước Sở làm nghề vừa bán mộc, vừa bán giáo .
Ai hỏi mua mộc, thì anh ta khoe rằng: "Mộc này thật chắc, không gì đâm thủng"
Ai hỏi mua giáo thì anh ta khoe rằng: "Giáo này thật sắc, gì đâm cũng thủng".
Có người nghe nói, hỏi rằng: "Thế bây giờ lấy giáo của bác đâm vào mộc của bác thì thế nào ?"
Anh ta không đáp ra làm sao được .
Hàn Phi Tử
CHÚ THÍCH:Mộc là đồ binh khí bằng gỗ hình bầu dục dùng để đỡ khi mũi nhọn đâm xỉa . Cái khiên thì đan bằng mây và hình tròn .
Giáo là đồ binh khí, đầu nhọn cán dài, dùng để đâm . Trong bài này, chữ Giáo dịch từ chữ MÂU (vật để đâm), chữ Mộc dịch từ chữ THUẪN (vật để chống đỡ) . Từ Hán Việt mâu thuẫn được dùng với nghĩa phổ biến hiện nay, là do sự tích này .
LỜI BÀN: Ôi ! Một cái chắc, đâm không sao thủng, với một cái sắc, đâm gì cũng thủng, hai cái phản đối hẳn nhau thì cùng đi với nhau sao được ! Thế mà ngưòi nước Sở dám khoa mộc, lại khoe giáo luôn ngay một lúc . Chẳng qua là chỉ vì mối lợi mà thành ra nói dối . Nhưng cái trò nói dối hay cùng, khi người ta hỏi đến lẽ, là không đối đáp làm sao được nữa . Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán, khoe rằng "Ai mua tượng về nhà, thì được giàu sang". Ðến lúc có người bẻ: "Thế sao bác không để ở nhà cho được giàu sang, lại mang ra chợ bán làm gì ?" thì tắc khẩu, mà đành vác tượng ra về .
Giáo là đồ binh khí, đầu nhọn cán dài, dùng để đâm . Trong bài này, chữ Giáo dịch từ chữ MÂU (vật để đâm), chữ Mộc dịch từ chữ THUẪN (vật để chống đỡ) . Từ Hán Việt mâu thuẫn được dùng với nghĩa phổ biến hiện nay, là do sự tích này .
LỜI BÀN: Ôi ! Một cái chắc, đâm không sao thủng, với một cái sắc, đâm gì cũng thủng, hai cái phản đối hẳn nhau thì cùng đi với nhau sao được ! Thế mà ngưòi nước Sở dám khoa mộc, lại khoe giáo luôn ngay một lúc . Chẳng qua là chỉ vì mối lợi mà thành ra nói dối . Nhưng cái trò nói dối hay cùng, khi người ta hỏi đến lẽ, là không đối đáp làm sao được nữa . Có khác gì kẻ đem tượng gỗ ra chợ bán, khoe rằng "Ai mua tượng về nhà, thì được giàu sang". Ðến lúc có người bẻ: "Thế sao bác không để ở nhà cho được giàu sang, lại mang ra chợ bán làm gì ?" thì tắc khẩu, mà đành vác tượng ra về .
TrucNhi
14. NGỌC TRONG ÐÁ
Một người thợ ngọc qua hàng thợ đá, vào xem các thứ đá, thấy một tảng đá
trong có ngọc, mua về đẽo ra quả nhiên được ngọc . Ngọc ấy trắng muốt
và có gân đỏ, quý giá vô cùng . Người thợ ngọc nhờ đó mà giàu có .
Người thợ đá thấy thế, lấy làm thích lắm, cũng muốn bắt chước . Anh ta nghĩ bụng: "Ðá nào trong cũng có ngọc". Rồi ở nhà có bao nhiêu thứ đá, đem cả ra đập để tìm ngọc . Không những không thấy ngọc mà các đá vỡ tan, chẳng dùng được việc gì nữa .
Anh ta vừa mất của, vừa lỗ vốn, cùng quẫn khổ sở, chẳng bao lâu rồi chết .
LỜI BÀN: Ngọc chẳng qua cũng là một thứ đá đẹp, đá quý ở lẫn với đá thường mà thôi . Nhưng phải có con maát tinh xem ngọc mới nhận ra và tìm được ngọc ở trong đá . Người thợ ngọc biết ngọc nên trông qua đủ biết đá nào có ngọc, chớ người thợ đá chỉ biết đá, lại muốn ngọc , chẳng những không tìm thấy ngọc mà lại còn hại cả bao nhiêu đá của mình nữa ! Ôi ! Thực là xôi hỏng mà bỏng không ! Tham thì thâm ! Cái thói tham không phải đường nó vẫn hại con người ngu dại đến thế ! Cho nên người trí giả phải có kiến thức rõ đích xác rồi mới chịu làm
Người thợ đá thấy thế, lấy làm thích lắm, cũng muốn bắt chước . Anh ta nghĩ bụng: "Ðá nào trong cũng có ngọc". Rồi ở nhà có bao nhiêu thứ đá, đem cả ra đập để tìm ngọc . Không những không thấy ngọc mà các đá vỡ tan, chẳng dùng được việc gì nữa .
Anh ta vừa mất của, vừa lỗ vốn, cùng quẫn khổ sở, chẳng bao lâu rồi chết .
LỜI BÀN: Ngọc chẳng qua cũng là một thứ đá đẹp, đá quý ở lẫn với đá thường mà thôi . Nhưng phải có con maát tinh xem ngọc mới nhận ra và tìm được ngọc ở trong đá . Người thợ ngọc biết ngọc nên trông qua đủ biết đá nào có ngọc, chớ người thợ đá chỉ biết đá, lại muốn ngọc , chẳng những không tìm thấy ngọc mà lại còn hại cả bao nhiêu đá của mình nữa ! Ôi ! Thực là xôi hỏng mà bỏng không ! Tham thì thâm ! Cái thói tham không phải đường nó vẫn hại con người ngu dại đến thế ! Cho nên người trí giả phải có kiến thức rõ đích xác rồi mới chịu làm
TrucNhi
15. BẮT CHƯỚC NHĂN MẶT
Nước Việt có nàng Tây Thi nổi tiếng đẹp một thời . Nàng có chứng đau bụng, mà khi nào đau, ôm bụng nhăn mặt thì lại càng đẹp lắm .
Có người đàn bà ở cùng làng thấy mặt nhăn mà đẹp, muốn bắt chước, về nhà cũng ôm bụng mà nhăn mặt . Người làng trông thấy, tưởng là ma quỷ, nhà giàu thì đóng cửa chặt không dám ra, nhà nghèo thì bồng bế vợ con mà chạy trốn .
Trang Tử
CHÚ THÍCH: Tây Thi hoặc còn gọi Tây Tử là người con gái nước Việt ở thôn Trử La, làm nghề dệt vải, cha thì bán củi . Nàng nổi tiếng đẹp, sau vua nước Việt là Câu Tiễn vì thua nước Ngô, đem nàng hiến cho vua Ngô là Phù Sai .
Trang Tử sách của Trang Chu soạn, đến đời Ðường gọi là Nam Hoa chân kinh, Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Ðạo Gia .
Nước Việt có nàng Tây Thi nổi tiếng đẹp một thời . Nàng có chứng đau bụng, mà khi nào đau, ôm bụng nhăn mặt thì lại càng đẹp lắm .
Có người đàn bà ở cùng làng thấy mặt nhăn mà đẹp, muốn bắt chước, về nhà cũng ôm bụng mà nhăn mặt . Người làng trông thấy, tưởng là ma quỷ, nhà giàu thì đóng cửa chặt không dám ra, nhà nghèo thì bồng bế vợ con mà chạy trốn .
Trang Tử
CHÚ THÍCH: Tây Thi hoặc còn gọi Tây Tử là người con gái nước Việt ở thôn Trử La, làm nghề dệt vải, cha thì bán củi . Nàng nổi tiếng đẹp, sau vua nước Việt là Câu Tiễn vì thua nước Ngô, đem nàng hiến cho vua Ngô là Phù Sai .
Trang Tử sách của Trang Chu soạn, đến đời Ðường gọi là Nam Hoa chân kinh, Trang Tử, học đạo Lão Tử, sau người ta vẫn xưng Lão Tử với Trang Tử là tổ của Ðạo Gia .
LỜI BÌNH : Chỉ biết nhăn mặt là đẹp, không biết nét mặt phải thế nào
thi nhăn mặt mới đẹp, thực là đáng tiếc ! Kẻ quên phận mình, chỉ muốn
bắt chước người thì có khác gì người xấu muốn bắt chước nàng Tây Thi nói
trong chuyện này không ? Ôi ! Bắt chước là một cái hay, nhưng nếu không
chịu suy nghĩ cứ nhắm mắt bắt chước liều, như con lừa thổi sáo, con
nhái muốn to bằng con bò, thì chỉ làm trò cười cho thiên hạ, chẳng những
không được lợi gì mà lại thiệt đến thân .
TrucNhi
16. CÁI ÐƯỢC CÁI MẤT CỦA NGƯỜI LÀM QUAN
Khổng Miệt là cháu Khổng Tử, Bật Tử Tiện là học trò Khổng Tử, hai người cùng làm quan một thời .
Khổng Tử qua chơi Khổng Miệt, hỏi rằng:"Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì ?"
Khổng Miệt thưa:"Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: Việc quan bận, không còn thời giờ học tập, vì thế mà học vấn không tấn tới; bổng lộc ít, không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế họ hàng không thân thiết; công việc nhiều, không thể đi thăm người đau, viếng người chết vì thế mà ăn ở với bầu bạn không được trọn vẹn ."
Không Tử nghe nói, không bằng lòng .
Sau ngài đến chơi Bật Tử Tiện, lại hỏi như hỏi Khổng Miệt .
Bật Tử Tiện thưa : "Từ khi tôi ra làm quan chưa mất điều gì, mà đã được ba điều : Những điều trước học nay đem ra thực hành vì thế mà học càng rõ; bổng lộc dù ít bạc, cũng có thể cung cấp ít nhiều cho họ hàng vì thế mà họ hàng càng gần; việc quan tuy bận song cũng bớt được ít thời giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân ."
Khổng Tử nghe nói, khen rằng: "Tử Tiện thực là người quân tử "Khổng Miệt là cháu Khổng Tử, Bật Tử Tiện là học trò Khổng Tử, hai người cùng làm quan một thời .
Khổng Tử qua chơi Khổng Miệt, hỏi rằng:"Từ khi ngươi ra làm quan được những điều gì, mất những điều gì ?"
Khổng Miệt thưa:"Từ khi tôi ra làm quan chưa được điều gì, mà đã mất ba điều: Việc quan bận, không còn thời giờ học tập, vì thế mà học vấn không tấn tới; bổng lộc ít, không đủ chu cấp cho họ hàng, vì thế họ hàng không thân thiết; công việc nhiều, không thể đi thăm người đau, viếng người chết vì thế mà ăn ở với bầu bạn không được trọn vẹn ."
Không Tử nghe nói, không bằng lòng .
Sau ngài đến chơi Bật Tử Tiện, lại hỏi như hỏi Khổng Miệt .
Bật Tử Tiện thưa : "Từ khi tôi ra làm quan chưa mất điều gì, mà đã được ba điều : Những điều trước học nay đem ra thực hành vì thế mà học càng rõ; bổng lộc dù ít bạc, cũng có thể cung cấp ít nhiều cho họ hàng vì thế mà họ hàng càng gần; việc quan tuy bận song cũng bớt được ít thời giờ đi thăm người đau, viếng người chết, vì thế mà bầu bạn càng thân ."
Gia Ngữ
LỜI BÀN: Hai đoạn bài này bày ra hai cái ảnh phản đối lại hẳn với nhau .
Cũng là làm quan, mà một đằng "mất" một đằng "được" khác nhau chẳng qua
là chỉ do tự mình cả, chớ không phải nghề làm quan bó buộc mình phải
như thế .
Khổng Tử khen người "được" là quân tử, thì tất bỉ người "mất" là tiểu nhân ! Ôi ! Làm quan tuy là bận việc, tuy là ít lương, tuy là hẹp thời giờ, mà vẫn học hành cho rộng thêm trí thức, mà vẫn chu cấp được cho bà con, mà vẫn ân cần với chúng bạn, thì cũng đáng phục là ông quan quân tử thật
Khổng Tử khen người "được" là quân tử, thì tất bỉ người "mất" là tiểu nhân ! Ôi ! Làm quan tuy là bận việc, tuy là ít lương, tuy là hẹp thời giờ, mà vẫn học hành cho rộng thêm trí thức, mà vẫn chu cấp được cho bà con, mà vẫn ân cần với chúng bạn, thì cũng đáng phục là ông quan quân tử thật
TrucNhi
17. CAN VUA BỎ RƯỢU
Vua Cảnh Công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm ngày, xao lãng cả việc nước . Huyền Chương can, nói: "Nhà vua uống rượu say sưa nhứ thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự tận "
Ngay lúc ấy Án Tử vào yết kiến vua . Vua bảo : "Huyền Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự tận . Nếu ta nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, nhỡ Huyền Chương chết thì cũng đáng tiếc ."
Án Tử nói : "May lắm ! May Huyền Chương gặp được nhà vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ nữa ."
Cảnh Công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu .
Án Tử Xuân Thu
CHÚ THÍCH: Hạ thần - hạ=dưới, thần=bầy tôi; tiếng bầy tôi xưng với vua
Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác, say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nổi mất nước .
Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử . Án Tử tức là Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề về thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ .
LỜI BÀN : Tính thích uống rượu, nghe người ta can mà chừa được như Cảnh Công, là ông vua hiền; thấy vua say sưa, sao lãng chính sự, liều thân mà can vua như Huyền Chương, là bầy tôi trung . Ðến như Án Tử vừa là trung thực, lại có tài phúng gián . Cũng là can ngăn mà không nói thẳng, cùng cức bách quá làm cho người có tật hổ thẹn không muốn nghe, nhưng gợi cái lòng tự phụ của người, uyển chuyển được bụng người khiến cho phải tỉnh ngộ mà chừa đi ngay thì mới là giỏi .
Vua Cảnh Công nước Tề hay uống rượu, có bận say luôn mấy đêm ngày, xao lãng cả việc nước . Huyền Chương can, nói: "Nhà vua uống rượu say sưa nhứ thế, hạ thần xin can, nhà vua không nghe, hạ thần xin tự tận "
Ngay lúc ấy Án Tử vào yết kiến vua . Vua bảo : "Huyền Chương can ta bỏ rượu, không thì y tự tận . Nếu ta nghe, thì ta hóa ra non, nếu ta không nghe, nhỡ Huyền Chương chết thì cũng đáng tiếc ."
Án Tử nói : "May lắm ! May Huyền Chương gặp được nhà vua, chớ như vua Kiệt, vua Trụ, thì chết mất rồi, còn đâu sống được đến bây giờ nữa ."
Cảnh Công nghe nói, tỉnh ngộ, tự hôm đó chừa rượu .
Án Tử Xuân Thu
CHÚ THÍCH: Hạ thần - hạ=dưới, thần=bầy tôi; tiếng bầy tôi xưng với vua
Kiệt, Trụ: hai vua tàn bạo, độc ác, say mê tửu sắc, bỏ cả chính sự đến nổi mất nước .
Án Tử Xuân Thu: bộ sách ghi chép những công việc cùng lời nói của Án Tử . Án Tử tức là Án Anh, tên tự là Bình Trọng, người nước Tề về thời Xuân Thu, làm tướng ba đời vua Linh Công, Trang Công và Cảnh Công, có tính cần kiệm, một bụng trung thành nổi tiếng thời bấy giờ .
LỜI BÀN : Tính thích uống rượu, nghe người ta can mà chừa được như Cảnh Công, là ông vua hiền; thấy vua say sưa, sao lãng chính sự, liều thân mà can vua như Huyền Chương, là bầy tôi trung . Ðến như Án Tử vừa là trung thực, lại có tài phúng gián . Cũng là can ngăn mà không nói thẳng, cùng cức bách quá làm cho người có tật hổ thẹn không muốn nghe, nhưng gợi cái lòng tự phụ của người, uyển chuyển được bụng người khiến cho phải tỉnh ngộ mà chừa đi ngay thì mới là giỏi .
TrucNhi
18. KHÉO CAN ÐƯỢC VUA
Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi . Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết . Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai ngay quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa . Án Tử đang ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi vua rằng: "Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh thây người thì bắt đầu từ đâu trước ?"
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói: "Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để trị tội ."
Án Tử nói rằng: "Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan . Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy hạ ngục ."
Vua nói: "Phải"
Án Tử bèn kể tội rằng: "Nhà ngươi có ba tội đáng chết . Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là một tội đáng chết . Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết . Ðể vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ, là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục ..."
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng : "Thôi, tha cho nó ! Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân ."
Án Tử Xuân Thu
Vua Cảnh Công nước Tề có con ngựa quý, giao cho một người chăn nuôi . Con ngựa tự nhiên một hôm lăn ra chết . Vua giận lắm, cho là giết ngựa, sai ngay quân cầm dao để phanh thây người nuôi ngựa . Án Tử đang ngồi chầu, thấy thế ngăn lại, hỏi vua rằng: "Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa phanh thây người thì bắt đầu từ đâu trước ?"
Cảnh Công ngơ ngác nhìn nói: "Thôi hãy buông ra, đem giam xuống ngục để trị tội ."
Án Tử nói rằng: "Tên phạm này chưa biết rõ tội mà phải chịu chết, thì vẫn tưởng là oan . Tôi xin vì vua kể rõ tội nó, rồi hãy hạ ngục ."
Vua nói: "Phải"
Án Tử bèn kể tội rằng: "Nhà ngươi có ba tội đáng chết . Vua sai nuôi ngựa mà để ngựa chết là một tội đáng chết . Lại để chết con ngựa rất quý của vua, là hai tội đáng chết . Ðể vua mang tiếng, vì một con ngựa mà giết chết một mạng người, làm cho trăm họ nghe thấy ai cũng oán vua, các nước nghe thấy ai cũng khinh vua, ngươi làm chết một con ngựa mà để đến nỗi dân gian đem lòng oán giận, nước ngoài có bụng dòm dỏ, là ba tội đáng chết, ngươi đã biết chưa ? Bây giờ hãy tạm giam ngươi vào ngục ..."
Cảnh Công nghe nói ngậm ngùi than rằng : "Thôi, tha cho nó ! Thôi, tha cho nó ! Kẻo để ta mang tiếng bất nhân ."
Án Tử Xuân Thu
CHÚ THÍCH: Vua Nghiêu, vua Thuấn xưa ... câu này hỏi thế là có ý làm cho
Cảnh Công không có lối mà trả lời . Ðời Nghiêu, Thuấn chưa có tội phanh
thây .
Thôi hãy buông ra: cứ theo sách Án Tử Xuân Thu thì là "Tòng quả nhân thủy" (khởi tự ta ra), theo Hàn Thi ngoại truyện thì lại là Túng chi (buông ra) . Ðây dịch là buông ra để cho ăn nghĩa với câu trên .
Hạ ngục: đời xưa bao nhiêu tội nhân đã hạ xuống ngục tối, là phải xử tử cả ...
LỜI BÀN: Vua Cảnh Công thấy con ngựa yêu của mình chết, mà bắt phanh thây kẻ nuôi ngựa, là đang cơn tức giận, không còn biết nghĩa lý, pháp luật là gì nữa . Thế mà Án Tử can ngăn được là vì tuy gọi chiều lòng, kể tội người nuôi ngựa, mà kỳ thực lại gợi đến cái lòng nhân ái của Cảnh Công, làm cho Cảnh Công phải tỉnh ngộ và biết hối . Giỏi thay ! Mấy lời nói dịu dàng, thảnh thơi mà cảm hóa được quân vương
Thôi hãy buông ra: cứ theo sách Án Tử Xuân Thu thì là "Tòng quả nhân thủy" (khởi tự ta ra), theo Hàn Thi ngoại truyện thì lại là Túng chi (buông ra) . Ðây dịch là buông ra để cho ăn nghĩa với câu trên .
Hạ ngục: đời xưa bao nhiêu tội nhân đã hạ xuống ngục tối, là phải xử tử cả ...
LỜI BÀN: Vua Cảnh Công thấy con ngựa yêu của mình chết, mà bắt phanh thây kẻ nuôi ngựa, là đang cơn tức giận, không còn biết nghĩa lý, pháp luật là gì nữa . Thế mà Án Tử can ngăn được là vì tuy gọi chiều lòng, kể tội người nuôi ngựa, mà kỳ thực lại gợi đến cái lòng nhân ái của Cảnh Công, làm cho Cảnh Công phải tỉnh ngộ và biết hối . Giỏi thay ! Mấy lời nói dịu dàng, thảnh thơi mà cảm hóa được quân vương
TrucNhi
19. CHẾT MÀ CON RĂN ÐƯỢC VUA
Cừ Bá Ngọc là người hiền mà vua Linh Công nước Vệ không dùng . Di Tử Hà là người dở mà vua lại dùng .
Sử Ngư thấy thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghe . Lúc ông có bệnh, sắp mất dặn con rằng: "Ta làm quan tại triều nước Vệ, không tiến được Cừ Bá Ngọc, thoái được Di Tử Hà thế là bầy tôi không khuyên răn nổi vua, thì khi ta nhắm mắt không được làm đủ lễ . Cứ để thây ta dưới cửa sổ, thế là xong việc cho ta ."
Lúc ông mất, người con cứ làm theo lời dặn . Vua Ling Công đến viếng thấy vậy, lấy làm ngạc nhiên . Người con đem lời di chúc của cha tâu lại . Vua thất sắc nói rằng: "Ấy là lỗi của quả nhân"
Rồi sai người đem xác ông Sử Ngư vào nhà, bắt khâm liệm và mai táng cho đủ lễ .
Sau quả nhiên vua Linh Công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi Di Tử Hà .
Khổng Tử nghe chuyện ấy, nói: "Ðời cổ những gián quan đến lúc chết là hết cả mọi việc, chưa có ai được như Sử Ngư chết rồi mà còn dùng xác để can vua, làm cho vua phải cảm động mà nghe mình . Thế chẳng là trung trực lắm ư ?"
Gia Ngữ
Cừ Bá Ngọc là người hiền mà vua Linh Công nước Vệ không dùng . Di Tử Hà là người dở mà vua lại dùng .
Sử Ngư thấy thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghe . Lúc ông có bệnh, sắp mất dặn con rằng: "Ta làm quan tại triều nước Vệ, không tiến được Cừ Bá Ngọc, thoái được Di Tử Hà thế là bầy tôi không khuyên răn nổi vua, thì khi ta nhắm mắt không được làm đủ lễ . Cứ để thây ta dưới cửa sổ, thế là xong việc cho ta ."
Lúc ông mất, người con cứ làm theo lời dặn . Vua Ling Công đến viếng thấy vậy, lấy làm ngạc nhiên . Người con đem lời di chúc của cha tâu lại . Vua thất sắc nói rằng: "Ấy là lỗi của quả nhân"
Rồi sai người đem xác ông Sử Ngư vào nhà, bắt khâm liệm và mai táng cho đủ lễ .
Sau quả nhiên vua Linh Công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi Di Tử Hà .
Khổng Tử nghe chuyện ấy, nói: "Ðời cổ những gián quan đến lúc chết là hết cả mọi việc, chưa có ai được như Sử Ngư chết rồi mà còn dùng xác để can vua, làm cho vua phải cảm động mà nghe mình . Thế chẳng là trung trực lắm ư ?"
Gia Ngữ
CHÚ THÍCH: Tiến: cử lên làm một chức gì
thoái: trừ bỏ đi
gián quan: chức quan chủ việc can ngăn vua mà đàn hặc các quan khi có nhầm lỗi .
LỜI BÀN: Ðời quân chủ chuyên chế, phải có những chức gián quan thì mới
có người hạn chế được quyền vua, can vua bỏ điều xằng, khuyên vua làm
điều hay . Nếu can khuyên vua không được thì chẳng làm hết cái chức
trách rất trọng của gián quan ư ? Nhưng một đằng vua cú nhất định không
nghe, một đẵng mình cố sức can mãi đến lúc chết chưa thôi, còn lấy xác
can nữa, thì thực là đáng khen cái tâm chí xâu xa bền chặt ấy ! Xem
chuyện Sử Ngự nhớ chuyện bác sĩ Bergonié suốt đời hết lòng với khoa học,
lúc chết, cũng hiến xác cho người ta mổ xẻ để nghiên cứu về y học . Như
thế mới thực sự là những gương sáng tận tâm với chức vụ để cho thiên hạ
soi chung .
TrucNhi
20. YÊU NÊN TỐT, GHÉT NÊN XẤU
Trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà . Phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua, thì phải tội chặt chân . Mẹ Di Tử Hà ốm nặng . Ðêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi . Vua nghe thấy khen rằng: "Có hiếu thật ! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt chân ."
Lại một hô, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt còn một nửa đưa cho vua ăn . Vua nói: "Yêu ta thật ! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta ."
Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà như trước nữa . Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: "Di Tử Hà trước dám thiện tiện lấy xe của ta đi . Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa . Thực mang tội với ta đã lâu ngày ". Nói xong bắt đem ra trị tội . Ôi ! Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau cũng như vậy, thế mà trước vua khen, sau vua bắt tội, là chỗ tại khi yêu khi ghét khác nhau mà thôi . Lúc được vua yêu, chính đáng tội thì lại hóa công thần; lúc phải vua ghét, chính không đáng tội thì l.ai hóa ra sơ; cho nên người muốn can ngăn, đàm luận với vua điều gì, thì trước phải xem xé cái lòng vua yêu hay ghét mình thế nào rồi hãy nói .
Hàn Phi Tử
CHÚ THÍCH:
Di Tử Hà: người thời Xuân Thu, làm quan Ðại phu nước Vệ
Chặt chân: một thứ hình trong năm hạng trọng hình đời cổ
Thiện tiện: chính mình không được làm như vậy mà cứ làm càn .
LỜI BÀN: Sự yêu, ghét thường làm cho người ta mờ đi không rõ hẳn được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra thế nào . Không nói gì yêu người này, ghét người nọ, cũng chỉ một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, lúc ghét cho ra thế kia . Cái thói thường yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua . Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng theo như thế, lúc yêu hậu bao nhiêu, thì đến lúc ghét lại bạc bấy nhiêu . Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười . Lại chẳng những yêu ghét riêng một người ấy thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có can thiệp đến người ấy, yêu nhau yêu cả tông chi, ghét nhau ghét cả đường đi lối về . Sự yêu, ghét làm cho ta thiên và nhầm như thế, cho nên ta muốn cho công bình, khi yêu khi ghét, phải nên rõ cái giá trị của người được yêu hay bị ghét, biết chỗ phải cũng phải biết chỗ trái, biết chỗ trái cũng phải biết chỗ phải cho người ta mới được
Trước, vua nước Vệ rất yêu Di Tử Hà . Phép nước Vệ, ai đi trộm xe của vua, thì phải tội chặt chân . Mẹ Di Tử Hà ốm nặng . Ðêm khuya có người đến gọi, Di Tử Hà vội vàng lấy xe vua ra đi . Vua nghe thấy khen rằng: "Có hiếu thật ! Vì hết lòng với mẹ, mà quên cả tội chặt chân ."
Lại một hô, Di Tử Hà theo vua đi chơi ở ngoài vườn, đang ăn quả đào thấy ngọt còn một nửa đưa cho vua ăn . Vua nói: "Yêu ta thật ! Của đang ngon miệng mà biết để nhường ta ."
Về sau, vua không có lòng yêu Di Tử Hà như trước nữa . Một hôm phạm lỗi, vua giận nói rằng: "Di Tử Hà trước dám thiện tiện lấy xe của ta đi . Lại một bận dám cho ta ăn quả đào thừa . Thực mang tội với ta đã lâu ngày ". Nói xong bắt đem ra trị tội . Ôi ! Di Tử Hà ăn ở với vua trước sau cũng như vậy, thế mà trước vua khen, sau vua bắt tội, là chỗ tại khi yêu khi ghét khác nhau mà thôi . Lúc được vua yêu, chính đáng tội thì lại hóa công thần; lúc phải vua ghét, chính không đáng tội thì l.ai hóa ra sơ; cho nên người muốn can ngăn, đàm luận với vua điều gì, thì trước phải xem xé cái lòng vua yêu hay ghét mình thế nào rồi hãy nói .
Hàn Phi Tử
CHÚ THÍCH:
Di Tử Hà: người thời Xuân Thu, làm quan Ðại phu nước Vệ
Chặt chân: một thứ hình trong năm hạng trọng hình đời cổ
Thiện tiện: chính mình không được làm như vậy mà cứ làm càn .
LỜI BÀN: Sự yêu, ghét thường làm cho người ta mờ đi không rõ hẳn được cái giá trị của người được yêu hay bị ghét ra thế nào . Không nói gì yêu người này, ghét người nọ, cũng chỉ một người ấy, lúc yêu cho ra thế này, lúc ghét cho ra thế kia . Cái thói thường yêu thì nên tốt, ghét thì nên xấu, khen chanh thì chanh ngọt, chê hồng thì hồng chua . Trong bụng đã thế, thì cư xử chắc cũng theo như thế, lúc yêu hậu bao nhiêu, thì đến lúc ghét lại bạc bấy nhiêu . Yêu nhau cau bảy bổ ba, ghét nhau cau bảy bổ ra làm mười . Lại chẳng những yêu ghét riêng một người ấy thường yêu ghét đến cả những sự hay những người có can thiệp đến người ấy, yêu nhau yêu cả tông chi, ghét nhau ghét cả đường đi lối về . Sự yêu, ghét làm cho ta thiên và nhầm như thế, cho nên ta muốn cho công bình, khi yêu khi ghét, phải nên rõ cái giá trị của người được yêu hay bị ghét, biết chỗ phải cũng phải biết chỗ trái, biết chỗ trái cũng phải biết chỗ phải cho người ta mới được
TrucNhi
21. HÀ BÁ LẤY VỢ
Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá . Sư mê tín ấy có đã lâu ngày, không ai phá nổi .
Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan ở đấy, ông thân hành ra đứng làm chủ lễ cưới cho Hà Bá . Trước mặt đông đủ cả bô lão, hào trưởng, ông đồng bà cốt, ông cho gọi người con gái đến . Ông xem mặt xong, chê rằng: "Người con gái này không được đẹp ! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà Bá xin hoãn lại hôm khác, để tìm người đẹp hơn ."
Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông .
Một lúc, ông nói: "Sao lâu thế này !" Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ . Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông .
Một lúc, ông nói: "Sao không thấy tin tức gì cả ! Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời . Dám phiền các cụ bô lão đi giúp cho ."
Lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông .
Một lúc, ông nói: "Sao mãi không thấy về thế này ! Bọn đồng cốt, bô lão dễ đi cũng không được việc . Phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong ."
Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại, van lạy xin thôi . Tây Môn Báo nói: "Ðể thong thả ta xem đã ..."
Mọi người run như cầy sấy . Một chốc ông ta mới bảo: "Thôi ta cho . Thế là Hà Bá không lấy vợ nữa rồi ."
Thành thử từ đấy dân đất Nghiệp không ai dám nhắc đến chuyện Hà Bá lấy vợ nữa .Dân đất Nghiệp có tục cứ mỗi năm góp tiền mua một người con gái ném xuống sông để làm vợ cho Hà Bá . Sư mê tín ấy có đã lâu ngày, không ai phá nổi .
Lúc ông Tây Môn Báo, đến làm quan ở đấy, ông thân hành ra đứng làm chủ lễ cưới cho Hà Bá . Trước mặt đông đủ cả bô lão, hào trưởng, ông đồng bà cốt, ông cho gọi người con gái đến . Ông xem mặt xong, chê rằng: "Người con gái này không được đẹp ! Ta nhờ bọn ông đồng xuống nói với Hà Bá xin hoãn lại hôm khác, để tìm người đẹp hơn ."
Ông lập tức sai lính khiêng một ông đồng quăng xuống sông .
Một lúc, ông nói: "Sao lâu thế này !" Rồi ông bảo đám bà cốt xuống nói hộ . Lập tức sai lính bắt một bà cốt ném xuống sông .
Một lúc, ông nói: "Sao không thấy tin tức gì cả ! Chừng lũ đồng cốt xuống nói không nên lời . Dám phiền các cụ bô lão đi giúp cho ."
Lập tức sai lính lôi một cụ vứt xuống sông .
Một lúc, ông nói: "Sao mãi không thấy về thế này ! Bọn đồng cốt, bô lão dễ đi cũng không được việc . Phải nhờ đến bậc hào trưởng mới xong ."
Lúc bấy giờ bao nhiêu người đều xám xanh mặt lại, van lạy xin thôi . Tây Môn Báo nói: "Ðể thong thả ta xem đã ..."
Mọi người run như cầy sấy . Một chốc ông ta mới bảo: "Thôi ta cho . Thế là Hà Bá không lấy vợ nữa rồi ."
Sử Ký
CHÚ THÍCH: Nghiệp: tên một huyện đời nhà Hán, tức là huyện Lâm Chương tỉnh Hà Nam (TQ) bây giờ
Tây Môn Báo: Người nước Ngụy thời Chiến Quốc làm quan rất giỏi, trừ được hại, hưng được lợi cho dân
LỜI BÀN : Sự mê tín thường làm hư người, tốn của, nát nhà, có khi mất cả mạng, thật là tai hại . Khi mê tín đã thành tục, thì khó lòng mà phá nổi . Muốn phá, tất cá dụng tâm khéo làm sao mới được . Ông Tây Môn Báo sở dĩ mà phá nổi cái tục cưới vợ cho Hà Bá, là vì ông biết trừ tự cái gốc rễ; tức là đám đồng cốt quàng xiên, bọn cường hào ngoan cố, xưa nay quen thói cổ hoặc nhũng nhiễu người ta để kiếm ăn, để cầu lợi . Trừ hai hạng ấy để cứu lương dân, chỉnh đốn phong tục, thật là công minh và cương quyết vậy .
TrucNhi
22. GHÉT CON KHÔNG GIỐNG MÌNH
Khổng Tùng Tử
CHÚ THÍCH:
Doãn Văn Tử sinh được một đứa con, không thấy giống mình, lấy làm giận
lắm, thường đánh đập luôn . Một hôm đang cầm gậy đánh, thấy Tử Tư đến
chơi bèn nói rằng: "Nó không giống tôi, không phải là con tôi . Tôi lại
ngờ mẹ nó có ngoại tình mà đẻ ra nó, nên tôi muốn bỏ ..."
Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói thì vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư ? Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Ðan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế thì còn cái gì mà giống cha ? Cái đạo thường, thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy . Nhưng cha hiền mà đẻ con ngu thì cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu ?.."
Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói nữa ."
Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ .
Tử Tư hỏi: "Cứ như ông nói thì vợ vua Nghiêu vua Thuấn cũng chẳng đáng ngờ ư ? Hai ông là bậc thánh đế mà đẻ ra Ðan Chu và Thương Quân thực không bằng kẻ thất phu. Như thế thì còn cái gì mà giống cha ? Cái đạo thường, thì phần nhiều cha mẹ làm sao đẻ ra con được như vậy . Nhưng cha hiền mà đẻ con ngu thì cũng là cái thế thường tự nhiên như thế, chớ nào có phải tội tự người vợ đâu ?.."
Doãn Văn Tử nghe hiểu, nói rằng: "Thôi, xin ông đừng nói nữa ."
Rồi về sau Văn Tử không bỏ vợ .
Khổng Tùng Tử
CHÚ THÍCH:
Khổng Tùng Tử : tên bộ sách, ba quyển, 21 thiên của Khổng Phụ làm ra .
Khổng Phụ, tên Tử Ngư hay Tử Giáp, cháu đời thứ tám của Khổng Tử .
LỜI BÀN: Có cha ấy tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế . Nhưng không phải cái lý nhất định bao giờ cũng như thế . Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở . Hổ phụ khuyến tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư ? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế . Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần . Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy
LỜI BÀN: Có cha ấy tất phải có con ấy, thường thì vẫn thế . Nhưng không phải cái lý nhất định bao giờ cũng như thế . Có khi cha mẹ rất hay mà đẻ con ra rất dở . Hổ phụ khuyến tử cũng nhiều, chớ ghét đứa con vì nó không giống mình, cầm gậy đánh nó, rồi lại rắp tâm đuổi mẹ nó đi, thì cũng chẳng là tự ái quá mà hóa ra si ư ? Cha mẹ sinh con, trời sinh tính, cố nhiên là thế . Nhưng đẻ con phải dạy, dạy con là việc rất cần . Nếu đẻ con chẳng dạy, để vậy mà nuôi rồi cứ trách con dở, giận con hư, đó là lỗi nặng của người làm cha mẹ vậy
23. LỢN MẸ GIẾT CON
Tử Hoa Tử
CHÚ THÍCH
Tử Xa : quan Ðại phu nước Tần
Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm não làm thế này thế kia
Chuyển di : Thay đổi
Thế lợi: quyền thế, tài lợi
Họ Tử Xa có con lợn nái sắc đen tuyền đẻ một lứa ba con, hai con đen
tuyền, một con loang lổ . Lợn nái nuôi hai con lợn con giống mình rất
chăm chỉ cẩn thận, hơi một tí cũng lo sợ . Còn con lợn loang lổ khác
mình thì ghét bỏ, sau cắn chết xé cả gan ruột nát nhừ mới thôi .
Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyể di . Mắt đã mờ về kẻ giống mình hay khác mình, thì bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét . Ðã ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con màkhông hối huống chi người khác máu với mình . Người đời lúc bình cư, thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau tưởng keo sơn cũng không bằng . Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, thì mặt đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau ngay lập tức . Gớm thay ! Tâm thuật chuyển di , tưởng chẳng khác gì con lợn nái .
Tử Hoa Tử nói: "Gớm thay tâm thuật hay chuyể di . Mắt đã mờ về kẻ giống mình hay khác mình, thì bụng sanh ngay ra có kẻ yêu, kẻ ghét . Ðã ghét, đến con ruột đẻ ra mà cũng hại cả con màkhông hối huống chi người khác máu với mình . Người đời lúc bình cư, thì âu yếm thân thiết, thề ước cùng nhau tưởng keo sơn cũng không bằng . Khi lâm đến thế lợi, chỉ chênh nhau bằng sợi tơ sợi tóc, thì mặt đã đổi sắc, cơn giận nổi lên và tìm cách tàn hại nhau ngay lập tức . Gớm thay ! Tâm thuật chuyển di , tưởng chẳng khác gì con lợn nái .
Tử Hoa Tử
CHÚ THÍCH
Tử Xa : quan Ðại phu nước Tần
Tâm thuật: cách nghĩ trong tâm não làm thế này thế kia
Chuyển di : Thay đổi
Thế lợi: quyền thế, tài lợi
LỜI BÀN: Thói thường, đồng chủng đồng tông, hay đồng tình, đồng chí thì
ưa nhau, mến nhau, còn ngoại giả, thì đem bụng ngờ vực, ghen ghét, coi
người ta như cừu địch cả, thực là hẹp hòi đáng tiếc . Người quân tử
không bao giờ lấy cái hình sắc khác nhau mà thành bụng yêu hay sinh bụng
ghét, lại nhất là, không lấy cái tư tưởng thế lợi trái nhau là lúc hợp,
lúc ly, lúc thân, lúc sơ, lúc thề ước, lúc tàn hại nhau bao giờ . Người
ta tuy không cùng nòi giống, cùng tư tưởng, cùng chí hướng với mình,
nhưng người ta là hạng quang minh chính đại, mình cũng nên có lòng thân
yêu, có lượng cao cả để đối với người ta thì mới đáng gọi là yêu đồng
bào và trọng nhơn đạo . Nếu không thì tâm thuật lợn nái mất rồi !
TrucNhi
24. GIÁP ẤT TRANH LUẬN
Âu Dương Tu
CHÚ THÍCH
Giáp hỏi Ất : "Ðúc đồng làm chuông, đẽo gỗ làm dùi, lấy dùi đánh chuông
tiếng kêu boong - boong thì tiếng kêu ấy là gỗ kêu hay đồng kêu ?"
Ất đáp: "Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông kêu, thế thì tiếng kêu ở như đồng ."
Giáp hỏi: "Lấy dùi gõ vào đồng tiền trinh không kêu, thế thì cá chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không ?"
Ất nói: "Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở như các đồ vật rỗng mà ra ."
Giáp hỏi : "Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông đánh không ra tiếng, thế thì có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không ? .."
Ất đáp: "Lấy dùi gõ vào tường vách không kêu, gõ vào chuông kêu, thế thì tiếng kêu ở như đồng ."
Giáp hỏi: "Lấy dùi gõ vào đồng tiền trinh không kêu, thế thì cá chắc tiếng kêu ở như đồng mà ra không ?"
Ất nói: "Ðồng tiền đặc, cái chuông rỗng, vậy tiếng kêu ở như các đồ vật rỗng mà ra ."
Giáp hỏi : "Lấy gỗ, lấy bùn làm chuông đánh không ra tiếng, thế thì có chắc tiếng kêu là ở đồ vật rỗng mà ra không ? .."
Âu Dương Tu
CHÚ THÍCH
Tiền trinh: tiền đồng, có người cho tiền đồng bên Trung Quốc đem sang ta
đầu tiên là tiền đồng niên hiệu Càn Trinh nên gọi là tiền trinh
Âu Dương Tu: Người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu sư, là một nhà văn chương có tiếng
LỜI BÀN:Cứ xem Giáp, Ất tranh luận, thì cũng phân vân, không rõ tiếng kêu là tự chuông hay tự dùi ra . Chuông là đồng vốn kêu, nhưng không có dùi đánh vào, không kêu . Vậy có muốn tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được . Tiếng kêu là gì ? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau mà sinh ra . Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, thì hình như giữ cái chủ nghĩa "hai phải" trắng, đen là một . Thế mới hay, lẽ phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra, không tài nào gở rối . Nên biết được thế nào, thì hay thế, chớ cứ cố chấp nhất câu nệ cho mìnữ nhân là phải, không bết cái phần phải của người, thì là có tínữ nhân thiên và lượng hẹp . Nói cho đúng: muốn rõ vật lý, cần phải cho khoa học . Không khoa học mà bàn luận vật lý, cần phải có khoa học . Không biết khoa học mà bàn luận vật lý , thì không tài nào xác thực được .
Âu Dương Tu: Người đời nhà Tống thi đỗ tiến sĩ làm quan Hiếu sư, là một nhà văn chương có tiếng
LỜI BÀN:Cứ xem Giáp, Ất tranh luận, thì cũng phân vân, không rõ tiếng kêu là tự chuông hay tự dùi ra . Chuông là đồng vốn kêu, nhưng không có dùi đánh vào, không kêu . Vậy có muốn tiếng kêu, tất phải có cả chuông cả dùi mới được . Tiếng kêu là gì ? Chẳng qua là cái âm thanh từ hai vật chọi nhau, chạm vào nhau mà sinh ra . Tuy vậy, nếu nói tiếng kêu là tự cả chuông, cả dùi mà ra, thì hình như giữ cái chủ nghĩa "hai phải" trắng, đen là một . Thế mới hay, lẽ phải không cùng, càng nghị luận lắm, có khi lại càng như bối rối thêm ra, không tài nào gở rối . Nên biết được thế nào, thì hay thế, chớ cứ cố chấp nhất câu nệ cho mìnữ nhân là phải, không bết cái phần phải của người, thì là có tínữ nhân thiên và lượng hẹp . Nói cho đúng: muốn rõ vật lý, cần phải cho khoa học . Không khoa học mà bàn luận vật lý, cần phải có khoa học . Không biết khoa học mà bàn luận vật lý , thì không tài nào xác thực được .
TrucNhi
25. MẶT TRỜI XA, GẦN
Khổng Tử đi chơi ra phía đông, thấy hai đứa bé cãi nhau,hỏi tại làm sao ,
thì một đứa nói rằng: "Tôi, thì tôi cho mặt trời, lúc mới mọc, ở gần ta
hơn, về buổi trưa, ở xa ta hơn,"
Còn một đứa nói: "Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn,"
Ðứa trước cãi: "Mặt trời lúc mới mọc to nhứ cái bánh xe, đến giữa truua, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì ?"
Ðứa sau cãi: "Lúc mặt trời mới mọc, thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì ?"
Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao .
Hai đứa bé cười bảo: " Thế thì cho ông là người học rộng hiểu nhiều thế nào được "
Liệt Tử
Còn một đứa nói: "Tôi, thì tôi cho mặt trời lúc mới mọc ở xa ta hơn, về buổi trưa, ở gần ta hơn,"
Ðứa trước cãi: "Mặt trời lúc mới mọc to nhứ cái bánh xe, đến giữa truua, nhỏ như cái bát ăn, thế chẳng phải tại xa ta mới nhỏ, gần ta mới to là gì ?"
Ðứa sau cãi: "Lúc mặt trời mới mọc, thì mát mẻ, đến giữa trưa thì nóng nực, thế chẳng phải tại gần ta mới nóng, xa ta mới mát là gì ?"
Khổng Tử nghe nói, không giải quyết được ra làm sao .
Hai đứa bé cười bảo: " Thế thì cho ông là người học rộng hiểu nhiều thế nào được "
Liệt Tử
LỜI BÀN:Buổi sáng, buổi trưa, mặt trời ở cách trái đất cũng không phải
lúc gần, lúc xa gì cả . Nếu buổi sáng, thấy mát, buổi trưa thấy nóng
hơn, chẳng qua là tại tia nóng mặt trời chiếu vào chỗ ta ở trên mặt đất ,
buổi sáng còn chếch, buổi trưa mới thẳng . Vả chẳng buổi sáng, còn
những sương móc ban đêm chưa tan hết cho nên mát hơn buổi trưa là lúc
khí nóng tụ tích mãi vào, cho nên nhiệt độ càng cao . Còn nếu buổi sáng,
trông mặt trời to , buổi trưa trông mặt trời nhỏ, chẳng qua là một cỏi
hoãn hình của con mắt trông như thế mà thôi . Mặt trời đâu vẫn ở đó .
Trái đất xoay chung quanh mặt trời . Lúc mặt trời mọc, con mắt trông
chếch, đến buổi trưa, con mắt trong thẳng mà lại trông qua từng không
khí, cho nên thấy to nhỏ khác nhau . Vậy chỉ tại người trông hóa to,
nhỏ, chớ không phải chính mặt trời xa, gần gì cả . .. Ấy đại để bây giờ
thì ta giải nghĩa như thế . Nhưng ở vào cái đời ông Khổng, khoa học chưa
có mấy, thì xem hai đứa bé suy lý với nhau, đứa nào cũng phải , khó
lòng mà quyết định được thật . Vả lại ngừơi ta thông minh, thánh trí đến
đâu cũng không sao biết cho hết mọi sự vật được .
Vì rằng đời người sống có hạn, mà sự trí thức thì mông mênh, không bờ bến nào !
Vì rằng đời người sống có hạn, mà sự trí thức thì mông mênh, không bờ bến nào !
TrucNhi
26. CÁCH PHỤC LÒNG NGƯỜI
Mình làm người sang trọng giàu có, thì cớ nên kiêu sa
Mình là bậc trông minh tài trí, thì chớ nên khinh ngạo
Mình có sức lực khỏe mạnh, thì chớ nên đè nén người .
Mình ăn nói linh lợi, thì chớ nên dối trá người .
