Sunday, October 27, 2013

HỒ VĂN CHÂM * QUAN ĐIỂM V

Chặng Cuối Hành Trình
Không Tưởng
Của Chủ Nghĩa Xã Hội



            Trước hiện tình đất nước, “Hành Trình Không Tưởng Của Chủ Nghĩa Xã Hội” là một vấn đề chính trị mà độc giả Việt Nam cần lưu tâm suy gẫm. Đó là nội dung cuốn sách chuyển ngữ tiếng Việt* tác phẩm của nhà văn Pháp Jean Francois Revel mang tên là “La Grande Parade, Essai sur la Survie de l’ Utopie socialiste”, (Plon, 2000, Paris), bản dịch tiếng Anh của Diarmid V. C. Cammell mang tên là “Last Exit to Utopia, The Survival of Socialism in a post-soviet era (Encounter Books, 2009, New York, London).

            Jean Francois Revel là nhà văn nhà báo nổi tiếng của Pháp ở hậu bán thế kỷ 20. J. F. Revel là thành viên của Viện Hàn Lâm nước Pháp và là giáo sư Triết học đặc biệt lưu tâm nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chính trị. Những tác phẩm gây nhiều tiếng vang nhất trên trường quốc tế của J. F. Revel là những ấn phẩm đã chuyển ngữ sang tiếng Anh : Without Marx and Jesus (Phi Marx phi Jésus), How Democracies Perish (Dân Chủ Tàn Lụi Như Thế Nào), The Totalitarian Temptation (Sự Cám Dỗ Của Chế Độ Toàn Trị ) và gần đây là cuốn Anti-Americanism (Tinh Thần Bài Mỹ, nguyên tác của J. F. Revel là L’obsession anti-américaine). Qua các công trình biên soạn này, đối tượng độc giả mà J. F. Revel chủ tâm tranh thủ là thành phần tả khuynh trong giới trí thức nước Pháp. Những phần tử tả khuynh này ngẩn ngơ một cách say đắm trong ảo mộng mông lung của thiên đường xã hội chủ nghĩa mà họ tiếp cận được qua sách báo và các phương tiện truyền thông chuyển tải những sự kiện giả trá và những luận điệu lừa mị vang vọng đến từ phía bên kia bức màn sắt. Đi kèm với thái độ sùng bái mê muội chủ nghĩa xã hội là sự ám ảnh bởi tinh thần bài Mỹ một cách cực đoan. Có thể nói một cách không lầm lạc rằng trong giới trí thức nước Pháp, bất kỳ ai có tư tưởng chống Mỹ là có đủ tiêu chuẩn để được đứng vào hàng ngũ phe tả. Ngoài các thành phần trí thức tả khuynh, J. F. Revel cũng muốn gửi một thông điệp đến chính giới tại nước Pháp cũng như ở một số nước châu Âu, phê phán tinh thần bài Mỹ của họ là thiếu cơ sở thực tế. Các giới lãnh đạo chính trường Pháp quốc và Âu châu sở dĩ chống Mỹ là vì họ muốn tự lập, không muốn phụ thuộc vào Mỹ, không muốn bị Mỹ chi phối, trong lúc bản thân họ không có đủ điều kiện và phương tiện để đứng riêng rẽ một mình. Ngoài ra, họ nghi ngại tinh thần tự do của xã hội Mỹ xuyên qua các chính sách laisser faire nhuốm đậm tính chất tự do cạnh tranh  trong các lãnh vực kinh tế xã hội và văn hóa, trong lúc tại nước Pháp và một số quốc gia châu Âu chính quyền thiên về xu hướng kiểm soát và điều khiển các hoạt động này.

Kịp đến khi bức tường Bá Linh sụp đổ vào năm 1989, rồi tiếp theo, Liên bang Xô Viết chính thức tan rã ngày 25 tháng 12 năm 1991, chiến tranh lạnh chấm dứt và cục diện thế giới đổi thay hoàn toàn. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ nghiễm nhiên trở thành siêu cường số một. Các thành phần hữu khuynh chiến thắng ở Bắc Mỹ và Tây Âu đã tỏ ra rất biết tự chế. Theo đúng tinh thần mã thượng của truyền thống phương Tây, họ không reo hò ầm ỹ để tự tán dương và để hạ nhục kẻ chiến bại. Tổng thống Mỹ George W. Bush đã tế nhị không nghe lời tả hữu đi Bá Linh ngay ngày hôm sau bức tường ô nhục bị sụp đổ. Giới hữu khuynh chiến thắng đã âm thầm để mặc cho mọi việc lặng lẽ trôi qua, cơ hồ như không quan tâm đến cái quá khứ kinh hoàng của thế giới cộng sản mà một phần nhân loại vừa mới kinh qua. Trong lúc đó, các thành phần tả khuynh vừa thoát qua cơn thảng thốt bàng hoàng trước sự sụp đổ quá chóng vánh của xã hội cộng sản đã nhanh chóng ẩn mình bên trong các tháp ngà của chủ nghĩa xã hội để lẫn tránh thực tại và để ru hồn trong mộng ảo của tư duy xã hội chủ nghĩa. Họ cố tình làm ngơ trước các dữ kiện đầy lỗi lầm, đầy tội ác đã xảy ra dưới chế độ cũ bấy lâu được che dấu nay bỗng chốc hiện nguyên hình thành thực tại hiển nhiên do các văn khố của chế độ xô viết đang mở toang cửa đưa ra trình bày trước búa rìu công luận. Họ ngoan cố chối bỏ thực tại, và lì lợm bám chặt lập luận kỳ quặc cho rằng chủ nghĩa xã hội là tốt đẹp, chỉ có việc thực hiện chủ nghĩa xã hội là chưa tốt đẹp mà thôi. Dần dà hồi tỉnh sau cơn choáng ban đầu, họ lại rục rịch a tòng với các thành phần lưng chừng phê phán chủ nghĩa tư bản và mở lại cuộc chiến tấn công chủ nghĩa tự do. Chính trong bối cảnh chính trị kinh tế và xã hội hậu công sản này tại các nước phương Tây mà cuốn sách “La Grande Parade, Essai sur la Survie de L’Utopie socialiste” được J. F. Revel cho chào đời. Tác giả cảnh báo giới trí thức nước Pháp và các nước phương Tây phải biết rút tỉa đúng mức bài học lịch sử về toàn trị, và đặc biệt phải biết giải trừ ra khỏi tâm trí cái ma lực của tư tưởng xã hội chủ nghĩa mà thực chất chỉ là những điều thuộc về thế giới ảo mộng, không bao giờ trở thành hiện thực, nghĩa là không tưởng.

