Võ Phước
Hiếu
(Viết chung với Hiếu Đệ)
Nước Lớn Nước Ròng
Hương Cau
2014
Tập truyện của Hiếu
Đệ & Võ Phước Hiếu
Hương Cau ấn hành
Lần thứ nhất năm 2007
Tái bản (có sửa chữa và bổ sung) năm
2014.
Các tác giả giữ bản quyền.
Copyright by Hiếu Đệ (Hoa Kỳ) & Võ
Phước Hiếu (Pháp).
(Mọi trích dẫn, dịch thuật và xử dụng trong sanh
hoạt cộng đồng
đều được tự do với điều kiện xin ghi rõ xuất xứ).
Tranh bìa của Họa sĩ Hiếu Đệ
(Tiểu
bang Florida, Hoa Kỳ).
Trình bày: Anh Vũ.
Mục Lục
**
*
Hiếu Đệ:
9. Chiếc Xe Đò Mang Bảng
Số B.52
19. Họa Sĩ Nguyễn Khắc Vinh
31. Người Mẫu Khỏa Thân
47. Đầu Năm Ngọ Cơ Đồ Đổi
Thay
67. Họa Sĩ Dương Tấn Minh
83. Con Chuột Cần Thơ
91. Họa Sĩ Lê Chánh
103. Thầy Tôi
113. Tuấn, Chàng H.O. Trẻ Tuổi
123. Tôi Đi Dạy Học
137. Thuyết Định Mệnh Trong
Truyện Kiều
147. Mỹ Thuật Việt Nam
* Võ Phước Hiếu:
171. Trần Đuôi Ngựa
243. Cái Bánh Phồng Tết
**
Chiếc Xe
Đò Mang Bảng Số B.52
Chiếc xe đò mang số B.52035 chạy vòng vòng bến Khổng Tử
trước Chợ Lớn Mới. Có tiếng cô nàng trên xe mời khách:
- Sài Gòn! Mỹ Tho! Chợ Gạo! Xe chạy liền đây! Ai có đi
thì lên đi! Đi hông chú? Đi hông thiếm? Đi hông cô?
Bỗng có ba người khách trong quán cà phê bước ra, ngoắc
xe lại và hỏi:
- Xe chạy Mỹ Tho hà? Có đi ngang Hòa Đồng không?
Trên xe có tiếng trả lời:
- Có chứ! Lẹ đi! Lên xe mau, kẻo phú lít phạt tôi bây
giờ. Tội nghiệp tôi lắm mấy ông ơi!
Mấy người khách bước lên xe, hành lý cũng chẳng có gì
ngoài mấy túi xách và mấy chiếc cần câu được xếp lại gọn gàng. Khi những người
khách ngồi yên nơi yên chỗ, xe tiếp tục chạy. Cô nàng lơ xe hỏi:
- Bộ mấy chú đi câu hả? Chà vui quá hèn! Chẳng phải ngày
cuối tuần mà mấy chú cũng rảnh rang đi câu cá. Tôi đoán không sai, mấy chú cũng
thuộc hàng công tử đó nghen! Chú này với chú này chắc là sĩ quan cải tạo mới
được về phải hông chú?
Những người khách mới vừa lên xe bật ra cười:
- Hay quá! Chị này đoán sao trúng phóc! Bây giờ cho phép
mấy đứa tụi tui đoán lại chị nghen. Được không?
- Ừa! Thì cứ đoán thử coi nào! Có gì mà không được! Mà
đoán trật thì thôi, có ai bắt phạt gì đâu mà sợ!
- Tôi đoán chị này ít ra cũng là một mệnh phụ phu nhân
sắc nước hương trời chớ chẳng phải vừa đâu! Có lẽ chị là vợ một ông sĩ quan cải
tạo mà chắc ông quan này ít nữa cũng phải bị đi tù cải tạo đến mút mùa!
Chị Muối ngồi làm tài xế lái xe ở phía trước ngoái ra sau
nói:
- Thôi thua rồi em ơi! Mấy ông này đoán không sai tí nào cả! Con nhỏ này
là vợ ông họa sĩ Hiếu Đệ đó. Ông ta là Đại úy ở Phòng Báo Chí thuộc Cục Tâm Lý
Chiến hồi xưa. Chồng nó cũng đi cải tạo như mấy ông vậy đó!
Mấy ông khách cười lăn ra:
- Thôi chết cha rồi! Ông Hiếu Đệ này tội nặng hơn tụi tui
nữa. Ông ta đã từng vẽ hàng chục bộ đội Việt cộng đu không rụng cọng đu đủ, ai
lại không biết. Còn lâu ông ta mới được thả về! Ông ở cùng trại với tụi tui đó
chớ đâu!
Chị lơ xe bị đoán trúng tim đen cũng ngồi cười. Chị Muối
nói có vẻ như cảnh giác:
- Con nhỏ này ngồi giỡn cho cố đi! Em bị người ta kiện
rồi đấy! Hôm qua, chị thấy người ta đưa đơn vào ban điều hành Hợp tác xã Thống
Nhứt kiện em về cái tội sang khách qua xe chị ở ngã ba Phú Lâm để quay về đem
xăng đi bán kiểu làm ăn gian lận. Ông khách kiện chị em mình thấy ký tên là một
ông bác sĩ tên Tân, em biết không? Bây giờ ổng cũng ngồi ở hàng ghế dưới, trên
xe mình đó!
Cô Mười lơ xe hơi giận, cố ý nói thật lớn cho cả xe cùng
nghe:
- Bác sĩ cóc khô gì! Đồ thằng cha bán thuốc Tây lậu thì
có. Cái mặt thằng chả thấy bắt ghét! Sang khách mỗi lần cả chục người, có ai
đâm đơn kiện như thằng cha này đâu. Thời buổi ngăn sông cách chợ, làm ăn khó khăn,
ai cũng phải mánh mung chút đỉnh để nuôi con, nuôi chồng. Vậy mà còn sống không
nổi, huống chi chồng em là người bị đi cải tạo. Em phải một mình thay chồng
nuôi con, sao chả lại còn chơi xử ác với em, kiện em để làm gì?
Cô nói tiếp:
- Đồ thằng cha không biết điều. Bác sĩ đâu mà ác vậy?
Bác sĩ Tân ngồi dưới hàng ghế chót, bị đàn bà chưởi mà
không dám lên tiếng. Ông ta đành kéo mũ xuống che mặt. Xe chạy được một lúc,
qua khỏi trạm Tân An, lơ xe khởi sự thâu tiền vé:
- Bà con ơi! Tắt thuốc lá qua cầu, ăn trầu nhả bã trên
xe, lấy tay lấy chân vô cho tui thâu tiền vé đây, bà con ơi!
Cô Mười ngạc nhiên khi thấy ông bác sĩ Tân đứng dậy ở
cuối hàng ghế, giúp cô thâu tiền vé của khách đưa lên cho nàng. Cơn giận khi
nảy bỗng dưng như chợt tan biến mất và cô nở nụ cười như có lẽ để xin lỗi. Qua
ngày hôm sau, bác sĩ Tân đến ban điều hành Hợp tác xã Thống Nhứt xin rút đơn.
Ông không thưa kiện chiếc xe mang số 52.035 nữa. Ông Sáu Lụa, Chủ tịch Hợp tác
xã bật cười kêu bà Đệ hỏi:
- Bà làm sao để người ta kiện bà? Mà thuở nay lại kiện
chỉ trong một ngày thôi rồi người ta lại rút đơn kiện!
Thật ra Hợp tác xã Thống Nhứt chỉ có hai người là phụ nữ
tài xế lái xe đò mà cũng xảy ra không biết bao nhiêu chuyện thưa kiện. Đó là bà
Đệ và bà Chín. Mấy người trong bến xe kêu cả hai bà là bà B52. Đến ông Chủ tịch
Hợp tác xã cũng nể hai bà này, vì về học vấn ông ít chữ nghĩa hơn, và tính toán
lại còn chậm rì hơn xã viên. Sau thắc mắc của ông Sáu Lụa, bà Đệ còn hù ông ta:
- Hồi đó tôi chỉ lái xe xì bo Toyota, Plymouth hai cửa đi
nhảy đầm, chứ không ai hơi sức đâu đi lái xe đò dài nghều chở khách như thế này
đâu! Nói cho ông Chủ tịch biết, đừng giỡn mặt với tôi nghen!
**
Bẵng đi một dạo, một hôm nọ,
hai vợ chồng bác sĩ Tân đến xưởng vẽ của tôi xin chọn mua một ít tranh để gởi
cho mấy người thân ở Pháp. Trong khi hai vợ chồng đang ngắm tranh, thấy vợ tôi
và mấy đứa con từ dưới nhà bếp kéo lên, bác sĩ Tân nói với vợ vài câu và quay
lưng đi. Tôi nghe ông ta bảo:
- Em cứ chọn tranh đi, bức nào em thích có nghĩa là ý anh
cũng thích. Anh ra ngoài mua bao thuốc lá.
Mấy đứa bé nhà tôi reo lên nói với mẹ:
- Ý mẹ ơi! Ông khách đứng trong nhà mình sao con thấy
quen quen, để con nhớ xem đã gặp ổng ở đâu này.
Đứa khác nói vô:
- Thôi con nhớ rồi mẹ ơi! Hôm rồi ông này sắp hàng chen
lấn sau lưng tụi con để mua vé xe đò đi Mỹ Tho ở quầy vé Hợp tác xã xe Thống
Nhứt đó mẹ!
Vợ tôi đưa ngón tay lên môi làm dấu kêu tụi con đừng nói
nữa. Chuyện như thế này. Bữa nọ, vợ tôi bảo lũ trẻ nhà tôi rủ thêm trẻ hàng xóm
nữa, cả thảy hơn chục đứa vào xếp hàng mua vé chiếc xe nhà mang số B52. Sau đó,
chúng lên xe ra tới Phú Lâm sang khách qua xe chị Muối, xong vợ tôi chở mấy đứa
nhỏ về cho tụi nó đi học. Khi sang khách, ông bác sĩ Tân bị mời sang xe khác.
Ông ta tức giận gọi xích lô trở lại bến xe viết đơn kiện chiếc xe số B52 trở về
đi bán xăng lậu. Thật ra đó cũng chẳng phải là xăng lậu mà chính là phần xăng
dầu của Hợp tác xã cấp cho chuyến xe chạy trong chuyến tài đó. Như vậy là phần
xăng dầu nhà nước cấp cho mỗi chiếc xe mỗi tuần lễ là năm tài thì mình chỉ chạy
chừng một hai tài thôi, còn bao nhiêu thì đem bán đi chứ ai lại dám trữ xăng
dầu trong nhà. Hơn nữa, giá xe bán theo giá chính thức của nhà nước thì nhà xe
đâu còn ăn được gì. Mấy chiếc xe bạn cũng phải đoàn kết với nhau chạy, nay
người này, mai người khác, cùng chia nhau tiền xăng để kiếm tiền xài. Đến những
cán bộ lãnh đạo, họ cũng đồng ý với nhau giải thích danh từ xã hội chủ nghĩa
tức là mánh mung, chôm chĩa, chứ chẳng có Mác Lê Nin hay tư tưởng Hồ Chí Minh
gì cả. Đừng có hỏi dong dài thêm mắc cở. Làm cán bộ là phải biết tham nhũng.
Tên nào chơi dại không biết điều sẽ bị
đuổi đi chỗ khác chơi. Đảng viên lương thiện sẽ bị vứt vào sọt rác không thương
tiếc.
Tôi để bà Đệ tiếp vợ ông bác sĩ, còn tôi ra đầu ngõ nói
chuyện với ông ta. Tôi và bác sĩ Tân là hai người bạn chơi thân với nhau lúc
còn ở sân trường tiểu học Phan Thiết. Hai đứa cùng có chân trong một đội banh
đi đấu với mấy trường khác. Khi lớn lên, mỗi đứa đi một ngành khác nhau khi
cùng đi học ở Sài Gòn. Mỗi năm đến vụ hè, chúng tôi thường gặp nhau trên chuyến
xe lửa về quê, chạy suốt cả một ngày trời trên đường sắt cho đến tối mịt mới về
tới tỉnh nhà. Thường thì trên chuyến xe, chúng tôi được làm quen với nhiều bạn
gái. Mấy nàng này đi học ở Sài Gòn đều là con nhà có tiền, trong đó có cả vợ
tôi. Anh Tân cũng thuộc trong nhóm này. Thuở học trò, ai cũng theo đuổi vợ tôi
rất nhiều năm, đếm ra thì cũng kỷ niệm đến ba bốn mùa hè chớ chẳng chơi đâu.
Tôi có hỏi vợ tôi sao anh Tân không tán tỉnh gì với em được. Vợ tôi cười:
- Tại anh Tân anh ấy hiền chớ đâu có gian ác như anh.
Chưa tán tỉnh người ta được bao nhiêu câu mà đã hôn người ta rồi, thành ra em
còn chọn ai được nữa bây giờ? Anh là nghệ sĩ, tình yêu của anh có khác với anh
Tân, một bác sĩ sắp ra trường. Anh ấy đàng hoàng và nghiêm chỉnh hơn anh nhiều!
Tôi bênh vực anh Tân:
- Bộ chính sự đàng hoàng nghiêm chỉnh đó mà anh Tân thua
anh sao?
Vợ tôi cười:
- Thôi anh ơi! Chuyện đời chẳng qua đều do ông Trời xếp
đặt!
**
Vợ chồng bác sĩ Tân mua của tôi
một số tranh lụa tôi vẽ cảnh Huế. Anh Tân có cho tôi địa chỉ và mời tôi xuống
nhà uống rượu. Sống dưới chế độ cộng sản, không biết họ làm sao mà mọi người
trở thành xa lạ nhau, có khi lại còn thù nghịch với nhau nữa là khác. Lũ bạn
cùng đánh đáo với tôi ở sân trường năm xưa, tập kết ra Bắc về, có nhờ người mai
mối để đến thăm và nói chuyện với chúng tôi... đến đỗi tôi phải chưởi thề:
- Khổ quá! Tụi mầy lại làm tao như đàn bà cũng không
bằng! Ai bày tụi mầy như vậy?
Trong lúc tâm sự, tụi nó bảo:
- Chính tụi tao đảng viên với nhau mà còn gọi ra nói nhỏ
trong lổ tai để không người nào thứ ba nghe chuyện của mình. Tất cả mọi người
phải biết nghi ngờ nhau mới sống được!
Tôi nghĩ sống như vậy thì con người trở thành ác thú rồi
còn gì! Những con người lương thiện, ngay
thẳng như bác sĩ Tân lại phải mắc cở trước những người
khác, thật cũng là chuyện lạ đời. Chính cũng do cái tính ngay thẳng và đứng đắn
đó đã khiến anh bị họ trục xuất đi kinh tế mới khi anh đang làm Giám đốc Bệnh
viện Mỹ Tho. Thật ra con người mang tính khoa học như anh thì cái gì bắt buộc
cũng phải chính xác, đàng hoàng, không được sai lệch. Cho nên khi thấy chuyện
sai trái, anh không chịu được và anh có phản ứng ngay. Tôi nhân đó giải thích
cho vợ con hiểu về chuyện thưa kiện của bác sĩ Tân cốt để hai người không còn
giận hờn nhau nữa. Bề nào chúng tôi cũng là bạn bè nhau cả. Chúng tôi đã cùng
sống với nhau suốt cả một thời thơ ấu ở quê nhà. Cũng may, sau đó anh Tân đã
vượt biên trót lọt được vào năm 1985. Tôi có đến nhà thăm anh thì được nghe gia
đình cho biết là anh đã đến được trại tỵ nạn Palawan ở Philippines cùng với vợ
là chị Ánh, trước là Giám đốc Bệnh viện Nhi Đồng Mỹ Tho. Chúng tôi mừng cho anh
chị và cầu mong cho anh chị thành công trên con đường làm lại cuộc đời trên quê
hương mới.
**
Trên đất người... Năm vừa qua,
tôi theo anh em trong cộng đồng lên Ann Arbor thăm bác Nguyễn Xuân Vinh. Bác Vinh có cho xem phòng nghiên cứu về không
gian của trường Đại học Michigan, nơi bác làm khoa trưởng của ngành này. Đó là
một phòng nghiên cứu rất rộng lớn và đầy đủ. Tôi nói đùa với anh em:
- Điệu này mà nếu bác Vinh về Việt Nam thì chỉ có nước đi
làm ruộng thôi. Nhà nước Cộng sản làm cóc gì thiết lập được một cơ sở nghiên
cứu như thế này nổi. Phải như thế này, bác mới tạo nên những nhà khoa học như
Tiến sĩ Lê Văn Lực và nhiều khoa học gia lỗi lạc khác trên thế giới...
Chứ ở Việt Nam hiện nay, nước ta chỉ sản xuất toàn những
anh hùng tham nhũng, buôn lậu như Phạm Huy Phước Tameco, Nguyễn Xuân Trường ở
Lào Cay, những tên Pol Pot Việt Nam chuyên diệt chủng đồng bào bằng vi khuẩn
HIV, bằng xì ke, ma túy, bằng nền kinh tế què quặt và nghèo đói... Đó là những
kẻ đang ngồi chễm chệ trên đầu, trên cổ dân của tập đoàn thống trị Hà Nội... để
chờ nhân dân đứng lên treo cổ cả bọn...
Hiếu Đệ
**
Họa
Sĩ
Nguyễn Khắc Vinh
Ngày ở trại cải tạo về đi lang thang ngoài phố
Sài Gòn, tôi gặp lại Nguyễn Khắc Vinh. Anh ta băng qua đường nơi cột đèn xanh
đèn đỏ rất quờ quạng, chứng tỏ là thị giác của anh đã yếu rồi. Tôi đứng trước
mặt anh, quơ quơ bàn tay, anh ta cũng chẳng thấy nên tôi mới hỏi:
-
Vinh, chú mầy thấy tớ không vậy? Hiếu Đệ đi cải tạo về rồi đây này!
Anh
ôm tôi khóc. Hai đứa kéo xuống cái quán nhỏ ở lề đường kêu xị đế. Vinh nhắc lại
thời vàng son. Anh đóng phim Hè Muộn, làm người yêu của nữ tài tử Kiều Chinh và
nhiều cuốn phim khác. Anh bảo chỉ có mình anh và Kiều Chinh mới có thể đóng nổi
những cận ảnh đẹp và tình cảm nhất (gros plan). Theo anh, các nhà đạo diễn bảo
như thế. Thế mà Nguyễn Khắc Vinh bây giờ và Nguyễn Khắc Vinh ngày xưa khác nhau
một trời một vực. Thành ra mới đây vào năm 1985, một hãng phim ở Pháp đem tiền
về Việt Nam thực hiện cuốn phim Con Thú Tật Nguyền, phỏng theo truyện ngắn phản
chiến của tác giả Ngụy Ngữ, tên tiếng Pháp thấy đề là Karma, danh từ nhà Phật
là nghiệp hoặc nhân quả gì đó. Nguyễn Khắc Vinh đóng vai ông già đui ở ven sông
kể chuyện về cuộc đời của anh lính biệt kích chết không toàn thây và cuộc tình
đau khổ của anh với cô gái điếm rất bi đát. Tôi bỗng nhìn lại họa sĩ Nguyễn
Khắc Vinh sao thấy giống như ông già đui đang ngồi nhậu rượu đế với tôi vậy.
Tôi
nhớ lại câu chuyện bức tranh The Last Supper (Bữa Tiệc Cuối Cùng) nơi đền thánh
Sistine ở La Mã hồi thế kỷ XIV. Leonardo da Vinci (1452-1519) vẽ Chúa Jésus
ngồi trước mười hai vị tông đồ. Tác giả vẽ gần hoàn thành nhưng còn thiếu chân
dung của Juda, ông ta bỏ phéng đi cả mười năm. Một hôm, Leonardo đi ngoài phố
thấy có tên ăn cướp giựt đồ đang bị người ta đuổi bắt. Ông họa sĩ của hoàng gia
đến can thiệp và đưa tên cướp về nhà ông vì ông ta thấy tên này có những nét
gian ác giống tên Juda bán Chúa trong Tân Ước. Tưởng sao, khi về tới xưởng vẽ,
tên cướp hỏi ông họa sĩ:
-
Ông đưa tôi về đây để làm gì vậy?
-
Tôi muốn nhờ ông làm mẫu để hoàn chỉnh bức tranh Bữa Tiệc Biệt Ly.
Lúc
bấy giờ tên cướp trố mắt nhìn:
-
Nếu tôi không lầm thì mười năm về trước tôi đã ngồi mẫu cho họa sĩ vẽ nét mặt
của Chúa Jésus ngồi ở chính giữa bức tranh kia mà.
Leonardo
da Vinci mới tỉnh ra, ông ta không ngờ chỉ có mười năm mà hình ảnh con người
lại vong thân phóng thể từ một người đẹp đẽ lại hóa ra như vậy. Trong bức tranh
này không có nói tới danh từ Chánh Niệm của Phật giáo nhưng có kêu gọi con
người trở về với thực tại tức là Chánh Niệm. Cũng như Chúa ngồi bẻ những mẫu
bánh mì ra chia cho các tông đồ. Ngài nói:
-
Đây là thân xác của ta, ta chia cho mọi người. Đây là máu ta... Có thể là sau
bữa tiệc hôm nay chúng ta không còn gặp nhau nữa...
Có
nghĩa các tông đồ hãy cùng sống với Chúa trong giờ phút hiện tại. "Here
and now". Trở về với hiện tại tức trở về với ánh sáng Chánh Niệm. Con
người của Nguyễn Khắc Vinh trong vai anh chàng triệu phú sống trong một ngôi
biệt thự ở Đà Lạt trong phim Hè Muộn (1972) đến vai ông già đui trong phim Con
Thú Tật Nguyền (1985), một khoảng cách xa vời vợi!
Nguyễn
Khắc Vinh là một họa sĩ tài hoa. Anh là cựu sinh viên Trường Mỹ Thuật Đông
Dương. Trong những năm 1942-1945, anh là môn sinh của hai danh họa người Pháp
nổi tiếng về môn sơn dầu là Inguimberty và Tardieu. Vinh không những nổi tiếng
về hội họa lại còn là một tài tử điện ảnh. Anh đã từng đóng chung với tài tử
Kiều Chinh, Như Loan, Bội Toàn... trong phim Hè Muộn của đạo diễn Đặng Trần
Thức vào năm 1972. Nghe đâu anh đã được người con gái bảo lãnh sang Hoa Kỳ,
hiện đang ở Kansas City. Năm nay anh đã hơn 73 tuổi và vẫn còn đang sáng tác.
Hồi còn ở Việt Nam, anh ở cùng xóm với tôi trên đường Trương Minh Giảng, gần
nhà thờ Ba Chuông. Đi cải tạo về, tôi mang thân phận một người thất nghiệp và
bị cấm không được làm nghệ thuật nên thường ghé lại Nguyễn Khắc Vinh đánh cờ
tướng và nhậu với anh suốt ngày. Sau khi có con gái lấy chồng đi Mỹ, anh ở
trong một con hẻm nhỏ. Ngôi nhà trống lốc, chỉ còn có hai cha con. Người con
trai nay nối nghiệp bố, làm họa sĩ vẽ cho hãng sơn mài Lam Sơn, cạnh nhà thờ
Saint Thomas. Mấy tên đệ tử của Vinh bây giờ tụi nó đều làm lớn hết cả, cũng
xúm lại giúp đỡ sư phụ chút đỉnh. Họa sĩ Ớt, họa sĩ Trịnh Thanh Tùng, bút hiệu
Tên Lửa lúc đó làm Trưởng ban Văn Hóa Thông Tin Quận Một và một số khác làm ở
Hội Mỹ Thuật thành phố. Họ xúm lại lo giấy tờ đưa Nguyễn Khắc Vinh đi bịnh viện
nhãn khoa tức nhà thương Saint Paul đường Phan Thanh Giản để giải phẩu mắt. Nói
nào ngay, mấy tên nằm vùng dầu sao cũng còn chút tình nghĩa hơn bọn đảng viên
cộng sản lão thành. Bọn họ cũng thường kéo gạo đến nuôi cha con Nguyễn Khắc
Vinh và dắt sư phụ đi nhậu luôn. Nói vậy chứ họ cũng còn chút đỉnh tinh thần
tôn sư trọng đạo.
Thỉnh
thoảng, mỗi buổi chiều, tôi thường nhậu với Nguyễn Khắc Vinh ở bãi đất trống
xóm Vườn Xoài. Mỗi khi nhậu xỉn, anh đứng lên ôm trái tim đau khổ vừa hát vừa
diễn tả bài Biệt Kinh Kỳ: "Ngày mai anh xa kinh đô. Anh thấy em đang cặp
một thằng tay cáo xường. Anh kêu hai tô phở tái. Ăn rồi anh nằm ngủ lăn
quay". Hát rồi, Vinh hỏi:
-
Ê! Hiếu Đệ, chú mày nghe tớ hát có nức nở không vậy?
Có
đứa nói thấy nức nở quá đi chứ. Nức đến đỗi xị đế chảy mất tiêu không còn giọt
rượu nào.
Vinh kêu chị Tư đong đầy cho anh ta một xị
mới. Chị Tư bán rượu cằn nhằn:
-
Tôi thấy ông say rồi, đừng uống nhiều!
Có
đứa cự nự chị Tư:
-
Tụi này là dân cải tạo đấy nhá, chứ trước kia còn bận đồ lính rằn ri là uống
rượu thì phải phá quán, chẳng sợ tên công an cảnh sát nào ráo nạo!
Có
bữa, chúng tôi tắp vào quán cà phê của vợ chồng Dương Hà và Kim Lệ, tác giả
tiểu thuyết Bên Dòng Sông Trẹm, xúi Dương Hà đi mua rượu về uống. Anh ta năn nỉ
quá cỡ. Anh bảo là quán anh chỉ bán cà phê, xóm này gần nhà thương, người ta
không cho bán rượu. Yêu cầu anh em có nhậu nhẹt thì phải giữ yên lặng. Anh
chàng Nguyễn Khắc Vinh đứng dậy tuyên bố:
-
Xưa nay Nguyễn Khắc Vinh này hễ nó nói yên lặng là yên lặng. Yên lặng tức là
không bao giờ nói nữa. Có phải tất cả các bạn thấy tớ có yên lặng không?
Cứ
thế mà anh ta la ầm cả xóm. Dương Hà cự nự:
-
Bộ cái tên họa sĩ này hồi xưa nó là trưởng khẩu đại bác 175 ly sao mà hắn nói
to dữ vậy? Các bạn làm ơn dẫn nó đi cho tớ nhờ một chút, kẻo công an khu vực
kéo lại bắt cả đám bây giờ.
Dương
Hà ngồi kể:
-
Tại sao Nguyễn Khắc Vinh khổ như vậy, mấy đứa biết hông? Ngày xưa, anh ta có
người vợ đẹp. Nàng ở với anh ta có hai đứa con. Ai cũng biết đời nghệ sĩ người
nào lại chẳng gặp khó khăn. Có hôm, họa sĩ Trọng Nội thấy hoàn cảnh như vậy,
anh ta có nhã ý giới thiệu chị vợ Nguyễn Khắc Vinh đi làm trong cửa hàng của
Quân Đội Mỹ, PX ở Tân Sơn Nhứt. Được ít lâu, cô nàng ở luôn trong phi trường và
lấy chồng Mỹ. Đúng là làm ơn mắc oán. Nguyễn Khắc Vinh bị mất vợ, anh ta xích
mích với Trọng Nội. Hai người trở thành mặt trời mặt trăng cũng vì thế.
Dương
Hà kể tiếp:
-
Lúc đó khoảng năm 1965, báo chí ở Sài Gòn đăng tin có anh chàng họa sĩ rất đẹp
trai, hai tay bế hai đứa con đứng trước Tòa Đại Sứ Mỹ chửi vào. Sau cùng cảnh
sát bắt vào bót Quận Nhì, đến khi thả về mấy hôm sau anh chàng cũng vẫn bế con
đến chửi mãi nhiều lần như thế nữa. Người đó chính là họa sĩ Nguyễn Khắc Vinh
chớ chẳng phải là ai khác. Rốt cuộc, anh phải làm gà trống nuôi con...
Thật
ra làm nghệ sĩ cũng là một cái tội, mất vợ đi thì cũng phải. Vì suốt đời, người
nghệ sĩ mãi đi tìm cái đẹp ở đâu đâu, rất xa vời. Cái đẹp của mình đang sờ sờ
trong nhà mà không thấy, chẳng bao giờ chịu nâng niu săn sóc, như vậy mất đi
cũng vừa. Bây giờ chửi ông Đại Sứ hay ông Tổng Thống chăng nữa, thì cũng đã mất
vợ, chẳng bao giờ đòi lại được. Có người nói nghệ sĩ là một người điên, chỉ
quay mặt vào tấm tranh. Nếu làm người yêu của anh ta thì chỉ khổ thêm mà thôi.
Bỏ rơi anh ta đi cũng là vừa. Chính vợ tôi cũng nói:
-
Kiếp sau em xin thề không bao giờ em lấy chồng nghệ sĩ nữa!
Vợ
tôi còn nói:
-
Chị Nguyễn Khắc Vinh còn tốt số hơn em. Anh thấy không, em còn phải nuôi ông
nghệ sĩ lại còn mắc phải tội sĩ quan cải tạo nữa!
Thế
mà tôi không bị vợ bỏ cũng là phước ba đời. Thời này chẳng có cô nàng nào chịu
làm bà Tú Xương hết:
"Quanh năm buôn bán ở ven sông
Nuôi nổi năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo xèo mặt nước buổi đò đông".
Những
chàng nghệ sĩ mang tiếng là đa sầu đa cảm nhưng thường vụng về chẳng biết
"ga lăng" với vợ tí nào. Có những anh chàng thi sĩ đợi mãi đến lúc
gần chết rồi mới biết kêu "tạ ơn em" thì cũng quá muộn màng!
**
Sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, họa sĩ không
còn được triển lãm cá nhân như xưa. Phải nói cái gì cũng tập thể, phải răm rắp
như ở trong một trại lính. Tất cả phải sống theo khẩu hiệu: "Sống lao
động, học tập và tuân theo Hiến Pháp và pháp luật" (tức là điều 4 Hiến
Pháp). Mình vì mọi người để cho mọi người đếch vì mình. Thành phố không có chỗ
trưng bày tranh cho cá nhân. Nếu họa sĩ muốn bán tranh thì có những Hành Lang
Tranh. Những Gallerie Xunhasaba (xuất nhập sách báo), Gallerie Rex cũng là để
cho tập thể hết. Thỉnh thoảng cũng có những Đại hội Mỹ Thuật thành phố hay toàn
quốc để cho anh em nghệ sĩ trưng bày tác phẩm của mình nhằm chào mừng cái lễ gì
đó thôi. Tất cả những tổ chức này đều được sắp xếp do Hội Mỹ Thuật. Họa cụ của
anh em dùng cũng được gọi là tư liệu sản xuất như giấy croquis, sơn, cọ, khung,
bố v.v... đều do nhà nước quản lý. Muốn lấy về phải làm phiếu xin. Thường thì
những lần Đại hội Mỹ Thuật hay trưng bày tập thể như vậy, anh em họa sĩ hội
viên Mỹ Thuật phải chấm phác thảo trên vài mảnh giấy nhỏ bằng bàn tay. Ý muốn
vẽ cái gì thì phải giải thích cho Ban Chấp hành của Hội rõ. Khi được chấp thuận
mẫu vẽ rồi họa sĩ được cấp phiếu phát sơn cọ để về sáng tác. Khi làm phiếu phát
dĩ nhiên là họ phải kê khai thừa ra để đem ra chợ trời bán bớt lấy tiền sống
thêm vài ba tháng mà vẽ tranh chứ. Nhờ đó mà họa sĩ có chút tiền đủng đỉnh đi
uống rượu.
Còn
nói chuyện triển lãm cá nhân chỉ là khi nào ông họa sĩ đó được chết vinh quang
hay là sắp ngủm củ tỏi thì Hội đồng Nhà Nước sẽ đứng ra triển lãm cho đương sự
một phòng triển lãm cá nhân. Lúc đó, họ đi mượn tranh của ông ta ở những bộ sưu
tầm hay các bảo tàng viện hoặc của những cá nhân khác. Nhà Nước sẽ in tiểu sử,
cho phát thanh, truyền hình, báo chí nói ầm lên để cho ông họa sĩ nhà ta và gia
đình của ông mát ruột. Như chúng ta thấy vừa rồi có cuốn video nội dung tán
dương cá nhân Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu v.v... Vậy là các nhà
nghệ sĩ này sắp vinh quang đi vào cõi thiên thu bất diệt rồi đó. Vì tất cả đều
phải quốc doanh và vào tập thể cho nên xã hội chủ nghĩa có đẻ ra cái chữ chui
(như cà phê chui, xôi chui, phở cũng chui). Việt kiều về nước muốn sưu tập một
bức tranh của Nguyễn Khắc Vinh hay Hiếu Đệ thì cũng phải chui. Muốn chui thì
phải có lái. Ví như Huỳnh Hữu Ủy, một nhà biên khảo về mỹ thuật Việt Nam, mua
tranh nơi anh ta thì không nhầm tí nào.
Thường
thì mấy ông họa sĩ cũng hay đứng ra làm lái tranh - tụi tôi gọi là mấy ông lái
heo. Mấy tên lái này thường đến xưởng vẽ cho mượn tiền trước rồi lấy tranh sau
cũng được. Do đó, thỉnh thoảng chúng tôi có ít tiền đi nhậu là như vậy - chúng
tôi gọi là trúng mánh - nhưng họa sĩ Trần Kim Hùng phản đối, nhứt định không
chịu. Anh ta bảo:
-
Họa sĩ tụi mình cũng phải vắt tim óc ra vẽ thấy mồ tổ, chứ phải đi cướp giựt
đâu mà gọi là trúng mánh. Cái chữ này để Chợ Bến Thành người ta dùng. Ở ngoài
đó mới có thể chơi trò mánh mung chôm chĩa!
Nhưng
thật ra thì Gallerie, Phòng Trưng Bày, Hành Lang Tranh của Nhà Nước cũng là lái
chứ gì nữa. Bức tranh được bán ở Hành Lang Tranh thì họa sĩ được lấy 50 phần
trăm, tiền "boa" cho cô bán hàng đi mời tranh thêm 10 phần trăm nữa.
Coi như tác giả bị toi hết hơn phân nửa. Mà phải phe đảng lắm họa sĩ mới được
chui vào Hành Lang Tranh, với điều kiện tranh phải ăn khách, chứ để người ta
treo đến mục tường mà không bán được thì ông họa sĩ này cũng bị loại luôn. Khó
khăn một điều là cái Gallerie này đều do người của Sở Thông Tin Văn Hóa quản
lý, cho nên tranh phải được chọn lựa. Có hôm, họa sĩ Lê Chánh vẽ thiếu nữ và
con két. Đề tài này các họa sĩ Âu Châu người ta cũng thường hay vẽ như Femme au
Perroquet, nhưng người ta quy tội Lê Chánh phản động. Vì họ nói két tức là cán
bộ Mác Lê-nin. May sao Lê Chánh là cháu kêu Lê Duẩn bằng chú nên tụi nó không
dám bỏ tù! Chế độ phong kiến thường có danh từ phạm húy, tức là phải kiêng cử.
Nhưng chế độ xã hội chủ nghĩa còn kiêng cử hơn phong kiến nữa. Nếu vẽ thiếu nữ
cầm sen thì họa sĩ phải để hoa sen từ nơi trái tim trở lên đầu, chứ không được
để trên bắp đùi hoặc dưới thấp, vì:
"Tháp Mười đẹp nhứt bông sen
Việt Nam chỉ có hoa sen
bác Hồ".
Năm 1980, trong Đại hội Mỹ Thuật Toàn Quốc ca ngợi thành
quả của Đảng và Nhà Nước, họa sĩ Đỗ Quang Em có bức tranh vẽ người công nhân
hỏa xa, diễn tả anh chàng này lem luốc đứng bên đầu máy xe lửa chạy bằng than.
Qua một đêm đến sáng, bức tranh bị kẻ trộm đâm lủng bằng nhiều vết dao. Họa sĩ
hết hồn bỏ trốn vượt biên nhiều lần bị nằm ấp. Bây giờ thì nghe đâu Đỗ Quang Em
vẽ tranh bán chạy được Đảng và Nhà Nước quảng cáo trên nhiều báo ngoại quốc.
Nguyễn Khắc Vinh, tôi biết anh ta gàn lắm, mặc dầu anh được nhiều đệ tử cứu
giúp sư phụ, nhưng anh lúc nào cũng giữ đúng lập trường con người nghệ sĩ bực
thầy. Tôi còn nhớ những bút pháp, những màu sắc của anh rất khắc khổ như giai
đoạn màu xanh lam của Picasso, khắc khổ như cuộc đời gà trống nuôi con của anh
vậy.
Hiếu Đệ
**
Người
Mẫu Khỏa Thân
Người ta có thói quen thường hay nghĩ rằng "ngồi mẫu khỏa thân"
là những người phụ nữ không đàng hoàng, là những cô gái làm tiền nầy nọ. Thật
tình mà nói, họ còn nghệ sĩ hơn cả các ông nghệ sĩ nữa là khác. Thử hỏi, huấn
luyện một cô mẫu khỏa thân đâu phải dễ. Có thể nói còn khó khăn hơn một người
nghệ sĩ có tâm hồn. Có người hiểu lầm mấy cô làm mẫu khỏa thân thường là hạng
gái lầu xanh. Thế là sai rồi! Mấy cô này sẽ lên tiếng phản đối ngay. Họ sẽ nói:
- Thôi anh ơi! Anh có tiền thì cứ đưa cho em, rồi anh
muốn làm gì thì làm. Xong rồi, xin anh đi khuất mắt em. Chứ bắt em ngồi tồng
ngồng như thế, nhứt định em không chịu đâu. Mắc cỡ lắm!
- Đó thấy chưa? Như vậy, bạn thất bại là điều chắc chắn.
Có người không tin thường hỏi lại:
- Nghe nói ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật thường có mấy cô
gái đẹp ngồi mẫu khỏa thân phải hông ông họa sĩ?
Dĩ nhiên, tôi phải trả lời:
- Vậy chứ gì nữa!
- Đào đâu ra mà mấy ông có mẫu đẹp để vẽ hoài vậy?
- Chuyện đó tôi không biết. Nhưng thỉnh thoảng lớp vẽ
khỏa thân đều có những cô mẫu mới. Họ có sổ phát lương đàng hoàng như một công
chức vậy.
- À! Thì ra
như thế. Chớ hổng phải mấy anh vẽ phịa sao?
Ngày
xưa, khi trường Mỹ Thuật mới thành lập, khi họa sĩ Lê Văn Đệ về nước, ông ta có
mời một số bạn bè cùng về để tổ chức ban giáo sư trường. Như họa sĩ Ưng Sao,
Lương Thế Hiển v.v... Họ cũng rập khuôn theo qui chế Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông
Dương thời Pháp. Năm 1953, trường có mở những cuộc thi tuyển tại Huế, Sài Gòn,
Hà Nội, Campuchia, Lèo để lấy học viên. Lúc đó ở Hà Nội có khoản bảy, tám sinh
viên được trúng tuyển. Trong số đó, có hai người nữ là Nguyễn Thị Xuân và Lê
Thị Mầu. Mấy người này trước kia cũng như họa sĩ Huy Tường và Lê Minh Ngữ cũng
có đủ bản lãnh làm một họa sĩ. Họ cũng học hội căn bản ở họa xưởng Lương Xuân
Nhị hay cụ Nam Sơn mới qua được cuộc thi tuyển trên. Có điều khi mấy sinh viên
này vừa vào Nam thì đất nước chia hai ngang vĩ tuyến 17 sau Hội nghị Genève kết
thúc. Họ chẳng ngờ là mình bị lìa khỏi cha mẹ và gia đình.
Lúc
đó, học bổng và ngân sách thành lập trường Cao Đẳng Mỹ Thuật chưa làm xong nên
đám anh em này phải sống bơ vơ côi cút. Tôi được cử làm đại diện sinh viên nên
đứng ra quyên góp và chạy tiền nuôi bạn bè, một mặt tranh đấu với Bộ Quốc Gia
Giáo Dục để lo đời sống cho họ. Do đó lại mang tiếng là chống phá nhà nước.
Cuộc đời đưa đẩy đến bước đường cùng, cô Xuân và cô Mầu bỏ đi làm gái. Chứ các
cô đâu có bao giờ chịu làm mẫu khỏa thân cho trường. Khi trường Mỹ Thuật mới
thành lập, lúc đó chỉ mới có lớp dự bị để học luyện thi. Chúng tôi ngồi học ở
trước hàng ba của trường Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định, phía trước văn phòng của
ông Giám đốc Lưu Đình Khải. Lúc ấy, chúng tôi chỉ tập vẽ tượng thạch cao thôi.
Trường Trang Trí Mỹ Thuật thành lập từ 1930 theo nhu cầu của miền Nam, nhất là
thành phố Sài Gòn, Gia Định. Trường gồm ban Trang Trí Kiến Trúc, Trang Trí Nội
Thất và Trang Trí Thiết Ấn Đồ Họa (Graphic).
Chú
Ba Tây là chuyên viên máy in. Ngày xưa, trường chỉ dạy in thạch bảng
(Lithographic), kẽ chữ và vẽ trên đá mặt
phẳng do hai ông giáo sư là thầy Năm Dưỡng và thầy Năm Dị phụ trách. Gia đình
của nhân viên nhà trường ở trên lầu. Chú Ba Tây có cô gái lớn rất đẹp tên là cô
Quý. Mấy học sinh nào đứng dưới sân trường nhìn lên đá lông nheo với cô Quý
trên lầu đều bị ông giám thị là chú Ba Lượng đem lên văn phòng Giám đốc để ông
Lưu Đình Khải dủa cho một trận thê thảm. Riêng anh Lê Văn Chấn học sinh ấn loát
được chú Ba Tây nâng đỡ, thường hay lên xuống trên lầu. Anh ta lẹo tẹo với cô
Quý sao đó nên bị thầy Lưu Đình Khải đuổi học. Ở trước trường, nơi đối diện với
Tòa Tỉnh Gia Định có cái quán cốc, chúng tôi thường đặt tên là "Kiosque
của bà Cò". Vì bà chủ quán là gái bao của ông Cảnh sát trưởng Gia Định. Bà
ta rất có nhan sắc, chỉ huy một đám đàn em toàn là gái bán bar rất hấp dẫn.
Lính Tây ra vô ì sèo! Chú Ba Tây hay sai cô Quý ra quán mua bia, nước đá cho
chú thường ngày. Ngờ đâu cô bị bà Cò cho tiền, dụ dỗ thất thân với một anh
chàng sĩ quan nhảy dù người Pháp nào đó. Cô Quý trốn nhà đi ở riêng với ông
Quan Ba. Nhưng chỉ ít lâu sau, chưa đầy một năm thì quân đội Viễn chinh Pháp
sau Hội nghị Genève 1954 lại rút về Pháp hết sạch. Cô Quý bị bơ vơ giữa
đường...
Nghe
bà Cò kể lể đầu đuôi câu chuyện, tôi ghé lại quán rượu đem cô Quý về nuôi. Tôi
nghĩ bất quá cũng như trước đây chúng tôi đã nuôi cô Xuân, cô Mầu vậy thôi. Hai
cô gái Bắc bỏ đi thì nuôi cô gái Nam cũng vui thôi. Tôi thuê cái nhà tôle của
anh họa sĩ Đặng Văn Út ở xóm Chuồng Ngựa, cùng xóm với anh Thê Húc, anh Thiên
Giang và chị Hợp Phố. Tất cả cùng làm báo với nhau hết. Từ nhà đến trường vẽ
cuốc bộ rất gần. Nhà tôi cũng chứa thêm ba đứa bạn học cùng lớp. Tôi chỉ có tài
rong chơi thôi và vẽ tranh vui cười cho cả ba tờ báo hằng ngày là Lẽ Sống,
Tiếng Chuông và Sài Gòn Mới. Lúc này, anh em gọi là vẽ thai đề. Bạn hàng ở chợ
Bến Thành, chợ Cầu Ông Lãnh đòi hỏi nơi trang nhất phải có một cái tranh thời
sự ba cột cho họ bàn tính với nhau lấy ý kiến để đánh đề 36 con. Như vậy coi
như mỗi ngày tôi được 150 đồng tỉnh queo. Đã thế còn đám Kiên Giang Hà Huy Hà
và Hà Triều Hoa Phượng thỉnh thoảng lại giao cho tôi vẽ phong màn cho gánh hát
của chị Thanh Nga. Cứ mở màn ra là tôi được bốn ngàn đồng một vỡ kịch ba màn.
Tôi có tới mười hai ngàn xài không hết còn nuôi luôn đám nghệ sĩ bị Phan Văn
Giáo đuổi đi khỏi Huế như Quách Thoại, Trụ Vũ, Kiêm Minh, Vân Sơn, P.M.T.
Ở
một nhà suốt ngày nằm lăn ra tán gẫu chuyện đời rất vui. Cô Quý rất bực mình
trước lũ bạn trai của tôi. Cũng may sao lúc đó anh bạn cùng lớp tôi là họa sĩ
Trần Kim Hùng bị lao phổi thổ huyết. Bạn bè xúm nhau đưa anh ta đi cấp cứu ở
bệnh viện Hồng Bàng. Hùng bàn giao cho tôi ngôi gác xếp ở Xóm Đình sau trường
Mỹ Thuật. Tôi đưa cô Quý về ở đó để khỏi phiền vì đám bạn trai của tôi. Chỗ của
Hùng tươm tất hơn cái tổ quỷ của lũ chúng tôi. Chỉ cần sắm cái bàn phấn để cô
ta trang điểm nữa là đầy đủ. Tôi nhờ cậy chị Thanh Nga giới thiệu cho Quý đi
nhảy ở Arc-en-Ciel kế bên rạp Nguyễn Văn Hảo. Như vậy là cô ta có thể sống qua
ngày được rồi. Có bữa khuya hôm nọ, tôi nghe có tiếng xe đổ dưới đường, tiếng
giày cao gót của cô nàng lên gác. Quý lay tôi dậy xin năm đồng ăn bánh mì thịt.
Nhìn xuống đường, tôi thấy anh chàng đưa cô ta về đi cái xe láng cón. Tôi hỏi:
-
Thấy em đi chơi với tên nhà giàu sao lại về nhà xin tiền đi gậm bánh mì?
Cô
nàng cự nự:
-
Người ta tình yêu lý tưởng mà. Ai lại đi xin tiền mấy anh bao giờ. Mắc cỡ chết!
-
Khổ quá! Tụi con trai chúng nó mua ticket nhảy với em, được đi chơi cả buổi tối
với em, toàn nói chuyện trời nắng trời mưa, tại sao chúng nó lại để cho em đói.
Phải chửi cha chúng nó, chứ ái tình lý tưởng cái cốc khô gì?!
-
Ờ nhỉ! Sao em dại quá vậy anh?
Tôi
phải dạy cho cô nàng làm cách nào để móc túi bạn trai, làm thế nào để rút ruột
tằm. Đừng bao giờ ngây dại trước con trai nữa. Từ cách ăn mặc đến lối trang
sức. Nhất là những buổi chiều cuối tuần, tôi dẫn cô nàng đi mua áo ở đường
Catinat. Cô nàng ở với tôi cả nửa năm nên cũng hiểu biết sự đẹp và nghệ thuật.
Chính cô ta đề nghị với tôi xin cho mình buổi sáng vào trường làm mẫu khỏa thân
cho anh em vẽ tranh. Lúc bấy giờ trường Mỹ Thuật đã xây cất xong. Phòng vẽ là
một nhà kiến rất lớn có thể chứa cả trăm sinh viên Hội Họa, Điêu Khắc và Sơn
Dầu. Khổ nhứt là chú Ba Tây bên trường Trang Trí Mỹ Thuật. Chú thấy con gái của
mình bỏ nhà đi mất mấy năm nay, bây giờ lại khỏa thân lù lù ngồi một đống...
Ông ta xin nghĩ hưu về Vĩnh Long dưỡng già, không còn mặt mũi nào ngó ai nữa.
Thật ra chú Ba Tây là chuyên viên máy in thạch bảng. Ông ta chỉ hầu đám học
sinh ngành in ấn chứ chẳng phải là ngạch giáo sư. Ông ta chẳng hiểu thế nào là
sự đẹp, là nghệ thuật tạo hình hôm nay. Giữa thế hệ chú Ba Tây và cô con gái có
một khoản cách vời vợi đến cả hai ba thập niên. Ngành in thạch bảng của đám học
sinh kẽ chữ ngược và vẽ lên đá năm đó đã bị kỹ thuật in offset qua mặt lâu rồi.
Chẳng ai còn in danh thiếp, thiệp cưới, thiệp Giáng Sinh bằng đá nữa. Nên chú
Ba Tây, thầy Năm Dưỡng, thầy Năm Dị nghĩ hưu cũng vừa.
Trước
Chúa giáng sinh hơn nghìn năm, ở thời Cổ Hy Lạp, người ta đã làm tượng Thần Vệ
Nữ. Tượng này được đào lên ở thành phố Milo. Tuy mặc dầu không có đôi tay nhưng
rất đẹp. Cho đến ngày nay, tượng Vệ Nữ Milo là khuôn vàng thước ngọc cho sự cân
đối để làm tiêu chuẩn cho các hoa hậu. Năm 1955, ở Pháp có mở cuộc thi gắn cho
tượng Milo thêm đôi tay. Chẳng có nhà mỹ thuật nào thắng được giải này. Vì thời
xưa, người ta đã biết hy sinh những tiểu tiết để nâng cao sự đẹp lên đến một
tầm mức vượt bực. Danh từ hy sinh trong mỹ thuật "sacrifier" tức là
xóa bỏ hay đánh mờ để làm nổi bậc điểm chính đã có dùng từ đời này rồi. Pho
tượng Milo từ thời Thượng Cổ đến nay đâu có nét gì khêu dâm cả. Thứ nhứt là ở
vào thời Cổ Hy Lạp, các pho tượng thần Apollon, thần Công Lý, thần Gió, thần
Mưa, thần Mặt Trời, tượng ông thần nào cũng khỏa thân hết. Họ cho rằng Thượng
Đế, thần Ánh Sáng, thần Công Lý chẳng có che đậy thế gian cái gì cả. Chỉ có thế
gian và con người mờ ám che đậy Thượng Đế thôi. Danh họa Michel Ange trang trí
cả ngôi đền Thánh Sistine, vẽ nguyên một câu chuyện của Thánh Kinh và các pho
tượng tất cả đều khỏa thân hết. Thế mà Giáo Hoàng Laurent Magnifique cũng đâu
có phê phán gì. Ngôi đền này từ thế kỷ XIV đến nay vẫn còn vững vàng ở La Mã.
Họa sĩ Picasso những năm sau cùng, trước khi nhà danh họa sắp lìa đời, ông ta
có vẽ một bộ dâm thư hàng trăm bức. Nhà bình luận nghệ thuật André Malraux cho
rằng ông già Picasso vẽ dâm thư nhưng cốc có dâm chút nào. Cũng như anh chàng
họa sĩ nọ chửi thề lu bù mà nghe ra chẳng thấy chửi thề tí nào cả. Thế mới lạ
chứ. Có những nhà bình luận nghệ thuật cho rằng lịch sử mỹ thuật Tây phương là
lịch sử của những tác phẩm khỏa thân.
30
tháng 4 năm 1975... Sau khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, họ có tổ chức Đại
hội Mỹ thuật Toàn quốc. Mỗi họa sĩ trong Hội Mỹ Thuật đều gởi vài bức tranh để
ca tụng Đảng. Nội dung nói Đảng là người chiến thắng trên mọi lãnh vực này nọ.