Mình còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi .
Ðối với làng nước, thì phải giữ cái trật tự trên dưới .
Ðối với người nhiều tuổi, thì phải giữ cái nghĩa con em .
Ðối với người bằng vai, thì phải giữ cái nghĩa bầu bạn .
Ðối với lũ trẻ thơ, thì phải dạy bảo khoan dung .
Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với mình . Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài .
Hàn Thi Ngoại Truyện
Mình làm người sang trọng giàu có, thì cớ nên kiêu sa
Mình là bậc trông minh tài trí, thì chớ nên khinh ngạo
Mình có sức lực khỏe mạnh, thì chớ nên đè nén người .
Mình ăn nói linh lợi, thì chớ nên dối trá người .
Mình còn kém thì phải học, chưa biết thì phải hỏi .
Ðối với làng nước, thì phải giữ cái trật tự trên dưới .
Ðối với người nhiều tuổi, thì phải giữ cái nghĩa con em .
Ðối với người bằng vai, thì phải giữ cái nghĩa bầu bạn .
Ðối với lũ trẻ thơ, thì phải dạy bảo khoan dung .
Như vậy thì ai cũng yêu, ai cũng kính, không ai tranh giành với mình . Tâm địa rộng rãi thênh thang như trời đất, thì bao bọc được cả muôn loài .
Hàn Thi Ngoại Truyện
CHÚ THÍCH: Hàn Thi Ngoại Truyện: là bộ sách chép những ca6u nói đời xưa,
dưới mỗi bài có những chứng dẫn mấy câu thơ của Hàn Anh làm . Hàn Anh
là người đời nhà Hán làm bác sĩ đời vua Văn Ðế lấy những ý trong thơ của
người ta mà làm Nội , Ngoại truyện gọi là Hàn Thi, bây giờ chỉ còn
ngoại truyện mà thôi .
LỜI BÀN: Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được , tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo thì mới được . Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy . Ðoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu , cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắt phải . Ðoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc người trong xã hội . Nói tóm lại khiêm nhã kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời
LỜI BÀN: Muốn cho người tâm phục, không phải lấy tiền tài hay quyền thế mà khiến được , tất phải biết cách cư xử với người cho phải đạo thì mới được . Bài này chính tóm tắt mấy câu về cái đạo ấy . Ðoạn trên cốt ngăn ngừa mấy câu , cái ác tính thường kẻ hơn người hay mắt phải . Ðoạn dưới nói cách ăn ở với mọi bậc người trong xã hội . Nói tóm lại khiêm nhã kính ái là một phương pháp rất hay để ở đời
TrucNhi
27. LÒNG CƯƠNG TRỰC
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề . Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời . Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không nhất quyết không chịu thề .
Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta . Ta lấy được nước thì ta cho một nửa . Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức ."
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử . Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt , ung dung nói rằng: "Lấy lợi nhử người ta, mà bảo người ta phải bội quân thượng là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí khí là bất dũng . Giết thì giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm ."
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử . Án Tử đứng dậy ung dung bước ra .
Tả Truyện
CHÚ THÍCH: Cương trực là cứng rắn, ngay thẳng
Quyền thần: người bầy tôi chiếm hết cả quyền của vua chúa .
Sĩ:quan nhỏ
Phu: quan to
Ăn thề: giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với nhau làm một việc gì
Tả Truyện: Sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu
LỜI BÀN: Cường quyền thường muốn át công lý, tuy vậy công lú vẫn hay uốn được cường quyền . Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm cho phải lùi . Thế mới hay cái lòng người, cái lẽ phải có sức hơn là mũi gươm, ngọn giáo . Những người có lòng trung nghĩa, có tính cương quyết như Án Tử, cứng như sắt , đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết chính là những người giữ được công lý để đối phó với cường quyền .
Thôi Trữ là quyền thần nước Tề, định giết vua Trang Công, bèn hội họp sĩ phu lại ăn thề . Ai nấy đều sợ hãi, răm rắp vâng lời . Duy có Án Tử nghiễm nhiên như không nhất quyết không chịu thề .
Thôi Trữ bảo Án Tử: "Ngươi nghe ta . Ta lấy được nước thì ta cho một nửa . Nhược bằng không nghe, ta giết ngay lập tức ."
Lúc ấy, bốn mặt quân lính hầm hầm những muốn đưa gươm giáo ra đâm chém Án Tử . Chết đến nơi, mà Án Tử vẫn không biến sắc mặt , ung dung nói rằng: "Lấy lợi nhử người ta, mà bảo người ta phải bội quân thượng là bất nhân, lấy binh khí hiếp người ta mà làm người ta mất chí khí là bất dũng . Giết thì giết, ta đây không theo việc nhà ngươi làm ."
Thôi Trữ nghe nói, không dám làm gì Án Tử . Án Tử đứng dậy ung dung bước ra .
Tả Truyện
CHÚ THÍCH: Cương trực là cứng rắn, ngay thẳng
Quyền thần: người bầy tôi chiếm hết cả quyền của vua chúa .
Sĩ:quan nhỏ
Phu: quan to
Ăn thề: giết một con vật lấy máu cùng uống mà thề ước với nhau làm một việc gì
Tả Truyện: Sách của Tả Khưu Minh nhà Chu làm, kể những sự về lịch sử thời Xuân Thu
LỜI BÀN: Cường quyền thường muốn át công lý, tuy vậy công lú vẫn hay uốn được cường quyền . Thôi Trữ mạnh biết bao nhiêu, mà chỉ một câu nói của Án Tử cũng đủ làm cho phải lùi . Thế mới hay cái lòng người, cái lẽ phải có sức hơn là mũi gươm, ngọn giáo . Những người có lòng trung nghĩa, có tính cương quyết như Án Tử, cứng như sắt , đỏ tựa son, dù nguy cấp thế nào cũng không đổi đại tiết chính là những người giữ được công lý để đối phó với cường quyền .
Lam Dai Ngoc
29. BIẾT LẼ NGƯỢC, XUÔI
Lã Thị Xuân Thu
Việc đời có lắm cái hình như ngược, mà thật thì xuôi, có lắm cái hình
như xuôi, mà thật ra lại ngược. Ai biết rõ việc thật ngược, xuôi thế
nào, ngươ`i ấy mới là người tinh đời. Phàm cái gì đã đến cùng cực thì
tất nhiên phải quay trở lại; dài quá thì tất phải ngắn dần đi; ngắn quá
thì tất lại dài dần ra. Đó là cái lẽ tự nhiên như thế.
Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh nước Trần, sai người sang dò. Người ấy về nói: “Nước Trần không nên đánh – Trang vương hỏi: “Tại làm sao? – Người ấy thưa rằng: Nước Trần thành cao, hào sâu, kho tàng súc tích nhiều”.
Triều thần có người Ninh Quốc nói: “Như thế thì nước Trần nên đánh lắm. Nước Trần vốn là nước nhỏ, mà kho tàng súc tích nhiều thì chắc là thuế má nặng. Thuế má nặng thì tất dân oán vua. Thành cao, hào sâu thì phục dịch nhiều. Phục dịch nhiều, thì tất dân kiệt sức. Nếu ta đem quân sang đánh, tất lấy được Trần”.
Vua Trang Vương nghe lời, cất quân đánh, quả lấy được nước Trần .
Vua Trang Vương nước Kinh muốn đánh nước Trần, sai người sang dò. Người ấy về nói: “Nước Trần không nên đánh – Trang vương hỏi: “Tại làm sao? – Người ấy thưa rằng: Nước Trần thành cao, hào sâu, kho tàng súc tích nhiều”.
Triều thần có người Ninh Quốc nói: “Như thế thì nước Trần nên đánh lắm. Nước Trần vốn là nước nhỏ, mà kho tàng súc tích nhiều thì chắc là thuế má nặng. Thuế má nặng thì tất dân oán vua. Thành cao, hào sâu thì phục dịch nhiều. Phục dịch nhiều, thì tất dân kiệt sức. Nếu ta đem quân sang đánh, tất lấy được Trần”.
Vua Trang Vương nghe lời, cất quân đánh, quả lấy được nước Trần .
Lã Thị Xuân Thu
Giải nghĩa : Dài quá thì .. .câu này ý nói đầy, vơi, tròn, khuyết, dài,
ngắn, thường hay đắp đổi cho nhau. Thí dụ như ngày hạ chí là ngày dài
nhất trong một năm, thì những ngày sau ngày hạ chí tất cứ mỗi ngày mỗi
ngắn dần, lại ngày đông chí là ngày ngắn nhất thì những ngày sau ngày
đông chí lại dài dần mãi ra.
Kinh: cũng là tên nước Sở
Súc tích: chứa chất để dành.
Lời bàn:
Bài này có hai đoạn: Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi, mà thực là ngược, có lắm cái cho là ngược, mà thực là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân. Chỉ có người nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn, đắp đổi cho nhau là mới đóan trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lý mà biết rõ được, cái tình hình ở bên trong thực là người cao đóan vậy.
Kinh: cũng là tên nước Sở
Súc tích: chứa chất để dành.
Lời bàn:
Bài này có hai đoạn: Đoạn trên nói cái lẽ ngược, xuôi, đoạn dưới dẫn một câu thí dụ. Ở đời có lắm cái tưởng là xuôi, mà thực là ngược, có lắm cái cho là ngược, mà thực là xuôi. Ngược, xuôi điên đảo rất là khó phân. Chỉ có người nào không chịu xét bề ngoài, biết cái đầy, vơi, tròn, khuyết, dài, ngắn, đắp đổi cho nhau là mới đóan trúng được. Như người sứ đây, đến tận nơi, mắt trông thấy thế nào chỉ biết có thế thôi, chớ Ninh Quốc vẫn ở nhà, lấy cái lý mà biết rõ được, cái tình hình ở bên trong thực là người cao đóan vậy.
Lam Dai Ngoc
30. Tài Nghệ Con Lừa
Liễu Tôn Nguyên
Giải Nghĩa: Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. Hiếu sự : hay bày việc, sinh việc.
Liễu Tôn Nguyên : tên tự là Tử Hậu, tính nhanh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
Lời bàn: Bài này có ý nói: Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết cho là lạ, thì còn ưa, còn sợ, đến lúc đã biết rõ rồi thì lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nhìn ra mới biết là chẫu chàng ngày mưa. Nhưng bài này lại có ý chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nổi người ta dòm được tâm thuật của mình mà làm hại mình, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có gì lạ.
Đất Kiểm xưa nay vốn không có lừa. Có người hiếu sự, tải một ít lừa đến đấy nuôi.
Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài thần vật mới giáng sinh . Lại thấy lừa kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc nào lừa kêu cũng thế lấy làm khinh thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại quanh quẩn chỉ có một ngón đá mà thôi. Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi đi.
Lừa thả ở dưới chân núi. Buổi đầu, hổ trong núi ra, trông thấy lừa, cao lớn, lực lưỡng tưởng là loài thần vật mới giáng sinh . Lại thấy lừa kêu to, hổ sợ quá, cong đuôi chạy. Dần dần về sau hổ nghe quen tiếng, thấy lúc nào lừa kêu cũng thế lấy làm khinh thường. Một hôm, hổ thử vờn, nhảy xông vào đầu lừa. Lừa giận quá, giơ chân đá, đá đi đá lại quanh quẩn chỉ có một ngón đá mà thôi. Hổ thấy vậy, mừng bụng bảo dạ rằng: “Tài nghệ con lừa ra chỉ có thế mà thôi!” Rồi hổ gầm thét chồm lên, vồ lừa, cấu lừa, cắn lừa, ăn thịt lừa đoạn rồi đi.
Liễu Tôn Nguyên
Giải Nghĩa: Kiểm: nước Sở thời Chiến Quốc, tức là huyện Nguyên Lăng, tỉnh Hồ Nam ngày nay. Hiếu sự : hay bày việc, sinh việc.
Liễu Tôn Nguyên : tên tự là Tử Hậu, tính nhanh tuyệt vời, văn chương nổi tiếng, đỗ Tiến sĩ làm quan Thứ sử, là một bậc danh nhân đời nhà Đường.
Lời bàn: Bài này có ý nói: Ở đời có lắm người, lắm sự, lúc mới biết cho là lạ, thì còn ưa, còn sợ, đến lúc đã biết rõ rồi thì lại khinh thường, chẳng coi vào đâu nữa. Nhác trông ngỡ tượng tô vàng, nhìn ra mới biết là chẫu chàng ngày mưa. Nhưng bài này lại có ý chê người khờ dại không biết giữ thân cho kín đáo, để đến nổi người ta dòm được tâm thuật của mình mà làm hại mình, như con lừa bị con hổ hại vậy. Những nhà làm văn bây giờ vẫn thường hay dùng hai chữ “kiềm lô” (lừa đất Kiểm) để chỉ những người tài nghề kém cỏi, không có gì lạ.
Lam Dai Ngoc
31. Đánh Đàn
Vua nước Tề thích nghe sáo. Có kẻ muốn cầu chút công danh, đem đàn đến đứng trước cửa Nhà vua mà đánh. Đánh luôn ba năm, mà vua không hỏi tới. Anh ta giận lắm, gắt mà nói rằng:
-“Ta đánh đàn đến cả quỷ thần cũng phải say mê, thế mà vua không biết cho ta!”
Có người nghe nói, cười mỉa, bảo rằng: Vua thích nghe tiếng sáo, nhưng vua không thích thì làm sao được? Thế là bác chỉ giỏi ngón đàn, chớ không khéo cầu công danh ở nước Tề này vậy!”
Giải Nghĩa: công danh: công là khó nhọc mà được việc, danh là tiếng tăm; công danh là đem sự khó nhọc ra để được danh giá.
Lời bàn: Đem đàn ra đánh cho người thích nghe sáo, mà cầu cho người ta ưa mình, thì chẳng là khờ vụng lắm ư! Cho nên mình tuy có tài, muốn thi thố cái tài, thì phải dò trước xem người dùng mình có ưa cái tài ấy không. Bằng không, mà mình cũng cứ phô tài, thì chẳng những việc muốn cầu không được, mà lại để thiên hạ người ta chê cười cho nữa.
Vua nước Tề thích nghe sáo. Có kẻ muốn cầu chút công danh, đem đàn đến đứng trước cửa Nhà vua mà đánh. Đánh luôn ba năm, mà vua không hỏi tới. Anh ta giận lắm, gắt mà nói rằng:
-“Ta đánh đàn đến cả quỷ thần cũng phải say mê, thế mà vua không biết cho ta!”
Có người nghe nói, cười mỉa, bảo rằng: Vua thích nghe tiếng sáo, nhưng vua không thích thì làm sao được? Thế là bác chỉ giỏi ngón đàn, chớ không khéo cầu công danh ở nước Tề này vậy!”
Giải Nghĩa: công danh: công là khó nhọc mà được việc, danh là tiếng tăm; công danh là đem sự khó nhọc ra để được danh giá.
Lời bàn: Đem đàn ra đánh cho người thích nghe sáo, mà cầu cho người ta ưa mình, thì chẳng là khờ vụng lắm ư! Cho nên mình tuy có tài, muốn thi thố cái tài, thì phải dò trước xem người dùng mình có ưa cái tài ấy không. Bằng không, mà mình cũng cứ phô tài, thì chẳng những việc muốn cầu không được, mà lại để thiên hạ người ta chê cười cho nữa.
Lam Dai Ngoc
32. Thổi Sáo
Giải nghĩa: Đông Quách tiên sinh : bấy giờ các nhà làm văn thường dùng bốn chữ này để chế nhạ những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính nghĩa bo6’n chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông Quách hay ở ngoài thành bên phía đông (Đông Quách) Lạm dự: ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài đức mình.
Lời bàn: Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp, mà được làm quan, có khác gì Đông quách tiên sinh nói trong chuyện này? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho đủ số, thì còn giữ được địa vị, chứ đến khi khảo sát từng người một thì tài nào mà không bị thải.
Vua Tuyên Vương nước Tề thích nghe sáo, và lúc nào muốn nghe, bắt ba
trăm người cùng thổi một loạt. Trong ba trăm người ấy, có Đông Quách
tiên sinh không biết thổi sáo, nhưng cũng lạm dự vào đây để kiếm lương
ăn.
Đến khi vua Tuyên Vương mất, vua Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe sáo. Nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người một mà thôi. Đông Quách tiên sinh thấy thế, tìm đường trốn trước.
Đến khi vua Tuyên Vương mất, vua Mẫn Vương nối ngôi, cũng thích nghe sáo. Nhưng chỉ muốn nghe riêng từng người một mà thôi. Đông Quách tiên sinh thấy thế, tìm đường trốn trước.
Hàn Phi Tử
Giải nghĩa: Đông Quách tiên sinh : bấy giờ các nhà làm văn thường dùng bốn chữ này để chế nhạ những người vô tài mà lạm dự vào một địa vị nào. Chính nghĩa bo6’n chữ ấy là nhà thầy (tiên sinh) họ Đông Quách hay ở ngoài thành bên phía đông (Đông Quách) Lạm dự: ăn may mà được hưởng một phần quyền lợi quá tài đức mình.
Lời bàn: Những kẻ vô tài, gặp may nhờ dịp, mà được làm quan, có khác gì Đông quách tiên sinh nói trong chuyện này? Những khi ồ ạt, gọi là có mặt cho đủ số, thì còn giữ được địa vị, chứ đến khi khảo sát từng người một thì tài nào mà không bị thải.
Lam Dai Ngoc
33. Người Nước Lỗ Sang Nưóc Việt
Hai vợ chồng người nước Lỗ, chồng khéo đóng giày, vợ khéo đan mũ, muốn đem nhau sang kiếm ăn ở nước Việt.
Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế nào cũng cùng khổ.
-Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế?
_Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không, không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người ta không dùng đến tài nghề của mình, thì làm thế naò mà không khốn cùng?”
Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa.
Hàn Phi Tử
Có người đến bảo rằng: “Vợ chồng nhà bác đi chuyến này thế nào cũng cùng khổ.
-Người nước Lỗ hỏi: Sao bác lại nói thế?
_Người kia bảo: Giày dùng để đi, mà người Việt đi chân không, không thích đi giày; mũ dùng để đội, mà người Việt để đầu không, không cần đội mũ. Vợ chồng nhà bác làm giày, đan mũ giỏi thật, song đến ở nước người ta, người ta không dùng đến tài nghề của mình, thì làm thế naò mà không khốn cùng?”
Hai vợ chồng người nước Lỗ nghe nói, không sang nước Việt nữa.
Hàn Phi Tử
Giải nghĩa: Việt: tên nước thời Xuân Thu ởvào tỉnh Chiết giang, Giang Tô và một phần Sơn đông bây giờ
Lời bàn: Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình mà lại còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy ta trâu thì có ích chi.
Lời bàn: Đến chỗ đi đầu không, mà bán mũ, đến chỗ đi chân không mà bán giày thì cũng giống như mùa rét mà bán quạt, mùa nực mà bán chăn bông, tuy trái nơi và trái thời khác nhau, nhưng cũng là trái, không được việc cho mình mà lại còn để tiếng cười cho thiên hạ nữa. Cho nên người có tài phải tìm nơi đáng ở mà ở chớ đem đàn mà gảy ta trâu thì có ích chi.
Lam Dai Ngoc
34. Trí, Trung, Dũng
Nước Trần bị nước Sở đánh, phá tan mất cửa thành bên Tây . Sau người Sở bắt dân nước Trần ra tu bổ lại cửa thành ấy .
Một hôm đức Khổng Tử đi xe qua đấy, không cúi đầu vào miếng gỗ trước xe . Thầy Tử Cống dừng cương lại, hỏi:
-"Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người, thì phải xuống, qua chỗ hai người, thì phải cúi đầu vào miến gỗ trước xe để tỏ lòng kính trọng . Nay quan, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi qua, không có lòng kính trọng, là cớ làm sao ?
-Đức Khổng Tử nói:
"Nước mất, mà không biết, là bất trí ; biết, mà không lo liệu, là bất trung ; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng . Số người nước Trần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, thì bảo ta kính làm sao được!
Hàn Phi Tử
Một hôm đức Khổng Tử đi xe qua đấy, không cúi đầu vào miếng gỗ trước xe . Thầy Tử Cống dừng cương lại, hỏi:
-"Cứ theo lễ, đi xe qua chỗ ba người, thì phải xuống, qua chỗ hai người, thì phải cúi đầu vào miến gỗ trước xe để tỏ lòng kính trọng . Nay quan, dân nước Trần sửa sang cửa thành biết bao nhiêu là người, thế mà thầy đi qua, không có lòng kính trọng, là cớ làm sao ?
-Đức Khổng Tử nói:
"Nước mất, mà không biết, là bất trí ; biết, mà không lo liệu, là bất trung ; lo liệu, mà không liều chết là bất dũng . Số người nước Trần tuy đông, mà ba điều ấy không biết được một, thì bảo ta kính làm sao được!
Hàn Phi Tử
Giải nghĩa: Tu bổ: sữa sang chữa lại . Bất trí: ngu dại không
biết phải trái Bất trung : chểnh mảng không hết lòng với vua, với
nước .
Lời bàn: Cứ theo cố lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng đức Khổng tử vốn là người hay giữ lễ nên thầy Tử Cống mới hỏi . Đức Khổng Tử đáp thế, ý hẳn quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, hình như không còn ai biết đến nước là gì . Nếu quả vậy thì có người cũng như không, ngài không kính rất là phải, ví rằng: "Ngu dân bách vạn vị chi vô dân", nghĩa là nhân dân ngu dại thì tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân nào .
Lời bàn: Cứ theo cố lễ rất phiền (ba người xuống xe) nhưng đức Khổng tử vốn là người hay giữ lễ nên thầy Tử Cống mới hỏi . Đức Khổng Tử đáp thế, ý hẳn quan dân nước Trần bấy giờ ai nấy đều ra dáng vui vẻ, hình như không còn ai biết đến nước là gì . Nếu quả vậy thì có người cũng như không, ngài không kính rất là phải, ví rằng: "Ngu dân bách vạn vị chi vô dân", nghĩa là nhân dân ngu dại thì tuy dân số nhiều đến trăm vạn, cũng đáng bảo là không có người dân nào .
Lam Dai Ngoc
35 .GIỮ LẤY NGHỀ MÌNH
Lưu Cơ
Lời bàn:
Nước Trịnh có người học nghề làm dù che mưa ba năm mới thành nghề . Trời
đại hạn, không ai dùng đến dù, anh ta bèn bỏ nghề làm dù, đi học nghề
làm gầu tát nước . Lại học ba năm mới thành nghề làm gầu, thì trời mưa
luôn mãi không ai dùng đến gầu . Bây giờ anh ta lại quay về nghề làm dù
như trước . Không bao lâu, trong nước có giặc, dân gian nhiều người phải
đi lính, mặc đồ nhung phục, không ai cần đến dù, anh ta xoay ra nghề
đúc binh khí thì đã già quách rồi .
Úc ly tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng:
-Than ôi, ngươi chẳng đã già đời mất rồi ư! Già hay trẻ không phải là tự người, là tự trời, điều ấy đã cố nhiên . Nhưng nghề nghiệp thành hay bại dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong . Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả . Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy mùa, anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước . Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được, thành ra anh ta kéo lại hoà cả mấy năm mất mùa trước . Cho nên có câu rằng:
"Trời đại hạn nghĩ đến sắm thuyền, trời nóng nực nghĩ đến sắm áo bông", đó là một câu thiên hạ nói rất phải .
Úc ly tử thấy anh ta, thương tình, nói rằng:
-Than ôi, ngươi chẳng đã già đời mất rồi ư! Già hay trẻ không phải là tự người, là tự trời, điều ấy đã cố nhiên . Nhưng nghề nghiệp thành hay bại dù lỡ thời không gặp dịp, cũng không nên đổ cả cho trời, tất có mình ở trong . Ngày xưa nước Việt có một người làm ruộng, cấy lúa chiêm ba năm đều hại vì lụt cả . Có người bảo anh ta nên tháo nước mà cấy mùa, anh ta không nghe, cứ cấy chiêm như trước . Năm ấy nắng to, mà nắng luôn ba năm, vụ chiêm nào cũng được, thành ra anh ta kéo lại hoà cả mấy năm mất mùa trước . Cho nên có câu rằng:
"Trời đại hạn nghĩ đến sắm thuyền, trời nóng nực nghĩ đến sắm áo bông", đó là một câu thiên hạ nói rất phải .
Lưu Cơ
Giải nghĩa : Trịnh = tên nước chư hầu thời Xuân Thu tức huyện Tân
Trịnh, tỉnh Hà Nam bây giờ Đại hạn =nắng to và nắng lâu ngày Nhung
phục = y phục nhà binh Úc ly tử = tên một bộ sách của Lưu cơ thác
danh làm Úc ly tử mà nói trong bài này ..
Đại nạn sắm thuyền xa ...: Ý nói người ta cứ phòng xa là hơn, ở đời thường có cái sức đang đi thế này, tất có lúc đi ngược hẳn lại, như nắng lâu quá tất có lúc mưa lụt, nóng nực quá tất có lúc giá rét, nên người khôn lúc nắng lâu nghĩ sắm thuyền trước để phòng khi ngập lụt, lúc nóng nực nghĩ sắm áo bông trước để phòng khi giá rét .
Lưu Cơ =người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp
Đại nạn sắm thuyền xa ...: Ý nói người ta cứ phòng xa là hơn, ở đời thường có cái sức đang đi thế này, tất có lúc đi ngược hẳn lại, như nắng lâu quá tất có lúc mưa lụt, nóng nực quá tất có lúc giá rét, nên người khôn lúc nắng lâu nghĩ sắm thuyền trước để phòng khi ngập lụt, lúc nóng nực nghĩ sắm áo bông trước để phòng khi giá rét .
Lưu Cơ =người đời Minh tên tự là Bá Ôn có công giúp vua Thái Tổ gây dựng lên nhà Minh, giỏi văn chương lại kiêm cả thiên văn binh pháp
Lời bàn:
Người ta làm nghề gì, ai chẳng muốn cho nghề ấy được phát đạt, thịnh
vượng . Song gặp thời, thì hay, lỡ thời, hoá dở . Như thế thì cái thời
cũng là quan hệ với nghề của mình lắm . Khốn cái thời là tự ở đâu đâu
chớ không tự mình gây lấy được, cho nên có lắm người làm nghề, không
thành nghề, thường nói rằng: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên"
ngihĩa là người chỉ mưu tính công việc, còn công việc nên, hay không
nên, là do tại trời . Song người có gan, dù cho lỡ thời cũng cứ vững dạ
mà giữ lấy nghề, vì nghề chắc đã thành, thì tất cũng có chốn dụng, chẳng
chóng thì chầy, chẳng nhiều thì ít, chớ cứ n ay làm nghề này, mai xoay
nghề khác, như hòn đá lăn mài không bao giờ mọc rêu, thì chỉ nhọc xác,
già người mà vẫn không ăn thua gì cả .
TrucNhi
08-30-2002, 12:52 PM
36. CHUYỆN A LƯU
A Lưu là một tên tiểu đồng nhà ông Chu Nguyên Tố . Nó thực là ngây ngô, không được việc gì cả, mà ông Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời . Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được một cái buồng con . Ông giận mắng, thì nó quăng chổi xuống đất, lẩm bẩm nói: "Ông quét giỏi, thì ông phiền tôi làm gì !" Khi ông đi đâu vắng , sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai . Có hỏi, thì nó nói: "Người ấy lùn mà béo . - Người ấy gầy mà lắm râu . - Người ấy xinh đẹp . - Người ấy tuổi tác và chống gậy . .." Ðến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể, thì nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa .
Trong nhà có chứa một ít đồ cổ như chén, lọ , đỉnh, đôn . Khách đến chơi, nó đem bầy ra cho xem . Lúc khác về, nó lén đến gõ các thứ ấy, mà nói: "Những cái này có khi bằng đồng mà sao nó đen xì lại như thế này !" . Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy đá, lấy nước để đánh .
Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai đi chặt cành cây có chạc, để chữa lại thì nó cầm búa, cầm cưa đi khắp vườn . Hết ngày, về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu mà nói : "Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả , không có cành nào mọc chúc xuống đất ." Cả nhà ai cũng phải phì cười .
Trước sân có vài cây liễu mới trồng . Ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giữ gìn, đến lúc nó vào ăn cơm, thì nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ .
Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng bật cười như thế cả .
Ông Nguyên Tố là một người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm . Một hôm, ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu đấy, nói đùa với nó răng : "Mày có vẽ được không ?"
A Lưu đáp: "Khó gì mà không vẽ đươc." Ông bảo vẽ thì A Lư vẽ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ . Ông thấy vậy thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu vẽ cũng được như ý cả .
Tự bấy giờ, ông dùng dến A Lưu luôn không lúc nào là rời ra nữa . Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa
CHÚ THÍCH:
Tiểu đồng: thằng nhỏ giúp việc -
Chữ châu: lối chữ nho viết phân minh từng nét .
LỜI BÀN:
Quét nhà suốt buổi không sạch được cái buồng con, trồng cây lúc ăn cơm, nhổ cả cây đem vào, người mà ngốc như thế , thì bảo còn dụng làm được gì nữa ! Tuy vậy không nhớ tên người, chỉ nhớ hình người , thấy cành mọc lên, không thấy cành chúc xuống, xem đồ vật biết phân biệt đồng hay đất, thế đủ hay A Lưu có cái trí khuynh hướng về nghề vẽ vậy . Ôi ! gỗ mục vứt đi người kiếm củi vẫn nhặt, đá cuội là xấu, tợ ngọc vẫn dùng, trong trời đất thì không có vật gì là vật bỏ đi, huống chi là người ta tinh khôn hơn vạn vật , lại không được một điều gì khả thủ ư ? A Lưu ngây dại, tưởng là người bỏ đi, thế mà được nổi tiếng về nghề họa, cũng nhờ ông Nguyên Tố có lượng bao dung, biết dụng nhân như dụng mộc . Xem bài này thì cha mẹ dạy con, thầy dạy học trò chẳng nên tìm rõ cái sở trường của mỗi đứa mà dẫn dụ, mà luyện tập nó mặt ấy, ngay tự lúc còn trẻ tuổi, để cho nó may có cơ thành tài được ru ! Ðã đành : Thiên địa vô khí vật, thánh nhân vô khí nhân, nhưng cốt phải biết: nhân tài nhi đốc, (tùy theo cái tài mà bồi bổ khải phát cho nẩy nở ra) thì tài mới thành được .
A Lưu là một tên tiểu đồng nhà ông Chu Nguyên Tố . Nó thực là ngây ngô, không được việc gì cả, mà ông Nguyên Tố vẫn nuôi nó suốt đời . Lúc ông bảo nó quét nhà, nó cầm chổi quanh quẩn suốt buổi mà không sạch được một cái buồng con . Ông giận mắng, thì nó quăng chổi xuống đất, lẩm bẩm nói: "Ông quét giỏi, thì ông phiền tôi làm gì !" Khi ông đi đâu vắng , sai nó chực ngoài cửa, dù khách quen đến, nó cũng không nhớ được tên ai . Có hỏi, thì nó nói: "Người ấy lùn mà béo . - Người ấy gầy mà lắm râu . - Người ấy xinh đẹp . - Người ấy tuổi tác và chống gậy . .." Ðến lúc nó liệu chừng không nhớ xuể, thì nó đóng cửa lại, không cho ai vào nữa .
Trong nhà có chứa một ít đồ cổ như chén, lọ , đỉnh, đôn . Khách đến chơi, nó đem bầy ra cho xem . Lúc khác về, nó lén đến gõ các thứ ấy, mà nói: "Những cái này có khi bằng đồng mà sao nó đen xì lại như thế này !" . Rồi nó chạy đi lấy cát, lấy đá, lấy nước để đánh .
Nhà có cái ghế gãy chân, ông sai đi chặt cành cây có chạc, để chữa lại thì nó cầm búa, cầm cưa đi khắp vườn . Hết ngày, về, nó chìa hai ngón tay làm hiệu mà nói : "Cành cây có chạc đều chỉa trở lên cả , không có cành nào mọc chúc xuống đất ." Cả nhà ai cũng phải phì cười .
Trước sân có vài cây liễu mới trồng . Ông sợ trẻ láng giềng đến nghịch hỏng, sai nó trông nom giữ gìn, đến lúc nó vào ăn cơm, thì nó nhổ cả cây lên mà cất đi một chỗ .
Công việc nó làm, nhiều chuyện đáng bật cười như thế cả .
Ông Nguyên Tố là một người viết chữ chân tốt mà vẽ lại giỏi lắm . Một hôm, ông hòa phấn với mực để vẽ, thấy A Lưu đấy, nói đùa với nó răng : "Mày có vẽ được không ?"
A Lưu đáp: "Khó gì mà không vẽ đươc." Ông bảo vẽ thì A Lư vẽ nét đậm, nét nhạt, nét xa, nét gần, như người xưa nay vốn đã biết vẽ . Ông thấy vậy thử luôn mấy lần, lần nào A Lưu vẽ cũng được như ý cả .
Tự bấy giờ, ông dùng dến A Lưu luôn không lúc nào là rời ra nữa . Sau A Lưu nổi tiếng là một nhà danh họa
CHÚ THÍCH:
Tiểu đồng: thằng nhỏ giúp việc -
Chữ châu: lối chữ nho viết phân minh từng nét .
LỜI BÀN:
Quét nhà suốt buổi không sạch được cái buồng con, trồng cây lúc ăn cơm, nhổ cả cây đem vào, người mà ngốc như thế , thì bảo còn dụng làm được gì nữa ! Tuy vậy không nhớ tên người, chỉ nhớ hình người , thấy cành mọc lên, không thấy cành chúc xuống, xem đồ vật biết phân biệt đồng hay đất, thế đủ hay A Lưu có cái trí khuynh hướng về nghề vẽ vậy . Ôi ! gỗ mục vứt đi người kiếm củi vẫn nhặt, đá cuội là xấu, tợ ngọc vẫn dùng, trong trời đất thì không có vật gì là vật bỏ đi, huống chi là người ta tinh khôn hơn vạn vật , lại không được một điều gì khả thủ ư ? A Lưu ngây dại, tưởng là người bỏ đi, thế mà được nổi tiếng về nghề họa, cũng nhờ ông Nguyên Tố có lượng bao dung, biết dụng nhân như dụng mộc . Xem bài này thì cha mẹ dạy con, thầy dạy học trò chẳng nên tìm rõ cái sở trường của mỗi đứa mà dẫn dụ, mà luyện tập nó mặt ấy, ngay tự lúc còn trẻ tuổi, để cho nó may có cơ thành tài được ru ! Ðã đành : Thiên địa vô khí vật, thánh nhân vô khí nhân, nhưng cốt phải biết: nhân tài nhi đốc, (tùy theo cái tài mà bồi bổ khải phát cho nẩy nở ra) thì tài mới thành được .
TrucNhi
37. MẤT BÚA
Có người đánh mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm . Anh ta trông dáng nó đi , rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, hành động không một tí gì là không rõ ra một đứa ăn trộm búa cả .
Ðược một lúc, người ấy bới trong hố, lại thấy cái búa . Thì hôm sau , trông đứa con nhà láng giềng ngôn ngữ cử chỉ không một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa .
LỜi BÀN: Người ta khi mất một cái gì, thì một mất mười ngờ . Mà khi trong bụng đã ngờ vực thì các ngoại vật cũng theo đấy mà biến đổi đi cả . Phàm tâm trí mình đã cảm giác làm sao, thì tự mình lại tưởng tượng một cái cảnh sắc hợp như thế . Người mình vui, thì mình thấy sự vật ngoài hình như cũng vui, người mình buồn thì mình thấy sự vật ngoài cũng buồn . Chẳng qua là tại tự mình in trí như vậy, chớ ngoại vật hồ dễ đã có mối liên lạc mật thiết với mình mà thật thay đổi như thế đâu ! Cái tâm chuyển thời hết thảy muôn pháp đều chuyển theo . Cho nên tâm cần phải chính . Tâm có chính thì tư tưởng hành vi mới thoát khỏi tà khúc được .
Có người đánh mất cái búa, ngờ cho đứa con nhà láng giềng lấy trộm . Anh ta trông dáng nó đi , rõ ra đứa ăn trộm búa, nhìn vẻ mặt nó, rõ ra đứa ăn trộm búa, thấy nó cất nhắc, hành động không một tí gì là không rõ ra một đứa ăn trộm búa cả .
Ðược một lúc, người ấy bới trong hố, lại thấy cái búa . Thì hôm sau , trông đứa con nhà láng giềng ngôn ngữ cử chỉ không một tí gì giống đứa ăn trộm búa nữa .
LỜi BÀN: Người ta khi mất một cái gì, thì một mất mười ngờ . Mà khi trong bụng đã ngờ vực thì các ngoại vật cũng theo đấy mà biến đổi đi cả . Phàm tâm trí mình đã cảm giác làm sao, thì tự mình lại tưởng tượng một cái cảnh sắc hợp như thế . Người mình vui, thì mình thấy sự vật ngoài hình như cũng vui, người mình buồn thì mình thấy sự vật ngoài cũng buồn . Chẳng qua là tại tự mình in trí như vậy, chớ ngoại vật hồ dễ đã có mối liên lạc mật thiết với mình mà thật thay đổi như thế đâu ! Cái tâm chuyển thời hết thảy muôn pháp đều chuyển theo . Cho nên tâm cần phải chính . Tâm có chính thì tư tưởng hành vi mới thoát khỏi tà khúc được .
TrucNhi
38. TƯỜNG ÐỔ
Nước Tống có người nhà giàu . Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ .
Ðứa con nói: "Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào "
Người láng giềng thấy tường đổ, cũng nói: "Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào"
Tường chưa kịp đắp , tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật .
Anh ta khen đứa con là khôn ngoan biết trước, mà ngời người láng giềng là gian giảo làm sằng .
Cùng một câu nói: con nói thì khen là tinh khôn, láng giềng nói thì ngờ là trộm cắp, bởi tại cớ làm sao ? Tại con thì tình thân, cho nên không có bụng ngờ , láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ra ngờ vực . Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân, thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi ngờ .
Hàn Phi Tử
LỜI BÀN: Bài này cốt dạy ta phải thận trọng câu nói . Người láng giềng đây sở dĩ mà để người nhà giàu ngờ vực, là vì không được thân với người ta , mà nói một câu ra chừng thân lắm, muốn lo việc của người như việc của mình, coi việc thiết đến người cũng như thiết đến mình vậy . Cho nên: Gặp người đáng nói mà không nói là bỏ hoài mất một người , thì gặp người không đáng nói mà lại nói, chẳng những làm phí mất lời nói, mà lại để cho người ta sinh nghi tình ra nữa !
Nước Tống có người nhà giàu . Một hôm trời mưa, tường nhà anh ta đổ .
Ðứa con nói: "Thưa cha, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào "
Người láng giềng thấy tường đổ, cũng nói: "Này bác, không đắp ngay tường lại, e có trộm vào"
Tường chưa kịp đắp , tối hôm ấy, nhà anh ta quả nhiên mất trộm thật .
Anh ta khen đứa con là khôn ngoan biết trước, mà ngời người láng giềng là gian giảo làm sằng .
Cùng một câu nói: con nói thì khen là tinh khôn, láng giềng nói thì ngờ là trộm cắp, bởi tại cớ làm sao ? Tại con thì tình thân, cho nên không có bụng ngờ , láng giềng là tình sơ, cho nên sinh ra ngờ vực . Thế cho nên phận sơ mà câu nói thân, thì thế nào cũng làm cho người nghe mình đem lòng nghi ngờ .
Hàn Phi Tử
LỜI BÀN: Bài này cốt dạy ta phải thận trọng câu nói . Người láng giềng đây sở dĩ mà để người nhà giàu ngờ vực, là vì không được thân với người ta , mà nói một câu ra chừng thân lắm, muốn lo việc của người như việc của mình, coi việc thiết đến người cũng như thiết đến mình vậy . Cho nên: Gặp người đáng nói mà không nói là bỏ hoài mất một người , thì gặp người không đáng nói mà lại nói, chẳng những làm phí mất lời nói, mà lại để cho người ta sinh nghi tình ra nữa !
Lam Dai Ngoc
39. Người Con Có Hiếu
Thầy Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng:
-“Đội nặng đi đường xa thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có quyền cao, chức trọng, mới chịu làm. Ngày trước Do này, lúc song thân còn, cơm thường đưa dưa muối, dường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước thì không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không còn sống.
Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân rất là phải. Lúc người còn thì hết lòng phục dưỡng, lúc người mất, thì hết lòng thương tiếc.” Gia Ngữ
Giải nghĩa: Tử Lộ = người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự. Bóng qua cửa sổ: bóng đây là bóng mặt trời, ý nói thời giờ chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa .
Lời Bàn:
Khi cha mẹ còn, hết lòng nuôi nấng, khi cha mẹ mất, hết lòng thương nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ. Làm trái lại hẳn như thế là bất hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế, “nghĩa là lúc cha mẹ còn, thì thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất thì nấu một mâm cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi”, như thế cũng là bất hiếu, cho nên người con có hiếu, còn cha mẹ ngày nào, nên mừng ngày ấy, kịp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. Vì rằng làm con mà được còn có cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có duyên có phúc nữa.
Thầy Tử Lộ vào hầu đức Khổng Tử, nói rằng:
-“Đội nặng đi đường xa thì tiện đâu nghỉ đấy, không đợi chọn chỗ, rồi mới nghỉ. Nhà nghèo, cha mẹ già, thì con làm nên thế nào, hay thế ấy, không đợi có quyền cao, chức trọng, mới chịu làm. Ngày trước Do này, lúc song thân còn, cơm thường đưa dưa muối, dường xa trăm dặm, phải đội gạo về nuôi song thân. Lúc song thân mất, làm quan ở nước Sở, xe ngựa hàng trăm, lương bổng hàng vạn, ăn những miếng ngon, mặc những của tốt, mỗi khi nhớ đến song thân, lại muốn dưa muối, đội gạo để nuôi người như trước thì không sao được nữa! Cha mẹ già như bóng qua cửa sổ. Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng, con muốn nuôi, mà cha mẹ không còn sống.
Đức Khổng Tử nói: “Do, nhà ngươi phụng sự song thân rất là phải. Lúc người còn thì hết lòng phục dưỡng, lúc người mất, thì hết lòng thương tiếc.” Gia Ngữ
Giải nghĩa: Tử Lộ = người thời Xuân Thu, học trò đức Khổng Tử, tính hiếu thảo, hùng dũng có tài chính sự. Bóng qua cửa sổ: bóng đây là bóng mặt trời, ý nói thời giờ chóng qua cũng như câu ngựa phi qua khe cửa .
Lời Bàn:
Khi cha mẹ còn, hết lòng nuôi nấng, khi cha mẹ mất, hết lòng thương nhớ, đó thực là cái đạo hiếu của con đối với cha mẹ. Làm trái lại hẳn như thế là bất hiếu, mang một cái tội rất to! Làm trái lại một nửa như thế, “nghĩa là lúc cha mẹ còn, thì thờ ơ chểnh mảng, lúc cha mẹ mất thì nấu một mâm cao cỗ đầy, làm văn tế ruồi”, như thế cũng là bất hiếu, cho nên người con có hiếu, còn cha mẹ ngày nào, nên mừng ngày ấy, kịp ăn ở cho trọn đạo, chớ để đến lúc cha mẹ mất rồi, có hối lại cũng không sao được. Vì rằng làm con mà được còn có cha mẹ để báo đáp là một việc sung sướng ở đời, mà cũng là có duyên có phúc nữa.
Lam Dai Ngoc
Thầy Tăng Sâm
Thầy Tâng Sâm bừa cỏ ruộng dưa, lỡ tay làm đứt mất ít rễ . Cha là Tăng Tích giận, cầm gậy đánh vaò lưng. Tâng Sâm đau quá, ngã gục xuống điếng đi một lúc mới hồi lại.
Khi về nhà, liền đến thưa với cha rằng:
“Lúc nãy con có tội, để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo”. Nói xong, lùi xuống vừa gẫy đàn vừa hát, có ý để cha nghe tiếng, biết cho rằng mình không còn đau đớn gì nữa.
Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện, bảo học trò cấm cửa không cho Tăng Sâm vào.
Tăng Sâm tự nghĩ mình vô tội, mượn bạn lại hỏi vì cớ gì mà Ngài giận.
Đức Khổng Tử nói:
“Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến gì, thì ở luôn bên cạnh; lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh xa; cha đánh bằng roi vọt thì cam chịu; đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng là bất từ. Nay Sâm thờ cha liều mình để chiều cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá như cha đánh quá tay mà chết mất, thì có phải là làm cho cha mắc tội không, tội bbất hiếu còn gì to hơn nữa”.
Tăng Sâm nghe lại chuyện, biết là nhầm lỗi, đến tạ tội đức Khổng Tử. Thuyết Uyển
Giải nghĩa: Bất từ: không có lòng thương yêu con
Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Lời bàn:
Người làm con có hiếu thì dẫu vì cha mà phải hy sinh tính mạng cũng không có gì là quá tạm. Song, liều mình mà cứu cha mẹ trong khi nguy cấp là chí hiếu, thì để cha mẹ nhân cơn giận dữ đánh đập, lỡ hại đến tính mạng, thì chẳng những là bất hiếu mà còn mang tiếng là hãm cha mẹ vào tiếng bất từ nữa. Oâng Sâm rất hiếu nhưng chưa phải cách, Oâng Thuấn cũng hiếu nhưng biết phải trái. Kẻ làm con, khi thấy cha mẹ làm trái còn có chức trách phải liệu đường trốn tránh hay ủy khúc can ngăn mà vẫn không mắc tiếng bất hiếu.
Thầy Tâng Sâm bừa cỏ ruộng dưa, lỡ tay làm đứt mất ít rễ . Cha là Tăng Tích giận, cầm gậy đánh vaò lưng. Tâng Sâm đau quá, ngã gục xuống điếng đi một lúc mới hồi lại.
Khi về nhà, liền đến thưa với cha rằng:
“Lúc nãy con có tội, để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha, thực là con lỗi đạo”. Nói xong, lùi xuống vừa gẫy đàn vừa hát, có ý để cha nghe tiếng, biết cho rằng mình không còn đau đớn gì nữa.
Đức Khổng Tử nghe thấy chuyện, bảo học trò cấm cửa không cho Tăng Sâm vào.
Tăng Sâm tự nghĩ mình vô tội, mượn bạn lại hỏi vì cớ gì mà Ngài giận.
Đức Khổng Tử nói:
“Ngày trước ông Thuấn phụng sự cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến gì, thì ở luôn bên cạnh; lúc cha giận dữ muốn giết thì lánh xa; cha đánh bằng roi vọt thì cam chịu; đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên ông Cổ Tẩu không mang tiếng là bất từ. Nay Sâm thờ cha liều mình để chiều cơn giận đến nỗi ngất đi. Giá như cha đánh quá tay mà chết mất, thì có phải là làm cho cha mắc tội không, tội bbất hiếu còn gì to hơn nữa”.
Tăng Sâm nghe lại chuyện, biết là nhầm lỗi, đến tạ tội đức Khổng Tử. Thuyết Uyển
Giải nghĩa: Bất từ: không có lòng thương yêu con
Thuyết Uyển: bộ sách 21 quyển của Lưu Hướng đời Hán soạn, ghi chép những việc đạo đức đáng dạy người ta.