J. F. Revel là một nhà tư tưởng có lập trường chính trị dứt khoát chống đối chủ nghĩa cộng sản. J. F. Revel chống cộng không phải vì lý do quyền lợi, địa vị, tín ngưỡng, giai cấp, địa phương, quốc gia, hay chủng tộc. J. F. Revel chống đối chủ nghĩa cộng sản bởi lẽ những điều chủ nghĩa này hứa hẹn mang lại cho nhân loại chỉ là những điều hoang tưởng, nghĩa là không bao giờ trở thành hiện thực, nhưng được trân tráo khoa trương và gian trá che đậy một cách tinh vi và mầu mè xuyên qua hình thái chủ nghĩa xã hội được xem như là bước quá độ để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Những người chủ trương và thực hiện chủ nghĩa xã hội như là bước quá độ để tiến lên chủ nghĩa cộng sản đã phạm phải những tội ác tày trời, có thể nói là vô tiền khoáng hậu trong lịch sử tiến hóa của loài người, cho dù mức độ tàn ác, bất nhẫn và vô luân của vó ngựa Attila, Gengis Khan, hay những lò hơi ngạt Hitler cũng không tài nào sánh bằng. Thiết tưởng không cần nhắc lại thời kỳ man rợ mà một phần lớn cư dân châu Á và châu Âu sống dưới sự dày xéo của các đoàn kỵ binh Hung nô và Mông cổ, mà chỉ cần so sánh các chế độ toàn trị phát xít và cộng sản của thời cận đại. J. F. Revel lưu ý phân biệt hai hệ thống toàn trị đó. Chế độ phát xítloại ý thức hệ mà J. F. Revel gọi là Toàn trị trực tiếp. Mussoloni và Hitler thường minh thị xác nhận họ chống lại dân chủ, chống lại tự do phát biểu, tự do văn hóa, chính trị đa nguyên và tổ chức nghiệp đoàn. Ngoài ra Hitler còn chủ trương kỳ thị chủng tộc và chống Do thái. Trái với toàn trị trực tiếp là chủ nghĩa cộng sản  mà J. F. Revel gọi là Toàn trị không tưởng. Đây là loại ý thức hệ xây dựng trên sự gian dối, lừa đảo, hứa hẹn những điều tốt đẹp không thể thực hiện để che đậy những việc làm gian ác, vô luân. Tập đoàn lãnh đạo hệ thống quyền lực của chế độ toàn trị không tưởng luôn luôn công bố thành công này đến thành công khác trong khi trên thực tế thì những kết quả hoàn toàn trái ngược với những điều khoa trương. Cộng sản hứa hẹn sung túc thì đem lại nghèo khó, hứa hẹn tự do thì áp đặt sự phục tùng, hứa hẹn bình đẳng thì đưa đến chỗ bất bình đẳng nhất trong mọi xã hội xưa nay với những kẻ ăn trên ngồi trốc, hưởng thụ đặc quyền đặc lợi  mà ngay cả vua quan trong những xã hội phong kiến trước đây cũng không bì kịp. Cộng sản hứa hẹn tôn trọng đời sống con người thì lại hạn chế tự do cư trú, cấm đoán tụ họp, hành quyết tập thể. Cộng sản hứa hẹn đem văn hóa đến cho mọi người thì đem lại sư u mê, hứa hẹn đào tạo " con người mới xã hội chủ nghĩa" thì làm cho con người tha hóa để trở thành cổ hủ, gian dối, lọc lừa, hèn hạ, và ngu đần như bầy cừu của Panurge.

 Trong khi đó thì quần chúng vô tâm vẫn bàng quan với thế sự, và những kẻ cuồng tín trong giới trí thức cánh tả tiếp tục chấp nhận những mâu thuẫn giữa lời nói với việc làm của những người chủ trương và thực hiện chủ nghĩa xã hội được xem như là bước quá độ để tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lý do là vì không tưởng luôn luôn ở trong tương lai. Đã vững tin vào không tưởng thì những chuyện xảy ra trong thực tế trước mắt ở các xã hội xã hội chủ nghĩa không bao giờ chứng minh được sự sai lầm của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Giới trí thức cánh tả khư khư bám víu lập luận kỳ quặc, bất nhân và vô đạo rằng cứu cánh biện minh cho phương tiện, hoặc trân tráo, lì lợm ngụy biện rằng mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là tốt đẹp, chỉ duy phương thức thực hiện chủ nghĩa xã hội nhất thời có mặt chưa hoàn hảo mà thôi. Như vậy, so sánh hai chế độ toàn trị phát xít và cộng sản thì cộng sản tệ hại hơn phát xít nhiều phần. Chế độ toàn trị trực tiếp phát xít thực hiện khát vọng thống trị theo như chủ trương đã minh thị công bố. Chế độ toàn trị không tưởng cộng sản thực hiện khát vọng thống trị bằng áp đặt, đày đọa và khủng bố dưới chiêu bài khoan hồng và yêu chuộng tự do, bằng bất bình đẳng dưới chiêu bài chủ nghĩa bình quân, bằng láo khoét, lừa gạt dưới chiêu bài thành khẩn. Tóm lại, chế độ toàn trị không tưởng cộng sản hoàn tất cái Ác nhân danh cái Thiện. Các chế độ toàn trị trực tiếp Quốc xã Đức, Phát xít Ý bị toàn thể nhân loại ghê tởm, và đã bị đánh đổ. Chế độ toàn trị không tưởng cộng sản sau ngày bức tường Bá Linh sụp đổ vẫn còn lây lất tồn tại ở một vài nơi.

    Được vậy là nhờ vào bộ máy quyền lực chuyên chính được vũ trang tinh thần bạo lực cách mạng, khéo léo và gian trá che dấu dướí cái lốt tắc kè liên tục thay đổi màu sắc cho phù hợp với hoàn cảnh để lừa gạt quần chúng khờ khạo. Thật là đáng ghê tởm. Chính bản thân những người lãnh đạo Xô viết đã tự xếp chế độ mình vào hàng ngũ toàn trị. Nguyên tắc khủng bố và độc tài đã được nêu lên và thi hành ngay chính bởi Lenine. Staline thì liên thủ với Hitler qua hiệp ước bất tương xâm giữa Quốc xã Đức và Cộng sản Nga năm 1939 để thôn tính Ba Lan và tiến hành cuộc tàn sát man rợ ở Katyn. Cộng sản Nga chỉ chống Quốc xã Đức sau khi bị Quốc xã Đức trở mặt tấn công vào tháng sáu năm 1941, và đã hớ hênh để lộ bản chất khủng bố của chế độ qua lời Chủ Tịch Liên Xô Staline giới thiệu trùm mật vụ Nga Beria với Tổng Thống Mỹ Franklin Rosevelt: “Thưa Ngài, đây là Himler của chúng tôi”. (Sergo Beria: Beria, mon père. Plon, Kriterion 1999). Qua thời kỳ chiến tranh lạnh, đảng Cộng sản Nga xiển dương nền dân chủ mới, hô hào thực hiện công bằng xã hội bằng cách đem cái thây ma Quốc xã Đức ra mổ xẻ để tấn công chủ nghĩa tư bản bóc lột. Vào thời điểm này, đối với người cộng sản, chủ nghĩa phát xít đồng nghĩa với chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do, nói cách khác, những ai chống lại chủ nghĩa xã hội đều là phản động, đều là phát xít. Đến thời kỳ hậu xô viết, giới trí thức cánh tả phương Tây dựa vào tình trạng kinh tế hỗn loạn của Đông Âu để kết tội chủ nghĩa tự do vô tổ chức, và ở Việt Nam thì nhà cầm quyền cộng sản đưa ra mô thức kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đúng là những chế độ đội lốt tắc kè, bề ngoài rêu rao đổi mới nhưng lời nói không đi đôi với việc làm, bản chất toàn trị không hề thay đổi. Thực vậy, toàn trị không tưởng Cộng sản Nga ra đời trước toàn trị trực tiếp Quốc xã Đức, làm mẩu mực tàn ác, bất nhân, vô đạo cho Quốc xã Đức, cấu kết với Quốc xã Đức để chia cắt lãnh thổ Ba Lan, tàn sát quân dân Ba Lan, chống lại chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do, thế mà ngày nay, trong bối cảnh hậu xô viết, tại Pháp và một vài nước châu Âu, giới trí thức cánh tả vẫn mơ hồ chưa có được một chút ý niệm về bản chất tương đồng giữa Cộng sản và Quốc xã. Cũng cùng một loại tội ác chống nhân loại, tại sao người ta làm ầm ĩ vụ Oradour-sur-Glane do Quốc xã Đức làm mà lại im lặng trước vụ Katyn do Cộng sản Nga làm. Ngay Tổng Thống Pháp Jacques Chirac cũng đã đến thăm Oradour-sur-Glane vào tháng bảy năm 1993, và giữ im lặng trước vụ Katyn.