Trong khi đó, họa sĩ Bùi Xuân Phái gởi lên một bức thiếu nữ khỏa thân nằm trên
một tấm trải giường màu đỏ. Ý muốn nói Đảng Cộng sản Việt Nam đẹp như một thần
vệ nữ. Không ngờ lại bị Trung ương Đảng họp lại lên án Phái là một họa sĩ phản
động. Anh ta bị cấm chỉ từ đó về sau, không được trưng bày một cái tranh nào
trước nhân dân nữa. Đến mười năm sau, họa sĩ Bùi Xuân Phái qua đời vì bị ung
thư thanh quản. Tranh của anh mới được trưng bày, bán một giá rất cao. Người Pháp
đánh giá Phái là một Utrillo của Việt Nam. Họa sĩ Utrillo chuyên môn vẽ phố
Montmartre và Paris. Còn Phái nổi tiếng vẽ các hẽm phố Hà Nội. Tranh của Phái
chỉ vẽ khuôn khổ bằng cái bao thơ, trên những mảnh giấy bìa cứng. Người ta nói
ông ta nghèo đến đỗi không có tiền hút thuốc lá, lấy đâu mà vẽ tranh lớn. Đến
năm 1985, Hà Nội phát động học tập nghị quyết Đại Hội VI. Đổi mới tư duy, cởi
trói văn nghệ sĩ. Các họa sĩ thuộc Hội Nghệ Thuật Tạo Hình Việt Nam đua nhau
trưng bày tác phẩm khỏa thân trông tức cười vỡ bụng. Họ tưởng đâu vẽ khỏa thân
là khêu dâm. Họ nghĩ rằng trường phái hiện thực xã hội chủ nghĩa được xổ chuồng
tha hồ mà vẽ bậy. Họ chưa có ý tưởng tìm thấy nét đẹp trên hình dáng khỏa thân.
Có đồng chí quan niệm khỏa thân là loại tranh thiếu nữ nhà nghèo, là đứng trên
lập trường giai cấp. Họ diễn tả bức khỏa thân trông thấy bắt gớm bắt tởm. Dĩ
nhiên là họ không bao giờ nuôi dưỡng được người mẫu khỏa thân. Vì tranh khỏa
thân làm cốc gì nói lên được đảng tính.
Đã
trải qua hơn bốn mươi năm, có thể nói cô Nguyễn Thị Quý là người mẫu khỏa thân
đầu tiên của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn. Sau này cũng có những cô mẫu mới
trẻ đẹp. Trời sanh mỗi người thiếu nữ một vẽ đẹp khác nhau. Mỗi người phụ nữ là
một kỳ quang của thế giới chứ chẳng vừa. Cuộc đời thay đổi những năm tôi mặc đồ
lính cũng có lúc tôi gặp cô Quý ở Sài Gòn. Cô ta ở với chồng con rất hạnh phúc.
Chồng cô là một thương gia. Họ gặp nhau ở vũ trường Arc-en-Ciel. Anh ta là
chàng trai thường đưa cô về mỗi tối ngày anh em tôi cùng ở Xóm Đình. Quý bảo tôi
đã dạy cho nàng chài kép đầy kinh nghiệm không chạy đâu khỏi lại còn biết giữ
hạnh phúc với chồng. Thỉnh thoảng Quý cũng bế con về quê ngoại thăm chú Ba Tây.
Ông già tha thứ cho con gái tất cả những lỗi lầm buổi ban đầu.
Chứng
nào tật nấy! Lúc tôi được biệt phái về dạy ở trường Mỹ Thuật. Tôi có xưởng vẽ
ngay trong nhà tôi. Tuần nào cũng có những buổi vẽ khỏa thân để anh em tập
trung lại vẽ tranh. Trong đám đông đảo bạn bè có họa sĩ Đỗ Đình Hiệp, bác sĩ
Dương Đình Tuân, kiến trúc sư Lê Văn Anh. Anh em vừa vẽ vừa uống rượu kể chuyện
tiếu lâm rất vui, lý thú còn hơn xoa bài chược. Có lúc tiện nội tôi đi chợ về
thấy cả đám đùa giỡn cười hô hố. Chị ta nổi giận:
- Anh ơi xuống vác giùm em bao gạo lên lầu đi.
Nặng quá à!
Đó
cũng là cách tế nhị để trả thù anh chồng đấy! Cô ngồi mẫu khỏa thân của chúng
tôi lúc này là cô Hương, người con gái Bắc, rất đẹp. Cô ta có chân trong đoàn
vũ Ánh Tuyết nhảy cho câu lạc bộ căn cứ lính Mỹ Long Bình. Mỗi buổi ngồi mẫu
anh em góp tiền trả cho cô nàng ba trăm. Sau khi tan buổi vẽ, anh em thay phiên
đưa nàng về. Hôm nọ, kiến trúc sư Anh đưa cô Hương về nhà. Anh tài xế ngồi
trước lái xe. Ông Anh và cô nàng ngồi ở băng sau. Người đẹp tỉ tê với ông Anh:
-
Em muốn nâng cái sóng mũi lên cho đẹp nhưng thẩm mỹ viện Hạnh Phước đòi đến hai
mươi ngàn lận. Em không có tiền thật khổ ghê!
Ông
Anh dại gái bèn cho mượn số tiền khá lớn. Đến tuần sau, vào giờ vẽ, cô gái biến
đâu mất tiêu. Bọn này than phiền là tranh vẽ bị dở dang. Mãi một hồi ông Anh
mới khai thiệt, làm lũ chúng tôi kêu trời như bọng:
-
Bây giờ mới nói thiệt. Huấn luyện một thiếu nữ ngồi mẫu khỏa thân thật ra còn
khó hơn mình tập một con khỉ làm trò xiết nữa là khác. Nay ông Anh vô tình làm
cho con khỉ bỏ chạy vào rừng rồi, sức mấy mà huấn luyện được con khỉ khác.
Chuyện đâu phải dễ!
Tôi
bèn nói thêm:
-
Tôi đố mấy ông thử tìm cho ra một người đẹp nào chịu ngồi mẫu khỏa thân thử
coi. Cao hứng lắm, họ mơi chịu ngồi đó! Chỉ có những người thiếu nữ thấy rằng
mình là đóa hoa đẹp, muốn giữ lại vẻ đẹp muôn đời muôn thuở của mình thôi. Chỉ
có nghệ thuật mới làm được công tác này. Nghệ thuật thật hơn lịch sử và sống
hơn lịch sử. Còn tất cả là vô thường...
Cả
đám khoái chí cười hô hố. Ngồi uống rượu mà không có người đẹp làm mẫu khỏa
thân cho mình vẽ tranh cũng chán cái mớ đời. Đến năm đi cải tạo về, tôi đi lang
thang ở phố Sài Gòn. Tôi ghé lại chợ trời đường Huỳnh Thúc Kháng, cạnh Tòa Hòa
Giải đường Nguyễn Huệ. Tôi gặp lại Hương ngồi bán radio ở đó. Hương cho biết
trong thời gian qua, Hương lấy chồng Mỹ là một sĩ quan làm ở tổng kho Long
Bình. Sau khi kết thúc Hội nghị Paris, anh ta có lệnh rút về Mỹ không kịp đem
theo vợ con. Hương ngồi nhắc lại thời gian nhảy cho ban vũ Ánh Tuyết và ngồi
mẫu khỏa thân cho trường Mỹ Thuật cùng mấy anh em họa sĩ thật là vui. Trải qua
cũng gần bảy năm, thỉnh thoảng nàng hẹn đi rong chơi với tôi những buổi chiều
thứ bảy sau khi tôi đến phụ giúp nàng dọn hàng về cất nơi con hẽm nhỏ sau Tòa
Án.
Chúng
tôi gặp lại ký giả Diệp Lang, bút hiệu Tây Tóc Vàng. Anh chàng mời chúng tôi về
nhà nơi đường hẽm số 4 trước mặt Sở Cứu Hỏa đường Trần Hưng Đạo. Diệp Lang cho
chúng tôi ngắm hai bức tranh khỏa thân hơn cả mét rưỡi dạo tôi vẽ cô Hương lúc
còn hai mươi tuổi, thời còn trẻ đẹp của một thiếu nữ. Chàng Tây Tóc Vàng ngồi
khui mấy chai bia Hải Âu mà chúng tôi thường gọi là "Hai Ẩu", uống
tầm bậy có bữa trúng độc chết toi mạng. Diệp Lang ngồi kể lại lai lịch của bức
tranh:
-
Hai bức sơn dầu này nằm trong bộ sưu tập của Đặng Văn Bé, chủ nhiệm tờ nhật báo
Thách Đố. Nhằm lúc Việt cộng đánh tư sản và tiêu diệt văn hóa đồi trụy năm
1980, anh chàng Bé này hoảng sợ đem đốt cả chục bức như vậy. Điểm thứ nhất vì
nó là tranh khỏa thân. Thứ hai là nó lại mang chữ ký của Hiếu Đệ, một tên tù
cải tạo mút mùa. Lúc ấy, Diệp Lang đang ngồi nơi nhà Đặng Văn Bé. Anh ta thấy
tiếc của đời. Anh bèn giật lại được hai bức và đem về giấu nơi nhà người anh
thứ hai ở đường Nguyễn Du. Nghe đâu tay này đang làm ở Thành ủy Sài Gòn Gia
Định.
Bây
giờ có mấy chàng Việt kiều về thăm quê hương, trả giá hai ngàn đô la một bức.
Anh ta vẫn chưa chịu bán. Kể ra hơn mười mấy năm sau, tôi mới được dịp ngắm lại
bức tranh của mình, lần này với tư cách một người thưởng ngoạn xa lạ. Kể cả
Hương nữa. Cô nàng thấy thích thú vô cùng. Nàng nói với tôi:
-
Chẳng cần biết nó là tài sản của ai, giá trị của nó như thế nào... Tụi này được
ngắm lại bức tranh, được chiêm ngưỡng lại vẻ đẹp của mình lúc còn xuân cũng đủ
thấy hạnh phúc lắm rồi!
Riêng
anh chàng Diệp Lang, Tây Tóc Vàng thì tự hào:
-
Tớ vẫn cất giữ mấy bức tranh này đến vài chục năm sau nằm ngủ cũng vẫn có lời
hơn là bán lấy hai ngàn đô ngay bây giờ. Tiền bạc còn mất giá chớ tranh có mất
gì đâu? Nhà nước chơi trò đổi tiền chứ ai lại đổi tranh bao giờ!
Hiếu Đệ
**
Đầu Năm Ngọ
Cơ Đồ Đổi Thay
Ở Việt Nam, sau năm 1975,
nhân dân bị áp bức, khổ sở, một cổ đôi ba tròng, khao khát một thay đổi để cho
đại chúng được dễ thở chút ít. Họ hy vọng có một biến chuyển lớn. Có người lại
nhắc nhở đến những câu sấm Trạng Trình mà đặt tin tưởng vào đấy. Bốn câu sấm
thiên hạ bàn tán mãi:
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ
khởi đao binh.
Mã đề, dương cước anh
hùng tận,
Thân, Dậu niên lai kiến
thái bình.
Hai câu đầu, người người đều bảo đuôi rồng đầu rắn khởi
chiến tranh là đã qua rồi, tức hồi Đức - Ý - Nhựt muốn làm bá chủ hoàn cầu. Câu
sau "xứ xứ khởi đao binh" là phe Đồng Minh đánh quật lại trong Thế
Chiến Thứ Nhì. Còn "mã đề, dương cước" thì không phải nói về Nhựt Bổn
thua, mà ám chỉ đến cái ngày tàn sắp tới của Việt cộng. Vì Việt cộng vẫn xưng
mình là anh hùng (!?), và ba chữ "anh hùng tận" tức chỉ những anh
hùng tự xưng sắp sập tiệm! Và năm Thân, năm Dậu là có thái bình, những người
quốc gia chân chánh sẽ trở về... Đâu đâu thiên hạ cũng xầm xì bàn tán. Bọn Việt
cộng cũng hoang mang hoảng hốt. Chúng bày ra một kế hoạch trấn áp, hầu dập tắt
dư luận. Chính tôi, trong năm Mậu Ngọ ấy, vô tình chứng kiến một câu chuyện đau
lòng nên hôm nay mới có hân hạnh kể lại cho đồng bào nghe biết.
Nguyên là chuyến vượt biên vào năm 1980 của tôi bị thất
bại. Sáu mươi người trên ghe bị bắt ở cửa Bình Đại, tỉnh Bến Tre. Cùng một tối
ấy, công an biên phòng và du kích bắt về hơn hai trăm người, bị kẹt vào đáy
Sông Cầu, ngoài khơi cửa biển Bình Đại. Tất cả gần ba trăm người bị nhốt trong
một láng trại chật ních. Lâu lâu, có tiếng la lên:
- Có một người ngộp chết!
La để bọn công an mở cửa tí xíu cho có dưỡng khí... Từ
chỗ giam, chúng tôi nghe những tiếng tra khảo, đánh đập, những lời van lơn,
khóc lóc, rên rĩ não nùng mà ai cũng sợ sởn gáy, nghĩ rồi sẽ đến phiên mình nào
khác chi... Qua khe cửa, tôi trông thấy lũ đầu trâu mặt ngựa ấy, thuộc về toán
công an chấp pháp. Chúng chuyên hỏi cung người. Dầu không có tội cũng phải
thành tội! Trông một tên dường như có quen hồi nào. Thấy mặt gã quen bao nhiêu,
tôi càng sợ điếng hồn hơn nữa... Liền khi ấy cửa phòng mở ra, gã nọ lù đù đi
đến tôi. Tôi trốn đâu được, cúi đầu xuống, trống ngực đập thình thình... thình
thình... như trống làng. Tôi như ở giữa đồng vắng nắng chang chang, không cách
nào trốn khỏi nắng... Hắn đúng là Ba Thiệu, xưa là Đại úy An Ninh Quân Đội. Văn
phòng của hắn gần chỗ làm việc của tôi ở Cục Chiến Tranh Chánh Trị, số 2 đường
Hồng Thập Tự, gần cầu Thị Nghè. Hắn và tôi gặp nhau hằng bữa, nhứt là những khi
cấm trại, thường đánh bài, uống cà phê tán gẫu tại Câu Lạc Bộ Tiểu Đoàn 50
Chiến Tranh Chánh Trị. Tên này còn lạ lùng gì về lý lịch của tôi. Tôi không
hòng chối là dân thường. Không có cách nào giấu là sĩ quan học tập cải tạo trở
về. Đã học tập cải tạo rồi mà lại vượt biên trái phép thì lúa rồi! Ít nhứt ba
năm đến năm năm tù, chưa kể bị điều tra mềm xương! Trời đất quỷ thần ơi! Sao số
tôi cùng mằn khiến ma đưa lối quỷ dẫn đường cho phải chạm trán với gã nơi đây?
Có ai dè gã là địch?
Gã là cán bộ nằm vùng, phản bội Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa đã đào tạo hắn và bây giờ gã làm nội
tuyến như tên chuẫn tướng Hạnh? Hay gã đầu hàng địch, trở mặt hại bạn để lấy
công chuộc tội? Trước khi hỏi cung, bọn Việt cộng chia nạn nhân ra từng chuyến
tàu. Chủ tàu và tài công đứng riêng. Còn khách vượt biên thì dồn một chỗ, xét
hỏi từng người theo hình thức khảo của mà chúng gọi là làm sạch sẽ. Tên Ba
Thiệu đi thẳng đến tôi, chỉ tay vào mặt, nghiêm giọng:
- Anh này, vào phòng tôi làm việc!
Biết không chạy tránh khỏi, tôi ngẩng mặt cao, bước chân
theo hắn. Đằng nào cũng chết! Gặp tên phản thùng này cũng là liều chết. Khiếp
sợ làm gì cho nó khinh!... Tên Ba Thiệu đưa tôi vào phòng khóa cửa lại cẩn thận
rồi nhoẻn miệng cười:
- Thôi, cha nội! Đừng làm cái mặt khó coi đó nữa... Anh
là họa sĩ Hiếu Đệ, sĩ quan Tâm Lý Chiến, còn tôi là Ba Thiệu ở phòng An Ninh
Quân Đội đường Hồng Thập Tự trước kia. Dạo anh được biệt phái về dạy học, tôi
cũng đổi xuống Bến Tre làm Trưởng Phòng Nhì... Đến khi các ông tướng mình bỏ
chạy và đầu hàng, bọn Việt Cộng vào thành, chúng nói tôi nặng nợ máu với nhân
dân, phải học tập cải tạo mút mùa nếu không ra tài giúp chúng ở phòng Chấp
Pháp, lập hồ sơ cho những người vượt biên.
Ba Thiệu giải thích thêm:
- Vì tôi có dự nhiều khóa tu nghiệp tình báo an ninh ở
nước ngoài nên khoa lấy cung, làm hồ sơ được liệt vào hàng sư tổ của bọn công
an. Huống chi thằng Ba Chiến, Trưởng Ty Công An ở đây thiếu chữ nghĩa, không
biết con mẹ gì ráo trọi. Nó cần tôi... Dĩ nhiên, tôi cũng lợi dụng nó để tạm
yên thân rồi tìm chước chuồn đi...
Tôi thở phào một hơi. Lòng nghe nhẹ nhõm. Thì ra Ba Thiệu
vẫn thuộc phe mình, bồ bịch với mình. Ba Thiệu bảo tôi:
- Tôi vẽ cho anh tờ khai, để vào tù được nhẹ tội. Chừng
năm tháng là được ra về. Anh nhớ kỹ để về sau, khi đổi trại, khi làm lại lý
lịch, phải khai đúng, trước sau như một. Anh là thợ hơt tóc ở Tân An, huyện Thủ
Thừa, nhà ở ấp 6, gần hương lộ. Anh theo lời kêu gọi của nhà nước, bỏ nhà đem
vợ con đi làm ăn ở khu kinh tế mới huyện Bà Bèo, tỉnh Mỹ Tho. Nhưng chánh sách
kinh tế mới của nhà nước thất bại. Khu này sắp giải thể. Dân sống không nổi, bỏ
trốn rất nhiều. Gia đình anh cũng bỏ trốn rồi theo tụi canh me trèo lên ghe
vượt biên...
Ba Thiệu nhấn mạnh:
- Về sau, trại tù có bảo anh ra hớt tóc thì phải học dần
lối hớt tóc trong tù. Cố gắng hớt làm sao cho gọn. Hớt tóc cho tù dễ mà! Nào ai
dám đòi hỏi phải hớt đẹp!
Thế là tôi bỗng nhiên thành thợ hớt tóc... trên giấy
tờ. Ba Thiệu thuật cho tôi nghe cuộc
sống trôi nổi của y, mấy lần chết hụt trong các trại học tập cải tạo. Sau cùng,
anh mới được đưa về làm tạp dịch cho Ty Công An Bến Tre. Y căn dặn tôi từ rày
về sau, gặp nhau ở đâu cũng giả bộ không quen biết:
- Tớ rồi đây cũng liệu cách vọt đi ra nước ngoài. Làm
công việc này tớ không thích chút nào cả. Tớ trông thấy cảnh đau khổ của người,
chịu không nổi. Đó là tớ chỉ đập vào bọn có tiền, còn dân nghèo khổ thật sự thì
không. Ông già bà cả, trẻ nít cũng không. Còn những người phe ta như cậu, tớ
giúp đỡ để chạy án nhẹ.
Tôi ở Ban Chấp pháp khoản một tháng thì được cộng sản
chuyển qua khám lớn Bến Tre để lãnh án. Lúc ấy vào mùa trái cây chín. Bên
ngoài, bệnh dịch tả lan tràn. Trong tù lo phòng ngừa truyền nhiễm. Tù được lùa
ra sân chích ngừa. Từ 9 đến 10 giờ sáng, anh em tù được ra nơi thoáng khí phơi
nắng. Nhờ thế, chúng tôi lén lút liên hệ làm quen, hỏi thăm án tích của nhau.
Tù được phân làm nhiều loại. Loại vượt biên được xem là dại nhất, đã mất tiền
còn bị ngồi tù! Loại CT là chánh trị, tất cả đều nằm trong vụ án Xuân Mậu
Ngọ. Loại KT là kinh tế, là những
thành phần bị chụp mũ tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, buôn bán gian lận... Sau
cùng là loại hình sự như trộm cướp, giết người... Trong các loại tù, chỉ có đám
vượt biên là nạn nhân của chế độ, hiền từ, nhũn nhặn. Nhưng bọn cán bộ cũng
cách ly họ ra, không để trò chuyện với tù chánh trị là kháng chiến, là phục
quốc vì sợ bị đầu độc tư tưởng. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tìm cách liên lạc
nhau. Và biết được họ bị bắt trong Cuộc Nổi Dậy của Trận Công Kích Phản Công
trong năm Mậu Ngọ. Số người bị bắt rất nhiều, không chỉ ở tỉnh Bến Tre mà ở
khắp nơi. Nhứt là trong giới tín đồ các đạo Cao Đài, Hòa Hảo. Thoạt đầu là có
một bài sấm khởi truyền từ Núi Sam ở Châu Đốc. Đại ý có mấy câu tôi còn nhớ rõ
như sau:
Ngày vô cuối tháng
ba mươi
Ngày ra vội vã bằng
mười ngày vô
Đầu năm Mậu Ngọ cơ đồ
đổi thay...
Chu choa! Như vậy thì khoái... quá tỉ thợ mộc rồi chớ còn
gì nữa! Sấm này phù hợp với hai câu sau của bài Long Vĩ - Xà Đầu chưa giải
nổi... Sấm nói: "Ngày vô cuối tháng ba mươi" là đúng chốc! Ngày ấy là
ngày tang tóc của Đất Nước, Dân Tộc: ngày 30 tháng 4 năm 1975!... Tụi nó vô, bỏ
rơi mặt nạ, không còn là giải phóng nữa mà là lũ hại dân, bán nước, làm chư hầu
Liên Xô, cướp đoạt từ thượng tầng hạ cám, khiến dân chúng điêu linh, đói rách,
nghèo vào hạng ba của các nước nghèo nhứt thế giới. Chúng ở thêm lâu nữa, Đất
Nước làm sao ngốc đầu lên nổi! Chúng
phải đi như sấm nói: "Ngày ra vội vã bằng mười ngày vô". Thế là
"ò e Zorro đánh đu, Tarzan nhảy dù...". Bọn gian ác bỏ chạy nhốn
nháo, giày đạp, xô lấn, chen tét áo sút quần mà chạy. Chạy đi đâu? Chạy ra rừng
khi trước chúng ở đó! Nhưng kỳ này thì chết đói! Đừng hòng dân tiếp tế nữa...
Câu sau mới rõ ràng. Sấm bảo là "Đầu năm Mậu Ngọ cơ
đồ đổi thay!"... Đổi thay cách nào đây? Ở thôn quê, từ lâu rồi, nhà nhà
đều mài dao sẵn. Họ đều nhận diện hết thảy bọn Cộng sản trong vùng, đều hăm bẻ
răng, sẽ bằm, sẽ chặt hết, cho hả giận. Vì khi xưa, họ đã giấu giếm, đã tiếp tế
cho bọn Cộng sản nằm vùng mà bị bắt bớ, bị điều tra chết lên chết xuống vẫn
không khai... Thế mà khi chúng nó về thành thì cởi trên đầu dân đen, làm ông
làm cha thiên hạ!... Mọi người dân đều
chờ đợi một ai đó khởi xướng phong trào... Đồng bào còn tin tưởng vào những
người vì tình thế khi trước đã bỏ ra nước ngoài, tin tưởng vào các sĩ quan đã vượt biên, hoặc học tập cải tạo ra rồi được
đi Mỹ, những cộng đồng người Việt hải ngoại đoàn kết. Và "cơ đồ sắp đổi
thay" đây là họ đang trên đường kéo cờ vàng ba sọc đỏ trở về... Dân trong
nước phải sẵn sàng để chờ ngày ấy...
Sấm lại có những câu chỉ thẳng vào bọn Việt cộng:
Chân mang đôi dép
thằng cùi
Đầu đội nón phẩy, lưng
đèo túi da!
Thế thì khi dân nổi dậy lên, dép thằng cùi chạy được bao
xa? Túi da đựng của ăn cướp của nhân dân rồi phải quăng lại thôi... Còn một câu
sấm nữa nói năm 1975, "Mèo kêu sao rụng đầy trời" là ám chỉ vào Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa rút lui vô trật tự. Nhưng sao rụng rồi sao mọc trở lại.
Đó là lẽ thường. Lúc nào mà trời chẳng có sao phải không? Mong rằng những anh
hùng, liệt nữ ở hải ngoại, đều là những người quốc gia chân chính, dám liều
mình vì nước, ùn ùn kéo về sửa đổi lại cơ đồ... Sấm cũng nói đến tình trạng dân
chúng khổ ải trong nước:
Người người trôi
giạt Biển Đông
Ngày nay con Phật đi
cày thay trâu!
Sấm rỉ tai mọi người cùng khổ như thế. Ai ai cũng nứt
lòng chờ đợi. Nứt lòng hưởng ứng. Và do thế, các khám giam, các nhà tù Cộng sản
giam nứt Kháng chiến quân, Phục quốc quân! Câu sấm truyền từ năm 1978, 79 sau
những đợt Việt cộng đánh tư sản và tiêu diệt giai cấp buôn bán nhỏ, cho đến cao
điểm là năm 1980, Mậu Ngọ. Chương trình phát động Tổng Công Kích của nhân dân
trong các thành phố nhứt tề nổi dậy. Họ đánh chiếm các thành phố trong đêm ba
mươi Tết thì bên ngoài quân Phục quốc từ Rừng Sát, hay ở thôn quê, đánh ập vào.
Nội công, ngoại kích... Thế nào chả thành công! Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Sau giống hồi Tết Mậu Thân 68, Việt cộng đánh vào thành
phố rồi bỏ chạy sút quần?
Những người bị can tội đã đánh cướp vũ khí bọn cán bộ
trại giam, khám lớn rồi kéo lên tỉnh đường Bến Tre và bị thiết giáp Việt cộng
bắt trọn ổ, liền trả lời:
- Ậy, kỳ này là của Quốc Gia mình! Nhiệm vụ của chúng tôi
là đánh chiếm tỉnh đường, chờ đến 8 giờ sáng sẽ có quân Phục quốc đến.
Phục quốc quân đâu chẳng thấy. Chỉ thấy lính Việt cộng
nón cối dép râu, răng vẫu thôi! Trong số có một toán Phục quốc quân tuổi từ hai
mươi đến ba mươi là thường bị hỏi cung. Toán người này bị bắt tại Rừng Sát. Họ
thú nhận với tôi:
- Bọn em trốn nghĩa vụ quốc tế để khỏi qua nhập bọn với
Khờ Me đỏ ở Campuchia giết hại dân Miên. Đám lính nghĩa vụ bị chết trận nhiều
lắm. Làm lính đánh thuê phải xa gia đình mà trong khi đó thì cha mẹ ở nhà bị
đuổi đi kinh tế mới, hay bị bắt bớ về tội buôn thúng bán bưng lề đường... Tụi
em trốn vào Rừng Sát phục quốc, thỉnh thoảng còn trốn về thăm gia đình được.
Họ càng tin tưởng:
- Tiểu đoàn tụi em mạnh lắm, có cả pháo, súng cá nhân
toàn thứ tốt. Mỗi lần Phục quốc quân chuyển quân qua vùng Châu Bình, Châu Thới
đến cả tiếng đồng hồ mới dứt đuôi. Bọn công an, du kích Việt cộng thấy mà sợ,
không dám nổ súng...
- Lực lượng Phục quốc quân mạnh như vậy, tại sao các anh
bị bắt trọn gói?
Nguyễn Văn Của và Lê Văn Hai đều bảo:
- Bị nội tuyến, nội gián. Buổi sáng hôm ấy, trong khi cả
đám đang ăn sáng, toán đổi gác thiếu cảnh giác bị bọn đặc công Việt cộng bắt
trói và rồi bộ đội tràn vào láng chĩa súng uy hiếp bộ chỉ huy bắt buộc phải kêu
gọi chúng em buông súng đầu hàng.
Có chú Sáu Nhỏ, thanh niên khoảng tuổi hai mươi, là Tiểu
đoàn trưởng Phục quốc. Sáu Nhỏ bị đám tù bất phục, sỉ vả:
- Chú mầy là đồ con nít, hỉ mũi chưa sạch! Không học một
ngày cá nhân tác chiến mà làm Tiểu đoàn trưởng cái gì?
- Mấy người không có ý thức. Khi nổi lên cướp võ khí của
địch, tổ chức sẽ sắp xếp lại. Tùy tài mọi người để lập trung đội, đại đội, tiểu
đoàn chánh quy. Tụi tôi chỉ là cán bộ khung. Tức là phải dựng lên cái sườn
trước...
Sáu Nhỏ lại phân trần:
- Vả lại, đừng khinh trong dân chúng không có anh tài.
Trong thế chiến vừa qua, nhiều cuộc nổi dậy hay làm cách mạng của dân chúng các
nước, thiếu gì ông Tướng, ông Tá đánh giặc oanh liệt, chiến công đầy mình mà xuất
thân là dân không biết chữ, hay không học qua một trường quân sự nào...
Sáu Nhỏ rất anh hùng. Đến hôm nọ mới sáu giờ sáng, Sáu
Nhỏ được lệnh cộng sản gọi dậy để đưa ra tòa. Anh em kiếm thức ăn cho ăn sáng
và lấy quần áo cho Sáu Nhỏ mặc tươm tất. Phiên tòa xử tại rạp hát của tỉnh lỵ.
Có bắt loa ra phố cho dân chúng nghe để làm gương mà chớ theo phản loạn. Tòa
buộc tội rất gắt. Sáu Nhỏ phản đối, bảo không có tội gì cả:
- Tôi là
người yêu nước. Muốn giành lại nước cho dân chúng được hòa bình, an cư lạc nghiệp.
Chính Cộng sản mới là người phản dân, phản nước, cam làm nô lệ Nga - Tàu, bần
cùng hóa nhân dân. Cộng sản đánh tư sản để tiêu diệt tiềm năng kinh tế đất
nước, đày dân đi các vùng kinh tế mới để làm trâu mọi, lùa thanh niên Việt Nam
sang Campuchia làm mồi thịt cho súng đồng...
Tòa
án vỗ bàn rầm rầm, ra lệnh cho công an cúp ngay ống loa phát thanh. Dân chúng
đang đứng đen nghẹt ngoài chợ, cất tiếng hoan hô Sáu Nhỏ. Đến trưa, Sáu Nhỏ bị
giải về khám, mặt mày u bầm. Tôi được dịp tiếp xúc nhiều với tù trong khám là
do một dịp may. Anh thợ hớt tóc trong trại xin cán bộ dẫn ra chợ để mài tông
đơ. Nhằm khi bọn chúng chúi mũi vào tủ kiếng bán đồng hồ. Bọn Việt cộng tên nào
chả mê đạp là xe đạp, đồng là đồng hồ, đài là cái máy phát thanh cầm tay. Nên
thừa lúc đó, anh thợ hớt tóc nhanh chân lẫn vào đám đông biến dạng trốn mất.
Thế là tôi trên giấy tờ là thợ hớt tóc. Bây giờ mới thật sự hành nghề... Vào
mỗi tháng, sắp đến ngày thăm nuôi, tù nào để tóc dài, không được giáp mặt với
thân nhân đi thăm nuôi. Nhờ vậy, tôi được hân hạnh tiếp xúc với rất nhiều thành
phần tội phạm và tiếp xúc một cách chánh thức.
Có
đám bị gọi án lâu năm, đến cả tử hình, là đám can tội cướp súng trại giam, đốt
phá hồ sơ văn phòng, kéo lên tỉnh đường đánh nhau với bộ đội phòng vệ. Đám này
bị biệt giam, nhiều người bị án tử hình... Đấy là đám Tư Hiếu. Tư Hiếu trước
kia là dân biểu Quốc hội Việt Nam Cộng Hòa. Việc đánh chiếm tỉnh đường thất
bại, anh bỏ trốn lên Sài Gòn nhưng bị công an Việt cộng theo dõi bắt được giải
trở về Bến Tre. Anh đã trọng tuổi, song vẫn bị tra khảo tàn nhẫn cũng như các
chiến hữu của anh... Có đêm khuya nọ đang ngủ, chúng tôi nghe gọi:
-
Nguyễn Văn Dũng đâu? Mặc quần áo vào, lên phòng làm việc!
Đến
hừng sáng, Nguyễn Văn Dũng được đưa trở về khám, có hai tên cán bộ mặt rằn mặt
rắn xốc nách, chứ anh đi không nổi. Mặt mày bằm tím, miệng ói máu. Một anh nọ
người Tàu ở Chợ Lớn, đang ngái ngủ, chợt giựt mình thức dậy, ngồi bật lên như
điện giựt:
-
Nàm dẹc cái mẹ gì? Oánh người ta chết cha mồ tổ!... Mấy thằng Vẹt cộng ăn chực,
nói láo... Nói khảo cha là tự giác, không nghe nổi!...
Chúng
tôi xúm lại lo lau rửa kỹ lưỡng vết thương trong người Dũng và thoa dầu Nhị
Thiên Đường. Có người quậy nước đường cho Dũng uống để đỡ tức ngực. Dũng dưỡng
thần một lúc rồi bảo:
-
Cám ơn bà con. Tôi đã đỡ rồi...
Bọn
tù xầm xì nhau, cho rằng Dũng bị tra khảo nặng vì y là em ruột của Tư Hiếu, là
một trong số lãnh tụ chỉ huy cuộc Tổng Công Kích Mậu Ngọ. Nhưng trong vụ này
nhiều người phải hàm oan... Tôi có hớt tóc cho Mai Văn Thảng. Anh này bị bắt
trên đường An Hóa đi xuống Bình Đại. Anh ta là dân Sài Gòn, không biết tại sao
rời Thành phố Hồ Chí Minh đi làm gì đến đó mà ôm một cặp táp, đựng tiền trị giá
đến hai mươi cây vàng. Mai Văn Thảng bảo y mang tiền mua hàng lậu, nhưng du
kích nghi ngờ Thảng đi phát lương cho Phục quốc quân ở chiến khu Rừng Sát.
Thảng bị giam riêng một nơi, chờ điều tra. Bọn cán bộ bảo là tháng trước, chúng
bắt được một sĩ quan O.D (tế mục vụ) của tiểu đoàn Phục quốc lúc sĩ quan này đi
trên chiếc phà Rạch Miễu để vào thị xã Bến Tre. Trong cặp da có danh sách đầy
đủ của tiểu đoàn, từ cấp sĩ quan chỉ huy đến binh nhì. Có nhiều người nằm vùng
ở trong tỉnh làm trinh sát và quân vận. Tai hại hơn nữa, Phục quốc quân bị bắt,
bị xét nhà, lòi ra danh sách các nhà hảo tâm ủng hộ kháng chiến, đóng tiền quỹ
nuôi quân như nhà may Tân Lập, hãng làm gạch bông Kiến Hòa, chủ xe đò Hiệp Đức,
quán cà phê Chú Xồi v.v... Tất cả đều bị bắt hết. Riêng người góp tiền ủng hộ
khá đông được liệt vào loại KT giam nhốt bên trại B. Tôi thầm nghĩ đây là một
cớ để bọn công an Việt cộng bắt người cho dễ. Chứ làm gì có vụ sĩ quan O.D. Làm
gì có cả danh sách của tiểu đoàn... Ở Bến Cát, tỉnh Bình Dương bảo có người đi
xe vespa bị cháy máy. Khi đẩy xe vào nơi sửa thì lòi chiếc cặp khả nghi trong
cốp xe. Ở Tây Ninh cũng vậy. Có tin đồn công an xét nhà những người bị tình
nghi. Và cũng lòi ra danh sách... Đâu đâu cũng có danh sách!...
Khi
tôi đi học cải tạo về, có nghe người thân cho biết khoảng 76-77 đảng Phục quốc
có hoạt động ở thành phố. Trong số người hoạt động ấy có một toán thợ sắp chữ
các nhà in nhựt báo thuở xưa, như bọn anh T... sún. Bọn này giả làm nghề bôm
mực viết nguyên tử ở các chợ. Họ rỉ tai cho biết Phục quốc quân ở Rừng Sát,
rừng núi Tây Ninh, rừng Bến Cát, biên giới Việt Miên, vùng Núi Cấm v.v... Bọn
Việt cộng thường giả làm tàn quân quốc gia, trang phục theo Thủy quân Lục
chiến, cầm súng Mỹ, mang cờ vàng ba sọc đỏ, đi ruồng qua các rừng rậm, để tiêu
diệt Phục quốc quân và những đám tàn quân Việt Nam Cộng Hòa lẻ tẻ. Nhiều đơn vị
đã mắc mưu, bị tàn sát hay bị bắt cả....
Những
anh em Phục quốc hoạt động trong thành rỉ tai cho biết nếu đến năm 79 mà không
khởi dậy nổi, họ sẽ rút sang biên giới Campuchia. Như vậy để bảo tồn lực
lượng... Thế thì phe Phục quốc bị bắt ở đây có phải cùng phe đã rút sang
Campuchia không? Sao phe này tổ chức hời hợt quá, không giống phe trước chút
nào cả! Tôi được ra tù trước ngày Giáng Sinh năm đó. Bọn cán bộ phát cho tôi
lệnh tha và giấy xuất trại. Chúng làm ra vẻ rộng lượng khoan hồng, bắt mình
phải mang ơn chúng nó. Tôi cùng một số người Trung Hoa bị bắt chung trong
chuyến vượt biên. Chúng tôi kéo nhau ra chợ Bến Tre, hùn tiền kêu rượu nhậu một
phen túy lúy để xả xui. Nhậu đã rồi, chúng tôi lên xe đò trở về Sài Gòn. Khi
đến phà Rạch Miễu lại gặp một lô bạn tù được thả ra sau tôi hai tiếng đồng hồ.
Đấy là bọn thanh niên gia nhập Phục quốc quân bị bắt ở Rừng Sát thuộc về phe
của Đức và Hội... Anh em chúng tôi ôm nhau, cười hô hố, cho là mình qua một cơn
ác mộng!
Bốn
năm sau... tôi lang thang ngoài chợ trời đường Nguyễn Văn Thoại, chợt đụng đầu
với Ba Thiệu. Anh chàng này đứng
trước sạp bán quần áo cũ. Anh em bắt tay, mặt mừng, ôn lại những ngày cũ. Ba
Thiệu hiện đang buôn bán vặt vạnh kiếm sống qua ngày. Chúng tôi kéo nhau ra
quán cà phê, đùa với nhau một chập. Tôi hỏi về vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Ngọ,
mong được biết rõ ràng hơn. Anh ta cười hề hề, kết luận:
-
Thôi ông ơi! Đừng có hỏi dong dài nữa! Mắc cỡ bỏ mẹ... Việt cộng nó dàn cảnh.
Tụi tui cả đám xúm ra diễn trò. Thế mới chết một cửa tứ... Tụi nó rập khuôn kiểu
Tổng công kích năm Mậu Thân. Vậy mà tụi mình lại tin, mắc mưu chúng nó. Khổ vô
cùng...
Tôi
nghĩ đến bao nhiêu người bị chết oan. Bao nhiêu gia đình phải tán gia, bại sản.
Bọn Việt cộng thật là ác! Chúng bày ra bao cạm bẫy, đánh một mẽ lưới to, vét
sạch những người có óc chống đối. Chúng thành công trong cuộc dập tắt kịp thời
mầm nổi dậy của dân chúng muốn thoát khỏi xích xiềng áp bức... Hỡi ơi! Chỉ vì
câu sấm: "Đầu năm Mậu Ngọ cơ đồ đổi thay!". Người ta đồn rằng bài Sấm
Năm Mậu Ngọ xuất hiện trên đỉnh Núi Sam ở Châu Đốc được các chùa ở miền Tây phổ
biến trong dân gian. Nơi những làng Hòa Hảo, các ông sư lại nói kế hoạch Tổng
Công Kích Mậu Ngọ được phát động do bọn lãnh đạo Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt... nên nó
hao hao giống như vụ Tổng công kích năm Mậu Thân của Hồ Chí Minh. Mục đích để
tốm gọn thành phần bất mãn chế độ.
Sau
chiến dịch tiêu diệt tư sản, cải tạo công thương nghiệp và lùa dân đi kinh tế
mới làm cho lòng dân căm phẫn đến tột bực. Bọn Hà Nội dự đoán thế nào cũng có
một cuộc nổi dậy của dân chúng miền Nam. Nên chúng bày ra một cái bẫy là vụ
Tổng công kích năm Mậu Ngọ. Nay một số nạn nhân của vụ này cũng gặp lại nhau ở
nước ngoài. Anh em có đọc cho người viết bài Sấm Núi Sam của năm xưa:
Ngày sau củi quế gạo châu
Tiền Hồ bạc giấy, chợ đâu có vàng
Thanh Minh thời
tiết hoa tàn
Mèo kêu Tướng Nguyễn
vội vàng lìa quê
Mỹ đi rồi Mỹ lại về
Thấy chùa không Phật
não nề lệ rơi
Quỷ quái tàn bạo trị
đời
Giàu thời đói sáu,
nghèo thời đói ba
Người dân xách gói
bôn ba
Quỷ quá mang bị tràn ra
thị thành
Chân đi đôi dép thằng
cùi
Miệng như rót mật ngọt
bùi bên tai
Hà khắc độc nhất trần
ai
Trẻ già trai gái bị đày
thay trâu
Nhà giàu như cá mắc câu
Nhà nghèo đói rách buồn
rầu biết bao
Tiếng buồn kêu thấu
trời cao
Ngày sau lẫn lộn
vàng thau không còn
Ngày vô cuối tháng ba
mươi
Ngày ra vội vã bằng
mười lần vô…
Đầu năm Mậu Ngọ cơ đồ
đổi thay!
Hiện nay là những ngày tàn của Cộng sản. Bọn chúng sẽ lòi
ra trăm mưu ngàn chước yêu ma quỷ quái để gỡ gạt số phận cùn đường của chúng.
Vận mệnh của Đất Nước, của Dân Tộc rồi đây sẽ ra sao? Dân mình có cẩn thận và
khôn ngoan hơn trong Tết Mậu Ngọ 1980 không? Hiện nay, chúng tung ra những
chiêu bài đang hấp dẫn bọn nhẹ dạ non lòng: hòa giải hòa hợp, giao lưu văn hóa,
đa nguyên đa dạng... Khiến cho nhiều phần tử bị mê hoặc những cái Tết Mậu Ngọ
kiểu mới bằng nhiều hình thức khác chăng?... Kẻ hèn này đã chứng kiến từ trong
tù những thảm cảnh đau lòng của màn kịch Tết Mậu Ngọ ấy. Nơi đây xin được phép
cảnh giác đồng bào hải ngoại, các cộng đồng người Việt ở năm châu, các đảng
phái, các đoàn thể, các vị lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo, các cựu sĩ quan
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa v.v... hãy ngồi lại với nhau, đồng tâm nhứt trí
trong việc cứu dân, cứu nước. Hãy bỏ tự ái cá nhân, dẹp óc lãnh tụ, gạt sang
một bên những hiềm khích để tạo một sức mạnh đoàn kết, nhằm bàn định một phương
sách hành động tốt, có hiệu năng. Như vậy mới mong có thể cứu nguy đất nước
thoát khỏi hoàn cảnh đen tối nghiệt ngã hiện nay dưới ách thống trị tàn bạo của
bọn Việt cộng.
Hiếu Đệ
**
Họa
Sĩ
Dương
Tấn Minh
Sống với thế giới màu sắc, làm một anh chàng
họa sĩ cũng có nhiều sự thích thú riêng của ngành Mỹ Thuật. Thứ nhất là mình
hoàn thành được một bức tranh đẹp, đặt vào một cái khung tương xứng, ngồi bên
tách cà phê đậm, ngắm nghía một hồi quên cả thời gian... Đó là một niềm hạnh phúc,
một sự an ủi lớn, bù đắp lại những chuỗi ngày nghèo khó của cuộc đời làm nghệ
sĩ. Điểm thứ hai là khi anh chàng họa sĩ trưng bày triển lãm cá nhân của mình
nơi một thành phố lớn nào đó. Năm mươi tác phẩm đã được treo lên tường xong,
bật đèn sáng rực lên, đi lui đi tới xem lại một lần chót, sau một ngày vất vả
khuân vác tranh, bắc thang bắc ghế leo lên treo tranh cho đàng hoàng để ngày
mai chính mình sẽ đóng một bộ đồ lớn làm vai chính trong buổi lễ khai mạc phòng
tranh của mình. Ngày hôm đó là thành quả của cả một năm làm việc liên tục của
mình, thật vui sướng vô cùng. Do đó mà nghèo cách mấy, anh chàng nghệ sĩ cũng
cam chịu. Đúng như câu người ta thường nói: "Túi rỗng mà đầu ngẩng
cao!". Điểm thứ ba là chính trong ngày lễ khai mạc triển lãm của mình, cờ
quạt tưng bừng, thân hào nhân sĩ đủ mặt. Có nhân vật quan trọng đến đọc diễn
văn và cắt băng khai mạc. Cùng lắm là một ông Giám Đốc của Trung Tâm Văn Hóa
nào đó. Báo chí, đài phát thanh đến phỏng vấn, những lời tán dương của khán giả
và khách thưởng ngoạn trong đó có kẻ khen người chê. Lễ khai mạc nghèo lắm cũng
có chiêu đãi cocktail d'honneur hoặc champagne d'honneur nổ tưng bừng trong
tiếng vỗ tay. Có thể nói lễ khai mạc triển lãm hội họa cá nhân là một ngày cưới
thứ năm, thứ mười trong cuộc đời họa sĩ. Vậy là điểm quan trọng trong ngày lễ
khai mạc bắt buộc ông họa sĩ đó phải có mặt để tiếp đón quan khách và người
thưởng ngoạn. Có khi còn phải nghe họ bình phẩm đôi câu trước khi họ mua hay ưa
thích tấm tranh của mình. Có mấy nhân vật cầu kỳ còn yêu cầu, sau khi bế mạc
cuộc triển lãm, chính đích thân ông họa sĩ mang bức tranh đến nhà họ và nhờ ông
họa sĩ chọn một chỗ nào thích hợp nhất trong phòng khách treo lên và dùng một
bữa tiệc khoản đãi tại gia đình. Họ cho đó là một vinh dự.
Một
hôm, tôi trưng bày một bức tranh vô hình dung, chỉ có những chấm đốm màu sắc vẽ
theo lối trừu tượng. Đề tài của nó là bố cục màu. Có một anh chàng nọ người Mỹ
đến ngắm tấm tranh cả ba lần. Tôi đến hỏi về điểm nào mà anh lại thích như thế
thì anh lại vỗ vai tôi khen tụng không hết lời. Anh ta bảo là tôi vẽ chân dung
của mẹ anh giống không thể nào tưởng tượng nổi. Hơn nữa, giống đến cả nụ cười
của bà ta. Tôi bảo đó chẳng qua là do anh bắt gặp khi anh nhìn thấy. Tôi tặng
không cho anh bức tranh này đó. Anh ta cự nự:
-
Bức tranh rất giá trị trong đời anh được gặp. Ông họa sĩ không thể nào tặng
không được, nhất là tôi sẽ có lỗi với mẹ tôi. Ông họa sĩ cho phép tôi trả tiền
gấp ba lần theo giá trị của ông đã ghi dưới bức tranh.
Vợ
tôi nói riêng với tôi:
-
Em thấy anh vẽ bức tranh này rõ là một người điên rồi. Em tưởng trên đời này
chỉ có mỗi mình anh là điên thôi. Nào dè đâu có ông khách này lại điên gấp ba
lần anh nữa. Thôi anh chịu thua ông ấy đi là vừa.
Ngày
xưa có chuyện Bá Nha với Chung Tử Kỳ. Bá Nha đánh đờn ở giữa rừng. Tử Kỳ là lão
tiều phu đốn củi, khi đi ngang qua nghe được tiếng đàn đến mê mệt. Có một niềm
hạnh phúc là khúc gỗ mà ông đốn mỗi ngày sao lại trổi lên tiếng nhạc đến mê
người như thế. Từ đó hai người trở thành đôi bạn tâm đồng. Vì người thưởng
ngoạn là một nửa tâm hồn của người sáng tạo. Đến một hôm, Tử Kỳ chết đi, Bá Nha
đập vỡ cây đàn và từ đó không đàn cho người nào khác nghe nữa.
Con
người còn có một niềm khích lệ rất lớn là bạn bè. Những người am hiểu và cùng
chia xẻ những nỗi vui buồn với mình. Nghệ sĩ Hữu Phước, có một bữa nọ, anh ngồi
tâm sự với tôi nói là nửa khuya anh ta giật mình thức giấc nhìn xuống hàng ghế
trong rạp hát không thấy có bóng dáng một khán giả nào. Anh ta nghĩ đến hậu vận
của mình khi một kép hát mà không có người thưởng ngoạn thì sẽ khổ biết chừng
nào trước ánh đèn sân khấu:
-
Phải vậy hông Hiếu Đệ?
Tôi
vừa cười vừa trêu chọc anh ta:
-
Ai bảo chú mầy diễn dở, diễn dai, diễn tục chi cho khán giả tẩy chay thì phải
rán chịu, chứ còn nói gì nữa!
Người
họa sĩ cố gắng sáng tác một số tranh cũng đã vất vả lắm rồi. Bức tranh đẹp cũng
như một con người. Cứ mặc quần đùi áo cụt cho dầu là giai nhân họ cũng mất đẹp
ngay. Cho nên mỗi bức tranh phải có một
cái khuôn thích hợp với nó để trình làng hay ra mắt khán giả. May sao chuyện
đóng khuôn nhờ có A Chúng ở Phú Thọ. Chú Ba này cũng tốt bụng lắm. Chú cho các
họa sĩ mắc nợ cho đến năm sau trưng bày tranh xong, có tiền mới đến thanh toán.
A Chúng cũng là người sành điệu. Anh ta biết chọn những họa sĩ nào có tên tuổi
mới được làm con nợ của cửa hàng đóng khuôn của anh. Thông thường, anh em họa
sĩ cứ mỗi năm được triển lãm cá nhân một lần. Nơi trưng bày là Phòng Thông Tin
Đô thành, Trung Tâm Văn Hóa Pháp, Pháp Văn Đồng Minh Hội, Hội Việt Mỹ và Câu
Lạc Bộ Thanh Niên. Cá nhân họa sĩ phải gởi đơn đăng ký để giành chỗ trước từ
sáu tháng đến một năm mới đến lượt mình. Tuy vậy còn có vấn đề móc ngoặc, chạy
cửa sau và hối lộ. Chuyện này anh em văn nghệ sĩ thiệt tình như bọn tôi đành
chịu thua. Nên những mùa bán tranh thuận lợi nhất như mùa Giáng Sinh và Tết
Nguyên Đán thường giành cho họa sĩ Nguyễn Trí Minh và bà họa sĩ Nguyễn Thị Nhàn
hay Bé Ký, những họa sĩ này thuần túy sống bằng nghề bán tranh. Đối với anh em
bọn tôi làm nghệ thuật chỉ là sự vui chơi còn triển lãm cá nhân là dịp để mình
trình làng những quá trình rong chơi hay sự tiến bộ của mình. Lỡ nó thành công
về mặt nghệ thuật, đó là chuyện xảy ra ngoài ý muốn.
Năm
1963, tôi về làm việc ở Cục Tâm Lý Chiến, nơi Phòng Thiết Ấn (graphic) có chú
trung sĩ rất giỏi. Anh là họa sĩ Chí
Ngọ, người Việt gốc Hoa. Không biết anh ta học lóm ở đâu được mấy đường dao lả
lướt, diễn tả lũy tre ngọn trúc và những bụi chuối sau hè bằng sơn dầu. Nhất là
ngọn dao lướt trên những ao nước phản chiếu ánh nắng chiều trông rất tình tứ.
