Wednesday, August 30, 2017
HỒI KÝ LÝ QUÝ CHUNG II
HỒI KÝ LÝ QUÝ CHUNG II
XII
...Một vài người bạn như các nhà báo Trần Trọng Thức, Nguyễn Trung Dân... khi thấy tôi có khả năng bình phục đã gợi ý với tôi viết hồi ký. Trước khi bị bệnh tôi chưa nghĩ đến việc này. Lúc đó tôi nghĩ nếu có bắt đầu, tôi vẫn thích viết một hồi ký về 40 năm làm báo hơn là về cuộc đời chung của mình. Tôi rất muốn có cơ hội gởi gắm những điều mình học hỏi, tích lũy được trong cuộc đời viết báo, làm báo của mình cho các bạn trẻ.
Nhưng bệnh tật đột nhiên đến, khiến tôi phải thay đổi kế hoạch. Hồi ký về báo chí – tôi đành gác lại sau vậy.
Viết hồi ký cũng là một cách nhìn lại cuộc đời mình. Tôi bắt đầu làm việc đó từ tháng 12-2002 khi sức khỏe bắt đầu phục hồi tốt. Tôi cứ tưởng công việc này chỉ mất năm hay bảy tháng là xong. Không ngờ mãi đến tháng 4-2004, tức 16 tháng sau, vào lúc tôi đang viết những dòng này, cũng chưa hoàn tất. Nhà báo Thúy Hà (báo Phụ Nữ TP.HCM) giúp tôi công việc đọc lại bản thảo, hạn chế những sai trật về chữ nghĩa, điều này khó tránh với một người vốn từ nhỏ học tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt như tôi. Thúy Hà làm rất tỉ mỉ và tận tình. Đây là công việc đầy tình cảm mà không bao giờ tôi quên ơn.
...Đem chuyện của riêng mình kể cho nhiều người nghe, tôi không chắc mọi việc đều đáng kể và được người đọc quan tâm. Nhưng đây là chuyện đời tôi, gồm cả những điều hay dở, nhưng đó là những điều tôi đã từng suy nghĩ như thế và hành động như thế. Tất cả những gì kể lại trong hồi ký này là chuyện của tôi, là chính tôi. Như tôi đã nói: Tôi cố gắng không gọt dũa và sửa sang lại quá khứ của mình.
...Vào lúc sắp kết thúc tập hồi ký này, tháng 2-2004, một sự kiện tình cờ nhiều ý nghĩa với tôi xảy ra: Tại TP. HCM tôi gặp lại ông Nguyễn Cao Kỳ. Nếu tính từ cuộc gặp ông lần đầu khi tôi mới vào làng báo thì đến nay 40 năm đã trôi qua.
Qua trung gian là Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi, ông Kỳ và tôi có một buổi ăn trưa tại nhà hàng An Viên của bà, trước một ngày ông Kỳ rời TP. HCM trở về Mỹ. Đây là chuyến về thăm quê hương đầu tiên của ông Kỳ sau khi rời Sài Gòn ngày 29-4-1975.
Những năm khởi đầu cuộc đời làm báo (1964-1965) tôi đã có dịp gặp ông Kỳ, lúc ấy ông là thủ tướng Sài Gòn. Tôi dự buổi ăn sáng của thủ tướng Kỳ tổ chức tại nơi làm việc của ông trên đường Thống Nhất. Mỗi tuần ông đều tổ chức một lần ăn sáng với báo chí để trao đổi các vấn đề thời sự. Trước ông và sau ông không có một thủ tướng nào ở Sài Gòn làm thế. Nhưng các buổi ăn sáng này chỉ kéo dài trong vài tháng. Tôi có dự cả buổi họp báo ông Kỳ công bố quyết định đóng cửa tất cả các báo Sài Gòn hồi năm 1965 - một chuyện có một không hai trước 1975 tại miền Nam. Nhắc lại chuyện xảy ra 40 năm về trước, ông Kỳ còn kể lại cho tôi nghe một chi tiết bên lề cuộc họp báo: “Khi ông vừa công bố quyết định đóng cửa tất cả các báo để tái lập trật tự thì ở gần cuối phòng họp một nhà báo Việt Nam đứng dậy hô to “Đả đảo độc tài” và hô hào các đồng nghiệp mình bỏ phòng họp ra về. Nhà báo đó, tôi còn nhớ là Tô Văn. Tôi nói to hướng về Tô Văn: “Mời anh ngồi lại. Nếu anh bỏ phòng họp ra ngoài vào lúc này tôi sẽ có biện pháp giữ anh lại”.
Với ông Kỳ, tôi còn có nhiều chuyện liên quan khác mà tôi đã kể ở những đoạn trước của hồi ký này.
Thật không thể tưởng tượng lại có một ngày ông Kỳ và tôi có dịp dùng cơm trưa với nhau tại TP.HCM trong không khí rất riêng tư và an bình như thế. Cuộc gặp diễn ra khi tôi viết phần cuối Hồi ký không tên của tôi. Những gì tôi đã viết về ông Kỳ trước đó tôi vẫn giữ nguyên, không sửa đổi một ý nào hay một chi tiết nào. Bởi đó là những gì tôi biết và nghĩ về ông khi ông là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (tức Thủ tướng) và Phó Tổng thống VNCH, còn tôi là nhà báo và sau đó là dân biểu Hạ nghị viện. Còn những gì các nhà báo nước ngoài viết về ông trong thời gian đó, mà tôi có trích lại trong Hồi ký không tên thì thuộc phần tư liệu, giúp cho những người sau này hiểu thêm về một thời kỳ đã qua tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Các đánh giá về ông Kỳ của các nhà báo nước ngoài là như thế, đúng sai đến mức nào khó có một thẩm định chính xác, nó tùy thuộc chỗ đứng của người viết và tính chất quan hệ giữa người đó với ông Kỳ.
Ông Kỳ trong con mắt của tôi sau 40 năm vẫn là thế. Về mặt tính cách, ông không thay đổi nhiều. Lập trường và các hành động chính trị của ông trước 1975 có nhiều điều để tôi không tán đồng và lúc đó tôi đứng về phía đối lập với ông. Dĩ nhiên sự đối lập của tôi với ông Kỳ khác với ông Thiệu. Không đứng cùng nhau một trận tuyến chính trị, nhưng từ trước 1975, tôi vẫn có thể quan hệ bình thường với ông, và từng chơi quần vợt với ông trên sân Xẹc Tây. Chính vì mối quan hệ năm xưa như thế, nên khi được gợi ý, tôi đồng ý ngay việc gặp lại ông trong một buổi ăn trưa. Tôi đoán trước đó sẽ là một buổi gặp thú vị, bởi ông Kỳ là con người nghĩ gì nói nấy, không lắt léo che giấu những suy nghĩ của mình.
Gặp lại ông Kỳ sau 40 năm, với tôi như đã đi tròn một giai đoạn lịch sử của đất nước (1965-2005). Khi tôi gặp ông Kỳ lần đầu, đó là lúc quân đội Mỹ ồ ạt đổ vào miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến đi vào những ngày tháng ác liệt nhất. Đó cũng là thời kỳ khởi đầu sự nghiệp chính trị của ông Kỳ. Trải qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, chúng tôi lại ngồi chung với nhau vào lúc đất nước đã hòa bình và thống nhất, kinh tế bắt đầu một giai đoạn phát triển mới. Mỗi người chúng tôi có một con đường đi khác nhau, một sự chọn lựa khác nhau nhưng cuối cùng gặp lại ở một điểm hẹn chung trên quê hương mình! Trước mặt tôi vẫn là một Nguyễn Cao Kỳ ‘‘nghĩ sao nói vậy’‘. Khi ông chống Cộng thì chống dứt khoát, thậm chí thực hiện hành động bị nhiều người lúc đó lên án: tự mình lái máy bay bỏ bom miền Bắc. Còn bây giờ, khi đất nước có những thành tựu tốt đẹp, khi trở về ông công khai bày tỏ sự mừng vui ủng hộ bất chấp những “chiến hữu” cũ của ông ở Mỹ có phản đối quyết liệt. Việc một cựu thủ tướng và là phó tổng thống VNCH chính thức trở về nước trong chế độ cộng sản, dù muốn hay không, được coi như một cột mốc lịch sử: là sự thừa nhận chế độ mới của một trong những người từng điều khiển cuộc đối đầu trực diện với người cộng sản trong chế độ cũ trước đây. Tôi cảm phục sự dũng cảm đó của ông Kỳ. Dũng cảm trước những áp lực ở phía những người đã từng đứng cùng chiến tuyến với ông và nhất là dũng cảm với chính mình khi bày tỏ công khai một thái độ chính trị đi ngược hẳn với con đường mà ông đã đi trước 1975. Dám thay đổi thái độ của mình không vì điều gì khác hơn là vì quyền lợi của dân tộc, bất chấp những dị nghị ác ý là điều không dễ dàng.
Gặp lại ông Nguyễn Cao Kỳ, bất chợt nhớ lại 40 năm đã qua trong cuộc đời của mình, tôi thấy cuộc đời mình rất nhỏ bé giữa bao la biến cố thăng trầm của lịch sử, nhưng tôi đã sống với nó hết lòng, luôn sôi nổi và hào hứng. Hay, dở là do mình. Mình không thể phủ nhận nó. Tôi hài lòng về nó chứ? Con người và năng lực của tôi, cùng hoàn cảnh cho phép, chỉ được như thế. Tuy nhiên tôi cũng không mơ ước một cuộc đời nào khác và nếu phải bắt đầu lại, thật khó lòng dựng lại một kịch bản như thế. Tôi đã sống cuộc đời nhỏ bé của mình như một tiểu thuyết, mãnh liệt ở từng chương và từng trang. Chưa bao giờ tôi hờ hững với những năm tháng của đời mình.
...Ngay bây giờ sau cơn bệnh nặng tưởng là không qua khỏi, thời gian được cuộc đời “tạm ứng” thêm chắc không nhiều, nhưng nhịp độ viết báo và làm báo của tôi vẫn không thay đổi. Hiện nay tôi là một nhà báo tự do, không thuộc biên chế một tòa soạn nào nhưng viết bài thường xuyên cho bốn tờ báo, mỗi ngày viết từ hai đến ba bài và tư vấn cho hai tạp chí. Kết thúc cuốn hồi ký này, tôi chuẩn bị bắt tay viết tiểu thuyết Người Mỹ cuối cùng chết ở Việt Nam mà tôi đã ấp ủ từ hơn mười năm qua. Sự bận rộn và căng thẳng trong công việc luôn làm tôi hạnh phúc. Như tôi đã nói: Với tôi, cầm viết tức là tồn tại!
TP. HCM ngày 12-4-2004
XII
23. Cuộc “trốn chạy” của Nguyễn Văn Thiệu
Không khí tại Dinh Hoa Lan rộn rịp lên sau tuyên bố từ chức của ông Thiệu.
Không khí tại Dinh Hoa Lan rộn rịp lên sau tuyên bố từ chức của ông Thiệu.
Cựu trung tướng Trần Văn Đôn, nghị sĩ quốc hội, thất bại trong toan tính tự giới thiệu mình với Pháp như một ứng cử thay Thiệu, giờ chót quyết định ủng hộ người bạn xưa của ông là cựu trung tướng Dương Văn Minh. Tướng Đôn trước đây hầu như không thấy xuất hiện ở Dinh Hoa Lan, bây giờ vô ra thường xuyên. Tuy Dương Văn Minh và Trần Văn Đôn cùng tham gia cuộc lật đổ hai anh em Diệm-Nhu và đều xuất là những sĩ quan quân đội Pháp nhưng ngoài đời hai người rất ít quan hệ với nhau vì tánh tình rất khác nhau. Ông Minh thích thể thao từ nhỏ, đã từng là thủ môn của đội bóng Thủ Dầu Một những năm 40, một đấu thủ quần vợt có hạng và mãi sau này ông vẫn cầm vợt ra sân tuần ba buổi tại câu lạc bộ CSS. Khác với phần đông các tướng lãnh Sài Gòn đều mê gái, ông Minh có một cuộc sống gia đình rất gương mẫu. Tướng Đôn ngược hẳn: ông như nhân vật Don Juan, các phụ nữ đẹp trong giới thượng lưu Sài Gòn khó thoát khỏi tay ông nếu lọt vào tầm ngắm của ông. Dù không hợp nhau nhưng Minh và Đôn vẫn tôn trọng nhau.
Người ta cũng thấy xuất hiện một số tướng về hưu như trung tướng Nguyễn Hữu Có, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh... Thẳng thắn mà nói số tướng tá chung quanh ông Minh lúc này không có nhiều và cũng ít có gương mặt nổi bật. Các tướng tá đương quyền, thuộc thế hệ sau, đều phò Thiệu hoặc Kỳ. Nếu xảy ra một cuộc đối đầu quyền lực với Nguyễn Cao Kỳ, chắc chắn nhóm ông Minh sẽ gặp khó khăn. Lực lượng của ông Minh quá mỏng. Do lâu ngày tách khỏi quân đội, ông Minh không còn tay chân thân tình của mình trong hàng tướng tá. Trong các buổi họp hàng tuần của nhóm ông Minh chỉ thấy mặt hai nhân vật quân sự thuộc thế hệ đã qua: đó là cựu trung tướng Mai Hữu Xuân và cựu trung tướng Lê Văn Nghiêm, đều không còn ảnh hưởng trong quân đội.
Khi nhân vật tình báo Mỹ Charles Timmes gián tiếp nói cho Kỳ biết đại sứ Mỹ Martin ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh và không ủng hộ cá nhân ông, Kỳ không giấu giếm lập trường của ông là sẽ chống ông Minh không khác chống cộng sản. Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ vẫn nuôi tham vọng tại chính trường.
Ngay sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Ban Mê Thuột, từ Khánh Dương trên Cao Nguyên - nơi ông có một nông trại - Kỳ đáp máy bay trực thăng về Sài Gòn nhờ tướng Cao Văn Viên, đang là tổng tham mưu trưởng, thuyết phục Thiệu giao quân cho Kỳ đi ngăn chặn sự tiến quân của quân giải phóng và bảo vệ Sài Gòn. Trong hồi ký của mình (Budda’s Child), Kỳ kể đã gặp Cao Văn Viên.
Kỳ hỏi: “Tình hình Ban Mê Thuột thế nào rồi?”.
Viên đáp: “Rất khó khăn. Chúng ta không có thừa quân vì phải bảo vệ Sài Gòn”.
Kỳ: ‘‘Tôi không cần nhiều quân. Cho tôi vài tiểu đoàn thủy quân lục chiến hoặc dù, và chừng 20 đến 25 chiến xạ, tôi sẽ tìm cách phá vỡ sự bao vây. Tôi sẽ trực diện với quân địch và chiến đấu”.
Dừng một lúc, Kỳ hỏi Viên: “Anh có nghĩ tôi sẽ thành công”
Viên trả lời: “Nếu anh chỉ huy lực lượng đó, tôi nghĩ là thành công”.
Kỳ: ‘‘Vậy thì hãy để tôi hành động”.
Viên: “Đáng tiếc tôi không ở vào vị trí có thể lấy một quyết định như thế. Quyết định này thuộc thẩm quyền của tổng thống Thiệu”.
Kỳ: ‘‘Ô kê, hãy gọi Thiệu, báo cho ông ta tôi đang ở đây và nói với ông ta biết đề nghị của tôi…”
Viên gọi điện cho Thiệu, nhưng tổng tham mưu trưởng không nói chuyện được với vị tổng chỉ huy của mình. Thông qua một tùy viên của Thiệu, Viên để lại một báo cáo. Nhưng sau đó, viên trợ lý này gọi lại tướng Viên và cho biết:
“Tổng thống cảm ơn tướng Kỳ rất nhiều về đề nghị của ông nhưng tổng thống cần có thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông”.
27 năm có đủ lâu để suy nghĩ cho một quyết định như thế? Tôi vẫn chờ câu trả lời của Thiệu. Có lẽ ông ta sợ tôi sẽ làm gì đó tại Sài Gòn với đơn vị xe tăng hơn là sợ đối phương có thể làm gì với quốc gia”.
Thật sự đây chỉ là canh bạc xì phé mà Kỳ tung ra với Thiệu. Cả Cao Văn Viên và Nguyễn Văn Thiệu không ai tin rằng Kỳ sẽ cầm quân ra mặt trận vào lúc đó sinh mạng sống của mình để bảo vệ cái ghế của Thiệu. Điều mà cả hai nghĩ là có quân trong tay Kỳ sẽ tính tới lật đổ Thiệu và giành lấy quyền bính mà ông ta đã để lọt ra khỏi tay hồi năm 1967. Tự cho mình quá hiểu Kỳ, Thiệu đương nhiên gạt qua một bên “đề nghị viển vông” ấy.
Vào lúc CIA có ý định lật đổ Thiệu, ông Kỳ lại được nhà báo Mỹ Robert Shaplen của báo New Yorker tích cực vận động để quay trở lại chính quyền. Từ đầu Shaplen luôn ủng hộ Kỳ. Shaplen có ảnh hưởng khá lớn đối với tòa đại sứ Mỹ, nhưng cuộc vận động này nếu quân giải phóng chưa vào Sài Gòn, ngày 30-4-1975, chắc chắn Kỳ cũng sẽ tìm cách đảo chính ông Minh.
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn một cách bí mật; địa chỉ đến là Đài Loan. Trước đó quyền tổng thống Trần Văn Hương thúc hối đại sứ Martin phải áp lực ông Thiệu rời Việt Nam sớm bởi “sự hiện diện hiện diện của ông Thiệu gây khó khăn cho ông”! Từ ngày 21-4 sau khi tuyên bố từ chức, ông Thiệu và gia đình vẫn ở trong Dinh Độc Lập. Ông Thiệu rời Dinh Độc Lập vào lúc 7 giờ 30 tối. Cùng đi với ông Thiệu có tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng và là bạn thân của Thiệu. Bà Thiệu và bà Khiêm đã rời Sài Gòn trước đó vài ngày. Bà Khiêm mang theo cả người giúp việc. Theo sự tố giác của linh mục Đinh Bình Định, người rất gần gũi với linh mục Trần Hữu Thanh, thì trong quân đội vào đầu tháng 3 có nhen nhúm một kế hoạch kết hợp Thiệu và Khiêm thành một liên danh tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 3 vào cuối năm 1975, nếu chế độ Sài Gòn còn kéo dài. Chính Thiệu cũng từng tiết lộ kế hoạch này với đại sứ Martin và cho rằng nếu ông làm tổng thống một nhiệm kỳ nữa thì ông sẽ có điều kiện để mở rộng dân chủ!
Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng phải gọi đó là một cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau:
Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin cho tướng Mỹ Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.
Timmes điện cho Thiệu và cho biết ông ta có thể dùng một chiếc trực thăng để đưa Thiệu từ Dinh Độc Lập đến phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng ông Thiệu trả lời rằng ông ta muốn đi ô tô để ghé tổng tham mưu trước và “uống một ly rượu với 22 tướng tá” đến chào từ biệt ông ta tại đây. Hình như nơi Thiệu và Khiêm ghé lại là nhà riêng của ông Khiêm. Từ tổng tham mưu, chính nhân viên, chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm ra sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu: “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của tòa đại sứ, hơn nữa anh còn là một tài xế đẳng cấp”. Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi người xuống “như thế an toàn cho tổng thống”. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi thăm bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời: “Họ đang shopping ở London mua đồ cổ”. Đại sứ Martin đứng chờ sẵn ông Thiệu bên cạnh chiếc máy bay C-118. Trước khi lên máy bay ông Thiệu vỗ vai cảm ơn Frank Snepp. Trong bài viết riêng của mình liên quan đến phút giây này trong quyển The Vietnam War rememberd from all sides của Christian G. Appy, Frank Snepp có kể rằng ông Thiệu bắt tay Snepp và nói “tiếng Anh bằng giọng Pháp” với Snepp rằng: “Cảm ơn, cảm ơn tất cả mọi chuyện”. Nhưng sau đó Snepp lại tự hỏi ông Thiệu cảm ơn chuyện gì? “Tôi nghĩ chúng ta (tức người Mỹ) đã mất 58.000 thanh niên tại đây – ông Thiệu cảm ơn chuyện đó? Hay đơn giản cảm ơn vì bản thân mình chuồn đi được?”. Đại sứ Martin theo Thiệu vào tận bên trong máy bay. Ông ta nói với Thiệu “Chúc may mắn” rồi mới bước bước trở xuống lên ô tô của mình. Chuyến bay của Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20. Có tin đồn Thiệu mang theo 16 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn. Thật sự số vàng vẫn ở lại miền Nam. Nhưng theo Kỳ thì “Thiệu mang theo tấn hành lý và nhiều triệu đô la tiền mặt. Ông ta không chuồn với số vàng của ngân khố quốc gia”.
Dân Sài Gòn dửng dưng (và không ngạc nhiên) khi hay sự “trốn chạy” của Thiệu ra nước ngoài. Họ không ngạc nhiên vì Nam Việt Nam đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc đào tẩu như thế của những kẻ một thời lãnh đạo miền Nam. Trường hợp của ông Thiệu cũng thế thôi, nằm trong sự dự đoán trước của nhiều người. Trung tá phi công Minh, bạn học của Hoàng Đức Nhã ở Lycée Yersin Đà Lạt, được Nhã kéo về chỉ huy đội bay trực thăng riêng của tổng thống Thiệu trong nhiều năm, gặp tôi tại Dinh Độc Lập tối 29-4-1975 đã bày tỏ sự bất mãn của anh với cách cư xử của Thiệu với những người đã từng là thân tín của ông ta. Tại Lycée Yersin, trung tá Minh học trên tôi hai lớp và chúng tôi từng quen biết nhau. Trung tá Minh kể rằng ông Thiệu chẳng nói gì với anh trước khi ra đi mặc dù anh là người bảo đảm tính mạng, sự an toàn cho ông Thiệu trong nhiều năm. Thiệu không cần quan tâm số phận người cộng sự thân tín của mình với gia đình anh ta rồi sẽ ra sao. Không một lời an ủi hay một cử chỉ giúp đỡ trước khi ra đi, mặc dù ông Thiệu dư biết trung tá Mình không dư dả gì trong vị trí công tác của mình. Cái đáng phục ở trung tá Minh là dù sau đó anh có điều kiện ra đi an toàn với chiếc trực thăng mà anh đang lái nhưng anh vẫn quyết định ở lại.
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn đi Đài Loan, coi như cuộc chiến ở Việt Nam qua 4 thời tổng thống Mỹ kết thúc.
Một sự thất trận hoàn toàn và đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Tuần lễ còn lại chỉ là thủ tục chính thức khai tử cuộc chiến đã trở thành nỗi nhục và vết thương không thể hàn gắn trong nhiều thế hệ người Mỹ.
Thật ra Washington đã thấy trước sự sụp đổ của miền Nam, đặc biệt từ sau quyết định của Thiệu rứt khỏi Ban Mê Thuột. Trong hồi ký của mình, Kissinger tiết lộ vào thời điểm đó, ông không tin rằng Pháp sẽ dàn xếp được một giải pháp chính trị nào đó. Các cuộc vận động của Pháp phản ánh sự tiếc nhớ của một thời thực dân đã mất ở Đông Dương hơn là đạt tới một dàn xếp thực tiễn. Do đó, từ đầu tháng 4-1975, Mỹ đã tiến hành âm thầm những chuẩn bị cho một cuộc rút chân hoàn toàn khỏi Việt Nam, làm thế nào diễn ra an toàn nhất. Kế hoạch của Mỹ là phải đưa 6000 người Mỹ và khoảng 10.000 người Việt Nam đã từng cộng tác với Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, xem lại các tài liệu, người ta đi đến kết luận đại sự Graham Martin “lì” hơn tổng thống Thiệu. Ông ta không tìm cách bỏ chạy sớm như Thiệu. Sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Cao nguyên, lúc đầu đại sứ Martin vẫn hy vọng thực hiện một tuyến phòng thủ cho Nha Trang, Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long để giữ lại phần đất sau cùng - một đề nghị khi được thông báo về Washington đã làm điên tiết Phil Habib, trợ lý các vấn đề Đông Nam Á của tổng thống Mỹ. Và đến khi chế độ Sài Gòn sụp đổ đến nơi thì Martin vẫn hi vọng đạt tới giải pháp chính trị chính phủ liên hiệp ba thành phần (!). Washington coi các suy nghĩ của Martin là ảo tưởng. Quốc hội Mỹ mỗi ngày áp lực mạnh mẽ hơn buộc tổng thống Ford phải tiến hành khẩn cấp lệnh di tản. Ngày 14-4-l975, cả Ủy ban ngoại giao thượng viện Mỹ gọi điện trực tiếp cho tồng thống Ford tại Cabinet Room - phòng làm việc riêng của tổng thống để thúc hối tổng thống ra lệnh di tản ngay. Chuyện này chưa từng xảy ra từ thời tổng thống Woodrow Wilson. Bộ trường quốc phòng James Schlesinger và ngoại trưởng Kissinger cố gắng trình bày tình hình quân sự cho các thượng nghị sĩ nghe. Nhưng các nghị sĩ trong Ủy ban ngoại giao Mỹ phản ứng lại rằng lúc này khôngcòn là lúc bàn cãi các giải pháp mà phải nhanh chóng di tản người Mỹ, “không được kéo dài thời gian để cứu người Việt Nam” (chi tiết này trích trong hồi ký “Ending The War” của Henry Kissinger).
Trong hồi ký của mình, tổng thống Ford kể rằng ông đã gửi cho Martin một bức điện nêu ý kiến rõ ràng: ‘‘rút ra nhanh”. “Tôi sẽ cho ông một số tiền lớn để thực hiện cuộc di tản”. Nhưng Ford kể thêm rằng nghị sĩ Jacob Javits, thuộc New York, lưu ý “đừng dùng số tiền đó như một một viện trợ quân sự trá hình”. Nghị sĩ Frank Church (Idaho) thấy việc cấp tiền cho sứ quán Mỹ có thể sinh ra vấn đề nghiêm trọng, có thể dẫn tới “sự dính líu của chúng ta và một cuộc chiến mở rộng nếu chúng ta có gắng di tản tất cả những người Việt Nam đã trung thành với chúng ta”. Còn nghị sĩ Joseph Biden (Delaware) lặp lại rằng “Tôi không biểu quyết thêm một số tiền nào để đưa người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Tôi không muốn điều này dính líu với việc di tản người Việt Nam”.
Vào lúc này, chuyện di tản người Việt Nam đã từng làm việc với người Mỹ, bị nhiều nghị sĩ coi như “một thứ nợ đời phiền toái”, một yếu tố có thể làm liên lụy đến sự an toàn của người Mỹ khi rút ra khỏi Việt Nam.
Cuối cùng Martin phải tuân lệnh di tản từ Washington nhưng ông vẫn tìm cách thực hiện quyết định này theo ý mình: kéo dài thời gian di tản người Mỹ để hạn chế sự hoảng loạn trong số người Việt dính líu với Mỹ muốn rời khỏi miền Nam.
Kế hoạch di tản của người Mỹ khởi động từ ngày 21-4-1975, liên tục cả ngày và đêm, ban ngày với máy bay C-141s, ban đêm với máy bay C130s. Những người không quan trọng được đi trước.
Để thực hiện cuộc di tản an toàn, tòa đại sứ Mỹ cần duy trì sự tồn tại chế độ Sài Gòn càng lâu càng tốt. Đại sứ Martin khi chấp nhận quan điểm của đại sự Pháp Jean Marie Merillon cần ủng hộ ông Minh thay thế ông Hương cũng vì mục tiêu ấy mà thôi. Thời gian còn lại không còn nhiều nhưng ông Hương vẫn không chịu rời khỏi cái ghế quyền tổng thống của mình bất kể áp lực từ các sứ quán Pháp và Mỹ. Bám vào lập luận mình thay Thiệu đúng theo hiến pháp, ông Hương buộc những người muốn thay ông cũng phải thông qua hiến pháp và quốc hội. Là một người ngấm ngầm say mê quyền lực, ông Hương vẫn mơ làm tổng thống và tự coi minh là một Charles De Gaulle mà ông rất ngưỡng mộ. De Gaul1e là vị cứu tinh của nhân dân Pháp trong thế chiến thứ hai, còn ông Hương thì tưởng tượng rằng mình có sứ mạng cứu Sài Gòn trước “cuộc xâm lăng của cộng sản”. Do đó khi đã có quyền lực trong tay rồi ông không dễ dàng buông ra.
Thế là các nỗ lực nhằm đẩy ông Hương ra khỏi chiếc ghế tổng thống phải hướng sang quốc hội. Ngày 26-4-l975, lưỡng viện quốc hội được triệu tập để nghe ảnh hình quân sự và quyết định người thay quyền tổng thống Trần Văn Hương. Chỉ có 136 dân biểu nghị sĩ hiện diện trên tổng số 219. Rất đông trong số họ đã chuồn ra nước ngoài. Phiên họp lưỡng viện có mặt cựu tướng Trần Văn Đôn với tư cách bộ trưởng quốc phòng, đại tướng Cao Văn Viên - tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, trung tướng Nguyễn Khắc Bình - tổng giám đốc cảnh sát, trung tướng Nguyễn Văn Minh - tổng trấn Sài Gòn. Các nhân vật quân sự này lần lượt thuyết trình cho các nghị sĩ và dân biểu nghe tình hình quân sự tuyệt vọng của Sài Gòn với sự dẫn chứng cụ thể trên bản đồ. Quân VNCH chỉ có 60.000 người để bảo vệ Sài Gòn. Lúc này quân giải phóng cũng có một quân số như thế nhưng tăng lên nhanh chóng từng giờ. Phần thuyết trình quân sự nhằm thuyết phục các dân biểu nghị sĩ sớm biểu quyết sự thay thế ông Hương để tìm một giải pháp chính trị. Tiếp liền đó là cuộc thảo luận của quốc hội. Có mặt trong phiên họp này ở tầng lầu trên dành cho khách còn có đại diện các tòa đại sứ, đông đảo phóng viên nước ngoài.
Các dân biểu, nghị sĩ tham dự đều biết mục đích phiên họp là đưa ông Minh lên thay ông Hương nhưng cuộc thảo luận có lúc giậm chân tại chỗ và tưởng đâu bế tắc. Những dân biểu, nghị sĩ từng bị gọi là “gia nô” vì bán mình cho tổng thống Thiệu - họ nắm đa số trong cả Thượng viện lẫn Hạ viện - do dự trong biểu quyết trao quyền ông Minh vì hai lý do: 1. Sợ phe đối lập (tức phe ông Minh) lên nắm quyền sẽ trả thù họ. 2. Sợ quân giải phóng vào Sài Gòn quá nhanh chạy không kịp sẽ nguy hại tính mạng.
Nắm rõ ảnh hình này, trong giờ giải lao tôi tiếp xúc với một số dân biểu và nghị sĩ có ảnh hưởng ở phía thân chính và đưa ra thẳng đề nghị trao đồi như sau: 1. Sẽ không có ai trong phe thân chính quyền bị trả thù vì hoạt động ủng hộ Thiệu hoặc chống phe đối lập. 2. Những ai muốn rời khỏi Việt Nam thì sẽ được chính quyền mới cấp hộ chiếu ra đi chính thức. Tôi nhấn mạnh rằng tôi nói với tư cách đại diện chính thức ông Dương Văn Minh.
Những lời hứa này - một thứ bảo đảm an toàn cho các dân biểu, nghị sĩ thân chính - đã thúc đẩy một số còn do dự.
Cuộc biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh được thực hiện với số phiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc 20 giờ 54 tối. Đây là kết quả từ nhiều phía, nhất là trước viễn cảnh Sài Gòn bị tấn công quân sự. Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm đã điều khiển cuộc biểu quyết này.
Bằng điện thoại tôi đã báo cáo lại cho ông Minh về “sáng kiến” riêng của tôi nhằm thúc đẩy nhanh cuộc biểu quyết và được ông tán đồng. Tôi nhớ rất rõ không khí tại trụ sở Thượng viện trước và sau cuộc biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp chết đuối là các dân biểu, nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người phe Dương Văn Minh thì hấp tấp, vội vã như sợ không còn bắt kịp cơ hội cuối cùng. Ở tầng trên của phòng họp, báo chí nước ngoài, các nhà ngoại giao nhìn xuống sự bát nháo phía dưới như những khán giả đang xem một trận cầu đầy bi kịch ở phút 90! Hai đại diện ngoại giao căng thẳng nhất vào lúc này thuộc hai tòa đại sự Mỹ và Pháp. Phiên họp lưỡng viện bắt đầu từ sáng 26-4-1975, một ngày sau khi ông Thiệu lên máy bay đi Đài Loan, kéo dài đến chiều tối mới kết thúc.
Còn tại sao quốc hội biểu quyết ông Dương Văn Minh làm tổng thống từ ngày 26-4-1975, lễ tấn phong diễn ra ngày 28-4-1975, nhưng cuộc trình diện thành phần chính phủ lại dự kiến đến ngày 30-4-1975? Trong nhóm ông Minh có bác sĩ Hồ Văn Minh và một người thích nghiên cứu khoa bói toán, xem ngày tốt ngày xấu... Bác sĩ Minh từng là phó chủ tịch Hạ nghị viện và là ứng cử viên phó tổng thống trong liên danh của ông Dương Văn Minh khi ông Minh có ý định ra ứng cử tổng thống năm 1971. Theo ông “thầy bói nghiệp dư” Hồ Văn Minh thì “ngày tốt” để trình diện nội các Dương Văn Minh là ngày... 30-4-1975 và không thể sớm hơn.
Ông Minh triệu tập những người thân cận, cùng các nhóm Phật giáo, Công giáo từng tán đồng lập trường hòa bình với ông dự phiên họp trong ngày 27-4-1975 để thành lập chính phủ. Những người được mời đến buổi họp đặc biệt này - trên tầng lầu một của dãy nhà phía sau ngôi biệt thự hình bánh ít, tức Dinh Hoa Lan - đều là những người đã đồng hành với ông Minh trong những năm ông từ Bangkok trở về sau thời gian bị phe tướng Nguyễn Khánh buộc lưu vong. Hầu như không ai hiện diện trong buổi họp ngày đó xem việc phân phối các chiếc ghế trong chính phủ Dương Văn Minh như một thành đạt của cá nhân mình, cái ghế chức tước giờ đây đã trở nên hết sức nặng nề, có thể mang lai nhiều phiền toái hơn là quyền lực và danh vọng.
Ông Dương Văn Minh chọn luật sư Nguyễn Văn Huyền, từng là chủ tịch Thượng viện - một trí thức công giáo có uy tín miền Nam làm phó tổng thống. Ông Huyền được cả hai phía đối lập và thân chính kính trọng. Cách cư xử của ông với mọi người luôn từ tốn và lễ độ dù cho người đối diện nhỏ tuổi và vai vế xã hội kém hơn ông. Tôi còn nhớ những lần tiếp xúc với ông bao giờ ông cũng mở đầu câu nói “Thưa ông dân biểu” hoặc “Thưa ông trưởng khối” khi tôi làm trưởng khối dân biểu đối lập Hạ viện (khối Dân Tộc). Về nhân cách, luật sư Huyền hơn hẳn các nhân sĩ nổi tiếng khác có mặt trên chính trường Sài Gòn lúc bấy giờ như Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Mai Thọ Truyền, Trần Văn Văn…
Ở vị trí thủ tướng, ông Minh mời luật sư – nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, đã từng là ngoại trưởng trong chính phủ Ngô Đình Diệm 12 năm về trước.Vào thời điểm chính phủ Diệm đối đầu với cuộc đấu tranh của Phật giáo và có những hành động đàn áp ác liệt, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đang đi công tác tại Hoa Kỳ. Ông đã cạo đầu và tuyên bố từ chức tại đây để phản đối chính sách đàn áp của gia đình ông Diệm đối với Phật giáo. Ông Mẫu để lại trong đầu tôi hình ảnh một con người có uy tín lớn về nhiều mặt, từ nghề nghiệp riêng trong giới luật sư cho đến các hoạt động chính trị qua cả hai thời kỳ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Thái độ chân thành và có thể gọi dũng cảm của ông trong những ngày cuối cùng và cả khi lực lượng giải phóng vào Dinh Độc Lập khiến cho tôi nhớ mãi và kính phục.
Phó thủ tướng là bác sĩ Hồ Văn Minh đã từng là phó chủ tịch Hạ viện. Anh Minh tánh tình hiền hậu, thái độ chính trị ôn hòa nhưng luôn đứng về phía đối lập và là bạn thân thiết của anh Hồ Ngọc Nhuận. Cả hai chịu trách nhiệm Chương trình phát triển Quận 8, một chương trình xã hội mà người bảo trợ là kỹ sư Võ Long Triều - ủy viên thanh niên, tên gọi của chức danh bộ trưởng thanh niên dưới chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.
Tôi không nhớ hết tất cả những ai được mời vào chính phủ Dương Văn Minh nhưng nếu có thiếu sót thì cũng rất ít. Chẳng hạn giáo sư Nguyễn Văn Trường được mời phụ trách Bộ giáo dục. Ông Trường đã từng là Bộ trưởng giáo dục thời chính phủ Kỳ và cả thời chính phủ Trần Văn Hương. Ông là người bạn thân thiết của giáo sư Lý Chánh Trung. Khi ông Trường làm bộ trưởng Bộ giáo dục, ông Trung là đổng lý văn phòng của ông Trường, vị trí đứng thứ hai trong bộ. Người được mời đảm trách Bộ kinh tế, nếu tôi nhớ không lầm là ông Nguyễn Võ Diệu đang là tổng giám đốc một ngân hàng. Đáng chú ý là ở Bộ quốc phòng, tổng thống Dương Văn Minh đã mời một nhân vật trong Lực lượng hòa giải dân tộc thuộc ảnh hưởng Phật giáo Ấn Quang chẳng dính dấp gì đến quân đội, đó là một giáo sư đại học trường đại học Huế, ông Bùi Tường Huân. Tôi có hỏi ông Minh về sự chọn lựa khá đặc biệt này và ông đã trả lời: “Chính phủ của mình đâu có mục đích tiếp tục chiến tranh. Một Bộ trưởng dân sự và là một giáo sư đại học làm Bộ trưởng quốc phòng thể hiện cụ thể ý muốn hòa bình của anh em mình...”.
Trong ghi chép riêng của mình, anh Hồ Ngọc Nhuận có bày tỏ quan điểm của anh lúc đó là không nhận ghế bộ trưởng nào cả. Ngay cả chuyện ông Minh được đề nghị thay ông Hương làm tổng thống, anh Nhuận cũng cố gắng thuyết phục ông Minh không nhận và khuyên nên vận động để chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền hoặc nghị sĩ Vũ Văn Mẫu nhận chức vụ này.
Tôi nhớ lúc đầu ông Minh có ý định giao chức tổng trưởng Bộ Thông tin cho một người khác, nhưng sau cuộc trao đổi giữa ông Minh với anh Dương Văn Ba và một vài anh em, ông Minh giao cho tôi đảm trách bộ này. Tôi cũng nhớ ông Minh có ý định giao cho anh Nhuận Bộ Xây dựng Nông thôn mà theo ông rất phù hợp tính cách của anh Nhuận. Và tôi cũng nhớ - nếu trí nhớ của tôi vẫn tốt - anh Nhuận có một phản ứng giữa phiên họp làm mọi người không thể nín cười dù lúc tình hình cực kỳ căng thẳng. Anh nói: “Nông thôn đâu còn nữa mà cần Bộ Xây dựng nông thôn, thưa đại tướng!”.
Thế là anh Nhuận được ông Minh đề nghị lãnh chức vụ Đô trưởng Sài Gòn. Trong thực tế, ngay cả với chức vụ này, anh Nhuận cũng không... quan tâm. Lúc đó do những quan hệ riêng của anh với “bên trong”, tức người của MTDTGPMN, anh biết rõ hơn nhiều anh em trong nhóm ông Minh rằng... “màn đã hạ rồi”. Chuyện lập chính phủ vào thời điềm này rồi chẳng đi đến đâu Trong 48 tiếng đồng hồ cuối cùng, nhiều anh em không thấy Nhuận ở đâu, có người thì thấy anh lúc hiện lúc… biến.
Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, ngồi bên cạnh ông Minh trong phiên họp, được ông Minh đề nghị làm phụ tá đặc biệt của tổng thống. Anh Nguyễn Hữu Chung là người rất thẳng tính đã từ chối chức vụ này vì cho rằng nó không xứng đáng với những đóng góp của anh ngay từ đầu trong nhóm. Ông Minh cố gắng thuyết phục Nguyễn Hữu Chung, nhấn mạnh rằng chực vụ phụ tá đặc biệt tổng thống được xếp ngang hàng bộ trưởng và là thành viên của hội đồng bộ trưởng. Ông còn dẫn chứng vai trò quan trọng của phụ tá đặc biệt Nguyễn Cao Thăng bên cạnh tổng thống Thiệu! Nhưng Nguyễn Hữu Chung vẫn nhất quyết từ chối. Có lẽ vì tại miền Nam lúc bấy giờ luôn có thành kiến đối với chức vụ phụ tá đặc biệt của tổng thống qua hai nhân vật chuyên “đi đêm” và làm những việc đen tối: Nguyễn Cao Thăng và Nguyễn Văn Ngân.
Anh Dương Văn Ba được đề nghị làm thứ trưởng giáo dục nhưng không nhân và bày tỏ ý muốn chuyển sang làm thứ trưởng bộ Thông tin cùng tôi.
Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền cùng luật sư Trần Ngọc Liễng được ông Minh giao nhiệm vụ hòa đàm với MTDTGPMN. Ngoài các thành viên chính phủ, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh được chỉ định là tổng giám đốc cảnh sát Sài Gòn.
24. Chính phủ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa
Nhưng cuối cùng chính phủ Dương Văn Minh chính thức lúc đầu chỉ gồm bốn thành viên: Tổng thống Dương Văn Minh, phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu và tổng trưởng bộ Thông tin là tôi. Việc tôi được bổ nhiệm làm tổng trưởng thông tin trước khi công bố thành phần đầy đủ của nội các xuất phát từ một nhu cầu đặc biệt của tình hình lúc bấy giờ. Ngày 26-4-1975, quốc hội biểu quyết bầu ông Minh làm tổng thống, nhưng ông Minh dự định mãi đến ngày 30-4-1975 mới trình diện thành phần chính phủ. Như thế có một ‘‘khoảng trống chính trị’‘ đến bốn ngày. Các đài truyền hình và phát thanh Sài Gòn, nhất là đài chiến tranh chính trị quân đội, tiếp tục bình luận và phát nhạc chống cộng như lúc ông Thiệu, ông Hương vẫn nắm quyền. Tôi đã chủ động trình bày với ông Minh và ông Mẫu về tình hình này: cần chấm dứt ngay các hoạt động tuyên truyền chống cộng và hiếu chiến trên truyền hình và phát thanh, nếu không đường lối hoà bình và dự định hoà giải hòa hợp của chính phủ mới sẽ phá sản trước khi ra mắt. Trong ngày 27-4-1975, dù chưa được chính thức bổ nhiệm vào bộ Thông tin (lúc đó còn có tên ‘‘Bộ thông tin và chiêu hồi”) tôi đã chủ động gặp ông Lê Vĩnh Hòa, tổng giám đốc đài phát thanh truyền hình, tại nhà riêng của ông tại đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), nơi vợ ông có một cửa hàng bán đồ cổ, để vận động ông ra lệnh thay đổi ngay giọng điệu của cả hai đài thuộc quyền của ông. Tôi đến nhà ông vào lúc khoảng 01 giờ trưa, ông đang ăn cơm với vợ. Tôi tự giới thiệu mình và cho biết tôi sẽ được tổng thống Dương Văn Minh chính thức bổ nhiệm trong ngày mai làm tổng trưởng Thông tin. Nhưng tôi cần gặp ông ngay hôm nay vì tình thế đòi hỏi phải có một thay đổi hoàn toàn về nội dung tuyên truyền trên hai đài truyền hình, truyền thanh, càng sớm càng tốt - về đường lối kết thúc chiến tranh và đặc biệt là thái độ của chính phủ mới đối với quân giải phóng. Tôi nói ‘‘Ông có quyền không nghe tôi vì tôi chưa chính thức là tổng trưởng Thông tin, nhưng tôi tha thiết yêu cầu ông, do đòi hỏi của tình thế cấp bách, nên có một quyết định có lợi cho cái chung ngay bây giờ”.
Tổng giám đốc Lê Vĩnh Hoà không cần tôi nói gì thêm, đã đồng ý hợp tác ngay. Ông ra lệnh bỏ tất cả các loại nhạc chống cộng và ngưng phát các bài, tin, mang tính chống cộng và cổ xuý tiếp tục chiến tranh. Tôi cũng điện thoại trực tiếp cho trung tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng Tổng cục chiến tranh chính trị là người đang chỉ đạo đài quân đội. Tướng Trung chỉ hứa nhưng không chấp hành.
Cũng trong ngày 26-7-1975, thừa lệnh tổng thống Dương Văn Minh, tôi cũng đã hẹn gặp cố vấn chính trị tòa đại sứ Pháp Pierre Brochand để vận động tổng thống Pháp Giscard D’Estaing có một tuyên bố chính thức trên hệ thống truyền thông Pháp hỗ trợ chính phủ mới ở Sài Gòn. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại Xẹc Tây, tức Cercle Sportif Saigonnais (CSS), được sắp xếp như một cuộc gặp tình cờ. Địa điểm nói chuyện: hồ bơi của CSS!
Khi hai chúng tôi đang đứng ở dưới nước thì Thomas Polgar, “xếp” CIA tại miền Nam nằm dài phơi nắng cạnh hồ bơi, cách chúng tôi không bao xa. Tôi chưa từng gặp mặt Polgar nên không biết sự hiện diện của ông ta. Chính Brochand đã nói khẽ cho tôi biết sự có mặt của Polgar.
Tôi mở đầu cuộc đối thoại: “Ngày mai tôi mới được bổ nhiệm làm tổng trưởng Thông tin nhưng hôm nay tôi được tổng thống Dương Văn Minh cử làm đại diện chính thức của ông, để thông qua tòa đại sứ Pháp, yêu cầu tổng thống Pháp Giscard D’Estaing có lời tuyên bố ủng hộ chính phủ mới cùng nỗ lực tìm kiếm hòa bình của chính phủ này”. Ông Pierre Brochand trả lời rằng ông sẽ báo cáo ngài đại sứ và sẽ chuyển ngay lời yêu cầu này về Paris và ông hi vọng tổng thống Pháp sẽ lên tiếng vào ngày mai. Tôi không được nghe trực tiếp lời tuyên bố của tổng thống Pháp ngày hôm sau vì lúc đó quá bận rộn, nhưng tôi được biết yêu cầu của tổng thống Dương Văn Minh đã được chính phủ Pháp đáp ứng. Rõ ràng đường lối của Pháp trong thời điểm này là ủng hộ chính phủ Dương Văn Minh và muốn chính phủ này có một vai trò trong kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Dĩ nhiên Pháp hi vọng, trong hoàn cảnh này, họ sẽ có một vị trí đặc biệt ở Việt Nam.
Người Mỹ, một mặt hy vọng người Pháp thành công trong nỗ lực của mình để họ có thêm thời gian thực hiện kế hoạch rút khỏi Việt Nam, nhưng mặt khác người Mỹ lại nhìn một cách không thiện cảm các hoạt động của Pháp, cho rằng người Pháp muốn phục hồi thời thuộc địa của họ ở Đông Dương. Trong quyển Interval Decent mà cựu nhân viên CIA Frank Snepp viết về sự kết thúc chiến tranh ở Việt Nam đã vạch ra Pierre Brochand là nhân viên “Phòng nhì” (Deuxieme Bureau) tương đương với CIA của Mỹ. Frank Snepp mỉa mai Pierre Brochand muốn trở thành một Kissinger thứ hai.
Có thể nói đây là lần đầu tiên và duy nhất, tôi bàn với Pierre Brochand một vấn đề chính trị cụ thể. Trước đó quan hệ giữa Pierre và tôi chủ yếu là bạn bè, dù đôi khi có đề cập một chuyện thời sự nào đó nhưng không đi xa hơn sự trao đổi bình thường giữa hai người bạn. Pierre Brochand đẹp trai, ăn mặc lịch sự và luôn hợp thời trang, quan hệ bạn bè khá cởi mở nhưng rất thận trọng khi đề cập các vấn đề nội bộ của người Việt Nam. Ông là người Pháp đáng ghét nhất đối với ông Thiệu vì ông Thiệu cho rằng chính Brochand là người thúc đẩy và hỗ trợ các nhóm hoạt động chính trị đối lập thuộc thành phần thứ ba.
...Ngày 28-4-1975, ông Minh chính thức cử tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin dù chưa chính thức công bố nội các. Quyết định bổ nhiệm tôi do thủ tướng Vũ Văn Mẫu ký. Cũng như Bộ Quốc phòng dự định giao cho một người chẳng biết gì về quân sự - giáo sư đại học Bùi Tường Huân - Bộ Thông tin giao cho tôi, một người hiểu biết rất ít về người cộng sản và càng không có khả năng đảm trách “cuộc chiến ý thức hệ” mà thường bộ thông tin của các chế độ trước đây ở miền Nam luôn phải tiến hành. Ông Dương Văn Minh cũng biết rõ điều đó và rõ ràng ông có chủ đích khi chọn tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin, bởi tôi hoàn toàn có khả năng đóng góp vào mục tiêu tìm kiếm hòa bình của chính phủ Dương Văn Minh.
Sáng 29-4-1975 tôi đến Bộ Thông tin Chiêu hồi trên đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) ở gần ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), nhận nhiệm vụ mới của mình. Lúc ấy cái tên của bộ giao cho tôi còn là Bộ Thông tin Chiêu hồi. Việc đầu tiên của tôi khi đến đây là chỉ thị cho người trợ lý mới của tôi là Lưu Trường Khương đổi tên bộ này thành “Bộ Thông tin”, bỏ hai chữ “Chiêu hồi”. Anh Lưu Trường Khương cùng học một khoá ở Học viện quốc gia hành chánh với tôi. Khi tốt nghiệp anh bị Trung ương tình báo trưng dụng mặc dầu anh không muốn về làm việc ở đấy. Sau đó dù đã về đây nhưng Khương vẫn tìm cách vận động, qua nhiều người có thế lực trong chính quyền, để được rời khỏi chỗ này. Cuối cùng anh phải chấp nhận về bộ Dân vận Chiêu hồi (sau này mới đổi tên Thông tin Chiêu hồi) thời Hoàng Đức Nhã để thoát khỏi một ngành hoàn toàn không phù hợp với tánh tình anh. Ngay khi còn làm ở Trung ương tình báo, thỉnh thoảng Khương đến thăm tôi và tiết lộ cho tôi biết anh bị cấp trên giao nhiệm vụ theo dõi tôi. Anh nói: “Có lúc tôi đứng hàng giờ bên kia đường nhà ông. Tôi cảm thấy hết sức nhục nhã...”. Về bộ Dân vận Chiêu hồi, Nhã giao cho Khương làm đại diện vùng 4, tức miền Tây Nam Bộ.
Không có ai chỉ thị cho tôi đổi tên Bộ Thông tin Chiêu hồi, kể cả tổng thống Dương Văn Minh hay thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Tôi tự động làm việc này. Trong buổi họp đầu tiên và duy nhất tại văn phòng tôi ở Bộ Thông tin, với tư cách tổng trưởng Thông tin tôi còn chỉ đạo cho tất cả các bộ phận trực thuộc và địa phương từ nay không gọi Việt cộng nữa mà là “quân Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”, gọi Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam. Để tránh phản ứng điên cuồng của những phần tử chống cộng quá khích, khi giải thích lý do về những sửa đổi này, tôi đã nói rằng vì chính phủ Dương Văn Minh chủ trương hoà bình nên nhất thiết phải dùng chính danh khi nói về bên kia.
Giữa phiên họp, Lưu Trường Khương đến sau lưng tôi hỏi nhỏ vào tai “Ông ở lại hay đi?”. Tôi quay đầu lại trả lời Khương: “Mình ở lại”. Khương nói tiếp: “Dứt khoát như thế nhé. Mình cũng sẽ không đến chỗ hẹn của Mỹ để được bốc đi vào lúc 15 giờ. Mình cũng ở lại”. Địa điểm mà Khương được “bốc” đi là địa điểm dành riêng cho các nhân viên tình báo.
Trước đó ba hôm (26-4-1975) từ Dinh Hoa Lan về nhà, tôi được Quỳnh Nga, vợ tôi, cho biết anh chàng thanh niên người Mỹ được tôi thuê dạy Anh văn tại nhà mới hai tháng qua (được anh Dương Văn Ba giới thiệu) có mang đến nhà một giấy giới thiệu của người Mỹ dành cho bảy người trong gia đình tôi đi tản cư bằng phương tiện máy bay. Bảy người là đúng nhân số của gia đình tôi: Hai vợ chồng và năm đứa con. Vợ tôi nhờ anh Nguyễn Hữu Thái (đang lánh nạn trong nhà tôi) phiên dịch lại với anh thanh niên Mỹ là gia đình tôi không có ý định di tản. Vợ tôi kể lại: “Em nói cảm ơn anh ta và đã trả lại tờ giấy. Em bảo chồng tôi không có ý định rời quê hương”. Tôi rất tán đồng quyết định của vợ. Về anh chàng thanh niên Mỹ này, có dịp đọc bản thảo hồi ký của anh Dương Văn Ba, tôi mới nhớ lại tên anh là Peter Porr đến dạy anh văn cho anh Ba qua sự giới thiệu của nhà báo Mỹ phản chiến John Spragens. Peter Porr là giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn. Tòa đại sứ Mỹ có chủ trương ưu tiên di tản người Mỹ và tiếp đó là những viên chức cao cấp của chính quyền Sài Gòn cùng những người đã hợp tác với họ trong ngành tình báo và các cơ quan của họ tại miền Nam. Ở mỗi khu vực, họ đều giao cho một người của họ lập danh sách và tập hợp để đưa ra sân bay tránh những cản trở của giới chức trách và an ninh của chính quyền Sài Gòn. Có lẽ Peter Porr được giao lôi kéo một số nhân vật chung quanh ông Dương Văn Minh. Với hai trường hợp mà tôi được biết (anh Ba và tôi) thì Peter Porr đều thất bại!
Sau 30-4-1975 Lưu Trường Khương đi học tập cải tạo. Lúc này vì hoàn cảnh tôi không giúp được gì cho Khương. Nghe đâu Khương vẫn lạc quan, sau đó thì có tin anh qua đời vì đau ruột thừa nhưng không được phát hiện kịp thời...
...Trở lại ngày 29-4-1975, sau phiên họp tại văn phòng bộ, tôi đến đài truyền hình cố gắng thuyết phục đồng bào không tiếp tục di tản ồ ạt. Theo yêu cầu của tôi, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm người vừa được tân tổng giám đốc cảnh sát Triệu Quốc Mạnh (cũng là một đảng viên cộng sản nhưng lúc ấy chưa lộ) trả tự do theo lệnh ông Minh cũng có mặt tại đài truyền hình. Khi chúng tôi đến đài, tổng giám đốc phát thanh và truyền hình Lê Vĩnh Hòa và nghệ sĩ Trần Văn Trạch đón tôi. Hình như lúc này anh Trạch phụ trách phần văn nghệ của đài truyền hình Sài Gòn. Đây là lần cuối cùng tôi gặp anh Trạch, người mà tôi rất mến mộ tài năng. Anh đã từng mang truyền đơn bươm bướm cổ động bầu cử Hạ nghị viện của tôi phân phát cho các cư tri khi tôi ra ứng cử dân biểu lần thứ ba (1971). Anh nổi tiếng với giọng hát nhại theo các danh ca quốc tế như Tino Rossi, Maurice Chevalier... Đặc biệt anh Trạch nhại được cả âm thanh của các cuộc đua ô tô Công thức 1 như những buổi tường thuật trực tiếp trên các đài phát thanh nước ngoài. Đời sống riêng của anh khá chật vật, do đó không có điều kiện để phát huy sở trường của anh thật đúng mức.
Bài nói của tôi trên truyền hình không được viết sẵn nên nội dung cũng không được tổng thống Dương Văn Minh hay thủ tướng Vũ Văn Mẫu duyệt. Tôi được tổng thống Dương Văn Minh dành cho một quyền hạn khá rộng rãi và một sự tin cậy cao. Bởi tôi cũng là một trong những người góp phần hình thành lập trường chung của nhóm ông Minh, nên ông Minh và ông Mẫu tin chắc tôi nắm rõ quan điểm của nhóm trong phát biểu của mình.
Trong bài nói trên truyền hình, trước hết tôi khẳng định chính phủ Dương Văn Minh là một chính phủ chủ trương hoà bình. Những ngày sắp tới chắc chắn không có tắm máu như những lời đồn đại vì rằng chính phủ Dương Văn Minh dứt khoát sẽ không đối đầu quân sự với quân giải phóng: “Bà con hãy ở lại. Mồ mả ông bà của ta ở đây, quê hương của ta ở đây”. Những lời kêu gọi này, tôi nói gần như trong nước mắt.
Để làm tăng sự sợ hãi trong dân chúng, thúc đẩy người dân miền Nam ra đi ồ ạt, ngày 16-4-1975, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Schlesinger nói với quốc hội Mỹ rằng nếu cộng sản chiến thắng sẽ có 200.000 người Việt Nam bị giết. Ngày 18-4-1975, người phát ngôn của Lầu Năm Góc, đại tá Robert Burke, tuyên bố rằng qua các báo cáo mật mà ông ta có, ở những vùng do cộng sản mới chiếm đã xảy ra nhiều vụ trả thù đẫm máu; một số chi tiết của những vụ trả thù này thật “ghê rợn” (horrifying). Còn tờ báo quân đội Mỹ phát hành ở khu vực Thái Bình Dương “Stars and Stripes” có bài báo với cái tít lớn “Ít nhất một triệu người Việt sẽ bị tàn sát”. Tôi nhớ lại lời kể của phóng viên ảnh của AP, Carl Robinson, rằng tòa đại sứ Mỹ có chủ trương tung những tin thất thiệt để gây hoảng loạn trong dân chúng Việt Nam trước sự tiến quân của quân giải phóng và thúc đẩy một cuộc di tản ồ ạt. Đặc phái viên của tờ Der Spiegel (Đức), Tiziano Terzani kể rằng ông nhận được một tin khẳng định một linh mục công giáo tại Ban Mê Thuột di tản không kịp bị cộng sản chặt làm ba khúc! Nhưng chỉ ít ngày sau chính vị linh mục này có mặt tại Sài Gòn “người ông vẫn nguyên vẹn”. Ở Ban Mê Thuột cũng có tin có 300 người bị cộng sản giết nhưng sau đó Tiziano Terzani xác nhận được rằng số người này chết vì bom do máy bay quân đội Sài Gòn thả xuống theo lệnh của tổng thống Thiệu khi thành phố được cộng sản giải phóng (Saigon 1975 – Tiziano Terzani). Tung tin như thế để thúc đẩy người dân miền Nam ồ ạt rời bỏ quê hương mình, hàng ngàn người đã bỏ xác ngoài biển là một tội ác lớn.
...Tôi không hề có một thông tin nào về thái độ cuối cùng của quân giải phóng – đánh hay không đánh vào Sài Gòn – nhưng trong bài nói chuyện của tôi với dân chúng Sài Gòn trên truyền hình ngày 29-4-1975, tôi vẫn mạnh dạn cam đoan rằng sẽ không có trận đánh đẫm máu cuối cùng như cả Sài Gòn đang lo sợ. Tại sao? Lúc đó chỉ bằng suy đoán, căn cứ vào những phân tích và đánh giá chủ quan của tôi về lập trường của người cộng sản qua hai cuộc chiến mà họ tiến hành chống Pháp và chống Mỹ - đều là cuộc chiến yêu nước – tôi tin như đinh đóng cột rằng nếu quân đội Sài Gòn không tiếp tục đối đầu và nổ súng thì quân giải phóng cũng không bao giờ đánh vào Sài Gòn. Do đó sẽ không bao giờ có cuộc “tắm máu” như đã được loan truyền trong những ngày qua từ toà đại sứ Mỹ khiến cho người dân miền Nam ùn ùn tìm mọi cách để ra đi.
Trước khi kết thúc bài nói chuyện trên truyền hình, tôi mời anh Huỳnh Tấn Mẫm xuất hiện bên cạnh tôi và giới thiệu: “Đây, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm bằng xương bằng thịt, vừa được trả tự do, đúng như lời hứa của chính phủ Dương Văn Minh trả tự do cho tất cả những người tù chính trị”. Cho đến lúc này anh Huỳnh Tấn Mẫm vẫn tiếp tục đóng vai một thanh niên trí thức hoạt động chống Thiệu tại Sài Gòn chứ không phải một đảng viên cộng sản hoạt động trong hàng ngũ của MTDTGPMN. Như đã nói chính quyền Thiệu nhiều lần toan tính trao trả anh Mẫm cho MTDTGPMN tại Lộc Ninh (để chứng minh anh là một người cộng sản) nhưng anh Mẫm luôn từ chối và đòi được trả tự do tại Sài Gòn.
Một cựu dân biểu có kể rằng vào những ngày giữa tháng 3-1975 sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cả Vùng 2 chiến thuật lần lượt tháo chạy, tướng Nguyễn Cao Kỳ đề nghị có cuộc tiếp xúc với tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh đồng ý tiếp. Trong cuộc gặp này, tướng Kỳ đề nghị hợp tác với tướng Minh trong nỗ lực ngăn chặn làn sóng tiến công của cộng sản. Tướng Kỳ đưa ra giải pháp quân sự: lấy Cần Thơ làm thủ đô, gom tất cả lực lượng hải quân, không quân và bộ binh làm vành đai bảo vệ phần đất còn lại từ bến phà Cần Thơ trở về phía dưới miền Tây như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Châu Đốc, Long Xuyên, Trà Vinh, Rạch Giá... Nhưng kế hoạch này không được ông Minh chấp nhận.
Tháng 2-2002 khi cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về quê hương lần đầu sau 1975, tôi có gặp lại ông. Trong một buổi cơm trưa, tôi hỏi ông Kỳ trong những ngày cuối cùng trước khi quân giải phóng vào Sài Gòn ông có gặp ông Minh để bàn về cuộc hợp tác không thì ông Kỳ cho biết không có cuộc gặp đó. Ông nói với tôi: ‘‘Tối 27-4-1975, tôi có điện tôi có điện thoại cho tùy viên quân sự của ông Minh là Đại tá Trương Minh Đẩu để yêu cầu gặp ông Minh bàn về sự hợp tác trong cuộc đối đầu với sự tiến quân của cộng sản. Đại tá Đẩu báo cáo với ông Minh và trả lời với tôi rằng ông Minh đang bận họp, sẽ gọi điện lại. Sáng 28-4-1975, đại tá Đẩu báo rằng ông Minh sẵn sàng tiếp tôi tại Dinh Độc Lập. Lúc đó tại nhà tôi có tướng Nguyễn Bảo Trị và một số bạn bè khác. Anh em khuyên tôi không đi vì đã quá muộn để có thể làm gì. Như thế vào những ngày cuối cùng, tôi không hề gặp ông Minh’‘. Cũng về những sự kiện xảy ra vào thời điểm tháng 4-1975, ông Kỳ còn kể rằng, trước đó khi ông Trần Văn Hương vừa lên thay ông Thiệu rút khỏi cương vị tổng thống, ông có tự động đi gặp quyền tổng thống Hương và đề nghị với ông Hương là ông sẵn sàng đứng đầu quân đội để chỉ huy cuộc chiến “ngăn chặn cộng sản”. “Ông Hương khéo léo từ chối bằng cách bảo rằng trước đây tôi là phó tổng thống mà bây giờ bổ nhiệm tôi làm tổng tham mưu trưởng thì... coi không được. Ý ông nói chức vụ này nhỏ hơn. Cho ông suy nghĩ thêm vài ngày. Tôi liền bảo trong vài ngày nữa miền Nam đâu còn nữa để cụ và tôi còn gặp nhau!”. Câu chuyện giữa ông Kỳ và ông Hương chưa hết ở đây. Ông Kỳ kể tiếp “Anh có biết không, cái ông già đó thật hết nói. Sau khi ổng bị quốc hội truất quyền và trao cái ghế tổng thống cho ông Minh thì chính ông lại điện thoại cho tôi và nói với tôi: bây giờ anh muốn làm gì cứ làm. Có nghĩa là ông già Hương xúi tôi đảo chính!”.
...Chiều 28-4-1975 vào lúc 16 giờ 45 buổi lễ bàn giao giữa quyền tổng thống Trần Văn Hương và tân tổng thống Dương Văn Minh diễn ra tại dinh Độc Lập. Thật sự ông Minh không bao giờ muốn có một buổi bàn giao như thế này. Ông vẫn từ chối trở thành người kế tục tổng thống Nguyễn Văn Thiệu theo hiến pháp của Đệ nhị Cộng hoà mà ông hoàn toàn phủ nhận giá trị của nó. Ông Minh muốn mình nhận một sự uỷ quyền khác của người dân miền Nam, có một nền tảng tín nhiệm của quần chúng thực sự. Nhưng bối cảnh lịch sử bấy giờ không cho ông có một chọn lựa nào khác. Ông Minh và những người cộng sự gần gũi với ông tự đặt cho mình một nhiệm vụ lịch sử cần kíp hơn, hệ trọng hơn: Bằng mọi giá truất quyền tiếp tục chiến tranh đang còn trong tay của phe Thiệu - để tránh xảy ra trận cuối cùng đổ máu làm hoang tàn Sài Gòn. Bởi ông Trần Văn Hương thay tổng thống Thiệu vẫn tuyên bố “quyết tiếp tục chiến đấu để giữ đến tấc đất cuối cùng”.
Tại Dinh Độc Lập, đọc xong bài diễn văn giao quyền của mình, quyền tổng thống Hương bắt tay ông Minh – tân tổng thống – và nói: “Nhiệm vụ của Đại tướng rất nặng nề”. Câu nói chứa đựng sự mỉa mai và cả sự hoài nghi của ông Hương về khả năng ông Minh tìm một giải pháp thương thuyết hoà bình cho miền Nam. Khi tân tổng thống Dương Văn Minh vừa bắt đầu đọc bài diễn văn nhậm chức của mình thì sét đánh ầm ầm, một trận mưa to chưa từng có trong nhiều năm ập xuống Sài Gòn. Thậm chí quan khách dự lễ không nghe được ông Minh nói gì. Nhiều người cho đó là một điểm gở cho tân chính phủ. Tôi không ngồi ở những hàng ghế dành cho các nhân vật chính phủ hay dân biểu nghị sĩ. Tôi đứng ở một góc cuối phòng gần chỗ dành cho các nhà báo nước ngoài. Cái không khí chung của buổi lễ nhậm chức thật buồn não. Nhiều người đã thấy trước sự vô ích của buổi lễ này. Một tân tổng thống chẳng có quân đội, lực lượng, chẳng còn đất đai. Một tổng thống của Sài Gòn thì đúng nghĩa hơn là một tổng thống của miền Nam. Và cái chức vụ ấy gần như trống rỗng.
Diễn văn nhậm chức tổng thống của ông Dương Văn Minh rõ ràng đã phản ánh lại hai áp lực mà ông không thể không tính đến: Một mặt quân đội VNCH vẫn còn đó, và dù hiện rất xơ xác, nhưng vẫn còn điều kiện để phản ứng điên rồ nếu họ thấy mình bị “phản bội”; mặt khác tân tổng thống Dương Văn Minh phải chứng minh được với “phía bên kia” đây là một chính phủ không có mục đích đeo đuổi chiến tranh, mong muốn được thương thuyết hoà bình. Kết quả bài diễn văn nửa vời ấy bị coi là nhợt nhạt, không tạo ra được một lực đẩy mới mạnh mẽ và dứt khoát hướng tới con đường chấm dứt chiến tranh.
Thật khó cho chính phủ Dương Văn Minh vào thời điểm này nghiêng hẳn lập trường bắt tay với quân giải phóng. Những đồn đãi về một cuộc đảo chánh từ các phe chống cộng râm ran khắp nơi. Nhất là từ phía lực lượng không quân thuộc ảnh hưởng của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Từ khi quốc hội biểu quyết cử ông Minh thay ông Hương, lực lượng không quân ở Tân Sơn Nhất đã đóng cổng, chối từ nhận lệnh điều động của tổng thống Minh!
Khi ông Minh và đoàn tuỳ tùng vừa từ Dinh Độc Lập trở về Dinh Hoa Lan thì nghe vang lên những tiếng nổ làm rung chuyển cả Sài Gòn. Các loại súng ở Dinh Độc Lập và Hải quân ở bến Bạch Đằng bắn lên như điên nhưng chẳng biết bắn vào mục tiêu cụ thể nào. Lúc đó tôi đang ở tại văn phòng báo chí của ông Minh nằm ở cổng sau Dinh Hoa Lan, cùng một số anh em khác. Mọi người đều chui xuống bàn. Chưa kịp trao đổi với nhau, nhưng tất cả đều nghĩ phe Kỳ đảo chính. Có người còn đặt ra giả thuyết: có khả năng Kỳ dội bom xuống Dinh Hoa Lan. Liền đó, trung tướng Mai Hữu Xuân, người thân tín của ông Minh ra lệnh anh em rời Dinh Hoa Lan. Tôi cùng ông Minh, bà Minh và một số người di chuyển đến một biệt thự nằm trên đường Phùng Khắc Khoan, cách Dinh Hoa Lan 500 mét đường chim bay và chỉ cách tư dinh của đại sứ Mỹ Graham Martin khoảng 100 mét. Nhà này hình như của một tư sản gốc Hoa, bạn của tướng Mai Hữu Xuân. Tại đây tướng Xuân mới được báo cáo: các tiếng nổ là do máy bay Việt cộng oanh kích xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Có tất cả năm chiếc A-37s – mà quân giải phóng mới chiếm được - xuất phát từ Nha Trang đã tham gia cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của trung uý phi công Nguyễn Thành Trung. Đây là cuộc tấn công thứ hai của Nguyễn Thành Trung từ khi ông rời quân đội Sài Gòn vào vùng giải phóng (tin tức sau này cho biết ông Trung là đảng viên cộng sản nằm vùng từ lâu được cài trong binh chủng không quân Sài Gòn). Trong số phi công dội bom sân bay Tân Sơn Nhất, chỉ có Nguyễn Thành Trung là thông thạo loại chiến đấu cơ của Mỹ. Bốn phi công còn lại trước đó chỉ lái Mig. Điều này khiến cho giới quân sự Sài Gòn và Mỹ kinh ngạc. Mặt khác vì ở trại Davis vẫn còn phái đoàn quân sự của MTDTGPMN nên giới quân sự Sài Gòn vẫn nghĩ rằng quân giải phóng không dám cho máy bay oanh tạc khu vực này.
Tướng Xuân cho điều động một số xe tăng đến bảo vệ Dinh Hoa Lan. Các liên lạc với căn cứ không quân ở Tân Sơn Nhất vẫn không thực hiện được. Khoảng hơn 10 giờ đêm, ông Minh và đoàn tùy tùng trở về Dinh Hoa Lan.
Tôi không biết Đô đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân, vào Dinh Hoa Lan tối 28-4-1975 gặp ông Dương Văn Minh nói gì về quyết định ra đi của ông. Nhưng sau đó trong giới thân cận của ông Minh hay tin ông Minh đã chấp nhận cho con rể của mình là đại tá Đài đưa con gái và hai cháu ngoại của ông lên tàu hải quân cùng đi di tản với Đô đốc Chung Tấn Cang. Vào lúc này có lẽ ông Minh đã biết chuyện thương thuyết với quân giải phóng là vô vọng. Các tin tức từ đại sứ Pháp Jean Marie Merillon và cố vấn chính trị Pierre Brochand không có sự tiến triển nào cả. Vai trò trung gian của Pháp cho một giải pháp chính trị mà lúc đầu họ rất tự tin cuối cùng trở nên vô vọng.
Sau này đọc quyển sách Cruel April của Olivier Todd, tôi ngạc nhiên vô cùng được biết trong lần gặp ông Minh cuối cùng tại Dinh Hoa Lan, đi theo Chung Tấn Cang còn có hai sứ giả của ông Trần Văn Hựu, cựu thủ tướng thời Bảo Đại. Hai sứ giả này là Lê Quốc Tuý và Mai Văn Hạnh. Họ đề nghị ông Minh mời ông Hựu về làm thủ tướng “vì Hà Nội và Chính phủ Cách Mạng lâm thời tán đồng vai trò của ông Hựu”. Nhưng ông Minh đã dất khoát từ chối những gợi ý của hai người này. Tôi không biết rõ điều tiết lộ của Olivier Todd có đúng sự thật hay không. Trong giới thân cận của ông Minh, mãi cho đến sau này, không ai nhắc đến sự kiện này.
Cũng trong ngày 28-4-1975, cựu dân biểu Ngô Công Đức từ Paris về đến Bangkok cũng có liên lạc với ông Dương Văn Minh qua trung gian của dân biểu Hồ Ngọc Nhuận. Nhắc lại: Đức rời khỏi Sài Gòn tháng 8-1971 sau khi thất bại trong nỗ lực tái cử của mình vì bị chính quyền Thiệu gian lận. Ngô Công Đức dự định trở về Sài Gòn nhưng từ ngày 26-4-1975 máy bay dân sự không còn được phép đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Đức đã phải quay lại Bangkok. Trong cuộc điện đàm với ông Dương Văn Minh, anh Đức nói rằng đến lúc này không có giải pháp chính trị cho sự kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ông Minh hỏi anh Đức: “Toa thấy không còn cách nào à ?”. Anh Đức trả lời: “Thưa Đại tướng, theo tôi không có cách nào!”. Gặp Đức sau 1975, tôi có hỏi anh sự khẳng định đó anh có từ đâu. Đức nói theo nhận định riêng của anh qua các tiếp xúc chứ không là tin chính thức từ đâu cả.
Ông Minh nhận trách nhiệm trước lịch sử ở lại đóng nốt vai trò của mình bất kể sự việc kết thúc sẽ ra sao. Sự ra đi của con gái và hai cháu ngoại giúp cho ông nhẹ bớt âu lo chuyện riêng tư. Bà Dương Văn Minh thì vẫn ở lại bên chồng.
Mãi đến 12 giớ đêm tôi mới về đến nhà ở đường Nguyễn Tri Phương. Vợ tôi chưa ngủ, vẫn thức chờ tôi. Năm đứa con đã ngủ. Đứa lớn nhất Lý Quí Hùng 13 tuổi, kế đó Lý Quí Dũng 11, Lý Quí Trung 9 tuổi, Lý Quỳnh Kim Trinh – con gái duy nhất – 7 tuổi và Lý Quí Chánh nhỏ nhất mới 5 tuổi. Trong giấc ngủ, chúng như những thiên thần. Trong đầu tôi bỗng lóe lên một ý nghĩ: chiếc thuyền tôi đang lèo lái chở khẳm quá, trong khi biển đang sóng to gió lớn, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nước mắt như chực trào ra. Không biết tại sao. Nhưng tôi kịp ngăn lại. Thay quần áo xong, tôi để một băng nhạc Trịnh Công Sơn vào máy AKAI, bật lên và nằm dài trên thảm. Nhiều lần tôi đã làm như thế sau một ngày chống Thiệu gay go. Với tôi, nhạc Trịnh Công Sơn luôn là một liệu pháp tinh thần kỳ diệu.
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng...
Em chưa biết quê hương thanh bình
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
...
(“Người con gái Việt Nam”, Ca khúc da vàng)
Cha mẹ tôi chưa biết quê hương thanh bình. Tôi cũng chưa biết quê hương thanh bình một ngày nào. Hy vọng thanh bình ấy sẽ đến với các con tôi chăng? Mây đen đang vần vũ trên bầu trời nhưng ánh sáng tươi đẹp đang ló dạng? Tôi thiếp ngủ lúc nào không biết...
Bộ mặt của Sài Gòn sáng 29-4-1975 khác hẳn ngày hôm trước. Đó là những dấu hiệu đầu tiên của hoảng loạn. Từ nhà riêng ở đường Nguyễn Tri Phương ra Dinh Hoa Lan, ô tô của tôi được hai chiếc xe Jeep của cảnh sát bảo vệ. Một chiếc chạy phía trước và một chiếc chạy bọc sau.
Trước khi bước lên xe, tôi nhận ra sự hiện diện của bốn viên cảnh sát đã từng theo dõi tôi đứng trong tư thế sẵn sàng bên chiếc xe đi theo bảo vệ. Khi ông Thiệu bỏ chạy ra nước ngoài, bốn viên cảnh sát này liền liên hệ với những người bảo vệ tôi và ngỏ ý nhập vào toán cận vệ của tôi nếu ông Minh trở thành tổng thống. Và tôi đã chấp nhận. Họ và tôi chẳng có gì để hận thù nhau. Họ chỉ làm phận sự do cấp trên giao.
Đoàn xe của tôi vừa ra đến đường Trần Quốc Toản (nay là đường Ba Tháng Hai) thì chứng kiến một vụ lính thuỷ quân lúc chiến cướp xe gắn máy của một người đàn ông. Cận vệ của tôi - Nguyễn Văn Bé – cho biết tối hôm qua tại thành phố đã xảy ra một số vụ binh lính đào ngũ dùng súng cướp nhiều tiệm vàng và cửa hàng. Trên đường đến Dinh Hoa Lan, tôi không thấy một bóng dáng nào của cảnh sát giữ trật tự và an ninh ở các ngã đường. Trong đầu tôi hiện lên những cảnh cướp bóc mà thành phố Đà Nẵng đã trải qua trước khi quân giải phóng có mặt. Tôi nghĩ: “Làm sao tránh cho Sài Gòn tai hoạ này?”.
Tổng giám đốc cảnh sát là trung tướng Nguyễn Khắc Bình đã bỏ chạy, chỉ còn phó tổng giám đốc là thẩm phán Phạm Kim Qui. Tối 28-4-1975, theo lệnh của tổng thống Minh, anh Dương Văn Ba điện thoại cho ông Qui yêu cầu cho ông ta bằng tất cả khả năng còn lại của Tổng nha cảnh sát cố gắng giữ trật tự trị an, đừng để xảy ra cướp bóc, nhất là vào ban đêm. Phạm Kim Qui cho biết ông ta còn có thể điều động được một sư đoàn cảnh sát dã chiến và sẽ cố gắng thực hiện chỉ thị của tổng thống Minh. Ngày 28-4-1975, theo yêu cầu của tôi, anh Ba (lúc này là thứ trưởng bộ Thông tin) cũng đã liên hệ với Phạm Kim Qui điều động một đại đội cảnh sát dã chiến bảo vệ an ninh khu vực Bộ Thông tin. Điều đáng nói là lúc này chúng tôi, sợ binh lính VNCH đào ngũ làm bậy hơn là sợ Việt cộng tấn công!
Khi tôi đến Dinh Hoa Lan trong phòng khách chỉ có ông Minh và vợ tôi (đã ra đây bằng ô tô riêng chờ tôi). Ông Minh hỏi tôi tình hình bên ngoài như thế nào? Tôi tường thuật cho ông Minh nghe vụ cướp trên đường Trần Quốc Toản và không khí trên phố, kể cả những gì được anh cảnh sát cận vệ kể lại. Tiếp theo đó, tôi thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của mình:
“Thưa đại tướng (trong sự thân mật, tôi và những người thân cận vẫn gọi ông Minh là đại tướng dù ông đã là tổng thống) tôi thấy tình hình rất nguy ngập, nhất là đối với dân thường. Không còn ai bảo vệ trật tự an ninh của thành phố. Sài Gòn hiện giờ là một thành phố không còn luật pháp. Tôi lo ngại Sài Gòn sẽ bị cướp bóc và hỗn loạn như ở Đà Nẵng mà mình thì bó tay. Thưa Đại Tướng, tôi nghĩ mình nên tuyên bố “Sài Gòn bỏ ngỏ” – ville ouverte – và để quân giải phóng kiểm soát và bảo vệ an ninh cho thành phố. Chỉ có cách đó là tránh cho Sài Gòn khỏi hỗn loạn...”
Liền đó tôi đưa thêm một ý kiến: Không nên công bố việc chuyển giao quyền hành cho quân giải phóng ngay vì như thế Sài Gòn sẽ trải qua một đêm vô chính phủ cực kỳ nguy hiểm. Tôi đề nghị sáng mai hãy công bố. Quyết định này sẽ được giữ kín trong một số rất ít người.
Sáng hôm sau các thành viên của tân nội các vẫn tụ tập tại phủ thủ tướng ở đại lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) chờ dự lễ gia mắt. Nhiều người thân cận ông Minh, trong chiều 29-4-1975, cũng chưa hay quyết định này, ngoại trừ thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Hình như phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền cũng không được thông báo.
Quyết định của ông Minh có thể không xuất phát hoàn toàn từ đề xuất của tôi. Một số vị khác có thể cũng có đề xuất như vậy. Ý nghĩ ấy có lẽ cũng đã ở sẵn trong đầu của ông Minh trước đó. Những tin tức bế tắc từ sứ quán Pháp, cuộc trao đổi với anh Ngô Công Đức từ Paris... chắc chắn đã có ảnh hưởng vào suy nghĩ của ông. Hơn nữa ông Minh là một nhà quân sự nên cũng rất hiểu tình hình lúc đó là như thế nào.
Sau khi quyết định, ông Minh liền giao việc soạn thảo bản tuyên bố cho bác sĩ Hồ Văn Minh. Tôi không biết sau đó bác sĩ Hồ Văn Minh có nhận lời không, và có thêm ai khác tham gia soạn thảo bản tuyên bố này không.
Chiều tối, trung tướng Vĩnh Lộc - tổng tham mưu trưởng – cùng chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (từ lâu đã đứng về phía cách mạng, là cơ sở của Ban binh vận miền Nam) – lúc này là phụ tá tổng tham mưu trưởng vào Dinh Hoa Lan thuyết trình lần cuối tình hình quân sự và an ninh quanh khu vực Sài Gòn. Cuộc thuyết trình càng khẳng định tình thế hoàn toàn tuyệt vọng đối với quân đội VNCH.
Sau khi hai tướng lĩnh này ra về, tôi đề xuất với ông Minh nên vào Dinh Độc Lập ngủ đêm nay. Vừa nghe đề nghị của tôi, ông Minh đã cực lực phản đối: “Tôi không bao giờ vào Dinh Độc Lập dù có tồn tại trên cái ghế tổng thống. Tôi đã nói điều đó với anh em rồi”. Đúng là trong khi đấu tranh giành chính quyền, ông Minh đã từng nói với những cộng sự viên thân tín của mình rằng dù ông có trở thành tổng thống ông cũng không vào trong Dinh Độc Lập, mà vẫn tiếp tục ở Dinh Hoa Lan của mình. Nhưng ông có nói với tôi: “Mình sẽ vào đó đánh quần vợt” (Phía sau Dinh Độc Lập có hai sân quần vợt giành cho ông Thiệu và bạn bè thân tín của ông). Cách ông Minh nói “Mình sẽ vào đó đánh quần vợt” có thể được hiểu quyết tâm của ông Minh hạ bệ tổng thống Thiệu.
Tôi phải giải thích rõ hơn ý kiến của mình: “Thưa đại tướng, ở lại đây đêm nay rất nguy hiểm cho tính mạng của đại tướng. Chỉ một quả pháo kích không biết từ đâu đến rơi vào đây là chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Sáng mai sẽ không ai có đủ thẩm quyền tuyên bố ngừng bắn và chuyển giao quyền cho quân giải phóng. Vì quyền lợi chung, tôi nghĩ đại tướng nên vào Dinh Độc Lập đêm nay. Ở đó có tầng hầm chống lại các cuộc pháo kích và ném bom”.
Sau một phút suy nghĩ, ông đồng ý vào Dinh Độc Lập. Lúc đó khoảng 9 giờ tối.
Từ Dinh Hoa Lan, ra cổng trước, đi theo đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), đến đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) rẽ trái là đến cổng chính vào Dinh Độc Lập. Đường đi chưa đến một ngàn mét. Trong Dinh Hoa Lan có hai chiếc ô tô đều được dùng cho cuộc di chuyển này. Ngoài ra cũng có một số xe khác đậu ở cổng sau. Vợ chồng tôi đi xe chung với ông bà Dương Văn Minh. Vì có khá đông người, trong đó có cả gia đình của một số dân biểu nghị sĩ, nên không đủ xe đi. Một số phải đi bộ. Đoàn người, vừa đi xe vừa đi bộ, kéo dài trên đường đến Dinh Độc Lập.
Vào đến Dinh Độc Lập đoàn người chia nhau tìm chỗ ngủ qua đêm. Dinh quá lớn, đủ chỗ cho mọi người. Dĩ nhiên phải sử dụng cả những phòng làm việc. Đầu tiên ông Minh và các cộng sự thân cận của ông được đi xem tầng hầm, nơi đây ông Thiệu dùng để đối phó với các cuộc đảo chính bất ngờ, có thể an toàn tiếp tục chỉ huy cuộc phản công. Phòng trú ẩn rất rộng, trang bị đầy đủ hệ thống truyền tin và liên lạc vô tuyến với đủ loại bản đồ quân sự của Sài Gòn và cả miền Nam.
Khi sĩ quan trong dinh hướng dẫn ông bà Dương Văn Minh đến phòng ngủ của ông bà Thiệu trước đây ở tầng hai, chúng tôi đi qua hành lang phía sau dinh, từ đây, xuyên qua hàng cây sao, ông Minh và tôi nhìn thấy sân quần vợt. Tôi còn nhớ câu nói đùa của ông trước đó: “Mình vào đây rồi và nhìn thấy nó nhưng mình sẽ không có cơ hội cầm vợt bước ra sân”.
Ông bà Minh mời vợ chồng tôi và vợ chồng dân biểu Nguyễn Hữu Chung vào ở chung phòng. Phòng ngủ của ông bà Thiệu khi chúng tôi đến đã trống trơn! Trên thảm, trước giường ngủ chỉ còn bộ da cọp nằm đó trơ trọi. Trong phòng tắm không có một cục xà bông nào. Nhớ sực hồi chiều chưa dùng cơm, tôi hỏi viên sĩ quan trong dinh có gì để ăn không. Viên sĩ quan này bối rối trả lời rằng không còn gì cả dù chỉ là một miếng bánh mì và thịt nguội!
Ông Minh nhìn xuống bãi cỏ trước dinh, thấy hai chiếc trực thăng dành riêng cho tổng thống vẫn nằm yên đó. Ông quay vào bảo người tuỳ viên quân sự là thiếu tá Hoa Hải Đường hỏi xem hai viên phi công trực thăng còn có mặt ở đây không, nếu còn, mời họ đến gặp ông. Một lúc sau, hai viên phi công trình diện ông Minh. Đó là trung tá Nguyễn Văn Minh và đại uý Tạ Duy Báo. Trung tá Minh từng học chung với Hoàng Đức Nhã ở trường trung học Pháp Lycée Yersin Đà Lạt. Tôi cũng quen biết Minh khi học trường Yersin. Minh học trên tôi hai lớp. Có lẽ anh được Nhã gọi về phụ trách đội bay trực thăng của ông Thiệu là do mối thân tình bạn bè ở Yersin. Còn Tạ Duy Báo, tuy là phi công nhưng thường có mặt trên sân quần vợt nhiều hơn. Anh là đấu thủ số một của Xẹc Tây. Anh còn được xếp hạng vào một trong năm cây vợt mạnh nhất của miền Nam, đứng sau Võ Văn Bảy, Võ Văn Thành, Lý Aline, Dương Văn Minh (trùng tên với Đại tướng Dương Văn Minh). Anh Báu có cú đánh rờve (trái tay) hồi mã thương rất mạnh và bất ngờ. Hoàng Đức Nhã quen biết Báu trên sân tennis và rút anh về bổ sung ê kíp lái trực thăng cho người anh bà con mình ở Dinh Độc Lập.
Ông Minh hỏi hai viên phi công: “Trực thăng có đủ nhiên liệu bay ra Đệ thất hạm đội hay không?” Hai viên sĩ quan nghĩ tổng thống Minh và đoàn tuỳ tùng định ra đi, liền báo cáo “đủ và an toàn”. Ông Minh chuyển sang hỏi thăm gia cảnh của hai người. Trung tá Minh than phiền cách đối xử của ông Thiệu đối với các nhân viên thuộc cấp như anh. Khi ông Thiệu ra đi ông chẳng có một quan tâm gì về những người đã từng sát cánh với ông và bảo đảm mạng sống của ông trong thời gian dài. Ông Dương Văn Minh đã gặp và có dịp chơi bóng với Tạ Duy Báu một đôi lần. Báu còn rất trẻ, lúc đó chỉ khoảng 26-27 tuổi. Anh chẳng nói gì cả, chắc trong đầu anh lúc này chỉ nghĩ về gia đình, âu lo không biết có chạy kịp trước khi cộng sản vào Sài Gòn. Ông Minh đột ngột nói với hai viên phi công “Tôi không đi đâu. Tôi cho phép anh em ai muốn đi cứ sử dụng cả hai chiếc trực thăng”.
Trung tá Minh nói ngay anh không đi, chỉ có Báu đi. Hai chiếc trực thăng đã rời khỏi Dinh Độc Lập khi trời còn tối để tránh phản ứng của binh lính đang còn bảo vệ dinh. Tôi không biết mỗi chiếc mang theo bao nhiêu người.