                Điểm quan trọng khác mà J. F. Revel muốn nhấn mạnh là thái độ lập lờ mang tính chất đạo đức giả của giới trí thức cánh tả phương Tây khi bàn luận về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, người ta cứ nhất mực so sánh giữa sự hoàn hảo không có thật - chủ nghĩa không tưởng cộng sản - với cái không hoàn hảo mà có thật - chủ nghĩa tư bản dân chủ. Thí dụ rõ nét về trường hợp này là khi Đức Giáo Hoàng Jean-Paul II viếng thăm Ba Lan vào tháng sáu năm 1999, một ký giả đài phát thanh France-Info truyền tin như sau : « Ba Lan trở lại chế độ tư bản đã đem lại ít nhiều thịnh vượng nhưng đã hủy diệt công bằng xã hội ». Loan tin như thế, người ký giả thiên tả này muốn ám chỉ rằng chế độ cộng sản có điểm ưu việt là đã đem lại công bằng xã hội. Rõ ràng là chủ nghĩa tư bản không đem lại bình đẳng trong việc phân phối lợi tức, không theo chủ nghĩa bình quân, nhưng thử hỏi cộng sản đã mang lại công bằng xã hội như thế nào? Sự bình đẳng trong xã hội cộng sản là tất cả mọi người đều nghèo khó, công bằng xã hội trong xã hội cộng sản dựa trên hình thức bần cùng hóa nhân dân. Như vậy là một lần nữa người ta đã xét đoán cộng sản căn cứ trên những điều mà cộng sản định đem lại, và sẽ không bao giờ đem lại, và tư bản trên những điều mà tư bản thực sự đã đem lại. Nhiều công trình nghiên cứu với thống kê đầy đủ và chính xác cho thấy rằng năm 1989, năm cuối cùng của cộng sản châu Âu, một người thất nghiệp ở phương Tây được trợ cấp bằng tiền mặt nhiều hơn từ năm đến mười lần tiền lương một người thợ đang lao động ở Đông Âu. Nói cách khác, những xã hội tư bản dân chủ đã có chính sách an sinh xã hội rất hữu hiệu cho những cách biệt và rủi ro trong đời sống kinh tế. Nhưng sự thật hiển nhiên đó không được thừa nhận khi người ta cứ nhất mực so sánh giữa s hoàn hảo không có thật với cái không hoàn hảo mà có thật.

                    Cái không hoàn hảo mà có thật đó là chủ nghĩa tư bản dân chủ, là nền móng của định chế kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường xây dưng trên sự tự do kinh doanh và tư bản dân chủ, một thứ tư bản tư nhân, tách khỏi chính quyền nhưng tôn trọng luật pháp. Và đó cũng là chủ nghĩa đang được cổ vũ khắp hoàn cầu. Nhiều nhà lập thuyết cánh tả đã cho rằng chủ nghĩa cộng sản và các trào lưu dân chủ đã có cùng một căn bản. Theo họ, trong những xã hội tự do thì đảng cộng sản đứng vào vị thế đối lập với chính quyền, đấu tranh theo chương trình hành động là hoàn thiện dân chủ và thực thi công bằng xã hội. Nhưng chủ nghĩa cộng sản đã đặt nền móng trên một định đề là muốn đẩy mạnh dân chủ thì phải hủy bỏ chủ nghĩa  tư bản. Những môn đệ của biện chứng duy vật lịch sử đã chối bỏ một sự kiện rất đơn giản là xã hội dân chủ duy nhất hiện hữu từ xưa đến nay là xã hội tư bản, ít ra trong xã hội đó dân chúng được quyền có tài sản riêng tư, có tự do buôn bán và văn hóa được tự do phát triển. Định đề này một lần nữa đã đi ngược lại sự thật lịch sử. Như vậy là đã xẩy ra sự lẩn lộn giữa cái hiện hữu và cái không hiện hữu, và đó là một sự chế nhạo lịch sử. Một điều hiển nhiên không chối cải được là bất cứ nơi nào cộng sản nắm chính quyền, công việc đầu tiên là hủy bỏ quyền tự do. Không có biệt lệ trong chính sách này. Dân chủ không thể thấy được trong lịch sử các chế độ cộng sản, mà chỉ thấy được trong những chế độ cởi mở ở những nước tư bản. Thế nhưng theo những nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản thì toàn trị Xô-viết đại diện cho giai đoạn tối thượng của nền dân chủ chân chính, được gọi là dân chủ mới, dân chủ tập trung. Như vậy nếu những sử gia căn cứ vào những tuyên bố của các nhà lãnh đạo cộng sản cho rằng họ đấu tranh cho dân chủ, thì cũng phải căn cứ vào tuyên bố của Hitler và Mussolini huênh hoang rằng họ đã thể hiện ước vọng của tuyệt đại đa số quần chúng. Khi họ tập trung quyền lực vào trong tay, họ có đủ tự tin để huênh hoang là đã thiết lập một hình thức dân chủ « một triệu lần » tiến bộ hơn chế độ đại nghị. Nếu viềt lịch sử mà chỉ theo sát  từng chữ những diễn văn của các nhà độc tài thì đúng vậy, chủ nghĩa cộng sản là đấu tranh cho dân chủ!

                   Nhưng chủ nghĩa cộng sản là uyên nguyên của chế độ toàn trị, đào tạo ra con người toàn trị. Con người toàn trị, tức là "con người mới xã hội chủ nghĩa" của chế độ cộng sản đã được nặn ra bởi mt tổ chức trong đó quyền tự trị của xã hội dân sự bị hoàn toàn triệt tiêu. Trong cỗ máy kềm kẹp và hủy diệt có tổ chức đó, con người chỉ là cái bánh xe trong toàn thể c máy, họ đã hoạt động ngoài ý muốn, tuy đôi khi cũng do tự nguyện, ít ra là lúc ban đầu. Hệ thống toàn trị này có thể mô tả tóm lược như sau: đó là một chính quyền độc đảng, nắm giữ độc quyền kinh tế, chính trị và văn hóa. Lẽ tất nhiên, hệ thống độc đảng độc quyền này phải đi kèm với một bộ máy công an đàn áp, kiểm soát tư tưởng và nhân thân toàn bộ dân chúng. Những tiêu chuẩn đó là mô hình duy nhất được tìm thấy trong tất cả các chính thể cộng sản. Cần phải thêm rằng sự đàn áp của cộng sản không phải chỉ nhằm vào kẻ thù chống đối chế độ không thôi mà nhằm luôn cả vào hằng triệu người vô tội không bao giờ nghĩ tớí việc chống phá hay phê bình. Nhiều nhân chứng cho thấy từ năm 1918, cấp chỉ huy cơ quan mật vụ Tcheka (tiền thân của KGB) hay chính Lénine đã đưa ra vô số chỉ thị, ra lệnh là không cần tìm tòi bằng cớ về tội trạng của các cá nhân trong một nhóm sắc tộc, một tập hợp cộng đồng hay giai cấp xã hội thuộc danh mục phải thanh toán, mà chỉ cần họ thuộc về thành phần đó là đủ để quy thành tội phạm. Cộng sản Việt Nam sau này cũng đã rập khuôn hành trạng tàn bạo và bất nhân đó khi tiến hành chiến dịch « đào tận gốc trốc tận rể » các thành phần xã hội trí phú địa hào, cho dù họ đã không hề  phạm tội mà còn có công lớn với kháng chiến. Tàn sát tập thể những người vô tội không phải bởi vì họ có tội mà chính vì họ là ai. Trong huyết quản con người cộng sản sôi sục sự thù ghét con người không cộng sản, cũng giống như Quốc-xã đã thù ghét Do Thái không phải là chủng tộc Aryen. J. F. Revel đã trích dẫn Maxime Gorki: "Thù ghét giai cấp phải được nuôi dưởng bởi sự kinh tỡm thể xác đối với kẻ thù, họ là những kẻ hạ cấp, suy đồi về thể xác cũng như về tinh thần. "