Lời bàn:
Người làm con có hiếu thì dẫu vì cha mà phải hy sinh tính mạng cũng không có gì là quá tạm. Song, liều mình mà cứu cha mẹ trong khi nguy cấp là chí hiếu, thì để cha mẹ nhân cơn giận dữ đánh đập, lỡ hại đến tính mạng, thì chẳng những là bất hiếu mà còn mang tiếng là hãm cha mẹ vào tiếng bất từ nữa. Oâng Sâm rất hiếu nhưng chưa phải cách, Oâng Thuấn cũng hiếu nhưng biết phải trái. Kẻ làm con, khi thấy cha mẹ làm trái còn có chức trách phải liệu đường trốn tránh hay ủy khúc can ngăn mà vẫn không mắc tiếng bất hiếu.
Lam Dai Ngoc
40. Ông Quan Thanh Bạch
Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương Aáp, quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được nhờ ông đề bạc cho, vào yến kiến. Rồi đợi đêm khuya, đêm vàng đến lễ.
Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng tới cho tôi ư”.
Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho, bây giờ đêm khuya không ai biết”.
Dương Chân nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết.”
Vương Mật nghe nói, xấu hổ, lùi ra. Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân, việc nước không tham nhũng, không làm giàu cho mình, ông thường nói: “Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quý hơn tiền của ruộng nương lại cho chúng ư?”.
Hậu Hán Thư
Lời bàn:
Làm quan như ông Dương Chấn, đối với người mình đã đề bạc, không cần ơn, đối với người dân, mình cai trị không ăn lễ, lúc đêm khuya, tấm lòng cũng rõ rệt như lúc thanh thiên bạch nhật, cũng là một ông quan thanh liêm, làm gương cho bọn quan gian tham, lại nhũng muôn đời ư!
Làm quan mà vơ vét cho nhiều, chính mình có chắc đâu sẽ giữ được, huống chi còn mong để lại cho con cháu. Như thì để lại cho chúng cái tiếng thanh bạch, thơm tho muôn thuở, chả hơn là cái của phi nghĩa, chỉ tổ làm cho chúng kiêu sa, dâm dật, rồi đi đến bại vong ư.
Dương Chấn được bổ đi làm thái thú quận Đông Lai. Lúc đi phó nhậm, qua đất Xương Aáp, quan huyện ở đấy là Vương Mật, trước được nhờ ông đề bạc cho, vào yến kiến. Rồi đợi đêm khuya, đêm vàng đến lễ.
Dương Chấn bảo: “Trước tôi biết ông là người khá, mới cử ông lên, thế mà ông vẫn chưa biết bụng tôi, còn đem vàng tới cho tôi ư”.
Vương Mật cố nài, thưa rằng: “Xin ngài cứ nhận cho, bây giờ đêm khuya không ai biết”.
Dương Chân nói: “Trời biết, đất biết, ông biết, tôi biết, sao lại bảo là không ai biết.”
Vương Mật nghe nói, xấu hổ, lùi ra. Dương Chấn thật là một ông quan thanh liêm, chỉ chăm việc dân, việc nước không tham nhũng, không làm giàu cho mình, ông thường nói: “Làm quan mà để được cái tiếng thanh bạch cho con cháu, chẳng quý hơn tiền của ruộng nương lại cho chúng ư?”.
Hậu Hán Thư
Lời bàn:
Làm quan như ông Dương Chấn, đối với người mình đã đề bạc, không cần ơn, đối với người dân, mình cai trị không ăn lễ, lúc đêm khuya, tấm lòng cũng rõ rệt như lúc thanh thiên bạch nhật, cũng là một ông quan thanh liêm, làm gương cho bọn quan gian tham, lại nhũng muôn đời ư!
Làm quan mà vơ vét cho nhiều, chính mình có chắc đâu sẽ giữ được, huống chi còn mong để lại cho con cháu. Như thì để lại cho chúng cái tiếng thanh bạch, thơm tho muôn thuở, chả hơn là cái của phi nghĩa, chỉ tổ làm cho chúng kiêu sa, dâm dật, rồi đi đến bại vong ư.
TrucNhi
41. KHÔNG NHẬN CÁ
Công Nghi Hưu làm tướng nước Lỗ, tính hay thích ăn cá. Một hôm có người đem cá biếu, ông lại không nhận. Em ông lấy làm lạ hỏi: “Anh sở thích ăn cá, người ta đem cá cho, sao anh lại không nhận?”
Công Nghi Hưu nói: Người ta đem cá cho chắc có ý cầu ta việc gì. Nếu ta nhận, tất ta phái giúp việc người. Giúp việc người, lỡ làm trái phép thì đến mất quan . Mà mất quan, thì chẳng nhưng không có cá biếu, mà đến cámua lấy cúng không có nữa. Cho nên ta không nhận cá, chính là ta muốn được có cá ăn láu dài mãi mãi đó. Ông Lão Tử xưa có câu rằng: Đễ? thân mình lại sau, thế mà thân mình đứng trước; gác thân mình ra ngoài, thế mà thân mình vẫn còn”. Thế chẳng phải là bởi mình không có lòng riêng mà được thoả lòng riêng của mình ư ?
Han Thi Ngoài Truyện
CHÚ THÍCH
Công Nghi Hưu làm tướng cho Mục Công
nước Lỗ đời Chiến Quốc. Ông là người tính khí điềm đ ạm, công
minh giữ phép, không cùng dân tranh lợi.
LỜI BÀN
Làm quan như Công Nghi Hưu thật là thanh liêm.Dù đến con cá (trong sách không nói rõ cá gì), là vật nhỏ mọn mà ông cũng còn cân nhắc không chịu nhận . Ông hiểu cái lẽ rằng: Người ta vị mình mà chiều mình, chỉ được có 1 thời, sao cho bằng chính
mình trọng lấy mình, mới là kế lâu dài mãi mãi.
Thiên hạ chưa lo đến mà mình đã lo trước cho thiên hạ; thiên hạ đã vui rồi, mà mình mới vui sau thiên hạ, thế là mình gác thân mình ra ngoài để thân mình lại sau, mà không có điều gì riêng tư vậy . Khi thân mình lại đuốc trước, lại vẫn còn, thì lòng riêng gì của
mình mà không thoả. Nếu làm quan mà chỉ chăm chăm hại người để cầu lợi riêng cho mình, thì người còn, bụng chết tự cho là sướng, mà kỳ thật có gì sung sướng đâu ?
Công Nghi Hưu làm tướng nước Lỗ, tính hay thích ăn cá. Một hôm có người đem cá biếu, ông lại không nhận. Em ông lấy làm lạ hỏi: “Anh sở thích ăn cá, người ta đem cá cho, sao anh lại không nhận?”
Công Nghi Hưu nói: Người ta đem cá cho chắc có ý cầu ta việc gì. Nếu ta nhận, tất ta phái giúp việc người. Giúp việc người, lỡ làm trái phép thì đến mất quan . Mà mất quan, thì chẳng nhưng không có cá biếu, mà đến cámua lấy cúng không có nữa. Cho nên ta không nhận cá, chính là ta muốn được có cá ăn láu dài mãi mãi đó. Ông Lão Tử xưa có câu rằng: Đễ? thân mình lại sau, thế mà thân mình đứng trước; gác thân mình ra ngoài, thế mà thân mình vẫn còn”. Thế chẳng phải là bởi mình không có lòng riêng mà được thoả lòng riêng của mình ư ?
Han Thi Ngoài Truyện
CHÚ THÍCH
Công Nghi Hưu làm tướng cho Mục Công
nước Lỗ đời Chiến Quốc. Ông là người tính khí điềm đ ạm, công
minh giữ phép, không cùng dân tranh lợi.
LỜI BÀN
Làm quan như Công Nghi Hưu thật là thanh liêm.Dù đến con cá (trong sách không nói rõ cá gì), là vật nhỏ mọn mà ông cũng còn cân nhắc không chịu nhận . Ông hiểu cái lẽ rằng: Người ta vị mình mà chiều mình, chỉ được có 1 thời, sao cho bằng chính
mình trọng lấy mình, mới là kế lâu dài mãi mãi.
Thiên hạ chưa lo đến mà mình đã lo trước cho thiên hạ; thiên hạ đã vui rồi, mà mình mới vui sau thiên hạ, thế là mình gác thân mình ra ngoài để thân mình lại sau, mà không có điều gì riêng tư vậy . Khi thân mình lại đuốc trước, lại vẫn còn, thì lòng riêng gì của
mình mà không thoả. Nếu làm quan mà chỉ chăm chăm hại người để cầu lợi riêng cho mình, thì người còn, bụng chết tự cho là sướng, mà kỳ thật có gì sung sướng đâu ?
TrucNhi
42. CỦA BÁU
Nước Tống có người được hòn ngọc, đem biếu quan Tư thành là Tử Hãn. Tử Hãn không nhận. Người biếu ngọc thưa rằng:
"Ngọc này tôi đã đem cho thợ ngọc xem, quả là mộtthứ ngọc rất báu, mới dám đem dâng quan lớn, xin quan lớn nhận cho tôi được vui lòng". .
Tử Hãn nói: "Người cho ngọc là của báu, ta cho tính không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận, thì hai bên cùng mất cả của báu. Âu là ngươi cứ đem về . Ai giữ lấy của báu của người ấy, như thế của báu của hai người đều còn cả, thì những là hơn ư!".
Người biếu ngọc, cúi đầu thưa: "Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân...".
Tử Hãn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc, bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.
Tả Truyện
CHÚ THÍCH - Tư thành: quan coi thành.
LỜI BÀN:
Đã là người, ai cũng có hiếu thượng, cái hiếu thượng ấy tức là của báu của mình. Nhưng hiếu thượng không ai giống ai . Người kiến thức thô bỉ, thi hiếu thượng thô bỉ, người kiến thức cao minh, thì hiếu thượng cao minh . Kẻ dâng ngọc, chi biết ngọc là báu, nhưng người không nhận ngọc, lại cho thanh liêm mới là báu. Làm quan mà ai cũng có tính nhất quyết không nhận lễ vật cua dân như Tử Hãn, lại có trí hiểu rõ được nguyện vọng của dân như Tử Hãn, có bụng che chở gây dựng cho dân như Tử Hãn nói trong truyện này, thì dân nào chẳng kính, chẳng trọng, chẳng yêu quan như cha mẹ, sợ quan như thần minh ! '
Nước Tống có người được hòn ngọc, đem biếu quan Tư thành là Tử Hãn. Tử Hãn không nhận. Người biếu ngọc thưa rằng:
"Ngọc này tôi đã đem cho thợ ngọc xem, quả là mộtthứ ngọc rất báu, mới dám đem dâng quan lớn, xin quan lớn nhận cho tôi được vui lòng". .
Tử Hãn nói: "Người cho ngọc là của báu, ta cho tính không tham là của báu. Ngươi đem ngọc cho ta, nếu ta nhận, thì hai bên cùng mất cả của báu. Âu là ngươi cứ đem về . Ai giữ lấy của báu của người ấy, như thế của báu của hai người đều còn cả, thì những là hơn ư!".
Người biếu ngọc, cúi đầu thưa: "Chúng tôi là thường dân mà lại có ngọc này, chỉ sợ bị trộm cướp mà có khi hại đến thân...".
Tử Hãn thấy thế, lưu người ấy lại, gọi thợ ngọc đến giũa ngọc, bán được tiền rồi, bèn đưa cho người ấy để làm giàu.
Tả Truyện
CHÚ THÍCH - Tư thành: quan coi thành.
LỜI BÀN:
Đã là người, ai cũng có hiếu thượng, cái hiếu thượng ấy tức là của báu của mình. Nhưng hiếu thượng không ai giống ai . Người kiến thức thô bỉ, thi hiếu thượng thô bỉ, người kiến thức cao minh, thì hiếu thượng cao minh . Kẻ dâng ngọc, chi biết ngọc là báu, nhưng người không nhận ngọc, lại cho thanh liêm mới là báu. Làm quan mà ai cũng có tính nhất quyết không nhận lễ vật cua dân như Tử Hãn, lại có trí hiểu rõ được nguyện vọng của dân như Tử Hãn, có bụng che chở gây dựng cho dân như Tử Hãn nói trong truyện này, thì dân nào chẳng kính, chẳng trọng, chẳng yêu quan như cha mẹ, sợ quan như thần minh ! '
DongTuu
43. BIẾT RÕ CHỮ "NGHĨA"
Hoa Hâm chạy loạn, cùng đi với một bọn sáu bảy người. Giữa đường gặp một người lại cũng chạy loạn, đến kêu nài, xin nhập bọn. Chúng lấy làm ái ngại, thuận cho Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Ðang bước nguy hiểm; sinh, tử, họa, phúc có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây giờ, vô cớ nhận một người lạ, lỡ khi xảy ra việc gì, thì có bỏ được người ta không?"
Chúng bất nhẫn, cố nói với Hoa Hâm cho người kia cùng đi. Hoa Hâm bằng lòng.
Người kia đi được một quãng đường, chẳng may sa chân ngã xuống giếng. Cả bọn muốn bỏ mặc, để đi cho rảnh thân. Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Người ta cùng đi với mình là người bọn mình. Người ta gặp sự chẳng may như vậy, mà mình bỏ người ta sao cho đành."
Nói rồi, bảo bấy nhiêu người cùng ở lại vớt người kia lên. Sau cứu mãi không được, Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu tất rồi mới đi.
GIảI NGHĩA:
Hoa Hâm: Người cuối đời nhà Ðông Hán, học giỏi, làm quan đến chức Thượng thư lệnh.
Nhập bọn: Vào với một bọn nhiều người.
Chúng: Nhiều, đây chỉ bọn người cùng đi với Hoa Hâm.
Nguy hiểm: Cheo leo, có thể hại đến sức khỏe hay tính mệnh được.
Vô cớ: Không có cơ gì.
[Bất nhẫn: Không nỡ, không đành để như thế.
LờI BàN:
Vô cớ cho một người lạ nhập bọn, nghĩa cũng không nên, một là e xẩy ra sự gì thì hại đến thân mình, hai là sợ không được thủy chung với người tạ - Ðã nhận người ta đi với mình một bọn, giữa đường người ta gặp sự chẳng may mà bỏ mặc người ta, nghĩa lại càng không nên lắm, vì như thế là bạc ác bất nhân, chỉ biết nhau trong lúc vô sự, đến khi nguy hiểm rồi lại bỏ nhau. Biết được cái đạo không nên nhận và cái đạo đã nhận như Hoa Hâm đây mới thực là người hiểu rõ chữ "Nghĩa" tức là hiểu việc nên làm thế nào mới là phải vậy.
Hoa Hâm chạy loạn, cùng đi với một bọn sáu bảy người. Giữa đường gặp một người lại cũng chạy loạn, đến kêu nài, xin nhập bọn. Chúng lấy làm ái ngại, thuận cho Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Ðang bước nguy hiểm; sinh, tử, họa, phúc có nhau, ta đi bấy nhiêu người cũng như một người vậy. Bây giờ, vô cớ nhận một người lạ, lỡ khi xảy ra việc gì, thì có bỏ được người ta không?"
Chúng bất nhẫn, cố nói với Hoa Hâm cho người kia cùng đi. Hoa Hâm bằng lòng.
Người kia đi được một quãng đường, chẳng may sa chân ngã xuống giếng. Cả bọn muốn bỏ mặc, để đi cho rảnh thân. Một mình Hoa Hâm nói: "Không nên. Người ta cùng đi với mình là người bọn mình. Người ta gặp sự chẳng may như vậy, mà mình bỏ người ta sao cho đành."
Nói rồi, bảo bấy nhiêu người cùng ở lại vớt người kia lên. Sau cứu mãi không được, Hoa Hâm lại bảo phải ở lại mai táng chu tất rồi mới đi.
GIảI NGHĩA:
Hoa Hâm: Người cuối đời nhà Ðông Hán, học giỏi, làm quan đến chức Thượng thư lệnh.
Nhập bọn: Vào với một bọn nhiều người.
Chúng: Nhiều, đây chỉ bọn người cùng đi với Hoa Hâm.
Nguy hiểm: Cheo leo, có thể hại đến sức khỏe hay tính mệnh được.
Vô cớ: Không có cơ gì.
[Bất nhẫn: Không nỡ, không đành để như thế.
LờI BàN:
Vô cớ cho một người lạ nhập bọn, nghĩa cũng không nên, một là e xẩy ra sự gì thì hại đến thân mình, hai là sợ không được thủy chung với người tạ - Ðã nhận người ta đi với mình một bọn, giữa đường người ta gặp sự chẳng may mà bỏ mặc người ta, nghĩa lại càng không nên lắm, vì như thế là bạc ác bất nhân, chỉ biết nhau trong lúc vô sự, đến khi nguy hiểm rồi lại bỏ nhau. Biết được cái đạo không nên nhận và cái đạo đã nhận như Hoa Hâm đây mới thực là người hiểu rõ chữ "Nghĩa" tức là hiểu việc nên làm thế nào mới là phải vậy.
Lam Dai Ngoc
44. TRI KỶ
Bảo Thúc chết, Quản Trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo.
Có người hỏi: "Ông với Bảo Thúc không phải là họ hàng thân thích gì, mà sao ông thương khóc quá như vậy?"
Quản Trọng nói: "Ngươi không rõ, để ta nói cho mà nghẹ Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẫn bách bất đắc dĩ phải lấy thế. - Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm ke? nạt dọa, Bảo Thúc không cho ta là hèn nhát, biết ta có lượng bao dong. - Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc may, lúc không may, cho nên công việc thành hay bại. - Ta ba lần ra làm quan, bao lần bị bãi, Bảo Thúc không cho ta là bất tiếu biết ta chưa gặp thời, chưa tìm được vua giỏi. - Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bảo Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. - Ta nhẫn nhục thờ vua Hoàn Công, Bảo Thúc không cho ta là vô sỉ, biết ta không giữ tiểu tiết, có chí làm ích lợi cho cả thiên hạ... Sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, mình đem cả tính mệnh ra hiến còn chưa cho là quá, huống chi thương khóc thế này đã thấm vào đâu!"
(Thuyết Uyển)
Giải Nghĩa:
Bảo Thúc : Tức Bảo Thúc Nha thường còn gọi là Bảo Tứ, người giỏi nước Tề, tiến Quản Trọng cho Hoàn Công dùng.
Quản Trọng : Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn Công giỏi có tiếng.
Thân thích: Người có họ nội hay họ ngoại với mình.
Quẫn bách : Túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền tiêu dụng.
Bất đắc dĩ: Không sao làm khác được như thế.
Bao dung : Rộng lượng, không chấp những điều người ta phạm lỗi với mình.
Bất tiếu : Người không ra gì.
Phụng dưỡng: Nuôi nấng tôn kính.
Nhẫn nhục : Nhịn được những sự khó chịu đến mình.
Vô sỉ: Không biết xấu hổ.
Tính mệnh : Mạng người.
Huống chi : Lại thêm một lẽ nữa.
LỜI BÀN
Khó thật! ở đời mình giao thiệp với nhiều người, bè bạn tưởng vô số, nhưng hồ dễ đã được mấy người thực gọi là tri kỷ. Thế nào là tri kỷ? Tri kỷ là người biết mình, nghĩa là đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, chơi với mình rất thân thiết, bao bọc che chở cho mình, lúc sống cùng hưởng, họa cùng đau, lúc chết, tưởng cho chết với nhau cũng không hối. Quí thật! người tri kỷ! cho nên cổ nhân có câu nói: "Ðắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận" nghĩa là ở đời có được một người tri kỷ cùng không còn ân hận gì nữa; lúc sống, có được một người biết mình, thì mình chết cũng không lấy làm uổng đời.
(Đa tạ Đông Tửu đã type)
Bảo Thúc chết, Quản Trọng thương tiếc, khóc như mưa, ướt đầm cả vạt áo.
Có người hỏi: "Ông với Bảo Thúc không phải là họ hàng thân thích gì, mà sao ông thương khóc quá như vậy?"
Quản Trọng nói: "Ngươi không rõ, để ta nói cho mà nghẹ Ta lúc nhỏ khốn khổ, thường buôn chung với Bảo Thúc, lúc chia lãi, bao giờ ta cũng lấy phần hơn, mà Bảo Thúc không cho ta là tham, biết ta gặp cảnh quẫn bách bất đắc dĩ phải lấy thế. - Ta ở chỗ chợ búa thường bị lắm ke? nạt dọa, Bảo Thúc không cho ta là hèn nhát, biết ta có lượng bao dong. - Ta bàn việc với Bảo Thúc, nhiều khi việc hỏng, Bảo Thúc không cho ta là ngu, biết có lúc may, lúc không may, cho nên công việc thành hay bại. - Ta ba lần ra làm quan, bao lần bị bãi, Bảo Thúc không cho ta là bất tiếu biết ta chưa gặp thời, chưa tìm được vua giỏi. - Ta ra trận ba lần, đánh thua cả ba, Bảo Thúc không cho ta là bất tài, biết ta còn có mẹ già phải phụng dưỡng. - Ta nhẫn nhục thờ vua Hoàn Công, Bảo Thúc không cho ta là vô sỉ, biết ta không giữ tiểu tiết, có chí làm ích lợi cho cả thiên hạ... Sinh ra ta là cha mẹ, biết ta là Bảo Thúc. Mà đối với người biết mình, mình đem cả tính mệnh ra hiến còn chưa cho là quá, huống chi thương khóc thế này đã thấm vào đâu!"
(Thuyết Uyển)
Giải Nghĩa:
Bảo Thúc : Tức Bảo Thúc Nha thường còn gọi là Bảo Tứ, người giỏi nước Tề, tiến Quản Trọng cho Hoàn Công dùng.
Quản Trọng : Tên là Di Ngô, người nước Tề, làm tướng giúp Hoàn Công giỏi có tiếng.
Thân thích: Người có họ nội hay họ ngoại với mình.
Quẫn bách : Túng bấn không biết xoay xở thế nào cho đủ tiền tiêu dụng.
Bất đắc dĩ: Không sao làm khác được như thế.
Bao dung : Rộng lượng, không chấp những điều người ta phạm lỗi với mình.
Bất tiếu : Người không ra gì.
Phụng dưỡng: Nuôi nấng tôn kính.
Nhẫn nhục : Nhịn được những sự khó chịu đến mình.
Vô sỉ: Không biết xấu hổ.
Tính mệnh : Mạng người.
Huống chi : Lại thêm một lẽ nữa.
LỜI BÀN
Khó thật! ở đời mình giao thiệp với nhiều người, bè bạn tưởng vô số, nhưng hồ dễ đã được mấy người thực gọi là tri kỷ. Thế nào là tri kỷ? Tri kỷ là người biết mình, nghĩa là đồng thanh, đồng khí, đồng chí, đồng tâm với mình, chơi với mình rất thân thiết, bao bọc che chở cho mình, lúc sống cùng hưởng, họa cùng đau, lúc chết, tưởng cho chết với nhau cũng không hối. Quí thật! người tri kỷ! cho nên cổ nhân có câu nói: "Ðắc nhất tri kỷ, khả dĩ bất hận" nghĩa là ở đời có được một người tri kỷ cùng không còn ân hận gì nữa; lúc sống, có được một người biết mình, thì mình chết cũng không lấy làm uổng đời.
(Đa tạ Đông Tửu đã type)
Lam Dai Ngoc
CẢM TÌNH
Có một người nước Yên lúc sinh, thì sinh ở nước Yên; lúc lớn lên, thì sang ở nước Sở; lúc già lại trở về cố quốc. Khi đi ngang qua nước Tấn (gần nước Yên), bạn cùng đi đường, chỉ vào cái thành mà nói dối anh ta: "Ðây là thành nước Yên". Anh ta buồn rầu, khác hẳn sắc mặt. - Chỉ vào nền xã, nói: "Ðây là nền xã làng anh". Anh ta ngậm ngùi than thở. - Chỉ vào cái nhà, nói: "Ðâu là nhà của ông cha anh". Anh ta rũ rượi rơm rớm nước mắt. - Chỉ vào cái gò, nói: "Ðây là mồ mả ông cha anh". Anh ta òa lên khóc.
Bọn cùng đi, ai nấy phì cười, nói: "Chúng tôi nói đùa đấy. Ðây mới là nước Tấn, chưa phải là nước Yên". Anh ta nghe nói lấy làm bẽn lẽn.
Kịp khi về đến nước Yên, anh ta trông thấy thật là thành, là xã nước Yên, thật là nhà cử mồ mả của ông cha, thì lòng cảm thương lại hờ hững không còn được như trước nữa.
(Liệt Tử)
GIẢI NGHĨA
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên, Trực Lệ và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
Sở : Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Cố quốc: Nước nhà khi mình ở nước ngoài thì gọi là bản quốc và cố quốc.
Thành: Nơi đắp cao, quân đóng ở trong để giữ cho một tỉnh hay một xứ được bình yên.
Xã: Nền đất đắp lên để tế hậu thổ.
LỜI BÀN
Thường khi người ta, ai cũng sẵn mối cảm tình, khi gặp thời cảnh xúc động đến thì mối cảm tình ấy tất chứa chan, đầy dẫy hiện ra ngoài. Tuy vậy, mối cảm tình đã dùng lầm, thì sau nầy không còn được như trước. Một người đã đem bụng trung thành thờ kẻ vô đạo, một người đã để lòng ân ái thương gái bất trinh, dù về sau, gặp được bậc anh quân hay người thục nữ, thì mối cảm tình cũng không còn được đằm thắm như xưa. Chẳng khác nào như người nước Yên nầy, đã đem hết nước mắt khóc chỗ giả dối mà không biết, đến khi gặp sự thực, thì lại hình như cạn hết nước mắt rồi. Cho nên đối với tính tình, người ta có biết, lấy học thuật mà di dưỡng, lấy lễ nghĩa mà tiết chế, thì tính tình dùng mới chính đáng và thuần túy được. Xưa nay thánh hiền hào kiệt đều là người biết lý hội tính tình cả.
(đa tạ Đong Tuu đã type)
Có một người nước Yên lúc sinh, thì sinh ở nước Yên; lúc lớn lên, thì sang ở nước Sở; lúc già lại trở về cố quốc. Khi đi ngang qua nước Tấn (gần nước Yên), bạn cùng đi đường, chỉ vào cái thành mà nói dối anh ta: "Ðây là thành nước Yên". Anh ta buồn rầu, khác hẳn sắc mặt. - Chỉ vào nền xã, nói: "Ðây là nền xã làng anh". Anh ta ngậm ngùi than thở. - Chỉ vào cái nhà, nói: "Ðâu là nhà của ông cha anh". Anh ta rũ rượi rơm rớm nước mắt. - Chỉ vào cái gò, nói: "Ðây là mồ mả ông cha anh". Anh ta òa lên khóc.
Bọn cùng đi, ai nấy phì cười, nói: "Chúng tôi nói đùa đấy. Ðây mới là nước Tấn, chưa phải là nước Yên". Anh ta nghe nói lấy làm bẽn lẽn.
Kịp khi về đến nước Yên, anh ta trông thấy thật là thành, là xã nước Yên, thật là nhà cử mồ mả của ông cha, thì lòng cảm thương lại hờ hững không còn được như trước nữa.
(Liệt Tử)
GIẢI NGHĨA
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên, Trực Lệ và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
Sở : Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Cố quốc: Nước nhà khi mình ở nước ngoài thì gọi là bản quốc và cố quốc.
Thành: Nơi đắp cao, quân đóng ở trong để giữ cho một tỉnh hay một xứ được bình yên.
Xã: Nền đất đắp lên để tế hậu thổ.
LỜI BÀN
Thường khi người ta, ai cũng sẵn mối cảm tình, khi gặp thời cảnh xúc động đến thì mối cảm tình ấy tất chứa chan, đầy dẫy hiện ra ngoài. Tuy vậy, mối cảm tình đã dùng lầm, thì sau nầy không còn được như trước. Một người đã đem bụng trung thành thờ kẻ vô đạo, một người đã để lòng ân ái thương gái bất trinh, dù về sau, gặp được bậc anh quân hay người thục nữ, thì mối cảm tình cũng không còn được đằm thắm như xưa. Chẳng khác nào như người nước Yên nầy, đã đem hết nước mắt khóc chỗ giả dối mà không biết, đến khi gặp sự thực, thì lại hình như cạn hết nước mắt rồi. Cho nên đối với tính tình, người ta có biết, lấy học thuật mà di dưỡng, lấy lễ nghĩa mà tiết chế, thì tính tình dùng mới chính đáng và thuần túy được. Xưa nay thánh hiền hào kiệt đều là người biết lý hội tính tình cả.
(đa tạ Đong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
46. VÌ NGHĨA CÔNG, QUÊN THÙ RIÊNG
Ðời nhà Ðường, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng làm phó tướng của An Tử Thuận. Tính hai người vốn không ưa nhau; nhiều khi, tuy cùng đi với nhau một xe, ngồi với nhau một tiệc, mà vẫn như cừu địch, không ai đàm đạo với ai cả.
Sau Tử Nghi được lên làm tướng thay Tử Thuận, Quang Bật sợ Tử Nghi hại mình, quả cảm đến nói rằng: "Phần tôi chết cũng cam tâm, nhưng xin rộng lượng đừng hại đến vợ con tôi là kẻ vô tội."
Tử Nghi thấy nói chạy ngay lại, cầm tay Quang Bật thưa rằng: "Tôi đâu dám đem lòng oán hận riêng mà nỡ hại ông. Hiện nay trong nước loạn lạc, vua tôi lo và nhục, không ông thì không ai gánh vác nổi việc thiên hạ."
Nói xong nước mắt ràn rụa, rồi lại lấy những điều trung nghĩa khuyên răn, và lập tức cất Quang Bật lên làm chức Tiết độ sứ.
Từ đó hai người tuyệt nhiên không chút nào ghen ghét, ngờ vực nhau, chỉ cùng nhau một lòng đánh giặc, yêu dân, giúp vua trị nước.
GIẢI NGHĨA
Ðường: Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau Th. Ch..
Cừu địch: Người thù hằn đối đầu với mình.
Ðàm đạo: Ðàm: bàn; đạo: nói.
Quả cảm: Bạo dạn không còn do dự e sợ gì.
Cam tâm: Cam: ngọt; tâm: lòng, vui lòng mà chịu việc gì thiệt hại khổ sở đến mình.
Việc thiên hạ: Ðây là việc cả nước.
Tiết độ sứ: Tên quan đời nhà Ðường được quyền tự chủ coi một địa phương về việc chính trị, lý tài.
Tuyệt nhiên: Thôi hẳn không còn một tí nào nữa.
LỜI BÀN
Thù riêng cá nhân là việc nhỏ mọn, nghĩa công đối với cả nước là việc rất trọng. Biết quên thù riêng để làm nghĩa công như Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, thực là đáng khen vậy. Nghĩ đến thân, đến nhà trước, đến quốc gia su cũng là nghĩa, song nghĩa hẹp mà gọi là tự Nghĩ đến quốc gia trước, đến thân, đến nhà sau cùng là nghĩa song nghĩa rộng mà gọi là công. Quốc gia hay, hay dở, một kẻ bình dân cũng có trách nhiệm, huống chi là người gánh vác được việc quốc gia như Tử Nghi và Quang Bật. Ôi! nước là cái thành để giữ thân, giữ nhà không biết trọng nước tức là khinh thân, khinh nhà vậy. Tiếc thay cho những kẻ chức trọng, quyền cao, đối với thân, với nhà, thì việc nhỏ mọn cũng lấy làm lo lắng quan tâm, mà đối quốc gia thì việc dù to lớn đến đâu cũng xem thường, xem khinh, chỉ thù hằn nhau, khuynh loát nhau, không biết đồng tâm hiệp lực lo liệu việc dân việc nước, thật là lầm to vậy.
Ðời nhà Ðường, Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật cùng làm phó tướng của An Tử Thuận. Tính hai người vốn không ưa nhau; nhiều khi, tuy cùng đi với nhau một xe, ngồi với nhau một tiệc, mà vẫn như cừu địch, không ai đàm đạo với ai cả.
Sau Tử Nghi được lên làm tướng thay Tử Thuận, Quang Bật sợ Tử Nghi hại mình, quả cảm đến nói rằng: "Phần tôi chết cũng cam tâm, nhưng xin rộng lượng đừng hại đến vợ con tôi là kẻ vô tội."
Tử Nghi thấy nói chạy ngay lại, cầm tay Quang Bật thưa rằng: "Tôi đâu dám đem lòng oán hận riêng mà nỡ hại ông. Hiện nay trong nước loạn lạc, vua tôi lo và nhục, không ông thì không ai gánh vác nổi việc thiên hạ."
Nói xong nước mắt ràn rụa, rồi lại lấy những điều trung nghĩa khuyên răn, và lập tức cất Quang Bật lên làm chức Tiết độ sứ.
Từ đó hai người tuyệt nhiên không chút nào ghen ghét, ngờ vực nhau, chỉ cùng nhau một lòng đánh giặc, yêu dân, giúp vua trị nước.
GIẢI NGHĨA
Ðường: Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau Th. Ch..
Cừu địch: Người thù hằn đối đầu với mình.
Ðàm đạo: Ðàm: bàn; đạo: nói.
Quả cảm: Bạo dạn không còn do dự e sợ gì.
Cam tâm: Cam: ngọt; tâm: lòng, vui lòng mà chịu việc gì thiệt hại khổ sở đến mình.
Việc thiên hạ: Ðây là việc cả nước.
Tiết độ sứ: Tên quan đời nhà Ðường được quyền tự chủ coi một địa phương về việc chính trị, lý tài.
Tuyệt nhiên: Thôi hẳn không còn một tí nào nữa.
LỜI BÀN
Thù riêng cá nhân là việc nhỏ mọn, nghĩa công đối với cả nước là việc rất trọng. Biết quên thù riêng để làm nghĩa công như Quách Tử Nghi, Lý Quang Bật, thực là đáng khen vậy. Nghĩ đến thân, đến nhà trước, đến quốc gia su cũng là nghĩa, song nghĩa hẹp mà gọi là tự Nghĩ đến quốc gia trước, đến thân, đến nhà sau cùng là nghĩa song nghĩa rộng mà gọi là công. Quốc gia hay, hay dở, một kẻ bình dân cũng có trách nhiệm, huống chi là người gánh vác được việc quốc gia như Tử Nghi và Quang Bật. Ôi! nước là cái thành để giữ thân, giữ nhà không biết trọng nước tức là khinh thân, khinh nhà vậy. Tiếc thay cho những kẻ chức trọng, quyền cao, đối với thân, với nhà, thì việc nhỏ mọn cũng lấy làm lo lắng quan tâm, mà đối quốc gia thì việc dù to lớn đến đâu cũng xem thường, xem khinh, chỉ thù hằn nhau, khuynh loát nhau, không biết đồng tâm hiệp lực lo liệu việc dân việc nước, thật là lầm to vậy.
Lam Dai Ngoc
47. DUNG NGƯỜI ĐƯỢC BÁO
Vua Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu. Trời đã tối, đang lúc rượu say, đèn nến bỗng gió tắt cả. Trong lúc ấy, có một viên quan thừa cơ kéo áo cung nữ. Người cung nữ nắm lấy, giật đứt giải mũ, rồi tâu với vua rằng: "Có kẻ kéo áo ghẹo thiếp. Thiếp giật được giải mũ. Xin cho thắp đèn ngay để khám xem ai đứt giải mũ, thì chính là kẻ ghẹo thiếp..."
Vua gạt đi nói: "Thôi! không làm gì! cho người ta uống rượu, để người ta say, quên cả lễ phép, lại nỡ nào vì câu chuyện đàn bà mà làm sỉ nhục người ta!"
Rồi lập tức ra lệnh rằng: "Ai uống rượu với quả nhân hôm nay mà không say đến bứt đứt giải mũ là chưa được vui".
Các quan theo lệnh, đều dứt giải mũ cả. Nên suốt tiệc hôm ấy, được vui vầy ổn thỏa.
Hai năm sau nước Sở đánh nhau với nước Tấn. Ðánh luôn năm trận, mà trận nào cũng thấy một viên quan võ, liều sống, liều chết xông ra trước và đánh rất hăng, làm cho quân Tấn phải lùi. Vì thế mà quân Sở được. Trang Vương lấy làm lạ cho đòi viên quan ấy lại hỏi: "Quả nhân đãi nhà người cũng như mọi người khác, cớ sao nhà ngươi lại hết lòng giúp quả nhân khác người như vậy?"
Viên quan thưa rằng: "Thần rắp tâm muốn đem tính mệnh để hiến nhà vua đã lâu. Mãi đến bây giờ mới gặp dịp báo đền nghĩa xưa, thực là may cho thần lắm... Thần là Tưởng Hùng, chính là người trước bị đứt giải mũ mà nhà vua không nỡ làm tội đấy".
Ðào Ngột (Sở Sử))
GIẢI NGHĨA
Dung người được báo : Rộng lượng tha lỗi cho người, được người tìm cách báo đền.
Thừa cơ : Nhân dịp tốt.
Cung nữ : Con gái đẹp hầu vua ở trong cung.
Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ý khiêm tốn là người ít đức.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Hiến : Dưng, biếu.
LỜI BÀN
Ông vua không làm tội người công thần ghẹo cung nữ thực là có độ lượng, bao dong được lỗi của người. Người ghẹo cung nữ không quên cái ơn đã chịu, tìm cách để báo đáp, thực là có nghĩa, tỏ được cái bụng trung thành với người gia ơn. Có vua ấy tất có tôi ấy, vua tôi như thế thì nước đời nào mất được.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Vua Trang Vương nước Sở cho các quan uống rượu. Trời đã tối, đang lúc rượu say, đèn nến bỗng gió tắt cả. Trong lúc ấy, có một viên quan thừa cơ kéo áo cung nữ. Người cung nữ nắm lấy, giật đứt giải mũ, rồi tâu với vua rằng: "Có kẻ kéo áo ghẹo thiếp. Thiếp giật được giải mũ. Xin cho thắp đèn ngay để khám xem ai đứt giải mũ, thì chính là kẻ ghẹo thiếp..."
Vua gạt đi nói: "Thôi! không làm gì! cho người ta uống rượu, để người ta say, quên cả lễ phép, lại nỡ nào vì câu chuyện đàn bà mà làm sỉ nhục người ta!"
Rồi lập tức ra lệnh rằng: "Ai uống rượu với quả nhân hôm nay mà không say đến bứt đứt giải mũ là chưa được vui".
Các quan theo lệnh, đều dứt giải mũ cả. Nên suốt tiệc hôm ấy, được vui vầy ổn thỏa.
Hai năm sau nước Sở đánh nhau với nước Tấn. Ðánh luôn năm trận, mà trận nào cũng thấy một viên quan võ, liều sống, liều chết xông ra trước và đánh rất hăng, làm cho quân Tấn phải lùi. Vì thế mà quân Sở được. Trang Vương lấy làm lạ cho đòi viên quan ấy lại hỏi: "Quả nhân đãi nhà người cũng như mọi người khác, cớ sao nhà ngươi lại hết lòng giúp quả nhân khác người như vậy?"
Viên quan thưa rằng: "Thần rắp tâm muốn đem tính mệnh để hiến nhà vua đã lâu. Mãi đến bây giờ mới gặp dịp báo đền nghĩa xưa, thực là may cho thần lắm... Thần là Tưởng Hùng, chính là người trước bị đứt giải mũ mà nhà vua không nỡ làm tội đấy".
Ðào Ngột (Sở Sử))
GIẢI NGHĨA
Dung người được báo : Rộng lượng tha lỗi cho người, được người tìm cách báo đền.
Thừa cơ : Nhân dịp tốt.
Cung nữ : Con gái đẹp hầu vua ở trong cung.
Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ý khiêm tốn là người ít đức.
Tấn: Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Hiến : Dưng, biếu.
LỜI BÀN
Ông vua không làm tội người công thần ghẹo cung nữ thực là có độ lượng, bao dong được lỗi của người. Người ghẹo cung nữ không quên cái ơn đã chịu, tìm cách để báo đáp, thực là có nghĩa, tỏ được cái bụng trung thành với người gia ơn. Có vua ấy tất có tôi ấy, vua tôi như thế thì nước đời nào mất được.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
48.NÓI THÍ DỤ
Có người bảo vua nước Lương rằng: "Huệ Tử nói việc gì cũng hay thí dụ. Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử chắc không nói gì được nữa".
Vua bảo: "ừ để rồi ta xem".
Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng: "Xin tiên sinh nói gì cứ nói thẳng đừng thí dụ nữa".
Huệ Tử nói: "Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, mới hỏi tình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: Hình trạng c'i nỏ giống như cái nỏ, thì người ấy có hiểu được không?"
Vua nói: "Hiểu làm gì được".
"Thế nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lẫy, thì người ấy có biết được không?"
Vua nói: "Biết được".
Huệ Tử nói: "Ôi! khi nói với ai là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa thì tôi không sao nói được." Huệ Tử
GIẢI NGHĨA
Lương: Một nước chư hầu mạnh đời Chiến Quốc, tức là nước Ngụy ở vào địa phận Hà Nam và Sơn Tây bây giờ.
Tiên sinh : Bực có tuổi, có tài, đạo đức, đáng dạy được mình. Hay dùng chỉ thầy dạy học hay người đáng quý.
Huệ Tử: Tên một thiên sách của Huệ Thi người thời Chiến Quốc, bạn với Trang Tử.
LỜI BÀN
Cái cung, cái nỏ khác nhau nhiều, nhưng lấy cái cung nói với người đã biết cung để khiến cho biết được cái nỏ, thì may người ấy ý hội cũng được ít nhiều. Phàm dạy bảo người ta điều gì, là cốt ý làm cho người ta hiểu được điều ấy, mà muốn cho người ta dễ hiểu, không gì bằng thí dụ, nghĩa là nhân cái người ta đã biết mà dd*a dạy vào cái người ta chưa biết. Cái phương pháp giáo dục tối tân bây giờ "qui nạp" hay "phu diễn" cũng lấy thí dụ làm cốt. Người ta đã nói: "Một quyển sách không có thí dụ chỉ là một bộ xương mà thôi". Câu Huệ Tử nói: "Ðem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết để khiến người ta biết", thực là ám hợp với cái lối học tối tân đời nầy.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Có người bảo vua nước Lương rằng: "Huệ Tử nói việc gì cũng hay thí dụ. Nếu nhà vua không cho thí dụ, thì Huệ Tử chắc không nói gì được nữa".
Vua bảo: "ừ để rồi ta xem".
Hôm sau, vua đến thăm Huệ Tử, bảo rằng: "Xin tiên sinh nói gì cứ nói thẳng đừng thí dụ nữa".
Huệ Tử nói: "Nay có một người ở đây không biết nỏ là cái gì, mới hỏi tình trạng cái nỏ thế nào. Nếu tôi đáp rằng: Hình trạng c'i nỏ giống như cái nỏ, thì người ấy có hiểu được không?"
Vua nói: "Hiểu làm gì được".
"Thế nếu tôi bảo người ấy: Hình trạng cái nỏ giống như cái cung có cán, có lẫy, thì người ấy có biết được không?"
Vua nói: "Biết được".
Huệ Tử nói: "Ôi! khi nói với ai là đem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết, để khiến người ta biết. Nay nhà vua bảo tôi đừng thí dụ nữa thì tôi không sao nói được." Huệ Tử
GIẢI NGHĨA
Lương: Một nước chư hầu mạnh đời Chiến Quốc, tức là nước Ngụy ở vào địa phận Hà Nam và Sơn Tây bây giờ.
Tiên sinh : Bực có tuổi, có tài, đạo đức, đáng dạy được mình. Hay dùng chỉ thầy dạy học hay người đáng quý.
Huệ Tử: Tên một thiên sách của Huệ Thi người thời Chiến Quốc, bạn với Trang Tử.
LỜI BÀN
Cái cung, cái nỏ khác nhau nhiều, nhưng lấy cái cung nói với người đã biết cung để khiến cho biết được cái nỏ, thì may người ấy ý hội cũng được ít nhiều. Phàm dạy bảo người ta điều gì, là cốt ý làm cho người ta hiểu được điều ấy, mà muốn cho người ta dễ hiểu, không gì bằng thí dụ, nghĩa là nhân cái người ta đã biết mà dd*a dạy vào cái người ta chưa biết. Cái phương pháp giáo dục tối tân bây giờ "qui nạp" hay "phu diễn" cũng lấy thí dụ làm cốt. Người ta đã nói: "Một quyển sách không có thí dụ chỉ là một bộ xương mà thôi". Câu Huệ Tử nói: "Ðem cái người ta đã biết làm thí dụ với cái người ta chưa biết để khiến người ta biết", thực là ám hợp với cái lối học tối tân đời nầy.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
CON CÚ MÈO VÀ CON CHIM GÁY
Con cú mèo gặp con chim gáy.
Chim gáy hỏi: "Bác sắp đi đâu đấy?"
Cú mèo nói: "Tôi sắp sang ở bên phương đông".
"Tại làm sao lại đi thế"?
"ở đây người ta nghe tôi kêu người ta ghét, cho nên tôi phải đi chỗ khác".
Chim gáy nói: "Bác có thế nào đổi tiếng kêu đi mới được. Chớ không đổi tiếng kêu, thì sang phương đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là hơn".
GIẢI NGHĨA
Cú mèo: Loài chim dữ mắt như mắt mèo, đêm đi bắt các chim nhỏ và chuột để ăn.
Chim gáy: Chính chữ là cưu, loài chim gáy, đầu nhỏ đuôi ngắn mà cánh dài.
Nhân tình: Cái tình yêu ghét chung của loài người.
LỜI BÀN:
Cú kêu ra ma, cú ở phương tây, kêu người ta ghét, lấy gạch, ngói, mảnh sành ném. Cú tưởng sang ở phương đông, thì người ta ưa được, nhưng nếu tiếng kêu vẫn cứ như cũ, thì người phương đông tất cũng ghét chẳng khác gì người phương tây. Nếu cứ muốn người yêu, thì một là phải đổi tiếng kêu, hai là thôi hẳn không kêu nữa, chớ không phải đổi chỗ ở mà được. Bài nầy cốt ý nói người ác, thì đi đến đâu ai cũng cũng ghét, không đâu người ta dung. Muốn người ta yêu, thì phải cải ác, vi thiện, làm cho người ta đáng yêu mới được.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Con cú mèo gặp con chim gáy.
Chim gáy hỏi: "Bác sắp đi đâu đấy?"
Cú mèo nói: "Tôi sắp sang ở bên phương đông".
"Tại làm sao lại đi thế"?
"ở đây người ta nghe tôi kêu người ta ghét, cho nên tôi phải đi chỗ khác".
Chim gáy nói: "Bác có thế nào đổi tiếng kêu đi mới được. Chớ không đổi tiếng kêu, thì sang phương đông, người ta nghe tiếng, cũng lại ghét bác thôi, vì nhân tình đâu mà chả thế. Cứ như ý tôi, thì không gì bằng bác phải rụt cổ, thu cánh suốt đời không kêu nữa là hơn".
GIẢI NGHĨA
Cú mèo: Loài chim dữ mắt như mắt mèo, đêm đi bắt các chim nhỏ và chuột để ăn.
Chim gáy: Chính chữ là cưu, loài chim gáy, đầu nhỏ đuôi ngắn mà cánh dài.
Nhân tình: Cái tình yêu ghét chung của loài người.