Chí Ngọ còn có thêm cái tài nhấn Contrebasse rất mùi mẫn theo nhạc sĩ Pablo Casa nữa. Có lần triển lãm tập thể cùng một số anh em, Chí Ngọ nói:
-
Trong lễ khai mạc phòng tranh, em bán được hai bức tranh này. Chiều nay dắt anh
em đi nhà hàng và đi nhảy đầm đến khuya. Còn năm bức tranh của trung úy Hiếu Đệ
đến bữa bế mạc cho không cũng chẳng có đứa nào thèm lấy. Ai bảo anh vẽ tào lao
làm chi?
Thật
đúng boong. Nên Chí Ngọ rất tự hào:
- Ca vọng cổ thì phải xuống xề cho đúng nhịp để
người ta còn bật đèn màu và vỗ tay chứ. Kép hát phải vì khán giả, nếu cắt đứt ý
niệm phục vụ cho khán giả, cứ hát ngang ngang như anh Đệ, chó nó cũng chẳng
thèm chịu nghe theo anh... Chỉ có chết đói như họa sĩ Van Gogh là ăn chắc.
Chí
Ngọ nắm được thị hiếu của khán giả chứ anh ta không chịu phiêu lưu đi trước khán
giả, theo kiểu:
"Tam
bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố
Như".
(Nguyễn
Du)
Chí Ngọ chơi Contrebasse cho ban nhạc
Shotgun của Nguyễn Ngọc Chánh nơi những sàn nhảy đường Tự Do. Khuya hôm đó, anh
ta đưa người đẹp về nhà, phóng xe qua đường Nguyễn Huỳnh Đức đụng phải một anh
đại úy phi công vội vã chạy trên đường Công Lý để kịp chuyến bay đêm. Cả hai
đều tan xác. Thật đúng là tài hoa bạc mệnh! Nói về tài vẽ bằng ngọn dao như Chí
Ngọ còn có họa sĩ Lê Minh, người Bắc. Anh là họa sĩ tự do, không có trường lớp
nhưng vẽ tranh rất ăn khách, chuyên môn vẽ cảnh đồng quê, nhà lá, cây mít. Năm
Mậu Thân, Lê Minh đi vẽ cảnh ở Đồng Ông Cộ bị Việt cộng giết mất, để lại chiếc
Vespa và cái giá vẽ bên bờ ruộng.
Quân
đội Mỹ và các nước đồng minh đổ quân đến Việt Nam mỗi lúc một nhiều. Cuộc chiến
Việt Nam càng lên cao... Thành phố Sài Gòn trở nên nhộn nhịp cảnh ăn chơi tưng
bừng. Việt Nam lúc này là điểm nóng cho cuộc chiến tranh toàn cầu. Dông tố
thường kéo theo những đám mây đen. Tham nhũng, buôn lậu, chợ đen chợ đỏ được
dịp lớn mạnh. Chỉ có các vùng nông thôn bị bất ổn vì là nơi của hai phe cấu xé
lẫn nhau. Sài Gòn hộp đêm và quán rượu mọc lên như nấm. Trong thời buổi này chị
Thúy Liễu, vợ của họa sĩ Huỳnh Văn Phụng, thay chồng vẽ tranh bày bán ở đường
Tự Do cũng làm giàu. Sư Đoàn Một Không Vận Hoa Kỳ đóng ở Pleiku có một số đi về
nước hay đổi đơn vị. Họ vác xe đi mua hàng trăm bức tranh cùng một lúc khiến
chị Thúy Liễu vẽ không kịp, phải thuê đám học viên ở Trường Mỹ Nghệ về vẽ đến
khuya. Đó là loại tranh bày bán lề đường cho lính Mỹ. Còn tranh trưng bày ở
phòng triển lãm dĩ nhiên là phải giá trị hơn.
Trong
đám họa sĩ bày tranh ở Sài Gòn, tất cả không ai bán tranh lại nữ họa sĩ Nguyễn
Thị Nhàn. Bà nữ họa sĩ này có thân hình đẫy đà và đẹp. Hơn nữa, bà nói tiếng Mỹ
rất chạy, tiếp khách người Mỹ rất ngon lành, bắt tay bắt chân và ôm eo ếch nữa.
Vậy là đám họa sĩ con trai chào thua hết cả lũ. Tranh của họa sĩ Nguyễn Thị
Nhàn luân lưu độc chiếm trưng bày khắp ba bốn phòng triển lãm ở đường Tự Do.
Chẳng những triển lãm tranh, bà ta còn triển lãm cả mấy bộ đồ bốc lửa hở cổ, hở
lưng, hở cả cặp đùi, bảo không đẹp làm sao được? Nghe đến việc triển lãm chung
với họa sĩ Nguyễn Thị Nhàn là anh em bị lép hết, chỉ có ngồi coi cô họa sĩ này
bán tranh cũng đủ tối mắt tối mũi kêu trời như bọng. Kiểu này mấy nhà mỹ học
phải xác định vị trí nghệ thuật lại cho rõ ràng, chớ để thiên hạ hay lầm lẫn vẻ
đẹp của bức tranh là cái đùi thì đám họa sĩ bọn này bị cho về vườn hết cả đám.
Bẵng đi một dạo, đến ngày đi học tập cải tạo về, đi lang thang trong thành phố,
gặp lại một chú đàn em là họa sĩ Dương Tấn Minh. Nó mới cho biết bà họa sĩ
Nguyễn Thị Nhàn nổi tiếng ở Sài Gòn chính là vợ của nó. Minh tốt nghiệp Trường
Cao Đẳng Mỹ Thuật đem lòng yêu cô hàng xóm. Hai người cưới nhau thành vợ thành
chồng và có hai mặt con. Có một điều kẹt cho Minh là khi tốt nghiệp xong, anh
được lịnh gọi đi Thủ Đức. Những năm chiến tranh leo cao, anh thấy bạn bè ra đi
có nhiều đứa không trở về nên anh xé bỏ lệnh gọi và sống trong bóng tối. Minh
vẽ rất nhiều tranh và giao cho vợ mang ra triển lãm ký tên nữ họa sĩ Nguyễn Thị
Nhàn. Cô ta bắt mạch thị hiếu của khách hàng và kêu chồng vẽ theo đường lối của
nàng nên làm ăn cũng khá, xây dựng được ngôi nhà nhưng Minh Còi cũng không dám
về ở. Thế mới khổ! Minh Còi đành sống
trong bóng tối. Anh ta nghĩ rằng lỡ trốn lính rồi thì trốn luôn. Nếu để cho
Quân Vụ Thị Trấn tóm được chỉ có nước bị khép vào lao công đào binh. Sĩ quan,
Minh còn sợ chết thì nói gì đến lao công chiến trường.
Người
đời thường nói: "Chơi dao có ngày đứt tay!". Đến năm 1970, nữ họa sĩ
Nguyễn Thị Nhàn chánh thức cặp với một ông đại tá người Mỹ. Ông này làm giấy tờ
bảo lãnh cho nàng và hai đứa con rời Việt Nam. Minh Còi kể chuyện anh sống
trong bóng tối, ban ngày thì vẽ tranh, ban đêm phải di chuyển chỗ ngủ như một
tên du kích Việt cộng. Nghe tiếng chó sủa là hồn vía lên mây, mà phải rán vẽ
màu sắc thật vui tươi để cho vừa lòng vợ và khách hàng. Thế mới đểu! Khán giả
chơi một bức tranh đẹp đâu biết ở đàng sau bức tranh là một bi kịch trong đó.
Tôi còn chêm vào:
-
Minh Còi à! Mày còi quá, còi như một bóng ma. Nên nữ họa sĩ Nguyển Thị Nhàn làm
sao bà ta chẳng hát bài "Nếu vắng anh, ai dìu em đi chơi trong chiều lộng
gió?". Điệu này phải nhờ ông đại tá Mỹ thôi. Đã là đàn ông, dẫu sao cũng
phải anh hùng, không được bỏ trốn. Bỏ trốn là mình bị thua nhiều thứ lắm.
Rồi
tôi tiếp:
-
Thà lên đường bảo vệ đất nước để cho người vợ tựa cửa trông chồng, có hóa đá
chăng cũng chẳng cần biết. Mình có chết mất đi cũng vẫn là người chồng anh hùng
hơn ông đại tá đó nhiều. Ai lại chịu bó tay ngồi trố con mắt ếch coi người ta
dẫn vợ con mình đi như vậy thì lép vế quá.
Sau
khi Việt cộng cưỡng chiếm Sài Gòn, Minh Còi mới xuất đầu lộ diện. Anh ta về ở
với bà mẹ ở xóm cư xá ngói đỏ đường Nguyễn Huỳnh Đức kế bên nhà ký giả Đặng Văn
Nhâm. Bà cụ có nghề làm thịt nguôi, ba tê, xúc xích bỏ mối cho mấy xe bán bánh
mì Ba Lẹ trong thành phố Sài Gòn Gia Định.
Hai mẹ con làm ăn cũng khấm khá. Hơn nữa, vào lúc cán bộ Cộng sản đang
làm giàu, họ ra mặt làm kẻ ăn chơi sành điệu, đẩy mạnh phong trào chim, hoa,
cá, kiểng và nuôi chó Berger. Những tụ điểm văn hóa cấp quận và thành phố tuần
nào cũng có tổ chức thi hoa, đá cá, đá chim. Tôi có đi dự những cuộc đá chim
cũng rất lý thú. Thoạt đầu, họ để những lồng chim họa mi ở gần nhau cho chim
hót. Loại chim hay ghét nhau do tiếng hót. Đợi đến lúc chim giận nhau đến xù
lông thì họ mở cửa lồng chim cho chúng nó tìm nhau cắn lộn. Con nào thua thì
bay đi trốn hoặc có khi ngã lăn ra giãy chết. Khán giả reo hò cổ võ. Họ đánh cá
với nhau bằng tiền, một ăn năm, ăn mười. Có nơi chỉ cho ăn thua nhau bằng đơn
vị của những cartouches thuốc lá Malboro hay ba số 5. Minh Còi lúc này lại có
thêm cái nghề đại lý bán chim họa mi các loại. Bà mẹ của Minh là người gốc ở
Cao Bắc Lạng. Loại chim quý này xuất xứ ở các tỉnh cao nguyên gần biên giới
Trung Quốc. Những bà con gởi vào Nam cho Dương Tấn Minh bán kiếm lời, mỗi con
chim trị giá lên đến nửa chỉ vàng. Người ngoại quốc cũng rất ưa thích loại chim
họa mi mà họ gọi là Rossignol de Chine. Thượng Đế như vẽ cho nó một cái vòng
màu trắng ở quanh mí mắt nên người ta gọi nó họa mi là vậy.
Bắt
đầu giai đoạn Đổi Mới, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Thái Lan chấp nhận cho một số người Việt
Nam ra đi theo chương trình ODP. Những bà con này cũng thích mang theo một số
tranh cảnh quê hương. Minh Còi khởi sự vẽ trở lại. Anh vẫn còn ký tên nữ họa sĩ
Nguyễn Thị Nhàn. Anh bảo là tranh cũ của bà ta còn bỏ lại Việt Nam lại có giá
trị hơn. Tôi và ký giả Đặng Văn Nhâm cũng có nói với anh:
-
Thôi mình cũng nên chấm dứt ngay cái tên Nguyễn Thị Nhàn luôn đi cho được việc,
bề nào người ta cũng đã có chồng yên nơi yên chỗ rồi!
Quá
khứ đã qua rồi không nên bới nó lên nữa. Mấy đứa con của Minh đã tốt nghiệp đại
học và trở thành công dân Hoa Kỳ nhưng chúng không còn liên lạc với cha nữa,
đừng nói chi đến việc làm giấy tờ để bảo lãnh. Năm 1985 Minh Còi trở nên khá
giả. Anh cưới một cô vợ mới trẻ đẹp chưa đầy ba mươi tuổi ở Hà Nội mới vào. Hai
vợ chồng ở với nhau rất hạnh phúc. Dương Tấn Minh cũng có những người thân ở
bên Mỹ. Nghe đâu luật sư Dương Tấn Trương và luật sư Tám ở New York là hai
người chú của Minh. Họ thường gởi về cho anh những thùng quà. Còn Minh thì
thỉnh thoảng cũng có gởi qua Hoa Kỳ mấy bức tranh sơn dầu. Hôm đó, có một bà
Việt kiều trở về Mỹ bị chận xét ở cảng Tân Sơn Nhứt. Công an lục trong va-ly
thấy mấy bức sơn dầu ký tên Dương Tấn Minh, có bức diễn tả bữa cơm chiều một
gia đình nông dân ngồi ăn cơm kế bên đống rơm. Bữa cơm đó chỉ vỏn vẹn mấy củ
khoai. Ông cụ già ngồi rót bát nước trà coi như chấm dứt bữa ăn hay là ông nhịn
cho lũ cháu nhỏ ăn chưa biết chừng? Họ lên án bức tranh phản động, bôi bác chế
độ xã hội chủ nghĩa. Tại sao cả nhà ngồi bên đống rơm cao ngút lại chỉ ăn võn
vẹn có mấy củ khoai. Cơm gạo để đâu? Không lẽ lại bị cán bộ đảng viên vơ vét
hết sao? Như vậy là gián tiếp lên án đảng và nhà nước Cộng sản Việt Nam gian ác
hơn cả bọn địa chủ phong kiến? Bà Việt kiều bị ách lại chuyến bay và đưa về
Phòng Công An thẩm vấn. Bọn công an hợp với Phòng Quản Lý Mỹ Thuật. Lúc bây giờ
Lê Vinh không còn làm Giám đốc nữa. Tên này được thay thế bởi Đoàn Thi, họa sĩ
đàn em học sau Dương Tấn Minh ba bốn khóa. Họ kéo nhau đến nhà Dương Tấn Minh
thấy có một đống tranh vẽ nội dung thống khổ như vậy, bảo là tên Minh này phản
động.
Chuyện
khó khăn của đất nước chỉ là tạm thời thôi chứ xã hội chủ nghĩa sau này sẽ tốt
đẹp. Hơn nữa đã đến năm 1985 rồi mà tên Minh còn vẽ cảnh tăm tối như vậy, tỏ ra
nó rất ngoan cố không thể cải tạo được. Theo chỗ chúng tôi được biết, số tranh
nằm dưới gầm giường của Minh do bọn công an vừa lôi ra là những bức tranh Minh
vẽ trong thời kỳ trốn lính. Sống trong bóng tối lúc nào anh cũng thấy cảnh bi
quan chết chóc kiểu phản chiến như trong Ca Khúc Da Vàng của Trịnh Công Sơn.
Loại tranh này là những tiếng thét tố cáo sự bất công để vùng lên xóa bỏ nô lệ
trong giai đoạn màu xanh lam của Picasso năm 1920. Bọn cán bộ ngu dốt lại nói
là anh vẽ tranh mới. Tất cả đều cứng họng không thể cãi được. Tại sao họ lại
không thấy lớp vải bố bị vàng cũ đến gần hai mươi năm, lớp sơn dầu trên mặt có
chỗ bị ẩm đóng mốc trổ meo xanh. Kể cả bức tranh bữa cơm chiều bị ách lại ở phi
trường Tân Sơn Nhứt cũng là một bức tranh cũ vẽ thời Việt Nam Cộng Hòa những
năm xuống đường bài trừ tham nhũng. Thật ra bức tranh bữa cơm chiều Dương Tấn
Minh vẽ để lên án chế độ Việt Nam Cộng Hòa chứ
không phải vẽ thời Việt cộng. Chỉ có thế mà Minh Còi bị đưa đi tù cải
tạo đến bốn năm. Những bức tranh đó đã từng được trưng bày ở Phòng Thông Tin và
trụ sở Văn Hóa Pháp, đã từng được ký tên nữ họa sĩ Nguyễn Thị Nhàn, người vợ cũ
của Dương Tấn Minh đã cuốn gói theo anh chồng người Mỹ.
Thật
tình mà nói, phụ nữ Việt Nam ai cũng là người mẹ hiền vợ tốt cả. Chỉ hư hại một
điều tại người chồng tính sai mà thôi. Trường hợp Minh Còi là lỗi tại mình. Anh
đẩy cô vợ xuống đường câu cơm để cho mình được yên thân trốn lính và phản chiến
trong bóng tối mới xảy ra hiện tượng bà họa sĩ Nguyễn Thị Nhàn và bức tranh bữa
cơm chiều. Con người bình thường tự nhiên bị vong thân phóng thể, bị lôi cuốn
theo cuộc chiến và dòng đời theo chuỗi ngày bi thảm của đất nước. Tất cả thật
đáng thương! Đáng thương cho thân phận con người, hơn là đổ tội cho nhau.
Hiếu Đệ
**
Con Chuột Cần Thơ
Những năm đi dạy học ở Cần Thơ, tôi thường theo mấy em học
sinh rủ về quê hưởng cái thú đốt đồng. Có nghĩa là sau mùa gặt hái xong, người
ta đốt ruộng để lấy phân tro. Trong khi đốt đồng, người ta đặt lưới đuổi chim,
đuổi chuột rất vui. Con chuột lông vàng vào tháng đốt đồng trông có vẻ béo tốt
hơn mọi ngày. Nó trở thành một món nai đồng quê hay cầy tơ ở Sài Gòn. Vào mùa
này, những ai đi qua cầu bắc Mỹ Thuận mà quên mua về thành phố một xâu chuột
Cần Thơ thì quả là một sự thiếu sót, nhứt là đối với bợm nhậu. Trong buổi đốt
đồng reo hò theo ngọn lửa để đuổi chim, đuổi chuột, có lúc chúng tôi cũng
thường bị rắn hổ và con chuột cống nhum thứ lớn tấn công trở lại mình. Do đó
phải có cái cây có chán hai để đè cổ con rắn. Con cống nhum thường ở dưới hang
với cả chục con chuột cái nên nó phải nổi máu anh hùng trước cả chục người đẹp,
đóng vai anh hùng cứu mỹ nhân. Hơn nữa, nó lớn gấp ba lần con chuột đồng. Người
ta nói ở đường Thoại Ngọc Hầu nổi tiếng với món cháy cạnh nhưng thật ra chuột
đồng ướp nướng và rắn hổ cháy cạnh còn ngon hơn nhiều. Nhưng các món này chỉ
xuất hiện có vài tháng vào mùa đốt đồng thôi, còn quanh năm làm gì có. Khi hết
mùa này, chúng tôi quay sang giở chà và câu cá, câu tôm. Nhưng đùng một cái có
em học sinh chạy vào trường cho tôi hay trò Khải bị Bảo An bắn chết đêm qua vì
đang đêm nó làm du kích Việt cộng. Hôm sau thì trò Lộc bỏ đi chiến khu. Ở xóm
Cái Răng - Cái Tắc, người ta rải truyền đơn và phát động bản Cương lĩnh thành
lập Mặt trận Giải phóng miền Nam. Đúng là:
"Đời hết vui
khi chưa vẹn câu thề,
Tình chỉ
đẹp khi còn dang dở".
Tôi về trường lại nhận sự vụ lịnh bị đổi đi Huế. Nghe
người ta bảo là tôi bị cái tội chơi với Việt cộng nên bị đày một ngàn cây số.
Nhưng Tái Ông mất mã đi Huế ra dạy ở trường Đồng Khánh, chưa nằm ngủ cũng đã
thấy được giấc mơ đẹp rồi. Các em Đồng Khánh lửng thửng đi về trên đường Cổ
Ngư, hai hàng cây long não thắp nến trên vai gầy giữa buổi chiều nắng quái vàng
rực lên. Cậu Cẩn dù có dữ cách mấy, tôi nhịn cậu ta một chút cũng chẳng sao.
Trở lại mối duyên với con chuột vàng, một lần sau cùng, tôi gặp lại con chuột
này trên rừng Trường Sơn ở trại cải tạo Phước Long, rừng Bù Gia Mập. Con chuột
Trường Sơn lớn gấp ba lần con chuột vàng ở Cần Thơ. Lông nó óng ánh như con
nai, con mển và mắt nó to và sáng hở. Tôi thấy nó chạy có bầy. Cộng sản khai
thác lý thuyết của Báp Lốp, dùng thực phẩm để tiêu diệt quân thù. Ở đô thị,
chúng phát động chánh sách ngăn sông cắt chợ để trị dân, bắt phải độn cao lương
củ mì. Tù cải tạo dĩ nhiên phải bị bỏ đói. Quanh năm, chúng tôi không thấy mặt
miếng thịt heo là gì. Do đó, chúng tôi làm chừng chục cái bẫy sập cũng có chim,
có chuột ăn mệt nghỉ. Chỉ chịu khó thay phiên nhau xách đèn đi quanh rẫy bắp,
rẫy lúa để giải tỏa mấy cái bẫy cho con khác chui vào. Thật sướng như đàn bà đi
chợ, khiến bọn vệ binh và cán bộ cũng phải bắt chước làm theo. Thì ra mình lại
cải tạo bọn Cộng sản.
Ông Trời thật bất công, đã sanh con chuột lại còn sanh
thêm cái đuôi. Người ta dùng cái đuôi lôi nó lên bếp lửa để thui lông. Khi cháy
hết lông chuột rồi, chúng tôi cắt bỏ bốn cái chân, dùng dao rạch một đường từ
cổ xuống rún, như kéo đường dây "fermeture". Cắt miếng da ngoài sau
ót rồi lột bộ áo da của nó như người ta lột bộ áo của anh chàng hiệp sĩ Batman
trong phim ảnh. Người sành điệu làm thịt chuột thường cắt bỏ bốn cái hạch ở
trong nách, nơi bốn cái chân con chuột. Mổ bụng rửa sạch sẽ rồi ướp hành, tiêu,
tỏi, ớt... đem nướng lên thơm phức. Đi làm lao động về nghe cái mùi thịt ướp
nướng với khói bốc lên thơm ngát khiến có đứa lại thèm một xị đế. Nhưng ở giữa
rừng bát ngát mênh mông như thế này làm gì kiếm ra một xị rượu đế. Thế mà một
ngày chúa nhựt hôm nọ, anh chàng Thuận lại xách về trại đến cả một lít. Hỏi ra
mới biết anh ta cởi chiếc áo montagu đem vào sóc Thượng đổi lấy lít rượu đem về
chiêu đãi cho cả đại đội, khiến mỗi đứa chỉ được không đầy nửa cái xây chừng.
Có đứa cười lăn ra nói:
- Cũng có hơn bốn năm rồi mới nhắp được ngụm rượu thật
thần tiên vô cùng. Lý Bạch xưa kia đâu được thưởng thức mùi rượu đế như thế
này. Vì ổng uống nhiều quá, vả lại uống say rồi đâu có thấy rượu quí như vàng.
Vừa uống vừa thèm kiểu này mới thấy rõ rượu ngon với lại bạn hiền.
Đến một hôm nọ có đợt thăm nuôi, vợ của anh chàng Thuận
mới hỏi chồng:
- Anh à! Em đi ngoài bìa rừng thấy một đoàn người Thượng,
sao có anh chàng Thượng già mặc cái áo montagu màu tím giống cái áo kỷ niệm quà
sinh nhựt em tặng cho anh ngày anh về phép năm xưa. Cả phố Nguyễn Huệ em lựa
được có mỗi cái áo đó là vừa ý thôi?
Biết không thể nào giấu vợ được, Thuận đành phải khai đầu
đuôi sự thật là anh đã đổi lấy lít rượu rồi:
- Ở tù bởi Việt cộng thì còn biết ngày nào ra. Nay đổi
trại này, mai đổi trại khác, anh em đồng cảnh đâu biết ngày nào gặp lại nhau.
Chúng anh vui với nhau được bữa nào hay bữa nấy. Lít rượu đó là một kỷ niệm để
đời. Có thương bọn anh thì xin em đừng buồn...
Ngừng một vài giây, chàng ta nói tiếp như để thuyết phục
vợ:
- Không có gì đẹp bằng tình đồng đội trong đời lính cũng
như trong đời của người cải tạo.
Lũ chuột ở rừng Trường Sơn dường như chỉ có một đợt trong
vòng một hai tháng thôi, nhứt là vào tháng tư tháng năm, trời bắt đầu mưa. Có
lẽ loại chuột nầy ăn cỏ non hay rễ cây như
thỏ. Đội tôi chỉ có năm cái bẫy sập thôi mà thực phẩm có hoài, ăn không
hết, có khi đem biếu cho những đội bạn. Đang đêm chỉ cần giải tỏa mấy cái bẫy để
con khác có chỗ mà chui vào thôi. Món chuột cũng khá phong phú. Khi thì ướp
nướng, khi thì kho xã ớt, khi thì xào lăn... Thường thì anh em chúng tôi cắt bỏ
dái của con chuột đực. Lão già Xuân ra cái điều rành đông y lại đi nhặt nhạnh
cái món nầy. Lão nói:
- Con dê là ông thầy, dái của con dê kêu bằng ngọc dương.
Con chuột cũng là bậc thầy không kém con dê. Nơi một hang chuột đực, người ta
bắt được hai ba chục con chuột cái. Món ngọc dương của con chuột là đại bổ.
Ngâm rượu thì ông uống bà khen, đúng là cường dương đại bổ.
Mà bị nhốt trong trại cải tạo ở Bù Gia Mập - Bù Đăng - Bù
Đốp này không có bóng dáng phụ nữ thì bà ở đâu mà khen. Chỉ có mấy thằng cán bộ
chuyên môn xách hạch anh em chưởi lên chưởi xuống... thôi chán bỏ xừ.
Dũng và Sơn trốn trại vượt biên giới sang Campuchia gặp
quân Pôn Pốt bắt, chuẩn bị báo cáo cấp trên, rồi đem ra giết. Thấy ngán quá,
hai đứa khiếp vía lại trốn trại một lần nữa, quay ngược trở lộn về xin đầu thú.
Cả hai bị biệt giam vào Connex và bị bỏ đói. Anh em lén lút tiếp tế cho hai
đứa. Đến khi thả về, chúng nó cười bảo là nhờ chuột Trường Sơn nuôi chúng nó.
Dũng kể lại đời sống trong hàng ngủ Cộng sản Pôn Pốt còn khiếp vía hơn nữa.
Lính tráng không một ai được nấu bếp riêng, không một ai được tăng gia riêng,
nếu sơ sẩy là bị khép vào tội phản động và bị giết ngay. Dĩ nhiên là không ai
được làm bẫy chuột để kiếm thêm lương thực kiểu tụi này. Dũng và Sơn bị bắt ở
Tam Biên nơi một đồn biên giới được hơn một tuần. Thừa lúc chúng kéo nhau đi ăn
Tết tháng tư và liên hoan ngày lễ lớn, chỉ để lại một tên coi trại, Dũng giựt
súng và chạy trốn. Về đến trại, anh ta vất súng, cởi bỏ bộ đồ bà ba đen của
lính Miên và xin đầu thú, chịu tù trở lại với Cộng sản Việt Nam.
Chúng tôi
thường gặp nhau ở chợ Sài Gòn và nhứt là công viên Thống Nhứt (nay được mang
tên là đường Lê Duẩn) ở trước mặt sở Ngoại vụ. Nơi đây thường được coi là Câu
Lạc Bộ Xuất Cảnh. Anh em diện H.O. thường tùng tam tụ ngũ tán láo ở đây chờ
ngày ra đi. Tôi và Dũng kéo nhau lên quán Nai Đồng Quê ở đường Thoại Ngọc Hầu
ôn lại những kỷ niệm xưa. Dũng nói:
-
Bây giờ thì không có nhậu thịt chó thịt chuột gì nữa cả. Nhậu tức là mình ủy
lạo, mình vui mừng về cái thân xác của mình còn lại. Mình không đãi nó cái món
thật quí thật sang thì chớ, nhất định tớ không ăn ba cái vớ vẩn này nữa. Chỉ
tội nghiệp cho cái thân xác của mình!
Hiếu Đệ
**
Họa
Sĩ Lê
Chánh
Tôi đang ngồi uống rượu ở nhà họa sĩ Lê Thanh, chợt thấy con gái của hắn
bỏ học ngoe ngoẩy ôm cặp về nhà. Vẻ mặt đứa bé còn có vẻ chưa nguôi giận dữ.
Đám bạn ngồi trong bàn rượu ngạc nhiên trố mắt nhìn. Mọi người ai nấy còn chưa
biết chuyện gì xảy ra. Cha nó đến hỏi đứa con gái đầu đuôi câu chuyện. Con bé
vừa khóc vừa nói, trong giờ học sử, ông giáo chửi ông cố nội của nó là tên Việt
gian bán nước. Thầy giáo có nói là tên Lê Hoan đã dẫn thực dân Pháp vào mật khu
giết chết Hoàng Hoa Thám, một chiến sĩ yêu nước được phong cho danh hiệu là con
Hùm Xám Yên Thế. Con bé đứng dậy chửi thẳng vào mặt ông thầy rồi ôm tập bỏ đi
thẳng về nhà. Chẳng bao lâu sau, có lũ công an kéo lại nhà hạch tội con bé,
rằng con bé còn nhỏ mà dám chống lại nhà nước, chửi thầy và xé bỏ quyển sử do Bộ
Giáo Dục ban hành những vấn đề có liên quan đến đảng và nhà nước, dám chống lại
chương trình giáo khoa đã được ban hành bấy lâu nay.
Đám
bạn bè nơi bàn rượu thấy nội vụ mỗi lúc một căn thẳng làm bữa tiệc mất vui,
cũng lo lắng cho gia đình của họa sĩ Lê Thanh. Cuối cùng, lão Lê Yến là bố của
Lê Thanh đang nằm trên giường phải ngồi dậy xỏ dép ra xem đầu đuôi câu
chuyện. Ông Lê Yến xác nhận trước đám
công an rằng ông Lê Hoan là ông cố nội của đứa bé này thật. Ông còn chỉ tấm ảnh
đang treo trên bàn thờ ở giữa nhà chính là hình của ông Đốc phủ sứ Lê Hoan,
ngực đeo đầy huy chương của thực dân Pháp. Chẳng những thế, ông Lê Yến còn công
bố ông Lê Hoan là cha của Tổng bí thư Lê Duẩn. Và Tổng bí thư Lê Duẩn với ông
Lê Yến là anh em cùng cha khác mẹ. Cuốn sử được Bộ Giáo Dục ấn hành trước thời
ông Lê Duẩn lên làm Tổng bí thư lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam, có nghĩa là
cuốn sách phát hành làm tài liệu giáo khoa cho nhà trường hồi đời bác Hồ của họ
còn sống. Hơn nữa, ngài Lê Duẩn đa đoan công việc nên ông ta không để ý đến
việc cho sửa lại cuốn sử và chương trình dạy sử. Hay ông Tổng bí thư biết mà lơ
đi không chừng?
Vào
khoảng năm 1979, họa sĩ Lê Phổ và Lê Bá Đảng ở Paris về thăm quê hương. Mấy vị
này được ông Tổng bí thư biệt phái cho một chiếc trực thăng để đến thăm làng
Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, nơi chôn nhao cắt rún của cánh họ Lê. Đám này còn
cho thêm ý kiến rằng đất đai ở làng Triệu Phong đang vượng nên con cháu của
Tổng đốc Lê Hoan có người làm vua. Họ đề nghị với ông Tổng bí thư nên xây dựng
lại tỉnh Quảng Trị và nhứt là dựng lăng miếu đền đài thật lớn ở xã Triệu Phong,
nhưng ông Tổng bí thư không đồng ý. Ông ta nói:
-
Bộ tụi mày muốn tao bị dân chửi sao chớ! Quảng Trị đổ nát thì cứ để nguyên như
vậy. Cũng như Nhật Bản, họ có xây lại thành phố Hirosima làm chi, cứ để vậy tố
cáo tội ác của Mỹ có phải sướng hơn không?
Ngày
xưa, Tổng đốc Lê Hoan thê thiếp đầy nhà, đông vô số kể. Ông ta còn cưỡm luôn vợ
của bọn đàn em dưới tay mình. Con cái của ông mỗi đứa đều có kẻ hầu hạ. Đám con
vợ cả đều đi học bên Pháp. Ông Lê Yến, bố của Lê Thanh có ruộng cò bay thẳng
cánh và có rạp chiếu bóng ở Long Xuyên, tiền của như núi. Lê Duẩn là con của bà
bé nên không được ưu đãi như mấy cậu ấm kia. Lê Duẩn tức giận đi làm gian nhân
hiệp đảng. Tôi hỏi bác Lê Yến, ngày xưa Tổng đốc Lê Hoan chắc bảnh trai lắm?
Ông ta bảo:
-
Cứ trông họa sĩ Lê Chánh thì biết.
Lê
Chánh giống ông nội nó nhất. Cũng bộ râu quai nón, cũng giọng cười hề hề, vợ
lớn vợ bé cả một tiểu đội. Lê Chánh nổi tiếng là một họa sĩ đào hoa, nay ở với
vợ lớn, mai ở với vợ bé, không biết ở đâu mà kiếm cho ra nó. Hồi tôi với họa sĩ
Văn Đen ra Huế để tổ chức cuộc thi tốt nghiệp ở trường Mỹ Thuật, nghe nói đơn
vị của Lê Chánh vừa đóng quân ở Trường Mỹ Thuật vừa đóng chốt ở cửa Thượng Tứ.
Chánh làm đại úy Tâm Lý Chiến. Người gác dan Trường Vẽ có nói với tôi lúc đó Lê
Chánh lấy bộ bách khoa tự điển ra làm bàn ngồi cầu tiêu cho lính. Nó uống rượu
ở đây còn bỏ lại một đống vỏ chai ngùn ngụt. Nay tướng Bùi Thế Lân đã kéo nó ra
Quảng Trị đóng ở bờ sông Thạch Hãn. Những ngày sau cùng nghe đâu Lê Chánh rút
về Đà Nẵng để di tản vào Nam, nhưng trong lúc tháo chạy Lê Chánh bị Việt cộng
bắt làm tù binh. Theo lời Chánh nói, tù binh lúc đó bị nhốt tập trung chỉ có
vài tháng thì được thả. Có đứa phải đi trình diện cải tạo sau đó. Nhưng riêng
Lê Chánh thì lọt sổ... Tôi đoán chừng người ta phát giác ra lý lịch của Lê
Chánh là cháu gọi Lê Duẩn bằng chú ruột nên nó được tha và về làm cho Sở Ngoại
Thương thành phố.
Hồi
xưa người ta có đồn đãi việc bà Ngô Đình Nhu với họa sĩ Lê Phổ bên Pháp. Thật
ra phía vợ của ông Lê Hoan là cánh họ Trần, thành ra bà Trần Lệ Xuân coi như là
vai em của Lê Phổ. Họa sĩ Lê Phổ năm ấy đã 85 tuổi rồi, bà vợ người Pháp không
muốn ông ta nói tiếng Việt nữa. Người ta nói gia đình dòng họ Lê Hoan có công
với đất nước hay phá tan đất nước cũng chưa biết chừng. Lê Duẩn chủ trương thừa
thắng xông lên xâm chiếm miền Nam, xé bỏ hiệp định Ba Lê. Năm 1979 tiến chiếm
Campuchia và mở rộng chiến tranh khiến mấy chục ngàn thanh niên Việt Nam đã hy
sinh trên chiến trường xứ Chùa Tháp. Năm mươi ngàn thương phế binh, ngân sách
tiêu hao vì chiến tranh khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải chịu một gánh nặng
sau này.
Tôi
còn nhớ gia đình tôi có một chiếc xe đò phải vào hợp tác xã Thống Nhứt chạy
đường Sài Gòn - Mỹ Tho được nhà nước mời lên học tập về kế hoạch của Liên Xô là
sau khi đánh chiếm Campuchia, họ sẽ thừa thắng xông lên truy kích Khờ Me đỏ,
đánh thẳng vào Thái Lan trong lúc nước này chưa được chuẩn bị chu đáo về quân
sự, chưa kịp phòng thủ về mặt biên giới. Một khi Thái Lan đã bị chiếm cứ, bộ
đội Việt Nam có thể tiến thẳng đến biên giới Miến Điện luôn. Khi Cộng sản Việt Nam làm chủ tình hình ở
phía Đông Nam châu Á, Liên Xô làm chủ tình hình biên giới phía Bắc Trung Hoa,
thì Trung Quốc cũng như cá nằm trên thớt. Hồng quân Nga từ phía trên đánh
xuống, họ có thể chiếm Trung Quốc dễ như chơi. Hợp tác xã xe khách miền Tây
phải ở trong thế chuẩn bị để chuyển quân tiến về hướng Tây và sẵn sàng tiếp thu
của cải của những nước này đem về. Đúng là chưa giàu đã lo ăn cướp. Bất ngờ
Đặng Tiểu Bình sau khi sang thăm Mỹ Quốc trở về, cho đổ quân qua sáu tỉnh giáp
biên giới Hoa Việt, giáng cho Cộng sản Việt Nam một bài học. Bọn đầu sỏ Cộng
sản ở Hà Nội hoảng hốt thiếu điều muốn dời đô vào Đà Lạt. Mũi nhọn của lữ đoàn
thép đang chiếm cứ Campuchia phải vội vàng rút về cố thủ miền Bắc. Giấc mộng
thừa thắng xông lên của Lê Duẩn tan tành như mây khói. Trong thời chiến tranh
nhiễu nhương, Lê Duẩn và đám chân tay thuộc hạ đua nhau vơ vét của cải làm
giàu.
Hội
Ái Hữu Quảng Trị ở Pháp, cánh họ Lê có đề nghị xây dựng lại tỉnh Quảng Trị, xây
lăng tẩm từ đường giòng họ Lê, nhưng Tổng bí thư Lê Duẩn cố tình lờ đi vì hắn
ngại ló đuôi chồn là con của Tổng đốc Lê Hoan. Bộ Chính trị chủ trương xây lăng
cho Hồ Chí Minh để xúm nhau dựa lưng ăn có. Trong khi di chúc của già Hồ là
mong xác được hỏa thiêu, đem tro cốt về quê mẹ ở làng Sen tỉnh Nghệ An. Sinh
thời, Lê Duẩn như một hoàng đế không bằng. Dài dài từ Bắc vào Nam đi đến đâu
cũng có gái đẹp dâng lên cho thượng cấp hưởng thụ. Mấy mụ vợ thi nhau làm giàu
no nứt trứng. Hắn còn muốn vớ luôn cả cô đào nổi tiếng Thanh Nga mặc dầu cô này
đã có chồng con đàng hoàng. Người ta nói bà Ba Thi, vợ lẻ của Lê Duẩn nắm độc
quyền xuất cảng gạo trong thời đại toàn dân ăn độn.
Họa
sĩ Lê Chánh không bị đi cải tạo. Chánh cũng làm vua một cõi trong khi đám họa
sĩ khác đều phải đi học tập cải tạo. Riêng Lê Thanh thì kẹt trong trại đến mấy
năm, vợ bỏ đi lấy chồng khác, để lại đứa con gái. Lúc Thanh về thì bé được mười
tuổi, ở với ông nội là Lê Yến. Nhờ bữa nhậu ở nhà Lê Thanh, tôi mới được biết
thâm cung bí sử của Tổng bí thư Lê Duẩn. Trong bàn rượu hôm ấy còn có Nguyễn
Phi Hùng, một nhà thầu xây cất. Thường thì đám nhà thầu hay nhập bọn với anh em
kiến trúc sư và họa sĩ, bởi vì lúc đó đô thị ngoài mặt có vẻ đang phát triển,
chúng tôi phải làm ăn với nhau như trang trí nhà hát, siêu thị và hội trường
v.v...
Nguyễn
Phi Hùng bảo ở nhà anh còn có chai Martell cổ lùn, rủ mọi người kéo nhau về dứt
điểm. Đến nơi, tôi mới biết ông Nguyễn Phi Hoanh là bố của anh Hùng. Ông ta là
người Bến Tre tập kết ra Bắc, tác giả bộ Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam. Quyển sách
được in bằng mấy thứ tiếng, trong đó có tiếng Liên Xô, in màu rất đẹp. Có điều
khi đề cập đến phần mỹ thuật miền Nam, ông ta chửi Hiếu Đệ như tát nước. Ông cụ
dựa vào bài của Nguyễn Ngu Ý phỏng vấn Hiếu Đệ đăng trên tạp chí Bách Khoa ngày
15.01.1961, trong đó tôi nói: "Khách thưởng ngoạn đi vào xem tranh không
phải như đi shopping mà là đi vào một mê đồ. Người xem cũng nên chuẩn bị một ít
tình cảm để ngắm nhìn mới dễ bề cảm thông với người vẽ. Tôi vẽ con người bị méo
mó là vì cuộc đời làm cho nó phải vong thân hủy thể. Tự nhiên con người biến
thành món hàng, thành quả bom, quả lựu đạn hay một đống sắt vụn như bức tranh
lập thể, chứ không phải con người mơ màng trong bức tranh lãng mạn".
Chính
vì câu phát biểu này khiến ông Nguyễn Phi Hoanh đập cho tôi vài trang sách. Hôm
nay ông tình cờ gặp tôi, tuy ông không uống rượu với bọn trẻ nhưng cũng xỏ dép
ra ngồi hỏi tội. Tôi nói với ông ta là tôi không phải là văn nghệ sĩ miền Bắc,
tôi không làm nghệ thuật theo đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi đã xách
khăn gói quả mướp đi cải tạo để trả nợ năm năm rồi. Bây giờ tôi làm người dân
lương thiện kiếm lấy ngày hai bữa cơm, còn chuyện văn hóa văn nghệ xin để lại
cho quý vị. Tụi này xin "rửa tay gác kiếm", không có mặt trong chốn
võ lâm. Tôi nói vậy coi như là mình đã xin lỗi, thế mà ông ta vẫn không chịu.
Ông nói tôi phủ nhận tác phẩm của ông, coi như cuốn Lịch Sử Mỹ Thuật Việt Nam
là thứ lỗi thời mặc dù nhà nước đã tái bản đến cả chục lần. Uống rượu là điều
không thuận lợi, lại đi cãi lý với một đảng viên trung kiên như ông Nguyễn Phi
Hoanh thì chỉ có từ chết tới bị thương thôi. Tôi bèn vận dụng chiêu pháp Lăng
Ba Vi Bộ của Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm cho chắc ăn.
Ông
Nguyễn Phi Hoanh xưa học ở trường Mỹ Thuật Paris, vẽ kiểu ánh sáng mờ của tranh
cổ điển. Ông là một thứ phong kiến cộng với tinh thần cộng sản nhà quê, hết
thuốc chữa. Nguyễn Phi Hùng nói gặp ông già kiểu này thì mình chỉ có cách chạy
đi lánh nạn nơi khác thôi. Lê Minh Chánh và Trang Thế Hy cũng thường căn dặn
tôi: "Tụi mình chơi với nhau thì
nói sao cũng được, chứ đừng có chơi chửi đảng Cộng sản và chủ nghĩa của họ, cứ
coi như đó là cái bàn thờ tổ của người ta. Chú mầy chửi đảng, tao nghe mà không
báo cáo, lỡ có thằng bảo tao đồng lõa với mầy thì khổ cả tao. Mà đi tố mày ở tù
thì cũng khổ tâm cho tao quá. Tốt hơn hết là mình hãy bỏ cái chuyện đó đi, đừng
thèm đá động tới có phải là vui hơn không. Tụi mình chỉ uống rượu và kể chuyện
tiếu lâm cũng đủ vui".
Họa
sĩ Lê Chánh học cùng lớp với Hà Mộng Hải. Nhưng ra ngoài đời nó gặp toàn số đỏ.
Nhất là sau này Lê Chánh làm họa sĩ chính thức cho Sở Ngoại Thương Thành phố,
một mình một cõi làm ăn phát tài. Chẳng những thế, anh ta còn làm tài tử điện
ảnh cho mấy hãng phim thành phố nữa. Lê Chánh bắt đầu nổi trong vai tướng cướp
Nguyễn Văn Bời trong phim Ván Bài Lật Ngửa, kịch bản của Trần Bạch Đằng. Dần
dần anh ta được đưa lên đóng vai chính trong phim Ngọn Cỏ Gió Đùa, giữ vai
Nguyễn Văn Đó. Đến phim Công Tử Bạc Liêu, anh đóng vai người cha của Georges
Phước thì thấy Chánh già hẳn đi. Hôm tháng 9, có người từ Việt Nam qua Mỹ, tôi
có hỏi thăm về Lê Chánh, được biết bây giờ anh ta đang đau gần chết, nằm liệt
một chỗ. Hội Mỹ Thuật Thành phố kêu gọi anh em quyên góp để giúp đỡ Lê Chánh.
Ông
trời sanh con người không phải để bắt chết yểu. Có lẽ tại Lê Chánh từng sống
quyết liệt quá chăng? Như cái xe hơi lúc
nào mình cũng chạy xã láng hết tốc lực thì sớm có ngày cũng phải kéo vào nghĩa
địa xe hơi cho nó thành một đống sắt vụn thôi.
Hiếu Đệ
**
Thầy Tôi
Ngày tôi chuẩn bị thi vào trường vẽ thì ở bên ngoài người
ta đã cổ động bài hát:
"Xếp
bút nghiên lên đường tranh đấu
Xếp
bút nghiên coi thường công danh
Như
phù vân sơn hà nguy biến.
Tiến!...
Ta tiến!...
Một
lòng yêu non sông, vì dân ta liều thân
Kết
đoàn ta tiến tới. Nước non như chào mời
Thẹn
thay đời nhàn cư, thẹn thay đời yêu đương".
(Lưu
Hữu Phước)
Vào đến Trường Vẽ, tôi nghe đâu đây họa sĩ Nguyễn Văn
Sáng vừa bị ám sát ở ngả ba Cầu Cống, nơi đường lên chợ Cây Quéo. Vì anh vẽ
tranh biếm họa bôi xấu Hồ Chí Minh. Thầy Nguyễn Văn Anh đang dạy ở trường, vừa
bị Việt Minh gởi thơ hăm dọa đến tính mạng. Vì vậy thầy làm đơn xin chính phủ
cho đi tu nghiệp ở Pháp. Anh Huỳnh Phương Đông chỉ mới mười sáu tuổi thôi đã
bắn chết ông xã trưởng xã Bình Hòa rồi bỏ lên An Phú Đông ra chiến khu luôn.
Thầy Nguyễn Văn Anh đi Paris vào năm 1948. Tôi ngồi đọc lại mấy bức thư cũ của
Thầy viết cho tôi trong những năm tôi vừa đến Mỹ. Thầy rất cảm động, nhất là
năm 1951 khi Thầy trở về nước. Có một nhóm học trò trong đó có cả tôi kéo nhau
ra phi trường Tân Sơn Nhứt đón Thầy. Có cả biểu ngữ và cờ vàng ba sọc đỏ với
câu khẩu hiệu: "Hoan hô Thầy Nguyễn Văn Anh trở về Trường Vẽ Gia
Định". Thầy viết:
- Tình nghĩa
thầy trò lúc đó đẹp làm sao... Ở bên Pháp chẳng làm sao có được cảnh này...
Thầy trở về dạy anh em chúng tôi vào năm Đệ Nhị. Dáng vóc
của Thầy lúc đó rất là nghệ sĩ giống như những họa sĩ ở xóm Montparnas ở Paris.
Tôi có vẻ lớn hơn hết giữa các bạn cùng lớp. Vì tôi lấy khai sanh của đứa em
tôi để vào trường. Trong giấy khai sanh xuống đến ba, bốn tuổi nên tôi được anh
em bầu làm trưởng lớp. Ở vào thời kỳ này, trường Mỹ Thuật Đông Dương ở ngoài
Bắc không còn nữa. Các giáo sư người Pháp đã rút về nước. Còn trường dọn lên
chiến khu Việt Bắc do họa sĩ Tô Ngọc Vân làm giám đốc. Trong thời gian đó Việt
Minh phát động nêu cao khẩu hiệu: "Kháng chiến hóa Văn Hóa và Văn Hóa hóa
Kháng chiến". Họ cổ động máu lửa chiến tranh. Hồ Chí Minh hô hào:
"Nay ở trong thơ phải có thép, làm người nghệ sĩ phải biết xung
phong". Họ chuyên làm công tác tuyên truyền. Chỉ có Trường Vẽ Gia Định,
nơi chúng tôi đang học là đứng ngoài cuộc chiến và phục vụ sự phát triển kinh
tế của Hòn Ngọc Viễn Đông.
Thầy Anh lúc đó mới về lại Trường Vẽ nên ý tưởng của Thầy
rất hăng hái đối với học trò. Cùng song song với sự phát triển kinh tế ở Miền
Nam, phong trào Mỹ thuật cũng phát triển không kém. Các nghệ sĩ ở Sài Gòn thay
phiên nhau trưng bày các tác phẩm liên tục. Họ dùng các trụ sở Văn hóa như Hội
Việt Mỹ, Hội Văn Hóa Pháp Việt, phòng Thông Tin Đô Thành, Nhà Hát Thành phố để
triển lãm và trưng bày. Mấy giáo sư ở Trường Vẽ cũng đứng ra thành lập một
nhóm, trong đó có các thầy Nguyễn Văn Long, Nguyễn Văn Anh và thầy Lưu Đình
Khải. Các thầy lấy tên chung là LAK. Mấy thầy tự bỏ tiền túi dựng nên những
xưởng vẽ như xưởng sơn mài, sơn dầu, xưởng tranh lụa, xưởng làm mộc v.v... Có
mời cha con ông Năm Hý, thợ sơn mài ở Bình Dương xuống để làm dáng vóc và đánh
sơn. Có lẽ mấy thầy thấy tôi lớn tác hơn hết nên cử tôi làm đại diện lớp và
cũng là trưởng xưởng luôn. Tôi có bổn phận chăn đám thợ mộc và thợ sơn khá
đông. Nhất là vẽ những phần quan trọng trong tác phẩm như phủ mài, đánh bóng. O
bế vẽ mặt mũi thiếu nữ (partie délicate) đều phải có sự trông nom của Hiếu Đệ.
Phải nhìn nhận chính Thầy Nguyễn Văn Anh tự nâng cấp
Trường Vẽ lên, chứ thực sự ra trường Mỹ Nghệ Thực Hành Gia Định làm gì có
chương trình dạy làm tranh: Như bố cục tạo hình, phong cách sáng tác
(composition laque, sur soie). Bố cục sơn mài, tranh lụa, tranh dầu. Hơn nữa,
đâu có chế độ học xưởng. Cả thầy lẫn trò đều làm tranh và thực hiện tác phẩm.
Tất cả như đã đi ra ngoài chương trình của nhà trường. Thầy Anh thường
nói:
- Thầy nhận
thấy học trò chịu khó làm việc, thừa khả năng để tiến lên nên Thầy mới giao cho
những công tác trên.
Chế độ thực dân Pháp lúc này cũng đã đến lúc cuối trào.
Người Pháp có xu hướng rửa tiền để chuyển về nước. Nên số tác phẩm trong nhóm
LAK được bán gần hết. Thu hái được một số lợi tức khá cao. Mấy giáo sư phát
tiền cho học trò rất rộng rãi, sau khi Ban Giáo Sư tuyên bố kết quả tại nhà
hàng Đồng Khánh (Chợ Lớn). Những bức tranh sơn mài bề thế mà anh em chúng tôi
bắc thang bắc ghế leo lên vẽ đều được bán sạch. Trong mấy bức thư sau cùng,
Thầy Anh viết cho tôi rằng:
- Thầy vẫn
nhìn nhận sự thành công lớn nhất của Thầy là từ sau khi Thầy ở Pháp về lại
trường. Những năm Thầy cùng với học trò thực hiện những tác phẩm cho LAK.
Thầy còn viết trong thư:
- Rất tiếc là các
em không được học gì thêm khi qua trường Cao Đẳng Mỹ Thuật. Vì trước hết là
không ai tận tâm dạy dỗ. Nhất là ông Lê Văn Đệ thì dạy lè phè. Thầy nhớ là có
hôm em Hồ Hoàng Xuân lên văn phòng mời ông ta xuống sửa bài lại, bị ông ta gây
cho một trận.