              J. F. Revel đã thẳng thừng phản biện những lập luận của giới trí thức cánh tả phương Tây muốn che đậy những lỗi lầm và tội ác của chế độ toàn trị xã hội chủ nghĩa, đồng thời bẻ gãy các mũi dùi phản công của họ nhằm vào chủ nghĩ tự do và chủ nghĩa tư bản dân chủ. Mặt khác, J. F. Revel khẳng định các chế độ độc tài cộng sản không bao giờ có thể cải thiện được, chúng chỉ có thể giậm chân tại chỗ hoặc bị sụp đổ: "Cách duy nhất để cải tiến cộng sản là loại bỏ nó đi ". Đó chính là điều mà các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết và các nước chư hầu ở Đông Âu đã làm giữa những năm 1989 và 1991. Thực tế là từ năm 1970 chế độ toàn trị bên trong bức màn sắt đã thất bại trong mọi lãnh vực, và nền móng tòa lâu đài xã hội chủ nghĩa bắt đầu lung lay. Vào cuối thời kỳ Brejnev, tầng lớp đặc quyền trong đảng Cộng sản Liên xô từng bước hình thành. Trong hai thời kỳ Đại hội Đảng cấp tỉnh từ 1978 đến năm 1981, chỉ có 5 trong số 156 vị trí bí thư tỉnh ủy có sự thay đổi nhân sự. Vào năm 1978, độ tuổi trung bình của 58 vị Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Bộ trưởng là 70. Hàng ngũ lãnh đạo già nua, đương chức suốt đời này là hạt nhân hình thành tầng lớp đặc quyền trong đảng Cộng sản, và là nguyên ủy của sự chuyển biến từ vô sản sang hữu sản, từ cộng sản sang tư bản của chính quyền Liên xô. Đặc quyền đi kèm đặc lợi và tham ô. Con trai Yuri của Brejnev trở thành Thứ trưởng thứ nhất bộ Ngoại thương. Con rể Rubanov của Brejnev trở thành Thứ trưởng thứ nhất bộ Nội vụ. Cả hai còn rất trẻ và mau chóng trở nên rất giàu có. Con gái Galina và con trai Yuri của Brejnev liên can đến một vụ buôn lậu kim cương và ngoại tệ bị phát hiện tháng giêng năm 1982 tại sân bay Moscow vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Cũng dưới thời Brejnev, một số quan chức bộ Ngư nghiệp đã cho đóng trứng cá caviar sản xuất tại Sochi và Astrakhan vào hộp dán nhãn cá trích xuất khẩu sang phương Tây bán với giá cá trích để chia chác lợi nhuận, làm thiệt hại công quỷ hàng triệu mỹ kim tiền thuế, nhưng rồi tội trạng cũng được bao che, nội vụ cho chìm xuồng. Đến thời Gorbachev, tầng lớp đặc quyền mong muốn chiếm hữu lâu dài đặc lợi hiện có, đồng thời niềm tin của quần chúng vào chủ nghĩa xã hội đã bị xói mòn, ánh hào quang đảng viên đảng Cộng sản mang trên mình không còn giá trị thực dụng, nên nhận thấy rằng những tiện ích đang chiếm hữu cần được thay đổi hình thái, và chủ nghĩa tư bản là chế độ thích hợp nhất để hợp thức hóa những đặc quyền đặc lợi hiện có. Do đó mà chủ nghĩa tư bản đỏ hình thành, đưa đến sự sụp đổ chính thức Liên bang Xô viết ngày 25 tháng 12 năm 1991.

          Cuối cùng, J. F. Revel không dấu diếm lòng ngưỡng vọng đối với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Từ sau ngày cộng sản sụp đổ, và nhất là sau cuộc khủng hoảng ở Á châu và những khó khăn ở Đức, Mỹ vẫn dẫn đầu kinh tế thế giới vì đã giữ vững sự tăng trưởng, tạo đầy đủ công ăn việc làm, cân bằng ngân sách và giải trừ nạn lạm phát. Về kỹ thuật thì Mỹ có những tiến bộ vượt bực, nhất là trong lãnh vực viễn thông. Về quân sự thì Mỹ là nước duy nhất có thể can thiệp bất cứ lúc nào và nơi nào trên thế giới. Về ưu thế văn hóa thì Mỹ dẫn đầu về khoa học và kỹ thuật cũng như trong việc giáo dục đại học. Báo chí và truyền thông Mỹ phổ biến khắp thế giới. Lối sống theo kiểu Mỹ - áo quần, âm nhạc, ăn uống giải trí - đã chinh phục giới trẻ khắp nơi. Điện ảnh và truyền hình Mỹ đã thu hút hằng triệu khán giả trên khắp các đại lục. Đã từ lâu Anh ngữ là ngôn ngữ quốc tế của khoa học và trên Internet. Một số khá đông chính trị gia và khoa học gia nổỉ tiếng khắp thế giới đã tốt nghiệp từ các đại học Mỹ. Bởi vậy, J. F. Revel rất ngạc nhiên và bất bình trước tinh thần bài Mỹ của chính giới nước Pháp và một số nước châu Âu, cũng như của giới trí thức cánh tả còn mang nặng hoài niệm về chủ nghĩa xã hội. Trào lưu chống Mỹ bắt nguồn từ chủ nghĩa quốc gia cực đoan nơi các cường quốc Âu Châu và xu hướng chống đối xã hội tự do nơi những người thiên cộng sản. Điển hình cho lòng tự ái dân tộc bị tổn thương trước vai trò nổi bật của Mỹ trên chính trường thế giới là Tổng Thống Pháp Charles de Gaulle. Năm 1997, Jacques Toubon, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Tư pháp đã tuyên bố trên tuần báo Mỹ US News and World Report rằng sử dụng Anh ngữ lan tràn trên Internet là một hình thức thực dân, trong lúc vào thời điểm này, Pháp có số máy vi tính nối với Internet mười lần ít hơn Mỹ, hai lần ít hơn Đức, đứng sau cả Mễ Tây Cơ và Ba Lan. Cũng may mà còn có Thủ Tướng Pháp Lionel Jospin sau một chuyến tham quan Mỹ trở về đã biết thừa nhận hiệu năng của sự quản trị kiểu Mỹ theo chủ nghĩa tư bản dân chủ và tinh thần tự do cạnh tranh: “Ở Mỹ với 258 triệu dân mà từ năm 1974 đến 1994, đã tạo ra 40 triệu công việc mới, trong khi đó ở Âu Châu với mời hai nước, với 270 triệu dân, với hàng tỷ bạc tài trợ, và trong cùng một thời gian đó mà chỉ tạo được có 3 triệu việc làm”. Mà không riêng gì J. F. Revel ở Pháp cổ vũ cho việc quản trị xã hội theo kiểu Mỹ, ngay chính tại Trung Hoa cộng sản, mới gần đây, Lưu Á Châu (Liu Yazhou) là con rể của Lý Tiên Niệm cũng đã viết trên Tuần báo Phượng Hoàng (Phoenix Weekly) của HongKong số phát hành ngày 12 tháng 8 năm 2010 rằng sự trỗi dậy của Trung quốc phụ thuộc vào việc cách tân theo thể chế quản trị kiểu Mỹ hơn là thách thức vai trò thống trị của Mỹ tại vùng ven biển phía Đông của Trung quốc.