LỜI BÀN:
Cú kêu ra ma, cú ở phương tây, kêu người ta ghét, lấy gạch, ngói, mảnh sành ném. Cú tưởng sang ở phương đông, thì người ta ưa được, nhưng nếu tiếng kêu vẫn cứ như cũ, thì người phương đông tất cũng ghét chẳng khác gì người phương tây. Nếu cứ muốn người yêu, thì một là phải đổi tiếng kêu, hai là thôi hẳn không kêu nữa, chớ không phải đổi chỗ ở mà được. Bài nầy cốt ý nói người ác, thì đi đến đâu ai cũng cũng ghét, không đâu người ta dung. Muốn người ta yêu, thì phải cải ác, vi thiện, làm cho người ta đáng yêu mới được.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
50. CON CÒ VÀ CON TRAI
Nước Triệu toan đánh nước Yên, Tô Tần, vì nước Yên, sang nói với vua nước Triệu là Huệ Vương rằng: "Vừa rồi tôi đi qua bên bờ sông Dịch Thủy, tôi trông thấy con trai đang há miệng phơi mình trên bãi, có con cò đâu đến, mổ ngay vào thịt trai. Trai liềm ngậm miệng, cắp chặt lấy mỏ cò. Cò nói: "Hôm nay không mưa, ngày mai không mưa, thế nào trai cũng phải chết." Trai nói: "Hôm nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được mỏ, thế nào cò cũng phải chết". Hai bên găng nhau, chẳng ai chịu ai. Bỗng đâu có người đánh cá đi qua, trông thấy chộp được cả trai lẫn cò... Nay mà nước Triệu đem quân sang đánh nước Yên, nước Yên tất phải chống lại. Hai bên đánh nhau lâu, hại người tốn của, chắc là suy yếu cả. Tôi e nước Tần thừa cơ ấy, đem quân chụp cả hai nước như người đánh cá chụp cả trai lẫn cò, thì lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Dám xin nhà vua thử nghĩ kỹ lại xem".
Huệ Vương cho là nói phải, bèn đình việc đánh Yên.
(Chiến Quốc Sách)
GIẢI NGHĨA
Triệu: Một nước thời Chiến Quốc ở vào tỉnh Trực Lệ và Sơn Tây bây giờ.
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên, Trực Lệ và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
Dịch Thủy: Tên một con sông qua Trực Lệ.
Tần: Nước mạnh đời Chiến Quốc ở vào địa phận Thiểm Tây bây giờ.
Thừa cơ : Nhân dịp tốt.
Hối : Ân hận, ăn năn, khi mình đã nghĩ hay làm một việc gì không phải.
Ðình: Thôi không làm việc gì nữa.
Chiến Quốc Sách: Bộ sách còn gọi là Trường đoản thư của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
LỜI BÀN
Trai, cò vì găng nhau mà hai con cùng bị hại trong tay người đánh cá. Cái bài "Bạng duật tương tri, ngư ông đắc lợi" nầy cũng như nhiều bài trong các sách tây: Còn cò và hai người tranh nhau", "Con khỉ chia phó mát cho hai con mèo..." đều có ý khuyên người ta không nên tranh giành chọi lẫn nhau. Hai nước tranh nhau, thì hao người, tốn của tai hại đã đành. Hai người tranh nhau thì tất sinh ra kiện cáo. Mà "vô phúc đáo tụng đình", thua được chưa biết thế nào, hãy biết có bao nhiêu thầy kiện, thầy cò những phường tham nhũng ở giữa thời cơ dòm dỏ để cầu lợi, rất thiệt hại cho cả hai bên. Vậy ta chẳng nên găng nhau, chống nhau làm gì. Nhỏ thì tốn tiền. Lớn thì hại nhà, lớn nữa thì hại nước. Ta phải lấy câu "Dĩ hòa` vi quý" mà cư xử nhún nhường nhau là hơn.
(ĐA TẠ DONG TUU đã type)
Nước Triệu toan đánh nước Yên, Tô Tần, vì nước Yên, sang nói với vua nước Triệu là Huệ Vương rằng: "Vừa rồi tôi đi qua bên bờ sông Dịch Thủy, tôi trông thấy con trai đang há miệng phơi mình trên bãi, có con cò đâu đến, mổ ngay vào thịt trai. Trai liềm ngậm miệng, cắp chặt lấy mỏ cò. Cò nói: "Hôm nay không mưa, ngày mai không mưa, thế nào trai cũng phải chết." Trai nói: "Hôm nay không rút được mỏ, ngày mai không rút được mỏ, thế nào cò cũng phải chết". Hai bên găng nhau, chẳng ai chịu ai. Bỗng đâu có người đánh cá đi qua, trông thấy chộp được cả trai lẫn cò... Nay mà nước Triệu đem quân sang đánh nước Yên, nước Yên tất phải chống lại. Hai bên đánh nhau lâu, hại người tốn của, chắc là suy yếu cả. Tôi e nước Tần thừa cơ ấy, đem quân chụp cả hai nước như người đánh cá chụp cả trai lẫn cò, thì lúc bấy giờ hối cũng không kịp. Dám xin nhà vua thử nghĩ kỹ lại xem".
Huệ Vương cho là nói phải, bèn đình việc đánh Yên.
(Chiến Quốc Sách)
GIẢI NGHĨA
Triệu: Một nước thời Chiến Quốc ở vào tỉnh Trực Lệ và Sơn Tây bây giờ.
Yên: Một nước mạnh trong bảy nước thời Chiến Quốc, tức là Phụng Thiên, Trực Lệ và một phần phía bắc nước Triều Tiên (Cao Ly bây giờ).
Dịch Thủy: Tên một con sông qua Trực Lệ.
Tần: Nước mạnh đời Chiến Quốc ở vào địa phận Thiểm Tây bây giờ.
Thừa cơ : Nhân dịp tốt.
Hối : Ân hận, ăn năn, khi mình đã nghĩ hay làm một việc gì không phải.
Ðình: Thôi không làm việc gì nữa.
Chiến Quốc Sách: Bộ sách còn gọi là Trường đoản thư của Lưu Hướng đời Hán làm ghi chép những việc về đời Chiến Quốc.
LỜI BÀN
Trai, cò vì găng nhau mà hai con cùng bị hại trong tay người đánh cá. Cái bài "Bạng duật tương tri, ngư ông đắc lợi" nầy cũng như nhiều bài trong các sách tây: Còn cò và hai người tranh nhau", "Con khỉ chia phó mát cho hai con mèo..." đều có ý khuyên người ta không nên tranh giành chọi lẫn nhau. Hai nước tranh nhau, thì hao người, tốn của tai hại đã đành. Hai người tranh nhau thì tất sinh ra kiện cáo. Mà "vô phúc đáo tụng đình", thua được chưa biết thế nào, hãy biết có bao nhiêu thầy kiện, thầy cò những phường tham nhũng ở giữa thời cơ dòm dỏ để cầu lợi, rất thiệt hại cho cả hai bên. Vậy ta chẳng nên găng nhau, chống nhau làm gì. Nhỏ thì tốn tiền. Lớn thì hại nhà, lớn nữa thì hại nước. Ta phải lấy câu "Dĩ hòa` vi quý" mà cư xử nhún nhường nhau là hơn.
(ĐA TẠ DONG TUU đã type)
Lam Dai Ngoc
51. HỒ MƯỢN OAI HỔ
Vua Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi vua Tuyên Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe thấy nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kinh sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm, hỏi quần thần là vì cớ làm sao. Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng: "Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con hồ, hồ bảo: "Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta, là người trái mệnh trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin, thử để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà không sợ hãi, tìm đường trốn cho mau không!" Hổ cho hồ là nói thật, bèn theo hồ đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết rằng bách thú đều sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ hồ. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Chiêu Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua cũng như bách thú sợ hổ vậy".
(Chiến Quốc Sách)
Giải Nghĩa:
Hồ : Loài vật rừng bụng thon, tai dài, mõm nhọn, đuôi xù hay bắt gà vị ăn có tiếng là con vật tai quái, giảo hoạt. Xưa nay nhiều người dịch hồ là cáo.
Sở : Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Người phương bắc : Chỉ những người ở phía bắc nước Sở lúc bấy giờ.
Quần thần : Các quan.
Bách thú : Bách: một trăm, chỉ tất cả các vật.
Mệnh trời : Ðây là mệnh trời sai xuống làm một việc gì.
Quyền thế : Quyền hành, thanh thế, cài đáp người tạ
Lời Bàn :
Bài nầy cũng như bài ngụ ngôn "Lừa đội lốt sư tử" cốt ý nói những kẻ thần hạ mượn quyền thế người trên để hống hách dọa nạt người tạ Nhưng nếu người ta không biết, thì người ta còn sợ, chứ khi "hổ mà thèm cỏ, lừa mà thò tai" thì chẳng những người ta đem lòng khinh bỉ, mà người ta còn làm cho đê nhục để cho bõ ghét.
Vua Tuyên Vương làm vua cả nước Sở. Chiêu Hề Tuất chỉ là một người bầy tôi vua Tuyên Vương. Thế mà người phương bắc ai nghe thấy nói Chiêu Hề Tuất cũng phải kinh sợ. Vua lấy làm lạ, một hôm, hỏi quần thần là vì cớ làm sao. Không ai trả lời nổi. Chỉ có Giang Nhất thưa được rằng: "Con hổ hay bắt các giống thú để ăn thịt. Một hôm bắt được con hồ, hồ bảo: "Liệu đó! Chớ có động chạm đến ta mà chết ngay bây giờ. Ta là Trời sai xuống, cầm quyền coi hết cả bách thú. Ngươi mà ăn thịt ta, là người trái mệnh trời, hại đến thân ngay lập tức. Không tin, thử để ta đi trước, ngươi theo hầu sau, xem có con thú nào trông thấy ta mà không sợ hãi, tìm đường trốn cho mau không!" Hổ cho hồ là nói thật, bèn theo hồ đi. Quả nhiên bách thú trông thấy đều sợ mà chạy cả. Hổ vẫn không biết rằng bách thú đều sợ mình mà chạy, cứ tưởng là sợ hồ. Nay nhà vua nước mạnh, quân nhiều mà vua giao cả quyền thế cho Chiêu Hề Tuất, người phương bắc sợ Chiêu Hề Tuất, nhưng kỳ thực là sợ vua cũng như bách thú sợ hổ vậy".
(Chiến Quốc Sách)
Giải Nghĩa:
Hồ : Loài vật rừng bụng thon, tai dài, mõm nhọn, đuôi xù hay bắt gà vị ăn có tiếng là con vật tai quái, giảo hoạt. Xưa nay nhiều người dịch hồ là cáo.
Sở : Một nước lớn thời Xuân Thu ở vào vùng Hồ Bắc, Hồ Nam bây giờ.
Người phương bắc : Chỉ những người ở phía bắc nước Sở lúc bấy giờ.
Quần thần : Các quan.
Bách thú : Bách: một trăm, chỉ tất cả các vật.
Mệnh trời : Ðây là mệnh trời sai xuống làm một việc gì.
Quyền thế : Quyền hành, thanh thế, cài đáp người tạ
Lời Bàn :
Bài nầy cũng như bài ngụ ngôn "Lừa đội lốt sư tử" cốt ý nói những kẻ thần hạ mượn quyền thế người trên để hống hách dọa nạt người tạ Nhưng nếu người ta không biết, thì người ta còn sợ, chứ khi "hổ mà thèm cỏ, lừa mà thò tai" thì chẳng những người ta đem lòng khinh bỉ, mà người ta còn làm cho đê nhục để cho bõ ghét.
(Đa tạ Dong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
52. THẬP BÌ NÓI CHUYỆN VỚI HUỆ VƯƠNG
Vua Huệ Vương nước Ngụy hỏi Thập Bì rằng: "Ngươi nghe người ta cho quả nhân là thế nào"?
Thập Bì thưa: "Thần nghe người ta cho nhà vua là nhân từ và hay gia ơn lắm."
Vua vui mừng hớn hở nói rằng: "Như thế thì cái công đức của quả nhân được đến thế nào"?
Thập Bì nói: "Cái công đức ấy rồi đến mất nước".
Vua ngạc nhiên hỏi: "Nhân từ và hay gia ơn làm làm việc thiện mà làm việc thiện đến nỗi mất nước là nghĩa thế nào"?
Thập Bì thưa: "Vua mà nhân từ thì bất nhẫn trừng phạt; vua hay gia ơn, thì chỉ thích ban thưởng. Tính đã bất nhẫn, thì có kẻ tội cũng không trị; tính hay ban ơn, thì kẻ vô công cũng được thưởng. Ðến kẻ có tội không phải phạt, kẻ vô công cũng được thưởng, thì mất nước cũng không có gì là lạ.
Hàn Phi Tử
Giải Nghĩa :
Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ý khiêm tốn là người ít đức.
Nhân từ : Nhân đức, từ bi, có bụng tốt hay làm điều lành.
Gia ơn: Làm cho người ta được nhờ, được khỏi khổ, được sung sướng, đây là nói hay ban ơn cho cái nầy cái nọ.
Công đức: Công việc lành giúp cho người ta; đức: lòng lành nghĩ đến người tạ
Thiện : Lành, chỉ những sự làm có nhân đức.
Bất nhẫn: Không nỡ làm thẳng tay, có bụng ái ngại.
Vô công: Không có công lao.
Lời Bàn:
Nhân đức vốn là hay, tuy vậy cũng có cái nhân đức của kẻ trượng phu, cái nhân đức của người đàn bà. Ông vua cầm quyền một nước mà nhân đức như đàn bà, thương kẻ có tội, thưởng kẻ vô công, thì giữ sao cho trong nước trị an được. Phàm chừng các đức tính mà tăng lên quá độ, là hóa ra dở cả. Cho nên cứ cầm cân giữ mực thăng bằng phải chăng, có lý lại có tình, có ân lại có uy, thì mới là đạo trung dung được.
Vua Huệ Vương nước Ngụy hỏi Thập Bì rằng: "Ngươi nghe người ta cho quả nhân là thế nào"?
Thập Bì thưa: "Thần nghe người ta cho nhà vua là nhân từ và hay gia ơn lắm."
Vua vui mừng hớn hở nói rằng: "Như thế thì cái công đức của quả nhân được đến thế nào"?
Thập Bì nói: "Cái công đức ấy rồi đến mất nước".
Vua ngạc nhiên hỏi: "Nhân từ và hay gia ơn làm làm việc thiện mà làm việc thiện đến nỗi mất nước là nghĩa thế nào"?
Thập Bì thưa: "Vua mà nhân từ thì bất nhẫn trừng phạt; vua hay gia ơn, thì chỉ thích ban thưởng. Tính đã bất nhẫn, thì có kẻ tội cũng không trị; tính hay ban ơn, thì kẻ vô công cũng được thưởng. Ðến kẻ có tội không phải phạt, kẻ vô công cũng được thưởng, thì mất nước cũng không có gì là lạ.
Hàn Phi Tử
Giải Nghĩa :
Quả nhân: Tiếng vua tự xưng với thần hạ và lấy ý khiêm tốn là người ít đức.
Nhân từ : Nhân đức, từ bi, có bụng tốt hay làm điều lành.
Gia ơn: Làm cho người ta được nhờ, được khỏi khổ, được sung sướng, đây là nói hay ban ơn cho cái nầy cái nọ.
Công đức: Công việc lành giúp cho người ta; đức: lòng lành nghĩ đến người tạ
Thiện : Lành, chỉ những sự làm có nhân đức.
Bất nhẫn: Không nỡ làm thẳng tay, có bụng ái ngại.
Vô công: Không có công lao.
Lời Bàn:
Nhân đức vốn là hay, tuy vậy cũng có cái nhân đức của kẻ trượng phu, cái nhân đức của người đàn bà. Ông vua cầm quyền một nước mà nhân đức như đàn bà, thương kẻ có tội, thưởng kẻ vô công, thì giữ sao cho trong nước trị an được. Phàm chừng các đức tính mà tăng lên quá độ, là hóa ra dở cả. Cho nên cứ cầm cân giữ mực thăng bằng phải chăng, có lý lại có tình, có ân lại có uy, thì mới là đạo trung dung được.
Lam Dai Ngoc
ÀO NƯỚC TẦN
Mạnh Thường Quân là một nhà nghĩa hiệp nước Tề, muốn sang nước Tần, để du thuyết. Có hàng nghìn người can ngăn mà không được. Sau Tô Tần đến can. Mạnh Thường Quân bảo rằng: "Việc người thì ta đây không còn sót gì nữa, chỉ có việc quỉ thần là ta chưa được rõ mà thôi".
Tô Tần nói: "ấy chính tôi lại đây không phải là để nói việc người, tôi cốt định đem việc quỉ thần nói để ông nghe".
Mạnh Thường Quân nói: "ừ, thế nói ta nghe".
Tô Tần nói: "Vừa rồi tôi lại đây, đi qua con sông, tôi thấy một pho tượng đất nói chuyện với một pho tượng gỗ. Tượng gỗ bảo tượng đất: "Ngươi là đất nặn thành hình, đến mùa mưa, nước sông lên ngập lụt thì ngươi bở tan ra mất". - Tượng đất nói: "Ta có tan ra nữa, ta vốn là đất, thì đất lại hoàn đất mà thôi. Chớ như ngươi là gỗ tạc thành hình, nước tràn ngập lên, thì chưa biết ngươi trôi giạt vào đâu mà rồi ra thế nào ... Nay nước Tần là nước hiểm trở, vua Tần là vua bạo ngược, nếu ông vào đấy thì chửa biết có ra thoát được không".
Mạnh Thường Quân nghe nói, bèn thôi không sang nước Tần nữa.
Giải Nghĩa:
Mạnh Thường Quân : Con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Ðiền tên Văn làm tướng nước Tề có tiếng là người nghĩa hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn người khách.
Nghĩa hiệp : Người thẳng tính thích điều phải, hay giúp người hèn yếu, chống lại kẻ cường quyền.
Tần: Tên nước đời Xuân Thu (tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà thống nhất thiên hạ.
Du thuyết : Nhà ngôn luận giỏi đời Chiến Quốc thường dùng lời biện bác mà làm cho người ta xiêu lòng phải nghẹ
Tô Tần : Người thời Chiến Quốc, là một nhà du thuyết giỏi, có công đi liên hợp được sáu nước để chống lại nước Tần.
Quỉ thần : Quỉ: Bậc thiêng liêng ở dưới đất tức là người chết; Thần: Bậc thiêng liêng ở trên trời. Mạnh Thường Quân thấy Tô Tần đến, đột ngột đem chuyện quỉ thần hỏi, có ý làm cho khó khăn Tô Tần không nói ra làm sao được nữa. Không ngờ Tô Tần ứng biến lanh, lấy ngay chuyện quỉ thần làm ví dụ mà nói đến mình.
Hiểm trở : Núi cao, sông sâu ngăn trở, đi lại hiểm nghèo.
LỜI BÀN
Mạnh Thường Quân cậy là tài giỏi, trước đã không chịu nghe ai, mà sau lại nghe Tô Tần, là vì Tô Tần thuyết lý đến nơi không còn sót nước gì. Bài ngụ ngôn của Tô Tần thực là một bài học cho những kẻ có tính mạo hiểm mà không biết liệu sức mình. Mạo hiểm là một tính hay, nhưng phải có biết mình, biết người thì mới thành được việc mà không đến nỗi thất bại.
Mạnh Thường Quân là một nhà nghĩa hiệp nước Tề, muốn sang nước Tần, để du thuyết. Có hàng nghìn người can ngăn mà không được. Sau Tô Tần đến can. Mạnh Thường Quân bảo rằng: "Việc người thì ta đây không còn sót gì nữa, chỉ có việc quỉ thần là ta chưa được rõ mà thôi".
Tô Tần nói: "ấy chính tôi lại đây không phải là để nói việc người, tôi cốt định đem việc quỉ thần nói để ông nghe".
Mạnh Thường Quân nói: "ừ, thế nói ta nghe".
Tô Tần nói: "Vừa rồi tôi lại đây, đi qua con sông, tôi thấy một pho tượng đất nói chuyện với một pho tượng gỗ. Tượng gỗ bảo tượng đất: "Ngươi là đất nặn thành hình, đến mùa mưa, nước sông lên ngập lụt thì ngươi bở tan ra mất". - Tượng đất nói: "Ta có tan ra nữa, ta vốn là đất, thì đất lại hoàn đất mà thôi. Chớ như ngươi là gỗ tạc thành hình, nước tràn ngập lên, thì chưa biết ngươi trôi giạt vào đâu mà rồi ra thế nào ... Nay nước Tần là nước hiểm trở, vua Tần là vua bạo ngược, nếu ông vào đấy thì chửa biết có ra thoát được không".
Mạnh Thường Quân nghe nói, bèn thôi không sang nước Tần nữa.
Giải Nghĩa:
Mạnh Thường Quân : Con vua nước Tề thời Chiến Quốc, họ Ðiền tên Văn làm tướng nước Tề có tiếng là người nghĩa hiệp, trong nhà lúc nào cũng tiếp đãi đến vài nghìn người khách.
Nghĩa hiệp : Người thẳng tính thích điều phải, hay giúp người hèn yếu, chống lại kẻ cường quyền.
Tần: Tên nước đời Xuân Thu (tức là tỉnh Thiểm Tây bây giờ) đến đời Thủy Hoàng, nước Tần chiếm được cả sáu nước mà thống nhất thiên hạ.
Du thuyết : Nhà ngôn luận giỏi đời Chiến Quốc thường dùng lời biện bác mà làm cho người ta xiêu lòng phải nghẹ
Tô Tần : Người thời Chiến Quốc, là một nhà du thuyết giỏi, có công đi liên hợp được sáu nước để chống lại nước Tần.
Quỉ thần : Quỉ: Bậc thiêng liêng ở dưới đất tức là người chết; Thần: Bậc thiêng liêng ở trên trời. Mạnh Thường Quân thấy Tô Tần đến, đột ngột đem chuyện quỉ thần hỏi, có ý làm cho khó khăn Tô Tần không nói ra làm sao được nữa. Không ngờ Tô Tần ứng biến lanh, lấy ngay chuyện quỉ thần làm ví dụ mà nói đến mình.
Hiểm trở : Núi cao, sông sâu ngăn trở, đi lại hiểm nghèo.
LỜI BÀN
Mạnh Thường Quân cậy là tài giỏi, trước đã không chịu nghe ai, mà sau lại nghe Tô Tần, là vì Tô Tần thuyết lý đến nơi không còn sót nước gì. Bài ngụ ngôn của Tô Tần thực là một bài học cho những kẻ có tính mạo hiểm mà không biết liệu sức mình. Mạo hiểm là một tính hay, nhưng phải có biết mình, biết người thì mới thành được việc mà không đến nỗi thất bại.
Lam Dai Ngoc
THAM LỢI TRƯỚC MẮT, QUÊN HẠI SAU LƯNG
Vua Ngô muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Ðã nhiều người can ngăn, vua nhất định không nghẹ Sau lại hạ lệnh rằng: "Ai can ta đánh Kinh thì phải xử tử".
Có một viên quan trẻ tuổi muốn can ngăn mà không dám nói, luôn ba ngày, cứ sáng sớm cầm cung, tên đứng vườn sau nhà vua, sương xuống ướt đầm cả áo.
Hôm thứ ba, vua gặp mới hỏi rằng: "Ngươi đến đây làm gì mà để sương xuống ướt cả áo như thế"?
Viên quan thưa rằng: "Trong vườn có một cây cổ thụ. Chót vót trên ngọn cây có con ve sầu, hút gió, uống sương, ra rích kêu cả ngày, tưởng đã được yên thân lắm. Biết đâu đằng sau co con bọ ngựa, đang giơ hai càng chực bắt. Chính con bọ ngựa muốn bắt con ve sầu, lại biết đâu đằng sau có con chim sẻ nghểnh cổ chực mổ. Chính con chim sẻ muốn bắt con bọ ngựa, lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực bắn. Chính tôi đây muốn bắt con chim sẻ, mà không biết sương xuống ướt đầm cả áo ... Như thế đều là chỉ vì tham cái lợi trước mắt mà quên hẳn cái hại ở ngay sau lưng vậy".
Vua nghe nói tỉnh ngộ bèn thôi không đánh nước Kinh nữa.
Thanh Lê Tử
Giải Nghĩa:
Ngô: Tên nước thời Xuân Thu, bây giờ ở vào địa phận phía nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Thiết Giang.
Kinh: Cũng là tên nước Sở.
Xử tử: Xử tội chết.
Cổ thụ: Cây sống đã lâu năm.
Tỉnh ngộ : Biết rằng mình mê muội và hiểu thấu lẽ phải trái.
LỜI BÀN
Ve sầu ở cao tưởng được yên thân, ngờ đâu có bọ ngựa muốn bắt ve sầu; bọ ngựa lại ngờ đâu có chim sẻ muốn bắt bọ ngựa, chim sẻ lại ngờ đâu có người muốn bắt chim sẻ, người bắt chim sẻ lại ngờ đâu sương xuống ướt đầm áo! Thế mới hay ở đời, chẳng nói chi một loài người, đến cả muôn loài, cũng chỉ rình hại lẫn nhau, nuốt lẫn nhau mà thôi. Nhưng biết đâu, trong khi mình muốn nuốt người, lại có kẻ khác muốn nuốt mình, mình chỉ ham mê trục cái mối lợi trước mắt mà không phòng bị cái tai hại sau lưng. Mà khi tai hại nó đã xẩy đến, thì chẳng những không thấy lợi đâu, lại thiệt thân mình trước. Cho nên người khôn thấy cái lợi, thì lo cả đến cái hại, lợi bất cập hại, thì không bao giờ làm.
Vua Ngô muốn đem quân đi đánh nước Kinh. Ðã nhiều người can ngăn, vua nhất định không nghẹ Sau lại hạ lệnh rằng: "Ai can ta đánh Kinh thì phải xử tử".
Có một viên quan trẻ tuổi muốn can ngăn mà không dám nói, luôn ba ngày, cứ sáng sớm cầm cung, tên đứng vườn sau nhà vua, sương xuống ướt đầm cả áo.
Hôm thứ ba, vua gặp mới hỏi rằng: "Ngươi đến đây làm gì mà để sương xuống ướt cả áo như thế"?
Viên quan thưa rằng: "Trong vườn có một cây cổ thụ. Chót vót trên ngọn cây có con ve sầu, hút gió, uống sương, ra rích kêu cả ngày, tưởng đã được yên thân lắm. Biết đâu đằng sau co con bọ ngựa, đang giơ hai càng chực bắt. Chính con bọ ngựa muốn bắt con ve sầu, lại biết đâu đằng sau có con chim sẻ nghểnh cổ chực mổ. Chính con chim sẻ muốn bắt con bọ ngựa, lại biết đâu dưới gốc cây có tôi cầm cung tên chực bắn. Chính tôi đây muốn bắt con chim sẻ, mà không biết sương xuống ướt đầm cả áo ... Như thế đều là chỉ vì tham cái lợi trước mắt mà quên hẳn cái hại ở ngay sau lưng vậy".
Vua nghe nói tỉnh ngộ bèn thôi không đánh nước Kinh nữa.
Thanh Lê Tử
Giải Nghĩa:
Ngô: Tên nước thời Xuân Thu, bây giờ ở vào địa phận phía nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Thiết Giang.
Kinh: Cũng là tên nước Sở.
Xử tử: Xử tội chết.
Cổ thụ: Cây sống đã lâu năm.
Tỉnh ngộ : Biết rằng mình mê muội và hiểu thấu lẽ phải trái.
LỜI BÀN
Ve sầu ở cao tưởng được yên thân, ngờ đâu có bọ ngựa muốn bắt ve sầu; bọ ngựa lại ngờ đâu có chim sẻ muốn bắt bọ ngựa, chim sẻ lại ngờ đâu có người muốn bắt chim sẻ, người bắt chim sẻ lại ngờ đâu sương xuống ướt đầm áo! Thế mới hay ở đời, chẳng nói chi một loài người, đến cả muôn loài, cũng chỉ rình hại lẫn nhau, nuốt lẫn nhau mà thôi. Nhưng biết đâu, trong khi mình muốn nuốt người, lại có kẻ khác muốn nuốt mình, mình chỉ ham mê trục cái mối lợi trước mắt mà không phòng bị cái tai hại sau lưng. Mà khi tai hại nó đã xẩy đến, thì chẳng những không thấy lợi đâu, lại thiệt thân mình trước. Cho nên người khôn thấy cái lợi, thì lo cả đến cái hại, lợi bất cập hại, thì không bao giờ làm.
Lam Dai Ngoc
TRƯỚC KHI ĐÁNH NGƯỜI, PHẢI BIẾT GIỮ MÌNH
Văn Công nước Tấn đem quân sang đánh nước Vệ. Giữa đường gặp một ông lão đang bừa ruộng, cứ ngửng mặt lên trời cười khanh khách mãi. Văn Công cho đòi lại, hỏi: "Ngươi cười cái gì thế"?
Ông lão thưa rằng: "Tôi cười người láng giềng nhà tôi. Anh ta đưa vợ đi chơi nhà bà con. Giữa đường gặp người con gái hái dâu, anh ta thích quá lén vợ, rẽ xuống ruộng dâu, nói chuyện với người con gái. Một chốc, ngoảnh lại xem vợ đi đến đâu, thì thấy một chàng đàng vẫy vợ anh ta đi ấy câu chuyện chỉ có thế, tôi nghĩ mà tôi không nhịn cười được".
Văn Công nghe nói, tự nhiên tỉnh ngộ, kéo quân về. Về chưa đến nơi, thì đã thấy báo có giặc ngoài vào xâm phạm trên mạn bắc trong nước.
(Liệt Tử)
Giải Nghĩa:
Tấn : Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Văn Công: Vua giỏi nước chư hầu đời Xuân Thu, đứng vào bực ngũ bá.
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
LỜI BÀN
Phàm cái gì mình thích, tất người ta cũng thích. Nếu cứ theo lòng dục mà vơ nắm gấp mười không phòng bị thì có khi xôi hỏng bỏng không, chẳng những không lấy được gì của người ta, mà mình có gì cũng mất vào tay người ta nữa. Việc nước cũng thế, đi đánh nước ngoài mà không nghĩ giữ nước nhà, thế là bỏ nước mình cho giặc vậy.
(đa tạ Dong Tưu đã type)
Văn Công nước Tấn đem quân sang đánh nước Vệ. Giữa đường gặp một ông lão đang bừa ruộng, cứ ngửng mặt lên trời cười khanh khách mãi. Văn Công cho đòi lại, hỏi: "Ngươi cười cái gì thế"?
Ông lão thưa rằng: "Tôi cười người láng giềng nhà tôi. Anh ta đưa vợ đi chơi nhà bà con. Giữa đường gặp người con gái hái dâu, anh ta thích quá lén vợ, rẽ xuống ruộng dâu, nói chuyện với người con gái. Một chốc, ngoảnh lại xem vợ đi đến đâu, thì thấy một chàng đàng vẫy vợ anh ta đi ấy câu chuyện chỉ có thế, tôi nghĩ mà tôi không nhịn cười được".
Văn Công nghe nói, tự nhiên tỉnh ngộ, kéo quân về. Về chưa đến nơi, thì đã thấy báo có giặc ngoài vào xâm phạm trên mạn bắc trong nước.
(Liệt Tử)
Giải Nghĩa:
Tấn : Một nước đời Xuân Thu, đến đời Chiến Quốc bị họ Hàn, họ Triệu, họ Ngụy lấy mất và chia làm ba nước, ở vào tỉnh Sơn Tây và một phần Trực Lệ bây giờ.
Văn Công: Vua giỏi nước chư hầu đời Xuân Thu, đứng vào bực ngũ bá.
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
LỜI BÀN
Phàm cái gì mình thích, tất người ta cũng thích. Nếu cứ theo lòng dục mà vơ nắm gấp mười không phòng bị thì có khi xôi hỏng bỏng không, chẳng những không lấy được gì của người ta, mà mình có gì cũng mất vào tay người ta nữa. Việc nước cũng thế, đi đánh nước ngoài mà không nghĩ giữ nước nhà, thế là bỏ nước mình cho giặc vậy.
(đa tạ Dong Tưu đã type)
Lam Dai Ngoc
56. KHÔNG NÊN SÁT PHẠT LẦN NHAU
Văn Quân đất Lỗ Dương sắp đem quân sang đánh nước Trịnh. Mặc Tử nghe thấy, đến can, nói rằng: "Ví bây giờ trong đất Lỗ Dương nầy, tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ giết người lấy của lẫn nhau, thì nhà vua nghĩ thế nào"?
Văn Quân nói: "Bao nhiêu người ở Lỗ Dương đều là tôi con của ta cả. Ví tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ, để cướp lẫn nhau, thì ta tất đem trị tội thật nặng".
Mặc Tử nói: "Bao nhiêu người trong thiên hạ đều là tôi con của Trời cũng như bao nhiêu người trong đất Lỗ Dương là tôi con của nhà vua; nay nhà vua đem quân đánh Trịnh, thì há lại tránh khỏi được vạ trời hay sao"!
Văn Quân nói: "Sao tiên sinh lại ngăn ta đánh Trịnh. Ta muốn đánh Trịnh là thuận cái chí của trời. Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đã ra tai, làm mất mùa ba năm. Nay ta phải giúp trời mà giết Trịnh".
Mặc Tử nói: "Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đã ra tai, làm mất mùa ba năm, trời phạt như thế cũng là đủ. Nay nhà vua lại còn đem quân đánh Trịnh, mà nói rằng: "Ta đánh Trịnh là ta thuận ý trời", thì là nghĩa thế nào? Ví như ngay đây có một đứa con ngang ngạnh, cha nó đã cầm roi đánh nó, người cha bên láng giềng lại còn vác gậy ra đánh hôi, bảo rằng: "Ta đánh nó là thuận cái chí của cha nó". Nói như thế, thì có nghe được không?" (Mặc Tử)
GIẢI NGHĨA:
Lỗ Dương: Tên một ấp lớn của nước Sở về thời Xuân Thu, tức là huyện Lỗ Sơn tỉnh Hà Nam bây giờ.
Thiên hạ: Ðất dưới gầm trời, tức là cả thế giới. Người Tàu trước thường cho thiên hạ là chỉ có nước Tàu và mấy xứ ở chung quanh thôi.
Chí: Tâm để vào việc gì.
Ra tai: Làm cho thiệt hại khổ sở như lụt, đại hạn, bão, dịch lệ, đói kém, loạn lạc.
Ngang ngạnh: Không vâng lời, bướng, chống lại.
LỜI BÀN:
Khi mình cậy sức, cậy nhiều, cậy khôn, cậy tài mà hà hiếp kẻ kém mình, thường mình cứ hay viện lẽ nọ, cớ kia, để như cho mình là phải mà che mắt thế gian, lấp miệng thiên hạ. Nhưng dù viện lẽ gì cớ gì, cũng vẫn không được chánh đáng. Danh bất chính thì ngôn bất thuận. Mình đã rắp tâm đè nén người ta, tham lấy của người ta, là mình làm điều phi nghĩa rồi, không bao giờ rửa sạch được cái ô danh nữa. Làm việc bậy mà lấy câu nói phải để tế toái đi, có khác gì lấy vóc gấm phủ ngoài cái cành khô hay tượng đất mà bảo người ta là thần thánh đấy.
Văn Quân đất Lỗ Dương sắp đem quân sang đánh nước Trịnh. Mặc Tử nghe thấy, đến can, nói rằng: "Ví bây giờ trong đất Lỗ Dương nầy, tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ giết người lấy của lẫn nhau, thì nhà vua nghĩ thế nào"?
Văn Quân nói: "Bao nhiêu người ở Lỗ Dương đều là tôi con của ta cả. Ví tỉnh lớn đánh tỉnh nhỏ, nhà lớn đánh nhà nhỏ, để cướp lẫn nhau, thì ta tất đem trị tội thật nặng".
Mặc Tử nói: "Bao nhiêu người trong thiên hạ đều là tôi con của Trời cũng như bao nhiêu người trong đất Lỗ Dương là tôi con của nhà vua; nay nhà vua đem quân đánh Trịnh, thì há lại tránh khỏi được vạ trời hay sao"!
Văn Quân nói: "Sao tiên sinh lại ngăn ta đánh Trịnh. Ta muốn đánh Trịnh là thuận cái chí của trời. Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đã ra tai, làm mất mùa ba năm. Nay ta phải giúp trời mà giết Trịnh".
Mặc Tử nói: "Vua nước Trịnh ba đời giết cha, trời đã ra tai, làm mất mùa ba năm, trời phạt như thế cũng là đủ. Nay nhà vua lại còn đem quân đánh Trịnh, mà nói rằng: "Ta đánh Trịnh là ta thuận ý trời", thì là nghĩa thế nào? Ví như ngay đây có một đứa con ngang ngạnh, cha nó đã cầm roi đánh nó, người cha bên láng giềng lại còn vác gậy ra đánh hôi, bảo rằng: "Ta đánh nó là thuận cái chí của cha nó". Nói như thế, thì có nghe được không?" (Mặc Tử)
GIẢI NGHĨA:
Lỗ Dương: Tên một ấp lớn của nước Sở về thời Xuân Thu, tức là huyện Lỗ Sơn tỉnh Hà Nam bây giờ.
Thiên hạ: Ðất dưới gầm trời, tức là cả thế giới. Người Tàu trước thường cho thiên hạ là chỉ có nước Tàu và mấy xứ ở chung quanh thôi.
Chí: Tâm để vào việc gì.
Ra tai: Làm cho thiệt hại khổ sở như lụt, đại hạn, bão, dịch lệ, đói kém, loạn lạc.
Ngang ngạnh: Không vâng lời, bướng, chống lại.
LỜI BÀN:
Khi mình cậy sức, cậy nhiều, cậy khôn, cậy tài mà hà hiếp kẻ kém mình, thường mình cứ hay viện lẽ nọ, cớ kia, để như cho mình là phải mà che mắt thế gian, lấp miệng thiên hạ. Nhưng dù viện lẽ gì cớ gì, cũng vẫn không được chánh đáng. Danh bất chính thì ngôn bất thuận. Mình đã rắp tâm đè nén người ta, tham lấy của người ta, là mình làm điều phi nghĩa rồi, không bao giờ rửa sạch được cái ô danh nữa. Làm việc bậy mà lấy câu nói phải để tế toái đi, có khác gì lấy vóc gấm phủ ngoài cái cành khô hay tượng đất mà bảo người ta là thần thánh đấy.
Lam Dai Ngoc
DIỀU GỒ
Mặc Tử làm cái diều gỗ, ba năm mới xong. Lúc thả cho bay, được một hôm thì diều hỏng.
Học trò khen rằng: "Thầy làm diều gỗ mà bay được thật là khéo"!
Mặc Tử nói: "Ta làm cái diều ba năm mới xong, diều bay mới được một ngày đã hỏng, cho là khéo thế nào được! Sao bằng người làm cái xe gỗ chỉ tốn một ít công, không hết một buổi, mà chở được nặng, đi được xa, dùng được lâu năm. Có thế mới gọi là khéo".
Huệ Tử nghe câu chuyện, bảo: "Mặc Tử nói thế thật là người khéo".
(Mặc Tử)
GIẢI NGHĨA:
Diều gỗ : Cái diều làm bằng gỗ.
LỜI BÀN:
Diều gỗ mà bay được, ai không chịu là khéo ? Nhưng công làm mất ba năm, dụng chỉ được một ngày, thì cái dụng tưởng không bổ với cái công. Cho nên Mặc Tử, vốn là người tiết kiệm, chỉ vụ sự làm ăn thiết thực, không cần sự văn hoa vô dụng, ý cho một gì sở dĩ gọi là khéo, không phải chỉ là việc làm tinh xảo hơn người, nhưng cốt phải lợi dụng được việc cho người trước. Huệ Tử khen Mặc Tử là cũng theo cái lý thuyết ấy. Tuy vậy, xét ra ở đời cái khéo và cái dùng không cần gì cứ phải đi đôi với nhau. Thường cái khéo, cái đẹp không cần là hữu dụng hay vô dụng: miếng gỗ trạm cái tranh vẽ, giọng hát bài đàn chỉ có khéo, không có thiết dụng mà thực là có ích cho người lắm.
Mặc Tử làm cái diều gỗ, ba năm mới xong. Lúc thả cho bay, được một hôm thì diều hỏng.
Học trò khen rằng: "Thầy làm diều gỗ mà bay được thật là khéo"!
Mặc Tử nói: "Ta làm cái diều ba năm mới xong, diều bay mới được một ngày đã hỏng, cho là khéo thế nào được! Sao bằng người làm cái xe gỗ chỉ tốn một ít công, không hết một buổi, mà chở được nặng, đi được xa, dùng được lâu năm. Có thế mới gọi là khéo".
Huệ Tử nghe câu chuyện, bảo: "Mặc Tử nói thế thật là người khéo".
(Mặc Tử)
GIẢI NGHĨA:
Diều gỗ : Cái diều làm bằng gỗ.
LỜI BÀN:
Diều gỗ mà bay được, ai không chịu là khéo ? Nhưng công làm mất ba năm, dụng chỉ được một ngày, thì cái dụng tưởng không bổ với cái công. Cho nên Mặc Tử, vốn là người tiết kiệm, chỉ vụ sự làm ăn thiết thực, không cần sự văn hoa vô dụng, ý cho một gì sở dĩ gọi là khéo, không phải chỉ là việc làm tinh xảo hơn người, nhưng cốt phải lợi dụng được việc cho người trước. Huệ Tử khen Mặc Tử là cũng theo cái lý thuyết ấy. Tuy vậy, xét ra ở đời cái khéo và cái dùng không cần gì cứ phải đi đôi với nhau. Thường cái khéo, cái đẹp không cần là hữu dụng hay vô dụng: miếng gỗ trạm cái tranh vẽ, giọng hát bài đàn chỉ có khéo, không có thiết dụng mà thực là có ích cho người lắm.
Lam Dai Ngoc
57. LÁ ÐÓ
Nước Tống có người lấy ngọc , tỉa làm một cái lá dó ba năm mới xong. Cái lá làm rất khéo; sống, cuống, cạnh sắc, lông tơ, màu mỡ giống như hệt, đem trộn với những lá dó thật, không ai phân biệt được nữa.
Người ấy đem cái lá dâng vua Tống. Vua khen là khéo, cấp lương bổng cho.
Tử Liệt Tử nghe thấy chuyện, nói rằng: "Giá bây giờ những cây cối trong khoảng trời đất ba năm mới một được cái lá, thời dễ không có mấy cây có lá nữa"!
(Liệt Tử)
GIẢI NGHĨA:
Lá dó : Lá cây dó dùng để làm giấy, gần giống như lá dâu, nhưng xù xì và ram ráp hơn.
Phân biệt : Chia rẽ, tách bạch.
Lương bổng : Thóc gạo hay tiền bạc cấp để trả công cho ai.
LỜI BÀN:
Bài nầy cũng gần một ý như bài trên (Diều gỗ, bài thứ 57), nói sự khôn khéo chỉ làm trò chơi được một lúc, không đáng chuộng bằng sự thực dụng làm lợi cho mọi người lâu dài. Song tay người làm ra mà giống được như tạo hóa thì thật là khôn khéo. Mỹ thuật xưa nay thường lấy sự bắt chước hệt được như hóa công làm mục đích. Liệt Tử vốn là một nhà Lão học, thì lại cho cái cảnh tự nhiên là đẹp hơn cả, chỉ một cái cảnh ấy cũng làm cho con người được đủ hưởng thụ vui sướng.
Nước Tống có người lấy ngọc , tỉa làm một cái lá dó ba năm mới xong. Cái lá làm rất khéo; sống, cuống, cạnh sắc, lông tơ, màu mỡ giống như hệt, đem trộn với những lá dó thật, không ai phân biệt được nữa.
Người ấy đem cái lá dâng vua Tống. Vua khen là khéo, cấp lương bổng cho.
Tử Liệt Tử nghe thấy chuyện, nói rằng: "Giá bây giờ những cây cối trong khoảng trời đất ba năm mới một được cái lá, thời dễ không có mấy cây có lá nữa"!
(Liệt Tử)
GIẢI NGHĨA:
Lá dó : Lá cây dó dùng để làm giấy, gần giống như lá dâu, nhưng xù xì và ram ráp hơn.
Phân biệt : Chia rẽ, tách bạch.
Lương bổng : Thóc gạo hay tiền bạc cấp để trả công cho ai.
LỜI BÀN:
Bài nầy cũng gần một ý như bài trên (Diều gỗ, bài thứ 57), nói sự khôn khéo chỉ làm trò chơi được một lúc, không đáng chuộng bằng sự thực dụng làm lợi cho mọi người lâu dài. Song tay người làm ra mà giống được như tạo hóa thì thật là khôn khéo. Mỹ thuật xưa nay thường lấy sự bắt chước hệt được như hóa công làm mục đích. Liệt Tử vốn là một nhà Lão học, thì lại cho cái cảnh tự nhiên là đẹp hơn cả, chỉ một cái cảnh ấy cũng làm cho con người được đủ hưởng thụ vui sướng.
Lam Dai Ngoc
59. CHỮ TÍN
I CÁI ĐỈNH
Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.
Vua Tề bảo: "Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang nói, thì ta mới tin".
Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến, bảo đi.
Nhạc Chính Tử hỏi: "Sao không đưa cái đỉnh thật"?
Vua Lỗ nói: "Ta quí cái đỉnh ấy lắm".
Nhạc Chính Tử thưa: "Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi quí cái đức "Tín" của tôi như thế".
Sau vua Lỗ phải đưa đỉnh thật, Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
HÀN TỬ
II THANH GƯƠM
Quí Trát là con vua nước Ngô đi du lịch các nước. Khi qua nước Từ vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy Quí Trát có thanh gươm báu, muốn xin, mà chưa dám nói. Quí Trát trong bụng cũng định cho, mà chưa dâng được, vì cuộc du lịch chưa xong. Khi ở nước Tần về, thì vua Từ đã mất rồi. Quí Trát không biết làm thế nào, đành phải đem thanh gươm đến treo chỗ gốc cây bên mộ vua Từ, rồi mới về.
(Sử ký)
GIẢI NGHĨA:
Lỗ: Một nước chư hầu nhở thời Xuân Thu Chiến quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Ðông bây giờ.
Tề: Một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến quốc cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Ðông bây giờ.
Nhạc Chính Tử: Người nước Lỗ thời Xuân Thu, học trò giỏi thầy Tăng Tử.
Quí Trát : Con út vua Ngô, một bực danh nhân thời Xuân Thụ
Du lịch: Ði chơi trải qua nhiều nơi để xem nhân dân phong tục.
Ngô: Tên nước thời Xuân Thu, bây giờ ở vào địa phận phía nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Thiết Giang.
LỜI BÀN:
Nhạc Chính Tử không chịu đem đỉnh giả, Quí Trát không chịu về không cho gươm, đều là những người biết trọng chữ "Tín" cả. Giả không nói là thật đã quí, mới hứa trong bụng mà cố làm cho được, lại quí hơn nữa. Ôi! xưa nay chữ tín có giá biết ngần nào! Chữ tín liệt rõ trong ngũ thường người ở đời giao thiệp cốt lấy chữ tín làm chủ. Cho nên cổ nhân có những câu như: "Nhân vô tín bất lập" (Khổng Tử) nghĩa là người không có tín thì không đứng được ở đời.