Các giáo sư lập bè lập phái, ủng hộ ông Lê Văn Đệ nên
được chọn đi dạy. Đào Sĩ Chu làm dược sĩ có hiệu thuốc Tây ở ngoài phố, cũng
được làm giáo sư sơn dầu. Ông Nguyễn Hộ, thợ sơn ở Bình Dương mà cũng được nâng
vào hàng giáo sư trường Mỹ Thuật... thật hết chỗ nói! Vì thế những người biết chuyện sinh ra bất
mãn. Có lúc Thầy Anh tức giận đưa đơn lên Bộ xin nghỉ hưu. Giám đốc trường
chuyển đơn lên Bộ, lúc đó dưới trào Nguyễn Lưu Viên. Gặp ông Đổng lý Văn phòng
Tô Văn Quế, ông ta khuyên nhủ, tình thế đã khan hiếm giáo sư mà Thầy lại xin
nghỉ, sợ e không còn ai dạy ở trường. Nên Thầy đành bỏ ý định trên và nghe theo
lời ông Quế. Đến năm đảo chánh chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa, Thầy Anh được bổ nhiệm
thay thế ông Lê Văn Đệ về làm Giám đốc trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định. Thời
gian này tôi làm Ủy viên Văn Hóa cho Đổng lý Văn phòng Nguyễn Hải Tấn. Thầy Anh
có đến tôi. Thầy trình bày dự án rằng Thầy sẽ thay đổi lề lối làm việc của
trường bằng một cuộc cách mạng thay cũ đổi mới. Trả về Bộ những người theo phe
ông Lê Văn Đệ. Tôi bàn với Thầy tình hình đất nước mỗi ngày một không ổn. Bọn
binh tôm, tướng cá bên quân đội sẽ đưa đất nước vào sự lệ thuộc của ngoại bang.
Tôi e ý tưởng của Thầy ôm ấp bấy lâu nay sẽ thành không tưởng. Chi bằng Thầy cứ
để yên như vậy. Thầy bỏ về bán phở cho rồi, vậy mà anh em còn đến với Thầy. Chứ
Thầy làm cách mạng chỉ thêm chuốc hại vào thân. Ông Thầy giận đỏ mặt, chửi cho
tôi một trận đáng đích rồi đống mạnh cánh cửa phòng. Thầy bỏ ra về...
- Vous êtes idiot!...
Hôm đó, Bộ Thông Tin có tổ chức một cuộc thi vẽ bích
chương. Nội dung ca ngợi chính phủ Phan Huy Quát, trung lập hóa Miền Nam. Nhưng
đến khi kết thúc thì tình hình thay đổi. Chính phủ Quân Đội, nhất là Nguyễn Cao
Kỳ tuyên bố Bắc tiến, đánh bom ra Miền Bắc. Tôi được Cục Chiến Tranh Chánh Trị,
phòng Tâm Lý Chiến cử đến để chấm thi. Anh em được cử đến để chấm thi thấy tôi
mặc đồ lính, họ đề nghị tôi lên làm Chủ tịch Hội đồng Giám khảo cho buổi họp.
Họ giao cho tôi toàn quyền quyết định. Tôi nhìn xuống thấy có sự hiện diện của
Thầy Nguyễn Văn Anh do Nha Mỹ Thuật Học Vụ cử đến. Tôi có đến chào Thầy. Tôi có
nói:
- Hôm nay mình không có chấm thi gì cả. Tất cả những
người vẽ bích chương hôm nay gần ba mươi tác giả. Số tiền của Bộ Thông Tin
giành để tổ chức cuộc thi là ba mươi ngàn đồng trong đó có cả những giải
thưởng. Tôi đề nghị cho mỗi tác giả một ngàn. Mình ký biên bản xong rồi đi về,
không cần chấm thi gì hết!... Tình hình chính trị nay đã thay đổi 180 độ rồi.
Hôm qua chính phủ Phan Huy Quát đòi trung lập, nay chính phủ Quân Đội đòi Bắc
tiến: Vậy thì mình chỉ về thôi.
Thầy Anh lên tiếng chống cự:
- Nhà nước cử mình đến đây chấm thi. Mình làm vậy, tỏ ra
mình không làm việc và chống lại sự vụ lệnh của nhà nước.
Tôi nói với Thầy:
- Tôi ở trường Vẽ chấm bài cho học trò quen rồi. Nhưng ở
đây là việc chính trị, mỗi nơi mỗi khác. Tôi sẽ chịu trách nhiệm với cấp trên
cho.
Về sau, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng giải tán vì cuộc bầu
cử Tổng Thống đã chấm dứt. Phủ Thống Nhất được dồn qua làm việc bên phủ Đầu
Rồng. Tôi làm giấy tờ xin trở về dạy ở trường Mỹ Thuật. Tôi trình sự vụ lịnh
lên Thầy Nguyễn Văn Anh. Thầy giận dữ nói:
- Bộ em tưởng em ở trên trời sai xuống, rồi tôi phải chấp
nhận cho em làm việc với tôi sao?... Je suis contre l'ordre jusqu'à la dernière minute!
Tôi
biết đến giờ phút ấy Thầy còn giận tôi. Tôi định trở về Bộ Văn Hóa. Nhưng nửa
chừng gặp thầy Đỗ Đình Hiệp dưới trường Trang Trí. Thầy Hiệp nói:
-
Thầy Anh không chịu nhận Hiếu Đệ thì anh Đệ cứ về trường Trang Trí uống rượu
với tôi đi. Anh em mình nhậu với nhau, cùng đi vẽ chơi không vui sao?...
Do
đó, tôi về với trường Trang Trí. Sau vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, tôi gặp
lại Thầy Anh đi thất thểu ở chợ Bến Thành. Ông Thầy gặp tôi có vẻ hối hận. Ông
phân trần:
-
Phải hồi đó ông Thầy chịu nghe lời Hiếu Đệ thì bây giờ đâu đến đỗi phải thất
bại như thế này. Em biết không? Tụi nó xúi học trò truất phế Thầy. Nó bôi lọ
Thầy tội tham nhũng, ăn xén tiền ngân quỹ nhà trường. Bỏ túi tiền cứu trợ nạn
nhân năm Mậu Thân. Bộ trưởng Bùi Xuân Bào còn bắt Thầy phải làm tờ tự kiểm.
Thầy giận quá nghỉ việc luôn. Em ơi!... Sự sụp đổ của đất nước này nó kéo theo
sự sụp đổ của nhà trường nữa. Đến bây giờ, Thầy mới nhận ra, thật quá trễ!
Thầy
Anh còn kể thêm mấy vụ như vụ người cày có ruộng, vụ thương phế binh có nhà sau
năm 1968:
-
Tụi nó chiếm đất của Thầy ở đường Bạch Đằng, xóm Long Vân Tự. Thiếu chút nữa
Thầy chết mất xác ở đây rồi!... May mà ngày xưa lúc đi học ở Hà Nội, Thầy có
học Thiếu Lâm Tự với bác sĩ Hồ Văn Ánh và Quách Kế, bố của Quách Phước. Mấy
người nầy là học trò của Hàn Bái. Nhờ biết chút đỉnh võ nghệ nên năm 1970
thương phế binh chiếm đất cắm dùi, Thầy mất hết đất đai, Thầy nhảy vào chống
lại bọn chúng, bị chúng đánh hội đồng và bắt lại chôn sống. Thầy phải đem võ công
ra để thoát thân, không thì chết với bọn chúng.
Thầy
kể tiếp:
-
Bây giờ Thầy mới hiểu. Xưa ở ngoài Bắc người ta chết vì cải cách ruộng đất, nay
ở trong Nam suýt chút nữa mình cũng chết vì bọn thương phế binh. Đất đai, của
cải chỉ hại đến con người. May nhờ hồng phúc của Đức Mẹ Thầy mới được thoát
nạn.
Ngày
mới qua Mỹ, tôi viết thư thăm Thầy Nguyễn Văn Anh. Ông Thầy đọc thư tôi rất cảm
động. Ông Thầy chủ quan, nghĩ rằng tôi còn giận ông Thầy, không liên lạc với
ông nữa. Nhưng không ngờ tôi vẫn thương ông Thầy như cha mẹ. Ông Thầy viết:
-
Thầy không ngờ nếp sống Quân Sư Phụ vẫn còn trong con người của Hiếu Đệ với câu
"Nhất nhựt chi sư, báng tự chi sư", học được nửa chữ cũng nhờ thầy.
Ông
Thầy cho biết đời sống ở nước ngoài không phải dễ. Chính ông Thầy cũng sai lầm
ngày mới đến Pháp. Ông Thầy vẽ rất nhiều, mỗi năm trưng bày đôi lần. Cốt để thử
thời vận xem thế nào?... Nhưng sự thực khác hẳn, mình sinh sau đẻ muộn, không
nhằm thời. Ông Thầy nhận định:
-
Ở đây, người ta chuộng cái tên. Người bán tên, chứ không phải bán tranh. Có đứa
vẻ xấu hoắc mà vẫn hái ra tiền nên ông Thầy đành bỏ nghề, để giành thì giờ đi
chơi khoái hơn.
Thầy
Anh viết tiếp:
-
Mình nay cũng già rồi, coi lại mình cũng chẳng còn thời giờ để thực hiện theo ý
muốn. Em coi làm được những gì để lại cho cuộc đời thì cứ làm đi. Thời gian qua
mau lắm!
Tôi
được đọc thư của họa sĩ Trần Minh Tâm ở Pháp, cho biết tin Thầy Nguyễn Văn Anh
mất vào cuối tháng sáu năm 2000.
Hiếu Đệ
**
Tuấn, Chàng H.O.
Trẻ Tuổi
Tới lúc lên máy bay rời
Việt Nam, Tuấn mới nghĩ ra là chàng đã mất nước. Khi đã mất nước rồi thì đời mình
mất hết tất cả. Chàng bắt đầu rời khỏi cha mẹ và những người thân trong gia
đình, làng xóm láng giềng và những ngõ phố quen thuộc ở Sài Gòn. Tâm hồn Tuấn
như thấy trống rổng. Chàng xót xa nghĩ về mình, không biết những ngày tới đây
nơi đất khách quê người đời mình sẽ ra sao. Mặc dầu khi chàng cất bước ra đi,
những người thân đưa tiễn chàng ra phi trường tất cả như gởi gấm nơi Tuấn những
hoài bảo lớn và những niềm hy vọng khi chàng đặt chân lên miền đất hứa. Có
nghĩa là đời chàng phải có cái gì trội hẳn những người bên nhà. Chàng nhớ lại
những năm học tập cải tạo kéo lê cuộc đời từ trại tù này sang đến trại tù khác
để đi từ Nam chí Bắc. Người sĩ quan trẻ tuổi này vẫn còn nghĩ rằng mình đang
tiếp tục chiến đấu. Chiến đấu bên hàng trăm hàng vạn chiến hữu, bạn bè bị hành
hạ trong tay quân thù. Cuộc chiến đấu đầy gian khổ, đầy tủi nhục. Anh em đã
từng dìu dắt nhau trong trận chiến, chia xẻ cho nhau từng miếng cơm manh áo.
Nơi đó có những ngày buồn kéo dài lê thê và cũng có những ngày vui đến bây giờ
chàng vẫn còn khắc ghi trong kỷ niệm cuộc đời. Tuấn nhớ đến anh chàng Dũng gầy
Biệt Động Quân, trước khi lìa đời trong đợt bịnh dịch tả ở Trãng Lớn. Dũng vẫn
mỉm cười miệng thều thào lời trăn trối:
-
Gian khổ này chẳng nhằm nhò gì, coi như tụi mình đang trải qua một mùa huấn
nhục. Miễn sao mình đừng sống hèn trước mặt quân thù cũng là vinh quang lắm
rồi. Lúc nào cũng phải nhớ rằng chúng ta là người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
Do
đó, khi dời trại đến Phước Long, tên Vũ Đình Liệu, đại úy tiểu đoàn trưởng trại
L4/T3 đã có lần chiêu dụ Tuấn làm "ăng ten" cho nó. Tên Liệu dùng đủ
mọi cách để mua chuộc con người của Tuấn. Nhưng chàng vẫn dứt khoát chửi thẳng
vào mặt nó. Tuấn nói rằng:
-
Từ lâu tôi sống với cả ngàn anh em trong trại, đói no cực khổ có hơn bốn năm
rồi. Tôi luôn luôn đứng về phía anh em, nhứt định sống chết có nhau. Tôi không
bao giờ phản bội lại anh em cải tạo viên của chúng tôi để làm tên chỉ điểm cho
bộ Chỉ huy trại mà làm hại anh em. Tôi đã thề với lương tâm tôi rồi. Tôi không
thể làm sai được.
Sau
cùng tên Liệu tống giam Tuấn hơn một tuần lễ và dùng đủ mọi thủ đoạn từ dụ dỗ
đến hăm dọa nhưng vẫn thất bại trước lập trường dứt khoát của Tuấn. Cho đến năm
sau khi Tuấn nhận được giấy ra trại, tên Liệu có nói riêng với anh rằng:
- Bây giờ tôi mới thấy rõ quân
đội Việt Nam Cộng Hòa họ không chọn nhằm người tý nào. Anh Tuấn là một con người
tốt. Do đó, tôi cũng là một người trong quân đội, không lý tôi lại hèn hơn anh
Tuấn. Chơi diếm cái giấy ra trại của anh sao? Trả thù bằng thái độ như thế đâu
còn là một con nhà võ sống giữa ba quân được.
Anh ta nói tiếp:
- Trước khi rời trại về với
gia đình tôi chúc anh Tuấn sớm trở thành người công dân tốt và có một đời sống
hạnh phúc trong tương lai.
Thật
ra thì hạnh phúc cũng chẳng bao giờ thấy. Tuấn chỉ thấy cuộc đời của mình lại
đen như mõm chó. Khởi sự đen từ cái tháng Tư Đen của đất nước. Làm trai trong
thời chiến, con người gặp vận rủi nhiều hơn may. Đã gọi
là chiến tranh lạnh của toàn thế giới mà họ lại đưa chiến trường Miền Nam ra
làm điểm nóng.Trước tiên để tiêu thụ kho vũ khí lỗi thời của Đệ Nhị Thế Chiến
và tiến tới thử nghiệm đến các loại dụng cụ chiến tranh của thời đại mới. Hàng
vạn tấn bom trút xuống xóm làng. Nếu đem chia đều ra thì mỗi đầu người chúng ta
cũng được vài ký thuốc nổ. Thế mà chàng vẫn còn sống sót cho tới ngày hôm nay
cũng hạnh phúc lắm rồi. Biết bao nhiêu chiến hữu cùng chiến đấu bên cạnh Tuấn
đã ngã gục trên chiến tuyến hoặc vùi chôn trong các trại tù cải tạo.
Tuấn
còn nhớ mới ngày nào mình vừa tốt nghiệp đại học Tổng hợp về môn toán học. Ra
đời chưa tìm được công ăn việc làm lại được động viên vào lính. Và
sau mùa hè đỏ lửa chàng trở thành một sĩ quan pháo binh. Tính đến ngày chàng bị tập trung
cải tạo Tuấn chưa ngoài hai mươi lăm tuổi. Cái tuổi trẻ là một tặng phẩm đẹp
nhất mà cuộc đời dâng tặng cho Tuấn đã bị chiến tranh cướp đoạt mất rồi. Chàng
chỉ thấy toàn là tù đày và chết chốc phủ trùm lên đời mình. Mặc dù trong suốt
cuộc đời binh nghiệp, thỉnh thoảng chàng có trở về hưởng dăm ba ngày phép nhưng
cũng chẳng có thì giờ tỏ tình cùng cô hàng xóm một lời nào. Mãi đến cuối năm
1983 Tuấn mới được trả về địa phương thì nàng đã tay bế tay bồng, còn chàng
chẳng chưa đáng được hưởng quyền của một anh phó thường dân Nam
Bộ, để được làm một người lao động hạng quèn.
Buổi
sáng Tuấn ngồi nơi quán cà phê dưới gốc cây táo cạnh nhà thờ Ba Chuông đường
‘Nguyễn Văn Trổi’. Tuấn mới thấy ra là chẳng riêng gì mình mà cả đám lũ bạn
cùng lứa tuổi của Tuấn cũng đều bị cùng chung một số phận như nhau. Cũng thầy
chẳng ra thầy, thợ chẳng ra thợ. Hơn nữa lại còn thêm cái lý lịch chính trị
hạng C thì chỉ có nước ngồi không thất nghiệp là điều chắc chắn, không lý lại
cả đời ăn bám gia đình. Đi đạp xích lô thì ngại không đủ sức khoẻ. Sống tại quê
hương đất nước, Tuấn thấy cuộc đời chẳng ra cái tích sự gì cả. Thấy vậy, người
thân trong gia đình thúc hối chàng nộp giấy tờ để xin ra đi diện H.O. Trước
ngày rời bỏ đất nước, Tuấn lên xuống tiếp xúc với Phòng Quản Lý Người Đi Nước
Ngoài. Đám Việt cộng bên nhà thường hay tuyên truyền với Tuấn rằng: “Hiện tình
của đám tỵ nạn Cộng sản ở nước ngoài đang chia rẽ rất trầm trọng, nhất là chia
rẽ giữa người giàu và người nghèo. Giữa người tỵ nạn sang Mỹ vào năm 1975 và
những người mới qua chân ướt chân ráo sau này”.
Trường hợp giống như giữa người
Bắc di cư năm 1954 và người kém văn minh mới vào Nam vào những năm sau 1975. Dĩ
nhiên là đám Tuyên vận nước ngoài đang mở một mặt trận để đánh phá làm lủng
đoạn khối đoàn kết của cộng đồng người Việt tự do ở hải ngoại. Họ tìm đủ mọi
cách để dập tắt ngọn lửa đấu tranh đòi giải thể tức khắc Đảng Cộng sản Việt
Nam, đòi cho được tự do dân chủ và nhân quyền cho nhân dân trong nước. Để phản
công lại bọn tuyên vận hải ngoại của cộng sản. Trước sự bùng nổ của cuộc cách
mạng truyền thông thế giới, cộng đồng người Việt đã phát động chiến lược chuyển
lửa về quê hương bằng mạn lưới thông tin báo chí đánh thẳng vào bọn trung ương
đảng và từng lớp nhân dân trong nước. Suốt mấy năm trời các giáo sư triết học,
các nhà chính trị tuyên huấn của Viện Triết, trường Nguyễn Ái Quốc, Ban Văn hóa
Tư tưởng Trung ương, báo Nhân Dân đã
viết liên tục không biết bao nhiêu là sách báo bài vở, tất cả đều tập trung
đánh vào chủ nghĩa cộng sản Việt Nam. Có những bàn tay lén lút quậy phá tạo sự
chia rẽ trong cộng đồng người Việt tự do thì cũng có những bàn tay đánh phá từ
bên trong của nội bộ Đảng và Nhà nước: "Đảng phải dứt khoát giữa hai con
đường, một là chuyên chính vô sản kiểu Mác Lê Nin, hai là dân chủ tự do kiểu
thị trường tư bản, không được lập lờ đánh lận con đen như hiện nay để bám lấy
uy quyền làm khổ cho tiền đồ dân tộc”.
Trong
những buổi sinh hoạt cộng đồng, có lần Tuấn tham dự buổi mết tinh kỷ niệm ngày
30 tháng Tư. Hôm ấy toàn thế giới cũng vui mừng ngày lễ chấm dứt năm mươi năm
kết thúc Đệ nhị Thế chiến và hai mươi năm chiến tranh Việt Nam. Thế giới đã
xoay chìu đổi mới bắt đầu từ hôm nay. Người ta xóa bài đánh lại cái quan niệm
về Cộng Hòa - Cộng Sản hình như không còn nữa. Ngày nay chúng ta không còn giữ
vai trò "đấu thầu chiến tranh" hay "ủy thác chiến tranh" để
làm thứ tiền đồn Đông Nam Á và thế giới. Quan niệm về chiến tranh ý thức hệ hay
chiến tranh toàn cầu của hai thế lực trên thế giới cũng đã trôi theo sự sụp đổ
của Đế quốc Liên Sô và khối Bắc Âu để bước vào một trật tự mới xây dựng trên
nền tảng của sự hợp tác và phát triển dựa vào sức mạnh kinh tế. Từ nay, họ sẽ
thể hiện dần dần những bộ mặt siêu đế quốc về lãnh vực kinh tế. Nhưng cũng
trong hai mươi năm qua bọn đồ tể Cộng sản Việt Nam vẫn còn mê ngủ, chưa chịu
nhìn thẳng vào thực trạng thế giới để thấy rằng chủ nghĩa Mác Lê Nin của bọn
chúng đã tan rã từ hơn nửa thập niên nay rồi. Cái tội ác ghê tởm của loài người
trên thế giới kéo dài hơn nửa thế kỷ nay đã được tẩy xóa cũng như chủ nghĩa
phát xít và chủ nghĩa thực dân ở năm mươi năm về trước.
Hôm nay một lần nữa, chúng ta
trong cộng đồng người Việt hải ngoại đang gọi nhau để cùng hát khúc ca lên
đường. Như ngày xưa chúng ta đứng lên bức tung xiềng xích để xóa bỏ thực dân
Pháp. Thì ngày nay chúng ta chiến đấu để xóa bỏ bọn thực dân Việt Nam, bọn Bắc
Bộ phủ. Một thứ thực dân da vàng mũi toẹt đang kéo ngọn cờ yêu nước tức là yêu
chủ nghĩa xã hội, yêu chủ nghĩa Mác Lê Nin. Thứ thực dân này hôm nay cũng đã
mất gốc rồi. Thánh địa Liên Sô của chúng nó không còn nữa. Phong trào dân chủ
tự do trên thế giới đang dâng lên như ngọn sóng thần. Và hàng ngủ của bọn Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã chia rẽ trầm trọng. Lửa đã nhốm lên rồi
chỉ cần anh em chúng ta mỗi người chỉ góp vào một que củi nhỏ nữa thôi. Dầu cho
chúng ta có khác nhau về một lập trường hay đường lối làm việc nhưng nhìn chung
tất cả đều là những người bỏ nước ra đi, những người không chấp nhận chủ nghĩa
Cộng sản đang cầm quyền ở bên nhà. Hơn nữa chúng ta còn tự hào có hai triệu
người Việt Nam ở nước ngoài trong quá trình hai mươi năm phấn đấu trong gian
khổ về nhân lực tài lực bề nào cũng mạnh hơn hai triệu đảng viên trong chánh
quyền Cộng sản bên nhà. Chúng ta đang ở thế thượng phong là mình đang đứng
trong các nước lớn trên thế giới. Chúng ta là một nước siêu quốc gia, một nước
Việt Nam không có bản đồ lãnh thổ nhưng chúng ta đang sống trải rộng ra
khắp thế giới.
Tuấn còn nhớ từ lúc chàng đi
đến Bộ Nội vụ nộp hồ sơ H.O. cho đến lúc lên máy bay rời Việt Nam Tuấn rất khổ
đau nghĩ rằng mình đã mất nước. Và mất nước là mất hết tất cả. Hôm nay thì Tuấn
lại nghĩ khác. Chàng nghĩ rằng đất nước của chúng ta vẫn còn đó, có mất chăng
là mất cái chế độ, cái chủ nghĩa lỗi thời và thối nát đó thôi. Chàng trở về vai
trò của một người lính hiện nay đứng trong hàng ngủ của cộng đồng Việt Nam tự
do ở nước ngoài, nhất là bên cạnh các chú các bác H.O. già khụ gần đất xa trời
nhưng thực sự là những người lính không bao giờ chết. Lúc nào họ cũng vẫn oai
hùng. Người đi trước ngã xuống, người đi sau tiến lên, với tay không chúng ta
vẫn xốc tới. Mặc dầu đang cố gắng ổn định đời sống đi làm quần quật cả ngày
Tuấn vẫn tự hào mình là một người lính chớ không phải là con người 3 x 8 có
nghĩa là một cổ máy ba ‘job’ trong một ngày. Tuấn nhất định không để con người
của mình biến thành một cổ máy vì lúc nào mình vẫn còn là một chiến sĩ tự do và
có một cuộc sống xứng đáng.
Những ngày sống ở đất Mỹ, Tuấn
thấy mình như một con cá lớn từ trong kinh rạch đã lội ra đến đại dương mênh
mông và cuộc chiến đấu để dành lấy tự do cho đất nước cho dân tộc Việt Nam vẫn
không hề dừng lại trong Tuấn. Càng nghĩ rằng sự hình thành một cộng đồng Việt
Nam tự do ở hải ngoại là một sức mạnh tổng hợp, là một ngọn sóng thần đang dâng
cao để xóa tan chế độ Cộng sản Việt Nam trong những ngày sắp tới. Và tất cả
chúng ta đang cùng hát khúc ca lên đường.
Hiếu Đệ
**
Thuyết Định Mệnh
Trong Truyện
Kiều
Tất cả những nỗi khổ đau đày đọa nàng Kiều ‘thanh y hai lượt, thanh lâu hai lần’ được
tác giả là cụ Tiên Điền Nguyễn Du đổ thừa cho thiên mệnh - tức là tại ông Trời:
Ngẫm thay muôn sự tại Trời,
hay là:
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao.
Ông Trời ở trong Truyện
Kiều đúng ra là một mạng lưới nhân quả. Có người còn bi quan hơn nữa lại bảo
rằng đời là bể khổ như trong Cung Oán Ngân Khúc của tác giả Ôn Như Hầu có
viết :
Kể từ khi mới chôn nhao
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà
ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Từ trắng răng đến bạc đầu
Tử sinh kinh cựu làm nao mấy
lần.
Làm người có tấm
thân cũng đã là một sự đày đọa rồi. Đó chẳng qua chỉ là một tư tưởng yếm thế.
Có người nghĩ rằng: ‘Không, tôi không có thân. Tôi không muốn làm người. Bởi vì
làm con người như tôi bây giờ, đúng là truân chuyên đau khổ, đúng là phong trần
thật’.
Làm như có một
thế lực vô hình, có một cuốn sổ của thiên đình đã xếp đặt như thế. Kẻ làm biếng
mà vẫn sống thanh cao, như vậy thì số mệnh được do Trời xếp đặt sao? Số mệnh ở
đây bảo là làm người bị kẹt vào mạng lưới định mệnh nên cuối cùng có nhiều người
tin là như thế. Tác giả có kể chuyện nàng Kiều, hồi còn trẻ có ông thầy tướng
số bảo là nàng suốt đời sẽ khổ vì số của nàng là số khổ. Bởi vì:
Tinh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài
hoa.
Chính vì thế Thúy
Kiều mới nói với Kim Trọng trong đêm đầu tiên hai người mới gặp nhau thề non
hẹn biển:
- Em nghĩ rằng
anh là người có phước đức, sau nầy có số làm quan. Còn em chỉ là phận mỏng thôi
(câu 413):
Nhớ từ năm hãy thơ ngây
Có người tướng số đoán ngay
một lời
Tinh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài
hoa.
Tự nhiên có lão
thầy bói mất dạy lại gieo một hạt giống khổ đau vào lòng một cô thiếu nữ là
nàng Kiều. Làm cho nàng cứ đinh ninh là đời mình như thế:
Trông người lại ngẫm đến ta
Một dầy một mỏng biết là có
nên
Đã mang lấy nghiệp vào thân...
Nghiệp đây là
nghiệp xấu. Văn chương Phật giáo gọi chữ nghiệp là ‘karma’, còn chúng ta có người
dịch là ‘action’. Nghiệp có nghiệp thiện và ác nghiệp. Ý nghiệp là toan tính và
quyết định. Khẩu nghiệp và thân nghiệp là hành động. Ví dụ như bố thí và thương
người v.v… Nghiệp có: nghiệp nhân, nghiệp quả, nghiệp thiện, nghiệp ác. Ý của
cụ Nguyễn Du nói: ‘Đã mang lấy nghiệp vào
thân’ thì chữ nghiệp nầy là nghiệp xấu, bị đem lại sự xấu là tại Trời - vừa
mới nói mọi sự tại Trời thì lại đổ thừa cho Trời đem lại sự xấu cho mình. Chữ
Trời rất là trừu tượng. Hơn nữa ông Trời ở quá xa thì nói gì lại chẳng được nên
cứ đổ lỗi cho ông Trời không công minh.Thiện căn là gốc rễ nằm trong lòng mình – ‘Tâm kia bằng ba chữ tài’. Tâm cũng có thiện tâm và tà tâm. Các thứ
thiện tâm, tà tâm và chánh tâm tất cả đều do hạt giống của thiện nghiệp. Trong
lòng đầy thiện tâm, ta vun trồng hạt giống đó ngày được nẩy nở, ta sẽ nhờ nó
rất nhiều. Nó có giá trị bằng ba chữ tài. Còn ác tâm chỉ gây hại cho con người
thì làm sao bằng ba chữ tài được, nên tránh nó ra để bớt gây hại cho người
khác. Sau cùng tác giả cũng có mở một lối thoát. Đoạn Kim Trọng ra điều anh
hùng cứu mỹ nhân mới nói rằng:
- Em đừng lo. ‘Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều’.
Nếu cần anh sẽ đứng ra lo cho em, đem vàng đá cả một tấm lòng lo cho người yêu.
Vì nàng Kiều có tư
tưởng rằng cuộc đời đã khổ nên khi du Xuân gặp mã Đạm Tiên, về nhà nằm mơ cũng
thấy Đạm Tiên trong cơn mê. Cũng bởi Đạm Tiên có nói:
- Chị ơi! Chị còn
khổ dài dài…
Hãy tin hết kiếp liễu bồ
Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về
sau…
Nào hay chưa hết tình duyên
Số còn nặng nợ má đào…
Tư tưởng bi quan
của nàng Kiều rất mạnh. Lúc nào nàng cũng cảm thấy như có con ma Đạm Tiên réo
gọi không bao giờ chịu buông tha. Niềm tin của cụ Nguyễn Du về thiên mệnh khiến
chúng ta phải xét lại coi thử mình còn tin được mấy phần trăm đây.
Ngẫm thay muôn sự tại Trời.
Từ câu bắt đầu:
Trăm năm trong cõi người ta
đến
Mua vui chỉ được một vài trống
canh.
Tác giả muốn nói
cuộc đời trôi qua như một giấc mộng:
Có đâu thiên vị người nào
Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả
hai.
Càng có tài thì
càng bị bạc bẽo bao nhiêu nên trong chế độ phong kiến con người phải giấu tài
của mình để sống cuộc đời yếm thế. Mãi đến chế độ cộng sản Mao-ít cũng càng bạc
đãi những người trí thức có tài. Đến người đẹp vẫn phải bị ganh ghét.
Tinh hoa phát tiết ra ngoài
Nghìn thu bạc mệnh một đời tài
hoa.
Dưới những chế độ
«Đêm Giữa Ban Ngày» khiến con người phải giấu tài, giấu sắc, giả ngu, giả dại,
giả điên như thi sĩ Bùi Giáng, như những cô gái đi vượt biên trên tàu sợ hải
tặc. Hiện trạng của xã hội đẻ ra những đức tin tùy theo sự thật của thời đó.
Trong ngụ ngôn La Fontaine có chuyện Con Bướm Và Con Dế, khuyên người đời sống
ẩn danh như con dế, nêu cao tâm lý ganh ghét, lạc hậu, cổ hủ. ‘Có đâu thiên vị người nào’, thuyết tài
mệnh, ‘chữ tài liền với chữ tai...’. Đối
với kỷ nguyên khoa học kỹ thuật hôm nay không còn ý nghĩa nữa, vì không có ai có thể kéo lùi bánh xe
lịch sử được. Nhất là chúng ta đang sống ở nước Âu-Mỹ, tất cả mọi ngành đều
phải cạnh tranh để tiến bộ.
**
Có lần cũng vì thương cho thân phận nàng Kiều, Sư chị Giác Duyên đến gõ
cửa Sư cô Tam Hợp hỏi về cuộc đời của nàng. Dĩ nhiên Sư chị Giác Duyên có kể rõ
ngọn ngành về lai lịch nàng Kiều. Sư cô Tam Hợp cho biết Thúy Kiều bị kẹt bởi
hai chữ Định Mệnh. Bảo rằng số nàng là số khổ:
Khăng khăng mình buộc lấy mình
vào trong.
Kiểu này thật vô
phương cứu chữa vì biết ai gỡ mối tơ mành cho ra, làm sao bỏ được tâm niệm về
số phận của mình. «Trong các pháp, Tâm dẫn đầu, Tâm làm chủ, Tâm tạo tác nên
tất cả. Nếu ta nói hay làm với tâm ô nhiễm thì khổ não sẽ theo ta như bánh xe
cứ lăn theo bước chân con vật» (Kinh Pháp Cú – câu 1). Chính vì như thế mà thân
phận người phụ nữ như Thúy Kiều trở nên:
Đứng không yên ổn ngồi không
vững vàng
Ma đưa lối quỷ đưa đàng
Chỉ tìm những chốn đoạn tràng
mà đi.
Cho dầu nàng có
ngồi trên tòa sen, nàng cũng vẫn coi như là mình đang ngồi trên lửa. Nàng luôn luôn
đi tìm những hoàn cảnh đứt ruột để lao vào mới thấy mình được thoải mái. Tuổi
mới lớn lên ta thường hay bị kẹt vào thuyết định mệnh số con rệp của Thúy Kiều
chớ chạy đâu khỏi. Hoạn Thư đã có lần đưa Thúy Kiều vào chùa để tu học và chép
kinh. Nàng đã được quy y Tam Bảo và có pháp danh là Trạc Tuyền - có nghĩa là dòng suối giải oan, chuyện trong
kinh Thủy Sám. Ở chùa chẳng được bao lâu nàng ăn cắp chuông mõ và khánh vàng
đang đêm leo rào bỏ trốn. Vài ngày sau đến tá túc bên chùa của Sư chị Giác
Duyên. Cô nàng vào chùa bằng một cái tâm không ổn và nghiệp cứ mỗi ngày vây
chặt không bao giớ dứt. Hoạn Thư đưa Thúy Kiều vào chùa để mong nàng được tự do
phần nào. Nhưng chữ tự do ở trong nhà chùa nó có khác. Tự do tức là chánh niệm,
có nghĩa là khi đi biết mình đang đi, khi thở biết mình đang thở, sống biết
mình đang sống trong từng sát na. Người ta thường nói tranh đấu cho tự do chánh
trị, tự do kinh tế. Có người đã có tự do, có thông hành, có quyền công dân mà
họ lại đi tự tử, vì họ thấy cuộc đời làm họ đau khổ.
Đứng vào phương
diện thực tập giáo lý mà nói thì tất cả chúng sinh coi như đang bị tóm vào mạng
lưới nhân quả. Cho dù sống bên Sư chị Giác Duyên, nàng Kiều vẫn đau khổ, vì nàng không có chánh
niệm, không thấy mình có thể nương tựa Tăng được. Chỉ có khi nào chúng ta nương
tựa Tăng được, chúng ta mới tìm thấy được đó là điểm khởi hành để tìm đến một
không gian tự do, một lối thoát thênh thang. Đừng có như Thúy Kiều nghĩ rằng
đến chùa là mất tự do, mà chúng ta phải thấy sự quí giá của không gian tự do
đó. Vì Thúy Kiều không có điều kiện xây dựng Tăng thân thì cô ta sẽ bị lạc lõng
trong việc xây dựng Tăng thân để thoát khỏi bể khổ trầm luân nơi mình. Từ lâu
định mệnh đã đè nặng tâm tư Thúy Kiều, nhân vì hoàn cảnh đáng thương nên có
thiện nhân giúp đỡ là Sư chị Giác Duyên. Số mệnh đã như vậy nhưng mình phải có
quyết định nếu không thì sẽ bị lôi cuốn theo kiểu ‘ma đưa lối quỷ đưa đường’.
Đã là con người
có tự do thì phải chống lại thuyết định mệnh. Cơ bản tự do của Đạo Phật trong
Truyện Kiều bị chen lấn bởi thuyết định mệnh, khiến Thúy Kiều không có lối
thoát. Nàng đành bị tóm vào mạng lưới nhân quả. Triết học Tây phương họ thường
ngơ ngác hỏi: «Ta từ đâu đến? Ta là ai? Và ta sẽ đi về đâu? Cuối cùng họ cũng
chẳng tìm ra được một lối thoát. Họ chỉ có quan sát thôi chứ chưa tìm giải đáp.
Đạo Phật quan niệm rằng: Con người
chẳng có bắt đầu và cũng chẳng có kết thúc. Chẳng phải sinh mà cũng chẳng phải
diệt. Chẳng có đến mà cũng chẳng có đi. Trước mặt các đệ tử, Đức Phật đưa lên
một sợi tóc. Ngài bảo là: Có cả tam thiên đại thiên thế giới trong sợi tóc nầy.
Khi chúng ta rảnh rang đi (thiền hành), ngồi (thiền tọa), tập thiền quán, nhìn
lại thế gian thấy mình như vượt khỏi cái bể trầm luân đau khổ và đang sống
trong một không gian thênh thang chẳng bị trói buộc bởi định mệnh. Đối với đạo
lý, người tu hành giả dối thế nào cũng bị đẩy ra ngoài. Như đại dương không
chấp nhận xác chết, xác chết sẽ bị đẩy vào bờ.
Trở lại con người của Thúy Kiều
suốt đời chỉ mang lấy một chữ tình khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Hết
nạn nọ đến nạn kia, ‘thanh y hai lượt
thanh lâu hai lần’. Oan khiên theo mãi, đau khổ suốt đời. ‘Ma đưa lối quỷ đưa đường’ tức là sầu
não với hờn giận, số mệnh đã kết án như thế làm mình không tháo gỡ được. Một
đời như vậy thì còn gì là con người. Tác giả đưa đến kết luận:
1. Xét trong tội, nghiệp – ‘Mất điều tình ái, khỏi điều tà dâm’
2. Lấy tình thâm trả nghĩa thâm –
bán mình chuộc cha
3. Giết Từ Hải cắt dứt chiến
tranh - Động hiếu tâm đến lòng Trời nên Thúy Kiều được cứu vớt lên khỏi sông
Tiền Đường.
Hiếu Đệ
**
Mỹ Thuật
Việt Nam
Mỹ thuật Việt Nam đang chìm trong bóng đêm, chưa vươn mình
lên được để sánh vai cùng với các nước trên thế giới. Các nhà bình luận nghệ
thuật ở Tây Phương chưa hề viết lên những dòng mực đứng đắn cho nền Mỹ Thuật
Việt Nam. Tất cả đều chỉ viết về chiến tranh. Vì từ lâu Việt Nam là một bãi
chiến trường cho cuộc chiến ý thức hệ giữa thế giới Tư bản và Cộng sản. Đến nay
đã hai mươi lăm năm êm tiếng súng, nhưng dân tộc ta đã bị vùi trong nghèo đói
và lạc hậu dưới sự thống trị của chế độ cộng sản dã man và tàn ác. Người Tây Phương
thường nghĩ rằng Việt Nam chỉ có một nền Văn Hóa hỗn tạp. Trong đó gồm cả vn
hóa Trung Hoa, Ấn Độ và Pháp. Do chữ ‘Indochine française’. Họ xếp Việt Nam vào
hàng thứ yếu, không đáng kể. Thật ra Việt Nam có một nền Văn Hóa rất vững vàng
và lâu đời nhất vùng Đông Nam Á mà không ai có thể phủ nhận được. Một nghìn năm
dưới ách thống trị của Bắc Phương, Việt Nam vẫn trưởng thành vì dân tộc ta có
một nền Văn Hóa độc lập, không bị đồng hóa đến vong bản mất gốc. Dưới chế độ
cai trị của người Pháp suốt cả trăm năm, chúng ta đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ,
một nền Văn Hóa riêng biệt đã trao truyền cho chúng ta đến ngày hôm nay.
Về ngành Mỹ
Thuật Việt Nam, năm 1920 Pháp cho thành lập trường Mỹ Thuật Đông Dương ở Hà Nội
nhằm khai thác nền Văn Hóa của người bản xứ. Họ coi chúng ta như một thứ dân da
màu. Nhưng những khóa họa sĩ đàn anh của trường Mỹ Thuật Đông Dương đem được
tiếng nói của nền Mỹ Thuật Việt Nam làm rạng danh với nước ngoài. Trong nhóm
nầy có các họa sĩ thời danh như Nguyễn
Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Lê Phổ, Lê Thị Lựu, Lê Văn Đệ, Mai Trung Thứ v.v… Họa sĩ
Việt Nam thời tiền chiến đã sáng tạo một nền Mỹ Thuật Việt Nam rất đáng kể. Trước
kia về Hội Họa ta mới chỉ có tranh giấy bảng và sơn mài. Thời đó nghệ thuật sơn
mài chỉ làm trang trí cung đình, nay trở thành những tác phẩm tạo hình đích
thực. Họa sĩ Lê Văn Đệ, Nguyễn Phan Chánh đã tìm lối vẽ tranh lụa rất đặc biệt
Việt Nam. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí đem nghệ thuật sơn mài làm rạng danh dân tộc.
Trong Miền Nam, họa sĩ Tú Duyên sáng tạo ra loại mộc bản thủ ấn họa trên lụa
rất huyền ảo được các nước Tây Phương ái mộ một thời. Tạp chí Đông Dương Thời
Báo (Indochine) Asia Sudest để ra rất nhiều số đặc biệt lên tiếng ca ngợi nền
Mỹ Thuật Việt Nam trong thập niên 1950.Từ 1945 đến 1975 cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ làm cho nền Mỹ Thuật Việt Nam chìm đắm trong khói lửa. Miền
Bắc phải sống dưới chế độ cộng sản, rập theo khuôn mẫu Trung Hoa và Sô Viết.
Mọi tư liệu sản xuất nằm trong tay đảng và nhà nước. Học cụ để làm tác phẩm trở
nên khó khăn. Tất cả chỉ để phục vụ cho chiến tranh vì đảng bắt buộc tất cả cho
kháng chiến:
Nay ở trong thơ phải có
thép
Là người nghệ sĩ phải
biết xung phong.
Năm 1954 họa
sĩ Tô Ngọc Vân, giám đốc trường Mỹ Thuật Việt Bắc lao vào cuộc chiến Điện Biên
Phủ bị máy bay Pháp đánh bom chết ở trên đèo Lũng Lô. Trần Dần, Quang Dũng,
Trần Duy đều là họa sĩ chiến đấu trong quân đoàn Tây Tiến năm 1950.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân
ấy
Hồn gởi Mường Luông chẳng
trở về.
Năm 1984 tôi
đi cải tạo mới về, nhớ hôm ngồi uống rượu ở hội quán Hội Mỹ Thuật Thành phố gặp
đám họa sĩ miền Bắc là Lưu Công Nhân, Trần Lưu Hậu. Họ cụng ly rồi lên tiếng:
- Hiếu Đệ
khóa I trường Mỹ Thuật Sài Gòn. Tụi nầy cũng là khóa I trường Mỹ Thuật Việt
Bắc. Tụi mình bắt tay uống rượu chơi. Đám anh em lứa tuổi của tụi mình là tuổi
lửa, tuổi của chiến tranh, còn sống sót được ngồi uống rượu với nhau là ngon
lành rồi. Không cần phải làm nên cái tích sự gì hết.
Năm 1945 trường
Mỹ Thuật Đông Dương dọn về chiến khu Việt Bắc. Các giáo sư người Pháp không còn
nữa. Trong kháng chiến trường dạy theo đường lối cộng sản. Các ngành văn hóa
nghệ thuật bắt buộc phải là tiếng nói của đảng. Theo đúng phương châm: ‘Kháng
chiến hóa văn hóa và văn hóa kháng chiến’. Từ Mỹ Thuật Tạo Hình đến bộ môn
Trang Trí đều phải theo đường lối chánh trị và chủ nghĩa Mác-Lenin. Sau Hội
nghị Genève 1954 chia hai đất nước. Miền Bắc sống dưới chế độ cộng sản. Văn hóa
nghệ thuật phải theo đường hướng hiện thực xã hội chũ nghĩa. Rập khuôn theo
kiểu mẫu Nga Sô và Trung Quốc. Cả triệu người dân lương thiện chết oan ức bởi
phong trào đấu tố ‘cải cách ruộng đất’. Miền Nam là phần đất tự do. Ảnh hưởng
nền văn hóa Pháp dần dần cũng phai mờ. Thay vào đó cuộc sống theo Mỹ hóa, Mỹ
Thuật Việt Nam được phát triển và mở rộng sẵn sàng hội nhập với Mỹ Thuật thế
giới.
Họa sĩ Miền
Nam có trao đổi với quốc tế ở Sài Gòn tại địa điểm Vườn Tao Đàn. Tôi và họa sĩ
Nguyễn Cao Nguyên đứng ra sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam năm 1965. Trụ sở đặt
tại gốc đường Công Lý và Lê Thánh Tôn. Sở dĩ phải dùng các danh xưng nầy là vì
trước đây các họa sĩ đàn anh của chúng tôi đã có thành lập Nghiệp đoàn Hội Họa
nhằm mục đích bênh vực quyền lợi cho các anh em họa sĩ, trang trí, kiến trúc và
cả giới thầu khoán v.v… Có điều trong nội qui điều lệ, chúng tôi có nêu rõ Họa
Sĩ Trẻ là những người không quá ba mươi tuổi. Tuổi của những tài năng mới được
tham dự các giải thưởng của những Đại hội Quốc tế Lưỡng niên Mỹ Thuật. Do đó
tôi và Nguyễn Cao Nguyên sau nhiệm kỳ I đảm nhiệm trong ban chấp hành của hội
đã qua khỏi lứa tuổi đã ấn định trong nội qui. Chúng tôi trở về lại trong Quân
Đội, phải nhường trụ sở cho những họa sĩ ở tuổi trốn lính. Cũng như trong thời
gian đó trường Cao Đảng Mỹ Thuật Sài Gòn lại được Phủ Quốc Vụ Khanh lúc ấy do
cụ Mai Thọ Truyền đặc trách văn hóa nâng lên tiến sĩ Mỹ Thuật bảy năm để đám
sinh viên chờ đến khi kết thúc Hội nghị Ba Lê mới ra trường khỏi phải bị đi
lính. Thật ra nhiều anh em không cần phải ra trường cũng vẽ được tranh như Duy
Khanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Huy Tường. Có ai phải đổ đến tiến sĩ Mỹ Thuật bao
giờ đâu.
Năm 1975 sau
khi cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam, cộng sản công bố nghị quyết của đảng là
Miền Nam phải tiến kịp Miền Bắc, có nghĩa là phải nghèo rạc như miền Bắc, như
vậy mới là chuyên chính vô sản. Cũng may sao đến thập niên 80, chủ tịch nhà nước
Liên Sô Gorbachev nêu lên chánh sách đổi mới kinh tế kể cả văn hóa. Tổng bí thư
đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh tức Mười Cút kêu gọi: ‘văn nghệ sĩ phải
tự cởi trói cho mình’. Như vậy gián tiếp hơn ba mươi năm nay đảng cộng sản đã
công nhận tất cả văn nghệ sĩ trong nước đã bị trói mà họ không hay biết. Hay có
thể họ biết mà họ không dám nói công khai. Nhà văn Nguyễn Tuân trong ngày sinh
nhật tám mươi tuổi có nói với các văn hữu: ‘Sở dĩ tớ sống đến ngày hôm
nay cũng nhờ tớ biết sợ’. Nỗi sợ ăn sâu vào tiềm thức con người Miền Bắc xã hội
chủ nghĩa đến nỗi nhà văn Đỗ Khánh Hoan kể rằng anh ta chỉ nghe tiếng gà gáy
thôi mà đã hết hồn bỏ chạy. Vì anh ta tưởng mình là hạt thóc. Văn nghệ sĩ Miền
Nam cũng nhờ tiếp xúc với cộng sản ít năm hơn nên họ sáng tác có hơi rộng rãi.
Có số họa sĩ trẻ vẽ theo xu hướng nước
ngoài. Một số mang màu sắc trừu tượng bóp méo hình thể, xa vời với hiện thực xã
hội chủ nghĩa. Mỗi người mang một cá tính riêng có vẻ rộng rãi hơn họa sĩ Miền
Bắc.
Năm 1985 tôi
thấy hội họa Việt Nam như có xu hướng đang lên. Tôi có đến chơi nhà họa sĩ
Thuận Hồ và nhà bà Nguyễn Thị Tâm. Tôi thấy người ta ngồi học vẽ đầy nhóc. Có
cả nhà văn Hoàng Hải Thủy đang ngồi chóc ngóc trong đó nữa. Tôi còn nhớ có buổi
sáng nọ ngồi uống cà phê nơi quán của họa sĩ Hoàng Đài. Họa sĩ Nguyễn Lâm rủ
tôi đi xem một loạt năm trăm bức tranh của họa sĩ Đào Mùi. Nghe đâu anh ta sắp
giao những bức tranh đó cho một bà lái tranh ở Úc. Cả đám chúng tôi kéo nhau
đến bảy tám đứa, có cả chủ quán cũng đạp xe chạy theo. Nhà Đào Mùi nơi con hẻm
trước Viện Dưỡng Lão Thị Nghè. Vợ anh ta chuyên bán vàng và đô la lúc ấy cặp với
anh chàng Cung Văn ở Đền Sòng phía sau Viện Đại học Vạn Hạnh đường Trương Minh
Giảng. Nhà họa sĩ Đào Mùi vách ván có lầu. Vợ anh và người kép ở một căn. Căn
kế bên là nơi ở của Đào Mùi và hai đứa con trai. Mùi đi cải tạo được thả về trước
Nguyễn Thanh Thu (Điêu khắc gia) vài năm. Hai đứa cùng ở một trại nên anh ta
đem Thanh Thu về nuôi. Thanh Thu có tật hay gàn, thấy vợ Đào Mùi đùa giỡn với
kép kế bên nhà bèn nghĩ đến thân phận mình cũng bị vợ bỏ ngay từ khi còn ở
trong trại cải tạo nên bốc đồng cuốn gói bỏ đi. Đào Mùi tiếp chúng tôi. Nguyễn
Lâm ngồi giở từng bức tranh lụa cho chúng tôi xem. Có tác giả đứng một bên giải
thích về nội dung bố cục và màu sắc. Chúng tôi xem đến giờ cơm trưa mà vẫn chưa
hết, phải kéo dài đến hai giờ chiều mới chào nhau ra về. Dọc đường Nguyễn Lâm
hỏi tôi:
- Anh coi
tranh thấy sao anh Đệ?
Tôi cằn nhằn
chửi thề:
- Tớ nói
thiệt với chú mầy, vẽ như vậy thà ở trong trại cải tạo còn sướng hơn. Trong
trại cải tạo chỉ sợ nhất là bệnh thổ tả suốt ngày phải ôm lấy cái cầu tiêu chỉ
có nước chết. Con người cho dù bị tả lỵ ngày chừng bốn lần cũng đủ đem chôn rồi
huống chi họa sĩ Đào Mùi nó trây ra đến năm trăm lần thì còn cái nước mẹ gì
nữa. Nội người lật người coi thôi tớ cũng thấy chóng mặt rồi. Không còn can đảm
nào mà coi nổi nữa, chớ đừng có nói hay dở gì cả.
Cả đám vừa
cởi xe vừa cười toáng lên. Nguyễn Lâm còn quảng cáo thêm số tranh đó Đào Mùi đã
vẽ suốt ba tháng, chỉ có việc bồi thôi. Trương Văn Ý cũng nhờ vụ nầy đã lấy được
hơn lạng vàng. Bẵng đi một thời gian, tôi trở lại quán cà phê của Hồ Hoàng Đài.
Tôi nghe nói với mười lạng vàng bán tranh trước đó, Đào Mùi đã chạy lo cho hai
đứa con trai của anh vượt biên trót lọt. Chúng đã đến được trại tỵ nạn Palawan
ở Phi Luật Tân. Tôi nghĩ từ ngàn xưa đến giờ trên thế giới nầy chưa có nước nào
lại đuổi người dân của họ ra đi khỏi quê hương hàng triệu người như chế độ cộng
sản Việt Nam. Đã thế chúng còn bắt người dân đống tiền, đống vàng, dâng hết của
cải cho chúng rồi mới được ra đi. Biết bao nhiêu người đã bỏ xác dưới đại dương.