                   Cuốn sách của J. F. Revel chủ yếu là một bản liệt kê những lỗi lầm và tội ác của chế độ toàn trị không tưởng cộng sản vừa mới bị đánh đổ tại Liên xô và Đông Âu, nhằm cảnh tỉnh giới trí thức cánh tả phương Tây về thực tế hiển nhiên là lời nói của người cộng sản không đi đôi với việc làm của họ. Đối với những chế độ toàn trị còn đang hiện hữu, J. F. Revel chỉ nhắc nhở sơ lược về những trại lao cải ở Trung quốc, và những trại tập trung cải tạo ở Vit Nam, được thiết lập nhằm mục đích ép buộc mọi người phải đi theo con đường thẳng độc đoán xã hội chủ nghĩa. Những trại tập trung đó sử dụng nhân lực với chi phí không đáng kể, và trong thực tế là những trại tù giam giữ những tội nhân không hề được tuyên án, mà lại được cải biến thành những người lao động nô lệ. Của cải vật chất họ làm ra với giá thành rất thấp được xuất khẩu để cạnh tranh trên thị trường thế giới một cách thiếu lành mạnh. Ngoài ra, J. F. Revel cũng điểm lướt qua nạn đói ở Trung quốc sau “bước nhảy vọt vĩ đại”, các cuộc tàn sát tập thể và đấu tố man rợ trong các chiến dịch cách mạng văn hóa ở Trung quốc, cải cách ruộng đất ở Việt Nam, cũng như nạn diệt chủng ở Kampuchia. Cũng cùng là tội phạm chống nhân loại, tại sao Pinochet và Milosevic bị đưa ra tòa án quốc tế còn Pol Pot thì được để yên? Có phải là vì vuốt mũi thì còn phải nể mặt! Cho nên J. F. Revel đã không một chút đồng tình với thái độ xun xoe của các giới ngoại giao và doanh nghiệp phương Tây nườm nượp lui tới Bắc Kinh và Hà Ni để tìm cách cầu thân cũng như vì động cơ hám lợi. Cho dù Giang Trạch Dân đưa ra chủ trương “Ba thành phần đại diện”, và Hà Nội tuyên bố đổi mới với cơ chế “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” chăng nữa thì các chế độ hiện nay tại Trung quốc và Việt Nam cũng chẳng mảy may thay đổi bản chất, chuyên chính vẫn hoàn toàn chuyên chính như cũ. Cuốn sách của J. F. Revel được viết cho độc giả ở Pháp, nhưng sau khi ra đời đã rất được hoan nghênh ở Mỹ, và sau đó ít lâu đã được Diarmid V. C. Cammell dịch ra Anh ngữ. Trong khi nguyên tác tự xưng danh là tiểu luận về sự tồn vong của chủ nghĩa xã hội không tưởng thì nhan đề bản dịch Anh ngữ khẳng định sự bế tắc lâm vào ngõ cụt cuối cùng của chủ nghĩa không tưởng ở các xã hội hậu xô viết.

                  Riêng tại Việt Nam, trong lịch sử đã có một tiền tích, đó là phong trào Tây sơn. Khi tầng lớp nông dân đoàn kết đứng sau lưng ba anh em họ Nguyễn chống phong kiến Lê Trịnh Nguyễn thì Tây sơn là vô địch. Khi phong trào Tây sơn phong kiến hóa, tầng lớp lãnh đạo biến chất, kiêu sa, chia rẻ và xa rời quần chúng thì Tây sơn nhanh chóng tan rã, bị phong kiến chính thống quay trở lại tiêu diệt. Ngày nay, chế độ toàn trị vô sản chuyên chính xã hội chủ nghĩa cũng đã biến thái, tầng lớp lãnh đạo đã tư sản hóa, trở thành tư bản đỏ, tư bản gia tộc, chẳng những xa rời quần chúng mà còn đối đầu với quần chúng, quay lại đàn áp, bóc  lột nhân dân. Chế độ tư bản toàn trị này đã đi vào chặng cuối hành trình không tưởng, sớm muộn gì cũng bị chủ nghĩa tư bản dân chủ và tinh thần tự do kinh doanh quật ngã và chôn vùi.


                             Tháng mười, năm 2010
                         Minh Vũ Hồ Văn Châm


* Bản chuyển ngữ tiếng Việt: Chặng Đường Cuối Cùng Của Không Tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa, Phương Vũ Võ Tam Anh, Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương, PO Box 4653, Falls Church, VA 22044, USA, 2010.





 






















Phần

Tạp  Văn















 

































Cảm Nghĩ Về

Đường Đi Không Đến




(Viết thay lời tựa cho hồi ký “Đường Đi Không Đến” của Xuân Vũ xuất bản lần đầu năm 1973 tại Sài Gòn. Bài viết đã lâu, nhưng được đưa vào đây vì phản ánh trung thực cảm nghĩ của tác giả về thân phận người Việt Nam yêu nước quốc gia chủ nghĩa thời trước, thời đó, và thời nay).


Tôi nghĩ rằng khi đọc xong hồi ký vượt Trường Sơn này của nhà văn Xuân Vũ, mỗi độc giả tùy theo thân thế và tâm tư riêng biệt của mình, có thể có những cảm nghĩ rất khác nhau. Người thích phiêu lưu mạo hiểm, say mê những chân trời xa lạ, những câu chuyện sôi nổi được tác giả ghi chú rất linh động trong tập sách. Kẻ ưa mơ mộng thương cảm nỗi vất vả nhọc nhằn của người vũ công có đôi bàn chân sáp đúc trầy trụa vì đá tai mèo trên những đỉnh núi cụng trời. Chính khách thời thượng gật gù khen nội dung tốt. Độc giả khó tính tặc lưỡi cho là sách tuyên truyền.

Tôi lại nghĩ rằng mỗi độc giả chúng ta, dù khen, dù chê văn tài của tác giả, dù chăm chú, dù hời hợt theo dõi diễn biến câu chuyện, đều không thể chối cãi một sự kiện hiển nhiên là nội dung cuốn sách đượm tính chất xác thực, không dài dòng lê thê, không hoa hòe hoa sói, không bịa đặt, không xuyên tạc, không phỉ báng ai mà cũng không ca tụng ai. Người viết chỉ ghi lại những điều mắt thấy tai nghe cùng những cảm nghĩ của mình trên đường vượt Trường Sơn trở về Nam thi hành nhiệm vụ giao phó. Tính chất xác thực này, những ai đã từng leo đèo vượt núi, những ai có liên hệ ít nhiều với dãy Trường Sơn trùng điệp đều làm chứng cho tác giả. Nói một cách khác, tập hồi ký này ghi lại trung thực một đoạn đời của nhà văn Xuân Vũ trong sự nghiệp phục vụ quê hương.

Tôi gặp nhà văn Xuân Vũ giữa năm 1971, sau khi anh đã thành công vượt mọi gian khổ, vượt dãy Trường Sơn, nhưng không vượt được nỗi khủng hoảng ngày đêm dằn vặt tâm tư. Đường Đi Không Đến. Trên đường vô Nam, anh đã đến nơi đến chốn, nhưng trên đường tiến tới sự nghiệp phục vụ quê hương, đường đi đã bế tắc. Đau đớn cho anh, anh đã tiêu phí hơn hai mươi năm trời để đi trên con đường ngày nay bí lối đó. Cơn khủng hoảng thật là trầm trọng, khủng hoảng tâm thần, khủng hoảng lý tưởng.

Tôi nghĩ rằng trường hợp của nhà văn Xuân Vũ không phải là một trường hợp cá biệt. Một số độc giả chúng ta cũng như rất đông anh chị em ruột thịt chúng ta còn ở bên kia chiến tuyến ngày đêm cũng khắc khoải suy tư về một lối thoát vẹn toàn cho cơn khủng hoảng thời đại đó. Khắc khoải suy tư, khủng hoảng tâm thần, khủng hoảng lý tưởng... bởi lẽ chúng ta còn là người Việt Nam, và dòng máu sôi sục trong huyết quản chúng ta đầy ắp truyền thống hào hùng của biết bao nhiêu thế hệ tiền bối Việt Nam.

Tôi nhớ là đã nói chuyện nhiều với nhà văn Xuân Vũ về Đường Đi Không Đến của anh, của số đông chúng ta, và khuyến khích anh cố gắng vượt qua cơn khủng hoảng tâm thần để tìm đi đúng con đường vì dân vì nước. Để dẫn chứng, tôi đã tâm sự với nhà văn Xuân Vũ về việc gia tiên ngày xưa đương chức tri huyện Lệ Thủy, Quảng Bình, lúc vua Hàm Nghi xuất cung truyền hịch, đã khẳng khái treo ấn từ quan, hưởng ứng việc Cần Vương, để rồi ngậm ngùi, thống hận từ trần, tuổi chưa được bốn mươi. Sau này, gia nghiêm khăng khăng không chịu ném bút lông cầm bút sắt, tuy giữ được khí phách sĩ phu, nhưng cơn khủng hoảng lý tưởng càng trầm trọng hơn, đường đi hoàn toàn nghẽn lối.