...Trong phòng ngủ của ông Thiệu chỉ có một cái giường – dành cho ông bà Minh. Tôi không biết ông bà có chợp mắt được hay không. Vợ chồng tôi và vợ chồng Nguyễn Hữu Chung ngả lưng trên sàn có trải thảm cạnh đó. Vợ tôi và vợ Chung Nguyễn rì rầm nói chuyện với nhau cả đêm.
Chỗ Chung Nguyễn và tôi nằm, nhìn thẳng ra đại lộ Thống Nhất. Trước mắt chúng tôi là quang cảnh máy bay trực thăng liên tục đáp xuống sân thượng tòa đại sứ Mỹ bốc người đưa ra Đệ thất hạm đội, tạo nên một vầng sáng kỳ lạ, nhìn từ xa như một đám cháy lớn. Thật khó tả tâm trạng của tôi trước quang cảnh này. Tôi tưởng như những người được bốc đi là những người thân của mình, vĩnh viễn không bao giờ được gặp lại. Có cái gì trì nặng trong lồng ngực. Nước mắt ứa ra lúc nào không hay. Đúng lúc đó tôi bỗng nghe Chung Nguyễn nói nhỏ vào tai tôi: “Mai tao đi. Con tao còn nhỏ quá, bên vợ không ai chịu ở lại...”. Con của Chung Nguyễn lúc đó mới được sáu-bảy tháng. Lấy vợ khá lâu anh mới có con, có lúc tưởng đâu hết hy vọng. Gia đình bên vợ là người Bắc di cư vào Nam năm 54 sau Hiệp định Genève. Hoàn cảnh của Chung Nguyễn thật khó ở lại. Biết được quyết định của người bạn đã gắn bó với mình trong suốt những năm tháng hoạt động chung ở quốc hội tôi sững sờ nằm lặng yên. Bởi tôi biết lời khuyên của tôi trong trường hợp này là vô ích. Chung Nguyễn là người bạn thân nhất của tôi dù đôi khi chúng tôi có quan điểm khác nhau. Ở Sài Gòn lúc đó người ta quen gọi phân biệt hai Chung và hai Trung. Chung Nguyễn (Nguyễn Hữu Chung) và Chung Lý (Lý Quí Chung) trong quốc hội và báo chí; Trung Lý (Lý Chánh Trung) và Trung Nguyễn (Nguyễn Văn Trung) trong Đại học là những trí thức tiến bộ. Tôi không nhớ đêm đó mình có chợp mắt lúc nào hay không. Vầng sáng trước mặt, nóng hực như một đám cháy, kéo dài suốt đêm, đến hừng sáng 30-4 mới tắt.
Chiếc trực thăng di tản cuối cùng - chiếc thứ 19 - rời khỏi sân thượng tòa đại sứ Mỹ vào lúc 3 giờ 58 phút sáng 30-4-1975 mang theo đại sứ Martin. Ông đến Sài Gòn tháng 4-1973, coi chiến tranh Việt Nam như một thứ thập tự chinh của cái gọi là “thế giới tự do”, còn bản thân ông, tự trao cho mình sứ mạng tiêu diệt người cộng sản. Khi chấp nhận làm đại sứ ở Sài Gòn, ông tuyên bố: “I accepted because I felt it to be a mission”. Theo nhà báo Tiziano Terzani, ông ta là người chống cộng thuộc thập niên 50. Các đồng nghiệp của Martin gọi ông là “người Mohican cuối cùng của chiến tranh lạnh”. Ông có một người con trai chết trận ở Việt Nam cũng như tướng De Latre de Tassigny, đứng đầu quân đội viễn chinh Pháp thất trận 20 năm trước, cũng mất một người con trên chiến trường Việt Nam. Martin đi bộ từ nhà riêng của mình (ở đường Phùng Khắc Khoan) qua tòa đại sứ Pháp (cửa vào đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) rồi từ đây đi sang tòa đại sứ Mỹ xuyên qua một khoảng tường trống vừa được mở ra để hai tòa đại sứ thông với nhau. Đại sứ Martin bỏ lại mọi thứ, sách vở, tranh ảnh, đồ cổ, chỉ mang theo cái cặp và... con chó. Ông bước lên trực thăng, một tay ôm lá cờ Mỹ, cũng như đồng nghiệp ông, đại sứ Mỹ tại Campuchia – John Gunther Dean - trước đó hai tuần, đã ôm lá cờ Mỹ leo lên trực thăng rời khỏi Phnom Pênh.
Còn với 129 Thủy quân lúc chiến phụ trách an ninh ở sứ quán Mỹ bảo vệ cuộc di tản, thì đến 7 giờ 53 phút ngày 30-4-1975 người cuối cùng mới rời khỏi sứ quán. Trong hai tuần, tòa đại sứ Mỹ di tản 50.000 người Việt Nam và 6000 người Mỹ. Khi Mỹ kết thúc các chuyến bay di tản vào 4 giờ 58 phút, trong khuôn viên tòa đại sứ Mỹ còn kẹt lại 420 người Việt Nam mặc dù trước đó chỉ ít tiếng đồng hồ người Mỹ quả quyết “No one will be left behind” (Không ai sẽ bị bỏ lại).
Bình luận về sự “cuốn cờ” thảm hại của đại sứ Mỹ Martin, nhà báo Tiziano Terzani viết trong quyển Saigon 1975: Three Days and Three Months như sau: “Người Mỹ! Họ muốn tiêu diệt một phong trào cách mạng nhưng thực tế họ đã nuôi dưỡng nó. Họ đến đây nhằm đặt lại mọi thứ trong trật tự nhưng họ lại ra đi để lại sự hỗn loạn. Họ đến để xây dựng nhưng lại tàn phá. Họ đến để bảo vệ một dân tộc mà họ cho rằng bị tấn công nhưng họ chỉ bảo vệ cho chính họ chống lại những người mà họ coi là “bạn” của mình”.
Năm 2002, một giáo sư người Nhật, Hajime Hitamura thuộc Đại Học Western Sydney (Úc) chuẩn bị một quyển sách về chiến tranh Việt Nam, có gặp tôi và đặt câu hỏi: Tại sao Mỹ thất trận tại Việt Nam? Tôi có đọc một tài liệu: Năm 1963 trả lời nhà báo Walter Cronkite trong một cuộc phỏng vấn về chiến tranh Việt Nam, tổng thống John F. Kennedy có nói: “Xét cho cùng thì chiến tranh này là chiến tranh người Việt, thắng hay bại là tuỳ ở họ”. Theo tôi cuộc chiến Việt Nam chưa bao giờ thật sự là một cuộc chiến của người Việt Nam theo nghĩa một cuộc xung đột ý thức hệ giữa người Việt Nam với nhau. Người Mỹ ngụy biện khi nói rằng: họ đến đây để giúp những người Việt Nam theo thế giới tự do chống lại cộng sản. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều lấy cái có đó để tiến hành chiến tranh tại Việt Nam nhằm áp đặt lên dân tộc nước này ý muốn xâm lược của họ. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở mỗi thời kỳ của mình đều có ý đồ riêng nhằm vào Việt Nam. Sau cuộc chiến của người Pháp thì đến cuộc chiến của người Mỹ. Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 1 kết thúc. Và khi Mỹ không đối phó được chiến dịch Hồ Chí Minh rút chạy thì cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai cũng theo chân họ mà tàn lụi. Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam với quân lính, phương tiện, tiền bạc của họ, dùng người Việt Nam của họ lập nên chính quyền Sài Gòn, thuê mướn và cưỡng bức một bộ phận người Việt Nam cầm súng cho họ. Tôi nhớ rất rõ quần chúng miền Nam không hề có cái gọi là lý tưởng chống cộng, có cuộc chiến đấu của mình để chống lại người cộng sản, ngoại trừ một số đảng phái chống cộng không có quần chúng. Cuộc chiến mà người Mỹ tiến hành nhân danh “người Việt Nam chống cộng” do đó hoàn toàn không có quần chúng. Chỉ có họ và những người vì quyền lợi riêng tư hoặc bị ép buộc theo họ. Chính vì vậy người Mỹ ở Việt Nam không chỉ phải chống lại cộng sản mà còn phải chống lại tất cả những người yêu nước không cộng sản, nói một cách nào đó là phải chống lại gần như cả nhân dân Việt Nam. Cuối cùng người Mỹ phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam là chuyện tất yếu.
Tôi nói với ông Hajime Kitamura rằng tôi không phải là một nhà nghiên cứu chiến tranh Việt Nam. Tôi chỉ nêu một suy nghĩ riêng của mình và chắc chắn chưa phản ánh một cách đầy đủ nguyên nhân thất bại của người Mỹ tại Việt Nam.
Tiêu biêu cho một trí thức có “lý tưởng chống cộng”, tướng Đỗ Mậu, từng là tổng trưởng thông tin và phó thủ tướng thời Nguyễn Khánh (sau 1-11-63) đã viết trọn một hồi ký chỉ để vạch trần sự phá sản của hai chế độ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa (từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu). Hồi ký của tướng Đỗ Mậu đã lý giải khá đầy đủ vì sao chế độ gọi là “quốc gia” đã thất bại.
Người ta cũng thấy xuất hiện một số tướng về hưu như trung tướng Nguyễn Hữu Có, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh... Thẳng thắn mà nói số tướng tá chung quanh ông Minh lúc này không có nhiều và cũng ít có gương mặt nổi bật. Các tướng tá đương quyền, thuộc thế hệ sau, đều phò Thiệu hoặc Kỳ. Nếu xảy ra một cuộc đối đầu quyền lực với Nguyễn Cao Kỳ, chắc chắn nhóm ông Minh sẽ gặp khó khăn. Lực lượng của ông Minh quá mỏng. Do lâu ngày tách khỏi quân đội, ông Minh không còn tay chân thân tình của mình trong hàng tướng tá. Trong các buổi họp hàng tuần của nhóm ông Minh chỉ thấy mặt hai nhân vật quân sự thuộc thế hệ đã qua: đó là cựu trung tướng Mai Hữu Xuân và cựu trung tướng Lê Văn Nghiêm, đều không còn ảnh hưởng trong quân đội.
Khi nhân vật tình báo Mỹ Charles Timmes gián tiếp nói cho Kỳ biết đại sứ Mỹ Martin ủng hộ giải pháp Dương Văn Minh và không ủng hộ cá nhân ông, Kỳ không giấu giếm lập trường của ông là sẽ chống ông Minh không khác chống cộng sản. Tướng không quân Nguyễn Cao Kỳ vẫn nuôi tham vọng tại chính trường.
Ngay sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Ban Mê Thuột, từ Khánh Dương trên Cao Nguyên - nơi ông có một nông trại - Kỳ đáp máy bay trực thăng về Sài Gòn nhờ tướng Cao Văn Viên, đang là tổng tham mưu trưởng, thuyết phục Thiệu giao quân cho Kỳ đi ngăn chặn sự tiến quân của quân giải phóng và bảo vệ Sài Gòn. Trong hồi ký của mình (Budda’s Child), Kỳ kể đã gặp Cao Văn Viên.
Kỳ hỏi: “Tình hình Ban Mê Thuột thế nào rồi?”.
Viên đáp: “Rất khó khăn. Chúng ta không có thừa quân vì phải bảo vệ Sài Gòn”.
Kỳ: ‘‘Tôi không cần nhiều quân. Cho tôi vài tiểu đoàn thủy quân lục chiến hoặc dù, và chừng 20 đến 25 chiến xạ, tôi sẽ tìm cách phá vỡ sự bao vây. Tôi sẽ trực diện với quân địch và chiến đấu”.
Dừng một lúc, Kỳ hỏi Viên: “Anh có nghĩ tôi sẽ thành công”
Viên trả lời: “Nếu anh chỉ huy lực lượng đó, tôi nghĩ là thành công”.
Kỳ: ‘‘Vậy thì hãy để tôi hành động”.
Viên: “Đáng tiếc tôi không ở vào vị trí có thể lấy một quyết định như thế. Quyết định này thuộc thẩm quyền của tổng thống Thiệu”.
Kỳ: ‘‘Ô kê, hãy gọi Thiệu, báo cho ông ta tôi đang ở đây và nói với ông ta biết đề nghị của tôi…”
Viên gọi điện cho Thiệu, nhưng tổng tham mưu trưởng không nói chuyện được với vị tổng chỉ huy của mình. Thông qua một tùy viên của Thiệu, Viên để lại một báo cáo. Nhưng sau đó, viên trợ lý này gọi lại tướng Viên và cho biết:
“Tổng thống cảm ơn tướng Kỳ rất nhiều về đề nghị của ông nhưng tổng thống cần có thời gian để suy nghĩ về đề nghị của ông”.
27 năm có đủ lâu để suy nghĩ cho một quyết định như thế? Tôi vẫn chờ câu trả lời của Thiệu. Có lẽ ông ta sợ tôi sẽ làm gì đó tại Sài Gòn với đơn vị xe tăng hơn là sợ đối phương có thể làm gì với quốc gia”.
Thật sự đây chỉ là canh bạc xì phé mà Kỳ tung ra với Thiệu. Cả Cao Văn Viên và Nguyễn Văn Thiệu không ai tin rằng Kỳ sẽ cầm quân ra mặt trận vào lúc đó sinh mạng sống của mình để bảo vệ cái ghế của Thiệu. Điều mà cả hai nghĩ là có quân trong tay Kỳ sẽ tính tới lật đổ Thiệu và giành lấy quyền bính mà ông ta đã để lọt ra khỏi tay hồi năm 1967. Tự cho mình quá hiểu Kỳ, Thiệu đương nhiên gạt qua một bên “đề nghị viển vông” ấy.
Vào lúc CIA có ý định lật đổ Thiệu, ông Kỳ lại được nhà báo Mỹ Robert Shaplen của báo New Yorker tích cực vận động để quay trở lại chính quyền. Từ đầu Shaplen luôn ủng hộ Kỳ. Shaplen có ảnh hưởng khá lớn đối với tòa đại sứ Mỹ, nhưng cuộc vận động này nếu quân giải phóng chưa vào Sài Gòn, ngày 30-4-1975, chắc chắn Kỳ cũng sẽ tìm cách đảo chính ông Minh.
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn một cách bí mật; địa chỉ đến là Đài Loan. Trước đó quyền tổng thống Trần Văn Hương thúc hối đại sứ Martin phải áp lực ông Thiệu rời Việt Nam sớm bởi “sự hiện diện hiện diện của ông Thiệu gây khó khăn cho ông”! Từ ngày 21-4 sau khi tuyên bố từ chức, ông Thiệu và gia đình vẫn ở trong Dinh Độc Lập. Ông Thiệu rời Dinh Độc Lập vào lúc 7 giờ 30 tối. Cùng đi với ông Thiệu có tướng Trần Thiện Khiêm, cựu thủ tướng và là bạn thân của Thiệu. Bà Thiệu và bà Khiêm đã rời Sài Gòn trước đó vài ngày. Bà Khiêm mang theo cả người giúp việc. Theo sự tố giác của linh mục Đinh Bình Định, người rất gần gũi với linh mục Trần Hữu Thanh, thì trong quân đội vào đầu tháng 3 có nhen nhúm một kế hoạch kết hợp Thiệu và Khiêm thành một liên danh tranh cử tổng thống nhiệm kỳ 3 vào cuối năm 1975, nếu chế độ Sài Gòn còn kéo dài. Chính Thiệu cũng từng tiết lộ kế hoạch này với đại sứ Martin và cho rằng nếu ông làm tổng thống một nhiệm kỳ nữa thì ông sẽ có điều kiện để mở rộng dân chủ!
Chi tiết về cuộc “trốn chạy” của ông Thiệu – vâng phải gọi đó là một cuộc trốn chạy – được các tài liệu CIA sau này tiết lộ như sau:
Ngày 25-4-1975, đại sứ Martin điện cho Kissinger báo rằng ông đã nghĩ ra cách đưa Thiệu và Khiêm rời khỏi miền Nam một cách bí mật. Martin cho tướng Mỹ Timmes tổ chức cuộc ra đi của Thiệu.
Timmes điện cho Thiệu và cho biết ông ta có thể dùng một chiếc trực thăng để đưa Thiệu từ Dinh Độc Lập đến phi trường Tân Sơn Nhất. Nhưng ông Thiệu trả lời rằng ông ta muốn đi ô tô để ghé tổng tham mưu trước và “uống một ly rượu với 22 tướng tá” đến chào từ biệt ông ta tại đây. Hình như nơi Thiệu và Khiêm ghé lại là nhà riêng của ông Khiêm. Từ tổng tham mưu, chính nhân viên, chính nhân viên CIA Frank Snepp và tướng Timmes đưa Thiệu và Khiêm ra sân bay. Timmes giới thiệu Snepp với Thiệu: “Đây là một chuyên viên phân tích cừ khôi của tòa đại sứ, hơn nữa anh còn là một tài xế đẳng cấp”. Khi ô tô đi vào sân bay quân sự Tân Sơn Nhất, Timmes khuyên ông Thiệu cúi người xuống “như thế an toàn cho tổng thống”. Timmes sợ lính gác nhận ra tổng thống của họ chạy ra nước ngoài và biết đâu sẽ manh động. Timmes hỏi thăm bà Thiệu và con gái, ông Thiệu trả lời: “Họ đang shopping ở London mua đồ cổ”. Đại sứ Martin đứng chờ sẵn ông Thiệu bên cạnh chiếc máy bay C-118. Trước khi lên máy bay ông Thiệu vỗ vai cảm ơn Frank Snepp. Trong bài viết riêng của mình liên quan đến phút giây này trong quyển The Vietnam War rememberd from all sides của Christian G. Appy, Frank Snepp có kể rằng ông Thiệu bắt tay Snepp và nói “tiếng Anh bằng giọng Pháp” với Snepp rằng: “Cảm ơn, cảm ơn tất cả mọi chuyện”. Nhưng sau đó Snepp lại tự hỏi ông Thiệu cảm ơn chuyện gì? “Tôi nghĩ chúng ta (tức người Mỹ) đã mất 58.000 thanh niên tại đây – ông Thiệu cảm ơn chuyện đó? Hay đơn giản cảm ơn vì bản thân mình chuồn đi được?”. Đại sứ Martin theo Thiệu vào tận bên trong máy bay. Ông ta nói với Thiệu “Chúc may mắn” rồi mới bước bước trở xuống lên ô tô của mình. Chuyến bay của Thiệu mang số 231 đi Đài Loan vào lúc 9 giờ 20. Có tin đồn Thiệu mang theo 16 tấn vàng của ngân khố Sài Gòn. Thật sự số vàng vẫn ở lại miền Nam. Nhưng theo Kỳ thì “Thiệu mang theo tấn hành lý và nhiều triệu đô la tiền mặt. Ông ta không chuồn với số vàng của ngân khố quốc gia”.
Dân Sài Gòn dửng dưng (và không ngạc nhiên) khi hay sự “trốn chạy” của Thiệu ra nước ngoài. Họ không ngạc nhiên vì Nam Việt Nam đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu những cuộc đào tẩu như thế của những kẻ một thời lãnh đạo miền Nam. Trường hợp của ông Thiệu cũng thế thôi, nằm trong sự dự đoán trước của nhiều người. Trung tá phi công Minh, bạn học của Hoàng Đức Nhã ở Lycée Yersin Đà Lạt, được Nhã kéo về chỉ huy đội bay trực thăng riêng của tổng thống Thiệu trong nhiều năm, gặp tôi tại Dinh Độc Lập tối 29-4-1975 đã bày tỏ sự bất mãn của anh với cách cư xử của Thiệu với những người đã từng là thân tín của ông ta. Tại Lycée Yersin, trung tá Minh học trên tôi hai lớp và chúng tôi từng quen biết nhau. Trung tá Minh kể rằng ông Thiệu chẳng nói gì với anh trước khi ra đi mặc dù anh là người bảo đảm tính mạng, sự an toàn cho ông Thiệu trong nhiều năm. Thiệu không cần quan tâm số phận người cộng sự thân tín của mình với gia đình anh ta rồi sẽ ra sao. Không một lời an ủi hay một cử chỉ giúp đỡ trước khi ra đi, mặc dù ông Thiệu dư biết trung tá Mình không dư dả gì trong vị trí công tác của mình. Cái đáng phục ở trung tá Minh là dù sau đó anh có điều kiện ra đi an toàn với chiếc trực thăng mà anh đang lái nhưng anh vẫn quyết định ở lại.
Ngày 25-4-1975, ông Thiệu rời Sài Gòn đi Đài Loan, coi như cuộc chiến ở Việt Nam qua 4 thời tổng thống Mỹ kết thúc.
Một sự thất trận hoàn toàn và đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ. Tuần lễ còn lại chỉ là thủ tục chính thức khai tử cuộc chiến đã trở thành nỗi nhục và vết thương không thể hàn gắn trong nhiều thế hệ người Mỹ.
Thật ra Washington đã thấy trước sự sụp đổ của miền Nam, đặc biệt từ sau quyết định của Thiệu rứt khỏi Ban Mê Thuột. Trong hồi ký của mình, Kissinger tiết lộ vào thời điểm đó, ông không tin rằng Pháp sẽ dàn xếp được một giải pháp chính trị nào đó. Các cuộc vận động của Pháp phản ánh sự tiếc nhớ của một thời thực dân đã mất ở Đông Dương hơn là đạt tới một dàn xếp thực tiễn. Do đó, từ đầu tháng 4-1975, Mỹ đã tiến hành âm thầm những chuẩn bị cho một cuộc rút chân hoàn toàn khỏi Việt Nam, làm thế nào diễn ra an toàn nhất. Kế hoạch của Mỹ là phải đưa 6000 người Mỹ và khoảng 10.000 người Việt Nam đã từng cộng tác với Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Về những ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, xem lại các tài liệu, người ta đi đến kết luận đại sự Graham Martin “lì” hơn tổng thống Thiệu. Ông ta không tìm cách bỏ chạy sớm như Thiệu. Sau khi Thiệu ra lệnh rút khỏi Cao nguyên, lúc đầu đại sứ Martin vẫn hy vọng thực hiện một tuyến phòng thủ cho Nha Trang, Sài Gòn và đồng bằng sông Cửu Long để giữ lại phần đất sau cùng - một đề nghị khi được thông báo về Washington đã làm điên tiết Phil Habib, trợ lý các vấn đề Đông Nam Á của tổng thống Mỹ. Và đến khi chế độ Sài Gòn sụp đổ đến nơi thì Martin vẫn hi vọng đạt tới giải pháp chính trị chính phủ liên hiệp ba thành phần (!). Washington coi các suy nghĩ của Martin là ảo tưởng. Quốc hội Mỹ mỗi ngày áp lực mạnh mẽ hơn buộc tổng thống Ford phải tiến hành khẩn cấp lệnh di tản. Ngày 14-4-l975, cả Ủy ban ngoại giao thượng viện Mỹ gọi điện trực tiếp cho tồng thống Ford tại Cabinet Room - phòng làm việc riêng của tổng thống để thúc hối tổng thống ra lệnh di tản ngay. Chuyện này chưa từng xảy ra từ thời tổng thống Woodrow Wilson. Bộ trường quốc phòng James Schlesinger và ngoại trưởng Kissinger cố gắng trình bày tình hình quân sự cho các thượng nghị sĩ nghe. Nhưng các nghị sĩ trong Ủy ban ngoại giao Mỹ phản ứng lại rằng lúc này khôngcòn là lúc bàn cãi các giải pháp mà phải nhanh chóng di tản người Mỹ, “không được kéo dài thời gian để cứu người Việt Nam” (chi tiết này trích trong hồi ký “Ending The War” của Henry Kissinger).
Trong hồi ký của mình, tổng thống Ford kể rằng ông đã gửi cho Martin một bức điện nêu ý kiến rõ ràng: ‘‘rút ra nhanh”. “Tôi sẽ cho ông một số tiền lớn để thực hiện cuộc di tản”. Nhưng Ford kể thêm rằng nghị sĩ Jacob Javits, thuộc New York, lưu ý “đừng dùng số tiền đó như một một viện trợ quân sự trá hình”. Nghị sĩ Frank Church (Idaho) thấy việc cấp tiền cho sứ quán Mỹ có thể sinh ra vấn đề nghiêm trọng, có thể dẫn tới “sự dính líu của chúng ta và một cuộc chiến mở rộng nếu chúng ta có gắng di tản tất cả những người Việt Nam đã trung thành với chúng ta”. Còn nghị sĩ Joseph Biden (Delaware) lặp lại rằng “Tôi không biểu quyết thêm một số tiền nào để đưa người Mỹ ra khỏi Việt Nam. Tôi không muốn điều này dính líu với việc di tản người Việt Nam”.
Vào lúc này, chuyện di tản người Việt Nam đã từng làm việc với người Mỹ, bị nhiều nghị sĩ coi như “một thứ nợ đời phiền toái”, một yếu tố có thể làm liên lụy đến sự an toàn của người Mỹ khi rút ra khỏi Việt Nam.
Cuối cùng Martin phải tuân lệnh di tản từ Washington nhưng ông vẫn tìm cách thực hiện quyết định này theo ý mình: kéo dài thời gian di tản người Mỹ để hạn chế sự hoảng loạn trong số người Việt dính líu với Mỹ muốn rời khỏi miền Nam.
Kế hoạch di tản của người Mỹ khởi động từ ngày 21-4-1975, liên tục cả ngày và đêm, ban ngày với máy bay C-141s, ban đêm với máy bay C130s. Những người không quan trọng được đi trước.
Để thực hiện cuộc di tản an toàn, tòa đại sứ Mỹ cần duy trì sự tồn tại chế độ Sài Gòn càng lâu càng tốt. Đại sứ Martin khi chấp nhận quan điểm của đại sự Pháp Jean Marie Merillon cần ủng hộ ông Minh thay thế ông Hương cũng vì mục tiêu ấy mà thôi. Thời gian còn lại không còn nhiều nhưng ông Hương vẫn không chịu rời khỏi cái ghế quyền tổng thống của mình bất kể áp lực từ các sứ quán Pháp và Mỹ. Bám vào lập luận mình thay Thiệu đúng theo hiến pháp, ông Hương buộc những người muốn thay ông cũng phải thông qua hiến pháp và quốc hội. Là một người ngấm ngầm say mê quyền lực, ông Hương vẫn mơ làm tổng thống và tự coi minh là một Charles De Gaulle mà ông rất ngưỡng mộ. De Gaul1e là vị cứu tinh của nhân dân Pháp trong thế chiến thứ hai, còn ông Hương thì tưởng tượng rằng mình có sứ mạng cứu Sài Gòn trước “cuộc xâm lăng của cộng sản”. Do đó khi đã có quyền lực trong tay rồi ông không dễ dàng buông ra.
Thế là các nỗ lực nhằm đẩy ông Hương ra khỏi chiếc ghế tổng thống phải hướng sang quốc hội. Ngày 26-4-l975, lưỡng viện quốc hội được triệu tập để nghe ảnh hình quân sự và quyết định người thay quyền tổng thống Trần Văn Hương. Chỉ có 136 dân biểu nghị sĩ hiện diện trên tổng số 219. Rất đông trong số họ đã chuồn ra nước ngoài. Phiên họp lưỡng viện có mặt cựu tướng Trần Văn Đôn với tư cách bộ trưởng quốc phòng, đại tướng Cao Văn Viên - tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, trung tướng Nguyễn Khắc Bình - tổng giám đốc cảnh sát, trung tướng Nguyễn Văn Minh - tổng trấn Sài Gòn. Các nhân vật quân sự này lần lượt thuyết trình cho các nghị sĩ và dân biểu nghe tình hình quân sự tuyệt vọng của Sài Gòn với sự dẫn chứng cụ thể trên bản đồ. Quân VNCH chỉ có 60.000 người để bảo vệ Sài Gòn. Lúc này quân giải phóng cũng có một quân số như thế nhưng tăng lên nhanh chóng từng giờ. Phần thuyết trình quân sự nhằm thuyết phục các dân biểu nghị sĩ sớm biểu quyết sự thay thế ông Hương để tìm một giải pháp chính trị. Tiếp liền đó là cuộc thảo luận của quốc hội. Có mặt trong phiên họp này ở tầng lầu trên dành cho khách còn có đại diện các tòa đại sứ, đông đảo phóng viên nước ngoài.
Các dân biểu, nghị sĩ tham dự đều biết mục đích phiên họp là đưa ông Minh lên thay ông Hương nhưng cuộc thảo luận có lúc giậm chân tại chỗ và tưởng đâu bế tắc. Những dân biểu, nghị sĩ từng bị gọi là “gia nô” vì bán mình cho tổng thống Thiệu - họ nắm đa số trong cả Thượng viện lẫn Hạ viện - do dự trong biểu quyết trao quyền ông Minh vì hai lý do: 1. Sợ phe đối lập (tức phe ông Minh) lên nắm quyền sẽ trả thù họ. 2. Sợ quân giải phóng vào Sài Gòn quá nhanh chạy không kịp sẽ nguy hại tính mạng.
Nắm rõ ảnh hình này, trong giờ giải lao tôi tiếp xúc với một số dân biểu và nghị sĩ có ảnh hưởng ở phía thân chính và đưa ra thẳng đề nghị trao đồi như sau: 1. Sẽ không có ai trong phe thân chính quyền bị trả thù vì hoạt động ủng hộ Thiệu hoặc chống phe đối lập. 2. Những ai muốn rời khỏi Việt Nam thì sẽ được chính quyền mới cấp hộ chiếu ra đi chính thức. Tôi nhấn mạnh rằng tôi nói với tư cách đại diện chính thức ông Dương Văn Minh.
Những lời hứa này - một thứ bảo đảm an toàn cho các dân biểu, nghị sĩ thân chính - đã thúc đẩy một số còn do dự.
Cuộc biểu quyết truất quyền ông Hương và trao quyền cho ông Minh được thực hiện với số phiếu gần như tuyệt đối 147/151 vào lúc 20 giờ 54 tối. Đây là kết quả từ nhiều phía, nhất là trước viễn cảnh Sài Gòn bị tấn công quân sự. Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm đã điều khiển cuộc biểu quyết này.
Bằng điện thoại tôi đã báo cáo lại cho ông Minh về “sáng kiến” riêng của tôi nhằm thúc đẩy nhanh cuộc biểu quyết và được ông tán đồng. Tôi nhớ rất rõ không khí tại trụ sở Thượng viện trước và sau cuộc biểu quyết. Kẻ thì chán nản như người sắp chết đuối là các dân biểu, nghị sĩ thuộc phe Thiệu, còn những người phe Dương Văn Minh thì hấp tấp, vội vã như sợ không còn bắt kịp cơ hội cuối cùng. Ở tầng trên của phòng họp, báo chí nước ngoài, các nhà ngoại giao nhìn xuống sự bát nháo phía dưới như những khán giả đang xem một trận cầu đầy bi kịch ở phút 90! Hai đại diện ngoại giao căng thẳng nhất vào lúc này thuộc hai tòa đại sự Mỹ và Pháp. Phiên họp lưỡng viện bắt đầu từ sáng 26-4-1975, một ngày sau khi ông Thiệu lên máy bay đi Đài Loan, kéo dài đến chiều tối mới kết thúc.
Còn tại sao quốc hội biểu quyết ông Dương Văn Minh làm tổng thống từ ngày 26-4-1975, lễ tấn phong diễn ra ngày 28-4-1975, nhưng cuộc trình diện thành phần chính phủ lại dự kiến đến ngày 30-4-1975? Trong nhóm ông Minh có bác sĩ Hồ Văn Minh và một người thích nghiên cứu khoa bói toán, xem ngày tốt ngày xấu... Bác sĩ Minh từng là phó chủ tịch Hạ nghị viện và là ứng cử viên phó tổng thống trong liên danh của ông Dương Văn Minh khi ông Minh có ý định ra ứng cử tổng thống năm 1971. Theo ông “thầy bói nghiệp dư” Hồ Văn Minh thì “ngày tốt” để trình diện nội các Dương Văn Minh là ngày... 30-4-1975 và không thể sớm hơn.
Ông Minh triệu tập những người thân cận, cùng các nhóm Phật giáo, Công giáo từng tán đồng lập trường hòa bình với ông dự phiên họp trong ngày 27-4-1975 để thành lập chính phủ. Những người được mời đến buổi họp đặc biệt này - trên tầng lầu một của dãy nhà phía sau ngôi biệt thự hình bánh ít, tức Dinh Hoa Lan - đều là những người đã đồng hành với ông Minh trong những năm ông từ Bangkok trở về sau thời gian bị phe tướng Nguyễn Khánh buộc lưu vong. Hầu như không ai hiện diện trong buổi họp ngày đó xem việc phân phối các chiếc ghế trong chính phủ Dương Văn Minh như một thành đạt của cá nhân mình, cái ghế chức tước giờ đây đã trở nên hết sức nặng nề, có thể mang lai nhiều phiền toái hơn là quyền lực và danh vọng.
Ông Dương Văn Minh chọn luật sư Nguyễn Văn Huyền, từng là chủ tịch Thượng viện - một trí thức công giáo có uy tín miền Nam làm phó tổng thống. Ông Huyền được cả hai phía đối lập và thân chính kính trọng. Cách cư xử của ông với mọi người luôn từ tốn và lễ độ dù cho người đối diện nhỏ tuổi và vai vế xã hội kém hơn ông. Tôi còn nhớ những lần tiếp xúc với ông bao giờ ông cũng mở đầu câu nói “Thưa ông dân biểu” hoặc “Thưa ông trưởng khối” khi tôi làm trưởng khối dân biểu đối lập Hạ viện (khối Dân Tộc). Về nhân cách, luật sư Huyền hơn hẳn các nhân sĩ nổi tiếng khác có mặt trên chính trường Sài Gòn lúc bấy giờ như Trần Văn Hương, Phan Khắc Sửu, Mai Thọ Truyền, Trần Văn Văn…
Ở vị trí thủ tướng, ông Minh mời luật sư – nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, đã từng là ngoại trưởng trong chính phủ Ngô Đình Diệm 12 năm về trước.Vào thời điểm chính phủ Diệm đối đầu với cuộc đấu tranh của Phật giáo và có những hành động đàn áp ác liệt, ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu đang đi công tác tại Hoa Kỳ. Ông đã cạo đầu và tuyên bố từ chức tại đây để phản đối chính sách đàn áp của gia đình ông Diệm đối với Phật giáo. Ông Mẫu để lại trong đầu tôi hình ảnh một con người có uy tín lớn về nhiều mặt, từ nghề nghiệp riêng trong giới luật sư cho đến các hoạt động chính trị qua cả hai thời kỳ Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu. Thái độ chân thành và có thể gọi dũng cảm của ông trong những ngày cuối cùng và cả khi lực lượng giải phóng vào Dinh Độc Lập khiến cho tôi nhớ mãi và kính phục.
Phó thủ tướng là bác sĩ Hồ Văn Minh đã từng là phó chủ tịch Hạ viện. Anh Minh tánh tình hiền hậu, thái độ chính trị ôn hòa nhưng luôn đứng về phía đối lập và là bạn thân thiết của anh Hồ Ngọc Nhuận. Cả hai chịu trách nhiệm Chương trình phát triển Quận 8, một chương trình xã hội mà người bảo trợ là kỹ sư Võ Long Triều - ủy viên thanh niên, tên gọi của chức danh bộ trưởng thanh niên dưới chính phủ Nguyễn Cao Kỳ.
Tôi không nhớ hết tất cả những ai được mời vào chính phủ Dương Văn Minh nhưng nếu có thiếu sót thì cũng rất ít. Chẳng hạn giáo sư Nguyễn Văn Trường được mời phụ trách Bộ giáo dục. Ông Trường đã từng là Bộ trưởng giáo dục thời chính phủ Kỳ và cả thời chính phủ Trần Văn Hương. Ông là người bạn thân thiết của giáo sư Lý Chánh Trung. Khi ông Trường làm bộ trưởng Bộ giáo dục, ông Trung là đổng lý văn phòng của ông Trường, vị trí đứng thứ hai trong bộ. Người được mời đảm trách Bộ kinh tế, nếu tôi nhớ không lầm là ông Nguyễn Võ Diệu đang là tổng giám đốc một ngân hàng. Đáng chú ý là ở Bộ quốc phòng, tổng thống Dương Văn Minh đã mời một nhân vật trong Lực lượng hòa giải dân tộc thuộc ảnh hưởng Phật giáo Ấn Quang chẳng dính dấp gì đến quân đội, đó là một giáo sư đại học trường đại học Huế, ông Bùi Tường Huân. Tôi có hỏi ông Minh về sự chọn lựa khá đặc biệt này và ông đã trả lời: “Chính phủ của mình đâu có mục đích tiếp tục chiến tranh. Một Bộ trưởng dân sự và là một giáo sư đại học làm Bộ trưởng quốc phòng thể hiện cụ thể ý muốn hòa bình của anh em mình...”.
Trong ghi chép riêng của mình, anh Hồ Ngọc Nhuận có bày tỏ quan điểm của anh lúc đó là không nhận ghế bộ trưởng nào cả. Ngay cả chuyện ông Minh được đề nghị thay ông Hương làm tổng thống, anh Nhuận cũng cố gắng thuyết phục ông Minh không nhận và khuyên nên vận động để chủ tịch Thượng viện Nguyễn Văn Huyền hoặc nghị sĩ Vũ Văn Mẫu nhận chức vụ này.
Tôi nhớ lúc đầu ông Minh có ý định giao chức tổng trưởng Bộ Thông tin cho một người khác, nhưng sau cuộc trao đổi giữa ông Minh với anh Dương Văn Ba và một vài anh em, ông Minh giao cho tôi đảm trách bộ này. Tôi cũng nhớ ông Minh có ý định giao cho anh Nhuận Bộ Xây dựng Nông thôn mà theo ông rất phù hợp tính cách của anh Nhuận. Và tôi cũng nhớ - nếu trí nhớ của tôi vẫn tốt - anh Nhuận có một phản ứng giữa phiên họp làm mọi người không thể nín cười dù lúc tình hình cực kỳ căng thẳng. Anh nói: “Nông thôn đâu còn nữa mà cần Bộ Xây dựng nông thôn, thưa đại tướng!”.
Thế là anh Nhuận được ông Minh đề nghị lãnh chức vụ Đô trưởng Sài Gòn. Trong thực tế, ngay cả với chức vụ này, anh Nhuận cũng không... quan tâm. Lúc đó do những quan hệ riêng của anh với “bên trong”, tức người của MTDTGPMN, anh biết rõ hơn nhiều anh em trong nhóm ông Minh rằng... “màn đã hạ rồi”. Chuyện lập chính phủ vào thời điềm này rồi chẳng đi đến đâu Trong 48 tiếng đồng hồ cuối cùng, nhiều anh em không thấy Nhuận ở đâu, có người thì thấy anh lúc hiện lúc… biến.
Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, ngồi bên cạnh ông Minh trong phiên họp, được ông Minh đề nghị làm phụ tá đặc biệt của tổng thống. Anh Nguyễn Hữu Chung là người rất thẳng tính đã từ chối chức vụ này vì cho rằng nó không xứng đáng với những đóng góp của anh ngay từ đầu trong nhóm. Ông Minh cố gắng thuyết phục Nguyễn Hữu Chung, nhấn mạnh rằng chực vụ phụ tá đặc biệt tổng thống được xếp ngang hàng bộ trưởng và là thành viên của hội đồng bộ trưởng. Ông còn dẫn chứng vai trò quan trọng của phụ tá đặc biệt Nguyễn Cao Thăng bên cạnh tổng thống Thiệu! Nhưng Nguyễn Hữu Chung vẫn nhất quyết từ chối. Có lẽ vì tại miền Nam lúc bấy giờ luôn có thành kiến đối với chức vụ phụ tá đặc biệt của tổng thống qua hai nhân vật chuyên “đi đêm” và làm những việc đen tối: Nguyễn Cao Thăng và Nguyễn Văn Ngân.
Anh Dương Văn Ba được đề nghị làm thứ trưởng giáo dục nhưng không nhân và bày tỏ ý muốn chuyển sang làm thứ trưởng bộ Thông tin cùng tôi.
Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền cùng luật sư Trần Ngọc Liễng được ông Minh giao nhiệm vụ hòa đàm với MTDTGPMN. Ngoài các thành viên chính phủ, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh được chỉ định là tổng giám đốc cảnh sát Sài Gòn.
24. Chính phủ cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa
Nhưng cuối cùng chính phủ Dương Văn Minh chính thức lúc đầu chỉ gồm bốn thành viên: Tổng thống Dương Văn Minh, phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu và tổng trưởng bộ Thông tin là tôi. Việc tôi được bổ nhiệm làm tổng trưởng thông tin trước khi công bố thành phần đầy đủ của nội các xuất phát từ một nhu cầu đặc biệt của tình hình lúc bấy giờ. Ngày 26-4-1975, quốc hội biểu quyết bầu ông Minh làm tổng thống, nhưng ông Minh dự định mãi đến ngày 30-4-1975 mới trình diện thành phần chính phủ. Như thế có một ‘‘khoảng trống chính trị’‘ đến bốn ngày. Các đài truyền hình và phát thanh Sài Gòn, nhất là đài chiến tranh chính trị quân đội, tiếp tục bình luận và phát nhạc chống cộng như lúc ông Thiệu, ông Hương vẫn nắm quyền. Tôi đã chủ động trình bày với ông Minh và ông Mẫu về tình hình này: cần chấm dứt ngay các hoạt động tuyên truyền chống cộng và hiếu chiến trên truyền hình và phát thanh, nếu không đường lối hoà bình và dự định hoà giải hòa hợp của chính phủ mới sẽ phá sản trước khi ra mắt. Trong ngày 27-4-1975, dù chưa được chính thức bổ nhiệm vào bộ Thông tin (lúc đó còn có tên ‘‘Bộ thông tin và chiêu hồi”) tôi đã chủ động gặp ông Lê Vĩnh Hòa, tổng giám đốc đài phát thanh truyền hình, tại nhà riêng của ông tại đường Tự Do (nay là Đồng Khởi), nơi vợ ông có một cửa hàng bán đồ cổ, để vận động ông ra lệnh thay đổi ngay giọng điệu của cả hai đài thuộc quyền của ông. Tôi đến nhà ông vào lúc khoảng 01 giờ trưa, ông đang ăn cơm với vợ. Tôi tự giới thiệu mình và cho biết tôi sẽ được tổng thống Dương Văn Minh chính thức bổ nhiệm trong ngày mai làm tổng trưởng Thông tin. Nhưng tôi cần gặp ông ngay hôm nay vì tình thế đòi hỏi phải có một thay đổi hoàn toàn về nội dung tuyên truyền trên hai đài truyền hình, truyền thanh, càng sớm càng tốt - về đường lối kết thúc chiến tranh và đặc biệt là thái độ của chính phủ mới đối với quân giải phóng. Tôi nói ‘‘Ông có quyền không nghe tôi vì tôi chưa chính thức là tổng trưởng Thông tin, nhưng tôi tha thiết yêu cầu ông, do đòi hỏi của tình thế cấp bách, nên có một quyết định có lợi cho cái chung ngay bây giờ”.
Tổng giám đốc Lê Vĩnh Hoà không cần tôi nói gì thêm, đã đồng ý hợp tác ngay. Ông ra lệnh bỏ tất cả các loại nhạc chống cộng và ngưng phát các bài, tin, mang tính chống cộng và cổ xuý tiếp tục chiến tranh. Tôi cũng điện thoại trực tiếp cho trung tướng Trần Văn Trung, tổng cục trưởng Tổng cục chiến tranh chính trị là người đang chỉ đạo đài quân đội. Tướng Trung chỉ hứa nhưng không chấp hành.
Cũng trong ngày 26-7-1975, thừa lệnh tổng thống Dương Văn Minh, tôi cũng đã hẹn gặp cố vấn chính trị tòa đại sứ Pháp Pierre Brochand để vận động tổng thống Pháp Giscard D’Estaing có một tuyên bố chính thức trên hệ thống truyền thông Pháp hỗ trợ chính phủ mới ở Sài Gòn. Chúng tôi hẹn gặp nhau tại Xẹc Tây, tức Cercle Sportif Saigonnais (CSS), được sắp xếp như một cuộc gặp tình cờ. Địa điểm nói chuyện: hồ bơi của CSS!
Khi hai chúng tôi đang đứng ở dưới nước thì Thomas Polgar, “xếp” CIA tại miền Nam nằm dài phơi nắng cạnh hồ bơi, cách chúng tôi không bao xa. Tôi chưa từng gặp mặt Polgar nên không biết sự hiện diện của ông ta. Chính Brochand đã nói khẽ cho tôi biết sự có mặt của Polgar.
Tôi mở đầu cuộc đối thoại: “Ngày mai tôi mới được bổ nhiệm làm tổng trưởng Thông tin nhưng hôm nay tôi được tổng thống Dương Văn Minh cử làm đại diện chính thức của ông, để thông qua tòa đại sứ Pháp, yêu cầu tổng thống Pháp Giscard D’Estaing có lời tuyên bố ủng hộ chính phủ mới cùng nỗ lực tìm kiếm hòa bình của chính phủ này”. Ông Pierre Brochand trả lời rằng ông sẽ báo cáo ngài đại sứ và sẽ chuyển ngay lời yêu cầu này về Paris và ông hi vọng tổng thống Pháp sẽ lên tiếng vào ngày mai. Tôi không được nghe trực tiếp lời tuyên bố của tổng thống Pháp ngày hôm sau vì lúc đó quá bận rộn, nhưng tôi được biết yêu cầu của tổng thống Dương Văn Minh đã được chính phủ Pháp đáp ứng. Rõ ràng đường lối của Pháp trong thời điểm này là ủng hộ chính phủ Dương Văn Minh và muốn chính phủ này có một vai trò trong kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Dĩ nhiên Pháp hi vọng, trong hoàn cảnh này, họ sẽ có một vị trí đặc biệt ở Việt Nam.
Người Mỹ, một mặt hy vọng người Pháp thành công trong nỗ lực của mình để họ có thêm thời gian thực hiện kế hoạch rút khỏi Việt Nam, nhưng mặt khác người Mỹ lại nhìn một cách không thiện cảm các hoạt động của Pháp, cho rằng người Pháp muốn phục hồi thời thuộc địa của họ ở Đông Dương. Trong quyển Interval Decent mà cựu nhân viên CIA Frank Snepp viết về sự kết thúc chiến tranh ở Việt Nam đã vạch ra Pierre Brochand là nhân viên “Phòng nhì” (Deuxieme Bureau) tương đương với CIA của Mỹ. Frank Snepp mỉa mai Pierre Brochand muốn trở thành một Kissinger thứ hai.
Có thể nói đây là lần đầu tiên và duy nhất, tôi bàn với Pierre Brochand một vấn đề chính trị cụ thể. Trước đó quan hệ giữa Pierre và tôi chủ yếu là bạn bè, dù đôi khi có đề cập một chuyện thời sự nào đó nhưng không đi xa hơn sự trao đổi bình thường giữa hai người bạn. Pierre Brochand đẹp trai, ăn mặc lịch sự và luôn hợp thời trang, quan hệ bạn bè khá cởi mở nhưng rất thận trọng khi đề cập các vấn đề nội bộ của người Việt Nam. Ông là người Pháp đáng ghét nhất đối với ông Thiệu vì ông Thiệu cho rằng chính Brochand là người thúc đẩy và hỗ trợ các nhóm hoạt động chính trị đối lập thuộc thành phần thứ ba.
...Ngày 28-4-1975, ông Minh chính thức cử tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin dù chưa chính thức công bố nội các. Quyết định bổ nhiệm tôi do thủ tướng Vũ Văn Mẫu ký. Cũng như Bộ Quốc phòng dự định giao cho một người chẳng biết gì về quân sự - giáo sư đại học Bùi Tường Huân - Bộ Thông tin giao cho tôi, một người hiểu biết rất ít về người cộng sản và càng không có khả năng đảm trách “cuộc chiến ý thức hệ” mà thường bộ thông tin của các chế độ trước đây ở miền Nam luôn phải tiến hành. Ông Dương Văn Minh cũng biết rõ điều đó và rõ ràng ông có chủ đích khi chọn tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin, bởi tôi hoàn toàn có khả năng đóng góp vào mục tiêu tìm kiếm hòa bình của chính phủ Dương Văn Minh.
Sáng 29-4-1975 tôi đến Bộ Thông tin Chiêu hồi trên đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) ở gần ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa), nhận nhiệm vụ mới của mình. Lúc ấy cái tên của bộ giao cho tôi còn là Bộ Thông tin Chiêu hồi. Việc đầu tiên của tôi khi đến đây là chỉ thị cho người trợ lý mới của tôi là Lưu Trường Khương đổi tên bộ này thành “Bộ Thông tin”, bỏ hai chữ “Chiêu hồi”. Anh Lưu Trường Khương cùng học một khoá ở Học viện quốc gia hành chánh với tôi. Khi tốt nghiệp anh bị Trung ương tình báo trưng dụng mặc dầu anh không muốn về làm việc ở đấy. Sau đó dù đã về đây nhưng Khương vẫn tìm cách vận động, qua nhiều người có thế lực trong chính quyền, để được rời khỏi chỗ này. Cuối cùng anh phải chấp nhận về bộ Dân vận Chiêu hồi (sau này mới đổi tên Thông tin Chiêu hồi) thời Hoàng Đức Nhã để thoát khỏi một ngành hoàn toàn không phù hợp với tánh tình anh. Ngay khi còn làm ở Trung ương tình báo, thỉnh thoảng Khương đến thăm tôi và tiết lộ cho tôi biết anh bị cấp trên giao nhiệm vụ theo dõi tôi. Anh nói: “Có lúc tôi đứng hàng giờ bên kia đường nhà ông. Tôi cảm thấy hết sức nhục nhã...”. Về bộ Dân vận Chiêu hồi, Nhã giao cho Khương làm đại diện vùng 4, tức miền Tây Nam Bộ.
Không có ai chỉ thị cho tôi đổi tên Bộ Thông tin Chiêu hồi, kể cả tổng thống Dương Văn Minh hay thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Tôi tự động làm việc này. Trong buổi họp đầu tiên và duy nhất tại văn phòng tôi ở Bộ Thông tin, với tư cách tổng trưởng Thông tin tôi còn chỉ đạo cho tất cả các bộ phận trực thuộc và địa phương từ nay không gọi Việt cộng nữa mà là “quân Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam”, gọi Nguyễn Hữu Thọ là Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ và Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam. Để tránh phản ứng điên cuồng của những phần tử chống cộng quá khích, khi giải thích lý do về những sửa đổi này, tôi đã nói rằng vì chính phủ Dương Văn Minh chủ trương hoà bình nên nhất thiết phải dùng chính danh khi nói về bên kia.
Giữa phiên họp, Lưu Trường Khương đến sau lưng tôi hỏi nhỏ vào tai “Ông ở lại hay đi?”. Tôi quay đầu lại trả lời Khương: “Mình ở lại”. Khương nói tiếp: “Dứt khoát như thế nhé. Mình cũng sẽ không đến chỗ hẹn của Mỹ để được bốc đi vào lúc 15 giờ. Mình cũng ở lại”. Địa điểm mà Khương được “bốc” đi là địa điểm dành riêng cho các nhân viên tình báo.
Trước đó ba hôm (26-4-1975) từ Dinh Hoa Lan về nhà, tôi được Quỳnh Nga, vợ tôi, cho biết anh chàng thanh niên người Mỹ được tôi thuê dạy Anh văn tại nhà mới hai tháng qua (được anh Dương Văn Ba giới thiệu) có mang đến nhà một giấy giới thiệu của người Mỹ dành cho bảy người trong gia đình tôi đi tản cư bằng phương tiện máy bay. Bảy người là đúng nhân số của gia đình tôi: Hai vợ chồng và năm đứa con. Vợ tôi nhờ anh Nguyễn Hữu Thái (đang lánh nạn trong nhà tôi) phiên dịch lại với anh thanh niên Mỹ là gia đình tôi không có ý định di tản. Vợ tôi kể lại: “Em nói cảm ơn anh ta và đã trả lại tờ giấy. Em bảo chồng tôi không có ý định rời quê hương”. Tôi rất tán đồng quyết định của vợ. Về anh chàng thanh niên Mỹ này, có dịp đọc bản thảo hồi ký của anh Dương Văn Ba, tôi mới nhớ lại tên anh là Peter Porr đến dạy anh văn cho anh Ba qua sự giới thiệu của nhà báo Mỹ phản chiến John Spragens. Peter Porr là giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn. Tòa đại sứ Mỹ có chủ trương ưu tiên di tản người Mỹ và tiếp đó là những viên chức cao cấp của chính quyền Sài Gòn cùng những người đã hợp tác với họ trong ngành tình báo và các cơ quan của họ tại miền Nam. Ở mỗi khu vực, họ đều giao cho một người của họ lập danh sách và tập hợp để đưa ra sân bay tránh những cản trở của giới chức trách và an ninh của chính quyền Sài Gòn. Có lẽ Peter Porr được giao lôi kéo một số nhân vật chung quanh ông Dương Văn Minh. Với hai trường hợp mà tôi được biết (anh Ba và tôi) thì Peter Porr đều thất bại!
Sau 30-4-1975 Lưu Trường Khương đi học tập cải tạo. Lúc này vì hoàn cảnh tôi không giúp được gì cho Khương. Nghe đâu Khương vẫn lạc quan, sau đó thì có tin anh qua đời vì đau ruột thừa nhưng không được phát hiện kịp thời...
...Trở lại ngày 29-4-1975, sau phiên họp tại văn phòng bộ, tôi đến đài truyền hình cố gắng thuyết phục đồng bào không tiếp tục di tản ồ ạt. Theo yêu cầu của tôi, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm người vừa được tân tổng giám đốc cảnh sát Triệu Quốc Mạnh (cũng là một đảng viên cộng sản nhưng lúc ấy chưa lộ) trả tự do theo lệnh ông Minh cũng có mặt tại đài truyền hình. Khi chúng tôi đến đài, tổng giám đốc phát thanh và truyền hình Lê Vĩnh Hòa và nghệ sĩ Trần Văn Trạch đón tôi. Hình như lúc này anh Trạch phụ trách phần văn nghệ của đài truyền hình Sài Gòn. Đây là lần cuối cùng tôi gặp anh Trạch, người mà tôi rất mến mộ tài năng. Anh đã từng mang truyền đơn bươm bướm cổ động bầu cử Hạ nghị viện của tôi phân phát cho các cư tri khi tôi ra ứng cử dân biểu lần thứ ba (1971). Anh nổi tiếng với giọng hát nhại theo các danh ca quốc tế như Tino Rossi, Maurice Chevalier... Đặc biệt anh Trạch nhại được cả âm thanh của các cuộc đua ô tô Công thức 1 như những buổi tường thuật trực tiếp trên các đài phát thanh nước ngoài. Đời sống riêng của anh khá chật vật, do đó không có điều kiện để phát huy sở trường của anh thật đúng mức.
Bài nói của tôi trên truyền hình không được viết sẵn nên nội dung cũng không được tổng thống Dương Văn Minh hay thủ tướng Vũ Văn Mẫu duyệt. Tôi được tổng thống Dương Văn Minh dành cho một quyền hạn khá rộng rãi và một sự tin cậy cao. Bởi tôi cũng là một trong những người góp phần hình thành lập trường chung của nhóm ông Minh, nên ông Minh và ông Mẫu tin chắc tôi nắm rõ quan điểm của nhóm trong phát biểu của mình.
Trong bài nói trên truyền hình, trước hết tôi khẳng định chính phủ Dương Văn Minh là một chính phủ chủ trương hoà bình. Những ngày sắp tới chắc chắn không có tắm máu như những lời đồn đại vì rằng chính phủ Dương Văn Minh dứt khoát sẽ không đối đầu quân sự với quân giải phóng: “Bà con hãy ở lại. Mồ mả ông bà của ta ở đây, quê hương của ta ở đây”. Những lời kêu gọi này, tôi nói gần như trong nước mắt.
Để làm tăng sự sợ hãi trong dân chúng, thúc đẩy người dân miền Nam ra đi ồ ạt, ngày 16-4-1975, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Schlesinger nói với quốc hội Mỹ rằng nếu cộng sản chiến thắng sẽ có 200.000 người Việt Nam bị giết. Ngày 18-4-1975, người phát ngôn của Lầu Năm Góc, đại tá Robert Burke, tuyên bố rằng qua các báo cáo mật mà ông ta có, ở những vùng do cộng sản mới chiếm đã xảy ra nhiều vụ trả thù đẫm máu; một số chi tiết của những vụ trả thù này thật “ghê rợn” (horrifying). Còn tờ báo quân đội Mỹ phát hành ở khu vực Thái Bình Dương “Stars and Stripes” có bài báo với cái tít lớn “Ít nhất một triệu người Việt sẽ bị tàn sát”. Tôi nhớ lại lời kể của phóng viên ảnh của AP, Carl Robinson, rằng tòa đại sứ Mỹ có chủ trương tung những tin thất thiệt để gây hoảng loạn trong dân chúng Việt Nam trước sự tiến quân của quân giải phóng và thúc đẩy một cuộc di tản ồ ạt. Đặc phái viên của tờ Der Spiegel (Đức), Tiziano Terzani kể rằng ông nhận được một tin khẳng định một linh mục công giáo tại Ban Mê Thuột di tản không kịp bị cộng sản chặt làm ba khúc! Nhưng chỉ ít ngày sau chính vị linh mục này có mặt tại Sài Gòn “người ông vẫn nguyên vẹn”. Ở Ban Mê Thuột cũng có tin có 300 người bị cộng sản giết nhưng sau đó Tiziano Terzani xác nhận được rằng số người này chết vì bom do máy bay quân đội Sài Gòn thả xuống theo lệnh của tổng thống Thiệu khi thành phố được cộng sản giải phóng (Saigon 1975 – Tiziano Terzani). Tung tin như thế để thúc đẩy người dân miền Nam ồ ạt rời bỏ quê hương mình, hàng ngàn người đã bỏ xác ngoài biển là một tội ác lớn.
...Tôi không hề có một thông tin nào về thái độ cuối cùng của quân giải phóng – đánh hay không đánh vào Sài Gòn – nhưng trong bài nói chuyện của tôi với dân chúng Sài Gòn trên truyền hình ngày 29-4-1975, tôi vẫn mạnh dạn cam đoan rằng sẽ không có trận đánh đẫm máu cuối cùng như cả Sài Gòn đang lo sợ. Tại sao? Lúc đó chỉ bằng suy đoán, căn cứ vào những phân tích và đánh giá chủ quan của tôi về lập trường của người cộng sản qua hai cuộc chiến mà họ tiến hành chống Pháp và chống Mỹ - đều là cuộc chiến yêu nước – tôi tin như đinh đóng cột rằng nếu quân đội Sài Gòn không tiếp tục đối đầu và nổ súng thì quân giải phóng cũng không bao giờ đánh vào Sài Gòn. Do đó sẽ không bao giờ có cuộc “tắm máu” như đã được loan truyền trong những ngày qua từ toà đại sứ Mỹ khiến cho người dân miền Nam ùn ùn tìm mọi cách để ra đi.
Trước khi kết thúc bài nói chuyện trên truyền hình, tôi mời anh Huỳnh Tấn Mẫm xuất hiện bên cạnh tôi và giới thiệu: “Đây, sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm bằng xương bằng thịt, vừa được trả tự do, đúng như lời hứa của chính phủ Dương Văn Minh trả tự do cho tất cả những người tù chính trị”. Cho đến lúc này anh Huỳnh Tấn Mẫm vẫn tiếp tục đóng vai một thanh niên trí thức hoạt động chống Thiệu tại Sài Gòn chứ không phải một đảng viên cộng sản hoạt động trong hàng ngũ của MTDTGPMN. Như đã nói chính quyền Thiệu nhiều lần toan tính trao trả anh Mẫm cho MTDTGPMN tại Lộc Ninh (để chứng minh anh là một người cộng sản) nhưng anh Mẫm luôn từ chối và đòi được trả tự do tại Sài Gòn.
Một cựu dân biểu có kể rằng vào những ngày giữa tháng 3-1975 sau khi Ban Mê Thuột thất thủ và cả Vùng 2 chiến thuật lần lượt tháo chạy, tướng Nguyễn Cao Kỳ đề nghị có cuộc tiếp xúc với tướng Dương Văn Minh. Tướng Minh đồng ý tiếp. Trong cuộc gặp này, tướng Kỳ đề nghị hợp tác với tướng Minh trong nỗ lực ngăn chặn làn sóng tiến công của cộng sản. Tướng Kỳ đưa ra giải pháp quân sự: lấy Cần Thơ làm thủ đô, gom tất cả lực lượng hải quân, không quân và bộ binh làm vành đai bảo vệ phần đất còn lại từ bến phà Cần Thơ trở về phía dưới miền Tây như Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Châu Đốc, Long Xuyên, Trà Vinh, Rạch Giá... Nhưng kế hoạch này không được ông Minh chấp nhận.
Tháng 2-2002 khi cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ trở về quê hương lần đầu sau 1975, tôi có gặp lại ông. Trong một buổi cơm trưa, tôi hỏi ông Kỳ trong những ngày cuối cùng trước khi quân giải phóng vào Sài Gòn ông có gặp ông Minh để bàn về cuộc hợp tác không thì ông Kỳ cho biết không có cuộc gặp đó. Ông nói với tôi: ‘‘Tối 27-4-1975, tôi có điện tôi có điện thoại cho tùy viên quân sự của ông Minh là Đại tá Trương Minh Đẩu để yêu cầu gặp ông Minh bàn về sự hợp tác trong cuộc đối đầu với sự tiến quân của cộng sản. Đại tá Đẩu báo cáo với ông Minh và trả lời với tôi rằng ông Minh đang bận họp, sẽ gọi điện lại. Sáng 28-4-1975, đại tá Đẩu báo rằng ông Minh sẵn sàng tiếp tôi tại Dinh Độc Lập. Lúc đó tại nhà tôi có tướng Nguyễn Bảo Trị và một số bạn bè khác. Anh em khuyên tôi không đi vì đã quá muộn để có thể làm gì. Như thế vào những ngày cuối cùng, tôi không hề gặp ông Minh’‘. Cũng về những sự kiện xảy ra vào thời điểm tháng 4-1975, ông Kỳ còn kể rằng, trước đó khi ông Trần Văn Hương vừa lên thay ông Thiệu rút khỏi cương vị tổng thống, ông có tự động đi gặp quyền tổng thống Hương và đề nghị với ông Hương là ông sẵn sàng đứng đầu quân đội để chỉ huy cuộc chiến “ngăn chặn cộng sản”. “Ông Hương khéo léo từ chối bằng cách bảo rằng trước đây tôi là phó tổng thống mà bây giờ bổ nhiệm tôi làm tổng tham mưu trưởng thì... coi không được. Ý ông nói chức vụ này nhỏ hơn. Cho ông suy nghĩ thêm vài ngày. Tôi liền bảo trong vài ngày nữa miền Nam đâu còn nữa để cụ và tôi còn gặp nhau!”. Câu chuyện giữa ông Kỳ và ông Hương chưa hết ở đây. Ông Kỳ kể tiếp “Anh có biết không, cái ông già đó thật hết nói. Sau khi ổng bị quốc hội truất quyền và trao cái ghế tổng thống cho ông Minh thì chính ông lại điện thoại cho tôi và nói với tôi: bây giờ anh muốn làm gì cứ làm. Có nghĩa là ông già Hương xúi tôi đảo chính!”.
...Chiều 28-4-1975 vào lúc 16 giờ 45 buổi lễ bàn giao giữa quyền tổng thống Trần Văn Hương và tân tổng thống Dương Văn Minh diễn ra tại dinh Độc Lập. Thật sự ông Minh không bao giờ muốn có một buổi bàn giao như thế này. Ông vẫn từ chối trở thành người kế tục tổng thống Nguyễn Văn Thiệu theo hiến pháp của Đệ nhị Cộng hoà mà ông hoàn toàn phủ nhận giá trị của nó. Ông Minh muốn mình nhận một sự uỷ quyền khác của người dân miền Nam, có một nền tảng tín nhiệm của quần chúng thực sự. Nhưng bối cảnh lịch sử bấy giờ không cho ông có một chọn lựa nào khác. Ông Minh và những người cộng sự gần gũi với ông tự đặt cho mình một nhiệm vụ lịch sử cần kíp hơn, hệ trọng hơn: Bằng mọi giá truất quyền tiếp tục chiến tranh đang còn trong tay của phe Thiệu - để tránh xảy ra trận cuối cùng đổ máu làm hoang tàn Sài Gòn. Bởi ông Trần Văn Hương thay tổng thống Thiệu vẫn tuyên bố “quyết tiếp tục chiến đấu để giữ đến tấc đất cuối cùng”.
Tại Dinh Độc Lập, đọc xong bài diễn văn giao quyền của mình, quyền tổng thống Hương bắt tay ông Minh – tân tổng thống – và nói: “Nhiệm vụ của Đại tướng rất nặng nề”. Câu nói chứa đựng sự mỉa mai và cả sự hoài nghi của ông Hương về khả năng ông Minh tìm một giải pháp thương thuyết hoà bình cho miền Nam. Khi tân tổng thống Dương Văn Minh vừa bắt đầu đọc bài diễn văn nhậm chức của mình thì sét đánh ầm ầm, một trận mưa to chưa từng có trong nhiều năm ập xuống Sài Gòn. Thậm chí quan khách dự lễ không nghe được ông Minh nói gì. Nhiều người cho đó là một điểm gở cho tân chính phủ. Tôi không ngồi ở những hàng ghế dành cho các nhân vật chính phủ hay dân biểu nghị sĩ. Tôi đứng ở một góc cuối phòng gần chỗ dành cho các nhà báo nước ngoài. Cái không khí chung của buổi lễ nhậm chức thật buồn não. Nhiều người đã thấy trước sự vô ích của buổi lễ này. Một tân tổng thống chẳng có quân đội, lực lượng, chẳng còn đất đai. Một tổng thống của Sài Gòn thì đúng nghĩa hơn là một tổng thống của miền Nam. Và cái chức vụ ấy gần như trống rỗng.
Diễn văn nhậm chức tổng thống của ông Dương Văn Minh rõ ràng đã phản ánh lại hai áp lực mà ông không thể không tính đến: Một mặt quân đội VNCH vẫn còn đó, và dù hiện rất xơ xác, nhưng vẫn còn điều kiện để phản ứng điên rồ nếu họ thấy mình bị “phản bội”; mặt khác tân tổng thống Dương Văn Minh phải chứng minh được với “phía bên kia” đây là một chính phủ không có mục đích đeo đuổi chiến tranh, mong muốn được thương thuyết hoà bình. Kết quả bài diễn văn nửa vời ấy bị coi là nhợt nhạt, không tạo ra được một lực đẩy mới mạnh mẽ và dứt khoát hướng tới con đường chấm dứt chiến tranh.
Thật khó cho chính phủ Dương Văn Minh vào thời điểm này nghiêng hẳn lập trường bắt tay với quân giải phóng. Những đồn đãi về một cuộc đảo chánh từ các phe chống cộng râm ran khắp nơi. Nhất là từ phía lực lượng không quân thuộc ảnh hưởng của tướng Nguyễn Cao Kỳ. Từ khi quốc hội biểu quyết cử ông Minh thay ông Hương, lực lượng không quân ở Tân Sơn Nhất đã đóng cổng, chối từ nhận lệnh điều động của tổng thống Minh!
Khi ông Minh và đoàn tuỳ tùng vừa từ Dinh Độc Lập trở về Dinh Hoa Lan thì nghe vang lên những tiếng nổ làm rung chuyển cả Sài Gòn. Các loại súng ở Dinh Độc Lập và Hải quân ở bến Bạch Đằng bắn lên như điên nhưng chẳng biết bắn vào mục tiêu cụ thể nào. Lúc đó tôi đang ở tại văn phòng báo chí của ông Minh nằm ở cổng sau Dinh Hoa Lan, cùng một số anh em khác. Mọi người đều chui xuống bàn. Chưa kịp trao đổi với nhau, nhưng tất cả đều nghĩ phe Kỳ đảo chính. Có người còn đặt ra giả thuyết: có khả năng Kỳ dội bom xuống Dinh Hoa Lan. Liền đó, trung tướng Mai Hữu Xuân, người thân tín của ông Minh ra lệnh anh em rời Dinh Hoa Lan. Tôi cùng ông Minh, bà Minh và một số người di chuyển đến một biệt thự nằm trên đường Phùng Khắc Khoan, cách Dinh Hoa Lan 500 mét đường chim bay và chỉ cách tư dinh của đại sứ Mỹ Graham Martin khoảng 100 mét. Nhà này hình như của một tư sản gốc Hoa, bạn của tướng Mai Hữu Xuân. Tại đây tướng Xuân mới được báo cáo: các tiếng nổ là do máy bay Việt cộng oanh kích xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Có tất cả năm chiếc A-37s – mà quân giải phóng mới chiếm được - xuất phát từ Nha Trang đã tham gia cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của trung uý phi công Nguyễn Thành Trung. Đây là cuộc tấn công thứ hai của Nguyễn Thành Trung từ khi ông rời quân đội Sài Gòn vào vùng giải phóng (tin tức sau này cho biết ông Trung là đảng viên cộng sản nằm vùng từ lâu được cài trong binh chủng không quân Sài Gòn). Trong số phi công dội bom sân bay Tân Sơn Nhất, chỉ có Nguyễn Thành Trung là thông thạo loại chiến đấu cơ của Mỹ. Bốn phi công còn lại trước đó chỉ lái Mig. Điều này khiến cho giới quân sự Sài Gòn và Mỹ kinh ngạc. Mặt khác vì ở trại Davis vẫn còn phái đoàn quân sự của MTDTGPMN nên giới quân sự Sài Gòn vẫn nghĩ rằng quân giải phóng không dám cho máy bay oanh tạc khu vực này.
Tướng Xuân cho điều động một số xe tăng đến bảo vệ Dinh Hoa Lan. Các liên lạc với căn cứ không quân ở Tân Sơn Nhất vẫn không thực hiện được. Khoảng hơn 10 giờ đêm, ông Minh và đoàn tùy tùng trở về Dinh Hoa Lan.
Tôi không biết Đô đốc Chung Tấn Cang, tư lệnh Hải quân, vào Dinh Hoa Lan tối 28-4-1975 gặp ông Dương Văn Minh nói gì về quyết định ra đi của ông. Nhưng sau đó trong giới thân cận của ông Minh hay tin ông Minh đã chấp nhận cho con rể của mình là đại tá Đài đưa con gái và hai cháu ngoại của ông lên tàu hải quân cùng đi di tản với Đô đốc Chung Tấn Cang. Vào lúc này có lẽ ông Minh đã biết chuyện thương thuyết với quân giải phóng là vô vọng. Các tin tức từ đại sứ Pháp Jean Marie Merillon và cố vấn chính trị Pierre Brochand không có sự tiến triển nào cả. Vai trò trung gian của Pháp cho một giải pháp chính trị mà lúc đầu họ rất tự tin cuối cùng trở nên vô vọng.
Sau này đọc quyển sách Cruel April của Olivier Todd, tôi ngạc nhiên vô cùng được biết trong lần gặp ông Minh cuối cùng tại Dinh Hoa Lan, đi theo Chung Tấn Cang còn có hai sứ giả của ông Trần Văn Hựu, cựu thủ tướng thời Bảo Đại. Hai sứ giả này là Lê Quốc Tuý và Mai Văn Hạnh. Họ đề nghị ông Minh mời ông Hựu về làm thủ tướng “vì Hà Nội và Chính phủ Cách Mạng lâm thời tán đồng vai trò của ông Hựu”. Nhưng ông Minh đã dất khoát từ chối những gợi ý của hai người này. Tôi không biết rõ điều tiết lộ của Olivier Todd có đúng sự thật hay không. Trong giới thân cận của ông Minh, mãi cho đến sau này, không ai nhắc đến sự kiện này.
Cũng trong ngày 28-4-1975, cựu dân biểu Ngô Công Đức từ Paris về đến Bangkok cũng có liên lạc với ông Dương Văn Minh qua trung gian của dân biểu Hồ Ngọc Nhuận. Nhắc lại: Đức rời khỏi Sài Gòn tháng 8-1971 sau khi thất bại trong nỗ lực tái cử của mình vì bị chính quyền Thiệu gian lận. Ngô Công Đức dự định trở về Sài Gòn nhưng từ ngày 26-4-1975 máy bay dân sự không còn được phép đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất. Đức đã phải quay lại Bangkok. Trong cuộc điện đàm với ông Dương Văn Minh, anh Đức nói rằng đến lúc này không có giải pháp chính trị cho sự kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ông Minh hỏi anh Đức: “Toa thấy không còn cách nào à ?”. Anh Đức trả lời: “Thưa Đại tướng, theo tôi không có cách nào!”. Gặp Đức sau 1975, tôi có hỏi anh sự khẳng định đó anh có từ đâu. Đức nói theo nhận định riêng của anh qua các tiếp xúc chứ không là tin chính thức từ đâu cả.
Ông Minh nhận trách nhiệm trước lịch sử ở lại đóng nốt vai trò của mình bất kể sự việc kết thúc sẽ ra sao. Sự ra đi của con gái và hai cháu ngoại giúp cho ông nhẹ bớt âu lo chuyện riêng tư. Bà Dương Văn Minh thì vẫn ở lại bên chồng.
Mãi đến 12 giớ đêm tôi mới về đến nhà ở đường Nguyễn Tri Phương. Vợ tôi chưa ngủ, vẫn thức chờ tôi. Năm đứa con đã ngủ. Đứa lớn nhất Lý Quí Hùng 13 tuổi, kế đó Lý Quí Dũng 11, Lý Quí Trung 9 tuổi, Lý Quỳnh Kim Trinh – con gái duy nhất – 7 tuổi và Lý Quí Chánh nhỏ nhất mới 5 tuổi. Trong giấc ngủ, chúng như những thiên thần. Trong đầu tôi bỗng lóe lên một ý nghĩ: chiếc thuyền tôi đang lèo lái chở khẳm quá, trong khi biển đang sóng to gió lớn, chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Nước mắt như chực trào ra. Không biết tại sao. Nhưng tôi kịp ngăn lại. Thay quần áo xong, tôi để một băng nhạc Trịnh Công Sơn vào máy AKAI, bật lên và nằm dài trên thảm. Nhiều lần tôi đã làm như thế sau một ngày chống Thiệu gay go. Với tôi, nhạc Trịnh Công Sơn luôn là một liệu pháp tinh thần kỳ diệu.
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng...
Em chưa biết quê hương thanh bình
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
...
(“Người con gái Việt Nam”, Ca khúc da vàng)
Cha mẹ tôi chưa biết quê hương thanh bình. Tôi cũng chưa biết quê hương thanh bình một ngày nào. Hy vọng thanh bình ấy sẽ đến với các con tôi chăng? Mây đen đang vần vũ trên bầu trời nhưng ánh sáng tươi đẹp đang ló dạng? Tôi thiếp ngủ lúc nào không biết...
Bộ mặt của Sài Gòn sáng 29-4-1975 khác hẳn ngày hôm trước. Đó là những dấu hiệu đầu tiên của hoảng loạn. Từ nhà riêng ở đường Nguyễn Tri Phương ra Dinh Hoa Lan, ô tô của tôi được hai chiếc xe Jeep của cảnh sát bảo vệ. Một chiếc chạy phía trước và một chiếc chạy bọc sau.
Trước khi bước lên xe, tôi nhận ra sự hiện diện của bốn viên cảnh sát đã từng theo dõi tôi đứng trong tư thế sẵn sàng bên chiếc xe đi theo bảo vệ. Khi ông Thiệu bỏ chạy ra nước ngoài, bốn viên cảnh sát này liền liên hệ với những người bảo vệ tôi và ngỏ ý nhập vào toán cận vệ của tôi nếu ông Minh trở thành tổng thống. Và tôi đã chấp nhận. Họ và tôi chẳng có gì để hận thù nhau. Họ chỉ làm phận sự do cấp trên giao.
Đoàn xe của tôi vừa ra đến đường Trần Quốc Toản (nay là đường Ba Tháng Hai) thì chứng kiến một vụ lính thuỷ quân lúc chiến cướp xe gắn máy của một người đàn ông. Cận vệ của tôi - Nguyễn Văn Bé – cho biết tối hôm qua tại thành phố đã xảy ra một số vụ binh lính đào ngũ dùng súng cướp nhiều tiệm vàng và cửa hàng. Trên đường đến Dinh Hoa Lan, tôi không thấy một bóng dáng nào của cảnh sát giữ trật tự và an ninh ở các ngã đường. Trong đầu tôi hiện lên những cảnh cướp bóc mà thành phố Đà Nẵng đã trải qua trước khi quân giải phóng có mặt. Tôi nghĩ: “Làm sao tránh cho Sài Gòn tai hoạ này?”.
Tổng giám đốc cảnh sát là trung tướng Nguyễn Khắc Bình đã bỏ chạy, chỉ còn phó tổng giám đốc là thẩm phán Phạm Kim Qui. Tối 28-4-1975, theo lệnh của tổng thống Minh, anh Dương Văn Ba điện thoại cho ông Qui yêu cầu cho ông ta bằng tất cả khả năng còn lại của Tổng nha cảnh sát cố gắng giữ trật tự trị an, đừng để xảy ra cướp bóc, nhất là vào ban đêm. Phạm Kim Qui cho biết ông ta còn có thể điều động được một sư đoàn cảnh sát dã chiến và sẽ cố gắng thực hiện chỉ thị của tổng thống Minh. Ngày 28-4-1975, theo yêu cầu của tôi, anh Ba (lúc này là thứ trưởng bộ Thông tin) cũng đã liên hệ với Phạm Kim Qui điều động một đại đội cảnh sát dã chiến bảo vệ an ninh khu vực Bộ Thông tin. Điều đáng nói là lúc này chúng tôi, sợ binh lính VNCH đào ngũ làm bậy hơn là sợ Việt cộng tấn công!
Khi tôi đến Dinh Hoa Lan trong phòng khách chỉ có ông Minh và vợ tôi (đã ra đây bằng ô tô riêng chờ tôi). Ông Minh hỏi tôi tình hình bên ngoài như thế nào? Tôi tường thuật cho ông Minh nghe vụ cướp trên đường Trần Quốc Toản và không khí trên phố, kể cả những gì được anh cảnh sát cận vệ kể lại. Tiếp theo đó, tôi thẳng thắn bày tỏ suy nghĩ của mình:
“Thưa đại tướng (trong sự thân mật, tôi và những người thân cận vẫn gọi ông Minh là đại tướng dù ông đã là tổng thống) tôi thấy tình hình rất nguy ngập, nhất là đối với dân thường. Không còn ai bảo vệ trật tự an ninh của thành phố. Sài Gòn hiện giờ là một thành phố không còn luật pháp. Tôi lo ngại Sài Gòn sẽ bị cướp bóc và hỗn loạn như ở Đà Nẵng mà mình thì bó tay. Thưa Đại Tướng, tôi nghĩ mình nên tuyên bố “Sài Gòn bỏ ngỏ” – ville ouverte – và để quân giải phóng kiểm soát và bảo vệ an ninh cho thành phố. Chỉ có cách đó là tránh cho Sài Gòn khỏi hỗn loạn...”
Liền đó tôi đưa thêm một ý kiến: Không nên công bố việc chuyển giao quyền hành cho quân giải phóng ngay vì như thế Sài Gòn sẽ trải qua một đêm vô chính phủ cực kỳ nguy hiểm. Tôi đề nghị sáng mai hãy công bố. Quyết định này sẽ được giữ kín trong một số rất ít người.
Sáng hôm sau các thành viên của tân nội các vẫn tụ tập tại phủ thủ tướng ở đại lộ Thống Nhất (nay là đường Lê Duẩn) chờ dự lễ gia mắt. Nhiều người thân cận ông Minh, trong chiều 29-4-1975, cũng chưa hay quyết định này, ngoại trừ thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Hình như phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền cũng không được thông báo.
Quyết định của ông Minh có thể không xuất phát hoàn toàn từ đề xuất của tôi. Một số vị khác có thể cũng có đề xuất như vậy. Ý nghĩ ấy có lẽ cũng đã ở sẵn trong đầu của ông Minh trước đó. Những tin tức bế tắc từ sứ quán Pháp, cuộc trao đổi với anh Ngô Công Đức từ Paris... chắc chắn đã có ảnh hưởng vào suy nghĩ của ông. Hơn nữa ông Minh là một nhà quân sự nên cũng rất hiểu tình hình lúc đó là như thế nào.
Sau khi quyết định, ông Minh liền giao việc soạn thảo bản tuyên bố cho bác sĩ Hồ Văn Minh. Tôi không biết sau đó bác sĩ Hồ Văn Minh có nhận lời không, và có thêm ai khác tham gia soạn thảo bản tuyên bố này không.
Chiều tối, trung tướng Vĩnh Lộc - tổng tham mưu trưởng – cùng chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh (từ lâu đã đứng về phía cách mạng, là cơ sở của Ban binh vận miền Nam) – lúc này là phụ tá tổng tham mưu trưởng vào Dinh Hoa Lan thuyết trình lần cuối tình hình quân sự và an ninh quanh khu vực Sài Gòn. Cuộc thuyết trình càng khẳng định tình thế hoàn toàn tuyệt vọng đối với quân đội VNCH.
Sau khi hai tướng lĩnh này ra về, tôi đề xuất với ông Minh nên vào Dinh Độc Lập ngủ đêm nay. Vừa nghe đề nghị của tôi, ông Minh đã cực lực phản đối: “Tôi không bao giờ vào Dinh Độc Lập dù có tồn tại trên cái ghế tổng thống. Tôi đã nói điều đó với anh em rồi”. Đúng là trong khi đấu tranh giành chính quyền, ông Minh đã từng nói với những cộng sự viên thân tín của mình rằng dù ông có trở thành tổng thống ông cũng không vào trong Dinh Độc Lập, mà vẫn tiếp tục ở Dinh Hoa Lan của mình. Nhưng ông có nói với tôi: “Mình sẽ vào đó đánh quần vợt” (Phía sau Dinh Độc Lập có hai sân quần vợt giành cho ông Thiệu và bạn bè thân tín của ông). Cách ông Minh nói “Mình sẽ vào đó đánh quần vợt” có thể được hiểu quyết tâm của ông Minh hạ bệ tổng thống Thiệu.
Tôi phải giải thích rõ hơn ý kiến của mình: “Thưa đại tướng, ở lại đây đêm nay rất nguy hiểm cho tính mạng của đại tướng. Chỉ một quả pháo kích không biết từ đâu đến rơi vào đây là chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Sáng mai sẽ không ai có đủ thẩm quyền tuyên bố ngừng bắn và chuyển giao quyền cho quân giải phóng. Vì quyền lợi chung, tôi nghĩ đại tướng nên vào Dinh Độc Lập đêm nay. Ở đó có tầng hầm chống lại các cuộc pháo kích và ném bom”.
Sau một phút suy nghĩ, ông đồng ý vào Dinh Độc Lập. Lúc đó khoảng 9 giờ tối.
Từ Dinh Hoa Lan, ra cổng trước, đi theo đường Hồng Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai), đến đường Công Lý (nay là đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa) rẽ trái là đến cổng chính vào Dinh Độc Lập. Đường đi chưa đến một ngàn mét. Trong Dinh Hoa Lan có hai chiếc ô tô đều được dùng cho cuộc di chuyển này. Ngoài ra cũng có một số xe khác đậu ở cổng sau. Vợ chồng tôi đi xe chung với ông bà Dương Văn Minh. Vì có khá đông người, trong đó có cả gia đình của một số dân biểu nghị sĩ, nên không đủ xe đi. Một số phải đi bộ. Đoàn người, vừa đi xe vừa đi bộ, kéo dài trên đường đến Dinh Độc Lập.
Vào đến Dinh Độc Lập đoàn người chia nhau tìm chỗ ngủ qua đêm. Dinh quá lớn, đủ chỗ cho mọi người. Dĩ nhiên phải sử dụng cả những phòng làm việc. Đầu tiên ông Minh và các cộng sự thân cận của ông được đi xem tầng hầm, nơi đây ông Thiệu dùng để đối phó với các cuộc đảo chính bất ngờ, có thể an toàn tiếp tục chỉ huy cuộc phản công. Phòng trú ẩn rất rộng, trang bị đầy đủ hệ thống truyền tin và liên lạc vô tuyến với đủ loại bản đồ quân sự của Sài Gòn và cả miền Nam.
Khi sĩ quan trong dinh hướng dẫn ông bà Dương Văn Minh đến phòng ngủ của ông bà Thiệu trước đây ở tầng hai, chúng tôi đi qua hành lang phía sau dinh, từ đây, xuyên qua hàng cây sao, ông Minh và tôi nhìn thấy sân quần vợt. Tôi còn nhớ câu nói đùa của ông trước đó: “Mình vào đây rồi và nhìn thấy nó nhưng mình sẽ không có cơ hội cầm vợt bước ra sân”.
Ông bà Minh mời vợ chồng tôi và vợ chồng dân biểu Nguyễn Hữu Chung vào ở chung phòng. Phòng ngủ của ông bà Thiệu khi chúng tôi đến đã trống trơn! Trên thảm, trước giường ngủ chỉ còn bộ da cọp nằm đó trơ trọi. Trong phòng tắm không có một cục xà bông nào. Nhớ sực hồi chiều chưa dùng cơm, tôi hỏi viên sĩ quan trong dinh có gì để ăn không. Viên sĩ quan này bối rối trả lời rằng không còn gì cả dù chỉ là một miếng bánh mì và thịt nguội!
Ông Minh nhìn xuống bãi cỏ trước dinh, thấy hai chiếc trực thăng dành riêng cho tổng thống vẫn nằm yên đó. Ông quay vào bảo người tuỳ viên quân sự là thiếu tá Hoa Hải Đường hỏi xem hai viên phi công trực thăng còn có mặt ở đây không, nếu còn, mời họ đến gặp ông. Một lúc sau, hai viên phi công trình diện ông Minh. Đó là trung tá Nguyễn Văn Minh và đại uý Tạ Duy Báo. Trung tá Minh từng học chung với Hoàng Đức Nhã ở trường trung học Pháp Lycée Yersin Đà Lạt. Tôi cũng quen biết Minh khi học trường Yersin. Minh học trên tôi hai lớp. Có lẽ anh được Nhã gọi về phụ trách đội bay trực thăng của ông Thiệu là do mối thân tình bạn bè ở Yersin. Còn Tạ Duy Báo, tuy là phi công nhưng thường có mặt trên sân quần vợt nhiều hơn. Anh là đấu thủ số một của Xẹc Tây. Anh còn được xếp hạng vào một trong năm cây vợt mạnh nhất của miền Nam, đứng sau Võ Văn Bảy, Võ Văn Thành, Lý Aline, Dương Văn Minh (trùng tên với Đại tướng Dương Văn Minh). Anh Báu có cú đánh rờve (trái tay) hồi mã thương rất mạnh và bất ngờ. Hoàng Đức Nhã quen biết Báu trên sân tennis và rút anh về bổ sung ê kíp lái trực thăng cho người anh bà con mình ở Dinh Độc Lập.
Ông Minh hỏi hai viên phi công: “Trực thăng có đủ nhiên liệu bay ra Đệ thất hạm đội hay không?” Hai viên sĩ quan nghĩ tổng thống Minh và đoàn tuỳ tùng định ra đi, liền báo cáo “đủ và an toàn”. Ông Minh chuyển sang hỏi thăm gia cảnh của hai người. Trung tá Minh than phiền cách đối xử của ông Thiệu đối với các nhân viên thuộc cấp như anh. Khi ông Thiệu ra đi ông chẳng có một quan tâm gì về những người đã từng sát cánh với ông và bảo đảm mạng sống của ông trong thời gian dài. Ông Dương Văn Minh đã gặp và có dịp chơi bóng với Tạ Duy Báu một đôi lần. Báu còn rất trẻ, lúc đó chỉ khoảng 26-27 tuổi. Anh chẳng nói gì cả, chắc trong đầu anh lúc này chỉ nghĩ về gia đình, âu lo không biết có chạy kịp trước khi cộng sản vào Sài Gòn. Ông Minh đột ngột nói với hai viên phi công “Tôi không đi đâu. Tôi cho phép anh em ai muốn đi cứ sử dụng cả hai chiếc trực thăng”.
Trung tá Minh nói ngay anh không đi, chỉ có Báu đi. Hai chiếc trực thăng đã rời khỏi Dinh Độc Lập khi trời còn tối để tránh phản ứng của binh lính đang còn bảo vệ dinh. Tôi không biết mỗi chiếc mang theo bao nhiêu người.
...Trong phòng ngủ của ông Thiệu chỉ có một cái giường – dành cho ông bà Minh. Tôi không biết ông bà có chợp mắt được hay không. Vợ chồng tôi và vợ chồng Nguyễn Hữu Chung ngả lưng trên sàn có trải thảm cạnh đó. Vợ tôi và vợ Chung Nguyễn rì rầm nói chuyện với nhau cả đêm.