"Tín vì quốc chi bảo" (Tấn Văn Công) nghĩa là tín là cái báu của cả nước.
I CÁI ĐỈNH
Nước Lỗ có một cái đỉnh rất quí. Nước Tề bắt phải đem dâng. Vua Lỗ tiếc lắm, cho làm một cái đỉnh giả đưa sang.
Vua Tề bảo: "Phải có Nhạc Chính Tử đem đỉnh sang nói, thì ta mới tin".
Vua Lỗ cho gọi Nhạc Chính Tử đến, bảo đi.
Nhạc Chính Tử hỏi: "Sao không đưa cái đỉnh thật"?
Vua Lỗ nói: "Ta quí cái đỉnh ấy lắm".
Nhạc Chính Tử thưa: "Nhà vua quí cái đỉnh ấy thế nào, thì tôi quí cái đức "Tín" của tôi như thế".
Sau vua Lỗ phải đưa đỉnh thật, Nhạc Chính Tử mới chịu đi.
HÀN TỬ
II THANH GƯƠM
Quí Trát là con vua nước Ngô đi du lịch các nước. Khi qua nước Từ vào thăm vua Từ. Vua Từ thấy Quí Trát có thanh gươm báu, muốn xin, mà chưa dám nói. Quí Trát trong bụng cũng định cho, mà chưa dâng được, vì cuộc du lịch chưa xong. Khi ở nước Tần về, thì vua Từ đã mất rồi. Quí Trát không biết làm thế nào, đành phải đem thanh gươm đến treo chỗ gốc cây bên mộ vua Từ, rồi mới về.
(Sử ký)
GIẢI NGHĨA:
Lỗ: Một nước chư hầu nhở thời Xuân Thu Chiến quốc, ở vào địa phận tỉnh Sơn Ðông bây giờ.
Tề: Một nước chư hầu lớn, thời Xuân Thu Chiến quốc cũng ở vào địa phận tỉnh Sơn Ðông bây giờ.
Nhạc Chính Tử: Người nước Lỗ thời Xuân Thu, học trò giỏi thầy Tăng Tử.
Quí Trát : Con út vua Ngô, một bực danh nhân thời Xuân Thụ
Du lịch: Ði chơi trải qua nhiều nơi để xem nhân dân phong tục.
Ngô: Tên nước thời Xuân Thu, bây giờ ở vào địa phận phía nam sông Hoài, sông Tử cho đến tỉnh Thiết Giang.
LỜI BÀN:
Nhạc Chính Tử không chịu đem đỉnh giả, Quí Trát không chịu về không cho gươm, đều là những người biết trọng chữ "Tín" cả. Giả không nói là thật đã quí, mới hứa trong bụng mà cố làm cho được, lại quí hơn nữa. Ôi! xưa nay chữ tín có giá biết ngần nào! Chữ tín liệt rõ trong ngũ thường người ở đời giao thiệp cốt lấy chữ tín làm chủ. Cho nên cổ nhân có những câu như: "Nhân vô tín bất lập" (Khổng Tử) nghĩa là người không có tín thì không đứng được ở đời.
"Tín vì quốc chi bảo" (Tấn Văn Công) nghĩa là tín là cái báu của cả nước.
Lam Dai Ngoc
60. TỰ LẤY LÀM KHOAN KHOÁI
Ðức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vịnh Khải Kỳ ngao du ở ngoài đồng, mặc áo cừu thắt lưng dây, tay gảy đàn dầm, vừa đi vừa hát.
Ðức Khổng Tử hỏi: "Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ thế"?
Ông Vịnh Khải Kỳ nói: "Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất, mà ta được làm người, đó là một điều đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yểu, mà ta hoàn toàn khỏe mạnh nay đã chín mươi tuổi; thế là ba điều đáng vui... Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự chết của đời người. Ta nay xử cảnh thường, đợi lúc hết, thì có gì là lo buồn"?
Ðức Khổng Tử nói: "Phải lắm! Tiên sinh thế là biết cách tự làm cho khoan khoái mà hưởng sự vui thú ở đời".
(Liệt Tử)
GIẢI NGHĨA:
Thái Sơn : Tên một dải núi cao ở tỉnh Sơn Ðông.
Ngao du: Ðang chơi ngắm phong cảnh.
Khoan khoái: Dễ chịu thênh thang, vui vẻ.
LỜI BÀN:
Cái sung sướng ở đời thực không biết lấy gì mà đo lường, không biết ở đâu mà tìm được. Ông vua sang giàu nhứt bực, mà không biết sung sướng, người chăn dê, cái áo lót mình không có, mà lấy làm sung sướng cũng như Vinh Khải Kỳ đây, chỉ được làm người, sinh làm đàn ông, không ốm đau tàn tật, cũng đủ lấy làm sung sướng. Thế mới hay cái sướng không ở đâu xa, mà ở ngay trong mình, không ở sự giàu sang, mà ở trong tâm yên vui, hễ biết sung sướng thì được sung sướng, biết thỏa cái số phận mình, nói tóm, biết "trí túc" ấy là sung sướng đó. Chớ những kẻ tham lam không chừng, mê man quá độ, thì bao giờ biết sướng thân được!
Ðức Khổng Tử đi chơi núi Thái Sơn, gặp ông Vịnh Khải Kỳ ngao du ở ngoài đồng, mặc áo cừu thắt lưng dây, tay gảy đàn dầm, vừa đi vừa hát.
Ðức Khổng Tử hỏi: "Tiên sinh làm thế nào mà thường vui vẻ thế"?
Ông Vịnh Khải Kỳ nói: "Trời sinh muôn vật, loài người quí nhất, mà ta được làm người, đó là một điều đáng vui. Trong loài người, đàn ông quí hơn đàn bà, mà ta được làm đàn ông, đó là hai điều đáng vui. Người ta sinh ra có người đui què, có người non yểu, mà ta hoàn toàn khỏe mạnh nay đã chín mươi tuổi; thế là ba điều đáng vui... Còn cái nghèo là sự thường của thế gian, cái chết là sự chết của đời người. Ta nay xử cảnh thường, đợi lúc hết, thì có gì là lo buồn"?
Ðức Khổng Tử nói: "Phải lắm! Tiên sinh thế là biết cách tự làm cho khoan khoái mà hưởng sự vui thú ở đời".
(Liệt Tử)
GIẢI NGHĨA:
Thái Sơn : Tên một dải núi cao ở tỉnh Sơn Ðông.
Ngao du: Ðang chơi ngắm phong cảnh.
Khoan khoái: Dễ chịu thênh thang, vui vẻ.
LỜI BÀN:
Cái sung sướng ở đời thực không biết lấy gì mà đo lường, không biết ở đâu mà tìm được. Ông vua sang giàu nhứt bực, mà không biết sung sướng, người chăn dê, cái áo lót mình không có, mà lấy làm sung sướng cũng như Vinh Khải Kỳ đây, chỉ được làm người, sinh làm đàn ông, không ốm đau tàn tật, cũng đủ lấy làm sung sướng. Thế mới hay cái sướng không ở đâu xa, mà ở ngay trong mình, không ở sự giàu sang, mà ở trong tâm yên vui, hễ biết sung sướng thì được sung sướng, biết thỏa cái số phận mình, nói tóm, biết "trí túc" ấy là sung sướng đó. Chớ những kẻ tham lam không chừng, mê man quá độ, thì bao giờ biết sướng thân được!
Lam Dai Ngoc
61. NGƯỜI KHÔN SỐNG LÂU
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Ðức Khổng Tử: "Người khôn có sống lâu không"?
Ðức Khổng Tử đáp: "Có. Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được! Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chớ không phải số mệnh đang chết mà chết.
?n uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế phải chết về bệnh tật.
Phận là người dưới, mà can phạm người trên, lòng tham muốn không chừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
Mình ngu, mà kình địch người khôn, mình yếu, mà khinh bỉ người mạnh, không biết lượng sức mình mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết về binh đao.
Ba thứ chết ấy, thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi".
(Hàn Thi ngoại truyện)
GIẢI NGHĨA:
Số mệnh: Cái phận hay, dở, may rủi mà trời đã định cho mình.
Can phạm: Làm việc gì trái pháp luật mà động chạm đến người trên.
Kình địch: Không chịu ai, muốn chọi với người tạ
Lượng: Ðắn đo mà biết.
Hình pháp: Những luật, những phép, người ta đặt ra để bắt buộc và trừng trị những kẻ can phạm.
LỜI BÀN:
Xưa nay ta vẫn cho khôn ngoan thì chóng già, ngu xuẩn thì sống lâu; là lấy lý rằng: người khôn dùng trí, dùng sức nhiều, thì chóng suy; người ngu chỉ ăn no ngủ kỹ, không lo lắng gì, thì sống lâu. Nhưng xét một mặt khác, thì trái hẳn lại; khôn thì sống, dại thì mái, khôn ăn người, dại người ăn. Như Ðức Khổng Tử đáp vua Ai Công đây chính là ngụ cái ý đó. Ôi! sống chết tùy tại mệnh trời, nhưng thường khi người cũng có phần vào đấy; lắm người chỉ ngu xuẩn, không giữ gìn vệ sinh, không hiểu pháp luật, không biết tự lượng mình mà thành không đáng chết, cũng phải chết. Chết như thế, cũng là chết uổng nên thương, thương vì ngu dại.
Vua Ai Công nước Lỗ hỏi Ðức Khổng Tử: "Người khôn có sống lâu không"?
Ðức Khổng Tử đáp: "Có. Khôn thì sống lâu, chớ dại thì sống lâu sao được! Người ta có ba thứ chết, tự mình làm cho mình chết, chớ không phải số mệnh đang chết mà chết.
?n uống không có chừng mực, thức ngủ không có điều độ, làm lụng khó nhọc quá, lười biếng chơi bời quá, người như thế phải chết về bệnh tật.
Phận là người dưới, mà can phạm người trên, lòng tham muốn không chừng, tính yêu cầu không chán, người như thế thì chết về hình pháp.
Mình ngu, mà kình địch người khôn, mình yếu, mà khinh bỉ người mạnh, không biết lượng sức mình mà cứ giận dữ làm liều, người như thế thì chết về binh đao.
Ba thứ chết ấy, thực không phải là số mệnh, chỉ tự mình giết mình mà thôi".
(Hàn Thi ngoại truyện)
GIẢI NGHĨA:
Số mệnh: Cái phận hay, dở, may rủi mà trời đã định cho mình.
Can phạm: Làm việc gì trái pháp luật mà động chạm đến người trên.
Kình địch: Không chịu ai, muốn chọi với người tạ
Lượng: Ðắn đo mà biết.
Hình pháp: Những luật, những phép, người ta đặt ra để bắt buộc và trừng trị những kẻ can phạm.
LỜI BÀN:
Xưa nay ta vẫn cho khôn ngoan thì chóng già, ngu xuẩn thì sống lâu; là lấy lý rằng: người khôn dùng trí, dùng sức nhiều, thì chóng suy; người ngu chỉ ăn no ngủ kỹ, không lo lắng gì, thì sống lâu. Nhưng xét một mặt khác, thì trái hẳn lại; khôn thì sống, dại thì mái, khôn ăn người, dại người ăn. Như Ðức Khổng Tử đáp vua Ai Công đây chính là ngụ cái ý đó. Ôi! sống chết tùy tại mệnh trời, nhưng thường khi người cũng có phần vào đấy; lắm người chỉ ngu xuẩn, không giữ gìn vệ sinh, không hiểu pháp luật, không biết tự lượng mình mà thành không đáng chết, cũng phải chết. Chết như thế, cũng là chết uổng nên thương, thương vì ngu dại.
Lam Dai Ngoc
62. VỢ RĂN CHỒNG
Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe theo hầu.
Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi: "Tại làm sao"?
Nàng nói: "Án Tử, người gầy thấp bé nhỏ làm đến tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông vẫn có ý trầm trọng, khiêm nhường, như chửa bằng ai. Chớ như chàng, cao lớn đẫy đà chỉ mới làm được tên đánh xe tầm thường hèn hạ thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng nữa, nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi".
Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chữa được cái tính nông nổi. án Tử thấy thế lấy làm lạ, hỏi, tên đánh xe đem việc nhà kể lại, Án Tử bèn cất cho làm đại phụ
(Án Tử Xuân Thu)
GIẢI NGHĨA:
Dương dương tự đắc : Vênh váo lên mặt ta đây kẻ giờ.
Gầy thấp bé nhỏ: Án Tử là người lùn, cao không đầy sáu thước (Tàu).
Trầm trọng : Sâu sắc, chín chắn.
Vinh hạnh : Vẻ vang, may mắn.
Ðại phu: Chức quan thời cổ dưới quan Khanh, trên Sĩ.
LỜI BÀN:
Tên đánh xe của Án Tử thực là sang vì vợ, nhờ được vợ giỏi, biết lấy cái địa vị hèn hạ, cái dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ, mà sửa được tâm tính chồng và thành được thân danh cho chồng. Tiếc thay ở đời bây giờ, có biết bao nhiêu kẻ chỉ làm môn hạ người ta, đã vênh váo lên mặt, nghênh ngang tự đắc như tên đánh xe, mà lại không có được những người vợ, như vợ tên đánh xe để khuyên răn lấy chồng, làm cho chồng biết tự sỉ mà phấn chí tu tỉnh cho ra người.
Án Tử làm tướng nước Tề, một hôm đi việc quan, có tên đánh xe theo hầu.
Vợ tên đánh xe dòm qua khe cửa, thấy chồng tay cầm cái dù, tay cầm dây cương, mặt vác lên trời, dương dương tự đắc.
Lúc chồng về nhà, nàng xin bỏ nhà ra đi. Chồng hỏi: "Tại làm sao"?
Nàng nói: "Án Tử, người gầy thấp bé nhỏ làm đến tướng nước Tề, danh tiếng lừng lẫy khắp thiên hạ, thế mà thiếp xem ông vẫn có ý trầm trọng, khiêm nhường, như chửa bằng ai. Chớ như chàng, cao lớn đẫy đà chỉ mới làm được tên đánh xe tầm thường hèn hạ thế mà thiếp xem chàng đã ra dáng lấy làm vinh hạnh, tưởng không ai bằng nữa, nên thiếp xin bỏ chàng, thiếp đi".
Từ hôm ấy, tên đánh xe bỏ được cái bộ vênh váo, chữa được cái tính nông nổi. án Tử thấy thế lấy làm lạ, hỏi, tên đánh xe đem việc nhà kể lại, Án Tử bèn cất cho làm đại phụ
(Án Tử Xuân Thu)
GIẢI NGHĨA:
Dương dương tự đắc : Vênh váo lên mặt ta đây kẻ giờ.
Gầy thấp bé nhỏ: Án Tử là người lùn, cao không đầy sáu thước (Tàu).
Trầm trọng : Sâu sắc, chín chắn.
Vinh hạnh : Vẻ vang, may mắn.
Ðại phu: Chức quan thời cổ dưới quan Khanh, trên Sĩ.
LỜI BÀN:
Tên đánh xe của Án Tử thực là sang vì vợ, nhờ được vợ giỏi, biết lấy cái địa vị hèn hạ, cái dáng bộ ngông nghênh của chồng làm xấu hổ, mà sửa được tâm tính chồng và thành được thân danh cho chồng. Tiếc thay ở đời bây giờ, có biết bao nhiêu kẻ chỉ làm môn hạ người ta, đã vênh váo lên mặt, nghênh ngang tự đắc như tên đánh xe, mà lại không có được những người vợ, như vợ tên đánh xe để khuyên răn lấy chồng, làm cho chồng biết tự sỉ mà phấn chí tu tỉnh cho ra người.
Lam Dai Ngoc
BÀ HUYỆN CAN ĐẢM
Ðời nhà Ðường giặc Lý Hy Liệt đã đánh được Châu Biện, kéo đến đánh huyện Hạng Thành. Quan huyện Hạng Thành là Lý Khản muốn chạy trốn. Bà huyện họ Dương nói: "Giặc đến cướp thành thì phải hết sức giữ thành, giữ mà không được thì phải liều chết với thành, nay ông lại chực trốn, là nghĩa làm sao. Bây giờ cứ mộ quân cho nhiều, khao thưởng cho to, thiếp tưởng còn có thể giữ được thành".
Nói rồi, chính bà huyện hội họp cả nha lệ, sĩ dân lại hiểu dụ rằng: "Quan huyện là chủ các ngươi thật, song chẳng qua chỉ ở đây độ năm, ba năm, rồi cũng thiên đi nơi khác, không liên can lắm bằng các người sinh trưởng ở đất nầy, gây dựng cơ nghiệp ở đất nầy, mồ mả ông cha cũng ở đất nầy. Vậy sống, chết, các ngươi cũng phải hết sức mà giữ lấy thành thì mới được".
Ai nấy nghe đều cảm động, rơm rớm nước mắt và đoạn xin liều chết để cố giữ thành. Bà huyện hạ lệnh rằng: "Ai lấy gạch đá đánh được giặc, thưởng tiền một nghìn, ai lấy gươm giáo giết được giặc, thưởng tiền một muôn."
Tất cả được hơn một trăm người kéo nhau ra giữ thành, chống lại với giặc. Bà huyện thân đi trông nom lương thực cho quân lính. Khi giao chiến, quan huyện phải một mũi tên, lùi về, ý không muốn đánh nữa. Bà huyện giận nói: "Ông không ở đây, thì ai chịu liều chết? Cho ông giữ thành mà có chết nữa lại chẳng hơn chết ở xó giường ư"?
Ông huyện nghe cảm kích, hăng hái hơn trước, lại chạy lên thành, liều đánh một trận nữa, quân giặc túng thế phải kéo đi. Huyện Hạng Thành nhờ thế được an toàn. (Ðường Thư Liệt Nữ truyện)
GIẢI NGHĨA:
Ðường : Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau Th. Ch.. Lý Hy Liệt : Người Liêu Tây đời vua Ðức Tôn nhà Ðường sau làm quan Tiết Ðộ Sứ.
Khao thưởng: Cho ăn uống rồi ban đồ vật gì để khen ngợi quan quân.
Thiếp: Tiếng vợ tự xưng mình khi nói với chồng.
Nha lệ : Nha: những lại làm việc công giúp quan; lệ: lính các đội để sai đi việc quan.
Sĩ dân : Những dân cho học tập chữ nghĩa.
Hiểu dụ : Nói rõ cho ai nấy đều hiểu.
Thiên: Ðổi đi nơi khác.
Sinh trưởng : Ðẻ ra, lớn lên.
Cơ nghiệp: Cơ là nền, nghiệp là nghề nghiệp, nói gồm của cải ruộng đất mình có, mình lấy nghề của mình mà gây nên.
Hạ lệnh: Ra một phép, một luật, một đạo công văn cáo giới gì mà bắt phải tua^n theo.
Lương thực: Thóc gạo, đồ ăn nuôi quân lính.
Cảm kích: Ngẫm nghĩ phát ra tư tưởng hay và hăng hái thêm lên.
LỜI BÀN:
Làm quan không che chở cho dân lúc giặc đến, lại sợ chết, muốn trốn tránh, thì chẳng là nhút nhát không hiểu cái nghĩa tận tâm với chức vụ là gì ư! Một ông huyện như thế đáng khinh bao nhiêu, thì một bà huyện như vợ ông huyện ấy lại đáng trọng bấy nhiêu. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Chỉ nhờ cái lòng can đảm của bà mà dân phải quả quyết, chồng phải cảm kích, mà huyện được an toàn. Quý nhất câu bà nói: "Giữ thành mà chết còn hơn chết ở xó giường" thì cái chí khí có kém gì những bậc tu mi, vừa anh hùng vừa khí phách.
Ðời nhà Ðường giặc Lý Hy Liệt đã đánh được Châu Biện, kéo đến đánh huyện Hạng Thành. Quan huyện Hạng Thành là Lý Khản muốn chạy trốn. Bà huyện họ Dương nói: "Giặc đến cướp thành thì phải hết sức giữ thành, giữ mà không được thì phải liều chết với thành, nay ông lại chực trốn, là nghĩa làm sao. Bây giờ cứ mộ quân cho nhiều, khao thưởng cho to, thiếp tưởng còn có thể giữ được thành".
Nói rồi, chính bà huyện hội họp cả nha lệ, sĩ dân lại hiểu dụ rằng: "Quan huyện là chủ các ngươi thật, song chẳng qua chỉ ở đây độ năm, ba năm, rồi cũng thiên đi nơi khác, không liên can lắm bằng các người sinh trưởng ở đất nầy, gây dựng cơ nghiệp ở đất nầy, mồ mả ông cha cũng ở đất nầy. Vậy sống, chết, các ngươi cũng phải hết sức mà giữ lấy thành thì mới được".
Ai nấy nghe đều cảm động, rơm rớm nước mắt và đoạn xin liều chết để cố giữ thành. Bà huyện hạ lệnh rằng: "Ai lấy gạch đá đánh được giặc, thưởng tiền một nghìn, ai lấy gươm giáo giết được giặc, thưởng tiền một muôn."
Tất cả được hơn một trăm người kéo nhau ra giữ thành, chống lại với giặc. Bà huyện thân đi trông nom lương thực cho quân lính. Khi giao chiến, quan huyện phải một mũi tên, lùi về, ý không muốn đánh nữa. Bà huyện giận nói: "Ông không ở đây, thì ai chịu liều chết? Cho ông giữ thành mà có chết nữa lại chẳng hơn chết ở xó giường ư"?
Ông huyện nghe cảm kích, hăng hái hơn trước, lại chạy lên thành, liều đánh một trận nữa, quân giặc túng thế phải kéo đi. Huyện Hạng Thành nhờ thế được an toàn. (Ðường Thư Liệt Nữ truyện)
GIẢI NGHĨA:
Ðường : Một nhà thống trị nước Tàu 618-901 sau Th. Ch.. Lý Hy Liệt : Người Liêu Tây đời vua Ðức Tôn nhà Ðường sau làm quan Tiết Ðộ Sứ.
Khao thưởng: Cho ăn uống rồi ban đồ vật gì để khen ngợi quan quân.
Thiếp: Tiếng vợ tự xưng mình khi nói với chồng.
Nha lệ : Nha: những lại làm việc công giúp quan; lệ: lính các đội để sai đi việc quan.
Sĩ dân : Những dân cho học tập chữ nghĩa.
Hiểu dụ : Nói rõ cho ai nấy đều hiểu.
Thiên: Ðổi đi nơi khác.
Sinh trưởng : Ðẻ ra, lớn lên.
Cơ nghiệp: Cơ là nền, nghiệp là nghề nghiệp, nói gồm của cải ruộng đất mình có, mình lấy nghề của mình mà gây nên.
Hạ lệnh: Ra một phép, một luật, một đạo công văn cáo giới gì mà bắt phải tua^n theo.
Lương thực: Thóc gạo, đồ ăn nuôi quân lính.
Cảm kích: Ngẫm nghĩ phát ra tư tưởng hay và hăng hái thêm lên.
LỜI BÀN:
Làm quan không che chở cho dân lúc giặc đến, lại sợ chết, muốn trốn tránh, thì chẳng là nhút nhát không hiểu cái nghĩa tận tâm với chức vụ là gì ư! Một ông huyện như thế đáng khinh bao nhiêu, thì một bà huyện như vợ ông huyện ấy lại đáng trọng bấy nhiêu. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Chỉ nhờ cái lòng can đảm của bà mà dân phải quả quyết, chồng phải cảm kích, mà huyện được an toàn. Quý nhất câu bà nói: "Giữ thành mà chết còn hơn chết ở xó giường" thì cái chí khí có kém gì những bậc tu mi, vừa anh hùng vừa khí phách.
Lam Dai Ngoc
THẾ NÀO LÀ TRUNG THẦN
Văn Quân đất Lỗ Dương bảo Mặc Tử: "Có kẻ nói với ta rằng: Trung thần là người bắt cúi, thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, để thì im, gọi thì thưa, như thế có cho là trung thần được không"?
Mặc Tử nói: "Bắt cúi thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, như thế khác gì cái bóng? Ðể thì im, gọi thì thưa, như thế khác gì tiếng vang? Quan liêu mà dùng đến những kẻ như bóng, như vang, thì còn được ích gì? - Cứ như tôi đây, mà gọi là trung thần, thì khi vua có lầm lỗi, phải liệu cách can ngăn mà đưa vào điều thiện; khi mình có điều hay, phải tìm đường bày tỏ, mà không lộ ra ngoài; trên thì thành thực một lòng, một dạ với vua; dưới thì không a dua vào bè, kết đảng với ai; những sự tốt lành yên vui thì để phần vua hưởng, những điều oán thù lo lắng thì mình hứng đựng. Có được như thế, thì tôi mới cho là trung thần".
(Mặc Tử)
GIẢI NGHĨA:
Trung thần : Người bầy tôi thật lòng và hết lòng với vua với nước.
Lộ ra ngoài: Không giữ kín đáo, đem nói cho người ngoài biết, một là có ý khoe tài của mình, hai là có bụng bêu xấu nhà vua.
A dua, vào bè, kết đảng : Người trung thần không phải là không bè bạn với ai, nhưng không đua theo phái nọ, đảng kia để tìm vây cánh cho mạnh, cầu lợi cho mình, người trung thần chỉ một lòng với vua với nước mà thôi.
LỜI BÀN:
Người nào mà ngôn ngữ, hành vi đã theo mình như cái bóng, như tiếng vang, một là người ngu xuẩn, hai là người xiểm nịnh. Người ngu xuẩn là hạng kém làm không nên việc, người xiểm nịnh là có ý chiều mình để kiếm lợi, hai dạng người ấy chẳng những mình không mong cậy gì được mà thường khi lại nguy hại đến mình nữa. Cho nên đạo làm vua, mà nói rộng cả đạo dụng người, phải biết kén những người dám can ngăn điều dở của mình, bày tỏ điều hay của họ, quên thân mà hết lòng với mình, thì mới là những kẻ có ích, giúp mình được việc vậy.
Văn Quân đất Lỗ Dương bảo Mặc Tử: "Có kẻ nói với ta rằng: Trung thần là người bắt cúi, thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, để thì im, gọi thì thưa, như thế có cho là trung thần được không"?
Mặc Tử nói: "Bắt cúi thì cúi, bắt ngửng thì ngửng, như thế khác gì cái bóng? Ðể thì im, gọi thì thưa, như thế khác gì tiếng vang? Quan liêu mà dùng đến những kẻ như bóng, như vang, thì còn được ích gì? - Cứ như tôi đây, mà gọi là trung thần, thì khi vua có lầm lỗi, phải liệu cách can ngăn mà đưa vào điều thiện; khi mình có điều hay, phải tìm đường bày tỏ, mà không lộ ra ngoài; trên thì thành thực một lòng, một dạ với vua; dưới thì không a dua vào bè, kết đảng với ai; những sự tốt lành yên vui thì để phần vua hưởng, những điều oán thù lo lắng thì mình hứng đựng. Có được như thế, thì tôi mới cho là trung thần".
(Mặc Tử)
GIẢI NGHĨA:
Trung thần : Người bầy tôi thật lòng và hết lòng với vua với nước.
Lộ ra ngoài: Không giữ kín đáo, đem nói cho người ngoài biết, một là có ý khoe tài của mình, hai là có bụng bêu xấu nhà vua.
A dua, vào bè, kết đảng : Người trung thần không phải là không bè bạn với ai, nhưng không đua theo phái nọ, đảng kia để tìm vây cánh cho mạnh, cầu lợi cho mình, người trung thần chỉ một lòng với vua với nước mà thôi.
LỜI BÀN:
Người nào mà ngôn ngữ, hành vi đã theo mình như cái bóng, như tiếng vang, một là người ngu xuẩn, hai là người xiểm nịnh. Người ngu xuẩn là hạng kém làm không nên việc, người xiểm nịnh là có ý chiều mình để kiếm lợi, hai dạng người ấy chẳng những mình không mong cậy gì được mà thường khi lại nguy hại đến mình nữa. Cho nên đạo làm vua, mà nói rộng cả đạo dụng người, phải biết kén những người dám can ngăn điều dở của mình, bày tỏ điều hay của họ, quên thân mà hết lòng với mình, thì mới là những kẻ có ích, giúp mình được việc vậy.
Lam Dai Ngoc
BÁO THÙ
Nước Ngô nước Việt đánh nhau .
Vua Ngô là Hạp Lư thua trận, phải quân Việt đâm chết. Con Hạp Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua, thề thế nào cũng phục thù được cho cha mới nghe . Phù Sai bèn cho người đứng ở sân, mỗi khi mình ra vào, người ấy phải nói to lên rằng: "Phù Sai kia! Nước Việt nó giết cha mầy mà mầy quên thù ư"?
Phù Sai thưa rằng: "Dạ không dám quên".
Ba năm sau, quả nhiên Phù Sai đánh được nước Việt, báo thù cho cha .
Lúc nước Việt thua, vua Việt là Câu Tiễn sai sứ sang cầu hòa. Tuy rằng được hòa; nhưng đêm ngày âu sầu, lo nghĩ nát gan, tan ruột. Chất củi làm giường nằm, treo cái mật trước chỗ ngồi. Khi nằm thì trông cái mật; khi ăn thì nếm cái mật. Chính thân thì cày cuốc, vợ thì dệt vải, làm ăn lao khổ như thường dân. Ai là bực hiền tài, thì trọng dụng; ai là kẻ khốn khó thì cứu giúp. Hơn hai mươi năm trời, lúc nào cũng như vậy. Sau Câu Tiễn xem chừng lòng dân đã chiếm được, bây giờ mới đem quân sang đánh Ngô, quả nhiên Ngô lại thua mà Việt được.
(Chu Thư)
GIẢI NGHĨA:
Phục thù: Báo lại được cái ác, cái nhục mà người cừu địch dã xử với mình hay với người can hệ của mình. Quả nhiên: Thật y như thế.
Hiền tài : Người có đức, có tài giỏi giang hơn quần chúng.
LỜI BÀN:
Một bên thì vì cha mà báo thù, một bên vì nước mà báo thù, hai cái thù không đội trời chung, mà dụng tâm theo đuổi đến báo kỳ được mới nghe thực là chính đáng, khiến ai nghe thấy cũng phải kính phục. Nếu Phù Sai, Câu Tiễn gặp cái cảnh đau đớn như thế, mà cứ mặt dày mày dạn điềm nhiên như không, thì chẳng là đất đá, không biết nhục là cái gì ư! Có biết nhục, vậy sau mới rửa được nhục. Khi đã rửa được nhục, lại cần phải tu tỉnh luôn luôn và quí nhất là cảm hóa và nâng đỡ kẻ thù đã chịu lui bước hay đầu hàng để cho họ đỡ đau khổ, có địa vị, thì mới yên lâu. Nếu rửa nhục xong mà kiêu căng đại họa, quên cả phòng bị thì lại chuốc lấy nhục mà oan oan tương báo, chỉ những tàn hại nhau hoài mà thôi!
Nước Ngô nước Việt đánh nhau .
Vua Ngô là Hạp Lư thua trận, phải quân Việt đâm chết. Con Hạp Lư là Phù Sai nối ngôi làm vua, thề thế nào cũng phục thù được cho cha mới nghe . Phù Sai bèn cho người đứng ở sân, mỗi khi mình ra vào, người ấy phải nói to lên rằng: "Phù Sai kia! Nước Việt nó giết cha mầy mà mầy quên thù ư"?
Phù Sai thưa rằng: "Dạ không dám quên".
Ba năm sau, quả nhiên Phù Sai đánh được nước Việt, báo thù cho cha .
Lúc nước Việt thua, vua Việt là Câu Tiễn sai sứ sang cầu hòa. Tuy rằng được hòa; nhưng đêm ngày âu sầu, lo nghĩ nát gan, tan ruột. Chất củi làm giường nằm, treo cái mật trước chỗ ngồi. Khi nằm thì trông cái mật; khi ăn thì nếm cái mật. Chính thân thì cày cuốc, vợ thì dệt vải, làm ăn lao khổ như thường dân. Ai là bực hiền tài, thì trọng dụng; ai là kẻ khốn khó thì cứu giúp. Hơn hai mươi năm trời, lúc nào cũng như vậy. Sau Câu Tiễn xem chừng lòng dân đã chiếm được, bây giờ mới đem quân sang đánh Ngô, quả nhiên Ngô lại thua mà Việt được.
(Chu Thư)
GIẢI NGHĨA:
Phục thù: Báo lại được cái ác, cái nhục mà người cừu địch dã xử với mình hay với người can hệ của mình. Quả nhiên: Thật y như thế.
Hiền tài : Người có đức, có tài giỏi giang hơn quần chúng.
LỜI BÀN:
Một bên thì vì cha mà báo thù, một bên vì nước mà báo thù, hai cái thù không đội trời chung, mà dụng tâm theo đuổi đến báo kỳ được mới nghe thực là chính đáng, khiến ai nghe thấy cũng phải kính phục. Nếu Phù Sai, Câu Tiễn gặp cái cảnh đau đớn như thế, mà cứ mặt dày mày dạn điềm nhiên như không, thì chẳng là đất đá, không biết nhục là cái gì ư! Có biết nhục, vậy sau mới rửa được nhục. Khi đã rửa được nhục, lại cần phải tu tỉnh luôn luôn và quí nhất là cảm hóa và nâng đỡ kẻ thù đã chịu lui bước hay đầu hàng để cho họ đỡ đau khổ, có địa vị, thì mới yên lâu. Nếu rửa nhục xong mà kiêu căng đại họa, quên cả phòng bị thì lại chuốc lấy nhục mà oan oan tương báo, chỉ những tàn hại nhau hoài mà thôi!
Lam Dai Ngoc
CÁCH DÙNG PHÁP LUẬT
Quí Cao làm quan sĩ sư nước Vệ có làm án chặt chân một người.
Sau nước Vệ loạn, Quí Cao chạy trốn, ra đến cửa thành, gặp người giữ cửa thành, lại chính là người mình chặt chân ngày trước.
Người ấy bảo: "Kìa có chỗ tường gỗ".
Quí Cao nói: "Người quân tử không trèo tường".
Lại bảo: "Kìa có lỗ hổng".
"Người quân tử không chui lỗ hổng".
Lại bảo: "ở đây có cái nhà".
Quí Cao mới chạy vào nhà ẩn. Bởi vậy mà quân đuổi theo không thể bắt được.
Lúc Quí Cao sắp đi, bảo người giữ thành rằng: "Nay ta gặp nạn, chính là cái dịp để ngươi báo thù mà ngươi ba lần chỉ lối cho ta trốn, thương ta như thế là nghĩa làm sao"?
Người giữ thành nói: "Tội tôi đáng chặt chân, tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ý muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đem ra hành hình nét mặt ông buồn rầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng gì tôi, đó là tâm địa bực quân tử tự nhiên như vậy... Thế cho nên tôi muốn cứu ông".
Ðức Khổng Tử nghe chuyện nầy, nói rằng: "Cũng là một cách dùng pháp luật, mà có lòng quân tử, thì gây nên ơn, dùng mà ra dáng tàn bạo thì gây nên oán. Như Quí Cao thật là người làm quan biết dùng pháp luật vậy".
(Gia Ngữ)
GIẢI NGHĨA:
Sĩ sư: Tên một chức quan đời nhà Chu, coi xét việc hình ngục.
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
Hành hình : Trị tội thật sự.
Tâm địa: Tấm lòng.
Pháp luật: Pháp, những cách nhất định đặt ra, ai nấy phải theo; luật: phép thường dùng để định phận, cho khỏi tranh nhau và phòng người làm xằng.
Tàn bạo : Hung ác quá lắm.
LỜI BÀN:
Người ta gia hình đến chặt chân mình, mình thấy người ta gặp cơn nguy cấp, chẳng những không báo thù, lại còn tìm cách cứu người ta, thế chẳng là biết dĩ đức báo oán, đáng gọi là nhân nhân du! Mình đang lúc nguy cấp, chết đến nơi mà còn không chịu trèo tường, chui lỗ, thế cũng chẳng là biết tự trọng phẩm giá đáng gọi là quân tử ru! Người canh cửa thành sở dĩ phục Quí Cao là vì Quí Cao biết dùng pháp luật. Ðã đành rằng pháp luật đặt ra là để trừng trị kẻ có tội, nhưng nếu cho như bất đắc dĩ mới phải khép vào án, lúc hành hình lại có chút bụng nhân từ ở trong, thì kẻ chịu tội mới thực tâm phục được. Người cầm pháp luật, tuy giữ lẽ công bình khép vào lý, nhưng ở trong còn có chút tình, thương kẻ mắc tội, thì mới là biết dùng pháp luật vậy. Nói rộng ra, trị kẻ tội ác mà kẻ tội ác ấy sau hóa ra người lương thiện. Quí Cao đây thật là một vị hình quan khôn ngoan trong hậu, biết đem hình pháp giúp cho sự giáo dục vậy.
Quí Cao làm quan sĩ sư nước Vệ có làm án chặt chân một người.
Sau nước Vệ loạn, Quí Cao chạy trốn, ra đến cửa thành, gặp người giữ cửa thành, lại chính là người mình chặt chân ngày trước.
Người ấy bảo: "Kìa có chỗ tường gỗ".
Quí Cao nói: "Người quân tử không trèo tường".
Lại bảo: "Kìa có lỗ hổng".
"Người quân tử không chui lỗ hổng".
Lại bảo: "ở đây có cái nhà".
Quí Cao mới chạy vào nhà ẩn. Bởi vậy mà quân đuổi theo không thể bắt được.
Lúc Quí Cao sắp đi, bảo người giữ thành rằng: "Nay ta gặp nạn, chính là cái dịp để ngươi báo thù mà ngươi ba lần chỉ lối cho ta trốn, thương ta như thế là nghĩa làm sao"?
Người giữ thành nói: "Tội tôi đáng chặt chân, tránh sao cho khỏi. Lúc ông luận tội, xoay xở pháp luật, ý muốn nới tay, tôi cũng biết. Lúc án đã định, đem ra hành hình nét mặt ông buồn rầu, tôi lại biết lắm. Ông làm như thế, há có vị riêng gì tôi, đó là tâm địa bực quân tử tự nhiên như vậy... Thế cho nên tôi muốn cứu ông".
Ðức Khổng Tử nghe chuyện nầy, nói rằng: "Cũng là một cách dùng pháp luật, mà có lòng quân tử, thì gây nên ơn, dùng mà ra dáng tàn bạo thì gây nên oán. Như Quí Cao thật là người làm quan biết dùng pháp luật vậy".
(Gia Ngữ)
GIẢI NGHĨA:
Sĩ sư: Tên một chức quan đời nhà Chu, coi xét việc hình ngục.
Vệ: Tên một nước thời Xuân Thu ở vào vùng tỉnh Trực Lệ và Hà Nam bây giờ.
Hành hình : Trị tội thật sự.
Tâm địa: Tấm lòng.
Pháp luật: Pháp, những cách nhất định đặt ra, ai nấy phải theo; luật: phép thường dùng để định phận, cho khỏi tranh nhau và phòng người làm xằng.
Tàn bạo : Hung ác quá lắm.
LỜI BÀN:
Người ta gia hình đến chặt chân mình, mình thấy người ta gặp cơn nguy cấp, chẳng những không báo thù, lại còn tìm cách cứu người ta, thế chẳng là biết dĩ đức báo oán, đáng gọi là nhân nhân du! Mình đang lúc nguy cấp, chết đến nơi mà còn không chịu trèo tường, chui lỗ, thế cũng chẳng là biết tự trọng phẩm giá đáng gọi là quân tử ru! Người canh cửa thành sở dĩ phục Quí Cao là vì Quí Cao biết dùng pháp luật. Ðã đành rằng pháp luật đặt ra là để trừng trị kẻ có tội, nhưng nếu cho như bất đắc dĩ mới phải khép vào án, lúc hành hình lại có chút bụng nhân từ ở trong, thì kẻ chịu tội mới thực tâm phục được. Người cầm pháp luật, tuy giữ lẽ công bình khép vào lý, nhưng ở trong còn có chút tình, thương kẻ mắc tội, thì mới là biết dùng pháp luật vậy. Nói rộng ra, trị kẻ tội ác mà kẻ tội ác ấy sau hóa ra người lương thiện. Quí Cao đây thật là một vị hình quan khôn ngoan trong hậu, biết đem hình pháp giúp cho sự giáo dục vậy.
Lam Dai Ngoc
67. THẬT GIẢ KHÓ PHÂN
Ở gò Lê Khưu có giống quỉ lạ. Nó bắt chước làm con cháu, anh em người ta thật là giống.
Có một ông trưởng giả gần vùng ấy, một hôm ở chợ về, chén say khướt. Lúc đi qua gò Lê Khưu con quỉ hiện hình lên làm con ông ta, tay ôm đỡ dìu dắt, nhưng miệng cứ lẩm bẩm nhiếc móc, kêu say sưa là xấu.
Trưởng giả về nhà, lúc tỉnh rượu, gọi con ra mắng: "Tao là cha mầy, tao có điều gì là ác nghiệt mà lúc tao say, mầy lại nỡ mỉa mai tao như vậy"!
Người con khóc, lạy cha và thưa rằng: "Oan quá! Thật con không dám như thế bao giờ. Con nghe đâu ở gò Lê Khưu có giống quỉ khéo bắt chước hiện lên làm người, có lẽ đây chăng"?
Trưởng giả dò hỏi, thì quả nhiên ai cũng bảo có như thế thật, ông mới định bụng hễ gặp giống quỉ ấy là đâm chết.
Hôm sau, ông lại đi chợ, lại chén say khướt mới về. Người con sợ cha lại gặp quỉ nó quấy nhiễu gì, bèn săm săm đi đón. Trưởng giả trông rõ con mình, nhưng cho là quỉ, liền rút gươm ra đâm chết.
(Lã Tử)
GIẢI NGHĨA:
Lê Khưu : Tên một cái gò cao, ở về địa phận huyện Ngu Thành tỉnh Hà Nam bây giờ.
Trưởng giả: Người đứng tuổi, thưởng chỉ những bậc có trí, có tài, có vai, có chức hay có của.
LỜI BÀN:
Khó thật! Làm thế nào cho rõ giả thực mà phân biệt được. Cái trò đời, đã gian, thì lại ngoan, kẻ gian phi, đã rắp tâm lừa ai, thì dùng thiên phương bách kế, làm cho phải mắc lừa mà vẫn có bụng tin. Cho nên khi ta ngờ điều gì, ta phải để cái trí sáng suốt mà dò xét cho đến nơi Chớ có vội hành động, lấy giả làm thực, cho thực là giả nhận quỉ làm con, giết con tưởng quỉ như trưởng giả nói trong truyện nầy, sau có hối lại cũng không kịp. Ðời này biết bao nhiêu chuyện vợ chồng, chuyện phe cánh, ngờ nhau tàn hại nhau, một khi sự thực hiện rõ ra, chỉ còn có ôm hận suốt đời, lúc nào cũng băn khoăn thương đến người đã khuất.
Ở gò Lê Khưu có giống quỉ lạ. Nó bắt chước làm con cháu, anh em người ta thật là giống.
Có một ông trưởng giả gần vùng ấy, một hôm ở chợ về, chén say khướt. Lúc đi qua gò Lê Khưu con quỉ hiện hình lên làm con ông ta, tay ôm đỡ dìu dắt, nhưng miệng cứ lẩm bẩm nhiếc móc, kêu say sưa là xấu.
Trưởng giả về nhà, lúc tỉnh rượu, gọi con ra mắng: "Tao là cha mầy, tao có điều gì là ác nghiệt mà lúc tao say, mầy lại nỡ mỉa mai tao như vậy"!
Người con khóc, lạy cha và thưa rằng: "Oan quá! Thật con không dám như thế bao giờ. Con nghe đâu ở gò Lê Khưu có giống quỉ khéo bắt chước hiện lên làm người, có lẽ đây chăng"?
Trưởng giả dò hỏi, thì quả nhiên ai cũng bảo có như thế thật, ông mới định bụng hễ gặp giống quỉ ấy là đâm chết.
Hôm sau, ông lại đi chợ, lại chén say khướt mới về. Người con sợ cha lại gặp quỉ nó quấy nhiễu gì, bèn săm săm đi đón. Trưởng giả trông rõ con mình, nhưng cho là quỉ, liền rút gươm ra đâm chết.
(Lã Tử)
GIẢI NGHĨA:
Lê Khưu : Tên một cái gò cao, ở về địa phận huyện Ngu Thành tỉnh Hà Nam bây giờ.
Trưởng giả: Người đứng tuổi, thưởng chỉ những bậc có trí, có tài, có vai, có chức hay có của.
LỜI BÀN:
Khó thật! Làm thế nào cho rõ giả thực mà phân biệt được. Cái trò đời, đã gian, thì lại ngoan, kẻ gian phi, đã rắp tâm lừa ai, thì dùng thiên phương bách kế, làm cho phải mắc lừa mà vẫn có bụng tin. Cho nên khi ta ngờ điều gì, ta phải để cái trí sáng suốt mà dò xét cho đến nơi Chớ có vội hành động, lấy giả làm thực, cho thực là giả nhận quỉ làm con, giết con tưởng quỉ như trưởng giả nói trong truyện nầy, sau có hối lại cũng không kịp. Ðời này biết bao nhiêu chuyện vợ chồng, chuyện phe cánh, ngờ nhau tàn hại nhau, một khi sự thực hiện rõ ra, chỉ còn có ôm hận suốt đời, lúc nào cũng băn khoăn thương đến người đã khuất.
Lam Dai Ngoc
68. TRUYỆN ĐƯỜI ƯƠI
Ở núi Phong Khê đất Thục có giống đười ươi, mặt như mặt người, biết cười, biết nói. Máu nó dùng để nhuộm màu, không bao giờ phai, nên người ta lừa bắt nó.
Tính đười ươi thích uống rượu, thích đi guốc. Người ta biết thế, đem rượu và guốc ra bày la liệt ở quãng đồng không, rồi đi nấp một chỗ. Ðười ươi ngửi hơi rượu, kéo nhau ra thấy rượu, thấy guốc, biết rằng dứ mình, bèn chửi rủa người lập mưu đánh bẫy, và nói thậm tệ đến cả ông cha người ấy. Ðoạn bảo nhau đi, lẩm bẩm nói chớ có mắc mưu cái loài khốn nạn chực hại mình... Song đã đi mà vẫn ngoảnh lại, rồi lại bảo nhau: "Ta thử nếm xem tưởng không hại gì". Tay chấm miệng mút, bén mùi làm mãi, thành say sưa mờ mịt, quên cả lời khôn, lẽ phải bấy lâu giữ gìn, chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói, cười cười, chân đưa vào guốc, thất thểu đi...
Người nấp bấy giờ đổ ra thì đười ươi lảo đảo chạy, con ngả nghiêng, con ngã ngửa, người ta bắt sạch không sót con nào.
Than ôi! biết rõ người ta lừa gạt mình, mà cứ tham lam mê muội để đến nỗi mắc lừa người ta mà mất mạng. Ngu lắm thay! Thật là ngu lắm thay!
(Diêu Dung)
Ở núi Phong Khê đất Thục có giống đười ươi, mặt như mặt người, biết cười, biết nói. Máu nó dùng để nhuộm màu, không bao giờ phai, nên người ta lừa bắt nó.