Trong những cơn sóng to gió lớn, không chắc gì mình được sống sót để đến được
bến bờ tự do. Đủ biết cộng sản Việt Nam tàn ác hơn hết trên thế giới. Hôm nọ
cũng đang ngồi nơi quán cà phê của Hồ Hoàng Đài tôi còn nghe có chuyện lộn xộn
trong giới họa sĩ. Hỏi ra mới biết bên cạnh quán của Hoàng Đài có cái nhà vẽ
quảng cáo của họa sĩ Nam, học trò trường Trang Trí Mỹ Thuật của ông giám đốc Trương
Văn Ý. Vợ anh họa sĩ Trần Kim Hùng đi chợ ngang qua đó thấy Nam có sao lại mấy
bức tranh của anh chồng mình. Chị ta vào xem giả bộ làm khách hàng đặt cọc nhờ
Nam sao cho chị ta vài ba bức nữa. Chị còn hỏi có mẫu khác không thì Nam lật
‘album’ ra thấy có tài liệu ảnh chụp còn cả khối. Chị đưa tiền trước bảo Nam
viết biên nhận và hẹn tháng sau đến lấy tranh. Không dè đến ngày đó chị dẫn
chồng kéo theo số anh em trong ban chấp hành của Hội Mỹ Thuật. Sở Thông tin
thành phố và ban công an Quận Nhứt cùng đến hiệu vẽ quảng cáo của Nam làm biên
bản. Nam khai ra vụ nầy anh làm cho ông Trương Văn Ý ở Sở Học liệu bên cạnh nhà
anh. Ông Ý và Trần Kim Hùng cùng làm một phòng. Hùng thường vẽ tranh đưa cho
ông Ý bồi. Xưa kia ông Ý làm giám đốc trường Trang Trí Mỹ Thuật thì ông Hùng
làm giáo sư trường Cao Đẳng Mỹ Thuật. Hai người là bạn với nhau, đi học cải tạo
về cùng làm chung một phòng. Lúc đó anh Đỗ Mạnh Tường cũng là họa sĩ học cùng
lớp. Anh là cán bộ nằm vùng có công trong trận Tổng công kích Tết Mậu Thân đưa
du kích đi đánh phá Cầu Sơn và Cầu Đại Hàn ở Thị Nghè. Nay anh được Việt cộng
cho làm lớn. Gặp vụ lôi thôi nầy, Tường đứng ra giảng hòa. Bảo là đồng nghiệp
với nhau cả ai lại đưa nhau ra tòa chỉ làm nhục cả đám anh em trường Mỹ Thuật.
Đến khi coi lại thì ra Đỗ Mạnh Tường cũng là đầu nậu lái tranh như Trương Văn
Ý. Đám lái tranh thường bỏ ra số vốn nhỏ
nhoi thuê anh em vẽ để họ ký tên tác giả. Trường hợp vẽ mười bức, họ chỉ trả
tiền vài ba bức thôi để cột chân mấy anh em họa sĩ nghèo phải vẽ cho họ bóc
lột. Họ rất thính mũi đối với những người mua tranh. Mấy cô thư ký ở Hội Mỹ
Thuật, Sở Ngoại thương, Sở Ngoại vụ, Phòng Trưng bày đều là ‘ăng ten’ của họ.
Nghe đâu bây giờ Trương Văn Ý cũng có phòng trưng bày ở Đồng Khởi. Còn Trần Kim
Hùng có con gái là Thu Nguyệt, học trò ruột của Nguyễn Hữu Ba và Nguyễn Văn
Đời. Cô có nhiều cuốn băng Đờn Tranh và đờn Độc Huyền Cầm rất hay. Thu Nguyệt
lấy chồng ở Canada. Hôm 1996 vợ chồng Trần Kim Hùng có qua ở bế cháu ngoại hai
năm. Tôi hỏi sao Hùng không đi theo diện H.O., anh ta bảo là không thể bỏ vườn
rau ao cá của mình được. Đồng thời sống ở Mỹ quá bận rộn không thích hợp với
những người lớn tuổi. Anh bảo gia đình Thu Nguyệt tuy làm ăn khá, cô ta có cây
xăng. Anh chồng có hiệu bán ‘radio’ và máy vi tính. Hai người chỉ gặp nhau bữa
cơm tối lúc mười một giờ, đâu có rảnh rang để đánh đàn như ngày ở Việt Nam.
Năm 1995 tôi
qua nhà Phạm Thế Trung ở Toronto gặp vợ chồng họa sĩ Nghiêu Đề lúc ấy Nghiêu Đề
rất yêu đời. Gia đình anh có đứa con gái chiếm giải nhất về luận văn được học
bổng đi tham quan nước Nhật. Còn hai vợ chồng Nghiêu Đề thì đi du lịch Canada.
Chúng tôi gần chục năm mới gặp nhau. Nghiêu Đề nói có người kêu anh em mình vẽ
tranh thật nhiều, xấu tốt gì họ cũng lấy hết. Có thể đem về Việt Nam bán, vì
hiện nay tranh ở Việt Nam có giá lắm.Tôi nói mình đã đi khỏi Việt Nam lâu rồi
còn vẽ tranh mang về đó bán làm gì, tốt hơn sao không ở luôn bên ấy đi. Hơn nữa
anh em mình đã từng vẽ tranh sơn mài cho Ngoại thương bị bọn họ bắt chẹt. Họ
đổi tiền đến hai ba lần, trong khi đó mình giao hàng vẫn bị ép một giá, không
chịu lên xuống lấy gì ăn. Tranh đấu để đòi hỏi thì họ bảo mình phản động. Vậy
thì còn làm ăn cái nỗi gì? Ngày đi cải tạo về mình nghèo đói thật. Mình quyết
làm ăn để nuôi vợ con. Nay sống ở nước ngoài, con cái đổ đạt cả rồi. Chúng đâu
có bắt mình nuôi nữa, còn mua sơn cọ bảo mình vẽ tranh cho thật lớn để chúng nó
trưng bày nhà mới. Còn có tranh đâu nữa để bán cho bọn cán bộ. Bây giờ mình vẽ
là chỉ để vui chơi thôi. Cũng như người thưởng ngoạn họ mua tranh mình cũng để
ngắm chơi vậy. Lỡ mai sau nó thành tác phẩm thì đó là chuyện của mai sau. Vẽ như
vậy mới thấy thích tay hơn hồi xưa mình giao hàng cho nhà nước. Nay giá tranh
bên Việt Nam có lên cũng thây kệ họ. Nghe đâu bên nhà mỗi tên lãnh đạo hạng
gộc, mỗi tên giám đốc công an đều có một bộ sưu tập tranh không ít thì nhiều.
Số tranh nầy là do thiên hạ hối lộ cho tụi nó. Do đó chúng nó muốn làm giá thế
nào mà chẳng được. Nó đè cổ bọn đầu tư ra mua tranh, đó là công tác văn hóa mỹ
thuật chớ có phải tham nhũng thối nát đâu. Cũng như giá nhà đất mà chúng nó đã
thế chấp cho ngân hàng nhà nước. Kiểu như phong trào chim cút thời Đệ nhị Cộng
hòa vậy thôi.
Hôm rồi tôi
cũng có nghe anh Tiến nhà báo Như Phong nói cụ Nguyễn Gia Trí có bán cho thành
phố H.C.M. bức tranh sơn mài với giá hai trăm ngàn đô. Có người còn cho biết
bức tranh sơn dầu của họa sĩ Đỗ Quang Em người ta mua đem qua Mỹ bán lại với
giá hai mươi ngàn đồng đô la. Như vậy tranh của họa sĩ Việt Nam cũng ngang ngữa
với tranh của các danh họa trên thế giới như Van Gogh và Picasso rồi còn gì.
Tôi thấy lòng mừng khấp khởi vì anh em mình những người cầm cọ cũng được thơm
lây. Nghiêu Đề nheo mắt tức cười:
- Coi vậy mà
không phải vậy đâu! Anh mà tin vào đó bán lúa giống đó nghen.
Phải công
nhận trong thời kỳ đổi mới, tranh ở Việt Nam bán khá thật. Giá tranh tự nhiên
lên ào ào. Giá nhà đất còn cao đến vói không tới. Đúng là người ta
nói: ‘Bao nhiêu tất đất tất vàng bấy nhiêu’ là như thế. Giới đầu tư ngoại
quốc lúc đầu tưởng đâu Việt Nam là thị trường béo bở nên ào ào nhảy bổ vào làm
ăn. Dĩ nhiên bọn cán bộ khố rách áo ôm lấy cóc khô gì làm vốn để đầu tư với người
ta. Dựa theo Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì mọi tư liệu sản
xuất, từ ruộng vườn nhà đất, ‘vòm trời vòm biển’ là của toàn dân, không ai được
quyền xâm phạm. Của toàn dân ở đây có nghĩa là của tập thể, của đảng và nhà nước,
chớ không phải của một cá nhân nào. Đừng có mừng vội. Do đó bọn cán bộ công an
xúm nhau lại nhắt giá nhà đất lên cho thật cao để làm vốn thế chấp cho ngân
hàng làm ăn với đám đầu tư ngoại quốc. Chúng sập tiệm hết vốn thì nhà đất vẫn
là của tập thể thôi. Còn tiền bạc chui vào túi cán bộ. Như vậy của thiên trả
cho của địa.
Tác phẩm mỹ thuật cũng thế. Mỗi khi có triểm
lãm mỹ thuật chào mừng đại hội đảng, các họa sĩ thuộc Hội Mỹ Thuật phải chấm
phát thảo. Họ tô màu trên những mảnh giấy bằng bàn tay đem trình cho ban tổ
chức để cùng góp ý tham khảo. Khi phát thảo được chấp thuận để lên tranh, họ được
làm phiếu đi lãnh vật tư để sáng tác chứ đâu có dư giả để vẽ chơi. Họa sĩ Bùi
Xuân Phái cả một đời bị đảng trù ếm đến
nghèo đói tả tơi. Nên tranh của Bùi Xuân Phái chỉ vẽ lớn bằng bàn tay. Anh thường
vẽ trên bìa tập vở, bao thuốc lá, nắp hộp bánh trung thu. Người nước ngoài mua
được mấy cái tranh của Bùi Xuân Phái ngày nay đó là tranh được chép lại trên khung
bố đàng hoàng do mấy xưởng tranh quốc doanh của nhà nước thực hiện. Họ vẫn ký
tên Phái và bán vun vít cho khách hàng, có ai nói gì đâu.
Đối với Hội
Mỹ Thuật thành phố từ khi có nghị quyết “đổi mới xóa bỏ chế độ bao cấp” bắt Hội
phải làm ăn trả lương cho nhân viên và điện nước của văn phòng. Họ cho thuê
phòng khánh tiết để cá nhân họa sĩ làm triển lãm. Họ khuyến khích những họa sĩ
hội viên phải tự túc làm ăn như lãnh các dịch vụ trang trí và thiết kế các cửa
hiệu, cửa hàng, vũ trường, sàn nhảy, hí viện và cả hộp đêm v.v… Trường hợp cá
nhân họa sĩ không có trương mục, không có văn phòng, không có vốn để thi công,
Hội sẽ đứng ra thay mặt ký hợp đồng tạm ứng tiền bạc vật tư và cử người liên
lạc làm giấy tờ tạo điều kiện cho họa sĩ làm việc. Dĩ nhiên quyền lợi của Hội
phải có mấy phần trăm trong đó. Nhờ vậy các họa sĩ lúc ấy bu quanh Hội Mỹ Thuật
thành phố cũng giống như gái điếm bu quanh mụ tú bà. Năm 1985 khởi đầu giai
đoạn ‘đổi mới’, người ta thấy trong mấy cơ quan nhà nước đều có treo câu khẩu
hiệu: ‘Không được hối lộ, người đưa hối lộ nhất định phải bị tù’. Giới đầu tư
ngoại quốc nhất là người châu Á như Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Đại Hàn họ
mang nặng đầu óc Khổng Giáo. Có bệnh thích đưa hối lộ. Thể hiển tinh thần ‘hiểu
ý dễ làm việc’. Nhưng họ không biết làm sao để đưa tiền ra cho đẹp. Bọn cán bộ
công an mới nghĩ ra kế sách rất độc đáo tổ chức những cuộc triển lãm mỹ thuật
mang tính cách từ thiện như cứu trợ nạn nhân bảo lụt, giúp đỡ trẻ mồ côi v.v…
Chúng mời hết mấy anh chàng đầu tư ngoại quốc đến dự lễ khai mạc. Chúng nâng
giá tranh lên thật cao, dí cổ mấy nhà đầu tư vào. Dĩ nhiên là họ phải mua để
lấy lòng mấy tên lãnh đạo để ký cho họ giấy phép xây cất hãng xưởng, khách sạn.
Hay khởi sự các qui trình sản xuất chẳng hạn. Đồng thời bọn cán bộ cho mấy tờ
báo công an bốc thơm lên rùm ben ca ngợi đức tính từ thiện của mấy ông chủ xì
thẩu.
Từ Nam chí
Bắc bọn cán bộ cộng sản bắt chước nhau, núp bóng văn hóa mỹ thuật để mượn đầu
heo nấu cháo. Mấy anh chàng họa sĩ trẻ biết ai đâu mà mời nên làm cóc khô gì
tạo được phong trào Mỹ Thuật trong giai đoạn ‘đổi mới’ đó. Nghe đâu đám cán bộ
công an ‘ăn quả cũng nhớ kẻ trồng cây’, họ cũng chịu khó rót cho đám họa sĩ
chút ít cũng khoản vài ba chục phần trăm. Anh em cũng thấy vui mừng, coi như
mình được dịp trúng mánh. Tuy vậy cũng
còn hơn họ đem trưng bày ở hành lang hay mấy ‘gallerie’ của nhà nước. Sở dĩ đám
thành ủy Sài Gòn mua bức sơn mài của cụ Nguyễn Gia Trí năm 1995 với giá hai
trăm ngàn đô la cho Viện Bảo Tàng Thành phố ở lầu Chú Hỏa đường Phó Đức Chính.
Họ cốt làm tăng giá trị cho Viện Bảo Tàng nói trên, cũng giống như Sở Thú phải
có con voi, con cọp, chứ sắm toàn nai với khỉ thì coi sao được. Hơn nữa cụ
Nguyễn Gia Trí năm đó cũng đã cao tuổi lắm rồi. Cụ chỉ còn sống vài năm nữa là
cùng. Số tiền bán được phải ký thác vào ngân hàng nhà nước chứ làm sao cụ xài
hết nổi thì tiền vẫn ở trong túi họ thôi. Dĩ nhiên khi bán tranh rồi năm sau cụ
Nguyễn Gia Trí qua đời.
Bức sơn dầu
của Đỗ Quang Em bán ở New York ba mươi ngàn đô la chẳng qua là hình thức của
bọn cán bộ rửa tiền thôi. Năm 1989 tôi chuẩn bị giấy tờ rời Việt Nam, tôi có
gặp Đỗ Quang Em còn đi xe đạp. Anh kiếm ăn bằng nghề in áo thung lá bỏ bán ở
chợ Sài Gòn. Nghe đâu anh đi làm ăn sơ ý bị mất chiếc xe đạp làm cả gia đình
phải điêu đứng. Trong thập niên 80 anh vượt biên đến hai ba lần đều thất bại,
mất cả chì lẫn chài, phải nằm ấp ở Phan Thiết cả năm. Do người ta đồn tranh ở
Việt Nam có giá khiến đám họa sĩ ở Californie kéo về Sài Gòn trưng bày, nhưng
họ có phát tài tí nào đâu. Thử hỏi tranh ở Việt Nam có giá bán chạy như tôm tươi
tại sao họa sĩ bên đó lại nghèo rạc như thuở nào. Người ngoại quốc than phiền
họa sĩ Việt Nam hay chơi trò sao tranh đến hai ba bức một đề tài. Đến đỗi họ
không có can đảm treo thứ tranh bản sao, thà là họ treo tranh in lại còn hơn. Hỏi
ra mới biết đám họa sĩ trong nước bị bóc lột quá mức. Từ nhà nước đến bọn cán
bộ công an cho đến phòng trưng bày và bọn lái tranh chia chác với nhau. Bán được
bức tranh tưởng đâu trúng mánh dè đâu bị bọn kên kên quà quạ xúm rỉa kết sạch,
chỉ còn được rơi rớt có vài phần trăm thôi làm họa sĩ rách quá cỡ, bảo sao
chẳng sao tranh tùm lum làm sao được. Ngày còn ở Việt Nam chính tôi cũng rơi
vào cảnh nầy. Bán được bức tranh trưng bày ở Phòng Triển Lãm Mini Rex, cửa hàng
lấy 40%, phòng kế toán làm giấy tờ cho tác giả được lấy tiền sớm. Đổi tiền đô
la ra tiền ngân hàng phải mất cho họ 20%. Cho tiền tiếp cô bán hàng mời khách
15%. Bảnh lắm họa sĩ chỉ lấy được 30% là cùng, chưa kể còn phải trả nợ tiền
khung tiền gương cho chú thợ mộc. Ai cũng dư biết báo chí nằm trong tay nhà nước
nên họ quậy lên làm phong trào Mỹ Thuật Việt Nam dễ ợt. Những người ‘dealer’ và
những nhà sưu tập tranh nước ngoài bán tín bán nghi thấy vậy tưởn đâu béo bở nhảy bổ vào hốt một số tranh tưởng
có lời ấp lẫm. Ngờ đâu chỉ là buổi chợ chiều.
Bước vào năm
1997 các nhà đầu tư nước ngoài hô toáng lên là làm ăn thua lỗ, xảy ra rất nhiều
rủi ro, kéo nhau rút vốn bỏ chạy ra khỏi Việt Nam. Đám ở lại có người bị công
an bỏ tù. Nghe tưởng đảng cộng sản Việt Nam ‘đổi mới’, thật ra lại gần mới rõ
là họ đổi ra thành một đảng ăn cướp. Nay bọn cán bộ công an không cần núp bóng
đám họa sĩ trẻ để làm phong trào Văn Hóa Mỹ Thuật nữa. Bộ mặt tham nhũng của
chúng trở thành công khai. Bọn họ khảo tiền đám đầu tư nước ngoài thẳng tay,
không thì bỏ tù. Chẳng cần mang cái mặt nạ Mỹ Thuật nữa, vì tham nhũng nay trở
thành chuyện bình thường không có gì đáng ngại nữa. Họ bảo anh em nào có điều
kiện họ cấp giấy cho đi ra nước ngoài trưng bày. Họ gọi là ‘giao lưu văn hóa’.
Tôi có hỏi thăm một vài anh họa sĩ trẻ ôm tranh đi trưng bày ở Mỹ, họ lắc đầu
ngán ngẫm nói với tôi:
- Thôi bác ơi!
Thà tụi cháu đi tù còn sướng hơn ‘giao lưu văn hóa’ qua Mỹ, mặc dù có người ta
đưa đón giúp mình bày tranh nhưng thật ra tụi cháu không biết tiếng Mỹ, không
có bằng lái, không biết đường sá gì hết chẳng khác nào như người mù. Ở nhà người
bảo trợ thì sáu giờ sáng vợ chồng họ dỡ cơm đi làm cho tới tối. Cuối cùng họ mượn
mấy quán phở hay nhà hàng ăn uống để trưng bày. Khách Mỹ họ đến chỉ để ăn uống
chớ họ đâu có biết mình triển lãm tranh. Đã thế còn bị bà con cộng đồng người
Việt tỵ nạn vác cây đến đuổi nữa. Sau cùng lật đật chạy về mất cả tranh hết. Có
điều mình được đi xa về nhà nói phét sướng mồm. Mình nói tranh rất được hoan
nghinh và đã bán sạch, từ đó mình lại còn lên mặt với đám họa sĩ trong nước.
Anh ta nói
tiếp:
- Nhất là
mấy tên cán ngố nhà quê. Mình hơn bọn họ ở điểm là đã đi Mỹ về có thế thôi.
Cháu nói thiệt từ đây họ có thuê cháu đi lần nữa cháu cũng xin chừa. Ở Việt Nam
đói vậy mà còn sướng hơn, sáng xỉn chiều say, có nghèo cũng còn sướng thân hơn
vì tất cả mọi người ai cũng nghèo hết, chỉ có cán bộ giàu thôi. Ở Mỹ không hòa
nhập với đời sống, với họ, coi như mình bị đi đày khốn khổ như con cá sống trên
cạn.
Kể từ khi ‘đổi mới’ đám họa sĩ trẻ trong nước
được dịp múa may quay cuồng. Đám họa sĩ già bình như chân vại nên bọn trẻ chê
là họ bảo thủ. Trên tờ tạp chí Mỹ Thuật Thành phố, họa sĩ Ca Lê Thắng con trai
của Ca Lê Thuần giám đốc Sở Thông tin Thành phố viết : ”Kể từ 1995 họa sĩ
ở thành phố H.C.M. có đến 130 nhóm. Hàng trăm triển lãm cá nhân và tập thể, số
tác phẩm lên đến 5.500 bức. Còn có họa sĩ ở nước ngoài cũng đến trưng bày ở Sài
Gòn, Hà Nội. Có sự trao đổi với những nước ngoài như bày tranh ở Queens Land
College of Art ở Úc. Sài Gòn, Hà Nọi, Huế đã có trên năm mươi phòng trưng bày
Gallerie”. Từ trước tới nay họa sĩ trong nước chỉ vẽ theo hiện thực xã hội chủ
nghĩa, nay đã xuất hiện tranh trừu tượng vô hình dung. Một số họa sĩ bị phân
biệt như Đỗ Quang Em, Khưu Đức, Nguyễn Quang Huy, Đặng Xuân Hòa, Nguyễn Tư
Nghiêm bây giờ được sinh hoạt bình thường như các họa sĩ đảng viên. Họa sĩ Việt Nam có trao đổi
với Asia Pacific Trimminal of Contemporary Art năm 1993 ở Brisbane nước Úc.
Phía nhà nước còn mở một phòng tranh thường trực tại Hồng Kông, Gallerie Lã
Vọng Contemporary Vietnamese Art tại số 13/F One Lankwai Fong Central, Natasha
do người Nhật điều hành.
Ngành báo chí và
xuất bản bị bóp nghẹt, riêng bộ môn Mỹ Thuật thì được cởi trói. Đảng và nhà nước
coi tác phẩm hội họa như là một thứ hàng hóa vô thưởng vô phạt lại còn trở thành
một nguồn lợi khá lớn cho bọn tham nhũng. Miễn sao đem được đô la vào túi bọn
cán bộ công an thì được họ nâng đỡ. Thật ra ‘đổi mới’ tại Việt Nam là một trò
chơi cút bắt, kẻ thua cuộc thuộc về giới đầu tư nước ngoài. Thấy rõ họ đã thua
trắng tay và bỏ chạy khỏi Việt Nam. Bây giờ họ chẳng còn nói Việt Nam là một
thị trường béo bở, tranh Việt Nam có giá nữa. Những nhà sưu tập tranh ở nước
ngoài năm 1995 cũng nhảy vào Việt Nam vét được một số tranh như ngậm phải những
viên thuốc đắng. Bây giờ họ phải thuê mấy tờ tạp chí mỹ thuật ở Mỹ bốc lên vun
vít mong gỡ gạt chút đỉnh. Nhưng thật ra số tiền đầu tư vào Mỹ Thuật Việt Nam
thà bỏ vào túi bọn cán bộ công an còn hơn tất cả cùng một số phận với giới đầu
tư ngoại quốc. Bây giờ cộng sản Việt Nam thấy mình chơi bẩn quá nên khua chiên
múa trống qua cái điều ta đây chống tham nhũng cửa quyền. Đưa ra một số dê con
tế thần cố tình mời gọi giới dầu tư nước ngoài trở lại làm ăn với bọn chúng
thêm một lần nữa. Chuyện cũ bỏ qua, mọi việc đâu còn đó, xin xóa bài chơi lại
ván khác hứa hẹn sẽ vui hơn.
Hiếu Đệ
**
Trần Đuôi
Ngựa
Kính gởi anh Võ Phước Hiếu,
Trước
hết, trong lần giao duyên thứ hai này, tôi xin được gọi anh bằng tiếng anh chân
tình để được gần gũi thân mật hơn, không còn khách sáo, xã giao thông thường
ngoài đời. Hơn nữa, tôi đoán chắc anh cũng đồng một lứa tuổi với tôi, hoặc nếu
có lớn hơn tôi thì cũng chỉ lớn một vài tuổi là cùng. Mà ở Việt Nam mình, ông
bà cha mẹ tôi thường có dạy, ra ngoài xã hội, trong giao tế hằng ngày, nhứt
thiết phải tôn ti trật tự, vai vế trên dưới minh bạch rõ ràng. Như khi ra
đường, cứ trông dáng mạo diện tướng, thấy người nào lớn hơn mình đôi chút thì
gọi là anh là chị để được lòng nhau, chẳng mất mát chi. Chắc anh cũng không hẹp
hòi gì về đề nghị này của tôi. Tôi tin tưởng như thế.
Sau đây,
tôi xin được tự giới thiệu ngay qua đôi dòng thô thiển, mộc mạc để anh không
phải ngạc nhiên. Vì trong bức thơ trước, khi mới làm quen với anh, tôi không
thể đường đột trình bày cặn kẽ, thấu lý thấu tình được. Nay tôi nghĩ đây là một
cơ hội thuận tiện, quý hiếm giúp tôi có thêm sức mạnh để hầu chuyện với anh.
Tôi có dịp đọc qua những chuyện viết về đồng quê Miền Nam do anh cho đăng rải
rác trên các tạp chí văn học nghệ thuật ở Âu Châu, Gia Nã Đại và Hoa Kỳ, Úc
Châu... hoặc sau này đã được in thành sách. Nói tôi là độc giả trung thành của
anh không hẳn đúng như vậy nhưng xét kỹ cũng chẳng sai lắm. Vì tôi chỉ đọc khi
những dịp may đưa đến hoặc bất chợt trong một hoàn cảnh tình cờ thôi. Lý do là
qua bên này tỵ nạn Cộng sản, ngỡ ngàng nơi xứ lạ quê người với sự hội nhập khó
khăn vào sanh hoạt văn minh kỹ thuật tân tiến cũng như ngôn ngữ, tôi đã đổi
nghề trí óc sang làm một nghề chân tay vô cùng nặng nề vất vả. Đồng lương lại
giới hạn ở mức độ tối thiểu. Kèm theo còn thêm gánh nặng cơm áo gia đình trĩu
đè trên đôi vai.
Tôi vốn
dĩ không được dư giả gì để ấp ủ, ước mơ hầu mua đọc nhiều báo chí, tập san và
sách vở Việt ngữ chọn lọc ở khắp nơi trên thế giới. Mặc dù tôi có thú đam mê
trong xương trong tủy là ham thích đọc sách báo ngay từ lúc thiếu thời lúc còn
mài đũng quần ở ghế nhà trường. Do vậy, thỉnh thoảng tôi mới bắt gặp đôi bài
viết của anh nơi một vài tờ báo do bạn bè mua dài hạn hay ở báo cũ mượn của
thân hữu. Dù vậy, ở đây, tôi xin thành thật cám ơn anh đã cho tôi được sống lại
những ngày xa xưa nơi chôn nhao cắt rún của tôi thuộc vùng đồng bằng sông nước
Cửu Long. Có lẽ vì thuộc một chạng tuổi với anh nên sự cảm thông và tâm đắc
những tình tiết trong những câu chuyện kể, đến với tôi rất nhanh chóng và thâm
trầm ý nghĩa. Nhờ anh mà tôi được vỗ về an ủi trong tâm tư tình cảm sau những
lúc làm việc mỏi mệt, cô đơn cô độc, lúc nào cũng chỉ thấy trong lòng mình
trống vắng quạnh hiu. Những khi ấy, tôi càng thêm thương nhớ chéo đất góc vườn
hương hỏa mà ông bà rồi đến cha mẹ tôi đã dày công tạo dựng, chắt chiu để lại
cho tôi, nay đã vuột khỏi vòng tay tôi từ sau tháng Tư Đen 1975. Nhưng cũng nhờ
anh, nay tôi càng gắn bó khắng khít thêm với "quê cha, quê mẹ, quê
mình" hơn lúc nào hết trong đời.
Tôi dong
dài như vậy gọi là có trước có sau để chung cuộc xin nhờ anh tiếp tay giúp tôi
một việc. Tôi hy vọng anh sẽ chấp nhận và thông cảm về sự đường đột này của
tôi. Ngày trước, chí tình mà nói, tôi ăn
học không được bao nhiêu, chỉ ít năm sau khi dứt cấp tiểu học rồi đứt đoạn do
hoàn cảnh lịch sử sôi bỏng của nước nhà. Tức nhiên nói theo kiểu chân quê của
ông bà cha mẹ tôi là không đến nơi đến chốn. Do sự dang dở đó nên chữ nghĩa đối
với tôi đương nhiên có giới hạn. Tầm nhận xét và phán đoán của tôi cũng có
chừng mực. Sự việc này dễ hiểu thôi. Thêm vào đó, ông Trời không cho tôi có
được khả năng bẩm sinh thiên phú như đối với một số bạn bè của tôi may mắn thành
danh nên tôi diễn đạt ý kiến và tư tưởng của mình khá lượm thượm.
Số là
tôi muốn ghi lại đôi điều, đôi đoạn về cuộc đời thăng trầm, ba chìm bảy nổi,
mới có đó rồi bỗng dưng lại trắng tay của tôi. Trắng tay một cách tình cờ và
đau đớn. Tôi gọi đây là một chút kỷ niệm đáng ghi nhớ trong đời để làm quà tặng
lưu lại cho con cháu tôi. Chúng đều sinh trưởng hoặc lớn lên, cưới vợ lấy chồng
làm ăn sinh sống nơi miền đất lạ này. Nhưng nỗi buồn thấm thía của tôi, cứ mãi
vấn vương, ray rứt gậm nhấm tôi là hầu như tất cả đều chỉ hiểu biết rành rọt về
quê người hơn là đối với đất nước quê hương, cội nguồn tộc họ của chúng. Ngày
xưa, ông bà cha mẹ tôi chẳng những có tiền có của, nhà cửa kinh dinh, lẫm trại
dọc ngang, ruộng vườn điền đất hương hỏa... rải rác trong làng trong tổng lưu
lại cho con cháu mà còn để lại cái tiếng trong sạch tốt lành nữa. Nhờ vậy, con
cháu bao nhiêu thế hệ tiếp nối về sau được thơm lây, nở mày nở mặt. Chẳng qua
nhờ người xưa hành xử không ngoài mấy chữ sơn son phết vàng: nhân nghĩa, đạo
đức sáng trưng. "Có đức mặc sức mà ăn".
Bây giờ,
tôi đã hoàn toàn thật sự tay trắng từ dạo mấy tên răng đen mã tấu Cộng sản hiếu
chiến và khát máu Miền Bắc, phối hợp với đám chăn trâu đồ tể, đá cá lăn dưa khờ
khệt, nhẹ dạ non lòng Giải phóng Miền Nam, cưỡng chiếm bức tử Miền Nam thân yêu
của chúng ta. Đến giờ phút viết bức thư tâm tình cuối đời này, tôi vẫn trắng
tay sau mấy thập niên đằng đẵng, ngày ngày bầm dập với nợ áo cơm nơi đất tạm
dung nghiệt ngã, buồn nhiều hơn vui. Tôi đoán biết mình sẽ chẳng bao giờ có mảy
may cơ hội để tạo dựng một tài sản gì. Dù tài sản ấy nhỏ nhoi, hay tượng trưng
đi nữa, ngõ hầu có tham vọng để lại cho con cháu hết anh à! Duy tôi có mấy
trang viết tay, có thể tạm gọi là sơ thảo nên còn lượm thượm, đầu đuôi lẫn lộn,
ý tứ rời rạc về một vài góc cạnh đáng yêu trong cuộc đời quá ư tầm thường của
tôi nơi quê nhà ngày trước. Nói rộng hơn một chút, tôi đã cố gắng moi móc, lục
lạo trong những ngõ ngách chằng chịt của trí nhớ để chấm phá, đúc kết với chút
ít ý hướng hệ thống hóa phần nào những sinh hoạt của cá nhân và gia đình dòng
tộc tôi. Việc này chỉ nhằm duy nhứt mục đích và hoài bão nhắc nhớ một số sự
việc và chi tiết về nguồn gốc tổ tiên, ông bà cha mẹ tôi, gọ là "uống nước nhớ nguồn", "ăn
trái nhớ kẻ trồng cây", tưởng nhớ người xưa.
Và cũng
nhờ anh đã thương tình nhanh chóng hồi âm bức thơ đầu tiên tôi gởi, quả tình
anh không quản ngại mất thì giờ quý báu và công khó nhằm khuyến khích, nâng đỡ
tinh thần tôi. Vô hình trung, anh đã thôi thúc tôi mạnh dạng cầm viết sửa chữa,
bổ túc, thêm thắt... để hoàn tất những phân đoạn tưởng chừng dang dở và mãi mãi
sẽ dở dang. Tôi cám ơn anh nhiều lắm. Nhưng thưa anh! Anh đã có công khó nắn nót ý tình khuyến
khích tôi thì anh hãy sẵn sàng một khi đã làm ơn cũng nên làm ơn cho trót. Tôi
tha thiết xin anh vui lòng uốn nắn, bổ khuyết cho trơn tru súc tích bài viết
kèm theo đây để tôi làm quà tặng các con cháu như tôi đã trình bày trên đây.
Một món quà tâm linh tình cảm và tinh thần nhắc nhớ chúng nó phải quan tâm
thương nhớ mảnh đất chôn nhao cắt rún của tôi, hồi hướng vọng tưởng về nguồn
gốc cội rễ của gia đình dòng tộc tôi. Qua đó, tôi cũng ước mong chúng sẽ mãi
mãi phát huy bổn phận và trách nhiệm đối với quê hương Việt Nam, một quê hương
kém may mắn nhứt so với các quốc gia trên thế giới vì hiện tại vẫn còn điêu
linh thống khổ, bất hạnh triền miên.
Tôi nói
anh đừng cười tôi. Vì tôi xem đây như là "bản di
chúc" của mình. Và tôi rất muốn nó sẽ sớm được thành hình hoàn hảo
để chính tay tôi kịp thời trao cho các con cháu, thay vì đợi đến khi tôi chẳng
may qua đời bất thình lình, chúng nó mới khám phá trong ngỡ ngàng. Tôi mong anh
đừng từ chối, biết rằng anh ít khi có thì giờ rổi rảnh cho lắm.
Trân
trọng kính chào anh.
Ký tên
Trần
Duy Nghĩa
Vùng đồi núi Pau, ngày 25/12/2002
**
Tôi đọc xong bức thư tình
nghĩa khá dong dài nhưng rất đỗi chí tình của anh Trần Duy Nghĩa. Tôi suy nghĩ
rất nhiều. Lòng tôi nửa vui nửa buồn... Vui vì tôi vừa có thêm một người bạn
mới quen nơi đất lạ quê người, lại đồng hội đồng thuyền, đồng cảnh ngộ, đã chia
xẻ và cảm thông những gì tôi đã trang trải bấy lâu nay trên giấy trắng mực đen
về quê hương cùng cóc, nghèo chí tử của tôi. Buồn vì khi đọc một mạch từ đầu
đến cuối bài viết mộc mạc, chân thành nhưng hấp dẫn lôi cuốn của anh mà trong
nội dung có rất nhiều đoạn, nhiều chi tiết sự việc bắt tôi phải quan tâm để xúc
động, ngậm ngùi.
Anh Trần Duy Nghĩa quá khiêm nhường nhưng tôi có thể đoán
biết trình độ học vấn và văn hóa của anh không phải ở mức bình thường. Dĩ
nhiên, việc anh thay đổi nghề nghiệp trí óc của anh trước đây nơi quê nhà để
bất đắc dĩ phải chấp nhận làm một công việc lao động chân tay nặng nề không
phải là trường hợp duy nhứt trong cảnh ngộ lưu vong. Biết bao nhiêu người trong
cộng đồng Việt Nam hải ngoại đã phải trải qua những ngày tháng oái oăm trầm
thống, nghiệt ngã tột cùng đó. Do vậy tôi vội vàng viết ít lời ngắn ngủi sau
đây để gởi đến anh:
Kính gởi anh Trần Duy
Nghĩa,
Đọc kỹ
thư anh đôi lần ba lượt, tôi có nhận xét sau đây xin được gởi đến anh ngay.
Chắc anh cũng đang chờ tin tức hồi âm của tôi. Tôi viết với tất cả lòng thành
mong anh hiểu cho. Văn phong của anh nào phải lượm thượm, thiếu trong sáng như
anh đã viết. Anh không hề chải chuốt cầu kỳ. Trái lại ý tứ lại sắp xếp khúc
chiết, có lớp lan mạch lạc. Thêm vào đó, tình cảm của anh lại chơn chất đôn
hậu. Anh viết lên những sự thật của chính đời anh, không mảy may hư cấu, cũng
chẳng hề cường điệu nên tôi thiết nghĩ chẳng cần phải thêm bớt hay uốn nắn
khách sáo chi cả. Vì sự thật trong tính chất và tình tiết tự nó quả đã đẹp rồi.
Vì lẽ đó, sau đây, tôi chỉ ghi lại đầy đủ nguyên văn của anh, gọi là để tôn
trọng một bản văn quý hiếm được anh tưng tiu với tất cả tấm lòng tha thiết xem
như là lời "di chúc" đúng như anh nói trong thư, nhằm gởi gấm cho con
cháu nơi đất tạm dung có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy. Tôi cũng nghĩ đây quả
thật là một chút tình trong sáng và có ý nghĩa nhứt của anh vậy. Tôi rất mong
anh thông cảm thái độ và quan điểm này của tôi.
Thân ái.
Võ Phước Hiếu
Lille,
ngày 30/12/2002
**
Tôi sanh trưởng và lớn lên
nơi một làng khắc khổ nghèo khó nằm sâu hóm giữa vùng sông nước bạt ngàn đồng
bằng Cửu Long với phong quang cảnh trí lôi cuốn gọi mời. Làng tôi lưa thưa độ
năm ba chục nốc gia sống chùm nhum đôi ba cụm, chỉ cần hú gọi một tiếng lớn thì
nhà này nghe rõ từ nhà kia dễ dàng, dù ngăn cách nhau năm ba thửa ruộng. Hằng
năm đều có lũ lụt nhơn những ngày mùa nước nổi lênh bênh một màu trắng xóa. Do
đó, nhà cha mẹ tôi được cất theo kiểu nhà cao cẳng, giống như loại nhà sàn của
người Thượng trên Tây nguyên Hoàng Triều Cương Thổ. Nhưng chí tình mà nói, ngôi
nhà từ đường nơi tôi sinh trưởng này không đến đỗi cao nghều nghệu như nhà
người Thượng. Nó thấp lè tè hơn nhiều, vừa đủ cho heo chó, gà vịt thư thả chạy
giỡn bay nhảy rậm đám phía dưới. Dù vậy, nó có vẽ lạ mắt đối với bà con trong
làng trong tổng. Nó chẳng giống một ngôi nhà truyền thống nào cả trong vùng. Vì
nó là ngôi nhà duy nhứt cất theo kiểu này ở cảnh thổ hắt hiu quê tôi. Do những
kinh nghiệm thực tế kinh qua trong đời khiến cha mẹ tôi có ý thức chống lụt và
nghĩ ra kiến trúc độc đáo đó chăng? Dù sao, nó đã đứng vững một thời, gọi mời
sự thưởng ngoạn ngắm nhìn của bà con tôi mỗi khi họ có dịp đi qua ngôi đất của
cha mẹ tôi.
Một trăm phần trăm dân cư ở đây đều đeo đuổi theo nghề
nông cha truyền con nối, một cái nghề vất vả bầm dập, trần thân khổ ải từ thời
tằng tổ, huyền tổ xa xưa của họ. Ngay thuở ấu thơ mở mắt chào đời đến khi lớn
lên ở trần trùi trụi, bắt đầu biết lặn hụp tắm sông tắm rạch, biết chạy giỡn la
cà đá dế thả diều trên bờ đê hay đánh trổng, u mọi ở các gò đất những buổi trời
trong lộng gió, tôi đã quen mắt phong quang cảnh trí sằng dã thơ mộng ấy rồi.
Nơi này, có nhiều đàn trâu mập lút đen xì hằng ngày kéo cày kéo bừa nặng nhọc
theo với tiếng thá ví lảnh lót từng chập của bác nông phu vạm vỡ rám nắng. Xa
kia, những cánh mạ lúa non một màu xanh um bát ngát, chiều chiều rung rinh như
sóng nước trùng trùng điệp điệp tiếp nối nhau không thôi. Rồi nào vườn mía,
vườn khoai, vườn mì, liếp thơm liếp khóm ngút mắt, ẩn hiện giữa những kinh đào
chằng chịt đan quyện nhau như mắc cửi. Cảnh thổ thơ mộng ấy đối với tôi như một
bức tranh thủy mặc của các danh họa Trung Hoa thuở xa xưa, có hấp lực mê hoặc
lòng người thưởng ngoạn. Nó đã thực sự ươm vào lòng tôi một cái hồn quê huyền
bí, một cái hồn đất, hồn sông hồn nước luôn kích thích và phấn khích tôi. Nó đã
tạo dựng và phát huy trong tôi một mảnh lực tình cảm và tinh thần trong sáng
tuyệt vời không sao nói nên lời được.
Gia đình tôi cũng là một gia đình nông dân rặc nòi, từng
bồng chống dắt díu nhau vào đây khẩn đất hoang, làm lúa sạ. Tổ tiên tôi những
tưởng chỉ ở tạm nơi này một thời gian "tích tiểu thành đa" để có chút
ít vốn liếng tối thiểu ngõ hầu tạo đất đai ruộng vườn ở những nơi màu mỡ đắc
giá miền xuôi. Nhưng chung cuộc bị cầm chưn níu cẳng vĩnh viễn để rồi lập
nghiệp ở đây qua bao nhiêu đời... Tôi không may mắn biết mặt ông cố tôi nhưng
dễ dàng tưởng tượng một nông dân chân đất hiền hòa, suốt đời bám ruộng bám vườn
tìm miếng ăn lương thiện với mồ hôi nước mắt của chính mình. Tôi cũng thờ ơ
đáng trách lúc thanh xuân không để tâm hỏi biết cặn kẽ tên người do tục lệ
kiêng cử của người xưa mà cũng do hoàn cảnh xã hội đưa đẩy nữa. Sau nầy tôi chỉ
biết ông nội tôi tên Trần Duy Hạnh, một cái tên thoang thoảng tỏa lên âm hưởng
chan chứa nồng nàn về đạo đức nghĩa tình và mẫu mực hành xử của người lớp
trước. Ông ăn ở duy nhứt với bà nội tôi mãi đến lúc mất và sanh cả thảy bảy
người con nhưng chỉ có hai trai là bác Hai tôi tên Trần Duy Đức và cha tôi tên
Trần Duy Ân. Còn lại đều là gái cả.
Ở vùng xa xôi hẻo lánh, cách ngăn diệu vợi với phố thị
tỉnh thành, nghề nông là nghề chủ yếu để nuôi sống gia đình. Việc chăn nuôi và
trồng trọt chỉ là thứ yếu nhằm bổ sung thu hoạch mà thôi. Hiếm muộn con trai là
một điều bất hạnh, một thiệt thòi rất lớn. Vì con gái, khi mới chớm lớn lên trổ
mã đã có người lâm le ngắm nghé, đói ẵm đòi bồng ngay. Sau này "xuất giá tùng phu"
suốt đời âm thầm tận tụy "lo gánh giang san nhà chồng". Mà được như
vậy, gia đình nào cũng đều khấp khởi mừng húm. Nếu để lỡ thời, cha mẹ mỗi lần
trông thấy mặt con gái mình đâm ra ngại ngùng, buồn rầu thúi ruột. Do đó, dù con cái đông đúc lốc nhốc đầy đàn,
quanh năm rậm rật trong nhà ngoài ngõ nhưng chí tình, ông nội tôi không mấy hài
lòng mãn nguyện cho lắm. Không phải ông tôi có đầu óc hẹp hòi bảo thủ như bà
con tôi thời buổi bấy giờ, cứ khư khư ôm ấp trong lòng một quan niệm lỗi thời,
không sao thoát ra được là con trai sẽ nối dõi tông đường, duy trì dòng họ. Đến
khi tôi trưởng thành, bắt đầu nối gót noi theo ông cha tập tành lặn hụp dãi
nắng dầm mưa, thách thức giông gió bão bùng nơi đồng chua nước mặn quê nhà, tôi
chẳng hề nghe ông tôi thố lộ tâm tư tình cảm mình về việc này cả. Nhưng sự
thật, phải nói rằng ông tôi không vừa ý cho lắm. Đó cũng là một điều rất dễ
hiểu khi ông đã trọng tuổi, khả năng hoạt động ngày càng suy yếu dần. Vì ở vùng
đồng không mông quạnh, khỉ ho cò gáy, sinh sống duy nhứt với nghề nông chân lấm
tay bùn, quanh năm vất vả khổ cực, chỉ trông cậy vào đôi chân đất và tấm thân
trần. Mà không có sự tiếp tay hổ trợ của lớp thanh niên lực lưỡng hậu sanh là
một trong những lý do của sự thất bại cầm chắc biết trước vậy. Thì ra chỉ vì lý
do duy nhứt rất mực thực tế là tay làm thời buổi lập nghiệp hiếm hoi ngày mùa
thôi. Bởi thế nên bác Hai và cha tôi cả hai quần quật không ngừng để giúp ông
tôi vựt dậy một gia đình có nhiều miệng ăn vào thời buổi tô cao thuế nặng. Cả
gia đình sống canh cánh trong lòng do thực dân đô hộ ở cao trào vơ vét bóc lột
vô lương. Đến độ đêm đêm ngày ngày ám ảnh mãi, ông tôi nằm ngủ không hề yên
giấc.
Ông nội tôi dáng dấp to cao ít thấy trong làng. Ông khoẻ mạnh vậm vỡ,
tiêu chuẩn của con nhà nông đầy tự tin ở sức lực của chính bản thân mình. Được
một cái là trông ông bên ngoài lắm lúc như khắc khổ khó khăn, đòi hỏi nhiều
điều nhiều việc phải hoàn hão, phải tuyệt đối cho nên ít khi được lòng những
người láng giềng. Nhưng đây chỉ là cái dáng vẻ bề ngoài đáng tiếc, thường bị
hiểu lầm, chớ thực tình bên trong, ông là người rất bình dị, nhân ái. Ông biết
thương người cùng khổ đồng cảnh ngộ và dễ dàng xí xóa thứ tha những lỗi lầm.
Ông rất tự hào và hãnh diện về mấy cái tên tốt đẹp trong gia đình khởi sự từ
đầu ông cố ông sơ, được chọn lựa trong đắn đo cân nhắc: Duy Hạnh của ông tôi,
Duy Đức của bác Hai tôi và Duy Ân của cha tôi. Toàn là những cái tên hiếm quý,
đặt để theo ước nguyện và ý hướng đạo đức sáng trưng. Vì ông tôi hay nói và lập
đi lập lại mãi, ở đời phải có hạnh có đức, có nghĩa có ân làm mẫu mực cho cuộc
sống. Cứ nhắm mắt noi theo đó mà hành xử để lập thân. Cho nên ông tôi rất ưng ý
về mấy cái tên không hề mang hơi hướm của tiền bạc, của ngọc ngà châu báu hay
phảng phất tuyết sương phong nguyệt, chợt đến chợt đi, chợt có chợt không hoặc
nhắc nhớ các loại bông hoa gợi sắc gợi hương nhưng buồn thay lại phù du, sớm nở
tối tàn... Những thứ ấy, ông tôi cho là thuộc về phần vật chất hư ảo, sẽ không
bao giờ và chẳng bao giờ bền vững.
Bác Hai Trần Duy Đức của tôi có đến sáu bảy người con
trai gái đầy đủ, không thua gì ông nội tôi, nhưng bác nuôi được chỉ có một trai
duy nhứt và hai gái. Kỳ dư chẳng may đều mất sớm lúc hãy còn nằm nôi chòi bếp
hay vừa mới biết chập chững đứng chựng. Thảm trạng của một xã hội nông thôn xa xôi
cách trở, dân trí thấp kém, người dân không hề biết nên không được thừa hưởng
những tiện nghi kỹ thuật tân tiến và những khám phá mới về y khoa phòng bệnh và
trị liệu hiện đại. Làm lụng kham khổ như mọi người dân lương thiện nơi thôn quê
ruộng rẫy nhưng phong cách và tính khí của bác Hai tôi rất lạ. Ông chẳng giống
mẫu mực của ông bà và bà con tôi trong thôn xóm với lối sống thực tế, mộc mạc
chân tình như hình ảnh củ khoai hòn đất, đồng lúa vườn cà, vịt gà heo cúi...
Dưới con mắt của họ, người nào cũng nói bác lập dị, không còn thần dược nào
chữa trị được. Bác sống theo kiểu đâu đâu trên trời, lửng lửng lơ lơ, xa rời
hiện tại, nhưng khốn nổi nào bác có biết. Bác có những ước mơ và hành động lạ
lẫm vô cùng!
Thời thực dân thịnh trị, nhiều lần bác thấy đám tào cáo
dẫn đầu bởi một tên Tây trắng hay Tây đen vào làng lùn xụt bắt những người nấu
rượu lậu. Lúc bấy giờ chỉ có thực dân mới có quyền chánh thức bán rượu có môn
bài. Mỗi chi nhánh của chúng đều có đăng bản ‘R.A.’ tức được độc quyền về rượu.
Những lúc đó, chúng đằng đằng sát khí, oai phong lẫm liệt. Bác mơ ước và mong
muốn mấy đứa con mình sau này lớn lên sẽ không ươn hèn an phận, ngày ngày cầm
lưỡi hái chuôi cày lầm lũi đi theo sau đít trâu mãn đời trọn kiếp như bác. Cho
nên khi sanh đứa con trai đầu lòng, bác khăn nón chỉnh tề, te te đi thẳng một
mạch lên Nhà Việc khai sanh tên cho con trong tự hào và hãnh diện. Quả là tâm
trạng mừng vui sung sướng ngập lòng của một người cha vừa có được đứa con đầu
lòng lại là một "hoàng nam" tròn trịa kháu khỉnh nữa. Bác chọn đặt
tên là Henri, viết trúng phong phóc chánh tả Pháp Lang Sa đàng hoàng. Tên chánh
lục bộ quá đỗi ngạc nhiên, nhìn bác chưng hửng và gạn hỏi bác nhiều lần vì ông
ta cứ ngỡ rằng bác vui miệng dí dởm đôi phút cho vui. Nhưng bác tôi nghiêm nghị
tỏ ra mình dứt khoát chọn cái tên Henri, một cái tên Tây mà bác nghĩ nó mang
chở và gói ghém tròn đầy một ấn tượng đổi đời cho thằng con ở tương lai mai
hậu. Và đây chắc hẳn là cái tên Tây duy nhứt được khai sanh ở làng tôi từ thuở
khai hoang phá rừng lấp vũng đến giờ.