Chỗ Chung Nguyễn và tôi nằm, nhìn thẳng ra đại lộ Thống Nhất. Trước mắt chúng tôi là quang cảnh máy bay trực thăng liên tục đáp xuống sân thượng tòa đại sứ Mỹ bốc người đưa ra Đệ thất hạm đội, tạo nên một vầng sáng kỳ lạ, nhìn từ xa như một đám cháy lớn. Thật khó tả tâm trạng của tôi trước quang cảnh này. Tôi tưởng như những người được bốc đi là những người thân của mình, vĩnh viễn không bao giờ được gặp lại. Có cái gì trì nặng trong lồng ngực. Nước mắt ứa ra lúc nào không hay. Đúng lúc đó tôi bỗng nghe Chung Nguyễn nói nhỏ vào tai tôi: “Mai tao đi. Con tao còn nhỏ quá, bên vợ không ai chịu ở lại...”. Con của Chung Nguyễn lúc đó mới được sáu-bảy tháng. Lấy vợ khá lâu anh mới có con, có lúc tưởng đâu hết hy vọng. Gia đình bên vợ là người Bắc di cư vào Nam năm 54 sau Hiệp định Genève. Hoàn cảnh của Chung Nguyễn thật khó ở lại. Biết được quyết định của người bạn đã gắn bó với mình trong suốt những năm tháng hoạt động chung ở quốc hội tôi sững sờ nằm lặng yên. Bởi tôi biết lời khuyên của tôi trong trường hợp này là vô ích. Chung Nguyễn là người bạn thân nhất của tôi dù đôi khi chúng tôi có quan điểm khác nhau. Ở Sài Gòn lúc đó người ta quen gọi phân biệt hai Chung và hai Trung. Chung Nguyễn (Nguyễn Hữu Chung) và Chung Lý (Lý Quí Chung) trong quốc hội và báo chí; Trung Lý (Lý Chánh Trung) và Trung Nguyễn (Nguyễn Văn Trung) trong Đại học là những trí thức tiến bộ. Tôi không nhớ đêm đó mình có chợp mắt lúc nào hay không. Vầng sáng trước mặt, nóng hực như một đám cháy, kéo dài suốt đêm, đến hừng sáng 30-4 mới tắt.
Chiếc trực thăng di tản cuối cùng - chiếc thứ 19 - rời khỏi sân thượng tòa đại sứ Mỹ vào lúc 3 giờ 58 phút sáng 30-4-1975 mang theo đại sứ Martin. Ông đến Sài Gòn tháng 4-1973, coi chiến tranh Việt Nam như một thứ thập tự chinh của cái gọi là “thế giới tự do”, còn bản thân ông, tự trao cho mình sứ mạng tiêu diệt người cộng sản. Khi chấp nhận làm đại sứ ở Sài Gòn, ông tuyên bố: “I accepted because I felt it to be a mission”. Theo nhà báo Tiziano Terzani, ông ta là người chống cộng thuộc thập niên 50. Các đồng nghiệp của Martin gọi ông là “người Mohican cuối cùng của chiến tranh lạnh”. Ông có một người con trai chết trận ở Việt Nam cũng như tướng De Latre de Tassigny, đứng đầu quân đội viễn chinh Pháp thất trận 20 năm trước, cũng mất một người con trên chiến trường Việt Nam. Martin đi bộ từ nhà riêng của mình (ở đường Phùng Khắc Khoan) qua tòa đại sứ Pháp (cửa vào đường Hồng Thập Tự, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) rồi từ đây đi sang tòa đại sứ Mỹ xuyên qua một khoảng tường trống vừa được mở ra để hai tòa đại sứ thông với nhau. Đại sứ Martin bỏ lại mọi thứ, sách vở, tranh ảnh, đồ cổ, chỉ mang theo cái cặp và... con chó. Ông bước lên trực thăng, một tay ôm lá cờ Mỹ, cũng như đồng nghiệp ông, đại sứ Mỹ tại Campuchia – John Gunther Dean - trước đó hai tuần, đã ôm lá cờ Mỹ leo lên trực thăng rời khỏi Phnom Pênh.
Còn với 129 Thủy quân lúc chiến phụ trách an ninh ở sứ quán Mỹ bảo vệ cuộc di tản, thì đến 7 giờ 53 phút ngày 30-4-1975 người cuối cùng mới rời khỏi sứ quán. Trong hai tuần, tòa đại sứ Mỹ di tản 50.000 người Việt Nam và 6000 người Mỹ. Khi Mỹ kết thúc các chuyến bay di tản vào 4 giờ 58 phút, trong khuôn viên tòa đại sứ Mỹ còn kẹt lại 420 người Việt Nam mặc dù trước đó chỉ ít tiếng đồng hồ người Mỹ quả quyết “No one will be left behind” (Không ai sẽ bị bỏ lại).
Bình luận về sự “cuốn cờ” thảm hại của đại sứ Mỹ Martin, nhà báo Tiziano Terzani viết trong quyển Saigon 1975: Three Days and Three Months như sau: “Người Mỹ! Họ muốn tiêu diệt một phong trào cách mạng nhưng thực tế họ đã nuôi dưỡng nó. Họ đến đây nhằm đặt lại mọi thứ trong trật tự nhưng họ lại ra đi để lại sự hỗn loạn. Họ đến để xây dựng nhưng lại tàn phá. Họ đến để bảo vệ một dân tộc mà họ cho rằng bị tấn công nhưng họ chỉ bảo vệ cho chính họ chống lại những người mà họ coi là “bạn” của mình”.
Năm 2002, một giáo sư người Nhật, Hajime Hitamura thuộc Đại Học Western Sydney (Úc) chuẩn bị một quyển sách về chiến tranh Việt Nam, có gặp tôi và đặt câu hỏi: Tại sao Mỹ thất trận tại Việt Nam? Tôi có đọc một tài liệu: Năm 1963 trả lời nhà báo Walter Cronkite trong một cuộc phỏng vấn về chiến tranh Việt Nam, tổng thống John F. Kennedy có nói: “Xét cho cùng thì chiến tranh này là chiến tranh người Việt, thắng hay bại là tuỳ ở họ”. Theo tôi cuộc chiến Việt Nam chưa bao giờ thật sự là một cuộc chiến của người Việt Nam theo nghĩa một cuộc xung đột ý thức hệ giữa người Việt Nam với nhau. Người Mỹ ngụy biện khi nói rằng: họ đến đây để giúp những người Việt Nam theo thế giới tự do chống lại cộng sản. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đều lấy cái có đó để tiến hành chiến tranh tại Việt Nam nhằm áp đặt lên dân tộc nước này ý muốn xâm lược của họ. Thực dân Pháp và đế quốc Mỹ ở mỗi thời kỳ của mình đều có ý đồ riêng nhằm vào Việt Nam. Sau cuộc chiến của người Pháp thì đến cuộc chiến của người Mỹ. Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 1 kết thúc. Và khi Mỹ không đối phó được chiến dịch Hồ Chí Minh rút chạy thì cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai cũng theo chân họ mà tàn lụi. Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam với quân lính, phương tiện, tiền bạc của họ, dùng người Việt Nam của họ lập nên chính quyền Sài Gòn, thuê mướn và cưỡng bức một bộ phận người Việt Nam cầm súng cho họ. Tôi nhớ rất rõ quần chúng miền Nam không hề có cái gọi là lý tưởng chống cộng, có cuộc chiến đấu của mình để chống lại người cộng sản, ngoại trừ một số đảng phái chống cộng không có quần chúng. Cuộc chiến mà người Mỹ tiến hành nhân danh “người Việt Nam chống cộng” do đó hoàn toàn không có quần chúng. Chỉ có họ và những người vì quyền lợi riêng tư hoặc bị ép buộc theo họ. Chính vì vậy người Mỹ ở Việt Nam không chỉ phải chống lại cộng sản mà còn phải chống lại tất cả những người yêu nước không cộng sản, nói một cách nào đó là phải chống lại gần như cả nhân dân Việt Nam. Cuối cùng người Mỹ phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam là chuyện tất yếu.
Tôi nói với ông Hajime Kitamura rằng tôi không phải là một nhà nghiên cứu chiến tranh Việt Nam. Tôi chỉ nêu một suy nghĩ riêng của mình và chắc chắn chưa phản ánh một cách đầy đủ nguyên nhân thất bại của người Mỹ tại Việt Nam.
Tiêu biêu cho một trí thức có “lý tưởng chống cộng”, tướng Đỗ Mậu, từng là tổng trưởng thông tin và phó thủ tướng thời Nguyễn Khánh (sau 1-11-63) đã viết trọn một hồi ký chỉ để vạch trần sự phá sản của hai chế độ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa (từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu). Hồi ký của tướng Đỗ Mậu đã lý giải khá đầy đủ vì sao chế độ gọi là “quốc gia” đã thất bại.
Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ (www.nxbtre.com.vn), TP HCM, 2004, 486 tr., 97.000 đ
XIII
25. Thời khắc lịch sử: Đầu hàng
8 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, các nhân vật dự kiến trong tân nội các tập trung tại phủ thủ tướng nằm ở cuối đại lộ Thống Nhất. Một số thành viên của tân chính phủ đã ngủ đêm tại đây.
Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu... Các thành viên khác ngồi chờ đợi buổi họp ở phòng bên ngoài.
Ông Minh mở đầu buổi họp bằng việc trình bày tình hình quân sự nói chung và Sài Gòn nói riêng là không còn cứu gỡ. Cũng không nên nghĩ tới một cuộc thương thuyết chính trị với chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam và Hà Nội, qua trung gian chính phủ Pháp. Trong khi đó tình hình an ninh của thành phố Sài Gòn rất nguy ngập, hỗn loạn và cướp bóc có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng chính phủ hoàn toàn không có khả năng kiểm soát. Và ông Dương Văn Minh kết luận: “Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Phòng họp im lặng, không có ai phản đối, kể cả những vị mới biết được quyết định này.
Được sự đồng ý của những thành viên chính yếu của chính phủ, ông Minh ra lệnh cho tôi với tư cách tổng trưởng thông tin cho gọi các nhân viên kỹ thuật của đài truyền hình và đài phát thanh đến để thu âm bài tuyên bố. Tôi bước ra khỏi phòng và truyền lệnh cho anh Dương Văn Ba, thứ trưởng thông tin, với lời dặn: nói với anh em rằng đã có thỏa hiệp ngưng bắn và hòa bình rồi, anh em đến để thu lời tuyên bố của tổng thống nói chuyện với đồng bào. Tôi dặn như thế để anh em phấn khởi sẵn sàng làm nhiệm vụ mà không bỏ trốn. Bởi lúc bấy giờ rất ít công sở còn nhân viên đi làm.
Khoảng 15 phút sau, anh em kỹ thuật viên đến vì đài truyền hình rất gần phủ thủ tướng. Và cuộc thu âm bài tuyên bố giao quyền của tổng thống Dương Văn Minh bắt đầu, chỉ thu tiếng chứ không có điều kiện thu hình. Lần thu đầu tiên, ông Minh cho dừng lại vì có đoạn ông đọc vấp. Lần thứ hai cũng hỏng vì có người đẩy cửa vào gây tiếng động. Đến lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh.
Khi tôi bước ra phòng họp cùng anh em kỹ thuật viên thì gặp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổng tham mưu trưởng, giờ đây có quyền hành như tổng tham mưu trưởng vì trung tướng Vĩnh Lộc cùng trung tướng Trần Văn Trung chạy khỏi Sài Gòn bằng tàu hải quân sáng 30 tháng 4. Chuẩn tướng Hạnh nói với ông Dương Văn Minh: “Xin để tôi trực tiếp mang đi cho chắc ăn. Nhưng theo tôi, ngoài bản tuyên bố của tổng thống cho dân chúng, cần có một nhật lệnh của tổng tham mưu trưởng ra lệnh trực tiếp cho quân đội không được nổ súng nữa...”. Ông Minh tán đồng đề xuất của anh Hạnh và yêu cầu anh thảo luôn nhật lệnh.
Tướng Hạnh cầm cuộn băng và bản nhật lệnh đi đến đài. Anh nói với tôi: anh sẽ đọc và thu bản nhật lệnh tại đài. Nhớ lại chi tiết này, tôi thấy đóng góp của anh Nguyễn Hữu Hạnh vào lúc này thật ý nghĩa và thiết thực.
Trước khi phiên họp kết thúc, ông Minh nói: “Bắt đầu từ giớ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do quyết định sự lựa chọn của mình: Đi hay ở lại. Tôi xin thông báo cho anh em nào muốn đi: hiện chiếc tàu Việt Nam Thương Tín (VNTT) vẫn còn đậu ở cảng...”. Ông Minh thông báo rõ cổng số mấy, bến số mấy, để lên tàu VNTT, chiếc tàu thủy viễn dương lớn nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, dân biểu Nguyễn Hữu Chung điện thoại cho ông Minh nói rõ tàu VNTT đang chờ ở đâu để những thành viên nào trong chính phủ muốn ra đi thì đến đó. Chính một người của anh Nguyễn Hữu Chung lái chiếc tàu này. Tàu có giấy phép của chính phủ cho rời bến với lý do chính thức là “để tránh pháo kích của cộng quân”. Nhưng thực sự đây là một giấy phép trá hình cho tàu được di tản. Trong khi liên lạc điện thoại với ông Minh, Chung Nguyễn còn tỏ ý chờ bà Dương Văn Minh sẽ ra đi theo con gái, con rể và hai cháu ngoại (đã đi trước đó hai ngày). Nhưng ông Minh sau khi hỏi ý kiến vợ đã trả lời rằng bà Minh không đi.
Những người có mặt trong phòng họp cũng không ai đi. Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, một luật sư công giáo, nói dứt khoát ông ở lại. Còn thủ tướng Vũ Văn Mẫu cho biết ông không đi trong những điều kiện như thế này. Nếu sau này chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam cho ra đi chính thức thì ông sẽ đi. Có lẽ người duy nhất có ý định ra đi là giáo sư Bùi Tường Huân, được dự kiến làm tổng trưởng quốc phòng. Anh Huân hỏi lại ông Minh: “Tôi về nhà sắp xếp để vợ con cùng đi còn kịp không?”. Ông Minh trả lời là tàu VNTT không thể chờ đợi lâu. Nếu quyết định đi là phải đi ngay. Thế là giáo sư Huân quyết định không đi nữa. Anh không hay rằng vợ anh, con cái của anh đã di tản chiều hôm qua với gia đình bên vợ (chị vợ của anh Huân là ca sĩ Hà Thanh). Tối hôm qua, anh cùng một số thành viên khác ngủ lại ở phủ thủ tướng nên không hay chuyện ra đi của gia đình. Khi anh trở về nhà thì trong nhà chẳng còn thứ gì giá trị vì nhà anh đã bị cướp sạch. Anh Hồ Văn Minh cũng nói dứt khoát không đi.
Lúc này tôi ngồi kế bên ông Minh. Ông quay sang nói nhỏ với tôi:
“Chung, toa nên đi.Toa có con đông”. Ông nghĩ đến 5 đứa con của tôi. Thỉnh thoảng khi thân mật ông Minh vẫn xưng hô “toa, moa” với tôi. Tôi trả lời:
“Đại tướng không đi phải không? Tôi cũng không đi”. Ông lặp lại đến hai lần lời khuyên đó nhưng vẫn thấy tôi tỏ ra rất dứt khoát nên ông không thuyết phục nữa. Khi từ chối chuyện ra đi, lúc đó tôi chẳng phải suy nghĩ gì nhiều. Ý nghĩ ra đi chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Ở lại, với tôi, là tất yếu, là cái tiếp theo lô gích của những chọn lựa và thái độ chính trị của tôi trước đó. Vợ chồng tôi chưa bao giờ đem chuyện “đi hay ở” ra bàn với nhau. Quỳnh Nga, vợ tôi cũng không hề băn khoăn về chuyện này. Trước đó mấy ngày, khi một người Mỹ (dạy Anh văn cho tôi) đến nhà gặp vợ tôi, đưa ra giấy ưu tiên đi bằng máy bay của Mỹ cho cả gia đình tôi (gồm bảy người) – tôi không có ở nhà - vợ tôi đã tự quyết định từ chối.
...Sau khi mọi người có mặt đều quyết định không đi, phòng họp lại im lặng.
Bỗng có người vào báo cáo có một khách người Pháp muốn gặp tổng thống Dương Văn Minh. Tôi cùng ông bước ra. Đó là cựu tướng Pháp Vanuxem đã từng thất trận ở cuộc chiến tranh Đông Dương thời thực dân Pháp. Gần đây ông trở qua Việt Nam đóng vai trò cố vấn quân sự cho chính phủ Thiệu như kiểu chuyên gia chiến tranh du kích người Anh Sir Robert Thompson mang những kinh nghiệm chống cộng ở Mã Lai sang làm cố vấn cho hai anh em Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu trong những năm đầu của chế độ đệ nhất cộng hòa! Nhưng Vanuxem không được ông Thiệu tin dùng. Ông Minh bắt tay Vanuxem và hỏi lý do ông ta muốn gặp ông.
Vanuxem cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanuxem, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay. Ông Minh cười chua chát: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai...”. Đứng xớ rớ một lúc, Vanuxem biến lúc nào tôi không nhớ.
Cũng đúng lúc này có điện thoại từ chùa Ấn Quang của sinh viên đấu tranh Nguyễn Hữu Thái. Tôi không rõ Thái rời khỏi chỗ ẩn náu tại nhà tôi từ một năm qua, vào lúc nào. Lúc này Thái đang có mặt tại chùa Ấn Quang, anh cho biết thượng tọa Thích Trí Quang muốn nói chuyện trực tiếp với ông Minh. Cuộc nói chuyện kéo dài khoảng hai phút. Sau đó thượng tọa Trí Quang nói chuyện với giáo sư Vũ Văn Mẫu. Tôi được biết nội dung hai cuộc điện đàm này của thượng tọa Thích Trí Quang nhằm thuyết phục tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Nhưng tôi lại e ngại, nếu đầu hàng chính thức đơn phương thì sẽ ra sao? Vì nhiều đơn vị quân đội VNCH vẫn còn đó, có khả năng sẽ phản ứng điên cuồng.
Khoảng 10 giờ, tổng thống Minh lên ô tô đi đến Dinh Độc Lập. Các thành viên khác của chính phủ và một số dân biểu nghị sĩ cũng lên xe mình đến Dinh Độc Lập. Tôi cùng ngồi xe của tổng thống Minh. Lúc này toàn bộ các mô tô cảnh sát danh dự, gồm tám chiếc còn đầy đủ, vẫn đi theo bảo vệ xe tổng thống. Đoàn xe tổng thống đi ngang qua tòa đại sứ Mỹ trên đại lộ Thống Nhất, ông Minh nhìn thấy trước mắt cảnh tòa đại sứ Mỹ đang bị dân chúng ùa vào “làm thịt”: từng đoàn người từ trong sứ quán hối hả đi ra, khuân vác nào là máy đánh chữ, ti vi, ghế, tủ, bàn v.v... Từ trên lầu sứ quán, những tấm thảm cắt ra từng miếng dài khoảng 5-6 mét được ném xuống sân... Thế là nơi tượng trưng cho quyền lực nước Mỹ, tưởng như bất khả xâm phạm giờ đây tan tác... như một đống rác khổng lồ!
Đoàn xe của tổng thống Minh đi trên đại lộ Thống Nhất vắng tanh người - ngoại trừ đoạn đường trước sứ quán Mỹ. Phần đông dân Sài Gòn đều rút vào nhà. Số người tiếp tục nuôi ý định ra đi kéo nhau xuống bến Bạch Đằng với hy vọng gặp được chuyến tàu nào đó chưa kịp rời bến. Một số người khác dùng mọi phương tiện chạy về hướng miền Tây tìm đường ra biển.
Ngồi trong xe bên cạnh ông Minh đi đến Dinh Độc Lập, chưa bao giờ tôi thấy gần gũi và gắn bó với ông như lúc này. Trong đời ông trải qua nhiều giây phút lịch sử nhưng có lẽ những giây phút này là trọng đại nhất. Nhưng tôi vẫn thấy ông điềm tĩnh một cách lạ lùng. Ông chẳng nói gì cả, nét mặt bình thản. Ông vốn không thích dùng nhiều lời lẽ rườm rà và hoa mỹ để giải thích các quyết định của mình.
Tôi lên tiếng để phá vỡ sự im lặng: “Nếu cả chính phủ Sài Gòn sau này buộc phải đi “an trí”, tôi sẽ yêu cầu được quản thúc chung với đại tướng. Để chi, đại tướng biết không?”. Ông quay nhìn tôi: “Để chi?” – “Để đại tướng và tôi có thể tiếp tục nói chuyện tennis với nhau!” Ông Minh vỗ đùi tôi, cười. Tôi cùng ông Minh đi đến Dinh Độc Lập mà trong lòng chẳng có một đắn đo nào. Thật lạ lùng làm sao. Sau này khi nhớ lại thời điểm đó tôi cố gắng nhớ lại trong đầu mình lúc đó nghĩ gì. Nhưng không làm sao nhớ ra bởi thật sự lúc đó tôi như người bị cuốn hút về một hướng đã định sẵn từ một hai năm trước rồi. Dinh Độc Lập, nơi đoàn quân giải phóng sẽ đến, vào lúc này, đúng là điểm hẹn của Lịch sử. Ông Dương Văn Minh đi đến đó mà không hề bị ai bắt buộc. Trưa hôm qua, 29-4-1975, người cuối cùng từng lãnh đạo miền Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ, cũng đã thoát thân trên chiếc Huey, trực thăng của ông. Khi máy bay sắp rời khỏi mặt đất, tướng Ngô Quang Trưởng xuất hiện và cũng được tướng Kỳ... mời nhảy lên. Trực thăng của họ bay ra hướng biển và liên lạc được với tàu sân bay Midway.
...Chiếc xe của tổng thống Minh và đoàn mô tô bảo vệ đến Dinh Độc Lập khoảng 9 giờ 30 sáng. Ở cửa chính vẫn còn lính gác. Ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng của nội các Nguyễn Bá Cẩn, nội các cuối cùng của chính phủ Thiệu, có mặt ở phòng họp chính. Theo chương trình đã định trước thì phó thủ tướng Hảo sẽ đại diện cho nội các cũ thực hiện cuộc bàn giao cho nội các mới của ông Dương Văn Minh. Nhưng cuộc bàn giao giữa hai nội các cũ và mới đã không xảy ra.
Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu. Trong lúc chờ quân giải phóng đến, tôi chợt nhớ binh lính bảo vệ Dinh Độc Lập chưa nhận được lệnh không nổ súng. Tôi đề nghị ông Minh nên ra lệnh tất cả các binh lính bảo vệ dinh phải nộp vũ khí, bởi chỉ cần một người lính nào đó điên cuồng bóp cò thì hậu quả không thể nào lường được. Tổng thống Minh giao cho thiếu tá Hoa Hải Đường thực hiện lệnh của ông. Lúc này tôi không thấy đại tá Đẩu có mặt ở dinh. Đại tướng Minh có hai tuỳ viên quân sự là đại tá Đẩu và thiếu tá Đường. Đại tá Đẩu vừa được thăng cấp cách đây không lâu và là cấp cao nhất trong văn phòng của đại tướng Minh. Còn thiếu tá Đường là con của ông Hoa Văn Mùi, đã từng là giám đốc cảnh sát thời Diệm rồi tổng lý văn phòng một bộ (nhân vật thứ ba trong bộ đứng sau bộ trưởng và thứ trưởng), nhưng lại được nhiều người biết tiếng khi ông là cầu thủ đội tuyển bóng đá miền Nam thập niên 40. Ông Mùi cùng thời với những danh thủ như Tốt, Guichard, Paccini, Bửu (tức Trương Tấn Bửu, giám đốc Sở Thể dục Thể thao TP. HCM đầu tiên sau giải phóng). Thành tích của ông Mùi là từng vô hiệu hoá “cầu vương” Lý Huệ Đường của Hồng Kông mặc dù về thể hình ông hơi thấp người.
Luật sư, nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền được ông Minh chọn làm phó tổng thống, lúc đầu có mặt tại Dinh Độc Lập nhưng sau đó lại về nhà riêng. Luật sư, nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, thủ tướng chính phủ vẫn có mặt tại dinh vào thời điểm này.
Thời gian chờ đợi căng thẳng tôi chợt nghĩ: cũng nên có mặt nhà báo vào lúc quân giải phóng vào Dinh Độc Lập. Lúc này tôi nhớ đến nhà báo nữ V.T.T. Mai làm cho hãng thông tấn AFP. Với tôi, Mai không chỉ là một nhà báo mà còn là một mối thâm tình. Tôi rất mong sự hiện diện của Mai vào lúc này. Tôi gọi điện cho Mai. Và Mai đến ngay với trưởng văn phòng AFP tại Sài Gòn Jean Louis Arnaud. Lúc nào Arnaud cũng ăn mặc trịnh trọng. Một bộ complet màu trắng khói, trên cổ thắt một chiếc nơ và trên tay có sẵn một cuốn sổ nhỏ.
Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T-54 của quân giải phóng xuất hiện ở từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp. Chiếc tăng to lớn tiến gần, đến khoảng ngang nhà thờ Đức Bà thì đột ngột nổ liền hai phát nhưng không nhắm vào Dinh Độc Lập. Nhưng tiếng nổ của hai phát đại bác đã gây hoảng hốt cho tất cả những người đang đứng chờ ở tiền đình. Thế là tất cả lui vào phòng làm việc của ông Thiệu và.. lo lắng chờ.
Sau này các tài liệu viết rằng chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.
Chỉ ít phút sau, tiếng chân người vang dội trong sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Sau này có nhiều nhà báo nước ngoài trở lại sự kiện 30-4 này hỏi tôi lúc đó có lo sợ không? – Tôi không chối cãi mình có lo sợ. Một phần vì tôi chưa từng đối diện với quân giải phóng. Những suy nghĩ riêng và niềm tin trong lòng của mình về họ, chưa qua thực tế, không đủ để trấn an tôi hoàn toàn vào giây phút này. Mặt khác hoàn toàn không thể đoán trước chuyện gì sẽ xảy ra nếu có hỗn loạn.
...Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống Dương Văn Minh. Đi sát bên ông Minh là thiếu tá Hoa Hải Đường. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Tôi trao cái cặp da xách tay của tôi cho dân biểu Thạch Phen rồi mạnh dạn bước theo. Chúng tôi vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội. Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh học sinh sinh viên. Tôi nhớ hình như có các anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Triệu Bình, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành, Huỳnh Văn Tòng v.v... Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: “Mình thắng rồi!”, trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế của người đầu hàng. Nước mắt tôi trào ra, tôi khóc vì quá sung sướng thấy cuộc chiến tranh kéo dài triền miên trên quê hương mình đã kết thúc. Tính cả thời Pháp đô hộ là 117 năm! Nhưng trong nước mắt ấy có cả những giọt xót xa: Mình từng chống Mỹ, chống Thiệu để khi kết thúc, mình lại thay Mỹ thay Thiệu đầu hàng! Dù rằng tôi cũng đã sẵn sàng tinh thần để chấp nhận tình thế này, nhưng khi nó diễn ra, lòng vẫn không thể không nhói đau!
Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này tôi biết đó là người chỉ huy chiếc tăng ký hiệu 843 tên là Bùi Quang Thận lúc đó mang hàm đại úy. Nói về sự kiện 30-4 tại Dinh Độc Lập, có một hai bài viết kể tên một ai đó đã đưa bộ đội lên hạ cờ. Tôi không biết ở Dinh Độc Lập còn có một nơi nào khác treo cờ hay không ngoài cột cờ trên sân thượng. Năm 1990, khi kỷ niệm 15 năm giải phóng miền Nam, một hãng truyền hình Nhật có mời tôi và trung tá cùng tái hiện lại những giây phút tôi đưa đại uý Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ của chế độ Sài Gòn.
Trước ống kính của truyền hình Nhật, chúng tôi cùng tái hiện lại những diễn tiến tại Dinh Độc Lập 15 năm về trước:
...Sau khi nhận chỉ thị của ông Minh, tôi đưa người bộ đội trẻ tuổi đến thang máy để lên sân thượng. Đến trước thang máy, tôi bấm nút cho cửa mở. Khi cửa mở rồi người bộ đội trẻ vẫn chưa chịu bước vào. Tôi đoán trong đời anh chưa bao giờ đặt chân vào một thang máy. Tôi nói với người bộ đội trẻ: “Anh vào đi. Không có gì lo. Tôi cùng vào với anh”. Nói xong, tôi vào trước. Sau ít giây do dự, anh bước vào, trên tay là khẩu súng và lá cờ Giải phóng. Tôi không thể tưởng tượng được có một ngày như hôm nay: đi thang máy chung với một người bộ đội. Tôi bấm nút lên tầng cuối cùng. Trước đây tôi có vào Dinh Độc Lập nhiều lần nhưng chưa bao giờ lên đến sân thượng. Bước ra khỏi thang máy, tôi nhìn thấy ngay khu vườn hoa của bà Nguyễn Văn Thiệu mà có lần bà đã than phiền tướng Kỳ, lúc còn làm phó tổng thống, đã làm hư hại nó do mỗi ngày tướng Kỳ đi làm đều đáp trực thăng riêng xuống đây. Thời điểm đó, văn phòng của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ còn đặt chung trong Dinh Độc Lập. Cách thang máy không xa, ở phía trước sân thượng, sát bên ngoài là chỗ cắm cờ. Người bộ đội đi thẳng ra đó hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Tôi không bước ra theo. Tôi đứng phía trong một lúc, rồi quay trở lại thang máy đi xuống trước một mình.
Trong một bài báo kỷ niệm ngày 30-4-1975 của một tác giả đã đăng vào dịp tháng 4-2003, có ghi lại lời kể của ông Thận khi gặp ông Minh: Ông yêu cầu ông Minh chỉ đường lên hạ cờ ngụy quyền thì ông Minh liền nói với người đứng kế bên thực hiện lời yêu cầu này. Người đứng kế bên ông Minh chính là tôi.
Xem lại các bức ảnh ghi lại giây phút lịch sử này, tôi thấy ngoài lá cờ được đại uý Bùi Quang Thận treo cao trên nóc Dinh Độc Lập - cột cờ chính thức của Dinh – còn thấy xuất hiện hai hay ba chiến sĩ bộ đội đứng phất cờ tại bao lơn (balcon) ở tầng một. Có lẽ chính vì thế mà có sự ngộ nhận đại uý Thận không phải là người duy nhất treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập và cũng có lý khi có người khác cũng nhận là mình đã hướng dẫn bộ đội lên treo cờ.
...Khi từ sân thượng tôi trở xuống đại sảnh thì mọi người đã vào trong phòng họp có cái bàn to hình ô van nằm bên cánh phải Dinh Độc Lập. Tôi nghe một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: “Anh hãy viết ngay một bản tuyên bố đầu hàng”. Ông Minh trả lời rằng sáng này ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”. Lúc này trong những người chứng kiến cuộc đối thoại, có một người mặc thường phục đứng bên cạnh kỹ sư Tô Văn Cang - một trí thức Sài Gòn có quan hệ với Mặt Trận. Người mặc thường phục tự giới thiệu mình là người hoạt động cách mạng nội thành và nói với viên chỉ huy bộ đội: “Ông Minh là người hoạt động cho hòa giải hòa hợp dân tộc. Anh nên đối xử nhẹ nhàng với ông”. Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy đề nghị ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng. Viên chỉ huy yêu cầu những thành viên chính thức của chính phủ đang có mặt gồm tổng thống Minh, thủ tướng Mẫu và tổng trưởng thông tin là tôi cùng đến đài phát thanh. Tôi chuẩn bị bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng anh Thạch Phen gọi tôi lại. Anh Thạch Phen trả cho tôi cái cặp da tôi đã nhờ anh cầm giùm lúc nãy. Anh Phen tưởng tôi quên. Thật sự tôi vẫn nhớ nhưng tôi thấy chẳng cần thiết phải lấy lại. Trong cặp là toàn bộ số tiền tôi đã lãnh một ngày trước đó ở Hạ nghị viện trước khi toà nhà lập pháp này đóng cửa. Trong những ngày cuối cùng, chủ tịch Hạ nghị viện đã ký rút ra gần hết số tiền thuộc ngân sách của Hạ nghị viện và ứng trước tiền phụ cấp và đủ các thứ tiền khác thành một cục phát cho tất cả các dân biểu. Tôi nhớ số tiền đó hình như tương đương cả 7-8 chục triệu tiền bây giờ. Phụ cấp hàng tháng của một dân biểu nghị sĩ lúc đó là rất cao trong xã hội. Tôi định bỏ luôn cái cặp vì nghĩ tiền của chế độ Sài Gòn sẽ không còn xài nữa. Tôi miễn cưỡng lấy lại cái cặp trên tay dân biểu Thạch Phen.
Trước khi rời Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh nói với vị chỉ huy bộ đội: “Vợ tôi vẫn đang ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm”. Viên chỉ huy đáp “Anh hãy an tâm”.
Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến Đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe Jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và ông Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi “Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại”. Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ.
Nghe thế tôi lại đi trở ra. Sau này được biết, khi hai ông Minh và ông Mẫu vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát vào lúc 13 giờ 30. Sau đó hai ông Minh và ông Mẫu được đưa trở lại Dinh Độc Lập. Vào lúc 17 giờ 30, luật sư Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống Sài Gòn trở vào Dinh Độc Lập trình diện. Ông Huyền đã rời Dinh Độc Lập nửa giờ trước khi quân đội giải phóng vào Dinh.
Đài phát thanh Sài Gòn nằm ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Cổng chính lúc đó mở ra đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ra khỏi đài, tôi rẽ qua đường Phan Đình Phùng, đi bộ ngược về hướng trung tâm thành phố vì tôi không còn xe riêng, taxi cũng không có. Dáo dác tìm “Honda ôm” cũng không ra. Một tay cầm áo vét và một tay xách cái cặp da đầy “giấy lộn” (trong đầu tôi vẫn nghĩ thế) chẳng biết vứt đi đâu. Trong đầu tôi rất lộn xộn: mừng vui lẫn buồn tủi. Cái hình ảnh được anh em ôm lấy và hô lên “Mình thắng rồi” nhưng trong tư thế hai tay giơ cao đầu hàng vẫn quay tới quay lui trong đầu. Đi một lúc khá lâu tôi ngửng đầu lên. Thật bất ngờ. Ngay trước mặt tôi bên kia đường (ngã tư Công Lý – Phan Đình Phùng) là... trụ sở Bộ thông tin, nơi mới hôm qua tôi còn triệu tập họp các viên chức chỉ huy của bộ với tư cách bộ trưởng. Tôi dừng bước lại. Nhớ lại chiếc cà vạt vẫn còn thắt trên cổ, tôi liền tuột nó ra. Chân tôi tự động quay ngược lại. Đúng lúc đó may mắn có một anh chạy xe ôm hất hàm hỏi tôi có đi không, tôi gật đầu.
Xe Honda đưa tôi về hướng quận 10 nhưng tới cuối đường Hiền Vương (bây giờ là Võ Thị Sáu) thì nghe những tiếng nổ dữ dội. Tôi thấy xa xa một chiếc xe tăng T54. Người chạy tán loạn. Tôi đoán phía quận 10 còn hỗn loạn. Tôi bèn quyết định tạm qua đêm nay tại nhà của trung tá Nguyễn Đức Hồng là chánh văn phòng của tôi ở khu Tân Định. Đến đây, tôi điện thoại về nhà cho vợ tôi. Lúc này tôi không còn kềm được nước mắt. Như thể bị ngăn lại từ sáng, nước mắt bây giờ tha hồ tuôn ra. Vợ tôi chia sẻ sự xúc động của chồng nhưng dĩ nhiên vợ tôi chưa hiểu hết những gì xảy ra với tôi trong ngày 30-4 này, từ sáng đến giờ. Tôi đã trải qua những giây phút kỳ diệu và kỳ lạ nhất đời mình. Vợ tôi cho hay cả nhà đều bình yên và cho biết gia đình anh Dương Văn Ba từ nơi “tị nạn chính trị” của anh ở trong Dinh Hoa Lan đã “di tản” ra nhà tôi.
Đêm 30-4-1975 tôi quá mỏi mệt nằm xuống ngủ như chết. Sáng hôm sau tôi thức dậy sực nhớ biến cố lịch sử đã xảy ra, một cảm giác thật lạ lùng lan toả trong người tôi. Tôi nằm yên một lúc lâu lắng nghe cái cảm giác ấy. Không hiểu sao, nó làm tôi nhớ lại cái buổi sáng tôi mới có đứa con đầu tiên. Thức dậy và thấy mình không còn như trước. Một thay đổi lớn đã đến với đời mình. Sáng ngày 1-5-1975 tôi cũng có một cảm giác như thế!
Thay đồ xong, chưa ăn sáng, tôi gọi về nhà. Tôi được biết vợ con đã sang nhà cha mẹ tôi bên đường Bà Hạt. Trung tá Hồng lấy xe Honda đưa tôi đến nhà cha mẹ. Gặp lại vợ con tôi cứ ngỡ mình trở về từ một chuyến đi thật xa. Cả đại gia đình tôi, từ cha mẹ, bảy đứa em – sáu gái và một trai – hai em rể và gia đình riêng của tôi - vợ và năm con - đều có mặt đông đủ. Gặp lại những người thân yêu không thiếu một người, đều bình yên, tôi vô cùng xúc động. Cha tôi lặng im nhìn tôi. Tôi đọc thấy trong mắt ông câu hỏi ‘‘Vậy con có bình yên hay không?’‘. Cuộc đời công chức của cha tôi sẽ hết sức bình thản nếu... không có tôi. Ông bị mất chức, về hưu sớm, vì từ chối với chính quyền Thiệu không gây áp lực với con mình ngưng các hoạt động chống chính phủ Thiệu. Giờ đây lại âu lo không biết sự thay đổi chính trị có ảnh hưởng gì đến con trai mình hay không? Buổi ăn trưa hôm đó cũng là lúc tôi kể lại cho cả nhà nghe các diễn tiến xảy ra trong buổi sáng ngày 30-4 đến khi về nhà ông Nguyễn Đức Hồng. Tôi nhìn thấy mẹ tôi khóc. Bà không hiểu nhiều về chính trị nhưng bà có trái tim yêu quê hương. Bà luôn ủng hộ các hoạt động của con trai mình dù các hoạt động đó có ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp của chồng. Bằng sự nhạy cảm của người mẹ, bà hiểu được con trai mình đã trải qua sự kiện trọng đại này của đất nước như thế nào...
Xong cơm trưa vào phòng nghỉ, vợ tôi âu lo nói với tôi: “Gia đình mình chẳng còn đồng nào. Còn lại chút ít, mấy ngày chót đã tiêu xài hết…” Thực tế là trong nhà tôi không có lúc nào dư dả. Làm báo thì sống bằng lương và nhuận bút. Báo bị đóng cửa thì gặp khó khăn ngay. Làm dân biểu 3 nhiệm kỳ suốt mười năm thì sống bằng phụ cấp của quốc hội, thoải mái hơn nhưng cũng không thật dư dả. Vợ tôi thường than phiền không cho bà buôn bán làm ăn, cứ sợ bị mang tiếng (mãi đến khi chúng tôi chia tay nhau bà mới bắt đầu kinh doanh).
Tôi sực nhớ lại cái cặp da. Tôi hỏi vợ tôi “Em thấy ngoài chợ tiền cũ còn xài không?”. Vợ tôi cho biết vẫn xài. Tôi đi tìm cái cặp mà đã mấy lần tôi định vứt nó. Thế là “đống giấy lộn” (tôi tưởng là như thế) đã “nuôi” được gia đình tôi mấy tháng đầu sau ngày 30-4!
Từ 30-4-1975 cho đến 2-5-1975, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu và một số dân biểu, nghị sĩ vẫn còn ở trong Dinh Độc Lập. Dự kiến sau khi đại diện Ủy ban Quân quản gặp họ, tất cả sẽ được tự do ra về. Trong hai ngày ông bà Minh còn ở lại trong Dinh Độc Lập, vợ tôi đã mang các bữa ăn sáng trưa và chiều vào Dinh cho hai ông bà. Ngày 2-5-1975, chủ tịch Ủy ban Quân quản Trần Văn Trà đã nói: “Người Việt Nam chúng ta không có ai thắng hay bại, người chiến thắng là toàn thể dân tộc Việt Nam và kẻ bại là đế quốc Mỹ”.
Chiều 2-5-1975, nhà báo Pháp Jean Louis Arnaud điện thoại hẹn tôi để thực hiện bài phỏng vấn đầu tiên sau ngày 30-4 cho AFP. Ông Arnaud không khỏi ngạc nhiên khi nghe những lời phát biểu đầy phấn khởi và xúc động của tôi về chiến thắng 30-4. Bởi chính ông đã chứng kiến cảnh tôi đưa hai tay lên đầu hàng. Ông không hiểu được người giơ tay đầu hàng lại chia sẻ niềm vui với người chiến thắng? Tôi nói: “Trước hết đội quân chiến thắng là người Việt Nam, đồng bào tôi. Họ đã chiến thắng thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ, mang lại độc lập và thống nhất cho xứ sở. Họ đã làm được điều mà nhiều người Việt Nam như tôi không làm được...”. Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư: đó là hoà bình và thống nhất.
8 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, các nhân vật dự kiến trong tân nội các tập trung tại phủ thủ tướng nằm ở cuối đại lộ Thống Nhất. Một số thành viên của tân chính phủ đã ngủ đêm tại đây.
Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu... Các thành viên khác ngồi chờ đợi buổi họp ở phòng bên ngoài.
Ông Minh mở đầu buổi họp bằng việc trình bày tình hình quân sự nói chung và Sài Gòn nói riêng là không còn cứu gỡ. Cũng không nên nghĩ tới một cuộc thương thuyết chính trị với chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam và Hà Nội, qua trung gian chính phủ Pháp. Trong khi đó tình hình an ninh của thành phố Sài Gòn rất nguy ngập, hỗn loạn và cướp bóc có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng chính phủ hoàn toàn không có khả năng kiểm soát. Và ông Dương Văn Minh kết luận: “Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Phòng họp im lặng, không có ai phản đối, kể cả những vị mới biết được quyết định này.
Được sự đồng ý của những thành viên chính yếu của chính phủ, ông Minh ra lệnh cho tôi với tư cách tổng trưởng thông tin cho gọi các nhân viên kỹ thuật của đài truyền hình và đài phát thanh đến để thu âm bài tuyên bố. Tôi bước ra khỏi phòng và truyền lệnh cho anh Dương Văn Ba, thứ trưởng thông tin, với lời dặn: nói với anh em rằng đã có thỏa hiệp ngưng bắn và hòa bình rồi, anh em đến để thu lời tuyên bố của tổng thống nói chuyện với đồng bào. Tôi dặn như thế để anh em phấn khởi sẵn sàng làm nhiệm vụ mà không bỏ trốn. Bởi lúc bấy giờ rất ít công sở còn nhân viên đi làm.
Khoảng 15 phút sau, anh em kỹ thuật viên đến vì đài truyền hình rất gần phủ thủ tướng. Và cuộc thu âm bài tuyên bố giao quyền của tổng thống Dương Văn Minh bắt đầu, chỉ thu tiếng chứ không có điều kiện thu hình. Lần thu đầu tiên, ông Minh cho dừng lại vì có đoạn ông đọc vấp. Lần thứ hai cũng hỏng vì có người đẩy cửa vào gây tiếng động. Đến lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh.
Khi tôi bước ra phòng họp cùng anh em kỹ thuật viên thì gặp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổng tham mưu trưởng, giờ đây có quyền hành như tổng tham mưu trưởng vì trung tướng Vĩnh Lộc cùng trung tướng Trần Văn Trung chạy khỏi Sài Gòn bằng tàu hải quân sáng 30 tháng 4. Chuẩn tướng Hạnh nói với ông Dương Văn Minh: “Xin để tôi trực tiếp mang đi cho chắc ăn. Nhưng theo tôi, ngoài bản tuyên bố của tổng thống cho dân chúng, cần có một nhật lệnh của tổng tham mưu trưởng ra lệnh trực tiếp cho quân đội không được nổ súng nữa...”. Ông Minh tán đồng đề xuất của anh Hạnh và yêu cầu anh thảo luôn nhật lệnh.
Tướng Hạnh cầm cuộn băng và bản nhật lệnh đi đến đài. Anh nói với tôi: anh sẽ đọc và thu bản nhật lệnh tại đài. Nhớ lại chi tiết này, tôi thấy đóng góp của anh Nguyễn Hữu Hạnh vào lúc này thật ý nghĩa và thiết thực.
Trước khi phiên họp kết thúc, ông Minh nói: “Bắt đầu từ giớ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do quyết định sự lựa chọn của mình: Đi hay ở lại. Tôi xin thông báo cho anh em nào muốn đi: hiện chiếc tàu Việt Nam Thương Tín (VNTT) vẫn còn đậu ở cảng...”. Ông Minh thông báo rõ cổng số mấy, bến số mấy, để lên tàu VNTT, chiếc tàu thủy viễn dương lớn nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, dân biểu Nguyễn Hữu Chung điện thoại cho ông Minh nói rõ tàu VNTT đang chờ ở đâu để những thành viên nào trong chính phủ muốn ra đi thì đến đó. Chính một người của anh Nguyễn Hữu Chung lái chiếc tàu này. Tàu có giấy phép của chính phủ cho rời bến với lý do chính thức là “để tránh pháo kích của cộng quân”. Nhưng thực sự đây là một giấy phép trá hình cho tàu được di tản. Trong khi liên lạc điện thoại với ông Minh, Chung Nguyễn còn tỏ ý chờ bà Dương Văn Minh sẽ ra đi theo con gái, con rể và hai cháu ngoại (đã đi trước đó hai ngày). Nhưng ông Minh sau khi hỏi ý kiến vợ đã trả lời rằng bà Minh không đi.
Những người có mặt trong phòng họp cũng không ai đi. Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, một luật sư công giáo, nói dứt khoát ông ở lại. Còn thủ tướng Vũ Văn Mẫu cho biết ông không đi trong những điều kiện như thế này. Nếu sau này chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam cho ra đi chính thức thì ông sẽ đi. Có lẽ người duy nhất có ý định ra đi là giáo sư Bùi Tường Huân, được dự kiến làm tổng trưởng quốc phòng. Anh Huân hỏi lại ông Minh: “Tôi về nhà sắp xếp để vợ con cùng đi còn kịp không?”. Ông Minh trả lời là tàu VNTT không thể chờ đợi lâu. Nếu quyết định đi là phải đi ngay. Thế là giáo sư Huân quyết định không đi nữa. Anh không hay rằng vợ anh, con cái của anh đã di tản chiều hôm qua với gia đình bên vợ (chị vợ của anh Huân là ca sĩ Hà Thanh). Tối hôm qua, anh cùng một số thành viên khác ngủ lại ở phủ thủ tướng nên không hay chuyện ra đi của gia đình. Khi anh trở về nhà thì trong nhà chẳng còn thứ gì giá trị vì nhà anh đã bị cướp sạch. Anh Hồ Văn Minh cũng nói dứt khoát không đi.
Lúc này tôi ngồi kế bên ông Minh. Ông quay sang nói nhỏ với tôi:
“Chung, toa nên đi.Toa có con đông”. Ông nghĩ đến 5 đứa con của tôi. Thỉnh thoảng khi thân mật ông Minh vẫn xưng hô “toa, moa” với tôi. Tôi trả lời:
“Đại tướng không đi phải không? Tôi cũng không đi”. Ông lặp lại đến hai lần lời khuyên đó nhưng vẫn thấy tôi tỏ ra rất dứt khoát nên ông không thuyết phục nữa. Khi từ chối chuyện ra đi, lúc đó tôi chẳng phải suy nghĩ gì nhiều. Ý nghĩ ra đi chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Ở lại, với tôi, là tất yếu, là cái tiếp theo lô gích của những chọn lựa và thái độ chính trị của tôi trước đó. Vợ chồng tôi chưa bao giờ đem chuyện “đi hay ở” ra bàn với nhau. Quỳnh Nga, vợ tôi cũng không hề băn khoăn về chuyện này. Trước đó mấy ngày, khi một người Mỹ (dạy Anh văn cho tôi) đến nhà gặp vợ tôi, đưa ra giấy ưu tiên đi bằng máy bay của Mỹ cho cả gia đình tôi (gồm bảy người) – tôi không có ở nhà - vợ tôi đã tự quyết định từ chối.
...Sau khi mọi người có mặt đều quyết định không đi, phòng họp lại im lặng.
Bỗng có người vào báo cáo có một khách người Pháp muốn gặp tổng thống Dương Văn Minh. Tôi cùng ông bước ra. Đó là cựu tướng Pháp Vanuxem đã từng thất trận ở cuộc chiến tranh Đông Dương thời thực dân Pháp. Gần đây ông trở qua Việt Nam đóng vai trò cố vấn quân sự cho chính phủ Thiệu như kiểu chuyên gia chiến tranh du kích người Anh Sir Robert Thompson mang những kinh nghiệm chống cộng ở Mã Lai sang làm cố vấn cho hai anh em Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu trong những năm đầu của chế độ đệ nhất cộng hòa! Nhưng Vanuxem không được ông Thiệu tin dùng. Ông Minh bắt tay Vanuxem và hỏi lý do ông ta muốn gặp ông.
Vanuxem cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanuxem, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay. Ông Minh cười chua chát: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai...”. Đứng xớ rớ một lúc, Vanuxem biến lúc nào tôi không nhớ.
Cũng đúng lúc này có điện thoại từ chùa Ấn Quang của sinh viên đấu tranh Nguyễn Hữu Thái. Tôi không rõ Thái rời khỏi chỗ ẩn náu tại nhà tôi từ một năm qua, vào lúc nào. Lúc này Thái đang có mặt tại chùa Ấn Quang, anh cho biết thượng tọa Thích Trí Quang muốn nói chuyện trực tiếp với ông Minh. Cuộc nói chuyện kéo dài khoảng hai phút. Sau đó thượng tọa Trí Quang nói chuyện với giáo sư Vũ Văn Mẫu. Tôi được biết nội dung hai cuộc điện đàm này của thượng tọa Thích Trí Quang nhằm thuyết phục tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Nhưng tôi lại e ngại, nếu đầu hàng chính thức đơn phương thì sẽ ra sao? Vì nhiều đơn vị quân đội VNCH vẫn còn đó, có khả năng sẽ phản ứng điên cuồng.
Khoảng 10 giờ, tổng thống Minh lên ô tô đi đến Dinh Độc Lập. Các thành viên khác của chính phủ và một số dân biểu nghị sĩ cũng lên xe mình đến Dinh Độc Lập. Tôi cùng ngồi xe của tổng thống Minh. Lúc này toàn bộ các mô tô cảnh sát danh dự, gồm tám chiếc còn đầy đủ, vẫn đi theo bảo vệ xe tổng thống. Đoàn xe tổng thống đi ngang qua tòa đại sứ Mỹ trên đại lộ Thống Nhất, ông Minh nhìn thấy trước mắt cảnh tòa đại sứ Mỹ đang bị dân chúng ùa vào “làm thịt”: từng đoàn người từ trong sứ quán hối hả đi ra, khuân vác nào là máy đánh chữ, ti vi, ghế, tủ, bàn v.v... Từ trên lầu sứ quán, những tấm thảm cắt ra từng miếng dài khoảng 5-6 mét được ném xuống sân... Thế là nơi tượng trưng cho quyền lực nước Mỹ, tưởng như bất khả xâm phạm giờ đây tan tác... như một đống rác khổng lồ!
Đoàn xe của tổng thống Minh đi trên đại lộ Thống Nhất vắng tanh người - ngoại trừ đoạn đường trước sứ quán Mỹ. Phần đông dân Sài Gòn đều rút vào nhà. Số người tiếp tục nuôi ý định ra đi kéo nhau xuống bến Bạch Đằng với hy vọng gặp được chuyến tàu nào đó chưa kịp rời bến. Một số người khác dùng mọi phương tiện chạy về hướng miền Tây tìm đường ra biển.
Ngồi trong xe bên cạnh ông Minh đi đến Dinh Độc Lập, chưa bao giờ tôi thấy gần gũi và gắn bó với ông như lúc này. Trong đời ông trải qua nhiều giây phút lịch sử nhưng có lẽ những giây phút này là trọng đại nhất. Nhưng tôi vẫn thấy ông điềm tĩnh một cách lạ lùng. Ông chẳng nói gì cả, nét mặt bình thản. Ông vốn không thích dùng nhiều lời lẽ rườm rà và hoa mỹ để giải thích các quyết định của mình.
Tôi lên tiếng để phá vỡ sự im lặng: “Nếu cả chính phủ Sài Gòn sau này buộc phải đi “an trí”, tôi sẽ yêu cầu được quản thúc chung với đại tướng. Để chi, đại tướng biết không?”. Ông quay nhìn tôi: “Để chi?” – “Để đại tướng và tôi có thể tiếp tục nói chuyện tennis với nhau!” Ông Minh vỗ đùi tôi, cười. Tôi cùng ông Minh đi đến Dinh Độc Lập mà trong lòng chẳng có một đắn đo nào. Thật lạ lùng làm sao. Sau này khi nhớ lại thời điểm đó tôi cố gắng nhớ lại trong đầu mình lúc đó nghĩ gì. Nhưng không làm sao nhớ ra bởi thật sự lúc đó tôi như người bị cuốn hút về một hướng đã định sẵn từ một hai năm trước rồi. Dinh Độc Lập, nơi đoàn quân giải phóng sẽ đến, vào lúc này, đúng là điểm hẹn của Lịch sử. Ông Dương Văn Minh đi đến đó mà không hề bị ai bắt buộc. Trưa hôm qua, 29-4-1975, người cuối cùng từng lãnh đạo miền Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ, cũng đã thoát thân trên chiếc Huey, trực thăng của ông. Khi máy bay sắp rời khỏi mặt đất, tướng Ngô Quang Trưởng xuất hiện và cũng được tướng Kỳ... mời nhảy lên. Trực thăng của họ bay ra hướng biển và liên lạc được với tàu sân bay Midway.
...Chiếc xe của tổng thống Minh và đoàn mô tô bảo vệ đến Dinh Độc Lập khoảng 9 giờ 30 sáng. Ở cửa chính vẫn còn lính gác. Ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng của nội các Nguyễn Bá Cẩn, nội các cuối cùng của chính phủ Thiệu, có mặt ở phòng họp chính. Theo chương trình đã định trước thì phó thủ tướng Hảo sẽ đại diện cho nội các cũ thực hiện cuộc bàn giao cho nội các mới của ông Dương Văn Minh. Nhưng cuộc bàn giao giữa hai nội các cũ và mới đã không xảy ra.
Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu. Trong lúc chờ quân giải phóng đến, tôi chợt nhớ binh lính bảo vệ Dinh Độc Lập chưa nhận được lệnh không nổ súng. Tôi đề nghị ông Minh nên ra lệnh tất cả các binh lính bảo vệ dinh phải nộp vũ khí, bởi chỉ cần một người lính nào đó điên cuồng bóp cò thì hậu quả không thể nào lường được. Tổng thống Minh giao cho thiếu tá Hoa Hải Đường thực hiện lệnh của ông. Lúc này tôi không thấy đại tá Đẩu có mặt ở dinh. Đại tướng Minh có hai tuỳ viên quân sự là đại tá Đẩu và thiếu tá Đường. Đại tá Đẩu vừa được thăng cấp cách đây không lâu và là cấp cao nhất trong văn phòng của đại tướng Minh. Còn thiếu tá Đường là con của ông Hoa Văn Mùi, đã từng là giám đốc cảnh sát thời Diệm rồi tổng lý văn phòng một bộ (nhân vật thứ ba trong bộ đứng sau bộ trưởng và thứ trưởng), nhưng lại được nhiều người biết tiếng khi ông là cầu thủ đội tuyển bóng đá miền Nam thập niên 40. Ông Mùi cùng thời với những danh thủ như Tốt, Guichard, Paccini, Bửu (tức Trương Tấn Bửu, giám đốc Sở Thể dục Thể thao TP. HCM đầu tiên sau giải phóng). Thành tích của ông Mùi là từng vô hiệu hoá “cầu vương” Lý Huệ Đường của Hồng Kông mặc dù về thể hình ông hơi thấp người.
Luật sư, nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền được ông Minh chọn làm phó tổng thống, lúc đầu có mặt tại Dinh Độc Lập nhưng sau đó lại về nhà riêng. Luật sư, nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, thủ tướng chính phủ vẫn có mặt tại dinh vào thời điểm này.
Thời gian chờ đợi căng thẳng tôi chợt nghĩ: cũng nên có mặt nhà báo vào lúc quân giải phóng vào Dinh Độc Lập. Lúc này tôi nhớ đến nhà báo nữ V.T.T. Mai làm cho hãng thông tấn AFP. Với tôi, Mai không chỉ là một nhà báo mà còn là một mối thâm tình. Tôi rất mong sự hiện diện của Mai vào lúc này. Tôi gọi điện cho Mai. Và Mai đến ngay với trưởng văn phòng AFP tại Sài Gòn Jean Louis Arnaud. Lúc nào Arnaud cũng ăn mặc trịnh trọng. Một bộ complet màu trắng khói, trên cổ thắt một chiếc nơ và trên tay có sẵn một cuốn sổ nhỏ.
Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T-54 của quân giải phóng xuất hiện ở từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp. Chiếc tăng to lớn tiến gần, đến khoảng ngang nhà thờ Đức Bà thì đột ngột nổ liền hai phát nhưng không nhắm vào Dinh Độc Lập. Nhưng tiếng nổ của hai phát đại bác đã gây hoảng hốt cho tất cả những người đang đứng chờ ở tiền đình. Thế là tất cả lui vào phòng làm việc của ông Thiệu và.. lo lắng chờ.
Sau này các tài liệu viết rằng chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.
Chỉ ít phút sau, tiếng chân người vang dội trong sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Sau này có nhiều nhà báo nước ngoài trở lại sự kiện 30-4 này hỏi tôi lúc đó có lo sợ không? – Tôi không chối cãi mình có lo sợ. Một phần vì tôi chưa từng đối diện với quân giải phóng. Những suy nghĩ riêng và niềm tin trong lòng của mình về họ, chưa qua thực tế, không đủ để trấn an tôi hoàn toàn vào giây phút này. Mặt khác hoàn toàn không thể đoán trước chuyện gì sẽ xảy ra nếu có hỗn loạn.
...Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống Dương Văn Minh. Đi sát bên ông Minh là thiếu tá Hoa Hải Đường. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Tôi trao cái cặp da xách tay của tôi cho dân biểu Thạch Phen rồi mạnh dạn bước theo. Chúng tôi vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội. Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh học sinh sinh viên. Tôi nhớ hình như có các anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Triệu Bình, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành, Huỳnh Văn Tòng v.v... Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: “Mình thắng rồi!”, trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế của người đầu hàng. Nước mắt tôi trào ra, tôi khóc vì quá sung sướng thấy cuộc chiến tranh kéo dài triền miên trên quê hương mình đã kết thúc. Tính cả thời Pháp đô hộ là 117 năm! Nhưng trong nước mắt ấy có cả những giọt xót xa: Mình từng chống Mỹ, chống Thiệu để khi kết thúc, mình lại thay Mỹ thay Thiệu đầu hàng! Dù rằng tôi cũng đã sẵn sàng tinh thần để chấp nhận tình thế này, nhưng khi nó diễn ra, lòng vẫn không thể không nhói đau!
Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này tôi biết đó là người chỉ huy chiếc tăng ký hiệu 843 tên là Bùi Quang Thận lúc đó mang hàm đại úy. Nói về sự kiện 30-4 tại Dinh Độc Lập, có một hai bài viết kể tên một ai đó đã đưa bộ đội lên hạ cờ. Tôi không biết ở Dinh Độc Lập còn có một nơi nào khác treo cờ hay không ngoài cột cờ trên sân thượng. Năm 1990, khi kỷ niệm 15 năm giải phóng miền Nam, một hãng truyền hình Nhật có mời tôi và trung tá cùng tái hiện lại những giây phút tôi đưa đại uý Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ của chế độ Sài Gòn.
Trước ống kính của truyền hình Nhật, chúng tôi cùng tái hiện lại những diễn tiến tại Dinh Độc Lập 15 năm về trước:
...Sau khi nhận chỉ thị của ông Minh, tôi đưa người bộ đội trẻ tuổi đến thang máy để lên sân thượng. Đến trước thang máy, tôi bấm nút cho cửa mở. Khi cửa mở rồi người bộ đội trẻ vẫn chưa chịu bước vào. Tôi đoán trong đời anh chưa bao giờ đặt chân vào một thang máy. Tôi nói với người bộ đội trẻ: “Anh vào đi. Không có gì lo. Tôi cùng vào với anh”. Nói xong, tôi vào trước. Sau ít giây do dự, anh bước vào, trên tay là khẩu súng và lá cờ Giải phóng. Tôi không thể tưởng tượng được có một ngày như hôm nay: đi thang máy chung với một người bộ đội. Tôi bấm nút lên tầng cuối cùng. Trước đây tôi có vào Dinh Độc Lập nhiều lần nhưng chưa bao giờ lên đến sân thượng. Bước ra khỏi thang máy, tôi nhìn thấy ngay khu vườn hoa của bà Nguyễn Văn Thiệu mà có lần bà đã than phiền tướng Kỳ, lúc còn làm phó tổng thống, đã làm hư hại nó do mỗi ngày tướng Kỳ đi làm đều đáp trực thăng riêng xuống đây. Thời điểm đó, văn phòng của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ còn đặt chung trong Dinh Độc Lập. Cách thang máy không xa, ở phía trước sân thượng, sát bên ngoài là chỗ cắm cờ. Người bộ đội đi thẳng ra đó hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Tôi không bước ra theo. Tôi đứng phía trong một lúc, rồi quay trở lại thang máy đi xuống trước một mình.
Trong một bài báo kỷ niệm ngày 30-4-1975 của một tác giả đã đăng vào dịp tháng 4-2003, có ghi lại lời kể của ông Thận khi gặp ông Minh: Ông yêu cầu ông Minh chỉ đường lên hạ cờ ngụy quyền thì ông Minh liền nói với người đứng kế bên thực hiện lời yêu cầu này. Người đứng kế bên ông Minh chính là tôi.
Xem lại các bức ảnh ghi lại giây phút lịch sử này, tôi thấy ngoài lá cờ được đại uý Bùi Quang Thận treo cao trên nóc Dinh Độc Lập - cột cờ chính thức của Dinh – còn thấy xuất hiện hai hay ba chiến sĩ bộ đội đứng phất cờ tại bao lơn (balcon) ở tầng một. Có lẽ chính vì thế mà có sự ngộ nhận đại uý Thận không phải là người duy nhất treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập và cũng có lý khi có người khác cũng nhận là mình đã hướng dẫn bộ đội lên treo cờ.
...Khi từ sân thượng tôi trở xuống đại sảnh thì mọi người đã vào trong phòng họp có cái bàn to hình ô van nằm bên cánh phải Dinh Độc Lập. Tôi nghe một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: “Anh hãy viết ngay một bản tuyên bố đầu hàng”. Ông Minh trả lời rằng sáng này ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”. Lúc này trong những người chứng kiến cuộc đối thoại, có một người mặc thường phục đứng bên cạnh kỹ sư Tô Văn Cang - một trí thức Sài Gòn có quan hệ với Mặt Trận. Người mặc thường phục tự giới thiệu mình là người hoạt động cách mạng nội thành và nói với viên chỉ huy bộ đội: “Ông Minh là người hoạt động cho hòa giải hòa hợp dân tộc. Anh nên đối xử nhẹ nhàng với ông”. Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy đề nghị ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng. Viên chỉ huy yêu cầu những thành viên chính thức của chính phủ đang có mặt gồm tổng thống Minh, thủ tướng Mẫu và tổng trưởng thông tin là tôi cùng đến đài phát thanh. Tôi chuẩn bị bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng anh Thạch Phen gọi tôi lại. Anh Thạch Phen trả cho tôi cái cặp da tôi đã nhờ anh cầm giùm lúc nãy. Anh Phen tưởng tôi quên. Thật sự tôi vẫn nhớ nhưng tôi thấy chẳng cần thiết phải lấy lại. Trong cặp là toàn bộ số tiền tôi đã lãnh một ngày trước đó ở Hạ nghị viện trước khi toà nhà lập pháp này đóng cửa. Trong những ngày cuối cùng, chủ tịch Hạ nghị viện đã ký rút ra gần hết số tiền thuộc ngân sách của Hạ nghị viện và ứng trước tiền phụ cấp và đủ các thứ tiền khác thành một cục phát cho tất cả các dân biểu. Tôi nhớ số tiền đó hình như tương đương cả 7-8 chục triệu tiền bây giờ. Phụ cấp hàng tháng của một dân biểu nghị sĩ lúc đó là rất cao trong xã hội. Tôi định bỏ luôn cái cặp vì nghĩ tiền của chế độ Sài Gòn sẽ không còn xài nữa. Tôi miễn cưỡng lấy lại cái cặp trên tay dân biểu Thạch Phen.
Trước khi rời Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh nói với vị chỉ huy bộ đội: “Vợ tôi vẫn đang ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm”. Viên chỉ huy đáp “Anh hãy an tâm”.
Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến Đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe Jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và ông Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi “Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại”. Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ.
Nghe thế tôi lại đi trở ra. Sau này được biết, khi hai ông Minh và ông Mẫu vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát vào lúc 13 giờ 30. Sau đó hai ông Minh và ông Mẫu được đưa trở lại Dinh Độc Lập. Vào lúc 17 giờ 30, luật sư Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống Sài Gòn trở vào Dinh Độc Lập trình diện. Ông Huyền đã rời Dinh Độc Lập nửa giờ trước khi quân đội giải phóng vào Dinh.
Đài phát thanh Sài Gòn nằm ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Cổng chính lúc đó mở ra đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ra khỏi đài, tôi rẽ qua đường Phan Đình Phùng, đi bộ ngược về hướng trung tâm thành phố vì tôi không còn xe riêng, taxi cũng không có. Dáo dác tìm “Honda ôm” cũng không ra. Một tay cầm áo vét và một tay xách cái cặp da đầy “giấy lộn” (trong đầu tôi vẫn nghĩ thế) chẳng biết vứt đi đâu. Trong đầu tôi rất lộn xộn: mừng vui lẫn buồn tủi. Cái hình ảnh được anh em ôm lấy và hô lên “Mình thắng rồi” nhưng trong tư thế hai tay giơ cao đầu hàng vẫn quay tới quay lui trong đầu. Đi một lúc khá lâu tôi ngửng đầu lên. Thật bất ngờ. Ngay trước mặt tôi bên kia đường (ngã tư Công Lý – Phan Đình Phùng) là... trụ sở Bộ thông tin, nơi mới hôm qua tôi còn triệu tập họp các viên chức chỉ huy của bộ với tư cách bộ trưởng. Tôi dừng bước lại. Nhớ lại chiếc cà vạt vẫn còn thắt trên cổ, tôi liền tuột nó ra. Chân tôi tự động quay ngược lại. Đúng lúc đó may mắn có một anh chạy xe ôm hất hàm hỏi tôi có đi không, tôi gật đầu.
Xe Honda đưa tôi về hướng quận 10 nhưng tới cuối đường Hiền Vương (bây giờ là Võ Thị Sáu) thì nghe những tiếng nổ dữ dội. Tôi thấy xa xa một chiếc xe tăng T54. Người chạy tán loạn. Tôi đoán phía quận 10 còn hỗn loạn. Tôi bèn quyết định tạm qua đêm nay tại nhà của trung tá Nguyễn Đức Hồng là chánh văn phòng của tôi ở khu Tân Định. Đến đây, tôi điện thoại về nhà cho vợ tôi. Lúc này tôi không còn kềm được nước mắt. Như thể bị ngăn lại từ sáng, nước mắt bây giờ tha hồ tuôn ra. Vợ tôi chia sẻ sự xúc động của chồng nhưng dĩ nhiên vợ tôi chưa hiểu hết những gì xảy ra với tôi trong ngày 30-4 này, từ sáng đến giờ. Tôi đã trải qua những giây phút kỳ diệu và kỳ lạ nhất đời mình. Vợ tôi cho hay cả nhà đều bình yên và cho biết gia đình anh Dương Văn Ba từ nơi “tị nạn chính trị” của anh ở trong Dinh Hoa Lan đã “di tản” ra nhà tôi.
Đêm 30-4-1975 tôi quá mỏi mệt nằm xuống ngủ như chết. Sáng hôm sau tôi thức dậy sực nhớ biến cố lịch sử đã xảy ra, một cảm giác thật lạ lùng lan toả trong người tôi. Tôi nằm yên một lúc lâu lắng nghe cái cảm giác ấy. Không hiểu sao, nó làm tôi nhớ lại cái buổi sáng tôi mới có đứa con đầu tiên. Thức dậy và thấy mình không còn như trước. Một thay đổi lớn đã đến với đời mình. Sáng ngày 1-5-1975 tôi cũng có một cảm giác như thế!
Thay đồ xong, chưa ăn sáng, tôi gọi về nhà. Tôi được biết vợ con đã sang nhà cha mẹ tôi bên đường Bà Hạt. Trung tá Hồng lấy xe Honda đưa tôi đến nhà cha mẹ. Gặp lại vợ con tôi cứ ngỡ mình trở về từ một chuyến đi thật xa. Cả đại gia đình tôi, từ cha mẹ, bảy đứa em – sáu gái và một trai – hai em rể và gia đình riêng của tôi - vợ và năm con - đều có mặt đông đủ. Gặp lại những người thân yêu không thiếu một người, đều bình yên, tôi vô cùng xúc động. Cha tôi lặng im nhìn tôi. Tôi đọc thấy trong mắt ông câu hỏi ‘‘Vậy con có bình yên hay không?’‘. Cuộc đời công chức của cha tôi sẽ hết sức bình thản nếu... không có tôi. Ông bị mất chức, về hưu sớm, vì từ chối với chính quyền Thiệu không gây áp lực với con mình ngưng các hoạt động chống chính phủ Thiệu. Giờ đây lại âu lo không biết sự thay đổi chính trị có ảnh hưởng gì đến con trai mình hay không? Buổi ăn trưa hôm đó cũng là lúc tôi kể lại cho cả nhà nghe các diễn tiến xảy ra trong buổi sáng ngày 30-4 đến khi về nhà ông Nguyễn Đức Hồng. Tôi nhìn thấy mẹ tôi khóc. Bà không hiểu nhiều về chính trị nhưng bà có trái tim yêu quê hương. Bà luôn ủng hộ các hoạt động của con trai mình dù các hoạt động đó có ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp của chồng. Bằng sự nhạy cảm của người mẹ, bà hiểu được con trai mình đã trải qua sự kiện trọng đại này của đất nước như thế nào...
Xong cơm trưa vào phòng nghỉ, vợ tôi âu lo nói với tôi: “Gia đình mình chẳng còn đồng nào. Còn lại chút ít, mấy ngày chót đã tiêu xài hết…” Thực tế là trong nhà tôi không có lúc nào dư dả. Làm báo thì sống bằng lương và nhuận bút. Báo bị đóng cửa thì gặp khó khăn ngay. Làm dân biểu 3 nhiệm kỳ suốt mười năm thì sống bằng phụ cấp của quốc hội, thoải mái hơn nhưng cũng không thật dư dả. Vợ tôi thường than phiền không cho bà buôn bán làm ăn, cứ sợ bị mang tiếng (mãi đến khi chúng tôi chia tay nhau bà mới bắt đầu kinh doanh).
Tôi sực nhớ lại cái cặp da. Tôi hỏi vợ tôi “Em thấy ngoài chợ tiền cũ còn xài không?”. Vợ tôi cho biết vẫn xài. Tôi đi tìm cái cặp mà đã mấy lần tôi định vứt nó. Thế là “đống giấy lộn” (tôi tưởng là như thế) đã “nuôi” được gia đình tôi mấy tháng đầu sau ngày 30-4!
Từ 30-4-1975 cho đến 2-5-1975, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu và một số dân biểu, nghị sĩ vẫn còn ở trong Dinh Độc Lập. Dự kiến sau khi đại diện Ủy ban Quân quản gặp họ, tất cả sẽ được tự do ra về. Trong hai ngày ông bà Minh còn ở lại trong Dinh Độc Lập, vợ tôi đã mang các bữa ăn sáng trưa và chiều vào Dinh cho hai ông bà. Ngày 2-5-1975, chủ tịch Ủy ban Quân quản Trần Văn Trà đã nói: “Người Việt Nam chúng ta không có ai thắng hay bại, người chiến thắng là toàn thể dân tộc Việt Nam và kẻ bại là đế quốc Mỹ”.
Chiều 2-5-1975, nhà báo Pháp Jean Louis Arnaud điện thoại hẹn tôi để thực hiện bài phỏng vấn đầu tiên sau ngày 30-4 cho AFP. Ông Arnaud không khỏi ngạc nhiên khi nghe những lời phát biểu đầy phấn khởi và xúc động của tôi về chiến thắng 30-4. Bởi chính ông đã chứng kiến cảnh tôi đưa hai tay lên đầu hàng. Ông không hiểu được người giơ tay đầu hàng lại chia sẻ niềm vui với người chiến thắng? Tôi nói: “Trước hết đội quân chiến thắng là người Việt Nam, đồng bào tôi. Họ đã chiến thắng thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ, mang lại độc lập và thống nhất cho xứ sở. Họ đã làm được điều mà nhiều người Việt Nam như tôi không làm được...”. Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư: đó là hoà bình và thống nhất.
Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ (www.nxbtre.com.vn), TP HCM, 2004, 486 tr., 97.000 đ
XIV
25. Thời khắc lịch sử: Đầu hàng
8 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, các nhân vật dự kiến trong tân nội các tập trung tại phủ thủ tướng nằm ở cuối đại lộ Thống Nhất. Một số thành viên của tân chính phủ đã ngủ đêm tại đây.
Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu... Các thành viên khác ngồi chờ đợi buổi họp ở phòng bên ngoài.
Ông Minh mở đầu buổi họp bằng việc trình bày tình hình quân sự nói chung và Sài Gòn nói riêng là không còn cứu gỡ. Cũng không nên nghĩ tới một cuộc thương thuyết chính trị với chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam và Hà Nội, qua trung gian chính phủ Pháp. Trong khi đó tình hình an ninh của thành phố Sài Gòn rất nguy ngập, hỗn loạn và cướp bóc có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng chính phủ hoàn toàn không có khả năng kiểm soát. Và ông Dương Văn Minh kết luận: “Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Phòng họp im lặng, không có ai phản đối, kể cả những vị mới biết được quyết định này.
Được sự đồng ý của những thành viên chính yếu của chính phủ, ông Minh ra lệnh cho tôi với tư cách tổng trưởng thông tin cho gọi các nhân viên kỹ thuật của đài truyền hình và đài phát thanh đến để thu âm bài tuyên bố. Tôi bước ra khỏi phòng và truyền lệnh cho anh Dương Văn Ba, thứ trưởng thông tin, với lời dặn: nói với anh em rằng đã có thỏa hiệp ngưng bắn và hòa bình rồi, anh em đến để thu lời tuyên bố của tổng thống nói chuyện với đồng bào. Tôi dặn như thế để anh em phấn khởi sẵn sàng làm nhiệm vụ mà không bỏ trốn. Bởi lúc bấy giờ rất ít công sở còn nhân viên đi làm.
Khoảng 15 phút sau, anh em kỹ thuật viên đến vì đài truyền hình rất gần phủ thủ tướng. Và cuộc thu âm bài tuyên bố giao quyền của tổng thống Dương Văn Minh bắt đầu, chỉ thu tiếng chứ không có điều kiện thu hình. Lần thu đầu tiên, ông Minh cho dừng lại vì có đoạn ông đọc vấp. Lần thứ hai cũng hỏng vì có người đẩy cửa vào gây tiếng động. Đến lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh.
Khi tôi bước ra phòng họp cùng anh em kỹ thuật viên thì gặp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổng tham mưu trưởng, giờ đây có quyền hành như tổng tham mưu trưởng vì trung tướng Vĩnh Lộc cùng trung tướng Trần Văn Trung chạy khỏi Sài Gòn bằng tàu hải quân sáng 30 tháng 4. Chuẩn tướng Hạnh nói với ông Dương Văn Minh: “Xin để tôi trực tiếp mang đi cho chắc ăn. Nhưng theo tôi, ngoài bản tuyên bố của tổng thống cho dân chúng, cần có một nhật lệnh của tổng tham mưu trưởng ra lệnh trực tiếp cho quân đội không được nổ súng nữa...”. Ông Minh tán đồng đề xuất của anh Hạnh và yêu cầu anh thảo luôn nhật lệnh.
Tướng Hạnh cầm cuộn băng và bản nhật lệnh đi đến đài. Anh nói với tôi: anh sẽ đọc và thu bản nhật lệnh tại đài. Nhớ lại chi tiết này, tôi thấy đóng góp của anh Nguyễn Hữu Hạnh vào lúc này thật ý nghĩa và thiết thực.
Trước khi phiên họp kết thúc, ông Minh nói: “Bắt đầu từ giớ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do quyết định sự lựa chọn của mình: Đi hay ở lại. Tôi xin thông báo cho anh em nào muốn đi: hiện chiếc tàu Việt Nam Thương Tín (VNTT) vẫn còn đậu ở cảng...”. Ông Minh thông báo rõ cổng số mấy, bến số mấy, để lên tàu VNTT, chiếc tàu thủy viễn dương lớn nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, dân biểu Nguyễn Hữu Chung điện thoại cho ông Minh nói rõ tàu VNTT đang chờ ở đâu để những thành viên nào trong chính phủ muốn ra đi thì đến đó. Chính một người của anh Nguyễn Hữu Chung lái chiếc tàu này. Tàu có giấy phép của chính phủ cho rời bến với lý do chính thức là “để tránh pháo kích của cộng quân”. Nhưng thực sự đây là một giấy phép trá hình cho tàu được di tản. Trong khi liên lạc điện thoại với ông Minh, Chung Nguyễn còn tỏ ý chờ bà Dương Văn Minh sẽ ra đi theo con gái, con rể và hai cháu ngoại (đã đi trước đó hai ngày). Nhưng ông Minh sau khi hỏi ý kiến vợ đã trả lời rằng bà Minh không đi.
Những người có mặt trong phòng họp cũng không ai đi. Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, một luật sư công giáo, nói dứt khoát ông ở lại. Còn thủ tướng Vũ Văn Mẫu cho biết ông không đi trong những điều kiện như thế này. Nếu sau này chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam cho ra đi chính thức thì ông sẽ đi. Có lẽ người duy nhất có ý định ra đi là giáo sư Bùi Tường Huân, được dự kiến làm tổng trưởng quốc phòng. Anh Huân hỏi lại ông Minh: “Tôi về nhà sắp xếp để vợ con cùng đi còn kịp không?”. Ông Minh trả lời là tàu VNTT không thể chờ đợi lâu. Nếu quyết định đi là phải đi ngay. Thế là giáo sư Huân quyết định không đi nữa. Anh không hay rằng vợ anh, con cái của anh đã di tản chiều hôm qua với gia đình bên vợ (chị vợ của anh Huân là ca sĩ Hà Thanh). Tối hôm qua, anh cùng một số thành viên khác ngủ lại ở phủ thủ tướng nên không hay chuyện ra đi của gia đình. Khi anh trở về nhà thì trong nhà chẳng còn thứ gì giá trị vì nhà anh đã bị cướp sạch. Anh Hồ Văn Minh cũng nói dứt khoát không đi.
Lúc này tôi ngồi kế bên ông Minh. Ông quay sang nói nhỏ với tôi:
“Chung, toa nên đi.Toa có con đông”. Ông nghĩ đến 5 đứa con của tôi. Thỉnh thoảng khi thân mật ông Minh vẫn xưng hô “toa, moa” với tôi. Tôi trả lời:
“Đại tướng không đi phải không? Tôi cũng không đi”. Ông lặp lại đến hai lần lời khuyên đó nhưng vẫn thấy tôi tỏ ra rất dứt khoát nên ông không thuyết phục nữa. Khi từ chối chuyện ra đi, lúc đó tôi chẳng phải suy nghĩ gì nhiều. Ý nghĩ ra đi chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Ở lại, với tôi, là tất yếu, là cái tiếp theo lô gích của những chọn lựa và thái độ chính trị của tôi trước đó. Vợ chồng tôi chưa bao giờ đem chuyện “đi hay ở” ra bàn với nhau. Quỳnh Nga, vợ tôi cũng không hề băn khoăn về chuyện này. Trước đó mấy ngày, khi một người Mỹ (dạy Anh văn cho tôi) đến nhà gặp vợ tôi, đưa ra giấy ưu tiên đi bằng máy bay của Mỹ cho cả gia đình tôi (gồm bảy người) – tôi không có ở nhà - vợ tôi đã tự quyết định từ chối.
...Sau khi mọi người có mặt đều quyết định không đi, phòng họp lại im lặng.
Bỗng có người vào báo cáo có một khách người Pháp muốn gặp tổng thống Dương Văn Minh. Tôi cùng ông bước ra. Đó là cựu tướng Pháp Vanuxem đã từng thất trận ở cuộc chiến tranh Đông Dương thời thực dân Pháp. Gần đây ông trở qua Việt Nam đóng vai trò cố vấn quân sự cho chính phủ Thiệu như kiểu chuyên gia chiến tranh du kích người Anh Sir Robert Thompson mang những kinh nghiệm chống cộng ở Mã Lai sang làm cố vấn cho hai anh em Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu trong những năm đầu của chế độ đệ nhất cộng hòa! Nhưng Vanuxem không được ông Thiệu tin dùng. Ông Minh bắt tay Vanuxem và hỏi lý do ông ta muốn gặp ông.
Vanuxem cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanuxem, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay. Ông Minh cười chua chát: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai...”. Đứng xớ rớ một lúc, Vanuxem biến lúc nào tôi không nhớ.
Cũng đúng lúc này có điện thoại từ chùa Ấn Quang của sinh viên đấu tranh Nguyễn Hữu Thái. Tôi không rõ Thái rời khỏi chỗ ẩn náu tại nhà tôi từ một năm qua, vào lúc nào. Lúc này Thái đang có mặt tại chùa Ấn Quang, anh cho biết thượng tọa Thích Trí Quang muốn nói chuyện trực tiếp với ông Minh. Cuộc nói chuyện kéo dài khoảng hai phút. Sau đó thượng tọa Trí Quang nói chuyện với giáo sư Vũ Văn Mẫu. Tôi được biết nội dung hai cuộc điện đàm này của thượng tọa Thích Trí Quang nhằm thuyết phục tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Nhưng tôi lại e ngại, nếu đầu hàng chính thức đơn phương thì sẽ ra sao? Vì nhiều đơn vị quân đội VNCH vẫn còn đó, có khả năng sẽ phản ứng điên cuồng.
Khoảng 10 giờ, tổng thống Minh lên ô tô đi đến Dinh Độc Lập. Các thành viên khác của chính phủ và một số dân biểu nghị sĩ cũng lên xe mình đến Dinh Độc Lập. Tôi cùng ngồi xe của tổng thống Minh. Lúc này toàn bộ các mô tô cảnh sát danh dự, gồm tám chiếc còn đầy đủ, vẫn đi theo bảo vệ xe tổng thống. Đoàn xe tổng thống đi ngang qua tòa đại sứ Mỹ trên đại lộ Thống Nhất, ông Minh nhìn thấy trước mắt cảnh tòa đại sứ Mỹ đang bị dân chúng ùa vào “làm thịt”: từng đoàn người từ trong sứ quán hối hả đi ra, khuân vác nào là máy đánh chữ, ti vi, ghế, tủ, bàn v.v... Từ trên lầu sứ quán, những tấm thảm cắt ra từng miếng dài khoảng 5-6 mét được ném xuống sân... Thế là nơi tượng trưng cho quyền lực nước Mỹ, tưởng như bất khả xâm phạm giờ đây tan tác... như một đống rác khổng lồ!
Đoàn xe của tổng thống Minh đi trên đại lộ Thống Nhất vắng tanh người - ngoại trừ đoạn đường trước sứ quán Mỹ. Phần đông dân Sài Gòn đều rút vào nhà. Số người tiếp tục nuôi ý định ra đi kéo nhau xuống bến Bạch Đằng với hy vọng gặp được chuyến tàu nào đó chưa kịp rời bến. Một số người khác dùng mọi phương tiện chạy về hướng miền Tây tìm đường ra biển.
Ngồi trong xe bên cạnh ông Minh đi đến Dinh Độc Lập, chưa bao giờ tôi thấy gần gũi và gắn bó với ông như lúc này. Trong đời ông trải qua nhiều giây phút lịch sử nhưng có lẽ những giây phút này là trọng đại nhất. Nhưng tôi vẫn thấy ông điềm tĩnh một cách lạ lùng. Ông chẳng nói gì cả, nét mặt bình thản. Ông vốn không thích dùng nhiều lời lẽ rườm rà và hoa mỹ để giải thích các quyết định của mình.
Tôi lên tiếng để phá vỡ sự im lặng: “Nếu cả chính phủ Sài Gòn sau này buộc phải đi “an trí”, tôi sẽ yêu cầu được quản thúc chung với đại tướng. Để chi, đại tướng biết không?”. Ông quay nhìn tôi: “Để chi?” – “Để đại tướng và tôi có thể tiếp tục nói chuyện tennis với nhau!” Ông Minh vỗ đùi tôi, cười. Tôi cùng ông Minh đi đến Dinh Độc Lập mà trong lòng chẳng có một đắn đo nào. Thật lạ lùng làm sao. Sau này khi nhớ lại thời điểm đó tôi cố gắng nhớ lại trong đầu mình lúc đó nghĩ gì. Nhưng không làm sao nhớ ra bởi thật sự lúc đó tôi như người bị cuốn hút về một hướng đã định sẵn từ một hai năm trước rồi. Dinh Độc Lập, nơi đoàn quân giải phóng sẽ đến, vào lúc này, đúng là điểm hẹn của Lịch sử. Ông Dương Văn Minh đi đến đó mà không hề bị ai bắt buộc. Trưa hôm qua, 29-4-1975, người cuối cùng từng lãnh đạo miền Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ, cũng đã thoát thân trên chiếc Huey, trực thăng của ông. Khi máy bay sắp rời khỏi mặt đất, tướng Ngô Quang Trưởng xuất hiện và cũng được tướng Kỳ... mời nhảy lên. Trực thăng của họ bay ra hướng biển và liên lạc được với tàu sân bay Midway.
...Chiếc xe của tổng thống Minh và đoàn mô tô bảo vệ đến Dinh Độc Lập khoảng 9 giờ 30 sáng. Ở cửa chính vẫn còn lính gác. Ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng của nội các Nguyễn Bá Cẩn, nội các cuối cùng của chính phủ Thiệu, có mặt ở phòng họp chính. Theo chương trình đã định trước thì phó thủ tướng Hảo sẽ đại diện cho nội các cũ thực hiện cuộc bàn giao cho nội các mới của ông Dương Văn Minh. Nhưng cuộc bàn giao giữa hai nội các cũ và mới đã không xảy ra.
Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu. Trong lúc chờ quân giải phóng đến, tôi chợt nhớ binh lính bảo vệ Dinh Độc Lập chưa nhận được lệnh không nổ súng. Tôi đề nghị ông Minh nên ra lệnh tất cả các binh lính bảo vệ dinh phải nộp vũ khí, bởi chỉ cần một người lính nào đó điên cuồng bóp cò thì hậu quả không thể nào lường được. Tổng thống Minh giao cho thiếu tá Hoa Hải Đường thực hiện lệnh của ông. Lúc này tôi không thấy đại tá Đẩu có mặt ở dinh. Đại tướng Minh có hai tuỳ viên quân sự là đại tá Đẩu và thiếu tá Đường. Đại tá Đẩu vừa được thăng cấp cách đây không lâu và là cấp cao nhất trong văn phòng của đại tướng Minh. Còn thiếu tá Đường là con của ông Hoa Văn Mùi, đã từng là giám đốc cảnh sát thời Diệm rồi tổng lý văn phòng một bộ (nhân vật thứ ba trong bộ đứng sau bộ trưởng và thứ trưởng), nhưng lại được nhiều người biết tiếng khi ông là cầu thủ đội tuyển bóng đá miền Nam thập niên 40. Ông Mùi cùng thời với những danh thủ như Tốt, Guichard, Paccini, Bửu (tức Trương Tấn Bửu, giám đốc Sở Thể dục Thể thao TP. HCM đầu tiên sau giải phóng). Thành tích của ông Mùi là từng vô hiệu hoá “cầu vương” Lý Huệ Đường của Hồng Kông mặc dù về thể hình ông hơi thấp người.
Luật sư, nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền được ông Minh chọn làm phó tổng thống, lúc đầu có mặt tại Dinh Độc Lập nhưng sau đó lại về nhà riêng. Luật sư, nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, thủ tướng chính phủ vẫn có mặt tại dinh vào thời điểm này.
Thời gian chờ đợi căng thẳng tôi chợt nghĩ: cũng nên có mặt nhà báo vào lúc quân giải phóng vào Dinh Độc Lập. Lúc này tôi nhớ đến nhà báo nữ V.T.T. Mai làm cho hãng thông tấn AFP. Với tôi, Mai không chỉ là một nhà báo mà còn là một mối thâm tình. Tôi rất mong sự hiện diện của Mai vào lúc này. Tôi gọi điện cho Mai. Và Mai đến ngay với trưởng văn phòng AFP tại Sài Gòn Jean Louis Arnaud. Lúc nào Arnaud cũng ăn mặc trịnh trọng. Một bộ complet màu trắng khói, trên cổ thắt một chiếc nơ và trên tay có sẵn một cuốn sổ nhỏ.
Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T-54 của quân giải phóng xuất hiện ở từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp. Chiếc tăng to lớn tiến gần, đến khoảng ngang nhà thờ Đức Bà thì đột ngột nổ liền hai phát nhưng không nhắm vào Dinh Độc Lập. Nhưng tiếng nổ của hai phát đại bác đã gây hoảng hốt cho tất cả những người đang đứng chờ ở tiền đình. Thế là tất cả lui vào phòng làm việc của ông Thiệu và.. lo lắng chờ.
Sau này các tài liệu viết rằng chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.