Tính đười ươi thích uống rượu, thích đi guốc. Người ta biết thế, đem rượu và guốc ra bày la liệt ở quãng đồng không, rồi đi nấp một chỗ. Ðười ươi ngửi hơi rượu, kéo nhau ra thấy rượu, thấy guốc, biết rằng dứ mình, bèn chửi rủa người lập mưu đánh bẫy, và nói thậm tệ đến cả ông cha người ấy. Ðoạn bảo nhau đi, lẩm bẩm nói chớ có mắc mưu cái loài khốn nạn chực hại mình... Song đã đi mà vẫn ngoảnh lại, rồi lại bảo nhau: "Ta thử nếm xem tưởng không hại gì". Tay chấm miệng mút, bén mùi làm mãi, thành say sưa mờ mịt, quên cả lời khôn, lẽ phải bấy lâu giữ gìn, chếnh choáng nghiêng ngả, nói nói, cười cười, chân đưa vào guốc, thất thểu đi...
Người nấp bấy giờ đổ ra thì đười ươi lảo đảo chạy, con ngả nghiêng, con ngã ngửa, người ta bắt sạch không sót con nào.
Than ôi! biết rõ người ta lừa gạt mình, mà cứ tham lam mê muội để đến nỗi mắc lừa người ta mà mất mạng. Ngu lắm thay! Thật là ngu lắm thay!
(Diêu Dung)
GIẢI NGHĨA:
Thục: Tức là Thục Quận ở về đất Tứ Xuyên bây giờ.
Thậm tệ : Quá chừng, không vì nể gì nữa.
LỜI BÀN:
Rượu chè, thuốc phiện, cờ bạc, trai gái... ở đời có bao nhiêu sự đam mê,
tuy vẫn biết là tai hại, mà khốn cái tính ngây, cái máu mê, nó như có
ma lực vẫn xui giục dun rủi ta rủ nhau, đua nhau mà tìm đến, mà say đắm,
có khi tai hại cũng không chừa. Than ôi! còn ở trên bờ vực sâu, mà
không biết giữ, thì đến lúc lăn xuống, ăn năn sao cho kịp! Cổ nhân đã có
câu: "Nhất thất túc, thành thiên cổ hận; thị bách niên thân", nghĩa là:
Lỡ bước một phen, nghìn đời ân hận; quay đầu nghĩ lại, chín suối ngậm
ngùi. Thật đáng ghê thay, cho nên người ta phải cẩn thận giữ mình, khi
đã biết sự đam mê có thể tai hại mình được, thì cố tự chủ, tự trị mà hãm
mình lại ngay, chớ để cho nhân dục thắng được thiên lý thì phí cả đời
người.
Lam Dai Ngoc
69. THUẬT XEM TƯỚNG
Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng.
Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi: "Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế"?
Người xem tướng thưa rằng: "Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn của người ta mà biết được người ta hay, hay dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy chơi với những bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép nước, thì thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh vượng. - Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một ích lợi. - Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi, nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trì yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục... Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay, hay dở".
Vua Trang Vương cho là phải. Bấy giờ kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc.
(Lã Thị Xuân Thu)
GIẢI NGHĨA:
Kinh : Cũng là tên nước Sở. Hiếu, đễ, thuần, cẩn: hiếu: ăn ở hết lòng với cha mẹ; đễ: kính thuận với bậc huynh trưởng; thuần: chân thật, tự nhiên; cẩn: chân chí không cẩu thả; thân: bản thân đối với nhà, với nước.
Cao thăng: Lên cao.
Quan gần : Quan tại triều, ở gần vua.
Quan xa : Quan ở các tỉnh xa kinh đô cùng ở chỗ biên thùy.
Chiến Quốc: Thời đại cuối đời nhà Chu 425-249 tr. Th. Ch. các nước hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh
là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hán, Triệu, Ngụy.
LỜI BÀN:
Ðại ý bài này cốt nói làm bạn với ai, thì rồi giống người ấy, làm bạn với người hay, thì thành hay, làm bạn với người dở, thì hóa dở, cũng như những câu phương ngôn của ta: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài". Cái thuật xem tướng đây thực ám hợp với câu ngạn ngữ tây: "Dis-moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es" nghĩa là: anh nói chơi với ai, thì tôi nói được anh là người thế nào. Bài này lại còn có ý chú trọng khuyên những người cầm vận mệnh một nước phải tín nhiệm hiền tài, để đồng công cộng tác và sửa đổi luôn luôn những quả ác cùng công việc sai lầm thì nội trị mới khá, ngoại giao mới hay được.
(đa tạ Đong Tuu đã type)
Nước Kinh có người xem tướng giỏi, nói câu nào trúng câu ấy. Trong nước xa gần đâu cũng biết tiếng.
Vua Trang Vương thấy thế, vời lại hỏi: "Nhà ngươi dùng thuật gì mà xem tướng giỏi như thế"?
Người xem tướng thưa rằng: "Thần không có thuật gì lạ cả. Thần chỉ xem bạn của người ta mà biết được người ta hay, hay dở. Như thần xem cho thường dân, mà thấy chơi với những bạn hiếu, đễ, thuần, cẩn biết giữ phép nước, thì thần đoán người dân ấy là người hay, thân tất một ngày một vẻ vang, nhà tất một ngày một thịnh vượng. - Như thần xem cho quan lại mà thấy chơi với những bạn thành, tín, có phẩm hạnh, thích điều phải thì thần đoán cho ông quan ấy là người tốt, làm quan tất mỗi ngày một cao thăng, giúp vua tất mỗi ngày một ích lợi. - Như thần xem cho vua chúa, mà thấy quan gần có lắm người hiền, quan xa có lắm người trung, lúc có lỗi, nhiều người can ngăn, thì thần đoán là ông vua giỏi, vua tất mỗi ngày một tôn trọng, nước tất mỗi ngày một trì yên, thiên hạ tất mỗi ngày một qui phục... Thần quả không có thuật gì lạ, chỉ xem người mà biết được người hay, hay dở".
Vua Trang Vương cho là phải. Bấy giờ kíp thu dùng những người tài giỏi, sau nước Sở thành cường thịnh nhất đời Chiến Quốc.
(Lã Thị Xuân Thu)
GIẢI NGHĨA:
Kinh : Cũng là tên nước Sở. Hiếu, đễ, thuần, cẩn: hiếu: ăn ở hết lòng với cha mẹ; đễ: kính thuận với bậc huynh trưởng; thuần: chân thật, tự nhiên; cẩn: chân chí không cẩu thả; thân: bản thân đối với nhà, với nước.
Cao thăng: Lên cao.
Quan gần : Quan tại triều, ở gần vua.
Quan xa : Quan ở các tỉnh xa kinh đô cùng ở chỗ biên thùy.
Chiến Quốc: Thời đại cuối đời nhà Chu 425-249 tr. Th. Ch. các nước hay đánh (chiến) nhau. Có bảy nước mạnh
là: Tần, Sở, Yên, Tề, Hán, Triệu, Ngụy.
LỜI BÀN:
Ðại ý bài này cốt nói làm bạn với ai, thì rồi giống người ấy, làm bạn với người hay, thì thành hay, làm bạn với người dở, thì hóa dở, cũng như những câu phương ngôn của ta: "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng", "ở bầu thì tròn, ở ống thì dài". Cái thuật xem tướng đây thực ám hợp với câu ngạn ngữ tây: "Dis-moi qui tu hantes, je te dirai qui tu es" nghĩa là: anh nói chơi với ai, thì tôi nói được anh là người thế nào. Bài này lại còn có ý chú trọng khuyên những người cầm vận mệnh một nước phải tín nhiệm hiền tài, để đồng công cộng tác và sửa đổi luôn luôn những quả ác cùng công việc sai lầm thì nội trị mới khá, ngoại giao mới hay được.
(đa tạ Đong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
09-25-2002, 06:54 PM
70. THEO AI PHẢI CẨN THẬN
Ðức Khổng Tử thấy kẻ đánh lưới chim sẻ chỉ đánh được thuần sẻ non vàng mép. Ngài bèn hỏi rằng: "Không đánh được sẻ già là tại làm sao"?
Kẻ đánh lưới nói: "Sẻ già biết sợ, cho nên khó được, sẻ non ham ăn, cho nên dễ bắt. Nếu sẻ non mà theo sẻ già, thì bắt sẻ non cũng khó, nhưng nếu sẻ già mà theo sẻ non, thì bắt sẻ già cũng dễ".
Ðức Khổng Tử nghe đoạn quay lại bảo học trò rằng: "Biết sợ để tránh tai hại, tham ăn mà quên nguy vong, đó đều là tính tự nhiên vậy. Song phúc hay họa lại do ở cái theo khôn hay theo dại. Cho nên người quân tử, trước khi theo ai, phải cẩn thận. Theo ai mà biết phòng xa như người lão luyện, thì được toàn thân, theo ai mà hay nông nổi như trẻ dại thì bại hoại".
Gia-Ngữ
GIẢI NGHĨA:
Thuần : Chỉ có một thứ thôị
Vàng mép: Chim sẻ con khi còn phải mớm thì mép vàng.
Nguy vong: nguy: không được yên; vong: mất, chết.
Phúc: Sự tốt lành, sung sướng.
Họa : Sự tội vạ không may.
Lão luyện: Bực người có tuổi, từng trải việc đời.
Toàn thân: Giữ trọn vẹn được tính mệnh.
Bại hoại: Hư hỏng, đổ nát.
LỜI BÀN:
Chim sẻ thế, người ta cũng thế, thường thường chỉ vì theo khôn, theo dại mà gặp phúc hay họa. Cho nên trước khi theo ai, ta phải xem xét cho cẩn thận. Chớ có nhắm mắt theo liều, đến khi hối lại, thì sự đã rồi, ăn năn không kịp. Cá đã theo vào lưới, thì dù có phân trần phải trái làm sao, người đánh lưới cũng không thả cho ra nữa.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Ðức Khổng Tử thấy kẻ đánh lưới chim sẻ chỉ đánh được thuần sẻ non vàng mép. Ngài bèn hỏi rằng: "Không đánh được sẻ già là tại làm sao"?
Kẻ đánh lưới nói: "Sẻ già biết sợ, cho nên khó được, sẻ non ham ăn, cho nên dễ bắt. Nếu sẻ non mà theo sẻ già, thì bắt sẻ non cũng khó, nhưng nếu sẻ già mà theo sẻ non, thì bắt sẻ già cũng dễ".
Ðức Khổng Tử nghe đoạn quay lại bảo học trò rằng: "Biết sợ để tránh tai hại, tham ăn mà quên nguy vong, đó đều là tính tự nhiên vậy. Song phúc hay họa lại do ở cái theo khôn hay theo dại. Cho nên người quân tử, trước khi theo ai, phải cẩn thận. Theo ai mà biết phòng xa như người lão luyện, thì được toàn thân, theo ai mà hay nông nổi như trẻ dại thì bại hoại".
Gia-Ngữ
GIẢI NGHĨA:
Thuần : Chỉ có một thứ thôị
Vàng mép: Chim sẻ con khi còn phải mớm thì mép vàng.
Nguy vong: nguy: không được yên; vong: mất, chết.
Phúc: Sự tốt lành, sung sướng.
Họa : Sự tội vạ không may.
Lão luyện: Bực người có tuổi, từng trải việc đời.
Toàn thân: Giữ trọn vẹn được tính mệnh.
Bại hoại: Hư hỏng, đổ nát.
LỜI BÀN:
Chim sẻ thế, người ta cũng thế, thường thường chỉ vì theo khôn, theo dại mà gặp phúc hay họa. Cho nên trước khi theo ai, ta phải xem xét cho cẩn thận. Chớ có nhắm mắt theo liều, đến khi hối lại, thì sự đã rồi, ăn năn không kịp. Cá đã theo vào lưới, thì dù có phân trần phải trái làm sao, người đánh lưới cũng không thả cho ra nữa.
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
09-25-2002, 06:58 PM
HOÀ THUẬN VỚI MỌI NGƯỜI
Lưu Ngưng Chi đang đi giày. Có người đến nhận, ông đưa ngay. Sau người ấy tìm thấy giày, đem giày ông lại trả. Ông nhất định không nhận nữa.
Thẩm Lân Sĩ đang đi giày. Cũng có người đến nhận. Sau người ta tìm thấy giày, vội đem trả lại, ông lân Sĩ nhận ngay. Việc này tuy là việc nhỏ mọn. Song ở đời, ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi.
Tô Thức
LỜI BÀN:
Giày của mình, mình đang đi, có người đến nhận mà mình cũng đưa, không thèm cãi "của tao, của mày" như Ngưng Chi và Lân Sĩ thực ở đời cũng là hiếm có. Kịp khi người ta tìm thấy giày của người ta, đem giày mình trả lại là người ta biết nhầm lỗi. Nếu mình khăng khăng không chịu nhận, là mình quá ư nghiêm khắc mà làm ngăn trở lòng hối của người ta. Bằng lòng nhận mới tỏ rõ tám lòng bao dung được người, mới thực là người đầy hoà khí để cư xử với quần chúng vậy.
(Theo Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân. NXB Trẻ, 1992)
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Lưu Ngưng Chi đang đi giày. Có người đến nhận, ông đưa ngay. Sau người ấy tìm thấy giày, đem giày ông lại trả. Ông nhất định không nhận nữa.
Thẩm Lân Sĩ đang đi giày. Cũng có người đến nhận. Sau người ta tìm thấy giày, vội đem trả lại, ông lân Sĩ nhận ngay. Việc này tuy là việc nhỏ mọn. Song ở đời, ta nên cư xử như ông Lân Sĩ, không nên như ông Ngưng Chi.
Tô Thức
LỜI BÀN:
Giày của mình, mình đang đi, có người đến nhận mà mình cũng đưa, không thèm cãi "của tao, của mày" như Ngưng Chi và Lân Sĩ thực ở đời cũng là hiếm có. Kịp khi người ta tìm thấy giày của người ta, đem giày mình trả lại là người ta biết nhầm lỗi. Nếu mình khăng khăng không chịu nhận, là mình quá ư nghiêm khắc mà làm ngăn trở lòng hối của người ta. Bằng lòng nhận mới tỏ rõ tám lòng bao dung được người, mới thực là người đầy hoà khí để cư xử với quần chúng vậy.
(Theo Cổ học tinh hoa của Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân. NXB Trẻ, 1992)
(đa tạ Dong Tuu đã type)
Lam Dai Ngoc
10-01-2002, 11:54 AM
71. Say Tỉnh Đục Trong
Khuất Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài Vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải phóng-khí. Mặt mũi tiều tụy, hình dong khô héo, Khuất Nguyên vừa đi, vừa hát trên bờ đầm.
Có ông lão đánh cá trông thấy, hỏi rằng:
-Ông có phải là Tam lư đại phu đó không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy?
Khuất Nguyên nói:
-Cả đời đục cả, một mình ta trong ; mọi người say cả, một mình ta tỉnh ; bởi vậy cho nên ta phải phóng khí.
Oâng lão đánh cá nói:
-Thánh nhân không câu nệ việc gì, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể ; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí ?
Khuất Nguyên nói:
-Tôi nghe: mới gội đầu tất phải chải mũ, mới tắm ra tất phải thay áo ; có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được? Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác trong bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để dây phải bụi dơ.
Ông lão đánh cá nghe nói tủm tỉm cười, quay bơi chèo đi, rồi hát rằng:
Sông Tương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta,
Sông Tương nước đục phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, đi thẳng, không nói gì nữa cả.
Khuất Nguyên
Giải Nghĩa:
Sàm băng: dèm pha, chế mĩa
Phóng khí: đuổi đi nơi khác, bỏ không dùng nữa
Tam lư đại phu: quan đại phu Tam Lư, Tam lư là họ của Khuất Nguyên
Tương: sông Tương giang, một con sông lớn chảy qua tỉnh Hồ Nam, rồi nhập vào Động Đình hồ
Lèo: giải mũ, mũ thường có hai giải để buộc cho chặt (mũ đời cổ)
Lời bàn:
Bài này tác giả chính là Khuất Nguyên, mượn lời lão đánh cá mà đặt lối vấn đáp. Mấy câu hát của lão đánh cá, thì có ý khuyên Khuất Nguyên hoa quang đồng trần với đời, mấy câu Khuất Nguyên nói thì lại phản đối lại ; “chết thời thôi, chớ không chịu theo thời, không chịu dày dạn, sống đục không bằng thác trong.” Oâi! Không nỡ bỏ nước nhà mà lẩn lút đi ở nơi khác lại cũng không chịu cùng tiểu nhân mà cẩu thả sống, cho nên khi qua đời, quảnhiên vùi xác vào bụng cá trong sông Mịch la, lấy nước sông Mịch mà tẩy uế sự dơ bẩn, thật là nghìn thu trung nghĩa, dòng nước trong xanh, khiến cho ai xem truyện Khuất Nguyên cũng đều ngậm ngùi thương nhớ và sinh lòng phấn khởi.
Khuất Nguyên làm quan đại phu cho đời Hoài Vương nước Sở, bị kẻ sàm báng mà phải phóng-khí. Mặt mũi tiều tụy, hình dong khô héo, Khuất Nguyên vừa đi, vừa hát trên bờ đầm.
Có ông lão đánh cá trông thấy, hỏi rằng:
-Ông có phải là Tam lư đại phu đó không? Sao mà đến nỗi khốn khổ như vậy?
Khuất Nguyên nói:
-Cả đời đục cả, một mình ta trong ; mọi người say cả, một mình ta tỉnh ; bởi vậy cho nên ta phải phóng khí.
Oâng lão đánh cá nói:
-Thánh nhân không câu nệ việc gì, lại hay tùy thời. Có phải cả đời đục cả, sao không khuấy thêm bùn, vỗ thêm sóng cho đục một thể ; loài người say cả, sao ông không ăn cả men, húp cả bã cho say một thể? Việc gì mà phải lo xa, nghĩ sâu, để cho đến nỗi phải phóng khí ?
Khuất Nguyên nói:
-Tôi nghe: mới gội đầu tất phải chải mũ, mới tắm ra tất phải thay áo ; có đâu lại chịu đem cái thân trong sạch mà để cho vật dơ bẩn dính vào mình được? Chẳng thà nhảy xuống sông Tương, vùi xác trong bụng cá, chớ sao đang trắng lôm lốp, lại chịu để dây phải bụi dơ.
Ông lão đánh cá nghe nói tủm tỉm cười, quay bơi chèo đi, rồi hát rằng:
Sông Tương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta,
Sông Tương nước đục phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Hát xong, đi thẳng, không nói gì nữa cả.
Khuất Nguyên
Giải Nghĩa:
Sàm băng: dèm pha, chế mĩa
Phóng khí: đuổi đi nơi khác, bỏ không dùng nữa
Tam lư đại phu: quan đại phu Tam Lư, Tam lư là họ của Khuất Nguyên
Tương: sông Tương giang, một con sông lớn chảy qua tỉnh Hồ Nam, rồi nhập vào Động Đình hồ
Lèo: giải mũ, mũ thường có hai giải để buộc cho chặt (mũ đời cổ)
Lời bàn:
Bài này tác giả chính là Khuất Nguyên, mượn lời lão đánh cá mà đặt lối vấn đáp. Mấy câu hát của lão đánh cá, thì có ý khuyên Khuất Nguyên hoa quang đồng trần với đời, mấy câu Khuất Nguyên nói thì lại phản đối lại ; “chết thời thôi, chớ không chịu theo thời, không chịu dày dạn, sống đục không bằng thác trong.” Oâi! Không nỡ bỏ nước nhà mà lẩn lút đi ở nơi khác lại cũng không chịu cùng tiểu nhân mà cẩu thả sống, cho nên khi qua đời, quảnhiên vùi xác vào bụng cá trong sông Mịch la, lấy nước sông Mịch mà tẩy uế sự dơ bẩn, thật là nghìn thu trung nghĩa, dòng nước trong xanh, khiến cho ai xem truyện Khuất Nguyên cũng đều ngậm ngùi thương nhớ và sinh lòng phấn khởi.
TrucNhi
10-06-2002, 07:10 PM
72. NHAN SÚC NÓI CHUYỆN VỚI TỀ VƯƠNG
Vua Tuyên Vương nước Tề đến chơi nhà Nhan Súc.
Vua bảo: "Súc lại đây".
Nhan Súc cung bảo: “Vua lại đây”
Các quan thấy vậy, nói: “Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ thần hạ, Vua bảo: "Súc lại đây", Súc cũng bảo: “Vua lại đây” ; như thế có nghe được hay không ?".
Nhan Súc nói: 'Vua gọi Súc, mà Súc lại thì Súc là người hâm mộ thần thế. Súc gọi vua mà vua lại thì vua
là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ quyền thế thì sao bằng để nhà vua được tiếng là quý trọng hiền tài".
Vua nghe nói giận lắm, gắt lên rằng: “Vua quý hay kẻ sĩ quý ?”.
Nhan Súc đáp: "Sĩ quý vua không quý".
Vua hỏi: “Có sách nào nói thế không?”
Nhan Súc thưa: "Có. Ngày trước, nước Tần sang đánh nước Tề, có hạ lệnh: "Ai dám đến gần mộ ông Liễu
Hạ Quý mà kiếm củi, thì phải xử tử". Lại có lệnh: “Ai lấy được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lạng vàng”. Xem thế đủ biết cái dầu ông vua sống thực không bằng cái mả kẻ sĩ đã chết".
Vua Tuyên Vương nói: "Than ôi ! Người quân tử ai mà dám khinh ! Quả nhân cam chịu lỗi. Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho . Tiên sinh mà về với quả nhân, thì được ăn sung, mặc sướng, lên xe, xuống ngựa, vợ con được quần áo xênh xang tha hồ đẹp ?".
Nhan Súc từ chối, nói: "Ngọc vốn ở núi, lấy ra mài dũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày biện có phần quý báu, nhưng cũng là hỏng, vì vóc ngọc không còn. Kẻ sĩ sinh nơi thôn dã bỏ ra làm quan, tuy vinh hiển thật, song tinh thần không còn được toàn. Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn thì cũng ngon miệng như ăn cơm thịt; lúc đi, cứ bước một khoan thai, thì cũng nhẹ nhàng như lên xe, xuống
ngựa; suốt đời không tội lỗi cùng ai, thì cũng sung sướng như quan cao chức trọng. Hình thần lúc nào cũng được trong sạch chính đính, thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi .
Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.
CHÚ THÍCH
Liễu Hạ Quý người hiền sĩ thời Xuân Thu .
LỜI BÀN:
Xem lời Nhan Súc đôi đáp với vua Tuyên Vương thì đủ biết phẩm giá con người ta thực quý hơn ngôi vua chúa . Thế mà ở đời nhiều kẻ ham mê phú quý. đến nối mất cà nhân cách. chôn cả lương tâm, thì thật là khờ dại. đem một sự rất quý mà đổi lấy những sự hảo huyền bế ngoài rất đáng khinh. Người ta có vô cầu mà giữ được thiền tước, không ít bản tính thì suốt đời mới không nhục và nhân phẩm mới cao .
Vua Tuyên Vương nước Tề đến chơi nhà Nhan Súc.
Vua bảo: "Súc lại đây".
Nhan Súc cung bảo: “Vua lại đây”
Các quan thấy vậy, nói: “Vua là bậc chí tôn, Súc là kẻ thần hạ, Vua bảo: "Súc lại đây", Súc cũng bảo: “Vua lại đây” ; như thế có nghe được hay không ?".
Nhan Súc nói: 'Vua gọi Súc, mà Súc lại thì Súc là người hâm mộ thần thế. Súc gọi vua mà vua lại thì vua
là người quý trọng hiền sĩ. Nếu để Súc này mang tiếng hâm mộ quyền thế thì sao bằng để nhà vua được tiếng là quý trọng hiền tài".
Vua nghe nói giận lắm, gắt lên rằng: “Vua quý hay kẻ sĩ quý ?”.
Nhan Súc đáp: "Sĩ quý vua không quý".
Vua hỏi: “Có sách nào nói thế không?”
Nhan Súc thưa: "Có. Ngày trước, nước Tần sang đánh nước Tề, có hạ lệnh: "Ai dám đến gần mộ ông Liễu
Hạ Quý mà kiếm củi, thì phải xử tử". Lại có lệnh: “Ai lấy được đầu vua Tề thì được phong hầu và thưởng nghìn lạng vàng”. Xem thế đủ biết cái dầu ông vua sống thực không bằng cái mả kẻ sĩ đã chết".
Vua Tuyên Vương nói: "Than ôi ! Người quân tử ai mà dám khinh ! Quả nhân cam chịu lỗi. Nay quả nhân xin làm đệ tử để tiên sinh dạy bảo cho . Tiên sinh mà về với quả nhân, thì được ăn sung, mặc sướng, lên xe, xuống ngựa, vợ con được quần áo xênh xang tha hồ đẹp ?".
Nhan Súc từ chối, nói: "Ngọc vốn ở núi, lấy ra mài dũa, chế làm đồ vật, tuy đem bày biện có phần quý báu, nhưng cũng là hỏng, vì vóc ngọc không còn. Kẻ sĩ sinh nơi thôn dã bỏ ra làm quan, tuy vinh hiển thật, song tinh thần không còn được toàn. Súc xin ở nhà, lúc đói mới ăn thì cũng ngon miệng như ăn cơm thịt; lúc đi, cứ bước một khoan thai, thì cũng nhẹ nhàng như lên xe, xuống
ngựa; suốt đời không tội lỗi cùng ai, thì cũng sung sướng như quan cao chức trọng. Hình thần lúc nào cũng được trong sạch chính đính, thế là đủ khoan khoái cho Súc rồi .
Nói đoạn, Nhan Súc tạ vua Tuyên Vương mà lui vào.
CHÚ THÍCH
Liễu Hạ Quý người hiền sĩ thời Xuân Thu .
LỜI BÀN:
Xem lời Nhan Súc đôi đáp với vua Tuyên Vương thì đủ biết phẩm giá con người ta thực quý hơn ngôi vua chúa . Thế mà ở đời nhiều kẻ ham mê phú quý. đến nối mất cà nhân cách. chôn cả lương tâm, thì thật là khờ dại. đem một sự rất quý mà đổi lấy những sự hảo huyền bế ngoài rất đáng khinh. Người ta có vô cầu mà giữ được thiền tước, không ít bản tính thì suốt đời mới không nhục và nhân phẩm mới cao .
TrucNhi
10-06-2002, 07:11 PM
73. KHÂU CHUẨN THƯƠNG NHỚ MẸ
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ, tính hay du đảng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim, chơi chó. Bà mẹ ông vốn là người nghiêm khấc; thấy con thế quở phạt luôn, mà ông vẫn không chừa.
Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm cái quả cân ném ông, trúng phải chân, máu chảy đầm đìa... Ông bị đau, ít lâu mới khỏi. Tự bấy giờ, ông không dám lêu lỏng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về . sau, thi đỗ, làm quan đến Tể Tướng. Lúc ông quý hiển, thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân, thì ông lại nức nở khóc lóc và nói rằng: chính cái
vết thương này làm cho ta nên người đây".
Nhân Phả
Chú thích:
Khấu Chuẩn. người đời nhà Tống đổ Tiến sĩ, làm quan đời vua Chân Tôn đến chức Tể Tướng. có công đánh giặc Khiết, Đan .
Lời bàn:
Mẹ làm cho con đến chảy máu chân đến thành vết thương cũng là quá. Nhưng chẳng qua cũng là một cơn giận dữ bất ngờ đến nỗi thế. Chớ thực bản tâm là có ý muốn răn bảo con, cố làm cho con chừa dược những nết xấu đi, thực là một bà hiền mẫu biết dạy con vậy. Còn ông Khấu Chuẩn vì cái vết thương ấy mà thành ra học tập trở nên một người quý hiển, mỗi khi trông
thấy vết chân lại ngậm ngùi nhớ đến mẹ thì cũng là một đứa con khá biết nghe lời mẹ và thương mẹ suốt đời vậy.
Ông Khấu Chuẩn thuở nhỏ, tính hay du đảng, không giữ lễ phép, lại thích chơi chim, chơi chó. Bà mẹ ông vốn là người nghiêm khấc; thấy con thế quở phạt luôn, mà ông vẫn không chừa.
Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm cái quả cân ném ông, trúng phải chân, máu chảy đầm đìa... Ông bị đau, ít lâu mới khỏi. Tự bấy giờ, ông không dám lêu lỏng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về . sau, thi đỗ, làm quan đến Tể Tướng. Lúc ông quý hiển, thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân, thì ông lại nức nở khóc lóc và nói rằng: chính cái
vết thương này làm cho ta nên người đây".
Nhân Phả
Chú thích:
Khấu Chuẩn. người đời nhà Tống đổ Tiến sĩ, làm quan đời vua Chân Tôn đến chức Tể Tướng. có công đánh giặc Khiết, Đan .
Lời bàn:
Mẹ làm cho con đến chảy máu chân đến thành vết thương cũng là quá. Nhưng chẳng qua cũng là một cơn giận dữ bất ngờ đến nỗi thế. Chớ thực bản tâm là có ý muốn răn bảo con, cố làm cho con chừa dược những nết xấu đi, thực là một bà hiền mẫu biết dạy con vậy. Còn ông Khấu Chuẩn vì cái vết thương ấy mà thành ra học tập trở nên một người quý hiển, mỗi khi trông
thấy vết chân lại ngậm ngùi nhớ đến mẹ thì cũng là một đứa con khá biết nghe lời mẹ và thương mẹ suốt đời vậy.
TrucNhi
10-06-2002, 07:11 PM
74. TÌNH MẸ CON CỦA LOÀI VƯỢN
Ở đất Vũ Bình có giống vượn lông đỏ như vang, nơn như tơ trông xa nhấp nhánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan tai quái. con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc não cũng đi liền bên vượn mẹ. Người đi săn không thể nào nhử mồi. đánh bẫy được. mới lấy thuốc độc xát đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Vượn mẹ biết mình không thể sống được, vắt sữa .
ra cho con uống. xong rồi lăn ra chết. Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quật vào cái xác vượn mẹ. Vượn con thấy kêu gào thương xót, chạy lại gần, người đi săn bắt sống được. Lúc về nhà cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên bác mẹ, thì mới yên; một đôi khi lại ôm lấy kêu gào vật vả rất thảm thiết. Không được mấy hôm, vượn con cũng chết.
Than ôi ! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ, liều chết với mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ lòng mẹ ư !
Tồng Liêm
CHÚ THÍCH:
Vũ Bình: tên đất ở vào địa phận phủ Định Châu tỉnh Phúc kiến bây giờ. "
Tống Liêm: người đời nhà Minh học giỏi, nhớ người từ lúc trẻ đến lúc già, không có hôm nào rời quyển sách văn chương dồi dào làm nhà Nguyên 210 quyển.
Lời Bàn:
Vượn mẹ đến chết án còn thương con thực là “người mẹ sinh ra chỉ để thương con” Vượn con thuơng mẹ đến nổi phải chết thực là đáng khen và đáng làm gương cho những mẹ bất từ, những con bất hiếu ở vào thời đại phong hoá suy đồi này .
Ở đất Vũ Bình có giống vượn lông đỏ như vang, nơn như tơ trông xa nhấp nhánh rất là đẹp mắt. Có hai mẹ con vượn, mẹ thì khôn ngoan tai quái. con thì ngây ngô, nhẹ dạ, nhưng lúc não cũng đi liền bên vượn mẹ. Người đi săn không thể nào nhử mồi. đánh bẫy được. mới lấy thuốc độc xát đầu mũi tên, rình lúc vượn mẹ vô ý thì bắn. Vượn mẹ biết mình không thể sống được, vắt sữa .
ra cho con uống. xong rồi lăn ra chết. Người đi săn quay về phía vượn con, cầm roi quật vào cái xác vượn mẹ. Vượn con thấy kêu gào thương xót, chạy lại gần, người đi săn bắt sống được. Lúc về nhà cứ đêm đêm, vượn con nằm phục bên bác mẹ, thì mới yên; một đôi khi lại ôm lấy kêu gào vật vả rất thảm thiết. Không được mấy hôm, vượn con cũng chết.
Than ôi ! Vượn là giống vật còn biết thương mẹ, liều chết với mẹ, huống chi là giống người lại nỡ nhẫn tâm quên mẹ, phụ lòng mẹ ư !
Tồng Liêm
CHÚ THÍCH:
Vũ Bình: tên đất ở vào địa phận phủ Định Châu tỉnh Phúc kiến bây giờ. "
Tống Liêm: người đời nhà Minh học giỏi, nhớ người từ lúc trẻ đến lúc già, không có hôm nào rời quyển sách văn chương dồi dào làm nhà Nguyên 210 quyển.
Lời Bàn:
Vượn mẹ đến chết án còn thương con thực là “người mẹ sinh ra chỉ để thương con” Vượn con thuơng mẹ đến nổi phải chết thực là đáng khen và đáng làm gương cho những mẹ bất từ, những con bất hiếu ở vào thời đại phong hoá suy đồi này .
TrucNhi
10-06-2002, 07:29 PM
75. HỌC TRÒ BIẾT HỌC
Công Mình Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà không mấy khi đọc sách.
Thầy Tăng Tử hỏi: "Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý ngươi không mấy khi học tập sách vở như các anh em, là tại làm sao?”
Công Minh Tuyên nói: thưa thầy, con vẫn học. Con thấy thầy ở trong nhà, trước mặt song thân, lúc nào cũng hiếu thuận hoà nhã, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ; thầy ứng tiếp bạn bè cung kinh ưng dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đểu khâm phục thầy ở triều đình, đối với kẻ dưới bề ngoài rất là nghiêm trọng, mà trong bụng rất là nhân
từ không có ý hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng mà mái làm chưa được. Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy".
Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ lại Công Minh Tuyên và nói trắng: “Ta nay không bằng nhà ngươi”.
Thuyết Uyển
CHÚ THÍCH.
Cồng Minh Tuyên người nước Lỗ về đời Xuân Thu, học trò của Tăng Tử
Lời Bàn
Học trò như Công Minh Tuyên, thầy dạy như Tăng Tử, mới thật là học trò biết học, ông thầy biết dạy, xứng đáng thầy trò vậy . Làm ông thầy, không những lấy trí thức mà truyền thụ, lại con lấy đức tính đê làm gương giáo hoá cho kẻ đi học nữa . Sách có câu: “Di ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo” cũng là lấy nghĩa ấy. Làm học trò không những bo bo ở việc học tập văn bài, lại phải học cả động, tính. ngữ. mặc, thái độ, hình dung của thầy để bất chước cho được như thầy nữa . Học như thế mới học được cái tinh hoa . Công Minh Tuyên chỉ học ba điều kể bài này , mà tức là học được đủ bổn phận của một người đối với gia tộc và xã hội vậy. Đây là học ở trường học thường mà biết học còn hay như thế huống chi học trường tự nhiên là trường thế giới mà biết học thì hay còn biết đến là chừng nào !
Công Mình Tuyên đến học thầy Tăng Tử. Ở nhà thầy đã ba năm mà không mấy khi đọc sách.
Thầy Tăng Tử hỏi: "Ngươi đến đây học đã ba năm nay, ta xem ý ngươi không mấy khi học tập sách vở như các anh em, là tại làm sao?”
Công Minh Tuyên nói: thưa thầy, con vẫn học. Con thấy thầy ở trong nhà, trước mặt song thân, lúc nào cũng hiếu thuận hoà nhã, cho đến giống vật như chó, mèo, thầy cũng không quở mắng bao giờ; thầy ứng tiếp bạn bè cung kinh ưng dung, rất có lễ độ, kẻ dở người hay, ai nấy đểu khâm phục thầy ở triều đình, đối với kẻ dưới bề ngoài rất là nghiêm trọng, mà trong bụng rất là nhân
từ không có ý hại ai bao giờ cả. Ba điều ấy con lấy làm vui lòng mà mái làm chưa được. Con đâu dám không học mà cứ ở cửa nhà thầy".
Thầy Tăng Tử nghe đoạn, tạ lại Công Minh Tuyên và nói trắng: “Ta nay không bằng nhà ngươi”.
Thuyết Uyển
CHÚ THÍCH.
Cồng Minh Tuyên người nước Lỗ về đời Xuân Thu, học trò của Tăng Tử
Lời Bàn
Học trò như Công Minh Tuyên, thầy dạy như Tăng Tử, mới thật là học trò biết học, ông thầy biết dạy, xứng đáng thầy trò vậy . Làm ông thầy, không những lấy trí thức mà truyền thụ, lại con lấy đức tính đê làm gương giáo hoá cho kẻ đi học nữa . Sách có câu: “Di ngôn vi giáo, dĩ thân vi giáo” cũng là lấy nghĩa ấy. Làm học trò không những bo bo ở việc học tập văn bài, lại phải học cả động, tính. ngữ. mặc, thái độ, hình dung của thầy để bất chước cho được như thầy nữa . Học như thế mới học được cái tinh hoa . Công Minh Tuyên chỉ học ba điều kể bài này , mà tức là học được đủ bổn phận của một người đối với gia tộc và xã hội vậy. Đây là học ở trường học thường mà biết học còn hay như thế huống chi học trường tự nhiên là trường thế giới mà biết học thì hay còn biết đến là chừng nào !
Cong tu bot
11-04-2002, 09:27 PM
Một
người nhà quê dãi cỏ phơi ở chân gịâu. Hôm sau ra vơ cỏ, nghe thấy
tiếng kêu "tích tích"; lật lên xem thì bắt ngay được một con chim trĩ .
Anh ta thấy thế, lại cứ để cỏ đấy, có ý mong ngày mai lại bắt được con trĩ nữa . Hôm sau ra, lắng tai nghe lại thấy tiếng "tích tích" như hôm trước. Trong bụng mừng thầm , anh ta liền bới cỏ lên nhưng trong đó lại là một con rắn và nó cắn ngay vào tay anh ta. Anh ta bị thương rồi chết .
Úc Ly Tử nói rằng : "Một việc nhỏ ấy đủ làm gương cho tạ Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế, mà may được thế; cũng có cái hoạ không ngờ đến thế mà xảy ra thế !"
Úc Ly Tử
Lời bàn :
Sự may rủi người ta không thể lường trước đước . Trong cái may biết đâu không có cái rủi và trong cái rủi biết đâu rằng không có cái may ?
Cũng một việc bận trước may mà bận sau chẳng may , như người nhà quê trong truyện lúc đầu gặp trĩ có lợi nhưng sau lại gặp rắn nên bị cắn chết .
Có câu : " Tham thì thâm". Đã đắc ý một lần không nên lại đến nữa . Đến không những không được như lần trước mà lại bị khinh bỉ khổ nhục nữa .
Anh ta thấy thế, lại cứ để cỏ đấy, có ý mong ngày mai lại bắt được con trĩ nữa . Hôm sau ra, lắng tai nghe lại thấy tiếng "tích tích" như hôm trước. Trong bụng mừng thầm , anh ta liền bới cỏ lên nhưng trong đó lại là một con rắn và nó cắn ngay vào tay anh ta. Anh ta bị thương rồi chết .
Úc Ly Tử nói rằng : "Một việc nhỏ ấy đủ làm gương cho tạ Trong thiên hạ có cái phúc không tưởng được thế, mà may được thế; cũng có cái hoạ không ngờ đến thế mà xảy ra thế !"
Úc Ly Tử
Lời bàn :
Sự may rủi người ta không thể lường trước đước . Trong cái may biết đâu không có cái rủi và trong cái rủi biết đâu rằng không có cái may ?
Cũng một việc bận trước may mà bận sau chẳng may , như người nhà quê trong truyện lúc đầu gặp trĩ có lợi nhưng sau lại gặp rắn nên bị cắn chết .
Có câu : " Tham thì thâm". Đã đắc ý một lần không nên lại đến nữa . Đến không những không được như lần trước mà lại bị khinh bỉ khổ nhục nữa .
Lam Dai Ngoc
08-16-2003, 05:25 PM
Họa Phúc Không Lường
Một ông lão ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ mất . Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lão nói: "Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu!"
Cách mấy tháng, con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa . Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ . Ông lão nói: "Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy biết đâu!"
Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lào nói: "Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu!"
Cách một năm sau, có giặc Hồ . Nha vua bắt lính đi đánh giặc . Quân lính mười người chết đến chín . Chỉ con ông lào vì què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau .
Hoài Nam Tử
Giải Nghĩa:
khôn lường : Khó lòng dò biết được
Cửa ải: Chỗ hai nước giáp nhau mà có đường đi lại
Quyến: rủ rê đem về
Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài Nam Vương, làm sách nói về đạo đức .
Lời bàn:
Họa phúc xoay vần, khó lòng biết được . Trong cái phúc, thường khi có cái hoạ nấp sẵn ở đấy, trong cái hoạ, thường khi lại có cái phúc nấp sẵn ở đấy . Cho nên đối với sự hoạ phúc, ta không nên vội lấy việc chỉ có một thời mà quyết định cho là hay mãi, hay dở mãi được . Ta chỉ nên, khi gặp phúc thì thao thủ cẩn thận, đừng có kie6u xa phóng túng, may mà giữ được phúc lâu dài; khi gặp hoạ, thì tu tỉnh lấy thân, đừng có ngã lòng, đừng có oán trách, may mà qua được họa lại gặp được phúc chăng.
Một ông lão ở gần cửa ải có con ngựa tự nhiên đi sang nước Hồ mất . Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lão nói: "Mất ngựa thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu!"
Cách mấy tháng, con ngựa về lại quyến thêm được một con ngựa hay nữa . Người quen kẻ thuộc đều đến mừng rỡ . Ông lão nói: "Được ngựa thế mà họa cho tôi đấy biết đâu!"
Từ khi được ngựa hay, con ông lão thích cưỡi, chẳng may ngã què chân. Người quen kẻ thuộc đều đến hỏi thăm. Ông lào nói: "Con què thế mà phúc cho tôi đấy biết đâu!"
Cách một năm sau, có giặc Hồ . Nha vua bắt lính đi đánh giặc . Quân lính mười người chết đến chín . Chỉ con ông lào vì què không phải đi lính, mà cha con vẫn có nhau .
Hoài Nam Tử
Giải Nghĩa:
khôn lường : Khó lòng dò biết được
Cửa ải: Chỗ hai nước giáp nhau mà có đường đi lại
Quyến: rủ rê đem về
Hoài Nam Tử: tên là Lưu An, tôn thất nhà Tây Hán, tức Hoài Nam Vương, làm sách nói về đạo đức .
Lời bàn:
Họa phúc xoay vần, khó lòng biết được . Trong cái phúc, thường khi có cái hoạ nấp sẵn ở đấy, trong cái hoạ, thường khi lại có cái phúc nấp sẵn ở đấy . Cho nên đối với sự hoạ phúc, ta không nên vội lấy việc chỉ có một thời mà quyết định cho là hay mãi, hay dở mãi được . Ta chỉ nên, khi gặp phúc thì thao thủ cẩn thận, đừng có kie6u xa phóng túng, may mà giữ được phúc lâu dài; khi gặp hoạ, thì tu tỉnh lấy thân, đừng có ngã lòng, đừng có oán trách, may mà qua được họa lại gặp được phúc chăng.
Lam Dai Ngoc
08-16-2003, 06:29 PM
78. Vẽ gì khó
Có người thợ vẽ vẽ cho vua nước Tề mấy bức tranh.
Vua hỏi: Vẽ cái gì khó ?
-Thưa: Vẽ chó, vẽ ngựa khó.
-Vẽ cái gì dễ ?
-Vẽ ma, vẽ quỷ dễ.
-Sao lại thế ?
-Chó, ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì người ta chê cười, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ.
Người nào bỏ những việc nhật dụng thường hành, chỉ chăm làm những việc kỳ dị quái gở để lòe thiên hạ, thì cũng chẳngkhác nào như người thợ chỉ vẽ ma, vẽ quỉ, nghĩa là tránh cái khó mà làm cái dễ vậy.
Giải nghĩa:
Vô hình: không có hình cho trông thấy, mó thấy
Nhật dụng thường hành : hàng ngày dùng đến mà thường làm luôn.
Kỳ dị quái gở : Lạ lùng khác hẳn sự thường.
Lời bàn:
Trong bài nói chó, ngựa mà thực bao rộng cả những vật hữu hình, mắt có thể trông thấy, chỉ nói ma quỉ, mà thực bao rộng cả những vật vô hình trí não tưởng tượng ra. Một đằng vẽ vật hữu hình là chép lại, một đằng là vẽ vật vô hình là bày ra, ai chẳng cho chép dễ hơn bày. Nhưng xét thực, chép cho hệt khó bao nhiêu, thì bày vu vơ lại dễ bấy nhiêu. Nên ta chới lầm, thấy kẻ làm kỳ quái khác thiên hạ, đã vội cho như thánh tuớng lắm. Ta phải trọng những người quý thực tế, biết làm hết bổn phận mình hàng ngày. Nhiều khi ở đám bình dân một mạc quê mùa mà có bao nhiêu người trung, hiếu, tiết nghĩa, dũng cảm, hào hiệp, hơn là hạng tục học, vẽ ma vẽ quỉ, chủ nghĩa loè đời mà kỳ thực tự tư tự lợi, có hại không thể nói hết được.
Có người thợ vẽ vẽ cho vua nước Tề mấy bức tranh.
Vua hỏi: Vẽ cái gì khó ?
-Thưa: Vẽ chó, vẽ ngựa khó.
-Vẽ cái gì dễ ?
-Vẽ ma, vẽ quỷ dễ.
-Sao lại thế ?
-Chó, ngựa ai cũng trông thấy, vẽ mà không giống thì người ta chê cười, không ai trông thấy, tuỳ ý muốn vẽ thế nào cũng được, không sợ ai bẻ, cho nên dễ vẽ.
Người nào bỏ những việc nhật dụng thường hành, chỉ chăm làm những việc kỳ dị quái gở để lòe thiên hạ, thì cũng chẳngkhác nào như người thợ chỉ vẽ ma, vẽ quỉ, nghĩa là tránh cái khó mà làm cái dễ vậy.
Giải nghĩa:
Vô hình: không có hình cho trông thấy, mó thấy
Nhật dụng thường hành : hàng ngày dùng đến mà thường làm luôn.
Kỳ dị quái gở : Lạ lùng khác hẳn sự thường.
Lời bàn:
Trong bài nói chó, ngựa mà thực bao rộng cả những vật hữu hình, mắt có thể trông thấy, chỉ nói ma quỉ, mà thực bao rộng cả những vật vô hình trí não tưởng tượng ra. Một đằng vẽ vật hữu hình là chép lại, một đằng là vẽ vật vô hình là bày ra, ai chẳng cho chép dễ hơn bày. Nhưng xét thực, chép cho hệt khó bao nhiêu, thì bày vu vơ lại dễ bấy nhiêu. Nên ta chới lầm, thấy kẻ làm kỳ quái khác thiên hạ, đã vội cho như thánh tuớng lắm. Ta phải trọng những người quý thực tế, biết làm hết bổn phận mình hàng ngày. Nhiều khi ở đám bình dân một mạc quê mùa mà có bao nhiêu người trung, hiếu, tiết nghĩa, dũng cảm, hào hiệp, hơn là hạng tục học, vẽ ma vẽ quỉ, chủ nghĩa loè đời mà kỳ thực tự tư tự lợi, có hại không thể nói hết được.