Tôi đã nói cho nhà văn Xuân Vũ biết là kinh nghiệm dòng họ khiến cho tôi ngày nay nghĩ rằng chúng ta không thể quá khích mà cũng không thể tiêu cực. Đường đi của chúng ta phải là con đường thích nghi với hoàn cảnh năm châu họp chợ, thích nghi với trình độ kỹ thuật vũ trụ và thế quân bình lực lượng của các đại cường. Đành rằng chúng ta yêu nước nồng nhiệt, đành rằng chúng ta lập chí lớn lao, nhưng chúng ta phải biết lượng sức dân sức nước. Yêu nước thì phải thương dân, trước hết phải lo cho dân có cơm áo. Yêu nước nhất quyết không phải là mưu đồ sự nghiệp cá nhân, mặc cho dân chúng lầm than, quê hương tan nát. Yêu nước cũng không phải là điên cuồng nhắm mắt đưa toàn dân vào con đường đấu tranh ngu xuẩn và vô vọng có thể dẫn tới hậu quả diệt quốc, diệt chủng. Yêu nước lại càng không phải là cưỡng bức nhân dân thắt lưng buộc bụng, nhịn đói nhịn khát để tập trung tài nguyên nhân lực vào việc dùng vũ lực mưu toan áp đặt một nền nếp suy tư và những phương thức hành động đã được đúc khuôn mà dân chúng không mong muốn. Các nhà cầm quyền Miền Bắc nên ra khỏi tháp ngà để ngẫm nghĩ về điều đó.

Tôi lại cũng nghĩ rằng yêu nước không phải là tiêu cực chống đối. Những lời phê bình vô trách nhiệm, thái độ bất hợp tác hoặc lề lối buông xuôi, chỉ biết thở ngắn than dài, ưu thời mẫn thế, không phải là phương châm hành động của con cháu những ngưòi đã xông xáo ra bắc vào nam, bình Chiêm phạt Tống, gầy dựng nên cơ đồ ngày nay để lại cho chúng ta. Yêu nước thì không thể thản nhiên nhắm mắt ngồi bất động để mặc bọn ma đầu phá hoại cơ nghiệp của cha ông. Yêu nước thì phải tích cực hoạt động, hàn gắn đổ vỡ, vun quén tinh hoa, loại bỏ bọn sâu dân mọt nước, dạy dân, nuôi dân, cho dân sinh dân trí mỗi ngày một thêm phát triển. Các bậc có tri thức tại Miền Nam tự do này nên nghĩ tới trường hợp vua Chiêu Hòa nước Nhật Bản sau ngày bại trận, đã biết hành động tích cực để đưa Nhật Bản khôi phục lại địa vị đại cường. Ai bảo hành động của vua Chiêu Hòa từ năm 1945 trở đi lại không sáng suốt và ích lợi cho quốc dân Nhật Bản như công cuộc duy tân của Minh Trị Thiên Hoàng một trăm năm về trước.

Trên con đường sự nghiệp phục vụ quê hương, đi như Xuân Vũ đi trong tập hồi ký này thì đường đi nhất định không đến, đi như Xuân Vũ đang đi ngày nay thì đường đi nhất định phải đến.

             Sài Gòn, ngày 3 tháng 7 năm 1973

               Minh Vũ Hồ Văn Châm
















 


 

Mấy Vần Thơ Từ Ngục Tối




Cảm Tác Xuân Bính Thìn




                        Đêm giao thừa vời vợi,
                        Lòng ngổn ngang trăm mối tơ tình...
                        Ai reo vang Xuân Hòa Bình, Xuân Chiến Thắng!
                        Riêng ta thấy bốn bề quạnh vắng,
                        Xuân Ngục Tù đói, lạnh, đơn côi.
                        Còn đâu những xuân xưa bên gia đình ấm cúng,
                        Xuân thứ bốn mươi lăm này lạnh lùng, tù túng.
                        Bốn chung quanh song sắt với tường vôi,
                        Đêm không trăng sao, ngày không ánh mặt trời!
                        Mẹ Việt Nam ơi!
                        Ai kẻ nên công? Ai người có tội?
                        Lòng son một khối,
                        Đất Trời thấu chăng!

                                            Xà lim Khu AB, Khám Chí Hòa
                                                      Tết Bính Thìn, 1976





 

Mưa Trong Tù





                        Mưa rơi...
                        Mưa rơi ngoài trời,
                        Mưa cả trong lòng người.
                        Chỉ nghe tiếng mưa rơi,
                        Chưa từng được thấy hạt mưa rơi!
                        Non hai năm rồi.
                        Hận thù
                        Lẽ nào chưa vơi?


                                                Xà lim Khu AB, Khám Chí Hòa
                                                                  Thu 1976









 

 

Nhớ Chuyện Xưa





                        Mang thân nam tử giữa trần ai,
                        Việc nước lo toan há đợi mời.
                        Đương buổi nhiễu nhương danh chửa toại,
                        Trong cơn gian kh° chí không dời.
                        Phạm Tăng gương cũ thương cho tớ,
                        Gia Cát tình chung dễ mấy ai.
                        Sắp bốn sáu rồi, râu điểm bạc,
                        Lòng son một tấm quyết không phai.


                                    Xà lim Khu AB, Khám Chí Hoà
                                                    Đông 1976
                       









Khai bút đầu năm





                        Nghìn chín đà thêm bảy bảy rồi,
                       Tháng ngày tù hãm nặng nề trôi.
                       Chuyện xưa mới đó mà xa lắc,
                       Xuân mới về đây đã nhạt rồi!
                       Cố nói vẫn chưa thành chuyện được,
                       Gượng cười cho đỡ lạnh lòng thôi.
                       Trong tù cơm áo hơn nhân nghĩa,
                       Sống thác cho nhau được mấy người!


                                                 Khu AH, Khám Chí Hoà
                                                            1-1-1977







 

Ngẫu Ngâm


偶 吟
春 到 樓前 春 月 光
微 風 拂帳 度 更 寒
別 愁 路 無 知己
一片丹 心 對 世 間
                           其二                            
霜 降 樓前 斂 月 光
思 歸 夢擾 路 曼 曼
妻 兒 再見 知 何 日
長 夜 孤眠 枕 被 寒
明武 胡文                                               

Phiên âm:

I

                        Xuân đáo lâu tiền xuân nguyệt quang,
                        Vi phong phất trướng độ canh hàn.
                        Biệt sầu tiền lộ vô tri kỷ,
                        Nhất phiến đan tâm đối thế gian.

Dịch nghĩa:

                        Xuân đến trước lầu trăng sáng quá,
                        Canh khuya lạnh lẽo gió lay màn.
                        Buồn riêng lối trước không tri kỷ,
                        Một tấm lòng son đối thế gian.

II

Phiên âm:

                        Sương giáng lâu tiền liễm nguyệt quang,
                        Tư qui, mộng nhiễu lộ man man.
                        Thê nhi tái kiến tri hà nhật?
                        Trường dạ cô miên chÄm bị hàn.

Dịch nghĩa:

                        Sương xuống trước lầu trăng bớt sáng,
                        Đường về, lối mộng! rối man man.
                        Thê nhi biết có còn trông mặt?
                        Bóng chiếc, canh thâu, chăn gối hàn.

                                       Khu AH, Khám Chí Hoà
                                                       1977


Ngã  Quy  Lai



我歸來

入市停車眼界開
星貤物換我歸來
回頭二十餘年事
殖渝渝不感懷

明武 胡文





                                   

Phiên âm:

Ngã quy lai

                        Nhập thị đình xa nhãn giới khai,
                        Tinh di vật hoán ngã quy lai.
                        Hồi đầu thập nhị dư niên sự,
                        Hư thực du du bất cảm hoài!


             Dịch nghĩa:
       

Ta trở về

Vào thành phố, dừng xe lại, tầm mắt mở ra,
                        Sao dời vật đ°i, ta trở về đây.
Ngoảnh đầu nhìn lại, chuyện cũ hơn mười hai năm qua,
Rằng hư, rằng thực, mông lung không cảm xúc, không tưởng nhớ!