Chỉ ít phút sau, tiếng chân người vang dội trong sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Sau này có nhiều nhà báo nước ngoài trở lại sự kiện 30-4 này hỏi tôi lúc đó có lo sợ không? – Tôi không chối cãi mình có lo sợ. Một phần vì tôi chưa từng đối diện với quân giải phóng. Những suy nghĩ riêng và niềm tin trong lòng của mình về họ, chưa qua thực tế, không đủ để trấn an tôi hoàn toàn vào giây phút này. Mặt khác hoàn toàn không thể đoán trước chuyện gì sẽ xảy ra nếu có hỗn loạn.
...Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống Dương Văn Minh. Đi sát bên ông Minh là thiếu tá Hoa Hải Đường. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Tôi trao cái cặp da xách tay của tôi cho dân biểu Thạch Phen rồi mạnh dạn bước theo. Chúng tôi vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội. Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh học sinh sinh viên. Tôi nhớ hình như có các anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Triệu Bình, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành, Huỳnh Văn Tòng v.v... Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: “Mình thắng rồi!”, trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế của người đầu hàng. Nước mắt tôi trào ra, tôi khóc vì quá sung sướng thấy cuộc chiến tranh kéo dài triền miên trên quê hương mình đã kết thúc. Tính cả thời Pháp đô hộ là 117 năm! Nhưng trong nước mắt ấy có cả những giọt xót xa: Mình từng chống Mỹ, chống Thiệu để khi kết thúc, mình lại thay Mỹ thay Thiệu đầu hàng! Dù rằng tôi cũng đã sẵn sàng tinh thần để chấp nhận tình thế này, nhưng khi nó diễn ra, lòng vẫn không thể không nhói đau!
Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này tôi biết đó là người chỉ huy chiếc tăng ký hiệu 843 tên là Bùi Quang Thận lúc đó mang hàm đại úy. Nói về sự kiện 30-4 tại Dinh Độc Lập, có một hai bài viết kể tên một ai đó đã đưa bộ đội lên hạ cờ. Tôi không biết ở Dinh Độc Lập còn có một nơi nào khác treo cờ hay không ngoài cột cờ trên sân thượng. Năm 1990, khi kỷ niệm 15 năm giải phóng miền Nam, một hãng truyền hình Nhật có mời tôi và trung tá cùng tái hiện lại những giây phút tôi đưa đại uý Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ của chế độ Sài Gòn.
Trước ống kính của truyền hình Nhật, chúng tôi cùng tái hiện lại những diễn tiến tại Dinh Độc Lập 15 năm về trước:
...Sau khi nhận chỉ thị của ông Minh, tôi đưa người bộ đội trẻ tuổi đến thang máy để lên sân thượng. Đến trước thang máy, tôi bấm nút cho cửa mở. Khi cửa mở rồi người bộ đội trẻ vẫn chưa chịu bước vào. Tôi đoán trong đời anh chưa bao giờ đặt chân vào một thang máy. Tôi nói với người bộ đội trẻ: “Anh vào đi. Không có gì lo. Tôi cùng vào với anh”. Nói xong, tôi vào trước. Sau ít giây do dự, anh bước vào, trên tay là khẩu súng và lá cờ Giải phóng. Tôi không thể tưởng tượng được có một ngày như hôm nay: đi thang máy chung với một người bộ đội. Tôi bấm nút lên tầng cuối cùng. Trước đây tôi có vào Dinh Độc Lập nhiều lần nhưng chưa bao giờ lên đến sân thượng. Bước ra khỏi thang máy, tôi nhìn thấy ngay khu vườn hoa của bà Nguyễn Văn Thiệu mà có lần bà đã than phiền tướng Kỳ, lúc còn làm phó tổng thống, đã làm hư hại nó do mỗi ngày tướng Kỳ đi làm đều đáp trực thăng riêng xuống đây. Thời điểm đó, văn phòng của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ còn đặt chung trong Dinh Độc Lập. Cách thang máy không xa, ở phía trước sân thượng, sát bên ngoài là chỗ cắm cờ. Người bộ đội đi thẳng ra đó hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Tôi không bước ra theo. Tôi đứng phía trong một lúc, rồi quay trở lại thang máy đi xuống trước một mình.
Trong một bài báo kỷ niệm ngày 30-4-1975 của một tác giả đã đăng vào dịp tháng 4-2003, có ghi lại lời kể của ông Thận khi gặp ông Minh: Ông yêu cầu ông Minh chỉ đường lên hạ cờ ngụy quyền thì ông Minh liền nói với người đứng kế bên thực hiện lời yêu cầu này. Người đứng kế bên ông Minh chính là tôi.
Xem lại các bức ảnh ghi lại giây phút lịch sử này, tôi thấy ngoài lá cờ được đại uý Bùi Quang Thận treo cao trên nóc Dinh Độc Lập - cột cờ chính thức của Dinh – còn thấy xuất hiện hai hay ba chiến sĩ bộ đội đứng phất cờ tại bao lơn (balcon) ở tầng một. Có lẽ chính vì thế mà có sự ngộ nhận đại uý Thận không phải là người duy nhất treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập và cũng có lý khi có người khác cũng nhận là mình đã hướng dẫn bộ đội lên treo cờ.
...Khi từ sân thượng tôi trở xuống đại sảnh thì mọi người đã vào trong phòng họp có cái bàn to hình ô van nằm bên cánh phải Dinh Độc Lập. Tôi nghe một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: “Anh hãy viết ngay một bản tuyên bố đầu hàng”. Ông Minh trả lời rằng sáng này ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”. Lúc này trong những người chứng kiến cuộc đối thoại, có một người mặc thường phục đứng bên cạnh kỹ sư Tô Văn Cang - một trí thức Sài Gòn có quan hệ với Mặt Trận. Người mặc thường phục tự giới thiệu mình là người hoạt động cách mạng nội thành và nói với viên chỉ huy bộ đội: “Ông Minh là người hoạt động cho hòa giải hòa hợp dân tộc. Anh nên đối xử nhẹ nhàng với ông”. Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy đề nghị ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng. Viên chỉ huy yêu cầu những thành viên chính thức của chính phủ đang có mặt gồm tổng thống Minh, thủ tướng Mẫu và tổng trưởng thông tin là tôi cùng đến đài phát thanh. Tôi chuẩn bị bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng anh Thạch Phen gọi tôi lại. Anh Thạch Phen trả cho tôi cái cặp da tôi đã nhờ anh cầm giùm lúc nãy. Anh Phen tưởng tôi quên. Thật sự tôi vẫn nhớ nhưng tôi thấy chẳng cần thiết phải lấy lại. Trong cặp là toàn bộ số tiền tôi đã lãnh một ngày trước đó ở Hạ nghị viện trước khi toà nhà lập pháp này đóng cửa. Trong những ngày cuối cùng, chủ tịch Hạ nghị viện đã ký rút ra gần hết số tiền thuộc ngân sách của Hạ nghị viện và ứng trước tiền phụ cấp và đủ các thứ tiền khác thành một cục phát cho tất cả các dân biểu. Tôi nhớ số tiền đó hình như tương đương cả 7-8 chục triệu tiền bây giờ. Phụ cấp hàng tháng của một dân biểu nghị sĩ lúc đó là rất cao trong xã hội. Tôi định bỏ luôn cái cặp vì nghĩ tiền của chế độ Sài Gòn sẽ không còn xài nữa. Tôi miễn cưỡng lấy lại cái cặp trên tay dân biểu Thạch Phen.
Trước khi rời Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh nói với vị chỉ huy bộ đội: “Vợ tôi vẫn đang ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm”. Viên chỉ huy đáp “Anh hãy an tâm”.
Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến Đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe Jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và ông Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi “Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại”. Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ.
Nghe thế tôi lại đi trở ra. Sau này được biết, khi hai ông Minh và ông Mẫu vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát vào lúc 13 giờ 30. Sau đó hai ông Minh và ông Mẫu được đưa trở lại Dinh Độc Lập. Vào lúc 17 giờ 30, luật sư Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống Sài Gòn trở vào Dinh Độc Lập trình diện. Ông Huyền đã rời Dinh Độc Lập nửa giờ trước khi quân đội giải phóng vào Dinh.
Đài phát thanh Sài Gòn nằm ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Cổng chính lúc đó mở ra đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ra khỏi đài, tôi rẽ qua đường Phan Đình Phùng, đi bộ ngược về hướng trung tâm thành phố vì tôi không còn xe riêng, taxi cũng không có. Dáo dác tìm “Honda ôm” cũng không ra. Một tay cầm áo vét và một tay xách cái cặp da đầy “giấy lộn” (trong đầu tôi vẫn nghĩ thế) chẳng biết vứt đi đâu. Trong đầu tôi rất lộn xộn: mừng vui lẫn buồn tủi. Cái hình ảnh được anh em ôm lấy và hô lên “Mình thắng rồi” nhưng trong tư thế hai tay giơ cao đầu hàng vẫn quay tới quay lui trong đầu. Đi một lúc khá lâu tôi ngửng đầu lên. Thật bất ngờ. Ngay trước mặt tôi bên kia đường (ngã tư Công Lý – Phan Đình Phùng) là... trụ sở Bộ thông tin, nơi mới hôm qua tôi còn triệu tập họp các viên chức chỉ huy của bộ với tư cách bộ trưởng. Tôi dừng bước lại. Nhớ lại chiếc cà vạt vẫn còn thắt trên cổ, tôi liền tuột nó ra. Chân tôi tự động quay ngược lại. Đúng lúc đó may mắn có một anh chạy xe ôm hất hàm hỏi tôi có đi không, tôi gật đầu.
Xe Honda đưa tôi về hướng quận 10 nhưng tới cuối đường Hiền Vương (bây giờ là Võ Thị Sáu) thì nghe những tiếng nổ dữ dội. Tôi thấy xa xa một chiếc xe tăng T54. Người chạy tán loạn. Tôi đoán phía quận 10 còn hỗn loạn. Tôi bèn quyết định tạm qua đêm nay tại nhà của trung tá Nguyễn Đức Hồng là chánh văn phòng của tôi ở khu Tân Định. Đến đây, tôi điện thoại về nhà cho vợ tôi. Lúc này tôi không còn kềm được nước mắt. Như thể bị ngăn lại từ sáng, nước mắt bây giờ tha hồ tuôn ra. Vợ tôi chia sẻ sự xúc động của chồng nhưng dĩ nhiên vợ tôi chưa hiểu hết những gì xảy ra với tôi trong ngày 30-4 này, từ sáng đến giờ. Tôi đã trải qua những giây phút kỳ diệu và kỳ lạ nhất đời mình. Vợ tôi cho hay cả nhà đều bình yên và cho biết gia đình anh Dương Văn Ba từ nơi “tị nạn chính trị” của anh ở trong Dinh Hoa Lan đã “di tản” ra nhà tôi.
Đêm 30-4-1975 tôi quá mỏi mệt nằm xuống ngủ như chết. Sáng hôm sau tôi thức dậy sực nhớ biến cố lịch sử đã xảy ra, một cảm giác thật lạ lùng lan toả trong người tôi. Tôi nằm yên một lúc lâu lắng nghe cái cảm giác ấy. Không hiểu sao, nó làm tôi nhớ lại cái buổi sáng tôi mới có đứa con đầu tiên. Thức dậy và thấy mình không còn như trước. Một thay đổi lớn đã đến với đời mình. Sáng ngày 1-5-1975 tôi cũng có một cảm giác như thế!
Thay đồ xong, chưa ăn sáng, tôi gọi về nhà. Tôi được biết vợ con đã sang nhà cha mẹ tôi bên đường Bà Hạt. Trung tá Hồng lấy xe Honda đưa tôi đến nhà cha mẹ. Gặp lại vợ con tôi cứ ngỡ mình trở về từ một chuyến đi thật xa. Cả đại gia đình tôi, từ cha mẹ, bảy đứa em – sáu gái và một trai – hai em rể và gia đình riêng của tôi - vợ và năm con - đều có mặt đông đủ. Gặp lại những người thân yêu không thiếu một người, đều bình yên, tôi vô cùng xúc động. Cha tôi lặng im nhìn tôi. Tôi đọc thấy trong mắt ông câu hỏi ‘‘Vậy con có bình yên hay không?’‘. Cuộc đời công chức của cha tôi sẽ hết sức bình thản nếu... không có tôi. Ông bị mất chức, về hưu sớm, vì từ chối với chính quyền Thiệu không gây áp lực với con mình ngưng các hoạt động chống chính phủ Thiệu. Giờ đây lại âu lo không biết sự thay đổi chính trị có ảnh hưởng gì đến con trai mình hay không? Buổi ăn trưa hôm đó cũng là lúc tôi kể lại cho cả nhà nghe các diễn tiến xảy ra trong buổi sáng ngày 30-4 đến khi về nhà ông Nguyễn Đức Hồng. Tôi nhìn thấy mẹ tôi khóc. Bà không hiểu nhiều về chính trị nhưng bà có trái tim yêu quê hương. Bà luôn ủng hộ các hoạt động của con trai mình dù các hoạt động đó có ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp của chồng. Bằng sự nhạy cảm của người mẹ, bà hiểu được con trai mình đã trải qua sự kiện trọng đại này của đất nước như thế nào...
Xong cơm trưa vào phòng nghỉ, vợ tôi âu lo nói với tôi: “Gia đình mình chẳng còn đồng nào. Còn lại chút ít, mấy ngày chót đã tiêu xài hết…” Thực tế là trong nhà tôi không có lúc nào dư dả. Làm báo thì sống bằng lương và nhuận bút. Báo bị đóng cửa thì gặp khó khăn ngay. Làm dân biểu 3 nhiệm kỳ suốt mười năm thì sống bằng phụ cấp của quốc hội, thoải mái hơn nhưng cũng không thật dư dả. Vợ tôi thường than phiền không cho bà buôn bán làm ăn, cứ sợ bị mang tiếng (mãi đến khi chúng tôi chia tay nhau bà mới bắt đầu kinh doanh).
Tôi sực nhớ lại cái cặp da. Tôi hỏi vợ tôi “Em thấy ngoài chợ tiền cũ còn xài không?”. Vợ tôi cho biết vẫn xài. Tôi đi tìm cái cặp mà đã mấy lần tôi định vứt nó. Thế là “đống giấy lộn” (tôi tưởng là như thế) đã “nuôi” được gia đình tôi mấy tháng đầu sau ngày 30-4!
Từ 30-4-1975 cho đến 2-5-1975, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu và một số dân biểu, nghị sĩ vẫn còn ở trong Dinh Độc Lập. Dự kiến sau khi đại diện Ủy ban Quân quản gặp họ, tất cả sẽ được tự do ra về. Trong hai ngày ông bà Minh còn ở lại trong Dinh Độc Lập, vợ tôi đã mang các bữa ăn sáng trưa và chiều vào Dinh cho hai ông bà. Ngày 2-5-1975, chủ tịch Ủy ban Quân quản Trần Văn Trà đã nói: “Người Việt Nam chúng ta không có ai thắng hay bại, người chiến thắng là toàn thể dân tộc Việt Nam và kẻ bại là đế quốc Mỹ”.
Chiều 2-5-1975, nhà báo Pháp Jean Louis Arnaud điện thoại hẹn tôi để thực hiện bài phỏng vấn đầu tiên sau ngày 30-4 cho AFP. Ông Arnaud không khỏi ngạc nhiên khi nghe những lời phát biểu đầy phấn khởi và xúc động của tôi về chiến thắng 30-4. Bởi chính ông đã chứng kiến cảnh tôi đưa hai tay lên đầu hàng. Ông không hiểu được người giơ tay đầu hàng lại chia sẻ niềm vui với người chiến thắng? Tôi nói: “Trước hết đội quân chiến thắng là người Việt Nam, đồng bào tôi. Họ đã chiến thắng thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ, mang lại độc lập và thống nhất cho xứ sở. Họ đã làm được điều mà nhiều người Việt Nam như tôi không làm được...”. Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư: đó là hoà bình và thống nhất.
8 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, các nhân vật dự kiến trong tân nội các tập trung tại phủ thủ tướng nằm ở cuối đại lộ Thống Nhất. Một số thành viên của tân chính phủ đã ngủ đêm tại đây.
Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu... Các thành viên khác ngồi chờ đợi buổi họp ở phòng bên ngoài.
Ông Minh mở đầu buổi họp bằng việc trình bày tình hình quân sự nói chung và Sài Gòn nói riêng là không còn cứu gỡ. Cũng không nên nghĩ tới một cuộc thương thuyết chính trị với chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam và Hà Nội, qua trung gian chính phủ Pháp. Trong khi đó tình hình an ninh của thành phố Sài Gòn rất nguy ngập, hỗn loạn và cướp bóc có thể xảy ra bất cứ lúc nào nhưng chính phủ hoàn toàn không có khả năng kiểm soát. Và ông Dương Văn Minh kết luận: “Để tránh cho người dân Sài Gòn những tai hoạ đã xảy ra như tại Đà Nẵng, mà có thể còn tồi tệ hơn, tôi quyết định trao quyền cho chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”. Phòng họp im lặng, không có ai phản đối, kể cả những vị mới biết được quyết định này.
Được sự đồng ý của những thành viên chính yếu của chính phủ, ông Minh ra lệnh cho tôi với tư cách tổng trưởng thông tin cho gọi các nhân viên kỹ thuật của đài truyền hình và đài phát thanh đến để thu âm bài tuyên bố. Tôi bước ra khỏi phòng và truyền lệnh cho anh Dương Văn Ba, thứ trưởng thông tin, với lời dặn: nói với anh em rằng đã có thỏa hiệp ngưng bắn và hòa bình rồi, anh em đến để thu lời tuyên bố của tổng thống nói chuyện với đồng bào. Tôi dặn như thế để anh em phấn khởi sẵn sàng làm nhiệm vụ mà không bỏ trốn. Bởi lúc bấy giờ rất ít công sở còn nhân viên đi làm.
Khoảng 15 phút sau, anh em kỹ thuật viên đến vì đài truyền hình rất gần phủ thủ tướng. Và cuộc thu âm bài tuyên bố giao quyền của tổng thống Dương Văn Minh bắt đầu, chỉ thu tiếng chứ không có điều kiện thu hình. Lần thu đầu tiên, ông Minh cho dừng lại vì có đoạn ông đọc vấp. Lần thứ hai cũng hỏng vì có người đẩy cửa vào gây tiếng động. Đến lần thứ ba mới thu hoàn chỉnh.
Khi tôi bước ra phòng họp cùng anh em kỹ thuật viên thì gặp chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, phụ tá tổng tham mưu trưởng, giờ đây có quyền hành như tổng tham mưu trưởng vì trung tướng Vĩnh Lộc cùng trung tướng Trần Văn Trung chạy khỏi Sài Gòn bằng tàu hải quân sáng 30 tháng 4. Chuẩn tướng Hạnh nói với ông Dương Văn Minh: “Xin để tôi trực tiếp mang đi cho chắc ăn. Nhưng theo tôi, ngoài bản tuyên bố của tổng thống cho dân chúng, cần có một nhật lệnh của tổng tham mưu trưởng ra lệnh trực tiếp cho quân đội không được nổ súng nữa...”. Ông Minh tán đồng đề xuất của anh Hạnh và yêu cầu anh thảo luôn nhật lệnh.
Tướng Hạnh cầm cuộn băng và bản nhật lệnh đi đến đài. Anh nói với tôi: anh sẽ đọc và thu bản nhật lệnh tại đài. Nhớ lại chi tiết này, tôi thấy đóng góp của anh Nguyễn Hữu Hạnh vào lúc này thật ý nghĩa và thiết thực.
Trước khi phiên họp kết thúc, ông Minh nói: “Bắt đầu từ giớ phút này sự ràng buộc giữa anh em chúng ta không còn nữa. Mỗi người hoàn toàn tự do quyết định sự lựa chọn của mình: Đi hay ở lại. Tôi xin thông báo cho anh em nào muốn đi: hiện chiếc tàu Việt Nam Thương Tín (VNTT) vẫn còn đậu ở cảng...”. Ông Minh thông báo rõ cổng số mấy, bến số mấy, để lên tàu VNTT, chiếc tàu thủy viễn dương lớn nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ. Trước đó khoảng một tiếng đồng hồ, dân biểu Nguyễn Hữu Chung điện thoại cho ông Minh nói rõ tàu VNTT đang chờ ở đâu để những thành viên nào trong chính phủ muốn ra đi thì đến đó. Chính một người của anh Nguyễn Hữu Chung lái chiếc tàu này. Tàu có giấy phép của chính phủ cho rời bến với lý do chính thức là “để tránh pháo kích của cộng quân”. Nhưng thực sự đây là một giấy phép trá hình cho tàu được di tản. Trong khi liên lạc điện thoại với ông Minh, Chung Nguyễn còn tỏ ý chờ bà Dương Văn Minh sẽ ra đi theo con gái, con rể và hai cháu ngoại (đã đi trước đó hai ngày). Nhưng ông Minh sau khi hỏi ý kiến vợ đã trả lời rằng bà Minh không đi.
Những người có mặt trong phòng họp cũng không ai đi. Phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, một luật sư công giáo, nói dứt khoát ông ở lại. Còn thủ tướng Vũ Văn Mẫu cho biết ông không đi trong những điều kiện như thế này. Nếu sau này chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam cho ra đi chính thức thì ông sẽ đi. Có lẽ người duy nhất có ý định ra đi là giáo sư Bùi Tường Huân, được dự kiến làm tổng trưởng quốc phòng. Anh Huân hỏi lại ông Minh: “Tôi về nhà sắp xếp để vợ con cùng đi còn kịp không?”. Ông Minh trả lời là tàu VNTT không thể chờ đợi lâu. Nếu quyết định đi là phải đi ngay. Thế là giáo sư Huân quyết định không đi nữa. Anh không hay rằng vợ anh, con cái của anh đã di tản chiều hôm qua với gia đình bên vợ (chị vợ của anh Huân là ca sĩ Hà Thanh). Tối hôm qua, anh cùng một số thành viên khác ngủ lại ở phủ thủ tướng nên không hay chuyện ra đi của gia đình. Khi anh trở về nhà thì trong nhà chẳng còn thứ gì giá trị vì nhà anh đã bị cướp sạch. Anh Hồ Văn Minh cũng nói dứt khoát không đi.
Lúc này tôi ngồi kế bên ông Minh. Ông quay sang nói nhỏ với tôi:
“Chung, toa nên đi.Toa có con đông”. Ông nghĩ đến 5 đứa con của tôi. Thỉnh thoảng khi thân mật ông Minh vẫn xưng hô “toa, moa” với tôi. Tôi trả lời:
“Đại tướng không đi phải không? Tôi cũng không đi”. Ông lặp lại đến hai lần lời khuyên đó nhưng vẫn thấy tôi tỏ ra rất dứt khoát nên ông không thuyết phục nữa. Khi từ chối chuyện ra đi, lúc đó tôi chẳng phải suy nghĩ gì nhiều. Ý nghĩ ra đi chẳng bao giờ xuất hiện trong đầu tôi. Ở lại, với tôi, là tất yếu, là cái tiếp theo lô gích của những chọn lựa và thái độ chính trị của tôi trước đó. Vợ chồng tôi chưa bao giờ đem chuyện “đi hay ở” ra bàn với nhau. Quỳnh Nga, vợ tôi cũng không hề băn khoăn về chuyện này. Trước đó mấy ngày, khi một người Mỹ (dạy Anh văn cho tôi) đến nhà gặp vợ tôi, đưa ra giấy ưu tiên đi bằng máy bay của Mỹ cho cả gia đình tôi (gồm bảy người) – tôi không có ở nhà - vợ tôi đã tự quyết định từ chối.
...Sau khi mọi người có mặt đều quyết định không đi, phòng họp lại im lặng.
Bỗng có người vào báo cáo có một khách người Pháp muốn gặp tổng thống Dương Văn Minh. Tôi cùng ông bước ra. Đó là cựu tướng Pháp Vanuxem đã từng thất trận ở cuộc chiến tranh Đông Dương thời thực dân Pháp. Gần đây ông trở qua Việt Nam đóng vai trò cố vấn quân sự cho chính phủ Thiệu như kiểu chuyên gia chiến tranh du kích người Anh Sir Robert Thompson mang những kinh nghiệm chống cộng ở Mã Lai sang làm cố vấn cho hai anh em Ngô Đình Diệm – Ngô Đình Nhu trong những năm đầu của chế độ đệ nhất cộng hòa! Nhưng Vanuxem không được ông Thiệu tin dùng. Ông Minh bắt tay Vanuxem và hỏi lý do ông ta muốn gặp ông.
Vanuxem cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanuxem, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay. Ông Minh cười chua chát: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay sai cho Pháp rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục làm tay sai...”. Đứng xớ rớ một lúc, Vanuxem biến lúc nào tôi không nhớ.
Cũng đúng lúc này có điện thoại từ chùa Ấn Quang của sinh viên đấu tranh Nguyễn Hữu Thái. Tôi không rõ Thái rời khỏi chỗ ẩn náu tại nhà tôi từ một năm qua, vào lúc nào. Lúc này Thái đang có mặt tại chùa Ấn Quang, anh cho biết thượng tọa Thích Trí Quang muốn nói chuyện trực tiếp với ông Minh. Cuộc nói chuyện kéo dài khoảng hai phút. Sau đó thượng tọa Trí Quang nói chuyện với giáo sư Vũ Văn Mẫu. Tôi được biết nội dung hai cuộc điện đàm này của thượng tọa Thích Trí Quang nhằm thuyết phục tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng. Nhưng tôi lại e ngại, nếu đầu hàng chính thức đơn phương thì sẽ ra sao? Vì nhiều đơn vị quân đội VNCH vẫn còn đó, có khả năng sẽ phản ứng điên cuồng.
Khoảng 10 giờ, tổng thống Minh lên ô tô đi đến Dinh Độc Lập. Các thành viên khác của chính phủ và một số dân biểu nghị sĩ cũng lên xe mình đến Dinh Độc Lập. Tôi cùng ngồi xe của tổng thống Minh. Lúc này toàn bộ các mô tô cảnh sát danh dự, gồm tám chiếc còn đầy đủ, vẫn đi theo bảo vệ xe tổng thống. Đoàn xe tổng thống đi ngang qua tòa đại sứ Mỹ trên đại lộ Thống Nhất, ông Minh nhìn thấy trước mắt cảnh tòa đại sứ Mỹ đang bị dân chúng ùa vào “làm thịt”: từng đoàn người từ trong sứ quán hối hả đi ra, khuân vác nào là máy đánh chữ, ti vi, ghế, tủ, bàn v.v... Từ trên lầu sứ quán, những tấm thảm cắt ra từng miếng dài khoảng 5-6 mét được ném xuống sân... Thế là nơi tượng trưng cho quyền lực nước Mỹ, tưởng như bất khả xâm phạm giờ đây tan tác... như một đống rác khổng lồ!
Đoàn xe của tổng thống Minh đi trên đại lộ Thống Nhất vắng tanh người - ngoại trừ đoạn đường trước sứ quán Mỹ. Phần đông dân Sài Gòn đều rút vào nhà. Số người tiếp tục nuôi ý định ra đi kéo nhau xuống bến Bạch Đằng với hy vọng gặp được chuyến tàu nào đó chưa kịp rời bến. Một số người khác dùng mọi phương tiện chạy về hướng miền Tây tìm đường ra biển.
Ngồi trong xe bên cạnh ông Minh đi đến Dinh Độc Lập, chưa bao giờ tôi thấy gần gũi và gắn bó với ông như lúc này. Trong đời ông trải qua nhiều giây phút lịch sử nhưng có lẽ những giây phút này là trọng đại nhất. Nhưng tôi vẫn thấy ông điềm tĩnh một cách lạ lùng. Ông chẳng nói gì cả, nét mặt bình thản. Ông vốn không thích dùng nhiều lời lẽ rườm rà và hoa mỹ để giải thích các quyết định của mình.
Tôi lên tiếng để phá vỡ sự im lặng: “Nếu cả chính phủ Sài Gòn sau này buộc phải đi “an trí”, tôi sẽ yêu cầu được quản thúc chung với đại tướng. Để chi, đại tướng biết không?”. Ông quay nhìn tôi: “Để chi?” – “Để đại tướng và tôi có thể tiếp tục nói chuyện tennis với nhau!” Ông Minh vỗ đùi tôi, cười. Tôi cùng ông Minh đi đến Dinh Độc Lập mà trong lòng chẳng có một đắn đo nào. Thật lạ lùng làm sao. Sau này khi nhớ lại thời điểm đó tôi cố gắng nhớ lại trong đầu mình lúc đó nghĩ gì. Nhưng không làm sao nhớ ra bởi thật sự lúc đó tôi như người bị cuốn hút về một hướng đã định sẵn từ một hai năm trước rồi. Dinh Độc Lập, nơi đoàn quân giải phóng sẽ đến, vào lúc này, đúng là điểm hẹn của Lịch sử. Ông Dương Văn Minh đi đến đó mà không hề bị ai bắt buộc. Trưa hôm qua, 29-4-1975, người cuối cùng từng lãnh đạo miền Nam, tướng Nguyễn Cao Kỳ, cũng đã thoát thân trên chiếc Huey, trực thăng của ông. Khi máy bay sắp rời khỏi mặt đất, tướng Ngô Quang Trưởng xuất hiện và cũng được tướng Kỳ... mời nhảy lên. Trực thăng của họ bay ra hướng biển và liên lạc được với tàu sân bay Midway.
...Chiếc xe của tổng thống Minh và đoàn mô tô bảo vệ đến Dinh Độc Lập khoảng 9 giờ 30 sáng. Ở cửa chính vẫn còn lính gác. Ông Nguyễn Văn Hảo, phó thủ tướng của nội các Nguyễn Bá Cẩn, nội các cuối cùng của chính phủ Thiệu, có mặt ở phòng họp chính. Theo chương trình đã định trước thì phó thủ tướng Hảo sẽ đại diện cho nội các cũ thực hiện cuộc bàn giao cho nội các mới của ông Dương Văn Minh. Nhưng cuộc bàn giao giữa hai nội các cũ và mới đã không xảy ra.
Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu. Trong lúc chờ quân giải phóng đến, tôi chợt nhớ binh lính bảo vệ Dinh Độc Lập chưa nhận được lệnh không nổ súng. Tôi đề nghị ông Minh nên ra lệnh tất cả các binh lính bảo vệ dinh phải nộp vũ khí, bởi chỉ cần một người lính nào đó điên cuồng bóp cò thì hậu quả không thể nào lường được. Tổng thống Minh giao cho thiếu tá Hoa Hải Đường thực hiện lệnh của ông. Lúc này tôi không thấy đại tá Đẩu có mặt ở dinh. Đại tướng Minh có hai tuỳ viên quân sự là đại tá Đẩu và thiếu tá Đường. Đại tá Đẩu vừa được thăng cấp cách đây không lâu và là cấp cao nhất trong văn phòng của đại tướng Minh. Còn thiếu tá Đường là con của ông Hoa Văn Mùi, đã từng là giám đốc cảnh sát thời Diệm rồi tổng lý văn phòng một bộ (nhân vật thứ ba trong bộ đứng sau bộ trưởng và thứ trưởng), nhưng lại được nhiều người biết tiếng khi ông là cầu thủ đội tuyển bóng đá miền Nam thập niên 40. Ông Mùi cùng thời với những danh thủ như Tốt, Guichard, Paccini, Bửu (tức Trương Tấn Bửu, giám đốc Sở Thể dục Thể thao TP. HCM đầu tiên sau giải phóng). Thành tích của ông Mùi là từng vô hiệu hoá “cầu vương” Lý Huệ Đường của Hồng Kông mặc dù về thể hình ông hơi thấp người.
Luật sư, nghị sĩ Nguyễn Văn Huyền được ông Minh chọn làm phó tổng thống, lúc đầu có mặt tại Dinh Độc Lập nhưng sau đó lại về nhà riêng. Luật sư, nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, thủ tướng chính phủ vẫn có mặt tại dinh vào thời điểm này.
Thời gian chờ đợi căng thẳng tôi chợt nghĩ: cũng nên có mặt nhà báo vào lúc quân giải phóng vào Dinh Độc Lập. Lúc này tôi nhớ đến nhà báo nữ V.T.T. Mai làm cho hãng thông tấn AFP. Với tôi, Mai không chỉ là một nhà báo mà còn là một mối thâm tình. Tôi rất mong sự hiện diện của Mai vào lúc này. Tôi gọi điện cho Mai. Và Mai đến ngay với trưởng văn phòng AFP tại Sài Gòn Jean Louis Arnaud. Lúc nào Arnaud cũng ăn mặc trịnh trọng. Một bộ complet màu trắng khói, trên cổ thắt một chiếc nơ và trên tay có sẵn một cuốn sổ nhỏ.
Khoảng 11 giờ 30 sáng, chiếc tăng đầu tiên loại T-54 của quân giải phóng xuất hiện ở từ đầu kia đại lộ Thống Nhất, phía Thảo cầm viên. Tổng thống Minh và các thành viên chính phủ cùng một số dân biểu nghị sĩ, ra đứng tại tiền đình của Dinh Độc Lập để chuẩn bị cuộc đón tiếp. Chiếc tăng to lớn tiến gần, đến khoảng ngang nhà thờ Đức Bà thì đột ngột nổ liền hai phát nhưng không nhắm vào Dinh Độc Lập. Nhưng tiếng nổ của hai phát đại bác đã gây hoảng hốt cho tất cả những người đang đứng chờ ở tiền đình. Thế là tất cả lui vào phòng làm việc của ông Thiệu và.. lo lắng chờ.
Sau này các tài liệu viết rằng chiếc tăng đi đầu đã ủi sập cửa sắt ở cánh cổng còn đóng của Dinh Độc Lập. Vậy là lính gác ở dinh không chấp hành lệnh chăng? Vì tôi nhớ rất rõ ông Minh đã ra lệnh cho lính gác ở dinh mở sẵn cổng chính trước rồi.
Chỉ ít phút sau, tiếng chân người vang dội trong sảnh, có cả tiếng khua vũ khí và tiếng đạn lên nòng. Rồi tiếng hô to từ phía đại sảnh: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Sau này có nhiều nhà báo nước ngoài trở lại sự kiện 30-4 này hỏi tôi lúc đó có lo sợ không? – Tôi không chối cãi mình có lo sợ. Một phần vì tôi chưa từng đối diện với quân giải phóng. Những suy nghĩ riêng và niềm tin trong lòng của mình về họ, chưa qua thực tế, không đủ để trấn an tôi hoàn toàn vào giây phút này. Mặt khác hoàn toàn không thể đoán trước chuyện gì sẽ xảy ra nếu có hỗn loạn.
...Người bước ra khỏi phòng trước tiên là tổng thống Dương Văn Minh. Đi sát bên ông Minh là thiếu tá Hoa Hải Đường. Tiếp theo là thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Ông Minh và ông Mẫu đều rất bình tĩnh, sự bình tĩnh của hai ông cũng truyền sang tôi. Tôi trao cái cặp da xách tay của tôi cho dân biểu Thạch Phen rồi mạnh dạn bước theo. Chúng tôi vừa bước ra hành lang để đi đến đại sảnh thì ở đầu kia thấy có nhiều bộ đội cầm súng và hô to: “Mọi người giơ tay lên!”. Ông Minh, ông Mẫu và tôi cùng mọi người đi phía sau đều nhất loạt giơ tay. Ra đến đại sảnh, tôi thấy có nhiều người mặc thường phục cũng có mặt lẫn với bộ đội. Tôi nhận ra một số gương mặt quen thuộc, đã từng hoạt động báo chí hoặc trong các phong trào đấu tranh học sinh sinh viên. Tôi nhớ hình như có các anh Nguyễn Vạn Hồng (tức Cung Văn), Triệu Bình, Nguyễn Hữu Thái, Huỳnh Bá Thành, Huỳnh Văn Tòng v.v... Ai đó, tôi không nhớ rõ, chạy đến ôm tôi nâng lên khỏi mặt đất và nói to trong sự mừng rỡ tột cùng: “Mình thắng rồi!”, trong lúc hai tay tôi vẫn giơ cao trong tư thế của người đầu hàng. Nước mắt tôi trào ra, tôi khóc vì quá sung sướng thấy cuộc chiến tranh kéo dài triền miên trên quê hương mình đã kết thúc. Tính cả thời Pháp đô hộ là 117 năm! Nhưng trong nước mắt ấy có cả những giọt xót xa: Mình từng chống Mỹ, chống Thiệu để khi kết thúc, mình lại thay Mỹ thay Thiệu đầu hàng! Dù rằng tôi cũng đã sẵn sàng tinh thần để chấp nhận tình thế này, nhưng khi nó diễn ra, lòng vẫn không thể không nhói đau!
Một người bộ đội (tôi không rõ quân hàm) nói với tổng thống Minh: “Anh chỉ cho tôi đường đi lên để hạ cờ ngụy quyền”. Ông Minh quay sang tôi đang đứng bên cạnh: “Chung, toa hướng dẫn cho người này lên sân thượng”. Sau này tôi biết đó là người chỉ huy chiếc tăng ký hiệu 843 tên là Bùi Quang Thận lúc đó mang hàm đại úy. Nói về sự kiện 30-4 tại Dinh Độc Lập, có một hai bài viết kể tên một ai đó đã đưa bộ đội lên hạ cờ. Tôi không biết ở Dinh Độc Lập còn có một nơi nào khác treo cờ hay không ngoài cột cờ trên sân thượng. Năm 1990, khi kỷ niệm 15 năm giải phóng miền Nam, một hãng truyền hình Nhật có mời tôi và trung tá cùng tái hiện lại những giây phút tôi đưa đại uý Thận lên sân thượng Dinh Độc Lập để hạ cờ của chế độ Sài Gòn.
Trước ống kính của truyền hình Nhật, chúng tôi cùng tái hiện lại những diễn tiến tại Dinh Độc Lập 15 năm về trước:
...Sau khi nhận chỉ thị của ông Minh, tôi đưa người bộ đội trẻ tuổi đến thang máy để lên sân thượng. Đến trước thang máy, tôi bấm nút cho cửa mở. Khi cửa mở rồi người bộ đội trẻ vẫn chưa chịu bước vào. Tôi đoán trong đời anh chưa bao giờ đặt chân vào một thang máy. Tôi nói với người bộ đội trẻ: “Anh vào đi. Không có gì lo. Tôi cùng vào với anh”. Nói xong, tôi vào trước. Sau ít giây do dự, anh bước vào, trên tay là khẩu súng và lá cờ Giải phóng. Tôi không thể tưởng tượng được có một ngày như hôm nay: đi thang máy chung với một người bộ đội. Tôi bấm nút lên tầng cuối cùng. Trước đây tôi có vào Dinh Độc Lập nhiều lần nhưng chưa bao giờ lên đến sân thượng. Bước ra khỏi thang máy, tôi nhìn thấy ngay khu vườn hoa của bà Nguyễn Văn Thiệu mà có lần bà đã than phiền tướng Kỳ, lúc còn làm phó tổng thống, đã làm hư hại nó do mỗi ngày tướng Kỳ đi làm đều đáp trực thăng riêng xuống đây. Thời điểm đó, văn phòng của tổng thống Thiệu và phó tổng thống Kỳ còn đặt chung trong Dinh Độc Lập. Cách thang máy không xa, ở phía trước sân thượng, sát bên ngoài là chỗ cắm cờ. Người bộ đội đi thẳng ra đó hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống. Tôi không bước ra theo. Tôi đứng phía trong một lúc, rồi quay trở lại thang máy đi xuống trước một mình.
Trong một bài báo kỷ niệm ngày 30-4-1975 của một tác giả đã đăng vào dịp tháng 4-2003, có ghi lại lời kể của ông Thận khi gặp ông Minh: Ông yêu cầu ông Minh chỉ đường lên hạ cờ ngụy quyền thì ông Minh liền nói với người đứng kế bên thực hiện lời yêu cầu này. Người đứng kế bên ông Minh chính là tôi.
Xem lại các bức ảnh ghi lại giây phút lịch sử này, tôi thấy ngoài lá cờ được đại uý Bùi Quang Thận treo cao trên nóc Dinh Độc Lập - cột cờ chính thức của Dinh – còn thấy xuất hiện hai hay ba chiến sĩ bộ đội đứng phất cờ tại bao lơn (balcon) ở tầng một. Có lẽ chính vì thế mà có sự ngộ nhận đại uý Thận không phải là người duy nhất treo cờ trên nóc Dinh Độc Lập và cũng có lý khi có người khác cũng nhận là mình đã hướng dẫn bộ đội lên treo cờ.
...Khi từ sân thượng tôi trở xuống đại sảnh thì mọi người đã vào trong phòng họp có cái bàn to hình ô van nằm bên cánh phải Dinh Độc Lập. Tôi nghe một người bộ đội cấp chỉ huy nói với ông Minh: “Anh hãy viết ngay một bản tuyên bố đầu hàng”. Ông Minh trả lời rằng sáng này ông đã có một tuyên bố trao quyền rồi. Viên chỉ huy nói: “Anh chẳng có gì để trao. Anh chỉ có thể tuyên bố đầu hàng!”. Lúc này trong những người chứng kiến cuộc đối thoại, có một người mặc thường phục đứng bên cạnh kỹ sư Tô Văn Cang - một trí thức Sài Gòn có quan hệ với Mặt Trận. Người mặc thường phục tự giới thiệu mình là người hoạt động cách mạng nội thành và nói với viên chỉ huy bộ đội: “Ông Minh là người hoạt động cho hòa giải hòa hợp dân tộc. Anh nên đối xử nhẹ nhàng với ông”. Ông Minh vẫn đứng yên lặng. Viên chỉ huy đề nghị ông Minh đi đến đài phát thanh để thảo và đọc bản tuyên bố đầu hàng. Viên chỉ huy yêu cầu những thành viên chính thức của chính phủ đang có mặt gồm tổng thống Minh, thủ tướng Mẫu và tổng trưởng thông tin là tôi cùng đến đài phát thanh. Tôi chuẩn bị bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng anh Thạch Phen gọi tôi lại. Anh Thạch Phen trả cho tôi cái cặp da tôi đã nhờ anh cầm giùm lúc nãy. Anh Phen tưởng tôi quên. Thật sự tôi vẫn nhớ nhưng tôi thấy chẳng cần thiết phải lấy lại. Trong cặp là toàn bộ số tiền tôi đã lãnh một ngày trước đó ở Hạ nghị viện trước khi toà nhà lập pháp này đóng cửa. Trong những ngày cuối cùng, chủ tịch Hạ nghị viện đã ký rút ra gần hết số tiền thuộc ngân sách của Hạ nghị viện và ứng trước tiền phụ cấp và đủ các thứ tiền khác thành một cục phát cho tất cả các dân biểu. Tôi nhớ số tiền đó hình như tương đương cả 7-8 chục triệu tiền bây giờ. Phụ cấp hàng tháng của một dân biểu nghị sĩ lúc đó là rất cao trong xã hội. Tôi định bỏ luôn cái cặp vì nghĩ tiền của chế độ Sài Gòn sẽ không còn xài nữa. Tôi miễn cưỡng lấy lại cái cặp trên tay dân biểu Thạch Phen.
Trước khi rời Dinh Độc Lập, ông Dương Văn Minh nói với vị chỉ huy bộ đội: “Vợ tôi vẫn đang ở đây. Xin các anh bảo đảm an ninh giùm”. Viên chỉ huy đáp “Anh hãy an tâm”.
Ông Minh và ông Mẫu được đưa đến Đài phát thanh Sài Gòn trên chiếc xe Jeep của bộ đội. Còn tôi đi theo trên một chiếc xe Jeep khác của các nhà báo Đức. Khi tôi đến đài phát thanh thì hai ông Minh và ông Mẫu đã vào bên trong. Tôi vừa bước vào sân thì anh Nguyễn Hữu Thái và một hai thanh niên khác đứng ở cổng nói với tôi “Anh về đi, khi nào có bộ phận chính trị vào sẽ liên lạc lại”. Lúc này thật khó biết ai là ai, ai có đủ thẩm quyền quyết định chuyện này chuyện nọ.
Nghe thế tôi lại đi trở ra. Sau này được biết, khi hai ông Minh và ông Mẫu vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo. Ông Minh đọc và đài phát vào lúc 13 giờ 30. Sau đó hai ông Minh và ông Mẫu được đưa trở lại Dinh Độc Lập. Vào lúc 17 giờ 30, luật sư Nguyễn Văn Huyền, phó tổng thống Sài Gòn trở vào Dinh Độc Lập trình diện. Ông Huyền đã rời Dinh Độc Lập nửa giờ trước khi quân đội giải phóng vào Dinh.
Đài phát thanh Sài Gòn nằm ở góc đường Nguyễn Bỉnh Khiêm – Phan Đình Phùng (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu). Cổng chính lúc đó mở ra đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ra khỏi đài, tôi rẽ qua đường Phan Đình Phùng, đi bộ ngược về hướng trung tâm thành phố vì tôi không còn xe riêng, taxi cũng không có. Dáo dác tìm “Honda ôm” cũng không ra. Một tay cầm áo vét và một tay xách cái cặp da đầy “giấy lộn” (trong đầu tôi vẫn nghĩ thế) chẳng biết vứt đi đâu. Trong đầu tôi rất lộn xộn: mừng vui lẫn buồn tủi. Cái hình ảnh được anh em ôm lấy và hô lên “Mình thắng rồi” nhưng trong tư thế hai tay giơ cao đầu hàng vẫn quay tới quay lui trong đầu. Đi một lúc khá lâu tôi ngửng đầu lên. Thật bất ngờ. Ngay trước mặt tôi bên kia đường (ngã tư Công Lý – Phan Đình Phùng) là... trụ sở Bộ thông tin, nơi mới hôm qua tôi còn triệu tập họp các viên chức chỉ huy của bộ với tư cách bộ trưởng. Tôi dừng bước lại. Nhớ lại chiếc cà vạt vẫn còn thắt trên cổ, tôi liền tuột nó ra. Chân tôi tự động quay ngược lại. Đúng lúc đó may mắn có một anh chạy xe ôm hất hàm hỏi tôi có đi không, tôi gật đầu.
Xe Honda đưa tôi về hướng quận 10 nhưng tới cuối đường Hiền Vương (bây giờ là Võ Thị Sáu) thì nghe những tiếng nổ dữ dội. Tôi thấy xa xa một chiếc xe tăng T54. Người chạy tán loạn. Tôi đoán phía quận 10 còn hỗn loạn. Tôi bèn quyết định tạm qua đêm nay tại nhà của trung tá Nguyễn Đức Hồng là chánh văn phòng của tôi ở khu Tân Định. Đến đây, tôi điện thoại về nhà cho vợ tôi. Lúc này tôi không còn kềm được nước mắt. Như thể bị ngăn lại từ sáng, nước mắt bây giờ tha hồ tuôn ra. Vợ tôi chia sẻ sự xúc động của chồng nhưng dĩ nhiên vợ tôi chưa hiểu hết những gì xảy ra với tôi trong ngày 30-4 này, từ sáng đến giờ. Tôi đã trải qua những giây phút kỳ diệu và kỳ lạ nhất đời mình. Vợ tôi cho hay cả nhà đều bình yên và cho biết gia đình anh Dương Văn Ba từ nơi “tị nạn chính trị” của anh ở trong Dinh Hoa Lan đã “di tản” ra nhà tôi.
Đêm 30-4-1975 tôi quá mỏi mệt nằm xuống ngủ như chết. Sáng hôm sau tôi thức dậy sực nhớ biến cố lịch sử đã xảy ra, một cảm giác thật lạ lùng lan toả trong người tôi. Tôi nằm yên một lúc lâu lắng nghe cái cảm giác ấy. Không hiểu sao, nó làm tôi nhớ lại cái buổi sáng tôi mới có đứa con đầu tiên. Thức dậy và thấy mình không còn như trước. Một thay đổi lớn đã đến với đời mình. Sáng ngày 1-5-1975 tôi cũng có một cảm giác như thế!
Thay đồ xong, chưa ăn sáng, tôi gọi về nhà. Tôi được biết vợ con đã sang nhà cha mẹ tôi bên đường Bà Hạt. Trung tá Hồng lấy xe Honda đưa tôi đến nhà cha mẹ. Gặp lại vợ con tôi cứ ngỡ mình trở về từ một chuyến đi thật xa. Cả đại gia đình tôi, từ cha mẹ, bảy đứa em – sáu gái và một trai – hai em rể và gia đình riêng của tôi - vợ và năm con - đều có mặt đông đủ. Gặp lại những người thân yêu không thiếu một người, đều bình yên, tôi vô cùng xúc động. Cha tôi lặng im nhìn tôi. Tôi đọc thấy trong mắt ông câu hỏi ‘‘Vậy con có bình yên hay không?’‘. Cuộc đời công chức của cha tôi sẽ hết sức bình thản nếu... không có tôi. Ông bị mất chức, về hưu sớm, vì từ chối với chính quyền Thiệu không gây áp lực với con mình ngưng các hoạt động chống chính phủ Thiệu. Giờ đây lại âu lo không biết sự thay đổi chính trị có ảnh hưởng gì đến con trai mình hay không? Buổi ăn trưa hôm đó cũng là lúc tôi kể lại cho cả nhà nghe các diễn tiến xảy ra trong buổi sáng ngày 30-4 đến khi về nhà ông Nguyễn Đức Hồng. Tôi nhìn thấy mẹ tôi khóc. Bà không hiểu nhiều về chính trị nhưng bà có trái tim yêu quê hương. Bà luôn ủng hộ các hoạt động của con trai mình dù các hoạt động đó có ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp của chồng. Bằng sự nhạy cảm của người mẹ, bà hiểu được con trai mình đã trải qua sự kiện trọng đại này của đất nước như thế nào...
Xong cơm trưa vào phòng nghỉ, vợ tôi âu lo nói với tôi: “Gia đình mình chẳng còn đồng nào. Còn lại chút ít, mấy ngày chót đã tiêu xài hết…” Thực tế là trong nhà tôi không có lúc nào dư dả. Làm báo thì sống bằng lương và nhuận bút. Báo bị đóng cửa thì gặp khó khăn ngay. Làm dân biểu 3 nhiệm kỳ suốt mười năm thì sống bằng phụ cấp của quốc hội, thoải mái hơn nhưng cũng không thật dư dả. Vợ tôi thường than phiền không cho bà buôn bán làm ăn, cứ sợ bị mang tiếng (mãi đến khi chúng tôi chia tay nhau bà mới bắt đầu kinh doanh).
Tôi sực nhớ lại cái cặp da. Tôi hỏi vợ tôi “Em thấy ngoài chợ tiền cũ còn xài không?”. Vợ tôi cho biết vẫn xài. Tôi đi tìm cái cặp mà đã mấy lần tôi định vứt nó. Thế là “đống giấy lộn” (tôi tưởng là như thế) đã “nuôi” được gia đình tôi mấy tháng đầu sau ngày 30-4!
Từ 30-4-1975 cho đến 2-5-1975, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu và một số dân biểu, nghị sĩ vẫn còn ở trong Dinh Độc Lập. Dự kiến sau khi đại diện Ủy ban Quân quản gặp họ, tất cả sẽ được tự do ra về. Trong hai ngày ông bà Minh còn ở lại trong Dinh Độc Lập, vợ tôi đã mang các bữa ăn sáng trưa và chiều vào Dinh cho hai ông bà. Ngày 2-5-1975, chủ tịch Ủy ban Quân quản Trần Văn Trà đã nói: “Người Việt Nam chúng ta không có ai thắng hay bại, người chiến thắng là toàn thể dân tộc Việt Nam và kẻ bại là đế quốc Mỹ”.
Chiều 2-5-1975, nhà báo Pháp Jean Louis Arnaud điện thoại hẹn tôi để thực hiện bài phỏng vấn đầu tiên sau ngày 30-4 cho AFP. Ông Arnaud không khỏi ngạc nhiên khi nghe những lời phát biểu đầy phấn khởi và xúc động của tôi về chiến thắng 30-4. Bởi chính ông đã chứng kiến cảnh tôi đưa hai tay lên đầu hàng. Ông không hiểu được người giơ tay đầu hàng lại chia sẻ niềm vui với người chiến thắng? Tôi nói: “Trước hết đội quân chiến thắng là người Việt Nam, đồng bào tôi. Họ đã chiến thắng thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ, mang lại độc lập và thống nhất cho xứ sở. Họ đã làm được điều mà nhiều người Việt Nam như tôi không làm được...”. Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư: đó là hoà bình và thống nhất.
Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ (www.nxbtre.com.vn), TP HCM, 2004, 486 tr., 97.000 đ
XV
Sau ngày 30-4-1975
Tôi có ý định viết lại phần đời, sau tháng 4-1975 này, thành một tập hồi ký riêng. Nhưng tôi hoài nghi mình sẽ không còn thời gian đủ để làm việc đó. Tôi vừa thoát qua cơn bệnh hiểm nghèo, không biết thời gian “tạm ứng” tiếp cho tôi sẽ được bao lâu. Phần một của tập Hồi ký tôi mất một năm rưỡi để viết. Tôi đã bắt đầu ngay khi vừa phục hồi sức khoẻ (từ cuối tháng 12-2002). Khi viết đến những dòng này – ngày 01-3-2004 – tôi được tin người bạn thân và đồng hành với tôi trước 1975 trong thời gian chống Mỹ - Thiệu, cựu dân biểu Nguyễn Hữu Chung (Chung Nguyễn), đã mất ngày 26-2-2004. Khi tôi lâm bệnh hồi cuối tháng 6-2002, từ Canada, Chung Nguyễn điện thoại về thăm tôi. Anh tế nhị không đề cập đến bệnh tình của tôi vì có lẽ anh đã nghe thông tin ban đầu là tôi khó thoát qua... (chẩn đoán đầu tiên có bác sĩ nói tôi không sống hơn... một tháng!). Điều không thể ngờ là chỉ sau đó ít tháng thì tôi nhận được tin Chung Nguyễn bị ung thư phổi. Và tôi chưa kịp “đi” thì Chung Nguyễn đã “đi” trước!
Do đó tôi xin tóm gọn lại cuộc đời sau năm 1975 của mình trong chương sau cùng này. Nếu thời gian còn cho phép, tôi sẽ trở lại thực hiện đầy đủ và trọn vẹn tập hai. Thận trọng lúc này là cần thiết.
...Cuộc đời hoạt động của tôi trước năm 1975, chỉ có khoảng 13 năm (bắt đầu vào nghề báo năm 1962). Cuộc đời sau năm 1975, cho đến hôm nay, đã gần 30 năm, chủ yếu viết báo và làm báo.
...Nói cách nào đó, tôi có hai cuộc đời. Trước và sau năm 1975. Dĩ nhiên hai cuộc đời này không tách bạch với nhau, vẫn hoà quyện với nhau, nhưng ở hai chế độ chính trị, hai môi trường sống hoàn toàn khác nhau. Trước đây tôi không tưởng tượng nổi đời mình lại có cơ hội được sống và cống hiến cho đất nước qua hai thời kỳ lịch sử, dưới hai chế độ đối nghịch nhau.
Ngay sau tháng 4-1975, thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc trong thành phần đoàn đại biểu miền Nam. Với riêng tôi, sự kiện đó có một ý nghĩa lớn với đời mình: sau bao nhiêu năm đấu tranh cho độc lập và mơ ước sự hợp nhất của hai miền Nam-Bắc thì giờ đây tôi là người được đưa tay lên biểu quyết sự thống nhất của Tổ quốc. Còn gì vinh hạnh và hạnh phúc hơn! Dù cho trong giây phút ấy, tôi không thể quên cũng tại nơi đây trước đó không lâu tôi cũng đã đưa tay lên nhưng để... đầu hàng!
Tôi biết có một người cũng coi việc mình tham dự Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc như một sự kiện không thể quên của đời mình: bà luật sư Ngô Bá Thành. Trong phần tiểu sử của bà được đọc lên tại buổi lễ tưởng niệm bà do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc TP.HCM và Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tổ chức tại Bảo tàng Phụ nữ TP.HCM ngày 15-3-2004 (sau 42 ngày mất của bà), tôi có nghe nhắc lại chi tiết bà là thành viên phái đoàn miền Nam tại Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc. Đối với những người trí thức Sài Gòn đến cuối con đường đấu tranh của mình như chúng tôi, có mặt trong một hội nghị như thế là một sự thoả mãn tinh thần cực kỳ lớn.
...Suốt 30 năm của cuộc đời thứ hai, tôi chỉ viết báo và làm báo, đó là cái nghề tôi yêu và say mê – cái nghề duy nhất tôi chọn lựa cho đời mình. Cho nên 30 năm qua, tôi vô cùng thỏa nguyện được sống trọn vẹn với nghề này, bất chấp những lao đao và những hoàn cảnh không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Tôi không bao giờ than phiền về những khó khăn mà tôi phải đối đầu, bởi làm sao tin được rằng một cựu bộ trưởng thông tin của “ngụy quyền Sài Gòn” lại được tự do viết báo trong chế độ cộng sản? Hơn thế nữa tôi còn ra Hà Nội làm tổng thư ký tòa soạn báo Lao Động, tờ báo của giai cấp công nhân và một trong những tờ báo lâu đời nhất của Cách mạng Việt Nam. Nhạc sĩ Văn Cao là một trong những người đầu tiên làm công việc trình bày cho tờ báo này. Ngày tôi lên máy bay ra Hà Nội để đảm nhận công việc tại báo Lao Động (năm 1994), tôi gặp ông Đỗ Phượng, lúc đó là tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam, tại sân bay Nội Bài. Biết được mục đích chuyến ra Hà Nội của tôi, ông Đỗ Phượng cười, rồi trêu tôi: “Sao anh đi tập kết trễ thế!”.
Khi ra Hà Nội làm tổng thư ký tòa soạn cho báo Lao Động, thật sự tôi đã có ý định dời gia đình ra ở hẳn tại Hà Nội, vợ tôi cũng tán thành. Người vợ sau của tôi lúc này là Trần Hồ Quang Ngọc Cúc (tên gọi thân mật là Cúc Phượng). Nhưng do trục trặc trong công tác tại báo mà ý định sống hẳn ở Hà Nội của chúng tôi bất thành.
Tôi yêu Hà Nội ngay từ đầu chạm mặt. Cuối năm 1975, tôi được báo Tin Sáng cử ra thủ đô lần đầu theo dõi phiên họp của Quốc hội triệu tập sau khi đất nước thống nhất. Tôi còn nhớ lòng mình xúc động thế nào khi từ sân bay Gia Lâm về Hà Nội đi ngang qua cầu Long Biên, giáp mặt với một khối sắt khổng lồ đen sì và cũ kỹ, trên đó đông nghịt người đi xe đạp và hầu như mọi người chỉ mặc một màu nâu sòng hay màu xanh bộ đội đã bạc... Đồng bào ruột thịt của tôi là đây! Chiếc cầu Long Biên đứng vững trước hàng trăm cuộc dội bom của phi cơ Mỹ, là đây! Hà Nội có rất nhiều nơi, nhiều điều tiêu biểu cho cuộc chiến đấu ác liệt và anh hùng của mình, nhưng không hiểu tại sao với tôi, hình ảnh ấn tượng nhất vẫn là chiếc cầu Long Biên mà khi còn nhỏ tôi đã được biết qua cái tên Tây: Paul Doumer.
Khi vào đến Hà Nội, tôi yêu ngay cái thành phố đã có sẵn trong ký ức của tôi qua các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh. Sự tưởng tượng lãng mạn của tuổi thơ khi đọc sách, kỳ diệu thay, lại khớp với cảnh vật Hà Nội bày ra trước mắt. Với tôi Hà Nội dường như đã đứng yên như thế qua bao thập niên “chờ đợi” tôi. Ngay lúc đó tôi đã nhận ra vẻ đẹp thầm kín và quyến rũ của Hà Nội sau chuyến đi đó tôi nói với bạn bè ở Sài Gòn rằng Hà Nội là một thủ đô rất đẹp của đất nước.
Và tôi không thể tưởng tượng ở đó tôi còn có cơ hội gặp lại lần lượt tất cả những nhân vật huyền thoại mà tôi cứ ngỡ rằng đã thuộc về lịch sử văn học xa xôi, chỉ tồn tại trong sách vở như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận v.v...
Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần đầu không hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục. Tôi còn nhớ đến thăm một nữ nghệ sĩ trong đoàn Ca múa nhạc miền Nam vừa trở ra Hà Nội, nhà ở gần hồ Thuyền Quang, tôi nhìn thấy cái giường của cô đặt sát một cửa sổ không có cánh cửa, chỉ có một màn sáo rũ xuống không ngăn được hơi lạnh từ bên ngoài vào. Căn nhà nhỏ nhưng phải chia sẻ chung với hai, ba gia đình. Để giành lại độc lập cho đất nước, mỗi miền đã chấp nhận sự hy sinh khác nhau nhưng đều là những hy sinh vô bờ bến. Có thấy cuộc sống khó khăn của Hà Nội thời đó mới càng nhận ra giá trị những gì chúng ta đạt được ngày hôm nay.
Sau này khi ra Hà Nội nhiều lần tôi thường ghé lại thăm ông Nguyễn Tuân và ông Văn Cao. Khi có dịp vào TP. HCM, hai ông cũng thường đến dùng cơm tại nhà tôi. Hai người có cách sống hoàn toàn khác nhau. Căn phòng của ông Tuân ấm cúng và sắp xếp như một appartement của một người sống độc thân... ở Paris. Căn phòng vừa là nơi ăn ngủ làm việc và tiếp khách. Lúc nào ông cũng có rượu Tây loại ngon. Mùa đông có một lò sưởi cá nhân tự tạo đặt kế bên giường. Ông nói chuyện duyên dáng, dí dỏm và không né tránh những nhận xét đầy hình tượng dành cho các đồng nghiệp hoặc các nhân vật nổi tiếng khác cùng thời. Căn nhà của ông Văn Cao có vị trí thoáng đẹp hơn. Bao giờ ông tiếp khách cũng có vợ ông, bà Băng. Tại phòng khách có treo bức chân dung rất đẹp của bà Băng thời trẻ do ông Văn Cao vẽ. Bất cứ lãnh vực nào mà Văn Cao đặt tay vào cũng đều đạt đỉnh cao từ âm nhạc, thơ cho đến họa. Thường ông ngồi im lặng như pho tượng. Tôi có cảm tưởng: có lẽ người gần như duy nhất gây cho ông sự hứng thú để trao đổi là Trịnh Công Sơn. Cùng với Trịnh Công Sơn bên cạnh, ông đã đồng ý xuất hiện một lần tại Nhà Văn hoá Thanh Niên trong buổi giao lưu với thanh niên TP. HCM.
...Trở lại cuộc sống của riêng tôi và gia đình tôi sau tháng 4-1975 phải nói là may mắn hơn nhiều người nhưng không phải đều thuận lợi dễ dàng. Thậm chí còn có những bi kịch.
...Tôi không thể quên được lúc nhà của cha mẹ tôi bị bộ đội ở phường “đóng chốt” và được lệnh giao cho chính quyền phường vì bị qui vào diện tư sản chỉ vì mẹ tôi có một tiệm tạp hóa ở chung cư Nguyễn Văn Thoại. Còn cha tôi bị bắt về phường ở một đêm vì chính quyền phường tưởng lầm cha tôi là một sĩ quan ngụy cao cấp do có thông tin cha tôi từng là phó đô trưởng Sài Gòn (thật ra phải là phó đô trưởng nội an mới mang lon trung tá hoặc đại tá; cha tôi là phó đô trưởng hành chính thuộc ngạch công chức hành chính, hơn nữa đã bị cách chức hai năm trước ngày 30-4-1975 vì có con hoạt động chống Nguyễn Văn Thiệu!). Tôi hay tin nhà cha mẹ tôi bị “đóng chốt” và bị kiểm kê vào một buổi sáng khi vừa ra khỏi nhà đi làm (lúc này tôi là phó tổng biên tập nhật báo Tin Sáng). Tiếng loa từ phường bên nhà cha tôi vang sang tận nhà tôi (cách khoảng 400 mét đường chim bay). Tôi nghe rõ mồn một: “Mời bà con vào mà thăm quan cung điện của Lý Quí Phát...”. Căn nhà ba tầng khá cũ kỹ của cha mẹ tôi nằm trong khu chợ Nguyễn Tri Phương được giới thiệu với người dân ở phường là một... cung điện! Dĩ nhiên không có ai trong phường đến thăm quan, vì cha mẹ tôi đã ở đó hàng chục năm, mọi người đều biết cha tôi không phải là một tư sản hay viên chức ác ôn, còn căn nhà của cha mẹ tôi so với rất nhiều căn nhà khác ở đất Sài Gòn này cũng không có gì đặc biệt.
Những sự kiện căng thẳng dồn dập xảy đến khiến cha tôi bị lên huyết áp và đột quị tưởng đâu không qua khỏi. Ông bị liệt nửa thân mình, méo miệng, không nói được. Bác sĩ quen ở bệnh viện Triều Châu (sau đổi tên An Bình), anh Nguyễn Văn Mẫu, đã từng là thị trưởng tự phong ở Đà Nẵng trong thời kỳ Phật giáo miền Trung nổi lên chống chính phủ Thiệu - Kỳ, đã giúp cha nói lại được nhưng phải di chuyển bằng xe lăn. Một trong những câu nói đầu tiên sau thời gian ông bị bặt tiếng nói là nói với tôi – khi tôi đứng bên giường chăm sóc ông. Giọng ông giận dữ: “Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này, mà mày còn viết báo cho cộng sản. Cha mày từ mày”. Chưa bao giờ cha tôi đối với tôi giận dữ và dùng những lời lẽ như thế. Những chuyện xảy ra cho gia đình tôi đã biến cha tôi từ một người hồ hởi đón chào Cách mạng, nô nức chờ bạn bè đi kháng chiến trở về, biến thành một người ác cảm với cộng sản và từ luôn con trai của mình. Tôi đứng lặng thinh vì biết rằng mọi lời giải thích lúc này đều vô ích.
Tại tòa báo vào thời điểm đó tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp tư sản tư doanh v.v... thế mà ở nhà cha mẹ tôi lại là nạn nhận của sự lệch lạc trong vận dụng các chủ trương này. Tôi rất đau buồn, không dám nói gì với cha, tôi cố gắng giải thích với mẹ và các em tôi chuyện xảy ra với gia đình mình (và một số khá đông hộ trong phường) là những sai phạm của chính quyền địa phương trước sau gì cũng sẽ có sự điều chỉnh. Mẹ tôi chẳng nói gì, bà quá sợ hãi. Còn các em tôi thì không tin người anh trai của mình nữa. Chỉ làm thinh để âm thầm chuẩn bị vượt biên. Tình cờ tôi biết được chuyện này. Tôi vô cùng đau khổ. Trong đầu tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày anh em tôi lại ly tán. Sau khi tình cờ biết được dự định của các em tôi, tôi đã nhờ một người trong báo Tin Sáng có quan hệ với công an cấp cao tìm cách... doạ em rể của tôi, chồng đứa em gái kế, là người tổ chức cuộc vượt biên để nó từ bỏ ý định. Nhưng lời đe dọa của viên sĩ quan công an phụ trách bảo vệ trong cơ quan tại nơi em rể tôi đang làm việc chẳng có hiệu lực gì. Các em tôi tách ra ở một địa chỉ khác để tránh bị theo dõi rồi một ngày kéo nhau ra đi hơn phân nửa. Tôi có tất cả sáu em gái (lúc đó có ba đã lấy chồng) và một em út là trai. Như vậy cùng một lúc tôi “mất” bảy đứa em! Vào lúc này, người vượt biên coi như không có hy vọng gặp lại người ở lại.
Người thường xuyên đến nhà tôi động viên vào lúc này là anh Huỳnh Bá Thành. Ngay sau tháng 4-1975, Thành có đến thăm tôi và yêu cầu tôi viết một bài cho báo Sài Gòn Giải Phóng. Tôi có viết nhưng bài báo không được đăng. Lần này đến thăm tôi anh dặn dò tôi nói lại với ba mẹ tôi hãy yên tâm, không đến nỗi phải giao nhà và đi vùng kinh tế mới đâu – dù phường cứ mỗi ngày cứ đến ép thúc cha mẹ tôi giao nhà. Một hôm em gái tôi vẫn còn đi dạy qua nhà tôi báo cho tôi biết anh bí thư thanh niên phường đã đề nghị... bí mật với mẹ tôi tháo giấy niêm phong tủ sắt để lấy tư trang của mẹ tôi ra và đánh tráo đồ giả vào. Số vàng và hột xoàn lấy ra sẽ chia đôi. Anh ta hứa sẽ cho gián lại giấy niêm phong khác! Em tôi nói “Mẹ có vẻ xiêu lòng trước đề nghị này”. Tôi dứt khoát phản đối và cam đoan với mẹ và em gái rằng số tư trang ấy sẽ không bao giờ bị tịch thu.
Có một niềm an ủi cho cha mẹ tôi lúc đó là những anh bộ đội trẻ đóng chốt tại nhà - cả bốn đều từ miền Bắc vào - tỏ ra rất thông cảm, lễ phép và đối xử với người trong nhà rất tình cảm, đến cha tôi đầy bất mãn với cộng sản cũng thương họ như con cháu. Thỉnh thoảng họ còn biếu mẹ tôi đường, hay một thứ “nhu yếu phẩm” gì đó vào lúc này rất quý.
Sau đó tôi được em gái tôi báo tin “thằng bí thư đoàn phường, người đề nghị với má lấy tư trang trong tủ sắt ra để chia đôi, đã vượt biên rồi”. Tôi không ngạc nhiên chút nào. Rồi sau đó khoảng 8 tháng hay một năm gì đó, dân chúng ở phường được thông báo tòa án nhân dân quận 10 đưa ra xét xử một số cán bộ phường, có cả cấp cao nhất đã có những sai phạm và tiêu cực trong chính sách cải tạo tiến hành ở địa phương. Tôi được biết trong phường không chỉ nhà cha mẹ tôi mà còn nhiều gia đình khác nữa cũng đã trải qua bi kịch này. Khi công lý lên tiếng thì đã có quá nhiều mất mát vật chất và tinh thần đã xảy ra cho nhiều gia đình. Riêng gia đình tôi, sự mất mát vật chất thì chẳng đáng gì – dù rằng rốt cuộc trong nhà không còn một thứ gì giá trị - nhưng mất mát về tinh thần thì quá lớn: Cha tôi đột quỵ, sau một thời gian ngồi xe lăn đã nằm liệt một chỗ cả chục năm rồi mất; còn 7 trên 10 đứa em tôi thì vượt biên. Cũng may mắn là tất cả đều bình yên.
Cuộc sống của tôi sau 30-4-1975 đúng ra không qua gay go nếu không xảy ra chuyện gia đình tôi bị rơi vào diện cải tạo một cách vô lý. Những khó khăn về đời sống vật chất dù có lúc khá bi đát vẫn được tôi, vợ tôi và các con tôi chấp nhận trong bối cảnh chung hầu như mọi người đều khổ cực. Có lúc rất khó khăn chạy cái ăn từng ngày, trong nhà tôi có thứ gì bán được thì lần lượt bán hết , nhưng ngày ngày đi làm báo từ Tin Sáng (1975-1980) sang Tuổi Trẻ (1980-1990), tôi vẫn không một ngày nào thiếu hăng hái hay mất niềm tin. Đồng lương chỉ đủ ăn sáng (mãi cho đến khi làm báo Lao Động tôi mới sống được thật sự bằng thu nhập nghề của mình) nhưng cống hiến thì vẫn hết mình. Nhớ lại giai đoạn ấy bản thân tôi cũng phải tự hỏi điều gì khiến mình giữ được niềm tin và sự kiên trì chờ đợi một ngày mai tươi sáng hơn cho đất nước và cho con cái mình. Có lẽ do tôi không thể quên rằng chính mình đã tự nguyện chọn lựa con đường hôm nay.
Vợ con tôi chịu đựng cũng rất giỏi. Đứa con trai thứ nhì – Lý Quí Dũng – làm công nhân trong nhà in báo Tuổi Trẻ (nơi tôi đang công tác) ở khâu cực khổ nhất: mài bản kẽm in. Còn đứa thứ ba – Lý Quí Trung - tạm ngưng học đại học kinh tế đi làm phục vụ (tức bồi bàn) tại khách sạn Đệ Nhất – Tân Bình. Chúng chẳng kêu ca gì!
...Có một hôm đi làm về tôi thấy có bóng ai leo bên ngoài cửa sổ phòng ngủ lầu một, tôi định hô lên có ăn trộm thì vợ tôi kịp cản lại. Nàng bảo nhỏ: “Không phải ăn trộm đâu, em bán cửa kính cho người ta!”. Tôi định phản ứng. Sao lại tận cùng thế này! Nhưng kịp nhớ lại: những gì có giá trị, có thể bán được thì đã bán hết rồi! Lúc đó không bán kính cửa sổ thì đào đâu ra tiền để chi dụng trong nhà. Nhà tôi ba tầng có đến hàng chục cái cửa sổ, cho nên cũng thu về một số tiền kha khá, có thể đối phó thêm một thời gian nữa. Ngay tức thời chiều hôm đó, cả gia đình tôi có một buổi cháo gà xé phay bù đắp những ngày ăn uống kham khổ.
Nhưng bán mãi rồi cũng không còn gì để bán nữa. Đầu tiên vợ tôi nghĩ ra việc làm cơm tấm bì bày bán ở đầu đường hẻm nhà ở đường Nguyễn Tri Phương. Việc buôn bán ngoài lề đường này giúp gia đình tôi tồn tại được một thời gian ngắn. Bạn bè nhà báo đến ăn rất đông, có cả anh Nguyễn Sơn lúc đó là phó ban Tuyên huấn thành ủy cũng đến ủng hộ. Nhưng vì địa điểm chỗ bán có lấn một phần phía trước nhà trẻ của phường nên ở phường chỉ thị phải dời vào trong hẻm. Vào trong hẻm bán ế nên phải dẹp luôn! Thế là chúng tôi chỉ còn một giải pháp cuối cùng là... bán nhà. Nhà lúc đó giá rẻ mạt. Căn nhà đó bây giờ có thể bán với giá 600-700 cây vàng nhưng lúc ấy bán không hơn hai chục cây. Khi dọn nhà ra căn hộ thuê ở đường Lê Lợi, nằm phía sau bệnh viện Sài Gòn, vợ chồng tôi chỉ mang theo một số bàn ghế và... một cây đàn Piano. Đây là chiếc Piano thứ hai. Chiếc đầu tiên chúng tôi đã bán trong những ngày đầu giải phóng, chiếc này của đứa em gái kế tặng lại khi gia đình em tôi có ý định vượt biên. Vợ tôi cố gắng giữ nó vì đó là niềm vui duy nhất còn lại cho các con tôi. Các con tôi trước năm 1975 đều học đàn. Cô giáo Thủy Hoằng (hiện còn dạy ở nhạc viện TP. HCM), lúc đó dạy ở Trường quốc gia âm nhạc, là người hướng dẫn các con tôi.
Nhưng rồi cái niềm vui sau cùng đó của các con tôi cũng không thể giữ nổi. Để lo cuộc sống hàng ngày, chúng tôi đành phải bán nó đi. Tôi nhớ như in trong đầu mình cái ngày bán chiếc Piano cuối cùng đó. Căn hộ của chúng tôi ở lầu 3, cầu thang khá hẹp, muốn đưa chiếc đàn xuống đất là chuyện không dễ chút nào. Có hai thứ khi xê dịch cần sự thận trọng và lành nghề rất cao ở những người khiêng, đó là chiếc quan tài và... chiếc Piano. Chỉ một cọ quẹt nhẹ cũng làm hư hại và làm mất giá chiếc Piano. Khiêng quan tài và khuân Piano không cho phép bất kỳ một sơ sót nào.
Chiếc Piano được mấy anh công nhân giàu kinh nghiệm khiêng từ lầu 3 xuống một cách hết sức thận trọng, giữa cái cảnh nhà buồn bã, có cả nước mắt của đứa con trai kế rất gắn bó với chiếc Piano này - khiến tôi không thể không liên tưởng đến một đám tang. Chao ơi! Người ta đang khiêng một cái quan tài chứ đâu phải cái Piano!
...Ba mươi năm trong chế độ mới, tôi “đứng” được qua các giai đoạn cực kỳ gay go của đất nước và của cả bản thân mình vì tôi tin ở con đường mình đã chọn lựa. Không phải là một đảng viên cộng sản nhưng tôi tin vào những lý tưởng xã hội tốt đẹp cho bất cứ xã hội nào muốn tiến lên công bằng và nhân bản hơn. Tôi vẫn giữ niềm tin đó ngay cả sau khi chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ. Những sai trật và lệch lạc ở những nơi không thể vùi lấp những giá trị vĩnh cửu của chủ nghĩa xã hội nhân bản.
Nhưng trong 30 năm đó, tôi vẫn cảm nhận mình là “một người khách đặc biệt”. Chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi cũng không hề phiền hà về cái quy chế không chính thức này. Là một người từng làm chính trị (dù là do thời cuộc mà làm), tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải “của mình”, nhất là tôi đã có một quá khứ chính trị thuộc về chế độ cũ với những hoạt động không dễ dàng làm rõ hoàn toàn: ba lần làm đại biểu quốc hội và ở tuổi 35 làm bộ trưởng Bộ thông tin chế độ Sài Gòn. Ngay trong xã hội tư bản cũng thế thôi, đảng cầm quyền chỉ tin dùng người của đảng mình, ngoại trừ trường hợp họ phải liên kết với đảng khác. Trong các cuộc đấu tranh hay mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan mà tôi từng công tác, cái chuẩn “người của Đảng” đáng tin cậy hơn “người ngoài Đảng” vẫn thường được vận dụng. Tôi là “một người khách đặc biệt” nhưng không bao giờ tôi quên mình là người ngoài Đảng. Nhưng dù có ai nhìn tôi trong ngoài thế nào thì tôi vẫn viết báo, làm báo với tư cách một người có lý tưởng xã hội chủ nghĩa và không bao giờ đi ngược lại nguyên tắc này. Đây là sự chọn lựa trước hết cho bản thân tôi, lý tưởng của tôi. Ngay cả với những bạn bè thân thiết, tôi luôn thẳng thắn khẳng định điều này. Điều đáng trách nhất ở người trí thức là có cuộc sống hai mặt. Nếu tôi không chia sẻ lý tưởng xã hội, tôi không bao giờ tiếp tục viết báo và làm báo sau 4-1975. Tôi hoàn toàn có khả năng chọn một nghề khác để không phản bội lại chính mình nếu tôi không tán đồng chủ nghĩa xã hội. Viết báo, làm báo là một nghề rất khác nhiều nghề. Hơn cả một phương tiện kiếm sống, nó là lý tưởng chính trị của người cầm bút, là công cụ đấu tranh của mình cho xã hội. Không thể có sự trùng lập trong báo chí.
...Lẽ ra sau 30-4-1975, tôi cũng đi cải tạo tập trung theo diện viên chức cao cấp ngụy quyền. Khi có thông báo trên đài và trên báo, tôi đã chuẩn bị đi trình diện. Tôi nghĩ: đi học tập 10 ngày để biết rõ hơn chế độ mà mình sẽ sống cũng chẳng sao, còn cần thiết là khác. Tôi chuẩn bị một ít quần áo, một lon Guigoz đựng thịt chà bông, một bịch đường, hai cái khăn, bàn chải và kem đánh răng v.v... để sáng hôm sau đến địa điểm ở trường Gia Long (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai) trình diện. Lòng tôi chẳng chút băn khoăn.
Nhưng chiều 12-6-1975 tôi nhận được một phong thư giao tận nhà, gửi cho: “Nguyên tổng trưởng Thông tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy quyền Lý Quí Chung”, thông báo tôi được hoãn học tập tập trung, người ký tên giấy tạm hoãn này là ông Cao Đăng Chiếm, Phó chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn. Lúc đó tôi chưa biết mình là người may mắn. Thời gian sau tôi mới ý thức việc tạm hoãn này là một chính sách rất đặc biệt, chỉ áp dụng cho một số rất ít trí thức và nhân sĩ hoạt động ở Sài Gòn trước năm 1975. Quả tình lúc đó tôi chỉ nghĩ chế độ mới trực tiếp cứu xét từng trường hợp, căn cứ vào đường hướng hoạt động của mỗi cá nhân trong thời gian chống Mỹ và chế độ Thiệu. Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết rõ chuyện ấy thế nào, có tất cả bao nhiêu người được miễn.
Những người được miễn đi học tập tập trung như các anh cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Đinh Văn Đệ, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo v.v..., có cả ông Trần Bá Thành, cựu tổng giám đốc cảnh sát Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm, tất cả những người này được tổ chức học tập riêng tại một địa điểm ở đường Phùng Khắc Khoan, đối diện với cổng sau của trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố hiện nay. Tôi không biết rõ về trường hợp ông Trần Bá Thành. Có anh em nói rằng ông Thành đã được MTDTGPMN liên lạc trước ngày giải phóng. Không biết thực hư thế nào. Người hướng dẫn chính các buổi học tập - dưới hình thức như các buổi hội thảo - là ông Tạ Bà Tòng, một ủy viên trong Ủy ban Mặt trận Giải phóng Thành phố. Ở buổi kết thúc lớp học, có ông Mai Chí Thọ, tức Năm Xuân, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản, đến nói chuyện. Theo tôi biết, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Hương... cũng tham dự một đợt học tập riêng và được các vị lãnh đạo ở Thành phố đến trao đổi. Ông Minh không kể gì nhiều về các buổi này nhưng có nói người tỏ ra tích cực nhất trong đợt học tập này là ông Trần Văn Hương.
Sau thời gian học tập kéo dài khoảng một tuần (từ 15-8 đến 22-8-1975), mỗi người nạp một bản thu hoạch và được Ủy ban Quân quản cấp giấy trả quyền công dân. Anh Hồ Ngọc Nhuận có kể: “Được biết trong số những người được trả quyền công dân có người không bao lâu sau đã nhận được huân chương kháng chiến chống Mỹ lẫn chống Pháp hạng nhất”. Ý anh Nhuận: trong số những người cùng học tập có những người đã là người hoạt động cho Mặt trận từ trước. Nhưng chính anh Nhuận lại tiết lộ: “...tôi được yêu cầu làm Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Lâm thời thành phố, dưới bóng Ủy ban Quân quản, phải năn nỉ lắm tôi mới thoát được cương vị chính quyền”. Anh còn cho biết cùng thời điểm đó, cùng anh Ngô Công Đức, anh được yêu cầu chuẩn bị cho ra lại tờ Tin Sáng bộ mới.
Phần tôi mù tịt về những ngày sắp tới với mình sẽ ra sao.
Chuẩn bị ra báo Tin Sáng, anh Ngô Công Đức với cương vị chủ nhiệm đã đến mời tôi, anh Dương Văn Ba, anh Nguyễn Hữu An, anh Nguyễn Văn Binh... cùng thảo kế hoạch tổ chức tờ báo. Đầu tháng 9-1975, tức chỉ sau 4 tháng ngày giải phóng, nhật báo Tin Sáng tái bản. Sự hiện diện trở lại của một tờ báo quen thuộc với người Sài Gòn trước 1975 rõ ràng đã có ảnh hưởng tích cực trong bối cảnh mới có nhiều điều rất mới mẻ và xa lạ với người dân Sài Gòn nay được mang tên mới Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi được mời đảm trách vai trò phó tổng biên tập cùng với anh Dương Văn Ba. Anh Đức làm chủ nhiệm, anh Hồ Ngọc Nhuận làm tổng biên tập. Tôi phụ trách luôn nhiệm vụ tổng thư ký tòa soạn lúc ban đầu (sau công việc tòa soạn được chia với anh Dương Văn Ba). Rất tiếc sự chung sức của anh em tại báo Tin Sáng, gắn bó với nhau từ thời cũ lại không suôn sẻ đến cùng. Sau năm năm tồn tại như một hiện tượng độc đáo, Tin Sáng được tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ”.
Với các anh em trong Tin Sáng cũng có nhiều quan điểm, thái độ khác nhau đối với hướng đi và cách quản lý tờ báo, nhưng có một điều cho đến bây giờ vẫn phải nhìn nhận: Tin Sáng đã có những đóng góp không nhỏ vào cách thông tin nói riêng và cách làm báo nói chung của báo chí ở Việt Nam sau 1975. Thật ra cái mới của Tin Sáng chỉ là những vận dụng nghiệp vụ của báo chí Sài Gòn trước 1975 nhưng có chọn lọc phù hợp với khuôn khổ báo chí lúc đó. Ngoài những tin tức chính thức, tờ báo còn quan tâm đến đời sống bình thường và dành một diện tích rộng cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật, tin tức thế giới và giải trí. Ngoài công tác tòa soạn, tôi phụ trách mảng văn hóa – xã hội (anh Dương Văn Ba phụ trách mảng kinh tế - chính trị, anh Nguyễn Hữu An mảng quốc tế), nhờ vậy tôi có cơ hội trở lại với lĩnh vực viết báo khi mới vào nghề của tôi: viết thể thao, nhất là bình luận bóng đá. Xưa kia tôi lấy bút danh Phát Chung (ghép tên cha tôi và tên tôi), còn bây giờ là Chánh Trinh (ghép tên con gái tôi Lý Quỳnh Kim Trinh và con trai Lý Quí Chánh). Lối bình luận đi sâu vào trận đấu, có những nhận xét về lối chơi cá nhân, đưa ra cả những cảm nhận của riêng mình, khen chê rạch ròi “ông vua sân cỏ” - với báo chí hiện nay là bình thường – nhưng ở thời gian đầu sau tháng 4-1975 là mới lạ và có sức thu hút lớn đối với người đọc. Tôi còn nhớ cha của hai cầu thủ lừng danh là Thế Anh và Cao Cường có nhận xét rằng trước đây ông chưa bao giờ được đọc trên báo những lời bình luận cụ thể về lối chơi của hai con ông, nhất là những lời ca ngợi đích danh như được đọc trên Tin Sáng. Trước kia các trận đấu chỉ được đưa tin gắn gọn, nhấn mạnh tinh thần thể thao xã hội chủ nghĩa và đoàn kết hữu nghị (nếu là trận quốc tế), ít khi đi vào các tình tiết của trận đâu; còn sự khen tặng, ngợi ca tài năng của các cầu thủ coi như rơi vào khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân.
Trong cuộc đời làm báo của tôi sau 1975, lần lượt tôi cộng tác (với tư cách tổng thư ký hoặc thư ký tòa soạn) cho tất cả 8 tờ báo (Tin Sáng, Lao Động, Thanh Niên Thời Đại, VDT (phụ san báo Bà Rịa Vũng Tàu), Tia Sáng, Kiến Thức Gia Đình (phụ san báo Nông Nghiệp Việt Nam), Đẹp, không kể có bài trên các báo khác như Pháp Luật TP.HCM, Công An TP.HCM, Sài Gòn doanh nhân cuối tuần, Phụ Nữ TP.HCM, Người Lao Động, Thanh Niên, Thể Thao Ngày Nay..., nhưng cuối cùng cái đọng lại, làm cho tôi gần gũi với độc giả của mình, được họ yêu thương nhất lại chính là bút hiệu Chánh Trinh viết về bóng đá! Tôi rất biết ơn độc giả và rất hãnh diện về những gì mình gây dựng được chung quanh bút danh này.
Nói về bút hiệu Chánh Trinh, mà tôi ưng ý nhất là trong những năm 1980-1990 - ở cả hai mặt bình luận các trận đấu và chống tiêu cực trong thể thao – công bằng mà nói bút hiệu đó sẽ không “đứng” được nếu không có sự góp sức và ủng hộ tích cực của tập thể lãnh đạo tờ báo Tuổi Trẻ từ anh Võ Như Lanh (tổng biên tập), chị Kim Hạnh (phó tổng biên tập) đến các anh Trương Anh Dũng (Tám Đăng), Huỳnh Sơn Phước (đều là phó tổng biên tập). Bởi để đối phó với các áp lực từ nhiều phía vào thời kỳ còn bao cấp trong thể thao, tay nghề và sự quyết tâm của riêng người cầm viết thôi không đủ sức “đứng” một mình. Sự dũng cảm của ban biên tập giúp cho sự dũng cảm của người cầm viết có điều kiện thể hiện trên mặt báo. Không riêng cá nhân tôi mà cả tổ phóng viên thể thao lúc đó (gồm có Tường Vy, Hoài Lê, Đặng Hoàng, Sỹ Huyên) đều nhận được sự hỗ trợ hết lòng của ban biên tập báo. Đó là một ê kíp phụ trách trang thể thao cho một tờ báo mạnh nhất và đồng đều nhất mà tôi có dịp cùng cộng tác với bút hiệu Chánh Trinh. Mỗi cây viết có một phong cách riêng, một sở trường riêng hợp thành một đội hình rất đẹp.