Lam Dai Ngoc
08-16-2003, 06:31 PM
79. Cách đâm hổ
Hai con hổ đang ăn thịt một con trâu. Biện Trang muốn ra đâm hổ. có thằng trẻ con bảo rằng:
-Hãy gượm, ông ạ. Hổ là giống bạo tàn, trâu là mồi ngon ngọt. Bây giờ hai con hổ đang cùng ăn một con trâu, thấy thịt trâu ngon, tất tranh nhau, đánh nhau. Đánh nhau thì hổ nhỏ chết mất mà hổ lớn cũng bị thương. Ông đợi đến bấy giờ hãy ra, thì có phải chỉ đâm một con, mà rồi được cả hai con không? Như thế, thì chẳng là công dùng ít mà lợi được nhiều ư ?"
Biện Trang cho lời nói là phải, làm theo y như thế, quả nhiên bắt được cả hai con hổ.
Giải nghĩa:
Biện Trang: người nước Lỗ, thời Xuân Thu làm quan Đại phu ở ấp Biện là người khỏe có tiếng, thường hay đâm được hổ.
Tàn bạo: ác nghiệt, hung tợn, hay làm hại
Lời bàn:
Bài này cốt ý dạy ta làm việc gì biết thừa cơ mà làm, thì ít khó nhọc, mà lại dễ thành công. như Biện Trang đây, bắt hai con hổ ngay, công phu nhiều mà chưa chắc đã được. Đợi nó đánh nhau, một con chết, một con bị thương, thì ra chỉ mất công bắt một con hổ yếu (vì mới bị thương) mà rồi được cả hai con hổ vậy. Ý bài này cũng giống câu nói của Mạnh Tử: "Tuy hữu trí tuệ, bất như thừa thế; tuy hữu ti cơ, bất như đài thời." Nghĩa là tuy có khôn ngoan sáng suốt chẳng bằng thừa được cái thế, lợi dễ làm hơn, tuy có điều khi sẵn sàng, chẳng bằng đợi đến thời đáng làm mới làm thì lại được việc.
Hai con hổ đang ăn thịt một con trâu. Biện Trang muốn ra đâm hổ. có thằng trẻ con bảo rằng:
-Hãy gượm, ông ạ. Hổ là giống bạo tàn, trâu là mồi ngon ngọt. Bây giờ hai con hổ đang cùng ăn một con trâu, thấy thịt trâu ngon, tất tranh nhau, đánh nhau. Đánh nhau thì hổ nhỏ chết mất mà hổ lớn cũng bị thương. Ông đợi đến bấy giờ hãy ra, thì có phải chỉ đâm một con, mà rồi được cả hai con không? Như thế, thì chẳng là công dùng ít mà lợi được nhiều ư ?"
Biện Trang cho lời nói là phải, làm theo y như thế, quả nhiên bắt được cả hai con hổ.
Giải nghĩa:
Biện Trang: người nước Lỗ, thời Xuân Thu làm quan Đại phu ở ấp Biện là người khỏe có tiếng, thường hay đâm được hổ.
Tàn bạo: ác nghiệt, hung tợn, hay làm hại
Lời bàn:
Bài này cốt ý dạy ta làm việc gì biết thừa cơ mà làm, thì ít khó nhọc, mà lại dễ thành công. như Biện Trang đây, bắt hai con hổ ngay, công phu nhiều mà chưa chắc đã được. Đợi nó đánh nhau, một con chết, một con bị thương, thì ra chỉ mất công bắt một con hổ yếu (vì mới bị thương) mà rồi được cả hai con hổ vậy. Ý bài này cũng giống câu nói của Mạnh Tử: "Tuy hữu trí tuệ, bất như thừa thế; tuy hữu ti cơ, bất như đài thời." Nghĩa là tuy có khôn ngoan sáng suốt chẳng bằng thừa được cái thế, lợi dễ làm hơn, tuy có điều khi sẵn sàng, chẳng bằng đợi đến thời đáng làm mới làm thì lại được việc.
Lam Dai Ngoc
08-16-2003, 06:35 PM
80. Âm Nhạc
Âm là tự lòng người ta mà sinh ra. Lòng người có cảm giác mới thấy phát động ra âm. Âm tuy thành ở ngoài miệng, mà thực phát ra tự trong lòng.
Cho nên, nghe âm thanh mà biết được phong tục, xét phong tục mà biết được chí hướng, xem chí hướng mà biết được đạo đức, thịnh suy, khôn dại, hay dở đều hiện ra, âm nhạc không giấu được ai. Bởi vậy, cứ lấy âm nhạc mà nghiệm được một nước ra thế nào.
Đất xấu, thì cây cối khẳng khiu, nước đục thì tôm cá gầy còm. Đời suy thì lễ nghĩa phiền mà âm nhạc dâm. Những âm dâm đãng, tà khúc những âm trên bộc trong dâu mà dưới dân gian lấy làm thích là nước loạn, mà trên vua chúa lấy làm vui, là đức suy.
Âm nhạc đã không có tiết tấu, không được trang nghiêm, thuần một màu dâm đãng đã xuất ra thời chỉ cảm được cái lòng dâm đãng tà khúc mà rồi sinh ra bao nhiêu việc tà khúc gian nguy vậy.
cho nên người quân tử để tâm vào đạo mà sửa lấy đức, chỉnh lại đức để làm âm nhạc, hòa nhạc để cho thành thuận, mà nhạc có hòa, thì mới chỉnh đốn được mọi việc.
Tuân Tử
Giãi nghĩa:
Cảm giác : thấm thía, phát động và hiểu biết
Phát động: nảy hiện ra
Phong tục : những cái người trên làm cho người dưới bắt chước gọi là phong, thói quen kẻ dưới tập nhiễm nhau gọi là tục
Chí hướng: lòng thích muốn làm gì
Đạo đức: Cách ăn ở hợp với cương thường, lẽ phải.
nghiệm: ngẫm xem mà biết
Phiền: nhiều quá
Dâm đãng, tà khúc: trai gái chơi bời, nghĩ sằng làm bậy
Trên bộc trong dâu: dịch ở bốn chữ, tang trung bộc thượng, nghĩa là trên bờ sông bộc, ở trong bãi dâu, hai nơi này là chỗ trai gái chờ hẹn nhau
Loạn: rối lên, không được bình yên
Tiết tấu: điệu âm nhạc lúc mau, lúc khoan, lúc chìm, lúc bỗng
Trang nghiêm: đứng đắn, có vẻ oai vệ
Gian nguy: khốn khó nguy vong
Thành thuận: cản nào ra cảnh ấy, trên dưới có trật tự
chỉnh đốn: thu xếp cho ngay ngắn
Lời bàn:
Nếu xem âm nhạc một nước, mà biết được nước ấy là thế nào, thì đủ biết âm nhạc có một cái quan hệ rất mật thiết với sự tồn vong thịnh suy của một nước. Ôi! Âm nhạc của nước ta hiện nay thế nào ? Có nhiều người nếu không chê rằng là ai oán chí âm,Trịnh Vệ chi thanh thì cũng không cho được rằng có vẻ hùng dũng, cái khí cao xa ở trong ấy. Tiếc rằng người đánh đàn, kéo nhị thì nhiều, nhưng quanh đi quẩn lại chỉ lưu thủy với Nam ai, còn người thực am hiểu âm luật có thể cải lương được âm nhạc chưa có mấy. Ước gì những bậc có tài nghề âm nhạc hằng lưu tâm đến, làm cho cái âm nhạc sầu não, ẻo lả kia được chỉnh đốn mà phấn chấn mãi lên, thì thực là bậc "cứu quốc" có công to đối với cả nước vậy.
Âm là tự lòng người ta mà sinh ra. Lòng người có cảm giác mới thấy phát động ra âm. Âm tuy thành ở ngoài miệng, mà thực phát ra tự trong lòng.
Cho nên, nghe âm thanh mà biết được phong tục, xét phong tục mà biết được chí hướng, xem chí hướng mà biết được đạo đức, thịnh suy, khôn dại, hay dở đều hiện ra, âm nhạc không giấu được ai. Bởi vậy, cứ lấy âm nhạc mà nghiệm được một nước ra thế nào.
Đất xấu, thì cây cối khẳng khiu, nước đục thì tôm cá gầy còm. Đời suy thì lễ nghĩa phiền mà âm nhạc dâm. Những âm dâm đãng, tà khúc những âm trên bộc trong dâu mà dưới dân gian lấy làm thích là nước loạn, mà trên vua chúa lấy làm vui, là đức suy.
Âm nhạc đã không có tiết tấu, không được trang nghiêm, thuần một màu dâm đãng đã xuất ra thời chỉ cảm được cái lòng dâm đãng tà khúc mà rồi sinh ra bao nhiêu việc tà khúc gian nguy vậy.
cho nên người quân tử để tâm vào đạo mà sửa lấy đức, chỉnh lại đức để làm âm nhạc, hòa nhạc để cho thành thuận, mà nhạc có hòa, thì mới chỉnh đốn được mọi việc.
Tuân Tử
Giãi nghĩa:
Cảm giác : thấm thía, phát động và hiểu biết
Phát động: nảy hiện ra
Phong tục : những cái người trên làm cho người dưới bắt chước gọi là phong, thói quen kẻ dưới tập nhiễm nhau gọi là tục
Chí hướng: lòng thích muốn làm gì
Đạo đức: Cách ăn ở hợp với cương thường, lẽ phải.
nghiệm: ngẫm xem mà biết
Phiền: nhiều quá
Dâm đãng, tà khúc: trai gái chơi bời, nghĩ sằng làm bậy
Trên bộc trong dâu: dịch ở bốn chữ, tang trung bộc thượng, nghĩa là trên bờ sông bộc, ở trong bãi dâu, hai nơi này là chỗ trai gái chờ hẹn nhau
Loạn: rối lên, không được bình yên
Tiết tấu: điệu âm nhạc lúc mau, lúc khoan, lúc chìm, lúc bỗng
Trang nghiêm: đứng đắn, có vẻ oai vệ
Gian nguy: khốn khó nguy vong
Thành thuận: cản nào ra cảnh ấy, trên dưới có trật tự
chỉnh đốn: thu xếp cho ngay ngắn
Lời bàn:
Nếu xem âm nhạc một nước, mà biết được nước ấy là thế nào, thì đủ biết âm nhạc có một cái quan hệ rất mật thiết với sự tồn vong thịnh suy của một nước. Ôi! Âm nhạc của nước ta hiện nay thế nào ? Có nhiều người nếu không chê rằng là ai oán chí âm,Trịnh Vệ chi thanh thì cũng không cho được rằng có vẻ hùng dũng, cái khí cao xa ở trong ấy. Tiếc rằng người đánh đàn, kéo nhị thì nhiều, nhưng quanh đi quẩn lại chỉ lưu thủy với Nam ai, còn người thực am hiểu âm luật có thể cải lương được âm nhạc chưa có mấy. Ước gì những bậc có tài nghề âm nhạc hằng lưu tâm đến, làm cho cái âm nhạc sầu não, ẻo lả kia được chỉnh đốn mà phấn chấn mãi lên, thì thực là bậc "cứu quốc" có công to đối với cả nước vậy.
Lam Dai Ngoc
08-19-2003, 10:35 AM
81. Trí và Nhân
Thầy Tử lộ yết kiến đức Khổng Tử,
Đức Khổng Tử hỏi:
-Thế nào là người trí, thế nào là người nhân ?
Thầy Tử lộ thưa:
-Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết mình, người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình .
Đức Khổng Tử bảo:
-Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn .
Thầy Tử lộ ra, thầy Tử Cống vào, đức Khổng Tử lại hỏi người trí, người nhân là thế nào .
Thầy Tử Cống thưa:
-Người trí là người biết người, người nhân là người yêu người .
Đức Khổng Tử bảo:
-Nhà ngươi nói như vậy, cũng khá gọi là người có học vấn .
Thầy Tử Cống ra, thầy Nhan Hồi vào, đức Khổng lại đem trí, nhân ra hỏi .
Thầy Nhan Hồi thưa:
-Người trí là người tự biết mình, người nhân là người tự yêu mình .
Đức Khổng Tử bảo:
-Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ quân tử .
Gia Ngữ
Giải nghĩa:
Tử lộ: Học trò giỏi đức Khổng Tử có tiếng về khoa chính sự
yết kiến: đến thăm, hầu người trên
học vấn: học để cho biết nhiều, (hỏi=vấn) để cho tỉnh
Tử Cống: học trò giỏi đức Khổng có tiếng về khoa ngôn ngữ
Nhan Hồi: học trò giỏi nhất đức Khổng có tiếng về khoa đức hạnh
sĩ quân tử: bậc người thượng lưu trong xã hội, có đức hạnh, có học vấn, có kiến thức
Lời bàn:
Cũng một chữ Trí, một chữ Nhân mà ba người đáp mỗi người một khác . Không phải là trí với nhân có lắm nghĩa, thay đổi khác nhau, đó là tuỳ theo cái trình độ học vấn, kiến thức của mỗi người, mà tư tưởng thuyết minh có phần hơn, kém khác . Thầy Tử Lộ đáp như thế là người vụ ngoại, chỉ cần cho người ta biết mình, yêu mình mà thôi . Thầy Tử Cống đáp như thế là người quên mình chỉ biết người, yêu người mà thôi . So với thầy Tử Lộ thì cao hơn một bậc . Song chưa bằng thầy Nhan Hồi học như thế mới là học vị kỷ, nghĩa là học để tự biết mình và yêu mình trước rồi mới suy rộng ra đến biết người, yêu người - Biết mình yêu mình, không phải là có lòng tư kỷ hẹp hòi . Có biết mình thì mới tu tỉnh được tâm thần, cải quá, thiên thiện mà nên người ngay, người khá, tức cũng như câu: "connnais toi toi-même" của Tô lạp thị . Có yêu mình thì mới biết trọng tu * cách của mình, quí phẩm giá của mình rồi mới ra đến thân nhân, nhân dân, ái vật tức cũng như câu tục ngữ Pháp: "Charité bien ordonnée commence par soi-même".
Thầy Tử lộ yết kiến đức Khổng Tử,
Đức Khổng Tử hỏi:
-Thế nào là người trí, thế nào là người nhân ?
Thầy Tử lộ thưa:
-Người trí là người làm thế nào để cho người ta biết mình, người nhân là người làm thế nào để cho người ta yêu mình .
Đức Khổng Tử bảo:
-Nhà ngươi nói như vậy cũng khá gọi là người có học vấn .
Thầy Tử lộ ra, thầy Tử Cống vào, đức Khổng Tử lại hỏi người trí, người nhân là thế nào .
Thầy Tử Cống thưa:
-Người trí là người biết người, người nhân là người yêu người .
Đức Khổng Tử bảo:
-Nhà ngươi nói như vậy, cũng khá gọi là người có học vấn .
Thầy Tử Cống ra, thầy Nhan Hồi vào, đức Khổng lại đem trí, nhân ra hỏi .
Thầy Nhan Hồi thưa:
-Người trí là người tự biết mình, người nhân là người tự yêu mình .
Đức Khổng Tử bảo:
-Nhà ngươi nói như vậy đáng gọi là bậc sĩ quân tử .
Gia Ngữ
Giải nghĩa:
Tử lộ: Học trò giỏi đức Khổng Tử có tiếng về khoa chính sự
yết kiến: đến thăm, hầu người trên
học vấn: học để cho biết nhiều, (hỏi=vấn) để cho tỉnh
Tử Cống: học trò giỏi đức Khổng có tiếng về khoa ngôn ngữ
Nhan Hồi: học trò giỏi nhất đức Khổng có tiếng về khoa đức hạnh
sĩ quân tử: bậc người thượng lưu trong xã hội, có đức hạnh, có học vấn, có kiến thức
Lời bàn:
Cũng một chữ Trí, một chữ Nhân mà ba người đáp mỗi người một khác . Không phải là trí với nhân có lắm nghĩa, thay đổi khác nhau, đó là tuỳ theo cái trình độ học vấn, kiến thức của mỗi người, mà tư tưởng thuyết minh có phần hơn, kém khác . Thầy Tử Lộ đáp như thế là người vụ ngoại, chỉ cần cho người ta biết mình, yêu mình mà thôi . Thầy Tử Cống đáp như thế là người quên mình chỉ biết người, yêu người mà thôi . So với thầy Tử Lộ thì cao hơn một bậc . Song chưa bằng thầy Nhan Hồi học như thế mới là học vị kỷ, nghĩa là học để tự biết mình và yêu mình trước rồi mới suy rộng ra đến biết người, yêu người - Biết mình yêu mình, không phải là có lòng tư kỷ hẹp hòi . Có biết mình thì mới tu tỉnh được tâm thần, cải quá, thiên thiện mà nên người ngay, người khá, tức cũng như câu: "connnais toi toi-même" của Tô lạp thị . Có yêu mình thì mới biết trọng tu * cách của mình, quí phẩm giá của mình rồi mới ra đến thân nhân, nhân dân, ái vật tức cũng như câu tục ngữ Pháp: "Charité bien ordonnée commence par soi-même".
Lam Dai Ngoc
08-19-2003, 10:54 AM
82. Hết Lòng Vì Nước
Vua Bình Vương nước Sở nghe lời gièm pha, giết chết đại tuớng là Ngũ Xa . Ngũ Thượng là con cả Ngũ Xa cũng bị hại . Người con thứ là Ngũ Viên, bèn bỏ nước Sở, sang làm tướng nước Ngô. Trước khi đi, có đến từ giã một người bạn đang làm quan đại phu tên là Thân Bao Tư mà bảo rằng:
-Ba năm nữa, nước Sở mà không mất, thời tôi không trông thấy huynh nữa .
Thân Bao Tư nói:
-Anh làm mất nước Sở, thì tôi tất phải giữ cho nước Sở còn .
Ba năm sau, Ngũ Viên đem quân Ngô về đánh Sở . Vua Chiêu Vương nối ngôi cho Bình Vương thua chạy phải trốn vào trong núi .
Thân Bao Tư đang ở trong núi, nghe nói Ngũ Viên cường bạo, bèn sang cầu cứu nước Tần, tâu cùng vua rằng:
-Nước Ngô vô đạo quân khỏe, người nhiều, sắp đánh cả thiên hạ, bây giờ mới bắt đầu đánh một nước Sở tôi trước . Vua nước tôi phải chạy trốn, hiện nay ở Vân Mộng, sai tôi đến cáo cấp với thượng quốc .
Vua nước Tần là Ai Công bảo:
-Ừ! để rồi ta liệu, nhà ngươi hãy ra nghỉ ngoài sứ quán .
Thân Bao Tư nói:
-Vua nước tôi bây giờ đang khốn đốn, phận bầy tôi đâu dám ăn nằm yên một chỗ .
Nói đoạn cứ đứng ở giữa sân khóc lóc thảm thiết suốt bảy ngày đêm.
Ai công thấy vậy, nói rằng:
-Một nước có người bày tôi như thế, ta không cứu cũng không đành .
Rồi đem quân sang cứu nước Sở .
Quân Ngô nghe thấy tin, vội phải rút quân về .
Nước Sở nhờ thế mà không mất, vua Chiêu Vương lại lên ngôi, cho tìm Thân Bao Tư để thưởng công, thì không thấy đâu cả . Thân Bao Tư đã lánh đâu rồi .
Trước khi đi lánh, Thân Bao Tư có nói rằng:
-Mượn quân, yên nước không phải là vị thân, cứu cấp, trừ hại không phải là vị danh . Bây giờ nước đã định rồi thì ta còn cầu gì nữa ?
Thuyết Uyển
Giải nghĩa:
Ngũ Xa: người nước Sở thời Xuân Thu, thờ vua Bình Vương vì can vua mà phải giết
Ngũ Thượng: con cả Ngũ Xa, cha bị nạn, đi theo cha rồi cũng bị hại
Ngũ Viên : tức Ngũ Tử Tư con thứ Ngũ Xa, trốn chạy sang nước Ngô để mưu phục báo thù cho cha, anh
Thân Bao Tư: người thời xuân thu làm quan đại phu thờ vua Bình Vương nước Sở, chơi thân với Ngũ Viên
Lời bàn:
Ngũ Viên vì cha bị giết oan mà quyết chí muốn hại vua, làm cho vua mất nước là trọng chữ hiếu hơn chữ trung, có phần đáng khen, cũng có phần nên chê . Thân Bao Tư muốn cứu nước chỉ lấy nước mắt, tiếng khóc mà nên công, thực là người quá nhẫn nhục trong lúc kế cùng lực kiệt, để chuyển được người không có ý giúp cũng phải giúp, thế là có bụng rất trung, yêu vua, cứu nước vậy . Lại đáng khen hơn nữa là công to mà không lấy thưởng . Việc nghĩa phải làm là làm cho cả nước, làm được là hả, là sướng, chớ có cầu cạnh gì riêng cho thân mình ?
Vua Bình Vương nước Sở nghe lời gièm pha, giết chết đại tuớng là Ngũ Xa . Ngũ Thượng là con cả Ngũ Xa cũng bị hại . Người con thứ là Ngũ Viên, bèn bỏ nước Sở, sang làm tướng nước Ngô. Trước khi đi, có đến từ giã một người bạn đang làm quan đại phu tên là Thân Bao Tư mà bảo rằng:
-Ba năm nữa, nước Sở mà không mất, thời tôi không trông thấy huynh nữa .
Thân Bao Tư nói:
-Anh làm mất nước Sở, thì tôi tất phải giữ cho nước Sở còn .
Ba năm sau, Ngũ Viên đem quân Ngô về đánh Sở . Vua Chiêu Vương nối ngôi cho Bình Vương thua chạy phải trốn vào trong núi .
Thân Bao Tư đang ở trong núi, nghe nói Ngũ Viên cường bạo, bèn sang cầu cứu nước Tần, tâu cùng vua rằng:
-Nước Ngô vô đạo quân khỏe, người nhiều, sắp đánh cả thiên hạ, bây giờ mới bắt đầu đánh một nước Sở tôi trước . Vua nước tôi phải chạy trốn, hiện nay ở Vân Mộng, sai tôi đến cáo cấp với thượng quốc .
Vua nước Tần là Ai Công bảo:
-Ừ! để rồi ta liệu, nhà ngươi hãy ra nghỉ ngoài sứ quán .
Thân Bao Tư nói:
-Vua nước tôi bây giờ đang khốn đốn, phận bầy tôi đâu dám ăn nằm yên một chỗ .
Nói đoạn cứ đứng ở giữa sân khóc lóc thảm thiết suốt bảy ngày đêm.
Ai công thấy vậy, nói rằng:
-Một nước có người bày tôi như thế, ta không cứu cũng không đành .
Rồi đem quân sang cứu nước Sở .
Quân Ngô nghe thấy tin, vội phải rút quân về .
Nước Sở nhờ thế mà không mất, vua Chiêu Vương lại lên ngôi, cho tìm Thân Bao Tư để thưởng công, thì không thấy đâu cả . Thân Bao Tư đã lánh đâu rồi .
Trước khi đi lánh, Thân Bao Tư có nói rằng:
-Mượn quân, yên nước không phải là vị thân, cứu cấp, trừ hại không phải là vị danh . Bây giờ nước đã định rồi thì ta còn cầu gì nữa ?
Thuyết Uyển
Giải nghĩa:
Ngũ Xa: người nước Sở thời Xuân Thu, thờ vua Bình Vương vì can vua mà phải giết
Ngũ Thượng: con cả Ngũ Xa, cha bị nạn, đi theo cha rồi cũng bị hại
Ngũ Viên : tức Ngũ Tử Tư con thứ Ngũ Xa, trốn chạy sang nước Ngô để mưu phục báo thù cho cha, anh
Thân Bao Tư: người thời xuân thu làm quan đại phu thờ vua Bình Vương nước Sở, chơi thân với Ngũ Viên
Lời bàn:
Ngũ Viên vì cha bị giết oan mà quyết chí muốn hại vua, làm cho vua mất nước là trọng chữ hiếu hơn chữ trung, có phần đáng khen, cũng có phần nên chê . Thân Bao Tư muốn cứu nước chỉ lấy nước mắt, tiếng khóc mà nên công, thực là người quá nhẫn nhục trong lúc kế cùng lực kiệt, để chuyển được người không có ý giúp cũng phải giúp, thế là có bụng rất trung, yêu vua, cứu nước vậy . Lại đáng khen hơn nữa là công to mà không lấy thưởng . Việc nghĩa phải làm là làm cho cả nước, làm được là hả, là sướng, chớ có cầu cạnh gì riêng cho thân mình ?
Lam Dai Ngoc
08-19-2003, 11:48 AM
Mã Viện mồ côi từ thưở nhỏ, tình cảnh rất nghèo khó mà thật là người có đại chí . Thường khi nói truyện với người ta rằng:
-Làm tài trai lúc cùng khổ, chí càng phải bền; khi tuổi tác khí càng phải hăng.
Mã Viện ra công ra sức cày cấy chăn nuôi, không bao lâu giàu có hàng ức triệu . Mà hình như chưa được phỉ chí, thường nói với người ta rằng:
-Phàm làm nên giàu, mà có biết đem của thí chẩn cho người khốn cùng, thì mới là quý . Bằng không, thì chỉ làm tôi tớ cho đồng tiền, suốt đời canh giữ đồng tiền chớ có ích gì!
Sau Mã Viện đem hết tiền của chẩn cấp cho người nghèo, rồi ra làm quan giúp vua Quang Vũ nhà Hán . Tuổi bấy giờ đã già, mà cứ hay xin đi đánh nam, dẹp bắc . Mỗi khi thắng trận trở về, họ hàng bà con ra chào mừng đón rước thì Mã Viện nói rằng:
-Làm tài trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn mới là đáng trọng, chớ ốm nằm xó giường chết ở trong tay lũ trẻ nâng đỡ thì có hay gì!
Lời bàn:
Mã Viện tuy là người cừu địch đáng ghét của nước ta nhưng ta cũng không nên vì ghét mà không nên biết đến những cái hay của người . Như Mã Viện mồ côi nghèo khổ mà làm nên giàu có, là người có chí lập thân đáng khen . Giàu có mà biết dùng của đem cứu cấp cho kẻ khốn cùng lại là người có chí cứu khổ đáng trọng - Có tuối mà vẫn đem thân ra chốn chiến trường để tận trung báo quốc lại là một người có chí ái quốc đáng phục, thật không phục cái tiếng anh hùng quắc thước . Một người cùng khổ yếu đuối mà làm nên phú quí, lúc phú quí lại hiểu được cái đạo nghĩa phú quí nên làm thế nào, thực chẳng đáng làm gương cho cả mọi người ư!
-Làm tài trai lúc cùng khổ, chí càng phải bền; khi tuổi tác khí càng phải hăng.
Mã Viện ra công ra sức cày cấy chăn nuôi, không bao lâu giàu có hàng ức triệu . Mà hình như chưa được phỉ chí, thường nói với người ta rằng:
-Phàm làm nên giàu, mà có biết đem của thí chẩn cho người khốn cùng, thì mới là quý . Bằng không, thì chỉ làm tôi tớ cho đồng tiền, suốt đời canh giữ đồng tiền chớ có ích gì!
Sau Mã Viện đem hết tiền của chẩn cấp cho người nghèo, rồi ra làm quan giúp vua Quang Vũ nhà Hán . Tuổi bấy giờ đã già, mà cứ hay xin đi đánh nam, dẹp bắc . Mỗi khi thắng trận trở về, họ hàng bà con ra chào mừng đón rước thì Mã Viện nói rằng:
-Làm tài trai, nên chết ở chốn biên thùy, lấy da ngựa bọc thây mà chôn mới là đáng trọng, chớ ốm nằm xó giường chết ở trong tay lũ trẻ nâng đỡ thì có hay gì!
Lời bàn:
Mã Viện tuy là người cừu địch đáng ghét của nước ta nhưng ta cũng không nên vì ghét mà không nên biết đến những cái hay của người . Như Mã Viện mồ côi nghèo khổ mà làm nên giàu có, là người có chí lập thân đáng khen . Giàu có mà biết dùng của đem cứu cấp cho kẻ khốn cùng lại là người có chí cứu khổ đáng trọng - Có tuối mà vẫn đem thân ra chốn chiến trường để tận trung báo quốc lại là một người có chí ái quốc đáng phục, thật không phục cái tiếng anh hùng quắc thước . Một người cùng khổ yếu đuối mà làm nên phú quí, lúc phú quí lại hiểu được cái đạo nghĩa phú quí nên làm thế nào, thực chẳng đáng làm gương cho cả mọi người ư!
Lam Dai Ngoc
08-19-2003, 12:57 PM
Một
hôm, Trang công nước Tề xa giá đi săn . Xe ra khỏi thành đi trên đường
cái có con bọ ngựa, cứ đứng giữa đưo8`ng, dương càng chực chống lại với
cái xe . Tả, hữu thấy thế, kêu lên rằng:
-Chết! Chết!
Trang công nghe tiếng, tưởng sự gì nguy hiểm, vội vàng bắt dừng xe lại hỏi . Tả hữu thưa:
-Có con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại giờ càng lên muốn chống lại . giống bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên chớ không lui, không chịu lượng sức mình khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch thì đánh . Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào .
Trang công nói:
-Hãy khoan . Giống bọ ngựa thế mà đáng kính . Giá sử bây giờ có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp, không ngại gian nan, không sợ nguy hiểm, nhất quyết cỉh tiến lên, chọi với cường địch, chết cũng không thoái tị thì chẳng đáng nên tôn kính lắm ư!
Nói đoạn, Trang công bảo tránh xe đi sang một bên.
Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang công nghe nói câu chuyện, khi phải đi đánh giặc đâu là liều chết tiến lên chớ không chịu không bằng con bọ ngựa .
Hàn Thi Ngoại Truyện
Lời bàn:
Có kẻ cừu địch trước mặt, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi, có khi như trứng chọi với đá, nồi đất chọi với nồi đồng, thì cũng là khờ dại đáng tiếc, Tuy vậy, có kẻ hà hiếp mình thậm tệ, mà mình đủ chí khí chống lại, thế là mình hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục . Nhất là mình lại quả quyết phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen . Ôi! Giống bọ ngựa là giống sâu bọ còn biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh lại chịu kém bọ ngựa hay sao! Trang công thực là khéo biết dạy mà tướng sĩ Trang cong thực là biết nghe ra vậy .
-Chết! Chết!
Trang công nghe tiếng, tưởng sự gì nguy hiểm, vội vàng bắt dừng xe lại hỏi . Tả hữu thưa:
-Có con bọ ngựa thấy xe sắp đến, không tránh lại giờ càng lên muốn chống lại . giống bọ ngựa quái lạ, chỉ biết tiến lên chớ không lui, không chịu lượng sức mình khỏe hay yếu, hễ gặp cừu địch thì đánh . Xin cứ để cho xe đi, xem bọ ngựa sống hay chết thế nào .
Trang công nói:
-Hãy khoan . Giống bọ ngựa thế mà đáng kính . Giá sử bây giờ có một người bị kẻ tàn bạo hà hiếp, không ngại gian nan, không sợ nguy hiểm, nhất quyết cỉh tiến lên, chọi với cường địch, chết cũng không thoái tị thì chẳng đáng nên tôn kính lắm ư!
Nói đoạn, Trang công bảo tránh xe đi sang một bên.
Từ hôm đó, bọn tướng sĩ Trang công nghe nói câu chuyện, khi phải đi đánh giặc đâu là liều chết tiến lên chớ không chịu không bằng con bọ ngựa .
Hàn Thi Ngoại Truyện
Lời bàn:
Có kẻ cừu địch trước mặt, không biết lượng sức người ta yếu hay khỏe thế nào, cứ liều xông vào chọi, có khi như trứng chọi với đá, nồi đất chọi với nồi đồng, thì cũng là khờ dại đáng tiếc, Tuy vậy, có kẻ hà hiếp mình thậm tệ, mà mình đủ chí khí chống lại, thế là mình hiểu được cái lẽ tự vệ, chết cũng không chịu nhục . Nhất là mình lại quả quyết phấn chấn tiến lên, không chịu nhẫn nhục lùi lại, thế là có dũng khí đáng khen . Ôi! Giống bọ ngựa là giống sâu bọ còn biết thế, huống chi là giống người ta là bậc tinh anh lại chịu kém bọ ngựa hay sao! Trang công thực là khéo biết dạy mà tướng sĩ Trang cong thực là biết nghe ra vậy .
Lam Dai Ngoc
Thiệu là con vua Nguyên đế nhà Tần, lúc nhỏ đã cực kỳ thông tuệ .
Một hôm, có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên đế hỏi thử rằng:
-Trường An gần hay mặt trời gần hơn ?
Thiệu đáp:
-Trường An gần hơn
-Tại làm sao ?
-Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại chớ chưa từng thấy nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ .
Vua nghe câu nói lấy làm lạ .
Cách mấy hôm sau, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe . Nhân Thiệu đứng hầu bên, lại hỏi đùa rằng:
-Trường An gần hay mặt trời gần hơn ?
Thiệu đáp:
-Mặt trời gần hơn .
Vua ngạc nhiên hỏi:
-Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như thế ?
Tôi ngửng đầu lên trông ngay mặt thấy trời, chớ không trông thấy Tràng An đâu cả .
Vua nghe, lại càng lấy làm lạ .
Tấn Sử
Lời bàn:
Thiệu đối đáp linh lợi như vậy thực đáng khen là đĩnh ngộ . Khi ai hỏi gì, mà đối đáp được sát lý đã là khó, đã sát lý mà lại mau trí khôn lại càng khó hơn nữa . Lẽ phải không cùng ứng đối mau mắn và xác đáng, thế mới là người thông tuệ có tài .
Một hôm, có sứ thần ở Trường An lại, vua Nguyên đế hỏi thử rằng:
-Trường An gần hay mặt trời gần hơn ?
Thiệu đáp:
-Trường An gần hơn
-Tại làm sao ?
-Tôi chỉ thấy nói có người ở Trường An lại chớ chưa từng thấy nói có người ở mặt trời lại đây bao giờ .
Vua nghe câu nói lấy làm lạ .
Cách mấy hôm sau, vua đem câu chuyện kể lại cho quần thần nghe . Nhân Thiệu đứng hầu bên, lại hỏi đùa rằng:
-Trường An gần hay mặt trời gần hơn ?
Thiệu đáp:
-Mặt trời gần hơn .
Vua ngạc nhiên hỏi:
-Sao hôm nay lại trả lời khác hôm nọ như thế ?
Tôi ngửng đầu lên trông ngay mặt thấy trời, chớ không trông thấy Tràng An đâu cả .
Vua nghe, lại càng lấy làm lạ .
Tấn Sử
Lời bàn:
Thiệu đối đáp linh lợi như vậy thực đáng khen là đĩnh ngộ . Khi ai hỏi gì, mà đối đáp được sát lý đã là khó, đã sát lý mà lại mau trí khôn lại càng khó hơn nữa . Lẽ phải không cùng ứng đối mau mắn và xác đáng, thế mới là người thông tuệ có tài .
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 08:19 PM
Nước
Trịnh có kẻ định sửa giày, đo chân làm no, rồi để cái no bên chỗ ngồi.
Lúc đi chợ quên không cầm no đi. Đến hàng giày, mới sực nhớ ra nói rằng:
Thôi quên! Không cầm no đi rồi !" Rồi mải vội chạy về nhà lấy no Khi
trở lại, thì chợ đã tan, không sửa được giày nữa. Có người thấy thế, bảo
rằng:
"Sao không đưa chân ra cho người đo có được không ?".
Anh ta cãi:
"Tôi chỉ tin cái no thôi, chớ không tin chân tôi được".
Ôi ! Sửa giày cốt chỉ đi vừa chân là được mà không tin chân, chỉ tin cái no đo chân, chẳng là câu nệ quá lắm ư ? Ở đời những kẻ làm công việc cứ bo bo giữ lề lối cổ hủ, không biết thế nào là hợp với thích nghi thì có khác gì người đi sửa giày chỉ tin no đo chân, mà không tin chính chân mình hay chăng ?
Hàn Phi Tử
Lời Bàn:
Ở đời, bao nhiêu chế độ cũ cũng tự người ta đặt ra cả. Nếu người ta chỉ bo bo biết có một chế độ cũ ấy, không biết thế nào là hợp thời, thích nghi, tiện cho mình hơn, thì chẳng hóa là người câu nệ mà không biết biến thông hay sao ! Cho nên đối với cái gì mà hay, tiện có ta dùng, bằng không sẵn có, thì phải biến báo hay sáng kiến để cho được việc, chứ cứ chấp nhất, thì mất cơ hội và hỏng công việc ngay.
"Sao không đưa chân ra cho người đo có được không ?".
Anh ta cãi:
"Tôi chỉ tin cái no thôi, chớ không tin chân tôi được".
Ôi ! Sửa giày cốt chỉ đi vừa chân là được mà không tin chân, chỉ tin cái no đo chân, chẳng là câu nệ quá lắm ư ? Ở đời những kẻ làm công việc cứ bo bo giữ lề lối cổ hủ, không biết thế nào là hợp với thích nghi thì có khác gì người đi sửa giày chỉ tin no đo chân, mà không tin chính chân mình hay chăng ?
Hàn Phi Tử
Lời Bàn:
Ở đời, bao nhiêu chế độ cũ cũng tự người ta đặt ra cả. Nếu người ta chỉ bo bo biết có một chế độ cũ ấy, không biết thế nào là hợp thời, thích nghi, tiện cho mình hơn, thì chẳng hóa là người câu nệ mà không biết biến thông hay sao ! Cho nên đối với cái gì mà hay, tiện có ta dùng, bằng không sẵn có, thì phải biến báo hay sáng kiến để cho được việc, chứ cứ chấp nhất, thì mất cơ hội và hỏng công việc ngay.
Lam Dai Ngoc
Trang Chu nghèo túng sang hỏi vay thóc Ngụy Văn Hầu. Ngụy Văn Hầu nói:
-Tôi có cái ấp, người ta sắp nộp tiền thóc, tôi sẽ cho vay ba trăm lạng, ông có bằng lòng không ?
Trang Chu giận, nói:
-Khi Chu đến đây, đi giữa đường, nghe có tiếng gọi, ngoảnh lại trông thì thấy một con cá đang ngoắc ngoải trong cái vết bánh xe. Chu này hỏi:
-Cá ở đây làm gì thế ?
Cá đáp:
-Tôi là Thủy thần ở bể Đông mắc nạn tại đây, ông có thể cho tôi một bát nước để cứu tôi lúc nguy cấp này không ?
Chu này bảo rằng:
Để tôi qua chơi nước Ngô, nước Việt, rồi tôi lấy nước sông Tây Giang về đón ngươi , ngươi có bằng lòng không?
Cá giận nói:
-Tôi đang cần đến nước, ông chỉ cho tôi được một ít là tôi sống. Nay ông nói như thế, đợi đến lúc ông về, thì có khi ông đến chỗ hàng cá khô đã thấy tôi đấy rồi.
Thuyết Uyển
Chú Thích.
- Ngụy Văn Hầu : Văn Hầu nước Ngụy. Cứ theo sách Trang Tử tuyết thì là Giám Hà Hầu - Tây Giang tức là Si Giang chảy qua Quang Tây cà Quang Đông bây giờ.
Lời Bàn:
Bài này có ý dạy khi người ta có việc cần cấp, nhờ cậy mình có thể giúp được, thì nên giúp ngay, chớ để chậm trễ mà về sau có muốn giúp, cũng không giúp được nứa. Như thế, chẳng là phí một cái lòng muốn giúp, để mất một cái dịp làm lành ru! Cứu cấp cần phải mau chóng, vớt kẻ ngã sông, gọi người ngộ gió, chửa đám cháy nhà mà chậm chạp thì thật vô ích.
-Tôi có cái ấp, người ta sắp nộp tiền thóc, tôi sẽ cho vay ba trăm lạng, ông có bằng lòng không ?
Trang Chu giận, nói:
-Khi Chu đến đây, đi giữa đường, nghe có tiếng gọi, ngoảnh lại trông thì thấy một con cá đang ngoắc ngoải trong cái vết bánh xe. Chu này hỏi:
-Cá ở đây làm gì thế ?
Cá đáp:
-Tôi là Thủy thần ở bể Đông mắc nạn tại đây, ông có thể cho tôi một bát nước để cứu tôi lúc nguy cấp này không ?
Chu này bảo rằng:
Để tôi qua chơi nước Ngô, nước Việt, rồi tôi lấy nước sông Tây Giang về đón ngươi , ngươi có bằng lòng không?
Cá giận nói:
-Tôi đang cần đến nước, ông chỉ cho tôi được một ít là tôi sống. Nay ông nói như thế, đợi đến lúc ông về, thì có khi ông đến chỗ hàng cá khô đã thấy tôi đấy rồi.
Thuyết Uyển
Chú Thích.
- Ngụy Văn Hầu : Văn Hầu nước Ngụy. Cứ theo sách Trang Tử tuyết thì là Giám Hà Hầu - Tây Giang tức là Si Giang chảy qua Quang Tây cà Quang Đông bây giờ.
Lời Bàn:
Bài này có ý dạy khi người ta có việc cần cấp, nhờ cậy mình có thể giúp được, thì nên giúp ngay, chớ để chậm trễ mà về sau có muốn giúp, cũng không giúp được nứa. Như thế, chẳng là phí một cái lòng muốn giúp, để mất một cái dịp làm lành ru! Cứu cấp cần phải mau chóng, vớt kẻ ngã sông, gọi người ngộ gió, chửa đám cháy nhà mà chậm chạp thì thật vô ích.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 09:48 PM
Tử
Dư làm bạn với Tử Tang. Tử Tang rất nghèo. Gặp khi trời mưa luôn mười
hôm. Tử Dư nhớ đến bạn, nghĩ bụng rằng "Tử Tang đến khốn mất !".
Mới bọc gạo đem lại cho.
Lúc đến trước cửa, thấy Tử Tang đánh đàn nửa như khóc, nửa như hát, tiếng không ra hơi, giọng thì líu nhíu, lắng tai nghe, như có câu rằng:
-Cha ư ? Mẹ ư! Trời ư ! Người ư !
Tử Dư bước vào hỏi:
-Bác đàn hát như thế là làm sao vậy ?
Tử Tang nói:
-Tôi nghĩ mãi, mà không biết tự đâu đến nông nỗi cùng cực như thế náy ? Nào có phải cha mẹ tôi muốn cho tôi nghèo khổ đâu ! Nào có phải trời đất để cho tôi nghèo riêng một mình đâu ? Trời không riêng che, đất không riêng chở một ai... Thực ra, tôi muốn tìm cho biết tự đâu tôi phải chịu cùng cực như thế này, mà không ra. Vậy thì không phải là cái mệnh nó xui khiến ra như thế ư !
Trang Tử Tuyết
Chú Thích.
- Tủ Dư, Tủ Tang : hai người đời Xuân Thu, tính khoáng đạt, chơi thân với nhau.
Lời Bàn:
Tử Tang nghèo mà cho là số mệnh thì ý giống câu ngạn ngữ của ta. "Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo". Phàm yên phận nghèo, hay không lo nghèo hay quên cả cảnh nghèo, đó là nét cao quý của hiền triết, không để cho cảnh làm lụy được tâm, làm tổn được chí. Nhưng chúng ta chớ quên rằng những bực hiền triết thường cần lao, hoặc cày ruộng hay câu cá hoặc kiếm củi hay chăn nuôi cho có đủ sống, rồi các ngài mới sống cho ra sống. Cần lao để mưu sinh, đó là sự thường nhưng cần, chúng ta phải có trước đã, để cho thoát khỏi cái nhục ký sinh cái hại cơ hàn thiết thân bất cố liêm sỉ. Khi chúng ta đã tự lập được đã biết trọng liêm sỉ thì chúng ta mới có thể trở nên người không lo nghèo được.
Mới bọc gạo đem lại cho.
Lúc đến trước cửa, thấy Tử Tang đánh đàn nửa như khóc, nửa như hát, tiếng không ra hơi, giọng thì líu nhíu, lắng tai nghe, như có câu rằng:
-Cha ư ? Mẹ ư! Trời ư ! Người ư !
Tử Dư bước vào hỏi:
-Bác đàn hát như thế là làm sao vậy ?
Tử Tang nói:
-Tôi nghĩ mãi, mà không biết tự đâu đến nông nỗi cùng cực như thế náy ? Nào có phải cha mẹ tôi muốn cho tôi nghèo khổ đâu ! Nào có phải trời đất để cho tôi nghèo riêng một mình đâu ? Trời không riêng che, đất không riêng chở một ai... Thực ra, tôi muốn tìm cho biết tự đâu tôi phải chịu cùng cực như thế này, mà không ra. Vậy thì không phải là cái mệnh nó xui khiến ra như thế ư !
Trang Tử Tuyết
Chú Thích.
- Tủ Dư, Tủ Tang : hai người đời Xuân Thu, tính khoáng đạt, chơi thân với nhau.
Lời Bàn:
Tử Tang nghèo mà cho là số mệnh thì ý giống câu ngạn ngữ của ta. "Số giàu của đến dửng dưng, số nghèo con mắt cháo chưng vẫn nghèo". Phàm yên phận nghèo, hay không lo nghèo hay quên cả cảnh nghèo, đó là nét cao quý của hiền triết, không để cho cảnh làm lụy được tâm, làm tổn được chí. Nhưng chúng ta chớ quên rằng những bực hiền triết thường cần lao, hoặc cày ruộng hay câu cá hoặc kiếm củi hay chăn nuôi cho có đủ sống, rồi các ngài mới sống cho ra sống. Cần lao để mưu sinh, đó là sự thường nhưng cần, chúng ta phải có trước đã, để cho thoát khỏi cái nhục ký sinh cái hại cơ hàn thiết thân bất cố liêm sỉ. Khi chúng ta đã tự lập được đã biết trọng liêm sỉ thì chúng ta mới có thể trở nên người không lo nghèo được.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 09:52 PM
Người nước Việt giết ba đời vua. Con vua đời thứ ba tên là Sưu lo sợ, phải trốn vào ở trong hang.
Nước Việt thành ra không có vua. Người Việt đi tìm con vua mãi, không thấy. Đến lúc tìm thấy ở trong hang thì con vua không chịu ra. Người Việt một mặt lấy lá ngải hun vào hang, một mặt đem xe đón. Con vua bất đắc dĩ phải ra. Lúc lên xe, ngửa mặt lên trời, kêu to rằng: "Ôi làm vua ! Ôi làm vua ! Ta không muốn làm vua cũng không được hay sao !"
Con vua lo như thế, không phải là ghét làm vua, ghét là ghét cái họa làm vua. Không muốn làm vua tức là không chịu lấy cả một nước mà phiền lụy đến thân mình. Thân mình không muốn phiền lụy thì khi làm vua, tất không nỡ làm phiền lụy khổ hại ai. Mà chỉ bởi cái lẽ ấy Người Việt mới cố tôn lên làm vua cho được.
Trang Tử
Lời Bàn:
Làm vua thường tình ai chả muốn. Thể mà có người đến làm vua cũng không muốn ! Không phải là ghét gì làm vua, nhưng ghét rằng làm vua, thường có khi không giữ được toàn tính mệnh. Bài này cố ý cảnh tỉnh những kẻ ham danh, ham lợi để hại đến thân. Cứ theo ý tác giả, thì chỉ người nào không có chút ít gì phiền lụy đến tấm thân, mới là không "thương sinh" nghĩa là hại đến đời mình, mà giữ được "toàn sinh" nghĩa là giữ được đời mình cho trọn vẹn. Còn như đây không muốn làm vua mà cứ bị tôn lên làm vua là vì ông thông minh nhân hậu lại có đức độ cùng biết người và thương dân thì dân chúng nào chả muốn tồn lên làm quân trưởng.