Trên đường từ Trại Xuân Lộc trở về nhà,
Dừng xe ở cửa ngõ thành phố Sài Gòn,
Sáng ngày 15 tháng 2 năm 1988

 

 
Nguyệt dạ ức xá đệ
                                                 Đỗ Phủ


Nguyên  Tác:

Thú c° đoạn nhân hành
Biên thu nhất nhạn thanh.
Lộ tùng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.
Hữu đệ giai phân tán,
Vô gia vấn tử sinh.
Ký thư trường bất đạt,
Huống nãi vị hưu binh.


Dịch thơ:
                                   Ðêm trăng nhớ em

Trống thành đã cấm người qua,
Trời thu biên tái nhạn đà kêu sương.
Trăng là trăng sáng cố hương,
Đêm nay trắng xóa sương vương đầy trời.
Anh em mỗi đứa một nơi,
Tử sinh chẳng biết, đ°i dời nào hay.
Gửi thư xa chẳng đến tay,
Lại thêm khói lửa còn bay ngút trời.
Minh Vũ dịch                 
 
Quan san nguyệt
Lý Bạch

Nguyên Tác:

Minh nguyệt xuất Thiên san,
Thương man vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc môn quan.
Hán hạ Bạch đăng đạo,
Hồ khuy Thanh hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến kỷ nhân hoàn.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.

Dịch thơ:

Vầng trăng đã ló đầu non,
Mây mờ biển lặng mênh mang một vùng.
Từ xa muôn dặm trùng trùng,
Gió lồng lộng thổi qua lòng Ngọc môn.
Bạch đăng vua Hán giữ đồn,
Rợ Hồ Thanh hải vẫn còn nhòm sang.
Này đây mảnh đất chiến tràng,
Nghìn xưa ch£ng thấy ai hoàn cố hương.
Lầu cao khắc lậu canh tàn,
Thương cho ai mãi thở than nỗi niềm.

                 Minh Vũ dịch




Văn Quyên Cảm Tác
Phương Hiếu Nhụ

Nguyên Tác:

Bất như quy khứ! Bất như quy khứ!
Nhất thanh động ngã sầu,
Nhị thanh thương ngã lự.
Tam thanh do trục bạch vân phi,
Tứ thanh mộng nhiễu kinh hoa thụ.
Ngũ thanh nguyệt lạc chiếu sơ linh,
Tưởng kiến đương niên lộng cơ trử.
Lục thanh khấp huyết tiện hoa chi,
Khủng ố giai tiền lan đốt tử.
Thất bát cữu thanh bất nhẫn văn,
Khởi tọa vô ngôn lệ như vũ.
Ức tích tại gia bất viễn du,
Mỗi thính quyên thanh vô đi‹m sầu.
Kim nhật thân tại Kim lăng thượng,
Thủy tín quyên thanh năng bạch đầu.











Dịch thơ:

Chẳng bằng về đi! Chẳng bằng về đi!
Một kêu khơi động mạch sầu,
Hai kêu luống những lo âu trong lòng.
Ba kêu mây cuốn trập trùng,
Bốn kêu mộng chuyển cây rừng kinh hoa.
Năm kêu nhạt ánh trăng tà,
Lung linh tưởng dáng tay ngà cửi canh.
Sáu kêu lệ máu đẫm cành,
Chỉn e ố sắc chồi lan trước thềm.
Bảy tám chín kêu gan héo ruột mềm,
Ngồi lên ch£ng nói đầm đầm lệ sa.
Nhớ xưa còn ở quê nhà,
Cuốc kêu chẳng thấy chi là bi thương.
Rày thân ở đất Kim lăng,
Cuốc kêu khiến kẻ tha phuơng bạc đầu.

                 Minh Vũ dịch












           

Túy Hoa Âm

Lý Thanh Chiếu

Nguyên Tác:

Cửu nhật
Bạc vân nùng vụ sầu vĩnh trú,
Thụy não phún kim thú.
Giai tíết hựu Trùng dương,
Bửu chÄm sa trù,
Bán dạ lương sơ thấu.
Đông ly bả tửu hoàng hôn hậu,
Hữu ám hương doanh tụ.
Mạc đạo bất tiêu hồn.
Liêm quyển tây phong,
Nhân tỷ hoàng hoa sấu.


Dịch nghĩa:

    
Mồng chín tháng chín
Mây mỏng, mù dày, buồn suốt ngày.
Khói hương liệu tỏa từ lư hương hình thú.
Lại đến tiết Trùng dương,
Gối đẹp, màn là,
Nửa đêm, hơi mát bắt đầu thấm qua.
Bên giậu đông nâng chén rượu sau hoàng hôn.
Thoảng mùi huơng đầy tay áo
Xin đừng nói ch£ng tiêu hồn.
Rèm cuốn gió tây,
     Người so với hoa vàng (cúc) thì gầy hơn.

                    Túy Hoa Âm

Dịch Thơ:

Mồng chín tháng chín
Mây thưa mù đặc suốt ngày,
Hương thơm lư thú tỏa đầy sầu thương.
Tiết trời gặp hội Trùng dương,
Gối chăn là lượt canh sương lạnh lùng.
Chiều hôm chén rượu tường đông,
Thoảng trong tay áo còn nồng dư hương.
Xin đừng gợi mối tơ vương,
Hồn em chết lặng sầu thương nào tầy.
Rèm châu lay lắt gió tây,
Người đây cúc đấy ai gầy hơn ai.

                                  Minh Vũ dịch

      Chú giải:

Lý Thanh Chiếu (1084-1155) là nữ tác gia vĩ đại của Trung Quốc, sống vào cuối đời Bắc Tống, rất sở trường về từ. Tác phẩm  phần lớn thất lạc, chỉ còn lưu lại chừng 50 bài chép trong Sấu ngọc từ.
Túy Hoa Âm là tên một điệu từ 52 chữ.


Tam  Quốc  Chí  Cảm  Đề
                                  La  Quán  Trung
Nguyên Tác:               
C°n cổn trường giang đông thệ thủy,
Lãng hoa đào tận anh hùng.
Thị phi, thành bại, chuyển đầu không!
Thanh sơn y cựu tại,
Kỷ độ tịch dương hồng?
Bạch phát ngư tiều giang chữ thượng
Quán khán thu nguyệt xuân phong.
Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng.
Thế gian đa thiểu sự,
Tận phó tiếu đàm trung.

Dịch thơ:                    
     Cuồn cuộn sông dài về đông nước chảy,
Sóng hoa cuốn hết thảy anh hùng.
                        Thị phi, thành bại, ngoảnh đầu không!
Núi xanh còn như cũ,
Nắng xế mấy phen hồng?
Trắng tóc ngư tiều ven sông quen ngắm cảnh
Trăng thu về rồi đến gió xuân sang.
Một vò ruợu nhạt gặp nhau mừng.
Thế gian chuyện lớn nhỏ,
Nói cười cứ dửng dưng.

Minh Vũ dịch






































Tiếc Thương Anh

Lời phát biểu trong lễ tang cụ Hồ Văn Thuyên*
ngày 9 tháng 5 năm 1992
tại Lò Thiêu Phú Lâm, Sài Gòn



            Kính Thưa Anh,

Hôm nay, hương hồn Anh đang phiêu diêu ở nơi đâu, có khôn thiêng xin hãy lắng nghe đứa em của Anh phân tỏ m¶t đôi lời.

Hai anh em ta, cùng cha cùng mẹ sinh ra, nhưng tuổi đời chênh lệch non hai mươi năm, vì vậy, cùng chung m¶t khí huyết mà là người của hai thế hệ. Suốt cả buổi thiếu thời, cha già mất sớm, mẹ thì vì chiến tranh ly loạn nên sống xa cách, cho nên em đã sống với anh chị, nhờ ơn anh chị nuôi dạy nên người. Trong cu¶c đời của hai anh em ta có nhiều sự kiện đáng được ghi nhớ, có ảnh hưởng rất lớn đến cu¶c đời của em sau này. Thuở ấu thơ, em sống với cha với mẹ, được nâng niu chiều chu¶ng, nên ngày đêm chỉ lêu lỗng chơi bời, chẳng học hành gì cả. Em nhớ m¶t ngày cuối năm anh về quê ăn Tết, thấy tình cảnh đó, anh đã cương quyết bắt em phải đi theo anh, và kể từ ngày đó, em mới chuyên tâm vào việc học hành. Nếu không có quyết định bắt em đi theo anh thì cu¶c đời em chắc chắn không giống như ngày hôm nay.