Vì anh Tường Vy không còn ở lại với anh em, anh đã ra đi vĩnh viễn (cuối tháng 4-2004) nên tôi xin nói thêm về anh. Năm 1980 khi tôi từ báo Tin Sáng được điều sang báo Tuổi Trẻ ở đường Phạm Ngọc Thạch (nay là tòa soạn báo Khăn Quàng Đỏ), có tin anh cũng sắp chuyển từ báo Tiền Phong về Tuổi Trẻ. Đúng ra anh về đây trước tôi. Tổng biên tập Võ Như Lanh đã xin anh Tường Vy từ khi tờ Tin Sáng bộ mới chưa ngưng xuất bản, nhưng thủ tục chuyển hơi chậm. Dự định ban đầu của Tuổi Trẻ là giao cho Tường Vy phụ trách tổ thể thao. Nhưng tôi về trước và do đã phụ trách thể thao ở báo Tin Sáng nên được ban biên tập Tuổi Trẻ giao tiếp trách nhiệm này. Lúc đầu anh Tường Vy không hoàn toàn đồng ý sự phân công này và mặt khác cũng không tin lắm cái anh tri thức tiểu tư sản Sài Gòn có đủ chuyên môn để phụ trách tổ thể thao! Trong 5 năm (1980-1985) làm việc chung với anh Tường Vy ở báo Tuổi Trẻ không thể tránh thỉnh thoảng có vài mâu thuẫn xảy ra, nhưng cuối cùng chúng tôi đã dành cho nhau sự kính trọng nghề nghiệp giữ mãi đến cuối đời. Chúng tôi được đào tạo khác nhau, cách sống và cả cách ăn mặc cũng khác nhau. Trong viết lách phong cách càng khác, nhưng trên cùng một trang báo thể thao có anh và có tôi thì nhịp nhàng làm sao! Phong cách viết của anh Tường Vy độc đáo: anh có lối viết thật ngắn, không thể nào ngắn hơn được nữa. Và thật sắc nhọn. Tôi không đủ chữ nghĩa như anh. Có vị lãnh đạo trong ngành thể dục thể thao không chịu nổi sự “sắc nhọn” của ngòi viết anh đã phản ứng lại bằng cách ra lệnh cho các trưởng phòng trong ngành dưới quyền mình “thấy thằng Tường Vy đến đâu thì tống nó ra như con chó...”! Đoàn kết với Tường Vy, tôi đã công khai phản đối thái độ quan liêu và thiếu văn hoá này.
Trong buổi công bố kết quả cuộc bầu Quả Bóng Vàng năm 2002 của báo Sài Gòn Giải Phóng, lúc đó tôi vừa phục hồi sức khỏe tàm tạm, Tường Vy có đến bàn tôi ngồi và nói “Tôi cũng bị bệnh nặng phải hóa trị, tóc rụng hết. Bây giờ mới bắt đầu mọc lại. Ông à tụi mình vẫn chiến đấu, đâu có chịu đầu hàng dễ dàng!”. Nhưng rồi chỉ một năm sau... Thôi bạn đi trước nhé. Rồi tụi mình cũng sẽ gặp nhau tha hồ mà bàn chuyện bóng đá.
...Sau khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, như đã nói, tôi tiếp tục làm báo. Lúc đầu có dự định chuyển về báo Sài Gòn Giải Phóng nhưng nghe nói do có ý kiến của ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành Ủy, tôi được đưa sang báo Tuổi Trẻ (1980) để phụ một tay với tờ báo của Đoàn Thanh Niên. Tuy nhiên dù đã về Tuổi Trẻ tôi vẫn tiếp tục phụ trách trang thể thao của Sài Gòn Giải Phóng thêm một thời gian khá dài. Tổng biên tập báo SGGP lúc đó – anh Tô Hòa là người say mê bóng đá. Anh muốn tôi cộng tác cho hai nơi – Sài Gòn Giải Phóng và Tuổi Trẻ. Nhưng sau một thời gian, tự tôi thấy việc mình viết cho cả hai bên, gần như độc quyền về bình luận trong lĩnh vực thể thao là không ổn. Lúc đó TP. HCM chỉ mới có hai tờ báo có bình luận bóng đá thôi mà tôi lại “trấn thủ” cả hai bên. Tôi xin phép anh Tô Hòa cho rút lui khỏi Sài Gòn Giải Phóng mặc dù nhuận bút SGGP trả cho tôi hàng tháng và từng bài rất cao.
Ở tất cả bảy tờ báo mà tôi được giao làm tòa soạn từ sau 1975, ở mỗi tờ tôi đều cố gắng có một đóng góp gì đó mới mẻ về hình thức, về nội dung và cố tìm ra một công thức sáng tạo cho tờ báo. Người làm báo, cũng như bất cứ một tri thức ở bất cứ lĩnh vực nào, luôn phải biết tự đòi hỏi mình tiến tới phía trước, sáng tạo cái mới, cái chuyển động cho xã hội. Người trí thức sẽ đánh mất vai trò của mình nếu đứng yên trên những thành tựu đã qua của mình.
Tôi rất sợ lặp lại chính mình: sống một cuộc sống mà chính mình đã thuộc lòng từng ngày, từng buổi, từng việc của mình như một cái máy – dù là một cái may hoàn chỉnh! Tồn tại chỉ để tồn tại thì không nên tồn tại.
Cho nên tôi sẵn sàng chia tay một tờ báo nếu tự nhận thấy ở đó không còn điều kiện làm việc để sáng tạo hoặc chính những người có trách nhiệm ở đó không tìm tòi sự đổi mới của tờ báo mà chỉ thỏa mãn với những gì đã có. Điều tệ hại của một nhà báo là khi bắt đầu trở thành một công chức báo chí. Và tôi cũng không thể chịu được sự bất công, thiếu dân chủ ở nơi mình làm việc dù riêng cá nhân mình được ưu đãi. Có lẽ tôi là nhà báo duy nhất kể từ năm 1975 đã chủ động thay đổi công việc qua nhiều tờ báo nhất. Từ sự đấu tranh nội bộ ở nhật báo Tin Sáng đến sự ra đi tự nguyện khỏi báo Tuổi Trẻ sau 10 năm công tác chỉ vì ở đó có một số người cho rằng tôi đã là ‘‘quả chanh đã hết nước rồi’‘. Rồi lại cũng vấn đề nội bộ tại báo Lao Động và lại ra đi dù nơi đây từng có những điều kiện làm việc sáng tạo hơn cả. Anh Trương Anh Dũng, tức Tám Đăng, là một nhà báo có tay nghề cao đồng thời là một nhà tổ chức và quản lý báo giỏi, nhưng khi tôi thấy sự lãnh đạo ở đây trở thành độc đoán, sự đối xử thiếu tôn trọng (mặc dù sự thiếu tôn trọng này đối với các anh em khác chứ chưa đối với tôi) và cả sự thiếu minh bạch trong hoạt động kinh tế thì không còn những điều kiện tốt nữa để tiếp tục cộng tác với nhau. Rút lui khỏi các báo Tia Sáng, Kiến Thức Gia Đình (thuộc báo Nông Nghiệp Việt Nam) là do bản thân tôi thấy các điều kiện làm việc không còn hứng thú sáng tạo.
Có thể việc từ chức, rút lui ấy không phải tất cả đều là quyết định khôn ngoan, nhưng chắc chắn một điều là tất cả các quyết định ấy đều thật lòng, không bị thúc đẩy bởi tham vọng hay ý đồ cá nhân. Và với tất cả những tờ báo mà tôi đã từng chia tay, kể cả những trường hợp sóng gió nhất, sau này khi có cơ hội để nối lại quan hệ hợp tác tôi đều không từ chối (ngoại trừ tờ Tin Sáng vì không tái bản). Không phải vì tôi không có thái độ nhất quán, kiên định lập trường, mà vì tôi coi các báo trong xã hội hiện nay là tài sản quốc gia, là công cụ của nhân dân chứ không thuộc về một cá nhân nào. Tôi viết cho tờ báo là cho độc giả - chính họ mới là những người chủ thật sự của tờ báo. Tôi quan niệm các cuộc đấu tranh nằm trong quy luật tiến hoá, nó khẳng định quan diểm, thái độ sống của mình từng lúc nhưng không nên ôm mãi trong lòng những chuyện đã qua làm nặng nề bước chân đi tới. Dĩ nhiên sau một cuộc va chạm mạnh, những mâu thuẫn bùng nổ, mình được hiểu những con người chung quanh mình nhiều hơn.
...Tuy nhiên không thể chối cãi trong 30 năm viết báo và làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tôi vẫn phải gánh trên lưng mình cái lý lịch “Viên chức cao cấp chế độ cũ”. Có lúc tưởng nó được cất đi nhưng rồi một vụ việc gì đó xảy đến lại nhắc nhở tôi rằng “nó”...vẫn còn y nguyên đó. Lâu ngày như kẻ dị tật, mang sẵn “cái bướu” trên lưng mình, tôi quen dần với “nó” hoặc cố gắng phớt lờ “nó”.
...Trong các tổng biên tập mà tôi từng có cơ hội làm việc chung, tôi vẫn giữ ấn tượng với hai con người mà tôi rất quí trọng. Người đầu tiên là anh Tô Hòa, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng những thập niên 70-80. Ở vào thời điểm mà “người cũ” “người mới” vẫn còn bị phân biệt khá nặng nề, anh cư xử với tôi rất tự nhiên, chân tình và thẳng thắn. Dù tôi không tiếp xúc nhiều với anh, nhưng anh vẫn để lại trong ký ức tôi hình ảnh một con người chân tình. Lúc tôi về hẳn Tuổi Trẻ không còn làm ở báo SGGP nữa, nhưng mỗi khi có các trận bóng đá A1 tổ chức ở các tỉnh lân cận như Long An, Biên Hòa, anh Tô Hòa vẫn thường mời tôi sang báo SGGP để cùng đi xem với anh. Những dịp như thế, trò chuyện với anh thật thú vị và hữu ích. Anh không bao giờ giữ kẽ hoặc khoảng cách. Anh không ngần ngại đề cập mọi vấn đề với tôi, dù vấn đề thuộc loại gai góc. Thường các quan điểm của anh không cứng nhắc hay bảo thủ, trái lại rất thực tế và mới mẻ...
Với anh Tống Văn Công, tổng biên tập báo Lao Động (cho đến năm 1995) tôi có nhiều cơ hội gần gũi hơn; đã từng sống chung nhiều tháng với anh tại tòa soạn báo Lao Động ở Hàng Bồ (Hà Nội). Anh là một con người rất dễ gần gũi và đáng kính trọng. Anh đọc nhiều, hiểu biết nhiều, sẵn sàng tiếp thu, tìm hiểu những luồng tư tưởng mới dù cho cái mới đó đang bị một bộ phận xã hội chưa đồng tình. Trong cái nhìn của tôi, anh là một người cộng sản không bảo thủ, trung kiên với lý tưởng của mình nhưng luôn hướng tới những suy nghĩ mới, chấp nhận những tranh luận mới. Khi làm việc và nói chuyện với anh, tôi quên mất... “cái bướu” trên lưng mình. Anh còn là một nhà báo viết tốt, biên tập giỏi, tin cậy và đánh giá đúng khả năng các cộng sự viên của mình.
Thật ra tôi biết anh từ lúc anh còn làm tổng biên tập tờ Công nhân Giải Phóng (tiền thân của tờ Người Lao Động), còn tôi đang làm ở báo Tin Sáng. Chúng tôi cùng sinh hoạt trong Hội nhà báo TP.HCM. Còn cuộc tiếp xúc đầu tiên của anh mời tôi về cộng tác với báo Lao Động là năm 1990 tại Hà Nội khi tôi đi dự Đại hội Liên đoàn Bóng đá Việt Nam. Lúc này tôi đang công tác ở báo Tuổi Trẻ. Anh Nguyễn Hữu Tính, trưởng văn phòng báo Lao Động phía Nam, là người “móc nối” cho sự hợp tác này. Trong cuộc đời làm báo của tôi, năm năm làm việc với báo Lao Động là thời gian phát huy nghề nghiệp hào hứng và sáng tạo nhất. Những năm tháng đẹp nhất và đáng nhớ nhất. Nhưng cũng như trong bóng đá, không có một “dream team” nào tồn tại mãi mãi. Chuyện lên rồi xuống và hợp rồi tan của bất cứ một tập thể nào trong bất cứ lãnh vực nào cũng là quy luật!
Tôi cho rằng, trong cương vị tổng biên tập, anh Tống Văn Công thiếu sự quyết đoán và không kịp thời chận đứng những lệch lạc trong nội bộ, khiến cho con đường phát triển độc đáo của tờ báo - một tờ báo mang tính đột phá về nghề nghiệp ở thời điểm đó - bị khựng lại giữa lúc đầy phấn khởi. Anh được cho về hưu vào cái lúc anh thành đạt nhất trong sự nghiệp báo chí của mình. Tôi thương và quý trọng anh. Tôi nhớ mãi những buổi sáng anh thức dậy sớm ở Hà Nội (tại tòa soạn ở Hàng Bồ) loay hoay nấu cơm nếp cho buổi điểm tâm của hai chúng tôi. Nhưng mười buổi thì hết năm sáu buổi nếp chín không đều. Rốt cục tôi thuyết phục anh ra ngoài ăn phở, ăn xôi nếp ruốc rất ngon, có gì phải... “phiêu lưu” như thế. Từ khi có tôi cùng ở chung, anh mới tập cho mình thói quen đi ăn uống ngoài phố.
Trong làng báo còn có một người mà tôi có khá nhiều kỷ niệm rất đáng nhớ: Đó là anh Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN). Tôi quen anh từ thời kỳ anh phụ trách Báo Ảnh Việt Nam của TTXVN. Khi sắp sửa kỷ niệm 5 năm ngày giải phóng đất nước (30-4-1980), anh tiếp xúc với tôi và yêu cầu tôi viết một bài báo cho Báo Ảnh Việt Nam. Anh nói: “Anh cứ viết theo ý anh, anh viết thế nào, báo sẽ đăng như thế”. Bài báo tôi viết cho Báo Ảnh số đặc biệt 30-4-1980 có cái tựa “Năm năm sống và làm việc với người cộng sản”. Đúng như lời hứa của anh Đỗ Phượng, bài báo được đăng nguyên văn, không có một từ ngữ nào bị thay đổi. Đến ngày kỷ niệm 10 năm giải phóng, qua nhà báo Hoàng Chu, anh Đỗ Phượng lại đặt tôi viết bài cho Báo Ảnh nhân sự kiện này. Thế là lần thứ hai tôi viết bài kỷ niệm 30-4 cho Báo Ảnh.
Khi Việt Nam tổ chức Hội nghị báo chí Châu Á – Thái Bình Dương tại TP. HCM năm 1989 (địa điểm họp là khách sạn Rex), tôi được mời tham gia trong đoàn đại biểu Việt Nam. Trưởng đoàn là ông Đào Tùng, tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam. Tôi nhớ có ba nhà báo ở TP.HCM có mặt trong đoàn đại biểu: anh Võ Như Lanh (phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng), linh mục Trương Bá Cần (báo Công giáo và Dân tộc) và tôi (lúc đó đang công tác tại báo Tuổi Trẻ). Ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã đến dự Hội nghị và có một cuộc đối thoại sôi nổi và thành công với các nhà báo quốc tế dự Hội nghị. Khi còn một ngày nữa bế mạc, tan phiên họp buổi sáng, anh Đỗ Phượng lúc này là phó tổng giám đốc TTXVN và thành viên trong ban tổ chức, gặp riêng tôi và đưa ra yêu cầu: vào đầu giờ chiều tôi sẽ có bài phát biểu trước hội nghị với tư cách thành viên của đoàn Việt Nam. Tôi chỉ có hơn hai tiếng đồng hồ để chuẩn bị bài phát biểu của mình. Tôi hỏi anh: “Tôi sẽ phát biểu về vấn đề gì?”. Anh trả lời: “Anh đã theo dõi các phiên họp và nghe các phát biểu của các đại biểu. Anh cứ chọn đề tài nào phù hợp với mình...”. Tôi lại hỏi: “Anh có cần xem qua bài phát biểu khi tôi soạn xong?”. Anh lắc đầu “Không. Anh cứ phát biểu theo ý anh”. Đầu giờ chiều tôi được ông Đào Tùng chủ tọa Hội nghị mời phát biểu.
Ra làm tổng thư ký tòa soạn cho báo Lao Động tại Hà Nội, tôi có dịp sang trụ sở TTXVN để bàn về sự hợp tác giữa hai cơ quan. Lúc này anh Đỗ Phượng là tổng giám đốc, đã dành cho tôi sự tiếp đón ân cần và nồng hậu. Anh không hề để bụng sự phản đối trước đó rất quyết liệt của tôi – ngay trên mặt báo Tuổi Trẻ - khi anh là tác giả cho ra đời các ấn phẩm phụ của TTXVN như Tin Tức, Văn Hóa Thể Thao... vào thời kỳ mà các báo đều đói thông tin về World Cup nhưng TTXVN lại dành riêng các thông tin sớm nhất cho các ấn phẩm mới ra đời của mình (World Cup 1986). Tôi cũng còn nhớ trong một buổi họp lấy ý kiến của các đồng nghiệp ở TP.HCM đối với tờ Văn Hóa và Thể Thao của Thông Tấn Xã, do chính anh chủ trì (khi tờ báo xuất bản được mấy tháng), tôi có chê hình thức và cách trình bày kỹ thuật của tờ báo còn yếu, thậm chí phạm quy cách báo chí như cho leo bài tiếp theo ngược ra trang phía trước... Anh không phản ứng gì, lặng lẽ ghi vào sổ tay.
Mười lăm năm sau, các ấn phẩm phụ mà anh đã nghĩ ra đều thành công, nhất là tờ Thể Thao và Văn Hóa. Thành công ở cả hai mặt: về chuyên môn và cả về uy tín một tờ báo luôn có quan điểm tiến bộ trên hầu hết các lĩnh vực mà tờ báo đề cập đến. Dù muộn màng nhưng tôi cũng xin rút lại sự phản đối ban đầu của mình cách đây... 15 năm.
Với anh Đỗ Phượng, dù những lần tôi tiếp xúc với anh không nhiều nhưng tôi vẫn xem anh là một người bạn quí không chỉ trên phương diện báo chí. Trong bối cảnh của đất nước mới thống nhất, vượt được những rào cản vô hình để cố gắng xử sự với nhau có tình và mã thượng - quả thật không dễ. Hơn ai hết, tôi thấm thía điều đó.
Tiếp tục nói về những người cộng sản đã làm tôi quên đi cái “bướu” trên lưng của mình, tôi phải trân trọng nhắc đến một con người, một nhân vật lớn của đất nước – ông Võ Văn Kiệt – mà thỉnh thoảng tôi vẫn có dịp gặp trong suốt 30 năm qua. Trong suốt thời gian dài ấy, mỗi lần gặp lại ông thì tình cảm, cách xử sự của ông cũng vẫn thế, không hề thay đổi. Tôi vẫn gọi thân mật ông là Anh Sáu như thời ông còn là Bí thư Thành Ủy TP.HCM dù cho sau này ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng, rồi khi hưu, trở về sống ở TP.HCM. Tôi biết ông Võ Văn Kiệt cũng xử sự như vậy, trước sau như một, với nhiều trí thức Sài Gòn và họ cũng giữ trong lòng mình một tình cảm và sự kính trọng hết sức đặc biệt dành cho ông.
Tôi nhớ lần đầu ông đến thăm gia đình tôi (lúc đó ở trong một con hẻm đường Nguyễn Tri Phương quận 10) trước khi ông rời thành phố ra Hà Nội đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (năm 1982), và lần mới đây nhất ông đến nhà tôi ở đường Bà Hạt (quận 10) lúc tôi còn nằm trên giường bệnh (tháng 9-2002). Hai lần ông đến thăm tôi cách nhau khoảng 20 năm, nhưng vẫn là một con người, tôi vẫn tưởng như không có thời gian 20 năm xen giữa hai cuộc thăm viếng đó. Bao giờ cũng thế, kèm theo cái bắt tay mạnh mẽ vẫn là một nụ cười cởi mở và đôn hậu, lan tỏa đến người đối diện cả niềm tin và sự lạc quan.
Tiếp xúc với ông Kiệt, tôi chưa bao giờ cảm nhận có một khoảng cách về địa lý – ngay cả lúc gặp ông đang làm Thủ tướng chính phủ tại Hà Nội – hay một khoảng cách giữa người xuất thân từ chế độ cũ với người cộng sản đang làm lãnh đạo. Sự chân thật, thẳng thắn không quan liêu, một tấm lòng vì dân vì nước, cùng sự lắng nghe xung quanh, dám có ý kiến dứt khoát khi cần ở ông cho tôi một hình ảnh mẫu về người cộng sản Việt Nam.
Trong cuộc đời thứ hai của tôi, ông Võ Văn Kiệt là nhân vật có một ý nghĩa đặc biệt với bản thân tôi mà có lẽ chính ông cũng không ngờ. Suốt 30 năm sống trong chế độ mới, tôi không có một quan hệ riêng nào như thế với bất cứ một vị lãnh đạo cộng sản nào. Tôi không bao giờ dựa vào mối quan hệ với ông Kiệt để nhờ cậy bất cứ điều gì. Tôi tìm đến ông là tìm đến một người cộng sản để củng cố thêm trong tôi niềm tin về sự chọn lựa của mình, tìm đến một con người mà tôi có thể chia sẻ niềm tin, tình cảm và tâm tư một cách thẳng thắn từ chuyện đất nước cho đến chuyện... bóng đá.
Tôi có hai lần gặp ông Kiệt vì công việc. Lần đầu trong khoảng thời gian 1979-1980 liên quan đến cuộc đấu tranh nội bộ ở báo Tin Sáng. Ông mời tôi ăn tối tại một biệt thự ở An Phú (TP.HCM), lúc đó ông là Bí thư Thành Ủy, ông muốn tìm hiểu thêm nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nội bộ tại tòa báo Tin Sáng. Lần thứ hai tôi gặp ông Võ Văn Kiệt tại Hà Nội khi ông làm Thủ tướng (1994): tôi có ý định rút lui khỏi báo Lao Động trở về TP.HCM vì có một đề xuất từ Vụ Báo Chí với tổng biên tập báo Lao Động là: không nên tiếp tục giao chức danh tổng thư ký tòa soạn cho tôi và nên tìm một chức danh khác cho tôi dù công việc vẫn như cũ. Tôi dứt khoát không chấp nhận làm một việc nhưng việc ấy lại mang một danh nghĩa khác. Tôi xin gặp ông Kiệt để chào ông trước khi rời Hà Nội.
Cả hai lần ông đều cho tôi những lời khuyên rất quí và thực tế.
Trong thời gian viết báo sau 1975, tôi đã dành rất nhiều bài viết về bóng đá với mong muốn làm thế nào được thấy cái xứ sở say mê bóng đá cuồng nhiệt như Việt Nam sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu kéo dài. Khi không còn làm thủ tướng nữa, ông Kiệt cũng nhiều lần đóng góp ý kiến với Ủy ban thể dục thể thao nhằm tìm kiếm con đường đi lên cho bóng đá Việt Nam. Một hai lần tôi được ông mời tới hỏi ý kiến và rất ngạc nhiên nhận thấy ông hiểu tường tận tình hình bóng đá, kể cả những con người đang cẩm trịch làng bóng, không kém bất cứ ai trong giới. Những ý kiến của ông góp với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (LĐBĐVN) từ thời nhiệm kỳ 3 theo tôi có giá trị như một cẩm nang để cho LĐBĐVN xây dựng nền móng bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, từ cách chọn những nơi có tiềm lực lớn để thành lập các CLB chuyên nghiệp có tầm cỡ cho đến định hướng xã hội hoá có khả năng thu hút rộng rãi chất xám và sức mạnh vật chất của xã hội. Rất tiếc các ý kiến của ông Kiệt đã bị bỏ qua. Trước Đại hội LĐBĐVN kỳ 4, ông Kiệt cũng có nêu một ý kiến với Ủy ban Thể dục thể thao (UBTDTT) nhằm đổi mới Liên đoàn.
Theo tôi, nếu các ý kiến của ông Kiệt ở các lần ông đóng góp được LĐBĐVN và UBTDTT được quan tâm đúng mức thì bóng đá Việt Nam đã có cơ may chuyển biến và thực hiện được sự đột phá.
...Có một sự việc mà trước nay tôi chưa bao giờ nói ra: năm 1987 hay năm 1988, tôi không nhớ rõ, tôi có viết một thư riêng cho ông Kiệt lúc đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, còn tôi đang công tác tại báo Tuổi Trẻ. Một bức thư tâm tình, trao gửi đến ông những trăn trở, hoài bão của một trí thức Sài Gòn đang cố gắng hòa nhập với chế độ mới bằng lý tưởng mà mình chọn lựa chứ không phải bằng “cơ chế” hay bằng “chính sách ưu đãi trí thức”. Chính sách ưu đãi tôi đã chối từ rất sớm ngay ở những năm đầu 80, lúc bấy giờ những người trí thức cũ gọi là đầu đàn đều được Thành Ủy TP.HCM cho một phụ cấp đặc biệt hàng tháng ngoài phụ cấp được lãnh trong cương vị công tác của mình. Khi từ báo Tin Sáng về làm việc ở báo Tuổi Trẻ (1980), tôi đã viết đơn cho Thành Ủy báo tôi không nhận phụ cấp đặc biệt này nữa. Ngay lúc đó tôi đã không muốn mình được cư xử như một “người khách ưu đãi”. Tôi muốn tôi được coi như một thành viên thật sự của đại gia đình mới.
Trong lá thư gửi cho ông Kiệt, tôi có bày tỏ với ông nguyện vọng ngày nào đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo tôi đó là một nguyện vọng bình thường của một người tán đồng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn nhận quá trình của Đảng Cộng sản Việt Nam vì nước vì dân, có công giành độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Tôi nghĩ mình sẽ phục vụ tốt hơn cho đất nước trong tổ chức và với cương vị một đảng viên. Tôi có nói với ông Kiệt việc nêu nguyện vọng ấy là một thái độ chính trị trung thực với chính mình, còn việc có được kết nạp đảng hay không là một vấn đề khác.
Anh Tống Văn Công nghe tôi kể lại chuyện này có nói: “Thế thì anh mới đi theo ngọn cờ dân tộc của Đảng Cộng sản, còn ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thì sao?” Đúng là Đảng Cộng sản Việt Nam chinh phục tôi trước hết bởi lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh cho độc lập dân tộc nhưng mặt khác tôi cũng tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – theo cách tiếp thu của tôi - những nguyên lý định hướng cho cuộc sống và thái độ chính trị của mình.
Trở lại chuyện viết thư cho ông Kiệt bày tỏ nguyện vọng vào Đảng rất dễ gây ngộ nhận và có thể khiến một số người nghĩ rằng tôi có toan tính lợi dụng con người vào Đảng để thực hiện những tham vọng riêng. Nhưng tôi không quan tâm những lời đàm tiếu ấy. Đã có một thời mình có một nguyện vọng như thế và một thái độ chính trị như thế, tại sao lại phủ nhận hoặc giấu giếm nó đi? Tôi chẳng có chút ngại ngùng và mặc cảm gì để nhắc lại chuyện ấy. Ngược lại, cho đến bây giờ, tôi vẫn coi đó là một thời điểm đáng nhớ trong cuộc đời mình.
Chị Kim Hạnh, lúc đó là tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, cũng biết chuyện này vì sau khi nhận thư của tôi, ông Kiệt có viết thư cho chị Hạnh để báo cho chị biết nguyện vọng của người cộng sự của chị. Chị Hạnh có nói lại cho tôi một phần nội dung lá thư của ông Kiệt và nói thêm việc tôi có vào Đảng hay không do các đoàn thể ở báo Tuổi Trẻ quyết định. Lúc đó có thể chị Kim Hạnh hiểu lầm chăng tôi có ý định vận động với ông Kiệt để được vào Đảng? Thật ra bức thư của tôi gửi cho ông Kiệt chỉ mang tính chất riêng tư, với một người có thể hiểu được tâm hồn mình, có thể lắng nghe và chia sẻ với mình.
Chuyện có nguyện vọng trở thành đảng viên, với thời gian trôi qua và thực tế trong những năm công tác sau đó làm tôi quên đi, nhưng dẫu không thành tôi vẫn không bao giờ từ bỏ lý tưởng mà mình đã chọn.
Tôi cảm phục ông Võ Văn Kiệt không vì sự đối xử của ông với riêng tôi, mà chính do thái độ và cách xử sự của ông đối với các trí thức và nhân vật chính trị khác trước đây ở Sài Gòn. Tôi sẽ không nhắc lại những chuyện đã được báo chí kể, chuyện về những trí thức mà ông Kiệt cố gắng giữ họ ở lại sau tháng 4-1975, có người được đích thân ông đi xuống tận tỉnh xa để lãnh về sau một chuyến vượt biên bị bắt, nhưng sau đó lại cho đi chính thức theo nguyện vọng của họ để ra nước ngoài có thể theo đuổi các cuộc nghiên cứu khoa học dễ dàng hơn v.v... Sau này ông nói với tôi, ngay khi đất nước vừa thống nhất Tổng bí thư Lê Duẩn luôn nhắc nhở “hãy cố gắng hàn gắn và hòa hợp”.
Từ rất sớm ông Kiệt đã có những đánh giá rất công bằng đối với vai trò của ông Dương Văn Minh trong sự kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ông nhấn mạnh: giữa Thành Ủy TP.HCM lúc đó và phần đông quần chúng ở thành phố không có sự khác nhau về đánh giá vai trò của ông Minh trong ngày 30-4-1975. Ông Kiệt cho tôi biết trước khi ông bà Minh rời Việt Nam sang Pháp, ông có nhờ bà Bùi Thị Mè (là “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”), một trí thức cách mạng, từng có mặt trong chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, tổ chức một buổi cơm thân mật tiễn ông bà Minh lên đường. Thời trẻ bà Mè và ông Minh từng quen biết nhau vì học chung một trường, ông Minh học trên bà Mè một lớp. Ông Kiệt cũng tiết lộ ông từng nhờ bà Mè chăm sóc mẹ của ông Minh một thời gian dài – lúc bà cụ sống ở Thủ Đức. Bà Mè tiếp tế cho bà cụ khi thì gạo ngon, khi thì nước mắm, đường, sữa... mà sau tháng 4-1975 mọi thứ đều khan hiếm.
Trong bữa cơm thân mật tại nhà bà Mè trước ngày ông bà Minh lên đường, ông Minh có cho ông Kiệt biết tổng lãnh sự Pháp tại TP.HCM, theo chỉ thị từ Paris có bày tỏ ý muốn được lo cho chuyến đi của ông Minh về mọi phương diện, kể cả vé máy bay. Ông Minh đã trả lời tổng lãnh sự Pháp: “Mọi việc đã có chính phủ tôi lo rồi”.
Ông Kiệt rất cảm kích câu trả lời này của ông Minh.
Khi chào từ biệt ông Kiệt, ông Minh có hứa khi sống ở nước ngoài ông sẽ không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho nước nhà. Về việc này ông Kiệt nói rõ thêm: về phía ông và Thành Ủy không đưa ra một yêu cầu nào đặc biệt với ông Minh. Về ý định xin ra sống ở nước ngoài, lúc đầu ông Minh có thăm dò ý kiến ông Kiệt qua bà Mè. Lúc này ông Kiệt đang là Bí thư Thành Ủy TP.HCM, ông Kiệt trả lời vấn đề đó tùy thuộc ở ông Minh; Thành Ủy và Trung ương không ngăn cản nếu ông bà Minh muốn ra nước ngoài sống với con cháu. Ông Kiệt có gợi ý một số phương án với ông Minh để ông chọn lựa như là đi thăm con cháu rồi trở về, hoặc sang sống với con cháu khi nào muốn về thăm quê thì cứ về.
Theo ông Kiệt, bà Minh rất muốn ra đi vì nhớ con cháu, còn ông Minh thì có sự do dự do bà mẹ của ông nhất định không chịu đi. Bà cụ nói “Tao muốn được chết ở quê nhà”. Được biết khi ra đi, ông Minh được tự do mang theo hành lý với số cân không hạn chế và hoàn toàn không bị kiểm tra. Chính ông Kiệt đã chỉ thị như thế.
Năm 1984, lúc còn là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đi dự Quốc khánh CHDC Đức, sau đó viếng thăm chính thức Algerie. Trên đường về ông ghé qua Pháp. Tại Paris, ông muốn thăm ba người: ông Dương Văn Minh, ông Phạm Ngọc Thuần và giáo sư Phạm Hoàng Hộ, ông có nhờ sứ quán Việt Nam tại Pháp liên lạc với các vị này. Lúc đó ông Thuần đang ở một tỉnh miền Nam nước Pháp, không liên lạc kịp. Với ông Phạm Hoàng Hộ, ông Kiệt có mời cùng đi dạo bằng tàu trên sông Seine.
Riêng cuộc gặp ông Minh có nhiều tình tiết đáng kể hơn. Đầu tiên là địa điểm gặp. Ông Minh không muốn đến sứ quán Việt Nam và cũng không muốn để ông Kiệt đến nhà (ông và bà Minh không có nhà riêng, sống chung với đứa con trai kế tên Tâm). Cuối cùng ông bà Minh đón ông Kiệt tại nhà một người bạn của ông bà là bác sĩ Danh. Theo sự dặn dò trước của ông Kiệt, đại sứ Việt Nam tại Pháp đi theo ông Kiệt vào chào ông bà Minh rồi trở ra xe để cho cuộc tiếp xúc giữa ông Kiệt và ông Minh được tự nhiên thân mật.
Một trong những câu nói đầu tiên của ông Minh khi gặp ông Kiệt là: “Anh đã biết đó, tôi luôn giữ lời hứa khi rời khỏi Sài Gòn: Sang đây tôi không tiếp xúc với báo chí và cũng không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho ở nhà”. Dù đã từng ở hai chiến tuyến khác nhau, nhưng giữa hai con người có nhân cách lớn đó vẫn có sự tương kính lẫn nhau và có một tình cảm đặc biệt dành cho nhau.
Về chuyện ông Minh ở nước ngoài từ chối tiếp báo chí, có một nhân chứng đáng tin cậy khẳng định điều đó: nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti (đã có một phỏng vấn đặc biệt Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho báo Le Monde nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ) có nói với tôi rằng lúc ông Minh còn ở Paris (những ngày cuối cùng ông sang Mỹ sống với cô con gái), Jean Claude có điện thoại cho ông Minh để xin gặp ông nhưng ông Minh khéo léo từ chối, mặc dù ở Sài Gòn nhà báo Pháp này từng vô Dinh Hoa Lan rất thường xuyên.
Có một lần tôi được ông Kiệt mời đánh quần vợt với ông trong Dinh Thống Nhất. Tôi kể chuyện ông Minh từng có ý định vào đánh sân này nếu đổ xong Thiệu – cho ông Kiệt nghe. Ông Kiệt lặng im một lúc rồi nói:
“Ông Minh là một con người tốt và có lòng với đất nước. Hôm ông ra đi ông có tặng tôi một cái hộp dài như cái va-li để đựng vợt, giày, quần áo, bóng... dùng để đi đánh quần vợt. Về phần tôi cũng có chuẩn bị trước, tôi tặng lại cho hai ông bà hai huy hiệu của TP.HCM để hai ông bà vẫn nhớ mình là công dân của thành phố này dù có đi xa”.
Cũng trong buổi nói chuyện này bên sân quần vợt, tôi có kể cho ông Kiệt nghe một số suy nghĩ của thượng tọa Thích Trí Quang về ông Minh. Sau ngày 30-4-1975 được vài tháng, tôi đến thăm thượng tọa Trí Quang tại chùa Ấn Quang. Ông hỏi tôi tình hình ông Minh thế nào, tôi cho biết sức khỏe ông Minh vẫn bình thường và vẫn ở Dinh Hoa Lan. Khi ông Minh cùng vợ đi khỏi Sài Gòn rồi, tôi lại có dịp gặp thượng tọa Trí Quang. Lúc này ông nói: “Thật rất tiếc. Đáng lý ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế mà bây giờ ông lại ra đi...”.
Ông Kiệt im lặng không bình luận, có lẽ vì chính ông hiểu rõ lý do tại sao ông Minh rời quê hương: hai ông bà lớn tuổi sống một mình, con cháu đều ở nước ngoài.
Theo tôi biết có hai lần ông Minh chuẩn bị trở về sống ở TP.HCM nhưng rồi không hiểu vì sao cả hai lần đều dời lại. Cuối cùng ông đã qua đời tại Mỹ. Cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ đã bày tỏ một tình cảm sâu sắc và kính trọng dành cho ông mặc dù về mặt chính kiến họ có nhiều khuynh hướng khác nhau. Cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng có đến dự lễ tang. Đài phát thanh BBC (bộ phận tiếng Việt) có phỏng vấn tôi khi ông Minh mất. Trong buổi trao đổi kéo dài khoảng nửa tiếng đồng hồ, có phần nội dung hỏi đáp như sau: “Ông Dương Văn Minh có phải là người của Pháp?”– Có thể ông có tình cảm với người Pháp hơn người Mỹ. Nhưng theo tôi ông không phải là người của Pháp. “Ông Minh có phải là người của Mỹ?” – Cũng không. Người Mỹ không bao giờ tin ông. “Vậy ông Minh là người của cộng sản?” – Theo tôi cũng không phải. Tôi nghĩ ông Minh chỉ là người yêu nước.
Không phải người yêu nước nào ngay từ đầu cũng tìm ra ngay con đường đi của mình. Nhưng khi có con tim chân thành với Tổ quốc, thường cuối cùng cũng có một lựa chọn đúng đắn.
Tôi vẫn tiếc cho ông Dương Văn Minh, trước khi chết không có dịp trở về thăm quê hương. Dinh Hoa Lan vẫn được chính quyền TP.HCM để cho người trong gia đình ông Minh bảo quản. Mỗi lần có tin ông định về, biệt thự lại được sửa sang, chăm sóc lại.
Trong quyển Hồ sơ mật Dinh Độc Lập của Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter viết rằng ông Dương Văn Minh đã nhận tiền của Mỹ để ra ứng cử làm bình phong cho tổng thống Thiệu ở cuộc bầu cử năm 1971. Nguyễn Tiến Hưng kể rằng: “Ông Thiệu có bằng có là tướng Minh đã chuyển khoản tiền đó từ Paris qua một trương mục của mình tại Đông Kinh Ngân hàng ở Sài Gòn. Nhưng khi tướng Minh xét mình không thể địch nổi ông Thiệu, bèn ôm lấy tiền mà không tranh cử nữa...”.
Nếu ông Minh đã lấy số tiền nào đó của tòa đại sứ Mỹ thì sau đó ông không bao giờ tiết lộ ý đồ Mỹ mua chuộc ông với chủ bút báo Washington Post Ben Bradlee ngay sau đó. Và nếu ông Thiệu nắm được bằng có thật sự ông Minh nhận tiền của Mỹ thì trong ba năm đối đầu trên chính trường Sài Gòn, ông Thiệu không thể không khai thác chuyện bê bối này của đối thủ số một.
Theo tôi đây chỉ là chuyện bịa đặt nhằm làm giảm uy tín của ông Dương Văn Minh, thế thôi!
30 năm sau nhìn lại ngày 30-4-1975 mới thấy rõ hơn giá trị của ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó - chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp của người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất cho xứ sở - thì chắc chắn đất nước hôm nay không an bình và phát triển, ổn định như đang có. Hiệp định Paris chỉ là một giải pháp tình thế để tạm thời ngưng tiếng súng chứ không chấm dứt được cuộc xung đột và mang lại hòa bình thật sự, dù cho các điều khoản của hiệp định được mang ra áp dụng. Một chính phủ liên hiệp nếu được thành lập ở miền Nam (theo hiệp định) cũng sẽ là sự tiếp nối của cuộc xung đột dưới một hình thái mới, đầy hỗn loạn và bất ổn, có thể lại đổ máu và chết chóc; “bàn tay lông lá” của người Mỹ vẫn có điều kiện xộc vào gây chia rẽ và hận thù giữa người Việt với người Việt; kinh tế của miền Nam vẫn lệ thuộc, tồn tại bằng viện trợ nhỏ giọt của các cường quốc đầy những ý đồ thôn tính; còn miền Bắc có lẽ vẫn sẽ khó khăn, vẫn ở trong tình trạng đối phó chiến tranh vì phải tiếp tục dồn sức chi viện cuộc đấu tranh ở miền Nam.
Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ tôi vẫn tưởng nằm mơ. Tôi vẫn còn trong đầu mình hình ảnh chiếc cầu Long Biên đen sì sừng sững đó trong lần đầu tôi ra Hà Nội cuối năm 1975. Hình ảnh ấy đã được cất vào bảo tàng ký ức của người Việt Nam chúng ta, chỉ để nhớ lại khi cần hận thù chiến tranh, cần cảnh giác trước những đe dọa xâm lược. Hà Nội bây giờ như một thiếu nữ đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống. Và Sài Gòn mạnh mẽ hơn nhiều và tự tin hơn nhiều trong cuộc hành trình mới, bởi sự tồn tại của thành phố này không còn nhờ vào sự “tiếp máu” từ người khác.
Tôi có ý định viết lại phần đời, sau tháng 4-1975 này, thành một tập hồi ký riêng. Nhưng tôi hoài nghi mình sẽ không còn thời gian đủ để làm việc đó. Tôi vừa thoát qua cơn bệnh hiểm nghèo, không biết thời gian “tạm ứng” tiếp cho tôi sẽ được bao lâu. Phần một của tập Hồi ký tôi mất một năm rưỡi để viết. Tôi đã bắt đầu ngay khi vừa phục hồi sức khoẻ (từ cuối tháng 12-2002). Khi viết đến những dòng này – ngày 01-3-2004 – tôi được tin người bạn thân và đồng hành với tôi trước 1975 trong thời gian chống Mỹ - Thiệu, cựu dân biểu Nguyễn Hữu Chung (Chung Nguyễn), đã mất ngày 26-2-2004. Khi tôi lâm bệnh hồi cuối tháng 6-2002, từ Canada, Chung Nguyễn điện thoại về thăm tôi. Anh tế nhị không đề cập đến bệnh tình của tôi vì có lẽ anh đã nghe thông tin ban đầu là tôi khó thoát qua... (chẩn đoán đầu tiên có bác sĩ nói tôi không sống hơn... một tháng!). Điều không thể ngờ là chỉ sau đó ít tháng thì tôi nhận được tin Chung Nguyễn bị ung thư phổi. Và tôi chưa kịp “đi” thì Chung Nguyễn đã “đi” trước!
Do đó tôi xin tóm gọn lại cuộc đời sau năm 1975 của mình trong chương sau cùng này. Nếu thời gian còn cho phép, tôi sẽ trở lại thực hiện đầy đủ và trọn vẹn tập hai. Thận trọng lúc này là cần thiết.
...Cuộc đời hoạt động của tôi trước năm 1975, chỉ có khoảng 13 năm (bắt đầu vào nghề báo năm 1962). Cuộc đời sau năm 1975, cho đến hôm nay, đã gần 30 năm, chủ yếu viết báo và làm báo.
...Nói cách nào đó, tôi có hai cuộc đời. Trước và sau năm 1975. Dĩ nhiên hai cuộc đời này không tách bạch với nhau, vẫn hoà quyện với nhau, nhưng ở hai chế độ chính trị, hai môi trường sống hoàn toàn khác nhau. Trước đây tôi không tưởng tượng nổi đời mình lại có cơ hội được sống và cống hiến cho đất nước qua hai thời kỳ lịch sử, dưới hai chế độ đối nghịch nhau.
Ngay sau tháng 4-1975, thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc trong thành phần đoàn đại biểu miền Nam. Với riêng tôi, sự kiện đó có một ý nghĩa lớn với đời mình: sau bao nhiêu năm đấu tranh cho độc lập và mơ ước sự hợp nhất của hai miền Nam-Bắc thì giờ đây tôi là người được đưa tay lên biểu quyết sự thống nhất của Tổ quốc. Còn gì vinh hạnh và hạnh phúc hơn! Dù cho trong giây phút ấy, tôi không thể quên cũng tại nơi đây trước đó không lâu tôi cũng đã đưa tay lên nhưng để... đầu hàng!
Tôi biết có một người cũng coi việc mình tham dự Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc như một sự kiện không thể quên của đời mình: bà luật sư Ngô Bá Thành. Trong phần tiểu sử của bà được đọc lên tại buổi lễ tưởng niệm bà do Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc TP.HCM và Hội Liên Hiệp Phụ Nữ tổ chức tại Bảo tàng Phụ nữ TP.HCM ngày 15-3-2004 (sau 42 ngày mất của bà), tôi có nghe nhắc lại chi tiết bà là thành viên phái đoàn miền Nam tại Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc. Đối với những người trí thức Sài Gòn đến cuối con đường đấu tranh của mình như chúng tôi, có mặt trong một hội nghị như thế là một sự thoả mãn tinh thần cực kỳ lớn.
...Suốt 30 năm của cuộc đời thứ hai, tôi chỉ viết báo và làm báo, đó là cái nghề tôi yêu và say mê – cái nghề duy nhất tôi chọn lựa cho đời mình. Cho nên 30 năm qua, tôi vô cùng thỏa nguyện được sống trọn vẹn với nghề này, bất chấp những lao đao và những hoàn cảnh không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Tôi không bao giờ than phiền về những khó khăn mà tôi phải đối đầu, bởi làm sao tin được rằng một cựu bộ trưởng thông tin của “ngụy quyền Sài Gòn” lại được tự do viết báo trong chế độ cộng sản? Hơn thế nữa tôi còn ra Hà Nội làm tổng thư ký tòa soạn báo Lao Động, tờ báo của giai cấp công nhân và một trong những tờ báo lâu đời nhất của Cách mạng Việt Nam. Nhạc sĩ Văn Cao là một trong những người đầu tiên làm công việc trình bày cho tờ báo này. Ngày tôi lên máy bay ra Hà Nội để đảm nhận công việc tại báo Lao Động (năm 1994), tôi gặp ông Đỗ Phượng, lúc đó là tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam, tại sân bay Nội Bài. Biết được mục đích chuyến ra Hà Nội của tôi, ông Đỗ Phượng cười, rồi trêu tôi: “Sao anh đi tập kết trễ thế!”.
Khi ra Hà Nội làm tổng thư ký tòa soạn cho báo Lao Động, thật sự tôi đã có ý định dời gia đình ra ở hẳn tại Hà Nội, vợ tôi cũng tán thành. Người vợ sau của tôi lúc này là Trần Hồ Quang Ngọc Cúc (tên gọi thân mật là Cúc Phượng). Nhưng do trục trặc trong công tác tại báo mà ý định sống hẳn ở Hà Nội của chúng tôi bất thành.
Tôi yêu Hà Nội ngay từ đầu chạm mặt. Cuối năm 1975, tôi được báo Tin Sáng cử ra thủ đô lần đầu theo dõi phiên họp của Quốc hội triệu tập sau khi đất nước thống nhất. Tôi còn nhớ lòng mình xúc động thế nào khi từ sân bay Gia Lâm về Hà Nội đi ngang qua cầu Long Biên, giáp mặt với một khối sắt khổng lồ đen sì và cũ kỹ, trên đó đông nghịt người đi xe đạp và hầu như mọi người chỉ mặc một màu nâu sòng hay màu xanh bộ đội đã bạc... Đồng bào ruột thịt của tôi là đây! Chiếc cầu Long Biên đứng vững trước hàng trăm cuộc dội bom của phi cơ Mỹ, là đây! Hà Nội có rất nhiều nơi, nhiều điều tiêu biểu cho cuộc chiến đấu ác liệt và anh hùng của mình, nhưng không hiểu tại sao với tôi, hình ảnh ấn tượng nhất vẫn là chiếc cầu Long Biên mà khi còn nhỏ tôi đã được biết qua cái tên Tây: Paul Doumer.
Khi vào đến Hà Nội, tôi yêu ngay cái thành phố đã có sẵn trong ký ức của tôi qua các tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh. Sự tưởng tượng lãng mạn của tuổi thơ khi đọc sách, kỳ diệu thay, lại khớp với cảnh vật Hà Nội bày ra trước mắt. Với tôi Hà Nội dường như đã đứng yên như thế qua bao thập niên “chờ đợi” tôi. Ngay lúc đó tôi đã nhận ra vẻ đẹp thầm kín và quyến rũ của Hà Nội sau chuyến đi đó tôi nói với bạn bè ở Sài Gòn rằng Hà Nội là một thủ đô rất đẹp của đất nước.
Và tôi không thể tưởng tượng ở đó tôi còn có cơ hội gặp lại lần lượt tất cả những nhân vật huyền thoại mà tôi cứ ngỡ rằng đã thuộc về lịch sử văn học xa xôi, chỉ tồn tại trong sách vở như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận v.v...
Cái nghèo, cái cực khổ của Hà Nội mà tôi chạm mặt lần đầu không hề gây sự thất vọng cho tôi, mà trái lại là sự cảm phục. Tôi còn nhớ đến thăm một nữ nghệ sĩ trong đoàn Ca múa nhạc miền Nam vừa trở ra Hà Nội, nhà ở gần hồ Thuyền Quang, tôi nhìn thấy cái giường của cô đặt sát một cửa sổ không có cánh cửa, chỉ có một màn sáo rũ xuống không ngăn được hơi lạnh từ bên ngoài vào. Căn nhà nhỏ nhưng phải chia sẻ chung với hai, ba gia đình. Để giành lại độc lập cho đất nước, mỗi miền đã chấp nhận sự hy sinh khác nhau nhưng đều là những hy sinh vô bờ bến. Có thấy cuộc sống khó khăn của Hà Nội thời đó mới càng nhận ra giá trị những gì chúng ta đạt được ngày hôm nay.
Sau này khi ra Hà Nội nhiều lần tôi thường ghé lại thăm ông Nguyễn Tuân và ông Văn Cao. Khi có dịp vào TP. HCM, hai ông cũng thường đến dùng cơm tại nhà tôi. Hai người có cách sống hoàn toàn khác nhau. Căn phòng của ông Tuân ấm cúng và sắp xếp như một appartement của một người sống độc thân... ở Paris. Căn phòng vừa là nơi ăn ngủ làm việc và tiếp khách. Lúc nào ông cũng có rượu Tây loại ngon. Mùa đông có một lò sưởi cá nhân tự tạo đặt kế bên giường. Ông nói chuyện duyên dáng, dí dỏm và không né tránh những nhận xét đầy hình tượng dành cho các đồng nghiệp hoặc các nhân vật nổi tiếng khác cùng thời. Căn nhà của ông Văn Cao có vị trí thoáng đẹp hơn. Bao giờ ông tiếp khách cũng có vợ ông, bà Băng. Tại phòng khách có treo bức chân dung rất đẹp của bà Băng thời trẻ do ông Văn Cao vẽ. Bất cứ lãnh vực nào mà Văn Cao đặt tay vào cũng đều đạt đỉnh cao từ âm nhạc, thơ cho đến họa. Thường ông ngồi im lặng như pho tượng. Tôi có cảm tưởng: có lẽ người gần như duy nhất gây cho ông sự hứng thú để trao đổi là Trịnh Công Sơn. Cùng với Trịnh Công Sơn bên cạnh, ông đã đồng ý xuất hiện một lần tại Nhà Văn hoá Thanh Niên trong buổi giao lưu với thanh niên TP. HCM.
...Trở lại cuộc sống của riêng tôi và gia đình tôi sau tháng 4-1975 phải nói là may mắn hơn nhiều người nhưng không phải đều thuận lợi dễ dàng. Thậm chí còn có những bi kịch.
...Tôi không thể quên được lúc nhà của cha mẹ tôi bị bộ đội ở phường “đóng chốt” và được lệnh giao cho chính quyền phường vì bị qui vào diện tư sản chỉ vì mẹ tôi có một tiệm tạp hóa ở chung cư Nguyễn Văn Thoại. Còn cha tôi bị bắt về phường ở một đêm vì chính quyền phường tưởng lầm cha tôi là một sĩ quan ngụy cao cấp do có thông tin cha tôi từng là phó đô trưởng Sài Gòn (thật ra phải là phó đô trưởng nội an mới mang lon trung tá hoặc đại tá; cha tôi là phó đô trưởng hành chính thuộc ngạch công chức hành chính, hơn nữa đã bị cách chức hai năm trước ngày 30-4-1975 vì có con hoạt động chống Nguyễn Văn Thiệu!). Tôi hay tin nhà cha mẹ tôi bị “đóng chốt” và bị kiểm kê vào một buổi sáng khi vừa ra khỏi nhà đi làm (lúc này tôi là phó tổng biên tập nhật báo Tin Sáng). Tiếng loa từ phường bên nhà cha tôi vang sang tận nhà tôi (cách khoảng 400 mét đường chim bay). Tôi nghe rõ mồn một: “Mời bà con vào mà thăm quan cung điện của Lý Quí Phát...”. Căn nhà ba tầng khá cũ kỹ của cha mẹ tôi nằm trong khu chợ Nguyễn Tri Phương được giới thiệu với người dân ở phường là một... cung điện! Dĩ nhiên không có ai trong phường đến thăm quan, vì cha mẹ tôi đã ở đó hàng chục năm, mọi người đều biết cha tôi không phải là một tư sản hay viên chức ác ôn, còn căn nhà của cha mẹ tôi so với rất nhiều căn nhà khác ở đất Sài Gòn này cũng không có gì đặc biệt.
Những sự kiện căng thẳng dồn dập xảy đến khiến cha tôi bị lên huyết áp và đột quị tưởng đâu không qua khỏi. Ông bị liệt nửa thân mình, méo miệng, không nói được. Bác sĩ quen ở bệnh viện Triều Châu (sau đổi tên An Bình), anh Nguyễn Văn Mẫu, đã từng là thị trưởng tự phong ở Đà Nẵng trong thời kỳ Phật giáo miền Trung nổi lên chống chính phủ Thiệu - Kỳ, đã giúp cha nói lại được nhưng phải di chuyển bằng xe lăn. Một trong những câu nói đầu tiên sau thời gian ông bị bặt tiếng nói là nói với tôi – khi tôi đứng bên giường chăm sóc ông. Giọng ông giận dữ: “Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này, mà mày còn viết báo cho cộng sản. Cha mày từ mày”. Chưa bao giờ cha tôi đối với tôi giận dữ và dùng những lời lẽ như thế. Những chuyện xảy ra cho gia đình tôi đã biến cha tôi từ một người hồ hởi đón chào Cách mạng, nô nức chờ bạn bè đi kháng chiến trở về, biến thành một người ác cảm với cộng sản và từ luôn con trai của mình. Tôi đứng lặng thinh vì biết rằng mọi lời giải thích lúc này đều vô ích.
Tại tòa báo vào thời điểm đó tôi tuyên truyền cho các cuộc cải tạo tư sản mại bản, công thương nghiệp tư sản tư doanh v.v... thế mà ở nhà cha mẹ tôi lại là nạn nhận của sự lệch lạc trong vận dụng các chủ trương này. Tôi rất đau buồn, không dám nói gì với cha, tôi cố gắng giải thích với mẹ và các em tôi chuyện xảy ra với gia đình mình (và một số khá đông hộ trong phường) là những sai phạm của chính quyền địa phương trước sau gì cũng sẽ có sự điều chỉnh. Mẹ tôi chẳng nói gì, bà quá sợ hãi. Còn các em tôi thì không tin người anh trai của mình nữa. Chỉ làm thinh để âm thầm chuẩn bị vượt biên. Tình cờ tôi biết được chuyện này. Tôi vô cùng đau khổ. Trong đầu tôi chưa bao giờ nghĩ rằng sẽ có ngày anh em tôi lại ly tán. Sau khi tình cờ biết được dự định của các em tôi, tôi đã nhờ một người trong báo Tin Sáng có quan hệ với công an cấp cao tìm cách... doạ em rể của tôi, chồng đứa em gái kế, là người tổ chức cuộc vượt biên để nó từ bỏ ý định. Nhưng lời đe dọa của viên sĩ quan công an phụ trách bảo vệ trong cơ quan tại nơi em rể tôi đang làm việc chẳng có hiệu lực gì. Các em tôi tách ra ở một địa chỉ khác để tránh bị theo dõi rồi một ngày kéo nhau ra đi hơn phân nửa. Tôi có tất cả sáu em gái (lúc đó có ba đã lấy chồng) và một em út là trai. Như vậy cùng một lúc tôi “mất” bảy đứa em! Vào lúc này, người vượt biên coi như không có hy vọng gặp lại người ở lại.
Người thường xuyên đến nhà tôi động viên vào lúc này là anh Huỳnh Bá Thành. Ngay sau tháng 4-1975, Thành có đến thăm tôi và yêu cầu tôi viết một bài cho báo Sài Gòn Giải Phóng. Tôi có viết nhưng bài báo không được đăng. Lần này đến thăm tôi anh dặn dò tôi nói lại với ba mẹ tôi hãy yên tâm, không đến nỗi phải giao nhà và đi vùng kinh tế mới đâu – dù phường cứ mỗi ngày cứ đến ép thúc cha mẹ tôi giao nhà. Một hôm em gái tôi vẫn còn đi dạy qua nhà tôi báo cho tôi biết anh bí thư thanh niên phường đã đề nghị... bí mật với mẹ tôi tháo giấy niêm phong tủ sắt để lấy tư trang của mẹ tôi ra và đánh tráo đồ giả vào. Số vàng và hột xoàn lấy ra sẽ chia đôi. Anh ta hứa sẽ cho gián lại giấy niêm phong khác! Em tôi nói “Mẹ có vẻ xiêu lòng trước đề nghị này”. Tôi dứt khoát phản đối và cam đoan với mẹ và em gái rằng số tư trang ấy sẽ không bao giờ bị tịch thu.
Có một niềm an ủi cho cha mẹ tôi lúc đó là những anh bộ đội trẻ đóng chốt tại nhà - cả bốn đều từ miền Bắc vào - tỏ ra rất thông cảm, lễ phép và đối xử với người trong nhà rất tình cảm, đến cha tôi đầy bất mãn với cộng sản cũng thương họ như con cháu. Thỉnh thoảng họ còn biếu mẹ tôi đường, hay một thứ “nhu yếu phẩm” gì đó vào lúc này rất quý.
Sau đó tôi được em gái tôi báo tin “thằng bí thư đoàn phường, người đề nghị với má lấy tư trang trong tủ sắt ra để chia đôi, đã vượt biên rồi”. Tôi không ngạc nhiên chút nào. Rồi sau đó khoảng 8 tháng hay một năm gì đó, dân chúng ở phường được thông báo tòa án nhân dân quận 10 đưa ra xét xử một số cán bộ phường, có cả cấp cao nhất đã có những sai phạm và tiêu cực trong chính sách cải tạo tiến hành ở địa phương. Tôi được biết trong phường không chỉ nhà cha mẹ tôi mà còn nhiều gia đình khác nữa cũng đã trải qua bi kịch này. Khi công lý lên tiếng thì đã có quá nhiều mất mát vật chất và tinh thần đã xảy ra cho nhiều gia đình. Riêng gia đình tôi, sự mất mát vật chất thì chẳng đáng gì – dù rằng rốt cuộc trong nhà không còn một thứ gì giá trị - nhưng mất mát về tinh thần thì quá lớn: Cha tôi đột quỵ, sau một thời gian ngồi xe lăn đã nằm liệt một chỗ cả chục năm rồi mất; còn 7 trên 10 đứa em tôi thì vượt biên. Cũng may mắn là tất cả đều bình yên.
Cuộc sống của tôi sau 30-4-1975 đúng ra không qua gay go nếu không xảy ra chuyện gia đình tôi bị rơi vào diện cải tạo một cách vô lý. Những khó khăn về đời sống vật chất dù có lúc khá bi đát vẫn được tôi, vợ tôi và các con tôi chấp nhận trong bối cảnh chung hầu như mọi người đều khổ cực. Có lúc rất khó khăn chạy cái ăn từng ngày, trong nhà tôi có thứ gì bán được thì lần lượt bán hết , nhưng ngày ngày đi làm báo từ Tin Sáng (1975-1980) sang Tuổi Trẻ (1980-1990), tôi vẫn không một ngày nào thiếu hăng hái hay mất niềm tin. Đồng lương chỉ đủ ăn sáng (mãi cho đến khi làm báo Lao Động tôi mới sống được thật sự bằng thu nhập nghề của mình) nhưng cống hiến thì vẫn hết mình. Nhớ lại giai đoạn ấy bản thân tôi cũng phải tự hỏi điều gì khiến mình giữ được niềm tin và sự kiên trì chờ đợi một ngày mai tươi sáng hơn cho đất nước và cho con cái mình. Có lẽ do tôi không thể quên rằng chính mình đã tự nguyện chọn lựa con đường hôm nay.
Vợ con tôi chịu đựng cũng rất giỏi. Đứa con trai thứ nhì – Lý Quí Dũng – làm công nhân trong nhà in báo Tuổi Trẻ (nơi tôi đang công tác) ở khâu cực khổ nhất: mài bản kẽm in. Còn đứa thứ ba – Lý Quí Trung - tạm ngưng học đại học kinh tế đi làm phục vụ (tức bồi bàn) tại khách sạn Đệ Nhất – Tân Bình. Chúng chẳng kêu ca gì!
...Có một hôm đi làm về tôi thấy có bóng ai leo bên ngoài cửa sổ phòng ngủ lầu một, tôi định hô lên có ăn trộm thì vợ tôi kịp cản lại. Nàng bảo nhỏ: “Không phải ăn trộm đâu, em bán cửa kính cho người ta!”. Tôi định phản ứng. Sao lại tận cùng thế này! Nhưng kịp nhớ lại: những gì có giá trị, có thể bán được thì đã bán hết rồi! Lúc đó không bán kính cửa sổ thì đào đâu ra tiền để chi dụng trong nhà. Nhà tôi ba tầng có đến hàng chục cái cửa sổ, cho nên cũng thu về một số tiền kha khá, có thể đối phó thêm một thời gian nữa. Ngay tức thời chiều hôm đó, cả gia đình tôi có một buổi cháo gà xé phay bù đắp những ngày ăn uống kham khổ.
Nhưng bán mãi rồi cũng không còn gì để bán nữa. Đầu tiên vợ tôi nghĩ ra việc làm cơm tấm bì bày bán ở đầu đường hẻm nhà ở đường Nguyễn Tri Phương. Việc buôn bán ngoài lề đường này giúp gia đình tôi tồn tại được một thời gian ngắn. Bạn bè nhà báo đến ăn rất đông, có cả anh Nguyễn Sơn lúc đó là phó ban Tuyên huấn thành ủy cũng đến ủng hộ. Nhưng vì địa điểm chỗ bán có lấn một phần phía trước nhà trẻ của phường nên ở phường chỉ thị phải dời vào trong hẻm. Vào trong hẻm bán ế nên phải dẹp luôn! Thế là chúng tôi chỉ còn một giải pháp cuối cùng là... bán nhà. Nhà lúc đó giá rẻ mạt. Căn nhà đó bây giờ có thể bán với giá 600-700 cây vàng nhưng lúc ấy bán không hơn hai chục cây. Khi dọn nhà ra căn hộ thuê ở đường Lê Lợi, nằm phía sau bệnh viện Sài Gòn, vợ chồng tôi chỉ mang theo một số bàn ghế và... một cây đàn Piano. Đây là chiếc Piano thứ hai. Chiếc đầu tiên chúng tôi đã bán trong những ngày đầu giải phóng, chiếc này của đứa em gái kế tặng lại khi gia đình em tôi có ý định vượt biên. Vợ tôi cố gắng giữ nó vì đó là niềm vui duy nhất còn lại cho các con tôi. Các con tôi trước năm 1975 đều học đàn. Cô giáo Thủy Hoằng (hiện còn dạy ở nhạc viện TP. HCM), lúc đó dạy ở Trường quốc gia âm nhạc, là người hướng dẫn các con tôi.
Nhưng rồi cái niềm vui sau cùng đó của các con tôi cũng không thể giữ nổi. Để lo cuộc sống hàng ngày, chúng tôi đành phải bán nó đi. Tôi nhớ như in trong đầu mình cái ngày bán chiếc Piano cuối cùng đó. Căn hộ của chúng tôi ở lầu 3, cầu thang khá hẹp, muốn đưa chiếc đàn xuống đất là chuyện không dễ chút nào. Có hai thứ khi xê dịch cần sự thận trọng và lành nghề rất cao ở những người khiêng, đó là chiếc quan tài và... chiếc Piano. Chỉ một cọ quẹt nhẹ cũng làm hư hại và làm mất giá chiếc Piano. Khiêng quan tài và khuân Piano không cho phép bất kỳ một sơ sót nào.
Chiếc Piano được mấy anh công nhân giàu kinh nghiệm khiêng từ lầu 3 xuống một cách hết sức thận trọng, giữa cái cảnh nhà buồn bã, có cả nước mắt của đứa con trai kế rất gắn bó với chiếc Piano này - khiến tôi không thể không liên tưởng đến một đám tang. Chao ơi! Người ta đang khiêng một cái quan tài chứ đâu phải cái Piano!
...Ba mươi năm trong chế độ mới, tôi “đứng” được qua các giai đoạn cực kỳ gay go của đất nước và của cả bản thân mình vì tôi tin ở con đường mình đã chọn lựa. Không phải là một đảng viên cộng sản nhưng tôi tin vào những lý tưởng xã hội tốt đẹp cho bất cứ xã hội nào muốn tiến lên công bằng và nhân bản hơn. Tôi vẫn giữ niềm tin đó ngay cả sau khi chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ. Những sai trật và lệch lạc ở những nơi không thể vùi lấp những giá trị vĩnh cửu của chủ nghĩa xã hội nhân bản.
Nhưng trong 30 năm đó, tôi vẫn cảm nhận mình là “một người khách đặc biệt”. Chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi cũng không hề phiền hà về cái quy chế không chính thức này. Là một người từng làm chính trị (dù là do thời cuộc mà làm), tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải “của mình”, nhất là tôi đã có một quá khứ chính trị thuộc về chế độ cũ với những hoạt động không dễ dàng làm rõ hoàn toàn: ba lần làm đại biểu quốc hội và ở tuổi 35 làm bộ trưởng Bộ thông tin chế độ Sài Gòn. Ngay trong xã hội tư bản cũng thế thôi, đảng cầm quyền chỉ tin dùng người của đảng mình, ngoại trừ trường hợp họ phải liên kết với đảng khác. Trong các cuộc đấu tranh hay mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan mà tôi từng công tác, cái chuẩn “người của Đảng” đáng tin cậy hơn “người ngoài Đảng” vẫn thường được vận dụng. Tôi là “một người khách đặc biệt” nhưng không bao giờ tôi quên mình là người ngoài Đảng. Nhưng dù có ai nhìn tôi trong ngoài thế nào thì tôi vẫn viết báo, làm báo với tư cách một người có lý tưởng xã hội chủ nghĩa và không bao giờ đi ngược lại nguyên tắc này. Đây là sự chọn lựa trước hết cho bản thân tôi, lý tưởng của tôi. Ngay cả với những bạn bè thân thiết, tôi luôn thẳng thắn khẳng định điều này. Điều đáng trách nhất ở người trí thức là có cuộc sống hai mặt. Nếu tôi không chia sẻ lý tưởng xã hội, tôi không bao giờ tiếp tục viết báo và làm báo sau 4-1975. Tôi hoàn toàn có khả năng chọn một nghề khác để không phản bội lại chính mình nếu tôi không tán đồng chủ nghĩa xã hội. Viết báo, làm báo là một nghề rất khác nhiều nghề. Hơn cả một phương tiện kiếm sống, nó là lý tưởng chính trị của người cầm bút, là công cụ đấu tranh của mình cho xã hội. Không thể có sự trùng lập trong báo chí.
...Lẽ ra sau 30-4-1975, tôi cũng đi cải tạo tập trung theo diện viên chức cao cấp ngụy quyền. Khi có thông báo trên đài và trên báo, tôi đã chuẩn bị đi trình diện. Tôi nghĩ: đi học tập 10 ngày để biết rõ hơn chế độ mà mình sẽ sống cũng chẳng sao, còn cần thiết là khác. Tôi chuẩn bị một ít quần áo, một lon Guigoz đựng thịt chà bông, một bịch đường, hai cái khăn, bàn chải và kem đánh răng v.v... để sáng hôm sau đến địa điểm ở trường Gia Long (nay là trường Nguyễn Thị Minh Khai) trình diện. Lòng tôi chẳng chút băn khoăn.
Nhưng chiều 12-6-1975 tôi nhận được một phong thư giao tận nhà, gửi cho: “Nguyên tổng trưởng Thông tin, nguyên dân biểu đối lập ngụy quyền Lý Quí Chung”, thông báo tôi được hoãn học tập tập trung, người ký tên giấy tạm hoãn này là ông Cao Đăng Chiếm, Phó chủ tịch Ủy ban Quân quản Sài Gòn. Lúc đó tôi chưa biết mình là người may mắn. Thời gian sau tôi mới ý thức việc tạm hoãn này là một chính sách rất đặc biệt, chỉ áp dụng cho một số rất ít trí thức và nhân sĩ hoạt động ở Sài Gòn trước năm 1975. Quả tình lúc đó tôi chỉ nghĩ chế độ mới trực tiếp cứu xét từng trường hợp, căn cứ vào đường hướng hoạt động của mỗi cá nhân trong thời gian chống Mỹ và chế độ Thiệu. Đến bây giờ tôi vẫn chưa biết rõ chuyện ấy thế nào, có tất cả bao nhiêu người được miễn.
Những người được miễn đi học tập tập trung như các anh cựu dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Đinh Văn Đệ, Phan Xuân Huy, Đinh Xuân Dũng, Nguyễn Phúc Liên Bảo v.v..., có cả ông Trần Bá Thành, cựu tổng giám đốc cảnh sát Sài Gòn thời Ngô Đình Diệm, tất cả những người này được tổ chức học tập riêng tại một địa điểm ở đường Phùng Khắc Khoan, đối diện với cổng sau của trụ sở Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố hiện nay. Tôi không biết rõ về trường hợp ông Trần Bá Thành. Có anh em nói rằng ông Thành đã được MTDTGPMN liên lạc trước ngày giải phóng. Không biết thực hư thế nào. Người hướng dẫn chính các buổi học tập - dưới hình thức như các buổi hội thảo - là ông Tạ Bà Tòng, một ủy viên trong Ủy ban Mặt trận Giải phóng Thành phố. Ở buổi kết thúc lớp học, có ông Mai Chí Thọ, tức Năm Xuân, Phó chủ tịch Ủy ban quân quản, đến nói chuyện. Theo tôi biết, các ông Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Huyền, Vũ Văn Mẫu, Trần Văn Hương... cũng tham dự một đợt học tập riêng và được các vị lãnh đạo ở Thành phố đến trao đổi. Ông Minh không kể gì nhiều về các buổi này nhưng có nói người tỏ ra tích cực nhất trong đợt học tập này là ông Trần Văn Hương.
Sau thời gian học tập kéo dài khoảng một tuần (từ 15-8 đến 22-8-1975), mỗi người nạp một bản thu hoạch và được Ủy ban Quân quản cấp giấy trả quyền công dân. Anh Hồ Ngọc Nhuận có kể: “Được biết trong số những người được trả quyền công dân có người không bao lâu sau đã nhận được huân chương kháng chiến chống Mỹ lẫn chống Pháp hạng nhất”. Ý anh Nhuận: trong số những người cùng học tập có những người đã là người hoạt động cho Mặt trận từ trước. Nhưng chính anh Nhuận lại tiết lộ: “...tôi được yêu cầu làm Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Lâm thời thành phố, dưới bóng Ủy ban Quân quản, phải năn nỉ lắm tôi mới thoát được cương vị chính quyền”. Anh còn cho biết cùng thời điểm đó, cùng anh Ngô Công Đức, anh được yêu cầu chuẩn bị cho ra lại tờ Tin Sáng bộ mới.
Phần tôi mù tịt về những ngày sắp tới với mình sẽ ra sao.
Chuẩn bị ra báo Tin Sáng, anh Ngô Công Đức với cương vị chủ nhiệm đã đến mời tôi, anh Dương Văn Ba, anh Nguyễn Hữu An, anh Nguyễn Văn Binh... cùng thảo kế hoạch tổ chức tờ báo. Đầu tháng 9-1975, tức chỉ sau 4 tháng ngày giải phóng, nhật báo Tin Sáng tái bản. Sự hiện diện trở lại của một tờ báo quen thuộc với người Sài Gòn trước 1975 rõ ràng đã có ảnh hưởng tích cực trong bối cảnh mới có nhiều điều rất mới mẻ và xa lạ với người dân Sài Gòn nay được mang tên mới Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi được mời đảm trách vai trò phó tổng biên tập cùng với anh Dương Văn Ba. Anh Đức làm chủ nhiệm, anh Hồ Ngọc Nhuận làm tổng biên tập. Tôi phụ trách luôn nhiệm vụ tổng thư ký tòa soạn lúc ban đầu (sau công việc tòa soạn được chia với anh Dương Văn Ba). Rất tiếc sự chung sức của anh em tại báo Tin Sáng, gắn bó với nhau từ thời cũ lại không suôn sẻ đến cùng. Sau năm năm tồn tại như một hiện tượng độc đáo, Tin Sáng được tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ”.
Với các anh em trong Tin Sáng cũng có nhiều quan điểm, thái độ khác nhau đối với hướng đi và cách quản lý tờ báo, nhưng có một điều cho đến bây giờ vẫn phải nhìn nhận: Tin Sáng đã có những đóng góp không nhỏ vào cách thông tin nói riêng và cách làm báo nói chung của báo chí ở Việt Nam sau 1975. Thật ra cái mới của Tin Sáng chỉ là những vận dụng nghiệp vụ của báo chí Sài Gòn trước 1975 nhưng có chọn lọc phù hợp với khuôn khổ báo chí lúc đó. Ngoài những tin tức chính thức, tờ báo còn quan tâm đến đời sống bình thường và dành một diện tích rộng cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật, tin tức thế giới và giải trí. Ngoài công tác tòa soạn, tôi phụ trách mảng văn hóa – xã hội (anh Dương Văn Ba phụ trách mảng kinh tế - chính trị, anh Nguyễn Hữu An mảng quốc tế), nhờ vậy tôi có cơ hội trở lại với lĩnh vực viết báo khi mới vào nghề của tôi: viết thể thao, nhất là bình luận bóng đá. Xưa kia tôi lấy bút danh Phát Chung (ghép tên cha tôi và tên tôi), còn bây giờ là Chánh Trinh (ghép tên con gái tôi Lý Quỳnh Kim Trinh và con trai Lý Quí Chánh). Lối bình luận đi sâu vào trận đấu, có những nhận xét về lối chơi cá nhân, đưa ra cả những cảm nhận của riêng mình, khen chê rạch ròi “ông vua sân cỏ” - với báo chí hiện nay là bình thường – nhưng ở thời gian đầu sau tháng 4-1975 là mới lạ và có sức thu hút lớn đối với người đọc. Tôi còn nhớ cha của hai cầu thủ lừng danh là Thế Anh và Cao Cường có nhận xét rằng trước đây ông chưa bao giờ được đọc trên báo những lời bình luận cụ thể về lối chơi của hai con ông, nhất là những lời ca ngợi đích danh như được đọc trên Tin Sáng. Trước kia các trận đấu chỉ được đưa tin gắn gọn, nhấn mạnh tinh thần thể thao xã hội chủ nghĩa và đoàn kết hữu nghị (nếu là trận quốc tế), ít khi đi vào các tình tiết của trận đâu; còn sự khen tặng, ngợi ca tài năng của các cầu thủ coi như rơi vào khuynh hướng chủ nghĩa cá nhân.
Trong cuộc đời làm báo của tôi sau 1975, lần lượt tôi cộng tác (với tư cách tổng thư ký hoặc thư ký tòa soạn) cho tất cả 8 tờ báo (Tin Sáng, Lao Động, Thanh Niên Thời Đại, VDT (phụ san báo Bà Rịa Vũng Tàu), Tia Sáng, Kiến Thức Gia Đình (phụ san báo Nông Nghiệp Việt Nam), Đẹp, không kể có bài trên các báo khác như Pháp Luật TP.HCM, Công An TP.HCM, Sài Gòn doanh nhân cuối tuần, Phụ Nữ TP.HCM, Người Lao Động, Thanh Niên, Thể Thao Ngày Nay..., nhưng cuối cùng cái đọng lại, làm cho tôi gần gũi với độc giả của mình, được họ yêu thương nhất lại chính là bút hiệu Chánh Trinh viết về bóng đá! Tôi rất biết ơn độc giả và rất hãnh diện về những gì mình gây dựng được chung quanh bút danh này.
Nói về bút hiệu Chánh Trinh, mà tôi ưng ý nhất là trong những năm 1980-1990 - ở cả hai mặt bình luận các trận đấu và chống tiêu cực trong thể thao – công bằng mà nói bút hiệu đó sẽ không “đứng” được nếu không có sự góp sức và ủng hộ tích cực của tập thể lãnh đạo tờ báo Tuổi Trẻ từ anh Võ Như Lanh (tổng biên tập), chị Kim Hạnh (phó tổng biên tập) đến các anh Trương Anh Dũng (Tám Đăng), Huỳnh Sơn Phước (đều là phó tổng biên tập). Bởi để đối phó với các áp lực từ nhiều phía vào thời kỳ còn bao cấp trong thể thao, tay nghề và sự quyết tâm của riêng người cầm viết thôi không đủ sức “đứng” một mình. Sự dũng cảm của ban biên tập giúp cho sự dũng cảm của người cầm viết có điều kiện thể hiện trên mặt báo. Không riêng cá nhân tôi mà cả tổ phóng viên thể thao lúc đó (gồm có Tường Vy, Hoài Lê, Đặng Hoàng, Sỹ Huyên) đều nhận được sự hỗ trợ hết lòng của ban biên tập báo. Đó là một ê kíp phụ trách trang thể thao cho một tờ báo mạnh nhất và đồng đều nhất mà tôi có dịp cùng cộng tác với bút hiệu Chánh Trinh. Mỗi cây viết có một phong cách riêng, một sở trường riêng hợp thành một đội hình rất đẹp.
Vì anh Tường Vy không còn ở lại với anh em, anh đã ra đi vĩnh viễn (cuối tháng 4-2004) nên tôi xin nói thêm về anh. Năm 1980 khi tôi từ báo Tin Sáng được điều sang báo Tuổi Trẻ ở đường Phạm Ngọc Thạch (nay là tòa soạn báo Khăn Quàng Đỏ), có tin anh cũng sắp chuyển từ báo Tiền Phong về Tuổi Trẻ. Đúng ra anh về đây trước tôi. Tổng biên tập Võ Như Lanh đã xin anh Tường Vy từ khi tờ Tin Sáng bộ mới chưa ngưng xuất bản, nhưng thủ tục chuyển hơi chậm. Dự định ban đầu của Tuổi Trẻ là giao cho Tường Vy phụ trách tổ thể thao. Nhưng tôi về trước và do đã phụ trách thể thao ở báo Tin Sáng nên được ban biên tập Tuổi Trẻ giao tiếp trách nhiệm này. Lúc đầu anh Tường Vy không hoàn toàn đồng ý sự phân công này và mặt khác cũng không tin lắm cái anh tri thức tiểu tư sản Sài Gòn có đủ chuyên môn để phụ trách tổ thể thao! Trong 5 năm (1980-1985) làm việc chung với anh Tường Vy ở báo Tuổi Trẻ không thể tránh thỉnh thoảng có vài mâu thuẫn xảy ra, nhưng cuối cùng chúng tôi đã dành cho nhau sự kính trọng nghề nghiệp giữ mãi đến cuối đời. Chúng tôi được đào tạo khác nhau, cách sống và cả cách ăn mặc cũng khác nhau. Trong viết lách phong cách càng khác, nhưng trên cùng một trang báo thể thao có anh và có tôi thì nhịp nhàng làm sao! Phong cách viết của anh Tường Vy độc đáo: anh có lối viết thật ngắn, không thể nào ngắn hơn được nữa. Và thật sắc nhọn. Tôi không đủ chữ nghĩa như anh. Có vị lãnh đạo trong ngành thể dục thể thao không chịu nổi sự “sắc nhọn” của ngòi viết anh đã phản ứng lại bằng cách ra lệnh cho các trưởng phòng trong ngành dưới quyền mình “thấy thằng Tường Vy đến đâu thì tống nó ra như con chó...”! Đoàn kết với Tường Vy, tôi đã công khai phản đối thái độ quan liêu và thiếu văn hoá này.
Trong buổi công bố kết quả cuộc bầu Quả Bóng Vàng năm 2002 của báo Sài Gòn Giải Phóng, lúc đó tôi vừa phục hồi sức khỏe tàm tạm, Tường Vy có đến bàn tôi ngồi và nói “Tôi cũng bị bệnh nặng phải hóa trị, tóc rụng hết. Bây giờ mới bắt đầu mọc lại. Ông à tụi mình vẫn chiến đấu, đâu có chịu đầu hàng dễ dàng!”. Nhưng rồi chỉ một năm sau... Thôi bạn đi trước nhé. Rồi tụi mình cũng sẽ gặp nhau tha hồ mà bàn chuyện bóng đá.
...Sau khi Tin Sáng “hoàn thành nhiệm vụ”, như đã nói, tôi tiếp tục làm báo. Lúc đầu có dự định chuyển về báo Sài Gòn Giải Phóng nhưng nghe nói do có ý kiến của ông Võ Văn Kiệt, Bí thư Thành Ủy, tôi được đưa sang báo Tuổi Trẻ (1980) để phụ một tay với tờ báo của Đoàn Thanh Niên. Tuy nhiên dù đã về Tuổi Trẻ tôi vẫn tiếp tục phụ trách trang thể thao của Sài Gòn Giải Phóng thêm một thời gian khá dài. Tổng biên tập báo SGGP lúc đó – anh Tô Hòa là người say mê bóng đá. Anh muốn tôi cộng tác cho hai nơi – Sài Gòn Giải Phóng và Tuổi Trẻ. Nhưng sau một thời gian, tự tôi thấy việc mình viết cho cả hai bên, gần như độc quyền về bình luận trong lĩnh vực thể thao là không ổn. Lúc đó TP. HCM chỉ mới có hai tờ báo có bình luận bóng đá thôi mà tôi lại “trấn thủ” cả hai bên. Tôi xin phép anh Tô Hòa cho rút lui khỏi Sài Gòn Giải Phóng mặc dù nhuận bút SGGP trả cho tôi hàng tháng và từng bài rất cao.
Ở tất cả bảy tờ báo mà tôi được giao làm tòa soạn từ sau 1975, ở mỗi tờ tôi đều cố gắng có một đóng góp gì đó mới mẻ về hình thức, về nội dung và cố tìm ra một công thức sáng tạo cho tờ báo. Người làm báo, cũng như bất cứ một tri thức ở bất cứ lĩnh vực nào, luôn phải biết tự đòi hỏi mình tiến tới phía trước, sáng tạo cái mới, cái chuyển động cho xã hội. Người trí thức sẽ đánh mất vai trò của mình nếu đứng yên trên những thành tựu đã qua của mình.
Tôi rất sợ lặp lại chính mình: sống một cuộc sống mà chính mình đã thuộc lòng từng ngày, từng buổi, từng việc của mình như một cái máy – dù là một cái may hoàn chỉnh! Tồn tại chỉ để tồn tại thì không nên tồn tại.
Cho nên tôi sẵn sàng chia tay một tờ báo nếu tự nhận thấy ở đó không còn điều kiện làm việc để sáng tạo hoặc chính những người có trách nhiệm ở đó không tìm tòi sự đổi mới của tờ báo mà chỉ thỏa mãn với những gì đã có. Điều tệ hại của một nhà báo là khi bắt đầu trở thành một công chức báo chí. Và tôi cũng không thể chịu được sự bất công, thiếu dân chủ ở nơi mình làm việc dù riêng cá nhân mình được ưu đãi. Có lẽ tôi là nhà báo duy nhất kể từ năm 1975 đã chủ động thay đổi công việc qua nhiều tờ báo nhất. Từ sự đấu tranh nội bộ ở nhật báo Tin Sáng đến sự ra đi tự nguyện khỏi báo Tuổi Trẻ sau 10 năm công tác chỉ vì ở đó có một số người cho rằng tôi đã là ‘‘quả chanh đã hết nước rồi’‘. Rồi lại cũng vấn đề nội bộ tại báo Lao Động và lại ra đi dù nơi đây từng có những điều kiện làm việc sáng tạo hơn cả. Anh Trương Anh Dũng, tức Tám Đăng, là một nhà báo có tay nghề cao đồng thời là một nhà tổ chức và quản lý báo giỏi, nhưng khi tôi thấy sự lãnh đạo ở đây trở thành độc đoán, sự đối xử thiếu tôn trọng (mặc dù sự thiếu tôn trọng này đối với các anh em khác chứ chưa đối với tôi) và cả sự thiếu minh bạch trong hoạt động kinh tế thì không còn những điều kiện tốt nữa để tiếp tục cộng tác với nhau. Rút lui khỏi các báo Tia Sáng, Kiến Thức Gia Đình (thuộc báo Nông Nghiệp Việt Nam) là do bản thân tôi thấy các điều kiện làm việc không còn hứng thú sáng tạo.
Có thể việc từ chức, rút lui ấy không phải tất cả đều là quyết định khôn ngoan, nhưng chắc chắn một điều là tất cả các quyết định ấy đều thật lòng, không bị thúc đẩy bởi tham vọng hay ý đồ cá nhân. Và với tất cả những tờ báo mà tôi đã từng chia tay, kể cả những trường hợp sóng gió nhất, sau này khi có cơ hội để nối lại quan hệ hợp tác tôi đều không từ chối (ngoại trừ tờ Tin Sáng vì không tái bản). Không phải vì tôi không có thái độ nhất quán, kiên định lập trường, mà vì tôi coi các báo trong xã hội hiện nay là tài sản quốc gia, là công cụ của nhân dân chứ không thuộc về một cá nhân nào. Tôi viết cho tờ báo là cho độc giả - chính họ mới là những người chủ thật sự của tờ báo. Tôi quan niệm các cuộc đấu tranh nằm trong quy luật tiến hoá, nó khẳng định quan diểm, thái độ sống của mình từng lúc nhưng không nên ôm mãi trong lòng những chuyện đã qua làm nặng nề bước chân đi tới. Dĩ nhiên sau một cuộc va chạm mạnh, những mâu thuẫn bùng nổ, mình được hiểu những con người chung quanh mình nhiều hơn.
...Tuy nhiên không thể chối cãi trong 30 năm viết báo và làm báo trong chế độ xã hội chủ nghĩa, tôi vẫn phải gánh trên lưng mình cái lý lịch “Viên chức cao cấp chế độ cũ”. Có lúc tưởng nó được cất đi nhưng rồi một vụ việc gì đó xảy đến lại nhắc nhở tôi rằng “nó”...vẫn còn y nguyên đó. Lâu ngày như kẻ dị tật, mang sẵn “cái bướu” trên lưng mình, tôi quen dần với “nó” hoặc cố gắng phớt lờ “nó”.
...Trong các tổng biên tập mà tôi từng có cơ hội làm việc chung, tôi vẫn giữ ấn tượng với hai con người mà tôi rất quí trọng. Người đầu tiên là anh Tô Hòa, tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng những thập niên 70-80. Ở vào thời điểm mà “người cũ” “người mới” vẫn còn bị phân biệt khá nặng nề, anh cư xử với tôi rất tự nhiên, chân tình và thẳng thắn. Dù tôi không tiếp xúc nhiều với anh, nhưng anh vẫn để lại trong ký ức tôi hình ảnh một con người chân tình. Lúc tôi về hẳn Tuổi Trẻ không còn làm ở báo SGGP nữa, nhưng mỗi khi có các trận bóng đá A1 tổ chức ở các tỉnh lân cận như Long An, Biên Hòa, anh Tô Hòa vẫn thường mời tôi sang báo SGGP để cùng đi xem với anh. Những dịp như thế, trò chuyện với anh thật thú vị và hữu ích. Anh không bao giờ giữ kẽ hoặc khoảng cách. Anh không ngần ngại đề cập mọi vấn đề với tôi, dù vấn đề thuộc loại gai góc. Thường các quan điểm của anh không cứng nhắc hay bảo thủ, trái lại rất thực tế và mới mẻ...
Với anh Tống Văn Công, tổng biên tập báo Lao Động (cho đến năm 1995) tôi có nhiều cơ hội gần gũi hơn; đã từng sống chung nhiều tháng với anh tại tòa soạn báo Lao Động ở Hàng Bồ (Hà Nội). Anh là một con người rất dễ gần gũi và đáng kính trọng. Anh đọc nhiều, hiểu biết nhiều, sẵn sàng tiếp thu, tìm hiểu những luồng tư tưởng mới dù cho cái mới đó đang bị một bộ phận xã hội chưa đồng tình. Trong cái nhìn của tôi, anh là một người cộng sản không bảo thủ, trung kiên với lý tưởng của mình nhưng luôn hướng tới những suy nghĩ mới, chấp nhận những tranh luận mới. Khi làm việc và nói chuyện với anh, tôi quên mất... “cái bướu” trên lưng mình. Anh còn là một nhà báo viết tốt, biên tập giỏi, tin cậy và đánh giá đúng khả năng các cộng sự viên của mình.
Thật ra tôi biết anh từ lúc anh còn làm tổng biên tập tờ Công nhân Giải Phóng (tiền thân của tờ Người Lao Động), còn tôi đang làm ở báo Tin Sáng. Chúng tôi cùng sinh hoạt trong Hội nhà báo TP.HCM. Còn cuộc tiếp xúc đầu tiên của anh mời tôi về cộng tác với báo Lao Động là năm 1990 tại Hà Nội khi tôi đi dự Đại hội Liên đoàn Bóng đá Việt Nam. Lúc này tôi đang công tác ở báo Tuổi Trẻ. Anh Nguyễn Hữu Tính, trưởng văn phòng báo Lao Động phía Nam, là người “móc nối” cho sự hợp tác này. Trong cuộc đời làm báo của tôi, năm năm làm việc với báo Lao Động là thời gian phát huy nghề nghiệp hào hứng và sáng tạo nhất. Những năm tháng đẹp nhất và đáng nhớ nhất. Nhưng cũng như trong bóng đá, không có một “dream team” nào tồn tại mãi mãi. Chuyện lên rồi xuống và hợp rồi tan của bất cứ một tập thể nào trong bất cứ lãnh vực nào cũng là quy luật!