Nước Việt thành ra không có vua. Người Việt đi tìm con vua mãi, không thấy. Đến lúc tìm thấy ở trong hang thì con vua không chịu ra. Người Việt một mặt lấy lá ngải hun vào hang, một mặt đem xe đón. Con vua bất đắc dĩ phải ra. Lúc lên xe, ngửa mặt lên trời, kêu to rằng: "Ôi làm vua ! Ôi làm vua ! Ta không muốn làm vua cũng không được hay sao !"
Con vua lo như thế, không phải là ghét làm vua, ghét là ghét cái họa làm vua. Không muốn làm vua tức là không chịu lấy cả một nước mà phiền lụy đến thân mình. Thân mình không muốn phiền lụy thì khi làm vua, tất không nỡ làm phiền lụy khổ hại ai. Mà chỉ bởi cái lẽ ấy Người Việt mới cố tôn lên làm vua cho được.
Trang Tử
Lời Bàn:
Làm vua thường tình ai chả muốn. Thể mà có người đến làm vua cũng không muốn ! Không phải là ghét gì làm vua, nhưng ghét rằng làm vua, thường có khi không giữ được toàn tính mệnh. Bài này cố ý cảnh tỉnh những kẻ ham danh, ham lợi để hại đến thân. Cứ theo ý tác giả, thì chỉ người nào không có chút ít gì phiền lụy đến tấm thân, mới là không "thương sinh" nghĩa là hại đến đời mình, mà giữ được "toàn sinh" nghĩa là giữ được đời mình cho trọn vẹn. Còn như đây không muốn làm vua mà cứ bị tôn lên làm vua là vì ông thông minh nhân hậu lại có đức độ cùng biết người và thương dân thì dân chúng nào chả muốn tồn lên làm quân trưởng.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 09:58 PM
Nước Hàn nước Ngụy muốn lấn đất nhau. Tử Hoa Tử đến ra mắt vua Chiêu Hy nước Ngụy thấy vua có dáng lo buồn, mới hỏi rằng:
-Giá bây giờ, cả bao nhiêu nước họp nhau, đính ước một câu và khắc câu ấy ở trước mặt vua rằng: "Tay trái lấy được thiên hạ thì hỏng mất tay phải, tay phải lấy được thiên hại thì mất tay trái".
Vua Chiêu Hy nói:
-Như thế ta chẳng lấy thiên hạ làm gì.
Tử Hoa Tử thưa:
-Nhà vua nói phải lắm. Cứ xem như thế, hai cánh tay ta trọng hơn cả thiên hạ, thì cái thân ta trọng hơn hai cánh tay ta lại đáng trọng hơn biết là bao! Nước Hàn so với cả thiên hạ bé nhỏ thấm vào đâu! Miếng đất tranh nhau lại so với cả nước Hàn bé nhỏ thấm vào đầu ! Thế mà sao chỉ vì lo không tranh được một miếng đất nhỏ ấy, mà nhà vua đến nỗi ủ dột buồn rầu, mất ăn, mất ngủ, thương sinh quá như vậy?
Vua Chiêu Hy nói:
-Phải lắm. Người dạy bảo quả nhân cũng nhiều, nhưng chưa từng thấy ai dạy bảo quả nhân được những lời như thế .
Tử Hoa Tử bàn như thế mới thực là người biết điều khinh, điều trọng ở đời vậy.
Chú Thích.
- Hàn : một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc ở vào trung bộ Hà Nam bây giờ.
- Ngụy : cũng một nước lớn về thời đại ấy ở vào bắc hộ Hà Nam và phía tây nam Sơn Tây bây giờ
- Tử Hoa Tử, một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hy.
- Đính ước : định và công nhận một điều gì đã thỏa thuận với nhau và bắt nhau cùng giữ.
- Thiên hạ : thể giới khớp cả gầm trời xưa người Trung Hoa gọi thiên hạ là chỉ riêng một nước Trung Quốc thôi.
- Thương sinh : hại đến sức khỏe, đến đời người.
Lời Bàn:
Mất một cánh tay mà được cả thiên hạ còn không muốn, huống chi hại cả cái thân mà được một miếng đất cỏn con lại muốn hay sao ! Thế mới hay, tất cả mọi người, trên tự vua chúa dưới đến thường dân ai ai cũng biết trọng cái thân mình, quý cái thân mình hơn cả ngoại vật, nhưng tiếc thay, những kẻ có quyền có thế trong tay thường chỉ biết mến một cái thân mình, còn thân của người, của bao nhiêu người, lại nỡ đem ra sát hại, để thỏa chút lòng tham muốn, cầu lợi rất đáng khinh bỉ. Nếu ai cũng biết thương sinh là hại, sát sinh là bất nghĩa, thì còn đâu là những sự chiến tranh hại kể có đến muôn, triệu tính mệnh sinh linh !
-Giá bây giờ, cả bao nhiêu nước họp nhau, đính ước một câu và khắc câu ấy ở trước mặt vua rằng: "Tay trái lấy được thiên hạ thì hỏng mất tay phải, tay phải lấy được thiên hại thì mất tay trái".
Vua Chiêu Hy nói:
-Như thế ta chẳng lấy thiên hạ làm gì.
Tử Hoa Tử thưa:
-Nhà vua nói phải lắm. Cứ xem như thế, hai cánh tay ta trọng hơn cả thiên hạ, thì cái thân ta trọng hơn hai cánh tay ta lại đáng trọng hơn biết là bao! Nước Hàn so với cả thiên hạ bé nhỏ thấm vào đâu! Miếng đất tranh nhau lại so với cả nước Hàn bé nhỏ thấm vào đầu ! Thế mà sao chỉ vì lo không tranh được một miếng đất nhỏ ấy, mà nhà vua đến nỗi ủ dột buồn rầu, mất ăn, mất ngủ, thương sinh quá như vậy?
Vua Chiêu Hy nói:
-Phải lắm. Người dạy bảo quả nhân cũng nhiều, nhưng chưa từng thấy ai dạy bảo quả nhân được những lời như thế .
Tử Hoa Tử bàn như thế mới thực là người biết điều khinh, điều trọng ở đời vậy.
Chú Thích.
- Hàn : một nước lớn trong bảy nước thời Chiến Quốc ở vào trung bộ Hà Nam bây giờ.
- Ngụy : cũng một nước lớn về thời đại ấy ở vào bắc hộ Hà Nam và phía tây nam Sơn Tây bây giờ
- Tử Hoa Tử, một nhà học thuyết giỏi nước Ngụy đời vua Chiêu Hy.
- Đính ước : định và công nhận một điều gì đã thỏa thuận với nhau và bắt nhau cùng giữ.
- Thiên hạ : thể giới khớp cả gầm trời xưa người Trung Hoa gọi thiên hạ là chỉ riêng một nước Trung Quốc thôi.
- Thương sinh : hại đến sức khỏe, đến đời người.
Lời Bàn:
Mất một cánh tay mà được cả thiên hạ còn không muốn, huống chi hại cả cái thân mà được một miếng đất cỏn con lại muốn hay sao ! Thế mới hay, tất cả mọi người, trên tự vua chúa dưới đến thường dân ai ai cũng biết trọng cái thân mình, quý cái thân mình hơn cả ngoại vật, nhưng tiếc thay, những kẻ có quyền có thế trong tay thường chỉ biết mến một cái thân mình, còn thân của người, của bao nhiêu người, lại nỡ đem ra sát hại, để thỏa chút lòng tham muốn, cầu lợi rất đáng khinh bỉ. Nếu ai cũng biết thương sinh là hại, sát sinh là bất nghĩa, thì còn đâu là những sự chiến tranh hại kể có đến muôn, triệu tính mệnh sinh linh !
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:03 PM
Vua Nghiêu đến chơi đất Hoa. Viên quan giữ bờ cõi đất Hoa chúc rằng:
-Xin chúc nhà vua sống lâu.
Vua Nghiêu nói:
-Đừng chúc thế.
Viên quan lại chúc:
-Xin chúc nhà vua giàu có.
Vua Nghiêu nói:
-Đừng chúc thế!
Viên quan lại chúc:
-Xin chúc nhà vua lắm con trai.
Vua Nghiêu nói:
-Đừng chúc thế .
Viên quan lấy làm lạ, hỏi:
-Sống lâu, giàu có, lắm con trai, người ta ai cũng muốn, một mình nhà vua không muốn, là cớ làm sao ?
Vua Nghiêu nói:
-Lắm con trai, thì sợ nhiều, giàu có thì công việc nhiều, sống lâu, thì nhục nhã nhiều. Ba điều ấy không phải là những điều gây nên đức hay cho mình, nên ta từ chối.
Viên quan nói:
-Nhà vua nói như thế, thực là một bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra người, mỗi người phải có một việc thì có lo sợ gì ? Giàu có mà biết đem của chia với người ta, thì còn công việc gì ? Ăn uống có chừng, thức ngủ có độ trong bụng lúc nào cũng thư thái tự nhiên, thiên hạ hay ra thì cùng hay với thiên hạ, thiên hạ mà dở thì làm cho thiên hạ hay, trăm tuổi nhắm mắt về cõi cực lạc, một đời không có tai họa gì thì còn nhục nhã làm sao được .
Viên quan nói xong, lùi ngay. Vua Nghiêu còn muốn nói nữa, thì cho theo không kịp.
Trang Tử Tuyết
Lời Bàn:
Sống lâu, giàu có, lắm con, cứ kể ra ở đời, còn gì sống hơn nữa, ai là người chẳng cầu, chăng muốn, cho nên thói thường vẫn chúc tụng cho nhau. Nhưng xét lại, có khi sống lắm nhục nhiều. Của làm hại người. Có con khổ về con, thì mỗi cái cho là sướng kia chẳng lại hóa ra một cái khổ cho thân ru ! Tuy vậy, nếu số đã được sống lâu, giàu có, lắm con, thì cũng không thể từ chối được. Tất phải làm theo như lời viên quan nói trong bài này thì mới thực được sung sướng lâu dài và mới nuôi được cái đức hay cho mình vậy.
-Xin chúc nhà vua sống lâu.
Vua Nghiêu nói:
-Đừng chúc thế.
Viên quan lại chúc:
-Xin chúc nhà vua giàu có.
Vua Nghiêu nói:
-Đừng chúc thế!
Viên quan lại chúc:
-Xin chúc nhà vua lắm con trai.
Vua Nghiêu nói:
-Đừng chúc thế .
Viên quan lấy làm lạ, hỏi:
-Sống lâu, giàu có, lắm con trai, người ta ai cũng muốn, một mình nhà vua không muốn, là cớ làm sao ?
Vua Nghiêu nói:
-Lắm con trai, thì sợ nhiều, giàu có thì công việc nhiều, sống lâu, thì nhục nhã nhiều. Ba điều ấy không phải là những điều gây nên đức hay cho mình, nên ta từ chối.
Viên quan nói:
-Nhà vua nói như thế, thực là một bậc quân tử. Nhưng trời sinh ra người, mỗi người phải có một việc thì có lo sợ gì ? Giàu có mà biết đem của chia với người ta, thì còn công việc gì ? Ăn uống có chừng, thức ngủ có độ trong bụng lúc nào cũng thư thái tự nhiên, thiên hạ hay ra thì cùng hay với thiên hạ, thiên hạ mà dở thì làm cho thiên hạ hay, trăm tuổi nhắm mắt về cõi cực lạc, một đời không có tai họa gì thì còn nhục nhã làm sao được .
Viên quan nói xong, lùi ngay. Vua Nghiêu còn muốn nói nữa, thì cho theo không kịp.
Trang Tử Tuyết
Lời Bàn:
Sống lâu, giàu có, lắm con, cứ kể ra ở đời, còn gì sống hơn nữa, ai là người chẳng cầu, chăng muốn, cho nên thói thường vẫn chúc tụng cho nhau. Nhưng xét lại, có khi sống lắm nhục nhiều. Của làm hại người. Có con khổ về con, thì mỗi cái cho là sướng kia chẳng lại hóa ra một cái khổ cho thân ru ! Tuy vậy, nếu số đã được sống lâu, giàu có, lắm con, thì cũng không thể từ chối được. Tất phải làm theo như lời viên quan nói trong bài này thì mới thực được sung sướng lâu dài và mới nuôi được cái đức hay cho mình vậy.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:09 PM
Vua
Chiêu Vương nước Sở mất nước, phải bỏ chạy. Có người hàng thịt dê tên
là Duyệt, cũng chạy theo vua. Sau vua Chiêu Vương lại trở về, lấy lại
được nước. Vua bèn thưởng những người chạy theo khi trước, có cả anh
hàng thịt dê nữa. Ai ai cũng nhận thưởng, chỉ một người hàng thịt dê từ
chối, nói rằng:
-Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê; nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng gì nữa .
Vua cố ép. Người hàng thịt dê thưa rằng: "Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết, nhà vua lấy lại được nước, không phải là công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
Vua bảo:
-Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người hàng thịt dê nói:
-Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tới xét mình tôi trí mưu không giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước mà đến chơi nhà tôi, tôi e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Kỳ rằng:
-Người hàng thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giải bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mới được người ấy ra nhận chức tam công cho ta .
Người hàng thịt dê nói:
-Tôi biết chức tam công quý hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa . Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bán thịt dê.
Nói đoạn, lùi ngay ra.
Trang tử
Chú Thích
- Tam công: ba chức quan to, đời nhà Chu thì là Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo, đời nhà Tây Hán thì là Đại Tư Mã, Đại Tư .Đồ, Đại Tư Không, đời nhà Đông Hán thì là Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không.
- Tước: ngôi thứ, có năm tước là công, hầu, bá tử, nam.
Lời Bàn:
Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khi mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là người có lòng trung thành với mình. Người hàng thịt dê không nhận thưởng, là lấy cái nghĩa không đáng, vì không có công cán gì. Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quý trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quý, quyển thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắm ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì, mà cũng cố cạy cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vị để lòe đời vậy.
-Trước nhà vua mất nước, tôi mất nghề bán thịt dê; nay nhà vua còn nước, tôi còn nghề bán thịt dê. Thế là tôi giữ được nghiệp cũ đủ ăn rồi, còn đâu dám mong thưởng gì nữa .
Vua cố ép. Người hàng thịt dê thưa rằng: "Nhà vua mất nước không phải là tội tôi, nên tôi không dám liều chết, nhà vua lấy lại được nước, không phải là công tôi, nên tôi không dám lĩnh thưởng.
Vua bảo:
-Để rồi ta đến nhà ngươi chơi vậy.
Người hàng thịt dê nói:
-Theo phép nước Sở, phàm người nào có công to, được trọng thưởng thì vua mới đến nhà. Nay tới xét mình tôi trí mưu không giữ được nước, dũng cảm không đủ giết được giặc. Quân giặc vào trong nước, tôi lánh nạn, phải theo nhà vua, chớ có phải là cốt ý theo nhà vua đâu ! Nay nhà vua muốn bỏ phép nước mà đến chơi nhà tôi, tôi e thiên hạ nghe thấy lại chê cười chăng.
Chiêu Vương thấy nói, ngoảnh lại bảo Tư Mã Kỳ rằng:
-Người hàng thịt dê này tuy làm nghề vi tiện mà giải bày nghĩa lý rất cao xa. Nhà ngươi làm thế nào mới được người ấy ra nhận chức tam công cho ta .
Người hàng thịt dê nói:
-Tôi biết chức tam công quý hơn cửa hàng bán thịt dê, bổng lộc nghìn vạn, giàu hơn tiền lãi bán thịt dê. Nhưng tôi đâu dám tham tước lộc mà để nhà vua mang tiếng là gia ơn không phải nghĩa . Tôi thực không dám nhận. Xin cho về giữ lấy nghề bán thịt dê.
Nói đoạn, lùi ngay ra.
Trang tử
Chú Thích
- Tam công: ba chức quan to, đời nhà Chu thì là Thái Sư, Thái Phó, Thái Bảo, đời nhà Tây Hán thì là Đại Tư Mã, Đại Tư .Đồ, Đại Tư Không, đời nhà Đông Hán thì là Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không.
- Tước: ngôi thứ, có năm tước là công, hầu, bá tử, nam.
Lời Bàn:
Vua Chiêu Vương muốn thưởng, là lấy cái ý khi mình gặp bước lưu vong mà người ta đi theo mình là người có lòng trung thành với mình. Người hàng thịt dê không nhận thưởng, là lấy cái nghĩa không đáng, vì không có công cán gì. Nếu ai cũng biết an phận thủ thường, quý trọng nghề nghiệp như người bán thịt dê, thì còn ai là kẻ ham mê phú quý, quyển thế và sự thưởng phạt ở đời chẳng là công minh lắm ru ! Thực đáng làm gương cho những kẻ không biết liêm sỉ, tài năng công đức chẳng có gì, mà cũng cố cạy cục, chạy chọt lấy chút phẩm hàm chức vị để lòe đời vậy.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:18 PM
Vợ thầy Tăng Tử đi chợ. Con khóc đòi đi theo. Mẹ bảo:
-Con ở nhà, rồi mẹ về, mẹ làm thịt lợn cho con ăn.
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt.
Vợ nói:
-Tôi nói đùa nó đấy mà ?
Thầy Tăng Tử bảo:
-Nói đùa là thế nào ? Đừng khinh trẻ thơ là không biết gì. Cha mẹ làm gì, nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư !
-Con ở nhà, rồi mẹ về, mẹ làm thịt lợn cho con ăn.
Lúc vợ về, thầy Tăng Tử đi bắt lợn làm thịt.
Vợ nói:
-Tôi nói đùa nó đấy mà ?
Thầy Tăng Tử bảo:
-Nói đùa là thế nào ? Đừng khinh trẻ thơ là không biết gì. Cha mẹ làm gì, nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy nó nói dối ư !
Tăng Tử nói xong, làm thịt lợn cho con ăn thật.
Lời Bàn:
Thầy Tăng Tử nhà nghèo, phải giết lợn, mẹ thầy Mạnh Tử cũng có mua miếng
thịt lợn nhà láng giềng cho con ăn đều là vì đã trót nói đùa với trẻ
con ăn thịt lợn, thì không muốn nói dối nó, để giữ lấy lòng thực của nó.
Phàm cha mẹ, ai là không muốn cho con thành thực. Nhưng muốn vậy, tất
mình phải giữ gìn , chớ có nói dối nó bao giờ. Lục Chí có câu nói rằng:
"Nếu mình khôn hết lòng thành mà mong người ta hết lòng thành, chắc
người ta chán mình mà không theo mình nữa. Lần này mình không có lòng
thành, mà bảo lần sau rồi có lòng thành, chắc người ta ngờ vực mà không
tin được nữa". Cũng một ý với thầy Tăng Tử dạy con vậy.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:31 PM
Thầy
Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gan nghĩa địa, thấy người đào, chôn, lăn khóc,
về nhà cũng bắt chước đào chôn, lăn khóc. Bà mẹ thấy thế, nói:
-Chỗ này khôn phải chỗ con ta ở được.
Rồi dọn nhà ra gần chợ. Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo về nhà cũng bắt chước nô nghịch cách buôn bán điên đảo. Bà mẹ thấy thế, lại nói:
-Chỗ này cúng không phải chỗ con ta ở được.
Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học. Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói:
-Chỗ này là chỗ con ta ở được đây.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ:
-Người ta giết lợn làm gì thế ?
Bà mẹ nói đùa:
-Để cho con ăn đấy!
Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng:
-Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nói dối hay sao ?
Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật .
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngôi dệt cửi; trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng:
-Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy.
Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Rồi về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao ?
Liệt Nữ Truyện
Lời Bàn.
Mẹ thầy Mạnh thực là biết dạy con. Mấy lần dọn nhà, thế là hiểu cái lẽ: gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nói lỡ lời phải mua thịt cho con an, thế là hiểu cái lẽ: chớ nên nói dối trẻ. Thấy con bỏ học mà cầm dao cắt đứt tấm vải làm thí dụ, thế là hiểu cái lẽ: Học hành cốt phải chuyên cần... Người ta đã nói: Người mẹ là thầy giáo thứ nhất của trẻ, nên người mẹ phải biết cách dạy trẻ mới đuốc. Dạy con từ thuở còn thơ, cái buổi ban đầu là cái buổi khó, mà cái buổi ấy là ở trong tay người mẹ, người mẹ tức là người có trách nhiệm gia đình giáo dục rất to. Không kém gì người cha, mà có lẽ hơn.
-Chỗ này khôn phải chỗ con ta ở được.
Rồi dọn nhà ra gần chợ. Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo về nhà cũng bắt chước nô nghịch cách buôn bán điên đảo. Bà mẹ thấy thế, lại nói:
-Chỗ này cúng không phải chỗ con ta ở được.
Bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học. Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói:
-Chỗ này là chỗ con ta ở được đây.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ:
-Người ta giết lợn làm gì thế ?
Bà mẹ nói đùa:
-Để cho con ăn đấy!
Nói xong, bà nghĩ lại, hối rằng:
-Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nói dối hay sao ?
Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật .
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngôi dệt cửi; trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng:
-Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt như vậy.
Từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Rồi về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của bà mẹ hay sao ?
Liệt Nữ Truyện
Lời Bàn.
Mẹ thầy Mạnh thực là biết dạy con. Mấy lần dọn nhà, thế là hiểu cái lẽ: gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Nói lỡ lời phải mua thịt cho con an, thế là hiểu cái lẽ: chớ nên nói dối trẻ. Thấy con bỏ học mà cầm dao cắt đứt tấm vải làm thí dụ, thế là hiểu cái lẽ: Học hành cốt phải chuyên cần... Người ta đã nói: Người mẹ là thầy giáo thứ nhất của trẻ, nên người mẹ phải biết cách dạy trẻ mới đuốc. Dạy con từ thuở còn thơ, cái buổi ban đầu là cái buổi khó, mà cái buổi ấy là ở trong tay người mẹ, người mẹ tức là người có trách nhiệm gia đình giáo dục rất to. Không kém gì người cha, mà có lẽ hơn.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:36 PM
Nước Sở có người họ Hòa, được một hòn ngọc ở trong núi, đem dâng vua Lệ Vương. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:
-Đá, không phải ngọc.
Vua cho người họ Hòa là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:
-Đá không phải ngọc.
Vua lại cho họ Hoa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra.
Vua thấy thế, sai người đến hỏi.
Người họ Hòa thưa:
-Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối.
Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là "Ngọc bích họ Hòa".
Hàn Phi tử
Lời Bàn:
Người ta thường mờ mịt của thật cho là của giả, sự phải ngờ là sự trái. Hoặc có ai biết lẽ phải, muốn đem ra bày tỏ mà thiên hạ không biết cho, lại còn mai mỉa, thì thật là khổ tâm. Người họ Hòa không đau vì nỗi hai chân bị chặt, chỉ đau vì nỗi ngọc mà cho là đá, nói thực mà cho là nói dối, quả là một người vì yêu cái thực, cái phải, cố làm cho sự thực, sự phải phá đổ được sự u mê của người đời.
-Đá, không phải ngọc.
Vua cho người họ Hòa là nói dối, sai chặt chân trái.
Đến khi vua Vũ Vương nối ngôi, người họ Hòa lại đem ngọc ấy dâng. Vua sai thợ ngọc xem. Thợ ngọc nói:
-Đá không phải ngọc.
Vua lại cho họ Hoa là nói dối, sai chặt nốt chân phải.
Đến khi vua Văn Vương lên ngôi, người họ Hòa ôm hòn ngọc, khóc ở chân núi Sở Sơn suốt ba ngày ba đêm đến chảy máu mắt ra.
Vua thấy thế, sai người đến hỏi.
Người họ Hòa thưa:
-Tôi khóc không phải là thương hai chân tôi bị chặt, chỉ thương về nỗi ngọc mà cho là đá, nói thật mà cho là nói dối.
Vua bèn sai người xem lại cho rõ kỹ, thì quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là "Ngọc bích họ Hòa".
Hàn Phi tử
Lời Bàn:
Người ta thường mờ mịt của thật cho là của giả, sự phải ngờ là sự trái. Hoặc có ai biết lẽ phải, muốn đem ra bày tỏ mà thiên hạ không biết cho, lại còn mai mỉa, thì thật là khổ tâm. Người họ Hòa không đau vì nỗi hai chân bị chặt, chỉ đau vì nỗi ngọc mà cho là đá, nói thực mà cho là nói dối, quả là một người vì yêu cái thực, cái phải, cố làm cho sự thực, sự phải phá đổ được sự u mê của người đời.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:40 PM
Vua Tuyên Vương sai Kỷ Sảnh nuôi một con gà chọi.
Được mười hôm, vua hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Chưa được, gà hăng lắm, chưa thấy gà khác đã muốn chọi rồi.
Cách mười hôm, vua hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Chưa được. Gà còn hăng, mới thấy bóng gà khác đã muốn chọi rồi.
Cách mười hôm, vua lại hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Chưa được. Gà còn hơi hăng, trông thấy gà khác đã muốn chọi rồi .
Mười hôm sau, vua lại hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Được rồi. Gà bây giờ, cho nghe thấy tiếng gà khác cũng không cho vào đâu. Trông thì tựa như gà gỗ, mà thực, thì đủ các ngón hay. Gà khác coi thấy cũng đủ sợ, phải lùi chạy.
Trang Tử
Lời Bàn:
1. Chưa trông thấy gà khác, đã muốn chọi, thế là tức khí hão, chớ vị tất chọi mà đã được.
2. Trông thấy bóng gà khác, đã muốn chọi , thế là cậy khỏe, chớ vị tất chọi mà đã được.
3. Trông thực thấy gà khác đã muốn chọi, thể là còn hiếu thắng chớ vị tất chọi mà đã được .
Chỉ đến lúc mất hết tất cả tức khí, cậy khỏe, hiếu thắng, luyện đã được hình toàn thần toàn đủ hết cả ngón hay, mà trông bề ngoài trơ ra như gỗ, là lúc ấy mới chọi được, có khi không phải đợi chọi, gà khác ngó thấy cũng đủ mà trốn tránh rồi. Thể mới hay những bậc thánh hiền chỉ thu cái tài vào khuôn phép, nên cái khí vào tâm thần, chỉ cốt trong mình cho đầy đủ, không có ý gì tranh cạnh với ai, là thiên hạ hồ dễ đã ai tranh cạnh nổi. Chờ những kẻ chỉ vụ bế ngoài, chăm chăm danh lợi, Có tranh giành mới lấy làm vui lòng, có tham lam mới lấy làm mãn nguyện, còn những hạng tầm thường, có khi hại đến thân mà vẫn tự đắc cho là phải.
Được mười hôm, vua hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Chưa được, gà hăng lắm, chưa thấy gà khác đã muốn chọi rồi.
Cách mười hôm, vua hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Chưa được. Gà còn hăng, mới thấy bóng gà khác đã muốn chọi rồi.
Cách mười hôm, vua lại hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Chưa được. Gà còn hơi hăng, trông thấy gà khác đã muốn chọi rồi .
Mười hôm sau, vua lại hỏi:
-Gà đã đem chọi được chưa ?
Kỷ Sảnh thưa:
-Được rồi. Gà bây giờ, cho nghe thấy tiếng gà khác cũng không cho vào đâu. Trông thì tựa như gà gỗ, mà thực, thì đủ các ngón hay. Gà khác coi thấy cũng đủ sợ, phải lùi chạy.
Trang Tử
Lời Bàn:
1. Chưa trông thấy gà khác, đã muốn chọi, thế là tức khí hão, chớ vị tất chọi mà đã được.
2. Trông thấy bóng gà khác, đã muốn chọi , thế là cậy khỏe, chớ vị tất chọi mà đã được.
3. Trông thực thấy gà khác đã muốn chọi, thể là còn hiếu thắng chớ vị tất chọi mà đã được .
Chỉ đến lúc mất hết tất cả tức khí, cậy khỏe, hiếu thắng, luyện đã được hình toàn thần toàn đủ hết cả ngón hay, mà trông bề ngoài trơ ra như gỗ, là lúc ấy mới chọi được, có khi không phải đợi chọi, gà khác ngó thấy cũng đủ mà trốn tránh rồi. Thể mới hay những bậc thánh hiền chỉ thu cái tài vào khuôn phép, nên cái khí vào tâm thần, chỉ cốt trong mình cho đầy đủ, không có ý gì tranh cạnh với ai, là thiên hạ hồ dễ đã ai tranh cạnh nổi. Chờ những kẻ chỉ vụ bế ngoài, chăm chăm danh lợi, Có tranh giành mới lấy làm vui lòng, có tham lam mới lấy làm mãn nguyện, còn những hạng tầm thường, có khi hại đến thân mà vẫn tự đắc cho là phải.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:46 PM
Nước
Tề có người xem tướng chó giỏi. Nhà láng giềng nhờ mua một con chó hay
để bắt chuột. Một năm trời anh ta mới mua được, bảo nhà láng giềng:
-Con chó này tốt đấy.
Nhà láng giềng nuôi con chó mấy năm mà không thấy nó bắt chuột, mới nói chuyện với anh ta. Anh bảo:
-Con chó tốt lằm đấy. Nhưng cái chí nó chăm bắt hươu, nai, cầy, cáo, chớ không muốn bắt chuột. Bây giờ muốn cho nó bắt chuột thì phải cùm chân sau nó lại .
Nhà láng giềng làm theo như thế, quả sau con chó hay bắt chuột.
Lã Thị Xuân Thu
Lời Bàn:
Con chó trước không bắt chuột, là vì nó có tài bắt những hươu, nai, không thèm bắt chuột; sau nó bắt chuột, là vì người ta đã cùm chần, hãm cái tài nó lại không cho chạy nhanh quá. Cốt ý bài ngụ ngôn này nói kẻ có đại tài, mà đem dùng vào việc nhỏ, thì không được việc. Muốn cho được việc, thì người dùng tất phải biết hạn chế cái tài ấy lại. Nên người có tài mà làm được việc hay không được việc, là cốt ở người biết dùng hay không biết dùng mà thôi. Nhưng muốn cho người có tài to làm việc nhỏ, mà phải làm cho mất cái tài to đi đã, thì chẳng đáng tiếc cho người có tài mà chẳng gặp được tri kỷ lắm ru.
-Con chó này tốt đấy.
Nhà láng giềng nuôi con chó mấy năm mà không thấy nó bắt chuột, mới nói chuyện với anh ta. Anh bảo:
-Con chó tốt lằm đấy. Nhưng cái chí nó chăm bắt hươu, nai, cầy, cáo, chớ không muốn bắt chuột. Bây giờ muốn cho nó bắt chuột thì phải cùm chân sau nó lại .
Nhà láng giềng làm theo như thế, quả sau con chó hay bắt chuột.
Lã Thị Xuân Thu
Lời Bàn:
Con chó trước không bắt chuột, là vì nó có tài bắt những hươu, nai, không thèm bắt chuột; sau nó bắt chuột, là vì người ta đã cùm chần, hãm cái tài nó lại không cho chạy nhanh quá. Cốt ý bài ngụ ngôn này nói kẻ có đại tài, mà đem dùng vào việc nhỏ, thì không được việc. Muốn cho được việc, thì người dùng tất phải biết hạn chế cái tài ấy lại. Nên người có tài mà làm được việc hay không được việc, là cốt ở người biết dùng hay không biết dùng mà thôi. Nhưng muốn cho người có tài to làm việc nhỏ, mà phải làm cho mất cái tài to đi đã, thì chẳng đáng tiếc cho người có tài mà chẳng gặp được tri kỷ lắm ru.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 10:53 PM
Ở
Hàng Châu có người bán các thứ quả, khéo để dành cam, lâu mà không ủng,
vỏ vẫn đỏ hồng trông đẹp như vàng, như ngọc, đem ra chợ bán giá đắt, mà
người ta tranh nhau mua. Ta cũng mua một quả. Đem về, bóc ra, hơi xông
lên mũi, múi xác như bông nát. Ta liền đem ra chợ hỏi người bán cam.
-Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi khách hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ? Anh giả dối lắm!
Người bán cam cười nói:
-Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông kêu ca ? Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải gì một mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi... Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ hùng dũng trông ra dáng quan võ lâm kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không, ăn lương, không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của quý, oai vệ, hách dịch vô cùng ?... đó bề ngoài chẳng như vàng, như ngọc mà bề trong chẳng như bông nát là gì ? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi xét quả cam của tôi ?
Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm sao .
Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục mới thác ra truyện bán cam để dạy người đời chăng ?
Lưu cơ
Chú Thích.
- Hàng Châu : Tên một phủ tức là tỉnh ly Chiết Giang bây giờ.
-Tôn Tẫn, Ngô Khởi: hai người làm tướng võ giỏi đời Chiến quốc.
- Y Doãn : tướng giỏi đời vua Thang nhà Thương.
-Cao Dao: tướng giỏi đời vua Nghiêu, vua Thuấn
Lời Bàn:
Người bán cam đây chẳng qua chính là tác giả. Mà cốt ý của tác giả là muốn lấy qua cam đẹp vỏ, thối ruột, mà bóc cả cái hách dịch cái oai vệ bể ngoài của những bậc quan lớn, một đời suy đốn, để phơi bày cái thực tình bất tài, bất trí, bất dũng ở bên trong. Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không nên tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói: cái thùng không, bông lúa lép, hay những câu ca dao: "Trông em, anh ngờ sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không". "Nhác trông ngỡ tuồng tô vàng, nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa ", thật là có ý vị.
-Anh bán cam cho người ta để làm của cúng lễ, đãi khách hay là chỉ làm cho choáng bề ngoài để đánh lừa người ta ? Tệ thật ? Anh giả dối lắm!
Người bán cam cười nói:
-Tôi làm nghề này đã lâu năm để kiếm tiền nuôi thân. Tôi bán, người ta mua, chẳng ai nói gì, chỉ có ông kêu ca ? Thiên hạ giả dối nhiều chẳng phải gì một mình tôi ? Ông thật không chịu nghĩ đến nơi... Này thử xem, người đeo hổ phù, ngồi da hổ hùng dũng trông ra dáng quan võ lâm kỳ thực không biết có giỏi được như Tôn Tẫn, Ngô Khởi không ? Người đội mũ cao, đóng đai dài, đường hoàng trông ra dáng quan văn lắm, kỳ thực không biết có giỏi được như Y Doãn, Cao Dao không? Giặc nổi không biết dẹp, dân khổ không biết cứu, quan lại tham nhũng không biết trừng trị, pháp độ hỏng nát không biết sửa đổi, ngồi không, ăn lương, không biết xấu hổ. Thế mà lúc ngồi công đường, đi xe ngựa, uống rượu ngon, ăn của quý, oai vệ, hách dịch vô cùng ?... đó bề ngoài chẳng như vàng, như ngọc mà bề trong chẳng như bông nát là gì ? Ông không chịu xét những hạng người ấy mà đi xét quả cam của tôi ?
Ta nghe nói, nín lặng, không trả lời được ra làm sao .
Ta nghĩ người ấy nói có giọng khôi hài. Dễ chừng người ấy ghét kẻ gian tà, giận phường thế tục mới thác ra truyện bán cam để dạy người đời chăng ?
Lưu cơ
Chú Thích.
- Hàng Châu : Tên một phủ tức là tỉnh ly Chiết Giang bây giờ.
-Tôn Tẫn, Ngô Khởi: hai người làm tướng võ giỏi đời Chiến quốc.
- Y Doãn : tướng giỏi đời vua Thang nhà Thương.
-Cao Dao: tướng giỏi đời vua Nghiêu, vua Thuấn
Lời Bàn:
Người bán cam đây chẳng qua chính là tác giả. Mà cốt ý của tác giả là muốn lấy qua cam đẹp vỏ, thối ruột, mà bóc cả cái hách dịch cái oai vệ bể ngoài của những bậc quan lớn, một đời suy đốn, để phơi bày cái thực tình bất tài, bất trí, bất dũng ở bên trong. Nói rộng ra, bài này có ý dạy ta không nên tin bề ngoài, cũng như những bài ngụ ngôn nói: cái thùng không, bông lúa lép, hay những câu ca dao: "Trông em, anh ngờ sao mai, biết rằng trong có như ngoài hay không". "Nhác trông ngỡ tuồng tô vàng, nhìn ra mới biết chẫu chàng ngày mưa ", thật là có ý vị.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 11:03 PM
Người
nước Tề có hai vợ, vợ cả và vợ lẽ. Ngày ngày, chồng cứ sáng ra đi, tối
đến mới về, mà hôm nào về, cũng no say phè phỡn. Hai vợ thường hỏi:
-Đi ăn với ai mà đi luôn thế ?
Anh ta nói:
-Ta đi ăn toàn với những bậc giàu có, sang trọng cả.
Một hôm vợ cả bảo vợ bé:
-Chồng ta chơi bời toàn với những bậc giàu sang, mà sao không thấy một người giàu sang đến chơi nhà nhỉ ? Ta thử dò xem chồng ta đi những đâu và chơi với những ai.
Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi cùng làng này, xóm khác, chẳng thấy một người nào đứng nói chuyện với chồng mình cả. Khi đi đến phía đông ngoài thành, thấy có đám cất mả, người thì đang tế lễ, ăn uống, thì đánh thoáng một cái, đã thấy chồng lật đật lại đấy, xin những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn xong, lại ngong ngóng, đi chỗ khác...
Bấy giờ chị ta mới rõ cái cách chồng ngày ngày no say là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than rằng:
-Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị em ta lại gặp phải một người chồng đê mạt quá đến như thế !
Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau ở giữa sân sụt sùi khóc. Ngay lúc ấy, anh chồng ngất ngưởng ở đâu vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ như những hôm trước .
Ôi! Đem con mắt tinh đời mà coi, thì ngày nay những kẻ cầu công danh phú quý hồ dễ không mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn, không tủi, không ngấm ngầm khóc với nhau như hai vợ người nước Tề này .
Mạnh tử
Chú Thích.
Mạnh Tử, tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học thành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau, biết đạo thông hành cùng làm sách với học trò là Nhọc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước chư hầu làm quyển "Mạnh Tử", bảy thiên.
Lời Bàn:
Lấy đức, lấy tài, lấy học thức, đường đường, chính chính mà đưọc công danh phú quý thì còn gì bằng. Nhưng nịnh nọt, luồn cúi, làm những việc đê hạ, mất cả phẩm giá con người, để chen chúc vào đám công danh để cầu lấy chút phú quý, thì tưởng không còn gì đáng khinh hơn nữa ? Thế mà đến lúc được công danh, phú quý lại còn vác mặt làm cao, ra dáng hách dịch, thiên hạ người biết ra, thì còn ai cho vào đâu nứa ! Tưởng rằng khuất một người để đè muôn nghìn người, nhưng dù người ta có e lệ bề ngoài, trong bụng người ta cũng không sao trọng được. Thầy Mạnh đặt ra câu truyện người nước Tề này thật là phơi bày được cái xấu xa của những kẻ quen thói cầu công danh, phú quý "Hôn dạ khất ai, kiêu nhân bạch nhật . (Đêm khuya van lạy, ban ngày vênh váo khinh người) vào những thơi buổi mạt tục vậy.
-Đi ăn với ai mà đi luôn thế ?
Anh ta nói:
-Ta đi ăn toàn với những bậc giàu có, sang trọng cả.
Một hôm vợ cả bảo vợ bé:
-Chồng ta chơi bời toàn với những bậc giàu sang, mà sao không thấy một người giàu sang đến chơi nhà nhỉ ? Ta thử dò xem chồng ta đi những đâu và chơi với những ai.
Hôm sau, vợ cả dậy sớm, lẻn đi theo chồng. Đi cùng làng này, xóm khác, chẳng thấy một người nào đứng nói chuyện với chồng mình cả. Khi đi đến phía đông ngoài thành, thấy có đám cất mả, người thì đang tế lễ, ăn uống, thì đánh thoáng một cái, đã thấy chồng lật đật lại đấy, xin những cơm thừa canh cặn, ăn lấy ăn để. Ăn xong, lại ngong ngóng, đi chỗ khác...
Bấy giờ chị ta mới rõ cái cách chồng ngày ngày no say là thế, tủi thẹn vô cùng, ngậm ngùi trở về kể chuyện cho vợ bé nghe, rồi than rằng:
-Chồng là người trông cậy suốt đời, ai ngờ chị em ta lại gặp phải một người chồng đê mạt quá đến như thế !
Nói đoạn, hai người ngồi trông nhau ở giữa sân sụt sùi khóc. Ngay lúc ấy, anh chồng ngất ngưởng ở đâu vẫn ra bộ làm kiêu với hai vợ như những hôm trước .
Ôi! Đem con mắt tinh đời mà coi, thì ngày nay những kẻ cầu công danh phú quý hồ dễ không mấy kẻ mà ở nhà vợ cả vợ lẽ không thẹn, không tủi, không ngấm ngầm khóc với nhau như hai vợ người nước Tề này .
Mạnh tử
Chú Thích.
Mạnh Tử, tên là Kha, lúc nhỏ được mẹ dạy bảo, lúc lớn theo học thầy Tử Tư, lúc học thành, đi du lịch các nước Chư hầu. Về sau, biết đạo thông hành cùng làm sách với học trò là Nhọc Chính Khắc, Công Tôn Sửu, Vạn Chương. Đời sau nhặt những câu Mạnh Tử đối đáp với học trò và vua các nước chư hầu làm quyển "Mạnh Tử", bảy thiên.
Lời Bàn:
Lấy đức, lấy tài, lấy học thức, đường đường, chính chính mà đưọc công danh phú quý thì còn gì bằng. Nhưng nịnh nọt, luồn cúi, làm những việc đê hạ, mất cả phẩm giá con người, để chen chúc vào đám công danh để cầu lấy chút phú quý, thì tưởng không còn gì đáng khinh hơn nữa ? Thế mà đến lúc được công danh, phú quý lại còn vác mặt làm cao, ra dáng hách dịch, thiên hạ người biết ra, thì còn ai cho vào đâu nứa ! Tưởng rằng khuất một người để đè muôn nghìn người, nhưng dù người ta có e lệ bề ngoài, trong bụng người ta cũng không sao trọng được. Thầy Mạnh đặt ra câu truyện người nước Tề này thật là phơi bày được cái xấu xa của những kẻ quen thói cầu công danh, phú quý "Hôn dạ khất ai, kiêu nhân bạch nhật . (Đêm khuya van lạy, ban ngày vênh váo khinh người) vào những thơi buổi mạt tục vậy.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 11:06 PM
Khổng Tử vào xem miếu Hoàn Công nước Lỗ, có một cái lọ đứng nghiêng, bèn hỏi người coi miếu. Người ấy nói rằng:
-Đó là một vật quý của nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi để làm gương.
Khổng Tử nói:
-Ta nghe nhà vua có vật quý để làm gương, vật đó bỏ không thì đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn thì đứng ngay, mà đầy quá thì lại đổ, có lẽ là vật này chăng.
Ngài bèn sai học trò đổ nước vào, quả nhiên nước đổ vừa, thì lọ đứng ngay; nước đỗ đầy thì lọ đổ; bỏ không thì lọ lại đứng nghiêng. Ngài chép miệng than rằng:
-Hỡi ơi ! ở đời chẳng cái gì đầy mà không đổ?.
Thầy Tăng Tử nói:
-Dám hỏi có cách gì giữ cho đầy mà không đỗ không ?
Khổng Tử nói:
-Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn, công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn đời nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có bốn bể nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy mà đổ
Tuân Tử
Lời Bàn:
Mặt trời đứng bóng rồi xế, mặt trăng tròn rồi khuyết; nhân sự cũng vậy, thăng rồi trầm, thịnh rồi suy, đó là luật tự nhiên khó mà tránh khỏi. Tuy vậy cứ theo lời dạy của Khổng Tử đây thì cũng có cách giữ được lâu dài mà không suy đỗ. Cách ấy là "Hữu nhược vô, thực nhược hư", nghĩa là có mà như không đầy đặc mà như trống rỗng.
-Đó là một vật quý của nhà vua thường để bên chỗ ngồi chơi để làm gương.
Khổng Tử nói:
-Ta nghe nhà vua có vật quý để làm gương, vật đó bỏ không thì đứng nghiêng, đổ nước vừa vặn thì đứng ngay, mà đầy quá thì lại đổ, có lẽ là vật này chăng.
Ngài bèn sai học trò đổ nước vào, quả nhiên nước đổ vừa, thì lọ đứng ngay; nước đỗ đầy thì lọ đổ; bỏ không thì lọ lại đứng nghiêng. Ngài chép miệng than rằng:
-Hỡi ơi ! ở đời chẳng cái gì đầy mà không đổ?.
Thầy Tăng Tử nói:
-Dám hỏi có cách gì giữ cho đầy mà không đỗ không ?
Khổng Tử nói:
-Thông minh thánh trí nên giữ bằng cách ngu độn, công lao to hơn thiên hạ nên giữ bằng cách khiêm cung, sức khỏe hơn đời nên giữ bằng cách nhút nhát, giàu có bốn bể nên giữ bằng thói nhún nhường. Đó là cách đổ bớt đi để giữ cho khỏi quá đầy mà đổ
Tuân Tử
Lời Bàn:
Mặt trời đứng bóng rồi xế, mặt trăng tròn rồi khuyết; nhân sự cũng vậy, thăng rồi trầm, thịnh rồi suy, đó là luật tự nhiên khó mà tránh khỏi. Tuy vậy cứ theo lời dạy của Khổng Tử đây thì cũng có cách giữ được lâu dài mà không suy đỗ. Cách ấy là "Hữu nhược vô, thực nhược hư", nghĩa là có mà như không đầy đặc mà như trống rỗng.
Lam Dai Ngoc
10-27-2003, 11:10 PM
Ông Trần Nghiêu Tư làm quan đời nhà Tống bắn cung giỏi có tiếng, đời bấy giờ không ai bằng. Ông cũng lấy thế làm kiêu.
Ông thường bắn trong vườn nhà. Một hôm có ông lão bán dầu đi qua, thấy
ông đang bắn, đặt gánh xuống, ngấp nghé xem mãi. Ông lão thấy ông Nghiêu
Tư bắn mười phát trúng được tám chín thì hơi gật gù mỉm miệng cười.
Nghiêu Tư gọi và hỏi:
-Nhà ngươi cũng biết bắn à ? Ta bắn chưa được giỏi hay sao ?.
Ông lão nói:
-Chẳng phải giỏi gì cả. Chẳng qua là quen tay thôi.
Nghiêu Tư giận lâm, bảo:
-À, nhà ngươi dám khi ta bắn không giỏi à ?.
Ông lão nói:
-Cứ xem tôi rót dầu thì đủ biết.
Bèn lấy một bầu đặt xuống đất, để đồng tiền lên miệng, lấy cái môi từ từ rót dầu qua lỗ đồng tiền, mà không rây một tí dầu nào ra đồng tiền cả.
Rồi nói:
-Tôi cũng chẳng phải giỏi gì, chỉ quen tay mà thôi.
Nghiêu Tử cười, chịu là phải.
Âu Dương Tu
Chú Thích.
- Trần Nghiêu Tư: người đời nhà Tống, làm quan Tiết Độ Sứ mà người có khí tiết, viết tốt và bắn giỏi
Lời Bàn:
Bắn, mà mười phát trúng cả mười, ai không chịu là giỏi ? Nhưng rót dầu qua lỗ đồng tiền không dây ra đồng tiền