Trong đại gia đình họ Trần Duy, ngay cả cha tôi, ai ai
cũng tưởng nhân một lúc bốc đồng cao
hứng, bác có quyết định như vậy. Nào ngờ quyết tâm của bác chắc nịch như ba bó
lúa vào một giạ, như đinh đống vào cột gõ, cẩm lai, câm xe vậy. Hai đứa con gái
kế tiếp, bác cũng đặt tên Tây cho oai, mặc dầu chẳng để hậm hẹ hầm hừ gì ai. Dù
sống lập dị nhưng bác lại hiền khô. Bác chỉ mơ ước các chị tôi cũng sẽ thoát
khỏi nghiệp nông tang vườn rẫy, lam lũ khó nghèo. Chỉ vỏn vẻn có thế thôi. Hai
chị này của tôi bỗng nhiên trở thành hai cô đầm con tên Simone và Lucie. Tôi
xin xác nhận là Simone và Lucie đúng với tên Pháp trong tự điển Tên Họ Pháp do
nhà xuất bản nổi tiếng Larousse ở Paris ấn hành và có bày bán ở hiệu sách
Albert Portail đường Catinat (Tự Do sau này) Sài Gòn lúc bấy giờ. Chắc bác tôi
cũng đã có dịp xem lóm đâu đó mỗi khi có dịp hiếm hoi tiếu ngạo ngao du ở Chợ
Lớn hay Sài Gòn hoặc ở hai tỉnh lỵ nổi tiếng vùng đồng bằng Miền Nam là Cần
Thơ, Mỹ Tho. Có một điều là bà con chòm xóm mỗi lần phải gọi mấy cái tên Tây
này bắt phải bẻ mồm bẻ miệng lôi thôi phiền phức quá. Nhứt là họ phải phát âm lập bập ngượng nghịu, vô vàn khó
khăn. Nhiều bà còn hứ một tiếng trách móc bác tôi mỗi khi gặp mặt bác. Nhưng
bác vẫn cười hề hà, không phiền chi cả.
Kịp đến lúc Nhựt
Bản đảo chánh Pháp, nhốt mấy ông Tây bà đầm thực dân, già trẻ bé lớn vào một
chỗ để kiểm soát. Ngày ngày, chúng còn chở trên những chiếc xe vận tải chạy
bằng than đá đen xì, đi lao động chân tay, bắt đào đường đắp mô dọc theo các
trục lộ chiến lược nhằm phòng ngừa chống trả quân đội Đồng Minh đổ bộ tái chiếm
Đông Dương. Hoàn cảnh đã thay ngôi đổi chủ hẳn. Lịch sử nay đã sang trang mới.
Các anh chị tôi rất khó chịu và ngại ngùng về mấy cái tên Tây bất đắc dĩ phải
mang trọn đời trọn kiếp do sự bốc đồng của ông cha lập dị của mình. Bác tôi lúc
nầy đã ra người thiên cổ khá lâu nhưng anh chị tôi phải gánh chịu dài lâu và
mãi mãi hậu quả của việc làm thiếu nghĩ suy chính chắn của người khuất núi.
Nhưng cũng may, từ dạo đổi đời lịch sử đó của đất nước, bà con tôi rất thông
cảm nỗi lòng trắc ẩn của anh chị tôi nên vô hình trung đồng thanh gọi anh Hai
Henri của tôi là thằng Hai Ri. Còn hai chị Tư Simone và chị Bảy Lucie là con Tư
Mên và con Bảy Xí. Rồi cả xóm cả làng, thậm chí đến lúc cấp sách đến trường học
đòi chữ nghĩa thánh hiền, bạn bè trang lứa cũng như thầy cô giáo cũng quen mồm
quen miệng gọi anh chị tôi qua những cái tên Tây đúng văn phạm Phú Lang Sa.
Nhưng được Việt Nam bình dân hóa là Ri, Mên và Xí gọn hơ.
Không nói đến trường hợp ngoại lệ của anh Hai Ri, nhưng
từ thuở thanh xuân, chị Tư Mên và chị
Bảy Xí của tôi rất đẹp gái. Cái đẹp mộc mạc tự nhiên thiên phú không chút phấn
son, gương mặt dịu hiền lôi cuốn quyến rủ, đôi mắt tình tứ, thỉnh thoảng phảng
phất một chút u buồn kín đáo dễ thương làm xao xuyến lòng người ngắm nhìn. Chớ
hai chị nào phải đen đúa thùi lùi hay ngâm ngâm sạm nắng như người Miên ở các
tỉnh đồng bằng miền Tây mà ngày xưa ông bà tôi vô tình hay thiếu ý thức gọi là
Mên là Mọi. Hoặc dã xấu xí như Chung Vô Việm ở các tuồng hát bội mà đạo diễn đã
hóa trang quá đà đâu? Các anh chị tôi
không bao giờ tỏ ra phật ý, bất bình hoặc cự nự phản đối về mấy cái tên tục
nóng hổi ấy. Trái lại còn âm thầm và bằng lòng chấp nhận như vậy nữa. Có lần
anh Hai Ri tôi phân trần:
- Ông già ổng cắc cớ đặt tên Tây cho vui chớ thật tình
mình là Tây gì mà đi cày đi cấy quần quật tối ngày, mặt mày rám nắng sạm mưa,
hôi trâu hôi bùn non xà xịn, còn thêm da vàng mũi tẹt nữa. Tây mà trông thấy,
nó chạy re, xa lánh tôi ngàn vạn vạn dặm!
Nhưng tội nghiệp nhứt là hai chị gái của tôi. Hai chị
mang trong đời hai cái tên Mên và Xí cho đến khi lập gia đình, con cháu đông
đúc lủ khủ. Lớp trẻ sau này mới tấn lên cứ lầm tưởng đó là những cái tên xấu
hái được cha mẹ đặt để cho, vì trong gia đình có hào của nhưng không có hào
con, hiếm muộn con cháu. Nhưng sự thật nào phải như vậy. Riêng cha tôi là Trần
Duy Ân, tánh tình khác hẳn với bác Hai tôi một trời một vực. Có thể nói hai ông
khắc như nước với lửa, như mặt trăng mặt trời không phải quá đáng. Nếu bác Hai
tôi bốc đồng, lập dị và ngang ngạnh bao nhiêu thì cha tôi lại trầm tỉnh và
chính chắn, đỉnh đạt bấy nhiêu. Nhờ sự trầm tỉnh và nghĩ suy chính chắn đó nên
tôi mới có cái tên Trần Duy Nghĩa trong sổ bộ làng tôi. Hú hồn hú vía cho tôi!.
Ông nội tôi tên Duy Hạnh, sanh hai con trai là Duy Đức và
Duy Ân. Còn cha tôi là Duy Ân đặt tên tôi là Duy Nghĩa, cha Ân con Nghĩa chan
chứa ý hướng trong sáng, gói ghém tròn đầy kỷ cương luân thường và nồng nàn ước
vọng hành xử theo truyền thống đạo đức cao đẹp được cha ông ngày xưa, luôn đề
cao khuyến khích như khuôn vàng thước ngọc. Tôi rất hãnh diện và tự hào với cái
tên của mình. Tôi thầm cám ơn cha tôi đã đặt cho tôi cái tên ý nghĩa thâm trầm,
một cái tên chuẩn mực có tác động tâm lý cảnh giác, nhắc nhớ, hướng dẫn đường
đi nước bước của tôi, ngay từ những năm tháng đầu đời chập chững ngấp nghé bước
vào đời. Từ dạo đó mãi đến nay, kinh qua những thăng trầm, lên voi xuống chó,
lắm lúc tưởng chừng như không thể và không bao giờ vượt qua, ngốc đầu lên nổi,
tôi vẫn luôn luôn cố gắng hành động theo đúng với tâm nguyện thiết tha ngày
trước của cha tôi. Hơn nữa, tôi được may mắn nhiều hơn các anh chị, con của bác
Hai tôi là được cha mẹ tôi một mực hy sinh bản thân mình, khuyến khích tôi đi
học tiếp ở tỉnh, sau khi học hết cấp sơ học ở trường quận và đã đổ bằng cấp Sơ
Đẳng Tiểu Học. Vì cha tôi hồi nhớ lời của ông tôi lúc còn sinh tiền.
Ông tôi hay nói,
tiền tài sản nghiệp dù có nhiều bao nhiêu và cao chất ngất như núi như non, bạc
vàng, hột xoàn,kim cương đá quý cả tô con rồng, to lớn liệng đến lỗ đầu đi nữa
mà ngồi không ăn hoài cũng hao hụt, cũng hết. ‘Tọa thực sơn băng’. Duy có chữ
nghĩa mới bền vững lâu dài. Vì chữ nghĩa được xem như một thứ của hương hỏa
chắc chắn nhứt để lại cho con cháu về sau này. Nó chắc chắn còn hơn ruộng vườn
điền đất mà ông tôi xem như phấn thổ. Vì những thứ này, con cháu nếu chẳng may
làm ăn sa sút còn có thể bán đi để sống, dù cho ông bà có lo xa trối trăn xây
mồ xây mả mình trên mảnh đất đó để luôn nhắc nhớ chúng. Còn chữ nghĩa không bao
giờ bán được. Ông tôi còn có cái nhìn xa rộng hơn nữa. Ông cho rằng thời buổi
bấy giờ, những thay đổi trầm trọng, sâu xa trong xã hội Việt Nam không ngớt
diễn biến trước mắt nên cần phải suy nghĩ, thay đổi một số quan niệm sống dù
được thừa hưởng lâu đời. Cái của hương hỏa chữ nghĩa là một.
Lúc đó, tôi vừa học dứt cấp tiểu học. Nhờ học lực cũng
không đến đổi tệ nên tôi được thầy giáo lớp nhứt làm hồ sơ đề nghị cha tôi ưng
thuận cho tôi thi tuyển vào "cô le" (collège) Mỹ Tho với lời đoan
quyết kèm theo, nhắn gởi cha tôi để người an tâm là thế nào tôi cũng đậu. Và có
thể sẽ đậu cao nữa là khác để tôi được hưởng chế độ học bổng của nhà nước Đại
Pháp. Thời ấy, "cô le" Mỹ Tho đứng hàng thứ hai sau trường Trung học
Petrus Trương Vĩnh Ký ở Sài Gòn. Vả lại, Mỹ Tho rất gần nhà cha tôi hơn là Sài
Gòn, đất phồn hoa đô thị, cuộc sống mắc mỏ quá tốn kém đối với thu nhập hằng
năm có chừng mực của một nông dân thuần túy như cha tôi. Người chỉ sinh sống
với lúa thóc, vịt gà, heo cúi cùng mấy luống cải vườn rau, liếp cau liếp dừa...
Mặc khác, cha tôi lúc đầu cũng có ý đắn đo. Người sợ tôi sẽ cô đơn cô độc nơi
chốn lạ, không người thân quyến trông nom hướng dẫn. Tôi sẽ bơ vơ lạc lõng ở
thành phố đông đúc với nhiều cạm bẫy giăng mắc ở mỗi bước đi.
Mới hay các bực thầy cô giáo ngày xưa suốt đời tận tụy cố
gắng duy trì trật tự, giữ vững trường ra trường lớp ra lớp. Chẳng những có công
dạy dỗ để học trò có chút ít vốn liếng chữ nghĩa bươn chải ngoài đời nuôi thân
và bảo bọc gia đình sau này nhưng hơn thế nữa, các bực ấy còn có những nhận xét
và đánh giá đúng mức từng học sinh. Các thầy cô đoán trước ít khi sai lầm về
tương lai của mỗi đứa. Cái ưu điểm đáng quý của các bậc thầy cô thuở xưa là ở
chỗ đó. Họ đã để tất cả tấm lòng chăm lo lớp trẻ, rường cột của đất nước. Tôi
luôn luôn trọng kính và mang ơn các vị ân sư này đúng theo lời dạy của cha tôi:
"Nhất nhựt chi sư, báng tự chi sư", một ngày, nửa chữ cũng là thầy.
Huống chi tôi theo học mỗi thầy cô ròng rã một năm đằng đẵng với nhiều lao tâm
và công khó. Ơn trời biển bao la này cũng như những hy sinh láng lai của cha mẹ
tôi.
Mà quả vậy. Năm đó tôi may mắn hay được ơn trên phù hộ
nên thi đậu, đúng như lời tiên đoán của thầy tôi. Tôi lại đậu ưu hạng ngoài sức
tưởng tượng của tôi cũng như của gia đình. Ngặc một nỗi là hằng năm, cứ mỗi dịp
hè lớn, tôi phải theo một người chú họ, con nhà chú nhà bác với ông tôi, đi
chăn vịt Tàu cả tháng trường tận trong vùng sâu, xa xôi mút chỉ cà tha. Đàn vịt
của chú tôi nhiều đến mấy ngàn con cùng một lứa. Mỗi khi lùa qua sông qua rạch,
chúng nó chiếm trọn lòng sông, lòng rạch cả một khoảng dài nối kết hai mé sông.
Xa xa trông giống như một cây cầu nổi, rung rinh tựa sóng lúa mỗi buổi chiều
thoảng gió. Ngoài chú họ tôi còn có thêm
mấy đứa nhỏ lốc chốc, mặt mũi ngu ngơ khờ khạo, lăng xăng lích xích để phụ việc
lặt vặt. Trong đám đó có tôi. Bọn chúng tôi, đứa nào đứa nấy da dẻ đen xì, chân
cẳng phèn ăn mốc cời, gãy đến đâu để những vết móng tay dài sọc đến đó.
Riêng tôi có phần trội hơn mấy đứa bạn trang lứa này do
chúng đã quá bất hạnh sớm phải lao vào
trường đời khi tuổi còn non chèo. Nhờ có chút ít chữ nghĩa bỏ bụng, tôi vững
tin ở tương lai sau này của mình. Tôi hy vọng sẽ thoát cảnh "con sãi ở
chùa" quanh năm chỉ biết "quét lá đa". Tôi cũng nghĩ thêm, với
dịp may mắn đầu đời này, nhứt định tôi quyết không thể để vuột qua khỏi tầm
tay. Tôi theo chăn vịt như vậy để có thêm chút tiền mua sấm sách vở, bút mực và
tiêu xài lặt vặt trong suốt năm học tới. Còn nhỏ nhưng tôi cũng có ý thức không
làm cho cha mẹ tôi bận tâm mệt trí phải lo chạy tiền nong từng tam cá nguyệt lo
cho tôi ăn học đường dài. Vì tôi dư biết rằng cha mẹ tôi cũng chẳng giàu có dư
giả gì hơn ai ngoài tấm lòng thương yêu trong sáng của hai ông bà, một mực tận
tụy hy sinh vô điều kiện vì tương lai của tôi. Tấm lòng láng lai này bao la vô
bờ bến. Thực tế nhờ cha mẹ tôi luôn luôn cần cù lam lũ, sớm tối dãi nắng dầm
mưa, ngày ngày lúi húi trần thân khổ ải với trăm ngàn công việc đồng áng. Và
ông Trời trên thăm thẳm từng cao cũng thương tình rộng rãi ban thưởng công khó
cho cha mẹ tôi. Đồng ruộng, vườn tượt, đìa ao, mương rảnh... tất cả đều không
phụ lòng người qua những huê lợi tương xứng nên cha mẹ tôi được đôi phần hạnh
phúc, cần kiệm gói ghém đủ ăn đủ mặc, no ấm hằng năm.
Đàn vịt Tàu của chú tôi lao nhao đông như một đàn kiến vỡ
tổ, nhiều khi nhìn thấy sẫm cả cánh đồng. Chúng nó cứ chẫm rãi tiệm tiến, di
chuyển thường xuyên qua từng cánh đồng bát ngát nối kết nhau không bờ ranh giới
hạn để tìm ăn lúa rớt, tép mồng tép bò và cá ốc suốt cả mấy tháng trường. Chúng
lớn như thổi, xân xẩn khoẻ mạnh bắt ham. Mỗi ngày, chúng tôi như thấy chúng nó
mập hơn lên, to hơn lên một chút, lông lá đã chuyển màu, càng đầy đủ phủ phê.
Chờ đến khi bầy vịt thực sự đẫy đà đúng lứa, chú tôi mới ra lệnh giở chòi lá
rồi lùa về các trục lộ giao thông chánh để bán cho những người trung gian làm môi
giới cho các chủ vựa người Trung Hoa ở Xóm Củi. Đêm đêm, nhiệm vụ của chúng tôi
rất đơn giản nhằm gom vịt lại những gò hoang, bãi vắng hay các mô đất lồi lõm.
Nơi đây có chỗ còn bụi rậm gai góc chơm chởm rải rác đó đây. Kiểm tra đâu đó
xong xuôi, sau khi tháo những cuộn cà tăng cao ngang tầm gối để bao bọc chung
quanh, chúng tôi ăn ngủ luôn tại chỗ, mặc thời tiết gió mưa thất thường.
Gặp những đêm bất hạnh, mưa nặng hột, dai còn hơn đĩa đói
với gió lạnh thấu xương tràn về từng chập khắp phía, chúng tôi ngồi xếp bằng
đội áo tơi chùm nhum nương tựa nhau núp mưa và chống lạnh. Còn đêm nào trời
trong gió mát hay gặp đêm trăng thơ mộng trữ tình với ánh sáng lung linh huyền
ảo, chúng tôi chui trong mấy chiếc nốp đệm lát chật chội. Sau đó, chúng tôi bít
đầu bít đuôi ngăn ngừa muỗi chích. Ngột ngạt thiếu điều ngộp thở. Nhưng rồi
chúng tôi quá mệt mỏi trong ngày nên nằm chò co chui rút, ngủ một giấc một ngon
lành lúc nào không hay cho đến tưng bửng sáng. Thét rồi tôi cũng quen với lối
sống du mục sông nước, lang bạt và khổ nhọc ấy. Nhưng có lẽ cũng nhờ được trui
rèn với gió sương mưa nắng ở những mùa bãi trường ngắn ngủi đó mà sức khoẻ của
tôi ngày càng thêm tốt hơn. Tôi vẫn nhớ, lúc lên đường, giã từ cha mẹ để theo
chú tôi chăn vịt, mẹ tôi cẩn thận bỏ vào giỏ xách hộ thân của tôi một hộp cù là
Thoại Dư Đường và một cục xà bông hiệu Con Cọp. Người còn dặn dò tôi, nhắc tới
nhắc lui đủ thứ chuyện. Nhưng lúc chia tay lên đường ai mà không xúc động lệ
hoen tròng nên tôi nào nghe được gì rõ ràng. Nhưng hộp cù là đến khi về vẫn còn
nguyên vẹn, tôi chưa đụng đến bao giờ do tôi mạnh khoẻ như trâu cui trâu cổ.
Còn cục xà bông, tôi có ý để giành cho mẹ tôi xài sau khi mãn mùa vịt vì mẹ tôi
cần hơn tôi. Chiều chiều, chúng tôi đùn xuống sông tha hồ lặn hụp đùa giỡn đã
đời, đôi khi vộp cả đầu mười ngón tay. Tôi nghĩ dù có chà xát xà bông bao nhiêu
lần, bấy nhiêu lượt đi nữa, thân thể chúng tôi vẫn còn nghe hăng hắc mùi vịt
Tàu. Rất may cái mùi mà thiên hạ quay mặt bịt mũi hay bỏ đi nơi khác không đến
đỗi khó chịu lắm đối với chúng tôi. Làm như chúng tôi đã quen với nó. Thiếu nó
chúng tôi cũng nhớ.
Tôi sống ngăn cách với gia đình, chỉ thỉnh thoảng biết
được tin nhà nhờ chú họ tôi trở về làng để tiếp tế thức ăn nước uống cùng mua
thêm một ít lúa xấu, loại lúa mót rẻ rề dùng cho vịt ăn dậm những ngày mưa to
gió lớn. Vào những ngày này, đàn vịt bị thúc thủ, cứ lao nhao bực bội bên trong
hàng rào cà tăng. Trong hoàn cảnh bó gối ngồi không như vậy, nhìn tới ngó lui
chỉ thấy những khuôn mặt khắc khổ đen đúa của các bạn bất hạnh của tôi cũng
chán nên có lúc tôi nhớ gia đình vô hạn. Tôi nhớ cha mẹ tôi. Tôi thèm một chút
không khí ấm áp, quá quen thuộc của ngôi nhà từ đường. Nhưng thực sự tôi cũng
thèm hơi hướm những người ruột rà lớn nhỏ khác trong xóm.
Hôm được trác nhà nước do chú Trùm Hưng ở Nhà Việc hỏa
tốc mang đến báo cho cha tôi biết tôi đã thi đậu vào "cô le" Mỹ Tho,
cha tôi ái nái lo âu cả một buổi trời. Người không biết chuyện chi xảy đến bất
thình lình cho gia đình mình. Trong khi cuộc đời của cha mẹ tôi từ trước đến nay
phẵng lặng như mặt nước hồ thu, không hề có vần đề gì với chốn công quyền. Và
xấu tốt thế nào! Lành dữ ra sao? Vì trác viết toàn bằng Pháp văn cũng như tất
cả những văn kiện của nhà trường lúc bấy giờ. Trong cả xóm, chẳng một ai đọc
được chữ Pháp cả. Cha tôi nhíu mày tập trung suy nghĩ, bấm tay kiểm điểm từng
người một cũng thấy trong số mười mấy vị hương chức Hội Tề đương nhiệm, chẳng
ai có khả năng đó cả. Đa số, họ chỉ học chữ nho nơi mấy ông thầy đồ lỡ vận
trong xóm. Còn chữ quốc ngữ, có người lớn đại mới cấp sách đến trường và chưa
đi dứt lớp dự bị trường làng tôi. Cha tôi nóng hơ. Người ngồi chưa nóng đít đã
nhốm dậy đi tới đi lui, gãi gãi đầu suy tính. Người mở miệng than thở:
- Tao là nông dân đặc sệt, trăm năm ngàn năm chưa bao giờ
có diễm phúc ra khỏi lũy tre làng mình. Bảo tao xem cây mạ cây lúa thuộc giống
nào, cần phân phướng gì, tao nói không sai chạy một ly. Bảo tao vồng mía Tây,
mía huyết lúc nào phải đánh lá để bán, cả bầy vịt, bầy gà hay bầy heo đúng lứa
chưa để kịp thời kêu lái lại cân... Những cái thứ đó thì tao rành còn hơn bầy
trẻ xóm mình vô sáu câu vọng cổ hoài lang ở những đám cưới đám giổ. Cùng lắm
đọc chữ Nho hay chữ Quốc ngữ, tao còn gỡ gạt mò mẫm ra chút đỉnh. Đàng này, ai
đời, dốt như tao mà bảo đọc chữ Tây chữ u! Thật tréo cẳng ngõng! Như đặt cái
cày trước con trâu. Tao đành bó tay đầu hàng vô điều kiện!
Vì vậy cha tôi phải tức tốc bơi ghe mất cả buổi đường
nước, trực chỉ thẳng ra quận lỵ Bến Lức tìm cho được người biết chữ nghĩa đọc
giùm. Sau khi biết được nội dung của tờ trác, cha tôi mừng quá, mừng quá đỗi
mừng nên lật đật quay ngay trở lại chiếc xuồng ba lá của mình rồi bơi như bay,
nổi sóng nổi gió trở về nhà. Cha tôi mong về nhà sớm để báo tin mừng cho mẹ tôi
vì cha tôi thừa biết mẹ tôi đang nóng hơ, trông ngóng từng giây từng phút. Cha
tôi thường nói, không có niềm vui nào bằng khi thấy được sự thành công của con
cháu. Đến gần quá nửa đường trên hướng về, cha tôi mới trực nhớ vì quá luýnh
quýnh nên quên hẳn việc cám ơn người đọc trác hộ cha tôi. Cha tôi tỏ ra hối hận
vô cùng. Người lẩm nhẩm không thôi như trách mình:
- Ở đời có những chuyện không đáng nói lại cứ nói thao
thao dong dài lảng nhách, đôi khi làm phiền, buồn lòng người nghe. Có những
chuyện không đáng làm lại cứ xăn tay áo sốt sắng xáp vô nhập cuộc. Trái lại, có
những chuyện đáng nói và phải nói cho cặn kẽ, thấu lý thấu tình lại thờ ơ hay
quên lãng một cách vô duyên đáng trách. Có những việc đáng làm lại cố tình
tránh né, chẳng làm. Thật đáng tiếc vô cùng!
Sau khi về đến nhà, chưa kịp nước nôi cơm cháo, cha tôi
cố nén nỗi vui mừng, cứ để bụng đói lục đục bước xuống trở lại bến sông. Người
sẵn trớn, một mình xăn xái bơi ghe vào tuốt trong sâu, nơi chú họ tôi chăn vịt,
báo cho tôi tin mừng. Tin mừng quả làm cho cha tôi no bụng rồi. Cha con tôi ôm
nhau sung sướng, nước mắt hoen tròng trong ngẩn ngẩn ngơ ngơ, mãi cả buổi chiều
và suốt đêm hôm ấy. Tôi còn nhớ và nhớ rõ đến hôm nay, dù bây giờ nhắc lại sau
hơn nửa thế kỷ rồi xem như chuyện cổ tích không bằng, lúc đó, cha tôi chỉ báo
tin tôi thi đậu có một lần duy nhứt thôi. Tôi có hỏi vì sao? Cha tôi trả lời
vừa đủ nghe:
- Cha không dám lập lại lần thứ hai, sợ quá xúc động bật
khóc bất thình lình, lúc con đang hớn hở vui mừng. Mất vui.
Tai tôi đến giờ phút nầy vẫn còn nghe tiếng cha tôi:
- Thôi, cha
về nghe con. Nhìn con vui là cha mãn nguyện rồi.
Dù
nói thế nhưng tôi vẫn thấy đôi mắt cha tôi đỏ hoe. Vì quá sung sướng.
Tôi
lại đậu cao và sau đó nhà nước thuộc địa cứu xét cấp cho tôi học bổng nên cha
mẹ tôi rất yên tâm. Đám tiểu yêu trang lứa với tôi, ngày ngày rong chơi phá đình
phá miễu, nghe lóm đâu đó thường hay trêu chọc bảo:
Học trò "cô le"
Ngồi gốc me cạy ghèn!
hay:
Dưa leo chấm nước cá kèo
Mấy anh trò nghèo mới
học "buộc xê"
(boursier).
**
Lật bật, tôi vào học năm thứ nhứt cấp trung
học, tức đệ thất thời bây giờ và được ở nội trú miễn phí. Một ưu tiên ngoài sức
tưởng tượng và ước mơ của gia đình tôi. Cha mẹ tôi hằng ngày mỗi lần đi ngang
bàn thờ gia tiên đều trang nghiêm chấp tay xá xá mấy cái như để cám ơn người
khuất mày khuất mặt đã phù hộ và soi đường cho tôi. Trong ban giáo sư Việt
Pháp, có mấy ông Tây lụm khụm, ngo ngoe gần rụng càn trong thời kỳ chờ đợi về
nghỉ hưu dưỡng già. Dù đã lớn tuổi, chậm chạp lại lẩm cẩm nhưng các ông lại nắm
dạy những môn quan trọng như Pháp Văn và Sử Địa. Sau này, tôi nghĩ như vầy chắc
cũng đúng phần nào. Trọng tâm của người Pháp thực dân là nhằm phổ biến sâu rộng
môn Pháp Văn và nhồi nhét lịch sử của họ theo quan điểm và nhu cầu của nhà nước
Pháp đối với các dân tộc thuộc địa. Họ có ý đồ đào tạo trong tuyệt vọng một lớp
người Việt Nam mới, chịu ảnh hưởng và có tư tưởng thân Pháp, dù rằng thời buổi
này ảnh hưởng trên chính trường quốc tế của Pháp đang bắt đầu lung lai tận gốc
rễ. Tuy nhiên, các ông thầy già này dạy thì ít nhưng thường hay vòng vo kể những
chuyện tào lao, những chuyện đâu đâu tận bên Pháp mẫu quốc xa xôi thì nhiều.
Bảo sao chánh sách giáo dục của thực dân Pháp không thất bại ngay từ trong
trứng nước?
Hồi
đó, xuất thân từ làng mạc tận hốc bà tó, quê mùa cục mịch, tôi quả đúng là một
tên nhà quê cù lần lữa, ngơ ngát chập chững ra tỉnh ra thành làm quen với nếp
sống mới, văn minh tân tiến. Thấy mặt Tây tà, dù là thầy dạy học của mình
nhưng bỗng dưng trong lòng tôi đâm ra
hồi hộp, rung sợ lặp cặp ngay. Tôi không tự chủ được mình. Không cách nào tôi
kềm hãm được sự cảm xúc sợ sệt, thấp hèn kém cỏi vô cớ. Còn hơn lúc nhỏ, mấy
anh chị lớn của tôi ham chơi nên hay hù tôi mỗi lúc tôi làm trận làm thượng. Do
đó, tôi sợ ông kẹ hay ông chằn hết hồn hết vía. Nhưng thật ra chẳng một ai biết
ông kẹ hay ông chằn hình thù mập ốm, xấu xí hay đẹp trai như thế nào và nhứt là
hậm hự hung dữ ra sao? Đến nay đầu hai thứ tóc, tôi vẫn nhớ mãi trong lớp tôi
có mấy thằng bạn khá thân, tên chúng nó là Lê Thành Ngọ, người ở Chắc Cà Đao,
nơi Ba Cụt tức tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh thọ nạn sau này; Cù Điền có gốc gát
tận miền Trung xa xôi nhưng dòng tộc lưu lạc sinh sống từ nhiều thập niên ở
Lịch Hội Thượng, nói năn giọng Nam Kỳ chính thống và Võ Công Cát, nguyên quán
Cái Tàu Hạ thuộc đại gia đình Võ Công gồm những ông hội đồng quản hạt, địa hạt
hay cai tổng, điền chủ rất có tiếng...
Mấy
giáo sư người Pháp rặc nòi, thầy của chúng tôi, cứ mỗi khi kiểm tra bài học đều
gọi tên chúng tôi y như thống nhứt với nhau là "Lơ Thằng Nhỏ" (Lê
Thành Ngọ), "Cu Điên" (Cù Điền) nhưng tội nghiệp và tếu nhứt là cái
tên Võ Công Cát. Cái tên cũng đẹp đến nhưng các ông ấy đọc trời ơi đất hỡi thế
nào thành ra y chan "Vô C. C.". Coi có chết cho nó không! Việc đọc
tiếng Việt lơ lớ, không dấu giọng chính xác này khiến mấy thằng bạn ranh mảnh
trong lũ chúng tôi đeo theo phá phách, trêu chọc suốt những năm học đó. Tụi tôi
bảo thằng Công Cát là thằng lại cái hay teo chim, vì nó không có cái của nợ,
thằng trời đánh thánh đâm ranh mảnh nhứt trên đời. Đến lượt tôi... Mấy ông ấy
gọi cái tên Trần Duy Nghĩa rất ý nghĩa của tôi gọn hơ là "Tran Đuoi
Ngua". Mặt mày các ông nghiêm chỉnh, lạnh như tiền, khiến tôi càng run en
phát rét. Ra giờ nghỉ xả hơi, mấy thằng bạn cắc cớ của tôi vui miệng bảo tôi là
"Trần Đuôi Ngựa". Mà nghĩ kỹ lại, khi nghe tới nghe lui hoài cũng
không phải chúng nó không có lý. Thét rồi khi nghe mấy ông Tây ấy gọi tên, tôi
có cảm giác mình quả thật là "Trần Đuôi Ngựa". Tuy vậy lúc ban đầu,
trong mấy tháng vừa nhập học, tôi cũng có vẻ hơi ngường ngượng nhưng về sau,
tôi chẳng phiền hà gì bạn bè cả. Vả lại, các vị giáo sư Pháp nào có biết ý
nghĩa đích thực của cái tên Việt được Tây hóa của tôi là gì. Và chẳng có ai
giải thích cho các ông biết tận tường cả. Tôi mang cái tên bất đắc dĩ này suốt
năm học đó.
Qua
năm sau, tình hình Việt Nam quá căng thẳng do biến cố quân đội Thiên Hoàng đảo
chánh thực dân Pháp. Tất cả các trường lớn nhỏ trong nước đều tạm thời đóng cửa
chờ lệnh chánh quyền mới. Cũng là lúc cha tôi có quyết định gọi tôi về cùng với
cha tôi tiếp tục nghề nông để chống đỡ gia đình trước thảm trạng kinh tế khủng
hoảng trầm trọng. Nạn đói đang đe dọa khắp nơi, kể cả những vùng nông thôn trù
phú, vựa lúa nổi tiếng bấy nay. Mọi nổ lực về kinh tế và nhân sự của Việt Nam
lúc bấy giờ được Nhựt Bổn huy động tóm thu, tập trung phục vụ guồng máy chiến
tranh của quân đội Thiên Hoàng. Có những nơi cùng cốc, dân chúng bắt đầu chết
đói thê thảm, chẳng ai quan tâm ngó ngàng đến. Khi ấy, thế chiến thứ hai đang
đi vào giai đoạn khốc liệt hơn lúc nào hết vì các lực lượng Đồng Minh đã phản
công ở khắp các mặt trận và bắt đầu chiếm ưu thế ở khu vực Úc Châu và nhứt là
vùng biển Thái Bình Dương. Lực lượng không quân của thống soái Mac Arthur oanh
tạc thường xuyên các thành phố lớn, chuẩn bị trực chỉ đất Phù Tang.
Cha
tôi sống chật vật lắm. Khổ sở là khác. Làm việc vất vả cật lực hằng ngày nhưng
gặp lúc không may, tai ách dồn dập nối đuôi nhau không dứt. Thời tiết khó khăn
bất thường, lũ lụt thường xuyên, thêm sâu rầy hoành hành nên mùa màn thất bát
trầm trọng. Chắt mót được chút đỉnh nhưng khổ nổi lúa bị rớt giá thê thảm.
Không một bóng lái lúa nào chịu vào mua nơi vùng xa, nên cha tôi đành cắn răng
chịu chết chớ biết kêu trời vào đâu. Ấy vậy, cha tôi cũng còn may mắn hơn bao
nhiêu bà con bất hạnh khác trong xóm. Đa số đều nghèo chí tử, nghèo rớt mồng
tơi, bữa đói bữa no, không còn quần áo lành lặn mà mặc. Nhiều gia đình đã phải
mặc áo quần bằng bao bố tời hay đệm lát tự tay đương lấy. Có trường hợp đau
lòng là cả hai vợ chồng chỉ còn duy nhứt một cái quần cũ bạt màu đùm vá nhiều
chỗ để thay phiên nhau mặc đi xóm lúc cần thiết. Chẳng khi nào thấy hai vợ
chồng cùng đi chung một lần ở những dịp hợp mặt đông đủ bà con.
Ít
lâu sau, khi tôi vừa trở lại học năm thứ ba thì đúng vào giai đoạn của phong
trào nhân dân tự động đứng lên khởi nghĩa cướp chánh quyền giành độc lập quốc
gia. Trường tôi lại được lệnh đống cửa lần nữa. Tôi nghĩ học luôn từ dạo dầu
sôi lửa bỏng lịch sử đó. Rồi quân đội viễn chinh Pháp dựa vào lực lượng Anh
Quốc đến giải giới quân Nhật để sang tái chiếm năm xứ Đông Dương cũ, lâm le đặt
lại nền thống trị thực dân đã lỗi thời. Toàn quốc hô hào ‘sơn hà nguy biến’,
kêu gọi tổng khởi nghĩa, tiêu thổ kháng chiến chống xâm lăng, chống quân thù
chung. Ngọn lửa đấu tranh và hy sinh bảo vệ tổ quốc lâm nguy, lúc nền độc lập
quốc gia bị tổn thương trầm trọng, ngọn lửa đó đang hừng hực trong lòng mọi
người từ lớn chí nhỏ, cả trai lẫn gái, không phân biệt thành phần giai cấp hay
tôn giáo đảng phái. Tôi chưa đúng tuổi trưởng thành hẳn nhưng lòng rung động
theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc nên cũng theo gót các bậc chú bác, đàn
anh đàn chị hăng hái nhập cuộc. Tôi rời gia đình tự nguyện đăng ký tham gia các
đoàn thể nhân dân nhằm đánh đuổi quân xâm lăng khỏi bờ cõi nước nhà.
Nhưng
mới chỉ được hai năm, nếu trí nhớ của tôi không phản bội lại mình thì khoảng cuối
năm 1946 hoặc đầu năm 1947, tôi bất thần bí mật quyết rời bỏ ngay hàng ngũ
kháng chiến. Lý do là vì tôi đã chứng kiến những điều trái tai gai mắt, những
hành động dã man cực kỳ bất nhân, bất nghĩa của bè nhóm Việt Minh Cộng sản,
trái ngược hẳn với tình đoàn kết yêu thương truyền thống của dân tộc. Chúng
không còn một chút tối thiểu tình người. Chúng không gớm tay thủ tiêu diệt trừ
những phần tử quốc gia chân chính đã kiên cường không chịu cúi đầu khuất phục
chủ trương đường lối cùng phe phái độc tài độc đảng của chúng. Tôi đã thấy tận
mắt mình biết bao thảm cảnh con dân ưu tú và lương thiện chết oan ức thảm thiết
dưới bàn tay sắt máu của những đảng viên cộng sản ngu dốt nhưng cuồng tính và
khát máu, dám nghĩ dám làm. Do vậy, tôi có quyết định trở về thành, cam chịu
mang cái tiếng là "Việt gian" do bọn Việt Minh Cộng sản cố ý tuyên
truyền tấn ép những người yêu nước chân chính vào chân tường. Trên đe dưới búa
không lối thoát. Một bên không thể sống với Cộng sản quỷ quyệt đầy tham vọng
đen tối. Một bên bị Pháp nghi kỵ, không ngớt săn lùn đuổi bắt câu lưu đày ải.
Tôi
lau lách âm thầm sống lây lất qua tháng đoạn ngày với cái chức thư ký nơi một
hãng tư nhân xuất nhập cảng nhỏ vừa mới thành lập ở đô thành. Một loại thư ký
ngang xương, không phải kinh qua một trường ốc chuyên nghiệp nào cả. Dù vậy,
tôi cũng đảm bảo được tròn trịa cuộc sống đầm ấm và hạnh phúc của gia đình tôi.
Lúc này tôi đã có vợ con nên gánh thêm một trách nhiệm nặng nề. Những tưởng
dòng đời cứ thầm lặng trôi qua êm đềm như vậy với cảnh buồn tênh "sáng vác
ô đi, tối vác ô về". Tôi thầm mong một ngày không xa nào đó, đất nước thực
sự thanh bình, người dân thực sự an cư lập nghiệp, tôi sẽ trở về sinh sống ở
nơi chôn nhao cố thổ quê nhà. Tôi sẽ được bình ổn nội tâm giữa cảnh trời nước bao
la trong lành muôn đời muôn thuở. Nơi cái thiên đường trần gian trong mơ của
tôi hẳn có sông rạch kinh mương chằng chịt đan quyện dọc ngang, quanh năm mang
chở phù sa màu mỡ đỏ ối tô bồi ruộng đồng thêm xanh um và vườn tược thêm cây
ngon trái ngọt trĩu cành.
Nào
ngờ...
**
Ba mươi năm sau khi rời khỏi hàng ngũ Việt Minh
Cộng sản, trắc trở và oái oăm thay, tôi gặp lại chúng trong hoàn cảnh éo le
trái ngang, cay đắng nghiệt ngã tột cùng. Cộng sản hiếu chiến và cuồng ngông
không tưởng Miền Bắc đã hoàn toàn cưỡng chiếm bằng vũ lực Miền Nam thân yêu của
tôi. Phải chăng nói theo ông già bà cả ngày xưa là số của tôi chính là số con
rệp. Dù tôi có cố gắng chống chỏi cho mấy, chạy đàng trời cũng không khỏi nắng!
Giờ đây, chúng đã hiện nguyên hình là bọn Cộng sản Đệ tam Quốc tế chính thống
chớ không còn che giấu úp úp mở mở để mà mắt thiên hạ, gạt gẫm bà con nhẹ dạ
non lòng dưới nhiều danh xưng khác nhau tùy giai đoạn như Mặt trận Việt Minh,
Mặt trận Liên Việt, đảng Lao Động, Mặt trận Tổ Quốc... chi chi cả. Chúng bất
chấp những hiệp định đã ký kết chưa ráo mực trước sự đảm bảo của các cường quốc
trên thế giới. Và chúng đương nhiên dùng xe tăng, mã tấu súng đồng cùng biển
người chiếm trọn Miền Nam để tiếp theo đó toàn dân cả nước gánh chịu bao nhiêu
biện pháp trả thù khắc nghiệt, dã man của kẻ chiến thắng kiêu căng, lật lộng vô
hồn.
Ngày
ngày, tôi rất đau lòng và nơm nớp phập phồng nhìn các con tôi lúc ấy hãy còn
trong tuổi ‘ăn chưa no lo chưa tới’ bỏ nhà bỏ cửa đi hoàn thành những kế hoạch nhỏ
cho con tàu hỏa thống nhứt Bắc Nam. Thêm những kế hoạch do phường ủy triển khai
dồn dập rúng ép trẻ nhỏ không dứt đi thu lượm giấy vụn, sắt vụn, bao nylon cũ
và đủ thứ vật dụng phế thải trên đời... để được trở thành những học sinh tiên
tiến hoặc đối tượng khăn quàng đỏ... Và cũng để hội đủ tiêu chuẩn được đoàn,
đảng cứu xét cho phép tiếp tục học hành.
Hôm nay tôi bàn hoàn nghe tin một vài em bé học sinh thơ ngây chết tức
tửi vì đụng phải mìn cá nhân mà chúng cứ tưởng là sắt vụn. Em chưa kịp mừng vui
trọn vẹn trong lòng. Hôm khác, một đám vô tội bị lựu đạn nổ banh thây tan xác
tập thể khi cùng nhau đào xới một đống rác hôi thúi ngùn ngụn... nơi hố đồ phế
thải của quân đội Mỹ ngày xưa.
Học
hành đối với đảng và nhà nước cộng sản là việc thứ yếu. Lao động chân tay, hoàn
thành kế hoạch nhỏ mới vinh quang, mới xứng đáng và hãnh diện là "con cháu
ngoan của Bác Hồ vĩ đại kính yêu".
Còn nói gì những ngày thứ bảy, chúa nhựt, kể như các con tôi chẳng hề có
mặt ở nhà, trừ những bữa ăn vội vàng do cha mẹ tiếp tục phải có bổn phận lo
lắng như thuở nào. Chúng được đội ngũ hóa, tập hợp đi ‘diễu hành’, phô trương
lực lượng khắp đường phố lớn nhỏ trong quận nhằm yểm trợ các chiến dịch cải tạo
tư sản chết người theo với nhịp trống quân hành ầm ầm... ầm ầm rùm cả xóm. Tương
lai trước mặt của các con tôi mịt mù sương khói như những đêm ba mươi đen ngòm.
Ngõ cụt đường cùn rồi! Không thể có được lối thoát hưng phấn.
Tôi
quyết định nhắm mắt ra khơi tìm tự do, bất chấp mọi hiểm nguy, kể cả tánh mạng
của mình và của những người thân yêu nhứt của đời tôi. Quyết định ấy nhằm cứu
vớt, giải thoát các con tôi để chúng nó sẽ có một tương lai sáng sủa hơn. Và dĩ
nhiên chúng sẽ sinh sống như một con người văn minh tiến bộ, chan chứa tình yêu
thương trong sáng, chớ không phải như loài cầm thú hung dữ, loại ăn lông ở lỗ,
chỉ biết cấu xé tranh giành giết hại nhau. Nhờ ơn trên phò hộ rồi tôi cũng đến
được bến bờ đất hứa, hít thở không khí tự do, dân chủ. Dù đã trải qua nhiều
sóng gió và bao nhiêu lượt bị bọn hải tặc thô bạo, hiếu sát Thái Lan liên tiếp
quần thảo đêm ngày vơ vét đến kiệt quệ. Quần đảo Anambas nằm ngoài khơi Nam
Dương là trạm lưu vong đầu tiên của gia đình tôi. Nơi đây, nghĩ rằng mình đã
trọng tuổi, vốn liếng Anh văn lỏm bỏm chưa đầy lá me lá mít, nên tôi có quyết
định xin tỵ nạn chính trị ở Pháp. Quyết định này trước sự ngẩn ngơ và ngạc
nhiên của nhiều bè bạn đồng hội đồng thuyền. Đa số ấy đều chẳng chút đắn đo
chọn lựa xin đi định cư ở Mỹ, Úc, Canada... Tôi nghĩ nông cạn là dù sao tiếng
Tây tiếng u trật vuột học được gần hai ba năm ngắn ngủi ở "cô le" Mỹ
Tho với các chương trình học thời đó toàn bằng Pháp văn, lại được chính vài
giáo sư Pháp chính cống hướng dẫn, chắc cũng có thể giúp tôi tìm ngay được công
ăn việc làm khá dễ dàng. Tôi cũng tưởng tượng thêm một khi phải bắt buộc học
tiếng Anh từ đầu, chắc chắn không sao tránh khỏi cảnh léo lưỡi, khổ hạnh mà
không biết trước kết quả sẽ ra sao! Trong khi ấy, tôi còn cả một gánh nặng gia
đình phải nuôi nấng và bảo bọc ngay.
Hôm
phái đoàn Tòa Đại sứ Pháp ở Djakarta thủ đô của Nam Dương tháp tùng theo con
tàu Ile de Lumière của Hội Y Sĩ Không Biên Giới đến đảo Kuku nằm ngoài khơi
quận lỵ Letung Jemaja, nơi tôi đang tạm cư, để phỏng vấn những người có ý định
chọn xin đi tỵ nạn ở Pháp. Một nhân viên Tòa Đại sứ có trách nhiệm tiếp chúng tôi
hôm ấy, vốn không mấy vồn vã, niềm nỡ cho lắm nhưng cũng không tỏ ra lãnh đạm
thờ ơ. Phần tôi cũng dè dặt thận trọng, cố đè nén tình cảm mình trong không khí
tẽ nhạt và nghi kỵ đến độ lạnh lùng đó. Sau khi kiểm tra giấy tờ tùy thân mà
tôi may mắn mang theo và còn giữ được không bị bọn cướp biển Thái Lan cướp
đoạt, ông có hỏi tôi cho chính xác hơn:
-
Anh có phải là "Tran Đuoi Ngua" ("Trần Đuôi Ngựa") không?
Trời
ơi! Đã hơn ba mươi năm dài đằng đẵng trôi qua như thoi đưa, tôi mới được nghe
lại ba tiếng thân thương ngồ ngộ đó! Như mới ngày hôm qua nơi "cô le"
Mỹ Tho giữa đám bạn bè trang lứa thường hay đùa cợt phá phách tôi. Những tiếng
gợi nhớ đó bất giác đưa tôi trở về quá khứ, giúp tôi trong phút chốc được sống
lại thuở thanh xuân mộng mơ với bao nhiêu kỷ niệm vui buồn chấp nối. Một thời
sung mãn, tràn đầy sức sống yêu đời... Nhưng nay buồn thay, đã mất hẳn rồi.
Thời gian thật tàn nhẫn, chẳng chờ, chẳng đợi một ai! Mãi đến khi trở về lại
nơi tạm trú lúc bấy giờ vừa mới do chánh phủ Nam Dương, xuyên qua cơ quan Tỵ
nạn Liên Hiệp Quốc, cấp bách quy hoạch ở đảo để tiếp đón người tỵ nạn Đông Nam
Á, lòng tôi cứ mãi thẫn thờ, lửng lửng lơ lơ, đầu ốc trống vắng. Tôi bùi ngùi,
mắt hoen tròng, thương nhớ trường xưa thầy cũ, thương nhớ quê cha, quê mẹ, quê
mình vô bờ bến. Không cách nào xô đuổi được. Bao nhiêu hình ảnh xưa hầu như cứ
lờn vờn trong tâm trí tôi. Để rồi tôi lại xốn xang thấm thía với bước đầu lưu
vong, bơ vơ lạc lõng nơi xứ lạ quê người. Và nỗi đau đớn lớn nhứt lúc đó là tôi
không hình dung được nơi đâu là chỗ dừng chân, tôi chưa biết được nơi đâu là
điểm tựa làm lại cuộc đời mới.
Rồi
chỉ mấy tháng sau, tôi được nhận bốc lên thủ đô Nam Dương, tạm thời ngụ tại
trại chuyển tiếp Goudeng Aires ở ngoại ô thành phố chờ làm tiếp thủ tục đi
Pháp. Cuộc đời tôi từ đây xem như đã thấy hé lên một chút ánh sáng hy vọng vững
tin. Cứ mỗi lần tiếp xúc với nhân viên Tòa Đại sứ Pháp, tất cả đều đồng thanh
gọi tôi là "Monsieur Tran Đuoi Ngua". Việc này làm cho tôi càng thêm
xao xuyến với nỗi niềm ẩn kín, không thể chia xẻ cùng ai chung quanh mình, tức
những người cùng đi làm thủ tục xuất cảnh một lượt với tôi. Mà thực tình lúc
ấy, tôi nghĩ cũng chẳng có một ai trong số đông đảo đó hiểu được nỗi khổ trắc
ẩn của mình để tôi lân la làm quen, đến gần để tâm sự. Và dĩ nhiên để mong được
san sớt phần nào bao nhiêu dằn xé khắc khoải trong lòng tôi. Đa số họ đều là
người Tàu, gốc Chợ Lớn rặc nòi hay những người Tàu lai ba bốn đời ở những tỉnh
cuối mũi quê hương như Bạc Liêu, Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh, Rạch Giá... Ngoài
ra còn có không ít những người Miên, người Lào... cả người Ấn Độ, Thái Lan,
Pakistanais... khai Việt tịch với giấy tờ giả để dễ dàng khi lập thủ tục định
cư. Nhưng dù sao, ở giờ phút ấy, thực sự tôi mới yên trí vững tâm là mình đã
vượt thoát khỏi địa ngục thênh thanh của Bác và đảng. Tôi đã thực sự thoát khỏi
gông cùm xiềng xích của một chế độ độc tài hà khắc, cai trị người dân nhờ một
mạn lưới quân đội và công an cuồng tín, bất nhân bất nghĩa. Tuy vậy nhiều đêm
không ngớt chập chờn, thấp thỏm lo lắng cho ngày mai, nhưng tôi lại tưởng tượng
con đường trước mặt, chắc chắn sẽ được trải đầy hoa gấm đối với các con tôi.
Việc nầy mới quan trọng đối với tôi. Vì tương lai của chúng nhứt định sẽ tốt
đẹp, sáng sủa như trăng tròn ngày rằm.
**
Tháng 11 năm 1979, tôi đến phi trường quốc tế
Charles de Gaulle (Pháp) trong lòng vừa hân hoan khấp khởi vừa nằng nặng âu lo.
Khấp khởi vì được hít thở không khí tự do trong lành nơi một xứ sở dù lạ hoắc
lạ huơ đối với tôi nhưng có một truyền thống lâu đời từ cuộc cách mạng 1879
thành công. Thực sự dân chủ, thực sự bình quyền bình đẳng, tôn trọng con người
với những đảm bảo an sinh xã hội nổi tiếng nhứt thế giới. Âu lo vì những ngày
tháng tới sẽ đưa tôi về đâu trong khi mình trắng tay, tự biết mình có khả năng phấn đấu và hội nhập giới hạn, do tuổi đời đã
đành mà cũng do sự non kém về tiếng nói của người bản xứ nữa? Qua những trận
đánh cướp dồn dập của bọn hải tặc, ở giờ phút hoang mang tột cùng này, tôi
không có được một đồng xu dính túi để cạo gió lúc trái gió trở trời!
Vốn
liếng để làm lại cuộc đời mới nơi xứ lạ, tôi chỉ trông cậy vào đôi bàn tay cần
cù kiên nhẩn và khối óc của mình. Quả như ông bà tôi ngày xưa từng nói, chữ
nghĩa không hề bán được. Nên hôm nay, nhờ nó, tôi mới đem ra dùng nuôi thân và gánh
vác gia đình. Bao nhiêu của cải chắt mót đem theo không thấm vào đâu ở nơi xã
hội tiêu thụ mà lúc ở quê nhà âu lo, đắn đo xuôi ngược tìm đường ra biển vượt
biên, tôi ấp ủ mong để hộ thân lúc đường cùn mạt lộ. Những của cải không đáng
là bao nhưng đối với tôi to lớn vô cùng cũng như hy vọng của tôi. Tất cả đã bị
cướp biển Thái Lan lột trần tả tơi hoa lá, sau bảy tám lần liên tiếp bị lục
soát, trấn áp uy hiếp. Nhưng nỗi âu lo canh cánh trong lòng tôi cũng nhanh
chóng lắng đọng hoặc được lùa xa với những bận rộn tớp tắp hằng ngày về những
thủ tục hành chánh và nhứt là y tế bắt buộc phải có.