Tôi cho rằng, trong cương vị tổng biên tập, anh Tống Văn Công thiếu sự quyết đoán và không kịp thời chận đứng những lệch lạc trong nội bộ, khiến cho con đường phát triển độc đáo của tờ báo - một tờ báo mang tính đột phá về nghề nghiệp ở thời điểm đó - bị khựng lại giữa lúc đầy phấn khởi. Anh được cho về hưu vào cái lúc anh thành đạt nhất trong sự nghiệp báo chí của mình. Tôi thương và quý trọng anh. Tôi nhớ mãi những buổi sáng anh thức dậy sớm ở Hà Nội (tại tòa soạn ở Hàng Bồ) loay hoay nấu cơm nếp cho buổi điểm tâm của hai chúng tôi. Nhưng mười buổi thì hết năm sáu buổi nếp chín không đều. Rốt cục tôi thuyết phục anh ra ngoài ăn phở, ăn xôi nếp ruốc rất ngon, có gì phải... “phiêu lưu” như thế. Từ khi có tôi cùng ở chung, anh mới tập cho mình thói quen đi ăn uống ngoài phố.
Trong làng báo còn có một người mà tôi có khá nhiều kỷ niệm rất đáng nhớ: Đó là anh Đỗ Phượng, tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN). Tôi quen anh từ thời kỳ anh phụ trách Báo Ảnh Việt Nam của TTXVN. Khi sắp sửa kỷ niệm 5 năm ngày giải phóng đất nước (30-4-1980), anh tiếp xúc với tôi và yêu cầu tôi viết một bài báo cho Báo Ảnh Việt Nam. Anh nói: “Anh cứ viết theo ý anh, anh viết thế nào, báo sẽ đăng như thế”. Bài báo tôi viết cho Báo Ảnh số đặc biệt 30-4-1980 có cái tựa “Năm năm sống và làm việc với người cộng sản”. Đúng như lời hứa của anh Đỗ Phượng, bài báo được đăng nguyên văn, không có một từ ngữ nào bị thay đổi. Đến ngày kỷ niệm 10 năm giải phóng, qua nhà báo Hoàng Chu, anh Đỗ Phượng lại đặt tôi viết bài cho Báo Ảnh nhân sự kiện này. Thế là lần thứ hai tôi viết bài kỷ niệm 30-4 cho Báo Ảnh.
Khi Việt Nam tổ chức Hội nghị báo chí Châu Á – Thái Bình Dương tại TP. HCM năm 1989 (địa điểm họp là khách sạn Rex), tôi được mời tham gia trong đoàn đại biểu Việt Nam. Trưởng đoàn là ông Đào Tùng, tổng giám đốc Thông Tấn Xã Việt Nam. Tôi nhớ có ba nhà báo ở TP.HCM có mặt trong đoàn đại biểu: anh Võ Như Lanh (phó tổng biên tập báo Sài Gòn Giải Phóng), linh mục Trương Bá Cần (báo Công giáo và Dân tộc) và tôi (lúc đó đang công tác tại báo Tuổi Trẻ). Ông Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã đến dự Hội nghị và có một cuộc đối thoại sôi nổi và thành công với các nhà báo quốc tế dự Hội nghị. Khi còn một ngày nữa bế mạc, tan phiên họp buổi sáng, anh Đỗ Phượng lúc này là phó tổng giám đốc TTXVN và thành viên trong ban tổ chức, gặp riêng tôi và đưa ra yêu cầu: vào đầu giờ chiều tôi sẽ có bài phát biểu trước hội nghị với tư cách thành viên của đoàn Việt Nam. Tôi chỉ có hơn hai tiếng đồng hồ để chuẩn bị bài phát biểu của mình. Tôi hỏi anh: “Tôi sẽ phát biểu về vấn đề gì?”. Anh trả lời: “Anh đã theo dõi các phiên họp và nghe các phát biểu của các đại biểu. Anh cứ chọn đề tài nào phù hợp với mình...”. Tôi lại hỏi: “Anh có cần xem qua bài phát biểu khi tôi soạn xong?”. Anh lắc đầu “Không. Anh cứ phát biểu theo ý anh”. Đầu giờ chiều tôi được ông Đào Tùng chủ tọa Hội nghị mời phát biểu.
Ra làm tổng thư ký tòa soạn cho báo Lao Động tại Hà Nội, tôi có dịp sang trụ sở TTXVN để bàn về sự hợp tác giữa hai cơ quan. Lúc này anh Đỗ Phượng là tổng giám đốc, đã dành cho tôi sự tiếp đón ân cần và nồng hậu. Anh không hề để bụng sự phản đối trước đó rất quyết liệt của tôi – ngay trên mặt báo Tuổi Trẻ - khi anh là tác giả cho ra đời các ấn phẩm phụ của TTXVN như Tin Tức, Văn Hóa Thể Thao... vào thời kỳ mà các báo đều đói thông tin về World Cup nhưng TTXVN lại dành riêng các thông tin sớm nhất cho các ấn phẩm mới ra đời của mình (World Cup 1986). Tôi cũng còn nhớ trong một buổi họp lấy ý kiến của các đồng nghiệp ở TP.HCM đối với tờ Văn Hóa và Thể Thao của Thông Tấn Xã, do chính anh chủ trì (khi tờ báo xuất bản được mấy tháng), tôi có chê hình thức và cách trình bày kỹ thuật của tờ báo còn yếu, thậm chí phạm quy cách báo chí như cho leo bài tiếp theo ngược ra trang phía trước... Anh không phản ứng gì, lặng lẽ ghi vào sổ tay.
Mười lăm năm sau, các ấn phẩm phụ mà anh đã nghĩ ra đều thành công, nhất là tờ Thể Thao và Văn Hóa. Thành công ở cả hai mặt: về chuyên môn và cả về uy tín một tờ báo luôn có quan điểm tiến bộ trên hầu hết các lĩnh vực mà tờ báo đề cập đến. Dù muộn màng nhưng tôi cũng xin rút lại sự phản đối ban đầu của mình cách đây... 15 năm.
Với anh Đỗ Phượng, dù những lần tôi tiếp xúc với anh không nhiều nhưng tôi vẫn xem anh là một người bạn quí không chỉ trên phương diện báo chí. Trong bối cảnh của đất nước mới thống nhất, vượt được những rào cản vô hình để cố gắng xử sự với nhau có tình và mã thượng - quả thật không dễ. Hơn ai hết, tôi thấm thía điều đó.
Tiếp tục nói về những người cộng sản đã làm tôi quên đi cái “bướu” trên lưng của mình, tôi phải trân trọng nhắc đến một con người, một nhân vật lớn của đất nước – ông Võ Văn Kiệt – mà thỉnh thoảng tôi vẫn có dịp gặp trong suốt 30 năm qua. Trong suốt thời gian dài ấy, mỗi lần gặp lại ông thì tình cảm, cách xử sự của ông cũng vẫn thế, không hề thay đổi. Tôi vẫn gọi thân mật ông là Anh Sáu như thời ông còn là Bí thư Thành Ủy TP.HCM dù cho sau này ông làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng, rồi khi hưu, trở về sống ở TP.HCM. Tôi biết ông Võ Văn Kiệt cũng xử sự như vậy, trước sau như một, với nhiều trí thức Sài Gòn và họ cũng giữ trong lòng mình một tình cảm và sự kính trọng hết sức đặc biệt dành cho ông.
Tôi nhớ lần đầu ông đến thăm gia đình tôi (lúc đó ở trong một con hẻm đường Nguyễn Tri Phương quận 10) trước khi ông rời thành phố ra Hà Nội đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (năm 1982), và lần mới đây nhất ông đến nhà tôi ở đường Bà Hạt (quận 10) lúc tôi còn nằm trên giường bệnh (tháng 9-2002). Hai lần ông đến thăm tôi cách nhau khoảng 20 năm, nhưng vẫn là một con người, tôi vẫn tưởng như không có thời gian 20 năm xen giữa hai cuộc thăm viếng đó. Bao giờ cũng thế, kèm theo cái bắt tay mạnh mẽ vẫn là một nụ cười cởi mở và đôn hậu, lan tỏa đến người đối diện cả niềm tin và sự lạc quan.
Tiếp xúc với ông Kiệt, tôi chưa bao giờ cảm nhận có một khoảng cách về địa lý – ngay cả lúc gặp ông đang làm Thủ tướng chính phủ tại Hà Nội – hay một khoảng cách giữa người xuất thân từ chế độ cũ với người cộng sản đang làm lãnh đạo. Sự chân thật, thẳng thắn không quan liêu, một tấm lòng vì dân vì nước, cùng sự lắng nghe xung quanh, dám có ý kiến dứt khoát khi cần ở ông cho tôi một hình ảnh mẫu về người cộng sản Việt Nam.
Trong cuộc đời thứ hai của tôi, ông Võ Văn Kiệt là nhân vật có một ý nghĩa đặc biệt với bản thân tôi mà có lẽ chính ông cũng không ngờ. Suốt 30 năm sống trong chế độ mới, tôi không có một quan hệ riêng nào như thế với bất cứ một vị lãnh đạo cộng sản nào. Tôi không bao giờ dựa vào mối quan hệ với ông Kiệt để nhờ cậy bất cứ điều gì. Tôi tìm đến ông là tìm đến một người cộng sản để củng cố thêm trong tôi niềm tin về sự chọn lựa của mình, tìm đến một con người mà tôi có thể chia sẻ niềm tin, tình cảm và tâm tư một cách thẳng thắn từ chuyện đất nước cho đến chuyện... bóng đá.
Tôi có hai lần gặp ông Kiệt vì công việc. Lần đầu trong khoảng thời gian 1979-1980 liên quan đến cuộc đấu tranh nội bộ ở báo Tin Sáng. Ông mời tôi ăn tối tại một biệt thự ở An Phú (TP.HCM), lúc đó ông là Bí thư Thành Ủy, ông muốn tìm hiểu thêm nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nội bộ tại tòa báo Tin Sáng. Lần thứ hai tôi gặp ông Võ Văn Kiệt tại Hà Nội khi ông làm Thủ tướng (1994): tôi có ý định rút lui khỏi báo Lao Động trở về TP.HCM vì có một đề xuất từ Vụ Báo Chí với tổng biên tập báo Lao Động là: không nên tiếp tục giao chức danh tổng thư ký tòa soạn cho tôi và nên tìm một chức danh khác cho tôi dù công việc vẫn như cũ. Tôi dứt khoát không chấp nhận làm một việc nhưng việc ấy lại mang một danh nghĩa khác. Tôi xin gặp ông Kiệt để chào ông trước khi rời Hà Nội.
Cả hai lần ông đều cho tôi những lời khuyên rất quí và thực tế.
Trong thời gian viết báo sau 1975, tôi đã dành rất nhiều bài viết về bóng đá với mong muốn làm thế nào được thấy cái xứ sở say mê bóng đá cuồng nhiệt như Việt Nam sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu kéo dài. Khi không còn làm thủ tướng nữa, ông Kiệt cũng nhiều lần đóng góp ý kiến với Ủy ban thể dục thể thao nhằm tìm kiếm con đường đi lên cho bóng đá Việt Nam. Một hai lần tôi được ông mời tới hỏi ý kiến và rất ngạc nhiên nhận thấy ông hiểu tường tận tình hình bóng đá, kể cả những con người đang cẩm trịch làng bóng, không kém bất cứ ai trong giới. Những ý kiến của ông góp với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (LĐBĐVN) từ thời nhiệm kỳ 3 theo tôi có giá trị như một cẩm nang để cho LĐBĐVN xây dựng nền móng bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam, từ cách chọn những nơi có tiềm lực lớn để thành lập các CLB chuyên nghiệp có tầm cỡ cho đến định hướng xã hội hoá có khả năng thu hút rộng rãi chất xám và sức mạnh vật chất của xã hội. Rất tiếc các ý kiến của ông Kiệt đã bị bỏ qua. Trước Đại hội LĐBĐVN kỳ 4, ông Kiệt cũng có nêu một ý kiến với Ủy ban Thể dục thể thao (UBTDTT) nhằm đổi mới Liên đoàn.
Theo tôi, nếu các ý kiến của ông Kiệt ở các lần ông đóng góp được LĐBĐVN và UBTDTT được quan tâm đúng mức thì bóng đá Việt Nam đã có cơ may chuyển biến và thực hiện được sự đột phá.
...Có một sự việc mà trước nay tôi chưa bao giờ nói ra: năm 1987 hay năm 1988, tôi không nhớ rõ, tôi có viết một thư riêng cho ông Kiệt lúc đó là Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, còn tôi đang công tác tại báo Tuổi Trẻ. Một bức thư tâm tình, trao gửi đến ông những trăn trở, hoài bão của một trí thức Sài Gòn đang cố gắng hòa nhập với chế độ mới bằng lý tưởng mà mình chọn lựa chứ không phải bằng “cơ chế” hay bằng “chính sách ưu đãi trí thức”. Chính sách ưu đãi tôi đã chối từ rất sớm ngay ở những năm đầu 80, lúc bấy giờ những người trí thức cũ gọi là đầu đàn đều được Thành Ủy TP.HCM cho một phụ cấp đặc biệt hàng tháng ngoài phụ cấp được lãnh trong cương vị công tác của mình. Khi từ báo Tin Sáng về làm việc ở báo Tuổi Trẻ (1980), tôi đã viết đơn cho Thành Ủy báo tôi không nhận phụ cấp đặc biệt này nữa. Ngay lúc đó tôi đã không muốn mình được cư xử như một “người khách ưu đãi”. Tôi muốn tôi được coi như một thành viên thật sự của đại gia đình mới.
Trong lá thư gửi cho ông Kiệt, tôi có bày tỏ với ông nguyện vọng ngày nào đó trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Theo tôi đó là một nguyện vọng bình thường của một người tán đồng Đảng Cộng sản Việt Nam, nhìn nhận quá trình của Đảng Cộng sản Việt Nam vì nước vì dân, có công giành độc lập và thống nhất cho Tổ quốc. Tôi nghĩ mình sẽ phục vụ tốt hơn cho đất nước trong tổ chức và với cương vị một đảng viên. Tôi có nói với ông Kiệt việc nêu nguyện vọng ấy là một thái độ chính trị trung thực với chính mình, còn việc có được kết nạp đảng hay không là một vấn đề khác.
Anh Tống Văn Công nghe tôi kể lại chuyện này có nói: “Thế thì anh mới đi theo ngọn cờ dân tộc của Đảng Cộng sản, còn ngọn cờ chủ nghĩa xã hội thì sao?” Đúng là Đảng Cộng sản Việt Nam chinh phục tôi trước hết bởi lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh cho độc lập dân tộc nhưng mặt khác tôi cũng tìm thấy ở chủ nghĩa Mác – theo cách tiếp thu của tôi - những nguyên lý định hướng cho cuộc sống và thái độ chính trị của mình.
Trở lại chuyện viết thư cho ông Kiệt bày tỏ nguyện vọng vào Đảng rất dễ gây ngộ nhận và có thể khiến một số người nghĩ rằng tôi có toan tính lợi dụng con người vào Đảng để thực hiện những tham vọng riêng. Nhưng tôi không quan tâm những lời đàm tiếu ấy. Đã có một thời mình có một nguyện vọng như thế và một thái độ chính trị như thế, tại sao lại phủ nhận hoặc giấu giếm nó đi? Tôi chẳng có chút ngại ngùng và mặc cảm gì để nhắc lại chuyện ấy. Ngược lại, cho đến bây giờ, tôi vẫn coi đó là một thời điểm đáng nhớ trong cuộc đời mình.
Chị Kim Hạnh, lúc đó là tổng biên tập báo Tuổi Trẻ, cũng biết chuyện này vì sau khi nhận thư của tôi, ông Kiệt có viết thư cho chị Hạnh để báo cho chị biết nguyện vọng của người cộng sự của chị. Chị Hạnh có nói lại cho tôi một phần nội dung lá thư của ông Kiệt và nói thêm việc tôi có vào Đảng hay không do các đoàn thể ở báo Tuổi Trẻ quyết định. Lúc đó có thể chị Kim Hạnh hiểu lầm chăng tôi có ý định vận động với ông Kiệt để được vào Đảng? Thật ra bức thư của tôi gửi cho ông Kiệt chỉ mang tính chất riêng tư, với một người có thể hiểu được tâm hồn mình, có thể lắng nghe và chia sẻ với mình.
Chuyện có nguyện vọng trở thành đảng viên, với thời gian trôi qua và thực tế trong những năm công tác sau đó làm tôi quên đi, nhưng dẫu không thành tôi vẫn không bao giờ từ bỏ lý tưởng mà mình đã chọn.
Tôi cảm phục ông Võ Văn Kiệt không vì sự đối xử của ông với riêng tôi, mà chính do thái độ và cách xử sự của ông đối với các trí thức và nhân vật chính trị khác trước đây ở Sài Gòn. Tôi sẽ không nhắc lại những chuyện đã được báo chí kể, chuyện về những trí thức mà ông Kiệt cố gắng giữ họ ở lại sau tháng 4-1975, có người được đích thân ông đi xuống tận tỉnh xa để lãnh về sau một chuyến vượt biên bị bắt, nhưng sau đó lại cho đi chính thức theo nguyện vọng của họ để ra nước ngoài có thể theo đuổi các cuộc nghiên cứu khoa học dễ dàng hơn v.v... Sau này ông nói với tôi, ngay khi đất nước vừa thống nhất Tổng bí thư Lê Duẩn luôn nhắc nhở “hãy cố gắng hàn gắn và hòa hợp”.
Từ rất sớm ông Kiệt đã có những đánh giá rất công bằng đối với vai trò của ông Dương Văn Minh trong sự kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ông nhấn mạnh: giữa Thành Ủy TP.HCM lúc đó và phần đông quần chúng ở thành phố không có sự khác nhau về đánh giá vai trò của ông Minh trong ngày 30-4-1975. Ông Kiệt cho tôi biết trước khi ông bà Minh rời Việt Nam sang Pháp, ông có nhờ bà Bùi Thị Mè (là “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”), một trí thức cách mạng, từng có mặt trong chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam, tổ chức một buổi cơm thân mật tiễn ông bà Minh lên đường. Thời trẻ bà Mè và ông Minh từng quen biết nhau vì học chung một trường, ông Minh học trên bà Mè một lớp. Ông Kiệt cũng tiết lộ ông từng nhờ bà Mè chăm sóc mẹ của ông Minh một thời gian dài – lúc bà cụ sống ở Thủ Đức. Bà Mè tiếp tế cho bà cụ khi thì gạo ngon, khi thì nước mắm, đường, sữa... mà sau tháng 4-1975 mọi thứ đều khan hiếm.
Trong bữa cơm thân mật tại nhà bà Mè trước ngày ông bà Minh lên đường, ông Minh có cho ông Kiệt biết tổng lãnh sự Pháp tại TP.HCM, theo chỉ thị từ Paris có bày tỏ ý muốn được lo cho chuyến đi của ông Minh về mọi phương diện, kể cả vé máy bay. Ông Minh đã trả lời tổng lãnh sự Pháp: “Mọi việc đã có chính phủ tôi lo rồi”.
Ông Kiệt rất cảm kích câu trả lời này của ông Minh.
Khi chào từ biệt ông Kiệt, ông Minh có hứa khi sống ở nước ngoài ông sẽ không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho nước nhà. Về việc này ông Kiệt nói rõ thêm: về phía ông và Thành Ủy không đưa ra một yêu cầu nào đặc biệt với ông Minh. Về ý định xin ra sống ở nước ngoài, lúc đầu ông Minh có thăm dò ý kiến ông Kiệt qua bà Mè. Lúc này ông Kiệt đang là Bí thư Thành Ủy TP.HCM, ông Kiệt trả lời vấn đề đó tùy thuộc ở ông Minh; Thành Ủy và Trung ương không ngăn cản nếu ông bà Minh muốn ra nước ngoài sống với con cháu. Ông Kiệt có gợi ý một số phương án với ông Minh để ông chọn lựa như là đi thăm con cháu rồi trở về, hoặc sang sống với con cháu khi nào muốn về thăm quê thì cứ về.
Theo ông Kiệt, bà Minh rất muốn ra đi vì nhớ con cháu, còn ông Minh thì có sự do dự do bà mẹ của ông nhất định không chịu đi. Bà cụ nói “Tao muốn được chết ở quê nhà”. Được biết khi ra đi, ông Minh được tự do mang theo hành lý với số cân không hạn chế và hoàn toàn không bị kiểm tra. Chính ông Kiệt đã chỉ thị như thế.
Năm 1984, lúc còn là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông Võ Văn Kiệt đi dự Quốc khánh CHDC Đức, sau đó viếng thăm chính thức Algerie. Trên đường về ông ghé qua Pháp. Tại Paris, ông muốn thăm ba người: ông Dương Văn Minh, ông Phạm Ngọc Thuần và giáo sư Phạm Hoàng Hộ, ông có nhờ sứ quán Việt Nam tại Pháp liên lạc với các vị này. Lúc đó ông Thuần đang ở một tỉnh miền Nam nước Pháp, không liên lạc kịp. Với ông Phạm Hoàng Hộ, ông Kiệt có mời cùng đi dạo bằng tàu trên sông Seine.
Riêng cuộc gặp ông Minh có nhiều tình tiết đáng kể hơn. Đầu tiên là địa điểm gặp. Ông Minh không muốn đến sứ quán Việt Nam và cũng không muốn để ông Kiệt đến nhà (ông và bà Minh không có nhà riêng, sống chung với đứa con trai kế tên Tâm). Cuối cùng ông bà Minh đón ông Kiệt tại nhà một người bạn của ông bà là bác sĩ Danh. Theo sự dặn dò trước của ông Kiệt, đại sứ Việt Nam tại Pháp đi theo ông Kiệt vào chào ông bà Minh rồi trở ra xe để cho cuộc tiếp xúc giữa ông Kiệt và ông Minh được tự nhiên thân mật.
Một trong những câu nói đầu tiên của ông Minh khi gặp ông Kiệt là: “Anh đã biết đó, tôi luôn giữ lời hứa khi rời khỏi Sài Gòn: Sang đây tôi không tiếp xúc với báo chí và cũng không có một lời tuyên bố nào bất lợi cho ở nhà”. Dù đã từng ở hai chiến tuyến khác nhau, nhưng giữa hai con người có nhân cách lớn đó vẫn có sự tương kính lẫn nhau và có một tình cảm đặc biệt dành cho nhau.
Về chuyện ông Minh ở nước ngoài từ chối tiếp báo chí, có một nhân chứng đáng tin cậy khẳng định điều đó: nhà báo Pháp Jean Claude Pomonti (đã có một phỏng vấn đặc biệt Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho báo Le Monde nhân kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ) có nói với tôi rằng lúc ông Minh còn ở Paris (những ngày cuối cùng ông sang Mỹ sống với cô con gái), Jean Claude có điện thoại cho ông Minh để xin gặp ông nhưng ông Minh khéo léo từ chối, mặc dù ở Sài Gòn nhà báo Pháp này từng vô Dinh Hoa Lan rất thường xuyên.
Có một lần tôi được ông Kiệt mời đánh quần vợt với ông trong Dinh Thống Nhất. Tôi kể chuyện ông Minh từng có ý định vào đánh sân này nếu đổ xong Thiệu – cho ông Kiệt nghe. Ông Kiệt lặng im một lúc rồi nói:
“Ông Minh là một con người tốt và có lòng với đất nước. Hôm ông ra đi ông có tặng tôi một cái hộp dài như cái va-li để đựng vợt, giày, quần áo, bóng... dùng để đi đánh quần vợt. Về phần tôi cũng có chuẩn bị trước, tôi tặng lại cho hai ông bà hai huy hiệu của TP.HCM để hai ông bà vẫn nhớ mình là công dân của thành phố này dù có đi xa”.
Cũng trong buổi nói chuyện này bên sân quần vợt, tôi có kể cho ông Kiệt nghe một số suy nghĩ của thượng tọa Thích Trí Quang về ông Minh. Sau ngày 30-4-1975 được vài tháng, tôi đến thăm thượng tọa Trí Quang tại chùa Ấn Quang. Ông hỏi tôi tình hình ông Minh thế nào, tôi cho biết sức khỏe ông Minh vẫn bình thường và vẫn ở Dinh Hoa Lan. Khi ông Minh cùng vợ đi khỏi Sài Gòn rồi, tôi lại có dịp gặp thượng tọa Trí Quang. Lúc này ông nói: “Thật rất tiếc. Đáng lý ông Minh nên ở lại đất nước bởi chính ông là người từng kêu gọi dân chúng không nên bỏ quê hương ra đi. Nhiều người vì nghe ông ở lại. Thế mà bây giờ ông lại ra đi...”.
Ông Kiệt im lặng không bình luận, có lẽ vì chính ông hiểu rõ lý do tại sao ông Minh rời quê hương: hai ông bà lớn tuổi sống một mình, con cháu đều ở nước ngoài.
Theo tôi biết có hai lần ông Minh chuẩn bị trở về sống ở TP.HCM nhưng rồi không hiểu vì sao cả hai lần đều dời lại. Cuối cùng ông đã qua đời tại Mỹ. Cộng đồng người Việt Nam tại Mỹ đã bày tỏ một tình cảm sâu sắc và kính trọng dành cho ông mặc dù về mặt chính kiến họ có nhiều khuynh hướng khác nhau. Cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng có đến dự lễ tang. Đài phát thanh BBC (bộ phận tiếng Việt) có phỏng vấn tôi khi ông Minh mất. Trong buổi trao đổi kéo dài khoảng nửa tiếng đồng hồ, có phần nội dung hỏi đáp như sau: “Ông Dương Văn Minh có phải là người của Pháp?”– Có thể ông có tình cảm với người Pháp hơn người Mỹ. Nhưng theo tôi ông không phải là người của Pháp. “Ông Minh có phải là người của Mỹ?” – Cũng không. Người Mỹ không bao giờ tin ông. “Vậy ông Minh là người của cộng sản?” – Theo tôi cũng không phải. Tôi nghĩ ông Minh chỉ là người yêu nước.
Không phải người yêu nước nào ngay từ đầu cũng tìm ra ngay con đường đi của mình. Nhưng khi có con tim chân thành với Tổ quốc, thường cuối cùng cũng có một lựa chọn đúng đắn.
Tôi vẫn tiếc cho ông Dương Văn Minh, trước khi chết không có dịp trở về thăm quê hương. Dinh Hoa Lan vẫn được chính quyền TP.HCM để cho người trong gia đình ông Minh bảo quản. Mỗi lần có tin ông định về, biệt thự lại được sửa sang, chăm sóc lại.
Trong quyển Hồ sơ mật Dinh Độc Lập của Nguyễn Tiến Hưng và Jerrold L. Schecter viết rằng ông Dương Văn Minh đã nhận tiền của Mỹ để ra ứng cử làm bình phong cho tổng thống Thiệu ở cuộc bầu cử năm 1971. Nguyễn Tiến Hưng kể rằng: “Ông Thiệu có bằng có là tướng Minh đã chuyển khoản tiền đó từ Paris qua một trương mục của mình tại Đông Kinh Ngân hàng ở Sài Gòn. Nhưng khi tướng Minh xét mình không thể địch nổi ông Thiệu, bèn ôm lấy tiền mà không tranh cử nữa...”.
Nếu ông Minh đã lấy số tiền nào đó của tòa đại sứ Mỹ thì sau đó ông không bao giờ tiết lộ ý đồ Mỹ mua chuộc ông với chủ bút báo Washington Post Ben Bradlee ngay sau đó. Và nếu ông Thiệu nắm được bằng có thật sự ông Minh nhận tiền của Mỹ thì trong ba năm đối đầu trên chính trường Sài Gòn, ông Thiệu không thể không khai thác chuyện bê bối này của đối thủ số một.
Theo tôi đây chỉ là chuyện bịa đặt nhằm làm giảm uy tín của ông Dương Văn Minh, thế thôi!
30 năm sau nhìn lại ngày 30-4-1975 mới thấy rõ hơn giá trị của ngày giải phóng. Nếu không có ngày đó - chấm dứt hoàn toàn sự can thiệp của người Mỹ, giành được độc lập và thống nhất cho xứ sở - thì chắc chắn đất nước hôm nay không an bình và phát triển, ổn định như đang có. Hiệp định Paris chỉ là một giải pháp tình thế để tạm thời ngưng tiếng súng chứ không chấm dứt được cuộc xung đột và mang lại hòa bình thật sự, dù cho các điều khoản của hiệp định được mang ra áp dụng. Một chính phủ liên hiệp nếu được thành lập ở miền Nam (theo hiệp định) cũng sẽ là sự tiếp nối của cuộc xung đột dưới một hình thái mới, đầy hỗn loạn và bất ổn, có thể lại đổ máu và chết chóc; “bàn tay lông lá” của người Mỹ vẫn có điều kiện xộc vào gây chia rẽ và hận thù giữa người Việt với người Việt; kinh tế của miền Nam vẫn lệ thuộc, tồn tại bằng viện trợ nhỏ giọt của các cường quốc đầy những ý đồ thôn tính; còn miền Bắc có lẽ vẫn sẽ khó khăn, vẫn ở trong tình trạng đối phó chiến tranh vì phải tiếp tục dồn sức chi viện cuộc đấu tranh ở miền Nam.
Nhìn đất nước nối liền từ Nam chí Bắc hiện nay, đến bây giờ tôi vẫn tưởng nằm mơ. Tôi vẫn còn trong đầu mình hình ảnh chiếc cầu Long Biên đen sì sừng sững đó trong lần đầu tôi ra Hà Nội cuối năm 1975. Hình ảnh ấy đã được cất vào bảo tàng ký ức của người Việt Nam chúng ta, chỉ để nhớ lại khi cần hận thù chiến tranh, cần cảnh giác trước những đe dọa xâm lược. Hà Nội bây giờ như một thiếu nữ đẹp, duyên dáng và tràn đầy sức sống. Và Sài Gòn mạnh mẽ hơn nhiều và tự tin hơn nhiều trong cuộc hành trình mới, bởi sự tồn tại của thành phố này không còn nhờ vào sự “tiếp máu” từ người khác.
Nguồn: Nhà xuất bản Trẻ (www.nxbtre.com.vn), TP HCM, 2004, 486 tr., 97.000 đ
XV
Gia đình thân yêu
Với tôi, gia đình là trên hết. Trên nền tảng quí trọng này mà trân trọng cuộc sống lương thiện và có ích cho xã hội, yêu thương người khác, yêu thương Tổ quốc. Gia đình là sức mạnh của mỗi chúng ta, cho ta động lực để cống hiến, sự ổn định để sáng tạo và niềm tin nhìn vào tương lai.
Tôi không được cái hạnh phúc “một vợ một chồng” cho cả đời mình. Nhưng trải qua ba lần lấy vợ, tôi lại càng nhận ra vai trò người vợ đối với tôi quan trọng đến ngần nào. Tôi sẽ không là tôi như cuộc đời tôi đã sống và làm việc nếu bên cạnh tôi không có người vợ - một nửa của tôi. Chúng ta không thể nào đo lường được hết cái sức mạnh kì diệu của người phụ nữ gia đình và trong sự gắn bó với sự nghiệp của người chồng. Ai không có hoặc đã đánh mất đi “phân nửa” của chính mình thì ít nhiều đều què quặt trong cuộc đời!
...Các đứa em của tôi, vượt biên khoảng 1977 trên những chiếc thuyền từ năm 1992 cũng bắt đầu lần lượt trở về. Tôi sung sướng tột cùng khi được gặp lại những người ruột thịt của mình mà lúc ra đi tưởng sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng tôi có một niềm vui sướng riêng cất giấu trong lòng: sự trở về của các em tôi đồng thời cũng là sự xác nhận anh trai mình đã có một chọn lựa không sai. Lúc đầu chỉ có các em gái trở về, tôi vẫn không thấy người em trai út. Tôi biết ngày các đứa em tôi ra đi, Nghĩa là đứa thất vọng hơn cả. Sau ngày giải phóng, Nghĩa hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh Niên. Tội nghiệp nó, cái áo mặc đi học không dám ủi thẳng thớm vì sợ phê là “tư sản”. Suốt ngày ở trong trường vẽ tranh cổ động và biểu ngữ. Một đoàn viên Thanh niên hết sức tích cực với niềm hăng hái ở cái tuổi 14-15 căng tràn. Thế rồi tai họa ập xuống gia đình tôi, niềm tin ở Nghĩa bỗng chốc tan biến. Do đó khi ra đi rồi Nghĩa không muốn trở lại nơi hằn sâu kỷ niệm buồn thời niên thiếu của mình, nơi chứng kiến cha mẹ mình trải qua những biến cố đau lòng. Các em gái nói cho tôi biết ban đầu khi các chị trở về Việt Nam Nghĩa nhất định không về.
Chuyến trở về đầu tiên của Nghĩa sau gần 20 năm xa cách đất nước là để thăm vợ tôi (lúc này là Trần Hồ Quang Ngọc Cúc; tôi chia tay với Quỳnh Nga, người vợ đầu từ năm 1984) khi vợ tôi vừa phát hiện bị ưng thư đại tràng. Từ lần đó, Nghĩa trở về quê nhà nhiều lần, vết thương xưa trong lòng dần dần được hàn gắn.
Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ và Canada. Gia đình tôi cũng trải qua không ít những căng thẳng và mất mát, nhưng xét cho cùng không thấm thía gì khi so sánh với biết bao gia đình khác ở cả hai phía trong cuộc chiến. Gia đình tôi rất may mắn đã có một “Happy-ending” nói theo một loại phim có một kết thúc tốt đẹp.
Tôi có tất cả bảy người con – năm với người vợ đầu (Nguyễn Thị Quỳnh Nga), một với người vợ thứ hai (Trần Hồ Quang Ngọc Cúc) và một với người vợ thứ ba (Võ Thị Thanh Thủy). Ngoài ra còn có một người con riêng với người vợ thứ hai (Nguyễn Hồng Quang) mà tôi coi như con ruột của mình. Các con tôi đều có công ăn việc làm đàng hoàng trong nhiều ngành nghề khác nhau từ đại học, truyền thông cho đến kinh doanh, đời sống riêng ổn định, trừ đứa út là một bé gái mới tròn ba tuổi (Lý Quí Thuỷ Chung).
Tôi không bao giờ ngờ rằng cuộc đời tôi lại trải qua đến ba đời vợ! Khi kết hôn với Nguyễn Thị Quỳnh Nga ở tuổi 21 tôi còn là một sinh viên vẫn nghĩ mình sẽ sống ở đời với người phụ nữ này. Đó là mối tình đầu đích thực. Yêu và lấy làm vợ. Cả đoạn đời đầu (trước 1975) và một phần đoạn đời sau (sau 1975), tôi sống với Quỳnh Nga. Chúng tôi có một cuộc hành trình bắt đầu trong gian khó nhưng sôi nổi và khá thành công trong suốt con đường dài 23 năm. Đáng tiếc đến một giai đoạn (năm 1984), chúng tôi đã không vượt qua được những bất đồng mỗi lúc càng khoét sâu trong cuộc sống; tình cảm và sự kính trọng dành cho nhau chỉ hy vọng cứu vãn nếu chúng tôi chấp nhận một cuộc chia tay thật êm đẹp. Và chúng tôi đã làm được điều đó. Sau 20 năm chia tay, Quỳnh Nga và tôi vẫn là hai người bạn rất đặc biệt, gặp nhau thường xuyên và vẫn quan tâm đến nhau. Năm đứa con của chúng tôi rất ít cảm nhận sự mất mát và đều hãnh diện giữa sự đối xử giữa cha và mẹ dù hai người thân yêu của chúng không còn sống chung với nhau.
Khi tôi kết hôn lần thứ hai, tôi đã bàn với các con tôi, nói rõ quyết định và sự chọn lựa của mình. Trần Hồ Quang Ngọc Cúc, sau này được bạn bè gọi tên thân mật là Cúc Phượng. Nàng đã có một đời chồng nhưng ở với nhau rất ngắn ngủi (hai năm). Khi tôi yêu và lấy Cúc Phượng làm vợ, nàng có một đứa con riêng ba tuổi - Nguyễn Hồng Quang. Hôn lễ được tổ chức tại báo Tuổi Trẻ. Thời kỳ tôi lập gia đình lần thứ hai, cuộc sống rất khó khăn. Bữa cơm thường gồm chỉ có một món duy nhất: hột vịt chiên với cà tô-mát. Rất may mắn là Phượng làm món này rất ngon nếu không thì rất gay bởi các món khác nàng... không biết nấu! Thế mà sống với nhau chỉ một thời gian ngắn, Cúc Phượng trở thành một phụ nữ nấu ăn rất khéo; mỗi bữa ăn đều tạo nên sự bất ngờ thích thú cho chồng. Cúc Phượng còn gây cho tôi sự ngạc nhiên cảm phục khi nàng mở quán ăn có tên “Đôi đũa tre” (Bamboo Chopsticks) ngay tại nhà, địa điểm rất xa khu trung tâm thành phố, mà vẫn thu hút được một số đông thực khách trong và ngoài nước. “Bamboo Chopsticks” được coi là “nhà hàng – gallerie” đầu tiên. Có khoảng 20 bức tranh bán trừu tượng của tôi được treo trên các bức tường ở đây, tạo nên một không khí mới lạ, một phong cách văn hóa ẩm thực rất mới vào những năm đầu thập niên 90.
Cúc Phượng quyết định mở nhà hàng ngay sau khi nàng biết mình bị ung thư đại tràng và vừa trải qua một cuộc đại phẫu. Tôi không thể hiểu nổi nàng lấy đâu ra sự dũng cảm phi thường để vừa tiếp tục sống lạc quan, yêu chồng yêu con, vừa thản nhiên tính chuyện tương lai, khi hiểu rất rõ hơn ai hết quỹ thời gian cuộc đời dành cho mình tối đa là hai năm hoặc hai năm rưỡi. Nàng theo dõi cái mầm bệnh tai ác lớn lên trong cơ thể mình không khác gì theo dõi sự tượng hình đứa con lúc nàng mang thai mà tôi đã từng chứng kiến. Tự nàng hàng tháng đi siêu âm, biết rõ kích thước của khối u đang phát triển. Không hề sợ hãi, buồn phiền. Hoặc có buồn phiền đau khổ nhưng giấu tất cả vào trong, nhất quyết không để cho một ai thấy, nhất là chồng mình. Cúc Phượng không muốn làm ai phải buồn phiền, lo lắng cho mình. Sau khi nàng được giải phẫu, biết mình mắc bệnh gì, nàng không bao giờ nói đến bệnh của nàng bởi sợ những người thân yêu mình đau khổ hơn chình mình đau khổ.
Lần đầu tôi gặp Cúc Phượng là tại một tiệc sinh nhật của một người bạn: tiền đạo Đinh Công Hoàng có biệt danh “Hoàng Cá lóc” của đội Công Nghiệp Thực Phẩm. Cô ấy lúc đó khác hẳn bạn bè xung quanh từ cách trang điểm tự nhiên cho đến lối ăn mặc giản dị. Ngay từ buổi quen biết đầu tiên tôi cảm nhận đây là người phụ nữ rất cần cho cuộc đời còn lại của mình. Lúc đó tôi đã 44 tuổi, vừa chia tay với người vợ đầu tiên, còn Cúc Phượng 26 tuổi. Tôi đã từng gặp Cúc Phượng thoáng qua một hai lần đâu đó nhưng không hề nhớ, còn nàng biết tôi rất rõ trước đó. Tiếng đồn “Ông Chung lả lướt, dan díu với rất nhiều phụ nữ” và cả lời đe của bạn bè “mầy lấy ông ấy sẽ khổ...” không hề làm cho nàng e dè chùn bước. “Khi anh cười, trông anh rất nhân hậu. Giác quan thứ sáu báo cho em biết anh sẽ là người chồng tốt” – Cúc Phượng nói với tôi như thế khi chúng tôi đã là vợ chồng của nhau. Tôi không thể quên câu nói đầu tiên của nàng khi chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân: “Em coi anh vừa là người chồng vừa là người cha của em. Từ khi sinh ra, em đã thiếu tình cha”. Cha nàng là một bác sĩ nha khoa nổi tiếng ở Sài Gòn, từng là dân biểu quốc hội thời Ngô Đình Diệm, rồi giám đốc Nha du lịch, đã có vợ người Hồng Kông nhưng bà này ít khi sống ở Sài Gòn. Người vợ tại Việt Nam của ông là mẹ của Cúc Phượng. Mẹ Cúc Phượng dứt khoát chia tay với cha nàng sau khi nàng ra đời. Trong ký ức của Cúc Phượng về cha mình chỉ là hình ảnh mờ nhạt về một người đàn ông thật cao lớn, lâu lâu đến thăm nàng lúc nàng mới được hai hay ba tuổi. Cúc Phượng được bà ngoại nuôi từ nhỏ. Suốt tuổi thơ và cả sau này, Cúc Phượng tìm mọi cách liên hệ với cha mình nhưng không nhận được một hồi âm nào. Cách ít năm nàng mất, Cúc Phượng có nhờ một người bạn xưa của cha mình trong một chuyến sang Mỹ cầm một lá thư của mình gửi cho cha. Nhưng vẫn không có tin tức gì từ người cha.
13 năm tôi sống với Cúc Phượng tràn đầy hạnh phúc (chúng tôi có một đứa con trai Lý Quí Phúc. Hầu như chúng tôi không có một cuộc cãi vã to tiếng nào. Cuộc sống vật chất của gia đình dễ chịu hơn khi tôi bắt đầu làm báo Lao Động (năm 1990) và cũng năm này tôi bắt đầu vẽ tranh khi quen biết họa sĩ Trịnh Cung. Hồi còn đi học tôi chỉ vẽ bằng màu nước và bút chì. Anh Trịnh Cung hướng dẫn bước đầu cho tôi kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu. Ngay năm 1990, tôi tổ chức cuộc triển lãm tranh đầu tiên tại Nhà hàng Thanh niên (nhà hàng của người vợ đầu Quỳnh Nga) và năm sau mở cuộc triển lãm ở Hà Nội tại Gallery Tràng Tiền. Đó là cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên của một họa sĩ Sài Gòn tại Hà Nội và cũng là cuộc triển lãm đầu tiên tranh trừu tượng ở thủ đô sau 1975. Nhờ mối quan hệ bạn bè với anh Trịnh Cung, tôi đã khám phá thêm một thế giới nghệ thuật đầy mê hoặc và đồng thời cũng khám phá một mặt khác của chính mình. Bởi nghệ thuật đích thực bao giờ cũng phản ánh cái chiều sâu của một con người. Năm 1992 tôi có cuộc triển lãm tranh lần thứ hai tại Hà Nội. Lần này tôi và anh Trịnh Cung cùng bày tranh tại Bảo tàng lịch sử. Sau đó tôi còn tổ chức thêm hai cuộc triển lãm cá nhân nữa tại Gallerie Mai (con gái của nhà dịch giả Dương Tường) và Gallerie Hàng Bài. Tại TP.Hồ Chí Minh tôi có ba cuộc triển lãm tranh cá nhân vào các năm 1990, 1991, 1993.
Cúc Phượng là người chia sẻ với tôi niềm đam mê mới này và là một trợ lý tích cực trong các cuộc triển lãm. Khi tôi cầm cọ, nàng luôn ở đâu đó và nhiều khi nằm chờ tôi bên cạnh giá vẽ đến một, hai giờ sáng, rồi mới cùng đi ngủ. Nàng luôn là người đầu tiên phát biểu về các bức tranh vừa hoàn tất, thường các nhận xét của nàng thẳng thắn và rất có ích cho tôi. Chính Cúc Phượng căng bố, đi đặt khung tranh và một mình chuẩn bị các cuộc triển lãm từ A tới Z như theo dõi công việc treo tranh, tổ chức tiệc Cocktail, tiếp đón khách ngày khai mạc và chụp ảnh kỷ niệm cho chồng. Khi tôi phụ trách tòa soạn báo Lao Động tại Hà Nội trong 6 tháng, Cúc Phượng theo tôi sống tại Hàng Bồ suốt thời gian này. Nàng đi chợ lo cơm nước và giặt giũ cho tôi. Chúng tôi ăn ở luôn tại cơ quan ở Hàng Bồ. Anh em ở tòa soạn thiết kế cho Cúc Phượng một cái bếp dã chiến trên tầng một. Tôi và Cúc Phượng cùng yêu Hà Nội nên chúng tôi có những ngày ngắn ngủi tại đây đầy những kỷ niệm đẹp. Buổi tối, nếu không đi khiêu vũ, thì đi uống cà phê ở một quán cóc nào đó hoặc đèo nhau trên chiếc xe máy chạy từ phố này qua phố nọ, không có chủ định trước. Với Cúc Phượng, hạnh phúc là cái gì đó thật đơn giản. Nàng mang lại cho tôi cái cảm giác luôn êm dịu, an toàn và tự tin. Khi đứa con trai của chúng tôi – Lý Quí Phúc - bị tai nạn trong nhà, mặt cháu bị miếng kiểng cắt sâu, chính nàng giành ôm con ra xe và trấn an tôi để tôi bình tĩnh lái xe đưa con đi cấp cứu. Các con dâu của tôi đến ngày sinh nở cũng nhờ “cô Phượng” đưa đi bệnh viện. Sự bình tĩnh của nàng làm cho người sắp trải qua giây phút căng thẳng cũng an lòng. Nàng ở bên cạnh con dâu của chồng cho đến khi đứa bé ra đời. Vì Cúc Phượng không có khoảng cách tuổi tác quá lớn so với các con tôi nên các con tôi chọn cách xưng hô thân thương và... phù hợp để gọi người vợ của cha mình là “cô Phượng”.
Sự thành thật, thẳng thắn và trong sáng của Cúc Phượng ngay từ lúc mới yêu nhau khiến tôi hết sức kính trọng.
Sau thời gian quen nhau khoảng sáu tháng, tôi bày tỏ ý định muốn tiến tới hôn nhân. Nàng rất xúc động, do dự một lúc nói: “Em không giấu giếm, em rất mong muốn có một người chồng như anh. Em thèm khát một cuộc sống gia đình bình thường. Chỉ vì điều đó, em có quan hệ với một người đàn ông; người đó hứa với em sẽ dàn xếp chuyện gia đình của anh ấy và tiến tới hôn nhân với em. Nhưng thời gian gần cả năm qua không tiến triển, em đột nhiên rơi vào hoàn cảnh của một người vợ bé, một người tình núp lén tội lỗi...” Tôi hỏi lại: “Nhưng em còn yêu người đó không?”. Tôi biết khá nhiều về người đó. Một nhân vật có tên tuổi ở Sài Gòn, sau 1975 là một nhà doanh nghiệp. “Em không còn thương người đó nữa. Có một lúc em chịu ơn người đó, nhưng người ta không giữ lời hứa với em”. Tôi nói với Cúc Phượng: “Em là người phụ nữ xứng đáng để có hạnh phúc. Anh muốn có một người vợ như em... Anh không coi chuyện em có quan hệ với ai đó trước anh là quan trọng. Vấn đề là kể từ khi chúng mình gặp nhau tình cảm như thế nào và xử sự với nhau ra sao...”.
Cúc Phượng có một đề xuất khá bất ngờ: “Dù sao chuyện em và người đó vẫn chưa rõ ràng, em không muốn người ta suy nghĩ không đúng về em và cả về anh. Ngày mai em sẽ gặp anh ấy và nói cho anh ấy biết dứt khoát suy nghĩ và quyết định của em. Anh sẽ đưa em đến đó chứ?”. Tôi chấp nhận đưa nàng đi để khẳng định tình yêu và sự tin tưởng dành cho nàng. Sau này, hai vợ chồng tôi thỉnh thoảng có gặp lại “người đó” trong những cuộc tiếp tân. Lúc nào Cúc Phượng cũng tỏ ra là một người vợ đầy tự tin và xứng đáng bên chồng.
13 năm hạnh phúc đi qua cái vèo. Như một giấc mơ.
Cuộc ra đi của Cúc Phượng được nàng biết trước hơn hai năm. Nàng bình tĩnh chuẩn bị và trù liệu trước từng chi tiết những gì sẽ diễn ra cho cuộc ra đi đó như một người sắp thực hiện một chuyến du lịch. Sau khi nàng trải qua cuộc đại phẫu (năm 1995) tại Bệnh viện Đại học Y Dược, một hôm tôi nhận được một cú điện thoại của một bác sĩ muốn gặp nàng để “bổ sung giấy tờ”. Tôi ngạc nhiên hỏi giấy tờ gì thì vị bác sĩ này cho biết đó là: “Thủ tục hiến xác của chị Ngọc Cúc”. Suýt nữa tôi té ngã bên chiếc máy điện thoại. Phản ứng của tôi với bác sĩ Nguyễn Quang Quyền, trưởng khoa giải phẫu học của trường Đại học Y Dược TPHCM, không còn bình tĩnh: “Tôi là chồng của Ngọc Cúc nhưng chuyện này tôi chưa hề biết. Xin lỗi bác sĩ...”. Rồi tôi cúp điện thoại. Vào thời điểm này, Cúc Phượng rất khỏe mạnh và xinh đẹp. Trong đầu tôi chưa thể hình dung ra nàng sẽ chết, nói chi chuyện xác nàng sẽ được hiến.
Tối đi ngủ, nằm bên cạnh nàng tôi lựa lời hỏi lý do gì nàng quyết định hiến xác. Tôi liếc nhìn nàng qua ánh sáng yếu ớt của đèn ngủ. Cúc Phượng hơi lúng túng vì nàng chưa chuẩn bị để trình bày chuyện này với chồng. Có lẽ nàng định sẽ nói với tôi khi các thủ tục đã hoàn thành. Nhưng rồi Cúc Phượng bình tĩnh giải thích một cách rành rẽ, chứng tỏ nàng đã suy nghĩ rất kỹ về quyết định của mình: “Em hiểu bệnh của em, chỉ có điều em không biết chính xác lúc nào em sẽ ra đi. Tại bệnh viện em tình cờ biết được các sinh viên y khoa không có xác người để thực tập, họ phải học “chay”. Trường Y khoa có lời kêu gọi hiến xác tại trường Y Dược và em cũng có tham quan phòng mổ xác. Suy nghĩ của em là khi mình chết rồi, xác được chôn xuống đất cũng rã tan, làm mồi cho các loại côn trùng thôi. Cái xác của em có nghĩa lý gì đâu. Cuộc đời của em cũng thế, chẳng giúp ích được gì cho người khác. Thế mà khi em chết và hiến xác em lại trở thành người có ích cho xã hội, cái xác của em lại có ích cho khoa học, giúp cho các bác sĩ tương lai học nghề một cách tốt hơn để cứu nhiều sinh mạng khác thì anh thử nghĩ em có nên làm như thế không?”
Tôi không thể bác bỏ lập luận của nàng, mà chỉ xót xa phân trần với nàng: “Chẳng lẽ em... sẽ không về nhà? Ít ra em cũng cho anh và các con được ở bên cạnh em một thời gian, dù là ngắn ngủi. Rồi còn người thân, bạn bè nữa...”. Cúc Phượng cũng đã nghĩ tới cả chuyện sau đó sẽ diễn ra như thế nào. “Trong đời em đã chứng kiến hai cái đám tang, của bà ngoại em và của ba anh. Cả hai đều diễn ra rất buồn, tiếng kèn trống, tiếng tụng kinh gây ồn ào cả khu xóm, những người đến chia buồn thật đông nhưng trong số đó người thương yêu thật sự người qua đời đâu có bao nhiêu. Em muốn anh tổ chức đám tang của em thật đơn giản. Đâu cần có quan tài. Anh đặt một khung ảnh của em ở một góc phòng, mời một số bạn bè đến, những người bạn mà em biết khi em còn sống họ có tình cảm thật sự dành cho em. Bạn bè có thể đến với một bó hoa nhỏ. Em rất ghét những tràng hoa cườm và những vòng hoa lớn. Em thích có một cuộc chia tay ấm cúng và đơn giản như thế”.
Hai ngày sau khi nàng mất tôi đã tổ chức cuộc chia tay cho Cúc Phượng với người thân và bạn bè đúng như nàng đã phác họa. Danh sách bạn bè được mời đến do chính Cúc Phượng nêu tên: Vợ chồng anh Tống Văn Công (cựu tổng biên tập báo Lao Động), anh Vĩnh An, nhà báo Lưu Trọng Văn, vợ chồng nhà báo Hoàng Thoại Châu, vợ chồng nhà báo Trần Trọng Thức, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh Nguyễn Trung Dân và vợ là chị Phan Thị Lệ, họa sĩ Trịnh Cung, cô Ý Nhi, hai nhà báo Đặng Hoàng, Thúy Hà và mẹ Thúy Hà.
Trên chiếc bàn dài, nhiều bó hoa tươi của bạn bè đặt chung quanh di ảnh của Cúc Phượng. Trong ảnh, nụ cười của nàng thật hiền hòa, nụ cười mà tất cả những ai quen biết nàng đều không thể quên được. Một vài người bạn lần lượt đứng lên nhắc lại những kỷ niệm đẹp của mình với Cúc Phượng, riêng anh Lưu Trọng Văn đọc một bài thơ viết tặng nàng:
THIÊN SỨ
Người đàn bà ấy
Từ đâu
Người hàng xóm ngớ ra
Bầu trời cũng ngớ ra ‘‘Người ơi đừng hỏi!’‘
Tiếng ai nghe quen vậy?
Còn tiếng ai nữa
Sợ úa lá dâu
22-8-97
Chính nhờ buổi chia tay được tổ chức như thế này, tôi đã có dịp nói những lời yêu thương với nàng giữa bạn bè. Một sự nhìn nhận công khai ân nghĩa mà nàng đã dành cho tôi trong cuộc sống chung ngắn ngủi 13 năm. Cuộc tiễn đưa như thế của những người thương yêu nàng chắc chắn làm nàng mãn nguyện.
Tại bệnh viện, trước khi Cúc Phượng trút hơi thở cuối cùng, những người thân và bạn bè có mặt đông đủ. Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi và năm đứa con với dâu rể đều có mặt bên cạnh mẹ chúng để bày tỏ tình thương yêu và sự kính trọng dành cho người vợ kế của cha mình. Ngay sau khi Cúc Phượng qua đời, nàng được chuyển sang Trường đại học Y Dược, rồi đưa vào gian phòng mà nàng đã từng tham quan hai năm trước khi nàng còn khỏe mạnh và xinh đẹp!
Đã có các bài báo viết về Cúc Phượng gọi nàng là ‘‘người phụ nữ đầu tiên hiến xác cho khoa học’‘. Điều đó chắc chắn không làm nàng vui lòng bằng nếu nàng biết được, với hành động hiến xác của nàng, sau đó đã có hàng trăm người khác tự nguyện hiến xác.
Tôi là người chẳng bao giờ làm thơ. Thế nhưng sau khi Cúc Phượng mất, trong căn nhà trống rỗng, cứ mỗi khi đi về tôi lại bắt gặp cái nhìn và nụ cười hồn hậu của nàng trong bức di ảnh đặt trên bàn thờ. Mỗi lần như thế tôi lại dừng lại, nói với nàng vài câu. Một đêm, sau khi dừng lại trước bàn thờ, lên phòng làm việc, tôi nhớ nàng khủng khiếp. Tôi ngồi vào bàn, cầm viết lên và viết một mạch hai bài thơ – hay nói đúng đó là hai cuộc chuyện trò với nàng:
1 Em liếc nhìn tôi
Từ trong khung ảnh
Mắt em vẫn thế
Nụ cười em vẫn thế
Hình như em hỏi
Anh có buồn không
Em lỗi với anh
vô cùng
Bởi nửa chừng em bỏ lại anh
Anh đốt cây nhang
Khói làm em nheo mắt
Nhưng em vẫn nở nụ cười hồn hậu
Bởi cả đời em, không biết giận, ghét ai.
Anh có buồn không?
Thay cho câu trả lời
Anh cầm khung ảnh hôn em
Anh đau đớn tột cùng
Bởi nửa chừng anh không giữ được em
2
Nửa đêm anh thức dậy tìm kiếm em
Em gần anh - gần khủng khiếp
Tưởng như có thể đặt tay lên vai em,
Anh lướt bàn tay thật nhẹ
Cuộc đời tôi có may mắn lớn được gặp những người phụ nữ tuyệt vời như Quỳnh Nga, Cúc Phượng. Họ đều trở thành những người phụ nữ làm tôi ngưỡng mộ. Khi tôi tái hôn với người vợ thứ ba, nàng mới 21 tuổi. Trong lòng tôi không bao giờ mờ nhạt hình ảnh của Cúc Phượng nhưng tôi là người không thể sống một mình. Cuộc sống thiếu một gia đình đúng nghĩa luôn làm tôi thấy chênh vênh sao đó. Nhất là vào buổi tối, tôi chịu đựng không nổi sự trơ trọi. Chỉ khi nào có người vợ kế bên thì tôi mới tìm lại được sự thăng bằng cho cuộc sống. Ngôi nhà lúc này mới là tổ ấm. Có vợ buổi tối, tôi thường ở nhà, ngồi vào bàn viết. Chính lúc này công việc viết lách của tôi đạt năng suất cao nhất. Người phụ nữ sống với tôi bao giờ cũng có một vai trò rất lớn trong khả năng sáng tạo của tôi. Thiếu người phụ nữ, tôi chỉ là một nửa của chính mình! Ít tháng trước khi Cúc Phượng qua đời, một đêm nằm bên cạnh tôi nàng nhỏ nhẹ nói: “Em sống không bao lâu nữa. Em lo lắng khi nghĩ tới anh sẽ sống một mình. Em biết anh không phải là loại người đàn ông có thể sống một mình. Anh không lo được chuyện nhà cửa, chuyện tiền bạc, con cái... và nhất là không chịu đựng được cuộc sống cô độc. Bây giờ em có thời gian để cùng lo chuyện đó cho anh...”. Tôi kinh ngạc hỏi lại: “Em cùng lo với anh chuyện gì?”. Cúc Phượng nói thẳng ra là chuyện... chọn vợ cho tôi! Nàng nói: “Em bàn chuyện này với tất cả chân tình, vì rất hiểu anh, vì yêu anh, chứ em không có ý định gì ở phía sau. Nhất là em không có ý định thăm dò anh đâu”. Tiếp đó, Cúc Phượng kê ra hẳn hòi một danh sách khoảng năm người phụ nữ mà nàng nhận xét có thể thay thế nàng. Năm phụ nữ này cả hai chúng tôi đều quen biết, họ đang sống độc thân. Tôi từ chối cuộc bàn về đề tài này với nàng. Cúc Phượng còn sống đó, tôi lòng dạ nào lại bàn chuyện tìm người thay thế nàng? Trong đêm, nước mắt tôi chảy dài.
...Cô gái 21 tuổi trở thành người vợ thứ ba của tôi không nằm trong danh sách năm người phụ nữ được Cúc Phượng nêu tên. Thật sự tôi không có ý định lấy một người vợ trẻ đến mức đó. Trong việc lấy vợ tôi chọn người chứ không chọn tuổi. Bấy giờ tôi đã 58 tuổi. Khoảng cách 37 năm giữa tôi và Thủy không chỉ là khoảng cách về sinh học mà còn là khoảng cách về nhiều khía cạnh khác không dễ dàng vượt qua khi bắt đầu cuộc sống chung. Phải có nhiều tình thương và cố gắng hòa hợp với nhau cho cuộc hôn nhân. Người đàn ông về phần mình cố gắng có một cuộc sống trẻ trung, người vợ trẻ cũng đừng quên mình có một người chồng thật sự lớn tuổi, để hai phía điều chỉnh nhau trong cuộc sống chung hạnh phúc.
Khác hơn nhiều người, tôi không coi vũ trường là cái nơi trụy lạc. Hoặc như một số dư luận lên án: đó là ổ mại dâm. Những khách đi vũ trường mà bỏ bê gia đình, trở thành trụy lạc, bản thân họ trước đó đã là người trụy lạc, chứ không phải môi trường này đã biến người tốt thành người hư hỏng. Đi sâu vào vũ trường, người ta sẽ thấy thân phận của nhiều cô gái ở đây đáng thương hơn là đáng lên án suông.
Tôi thích đến vũ trường khiêu vũ nhưng tôi tự đặt cho mình một nguyên tắc: khi đã có vợ, hầu như tôi không đến vũ trường một mình. Một tuần, mười hôm, tôi vẫn đưa vợ tôi đi khiêu vũ một lần. Đó là một nơi không chỉ được thưởng thức nghe nhạc, nghe hát mà người khách còn được tham gia trực tiếp cuộc giải trí lành mạnh với môn khiêu vũ - một trong những loại hình nghệ thuật lâu đời nhất. Ở giới nào cũng thế có người tốt người xấu. Cái tốt cái xấu trong đầu, trong con tim. Tôi đã gặp rất nhiều cô vũ nữ có trái tim tốt, cái đầu đàng hoàng, nhưng cái nghề của họ vẫn không thể thoát khỏi những định kiến của xã hội. Cuộc đời của vũ nữ phần nhiều ngay từ đầu đã đậm đặc những trắc trở, những bi kịch. Những hồng nhan bạc mệnh. Chính vì thế, họ thường chọn chốn này để mưu sinh.Và cũng vì thế, nhiều người trong số họ rất biết trân trọng những tình cảm chân thật đến với họ, và khao khát có được cuộc sống gia đình bình thường. Ở Sài Gòn trước 1975, tôi từng biết nhiều trường hợp các cô vũ nữ giành được một chỗ đứng đàng hoàng trong xã hội khi may mắn gặp được một người đàn ông chân thành.
Sau khi Cúc Phượng mất, tôi không chịu đựng được cuộc sống một mình, tôi lại tính sẽ bước một bước nữa. Những lúc tôi đến vũ trường, một ý nghĩ nảy sinh trong đầu tôi: biết đâu chính tại đây mình sẽ tìm ra người thích hợp với hoàn cảnh của mình hiện nay. Đi tìm một phụ nữ chịu sống chung với mình ở tuổi 57-58, vừa mang đến cho mình tình yêu và cả sự hứng khởi trong cuộc sống thật không dễ dàng. Qua nhiều tháng tới lui vũ trường, tôi gặp một cô gái khác hẳn nhiều đồng nghiệp của cô. Hoàn cảnh gia đình của cô đáng thương nhưng con người cô lại rất đáng trân trọng. Cuộc thăm dò và tìm hiểu kéo dài trong hơn nửa năm. Cô chẳng biết gì về tôi, ngoại trừ cảm kích sự cư xử của tôi và an tâm rằng đây là một người đàn ông lớn tuổi đáng tin cậy, không lừa dối mình, có công ăn việc làm đàng hoàng. Một vài lần tôi đưa cô đến văn phòng làm việc của tôi ở một tòa báo... Một vài lần khác đưa đi ăn. Cô không tỏ ra ngại ngùng về khoảng cách tuổi tác. Cô biết tiền bạc của tôi chẳng có bao nhiêu - cả đời tôi vẫn thế - thu nhập của tôi thường chỉ ở mức có thể sống khá dễ chịu. Cô quá nhỏ để biết người đàn ông thương mình là ai. Khi tôi... đầu hàng ở Dinh Độc Lập thì cô mới hai tuổi, cô được mẹ mình kể lại vào thời điểm đó ba cô - một người tham gia cách mạng – cũng mới ra khỏi tù không biết là lần thứ mấy. Người đàn bà quê mùa, mẹ cô, gần cả đời chỉ lo đi thăm nuôi chồng và... mẹ chồng, hết nhà tù này đến nhà tù nọ. Sau tháng 4-1975, cha cô làm phó chủ tịch phường ở một quận TP.HCM trong một thời gian không dài rồi chết ở tuổi 49 vì đột quị. Thế là cả gia đình rơi vào vòng xoáy của những bất hạnh. Người mẹ nghèo và quê mùa không đủ sức một mình đối phó với quá nhiều khó khăn ập tới. Sau một người chị, đến lượt cô chọn vũ trường làm nơi kiếm sống cho mình và cho gia đình. Cô mới vào làm một thời gian ngắn thì gặp tôi.
Câu chuyện về Võ Thị Thanh Thủy, người vợ thứ ba của tôi là như thế.
Sau khi biết chắc chắn Thanh Thủy đáp lại tình cảm của tôi dành cho nàng và nàng tha thiết muốn lập gia đình dù nàng còn rất trẻ - mới 21 tuổi - một hôm tôi đã nói với nàng “Em có chịu trở thành vợ của anh không? Nếu em đồng ý kể từ ngày mai em có thể đến cùng sống với anh. Anh sẽ giới thiệu em với con cái anh và bạn bè của anh một cách chính thức”. Do hoàn cảnh khoảng cách tuổi tác không dễ dàng được dư luận chấp nhận, nên tôi dự tính không làm đám cưới công khai nhưng qua một cách thức khác, tôi vẫn tổ chức các cuộc ra mắt lần lượt với những người thân và bạn bè. Tôi muốn Thanh Thủy trở thành vợ tôi một cách công khai và đàng hoàng, chứ không phải giấu lén. Thanh Thủy không do dự, trả lời đồng ý. Trước khi Thủy về sống với tôi chính thức, tôi họp các con tôi lại, nói rõ quyết định của mình: “Các con mỗi đứa đều có gia đình riêng, có những bận rộn riêng. Dù các con có yêu thương cha, muốn chăm sóc cha cũng không thể làm đúng mức. Ba cần một phụ nữ yêu thương ba sống bên cạnh ba, chăm sóc công việc của gia đình, ba mới yên tâm lo việc viết báo, làm báo. Cho nên ba đã quyết định lấy vợ một lần nữa...”. Tôi nói cho các con tôi biết Thanh Thủy là ai, làm nghề gì, bao nhiêu tuổi và tại sao tôi chọn Thanh Thủy làm vợ. Tôi hỏi các con tôi: “Khi ba chọn mẹ các con làm vợ, ba đúng hay sai?” Các con tôi gật đầu. Tôi lại hỏi: “Khi ba chọn cô Phượng, ba có chọn đúng không?”. Các con tôi lại gật đầu. Và tôi nói tiếp: “Vậy lần này cũng thế. Ba không chọn sai đâu”. Con gái tôi, Lý Quỳnh Kim Trinh, chỉ nêu một ý kiến: “Phải chi cô ấy nhiều tuổi hơn. Cô ấy trẻ quá...”. Tôi chưa nói gì thì người con thứ ba, Lý Quí Dũng, nói: “Trẻ tuổi cũng đâu có sao, vấn đề là cô ấy có thương ba thật sự không và chăm sóc cha ba đúng mực như một người vợ không. Chỉ có ba mới rõ điều đó...”.
Thanh Thủy cũng được các con tôi chọn cách xưng hô như đã từng xưng hô với người vợ trước của tôi: “Cô Thủy”. “Cô Thủy” còn quá trẻ nên mối quan hệ với các con tôi không thuận lợi ngay từ ban đầu như “cô Phượng”. Trong bốn cô con dâu của tôi không có cô dâu nào nhỏ tuổi hơn “cô Thủy”. Nhưng mỗi ngày mối quan hệ ấy ngày một tốt hơn vì các con tôi đều có tâm hồn rộng mở, dễ hòa nhập. Điều quan trọng là thời gian đã cho thấy “cô Thủy” thương yêu thật sự cha của chúng, sống vì gia đình. Khi đứa con gái của tôi với Thanh Thủy ra đời (năm 2001), gia đình của tôi càng ngắn bó. Thanh Thủy giành trọn vẹn thời gian cho con và cho tôi. Chúng tôi đưa mẹ nàng về sống chung. Bà ngạc nhiên khi phát hiện “ông chồng già” của con gái mình mà trước đây mình không chấp nhận, lại không quá già như bà tưởng. Bà mẹ vợ tôi nhỏ hơn tôi hai tuổi! “Tao thấy Chung còn trẻ hơn thằng Toàn”, bà mẹ vợ tôi đã nhận xét như thế sau thời gian gặp tôi. Toàn là anh trai lớn nhất của Thanh Thủy.
Có vợ nhỏ hơn mình 37 tuổi kể ra cũng không dễ dàng. Thanh Thủy sinh một ngày với Quỳnh Nga, cũng ngày 10-3 và cũng tuổi Tỵ nhưng nhỏ hơn ba con Giáp. Có lẽ khi biết được những sự trùng hợp bất ngờ này, người vợ đầu của tôi có nhiều thiện cảm hơn với Thủy.
Tôi may mắn và rất hãnh diện là cả ba người phụ nữ thành vợ tôi đều đạt tới một sự thành công nào đó trong nghề nghiệp riêng mà họ đã chọn. Quỳnh Nga và Cúc Phượng, mỗi người mỗi cách đều đặt dấu ấn của mình trong nghệ thuật ẩm thực ở TP. HCM. Dấu ấn của Cúc Phượng không đậm nét bằng Quỳnh Nga và cũng ngắn ngủi hơn, vì cuộc sống của Cúc Phượng quá ngắn. Nhà hàng “Đôi Đũa Tre” cũng có một vị trí riêng, dù về mặt kinh doanh chưa so sánh được với nhà hàng Thanh Niên hay sau này hàng loạt nhà hàng thành công khác như Tân Nam, Nam An, An Viên... của Quỳnh Nga.
Thanh Thủy không theo nghề nhà hàng mà chọn nghề may mặc thời trang. Về làm vợ tôi được một năm, Thanh Thủy nhất quyết học nghề may. Nàng học suốt hai năm với một giáo viên rất giỏi. Có một sự trùng hợp cũng... lạ thường: Cúc Phượng mở nhà hàng “Đôi Đũa Tre” sau khi nàng biết mình bị bệnh ung thư, còn Thanh Thủy khai trương cửa hàng “Thủy Chung Fashion” sau khi tôi hồi phục bệnh ung thư. Khi tôi vừa ngã bệnh, cuộc chẩn đoán đầu tiên tại trung tâm chẩn đoán Medic có kết quả: sự sống còn lại của tôi không dài hơn một tháng (!). Lúc đó, kết quả chẩn đoán không thông báo trực tiếp cho tôi, tôi chưa biết gì, vẫn tưởng mình bị đau cột sống bình thường. Các con tôi đưa tôi khẩn cấp vào bệnh viện Chợ Rẫy trong tuyệt vọng, với mong mỏi duy nhất là cha mình được chăm sóc tốt nhất trong những ngày cuối cùng. Nhưng trong cuộc hội chẩn tại bệnh viện Chợ Rẫy ít ngày sau đó, bác sĩ Trịnh Toàn Thắng ở khoa huyết học, phát hiện ra bệnh của tôi, cũng là một loại ung thư, nhưng có thể phục hồi và không đến nỗi chết trong... một tháng như chẩn đoán ban đầu. Chính thông tin đầu – tôi không sống hơn một tháng – đã khiến nhiều bạn bè trong làng báo vào thăm tôi rất đông. Nhiều người bảo với nhau “Không vào nhanh sẽ không kịp gặp anh ấy!”. Khi chưa biết mình bệnh gì, tôi rất ngạc nhiên về sự thăm viếng của quá nhiều bạn bè trong đó có nhiều người khá lâu chưa gặp lại!. Dù sau đó bác sĩ Thắng cam đoan với tôi và gia đình rằng một tháng sau tôi có thể ngồi dậy, ba tháng sau tôi có thể bắt đầu đi lại, nhưng lúc đó hầu như không ai tin. Cái con người mất gần hết máu của tôi, chỉ còn da bọc xương, đang nằm trên giường bệnh không cho thấy có hy vọng vượt qua tử thần con người ấy có vẻ hợp với chẩn đoán ban đầu (!) Bình thường tôi cân nặng 72 kg nhưng vào bệnh viện trong thời gian nhanh chóng tôi chỉ còn 48-50 kg. Anh Hoàng Thoại Châu, nhà báo có bút danh được nhiều người biết đến là “Ba Thợ Tiện”, đã chuẩn bị một bài thơ thay cho bài phúng điếu tôi như sau:
Cuộc đi vòng
Biết là sớm tối cũng về
Khi tôi bắt đầu phục hồi, trong buổi sinh nhật tổ chức ngày 1-9-2002 với sự có mặt một số bạn bè và đồng nghiệp, anh Ba Thợ Tiện đã đọc bài thơ điếu... “được dời lại” ấy! Kể cũng hiếm trường hợp người còn sống được nghe bài thơ phúng điếu mình như tôi.
Không phải qua cơn nguy khốn rồi... nói tướng nhưng kỳ thật, dù đang nằm liệt trên giường trong khi mà mẹ tôi, vợ tôi, các con tôi, Quỳnh Nga và nhiều bạn bè thân đều lo tôi không qua khỏi, thì bản thân chẳng có lúc nào nghĩ rằng mình sẽ... chết. Dù sức rất yếu, không thể tự lăn qua lăn lại trên giường, nhưng tôi vẫn nói chuyện tỉnh táo khi tiếp bạn bè, vẫn tiếp tục theo dõi các trận World Cup vòng bán kết và trận chung kết trên màn ảnh chiếc Tivi được các con tôi mang vào phòng bệnh. Tôi ngã bệnh giữa lúc đang theo dõi và viết bài về World Cup 2002 cho các báo Lao Động, Công An TP.HCM, Pháp Luật Tp.HCM và bình luận mỗi ngày trên đài truyền hình Đồng Nai.
Gia đình và bạn bè hầu như không ai nghĩ tôi có thể phục hồi lại như xưa. Nếu có thể phục hồi thì với một đốt xương sống bị nẹp chắc tôi cũng phải đi xe lăn. Nhưng khả năng phục hồi của tôi thật kỳ diệu (theo lời của bác sĩ Thắng). Một cuộc chiến đấu gay go qua ba giai đoạn: Giai đoạn đầu trong ba tháng, giai đoạn kế trong sáu tháng rồi giai đoạn sau cùng mới trở lại cuộc sống thật sự bình thường. Người tôi mang ơn nhất là bác sĩ Trịnh Toàn Thắng. Anh đã dự đoán chính xác từng bước phục hồi của tôi. Trong khi chữa trị và chăm sóc tôi, anh Thắng không chỉ là ân nhân mà còn trở thành người bạn thân thiết của cả gia đình tôi. Mỗi lần anh đến khám bệnh, chúng tôi nói đủ chuyện trên đời, từ chuyện y học cho đến văn học, xã hội, kinh tế v.v... Anh giúp tôi hiểu biết cặn kẽ bệnh của mình, phác đồ chữa trị ra sao v.v... Tháng 11-2003, bác sĩ Thắng báo cho tôi biết cuộc điều trị của tôi chấm dứt, tôi đã phục hồi bình thường. Thời gian tới là theo dõi và tiếp tục duy trì tình trạng ổn định này. Do tôi thích ứng với liều thuốc thấp nhất nên nếu bệnh có tái phát thì có thể điều trị theo phác đồ cũ. Tôi nào ngờ những lời dặn dò đó của bác sĩ Thắng lại là những lời trăn trối...
Bởi chỉ ít ngày sau, bác sĩ Thắng đột ngột ra đi sau một cơn đau tim. Buổi sáng hôm đó anh Thắng hẹn đến thăm tôi vào lúc 8 giờ sáng, chờ mãi không thấy anh tới, tôi điện vào máy di động của anh. Người cầm máy trả lời tôi là bác sĩ Dung, vợ anh. Chị nói anh Thắng đang ở trong phòng cấp cứu. Thoạt đầu tôi nghĩ bác sĩ Thắng đang tham gia một ca mổ khẩn cấp nào đó nên không kịp dời cuộc hẹn với tôi. Đâu ngờ chính anh là người đang được cấp cứu do nghẽn động mạch vành. Chỉ hai giờ sau đó có tin tim anh đã ngừng đập. Tin ấy quá khủng khiếp đối với tôi. Cái chết từng xuất hiện sát bên tôi, nhưng không mang tôi đi lại cướp đi mạng sống người đã cứu sống tôi. Hình như có sự nhầm lẫn ở đâu đó chăng? Giám đốc bệnh viện Chợ Rẫy trực tiếp cùng các đồng nghiệp của bác sĩ Thắng cố gắng hết lòng để kéo anh trở về cuộc sống, giành giựt với từ thần mạng sống của một nhà khoa học tài năng. Nhưng vô vọng. Tôi đến bệnh viện khi nỗ lực tìm cách làm quả tim của anh đập lại vẫn đang tiếp diễn. Thật là một cú sốc đối với tôi. Bác sĩ Thắng là người đã... nối dài thêm sự sống của tôi. Anh trở thành một phần của con người tôi đang hiện hữu. Sự ra đi của vị bác sĩ đã cứu mình, trở thành bạn mình, là một sự mất mát vượt khỏi lĩnh vực tình cảm đơn thuần. Tôi vẫn tưởng tôi sẽ đi trước và ngày tôi đi sẽ có anh bên cạnh. Nào ngờ... Bác sĩ Thắng mất ở tuổi 48. Cái tuổi đẹp nhất của một người làm khoa học. Cuộc đời quả thật có nhiều điều phi lý!
Khi còn trong bệnh viện và biết mình bị mắc căn bệnh không thể chữa khỏi, lạ lùng thay tôi vẫn rất bình tĩnh. Tôi nghĩ “Mình sống thế cũng quá đủ rồi. Mình chẳng còn gì phải tiếc...”. Tôi nghĩ thế giới của người sống như một sân khấu vĩ đại, bao la. Mỗi con người là một diễn viên trong hàng tỷ, tỷ diễn viên, luân phiên nhau diễn một vở kịch bất tận, chẳng ai biết khởi đầu chính xác lúc nào và bao giờ kết thúc. Mỗi người một vai dài ngắn chẳng ai có thể biết trước. Có người chỉ nói được vài câu rồi... biến. Có người thật nổi bật trong thiên hạ, vai diễn thật tuyệt vời, nhưng rồi hết vai cũng phải ra đi. Cũng có những người đứng đâu đó trên sân khấu, chẳng ai chú ý, rời sân khấu lúc nào cũng chẳng ai hay... Không có ai tồn tại mãi trên sân khấu, và hình như càng tồn tại lâu càng trở nên... thừa! Vậy, đến lúc nào đó nếu vai diễn của mình được... nhà đạo diễn trên cao xanh bảo rằng “kết thúc” thì cứ vui vẻ mà... rút lui. Vấn đề là khi còn có mặt trên sân khấu, mình diễn vai nào, có đạt không? Nếu mình diễn tạm được, chân thành với lòng mình thì dù hay hoặc dở một chút, mình cũng có thể an tâm mà rời sân khấu của đời này. Khi biết mình bệnh gì, tôi cũng đơn giản nghĩ: Đã đến lúc vai của mình kết thúc. Thế thôi.
Nhưng khi sức khỏe phục hồi, tôi không thể không tự cho mình là “bệnh nhân - hiểm nghèo – may mắn”. Tình thương bao bọc chung quanh tôi là sức mạnh hỗ trợ tôi đối phó với căn bệnh tai ác. Các con tôi thật tuyệt vời. Tôi không thể không cảm ơn những gì chúng đã làm cho cha chúng. Tôi thật ấm lòng. Trong cơn bạo bệnh, tôi lại nhận ra hạnh phúc lớn lao của mình. Tình nghĩa như bát nước đầy của người vợ cũ cũng là chuyện hiếm hoi trong đời sống mà tôi lại là người may mắn có được. Đó là tình nghĩa của hơn hai mươi năm chung sống, nay đã gạn lọc đi những gì phiền muộn, mâu thuẫn đưa đến sự chia tay. Tôi cảm ơn Quỳnh Nga với cả com tim.
Không thể không nhắc tới người vợ trẻ Thanh Thủy tưởng như lạc lõng giữa cái thế giới đại gia đình thân thuộc riêng của chồng mình mà nàng gặp mặt đông đủ lần đầu. Nàng không khỏi lúng túng. Nằm trên giường bệnh tôi nhìn nàng lặng lẽ, theo dõi nàng lo việc này việc kia cho chồng. Tôi thấy cả nỗi âu lo của nàng khi nghĩ đến tương lai đứa con gái nhỏ nếu chồng mình không qua khỏi cơn bệnh. Nhìn mà thương xót vô cùng. Nàng là người sau cùng trong gia đình được thông báo tôi mắc bệnh gì!
Nhưng ở người vợ 25 tuổi ấy – cái tuổi của nàng vào lúc tôi bị bệnh – có một sức sống riêng và một ý chí thầm lặng rất mạnh mẽ. Ngay khi tôi vừa bình phục, Thanh Thủy tổ chức ngay một cửa hàng may mặc tại nhà với thương hiệu “Thủy Chung Fashion”, lấy tên nàng và tên tôi ghép lại. Sự xuất hiện của tiệm “Thủy Chung Fashion” và sự hăng hái lao vào công việc sáng tạo của nàng mang lại một không khí lạc quan cho gia đình. Cuộc sống nhanh chóng trở lại bình thường trong gia đình và tiếp tục hướng về tương lai.
Trước bạn bè, người thân, Thanh Thủy không hề mất tự nhiên về khoảng cách tuổi tác giữa nàng với tôi. Nếu có ai gặp nàng lần đầu có sự nhầm lẫn Thanh Thủy là con, hay cháu tôi, thì nàng bình tĩnh giới thiệu lại “Anh Chung là chồng tôi”. Nhưng cái lý lịch từng là vũ nữ, lúc đầu khiến nàng mất một phần sự tự tin trong giao tiếp. Tôi nói với nàng: “Điều đó trái lại phải khiến em hãnh diện, bởi tại sao mình ở môi trường đó mà được một người có chút ít tên tuổi trong xã hội không hề e ngại lấy mình làm vợ, giới thiệu mình chính thức với gia đình, với bạn bè?”. Thật sự, tôi rất hãnh diện có một người vợ như Thanh Thủy. Càng sống với nàng, tôi càng kính trọng nàng. Lập gia đình mới nếu sự chọn lựa của mình lại được con cái, mẹ, các em và bạn bè chấp nhận thì đó là một niềm vui nhân đôi. Trong cả ba lần lấy vợ, tôi đều tự chọn lựa, không hề có ý kiến của cha mẹ. Tôi thấy mình cũng có lỗi. Khi mẹ tôi từ Mỹ trở về, lần đầu bà gặp Thanh Thủy, bà không khỏi băn khoăn: “Sao con chọn vợ nhỏ tuổi quá!”. Nhưng sau nhiều lần tiếp xúc với Thanh Thủy mẹ tôi lại nhận xét “Mẹ thấy được”.
...Khi tôi vừa ngồi dậy được sau ba tháng nằm liệt trên giường, điều tôi nghĩ tới đầu tiên là viết báo trở lại. Chưa viết được trực tiếp, tôi đọc cho Thanh Thủy đánh vi tính. Bài báo đầu tiên tôi viết trở lại và gởi cho báo Lao Động là ngày 1-9-2002, đúng ngày sinh nhật thứ 62 của tôi. Với tôi “tồn tại là viết báo”. Tôi đã tồn tại như thế suốt hơn 40 năm. Và tôi chỉ thấy mình tồn tại thật sự nếu còn có thể tư duy để viết lách.
Sau đó tôi bắt đầu cộng tác thường xuyên trở lại với ba tờ báo: Lao Động, Công An TP.HCM, Sài Gòn Doanh Nhân cuối tuần, bớt đi một hai tờ mà tôi có cộng tác trước lúc bệnh. Tới dịp SEA Games 22, tôi lại bình luận bóng đá cho Đài Truyền hình Đồng Nai. Nhưng gần đây tôi không từ chối lời mời của báo Thể Thao Ngày Nay.
Với tôi, gia đình là trên hết. Trên nền tảng quí trọng này mà trân trọng cuộc sống lương thiện và có ích cho xã hội, yêu thương người khác, yêu thương Tổ quốc. Gia đình là sức mạnh của mỗi chúng ta, cho ta động lực để cống hiến, sự ổn định để sáng tạo và niềm tin nhìn vào tương lai.
Tôi không được cái hạnh phúc “một vợ một chồng” cho cả đời mình. Nhưng trải qua ba lần lấy vợ, tôi lại càng nhận ra vai trò người vợ đối với tôi quan trọng đến ngần nào. Tôi sẽ không là tôi như cuộc đời tôi đã sống và làm việc nếu bên cạnh tôi không có người vợ - một nửa của tôi. Chúng ta không thể nào đo lường được hết cái sức mạnh kì diệu của người phụ nữ gia đình và trong sự gắn bó với sự nghiệp của người chồng. Ai không có hoặc đã đánh mất đi “phân nửa” của chính mình thì ít nhiều đều què quặt trong cuộc đời!
...Các đứa em của tôi, vượt biên khoảng 1977 trên những chiếc thuyền từ năm 1992 cũng bắt đầu lần lượt trở về. Tôi sung sướng tột cùng khi được gặp lại những người ruột thịt của mình mà lúc ra đi tưởng sẽ không bao giờ gặp lại. Nhưng tôi có một niềm vui sướng riêng cất giấu trong lòng: sự trở về của các em tôi đồng thời cũng là sự xác nhận anh trai mình đã có một chọn lựa không sai. Lúc đầu chỉ có các em gái trở về, tôi vẫn không thấy người em trai út. Tôi biết ngày các đứa em tôi ra đi, Nghĩa là đứa thất vọng hơn cả. Sau ngày giải phóng, Nghĩa hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh Niên. Tội nghiệp nó, cái áo mặc đi học không dám ủi thẳng thớm vì sợ phê là “tư sản”. Suốt ngày ở trong trường vẽ tranh cổ động và biểu ngữ. Một đoàn viên Thanh niên hết sức tích cực với niềm hăng hái ở cái tuổi 14-15 căng tràn. Thế rồi tai họa ập xuống gia đình tôi, niềm tin ở Nghĩa bỗng chốc tan biến. Do đó khi ra đi rồi Nghĩa không muốn trở lại nơi hằn sâu kỷ niệm buồn thời niên thiếu của mình, nơi chứng kiến cha mẹ mình trải qua những biến cố đau lòng. Các em gái nói cho tôi biết ban đầu khi các chị trở về Việt Nam Nghĩa nhất định không về.
Chuyến trở về đầu tiên của Nghĩa sau gần 20 năm xa cách đất nước là để thăm vợ tôi (lúc này là Trần Hồ Quang Ngọc Cúc; tôi chia tay với Quỳnh Nga, người vợ đầu từ năm 1984) khi vợ tôi vừa phát hiện bị ưng thư đại tràng. Từ lần đó, Nghĩa trở về quê nhà nhiều lần, vết thương xưa trong lòng dần dần được hàn gắn.
Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ và Canada. Gia đình tôi cũng trải qua không ít những căng thẳng và mất mát, nhưng xét cho cùng không thấm thía gì khi so sánh với biết bao gia đình khác ở cả hai phía trong cuộc chiến. Gia đình tôi rất may mắn đã có một “Happy-ending” nói theo một loại phim có một kết thúc tốt đẹp.
Tôi có tất cả bảy người con – năm với người vợ đầu (Nguyễn Thị Quỳnh Nga), một với người vợ thứ hai (Trần Hồ Quang Ngọc Cúc) và một với người vợ thứ ba (Võ Thị Thanh Thủy). Ngoài ra còn có một người con riêng với người vợ thứ hai (Nguyễn Hồng Quang) mà tôi coi như con ruột của mình. Các con tôi đều có công ăn việc làm đàng hoàng trong nhiều ngành nghề khác nhau từ đại học, truyền thông cho đến kinh doanh, đời sống riêng ổn định, trừ đứa út là một bé gái mới tròn ba tuổi (Lý Quí Thuỷ Chung).
Tôi không bao giờ ngờ rằng cuộc đời tôi lại trải qua đến ba đời vợ! Khi kết hôn với Nguyễn Thị Quỳnh Nga ở tuổi 21 tôi còn là một sinh viên vẫn nghĩ mình sẽ sống ở đời với người phụ nữ này. Đó là mối tình đầu đích thực. Yêu và lấy làm vợ. Cả đoạn đời đầu (trước 1975) và một phần đoạn đời sau (sau 1975), tôi sống với Quỳnh Nga. Chúng tôi có một cuộc hành trình bắt đầu trong gian khó nhưng sôi nổi và khá thành công trong suốt con đường dài 23 năm. Đáng tiếc đến một giai đoạn (năm 1984), chúng tôi đã không vượt qua được những bất đồng mỗi lúc càng khoét sâu trong cuộc sống; tình cảm và sự kính trọng dành cho nhau chỉ hy vọng cứu vãn nếu chúng tôi chấp nhận một cuộc chia tay thật êm đẹp. Và chúng tôi đã làm được điều đó. Sau 20 năm chia tay, Quỳnh Nga và tôi vẫn là hai người bạn rất đặc biệt, gặp nhau thường xuyên và vẫn quan tâm đến nhau. Năm đứa con của chúng tôi rất ít cảm nhận sự mất mát và đều hãnh diện giữa sự đối xử giữa cha và mẹ dù hai người thân yêu của chúng không còn sống chung với nhau.
Khi tôi kết hôn lần thứ hai, tôi đã bàn với các con tôi, nói rõ quyết định và sự chọn lựa của mình. Trần Hồ Quang Ngọc Cúc, sau này được bạn bè gọi tên thân mật là Cúc Phượng. Nàng đã có một đời chồng nhưng ở với nhau rất ngắn ngủi (hai năm). Khi tôi yêu và lấy Cúc Phượng làm vợ, nàng có một đứa con riêng ba tuổi - Nguyễn Hồng Quang. Hôn lễ được tổ chức tại báo Tuổi Trẻ. Thời kỳ tôi lập gia đình lần thứ hai, cuộc sống rất khó khăn. Bữa cơm thường gồm chỉ có một món duy nhất: hột vịt chiên với cà tô-mát. Rất may mắn là Phượng làm món này rất ngon nếu không thì rất gay bởi các món khác nàng... không biết nấu! Thế mà sống với nhau chỉ một thời gian ngắn, Cúc Phượng trở thành một phụ nữ nấu ăn rất khéo; mỗi bữa ăn đều tạo nên sự bất ngờ thích thú cho chồng. Cúc Phượng còn gây cho tôi sự ngạc nhiên cảm phục khi nàng mở quán ăn có tên “Đôi đũa tre” (Bamboo Chopsticks) ngay tại nhà, địa điểm rất xa khu trung tâm thành phố, mà vẫn thu hút được một số đông thực khách trong và ngoài nước. “Bamboo Chopsticks” được coi là “nhà hàng – gallerie” đầu tiên. Có khoảng 20 bức tranh bán trừu tượng của tôi được treo trên các bức tường ở đây, tạo nên một không khí mới lạ, một phong cách văn hóa ẩm thực rất mới vào những năm đầu thập niên 90.