Tôi
ở trại tạm cư Créteil chỉ được non hai tuần lễ thì được nhà đương cuộc đưa toàn
thể gia đình tôi thẳng đến miền Bắc Pháp để ổn định cuộc sống mới. Thực tình mà
nói, tôi chẳng có chọn lựa nơi này để dung thân. Vì nghĩ rằng mình vừa chết hụt
trên đại dương, nơi nào tôi cũng có thể làm ăn sinh sống được cả. Nhứt là khi tôi hồi tưởng những ngày tháng
tăm tối, lận đận gian truân, dở sống dở chết, suốt gần năm năm trường bó gối,
ăn không ngồi rồi đã qua. Ngày này tiếp ngày kia, tôi mãi xớ rớ quanh quẩn vô
tích sự nơi phố buồn ngõ hẹp, không làm một việc gì gọi là đáng sống trong chế
độ xã hội chủ nghĩa. Vả lại, đối với tôi, lúc bấy giờ và mãi mãi về sau, nơi
nào trên đất Pháp thênh thang giàu đẹp trù phú này cũng vẫn là đất tạm quê
người, vô vàn xa lạ. Tôi vẫn là người lưu vong, bất đắc dĩ bị đánh bật xa gốc
rễ cội nguồn. Quê hương cố thổ của tôi đã thực sự ngăn cách diệu vợi nghìn
trùng qua hằn mấy đại dương! Hơn nữa, ở trại tạm cư Créteil, có một người Pháp
gốc Việt trông coi công việc hành chánh và quản trị người tỵ nạn Đông Nam Á thì
phải, nửa đùa nửa cợt với tôi:
-
Miền Bắc là vùng lạnh nhứt nước Pháp, nhưng tôi đảm bảo với anh dân tình ở đó
có một quả tim nồng ấm. Người ta thường nói trong tim họ có mặt trời không phải
là lời nói ngoa đâu. Tôi cam đoan anh sẽ không thất vọng. Anh và gia đình sẽ
được địa phương tiếp rước ân cần trọng hậu và sẽ giúp đỡ tìm công ăn việc làm
cùng chỗ ở ăn không khó.
Anh ta lại trấn an tôi thêm:
- Nhứt là anh lại
có ba cháu còn nhỏ tuổi, họ còn quý mến hơn... do họ vốn là người công giáo
ngoan đạo nên có thói quen rất trọng những gia đình đông con. Hơn nữa, từ Paris
đến đó chỉ vừa hơn hai trăm cây số ngàn, sau này khi đã ổn định xong xuôi,
thỉnh thoảng cuối tuần hay những ngày lễ lớn, anh thả về thủ đô ánh sáng chơi.
Rất tiện lợi vô cùng.
Một vài lời an ủi chí tình chí nghĩa ấy, tôi nhớ mãi
không bao giờ quên. Tôi được cơ quan phụ trách tiếp đón người tỵ nạn Đông Nam Á
tại địa phương giới thiệu đến định cư tại một làng quê chỉ được vừa hơn ba trăm
sinh mạng. Đa số là nông dân thuần thục, chuyên trồng lúa bắp, khoai tây, củ
cải đường và chăn nuôi bò sữa. Những buổi chiều, trên đường đi làm về, dù mỏi
mệt nhưng tôi thường hay lân la làm quen, đến viếng các trang trại nằm thụt lõm
trong các xóm nghèo hẻo lánh để được nghe tiếng gà gáy lanh lảnh nơi hàng rào
cây tươi, tiếng con heo ục ịch ủi những mô đất trống tìm thức ăn tạp nhạp,
tiếng con ngổng con vịt đói không ngớt kêu cạp cạp, cạp cạp hoặc tiếng con chim
cu từ trên những chòm cây cao gáy kém điêu luyện so với loại cu cườm bên nhà…
Tôi đi tìm những âm thanh quen thuộc đó đối với tôi, bấy nhiêu âm thanh trân
quý ấy cũng đủ xoa dịu được phần nào nỗi ray rứt xót xa không thôi trong lòng.
Nhưng thực ra những hình ảnh đậm đà đó không sao tái hiện được rõ nét và chan
chứa tình cảm như thở xưa nơi bản quán cố thổ của tôi. Dù vậy tôi cứ phải đi
tìm, tìm mãi, có thể tôi sẽ hoài công thất vọng nhưng vẫn tiếp tục đi tìm để mà
tìm… chỉ có thế thôi. Và chính nơi những trang trại nầy tôi được tiếp đón niềm
nở, rất mực chân tình. Vì ở nơi đây, nơi vùng thôn quê có một lịch sử dựng nước
lâu đời từ bao nhiêu thế kỷ qua, họ vẫn còn giữ nguyên vẹn truyền thống và nếp
sống Pháp, vị tha và rộng mở của những năm xa xưa. Phong cách đối xử tốt đẹp
tuyệt vời này nhắc nhớ tôi cả một vùng trời sông nước bạt ngàn với đồng ruộng
bao la mênh mông bất tận của quê hương tôi. Nơi ấy cũng có những người dân chân
quê, cởi mở hiếu khách, biết chia xẻ và tận tình giúp đỡ những người chẳng may
lỡ bước cùn đường. Bấy nhiêu đó cứ lưu luyến, đọng mãi trong tim và trong tâm
hồn tôi, từ thuở biết ngắm nhìn và thưởng thức cảnh vật thiên nhiên chung quanh
mình.
Việc ổn định cuộc sống mới và sự hội nhập vào xã hội xa
lạ nơi địa phương không có gì gọi là khó khăn trắc trở lắm đối với tôi. Vì một
lý do duy nhứt, tôi quan niệm đơn giản rằng, dù khó khăn hay dễ dàng chẳng qua
cũng đều do mình tự tạo mà ra. Mình biết sống, sống tùy hoàn cảnh, tùy thời
điểm, sống tùy nhu cầu... là nhứt định sẽ đạt ý nguyện. Nói theo ông bà cha mẹ
tôi, hạnh phúc chỉ nằm trong bàn tay và tim óc của mình. Bao nhiêu cũng không
gọi là đủ. Bấy nhiêu cũng vẫn còn thiếu. Biết đủ, biết thiếu là nguồn vui bất
tận rồi. Ngay việc xin nhập tịch Pháp của tôi cũng chẳng có trở ngại chi so với
những người ở các thành phố lớn phức tạp, đông người với nhiều sắc dân và nhiều
thành phần xô bồ. Do một lý do rất đơn giản. Ông xã trưởng nơi những làng quê
vốn là người đại diện của cơ quan an ninh cảnh sát. Ông lại là Chủ tịch Ban Tiếp
đón và Giúp đỡ người Tỵ nạn Đông Nam Á châu của địa phương nữa. Mọi thủ tục rất
nhanh chóng và chính ông đã tiếp đón tôi
cùng gia đình trong tình nhân loại bao la trong sáng. Có một điều đáng nhớ và
là một kỷ niệm khó quên đối với tôi lúc lập thủ tục hồ sơ xin nhập tịch. Viên
thư ký, sau khi xem qua giấy tờ nhập cảnh của tôi, có hỏi tôi như để xác nhận
trước khi ghi tên vào hồ sơ:
- Họ: Tran
-
Tên: Đuoi Ngua.
Ông
ta vừa cười cười vừa hóm hỉnh như tự biết mình không sao đọc trúng chính tả và
nhứt là đúng âm hưởng Việt Nam. Ông nhìn tôi mở lời nhằm nhấn mạnh nhiều lần
xin lỗi tôi về việc này. Và ông bảo là tiếng Việt Nam có một âm hưởng rắc rối
và phức tạp, quá đặc thù do có nhiều dấu giọng lạ lẫm đối với ông cũng như đối
với người châu Âu. Ông cam đoan với tôi, trên thế giới chắc chắn không có một
ngôn ngữ thứ hai nào giống như vậy. Ông
vốn là con của một binh sĩ Pháp đã từng có mặt và chiến đấu mấy năm ròng rã ở
Đông Dương sau thế chiến thứ hai, trong đoàn quân viễn chinh. Ông có nghe cha
ông nói mơ hồ về ngôn ngữ Việt trầm bổng như một bản nhạc hay. Ông chú tâm lập
lại thêm một lần nữa với sự cố gắng bẻ mồm bẻ miệng, trông có vẻ khó khăn khổ
sở lắm. Ông hỏi tôi có đúng như thế này không:
-
Tran Đuoi Ngua?
Rồi
ông tiếp tục ghi tiếp ngày sanh tháng đẻ của tôi, cả tên họ cha mẹ tôi vân
vân... trong khi tôi lặng thinh bàng hoàng. Trong tôi bỗng dưng lại dấy lên hai
tiếng "Trời ơi!", như thuở nào trước mặt nhân viên Tòa Đại sứ Pháp ở
Nam Dương. Sao ông ta lại nhắc nhớ quá khứ của tôi, cái quá khứ có lúc tôi giả
đò như quên để hướng nhìn về tương lai trước mắt. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại
phải nhớ đến nó mãi như thế này. Nhớ cồn cào! Nhớ bất tận! Nhưng tôi không phải
là hạng người chỉ sống với quá khứ. Vì tôi quan niệm rằng cuộc sống chỉ là cõi
tạm. Mình nên sống với hiện tại là hơn. Mình nên tin tưởng ở hạnh phúc trước
mắt, ngay trong tầm tay mình. Có thể hôm nay mình gặp nhiều phiền lụy phức tạp
nhưng với thời gian, dần dà những phức tạp phiền lụy đó cũng được lùa xa. Mình
nên nghĩ đến những việc làm hữu ích hơn. Ngay cả đồng cảm những nỗi khổ đau,
bất hạnh của người khác ở chung quanh mình.
Mà
khốn thay, vào giờ phút ấy, bao nhiêu kỷ niệm ngày xưa lại tuần tự diễn ra
trong tâm thức tôi. Dù cho những kỷ niệm ấy chấp vá, không theo một thứ tự liên
tục nào mà sao tôi hình dung đầy đủ cả những chi tiết chính xác, đậm đà rõ nét,
cứ quặn xoáy tim tôi. Bất giác, trong khoảnh khắc tình cảm tôi bị xao động ray
rứt đó, tôi lại nhớ đến bác Hai Trần Duy Đức của tôi. Nay bác cũng đã bình an
nằm yên vĩnh viễn trong lòng đất hương hỏa của tộc họ nơi quê nhà, dù đất đai
ấy đã bị Cộng sản tướt đoạt từ sau tháng Tư Đen oan nghiệt do chủ trương đấu
tranh giai cấp, cướp nhà cướp vườn, cướp ruộng cướp đất. "Ruộng ai cày,
người ấy cấy"... Nghe qua thật bùi tai quá, nhưng thực tế cày ở đây là
"cày mướn" cho đảng, còn cấy ở đây là "cấy mướn" cho nhà
nước và huê lợi thì dĩ nhiên do đảng và nhà nước thu. Vì đảng và nhà nước là
chủ nhân ông duy nhứt ở nông thôn và khắp cả nước, đầy quyền lực sau khi
"nhứt thống sơn hà" bằng xe tăng và súng đồng.
Tôi
nhớ đến anh Hai Ri, chị Tư Mên và chị Bảy Xí, con nhà bác nhà chú với tôi. Các
anh chị mang những tên Henri, Simone và Lucie, những cái tên Tây "chính
cống con nai vàng" mà bà con lam lũ quê mùa, quanh năm chân lấm tay bùn,
tất bật không hở tay đều nhứt loạt không đồng tình chấp nhận trong một xã hội
Việt Nam truyền thống, có chủ quyền và tự hào dân tộc. Họ đã đồng thanh Việt
hóa cho hợp với cảm quan thống nhứt của họ. Tôi nhớ hai chị tôi. Hai chị rất
bằng lòng và tỏ ra sung sướng với hai cái tên Mên và Xí chan chứa âm hưởng u
trầm của những kiếp người triền miên cùn khổ khó nghèo. Nhưng cũng chính là
những cái tên thơm thơm hương đồng vị đất quê hương. Tôi lại cười thầm, muốn
nói lên với những người chung quanh tôi đừng tưởng hai cái tên cộc lốc quê mùa
ấy mà lầm chết được. Vì hai chị tôi có nét đẹp chơn chất, không kiêu sa lộng
lẫy nhưng duyên dáng dễ thương, cái đẹp tự nhiên thiên phú, không lụa là son
phấn của người con gái nơi vùng sông nước ruộng đồng. Đố ai khi có dịp chạm mặt
hai chị mà có thể bỏ đi dễ dàng được. Hơn nữa, tánh tình hai chị tôi còn đáng
mến hơn nữa.
Viên
thư ký nghiêm chỉnh đặt câu hỏi về việc chọn lựa tên Tây cho từng thành viên
lớn nhỏ trong gia đình tôi. Ông còn cẩn thận khi bỏ ra rất nhiều thì giờ dong
dài giải thích với tôi. Ông nhấn mạnh, khi vào quốc tịch Pháp, chiếu theo luật
lệ hiện hành, mỗi người có quyền thay đổi và chọn lựa một cái tên Tây thích hợp
nào mình muốn. Ông lưu ý tôi thêm, đây là dịp tốt nhứt để lấy một quyết định vì
sau này muốn đổi tên thay họ khó khăn lắm. Ông vừa nói vừa nhăn mặt lắc đầu,
dường như để xác nhận những rắc rối khó khăn phải vượt qua khi phải làm việc
này về sau. Những cử chỉ làm duyên làm dáng thường bắt gặp ở các ông Tây bà đầm
xem như rất tự nhiên nhưng với tôi có lẽ hơi lạ. Ông còn rút trong ngăn bàn làm
việc trao cho tôi một quyển Tự điển Tên
Họ để tôi xem đó mà chọn lựa. Không chút đắn đo lưỡng lự, tôi xin xác nhận ngay
sẽ giữ lại y nguyên những tên cũ, những cái tên Việt Nam của tôi cũng như đối
với vợ và các con tôi. Vì có thể trong phút giây ngắn ngủi ấy, tôi đang bùi
ngùi thương nhớ, tôi đang hãnh diện hồi hướng hay tôi đang tự hào trân quý
những gì liên quan đến Việt Nam mà tôi còn giữ được trong lòng chăng? Sau cùng,
ông thư ký còn đọc lại một lần chót trước khi tôi ký tên vào đơn:
-Tran
Đuoi Ngua.
Ôi!
Nơi đất lưu vong, tôi vẫn đinh ninh sẽ mãi mãi là đất tạm bợ. Tôi vừa đặt chân
lên nơi này không được bao nhiêu ngày, nhưng lòng tôi không giờ phút nào không
hướng vọng về quê nhà như một chút vỗ về an ủi tôi khi phải va chạm với thực tế
phũ phàng và cảnh chán chường lạc lõng bơ vơ. Vì quả thực, tôi thương yêu và
quý trọng những gì của Việt Nam, dù là một vật dụng không còn giá trị nào trên
mảnh đất tân tiến tiền tài vật chất này. Những vật dụng mà tôi đã cố công mang
theo được suốt những chuỗi ngày sóng gió lận đận vừa qua. Vì một một lẽ rất
giản đơn và dễ hiểu. Tôi đã đọc được trong những vật dụng vô tri vô giác đó
những khúc quanh thăng trầm của một nửa đời tôi. Nó như có một cái hồn. Hồn đất
linh diệu, hồn nước thiêng liêng... Hồn người Việt Nam muôn năm muôn thuở. Cũng
như trong số biết bao nhiêu thứ lỉnh kỉnh khác, vừa vật chất vừa tinh thần.
Chúng gói ghém nhiều kỷ niệm buồn vui mà vì hoàn cảnh trái ngang trắc trở chẳng
đặng đừng, tôi đã đành lòng vứt bỏ lại trong đớn đau chua xót nơi trại tù khổng
lồ Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.
Hơn
nữa tôi đã thấy trong đó những hình ảnh thân thương thánh thiện của ông bà, cha
mẹ tôi, những sinh hoạt sướng khổ nhưng lạc quan hướng thượng của bạn bè tôi,
của bà con tôi nơi xóm Rạch Rít buồn tênh khổ hạnh. Tôi không biết đến ngày
tháng năm nào tôi sẽ được tái ngộ trong hân hoan hạnh phúc của ngày trở về gốc
rễ cội nguồn! Hẳn nhiên vì những lý do riêng tư thầm kín đó, tôi rất quý trọng
và thương yêu cái tên Trần Duy Nghĩa của tôi biết là dường nào. Cái tên mà cha
mẹ tôi đã nhứt trí đặt để cho tôi từ ngày mở mắt chào đời để lớn lên, trưởng
thành và để gánh vác nó mãi mãi trên đôi vai mình. Với một ý nghĩa thâm trầm,
luôn luôn nhắc nhớ tôi những mẫu mực đạo đức luân thường, tình nghĩa thủy chung
trước sau như nhứt của người Việt Nam muôn đời. Dù những người Pháp tôi bắt đầu
giao tiếp hiện tại hay dài lâu về sau vẫn cứ tiếp tục đọc trài trại cái tên
cúng cơm của tôi là "Tran Đuoi Ngua" đi nữa! Nhưng với tôi, âm hưởng
ngộ nghỉnh lạ tai ngày nào vẫn không làm thay đổi mảy may ý nghĩa của nó. Nó
vẫn luôn luôn đậm đà, ngăn ngắc khắc sâu trong tim tôi.
**
Hôm nọ, một anh bạn cũ cũng thuộc diện tỵ nạn
chính trị như tôi, nhà ở ngay trung tâm thành phố náo nhiệt Lille. Anh may mắn
qua được Pháp cùng với cả gia đình vợ con trong đợt thuyền nhân cao độ những
năm 1979/1980. Khác với trường hợp của tôi, anh đi chui, mua bãi, tổ chức trầy
vi tróc vãy lắm. Nghe đâu ghe anh xuất phát từ bến Ninh
Kiều ở Cần Thơ thì phải. Anh gọi điện thoại tôi báo cho biết sẽ đến thăm tôi
vào dịp cuối tuần. Tôi kể câu chuyện này tưởng không đến đỗi lạc ngoài khuôn
khổ ý hướng của tôi. Vì tôi nghĩ rằng ít nhiều nó cũng đóng góp vào nhận thức
và xử sự của các con tôi sau này.
Nơi
làng tôi ở chỉ có gia đình tôi là Việt Nam duy nhứt nên thư từ, bưu kiện lớn
nhỏ chỉ cần đề tên Trần Duy Nghĩa ngoài phong bì, không cần ghi rõ số nhà và
tên đường, nhân viên bưu điện vẫn mang đến phát tận nhà. Ngoài việc thuận lợi
này, tôi luôn sống trong cô đơn hiu quạnh. Chung quanh tôi toàn là người địa
phương. Cho nên khi nghe có người đồng hương đến thăm, trong tôi còn nỗi sung
sướng vui mừng nào sánh bằng! Tôi sẽ có những khoảnh khắc bớt cô đơn lẻ loi. Dĩ
nhiên, tôi sẽ có dịp trò chuyện thoải mái, san sẻ tâm tình, hàn huyên ôn cố với
anh bạn bằng tiếng mẹ đẻ, thấm đẫm hương đồng vị đất quê nhà, chan chứa tình tự
dân tộc và niềm tự hào của dòng giống tông tộc. Vì hằng ngày, tôi như bị bắt
buộc cứ phải trâm trớt luôn mồm luôn miệng với người địa phương, ngay cả với
những người bạn lối xóm kế cạnh nhà, bằng tiếng Pháp. Vì đó là một phương tiện
truyền đạt duy nhứt để hội nhập vào xã hội mới.
Vừa thấy anh đến, tôi rất ngạc nhiên
trông anh có vẻ xác xơ hao gầy, bạt nhược là khác. Trái hẳn với những lần gặp
anh trước đây, không lâu lắm. Bây giờ anh bơ phờ xốc xết không thua gì lúc
trong nhà có tang chế bối rối. Thần sắc anh sút giảm rõ rệt. Tôi thầm nghĩ
trong bụng, không biết do nguyên nhân nào mà anh mất tinh thần thê thảm như
vậy. Anh xuống dốc quá nhanh. Một sự xuống dốc nguy hiểm, không thua gì lúc xe
vận tải đường trường chở hàng hóa nặng ì ì đang phong phóng đổ đèo ngon trớn
lỗng dưng đứt thắn bất thình lình đến đỗi anh tài xế đành bó tay buông xuôi
chịu chết. Chưa kịp mở miệng chào hỏi và lên tiếng thăm lom anh về tình trạng
sức khỏe, anh xáp tới bắt đầu nói huyên thuyên không biết bao nhiêu chuyện.
Những câu chuyện từ lâu chất chứa trong lòng anh, giờ đây mới có dịp thuận tiện
để thốt ra thành lời, hầu trút đi phần nào tâm sự ẩn ức. Tôi đoán như vậy. Anh
nói ngay:
-
Mới ở Việt Nam về vừa được hơn hai tháng nay.
Chỉ
sau câu ngắn gọn ấy, anh ngừng vài giây rồi nhỏ nhẹ:
-
Tôi về Sài Gòn thăm bà già đã chín mươi hai tuổi lại bệnh hoạn rề rề và đã có
những triệu chứng lẫn lộn nhiều. Tôi có quyết định trở về quê hương sau gần hai
mươi lăm năm xa cách vì sợ không còn kịp thấy mặt mẹ tôi lần cuối cùng trong
đời. Không về được, trong lòng tôi xốn xang ray rứt lắm!
Rồi
anh phân trần:
-
Chớ thực tình, mình đã hy sinh mạng sống để đổi lấy cái giá của tự do, mình đã
trốn tránh "thiên đàng xã hội chủ nghĩa" thì nay về làm chi trong
khi bè lũ Cộng sản, dù có đường mật
chiêu dụ "khúc ruột ngoài ngàn dặm" hay huênh hoang rùm beng ‘đổi
mới’ đi nữa, nhưng chỉ ‘đổi mới’ tượng trưng về mặt kinh tế thôi. Còn về lãnh
vực chánh trị và tôn giáo, chúng nó vẫn tiếp tục đàn áp, thúc ép bà con mình
trong gông cùm, xiềng xích bạo tàn.
Tôi
đưa tay mời anh vào nhà trà nước. Anh vẫn tiếp tục:
-
Chỗ anh em thân tình với nhau, tôi chẳng giấu giếm gì anh cả. Thành thật mà
nói, tôi về chỉ với mục đích duy nhứt là chuẩn bị chu đáo trước ngày tang sự
cho mẹ tôi. Tôi có ý sắp xếp với mấy đứa cháu họ để khi mẹ tôi ra đi, lỡ tôi về
không kịp hoặc vì một lý do nào đó không về được, chúng nó cứ theo những lời
dặn dò của tôi mà lo vuông tròn cho mẹ tôi. Chớ tôi đâu có vui gì đi du hí du
lịch gì đâu trong cảnh thống khổ khốn cùn của bà con?
Giọng
nói anh đầy cảm xúc:
-
Mình vốn có lương tâm và có ý thức trách nhiệm của con người lưu vong, nạn nhân
cộng sản. Mình đâu đến đỗi khi đã no cơm ấm cật lại cam lòng cúi mặt, thênh thang mang áo gấm về làng phô trương
thanh thế ngằm lên mặt lên mày hãnh diện với chòm xóm thôn làng xưa! Trong khi
bà con mình xác xơ nghèo đói, mất tất cả tự do và quyền sống tối thiểu mà con
người văn minh tiến bộ cần phải có.
Anh
bạn tôi tỏ ra ngường ngượng, cố thanh minh thanh nga về chuyến về thăm quê
hương của anh. Thì ra ở anh có cái gì không được ổn trong lòng. Có lẽ anh cũng
nhận thấy rằng trở về Việt Nam trong hoàn cảnh xã hội hiện tại và với tư cách
người tỵ nạn chánh trị của mình hẳn có một cái gì không được danh chánh ngôn
thuận cho lắm. Tôi hề hà tỏ ra không mấy quan tâm để anh không ngượng mà tội
nghiệp cho anh. Tôi bèn thành thực trình bày:
-
Mỗi người có một hoàn cảnh riêng biệt anh à! Mình không thể nào quơ đũa cả nắm
được. Trường hợp của anh, tôi thấy quá chánh đáng. Không lời nào trách được.
Anh thể hiện một cử chỉ báo hỉ báo hiếu đối với mẹ già ở vào tuổi ướm rụng, gần
đất xa trời. Tôi rất quý trọng anh ở chỗ trong thời đại nhiễu nhương, đục trong
lẫn lộn này vẫn còn tiếp tục thăng hoa truyền thống tốt đẹp của ông cha ngày
trước. Bực sinh thành mình mà anh! Làm sao an tâm được khi mình sống cách ngăn
diệu vợi, không được dịp sớm viếng tối thăm, giúp đỡ thuốc thang, an ủi vỗ về
để cha mẹ thanh thản, bằng lòng mãn nguyện trước khi vĩnh viễn ra đi.
Quá
an tâm vì có người cảm thông hiểu mình, anh bạn tôi lên giọng tự tin hơn như để
lập lại ý kiến vừa nói:
-
Cái xứ sở Việt Nam của mình hiện nay chỉ để về thăm gia đình, bà con một thời
gian ngắn cần thiết rồi lại phải cất bước ra đi. Vì mình có vui sướng gì đâu
trong khi mọi người chung quanh mình đều khổ sở, khổ vật chất lẫn tinh thần. Họ
vẫn bị guồng máy cai trị của Cộng sản kềm kẹp rúng ép bóc lột, cướp giựt tận
xương tủy qua bộ máy nhà nước công khai tham nhũng hết thuốc chữa, dưới sự
‘lãnh đạo sáng suốt’ của đảng thi đua tranh giành vơ vét khắp cả nước. Họ mất
hết tự do tối thiểu, không còn quyền sống xứng đáng, đúng với ý nghĩa của danh
từ trân quý này. Nghĩ cũng buồn thật! Nhưng thực tế và sự thật không thể phủ nhận,
giấu giếm hay che mắt một ai được, dù có dùng trăm ngàn mách khoé đê hèn ấu trỉ
hay xảo thuật tuyên truyền mưu ma chước quỷ để dối lừa gạt gẫm.
Đôi
mắt anh như có chút gì u ẩn:
- Quê tôi ở xa vùng phồn hoa thị tứ.
Có thể nói nửa chợ nửa quê. Nhưng cái phần nửa quê thì có lẽ nhiều hơn phần nửa
chợ. Bà con đại đa số vẫn còn nghèo túng, rách bươm. Hôm về, tôi có đến trình
diện ngay với tên trưởng khóm. Bà con nói tên này kiêm nhiệm luôn chức vụ an
ninh để tôi khai trình. Ở miền quê, vùng khỉ ho cò gáy, được một cái là không
có bóng dáng hắc ám của các tên công an khu vực cú vọ như ở các thành phố lớn.
Đôi
mắt anh bạn tôi đăm chiêu. Anh nhíu mày suy nghĩ hung lắm. Trông anh có vẻ u ẩn
buồn buồn. Tôi thầm đoán chắc anh đang sống lại những ngày ngắn ngủi nơi quê
nhà. Anh đang hồi nhớ những gì đã xảy ra cách đây mấy tháng trước nơi chéo đất
hương hỏa của đại gia đình anh thì phải? Anh bật nói:
"Thật ra tên trưởng khóm là
một thiếu nữ ở tuổi thanh xuân. Thoạt nhìn nó tôi cũng hơi ngạc nhiên. Con nhỏ
lúc ấy đang làm mấy con cá trào cửng, to không hơn ngón chân cái người lớn, nơi
cầu ván rửa chén sát mé sông. Thấy người lạ xâm xâm vào vườn, nó lật đật bỏ mấy
con cá nhỏ hếu ấy vào rổ rồi nhanh chóng gát lên trên giàn mướp hương đang trổ
bông vàng hực, quến một đám ong bầu năm bảy con đen huyền bay lượn nhởn nhơ hút
mật. Nó vội vàng nhún hai tay dưới nước sông, xăn xái rửa qua loa chiếu lệ. Rồi
vừa đi nó vừa chùi tay nhanh lẹ hai bên hông quần. Xong xuôi, nó tươi cười ra
tiếp tôi. Nó nhìn ngay ra tôi và phá lên lớn tiếng trong khi tôi quá đỗi ngạc
nhiên chẳng biết con nhỏ đó là ai, con cái người nào trong xóm. Nó bật ra hỏi
tôi:
-
Bác có phải là bác Ba, bác Ba Trạng không?
"Tôi
chưa kịp trả lời, nó hứ một tiếng lớn, lại nói tiếp:
-
Bác là con của bà Tư Điếc ở tuốt trên đầu xóm đây mà.
"Thật
đúng quá. Chẳng sai chút nào cả.
"Vì
má tôi ngày xưa có tật lãng tai nên bà con chòm xóm gọi là bà Tư Điếc. Về sau,
má tôi điếc thật. Phải nói sát vào tai, má tôi mới lĩnh hội được đầy đủ. Ấy
vậy, mỗi khi nghe ai gọi tục danh Tư Điếc của mình, má tôi không bằng lòng, tỏ
ra phật ý. Người phản ứng ngay tức khắc. Trông người lúc ấy như hãnh diện lắm
với tuổi già ngoài chín mươi:
-
Tai tao còn nghe rõ ràng tiếng nhà máy xay lúa của ông Tề Thiên ở đầu làng lúc
có gió xuôi kia mà! Tưng bửng sáng, tao còn nghe tiếng tù và của Trùm vạn Hưng
kìa! Bây điếc chớ tao nào có điếc bao giờ đâu? Đừng có nói tầm xàm mà mang tội!
"Tôi
nghĩ trong thâm tâm, má tôi cố ý muốn chứng minh cùng bà con chòm xóm lớn nhỏ,
người hãy còn minh mẩn, mạnh khỏe. Mặc dù ở vào tuổi quá xa cái tuổi "thất
thập cổ lai hy", người vẫn tin tưởng tuyệt đối ngày ra đi về thế giới bên
kia còn xa lắm chăng?
«Nhưng việc con nhỏ trưởng khóm
nhớ tên tôi rõ mới là lạ. Mà lại trúng phong phóc cái tên cúng cơm của tôi nữa.
Rồi nó tự giới thiệu với tôi. Nó tên là Nguyễn Thị Rớt, do mẹ nó đẻ rớt nó trên
chiếc xuồng ba lá khi được cha nó đưa ra nhà bảo sanh ở quận, quá xa nhà. Nó là
con nhỏ bán hàng xáo, thường bán bánh bò, bánh ít trần kẹo đậu phộng và hột vịt
lộn dạo trong xóm nơi mấy sòng bài bạc ‘dà dách’ ngày xưa xa lơ xa lắc. Rồi mỗi
chiều chiều, nó lại đi gánh nước mướn ở ao làng cho những gia đình đơn chiết.
Dĩ nhiên trong số đó có gia đình của mẹ tôi. Nó còn bảo hồi đó tôi thường hay
mua bánh của nó ăn vào những buổi trưa nóng bức để nhâm nhi lúc uống trà. Nhờ
vậy, nó nhớ không sai cái tên Hồ Tấn Trạng của tôi».
Ngừng
một đỗi, gương mặt anh càng thểu não hơn:
"Tôi
đưa giấy thông hành của tôi để nó khám xét và ghi vào sổ kiểm tra tạm trú. Nó
dợm ký tên xác nhận ngày đến và ngày đi của tôi. Nhưng nó lại nhìn tôi tròng
trọc với đôi mắt tròn xoe ngạc nhiên. Nó bắn tiếng hỏi ngược lại tôi:
-
Bác có đưa lộn giấy tờ không? Đâu phải là Hồ Tấn Trạng bác!
"Tôi
chưa kịp trả lời trả vốn, nó xổ thêm một loạt ngon trớn:
-
Bộ bây giờ qua bên ấy bác bỏ tên họ cũ để lấy tên Tây tên u
rồi sao bác? Không lẽ bác lại là "Tây ba lô" nhan nhản trên thành phố
mà người ta thường hay chế rểu rùm trời?
"Nó
bổ ngửa ra, cười dòn rang. Sau đó, nó chậm rãi trong khó nhọc đọc rất lượm
thượm từng tiếng một:
-
Răng Bắp Tít Hồ (Ho Jean-Baptiste).
"Chỉ
có một chữ duy nhứt là "Hồ" nó đọc trúng giọng Việt Nam rặc. Vừa viết
vào sổ, nó cằn nhằn một mình:
-
Cái tên gì nghe lạ hoắc lạ huơ như ở trên trời dưới đất không bằng! Nghe chỏi
tai quá cỡ! Đọc trậm trầy, trật vuột, thiếu điều léo lưỡi mà hổng biết có viết
đúng hông?
"Nó
còn chọc quê tôi, lại cười nghiêng ngả, xem chừng đắc ý lắm:
-
"Răng bắp" hay là "râu bắp" đây bác Ba! Chắc hồi bác vô
dân... "Tây giấy", lúc chọn đặt tên mới, bác nhớ mấy vườn bắp trổ cờ
ở xứ mình quá chừng chừng chứ gì?
"Nó
chổng gọng bật cười hăng hắc một đỗi nữa... Rồi nó chêm thêm mấy câu tôi nghĩ
cũng do cái tính bọc trực của con người chơn quê cục mịch mà ra, nghĩ sao nói
vậy, không chải chuốt lựa lời, đúng với bản tánh quê mùa cố hữu của nó. Nhưng
nó có biết đâu, đau cho tôi biết dường nào! Hay nó cố ý lên lớp tôi khiến tôi ê
ẩm thấm thía vô cùng:
-
Bác qua bên đó chỉ không được bao nhiêu năm mà bác đành lòng bỏ hết những gì
của Việt Nam sao? Ngay cả cái tên tộc đẹp đẽ của bác nữa hà? Dù sao, bác cũng
là người Việt Nam mũi tẹt da vàng, tóc đen nhánh, da dẻ còn thơm mùi mắm lóc
mắm sặc, mắm cồng mắm ruốt và cả ba khía... kia mà!
"Tôi
càng thêm khổ tâm. Khổ tâm thực sự anh à! Vì dường như nó đang đùa giỡn trên
nỗi đau đớn của tôi lúc bấy giờ:
-
Bác sống bên Tây, mang cái tên Tây, ăn nói toàn là tiếng Tây, rồi sau này bác
lại chết cũng bên Tây. Bác không có một quê hương để chết bác à!
Bạn
tôi không nói gì thêm được lời nào nữa. Anh đăm chiêu lẵng lặng suy nghĩ một
hồi khá lâu:
- Quả thực, tôi quá bất ngờ đối với những lời
nói chơn quê ấy của con nhỏ bán bánh dạo ngày xưa. Công bằng mà nói, con nhỏ
nói không sai, phải không anh?!
Tôi nhìn anh mà thêm tội nghiệp. Một đỗi sau,
anh tâm tình:
-
Con nhỏ bán bánh dạo quanh xóm hồi đó nhỏ hếu. Nó ngây thơ khờ khạo, nhỏ nhẹ dễ
thương lắm. Nó không ngớt dạ dạ bẩm bẩm mỗi khi cất lời. Bây giờ trông nó trổ
mã lớn đại, lại dạng dĩ hay nói. Nó cứ mở miệng ong óng dong dài lên lớp tôi,
không dè dặt nể nan chi cả. Tôi nghĩ trong thâm tâm, nó chẳng được soi sáng chi
đâu bởi những bài học thuộc lòng rập khuôn của đảng và nhà nước mà nó lập lại
như két. Nhưng thật tình chỉ do tánh bọc trực chân quê nghĩ sao nói vậy của nó
mà thôi.
Đôi mắt anh long lanh:
- Về bên này, mỗi lần nhớ đến nó, tôi buồn quá đỗi buồn
anh à! Mình đầu đã hai thứ tóc lại bị con nhỏ nhóc con, học hành lỏm bỏm chưa
đầy lá me xài xể nặng lời mà mình đành cứng họng phải lặng thinh. Mà mình phản
ứng sao được khi quyền lực nằm trong tay của nó, một bà hoàng con ở xã trông trời
bằng vung. Nhiều khi đêm đêm thức giấc, tôi lại giận mình quá hời hợt, thiếu
chiều sâu. Bây giờ nghĩ kỹ lại, tôi thực tình bái phục anh. Anh hay quá. Anh
nhập tịch mà vẫn còn giữ nguyên cái tên Việt Nam cha mẹ đặt để. Anh làm một
việc tuyệt vời đó. Tôi nói thật chớ không phải để tâng bóc anh đâu.
Tôi vội cướp lời anh. Lòng tôi cũng buồn buồn khi nghe
câu chuyện anh vừa mới thuật. Thấy anh vẫn trầm ngâm, tư lự, tôi tìm cách khéo
léo đỡ lời anh. Nhưng thực sự để nói lên những cảm nghĩ chân thành của mình:
- Tôi có hay ho gì đâu anh. Cái tên "Trần Duy
Nghĩa" của tôi, Tây tà mỗi lần gọi thân tình là "Ngua" hay đọc nguyên tên họ "Tran Đuoi Ngua"
nghe cũng vui vui, ngồ ngộ anh à. Tôi nhớ đời, không bao giờ quên. Tụi Tây họ
nghe lạ tai nhưng họ đâu có biết hết ý nghĩa sâu xa trong sáng của tiếng Việt
mình. Tôi đã mang cái tên đó trong đời, từ lúc được cắt rún chôn nhao nơi ngôi
nhà từ đường của dòng tộc Nguyễn Duy, đến khi nó trở thành đề tài mua vui chọc
phá một thời của đám bạn trang lứa ở "cô le" Mỹ Tho. Nhưng tôi rất
sung sướng vì tôi đã ôm đúng cái gốc rễ cội nguồn của mình.
Tôi liếc nhìn anh bạn đang lặng thinh trầm ngâm:
- Cái tên "Trần Đuôi Ngựa" nơi đất tạm dung xa
xôi này nhắc nhớ tôi nhiều điều lắm chuyện. Nó nhắc nhớ tôi vẫn là người Việt
Nam, có tổ có tông, có mồ mả ông bà cha mẹ, có một quê hương, một dân tộc, một
tổ quốc thiêng liêng mà tôi có bổn phận và trách nhiệm hướng vọng về cho đến
hơi thở cuối đời. Tôi sung sướng với cái tên "Trần Đuôi Ngựa" cũng
như những cái tên Trần Duy Phước, Trần Duy Hiếu và Trần Thị Duy Tâm... của các
con tôi. Tôi hy vọng và tin tưởng chúng nó sẽ tự hào và hãnh diện mang trong
người những cái tên Việt Nam thuần túy và trân quý ấy.
Tôi nghĩ cho cùng nếu mình có dùng đến kỹ thuật thẩm mỹ
tân tiến, giải phẩu nâng sóng mũi cao thêm để cho giống người phương Tây, lột
da mặt cho trắng, tập tành bước đi tướng đứng, học đòi điệu bộ làm duyên làm
dáng nhúng nhảy hay ăn diện trang điểm cho đúng kiểu cách theo thời thượng của
họ... mình vẫn là người Việt Nam muôn đới trong huyết quản. Mình không thể mà
mắt một ai được. Và liệu người Tây phương có chấp nhận mình qua cái hào nhoáng
bên ngoài đó chăng? Nhứt là qua những cái liếc nhìn nghi kỵ dưới con mắt đôi
khi kỳ thị vô tình hay cố ý đáng tiếc của họ? Nếu có chăng là do nhu cầu hành
chánh và an ninh quốc gia mà thôi. Tôi không biết mình có chủ quan hay cục bộ
lắm không? Tôi đắn đo nhưng sau cùng rồi cũng quyết định nói thêm với anh theo
cách suy nghĩ chân quê của mình, do được hun đúc bởi những tấm lòng tuyệt vời
của người xưa:
- Tôi ví những cái tên Việt Nam mà đa số người tỵ nạn
Cộng sản còn giữ được nơi đất tạm dung như những gốc cây tràm cây đước, cây gừa
cây đa, cây dẹt cây bần nước xum xuê hoa trái hay cây bình bát thường có trái
vàng mơ quyến rủ, được trồng để giữ đất nơi vườn tược quê nhà. Nếu qua bao
nhiêu phong ba bão táp và thăng trầm nghiệt ngã, không được con người để mắt
chăm sóc kỹ lưỡng và đúng mức kỹ thuật khoa học tân tiến về môi sinh. Nếu vô
phước vô phần, chẳng may vì một lý do đặc biệt nào đó, những gốc cây hữu dụng
ấy trở nên èo uột trên đà chết rũ tiệt giống. Lúc ấy, dù người ta có cố công
hồi phục để tái tạo, gắng sức tháp lên nó những mầm cây mới sởn sơ tươi tốt đi
nữa, tôi vẫn tin chắc chắn trong tương lai gần, nó chẳng bao giờ vươn lên nổi.
Do cái gốc bại hoại, không còn sức sống. Trái lại, chúng sẽ tàn rụi hay chết
dần dần anh à. Dù cho mầm non mới tháp vào có tấn lên được thì trong thời gian
ngắn ngủi rồi cũng bị đào thải thôi. Đó là hậu quả không tránh khỏi!
Anh bạn tôi vụt đứng lên nắm tay tôi siết mạnh, đôi mắt
rơm rớm lệ...
Võ Phước Hiếu
**
Cái Bánh Phồng
Tết
Ở đời,
nếu được trở lại sống trọn vẹn chuỗi ngày êm đềm của tuổi trẻ, thuở vào đời
ngây thơ khờ dại là một ân sủng mà đấng Thiêng Liêng tối cao uy quyền đã rộng
rãi ban cho con người trần thế. Vào cái tuổi trong trắng tinh anh đó, chưa hề
biết tính toán so đo, chưa bị vẩn đục bởi cuộc sống lọc lừa nghiệt ngã, đua
chen ganh tỵ và tranh giành, chúng tôi một lũ năm bảy đứa cùng trang lứa, thông
thạo từng luồng lạch ngõ ngách trong xóm trong làng. Chúng tôi biết rành rọt
từng lẫm trại tum húm đến từng ngôi nhà kinh dinh khang trang với cổng kín tường
cao và rào tre ngất nghểu trong từng ấp một. Những thôn ấp vốn dĩ lưa thưa
chừng vài mươi nốc gia là cùng. Chúng tôi chỉ biết mải mê lê la tụ năm tụ bảy,
chơi giỡn nô đùa, làm trò hề xôm tụ, ngày ngày giúp vui bà con cô bác. Giá nếu
không có lũ nghịch ngợm liếng thoắng chúng tôi thì cái xóm ở "hốc bà
tó", khỉ ho cò gáy, vo ve muỗi mòng thi nhau trẩy hội, ngày đêm không ngớt
tiếng vạt sành re ré bất tận và tiếng ểnh ương, ếch nhái uềnh oang não nuột
chẳng dứt ấy sẽ buồn thúi ruột thúi gan. Làm sao bà con cô bác chơn chất quê
mùa của tôi có được tiếng nói rộn rả yêu đời, giọng cười hồn nhiên, nhân ái và
cởi mở sau những giờ phút vất vả tất bật, oải gân oải cốt, sớm tối dầm sương
dãi nắng phơi tấm thân trần trên đồng không mông quạnh ngút mắt buồn hiu?
Trong bối cảnh thơ mộng láng lai tình tứ của quê tôi, hôm
nay ẩn hiện thấp thoáng trong mông lung mơ hồ, tôi vụt nhớ một kỷ niệm khó có
thể nhạt nhòa trong trí nhớ. Cho dù trí nhớ của tôi bị tổn thương khá trầm
trọng từ ngày sống cuộc đời lưu vong nơi xứ người. Đó là những ngày rắp Tết,
nhà nhà thi đua quết bánh phồng khắp cả xóm làng bản ấp với những tiếng dồn dập
bình binh bình binh… phồm phộp phồm phộp… liên tục trầm buồn. Khung cảnh vui cười
rộn rịp đó đưa tôi đi ngược vào miền ký ức mấy mươi năm về trước nơi quê nhà.
Mà mỗi lần bà con tôi xúm xít quây quần, chung lưng cùng làm vần công với nhau,
họ thường hay dong dài nhắc nhớ con cháu về vài đức tính tối thiểu của con
người biết tự trọng và có trách nhiệm cao độ. Chí tình mà nói, những lời nhắc nhớ
thân thiết và đầy ý nghĩa hướng thượng đó đến nay vẫn còn văng vẳng bên tai
tôi. Nó sẽ tồn đọng mãi mãi trong lòng tôi như để hướng dẫn tôi trong suốt dọc
dài của cuộc đời truân chiên thăng trầm đã qua, những giai đoạn không ngớt
giăng mắc muôn ngàn thác ghềnh cạm bẫy.
Cái bánh phồng nơi quê hương tôi không được nổi tiếng cho
lắm so với những địa phương thạnh mậu sung túc khác. Bà và mẹ tôi không hề tỏ
ra tự ái hay cục bộ hẹp hòi nên cũng thường xác nhận như vậy trong những lúc
họp mặt đông đủ bà con dịp cưới hỏi, giỗ kỵ hay cúng Kỳ Yên hằng năm. Vì cả hai
có thói quen xem như một mẫu mực hành xử trong đời: rất thẳng thắn, có sao nói
vậy, không quanh co môi miếng, tốt khoe xấu che. Hoặc mù mì mủ mỉ "ở nhà
là rồng, ra đồng là rắn hổ". Các bà làm bánh phồng cốt chỉ để tiêu dùng
trong gia đình hay để biếu xén con cháu và người thân đã bỏ xứ đi làm ăn lập
nghiệp nơi xa xôi khi trở về ăn Tết và thăm quê cũ. Duy nhứt chỉ có thế. Hoặc
giả đôi khi để đền ơn đáp nghĩa những nơi ân nghĩa trong làng. Quanh những vùng
lân cận khi tôi có dịp đặt chân đến, ít khi tôi nghe ai nói đến loại bánh phồng
này với tấm lòng ngưỡng mộ đặc biệt bao giờ.
Cũng như trong cả xóm Rạch Rít khắc khổ hắt hiu của tôi.
Có biết bao nhiêu tông tộc, dòng họ xuất phát cách đây bao nhiêu thập niên từ mọi miền đất nước,
nhứt là vùng Ngũ Quảng miền Trung cách trở mù tăm. Họ tuần tự dấn thân, dắt díu
nhau phiêu lưu đến đây dò dẫm lập nghiệp để sau này cũng đa số đó đều bị trói
chưn trói cẳng, bị níu kéo mê hoặc và sau rốt ổn cư vĩnh viễn như hiện nay.
Trong số con cháu đông đúc của lớp người tiên phong đầy quyết tâm và can đảm
này, chẳng có lấy một người học hành đổ đạt, thành danh thành tài, tên tuổi rỡ
ràng, được người đương thời trọng vọng và nhắc nhớ. Nếu so sánh với các thôn
làng và những tổng huyện trù phú giàu sang chung quanh thì đây là một thực tế
nhức nhối gậm nhấm họ luôn, cho dù họ đã từng làm nên một thời ở đây.
Cho nên cái bánh phồng chân quê dù được sâm soi hình
thành bởi những bàn tay cần cù lam lũ và cả một tấm lòng hoài cổ của bà con tôi
những lúc rỗi rảnh hay ở những ngày bù đầu tóc rối chuẩn bị chào đón Xuân mới,
loại bánh ấy chỉ được ưa chuộng quanh quẩn quẩn quanh trong xóm làng nhỏ hẹp
của tôi, nơi muôn đời muôn thuở vẫn không bao giờ đổi thay. Năm tháng vẫn giới
hạn sau lũy tre xanh ngất nghểu kiên gan theo với nắng sớm mưa chiều. Hay thầm
lặng ẩn mình sau con sông ranh uốn éo, um tùm dừa nước và những cây cổ thụ giao
ngọn nhau. Nó không sao và hẳn nhiên chẳng có chút ít tham vọng nhỏ nhoi hay
kín đáo nào để ganh đua so sánh, bì được với những loại bánh phồng thường được
bày bán nơi chợ quận hay các thị trấn lớn nhộn nhịp phồn vinh. Các loại bánh
này được các hãng xưởng, các lò chuyên nghiệp sản xuất theo nhu cầu và phương
pháp thương mại thời thượng với máy móc tối tân, nhằm tiết kiệm sức lao động
của con người. Dĩ nhiên, khỏi phải nói dong dài hay vận dụng văn chương chữ
nghĩa cầu kỳ bóng bẩy, cái bánh phồng nơi quê tôi kém xa gấp bội phần loại bánh
phồng Sơn Đốc. Một loại bánh của vùng đất từng vang danh khắp đồng bằng Nam Kỳ
Lục Tỉnh như âm hưởng câu phong dao đến nay vẫn còn được truyền tụng trong quần
chúng dân gian cả nước:
Bánh
trán Mỹ Lòng
Bánh phồng
Sơn Đốc.
Mỹ Lòng và Sơn Đốc là hai địa danh tiếng tăm lẫy lừng một
thời từ thuở xa xưa thuộc quận Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre (cũng gọi là Trúc Giang
hoặc Kiến Hòa thời Việt Nam Cộng Hòa), quê hương của cụ Đồ yêu nước lỗi lạc
Miền Nam Nguyễn Đình Chiểu thời dầu sôi lửa bỏng trong bang giao Pháp Việt, tác
giả kiệt tác Lục Vân Tiên. Ông cũng là tác giả biết bao nhiêu văn tế hừng hực
ngọn lửa đấu tranh bất khuất chống quân viễn chinh Pháp xâm lăng cùng những bài
Đường thi có nội dung nặng tình non nước, thắm đẫm hồn đất, hồn quê và tình người
thuở giao thời nhiễu nhương ấy. Những địa danh với âm hưởng ngạt ngào hương
đồng vị đất này trải qua biết bao nhiêu dâu biển đổi thay, không sao thoát khỏi
lắm thăng trầm của mệnh nước oái oăm, nhưng đã thực sự gắn liền mật thiết với
lịch sử văn hóa ẩm thực Miền Nam. Và mãi mãi sẽ lắng đọng dài lâu trong tiềm
thức tập thể của người dân vùng đất mới phương Nam. Dù vị trí quê hương tôi
trăm đường cách trở, thực tế trong suốt cả năm dài hun hút ít có khách vãng lai
đến viếng thăm, năm thì mười họa mới gặp một người hoặc hiếu kỳ hoặc can đảm
đặt chân tới. Nhưng đối với tôi, cái bánh phồng quê mùa do bà con tôi tận lực
gia công nắn nót tạo thành, nó có một hương vị đặc biệt, đậm đà khó sánh. Chỉ
duy nhứt những người gắn bó với cuộc đất và con người làm nên nó mới có thể cảm
nhận được mà thôi.
Tôi có thiên vị hay quá lời không? Hoặc có thể tôi đã gởi
gấm vào đó bao nhiêu tình cảm yêu thương êm đẹp với muôn ngàn kỷ niệm dấu ái
sáng trưng của đời mình nên có chút ít thiên vị? Hay do tôi quá chủ quan ích kỷ
trong nhận xét cục bộ của mình chăng? Tôi không biết loại bánh phồng nơi các
địa phương khác sản xuất theo nhịp độ và yêu cầu lợi nhuận thương trường, được
pha chế sản xuất ra sao? Lời giải đáp chắc cũng đơn giản, chẳng khó khăn gì.
Nếu tìm hiểu thêm cũng sẽ hoài công, chỉ mất thì giờ và hao tổn công sức. Vì
đây hẳn là một bí quyết thương mại không thể phổ biến tràn lan có thể đưa đến
những cạnh tranh, ganh đua hẹp hòi, đôi khi bất chánh bất lương làm đau lòng
người hướng dẫn chỉ dạy. Người xưa thường nói, thà chỉ gì thì chỉ chớ nhứt định
không chỉ đường đi buôn đi bán là vậy.
Tôi chỉ biết loại bánh phồng nơi quê tôi, các bà các cô
sử dụng toàn bằng nếp tinh tuyền, loại nếp dẻo ngon được trồng nơi những thửa
ruộng trũng tốt với phân phướng thiên nhiên vườn nhà. Họ ưa chuộng rơm rạ, cỏ
rác mục và nhứt là phân chuồng để bón ruộng. Tuyệt nhiên không hề có chút mảy
may hơi hướm hóa chất độc hại nào, những loại hóa chất kích thích và thôi thúc
quá đà sự trưởng thành của lúa thóc hoa màu được nhà nông nhà vườn dùng bừa
bãi, vô trách nhiệm ở thời buổi khoa học kỹ thuật tân tiến những năm sau nầy.
Nếp còn được chọn lựa kỹ càng, sạch sẽ nên có màu trắng
ngần đồng nhất, len lỏi dễ dàng ở khẻ tay, quyến rủ nhãn quan. Từ một hột gạo
gãy hay hạt lúa, hạt trấu bể hoặc cát sạn lẫn lộn, các bà kiên nhẫn trì chí lôi
lấy ra hết cho bằng được, sau khi đổ nếp can mỏng trên những tràn tre lớn đại.
Các bà có thói quen lo xa, lựa nếp từ nhiều ngày trước. Có khi cả tháng hay hơn
nữa nhằm tránh bị động vào giờ phút cuối ở những ngày rắp Tết. Họ xúm xít ngồi
quây quần ở thềm nhà trước hay mái hiên chòi củi, chọn nơi có ánh sáng chang
hòa giúp họ dễ lựa, không sợ bỏ sót cát sạn. Rồi những câu chuyện không đâu cứ
tới tắp tiếp nối nhau trong vui vẻ thân tình, hầu như chẳng bao giờ có hồi kết
cuộc. Dù không ngớt chuyện trò rôm rốp, các bà vẫn để ý với đôi mắt giãn nở
chăm chú tối đa. Có người còn kéo cặp kiếng lão lặt lìa lặt lọi trệ xuống sát
chót mũi, nhướng hai con ngươi tròn quây không chớp mi. Lý do là các bà canh
cánh lo sợ nếu sơ ý còn để sót nhiều gạo lẫn lộn với nếp, bánh nhứt định sẽ sượng,
không đạt tiêu chuẩn. Lúc nướng, không sao tránh khỏi có chỗ phồng lên, chỗ
chai cứng, ăn dính răng, dính nướu. Bỏ thì tiếc mà nhai lại mỏi cả miệng.
Những ngày lựa nếp là dịp hiếm hoi để chúng tôi phụ thi
thố trổ tài. Các bà khi đã đến lúc mỏi lưng mỏi mắt bắt đầu kêu réo, hô hào động
viên lũ chúng tôi cùng tham gia. Các bà không ngần ngại hết lời tâng bốc, khen
ngợi chúng tôi còn nhỏ tỏ con mắt lại nhanh tay, làm cho chúng tôi mát lòng mát
dạ biết dường nào. Chúng tôi càng thêm hãnh diện, phinh phỉnh mũi đắc ý qua
những lời khen ngợi ít khi nghe lọt tai ấy. Vì bình thường phải nhìn nhận rằng
các bà vốn rất hà tiện hà tặn lời nói, nhứt là những lời để khen tặng ai. Hoặc
do bản tánh kín đáo, đắn đo dè dặt phát biểu ý kiến mình trong mọi lãnh vực
suốt mười hai tháng đằng đẵng trong năm. Nhờ ám ảnh bánh chai bánh sượng và nhờ
lựa nếp kỹ lưỡng, lúc nướng, bánh phồng đều tận ngoài rìa, dòn ran, tan nhanh
khi ăn. Bỏ vào miệng, bánh từ từ thắm nước miếng, chỉ một lát sau trở nên loang
loảng mịn màng rồi quyện đều vào màn lưỡi, mang theo vị ngòn ngọt đằm thắm dễ
chịu. Đồng thời, bánh phát ra nồng nàn nơi mũi và nốc giọng người thưởng thức
điệu nghệ, mùi hương nước cốt dừa và mùi lá dứa thơm tho như níu kéo, như quyến
rủ gọi mời, bắt cứ phải thèm thuồng muốn ăn thêm mãi.
Tôi còn nhớ rõ ràng vào thuở xa xưa hun hút đó, mỗi lần nướng
bánh, tôi mãi cà kê chàng ràng quanh quẩn sát bên bà tôi hay bên mẹ tôi để vang
lơn nằn nì xin cho bằng được một góc bánh phồng vừa nướng xong, còn nóng hổi.
Sau đó, tôi mới ưng chịu dứt khoát chạy giỡn rong chơi nơi khác với bạn
bè. Đây là những khi bà hay mẹ tôi nướng
bánh để nếm thử, trước khi cả hai có quyết định và an tâm vững bụng cán bánh
hàng loạt. Bánh mới nướng để thử, chỉ cần ăn một chéo nho nhỏ, chưa bằng hai
ngón tay người lớn chụm lại cũng đủ thấy quý. Do hiếm hoi ít ỏi, ăn vào càng
nghe thơm ngon hơn lúc nào hết. Vả lại, đã là bánh nướng thử nên có đâu để bà
hay mẹ tôi cho ăn nhiều bao giờ đâu.
Nếp xôi xong, trộn đường cát trắng và nước cốt dừa theo
đúng cân lượng và cách thức đố ai đoán biết được. Dù có người tinh mắt tò mò,
liếc xéo nơi khoé mắt, quan sát lén lút để học lóm. Các bà lanh tay và kín đáo
làm theo kinh nghiệm mẹ truyền con nối từ bao nhiêu thế hệ trước. Và những bí
quyết đưa đến thành công này chỉ giới hạn trong phạm vi nhỏ hẹp của mỗi gia
đình và tộc họ. Những bí quyết đó chẳng những các bà không hề che giấu mà trái
lại còn công khai thề sống để bụng, chết đem theo xuống tận đáy mồ. Tuyệt
nhiên, các bà không bao giờ chỉ dạy cho một ai khác ngoài gia đình cả. Ngay đối
với con gái mình các bà vẫn đắn đo tính toán do bị xem như người ngoại tộc. Nếu
có chỉ dạy thì chỉ dạy cho con dâu mà thôi vì là người trực tiếp vào việc nối
dõi tông đường. Còn nói gì những người chẳng may không con không cháu ruột thịt
kế thừa thì kể như mất hẳn kỹ thuật chế biến từ đây. Thật đáng tiếc vô cùng.
Sau đó, xôi nếp được cẩn thận bỏ vào cối, loại cối làm bằng thân cây to, được
chôn chặt một phần dưới đất để giữ cối thăng bằng vững vàng. Cái cối này đã quá
cũ kỹ, theo tôi nghĩ có lẽ lâu đời lắm nên các gốc cạnh đều sần sùi loang lở và
màu sắc lại nhoẹt nhoè theo với cái chết thầm lặng của thời gian. Nhưng niềm
sung sướng nhứt của tổ tiên ông bà tôi vẫn là tình trạng hao mòn đương nhiên dễ
hiểu ấy của nó. Vì nó đã tận lực xuyên suốt giúp ông bà tôi rất nhiều việc nơi
vùng đất mới thiếu thốn trăm ngàn thứ này suốt trong thời gian dài mút chỉ thuở
cả hai bươn chải không ngừng tay.
Việc quết bánh là phần công của đàn ông lực lưỡng. Họ bắt
đầu khởi làm vào lúc cơm chiều đã xong, khi nhà nhà trong thôn xóm bắt đầu thi
nhau lên đèn leo lét. Họ tận dụng tối đa vài giờ ngắn ngủi ở thời khoảng đầu
hôm này. Vì ban ngày, họ không rời tay với bao nhiêu công việc đồng áng thôi
thúc mãi. Đầu óc họ luôn luôn bị ám ảnh bởi nỗi lo phải chạy đua theo thời tiết
nắng mưa cho kịp mùa gieo trồng gặt hái. Dù mệt mỏi cách mấy, họ vẫn cố gắng
làm nổi đình nổi đám giúp các bà một tay quyết định. Thiếu họ, cầm chắc kể như
năm đó, gia đình không hề có bánh ăn. Quết bánh phồng nhứt định cần phải nhờ
đến thanh niên vạm vỡ, hạng vai u thịt bắp chắc nịt như đã nói. Vì công việc
nầy tính ra rất cực nhọc và mau thắm mệt hơn giả gạo gấp bội, cho dù họ giả tận
lực chày ba chày tư. Nếp trong cối cứ nhảy múa, khi trồi lên lúc sụt xuống rồi
dần dần trở nên deo dẻo, nhão nhoẹt chèo nhẹo, bấu dính, quyện khắn vào đầu
chày, như trì níu, như không muốn rời ra. Mỗi lần, họ phải dùng sức lực kéo
mạnh chày lên. Ấy vậy lại phải quết xuyên suốt không ngừng nghĩ đến khuya cho
kịp bánh chín, hầu các bà có thể khởi sự hoàn tất giai đoạn sau cùng: bắt bánh,
cán bánh. Sau đó còn tranh thủ đem phơi ngay từ con nắng sớm mới loé lên, giúp
bánh khô nội trong ngày. Được như vậy đối với các bà không gì lý tưởng bằng. Lỡ
hôm nào các bà bị Tổ trát, đoán nắng đoán mưa không chính xác, hay gặp thời
tiết trái chứng những lúc ông Trời hừng mát cắc cớ hoặc giận dữ bốc đồng. Ông
đang trong vắt thủy tinh, tràn ngập ánh nắng lung linh ấm áp, bỗng dưng phù
phép thế nào để những cụm mây ui ui vầng vũ kéo đến không dứt đuôi... Như muốn
vỡ òa cơn mưa bất cứ lúc nào làm cho các bà khổ tâm, mệt trí không ít. Đây là
cả một nỗi thấp thỏm âu lo cứ dằn kéo các bà, suốt ngày đó kể như đứng ngồi
không yên.
Tôi không quên được hình ảnh bà tôi lanh tay trở bột, tém
gọn gàng ở đáy cối rất điêu luyện theo nhịp chày. Bà chăm chú, mắt thom lom
quan sát từng cử chỉ của người quết. Rủi ro sơ ý một chút, chắc chắn sẽ mang
họa ít nhiều vào thân. Bà xem như bị "tai nạn nghề nghiệp", bàn tay
làm nên cửa nên nhà "của chồng công vợ" sẽ bị chày giả trúng vào,
không lường trước được hậu quả. Do vậy, mỗi lần tôi róng mắc chàng ràng quanh
quẩn bên các anh lớn đang tập trung quết bánh nhịp nhàng và tận lực, bà tôi
không ngớt ngoái lại phía sau quan sát, theo dõi lên tiếng la rầy. Tôi sực nhớ
thảo nào bà tôi hay khuyến cáo tôi đi ngủ sớm để bà rảnh rang tâm trí tập trung
trở bánh đều tay. Bà sẽ không bị chi phối bởi sự hiện diện chẳng những dư thừa
mà còn quá vướng bận của tôi. Và để tôi an tâm riu ríu vâng lời, bà căn dặn tôi
nên đi ngủ sớm để dưỡng sức, bình minh dậy mặc tình tôi sẽ phụ với bà phơi
bánh. Nhưng nào tôi có ngủ được bao giờ đâu! Nằm đó nhưng mắt tôi cứ chớp chớp
liên hồi, tai mãi nghe quết bánh bình binh bình binh… và trong đầu cứ nghĩ rằng
mình sẽ có cơ hội đóng góp một tay, vui nhộn khôn tả. Lúc ấy, tay bà láng o do
thoa dầu dừa để vuốt bột ở đầu chày sau khi chày được phóng xuống cối nghe phồm
phộp vừa đúng lúc được giở lên cao. Tôi giương to đôi mắt giãn nở nhìn ngắm cử
động điêu luyện lành nghề của bà mà lòng lặng thinh không ngớt tấm tắt khen
thầm.
Sáng hôm sau, tôi lật đật thức dậy, không nằm nướng như
thói quen mọi ngày. Khi dụi mắt ngó qua cửa sổ, tôi đã thấy bao nhiêu vĩ tre
cao nhồng nhộng được kê nghiêng nghiêng từ thềm nhà ra tận đầu ngõ, cạnh hàng
rào bông bụp có chỗ còn ngậm sương. Nơi đây được chất đầy bánh tròn đều, ngay
hàng thẳng lối. Trông đẹp mắt vô cùng. Mới hay cái tài khéo léo và bàn tay đảm
đang cần cù của người phụ nữ Việt Nam muôn đời muôn thuở. Tôi bèn đến chen lấn,
cố ý tranh giành với mấy chị lớn, quyết tâm bắt chước các chị hứng lấy cái bánh
bà tôi vừa mới cán, mềm mại thơm phức hương nếp và mùi nước cốt dừa rất quyến
rủ. Tôi cắm đầu u ngay một mạch ngon trớn ra tận đầu ngõ, cẩn thận để bánh nhẹ
nhàng trên hàng vĩ tre. Rồi lập tức, tôi lại tiếp tục chạy nhanh vào nhà đưa
hai tay xoè rộng chập vào nhau chờ đón bánh khác. Tôi không biết mình đã chạy
tới chạy lui, chạy xuôi chạy ngược như vậy được bao nhiêu lần? Mà lạ làm sao,
hôm đó, tôi chẳng hề biết mệt là gì. Trái lại, lòng tôi thêm hân hoan sung
sướng. Sung sướng hân hoan vì tôi nghĩ mình được dịp góp công, tham gia cùng
gia đình phụ làm bánh phồng Tết. Có lần bà tôi khen tôi khá tháo vác, không đảo
giản biếng nhác:
- Thằng có hai bàn tay bút măng mà làm coi được đến. Gọn
hơ.
Tôi đáp một cách máy móc:
- Con bắt bánh cầu âu đó bà!
Có tiếng bà tôi khe khẽ tiếp theo, sau khi kéo vạt áo dài
cẩn thận:
- Trời đất! Mẹ họ
bây!
Nhưng sự sung sướng hả lòng hả dạ ấy của tôi lúc bấy giờ
càng tăng lên gấp bội khi bà và mẹ tôi giao thêm cho nhiệm vụ canh chừng bầy
vịt xiêm lai ngỗ nghịch, cả chục con đẫy đà lại dạn dĩ vô cùng. Có lẽ chúng nó
đã quen với bóng dáng của những người trong gia đình tôi chăng? Chúng có thói
quen lặn lội tìm mồi ở các mương ranh nhưng thỉnh thoảng lén lút leo lên liếp
lên vồng săn đuổi cào cào châu chấu. Bà và mẹ tôi cũng căn dặn tôi để ý ghé mắt
trông coi mấy bầy gà giò búp lông ranh mảnh. Chúng chạy rạng đất khắp nơi trong
vườn, bụng dạ đói meo vì trong ngày có bao giờ bà tôi rộng lượng bố thí cho
chúng một nắm lúa đổ đâu. Chúng không ngớt nhởn nhơ, cào cấu bươi xới tìm thức
ăn trùng dế và lúa rớt. Thường xuyên quanh quẩn bên nhà, chúng cũng quá quen
thuộc những người từ lớn chí nhỏ như đàn vịt xiêm lai đến độ lờn cả mặt. Do đó,
chúng tỏ ra trơ trơ lầm lì, chẳng còn biết sợ sệt là gì, không hề nể nang trốn
lánh bóng dáng ai cả, dù là người lớn. Bà và mẹ tôi đã mệt cầm canh nhưng còn
nỗi sợ chúng nó đến rỉa hoặc mổ bừa bãi làm hư bánh mà cả hai rất tưng tiu o bế
từng cái một. Bà và mẹ tôi thường suýt xoa hít hà mãi mỗi lần khám phá một cái
bánh xấu xí khuyết tật. Các bà nhăn mặt nhíu mày, lẩm bẩm không vừa. Biết vậy nên
thỉnh thoảng, tôi chạy ngang chạy dọc, la hoảng lên nhằm đuổi khéo chúng nó như
để lấy điểm với bà và mẹ tôi. Những lúc ấy, tôi lăng xăng lích xích, tỏ ra mẫn
cán và có trách nhiệm cao độ. Tôi vội vàng vồ nắm lấy chuôi tàu dừa hay tàu cau
ông bà tôi để sẵn nhiều nơi, cứ mỗi nơi quan trọng có dựng một tàu vừa tầm tay
rồi tôi cố tình đập mạnh rèn rẹt, rèn rẹt... vào thân cau thân dừa trồng quanh
theo mương ranh. Làm như vậy cốt đuổi chúng nó chạy lánh ra xa các hàng vĩ bánh
cho yên lòng bà và mẹ tôi.
Tuy vậy, chập chập bà tôi và có khi cả mẹ tôi nữa vẫn
thập thò ở thềm nhà trước, trông thẳng ra hướng những hàng vĩ tre phơi bánh. Bà
tôi còn đánh tiếng nhắc nhở tôi để ý mấy con chó Mực, chó Vá, chó Cò sung sức,
hậm hực hùa nhau chạy giỡn, hai chưn sau cứ cào cào liên hồi trên nền đất tung
cát bụi phiền phức. Mà tệ hại hơn nữa. Lúc cao hứng hoặc khi bất cặp, chúng nó
cũng dám tinh nghịch, tỉnh bơ bất cần đời, đứng sát bên vĩ tre, hách chân sau
lên trút bớt "bầu tâm sự". Thôi còn gì một vĩ tre đầy bánh mà bà và
mẹ tôi rất tưng tiu? Nhưng may thay, những trường hợp dở khóc dở cười này quả
thật rất hiếm lắm. Dù vậy, có khi bà và mẹ tôi quát lên bảo tôi mau mau đem
tróng chúng nó ở cây mãn cầu xiêm sai trái hay ở gốc cây khế chua chua đến xanh
mặt sát chòi củi để nó cam chịu cảnh thúc thủ nằm yên một chỗ. Các bà sẽ vững
tâm hơn, yên chí để lo nốt phần việc còn lại. Mà cũng ngộ. Làm như chúng nó rất
sợ cái tróng bằng tre già rắn chắc và láng o này chăng? Tróng chỉ dài cỡ một
thước tây, hai đầu có hai nuộc dây lạc dừa, một để cột vào cổ chúng nó, một
dùng để ghịt vào thân cây. Chúng nó bị thúc thủ một chỗ, chỉ còn nước nằm ngay
cẳng cuốc, mắt buồn xo xuôi cò, trông ngoan ngoản dễ thương làm sao! Dường như
chúng nó biết thân biết phận mình nên đành nằm im re đưa mắt ngóng trời ngóng
đất giải khuây, chẳng chút dùng dằng trì níu hay kêu la tru rống phản đối.
Chúng cũng đã quen với cảnh nầy rồi. Có khi chúng ngã lăn ra nằm ngủ sãy giò
sãy cẳng bất biết, phình cái bụng chang bang. Tôi có cảm tưởng như chúng nó hờn
dỗi và ngủ cho đã nư chờ giờ phút cứu tinh, tôi đến mở tróng trả tự do cho
chúng nó.
Bánh phơi vừa tròn một nắng là kể như tạm được. Gặp hôm
trúng nắng, khoản xế xế trưa là có thể xúm nhau "thu dọn chiến
trường" sớm hơn. Các bà hú hồn mừng húm. Tiếng nói cười rộn rả từ đầu ngõ
vọng ngược vào nhà không ngớt. Người ra kẻ vào tránh né nhau, dọn dẹp nhanh lẹ
nhưng không quên giữ gìn bánh cẩn thận. Lỡ vô ý để bánh chẳng may rớt xuống đất
thì liệu mà lo, hồn ai nấy giữ vì bà tôi vốn kỹ lưỡng tỉ mỉ nên không bằng lòng
ra mặt. Bà không quát tháo to tiếng nhưng cằn nhằn cẳn nhẳn nghe nhức xương. Và
chính lúc bánh phơi đến độ iu ỉu đó cũng là lúc chúng tôi háo hức đợi chờ.
Chúng tôi đợi chờ sốt cả ruột. Đợi chờ từ ngay tối hôm trước, từ khi bà tôi mới
vừa bắt đầu bày biện quết bánh. Đối với chúng tôi, không gì ngon bằng những lúc
đói meo, bụng dạ thèm thuồng đủ thứ thập vật, bao tử cào cấu không thôi lại
được bà hay mẹ tôi khen thưởng công khó, ban cho một cái bánh. Nói một cái bánh
cho oai với hình ảnh tưởng tượng to lớn tròn trịa, cho sướng miệng và để tăng
thêm giá trị của sự khen thưởng. Nhưng sự thật lại là một cái bánh có chút ít
tì vết, dù vậy cũng rất xứng đáng theo nhận định non nớt của tôi. Chớ chí tình
mà nói, bà tôi có bao giờ cho chúng tôi một cái nào nguyên vẹn ở giai đoạn đã
hoàn chỉnh này đâu?
Có chăng là đôi khi mẹ tôi âu yếm nheo nheo đôi mắt nhét
vội vã vào túi áo cho tôi một cái nguyên. Và những lần đó, bà tôi vì nể nang mẹ
tôi nên chẳng nói năn gì. Không biết cử chỉ của mẹ tôi có làm cho bà tôi phật
lòng hay không? Và bà có ép bụng mình chăng nhưng lúc ấy, tôi liếc chéo thấy bà
tôi vẫn tươi cười vui vẻ. Bà như biểu đồng tình với mẹ tôi? Còn khi nào mẹ tôi
lăng xăng bận việc, từ chối không cho, vẻ mặt hân hoan đợi chờ của tôi bỗng
dưng đổi sắc chỉ còn ẩn hiện một nỗi buồn nhè nhẹ, thấm thía dài lâu khó thể
nhạt nhòa. Tôi thất vọng vô cùng, không cách nào bù lại được sự chết thèm của
tuổi trẻ nơi vùng đất khổ hạnh nghèo đói thuở xa xưa ấy. Bánh nguyên vẹn tốt
đẹp, bà tôi chọn lựa kỹ càng, giành để đãi đằn và biếu xén những nơi ân nghĩa.
Bà chỉ cho chúng tôi những cái có thẹo: lủng lỗ, xước rìa hay không tròn
trịa... mà bà tôi chê, nhanh tay loại qua một bên lúc kiểm tra tỉ mỉ từ vĩ một.
Tôi vội cuốn tròn gọn lỏn, xe tới xe lui nhiều lần giữa hai bàn tay cho chặt
chẽ rồi ăn tươi, vừa ngọt vừa thơm. Tôi thấy đời mình tựa hồ như bừng sáng lên
hương, vút cao tận chín tầng mây xanh mây trắng. Lúc ấy, lòng tôi tràn ngập một
niềm vui ngất ngây không giới tuyến.
Những hôm nướng bánh dịp đãi đằn bà con thân quyến hoặc giỗ
chạp Tết nhứt, bà tôi thận trọng chọn một góc vườn khoảng khoát trống trải, xa
cây cối ăn trái và mấy cây rơm cao ngùn ngụt. Nhứt là xa hẳn mái hiên nhà sau
cùng lẫm trại mái lá mái tranh với phên vách bằng tre đan hay bằng gỗ tạp dên
dên nhẹ hửng rất dễ bắt lửa. Bà tôi phòng xa. Bà ngừa tàn lửa bắt cháy lan mang
họa. Lửa rơm cháy phừng phừng, phừng phừng từng chập theo những luồng gió đồng
tạt qua tới tắp, bốc lên nóng ran cả mặt mày. Mỗi lần lửa táp như vậy, gương
mặt bình dị phúc hậu đầy những vết nhăn nheo sương gió của bà tôi sáng rực hẳn
lên để sau đó trở lại sạm màu năm tháng như những ngày bình thường. Tàn đốm
cuồn cuộn, phun phún hướng thẳng lên không trung, thi đua nhau nhảy múa trửng
giỡn không thôi. Trông vui mắt lắm. Vài ngọn khói mờ đục liên tiếp quyện tròn
nối đuôi nhau, lan tỏa nhẹ nhàng tạo sự ấm áp của hồn nước hồn đất, của tình
người chân quê giản dị mà chốn phồn hoa đô hội không bao giờ và chẳng bao giờ
có được
Những lúc đó, tôi ước gì nếu là đêm tối, lấp lánh sao
trời thì hẳn đây là cảnh tượng những loại pháo bông, pháo thăng thiên muôn sắc
muôn màu lạ lẫm từng lôi kéo tánh hiếu kỳ của chúng tôi. Đó cũng là những khi
chúng tôi vảnh tai im thin thít, ngồi nghe những vị khách lạ kể lại những đêm
lễ hội lớn ở tỉnh ở thành mà chúng tôi còn giữ được trong ký ức mình. Bà tôi để
bánh giữa hai kẹp tre đan, lớn gấp mấy lần bàn tay xoè người lớn, có cán dài
rồi nhanh nhẹn trở qua trở lại trên ngọn lửa áp. Bà trở rất lanh tay, điêu
luyện thiện nghệ. Bà chăm chú, hai mắt nở to dán thẳng vào mỗi cái bánh. Trông
bà không hề thấy mệt mỏi. Trong mọi việc, bà tôi tỏ ra lão luyện nhờ vào biệt
tài bẩm sinh thiên phú đã đành nhưng chắc cũng nhờ ba mớ kinh nghiệm tích lũy
ngay từ thuở còn thanh xuân, luôn tay hụ hợ với bà cố tôi. Nhờ vậy, cái
"khéo tay hay làm" của bà đã đến trình độ tinh nhuệ của những bậc sư.
Tôi nói chắc cũng không quá đáng. Dù lửa có nóng rang bao nhiêu cũng mặc, dù
gió có đàn tới tắp bao nhiêu cũng chẳng hề gì, bà vẫn cắn răng chịu đựng dễ
dàng. Nhưng tôi để ý có đôi khi thấy bà nhăn mặt, nhíu đôi mày gần bạc trắng
như cọ sát vào nhau lúc lửa táp mạnh. Đôi mắt bà chớp chớp lia lịa, lim dim nhỏ
hếu vì khói cay. Trông gương mặt hiền hòa của bà tôi lúc đó càng thêm khắc khổ.
Giờ đây nhớ lại đáng thương biết dường nào! Và cũng đáng tội nghiệp cho một
kiếp phụ nữ Việt ngày xưa.
Bánh bắt đầu nở phồng to ra, lớn phình lên nhanh chóng.
Nó cứ nở dần... nở dần mãi theo nhịp trở của bà tôi. Bí quyết của bà là vừa trở
vừa liên tục xoay vị trí bánh để bánh nở đều đặn hầu đạt một màu vàng đồng
nhứt. Bánh không hề có chỗ nào nám sẫm hay khét sậm. Được như thế, bà tôi mới
ưng ý. Bà tôi nướng một chục cái hầu như đều y như vậy cả, làm cho chúng tôi
đang bấu chung quanh càng thêm thất vọng buồn xo, mặt mày bí xị, chắt lưỡi hít
hà mãi. Rơm vẫn được lũ trẻ chúng tôi tiếp tục châm thêm từng chập. Thỉnh
thoảng, bà tôi lấy một thanh tre dài sởi rơm lên xuống. Lửa lại phừng lên cao.
Được như vậy, bà mới nướng đến dứt tràn bánh. Chỉ một sắp bánh trên tràn, không
mấy chốc nó chiếm đầy mấy quảo to, hấp dẫn lũ trẻ chúng tôi lăng xăng nôn nóng
đợi chờ, hy vọng nhận phần thưởng an ủi của mình. Còn nỗi sung sướng nào
bằng...
**
Giờ đây, mùa Xuân ly hương một
lần nữa lại đến với tôi trong ngấn lệ xa xứ xa nhà, sau hơn hai mươi mấy năm
đăng đẳng từ giã xóm làng thôn ổ mến yêu để chưa một lần dừng gót trở lại. Dù
chỉ một lần duy nhứt mà thôi. Nhưng sao tôi vẫn nhớ! Tôi nhớ mãi, nhớ đậm đà,
tưởng như còn văng vẳng đâu đây bên tai mình tiếng chày khuya nôn nao rộn rả
đến quá nửa đêm vẫn chưa dứt. Những tiếng chày quết bánh phồng cứ phồm phộp
bình binh, bình binh phồm phộp... trầm buồn bất tận giữa canh khuya thanh vắng,
giữa sự bao la huyền bí của đồng quê bản làng.
Tiếng chày quết bánh phồng đó hòa lẫn với nhịp thình
thịch thình thịch... của thanh niên lực lưỡng yêu đời, của thiếu nữ đảm đang ở
lứa tuổi cặp kê thi đua giả gạo chày ba chày tư. Nhà nhà như thách thức tranh
nhau chuẩn bị chu đáo chào đón Xuân về. Thời gian ngắn ngủi này, thôn xóm hẻo
lánh buồn tênh của tôi bỗng dưng trở nên náo nức vui nhộn hơn lúc nào hết. Nếu
so sánh với những ngày lao nhọc trần thân khổ ải suốt cả năm dài. Bà con tôi hy
vọng sẽ được ăn một cái Tết ấm no tràn đầy hạnh phúc, trúng mùa với những bồ
lúa cà tăng cao nghều nghệu chót vót tận trần nhà, choán cả các gian xích xao,
không ngớt hăng hắc mùi thóc khô trúng nắng lan tỏa khắp nơi thiếu điều nghẹt
thở.
Và tôi không sao quên được những lời nhắc nhở chí tình
chí nghĩa của bà tôi chung quanh câu chuyện cái bánh phồng Tết truyền thống
nầy. Tôi xem đây như một đặc sản hiếm hoi của quê hương mình, vốn chỉ được làm
tối đa đôi ba lần mỗi năm là cùng. Qua thành ngữ: "Trở như bánh
phồng", bà tôi lưu ý con cháu, khuyên răn chúng tôi phải nhớ giữ lấy lời.
Tuyệt nhiên không nên lật lộng tráo trở, tránh "ăn đàng sóng nói đàng
gió", biến trắng thành đen, trở trái làm mặt... Theo bà tôi, làm như vậy
mất hết tư cách và phẩm hạnh của con người tự trọng, con người có liêm sĩ, làm
mất hết lòng tin nơi mọi người. Mà ở đời, một khi đã làm mất lòng tin cậy, đã
làm mất sự tín nhiệm của người chung quanh mình thì kể như vất bỏ đi. Dù họ là
người có học, đỗ đạt tiếng tăm. Họ sẽ không làm ăn ra cơm cháo gì được vì mọi
người đều dè dặt tránh xa. Do vậy, trước khi nói phải "đánh lưỡi bảy
lần". Chỉ vì một lý do dễ hiểu "cái lưỡi không xương nhiều đường lắc
léo". Rồi bà tôi dong dài nhắc đến những cái tên chân quê, thơm thơm hương
đồng vị đất của bà con trong bản làng thôn xóm đã từng vang bóng một thời nơi
vùng đất nghèo khổ này với chất giọng đầy hãnh diện và tự hào. Tự hào và hãnh
diện về một thế hệ ăn chắc mặt dày, luôn luôn giữ tròn trước sau như nhứt, biết
tôn trọng, giám nói sự thật. Ý bà tôi khuyên lũ chúng tôi không nên vội vàng
hấp tấp. Trái lại, trong mọi hoàn cảnh trạng huống, phải suy nghĩ kỹ càng chín
chắn, nói năn cẩn trọng và có trách nhiệm. Lỡ hời hợt nói quấy nói quá, nói
thánh nói tướng, ba hoa quá đà làm mếch lòng người, gây buồn phiền kẻ khác. Lúc
ấy, dầu có thực sự thành thật ăn năn hối hận, xin được rút lời lại cũng khó
khăn, không sao thực hiện được như nước đổ xuống sàn nhà làm sao hốt lại vẹn
toàn?
Bà tôi cũng thường dẫn lời những bực trưởng thượng ngày
xưa và thong thả cho rằng cha ông và tổ tiên ta có những nhận xét chí lý vô
cùng:
Một lời trót đã nói ra
Dù cho bốn
ngựa khó mà rượt theo.
Hay:
Đã nói
thì giữ lấy lời
Đừng như
con bướm đậu rồi lại bay.
Hơn nửa thế kỷ qua, lời khuyên răn dạy bảo của bà tôi vẫn
ngân nga có lớp có ngằn trong tâm thức tôi như những ký thác khuyên bảo quý
hiếm đó vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Thì ra tôi đã nhập tâm lúc nào không hay.
Ngọn lửa rơm quê hương với cái bánh phồng tráo trở bỗng dưng dẫn dắt tôi liên
tưởng đến những hạng người trơ trẻn, không còn một chút sĩ diện và lương tâm
tối thiểu nào ở thời buổi cặn cáo lẫn lộn hiện nay. Họ như những thân cây vô
tri vô giác ở xó xỉnh nào đó, ngả nghiêng theo chiều gió. Gió chiều nào, chúng
xoay ngả theo chiều nấy. Họ thay đổi lập trường như chong chóng. Họ hèn hạ đánh
mất lương tâm và lương tri mình. Giờ đây, họ cúi mặt đi bằng đầu gối, chộp rộp
nhanh chân chạy theo hơi hướm bạc tiền rỏn rẻn bất lương bất chánh cùng với
danh vọng hão huyền gắn liền với những lời hứa hẹn chót lưỡi đầu môi. Tôi liên
tưởng đến thiểu số người nong cạn nhẹ dạ, đám đón gió trở cờ, giao lưu văn hóa
một chiều, hòa hợp hòa giải vô điều kiện... với cộng sản. Bọn sớm đầu tối đánh
này lấy sự gian dối lật lộng làm quốc sách. Ngày nào, chúng hốc hác hổn hển,
nước mắt ròng ròng, chạy giắt giò lên cổ, cố bồng con thơ dắt dìu vợ trẻ phóng
nước đại bán mạng tìm miền đất hứa. Trong hiểm nguy gian khổ tận cùng, mạng
sống bấp bênh còn hơn chỉ mành treo chuông, chúng đã từng lớn tiếng huyênh
hoang hơn ai hết, thề thốt nhứt định sẽ "phân thây uống máu", mặt đối
mặt chết sống với kẻ thù Cộng sản bạo tàn bất đội trời chung để giải phóng quê
hương. Vì chúng đã từng bị vùi dập dở chết dở sống trong trại tù khổng lồ Việt
Nam xã hội chủ nghĩa qua các chiến dịch đánh tư sản, xô đuổi đi vùng kinh tế
mới và tập trung cải tạo nơi rừng thiêng nước độc Việt Bắc...
Nay chúng trở mặt!!! Chúng nghe theo lời đường mật ngọt
lịm, những bài bản cố hữu của kẻ thù cộng sản ngay từ năm 1945 ‘sơn hà nguy
biến’ toàn dân đứng lên chống Pháp xâm lăng. Chúng cam tâm muối mặt, tự nguyện
hiến thân hiến của để được làm tay sai khuyển mã không công cho bọn bán nước
hại dân dưới mọi hình thức. Đương nhiên, chúng làm tổn thương trầm trọng danh
dự xương máu và hào quang sáng trưng của chính nghĩa quốc gia ngàn năm bất
diệt. Chúng gây xáo trộn làm mất tình đoàn kết trong sáng và kiên cường của tập
thể cộng đồng tỵ nạn Việt Nam chân chính. Tất cả những người có ý thức và trách
nhiệm này đang tập trung mọi nổ lực trong trận tuyến cuối cùng, đấu tranh nhằm
sớm giải thể chế độ Cộng sản độc tôn độc tài, bán nước hại dân, phản bội quyền
lợi tối cao của Tổ quốc và Nhân dân đang trên đà tận tiêu phá sản. Tất cả đang
dấn thân nhập cuộc để xây dựng một nước Việt Nam độc lập tự do, nhân quyền nhân
bản thấm đẫm tình người.
Bỗng nhiên, trong niềm đau đay nghiến triền miên đó, tôi
liên tưởng đến mẹ tôi. Tôi nhớ người với nỗi dày vò quặn xoáy và niềm cay đắng
sâu hút không thể và chẳng bao giờ hóa giải được nơi người cho đến lúc mẹ tôi
âm thầm lặng lẽ nhắm mắt xuôi tay trở về lòng đất tổ tiên trong cô đơn buồn tủi
dằn vặt. Lúc này, mẹ tôi đã về hưu trí sau mấy mươi năm đăng đẳng chăm lo dạy
dỗ, đào tạo không biết bao nhiêu thế hệ tương lai tuần tự tiếp nối. Những năm
sau cùng trước khi mẹ tôi về nghỉ hưu, vẫn trên những chiếc ghế thân quen của
nhà trường, trong đám học sinh ngây thơ trẻ măng ở những niên khóa cuối này,
đại đa số là những đứa con, là những đứa cháu ngoan hiền dễ dạy của những học
trò cũ của người. Cuộc đời ngăn ngắt ấy của mẹ tôi còn trĩu nặng thêm gấp bội
với mấy năm dài lưu dụng tự nguyện để kết thúc trong phũ phàng bẽ bàng với
tháng Tư đen 75 oan nghiệt, cái tháng Tư lịch sử của Miền Nam bị cưỡng bức.
Tháng Tư Đen ấy, ngày tang chung của cả nước đã gậm nhấm, soi mòn đục phá sức
khỏe người ngày thêm còm cõi hao gầy. Bao nhiêu khổ ải oan khiên tới tắp đổ
trút lên người từ đó.
Tiếng cái loa, "phương tiện tuyên truyền đánh phá
cách mạng" tịch thu của Mỹ Ngụy đã cao bay xa chạy, được cộng sản đem treo
nơi chót vót mấy cột điện cây nơi đầu ngõ, đưa tôi trở về với thực tại não nề
và chán chường. Tiếng loa nguyền rủa đó cứ vang vang chát chúa, không hết lời
ca tụng đến độ buồn cười, thành quả cách mạng "ba mươi năm mới có ngày
này". Nó được phát lên với cường độ tối đa làm bưng tai điếc óc từ hừng
đông tờ mờ sáng đến tối mò, lúc nhà nhà đều đóng cửa kín mít trong nỗi đau câm
nín của mọi người. Hằng ngày, những "chiến công thần thánh",
"bách chiến bách thắng" của những ‘đỉnh cao trí tuệ của loài người’
với những tình tiết tưởng tượng, đôi khi ngây ngô non dại đến độ buồn nôn của
"Mùa Xuân Đại Thắng" cứ nện mạnh vào trí não và tâm thần người dân
cùng chung dãy phố với mẹ tôi. Tiếng loa máy móc vô hồn ấy không ngoài để động
viên, cổ võ dối gian người dân khu phố đứng lên "nối vòng tay lớn",
"làm chủ tập thể đất nước". Và cũng để khuyến khích họ "hồ hởi
phấn khởi" cùng nhau "thắt lưng buộc bụng" hy sinh nhiều thêm
nữa nhằm cùng nhau xây dựng một "nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng mạnh
phú cường, ấm no hạnh phúc" theo đúng nguyện vọng trước đây trong thời
kháng chiến chống xâm lăng của "Bác Hồ vĩ đại kính yêu": "Dứt
chiến tranh, Bác cháu ta sẽ xây dựng nước nhà mười lần giàu đẹp hơn" (?!).
Những lần ấy càng làm cho mắt mẹ tôi thêm đoanh tròng.
Người như kẻ mất hồn, trong ngày lầm bầm lẩm bẩm mãi luôn miệng. Tôi biết trong
tâm tư tình cảm của mẹ tôi đang dấy lên bao nhiêu bất mãn uất hờn chất ngất. Và
cái đau đớn nhất của mẹ tôi lúc đó là những uất hờn bất mãn ấy của mình không
hề được tâm sự, bộc lộ hoặc chia xẻ cùng ai. Nỗi khổ ở chế độ xã hội chủ nghĩa
là như thế. Mọi người đều nghi kỵ mọi người, ngay cả đối với con cháu nhỏ tuổi
trong gia đình. Còn ngoài phường khóm, người nầy bỗng nhiên thù hận người kia
chực chờ đấu tố nhau trí mạng. Mẹ tôi ôm trong lòng nỗi đau câm nín không bao
giờ nguôi ngoai đó. Vì người canh cánh lo sợ nạn "tai vách mạch
dừng", "đấu khổ đấu tố", chỉ chọc lập công không lường được hậu
quả của đám "cách mạng ba mươi" nhẹ dạ non lòng, mắt nhìn không quá
mũi.
Cuộc đời giáo chức cấp thấp nhứt trong hệ thống giáo dục
Miền Nam của mẹ tôi ngày trước chỉ trông cậy duy nhứt vào "lương ba đồng
ba cộc" và về sau vào đồng tiền hưu trí khiêm nhường hằng tháng để sinh
sống tuổi già. Cho dù số tiền chẳng bao nhiêu ấy không sao đuổi bắt kịp tệ nạn
vật giá lạm phát, leo thang quá đà thời buổi nhiễu nhương những năm chiến cuộc
sôi nổi ác liệt khắp nơi. Nhưng dù sao ngần ấy cũng quá đủ để người xoay sở
sống một cuộc đời mẫu mực, lương thiện và trong sạch. Nhưng dù sao người cũng
sống những ngày hạnh phúc của tuổi già ướm rụng. Mẹ tôi cũng thường thố lộ với
con cháu trong nhà, người đã chọn nghề gõ đầu trẻ vì ngoài thiên chức trông nom
dạy dỗ, đào tạo thế hệ tương lai hữu ích và có trách nhiệm, còn thăng hoa những
truyền thống cao đẹp của giống nòi. Ngoài ra mỗi tháng, người có thu nhập chừng
mực, đều đặn và vững chắc. Nhờ cái gốc thầy cô giáo vững vàng với nề nếp gương
mẫu đó, người càng vững tâm hơn. Vả lại, đối với mẹ tôi, nếp sống chừng mực ấy
trong tận tụy cần cù của người xưa "khéo ăn thì no, khéo co thì ấm"
đã trở nên khuôn vàng thước ngọc soi sáng bước đi của người. Và cái
"no", cái "ấm" hằng ngày đó đã giúp mẹ tôi giải quyết tốt
đẹp những thất thường xảy ra trong gia đình và nhứt là nuôi dưỡng anh chị em
chúng tôi đến tuổi trưởng thành. Do nhận thức ấy nên chưa bao giờ mẹ tôi có ý
định phiêu lưu, dấn thân vào lãnh vực thương trường phiền toái mà mẹ tôi cho
rằng có quá nhiều bất trắc. Lúc thành công thì lên như diều ở những buổi chiều
gió lộng. Nhưng gặp hồi thất bại, gặp lúc bị phá sản, rớt xuống tận đáy vực
sâu, có muốn ngốc đầu lên cũng không phải dễ!
Mẹ tôi lẩm bẩm mãi hai chữ "nước giàu dân mạnh"
phát ra qua giọng điệu trật thượng nhàm chán từ cái loa oan nghiệt ở đầu phố.
Người càng thêm thấm thía mỗi lần bịn rịn ép lòng đem ra chợ trời chợ chạy, bán
dần đi bao nhiêu đồ đạc, áo quần cùng vật dụng tế nhuyển cũng như những kỷ vật
gia đình khác... để đổi lấy những bữa cơm cháo rau quá mức đạm bạc. Những bữa
cơm mà mẹ tôi chưa hề thấy dưới chánh thể Việt Nam Cộng Hòa, ngay cả những giai
đoạn giao tranh sống còn với cộng sản. Giờ đây, cả gia đình chúng tôi năm bảy
người chia xẻ nhau, nhường nhịn ăn chỉ vừa lưng lửng bụng. Tiền hưu trí, cái
quyền được thụ hưởng chánh đáng của mẹ tôi, niềm hy vọng và hãnh diện cuối cùng
của một đời người không hề biết ăn quỵt thế gian, đã tan theo mây khói với
miệng lưỡi lật lộng của kẻ thù chiến thắng. Chúng im lặng làm ngơ chẳng đá động
chi đến. Bao nhiêu công khó, bấy nhiêu cố gắng thường xuyên lâu nay của mẹ tôi
xem như đổ sông đổ biển trong phút chốc phù du.
Đảng và Nhà nước ta trong "khí thế đang lên"
sau khi "đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào", "cả nước sạch
bóng quân thù" đã hứa tiều hứa quảng trấn an lòng dân ở những ngày đầu
chiến thắng trong đó có mẹ tôi. Nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó, sự
thực chua cay tới tắp đến với mọi người, chẳng riêng một ai. Riêng phần mẹ tôi,
số tiền hưu trí mòn mắt mong đợi đã bị bọn Cộng sản đói trơ xương nghèo chí tử,
quỵt gọn quỵt nhanh và chúng còn gán cho mẹ tôi, một nhà giáo thuần túy gương
mẫu, trong quá khứ đã có một thời làm tay sai cho Mỹ Ngụy. Đúng như luận điệu
hàm hồ đầy thù hận ác tâm của tập đoàn bọn chúng: Tất cả mọi công dân Miền Nam, dù lớn dù nhỏ,
trẻ già, trai gái... đủ mọi thành phần trong xã hội đều có tội, có ‘nợ máu’ với
Tổ quốc và Nhân dân! Tất cả là những đối tượng cần phải được cải tạo tư tưởng
để sớm trở nên một "thành phần văn minh tiến bộ trong chế độ xã hội chủ
nghĩa bách chiến bách thắng", "văn minh đạo đức". Và cũng để
"xứng đáng với chủ trương khoan hồng của Đảng và Nhà nước"... Trong
hoàn cảnh tối tăm nghiệt ngã bế tắc đó, mẹ tôi không sao quên được những
"biện pháp khoan hồng" đường mật của bọn người chiến thắng cuồng
ngông không tưởng. Trong đầu óc cục bộ ngu dốt, chúng chỉ nuôi dưỡng giấc mộng
không bao giờ thực hiện được: giấc mộng mưu bá đồ vương dựa trên chủ trương đấu
tranh giai cấp, xóa bỏ tư hữu qua đường lối chém giết tận diệt và hận thù.
Tóc bạc phau ở vào tuổi mong manh ướm rụng, chạy ăn hằng
bữa đã là một kỳ công vượt sức con người của mẹ tôi khi đứng trước viễn ảnh
bệnh tật chực chờ và nạn đói hoành hành cận kề, không sao tránh khỏi. Ấy thế,
mẹ tôi cứ hằng đợt thăm nuôi con cái đang vướn vòng tù tội còn phải thu xếp lặn
lội băng rừng vượt suối, đi vạn dặm đường trường, gồng gánh đủ mọi thứ tạp vật
để tiếp tế người thân nơi rừng sâu nước độc, tử địa hắt hiu. Nó đã nhẹ dạ non
lòng tuân hành nghiêm chỉnh lệnh trình diện của "Đảng và Nhà nước ta"
để được hưởng "biện pháp khoan hồng" đi tập trung học tập "cải
tạo mười ngày" hòng trở thành một công dân tốt. Nó nào ngờ mười ngày gian
trá của "biện pháp khoan hồng" lật lộng đó tưởng đã cướp đi mạng sống
bấp bênh của nó đang trong tuổi thanh xuân yêu đời. Quả nó còn có chút may mắn
hiếm hoi, không như trường hợp oái oăm uất hờn của biết bao nhiêu chiến hữu,
những đồng đội bất hạnh của nó thuộc các cấp trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
thời huy hoàng ngày xưa. Những người này, không ít đã gởi nấm xương gầy guộc
nơi xó rừng hoang vu hay hốc núi thăm thẳm mịt mù man dại nào đó thuộc biên
giới Việt Bắc sương lam chướng khí.
Mẹ tôi đã trở về với lòng cát bụi không lâu sau khi mấy
thằng con xấu số trở về sum họp gia đình với hơn một thập niên dài đọa đày nhục
nhã ở các trại tập trung giết người khắp núi rừng Nam Bắc hắc ám, thập tử nhứt
sanh. Có lẽ vì mẹ tôi quá sầu khổ đớn đau những khi trông thấy con mình mang
tấm thân tàn ma dại lê lếch không ngày mai, hằng ngày còn bị địa phương quản
lý, tiếp tục làm tình làm tội không thôi. Nhưng mẹ tôi nào có biết, ở lãnh vực
lật lộng tráo trở chuyên nghiệp đến độ buồn nôn này của Cộng sản, lũ con cháu
"Bác Hồ" kể như là những nhà vô địch ngoại hạng. Trên thế giới không
ai có thể so sánh bằng. Nếu phải kể ra những bằng cớ chính xác, những trường
hợp điển hình, buồn thay lúc nào cũng vấy máu người vô tội chết oan, thiết
tưởng không bút mực nào có thể kể xiết. Tôi chỉ xin được phép nhắc lại những
lời chưởi rủa hạ cấp quá ư bần tiện của Phạm Văn Đồng lúc còn là "thủ
tướng muôn năm" của cộng sản Hà Nội. Hắn đã sỉ vả, nhục mạ người tỵ nạn
chính trị Việt Nam khắp nơi trên thế giới là "bọn lưu manh đỉ điếm",
"Việt gian bán nước"... Để rồi bọn đàn em ngu dốt đang trực chỉ con
đường cùn mạt vận và bế tắc hiện nay, không ngượng miệng ve vản họ với cụm từ
đường mật cố hữu "khúc ruột từ ngoài ngàn dặm"...
Hôm nay, nhằm ôn cố tri tân, tôi xin được giở nón bái
phục sĩ khí và phong cách người trước. Tôi không bao giờ quên những lời nhắc
nhở quí báu của bà và mẹ tôi về cái bánh phồng Tết những năm xa xưa trên xóm
Rạch Rít cùn khổ, quê hương tôi thuở thanh bình, đầy ấp tình thương và tình
người. Và hôm nay, nhân Xuân về nhắc chuyện cũ, tôi đã mượn kỷ niệm ấu thời
trên thôn làng cách ngăn diệu viễn để được trầm mình trong hương thơm nước mát
bất tận của vùng sông nước quê mình. Qua đó, tôi chỉ có mỗi một ước mơ là quên
đi phần nào nỗi dằn xé, bệnh hoạn hao gầy của cuộc sống ly hương tạm bợ hiện
tại.
Người ta
thường nói, kỷ niệm là trạng thái tâm hồn làm giảm đi đà tiến, hướng về tương
lai. Nhưng đối với tôi, kỷ niệm... nhứt là những kỷ niệm cũ không bao giờ nhạt
nhòa về mẹ tôi, về bà tôi và về bà con nơi xóm Rạch Rít của tôi... Những kỷ
niệm đậm đà ấy lại là một thần dược hiệu nghiệm quý hiếm, có ma lực làm xoa dịu
để cứu rổi tâm hồn phiêu bạt của tôi. Và nhờ đó, niềm tin nơi tôi càng thêm
được củng cố. Bước đi hằng ngày của tôi thêm vững vàng hơn lúc nào hết. Trong
mông lung mơ hồ của những đêm dài trằn trọc thao thức, những tiếng bình binh
phồn phộp quết bánh phồng Tết trầm buồn cứ văng vẳng vang dội vào vùng tâm thức
của tôi, tưởng chừng như một âm hưởng huyền hoặc kỳ bí nào đó đã vọng lại từ
cõi xa xôi hun hút. Mỗi điệp khúc bất diệt ấy sao cứ lập đi lập lại mãi, vừa
chan chứa ngất ngây vừa lẫn khuất hồn quê và tình người làm cho tôi càng thên
ray rứt xốn xang...
Tôi
đã giã từ Việt Nam thân yêu của mình từ hơn ba mươi năm trước. Tôi đang sống
lưu vong, cách ngăn nơi chôn nhao cắt rún một nửa vòng trái đất. Nhưng mỗi lần
nghe trong hồn tôi tiếng chày khuya quết banh phồng Tết là tôi ý thức và nhìn
lại rõ ràng sáng trưng gốc rễ cội nguồn của bản làng thôn ổ khắc khổ của mình.
Để rồi xác quyết thêm một lần cuối, muôn thuở tôi vẫn là người Việt Nam.
Võ Phước Hiếu