Cúc Phượng quyết định mở nhà hàng ngay sau khi nàng biết mình bị ung thư đại tràng và vừa trải qua một cuộc đại phẫu. Tôi không thể hiểu nổi nàng lấy đâu ra sự dũng cảm phi thường để vừa tiếp tục sống lạc quan, yêu chồng yêu con, vừa thản nhiên tính chuyện tương lai, khi hiểu rất rõ hơn ai hết quỹ thời gian cuộc đời dành cho mình tối đa là hai năm hoặc hai năm rưỡi. Nàng theo dõi cái mầm bệnh tai ác lớn lên trong cơ thể mình không khác gì theo dõi sự tượng hình đứa con lúc nàng mang thai mà tôi đã từng chứng kiến. Tự nàng hàng tháng đi siêu âm, biết rõ kích thước của khối u đang phát triển. Không hề sợ hãi, buồn phiền. Hoặc có buồn phiền đau khổ nhưng giấu tất cả vào trong, nhất quyết không để cho một ai thấy, nhất là chồng mình. Cúc Phượng không muốn làm ai phải buồn phiền, lo lắng cho mình. Sau khi nàng được giải phẫu, biết mình mắc bệnh gì, nàng không bao giờ nói đến bệnh của nàng bởi sợ những người thân yêu mình đau khổ hơn chình mình đau khổ.
Lần đầu tôi gặp Cúc Phượng là tại một tiệc sinh nhật của một người bạn: tiền đạo Đinh Công Hoàng có biệt danh “Hoàng Cá lóc” của đội Công Nghiệp Thực Phẩm. Cô ấy lúc đó khác hẳn bạn bè xung quanh từ cách trang điểm tự nhiên cho đến lối ăn mặc giản dị. Ngay từ buổi quen biết đầu tiên tôi cảm nhận đây là người phụ nữ rất cần cho cuộc đời còn lại của mình. Lúc đó tôi đã 44 tuổi, vừa chia tay với người vợ đầu tiên, còn Cúc Phượng 26 tuổi. Tôi đã từng gặp Cúc Phượng thoáng qua một hai lần đâu đó nhưng không hề nhớ, còn nàng biết tôi rất rõ trước đó. Tiếng đồn “Ông Chung lả lướt, dan díu với rất nhiều phụ nữ” và cả lời đe của bạn bè “mầy lấy ông ấy sẽ khổ...” không hề làm cho nàng e dè chùn bước. “Khi anh cười, trông anh rất nhân hậu. Giác quan thứ sáu báo cho em biết anh sẽ là người chồng tốt” – Cúc Phượng nói với tôi như thế khi chúng tôi đã là vợ chồng của nhau. Tôi không thể quên câu nói đầu tiên của nàng khi chúng tôi quyết định đi tới hôn nhân: “Em coi anh vừa là người chồng vừa là người cha của em. Từ khi sinh ra, em đã thiếu tình cha”. Cha nàng là một bác sĩ nha khoa nổi tiếng ở Sài Gòn, từng là dân biểu quốc hội thời Ngô Đình Diệm, rồi giám đốc Nha du lịch, đã có vợ người Hồng Kông nhưng bà này ít khi sống ở Sài Gòn. Người vợ tại Việt Nam của ông là mẹ của Cúc Phượng. Mẹ Cúc Phượng dứt khoát chia tay với cha nàng sau khi nàng ra đời. Trong ký ức của Cúc Phượng về cha mình chỉ là hình ảnh mờ nhạt về một người đàn ông thật cao lớn, lâu lâu đến thăm nàng lúc nàng mới được hai hay ba tuổi. Cúc Phượng được bà ngoại nuôi từ nhỏ. Suốt tuổi thơ và cả sau này, Cúc Phượng tìm mọi cách liên hệ với cha mình nhưng không nhận được một hồi âm nào. Cách ít năm nàng mất, Cúc Phượng có nhờ một người bạn xưa của cha mình trong một chuyến sang Mỹ cầm một lá thư của mình gửi cho cha. Nhưng vẫn không có tin tức gì từ người cha.
13 năm tôi sống với Cúc Phượng tràn đầy hạnh phúc (chúng tôi có một đứa con trai Lý Quí Phúc. Hầu như chúng tôi không có một cuộc cãi vã to tiếng nào. Cuộc sống vật chất của gia đình dễ chịu hơn khi tôi bắt đầu làm báo Lao Động (năm 1990) và cũng năm này tôi bắt đầu vẽ tranh khi quen biết họa sĩ Trịnh Cung. Hồi còn đi học tôi chỉ vẽ bằng màu nước và bút chì. Anh Trịnh Cung hướng dẫn bước đầu cho tôi kỹ thuật vẽ tranh sơn dầu. Ngay năm 1990, tôi tổ chức cuộc triển lãm tranh đầu tiên tại Nhà hàng Thanh niên (nhà hàng của người vợ đầu Quỳnh Nga) và năm sau mở cuộc triển lãm ở Hà Nội tại Gallery Tràng Tiền. Đó là cuộc triển lãm cá nhân đầu tiên của một họa sĩ Sài Gòn tại Hà Nội và cũng là cuộc triển lãm đầu tiên tranh trừu tượng ở thủ đô sau 1975. Nhờ mối quan hệ bạn bè với anh Trịnh Cung, tôi đã khám phá thêm một thế giới nghệ thuật đầy mê hoặc và đồng thời cũng khám phá một mặt khác của chính mình. Bởi nghệ thuật đích thực bao giờ cũng phản ánh cái chiều sâu của một con người. Năm 1992 tôi có cuộc triển lãm tranh lần thứ hai tại Hà Nội. Lần này tôi và anh Trịnh Cung cùng bày tranh tại Bảo tàng lịch sử. Sau đó tôi còn tổ chức thêm hai cuộc triển lãm cá nhân nữa tại Gallerie Mai (con gái của nhà dịch giả Dương Tường) và Gallerie Hàng Bài. Tại TP.Hồ Chí Minh tôi có ba cuộc triển lãm tranh cá nhân vào các năm 1990, 1991, 1993.
Cúc Phượng là người chia sẻ với tôi niềm đam mê mới này và là một trợ lý tích cực trong các cuộc triển lãm. Khi tôi cầm cọ, nàng luôn ở đâu đó và nhiều khi nằm chờ tôi bên cạnh giá vẽ đến một, hai giờ sáng, rồi mới cùng đi ngủ. Nàng luôn là người đầu tiên phát biểu về các bức tranh vừa hoàn tất, thường các nhận xét của nàng thẳng thắn và rất có ích cho tôi. Chính Cúc Phượng căng bố, đi đặt khung tranh và một mình chuẩn bị các cuộc triển lãm từ A tới Z như theo dõi công việc treo tranh, tổ chức tiệc Cocktail, tiếp đón khách ngày khai mạc và chụp ảnh kỷ niệm cho chồng. Khi tôi phụ trách tòa soạn báo Lao Động tại Hà Nội trong 6 tháng, Cúc Phượng theo tôi sống tại Hàng Bồ suốt thời gian này. Nàng đi chợ lo cơm nước và giặt giũ cho tôi. Chúng tôi ăn ở luôn tại cơ quan ở Hàng Bồ. Anh em ở tòa soạn thiết kế cho Cúc Phượng một cái bếp dã chiến trên tầng một. Tôi và Cúc Phượng cùng yêu Hà Nội nên chúng tôi có những ngày ngắn ngủi tại đây đầy những kỷ niệm đẹp. Buổi tối, nếu không đi khiêu vũ, thì đi uống cà phê ở một quán cóc nào đó hoặc đèo nhau trên chiếc xe máy chạy từ phố này qua phố nọ, không có chủ định trước. Với Cúc Phượng, hạnh phúc là cái gì đó thật đơn giản. Nàng mang lại cho tôi cái cảm giác luôn êm dịu, an toàn và tự tin. Khi đứa con trai của chúng tôi – Lý Quí Phúc - bị tai nạn trong nhà, mặt cháu bị miếng kiểng cắt sâu, chính nàng giành ôm con ra xe và trấn an tôi để tôi bình tĩnh lái xe đưa con đi cấp cứu. Các con dâu của tôi đến ngày sinh nở cũng nhờ “cô Phượng” đưa đi bệnh viện. Sự bình tĩnh của nàng làm cho người sắp trải qua giây phút căng thẳng cũng an lòng. Nàng ở bên cạnh con dâu của chồng cho đến khi đứa bé ra đời. Vì Cúc Phượng không có khoảng cách tuổi tác quá lớn so với các con tôi nên các con tôi chọn cách xưng hô thân thương và... phù hợp để gọi người vợ của cha mình là “cô Phượng”.
Sự thành thật, thẳng thắn và trong sáng của Cúc Phượng ngay từ lúc mới yêu nhau khiến tôi hết sức kính trọng.
Sau thời gian quen nhau khoảng sáu tháng, tôi bày tỏ ý định muốn tiến tới hôn nhân. Nàng rất xúc động, do dự một lúc nói: “Em không giấu giếm, em rất mong muốn có một người chồng như anh. Em thèm khát một cuộc sống gia đình bình thường. Chỉ vì điều đó, em có quan hệ với một người đàn ông; người đó hứa với em sẽ dàn xếp chuyện gia đình của anh ấy và tiến tới hôn nhân với em. Nhưng thời gian gần cả năm qua không tiến triển, em đột nhiên rơi vào hoàn cảnh của một người vợ bé, một người tình núp lén tội lỗi...” Tôi hỏi lại: “Nhưng em còn yêu người đó không?”. Tôi biết khá nhiều về người đó. Một nhân vật có tên tuổi ở Sài Gòn, sau 1975 là một nhà doanh nghiệp. “Em không còn thương người đó nữa. Có một lúc em chịu ơn người đó, nhưng người ta không giữ lời hứa với em”. Tôi nói với Cúc Phượng: “Em là người phụ nữ xứng đáng để có hạnh phúc. Anh muốn có một người vợ như em... Anh không coi chuyện em có quan hệ với ai đó trước anh là quan trọng. Vấn đề là kể từ khi chúng mình gặp nhau tình cảm như thế nào và xử sự với nhau ra sao...”.
Cúc Phượng có một đề xuất khá bất ngờ: “Dù sao chuyện em và người đó vẫn chưa rõ ràng, em không muốn người ta suy nghĩ không đúng về em và cả về anh. Ngày mai em sẽ gặp anh ấy và nói cho anh ấy biết dứt khoát suy nghĩ và quyết định của em. Anh sẽ đưa em đến đó chứ?”. Tôi chấp nhận đưa nàng đi để khẳng định tình yêu và sự tin tưởng dành cho nàng. Sau này, hai vợ chồng tôi thỉnh thoảng có gặp lại “người đó” trong những cuộc tiếp tân. Lúc nào Cúc Phượng cũng tỏ ra là một người vợ đầy tự tin và xứng đáng bên chồng.
13 năm hạnh phúc đi qua cái vèo. Như một giấc mơ.
Cuộc ra đi của Cúc Phượng được nàng biết trước hơn hai năm. Nàng bình tĩnh chuẩn bị và trù liệu trước từng chi tiết những gì sẽ diễn ra cho cuộc ra đi đó như một người sắp thực hiện một chuyến du lịch. Sau khi nàng trải qua cuộc đại phẫu (năm 1995) tại Bệnh viện Đại học Y Dược, một hôm tôi nhận được một cú điện thoại của một bác sĩ muốn gặp nàng để “bổ sung giấy tờ”. Tôi ngạc nhiên hỏi giấy tờ gì thì vị bác sĩ này cho biết đó là: “Thủ tục hiến xác của chị Ngọc Cúc”. Suýt nữa tôi té ngã bên chiếc máy điện thoại. Phản ứng của tôi với bác sĩ Nguyễn Quang Quyền, trưởng khoa giải phẫu học của trường Đại học Y Dược TPHCM, không còn bình tĩnh: “Tôi là chồng của Ngọc Cúc nhưng chuyện này tôi chưa hề biết. Xin lỗi bác sĩ...”. Rồi tôi cúp điện thoại. Vào thời điểm này, Cúc Phượng rất khỏe mạnh và xinh đẹp. Trong đầu tôi chưa thể hình dung ra nàng sẽ chết, nói chi chuyện xác nàng sẽ được hiến.
Tối đi ngủ, nằm bên cạnh nàng tôi lựa lời hỏi lý do gì nàng quyết định hiến xác. Tôi liếc nhìn nàng qua ánh sáng yếu ớt của đèn ngủ. Cúc Phượng hơi lúng túng vì nàng chưa chuẩn bị để trình bày chuyện này với chồng. Có lẽ nàng định sẽ nói với tôi khi các thủ tục đã hoàn thành. Nhưng rồi Cúc Phượng bình tĩnh giải thích một cách rành rẽ, chứng tỏ nàng đã suy nghĩ rất kỹ về quyết định của mình: “Em hiểu bệnh của em, chỉ có điều em không biết chính xác lúc nào em sẽ ra đi. Tại bệnh viện em tình cờ biết được các sinh viên y khoa không có xác người để thực tập, họ phải học “chay”. Trường Y khoa có lời kêu gọi hiến xác tại trường Y Dược và em cũng có tham quan phòng mổ xác. Suy nghĩ của em là khi mình chết rồi, xác được chôn xuống đất cũng rã tan, làm mồi cho các loại côn trùng thôi. Cái xác của em có nghĩa lý gì đâu. Cuộc đời của em cũng thế, chẳng giúp ích được gì cho người khác. Thế mà khi em chết và hiến xác em lại trở thành người có ích cho xã hội, cái xác của em lại có ích cho khoa học, giúp cho các bác sĩ tương lai học nghề một cách tốt hơn để cứu nhiều sinh mạng khác thì anh thử nghĩ em có nên làm như thế không?”
Tôi không thể bác bỏ lập luận của nàng, mà chỉ xót xa phân trần với nàng: “Chẳng lẽ em... sẽ không về nhà? Ít ra em cũng cho anh và các con được ở bên cạnh em một thời gian, dù là ngắn ngủi. Rồi còn người thân, bạn bè nữa...”. Cúc Phượng cũng đã nghĩ tới cả chuyện sau đó sẽ diễn ra như thế nào. “Trong đời em đã chứng kiến hai cái đám tang, của bà ngoại em và của ba anh. Cả hai đều diễn ra rất buồn, tiếng kèn trống, tiếng tụng kinh gây ồn ào cả khu xóm, những người đến chia buồn thật đông nhưng trong số đó người thương yêu thật sự người qua đời đâu có bao nhiêu. Em muốn anh tổ chức đám tang của em thật đơn giản. Đâu cần có quan tài. Anh đặt một khung ảnh của em ở một góc phòng, mời một số bạn bè đến, những người bạn mà em biết khi em còn sống họ có tình cảm thật sự dành cho em. Bạn bè có thể đến với một bó hoa nhỏ. Em rất ghét những tràng hoa cườm và những vòng hoa lớn. Em thích có một cuộc chia tay ấm cúng và đơn giản như thế”.
Hai ngày sau khi nàng mất tôi đã tổ chức cuộc chia tay cho Cúc Phượng với người thân và bạn bè đúng như nàng đã phác họa. Danh sách bạn bè được mời đến do chính Cúc Phượng nêu tên: Vợ chồng anh Tống Văn Công (cựu tổng biên tập báo Lao Động), anh Vĩnh An, nhà báo Lưu Trọng Văn, vợ chồng nhà báo Hoàng Thoại Châu, vợ chồng nhà báo Trần Trọng Thức, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, anh Nguyễn Trung Dân và vợ là chị Phan Thị Lệ, họa sĩ Trịnh Cung, cô Ý Nhi, hai nhà báo Đặng Hoàng, Thúy Hà và mẹ Thúy Hà.
Trên chiếc bàn dài, nhiều bó hoa tươi của bạn bè đặt chung quanh di ảnh của Cúc Phượng. Trong ảnh, nụ cười của nàng thật hiền hòa, nụ cười mà tất cả những ai quen biết nàng đều không thể quên được. Một vài người bạn lần lượt đứng lên nhắc lại những kỷ niệm đẹp của mình với Cúc Phượng, riêng anh Lưu Trọng Văn đọc một bài thơ viết tặng nàng:
THIÊN SỨ
Người đàn bà ấy
Từ đâu
Mà tới đây?
Rồi đột ngột đi đâu Người hàng xóm ngớ ra
Bầu trời cũng ngớ ra ‘‘Người ơi đừng hỏi!’‘
Tiếng ai nghe quen vậy?
Còn tiếng ai nữa
ngoài người đàn bà ấy
suốt một đời chẳng muốn ai
bận tâm đến mình
Biết trước mình sẽ đi xa suốt một đời chẳng muốn ai
bận tâm đến mình
Sợ úa lá dâu
không đòi manh áo
Sợ con ong buồn
không đòi vòng hoa
Sợ đau cánh rừng
không đòi ván gỗ
Và tôi,
Tôi cũng biết trước người đàn bà ấy sẽ ra đi
Mà sao không đến chào, tiễn biệt? 22-8-97
Chính nhờ buổi chia tay được tổ chức như thế này, tôi đã có dịp nói những lời yêu thương với nàng giữa bạn bè. Một sự nhìn nhận công khai ân nghĩa mà nàng đã dành cho tôi trong cuộc sống chung ngắn ngủi 13 năm. Cuộc tiễn đưa như thế của những người thương yêu nàng chắc chắn làm nàng mãn nguyện.
Tại bệnh viện, trước khi Cúc Phượng trút hơi thở cuối cùng, những người thân và bạn bè có mặt đông đủ. Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi và năm đứa con với dâu rể đều có mặt bên cạnh mẹ chúng để bày tỏ tình thương yêu và sự kính trọng dành cho người vợ kế của cha mình. Ngay sau khi Cúc Phượng qua đời, nàng được chuyển sang Trường đại học Y Dược, rồi đưa vào gian phòng mà nàng đã từng tham quan hai năm trước khi nàng còn khỏe mạnh và xinh đẹp!
Đã có các bài báo viết về Cúc Phượng gọi nàng là ‘‘người phụ nữ đầu tiên hiến xác cho khoa học’‘. Điều đó chắc chắn không làm nàng vui lòng bằng nếu nàng biết được, với hành động hiến xác của nàng, sau đó đã có hàng trăm người khác tự nguyện hiến xác.
Tôi là người chẳng bao giờ làm thơ. Thế nhưng sau khi Cúc Phượng mất, trong căn nhà trống rỗng, cứ mỗi khi đi về tôi lại bắt gặp cái nhìn và nụ cười hồn hậu của nàng trong bức di ảnh đặt trên bàn thờ. Mỗi lần như thế tôi lại dừng lại, nói với nàng vài câu. Một đêm, sau khi dừng lại trước bàn thờ, lên phòng làm việc, tôi nhớ nàng khủng khiếp. Tôi ngồi vào bàn, cầm viết lên và viết một mạch hai bài thơ – hay nói đúng đó là hai cuộc chuyện trò với nàng:
1 Em liếc nhìn tôi
Từ trong khung ảnh
Mắt em vẫn thế
Nụ cười em vẫn thế
Hình như em hỏi
Anh có buồn không
Em lỗi với anh
vô cùng
Bởi nửa chừng em bỏ lại anh
Anh đốt cây nhang
Khói làm em nheo mắt
Nhưng em vẫn nở nụ cười hồn hậu
Bởi cả đời em, không biết giận, ghét ai.
Anh có buồn không?
Thay cho câu trả lời
Anh cầm khung ảnh hôn em
Anh đau đớn tột cùng
Bởi nửa chừng anh không giữ được em
2
Nửa đêm anh thức dậy tìm kiếm em
Trong chồng an-bum
Trên bàn phấn
Trong tủ quần áo
Trong những cuốn sổ điện thoại
Đâu đâu anh cũng thấy em Trên bàn phấn
Trong tủ quần áo
Trong những cuốn sổ điện thoại
Em gần anh - gần khủng khiếp
Tưởng như có thể đặt tay lên vai em,
môi em
ngực em
Anh nghe dưới bàn tay anh ngực em
da thịt em
Và tiếng em nói trong hơi thở mọi lần ‘‘Hãy thật nhẹ nhàng anh nhé’‘ Anh lướt bàn tay thật nhẹ
Vào khoảng không
Không màu sắc
Không âm thanh
Cõi im lặng của em.
20-9-97 Không âm thanh
Cõi im lặng của em.
Cuộc đời tôi có may mắn lớn được gặp những người phụ nữ tuyệt vời như Quỳnh Nga, Cúc Phượng. Họ đều trở thành những người phụ nữ làm tôi ngưỡng mộ. Khi tôi tái hôn với người vợ thứ ba, nàng mới 21 tuổi. Trong lòng tôi không bao giờ mờ nhạt hình ảnh của Cúc Phượng nhưng tôi là người không thể sống một mình. Cuộc sống thiếu một gia đình đúng nghĩa luôn làm tôi thấy chênh vênh sao đó. Nhất là vào buổi tối, tôi chịu đựng không nổi sự trơ trọi. Chỉ khi nào có người vợ kế bên thì tôi mới tìm lại được sự thăng bằng cho cuộc sống. Ngôi nhà lúc này mới là tổ ấm. Có vợ buổi tối, tôi thường ở nhà, ngồi vào bàn viết. Chính lúc này công việc viết lách của tôi đạt năng suất cao nhất. Người phụ nữ sống với tôi bao giờ cũng có một vai trò rất lớn trong khả năng sáng tạo của tôi. Thiếu người phụ nữ, tôi chỉ là một nửa của chính mình! Ít tháng trước khi Cúc Phượng qua đời, một đêm nằm bên cạnh tôi nàng nhỏ nhẹ nói: “Em sống không bao lâu nữa. Em lo lắng khi nghĩ tới anh sẽ sống một mình. Em biết anh không phải là loại người đàn ông có thể sống một mình. Anh không lo được chuyện nhà cửa, chuyện tiền bạc, con cái... và nhất là không chịu đựng được cuộc sống cô độc. Bây giờ em có thời gian để cùng lo chuyện đó cho anh...”. Tôi kinh ngạc hỏi lại: “Em cùng lo với anh chuyện gì?”. Cúc Phượng nói thẳng ra là chuyện... chọn vợ cho tôi! Nàng nói: “Em bàn chuyện này với tất cả chân tình, vì rất hiểu anh, vì yêu anh, chứ em không có ý định gì ở phía sau. Nhất là em không có ý định thăm dò anh đâu”. Tiếp đó, Cúc Phượng kê ra hẳn hòi một danh sách khoảng năm người phụ nữ mà nàng nhận xét có thể thay thế nàng. Năm phụ nữ này cả hai chúng tôi đều quen biết, họ đang sống độc thân. Tôi từ chối cuộc bàn về đề tài này với nàng. Cúc Phượng còn sống đó, tôi lòng dạ nào lại bàn chuyện tìm người thay thế nàng? Trong đêm, nước mắt tôi chảy dài.
...Cô gái 21 tuổi trở thành người vợ thứ ba của tôi không nằm trong danh sách năm người phụ nữ được Cúc Phượng nêu tên. Thật sự tôi không có ý định lấy một người vợ trẻ đến mức đó. Trong việc lấy vợ tôi chọn người chứ không chọn tuổi. Bấy giờ tôi đã 58 tuổi. Khoảng cách 37 năm giữa tôi và Thủy không chỉ là khoảng cách về sinh học mà còn là khoảng cách về nhiều khía cạnh khác không dễ dàng vượt qua khi bắt đầu cuộc sống chung. Phải có nhiều tình thương và cố gắng hòa hợp với nhau cho cuộc hôn nhân. Người đàn ông về phần mình cố gắng có một cuộc sống trẻ trung, người vợ trẻ cũng đừng quên mình có một người chồng thật sự lớn tuổi, để hai phía điều chỉnh nhau trong cuộc sống chung hạnh phúc.
Khác hơn nhiều người, tôi không coi vũ trường là cái nơi trụy lạc. Hoặc như một số dư luận lên án: đó là ổ mại dâm. Những khách đi vũ trường mà bỏ bê gia đình, trở thành trụy lạc, bản thân họ trước đó đã là người trụy lạc, chứ không phải môi trường này đã biến người tốt thành người hư hỏng. Đi sâu vào vũ trường, người ta sẽ thấy thân phận của nhiều cô gái ở đây đáng thương hơn là đáng lên án suông.
Tôi thích đến vũ trường khiêu vũ nhưng tôi tự đặt cho mình một nguyên tắc: khi đã có vợ, hầu như tôi không đến vũ trường một mình. Một tuần, mười hôm, tôi vẫn đưa vợ tôi đi khiêu vũ một lần. Đó là một nơi không chỉ được thưởng thức nghe nhạc, nghe hát mà người khách còn được tham gia trực tiếp cuộc giải trí lành mạnh với môn khiêu vũ - một trong những loại hình nghệ thuật lâu đời nhất. Ở giới nào cũng thế có người tốt người xấu. Cái tốt cái xấu trong đầu, trong con tim. Tôi đã gặp rất nhiều cô vũ nữ có trái tim tốt, cái đầu đàng hoàng, nhưng cái nghề của họ vẫn không thể thoát khỏi những định kiến của xã hội. Cuộc đời của vũ nữ phần nhiều ngay từ đầu đã đậm đặc những trắc trở, những bi kịch. Những hồng nhan bạc mệnh. Chính vì thế, họ thường chọn chốn này để mưu sinh.Và cũng vì thế, nhiều người trong số họ rất biết trân trọng những tình cảm chân thật đến với họ, và khao khát có được cuộc sống gia đình bình thường. Ở Sài Gòn trước 1975, tôi từng biết nhiều trường hợp các cô vũ nữ giành được một chỗ đứng đàng hoàng trong xã hội khi may mắn gặp được một người đàn ông chân thành.
Sau khi Cúc Phượng mất, tôi không chịu đựng được cuộc sống một mình, tôi lại tính sẽ bước một bước nữa. Những lúc tôi đến vũ trường, một ý nghĩ nảy sinh trong đầu tôi: biết đâu chính tại đây mình sẽ tìm ra người thích hợp với hoàn cảnh của mình hiện nay. Đi tìm một phụ nữ chịu sống chung với mình ở tuổi 57-58, vừa mang đến cho mình tình yêu và cả sự hứng khởi trong cuộc sống thật không dễ dàng. Qua nhiều tháng tới lui vũ trường, tôi gặp một cô gái khác hẳn nhiều đồng nghiệp của cô. Hoàn cảnh gia đình của cô đáng thương nhưng con người cô lại rất đáng trân trọng. Cuộc thăm dò và tìm hiểu kéo dài trong hơn nửa năm. Cô chẳng biết gì về tôi, ngoại trừ cảm kích sự cư xử của tôi và an tâm rằng đây là một người đàn ông lớn tuổi đáng tin cậy, không lừa dối mình, có công ăn việc làm đàng hoàng. Một vài lần tôi đưa cô đến văn phòng làm việc của tôi ở một tòa báo... Một vài lần khác đưa đi ăn. Cô không tỏ ra ngại ngùng về khoảng cách tuổi tác. Cô biết tiền bạc của tôi chẳng có bao nhiêu - cả đời tôi vẫn thế - thu nhập của tôi thường chỉ ở mức có thể sống khá dễ chịu. Cô quá nhỏ để biết người đàn ông thương mình là ai. Khi tôi... đầu hàng ở Dinh Độc Lập thì cô mới hai tuổi, cô được mẹ mình kể lại vào thời điểm đó ba cô - một người tham gia cách mạng – cũng mới ra khỏi tù không biết là lần thứ mấy. Người đàn bà quê mùa, mẹ cô, gần cả đời chỉ lo đi thăm nuôi chồng và... mẹ chồng, hết nhà tù này đến nhà tù nọ. Sau tháng 4-1975, cha cô làm phó chủ tịch phường ở một quận TP.HCM trong một thời gian không dài rồi chết ở tuổi 49 vì đột quị. Thế là cả gia đình rơi vào vòng xoáy của những bất hạnh. Người mẹ nghèo và quê mùa không đủ sức một mình đối phó với quá nhiều khó khăn ập tới. Sau một người chị, đến lượt cô chọn vũ trường làm nơi kiếm sống cho mình và cho gia đình. Cô mới vào làm một thời gian ngắn thì gặp tôi.
Câu chuyện về Võ Thị Thanh Thủy, người vợ thứ ba của tôi là như thế.
Sau khi biết chắc chắn Thanh Thủy đáp lại tình cảm của tôi dành cho nàng và nàng tha thiết muốn lập gia đình dù nàng còn rất trẻ - mới 21 tuổi - một hôm tôi đã nói với nàng “Em có chịu trở thành vợ của anh không? Nếu em đồng ý kể từ ngày mai em có thể đến cùng sống với anh. Anh sẽ giới thiệu em với con cái anh và bạn bè của anh một cách chính thức”. Do hoàn cảnh khoảng cách tuổi tác không dễ dàng được dư luận chấp nhận, nên tôi dự tính không làm đám cưới công khai nhưng qua một cách thức khác, tôi vẫn tổ chức các cuộc ra mắt lần lượt với những người thân và bạn bè. Tôi muốn Thanh Thủy trở thành vợ tôi một cách công khai và đàng hoàng, chứ không phải giấu lén. Thanh Thủy không do dự, trả lời đồng ý. Trước khi Thủy về sống với tôi chính thức, tôi họp các con tôi lại, nói rõ quyết định của mình: “Các con mỗi đứa đều có gia đình riêng, có những bận rộn riêng. Dù các con có yêu thương cha, muốn chăm sóc cha cũng không thể làm đúng mức. Ba cần một phụ nữ yêu thương ba sống bên cạnh ba, chăm sóc công việc của gia đình, ba mới yên tâm lo việc viết báo, làm báo. Cho nên ba đã quyết định lấy vợ một lần nữa...”. Tôi nói cho các con tôi biết Thanh Thủy là ai, làm nghề gì, bao nhiêu tuổi và tại sao tôi chọn Thanh Thủy làm vợ. Tôi hỏi các con tôi: “Khi ba chọn mẹ các con làm vợ, ba đúng hay sai?” Các con tôi gật đầu. Tôi lại hỏi: “Khi ba chọn cô Phượng, ba có chọn đúng không?”. Các con tôi lại gật đầu. Và tôi nói tiếp: “Vậy lần này cũng thế. Ba không chọn sai đâu”. Con gái tôi, Lý Quỳnh Kim Trinh, chỉ nêu một ý kiến: “Phải chi cô ấy nhiều tuổi hơn. Cô ấy trẻ quá...”. Tôi chưa nói gì thì người con thứ ba, Lý Quí Dũng, nói: “Trẻ tuổi cũng đâu có sao, vấn đề là cô ấy có thương ba thật sự không và chăm sóc cha ba đúng mực như một người vợ không. Chỉ có ba mới rõ điều đó...”.
Thanh Thủy cũng được các con tôi chọn cách xưng hô như đã từng xưng hô với người vợ trước của tôi: “Cô Thủy”. “Cô Thủy” còn quá trẻ nên mối quan hệ với các con tôi không thuận lợi ngay từ ban đầu như “cô Phượng”. Trong bốn cô con dâu của tôi không có cô dâu nào nhỏ tuổi hơn “cô Thủy”. Nhưng mỗi ngày mối quan hệ ấy ngày một tốt hơn vì các con tôi đều có tâm hồn rộng mở, dễ hòa nhập. Điều quan trọng là thời gian đã cho thấy “cô Thủy” thương yêu thật sự cha của chúng, sống vì gia đình. Khi đứa con gái của tôi với Thanh Thủy ra đời (năm 2001), gia đình của tôi càng ngắn bó. Thanh Thủy giành trọn vẹn thời gian cho con và cho tôi. Chúng tôi đưa mẹ nàng về sống chung. Bà ngạc nhiên khi phát hiện “ông chồng già” của con gái mình mà trước đây mình không chấp nhận, lại không quá già như bà tưởng. Bà mẹ vợ tôi nhỏ hơn tôi hai tuổi! “Tao thấy Chung còn trẻ hơn thằng Toàn”, bà mẹ vợ tôi đã nhận xét như thế sau thời gian gặp tôi. Toàn là anh trai lớn nhất của Thanh Thủy.
Có vợ nhỏ hơn mình 37 tuổi kể ra cũng không dễ dàng. Thanh Thủy sinh một ngày với Quỳnh Nga, cũng ngày 10-3 và cũng tuổi Tỵ nhưng nhỏ hơn ba con Giáp. Có lẽ khi biết được những sự trùng hợp bất ngờ này, người vợ đầu của tôi có nhiều thiện cảm hơn với Thủy.
Tôi may mắn và rất hãnh diện là cả ba người phụ nữ thành vợ tôi đều đạt tới một sự thành công nào đó trong nghề nghiệp riêng mà họ đã chọn. Quỳnh Nga và Cúc Phượng, mỗi người mỗi cách đều đặt dấu ấn của mình trong nghệ thuật ẩm thực ở TP. HCM. Dấu ấn của Cúc Phượng không đậm nét bằng Quỳnh Nga và cũng ngắn ngủi hơn, vì cuộc sống của Cúc Phượng quá ngắn. Nhà hàng “Đôi Đũa Tre” cũng có một vị trí riêng, dù về mặt kinh doanh chưa so sánh được với nhà hàng Thanh Niên hay sau này hàng loạt nhà hàng thành công khác như Tân Nam, Nam An, An Viên... của Quỳnh Nga.
Thanh Thủy không theo nghề nhà hàng mà chọn nghề may mặc thời trang. Về làm vợ tôi được một năm, Thanh Thủy nhất quyết học nghề may. Nàng học suốt hai năm với một giáo viên rất giỏi. Có một sự trùng hợp cũng... lạ thường: Cúc Phượng mở nhà hàng “Đôi Đũa Tre” sau khi nàng biết mình bị bệnh ung thư, còn Thanh Thủy khai trương cửa hàng “Thủy Chung Fashion” sau khi tôi hồi phục bệnh ung thư. Khi tôi vừa ngã bệnh, cuộc chẩn đoán đầu tiên tại trung tâm chẩn đoán Medic có kết quả: sự sống còn lại của tôi không dài hơn một tháng (!). Lúc đó, kết quả chẩn đoán không thông báo trực tiếp cho tôi, tôi chưa biết gì, vẫn tưởng mình bị đau cột sống bình thường. Các con tôi đưa tôi khẩn cấp vào bệnh viện Chợ Rẫy trong tuyệt vọng, với mong mỏi duy nhất là cha mình được chăm sóc tốt nhất trong những ngày cuối cùng. Nhưng trong cuộc hội chẩn tại bệnh viện Chợ Rẫy ít ngày sau đó, bác sĩ Trịnh Toàn Thắng ở khoa huyết học, phát hiện ra bệnh của tôi, cũng là một loại ung thư, nhưng có thể phục hồi và không đến nỗi chết trong... một tháng như chẩn đoán ban đầu. Chính thông tin đầu – tôi không sống hơn một tháng – đã khiến nhiều bạn bè trong làng báo vào thăm tôi rất đông. Nhiều người bảo với nhau “Không vào nhanh sẽ không kịp gặp anh ấy!”. Khi chưa biết mình bệnh gì, tôi rất ngạc nhiên về sự thăm viếng của quá nhiều bạn bè trong đó có nhiều người khá lâu chưa gặp lại!. Dù sau đó bác sĩ Thắng cam đoan với tôi và gia đình rằng một tháng sau tôi có thể ngồi dậy, ba tháng sau tôi có thể bắt đầu đi lại, nhưng lúc đó hầu như không ai tin. Cái con người mất gần hết máu của tôi, chỉ còn da bọc xương, đang nằm trên giường bệnh không cho thấy có hy vọng vượt qua tử thần con người ấy có vẻ hợp với chẩn đoán ban đầu (!) Bình thường tôi cân nặng 72 kg nhưng vào bệnh viện trong thời gian nhanh chóng tôi chỉ còn 48-50 kg. Anh Hoàng Thoại Châu, nhà báo có bút danh được nhiều người biết đến là “Ba Thợ Tiện”, đã chuẩn bị một bài thơ thay cho bài phúng điếu tôi như sau:
Cuộc đi vòng
Biết là sớm tối cũng về
Mà sao người ở nghe tê buốt lòng
Trăm năm một cuộc đi vòng
Biết là biết vậy, vẫn mong không về
Khi tôi bắt đầu phục hồi, trong buổi sinh nhật tổ chức ngày 1-9-2002 với sự có mặt một số bạn bè và đồng nghiệp, anh Ba Thợ Tiện đã đọc bài thơ điếu... “được dời lại” ấy! Kể cũng hiếm trường hợp người còn sống được nghe bài thơ phúng điếu mình như tôi.
Không phải qua cơn nguy khốn rồi... nói tướng nhưng kỳ thật, dù đang nằm liệt trên giường trong khi mà mẹ tôi, vợ tôi, các con tôi, Quỳnh Nga và nhiều bạn bè thân đều lo tôi không qua khỏi, thì bản thân chẳng có lúc nào nghĩ rằng mình sẽ... chết. Dù sức rất yếu, không thể tự lăn qua lăn lại trên giường, nhưng tôi vẫn nói chuyện tỉnh táo khi tiếp bạn bè, vẫn tiếp tục theo dõi các trận World Cup vòng bán kết và trận chung kết trên màn ảnh chiếc Tivi được các con tôi mang vào phòng bệnh. Tôi ngã bệnh giữa lúc đang theo dõi và viết bài về World Cup 2002 cho các báo Lao Động, Công An TP.HCM, Pháp Luật Tp.HCM và bình luận mỗi ngày trên đài truyền hình Đồng Nai.
Gia đình và bạn bè hầu như không ai nghĩ tôi có thể phục hồi lại như xưa. Nếu có thể phục hồi thì với một đốt xương sống bị nẹp chắc tôi cũng phải đi xe lăn. Nhưng khả năng phục hồi của tôi thật kỳ diệu (theo lời của bác sĩ Thắng). Một cuộc chiến đấu gay go qua ba giai đoạn: Giai đoạn đầu trong ba tháng, giai đoạn kế trong sáu tháng rồi giai đoạn sau cùng mới trở lại cuộc sống thật sự bình thường. Người tôi mang ơn nhất là bác sĩ Trịnh Toàn Thắng. Anh đã dự đoán chính xác từng bước phục hồi của tôi. Trong khi chữa trị và chăm sóc tôi, anh Thắng không chỉ là ân nhân mà còn trở thành người bạn thân thiết của cả gia đình tôi. Mỗi lần anh đến khám bệnh, chúng tôi nói đủ chuyện trên đời, từ chuyện y học cho đến văn học, xã hội, kinh tế v.v... Anh giúp tôi hiểu biết cặn kẽ bệnh của mình, phác đồ chữa trị ra sao v.v... Tháng 11-2003, bác sĩ Thắng báo cho tôi biết cuộc điều trị của tôi chấm dứt, tôi đã phục hồi bình thường. Thời gian tới là theo dõi và tiếp tục duy trì tình trạng ổn định này. Do tôi thích ứng với liều thuốc thấp nhất nên nếu bệnh có tái phát thì có thể điều trị theo phác đồ cũ. Tôi nào ngờ những lời dặn dò đó của bác sĩ Thắng lại là những lời trăn trối...
Bởi chỉ ít ngày sau, bác sĩ Thắng đột ngột ra đi sau một cơn đau tim. Buổi sáng hôm đó anh Thắng hẹn đến thăm tôi vào lúc 8 giờ sáng, chờ mãi không thấy anh tới, tôi điện vào máy di động của anh. Người cầm máy trả lời tôi là bác sĩ Dung, vợ anh. Chị nói anh Thắng đang ở trong phòng cấp cứu. Thoạt đầu tôi nghĩ bác sĩ Thắng đang tham gia một ca mổ khẩn cấp nào đó nên không kịp dời cuộc hẹn với tôi. Đâu ngờ chính anh là người đang được cấp cứu do nghẽn động mạch vành. Chỉ hai giờ sau đó có tin tim anh đã ngừng đập. Tin ấy quá khủng khiếp đối với tôi. Cái chết từng xuất hiện sát bên tôi, nhưng không mang tôi đi lại cướp đi mạng sống người đã cứu sống tôi. Hình như có sự nhầm lẫn ở đâu đó chăng? Giám đốc bệnh viện Chợ Rẫy trực tiếp cùng các đồng nghiệp của bác sĩ Thắng cố gắng hết lòng để kéo anh trở về cuộc sống, giành giựt với từ thần mạng sống của một nhà khoa học tài năng. Nhưng vô vọng. Tôi đến bệnh viện khi nỗ lực tìm cách làm quả tim của anh đập lại vẫn đang tiếp diễn. Thật là một cú sốc đối với tôi. Bác sĩ Thắng là người đã... nối dài thêm sự sống của tôi. Anh trở thành một phần của con người tôi đang hiện hữu. Sự ra đi của vị bác sĩ đã cứu mình, trở thành bạn mình, là một sự mất mát vượt khỏi lĩnh vực tình cảm đơn thuần. Tôi vẫn tưởng tôi sẽ đi trước và ngày tôi đi sẽ có anh bên cạnh. Nào ngờ... Bác sĩ Thắng mất ở tuổi 48. Cái tuổi đẹp nhất của một người làm khoa học. Cuộc đời quả thật có nhiều điều phi lý!
Khi còn trong bệnh viện và biết mình bị mắc căn bệnh không thể chữa khỏi, lạ lùng thay tôi vẫn rất bình tĩnh. Tôi nghĩ “Mình sống thế cũng quá đủ rồi. Mình chẳng còn gì phải tiếc...”. Tôi nghĩ thế giới của người sống như một sân khấu vĩ đại, bao la. Mỗi con người là một diễn viên trong hàng tỷ, tỷ diễn viên, luân phiên nhau diễn một vở kịch bất tận, chẳng ai biết khởi đầu chính xác lúc nào và bao giờ kết thúc. Mỗi người một vai dài ngắn chẳng ai có thể biết trước. Có người chỉ nói được vài câu rồi... biến. Có người thật nổi bật trong thiên hạ, vai diễn thật tuyệt vời, nhưng rồi hết vai cũng phải ra đi. Cũng có những người đứng đâu đó trên sân khấu, chẳng ai chú ý, rời sân khấu lúc nào cũng chẳng ai hay... Không có ai tồn tại mãi trên sân khấu, và hình như càng tồn tại lâu càng trở nên... thừa! Vậy, đến lúc nào đó nếu vai diễn của mình được... nhà đạo diễn trên cao xanh bảo rằng “kết thúc” thì cứ vui vẻ mà... rút lui. Vấn đề là khi còn có mặt trên sân khấu, mình diễn vai nào, có đạt không? Nếu mình diễn tạm được, chân thành với lòng mình thì dù hay hoặc dở một chút, mình cũng có thể an tâm mà rời sân khấu của đời này. Khi biết mình bệnh gì, tôi cũng đơn giản nghĩ: Đã đến lúc vai của mình kết thúc. Thế thôi.
Nhưng khi sức khỏe phục hồi, tôi không thể không tự cho mình là “bệnh nhân - hiểm nghèo – may mắn”. Tình thương bao bọc chung quanh tôi là sức mạnh hỗ trợ tôi đối phó với căn bệnh tai ác. Các con tôi thật tuyệt vời. Tôi không thể không cảm ơn những gì chúng đã làm cho cha chúng. Tôi thật ấm lòng. Trong cơn bạo bệnh, tôi lại nhận ra hạnh phúc lớn lao của mình. Tình nghĩa như bát nước đầy của người vợ cũ cũng là chuyện hiếm hoi trong đời sống mà tôi lại là người may mắn có được. Đó là tình nghĩa của hơn hai mươi năm chung sống, nay đã gạn lọc đi những gì phiền muộn, mâu thuẫn đưa đến sự chia tay. Tôi cảm ơn Quỳnh Nga với cả com tim.
Không thể không nhắc tới người vợ trẻ Thanh Thủy tưởng như lạc lõng giữa cái thế giới đại gia đình thân thuộc riêng của chồng mình mà nàng gặp mặt đông đủ lần đầu. Nàng không khỏi lúng túng. Nằm trên giường bệnh tôi nhìn nàng lặng lẽ, theo dõi nàng lo việc này việc kia cho chồng. Tôi thấy cả nỗi âu lo của nàng khi nghĩ đến tương lai đứa con gái nhỏ nếu chồng mình không qua khỏi cơn bệnh. Nhìn mà thương xót vô cùng. Nàng là người sau cùng trong gia đình được thông báo tôi mắc bệnh gì!
Nhưng ở người vợ 25 tuổi ấy – cái tuổi của nàng vào lúc tôi bị bệnh – có một sức sống riêng và một ý chí thầm lặng rất mạnh mẽ. Ngay khi tôi vừa bình phục, Thanh Thủy tổ chức ngay một cửa hàng may mặc tại nhà với thương hiệu “Thủy Chung Fashion”, lấy tên nàng và tên tôi ghép lại. Sự xuất hiện của tiệm “Thủy Chung Fashion” và sự hăng hái lao vào công việc sáng tạo của nàng mang lại một không khí lạc quan cho gia đình. Cuộc sống nhanh chóng trở lại bình thường trong gia đình và tiếp tục hướng về tương lai.
Trước bạn bè, người thân, Thanh Thủy không hề mất tự nhiên về khoảng cách tuổi tác giữa nàng với tôi. Nếu có ai gặp nàng lần đầu có sự nhầm lẫn Thanh Thủy là con, hay cháu tôi, thì nàng bình tĩnh giới thiệu lại “Anh Chung là chồng tôi”. Nhưng cái lý lịch từng là vũ nữ, lúc đầu khiến nàng mất một phần sự tự tin trong giao tiếp. Tôi nói với nàng: “Điều đó trái lại phải khiến em hãnh diện, bởi tại sao mình ở môi trường đó mà được một người có chút ít tên tuổi trong xã hội không hề e ngại lấy mình làm vợ, giới thiệu mình chính thức với gia đình, với bạn bè?”. Thật sự, tôi rất hãnh diện có một người vợ như Thanh Thủy. Càng sống với nàng, tôi càng kính trọng nàng. Lập gia đình mới nếu sự chọn lựa của mình lại được con cái, mẹ, các em và bạn bè chấp nhận thì đó là một niềm vui nhân đôi. Trong cả ba lần lấy vợ, tôi đều tự chọn lựa, không hề có ý kiến của cha mẹ. Tôi thấy mình cũng có lỗi. Khi mẹ tôi từ Mỹ trở về, lần đầu bà gặp Thanh Thủy, bà không khỏi băn khoăn: “Sao con chọn vợ nhỏ tuổi quá!”. Nhưng sau nhiều lần tiếp xúc với Thanh Thủy mẹ tôi lại nhận xét “Mẹ thấy được”.
...Khi tôi vừa ngồi dậy được sau ba tháng nằm liệt trên giường, điều tôi nghĩ tới đầu tiên là viết báo trở lại. Chưa viết được trực tiếp, tôi đọc cho Thanh Thủy đánh vi tính. Bài báo đầu tiên tôi viết trở lại và gởi cho báo Lao Động là ngày 1-9-2002, đúng ngày sinh nhật thứ 62 của tôi. Với tôi “tồn tại là viết báo”. Tôi đã tồn tại như thế suốt hơn 40 năm. Và tôi chỉ thấy mình tồn tại thật sự nếu còn có thể tư duy để viết lách.
Sau đó tôi bắt đầu cộng tác thường xuyên trở lại với ba tờ báo: Lao Động, Công An TP.HCM, Sài Gòn Doanh Nhân cuối tuần, bớt đi một hai tờ mà tôi có cộng tác trước lúc bệnh. Tới dịp SEA Games 22, tôi lại bình luận bóng đá cho Đài Truyền hình Đồng Nai. Nhưng gần đây tôi không từ chối lời mời của báo Thể Thao Ngày Nay.
...Một vài người bạn như các nhà báo Trần Trọng Thức, Nguyễn Trung Dân... khi thấy tôi có khả năng bình phục đã gợi ý với tôi viết hồi ký. Trước khi bị bệnh tôi chưa nghĩ đến việc này. Lúc đó tôi nghĩ nếu có bắt đầu, tôi vẫn thích viết một hồi ký về 40 năm làm báo hơn là về cuộc đời chung của mình. Tôi rất muốn có cơ hội gởi gắm những điều mình học hỏi, tích lũy được trong cuộc đời viết báo, làm báo của mình cho các bạn trẻ.
Nhưng bệnh tật đột nhiên đến, khiến tôi phải thay đổi kế hoạch. Hồi ký về báo chí – tôi đành gác lại sau vậy.
Viết hồi ký cũng là một cách nhìn lại cuộc đời mình. Tôi bắt đầu làm việc đó từ tháng 12-2002 khi sức khỏe bắt đầu phục hồi tốt. Tôi cứ tưởng công việc này chỉ mất năm hay bảy tháng là xong. Không ngờ mãi đến tháng 4-2004, tức 16 tháng sau, vào lúc tôi đang viết những dòng này, cũng chưa hoàn tất. Nhà báo Thúy Hà (báo Phụ Nữ TP.HCM) giúp tôi công việc đọc lại bản thảo, hạn chế những sai trật về chữ nghĩa, điều này khó tránh với một người vốn từ nhỏ học tiếng Pháp nhiều hơn tiếng Việt như tôi. Thúy Hà làm rất tỉ mỉ và tận tình. Đây là công việc đầy tình cảm mà không bao giờ tôi quên ơn.
...Đem chuyện của riêng mình kể cho nhiều người nghe, tôi không chắc mọi việc đều đáng kể và được người đọc quan tâm. Nhưng đây là chuyện đời tôi, gồm cả những điều hay dở, nhưng đó là những điều tôi đã từng suy nghĩ như thế và hành động như thế. Tất cả những gì kể lại trong hồi ký này là chuyện của tôi, là chính tôi. Như tôi đã nói: Tôi cố gắng không gọt dũa và sửa sang lại quá khứ của mình.
...Vào lúc sắp kết thúc tập hồi ký này, tháng 2-2004, một sự kiện tình cờ nhiều ý nghĩa với tôi xảy ra: Tại TP. HCM tôi gặp lại ông Nguyễn Cao Kỳ. Nếu tính từ cuộc gặp ông lần đầu khi tôi mới vào làng báo thì đến nay 40 năm đã trôi qua.
Qua trung gian là Quỳnh Nga, người vợ đầu của tôi, ông Kỳ và tôi có một buổi ăn trưa tại nhà hàng An Viên của bà, trước một ngày ông Kỳ rời TP. HCM trở về Mỹ. Đây là chuyến về thăm quê hương đầu tiên của ông Kỳ sau khi rời Sài Gòn ngày 29-4-1975.
Những năm khởi đầu cuộc đời làm báo (1964-1965) tôi đã có dịp gặp ông Kỳ, lúc ấy ông là thủ tướng Sài Gòn. Tôi dự buổi ăn sáng của thủ tướng Kỳ tổ chức tại nơi làm việc của ông trên đường Thống Nhất. Mỗi tuần ông đều tổ chức một lần ăn sáng với báo chí để trao đổi các vấn đề thời sự. Trước ông và sau ông không có một thủ tướng nào ở Sài Gòn làm thế. Nhưng các buổi ăn sáng này chỉ kéo dài trong vài tháng. Tôi có dự cả buổi họp báo ông Kỳ công bố quyết định đóng cửa tất cả các báo Sài Gòn hồi năm 1965 - một chuyện có một không hai trước 1975 tại miền Nam. Nhắc lại chuyện xảy ra 40 năm về trước, ông Kỳ còn kể lại cho tôi nghe một chi tiết bên lề cuộc họp báo: “Khi ông vừa công bố quyết định đóng cửa tất cả các báo để tái lập trật tự thì ở gần cuối phòng họp một nhà báo Việt Nam đứng dậy hô to “Đả đảo độc tài” và hô hào các đồng nghiệp mình bỏ phòng họp ra về. Nhà báo đó, tôi còn nhớ là Tô Văn. Tôi nói to hướng về Tô Văn: “Mời anh ngồi lại. Nếu anh bỏ phòng họp ra ngoài vào lúc này tôi sẽ có biện pháp giữ anh lại”.
Với ông Kỳ, tôi còn có nhiều chuyện liên quan khác mà tôi đã kể ở những đoạn trước của hồi ký này.
Thật không thể tưởng tượng lại có một ngày ông Kỳ và tôi có dịp dùng cơm trưa với nhau tại TP.HCM trong không khí rất riêng tư và an bình như thế. Cuộc gặp diễn ra khi tôi viết phần cuối Hồi ký không tên của tôi. Những gì tôi đã viết về ông Kỳ trước đó tôi vẫn giữ nguyên, không sửa đổi một ý nào hay một chi tiết nào. Bởi đó là những gì tôi biết và nghĩ về ông khi ông là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (tức Thủ tướng) và Phó Tổng thống VNCH, còn tôi là nhà báo và sau đó là dân biểu Hạ nghị viện. Còn những gì các nhà báo nước ngoài viết về ông trong thời gian đó, mà tôi có trích lại trong Hồi ký không tên thì thuộc phần tư liệu, giúp cho những người sau này hiểu thêm về một thời kỳ đã qua tại miền Nam Việt Nam trước 1975. Các đánh giá về ông Kỳ của các nhà báo nước ngoài là như thế, đúng sai đến mức nào khó có một thẩm định chính xác, nó tùy thuộc chỗ đứng của người viết và tính chất quan hệ giữa người đó với ông Kỳ.
Ông Kỳ trong con mắt của tôi sau 40 năm vẫn là thế. Về mặt tính cách, ông không thay đổi nhiều. Lập trường và các hành động chính trị của ông trước 1975 có nhiều điều để tôi không tán đồng và lúc đó tôi đứng về phía đối lập với ông. Dĩ nhiên sự đối lập của tôi với ông Kỳ khác với ông Thiệu. Không đứng cùng nhau một trận tuyến chính trị, nhưng từ trước 1975, tôi vẫn có thể quan hệ bình thường với ông, và từng chơi quần vợt với ông trên sân Xẹc Tây. Chính vì mối quan hệ năm xưa như thế, nên khi được gợi ý, tôi đồng ý ngay việc gặp lại ông trong một buổi ăn trưa. Tôi đoán trước đó sẽ là một buổi gặp thú vị, bởi ông Kỳ là con người nghĩ gì nói nấy, không lắt léo che giấu những suy nghĩ của mình.
Gặp lại ông Kỳ sau 40 năm, với tôi như đã đi tròn một giai đoạn lịch sử của đất nước (1965-2005). Khi tôi gặp ông Kỳ lần đầu, đó là lúc quân đội Mỹ ồ ạt đổ vào miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến đi vào những ngày tháng ác liệt nhất. Đó cũng là thời kỳ khởi đầu sự nghiệp chính trị của ông Kỳ. Trải qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, chúng tôi lại ngồi chung với nhau vào lúc đất nước đã hòa bình và thống nhất, kinh tế bắt đầu một giai đoạn phát triển mới. Mỗi người chúng tôi có một con đường đi khác nhau, một sự chọn lựa khác nhau nhưng cuối cùng gặp lại ở một điểm hẹn chung trên quê hương mình! Trước mặt tôi vẫn là một Nguyễn Cao Kỳ ‘‘nghĩ sao nói vậy’‘. Khi ông chống Cộng thì chống dứt khoát, thậm chí thực hiện hành động bị nhiều người lúc đó lên án: tự mình lái máy bay bỏ bom miền Bắc. Còn bây giờ, khi đất nước có những thành tựu tốt đẹp, khi trở về ông công khai bày tỏ sự mừng vui ủng hộ bất chấp những “chiến hữu” cũ của ông ở Mỹ có phản đối quyết liệt. Việc một cựu thủ tướng và là phó tổng thống VNCH chính thức trở về nước trong chế độ cộng sản, dù muốn hay không, được coi như một cột mốc lịch sử: là sự thừa nhận chế độ mới của một trong những người từng điều khiển cuộc đối đầu trực diện với người cộng sản trong chế độ cũ trước đây. Tôi cảm phục sự dũng cảm đó của ông Kỳ. Dũng cảm trước những áp lực ở phía những người đã từng đứng cùng chiến tuyến với ông và nhất là dũng cảm với chính mình khi bày tỏ công khai một thái độ chính trị đi ngược hẳn với con đường mà ông đã đi trước 1975. Dám thay đổi thái độ của mình không vì điều gì khác hơn là vì quyền lợi của dân tộc, bất chấp những dị nghị ác ý là điều không dễ dàng.
Gặp lại ông Nguyễn Cao Kỳ, bất chợt nhớ lại 40 năm đã qua trong cuộc đời của mình, tôi thấy cuộc đời mình rất nhỏ bé giữa bao la biến cố thăng trầm của lịch sử, nhưng tôi đã sống với nó hết lòng, luôn sôi nổi và hào hứng. Hay, dở là do mình. Mình không thể phủ nhận nó. Tôi hài lòng về nó chứ? Con người và năng lực của tôi, cùng hoàn cảnh cho phép, chỉ được như thế. Tuy nhiên tôi cũng không mơ ước một cuộc đời nào khác và nếu phải bắt đầu lại, thật khó lòng dựng lại một kịch bản như thế. Tôi đã sống cuộc đời nhỏ bé của mình như một tiểu thuyết, mãnh liệt ở từng chương và từng trang. Chưa bao giờ tôi hờ hững với những năm tháng của đời mình.
...Ngay bây giờ sau cơn bệnh nặng tưởng là không qua khỏi, thời gian được cuộc đời “tạm ứng” thêm chắc không nhiều, nhưng nhịp độ viết báo và làm báo của tôi vẫn không thay đổi. Hiện nay tôi là một nhà báo tự do, không thuộc biên chế một tòa soạn nào nhưng viết bài thường xuyên cho bốn tờ báo, mỗi ngày viết từ hai đến ba bài và tư vấn cho hai tạp chí. Kết thúc cuốn hồi ký này, tôi chuẩn bị bắt tay viết tiểu thuyết Người Mỹ cuối cùng chết ở Việt Nam mà tôi đã ấp ủ từ hơn mười năm qua. Sự bận rộn và căng thẳng trong công việc luôn làm tôi hạnh phúc. Như tôi đã nói: Với tôi, cầm viết tức là tồn tại!
TP. HCM ngày 12-4-2004
Lý Quí Chung
Hồi ký không tên
Phụ lục
Trước khi xuất bản thành sách, một số đoạn trong Hồi ký không tên của Lý Quí Chung được trích đăng trên tờ nguyệt san Nhà báo và Công luận năm 2004 (đã đình bản từ tháng 1.2005), và gây một số phản ứng trên tờ Quân đội nhân dân. Bản in đầu tiên của nhà xuất bản (tạm gọi là bản A) có một số câu và đoạn, rải rác ở nhiều chương, tổng cộng chừng trên 20 trang in, khác với bản phát hành chính thức sau này (tạm gọi là bản B). Chúng tôi xin đưa những đoạn có trong bản A và không có trong bản B vào Phụ lục sau đây nhằm mục đích tham khảo.
talawas
Phần Lời giới thiệu của Nhà xuất bản (toàn bộ, bản A)
Hồi ký không tên của tác giả Lý Quí Chung là hồi ức của một con người sớm tự lập, một mẫu người luôn hành động và hành động theo sự dẫn dắt của một con tim sôi nổi nhiệt tình, của một lý trí tỉnh táo, của một tấm tình khá sâu nặng với gia đình và quê hương, được ông thể hiện theo một cách riêng, trong một thời cuộc quá nhiễu nhương, quá sôi động, lắm khi rất rối rắm ở ngay Sài Gòn trong hơn mười năm trước ngày được giải phóng.
Tác giả vốn là một nhà báo thành danh từ khi còn rất trẻ, một chủ bút độc lập quả cảm, một dân biểu, một nghị sĩ sớm lựa chọn con đường đối lập ở nghị trường miền Nam đương đầu chống lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy cai trị của chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng lên. Bạn đọc sẽ được đi cùng với ông, nhìn từ góc nhìn của ông, để biết thêm gần như xuyên suốt những sự kiện, những biến động chính trị, xã hội lớn tại Sài Gòn, tại miền Nam những năm 1965 đến năm 1975. Và nhất là, thấy được thêm những đóng góp khác nhau của nhiều người Việt yêu nước cho ngày toàn thắng.
Ngày toàn thắng của năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử “Thần tốc–Táo bạo–Bất ngờ-Chắc thắng”, qua 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng (từ 9-3 đến 30-4-1975), quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đội ngụy, đập tan bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi này là kết quả của phương pháp cách mạng tổng hợp, kết hợp chặt chẽ đấu tranh trên các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, binh vận. Bên cạnh rất nhiều những cuốn sách mô tả về sự thật mang tính lịch sử này, Hồi ký không tên của Lý Quí Chung có thể coi như một vùng hiện thực còn khuất nẻo được soi chiếu bởi một góc nhìn còn mới lạ, ở một thế đứng vừa nhạy cảm, vừa kiên định của một người có tinh thần dân tộc, chán ghét chế độ Mỹ Thiệu, hoạt động trong lực lượng những người yêu nước.
Chính ở góc độ này, Hồi ký không tên mang một bản sắc riêng. Là hồi ký cá nhân, không phải là một biên niên sử các sự kiện mà ông được chứng kiến, tất nhiên, nên không tránh khỏi cách nhìn, cách phân tích chủ quan. Xuất bản cuốn sách, chúng tôi hy vọng được bổ sung thêm cho những góc nhìn đa dạng về cùng một thời điểm lịch sử vẻ vang của dân tộc, như những tư liệu văn học tham khảo thú vị. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của quý bạn đọc.
Nhà xuất bản Trẻ
Phần Lời tựa của Trần Bạch Đằng
Sau câu: “Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng, tôi xem đó là cống hiến của Lý Quí Chung.”
Gần đây, tôi có dịp đọc hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận, của Dương Văn Ba, và bây giờ, của Lý Quí Chung. Sắp tới sẽ còn nhiều hồi ký nữa, những hồi ký phản ánh độ phong phú của cuộc chiến đấu mà những thành viên của dân tộc, lớn nhỏ khác nhau, nặng nhẹ khác nhau, đã hiến dâng cho thắng lợi của Tổ quốc.
Chương 2
Sau câu: “Tướng Mậu có chứng kiến cuộc bàn luận quyết định số phận của Diệm – Nhu. Ông là người duy nhất không tán đồng giết hai anh em nhà Ngô.”
Về cái chết của hai anh em Diệm – Nhu, nhà báo Mỹ Stanley Karnow kể rằng khi hay tin này, tổng thống Mỹ Kennedy bị sốc, người rụng rời. Ba tuần sau cái chết của Diệm – Nhu, tổng thống Kennedy bị ám sát. Mỹ và cả hai phía Sài Gòn đều không có một cuộc điều tra nào đến nơi đến chốn về hai cái chết này.
Chương 7
Sau câu: “Ở các tỉnh, liên danh Trương Đình Dzu, với chủ trương hòa bình và thương thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến tranh, đã thu được một số phiếu khá cao (chỉ đứng sau liên danh Thiệu – Kỳ)”
Điều này chứng tỏ từ những năm 1967-1968, người dân miền Nam đã tỏ rõ quan điểm của mình đối với cuộc chiến do Mỹ đạo diễn.
Tiếp câu: “Cho đến những ngày cuối tháng tư 1975, ông vẫn cố bám vào ghế tổng thống do ông Thiệu để lại và tuyên bố sẵn sàng “chiến đấu cho đến khi Sài Gòn chỉ còn viên gạch cuối cùng”
để bảo vệ chế độ Sài Gòn không lọt vào tay cộng sản!
Chương 11
Sau câu: “Một bài báo quả là hồn nhiên chính trị. Với không ít người còn coi đó là ngây thơ chính trị.”
Nhưng nếu trở lại 35 năm về trước, trong bối cảnh ấy, tôi vẫn sẽ chọn thái độ ngây thơ ấy.
Chương 12
Sau câu: “Một trong những nguyên nhân thất bại của chế độ Thiệu trong thời điểm khởi đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với người cộng sản và đồng thời với cả người Mỹ - gần như đã bỏ rơi Thiệu khi quyết định rút chân khỏi Việt Nam – là ở chỗ, phía sau chế độ đó không có hậu thuẫn dân chúng và các lực lượng chính trị có uy tín.”
Tình cảnh của chế độ Thiệu khác hẳn tư thế chính trị của các chế độ nối tiếp nhau ở Nam Triều Tiên sau khi Triều Tiên cũng bị chia đôi. Các chế độ Lý Thừa Vãn, Pắc Chung Hy ít ra cũng có sự hậu thuẫn của quần chúng và trí thức yêu nước. Các chế độ nối tiếp nhau ở Seoul tạo dựng được một sức mạnh tinh thần và vật chất để người dân Nam Triều Tiên có lý do hậu thuẫn.
Chương 14
Sau câu: “Trong giai đoạn này bà có nhiều hình thức đấu tranh rất độc đáo và kiên cường. Trước khi bị bắt, bà Thành đã từng dùng nhà mình để họp báo quốc tế, trưng bày tài liệu, hình ảnh chống chính quyền”.
Để minh họa cho các hoạt động chống chính quyền Thiệu rất Sài Gòn của giới trí thức trước 1975, tôi xin trích lại lời kể của anh Hồ Ngọc Nhuận dự một cuộc họp báo tại nhà bà Thành trước ngày bà bị bắt như sau:
“Chị Ngô Bá Thành có cho ra một cuốn sách về cuộc đấu tranh của Phong trào Phụ nữ Đòi Quyền Sống, hay của lực lượng ba gì đó, mà tôi quên cả cái tựa. Tôi cũng có mấy cuốn về tù, về báo chí, in roneo, mà tôi thường gọi là “vũ khí tự tạo”. Ai cũng biết thứ vũ khí tự tạo đó chỉ hơn giáo mác hay tầm vông vạt nhọn ít thôi, thô sơ là cái chắc.
“Tôi được chị Thành mời dự cuộc họp báo phổ biến sách tại nhà chị. Từ sáng sớm, cảnh sát đã phong tỏa từ xa các ngả đường vào nhà chị, tận phía nhà thương Đồn Đất (Hôpital Grall), tận ngoài trụ sở Công ty Điện lực đường Hai Bà Trưng. Ký giả trong và ngoài nước và quần chúng tụ tập khá đông phía đường Hai Bà Trưng, ở sân sau Hạ nghị viện. Đường Cao Bá Quát dẫn đến nhà chị Thành vắng teo, “nội bất xuất ngoại bất nhập”!
“Họp báo đối với chúng tôi thời đó mà không dùng kế “nghi binh” hay “điệu hổ ly sơn” thì coi như một thứ “biểu tình chạy”, dụ cảnh sát nhiều hơn là gặp các nhà báo. Nếu có thì đa phần là ký giả giả, là “nhà báo cảnh sát”.
“Nhà chị Thành, khi tôi vào, lác đác có mấy người. Chắc là nhờ lẻn vào từ rất sớm, trước khi cảnh sát phong tỏa.
“Trong vài người đó tôi nhớ có ông “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Ông đâu rồi, ông bạn? Bấy giờ tôi gọi ông như vậy, bởi tôi cũng đã già, chớ hồi đó tôi không dám. Hồi đó ông lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ít có cuộc đấu tranh nào vắng mặt giáo chủ Nguyễn Tấn Đắt. Liên tôn cầu nguyện cho hòa bình ở Thánh Thất Đô Thành, ở Tịnh Xá Ngọc Phương hay ở Nhà Thờ Dòng Chùa Cứu Thế đều có ông, với nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo lớn nhỏ khác. Rồi những cuộc họp đêm ở văn phòng tôi nữa. Nhớ ông tôi chỉ còn lại vài kỷ niệm trên các tuyên cáo, tuyên ngôn chung chống Mỹ, chống chiến tranh, với chữ ký của ông thật lớn, với dấu son đến nay còn đỏ chót.
“Dân báo chí không vô nhà chị Thành được thì làm sao phổ biến sách? Và khả năng cảnh sát tấn công để hốt sạch, vừa người vừa sách, là điều khó tránh, trước mắt. Sau một hồi bàn thảo, tôi xung phong đưa sách và khách thoát ra ngoài. Không họp báo trong nhà thì họp báo ngoài đường. Không phát hành sách tại gia thì tung sách tại thị. Chiếc LaDalat của tôi lại một phen xông trận. Ông “Bửu Sơn Kỳ Hương” và vài người khác ngồi phía sau, chiếc hộp bánh thết khách chễm chệ bên cạnh tôi ở băng trước. Nửa đường, cảnh sát túa ra chận lại, yêu cầu mọi người phải xuống xe để họ xét, cả xe lẫn người. Ngồi yên sau tay lái, tôi nói cứng không cho mấy người ngồi sau xe rời xe, và “cự” một mạch: “Xuống xe để làm gì? Tôi đi dự họp báo, không cho, tôi về. Mấy bà con này cũng vậy, tôi cho quá giang. Bánh đó ế khách, chủ nhà cho, tôi mang về ăn. Xe tôi trống phốc, không rương không “cốp”, giấu cái gì được? Muốn xét cứ xét, tôi không xuống”.
“Nói cứng mà bụng tôi lại đánh lô tô. Nét mặt các bạn đồng hành, nhìn thoáng, cũng không mấy hồng hào. Khả năng bị bắt chắc là không, vì chúng tôi đang trên đường, không làm gì phạm pháp. Mà xô xát là phải có, trong khi chúng tôi chỉ có một nhúm vài người, cô lập hoàn toàn với báo chí và quần chúng cách đó mấy dãy nhà. Không thể cưỡng mãi lệnh cảnh sát, mấy bạn ngồi phía sau bước xuống. Chiếc xe còn lại trống trơn. Cảnh sát khám trong rồi lại khám ngoài, khám trên rồi khám dưới, khám hết người này đến người khác, cả hộp bánh “ngồi” ở băng trước cũng bị giở lên mấy lần. Trừ tôi, dứt khoát không xuống xe, nhưng cũng mở tung cửa bên cho họ khám. Mà sách đâu không thấy! Dưới sức ấn nhiều đợt của cảnh sát, tôi có cảm giác xe mình như bị sóng nhồi. Chỉ còn thiếu điều họ đè nhau lật ngược chiếc xe lên nữa thôi. Đối với chiếc xe LaDalat thì việc đó không khó. Nhưng sau cùng, không tìm thấy gì, cũng không thể bứng tôi lên khỏi ghế nếu không dùng vũ lực, những người “bạn dân” đã thả cho chúng tôi đi.
“Khi ra được với rừng người đang sốt ruột chờ ở đường Hai Bà Trưng và sân sau Hạ Nghị viện, tôi mời báo chí ăn bánh của bà Thành. Họ không “ăn bánh” mà cứ đòi “coi sách” của bà. Chờ cho sự háo hức đòi coi sách lên cao độ, tôi lần tay xuống ghế ngồi rút cuốn sách của bà Thành giơ cao cho báo chí chụp hình. Lúc nãy, ở nhà bà Thành, tôi đã cẩn thận cắt chỉ khâu tấm da bọc nệm ghế, nhét sách vào và ngồi chồng lên. Đó là lý do tôi dứt khoát không chịu xuống xe. Nếu cảnh sát đã dùng vũ lực bứng tôi khỏi xe thì cuốn sách ắt phải lòi ra và chắc tôi phải mất nhiều thì giờ về bót cảnh sát. Ít ra đối với tôi, là để ký biên bản, còn đối với “ông Bửu Sơn Kỳ Hương” và mấy người khác thì việc gì xảy ra, thật khó mà biết. “Đánh giặc” thì phải hao người thôi. Ít hay nhiều là tùy một phần vào người cầm quân. Tôi không biết sau đó cảnh sát đã làm gì với chị Thành và với mấy cuốn sách của chị.”
Sau câu: “Trong tập hồi ký còn ở dạng bản thảo của anh Hồ Ngọc Nhuận mà tôi được xem qua, về chuyện làm “báo nói”, thì anh Nhuận kể rằng anh đã lấy sáng kiến từ những xe bán dạo “mì Ba Con Cua” (một loại mì ăn liền).”
Anh Nhuận kể: “Gánh của tôi thật gọn nhẹ: một chiếc xe LaDalat vừa làm sàn diễn vừa làm phương tiện di chuyển, một chiếc ampli, vài chiếc loa, mấy tấm biểu ngữ, và rất nhiều truyền đơn. Một gánh thuộc “Sơn Đông mãi võ”, tấp đâu cũng được, biểu diễn chớp nhoáng theo kiểu “sóng vang”. Tôi học được “chiêu” này nhờ mấy chiếc xe mì “Ba Con Cua”. Tôi hay xuống đường hoặc tay không, hoặc thỉnh thoảng với một loa cầm tay. Tới chỗ đông người, ngã ba, ngã tư hay chợ búa, đoàn biểu tình dừng lại trưng biểu ngữ và tôi làm nhiệm vụ phát thanh. Dần dần hễ chúng tôi đi tới đâu thì chính quyền cho mấy chiếc xe mì con cua bò tới đó. Và mạnh ai nấy “phát”. Nhưng làm sao địch lại một bầy cua? Gánh “báo nói” chúng tôi ra đời từ bài học của chính quyền (…) Trong chuyến đi về Mỹ Tho và Cần Thơ tôi nhớ có dân biểu Lý Quí Chung, chị Kiều Mộng Thu, nhà thơ nhà báo Cung Văn. Có nhà báo trẻ Mỹ John Spragens ham vui cũng xin đi theo. Chung và tôi thay phiên nhau lái xe và tất cả, không trừ ai, luân phiên chuyện tiếu lâm”.
Sau câu: “Nhưng đến ngã ba Trung Lương, ô tô không chạy thẳng vào Sài Gòn mà rẽ trái, tiếp tục đi xuống miền Tây. Ý định của chúng tôi là đến Cần Thơ gây một cuộc nữa.”
Về đoạn này anh Nhuận kể lại như sau:“Lúc đó Kính (trung tá Huỳnh Đạt Kính) là trưởng ty cảnh sát Tây đô, mà tôi không hay (Kính là bạn của anh Nhuận). Gặp tôi, Kính nói:
“Ông với tôi không thể nào không đụng nhau sao? Ông bày trò không lẽ tôi không dàn quân? Ông diễn không lẽ tôi ngồi yên?”. Mà Kính dàn trận thật: cảnh sát dã chiến, với khiên tre và gậy đã sẵn sàng. Có lẽ Sài Gòn (tức chính quyền trung ương) không muốn Cần Thơ và các tỉnh bị “lây nhiễm” xáo trộn. Tôi không phải không quen đánh trận, nhưng tôi nghĩ: không “hát” chỗ này thì “hát” chỗ khác, cớ gì phải “hát” ở đây để anh em đối đầu nhau. Vậy là rút”.
Chương 15
Sau câu: “Tôi không có mặt tại trụ sở Nghiệp đoàn lúc đó vì phần sau không nằm trong kế hoạch chung, mà do một số anh em tự biên tự diễn.”
Anh Nhuận có mặt trong sự kiện này đã ghi lại như sau:“Giới nghiêm. Lầu Rex bỗng tối đen. Anh em dân biểu như nghe thấy cái gì đó bất thường trong gió, điệu bộ mỗi người thay đổi mỗi khác. Từ phía nhà thờ Đức Bà, theo đường Tự Do, nay là Đồng Khởi, một đoàn xe jeep cảnh sát xả hết tốc lực, qua ngả nhà hàng Givral, mất hút về phía chợ Sài Gòn. Chúng tôi đứng vụt cả dậy, từ trụ sở Hạ nghị viện chạy bay qua cửa Trung tâm báo chí, siết tay nhau làm rào chắn. Chưa kịp chỉnh đốn hàng ngũ, cơn trốt cảnh sát đã ập tới. Họ từ chợ Bến Thành đến đã bọc xuống bến Bạch Đằng đánh thốc lên theo ngả Tự Do, Nguyễn Huệ, không ai kịp nhận biết. Không cần lâu lắc lắm để họ xé nát hàng rào. Anh em dân biểu bị nện dùi cui tan tác. Hai người tôi thoáng thấy bị đòn nhiều nhất là dân biểu Trương Vi Trí, đơn vị quận 5 và dân biểu Nguyễn Văn Quí, đơn vị Hậu Nghĩa. Một cảnh sát chộp tay tôi, lúc phá hàng rào người, tôi hét: “Bỏ ta ra! Mày làm rớt đồng hồ tao!''. Một phản ứng tức cười! Anh cảnh sát ngó sững mắt tôi, rồi buông tôi ra, sau một thoáng chưng hửng. Anh Nguyễn Kiên Giang nói đúng: Cảnh sát “sợ'' tôi. Sợ lỡ tay tôi chết, anh em bị tù oan. Nói vậy chớ làm sao tránh khỏi ăn đòn, trong một trận “bề hội đồng''! Nhưng có lẽ tôi là người bị ăn đòn nhẹ nhất. Nặng nhất là anh dân biểu bác sĩ Đinh Xuân Dũng, đơn vị Bình Thuận. Anh, người không cao mà có bề ngang, giọng quát thật to lại nặng gốc Quảng Bình. Đánh anh chưa đã, họ lôi anh thảy lên xe, như bao gạo, chạy mất. Vì anh quát to hay vì giọng anh ''thấy ghét''? Bữa đó ai mà không la, có lúc tôi còn la to hơn anh. Vậy chắc không phải tại anh la (anh Đinh Xuân Dũng bị cảnh sát bắt quăng lên xe jeep như một con heo!).
“Trung tâm báo chí tan tác như một chuồng gà bị đột nhập, lớp bị vồ, lớp co giò tìm ngõ chạy thục mạng. Bao nhiêu ký giả bị bắt? Tôi không nhớ. Có ai ký giả giả trà trộn để nhìn mặt, chụp hình? Mọi người cũng chỉ đoán.
Đám tàn quân dân biểu kéo về trụ sở các ủy ban Hạ viện. Để tính kế. Ông Thiệu muốn gì mà cho đánh và bắt một dân biểu mang đi? Để “phá đám'' rồi thả? Hay đã bắt, dù bắt ẩu, thì bắt luôn, bắt tiếp, thử nắn gân nhau tới cùng? Nghi vấn này, chúng tôi nghĩ phải có giải đáp ngay trong đêm: hoặc Đinh Xuân Dũng sẽ được trả về trước khi trời sáng, hoặc Trang Sĩ Tấn mở đợt tấn công mới, để cho Đinh Xuân Dũng có bạn. Trong giả thiết xấu nhất, nếu phải “quyết chiến'' lần chót, tôi đề nghị với anh em trận chiến phải diễn ra trước trụ sở quốc hội. Một trận chiến ''bốc lửa'' thật sự. Anh em tán thành. Chiếc LaDalat đã được chất đầy một đống vỏ xe cũ và mấy can xăng. Ngay phút đầu nếu bị tấn công, tôi sẽ lái phóng thẳng qua sân Hạ viện rồi tới đâu thì tới. Chuẩn bị vừa xong, đang ngáp vặt, một chiếc xe jeep cảnh sát thắng “cháy bánh” trước trụ sở Ủy ban rồi vụt chạy mất. Sau khi thảy đánh bịch xuống lề đường một “bọc” to. Anh em vội chạy ra “lượm” khiêng vô. Đó là anh Đinh Xuân Dũng!”
Chương 17
Trước câu: “Trong khi chuẩn bị cuộc hội thảo, tôi có tiếp xúc với “Tổ Chức Đòi Thi Hành Hiệp Định Paris do luật sư Trần Ngọc Liễng đứng đầu và mới anh tham dự để tăng khí thế.”
Trong dự định của mình, khi thuyết trình đến đoạn đề cập thành phần thứ ba, tôi sẽ đặt hai câu hỏi với những người tham dự: 1. Có phải thành phần thứ ba là một phong trào quần chúng? (Ai đồng ý đưa tay lên). 2. Tổng thống Thiệu cho rằng thành phần thứ ba do Pháp dựng lên. (Ai phản đối đưa tay lên). Báo chí nước ngoài và ống kính truyền hình sẽ ghi nhận thực tế không thể chối cãi về thành phần thứ ba.
Sau câu: “Buổi thuyết trình tại chùa Ấn Quang diễn tiến đúng như dự kiến.”
có cả đoạn đặt câu hỏi và sự biểu quyết của hàng trăm người tham dự bằng cách giơ tay dưới ánh đèn sáng choang của các hãng truyền hình Mỹ, Anh, Đức…
Chương 18
Giữa câu: “Ông ta lo cho thân mình không xong nói chi chuyện bao biện cho ông Thiệu và chính quyền Sài Gòn.” và câu: “Nhưng cái chính là Thiệu và chính quyền của ông ta vừa không có năng lực lại tham nhũng, không thể đối phó các cuộc tấn công, nhất là khi không còn người Mỹ.”
Sau khi Hiệp định Paris được ký, Hãng thăm dò dư luận Gallup đã đặt các câu hỏi sau đây với người dân Mỹ và đã nhận được các phản ứng sau:
Như vậy dư luận Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Thiệu dù cái cách đặt câu hỏi cũng áp đặt ác cảm với phía cộng sản. Có dư luận cho rằng Watergate đã làm cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam sau Hiệp định Paris suy sụp. Kissinger sau này hiểu rằng mình đã phán đoán sai ý chí của nhân dân Mỹ trong sự bảo vệ hiệp định. Ông nói: “Tôi nhìn nhận điều đó. Chúng tôi đã đánh giá sai. Và điều chúng tôi đánh giá sai hơn cả là sự tin tưởng của chúng tôi có thể mang lại hòa bình danh dự, rằng chúng tôi có thể đoàn kết nhân dân Mỹ để bảo vệ hiệp định đã đạt được trong vô vàn đau đớn. Đó là sự đánh giá sai căn bản của chúng tôi. Một hiệp định mà bạn không thể làm cho nó hiệu lực là một sự đầu hàng…” (trích trong “No Peace No Honor” của Larry Berman). Nhưng một lập luận khác về sự sụp đổ của chính quyền Thiệu, theo tôi, đã bóc trần vấn đề, do nhà báo Stanley Karnow đưa ra trong quyển “Vietnam – A History”: Người ta cho rằng vụ xì–can–đan Watergate hại uy tín của Nixon, làm cho ngành hành pháp yếu đi, nhân dân Mỹ càng ác cảm với vấn đề Việt Nam khiến cho chính phủ Mỹ không thể giữ lời hứa ra tay cứu chính quyền Thiệu.
Chương 19
Trước câu: “Vào thời điểm 1973 và sau đó, không riêng ở Sài Gòn mà tại Mỹ, Pháp…, đâu đâu cũng có những cá nhân tự xưng mình thuộc thành phần thứ ba.”
Với Hiệp định Paris, tình hình miền Nam mở ra nhiều khả năng khác nhau. Khi ấy tôi nghĩ, lạc quan nhất lúc này là giải pháp một chính phủ hòa giải, hòa hợp gồm ba thành phần. Nhưng không ai mường tượng cái chính phủ ấy vận hành thế nào, khi giữa chính phủ Sài Gòn và chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam như lửa với nước, còn thành phần thứ ba thì không biết sẽ chọn lựa như thế nào.
Giữa câu: ‘‘Năm ngoái, cũng ngày 24 tháng Chạp âm lịch này, chúng ta đã đón nhận với nhau hi vọng bản Hiệp định Parls như là một căn bản thực tế để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình.” và câu: “Hiện tại của miền Nam Việt Nam không có cách nào khác là phải phá đổ.”
‘‘Năm ngoái, cũng ngày 24 tháng Chạp âm lịch này, chúng ta đã đón nhận với nhau hi vọng bản Hiệp định Paris như là một căn bản thực tế để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
“Nếu Hiệp định đã được thi hành với thiện chí thì hôm nay, tiếng súng đã im hẳn trên toàn lãnh thổ miền Nam, các tù nhân quân sự, dân sự và chính trị đã đoàn tụ với gia đình, nhân dân miền Nam đã hưởng được các quyền tự do căn bản và một nếp sinh hoạt mới đã được khởi diễn trên phần đất này, tạo điều kiện cho cuộc hòa giải giữa các thành phần dân tộc.
“Nếu Hiệp định đã được thi hành với thiện chí thì hôm nay miền Nam chúng ta đã có thể bắt đầu tái thiết, phát triển, xây dựng một ngày mai tươi sáng cho mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ.
‘‘Nhưng trong năm qua, tiếng súng chưa im một ngày nào.
“Và hôm nay trước thềm năm Giáp Dần, thay vì được ăn cái Tết thanh bình đầu tiên sau gần 30 năm khói lửa, nhân dân miền Nam lại phải vừa gánh chịu một cuộc chiến tranh kéo dài, vừa đương đầu với những khó khăn cơ cực do sự suy sụp trầm trọng của nền kinh tế bấy lâu nay chỉ biết bám vào ngoại viện để cung phụng chiến tranh”.
Như thế sau một năm ký kết Hiệp định Paris, tình hình chưa có gì sáng sủa, thậm chí còn mù mờ hơn. Trong bài phát biểu của ông (tức nhóm ông Minh) còn phản ánh một quan điểm về lực lượng thứ ba: không phải là một tập hợp thống nhất dưới một lãnh tụ duy nhất nào.
Đúng là những gì diễn ra sắp tới vẫn còn mù mờ, nhưng tôi chắc rằng dù bất cứ một đổi thay nào cũng tốt hơn hiện tại.
Sau câu: “Bây giờ ông có hai kẻ thù chứ không là một, thậm chí kẻ thù Mỹ được đặt lên trên cộng sản.”
Có người cho rằng sau khi Phước Long thất thủ ngày 6-1-1975, quân Sài Gòn có khả năng tái chiếm nhưng chính tổng thống Thiệu ra lệnh dừng lại, lấy vụ Phước Long để trắc nghiệm xem Mỹ có giữ lời hứa bảo vệ miền Nam sau Hiệp định Paris hay không. Tôi không tin lập luận này vì thực tế tinh thần của quân đội VNCH lúc đó đang xuống thấp. Cố vấn Mỹ đã rút khỏi các đơn vị, đạn pháo bắn phải tính từng viên, máy bay xin yểm trợ rất khó khăn… có muốn tái chiếm cũng không thể!
Chương 20
Sau câu: “Các nhà báo như Nguyễn Vạn Hồng, Trương Lộc... dù có quan hệ với Mặt Trận, nhưng không bị lộ cũng không bị bắt trong đợt đó.”
Tôi trao đổi vấn đề này cùng anh Nhuận và có nói với anh: “Tôi không nghĩ Thành làm cho TƯTB. Nếu Thành có làm cho ai đó thì… chỉ làm cho Mặt Trận. Tôi bảo đảm với anh điều đó”.
Sau này anh Nhuận có kể lại lý do ban đầu anh nghi ngờ Huỳnh Bá Thành như sau:
“Một hôm tôi nghe họa sĩ Ớt bị cảnh sát bao vây trước rạp Olympic trước rạp Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai, khi anh lái chiếc LaDalat của dân biểu Hữu Chung. Cảnh sát bao vây khá lâu nhưng không bắt, tôi không biết tại sao…
“Sau đó, tôi không nhớ bao lâu, tôi lại gặp anh tá túc ở văn phòng trung tá Đẩu, “chỗ ở thường trú” của Dương Văn Ba (văn phòng này nằm ở cổng sau của dinh Hoa Lan nhìn ra đường Trần Quý Cáp, hiện là đường Võ Văn Tần). Không được mấy ngày, nại cớ nhớ nhà, anh nằng nặc đòi về quê thăm vợ con, can mấy cũng không nghe. Khi trở lại, anh không chịu ở yên mà cứ lui tới như không có gì… Tôi đã kể chuyện nằm ở bệnh viện Sùng Chính sau trận Cầu Muối: cũng tại phóng viên nhiếp ảnh Kỳ Nhân không chịu nằm yên mà tôi phải sớm di tản khỏi bệnh để về nhà ông Minh… Nhưng nhà ông Minh và văn phòng báo chí của ông là “cứ điểm” cuối cùng, biết di tản đi đâu nếu bị “động ổ”? Tôi đành nói với Dương Văn Ba và chung quanh nên cảnh giác, không nói, không bàn việc gì quan trọng khi có Ớt sáp lại gần! Nghĩ cũng tức cười: sau 30-4-1975 và nhất là sau những gì anh viết, anh kể, ai cũng biết Ớt là một cán bộ chỉ huy điệp vụ cách mạng, mà tôi lại nghi anh là công an chế độ cũ! Và khi anh nói anh đi về quê thì chắc là để đi đến một nơi bí mật nào đó mà tôi cứ theo cản…”
Chương 21
Sau câu: “Tháng 3-1975, nhiều người ở Sài Gòn không thể đoán rằng quyết định rút quân ra khỏi Cao Nguyên của tổng thống Thiệu là sự khởi đầu của sự sụp đổ hoàn toàn và mau chóng của cả chế độ.”
Tôi còn nhớ lúc đó có người còn tưởng tượng đây là một thỏa thuận giữa Mỹ và Bắc Việt chia cắt miền Nam làm hai để thành lập khu trái độn, giao một nửa cho MTDTGPMN kiểm soát.
Sau câu: “Weyand cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm làm mọi khả năng của mình để cung cấp phương tiện và trang thiết bị giúp cho chính quyền miền Nam bổ sung tiềm lực của mình đối đầu với cuộc tấn công.”
Weyand kết luận: “Chúng ta đến Việt Nam trước hết là giúp đỡ nhân dân miền Nam – chứ không phải để chiến thắng Bắc Việt. Chúng ta đã chìa tay ra với nhân dân miền Nam và họ đã nắm lấy. Bây giờ họ cần bàn tay ấy hơn bao giờ hết.”
Sau câu: “Trong lối 4 tiểu đoàn địa phương gồm toàn đồng bào Thượng, phần lớn đã đào nhiệm mang theo vũ khí, đã phản loạn mở cuộc tấn công tập hậu vào đoạn cuối đoàn di tản đồng thời nổi lửa phá phố phường, cướp bóc và bắn giết những đồng bào còn ở lại...”
Trước mặt đoàn xe 1.000 chiếc, tức đoạn chót của đoàn di tản, còn bị các chốt phục kích của Sư đoàn Bắc Việt mở cuộc tấn công.
Lực lượng Biệt Động do tướng Tất chỉ huy bảo vệ cuộc di tản lập tức giàn trận chống trả, cả mặt trước lẫn sau lưng, cả hông trái lẫn hông phải. Đồng bào, binh sĩ xuống hết khỏi xe. Biệt Động Quân mở đường máu, bỏ liên tỉnh lộ số 7, tìm lối thoát đi. Tất cả xe cộ và mọi dụng cụ không thể mang theo đành bị đốt sạch. Từ đây về đến Phú Yên, quãng đường dài còn lại có tới 40 đến 50 cây số.
Trong tiếng nổ giòn tan của đạn súng nhỏ, tiếng rít lạnh gáy và tiếng nổ kinh hồn của đạn đại bác… Một đại lộ kinh hoàng khác như mùa hè 72 tại Quảng Trị cũng đã mở ra.
LTS: Bản tin của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, đọc qua điện thoại bị cắt đứt ở đây. Sau trận tấn công này chưa rõ tin tức có được thông báo tiếp về tòa soạn nữa không. Liên lạc thông lệ mỗi buổi sáng, hôm nay, cho tới lúc báo lên khuôn, chưa nhận được.
Sau câu: “Các sân tennis vẫn đầy người chơi, các phu nhân vẫn đến tập thể dục thẩm mỹ đều đặn, hồ bơi mỗi buổi trưa vẫn là nơi hò hẹn của những giai nhân trong các bộ bikini khêu gợi.”
Ở Sài Gòn dường như không hề có không khí chiến tranh, nhiều người Sài Gòn không thèm nghe những tiếng súng, những đau xót vọng lại từ miền Trung và Cao nguyên.
Trước câu: “Một thiếu phụ dẫn hai con đi ngược lên cầu thang.”
Xuống cầu thang đầu tiên là hai chú bé. Hai đứa ôm nhau rồi hỏi nhau “mình đi đâu bây giờ”. Rồi cùng òa lên khóc.
Sau câu: “Có điều là ở Đà Nẵng trong hiện tại, gánh nặng cơ hồ không giải quyết nổi.”
Ngay tại cổng phi trường Đà Nẵng đã có đến 1.000.000 chực chờ từ sáng sớm để được vào mua vé tại quầy Hàng không Việt Nam. Cảnh hỗn loạn, tranh giành, đánh nhau dĩ nhiên không tránh khỏi…
Sau câu: “Hầu hết trong số này thuộc đơn vị Hắc Báo được coi là tinh nhuệ nhất của Sư đoàn 1 bộ binh.”
Phải nói là chỉ có kẻ mạnh nhất, nhanh nhất, và bần tiện nhất mới lên được máy bay. Một bà lão đã bị một binh sĩ đá ngay mặt té xuống đất để anh ta giành chỗ lên máy bay, xác bà sau đó hầu như biến mất dưới bàn chân của đám đông. Ngồi trên máy bay rồi mà tất cả vẫn còn kinh hoàng.
Sau câu: “Bài tường thuật của phóng viên Paul Vogen của hãng thông tấn UPI cùng hình ảnh người lính chết thòng chân ở máy bay đã được đăng nơi trang nhất các báo Mỹ ra ngày chủ nhật Lễ Phục Sinh 30-3. Tổng thống Ford khi xem cảnh đó đã nói “Đã đến lúc rút dây. Việt Nam mất rồi!”.
Nhưng cảnh di tản bằng tàu mới thực sự kinh hoàng hơn. Thảm kịch của những cuộc di tản này do đâu? Nỗi âu lo, sợ hãi đối diện với những gì sắp xảy ra – mà phần đông cũng không biết rõ nó như thế nào – là một nguyên nhân của sự đổ xô chạy loạn. Nỗi sợ hãi vô hình này đã bị kích động, nhân lên hàng chục lần bởi một chiến dịch tuyên truyền chống cộng đầy ác tâm của người Mỹ. Phóng viên nhiếp ảnh Mỹ Carl Robinson của hãng tin AP trong thời điểm này có gặp tôi và tiết lộ rằng chính tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn có chủ trương loan truyền những thông tin hoàn toàn bịa đặt về sự tàn bạo của cộng sản ở những tỉnh và vùng mà họ đã chiếm đóng như: Phụ nữ sơn móng tay đều bị rứt móng, những phụ nữ lấy Mỹ bị đem ra bêu xấu trước quần chúng, các binh lính chế độ Sài Gòn bị hành quyết hàng loạt v.v… được tung ra ngay trong cuộc họp báo của đại diện báo chí tòa đại sứ Mỹ. Anh Carl Robinson tỏ ra bất mãn đối với loại tin tức dựng đứng này. Theo Carl, chiến dịch loan tin này nhằm thúc đẩy một số người chạy khỏi vùng cộng sản vừa chiếm mỗi ngày một đông hơn và như thế người Mỹ chứng minh được rằng nhân dân miền Nam tuyệt đại đa số sợ hãi và căm thù cộng sản. Cũng bằng cách đó Mỹ chứng minh sự can thiệp của mình vào Việt Nam là đúng đắn, đáp lại nguyện vọng của đa số người dân miền Nam! Theo nhà báo Olivier Todd, đặc phái viên tuần báo Newsweek phỏng vấn những người chạy khỏi những vùng bị cộng sản đánh chiếm, họ không xác nhận những tin tức liên quan đến những cuộc tàn sát được chính quyền Sài Gòn và phía Mỹ loan ra. Đại sứ Martin nổi giận ra lệnh nhân viên của mình trưng ra cho báo chí “những bức điện” đề cập những cuộc hành quyết tại Đà Nẵng, Ban Mê Thuột và nhiều nơi khác!
Sau đây bài tường thuật của báo Độc Lập xuất bản ngày 4-4-1975 về “Chuyến vượt biển đầy chết chóc từ miền Trung vào tới Sài Gòn”:
“Đây có thể gọi là chuyến tàu chót rời Đà Nẵng. Tất cả có trên 50 ngàn vừa dân vừa lính. Bà con gồm nhiều tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín và Cam Ranh. 50 ngàn người dồn cứng dưới 3 xà lan và một tàu RMK.
Thoạt tiên, ngày 28-3 bà con đã ùn ùn đổ nhau xuống ghe chài hoặc xà lan rời bến Đà Nẵng chạy ra khơi. Một xà lan rộng 7 thước dài trên 30 thước nêm cứng đến 12 người. Trẻ em bị nén lại… Nếu ngày 29-3 không được tàu RMK từ ngoài khơi xa thẳm tiến lại gần để san bớt số đồng bào trên xà lan thì con số chết ngộp và khát nước lên tới phân nửa. Trong ngày 29-3 còn có thêm ghe chài chở hàng chục ngàn dân. Tất cả được đón lên tàu RMK. Tới 10 giờ ngày 29-3, tàu RMK nhổ neo xuôi vào Cam Ranh và cập bến nơi đây vào lúc xế chiều 31-3. Vừa lục đục kéo nhau lên bờ thì tin di tản được loan ra, vậy là thêm một lần nữa cảnh chen lấn diễn ra, người khỏe đạp lên người yếu, trai tráng xô té người già nua. Trẻ con khóc gào vang dội bến tàu. Có đôi ba em bé vuột khỏi tay mẹ, tay chị, bị đoạn người đông đảo phóng tới cuồn cuộn đạp nhàu lên khiến các em nhừ nát. Những ai chậm chân và yếu sức chạy từ Đà Nẵng vào đành kẹt lại Cam Ranh để những người khỏe từ Cam Ranh tràn lên tàu và xà lan lấn chỗ. Tàu nhổ neo ngày 1-4 xả tốc lực kéo các xà lan tới Vũng Tàu sau 12 tiếng đồng hồ.
9 giờ sáng 2-4, tàu RMK và ba xà lan đã có mặt ngoài khơi Vũng Tàu với 50 ngàn người đói khát sau năm ngày lênh đênh. Tàu không được phép cập bến Vũng Tàu, chính quyền địa phương viện lẽ chưa có lệnh của trung ương. Thuyền trưởng tàu RMK liên lạc với cơ quan Mỹ ở Sài Gòn bằng vô tuyến thì được khuyến khích cho ba xà lan tự chạy vào bến Sài Gòn.
Tối 2-4 ba xà lan lù lù tiến vào sông Nhà Bè thì bị chặn lại vì lệnh mới ban ra không cho tàu thuyền nào được vào Sài Gòn. Xà lan lại phái trở ra Vũng Tàu và thêm một đêm đầu đội sương, chân đạp... sắt lạnh lẽo! Đến sáng 3-4 xà lan mới được lệnh cập bến.
Báo Độc Lập còn kể lại một số cảnh thương tâm như sau:
Anh Nguyễn Tấn T. đi thất thểu trên bến tàu như người mất hồn. Tay ẵm một con nhỏ chưa đầy 3 tuổi và dắt theo hai em bé khác. Anh mếu máo cho biết lạc vợ và một đứa con, đồng thời chứng kiến đứa con thứ ba bị thiên hạ đè bẹp gạt xác xuống biển. Anh đau khổ đến độ không khóc được nữa.
Tôi đã chứng kiến tận mắt 6 thi hài được bó mền khiêng từ xà lan lên bờ đã nằm dài trên mặt cát. Đây là những người già yếu chịu đói khát không nổi đã chết trong đêm 1-4 và ngày 2-4, trong số đó có một em bé. Trên 100 người ngất xỉu được cõng, khiêng lên bờ…
Trong các chuyến tàu đưa người di tản là miền Trung vào Vũng Tàu, có chuyến đã bị binh lính đào ngũ dùng súng khống chế cả chiếc tàu và cướp sạch tiền vàng của người di tản. Có cả những cảnh hãm hiếp trên tàu. Để vét cho sạch, bọn chúng nhẫn tâm chiếm hết các nguồn nước uống trên tàu và chỉ nhường lại với giá trên trời hoặc đổi bằng vàng. Những người di tản giấu được tiền vàng đâu đó cuối cùng cũng phải lòi ra để người thân hoặc chính mình không bị chết khát. Chúng cải trang thành thương phế binh để giấu tiền vàng cướp được dưới những lớp vải băng bó trá hình. Trước tình hình này bộ phận an ninh trên tàu phải bó tay, thuyền trưởng chỉ còn có mỗi cách là dùng vô tuyến điện để báo cáo với chỉ huy quân sự ở Vũng Tàu. Do đó, khi tàu sắp đến bến thì được lệnh từ trong đất liền phải đậu ngoài khơi. Những chiếc tàu hải quân loại nhỏ chở quân cảnh và cấp chỉ huy của nhiều binh chủng khác nhau ra tận nơi “đón” chiếc tàu lớn. Tất cả những binh lính giấu vàng tiền trong người hoặc bị dân chúng di tản nhận dạng đã cướp bóc họ, đều được tách riêng ra và đưa vào bờ trước tại một địa điểm vắng người. Các binh lính này bị hành quyết ngay tại bờ biển.
Chương 22
Tiếp câu: “Tuần lễ đầu tháng 4–1975, trung tướng Dương Văn Minh và nhóm ủng hộ ông quyết định chính thức công bố ý định thay thế tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.”
để góp phần chấm dứt chiến tranh đã kéo dài quá lâu và gây quá nhiều đau khổ cho nhân dân hai miền.
Sau câu: “Từ Sài Gòn lên Đường Sơn Quán, anh Ba ngồi ô tô chung với ông Dương Văn Minh để tránh bị cảnh sát chận bắt dọc đường.”
Sự đối đầu của nhóm ông Minh với chế độ Thiệu dĩ nhiêm bao gồm cả ý định giành lấy quyền hành của Thiệu. Năm 1971, trong cuộc bầu cử tổng thống, ông Dương Văn Minh tuyên bố ra ứng cử, đó cũng là sự thách thức công khai đối với sự lãnh đạo của Thiệu. Nhưng lúc đó tình hình chưa chín mùi, Thiệu đang ở trên đỉnh cao của quyền lực, cuộc cạnh tranh nếu xảy ra hoàn toàn không cân xứng, nên giờ chót ông Minh rút lui khỏi cuộc bầu cử tổng thống. Tuy rút lui nhưng hành động này vẫn có tác dụng làm sứt mẻ địa vị cầm quyền của Thiệu trong nước và trên quốc tế, nhất là dư luận Mỹ.
Bài diễn văn đọc trong buổi họp mặt tất niên Quý Sửu tại Dinh Hoa Lan, nhân kỷ niệm một năm ký kết Hiệp định Paris (xuân Giáp Dần), ông Minh chỉ nói về vai trò của thành phần thứ ba trong khuôn khổ của Hiệp định. Vị trí của nhóm Dương Văn Minh vẫn là “đứng giữa”.
Nhưng lần này tại cuộc họp mặt ở Đường Sơn Quán, lần đầu tiên ông Minh công bố chính thức ý định sẵn sàng thay Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam. Điều đó cũng có nghĩa: đây là cuộc đối đầu dứt khoát, một sự tuyên chiến hẳn hoi với chế độ Thiệu. Với ông Minh, đây là một trách nhiệm không còn có thể né tránh hoặc chần chừ. Các thành viên trong nhóm ông Minh phần đông cũng thấy một thôi thúc như thế, phải có một hành động dứt khoát để có một kết thúc sớm chiến tranh. Tâm trạng của số đông người yêu nước ở miền Nam lúc này khó tả cho thật đầy đủ và thật đúng. Chuyến tàu lịch sử thúc giục họ bước lên, không còn thời gian chần chờ nữa, dù rằng họ chưa biết đích xác chuyến tàu ấy sẽ đưa họ về đâu. MTDTGPMN và những người cộng sản tuy vẫn là một ẩn số đối với nhiều trí thức miền Nam nhưng đồng thời lại là một sức hút đầy ma lực.
Sau câu: “Trong tháng 4-1975, tướng Timmes đến Dinh Hoa Lan thường xuyên hơn. Rất có thể Timmes biết ý định của ông Minh, từ đó thúc đẩy và hỗ trợ thêm.”
Tôi nói như thế vì thật sự việc ông Minh quyết định ra thay Thiệu – “dù phải cầm cờ đầu hàng thay Thiệu” – không là ý kiến xuất phát trước tiên từ ông Minh mà là từ cả nhóm của ông. Không thể nào có chuyện Timmes tác động cả nhóm làm theo ý kiến của CIA, tức Thomas Polgar.
Chương 24
Sau câu: “Ông Dương Văn Minh cũng biết rõ điều đó và rõ ràng ông có chủ đích khi chọn tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin.”
Tôi không phải người thích hợp để chỉ huy mảng tuyên truyền, đấu tranh chính trị với MTDTGPMN và miền bắc cộng sản để bảo vệ đường lối chống Cộng ở miền Nam. Nhưng để tìm kiếm hòa bình và hòa hợp với người Việt Nam cộng sản, giữa người Việt nam ruột thịt với nhau thì tôi hoàn toàn có khả năng đóng góp vào mục tiêu chung của chính phủ Dương Văn Minh. Dĩ nhiên tôi không làm điều này mù quáng mà với ý thức rõ ràng từ tích lũy thực tế và sự suy nghiệm lại lịch sử đất nước từ 1945 - rằng những người cộng sản Việt Nam trước hết là những người yêu nước, đã hy sinh xương máu cho cuộc đấu tranh giành độc lập. Khởi đầu cuộc đời chính trị của tôi trong quốc hội Sài Gòn, lúc đó tôi phân biệt và tách người Việt Nam cộng sản với người Việt Nam yêu nước. Do những luận điệu tuyên truyền chống cộng lâu ngày – mà tôi không chối cãi là mình bị ảnh hưởng ít nhiều – tôi cũng từng nghĩ người Việt Nam cộng sản thiếu trái tim, sẵn sàng hi sinh quyền lợi dân tộc mình, đất nước mình cho chủ thuyết mà họ tôn sùng!
Đến khi tôi nhận ra người cộng sản trước hết là người yêu nước, quá trình lịch sử của họ trước hết là đấu tranh cho độc lập và thống nhất đất nước thì vấn đề về chủ thuyết vào thời điểm này đối với tôi trở thành thứ yếu. Hòa hợp với những người Việt Nam ruột thịt yêu nước, vì độc lập xứ sở phải là ưu tiên số một. Các thiệt thòi và cả những bất cập có thể xảy đến và một giải pháp chính trị có lợi cho người cộng sản cũng không thể là tai họa như tai họa mà nhân dân Việt Nam đã phải gánh chịu suốt hàng thế kỷ qua. Lúc nhận nhiệm vụ tổng trưởng bộ thông tin, tôi nghĩ như thế.
Sau câu: “Nghe đâu Khương vẫn lạc quan, sau đó thì có tin anh qua đời vì đau ruột thừa nhưng không được phát hiện kịp thời.”
Tôi không biết trước khi nhắm mắt, Khương có trách tôi hay không...
Sau câu: “…Có nghĩa là ông già Hương xúi tôi đảo chính!”
Thay câu: “Và cái chức vụ ấy gần như trống rỗng.” (bản B) bằng:
Và cái chức vụ gần như trống rỗng ấy vẫn là một sứ mạng lịch sử vô cùng nặng nề!
Sau câu: “Chỉ có cách đó là tránh cho Sài Gòn khỏi hỗn loạn!”
Tôi nhớ như in trong đầu mình phản ứng của ông Minh lúc đó: ông cười và quay lại phía vợ tôi đang đứng sau lưng ông: “Chung nói đúng phải không bà Chung? Anh em mình đâu có ham gì cái chức tổng thống và quyền hành. Trong tình hình này mình nên sớm chuyển giao quyền cho MTDTGPMN”.
Tiếp câu: “Hơn nữa ông Minh là một nhà quân sự nên rất hiểu tình hình lúc đó như thế nào”
trách nhiệm của ông với tư cách tân tổng thống không thể thụ động ngồi nhìn một tai họa có khả năng đến với đồng bào Sài Gòn.
Chương 25
Tiếp câu: “Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu…”
phó thủ tướng (chưa chính thức) Hồ Văn Minh, tổng trưởng quốc phòng (chưa chính thức) Bùi Tường Huân và tổng trưởng thông tin là tôi.
Tiếp câu: “Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu.”
chờ quân giải phóng cùng các đại biểu MTDTGPMN sẽ vào. Không ai tiên đoán được kịch bản nào sắp xảy ra. Riêng tôi tưởng tượng một kết thúc lý tưởng: đại diện của MTDTGPMN sẽ được long trọng đón tiếp bởi tổng thống Minh và các thành viên của chính phủ ông, và sau đó là tự nguyện trao quyền của chính phủ Dương Văn Minh cho chính phủ CMLTCHMNVN cũng có một ý nghĩa lịch sử rất lớn. Dù chính phủ Dương Văn Minh chỉ được quốc hội Sài Gòn bầu lên, nhưng về mặt pháp lý ông vẫn đại diện cho miền Nam với chế độ gọi là VNCH, đối đầu với MTDTGPMN trong suốt thời kỳ chiến tranh. Ông Minh đã nhận sự ủy quyền này nhưng lại tự nguyện trao quyền đó lại cho chính phủ CMLTMNVN để thay thế mình bảo vệ sự an nguy cho nhân dân Sài Gòn mà chính phủ ông tự nhận là bất lực. Làm việc này, ít ra chính phủ và bản thân ông Minh phải có sự tin cậy phía mà mình trao quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định đơn phương của mình. Hành động tự nguyện này của chính phủ ông Minh là một phủ nhận hùng hồn đối với chiến dịch tuyên truyền mà Mỹ đã phát động chống lại MTDTGPMN và Bắc Việt từ trước và sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Trong giờ phút này của lịch sử, chính người Việt Nam cộng sản là những người đáng tin cậy chứ không phải là nỗi sợ hãi khiếp đảm như hình ảnh mà người Mỹ đã cố gắng tạo ra.
Trách nhiệm của người bị bắt buộc đầu hàng khác hẳn trách nhiệm của người tự nguyện trao quyền với ý thức trao quyền đó có lợi cho đất nước và dân tộc của mình. Tôi nghĩ rồi đây việc nhìn nhận lịch sử sẽ đặt đúng tầm ý nghĩa của bản tuyên bố này khi đề cập đến sự kết thúc cuộc chiến chống Mỹ giành độc lập và thống nhất đất nước.
Sau câu: “Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư: đó là hoà bình và thống nhất.”
Sáng hôm sau – ngày 3-5-1975 – vừa thức dậy thì tôi nghe đứa con trai kế của tôi là Lý Quí Dũng, 11 tuổi, ngủ chung trong phòng nói với sang chỗ tôi: “Ba ơi, nước mình bây giờ lớn lắm phải không ba?”. Tôi hỏi lại: “Tại sao con nói vậy?”. Nó liền nói tiếp: “Vì bây giờ mình có hai nước nhập lại một”! Tôi im lặng, cổ họng như nghẹn lại. Con tôi không nghe tôi trả lời, lại hỏi lớn: “Có đúng không ba?”. Tôi lên tiếng: “Đúng rồi con trai của ba!”.
Phần “Sau ngày 30-4-1975”
Tiếp câu: “Ngay sau tháng 4-1975, thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc trong thành phần đoàn đại biểu miền Nam.”
Hình như đến bây giờ rất ít có ai nhắc lại Hội nghị này. Và khi Hội nghị diễn ra tại Dinh Thống Nhất cũng không ít người coi đó là một hội nghị cho có hình thức nhằm mang lại một căn bản pháp lý tượng trưng cho nước Việt Nam thống nhất, thế thôi. Có hội nghị đó hay không thì nước Việt Nam cũng đã thống nhất rồi. Nhưng
Sau câu: “Tôi đứng lặng thinh vì biết rằng mọi lời giải thích lúc này đều vô ích.”
Những chuyện xảy ra cho gia đình tôi đã biến cha tôi từ một người hồ hởi đón chào Cách mạng, nô nức chờ bạn bè đi kháng chiến trở về, biến thành một người ác cảm với cộng sản và từ luôn con trai của mình vì nó… hợp tác với cộng sản. Phải một năm sau tôi mới có dịp đọc tác phẩm Sông Đông êm đềm của nhà văn Nga M. Sôlôkhôp. Sao có nhiều chuyện giống thế. Và tôi không thể không tự hỏi sao mình lại photocopy làm gì những thứ ấy cho dân mình khốn khó và đau lại nỗi đau mà người dân Nga đã trải qua mấy mươi năm trước!
Sau câu: “Sau năm năm tồn tại như một hiện tượng độc đáo, Tin Sáng được tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ.”
Nếu không có những mâu thuẫn nội bộ, liệu Tin Sáng có kéo dài được sự tồn tại? Một tờ báo gồm các trí thức cũ Sài Gòn, hoạt động như một doanh nghiệp tư nhân, anh Đức nắm tờ báo như một ông chủ báo trước 1975, lại rơi vào thời điểm Đông Âu bắt đầu chứng kiến những biến động (Công đoàn Đoàn Kết của Walesa đã phát động lật đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan), vậy nếu báo Tin Sáng tiếp tục tồn tại thì sẽ ở vị trí nào trong bối cảnh chính trị lúc đó?
Sau câu: “Ông hỏi tôi tình hình ông Minh thế nào, tôi cho biết sức khỏe ông Minh vẫn bình thường và vẫn ở Dinh Hoa Lan.”
Thượng tọa Trí Quang nói: “Ông Minh đã có một quyết định rất đúng”. Tôi nói lại: “Nhưng do đời sống khó khăn và có nhiều người đi học tập cũng có dư luận, dù không nhiều, lên án ông Minh đầu hàng cộng sản”. Thượng tọa Trí Quang lắc đầu: “Một số ít người nói thì cứ nói, nhưng việc làm của ông Minh giao quyền để Sài Gòn không đổ máu và chết chóc, là một hành động bồ tát”.
Phần “Gia đình thân yêu”
Sau câu: “Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ và Canada.”
Là một người lạc quan, tôi luôn ưa nhìn nhận các sự kiện theo hướng tích cực. Hiệp định Geneve 1954 chia đất nước làm hai, chế độ Diệm thúc đẩy một cuộc di cư vào Nam, nhiều người miền Bắc rời nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trong lịch sử của dân tộc chưa bao giờ có một sự trộn lẫn và hòa hợp giữa hai miền lớn lao như thế. Tôi còn nhớ hồi tôi còn nhỏ mẹ tôi không bao giờ phân biệt được người miền Bắc với người miền Trung. Những năm 50 về trước, người miền Nam nghe ai nói phát âm lờ lợ đều cho rằng đó là người Huế. Thực dân Pháp để lại những “di chứng” khá nặng nề trong đó có ý đồ thành lập một “Nam Kỳ quốc”.
Sau năm 1954 người miền Nam sống chung với đông đảo người miền Bắc, chẳng những hiểu biết nhau hơn, xóa bỏ đi những dị biệt địa phương cục bộ bị khoét sâu bởi chế độ thực dân, mà còn bổ sung cho nhau những tính cách độc đáo, những ưu điểm về phong cách sống của mỗi miền cho người dân Việt. Theo những gì tôi được thấy, các giới doanh thương đến từ miền Bắc sau năm 1954 đã đánh đổ được nhiều cứ điểm buôn bán làm ăn trước đây độc tôn của người Ấn Độ, người Hoa trên các đường phố chính ở trung tâm Sài Gòn như đường Catinat (sau đổi lại là Tự Do, bây giờ là Đồng Khởi) hay Lê Thánh Tôn, Lê Lợi v.v… Nó phá vỡ một mặc cảm trước đây của người miền Nam là không thể cạnh tranh, phá vỡ ưu thế tuyệt đối về kinh tế của người nước ngoài trên chính xứ sở mình. Thật cần thiết và quan trọng (cũng rất thú vị) nếu có một công trình nghiên cứu khoa học nào đó về mặt xã hội và con người Việt Nam sau 1954 tại miền Nam.
21 năm sau một kiểu di cư khác – cũng là hậu quả chiến tranh – gọi là “di tản”, bằng máy bay và nhất là bằng tàu thuyền thô sơ. Biết bao nhiêu người đã mất tích dưới lòng biển khơi trong cuộc “di tản” này nhưng những người sống sót phần đông đều biết động viên con em mình học tập. Một nước châu Á giàu có cũng không thể mơ ước chuyện gởi ra nước ngoài cùng lúc hàng triệu con em du học. Chúng ta không hề mong muốn một biến cố như thế xảy ra cho dân tộc mình nhưng 30 năm sau biết bao tài năng trẻ Việt Nam xuất hiện ở cả hai châu Âu lẫn châu Mỹ. Xưa kia ta nói dân tộc Việt Nam, người Việt Nam là từ Bắc chí Nam nhưng bây giờ thì phải nghĩ đến những biên cương xa xôi, nghĩ đến bất cứ nơi nào có giống nòi mình sinh sống. Nước Việt là của tất cả những người có cùng nguồn gốc dù cho đang sinh sống bất cứ nơi nào, có bất cứ quốc tịch nào. Làm thế nào để tất cả không chỉ thương nhớ quê hương mà còn tự hào nguồn gốc của mình. Tôi cũng có những đứa cháu có quốc tịch Pháp, Canada, Mỹ. Và luôn mong ước chúng hãnh diện về nguồn gốc Việt Nam của mình. Lịch sử đất nước đã cung cấp sẵn cho chúng quá nhiều điều để tự hào, vấn đề còn lại là làm sao chúng càng gắn bó với hiện tại và tương lai đất nước.
Hồi ký không tên của tác giả Lý Quí Chung là hồi ức của một con người sớm tự lập, một mẫu người luôn hành động và hành động theo sự dẫn dắt của một con tim sôi nổi nhiệt tình, của một lý trí tỉnh táo, của một tấm tình khá sâu nặng với gia đình và quê hương, được ông thể hiện theo một cách riêng, trong một thời cuộc quá nhiễu nhương, quá sôi động, lắm khi rất rối rắm ở ngay Sài Gòn trong hơn mười năm trước ngày được giải phóng.
Tác giả vốn là một nhà báo thành danh từ khi còn rất trẻ, một chủ bút độc lập quả cảm, một dân biểu, một nghị sĩ sớm lựa chọn con đường đối lập ở nghị trường miền Nam đương đầu chống lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, là một nhân vật có điều kiện nhìn sâu vào bên trong bộ máy cai trị của chính quyền Sài Gòn do Mỹ dựng lên. Bạn đọc sẽ được đi cùng với ông, nhìn từ góc nhìn của ông, để biết thêm gần như xuyên suốt những sự kiện, những biến động chính trị, xã hội lớn tại Sài Gòn, tại miền Nam những năm 1965 đến năm 1975. Và nhất là, thấy được thêm những đóng góp khác nhau của nhiều người Việt yêu nước cho ngày toàn thắng.
Ngày toàn thắng của năm 1975, với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử “Thần tốc–Táo bạo–Bất ngờ-Chắc thắng”, qua 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng (từ 9-3 đến 30-4-1975), quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn quân đội ngụy, đập tan bộ máy chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi này là kết quả của phương pháp cách mạng tổng hợp, kết hợp chặt chẽ đấu tranh trên các mặt trận: quân sự, chính trị, ngoại giao, binh vận. Bên cạnh rất nhiều những cuốn sách mô tả về sự thật mang tính lịch sử này, Hồi ký không tên của Lý Quí Chung có thể coi như một vùng hiện thực còn khuất nẻo được soi chiếu bởi một góc nhìn còn mới lạ, ở một thế đứng vừa nhạy cảm, vừa kiên định của một người có tinh thần dân tộc, chán ghét chế độ Mỹ Thiệu, hoạt động trong lực lượng những người yêu nước.
Chính ở góc độ này, Hồi ký không tên mang một bản sắc riêng. Là hồi ký cá nhân, không phải là một biên niên sử các sự kiện mà ông được chứng kiến, tất nhiên, nên không tránh khỏi cách nhìn, cách phân tích chủ quan. Xuất bản cuốn sách, chúng tôi hy vọng được bổ sung thêm cho những góc nhìn đa dạng về cùng một thời điểm lịch sử vẻ vang của dân tộc, như những tư liệu văn học tham khảo thú vị. Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của quý bạn đọc.
Nhà xuất bản Trẻ
Phần Lời tựa của Trần Bạch Đằng
Sau câu: “Cách mạng Việt Nam đa dạng. Góp vào bức tranh đa dạng ấy những đường nét riêng, tôi xem đó là cống hiến của Lý Quí Chung.”
Gần đây, tôi có dịp đọc hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận, của Dương Văn Ba, và bây giờ, của Lý Quí Chung. Sắp tới sẽ còn nhiều hồi ký nữa, những hồi ký phản ánh độ phong phú của cuộc chiến đấu mà những thành viên của dân tộc, lớn nhỏ khác nhau, nặng nhẹ khác nhau, đã hiến dâng cho thắng lợi của Tổ quốc.
Chương 2
Sau câu: “Tướng Mậu có chứng kiến cuộc bàn luận quyết định số phận của Diệm – Nhu. Ông là người duy nhất không tán đồng giết hai anh em nhà Ngô.”
Về cái chết của hai anh em Diệm – Nhu, nhà báo Mỹ Stanley Karnow kể rằng khi hay tin này, tổng thống Mỹ Kennedy bị sốc, người rụng rời. Ba tuần sau cái chết của Diệm – Nhu, tổng thống Kennedy bị ám sát. Mỹ và cả hai phía Sài Gòn đều không có một cuộc điều tra nào đến nơi đến chốn về hai cái chết này.
Chương 7
Sau câu: “Ở các tỉnh, liên danh Trương Đình Dzu, với chủ trương hòa bình và thương thuyết với MTDTGPMN để chấm dứt chiến tranh, đã thu được một số phiếu khá cao (chỉ đứng sau liên danh Thiệu – Kỳ)”
Điều này chứng tỏ từ những năm 1967-1968, người dân miền Nam đã tỏ rõ quan điểm của mình đối với cuộc chiến do Mỹ đạo diễn.
Tiếp câu: “Cho đến những ngày cuối tháng tư 1975, ông vẫn cố bám vào ghế tổng thống do ông Thiệu để lại và tuyên bố sẵn sàng “chiến đấu cho đến khi Sài Gòn chỉ còn viên gạch cuối cùng”
để bảo vệ chế độ Sài Gòn không lọt vào tay cộng sản!
Chương 11
Sau câu: “Một bài báo quả là hồn nhiên chính trị. Với không ít người còn coi đó là ngây thơ chính trị.”
Nhưng nếu trở lại 35 năm về trước, trong bối cảnh ấy, tôi vẫn sẽ chọn thái độ ngây thơ ấy.
Chương 12
Sau câu: “Một trong những nguyên nhân thất bại của chế độ Thiệu trong thời điểm khởi đầu cuộc đấu tranh quyết liệt với người cộng sản và đồng thời với cả người Mỹ - gần như đã bỏ rơi Thiệu khi quyết định rút chân khỏi Việt Nam – là ở chỗ, phía sau chế độ đó không có hậu thuẫn dân chúng và các lực lượng chính trị có uy tín.”
Tình cảnh của chế độ Thiệu khác hẳn tư thế chính trị của các chế độ nối tiếp nhau ở Nam Triều Tiên sau khi Triều Tiên cũng bị chia đôi. Các chế độ Lý Thừa Vãn, Pắc Chung Hy ít ra cũng có sự hậu thuẫn của quần chúng và trí thức yêu nước. Các chế độ nối tiếp nhau ở Seoul tạo dựng được một sức mạnh tinh thần và vật chất để người dân Nam Triều Tiên có lý do hậu thuẫn.
Chương 14
Sau câu: “Trong giai đoạn này bà có nhiều hình thức đấu tranh rất độc đáo và kiên cường. Trước khi bị bắt, bà Thành đã từng dùng nhà mình để họp báo quốc tế, trưng bày tài liệu, hình ảnh chống chính quyền”.
Để minh họa cho các hoạt động chống chính quyền Thiệu rất Sài Gòn của giới trí thức trước 1975, tôi xin trích lại lời kể của anh Hồ Ngọc Nhuận dự một cuộc họp báo tại nhà bà Thành trước ngày bà bị bắt như sau:
“Chị Ngô Bá Thành có cho ra một cuốn sách về cuộc đấu tranh của Phong trào Phụ nữ Đòi Quyền Sống, hay của lực lượng ba gì đó, mà tôi quên cả cái tựa. Tôi cũng có mấy cuốn về tù, về báo chí, in roneo, mà tôi thường gọi là “vũ khí tự tạo”. Ai cũng biết thứ vũ khí tự tạo đó chỉ hơn giáo mác hay tầm vông vạt nhọn ít thôi, thô sơ là cái chắc.
“Tôi được chị Thành mời dự cuộc họp báo phổ biến sách tại nhà chị. Từ sáng sớm, cảnh sát đã phong tỏa từ xa các ngả đường vào nhà chị, tận phía nhà thương Đồn Đất (Hôpital Grall), tận ngoài trụ sở Công ty Điện lực đường Hai Bà Trưng. Ký giả trong và ngoài nước và quần chúng tụ tập khá đông phía đường Hai Bà Trưng, ở sân sau Hạ nghị viện. Đường Cao Bá Quát dẫn đến nhà chị Thành vắng teo, “nội bất xuất ngoại bất nhập”!
“Họp báo đối với chúng tôi thời đó mà không dùng kế “nghi binh” hay “điệu hổ ly sơn” thì coi như một thứ “biểu tình chạy”, dụ cảnh sát nhiều hơn là gặp các nhà báo. Nếu có thì đa phần là ký giả giả, là “nhà báo cảnh sát”.
“Nhà chị Thành, khi tôi vào, lác đác có mấy người. Chắc là nhờ lẻn vào từ rất sớm, trước khi cảnh sát phong tỏa.
“Trong vài người đó tôi nhớ có ông “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Ông đâu rồi, ông bạn? Bấy giờ tôi gọi ông như vậy, bởi tôi cũng đã già, chớ hồi đó tôi không dám. Hồi đó ông lớn tuổi hơn tôi nhiều. Ít có cuộc đấu tranh nào vắng mặt giáo chủ Nguyễn Tấn Đắt. Liên tôn cầu nguyện cho hòa bình ở Thánh Thất Đô Thành, ở Tịnh Xá Ngọc Phương hay ở Nhà Thờ Dòng Chùa Cứu Thế đều có ông, với nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo lớn nhỏ khác. Rồi những cuộc họp đêm ở văn phòng tôi nữa. Nhớ ông tôi chỉ còn lại vài kỷ niệm trên các tuyên cáo, tuyên ngôn chung chống Mỹ, chống chiến tranh, với chữ ký của ông thật lớn, với dấu son đến nay còn đỏ chót.
“Dân báo chí không vô nhà chị Thành được thì làm sao phổ biến sách? Và khả năng cảnh sát tấn công để hốt sạch, vừa người vừa sách, là điều khó tránh, trước mắt. Sau một hồi bàn thảo, tôi xung phong đưa sách và khách thoát ra ngoài. Không họp báo trong nhà thì họp báo ngoài đường. Không phát hành sách tại gia thì tung sách tại thị. Chiếc LaDalat của tôi lại một phen xông trận. Ông “Bửu Sơn Kỳ Hương” và vài người khác ngồi phía sau, chiếc hộp bánh thết khách chễm chệ bên cạnh tôi ở băng trước. Nửa đường, cảnh sát túa ra chận lại, yêu cầu mọi người phải xuống xe để họ xét, cả xe lẫn người. Ngồi yên sau tay lái, tôi nói cứng không cho mấy người ngồi sau xe rời xe, và “cự” một mạch: “Xuống xe để làm gì? Tôi đi dự họp báo, không cho, tôi về. Mấy bà con này cũng vậy, tôi cho quá giang. Bánh đó ế khách, chủ nhà cho, tôi mang về ăn. Xe tôi trống phốc, không rương không “cốp”, giấu cái gì được? Muốn xét cứ xét, tôi không xuống”.
“Nói cứng mà bụng tôi lại đánh lô tô. Nét mặt các bạn đồng hành, nhìn thoáng, cũng không mấy hồng hào. Khả năng bị bắt chắc là không, vì chúng tôi đang trên đường, không làm gì phạm pháp. Mà xô xát là phải có, trong khi chúng tôi chỉ có một nhúm vài người, cô lập hoàn toàn với báo chí và quần chúng cách đó mấy dãy nhà. Không thể cưỡng mãi lệnh cảnh sát, mấy bạn ngồi phía sau bước xuống. Chiếc xe còn lại trống trơn. Cảnh sát khám trong rồi lại khám ngoài, khám trên rồi khám dưới, khám hết người này đến người khác, cả hộp bánh “ngồi” ở băng trước cũng bị giở lên mấy lần. Trừ tôi, dứt khoát không xuống xe, nhưng cũng mở tung cửa bên cho họ khám. Mà sách đâu không thấy! Dưới sức ấn nhiều đợt của cảnh sát, tôi có cảm giác xe mình như bị sóng nhồi. Chỉ còn thiếu điều họ đè nhau lật ngược chiếc xe lên nữa thôi. Đối với chiếc xe LaDalat thì việc đó không khó. Nhưng sau cùng, không tìm thấy gì, cũng không thể bứng tôi lên khỏi ghế nếu không dùng vũ lực, những người “bạn dân” đã thả cho chúng tôi đi.
“Khi ra được với rừng người đang sốt ruột chờ ở đường Hai Bà Trưng và sân sau Hạ Nghị viện, tôi mời báo chí ăn bánh của bà Thành. Họ không “ăn bánh” mà cứ đòi “coi sách” của bà. Chờ cho sự háo hức đòi coi sách lên cao độ, tôi lần tay xuống ghế ngồi rút cuốn sách của bà Thành giơ cao cho báo chí chụp hình. Lúc nãy, ở nhà bà Thành, tôi đã cẩn thận cắt chỉ khâu tấm da bọc nệm ghế, nhét sách vào và ngồi chồng lên. Đó là lý do tôi dứt khoát không chịu xuống xe. Nếu cảnh sát đã dùng vũ lực bứng tôi khỏi xe thì cuốn sách ắt phải lòi ra và chắc tôi phải mất nhiều thì giờ về bót cảnh sát. Ít ra đối với tôi, là để ký biên bản, còn đối với “ông Bửu Sơn Kỳ Hương” và mấy người khác thì việc gì xảy ra, thật khó mà biết. “Đánh giặc” thì phải hao người thôi. Ít hay nhiều là tùy một phần vào người cầm quân. Tôi không biết sau đó cảnh sát đã làm gì với chị Thành và với mấy cuốn sách của chị.”
Sau câu: “Trong tập hồi ký còn ở dạng bản thảo của anh Hồ Ngọc Nhuận mà tôi được xem qua, về chuyện làm “báo nói”, thì anh Nhuận kể rằng anh đã lấy sáng kiến từ những xe bán dạo “mì Ba Con Cua” (một loại mì ăn liền).”
Anh Nhuận kể: “Gánh của tôi thật gọn nhẹ: một chiếc xe LaDalat vừa làm sàn diễn vừa làm phương tiện di chuyển, một chiếc ampli, vài chiếc loa, mấy tấm biểu ngữ, và rất nhiều truyền đơn. Một gánh thuộc “Sơn Đông mãi võ”, tấp đâu cũng được, biểu diễn chớp nhoáng theo kiểu “sóng vang”. Tôi học được “chiêu” này nhờ mấy chiếc xe mì “Ba Con Cua”. Tôi hay xuống đường hoặc tay không, hoặc thỉnh thoảng với một loa cầm tay. Tới chỗ đông người, ngã ba, ngã tư hay chợ búa, đoàn biểu tình dừng lại trưng biểu ngữ và tôi làm nhiệm vụ phát thanh. Dần dần hễ chúng tôi đi tới đâu thì chính quyền cho mấy chiếc xe mì con cua bò tới đó. Và mạnh ai nấy “phát”. Nhưng làm sao địch lại một bầy cua? Gánh “báo nói” chúng tôi ra đời từ bài học của chính quyền (…) Trong chuyến đi về Mỹ Tho và Cần Thơ tôi nhớ có dân biểu Lý Quí Chung, chị Kiều Mộng Thu, nhà thơ nhà báo Cung Văn. Có nhà báo trẻ Mỹ John Spragens ham vui cũng xin đi theo. Chung và tôi thay phiên nhau lái xe và tất cả, không trừ ai, luân phiên chuyện tiếu lâm”.
Sau câu: “Nhưng đến ngã ba Trung Lương, ô tô không chạy thẳng vào Sài Gòn mà rẽ trái, tiếp tục đi xuống miền Tây. Ý định của chúng tôi là đến Cần Thơ gây một cuộc nữa.”
Về đoạn này anh Nhuận kể lại như sau:“Lúc đó Kính (trung tá Huỳnh Đạt Kính) là trưởng ty cảnh sát Tây đô, mà tôi không hay (Kính là bạn của anh Nhuận). Gặp tôi, Kính nói:
“Ông với tôi không thể nào không đụng nhau sao? Ông bày trò không lẽ tôi không dàn quân? Ông diễn không lẽ tôi ngồi yên?”. Mà Kính dàn trận thật: cảnh sát dã chiến, với khiên tre và gậy đã sẵn sàng. Có lẽ Sài Gòn (tức chính quyền trung ương) không muốn Cần Thơ và các tỉnh bị “lây nhiễm” xáo trộn. Tôi không phải không quen đánh trận, nhưng tôi nghĩ: không “hát” chỗ này thì “hát” chỗ khác, cớ gì phải “hát” ở đây để anh em đối đầu nhau. Vậy là rút”.
Chương 15
Sau câu: “Tôi không có mặt tại trụ sở Nghiệp đoàn lúc đó vì phần sau không nằm trong kế hoạch chung, mà do một số anh em tự biên tự diễn.”
Anh Nhuận có mặt trong sự kiện này đã ghi lại như sau:“Giới nghiêm. Lầu Rex bỗng tối đen. Anh em dân biểu như nghe thấy cái gì đó bất thường trong gió, điệu bộ mỗi người thay đổi mỗi khác. Từ phía nhà thờ Đức Bà, theo đường Tự Do, nay là Đồng Khởi, một đoàn xe jeep cảnh sát xả hết tốc lực, qua ngả nhà hàng Givral, mất hút về phía chợ Sài Gòn. Chúng tôi đứng vụt cả dậy, từ trụ sở Hạ nghị viện chạy bay qua cửa Trung tâm báo chí, siết tay nhau làm rào chắn. Chưa kịp chỉnh đốn hàng ngũ, cơn trốt cảnh sát đã ập tới. Họ từ chợ Bến Thành đến đã bọc xuống bến Bạch Đằng đánh thốc lên theo ngả Tự Do, Nguyễn Huệ, không ai kịp nhận biết. Không cần lâu lắc lắm để họ xé nát hàng rào. Anh em dân biểu bị nện dùi cui tan tác. Hai người tôi thoáng thấy bị đòn nhiều nhất là dân biểu Trương Vi Trí, đơn vị quận 5 và dân biểu Nguyễn Văn Quí, đơn vị Hậu Nghĩa. Một cảnh sát chộp tay tôi, lúc phá hàng rào người, tôi hét: “Bỏ ta ra! Mày làm rớt đồng hồ tao!''. Một phản ứng tức cười! Anh cảnh sát ngó sững mắt tôi, rồi buông tôi ra, sau một thoáng chưng hửng. Anh Nguyễn Kiên Giang nói đúng: Cảnh sát “sợ'' tôi. Sợ lỡ tay tôi chết, anh em bị tù oan. Nói vậy chớ làm sao tránh khỏi ăn đòn, trong một trận “bề hội đồng''! Nhưng có lẽ tôi là người bị ăn đòn nhẹ nhất. Nặng nhất là anh dân biểu bác sĩ Đinh Xuân Dũng, đơn vị Bình Thuận. Anh, người không cao mà có bề ngang, giọng quát thật to lại nặng gốc Quảng Bình. Đánh anh chưa đã, họ lôi anh thảy lên xe, như bao gạo, chạy mất. Vì anh quát to hay vì giọng anh ''thấy ghét''? Bữa đó ai mà không la, có lúc tôi còn la to hơn anh. Vậy chắc không phải tại anh la (anh Đinh Xuân Dũng bị cảnh sát bắt quăng lên xe jeep như một con heo!).
“Trung tâm báo chí tan tác như một chuồng gà bị đột nhập, lớp bị vồ, lớp co giò tìm ngõ chạy thục mạng. Bao nhiêu ký giả bị bắt? Tôi không nhớ. Có ai ký giả giả trà trộn để nhìn mặt, chụp hình? Mọi người cũng chỉ đoán.
Đám tàn quân dân biểu kéo về trụ sở các ủy ban Hạ viện. Để tính kế. Ông Thiệu muốn gì mà cho đánh và bắt một dân biểu mang đi? Để “phá đám'' rồi thả? Hay đã bắt, dù bắt ẩu, thì bắt luôn, bắt tiếp, thử nắn gân nhau tới cùng? Nghi vấn này, chúng tôi nghĩ phải có giải đáp ngay trong đêm: hoặc Đinh Xuân Dũng sẽ được trả về trước khi trời sáng, hoặc Trang Sĩ Tấn mở đợt tấn công mới, để cho Đinh Xuân Dũng có bạn. Trong giả thiết xấu nhất, nếu phải “quyết chiến'' lần chót, tôi đề nghị với anh em trận chiến phải diễn ra trước trụ sở quốc hội. Một trận chiến ''bốc lửa'' thật sự. Anh em tán thành. Chiếc LaDalat đã được chất đầy một đống vỏ xe cũ và mấy can xăng. Ngay phút đầu nếu bị tấn công, tôi sẽ lái phóng thẳng qua sân Hạ viện rồi tới đâu thì tới. Chuẩn bị vừa xong, đang ngáp vặt, một chiếc xe jeep cảnh sát thắng “cháy bánh” trước trụ sở Ủy ban rồi vụt chạy mất. Sau khi thảy đánh bịch xuống lề đường một “bọc” to. Anh em vội chạy ra “lượm” khiêng vô. Đó là anh Đinh Xuân Dũng!”
Chương 17
Trước câu: “Trong khi chuẩn bị cuộc hội thảo, tôi có tiếp xúc với “Tổ Chức Đòi Thi Hành Hiệp Định Paris do luật sư Trần Ngọc Liễng đứng đầu và mới anh tham dự để tăng khí thế.”
Trong dự định của mình, khi thuyết trình đến đoạn đề cập thành phần thứ ba, tôi sẽ đặt hai câu hỏi với những người tham dự: 1. Có phải thành phần thứ ba là một phong trào quần chúng? (Ai đồng ý đưa tay lên). 2. Tổng thống Thiệu cho rằng thành phần thứ ba do Pháp dựng lên. (Ai phản đối đưa tay lên). Báo chí nước ngoài và ống kính truyền hình sẽ ghi nhận thực tế không thể chối cãi về thành phần thứ ba.
Sau câu: “Buổi thuyết trình tại chùa Ấn Quang diễn tiến đúng như dự kiến.”
có cả đoạn đặt câu hỏi và sự biểu quyết của hàng trăm người tham dự bằng cách giơ tay dưới ánh đèn sáng choang của các hãng truyền hình Mỹ, Anh, Đức…
Chương 18
Giữa câu: “Ông ta lo cho thân mình không xong nói chi chuyện bao biện cho ông Thiệu và chính quyền Sài Gòn.” và câu: “Nhưng cái chính là Thiệu và chính quyền của ông ta vừa không có năng lực lại tham nhũng, không thể đối phó các cuộc tấn công, nhất là khi không còn người Mỹ.”
Sau khi Hiệp định Paris được ký, Hãng thăm dò dư luận Gallup đã đặt các câu hỏi sau đây với người dân Mỹ và đã nhận được các phản ứng sau:
- Khi Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam, bạn có nghĩ sẽ có một chính quyền khá đủ mạnh được duy trì tại miền Nam và có thể đối đầu với áp lực chính trị của cộng sản? 54% số người được hỏi tin rằng chính quyền đó của miền Nam sẽ không tồn tại. 27% cho rằng tồn tại và 19% không có ý kiến.
- Sau khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, bạn có nghĩ trong một thời gian ngắn, Bắc Việt sẽ tìm cách chiếm miền Nam? 70% nghĩ Bắc Việt sẽ tìm cách chiếm miền Nam, 16% nghĩ không và 14% không có ý kiến.
- Đặt giả thuyết quân đội đã rút khỏi Việt Nam, và Bắc Việt tìm cách chiếm miền Nam, bạn có nghĩ Mỹ sẽ gửi phương tiện quân sự cho miền Nam? 50% nghĩ là không, 38% là có, 12% không có ý kiến.
- Nếu Bắc Việt tìm cách chiếm miền Nam, bạn có nghĩ Mỹ nên ném bom miền Bắc? 71% không đồng ý ném bom, 17% cho rằng nên và 12% không có ý kiến.
- Nếu Bắc Việt tìm cách chiếm miền Nam, bạn có nghĩ Mỹ nên gửi quân đội giúp miền Nam? 79% chống lại, 13% tán đồng và 8% không có ý kiến.
Như vậy dư luận Mỹ hoàn toàn bất lợi cho chính quyền Thiệu dù cái cách đặt câu hỏi cũng áp đặt ác cảm với phía cộng sản. Có dư luận cho rằng Watergate đã làm cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam sau Hiệp định Paris suy sụp. Kissinger sau này hiểu rằng mình đã phán đoán sai ý chí của nhân dân Mỹ trong sự bảo vệ hiệp định. Ông nói: “Tôi nhìn nhận điều đó. Chúng tôi đã đánh giá sai. Và điều chúng tôi đánh giá sai hơn cả là sự tin tưởng của chúng tôi có thể mang lại hòa bình danh dự, rằng chúng tôi có thể đoàn kết nhân dân Mỹ để bảo vệ hiệp định đã đạt được trong vô vàn đau đớn. Đó là sự đánh giá sai căn bản của chúng tôi. Một hiệp định mà bạn không thể làm cho nó hiệu lực là một sự đầu hàng…” (trích trong “No Peace No Honor” của Larry Berman). Nhưng một lập luận khác về sự sụp đổ của chính quyền Thiệu, theo tôi, đã bóc trần vấn đề, do nhà báo Stanley Karnow đưa ra trong quyển “Vietnam – A History”: Người ta cho rằng vụ xì–can–đan Watergate hại uy tín của Nixon, làm cho ngành hành pháp yếu đi, nhân dân Mỹ càng ác cảm với vấn đề Việt Nam khiến cho chính phủ Mỹ không thể giữ lời hứa ra tay cứu chính quyền Thiệu.
Chương 19
Trước câu: “Vào thời điểm 1973 và sau đó, không riêng ở Sài Gòn mà tại Mỹ, Pháp…, đâu đâu cũng có những cá nhân tự xưng mình thuộc thành phần thứ ba.”
Với Hiệp định Paris, tình hình miền Nam mở ra nhiều khả năng khác nhau. Khi ấy tôi nghĩ, lạc quan nhất lúc này là giải pháp một chính phủ hòa giải, hòa hợp gồm ba thành phần. Nhưng không ai mường tượng cái chính phủ ấy vận hành thế nào, khi giữa chính phủ Sài Gòn và chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam như lửa với nước, còn thành phần thứ ba thì không biết sẽ chọn lựa như thế nào.
Giữa câu: ‘‘Năm ngoái, cũng ngày 24 tháng Chạp âm lịch này, chúng ta đã đón nhận với nhau hi vọng bản Hiệp định Parls như là một căn bản thực tế để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình.” và câu: “Hiện tại của miền Nam Việt Nam không có cách nào khác là phải phá đổ.”
‘‘Năm ngoái, cũng ngày 24 tháng Chạp âm lịch này, chúng ta đã đón nhận với nhau hi vọng bản Hiệp định Paris như là một căn bản thực tế để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình trong tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc.
“Nếu Hiệp định đã được thi hành với thiện chí thì hôm nay, tiếng súng đã im hẳn trên toàn lãnh thổ miền Nam, các tù nhân quân sự, dân sự và chính trị đã đoàn tụ với gia đình, nhân dân miền Nam đã hưởng được các quyền tự do căn bản và một nếp sinh hoạt mới đã được khởi diễn trên phần đất này, tạo điều kiện cho cuộc hòa giải giữa các thành phần dân tộc.
“Nếu Hiệp định đã được thi hành với thiện chí thì hôm nay miền Nam chúng ta đã có thể bắt đầu tái thiết, phát triển, xây dựng một ngày mai tươi sáng cho mọi người, nhất là cho thế hệ trẻ.
‘‘Nhưng trong năm qua, tiếng súng chưa im một ngày nào.
“Và hôm nay trước thềm năm Giáp Dần, thay vì được ăn cái Tết thanh bình đầu tiên sau gần 30 năm khói lửa, nhân dân miền Nam lại phải vừa gánh chịu một cuộc chiến tranh kéo dài, vừa đương đầu với những khó khăn cơ cực do sự suy sụp trầm trọng của nền kinh tế bấy lâu nay chỉ biết bám vào ngoại viện để cung phụng chiến tranh”.
Như thế sau một năm ký kết Hiệp định Paris, tình hình chưa có gì sáng sủa, thậm chí còn mù mờ hơn. Trong bài phát biểu của ông (tức nhóm ông Minh) còn phản ánh một quan điểm về lực lượng thứ ba: không phải là một tập hợp thống nhất dưới một lãnh tụ duy nhất nào.
Đúng là những gì diễn ra sắp tới vẫn còn mù mờ, nhưng tôi chắc rằng dù bất cứ một đổi thay nào cũng tốt hơn hiện tại.
Sau câu: “Bây giờ ông có hai kẻ thù chứ không là một, thậm chí kẻ thù Mỹ được đặt lên trên cộng sản.”
Có người cho rằng sau khi Phước Long thất thủ ngày 6-1-1975, quân Sài Gòn có khả năng tái chiếm nhưng chính tổng thống Thiệu ra lệnh dừng lại, lấy vụ Phước Long để trắc nghiệm xem Mỹ có giữ lời hứa bảo vệ miền Nam sau Hiệp định Paris hay không. Tôi không tin lập luận này vì thực tế tinh thần của quân đội VNCH lúc đó đang xuống thấp. Cố vấn Mỹ đã rút khỏi các đơn vị, đạn pháo bắn phải tính từng viên, máy bay xin yểm trợ rất khó khăn… có muốn tái chiếm cũng không thể!
Chương 20
Sau câu: “Các nhà báo như Nguyễn Vạn Hồng, Trương Lộc... dù có quan hệ với Mặt Trận, nhưng không bị lộ cũng không bị bắt trong đợt đó.”
Tôi trao đổi vấn đề này cùng anh Nhuận và có nói với anh: “Tôi không nghĩ Thành làm cho TƯTB. Nếu Thành có làm cho ai đó thì… chỉ làm cho Mặt Trận. Tôi bảo đảm với anh điều đó”.
Sau này anh Nhuận có kể lại lý do ban đầu anh nghi ngờ Huỳnh Bá Thành như sau:
“Một hôm tôi nghe họa sĩ Ớt bị cảnh sát bao vây trước rạp Olympic trước rạp Hồng Thập Tự, nay là Nguyễn Thị Minh Khai, khi anh lái chiếc LaDalat của dân biểu Hữu Chung. Cảnh sát bao vây khá lâu nhưng không bắt, tôi không biết tại sao…
“Sau đó, tôi không nhớ bao lâu, tôi lại gặp anh tá túc ở văn phòng trung tá Đẩu, “chỗ ở thường trú” của Dương Văn Ba (văn phòng này nằm ở cổng sau của dinh Hoa Lan nhìn ra đường Trần Quý Cáp, hiện là đường Võ Văn Tần). Không được mấy ngày, nại cớ nhớ nhà, anh nằng nặc đòi về quê thăm vợ con, can mấy cũng không nghe. Khi trở lại, anh không chịu ở yên mà cứ lui tới như không có gì… Tôi đã kể chuyện nằm ở bệnh viện Sùng Chính sau trận Cầu Muối: cũng tại phóng viên nhiếp ảnh Kỳ Nhân không chịu nằm yên mà tôi phải sớm di tản khỏi bệnh để về nhà ông Minh… Nhưng nhà ông Minh và văn phòng báo chí của ông là “cứ điểm” cuối cùng, biết di tản đi đâu nếu bị “động ổ”? Tôi đành nói với Dương Văn Ba và chung quanh nên cảnh giác, không nói, không bàn việc gì quan trọng khi có Ớt sáp lại gần! Nghĩ cũng tức cười: sau 30-4-1975 và nhất là sau những gì anh viết, anh kể, ai cũng biết Ớt là một cán bộ chỉ huy điệp vụ cách mạng, mà tôi lại nghi anh là công an chế độ cũ! Và khi anh nói anh đi về quê thì chắc là để đi đến một nơi bí mật nào đó mà tôi cứ theo cản…”
Chương 21
Sau câu: “Tháng 3-1975, nhiều người ở Sài Gòn không thể đoán rằng quyết định rút quân ra khỏi Cao Nguyên của tổng thống Thiệu là sự khởi đầu của sự sụp đổ hoàn toàn và mau chóng của cả chế độ.”
Tôi còn nhớ lúc đó có người còn tưởng tượng đây là một thỏa thuận giữa Mỹ và Bắc Việt chia cắt miền Nam làm hai để thành lập khu trái độn, giao một nửa cho MTDTGPMN kiểm soát.
Sau câu: “Weyand cho rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm làm mọi khả năng của mình để cung cấp phương tiện và trang thiết bị giúp cho chính quyền miền Nam bổ sung tiềm lực của mình đối đầu với cuộc tấn công.”
Weyand kết luận: “Chúng ta đến Việt Nam trước hết là giúp đỡ nhân dân miền Nam – chứ không phải để chiến thắng Bắc Việt. Chúng ta đã chìa tay ra với nhân dân miền Nam và họ đã nắm lấy. Bây giờ họ cần bàn tay ấy hơn bao giờ hết.”
Sau câu: “Trong lối 4 tiểu đoàn địa phương gồm toàn đồng bào Thượng, phần lớn đã đào nhiệm mang theo vũ khí, đã phản loạn mở cuộc tấn công tập hậu vào đoạn cuối đoàn di tản đồng thời nổi lửa phá phố phường, cướp bóc và bắn giết những đồng bào còn ở lại...”
Trước mặt đoàn xe 1.000 chiếc, tức đoạn chót của đoàn di tản, còn bị các chốt phục kích của Sư đoàn Bắc Việt mở cuộc tấn công.
Lực lượng Biệt Động do tướng Tất chỉ huy bảo vệ cuộc di tản lập tức giàn trận chống trả, cả mặt trước lẫn sau lưng, cả hông trái lẫn hông phải. Đồng bào, binh sĩ xuống hết khỏi xe. Biệt Động Quân mở đường máu, bỏ liên tỉnh lộ số 7, tìm lối thoát đi. Tất cả xe cộ và mọi dụng cụ không thể mang theo đành bị đốt sạch. Từ đây về đến Phú Yên, quãng đường dài còn lại có tới 40 đến 50 cây số.
Trong tiếng nổ giòn tan của đạn súng nhỏ, tiếng rít lạnh gáy và tiếng nổ kinh hồn của đạn đại bác… Một đại lộ kinh hoàng khác như mùa hè 72 tại Quảng Trị cũng đã mở ra.
LTS: Bản tin của bản báo đặc phái viên Nguyễn Tú, đọc qua điện thoại bị cắt đứt ở đây. Sau trận tấn công này chưa rõ tin tức có được thông báo tiếp về tòa soạn nữa không. Liên lạc thông lệ mỗi buổi sáng, hôm nay, cho tới lúc báo lên khuôn, chưa nhận được.
Sau câu: “Các sân tennis vẫn đầy người chơi, các phu nhân vẫn đến tập thể dục thẩm mỹ đều đặn, hồ bơi mỗi buổi trưa vẫn là nơi hò hẹn của những giai nhân trong các bộ bikini khêu gợi.”
Ở Sài Gòn dường như không hề có không khí chiến tranh, nhiều người Sài Gòn không thèm nghe những tiếng súng, những đau xót vọng lại từ miền Trung và Cao nguyên.
Trước câu: “Một thiếu phụ dẫn hai con đi ngược lên cầu thang.”
Xuống cầu thang đầu tiên là hai chú bé. Hai đứa ôm nhau rồi hỏi nhau “mình đi đâu bây giờ”. Rồi cùng òa lên khóc.
Sau câu: “Có điều là ở Đà Nẵng trong hiện tại, gánh nặng cơ hồ không giải quyết nổi.”
Ngay tại cổng phi trường Đà Nẵng đã có đến 1.000.000 chực chờ từ sáng sớm để được vào mua vé tại quầy Hàng không Việt Nam. Cảnh hỗn loạn, tranh giành, đánh nhau dĩ nhiên không tránh khỏi…
Sau câu: “Hầu hết trong số này thuộc đơn vị Hắc Báo được coi là tinh nhuệ nhất của Sư đoàn 1 bộ binh.”
Phải nói là chỉ có kẻ mạnh nhất, nhanh nhất, và bần tiện nhất mới lên được máy bay. Một bà lão đã bị một binh sĩ đá ngay mặt té xuống đất để anh ta giành chỗ lên máy bay, xác bà sau đó hầu như biến mất dưới bàn chân của đám đông. Ngồi trên máy bay rồi mà tất cả vẫn còn kinh hoàng.
Sau câu: “Bài tường thuật của phóng viên Paul Vogen của hãng thông tấn UPI cùng hình ảnh người lính chết thòng chân ở máy bay đã được đăng nơi trang nhất các báo Mỹ ra ngày chủ nhật Lễ Phục Sinh 30-3. Tổng thống Ford khi xem cảnh đó đã nói “Đã đến lúc rút dây. Việt Nam mất rồi!”.
Nhưng cảnh di tản bằng tàu mới thực sự kinh hoàng hơn. Thảm kịch của những cuộc di tản này do đâu? Nỗi âu lo, sợ hãi đối diện với những gì sắp xảy ra – mà phần đông cũng không biết rõ nó như thế nào – là một nguyên nhân của sự đổ xô chạy loạn. Nỗi sợ hãi vô hình này đã bị kích động, nhân lên hàng chục lần bởi một chiến dịch tuyên truyền chống cộng đầy ác tâm của người Mỹ. Phóng viên nhiếp ảnh Mỹ Carl Robinson của hãng tin AP trong thời điểm này có gặp tôi và tiết lộ rằng chính tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn có chủ trương loan truyền những thông tin hoàn toàn bịa đặt về sự tàn bạo của cộng sản ở những tỉnh và vùng mà họ đã chiếm đóng như: Phụ nữ sơn móng tay đều bị rứt móng, những phụ nữ lấy Mỹ bị đem ra bêu xấu trước quần chúng, các binh lính chế độ Sài Gòn bị hành quyết hàng loạt v.v… được tung ra ngay trong cuộc họp báo của đại diện báo chí tòa đại sứ Mỹ. Anh Carl Robinson tỏ ra bất mãn đối với loại tin tức dựng đứng này. Theo Carl, chiến dịch loan tin này nhằm thúc đẩy một số người chạy khỏi vùng cộng sản vừa chiếm mỗi ngày một đông hơn và như thế người Mỹ chứng minh được rằng nhân dân miền Nam tuyệt đại đa số sợ hãi và căm thù cộng sản. Cũng bằng cách đó Mỹ chứng minh sự can thiệp của mình vào Việt Nam là đúng đắn, đáp lại nguyện vọng của đa số người dân miền Nam! Theo nhà báo Olivier Todd, đặc phái viên tuần báo Newsweek phỏng vấn những người chạy khỏi những vùng bị cộng sản đánh chiếm, họ không xác nhận những tin tức liên quan đến những cuộc tàn sát được chính quyền Sài Gòn và phía Mỹ loan ra. Đại sứ Martin nổi giận ra lệnh nhân viên của mình trưng ra cho báo chí “những bức điện” đề cập những cuộc hành quyết tại Đà Nẵng, Ban Mê Thuột và nhiều nơi khác!
Sau đây bài tường thuật của báo Độc Lập xuất bản ngày 4-4-1975 về “Chuyến vượt biển đầy chết chóc từ miền Trung vào tới Sài Gòn”:
“Đây có thể gọi là chuyến tàu chót rời Đà Nẵng. Tất cả có trên 50 ngàn vừa dân vừa lính. Bà con gồm nhiều tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Tín và Cam Ranh. 50 ngàn người dồn cứng dưới 3 xà lan và một tàu RMK.
Thoạt tiên, ngày 28-3 bà con đã ùn ùn đổ nhau xuống ghe chài hoặc xà lan rời bến Đà Nẵng chạy ra khơi. Một xà lan rộng 7 thước dài trên 30 thước nêm cứng đến 12 người. Trẻ em bị nén lại… Nếu ngày 29-3 không được tàu RMK từ ngoài khơi xa thẳm tiến lại gần để san bớt số đồng bào trên xà lan thì con số chết ngộp và khát nước lên tới phân nửa. Trong ngày 29-3 còn có thêm ghe chài chở hàng chục ngàn dân. Tất cả được đón lên tàu RMK. Tới 10 giờ ngày 29-3, tàu RMK nhổ neo xuôi vào Cam Ranh và cập bến nơi đây vào lúc xế chiều 31-3. Vừa lục đục kéo nhau lên bờ thì tin di tản được loan ra, vậy là thêm một lần nữa cảnh chen lấn diễn ra, người khỏe đạp lên người yếu, trai tráng xô té người già nua. Trẻ con khóc gào vang dội bến tàu. Có đôi ba em bé vuột khỏi tay mẹ, tay chị, bị đoạn người đông đảo phóng tới cuồn cuộn đạp nhàu lên khiến các em nhừ nát. Những ai chậm chân và yếu sức chạy từ Đà Nẵng vào đành kẹt lại Cam Ranh để những người khỏe từ Cam Ranh tràn lên tàu và xà lan lấn chỗ. Tàu nhổ neo ngày 1-4 xả tốc lực kéo các xà lan tới Vũng Tàu sau 12 tiếng đồng hồ.
9 giờ sáng 2-4, tàu RMK và ba xà lan đã có mặt ngoài khơi Vũng Tàu với 50 ngàn người đói khát sau năm ngày lênh đênh. Tàu không được phép cập bến Vũng Tàu, chính quyền địa phương viện lẽ chưa có lệnh của trung ương. Thuyền trưởng tàu RMK liên lạc với cơ quan Mỹ ở Sài Gòn bằng vô tuyến thì được khuyến khích cho ba xà lan tự chạy vào bến Sài Gòn.
Tối 2-4 ba xà lan lù lù tiến vào sông Nhà Bè thì bị chặn lại vì lệnh mới ban ra không cho tàu thuyền nào được vào Sài Gòn. Xà lan lại phái trở ra Vũng Tàu và thêm một đêm đầu đội sương, chân đạp... sắt lạnh lẽo! Đến sáng 3-4 xà lan mới được lệnh cập bến.
Báo Độc Lập còn kể lại một số cảnh thương tâm như sau:
Anh Nguyễn Tấn T. đi thất thểu trên bến tàu như người mất hồn. Tay ẵm một con nhỏ chưa đầy 3 tuổi và dắt theo hai em bé khác. Anh mếu máo cho biết lạc vợ và một đứa con, đồng thời chứng kiến đứa con thứ ba bị thiên hạ đè bẹp gạt xác xuống biển. Anh đau khổ đến độ không khóc được nữa.
Tôi đã chứng kiến tận mắt 6 thi hài được bó mền khiêng từ xà lan lên bờ đã nằm dài trên mặt cát. Đây là những người già yếu chịu đói khát không nổi đã chết trong đêm 1-4 và ngày 2-4, trong số đó có một em bé. Trên 100 người ngất xỉu được cõng, khiêng lên bờ…
Trong các chuyến tàu đưa người di tản là miền Trung vào Vũng Tàu, có chuyến đã bị binh lính đào ngũ dùng súng khống chế cả chiếc tàu và cướp sạch tiền vàng của người di tản. Có cả những cảnh hãm hiếp trên tàu. Để vét cho sạch, bọn chúng nhẫn tâm chiếm hết các nguồn nước uống trên tàu và chỉ nhường lại với giá trên trời hoặc đổi bằng vàng. Những người di tản giấu được tiền vàng đâu đó cuối cùng cũng phải lòi ra để người thân hoặc chính mình không bị chết khát. Chúng cải trang thành thương phế binh để giấu tiền vàng cướp được dưới những lớp vải băng bó trá hình. Trước tình hình này bộ phận an ninh trên tàu phải bó tay, thuyền trưởng chỉ còn có mỗi cách là dùng vô tuyến điện để báo cáo với chỉ huy quân sự ở Vũng Tàu. Do đó, khi tàu sắp đến bến thì được lệnh từ trong đất liền phải đậu ngoài khơi. Những chiếc tàu hải quân loại nhỏ chở quân cảnh và cấp chỉ huy của nhiều binh chủng khác nhau ra tận nơi “đón” chiếc tàu lớn. Tất cả những binh lính giấu vàng tiền trong người hoặc bị dân chúng di tản nhận dạng đã cướp bóc họ, đều được tách riêng ra và đưa vào bờ trước tại một địa điểm vắng người. Các binh lính này bị hành quyết ngay tại bờ biển.
Chương 22
Tiếp câu: “Tuần lễ đầu tháng 4–1975, trung tướng Dương Văn Minh và nhóm ủng hộ ông quyết định chính thức công bố ý định thay thế tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.”
để góp phần chấm dứt chiến tranh đã kéo dài quá lâu và gây quá nhiều đau khổ cho nhân dân hai miền.
Sau câu: “Từ Sài Gòn lên Đường Sơn Quán, anh Ba ngồi ô tô chung với ông Dương Văn Minh để tránh bị cảnh sát chận bắt dọc đường.”
Sự đối đầu của nhóm ông Minh với chế độ Thiệu dĩ nhiêm bao gồm cả ý định giành lấy quyền hành của Thiệu. Năm 1971, trong cuộc bầu cử tổng thống, ông Dương Văn Minh tuyên bố ra ứng cử, đó cũng là sự thách thức công khai đối với sự lãnh đạo của Thiệu. Nhưng lúc đó tình hình chưa chín mùi, Thiệu đang ở trên đỉnh cao của quyền lực, cuộc cạnh tranh nếu xảy ra hoàn toàn không cân xứng, nên giờ chót ông Minh rút lui khỏi cuộc bầu cử tổng thống. Tuy rút lui nhưng hành động này vẫn có tác dụng làm sứt mẻ địa vị cầm quyền của Thiệu trong nước và trên quốc tế, nhất là dư luận Mỹ.
Bài diễn văn đọc trong buổi họp mặt tất niên Quý Sửu tại Dinh Hoa Lan, nhân kỷ niệm một năm ký kết Hiệp định Paris (xuân Giáp Dần), ông Minh chỉ nói về vai trò của thành phần thứ ba trong khuôn khổ của Hiệp định. Vị trí của nhóm Dương Văn Minh vẫn là “đứng giữa”.
Nhưng lần này tại cuộc họp mặt ở Đường Sơn Quán, lần đầu tiên ông Minh công bố chính thức ý định sẵn sàng thay Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình cho miền Nam. Điều đó cũng có nghĩa: đây là cuộc đối đầu dứt khoát, một sự tuyên chiến hẳn hoi với chế độ Thiệu. Với ông Minh, đây là một trách nhiệm không còn có thể né tránh hoặc chần chừ. Các thành viên trong nhóm ông Minh phần đông cũng thấy một thôi thúc như thế, phải có một hành động dứt khoát để có một kết thúc sớm chiến tranh. Tâm trạng của số đông người yêu nước ở miền Nam lúc này khó tả cho thật đầy đủ và thật đúng. Chuyến tàu lịch sử thúc giục họ bước lên, không còn thời gian chần chờ nữa, dù rằng họ chưa biết đích xác chuyến tàu ấy sẽ đưa họ về đâu. MTDTGPMN và những người cộng sản tuy vẫn là một ẩn số đối với nhiều trí thức miền Nam nhưng đồng thời lại là một sức hút đầy ma lực.
Sau câu: “Trong tháng 4-1975, tướng Timmes đến Dinh Hoa Lan thường xuyên hơn. Rất có thể Timmes biết ý định của ông Minh, từ đó thúc đẩy và hỗ trợ thêm.”
Tôi nói như thế vì thật sự việc ông Minh quyết định ra thay Thiệu – “dù phải cầm cờ đầu hàng thay Thiệu” – không là ý kiến xuất phát trước tiên từ ông Minh mà là từ cả nhóm của ông. Không thể nào có chuyện Timmes tác động cả nhóm làm theo ý kiến của CIA, tức Thomas Polgar.
Chương 24
Sau câu: “Ông Dương Văn Minh cũng biết rõ điều đó và rõ ràng ông có chủ đích khi chọn tôi làm tổng trưởng Bộ Thông tin.”
Tôi không phải người thích hợp để chỉ huy mảng tuyên truyền, đấu tranh chính trị với MTDTGPMN và miền bắc cộng sản để bảo vệ đường lối chống Cộng ở miền Nam. Nhưng để tìm kiếm hòa bình và hòa hợp với người Việt Nam cộng sản, giữa người Việt nam ruột thịt với nhau thì tôi hoàn toàn có khả năng đóng góp vào mục tiêu chung của chính phủ Dương Văn Minh. Dĩ nhiên tôi không làm điều này mù quáng mà với ý thức rõ ràng từ tích lũy thực tế và sự suy nghiệm lại lịch sử đất nước từ 1945 - rằng những người cộng sản Việt Nam trước hết là những người yêu nước, đã hy sinh xương máu cho cuộc đấu tranh giành độc lập. Khởi đầu cuộc đời chính trị của tôi trong quốc hội Sài Gòn, lúc đó tôi phân biệt và tách người Việt Nam cộng sản với người Việt Nam yêu nước. Do những luận điệu tuyên truyền chống cộng lâu ngày – mà tôi không chối cãi là mình bị ảnh hưởng ít nhiều – tôi cũng từng nghĩ người Việt Nam cộng sản thiếu trái tim, sẵn sàng hi sinh quyền lợi dân tộc mình, đất nước mình cho chủ thuyết mà họ tôn sùng!
Đến khi tôi nhận ra người cộng sản trước hết là người yêu nước, quá trình lịch sử của họ trước hết là đấu tranh cho độc lập và thống nhất đất nước thì vấn đề về chủ thuyết vào thời điểm này đối với tôi trở thành thứ yếu. Hòa hợp với những người Việt Nam ruột thịt yêu nước, vì độc lập xứ sở phải là ưu tiên số một. Các thiệt thòi và cả những bất cập có thể xảy đến và một giải pháp chính trị có lợi cho người cộng sản cũng không thể là tai họa như tai họa mà nhân dân Việt Nam đã phải gánh chịu suốt hàng thế kỷ qua. Lúc nhận nhiệm vụ tổng trưởng bộ thông tin, tôi nghĩ như thế.
Sau câu: “Nghe đâu Khương vẫn lạc quan, sau đó thì có tin anh qua đời vì đau ruột thừa nhưng không được phát hiện kịp thời.”
Tôi không biết trước khi nhắm mắt, Khương có trách tôi hay không...
Sau câu: “…Có nghĩa là ông già Hương xúi tôi đảo chính!”
Như vậy từ khi Ban Mê Thuột thất thủ, tướng Nguyễn Cao Kỳ đã tự đề nghị xung phong ra cầm quân chống cuộc tiến quân của cộng sản lần lượt với tổng thống Thiệu, rồi với người thay Thiệu tạm thời là Trần Văn Hương và chót hết là tổng thống Minh. Nhưng cả ba người đều né tránh hoặc từ chối!
Thay câu: “Và cái chức vụ ấy gần như trống rỗng.” (bản B) bằng:
Và cái chức vụ gần như trống rỗng ấy vẫn là một sứ mạng lịch sử vô cùng nặng nề!
Sau câu: “Chỉ có cách đó là tránh cho Sài Gòn khỏi hỗn loạn!”
Tôi nhớ như in trong đầu mình phản ứng của ông Minh lúc đó: ông cười và quay lại phía vợ tôi đang đứng sau lưng ông: “Chung nói đúng phải không bà Chung? Anh em mình đâu có ham gì cái chức tổng thống và quyền hành. Trong tình hình này mình nên sớm chuyển giao quyền cho MTDTGPMN”.
Tiếp câu: “Hơn nữa ông Minh là một nhà quân sự nên rất hiểu tình hình lúc đó như thế nào”
trách nhiệm của ông với tư cách tân tổng thống không thể thụ động ngồi nhìn một tai họa có khả năng đến với đồng bào Sài Gòn.
Chương 25
Tiếp câu: “Khi tổng thống Dương Văn Minh đến, cuộc họp diễn ra với một số người rất hạn chế, gồm phó tổng thống Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu…”
phó thủ tướng (chưa chính thức) Hồ Văn Minh, tổng trưởng quốc phòng (chưa chính thức) Bùi Tường Huân và tổng trưởng thông tin là tôi.
Tiếp câu: “Các thành viên chính của chính phủ Dương Văn Minh tập hợp trong phòng làm việc trước đây của Nguyễn Văn Thiệu.”
chờ quân giải phóng cùng các đại biểu MTDTGPMN sẽ vào. Không ai tiên đoán được kịch bản nào sắp xảy ra. Riêng tôi tưởng tượng một kết thúc lý tưởng: đại diện của MTDTGPMN sẽ được long trọng đón tiếp bởi tổng thống Minh và các thành viên của chính phủ ông, và sau đó là tự nguyện trao quyền của chính phủ Dương Văn Minh cho chính phủ CMLTCHMNVN cũng có một ý nghĩa lịch sử rất lớn. Dù chính phủ Dương Văn Minh chỉ được quốc hội Sài Gòn bầu lên, nhưng về mặt pháp lý ông vẫn đại diện cho miền Nam với chế độ gọi là VNCH, đối đầu với MTDTGPMN trong suốt thời kỳ chiến tranh. Ông Minh đã nhận sự ủy quyền này nhưng lại tự nguyện trao quyền đó lại cho chính phủ CMLTMNVN để thay thế mình bảo vệ sự an nguy cho nhân dân Sài Gòn mà chính phủ ông tự nhận là bất lực. Làm việc này, ít ra chính phủ và bản thân ông Minh phải có sự tin cậy phía mà mình trao quyền và hoàn toàn chịu trách nhiệm về quyết định đơn phương của mình. Hành động tự nguyện này của chính phủ ông Minh là một phủ nhận hùng hồn đối với chiến dịch tuyên truyền mà Mỹ đã phát động chống lại MTDTGPMN và Bắc Việt từ trước và sau khi Ban Mê Thuột thất thủ. Trong giờ phút này của lịch sử, chính người Việt Nam cộng sản là những người đáng tin cậy chứ không phải là nỗi sợ hãi khiếp đảm như hình ảnh mà người Mỹ đã cố gắng tạo ra.
Trách nhiệm của người bị bắt buộc đầu hàng khác hẳn trách nhiệm của người tự nguyện trao quyền với ý thức trao quyền đó có lợi cho đất nước và dân tộc của mình. Tôi nghĩ rồi đây việc nhìn nhận lịch sử sẽ đặt đúng tầm ý nghĩa của bản tuyên bố này khi đề cập đến sự kết thúc cuộc chiến chống Mỹ giành độc lập và thống nhất đất nước.
Sau câu: “Lúc này, dù tôi hoàn toàn không đoán được chuyện gì sẽ đến trong những ngày sắp tới nhưng có hai điều mà tôi biết chắc nước Việt Nam đang có được là quá lớn, vượt lên mọi tính toán cá nhân và quyền lợi riêng tư: đó là hoà bình và thống nhất.”
Sáng hôm sau – ngày 3-5-1975 – vừa thức dậy thì tôi nghe đứa con trai kế của tôi là Lý Quí Dũng, 11 tuổi, ngủ chung trong phòng nói với sang chỗ tôi: “Ba ơi, nước mình bây giờ lớn lắm phải không ba?”. Tôi hỏi lại: “Tại sao con nói vậy?”. Nó liền nói tiếp: “Vì bây giờ mình có hai nước nhập lại một”! Tôi im lặng, cổ họng như nghẹn lại. Con tôi không nghe tôi trả lời, lại hỏi lớn: “Có đúng không ba?”. Tôi lên tiếng: “Đúng rồi con trai của ba!”.
Phần “Sau ngày 30-4-1975”
Tiếp câu: “Ngay sau tháng 4-1975, thật là mãn nguyện khi được tham gia Hội nghị Hiệp thương Thống nhất Tổ quốc trong thành phần đoàn đại biểu miền Nam.”
Hình như đến bây giờ rất ít có ai nhắc lại Hội nghị này. Và khi Hội nghị diễn ra tại Dinh Thống Nhất cũng không ít người coi đó là một hội nghị cho có hình thức nhằm mang lại một căn bản pháp lý tượng trưng cho nước Việt Nam thống nhất, thế thôi. Có hội nghị đó hay không thì nước Việt Nam cũng đã thống nhất rồi. Nhưng
Sau câu: “Tôi đứng lặng thinh vì biết rằng mọi lời giải thích lúc này đều vô ích.”
Những chuyện xảy ra cho gia đình tôi đã biến cha tôi từ một người hồ hởi đón chào Cách mạng, nô nức chờ bạn bè đi kháng chiến trở về, biến thành một người ác cảm với cộng sản và từ luôn con trai của mình vì nó… hợp tác với cộng sản. Phải một năm sau tôi mới có dịp đọc tác phẩm Sông Đông êm đềm của nhà văn Nga M. Sôlôkhôp. Sao có nhiều chuyện giống thế. Và tôi không thể không tự hỏi sao mình lại photocopy làm gì những thứ ấy cho dân mình khốn khó và đau lại nỗi đau mà người dân Nga đã trải qua mấy mươi năm trước!
Sau câu: “Sau năm năm tồn tại như một hiện tượng độc đáo, Tin Sáng được tuyên bố “hoàn thành nhiệm vụ.”
Nếu không có những mâu thuẫn nội bộ, liệu Tin Sáng có kéo dài được sự tồn tại? Một tờ báo gồm các trí thức cũ Sài Gòn, hoạt động như một doanh nghiệp tư nhân, anh Đức nắm tờ báo như một ông chủ báo trước 1975, lại rơi vào thời điểm Đông Âu bắt đầu chứng kiến những biến động (Công đoàn Đoàn Kết của Walesa đã phát động lật đổ chế độ cộng sản ở Ba Lan), vậy nếu báo Tin Sáng tiếp tục tồn tại thì sẽ ở vị trí nào trong bối cảnh chính trị lúc đó?
Sau câu: “Ông hỏi tôi tình hình ông Minh thế nào, tôi cho biết sức khỏe ông Minh vẫn bình thường và vẫn ở Dinh Hoa Lan.”
Thượng tọa Trí Quang nói: “Ông Minh đã có một quyết định rất đúng”. Tôi nói lại: “Nhưng do đời sống khó khăn và có nhiều người đi học tập cũng có dư luận, dù không nhiều, lên án ông Minh đầu hàng cộng sản”. Thượng tọa Trí Quang lắc đầu: “Một số ít người nói thì cứ nói, nhưng việc làm của ông Minh giao quyền để Sài Gòn không đổ máu và chết chóc, là một hành động bồ tát”.
Phần “Gia đình thân yêu”
Sau câu: “Các em tôi đều thành đạt tại Mỹ và Canada.”
Là một người lạc quan, tôi luôn ưa nhìn nhận các sự kiện theo hướng tích cực. Hiệp định Geneve 1954 chia đất nước làm hai, chế độ Diệm thúc đẩy một cuộc di cư vào Nam, nhiều người miền Bắc rời nơi chôn rau cắt rốn của mình. Trong lịch sử của dân tộc chưa bao giờ có một sự trộn lẫn và hòa hợp giữa hai miền lớn lao như thế. Tôi còn nhớ hồi tôi còn nhỏ mẹ tôi không bao giờ phân biệt được người miền Bắc với người miền Trung. Những năm 50 về trước, người miền Nam nghe ai nói phát âm lờ lợ đều cho rằng đó là người Huế. Thực dân Pháp để lại những “di chứng” khá nặng nề trong đó có ý đồ thành lập một “Nam Kỳ quốc”.
Sau năm 1954 người miền Nam sống chung với đông đảo người miền Bắc, chẳng những hiểu biết nhau hơn, xóa bỏ đi những dị biệt địa phương cục bộ bị khoét sâu bởi chế độ thực dân, mà còn bổ sung cho nhau những tính cách độc đáo, những ưu điểm về phong cách sống của mỗi miền cho người dân Việt. Theo những gì tôi được thấy, các giới doanh thương đến từ miền Bắc sau năm 1954 đã đánh đổ được nhiều cứ điểm buôn bán làm ăn trước đây độc tôn của người Ấn Độ, người Hoa trên các đường phố chính ở trung tâm Sài Gòn như đường Catinat (sau đổi lại là Tự Do, bây giờ là Đồng Khởi) hay Lê Thánh Tôn, Lê Lợi v.v… Nó phá vỡ một mặc cảm trước đây của người miền Nam là không thể cạnh tranh, phá vỡ ưu thế tuyệt đối về kinh tế của người nước ngoài trên chính xứ sở mình. Thật cần thiết và quan trọng (cũng rất thú vị) nếu có một công trình nghiên cứu khoa học nào đó về mặt xã hội và con người Việt Nam sau 1954 tại miền Nam.
21 năm sau một kiểu di cư khác – cũng là hậu quả chiến tranh – gọi là “di tản”, bằng máy bay và nhất là bằng tàu thuyền thô sơ. Biết bao nhiêu người đã mất tích dưới lòng biển khơi trong cuộc “di tản” này nhưng những người sống sót phần đông đều biết động viên con em mình học tập. Một nước châu Á giàu có cũng không thể mơ ước chuyện gởi ra nước ngoài cùng lúc hàng triệu con em du học. Chúng ta không hề mong muốn một biến cố như thế xảy ra cho dân tộc mình nhưng 30 năm sau biết bao tài năng trẻ Việt Nam xuất hiện ở cả hai châu Âu lẫn châu Mỹ. Xưa kia ta nói dân tộc Việt Nam, người Việt Nam là từ Bắc chí Nam nhưng bây giờ thì phải nghĩ đến những biên cương xa xôi, nghĩ đến bất cứ nơi nào có giống nòi mình sinh sống. Nước Việt là của tất cả những người có cùng nguồn gốc dù cho đang sinh sống bất cứ nơi nào, có bất cứ quốc tịch nào. Làm thế nào để tất cả không chỉ thương nhớ quê hương mà còn tự hào nguồn gốc của mình. Tôi cũng có những đứa cháu có quốc tịch Pháp, Canada, Mỹ. Và luôn mong ước chúng hãnh diện về nguồn gốc Việt Nam của mình. Lịch sử đất nước đã cung cấp sẵn cho chúng quá nhiều điều để tự hào, vấn đề còn lại là làm sao chúng càng gắn bó với hiện tại và tương lai đất nước.
Nguồn: Lý Quí Chung, Hồi ký không tên, bản in đầu tiên, Nhà xuất bản Trẻ, 2004
Subscribe to:
Posts (Atom)