Thưa anh, kể từ ngày đó, em đã luôn luôn theo anh, anh đi đâu thì em theo đó. Anh ở Sông Cầu, rồi anh đổi về Huế, đi đâu em cũng theo gót chân anh. Hết Bến Ngự, đến Đập Đá, rồi Phú Xuân, rồi B Lễ, rồi dãy Trại cửa Đông Ba, đi đâu anh cũng dắt em theo. Như thế, suốt cả quảng đời niên thiếu của em, lúc nào em cũng ở dưới sự trông nom dạy dỗ của anh. Anh đã thương yêu đùm bọc em như người anh cả đối với em út, mà hơn thế nữa, như người cha đối với con trai vậy. Quả tình là suốt quảng đời sống với anh chị, anh chị đối xử với em, so với các con của anh chị, không có sự khác biệt nào cả. Em còn nhớ ngày em được hai mươi tuổi, em đã đậu Tú tài rồi, nghĩa là vào thời buổi đó, em đã có thể kiếm được việc làm và sống ung dung nhàn hạ, thế mà anh vẫn quyết định cho em theo học Đại Học Y Khoa, là m¶t ngành học dài ngày và tốn kém. Em còn nhớ lời anh đã nói với Chú rằng “nó học được nên để cho nó tiếp tục học, và nói thật với Chú, nếu các con tôi không học được hay chúng tôi không còn đủ khả năng thì tôi cũng cố gắng để cho em nó hoàn tất việc học hành”. Tình của anh đối với em quả là mênh mang như trời biển.

Rồi đến ngày em sửa soạn lập gia đình, mà gia đình bên vợ em lại là chổ cố tri của anh, nhưng thật tình bên nhà vợ không ai hiểu tại sao em là m¶t sinh viên ở Sài Gòn sắp ra bác sĩ mà lại ra tận ngoài Huế để cưới vợ. Chỉ nhờ có m¶t lá thư cầu thân của anh mới gây nên sự tin tuởng nơi gia đình bên vợ và nhờ đó mà chúng em mới nên đôi nên lứa. Và đến ngày cử hành hôn lễ thì cũng đích thân anh đã từ Tuy Hòa ra Huế để chủ trì lễ lạc, tác thành cho chúng em nên vợ nên chồng. Mà lạ lùng thay, trong cu¶c đời của em, lúc nào cũng có sự hiện diện của anh, lúc thong dong cũng có anh mà lúc gian khổ cũng có anh. Em còn nhớ ngày anh vào thăm em trong Trại Chí Hòa, có lẽ lúc đó anh nghĩ rằng anh em ta sẽ không bao giờ còn có dịp gặp lại nhau nên anh đã ôm em mà khóc. Em là người không bao giờ khóc trước đám đông, nhưng quả tình lúc đó gan ru¶t em cũng rối bời. Em đã ôm anh trở lại và nói với anh rằng như thế này cũng như thấy người cha của mình sống lại vậy.

Thưa anh, anh đối với em lúc nào cũng bao dung đ lượng. Sự thương yêu đùm bọc của anh không thể nào nói hết nên lời. Em luôn luôn ghi nhớ công đức của anh, và để xứng đáng với lòng bao dung đ lượng của anh, để xứng đáng với tình thương yêu đùm bọc của anh, em luôn luôn tu thân lập chí để khỏi phụ lòng kỳ vọng của anh. Em đã cố gắng chăm lo gầy dựng sự nghiệp. Từ thuở nhỏ em đã là đứa học trò ngoan, khôn lớn lên, về mặt khoa bảng, em đã đạt tới các học vị t¶t cùng, trong quan trường, có lúc em đã đạt được ngôi vị tôn quý ở nơi triều miếu. Mà cu¶c đời em thì vô cùng sóng gió, muôn hình muôn vẻ, thay đổi bất thường, cho nên em thường có dịp thực hiện lời dạy của anh, đó là “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”.

Thưa anh, hôm nay nhắc lại những sự kiện này, em không có ý gì khác hơn là để nhắc nhở cho con cháu nhớ tới tình thương yêu anh đối với em, là tình nguời anh cả đối với em út mà như tình người cha đối với con trai, là m¶t tấm gương sáng ngời mà người đời thường gọi là “quyền huynh thế phụ”. Anh là người đã vun đắp tinh thần gia t¶c, cho nên bây giờ đây, em và các con anh, chúng em xin tiếp nối tô bồi tinh thần đó. Bởi vậy, lúc đắc thời, em cũng đã hết lòng nâng đỡ các con anh. Và bây giờ đây, các con anh, các con em, các cháu anh, các cháu em, dù đang sống ở nước ngoài hay đang sống tại quê nhà, tất cả chúng nó đều biết thương yêu đùm bọc nhau trong tinh thần gia t¶c đậm đà.

            Giờ đây thân xác anh đã vĩnh viển nằm xuống, hương hồn anh đang nương nhờ bóng Phật đ tìm đường siêu sinh tịnh đ. Thân xác anh vốn là cát bụi, chốc nữa đây sẽ trở về với cát bụi. Linh hồn anh có linh thiêng, xin hãy về đây chứng giám tấm lòng thành của em.

Hỡi ơi! Bái biệt.



            *  Gia huynh Hồ Văn Thuyên, sinh năm 1913, mất năm 1992, cựu học sinh Trường Quốc Học, Huế, tốt nghiệp Thành Chung, Phán sự Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Tham sự Phủ Thủ Hiến Trung Việt, Phó Tỉnh trưởng Phú Yên, Thị trưởng Đà Nẵng.














Văn Điếu Nhạc Phụ

Đọc trong Lễ An táng cụ Lê Trung Chi
tại nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức, ngày 3-6-1992



            Kính thưa Nhạc Phụ (1),

            Thôi, thế là hết! Nhạc Phụ đã vĩnh viễn nằm xuống.
            Thân xác Nhạc Phụ, vốn là cát bụi, chốc nữa đây sẽ trở về với cát bụi. Linh hồn Nhạc Phụ, nay nương nhờ bóng Phật, đang tìm đường siêu sinh tịnh độ.
            Nhìn lại cuộc đời Nhạc Phụ, suốt tám mươi hai năm qua, các mặt hiếu, trung, nhân, nghĩa, thảy thảy đều vẹn toàn.
            Nhạc Phụ sinh ra và lớn lên tại một miền đất nước sơn kỳ thủy tú (2), khí thiêng sông núi đã chung đúc nên nhiều đấng anh tài.

            Quê hương của Nhạc Phụ có cảnh Long đầu hí thủy, có cảnh Thiên ấn niêm hà (3). Sông ấy, núi ấy, ắt phải có những con người có tiết tháo và phong tư khác thường. Cho nên tiết tháo của Nhạc Phụ là tiết tháo của đất Long đầu, tiết tháo ấy trường tồn với sông núi. Phong tư của Nhạc Phụ là phong tư của núi Thiên ấn, phong tư ấy sáng ngời kim c°.
            Đến lúc trưởng thành, Nhạc Phụ ra đất Thần Kinh lập nghiệp. Ở chốn Kinh đô, Nhạc Phụ gặp Nhạc Mẫu, và hai ông bà đã kết nên mối duyên tốt lành. Nhạc Phụ rất nặng tình với Nhạc Mẫu. Ngày Nhạc Mẫu vĩnh viễn từ giả cõi đời, lòng Nhạc Phụ chĩu nặng ưu phiền. Hôm nay đây, Nhạc Phụ lại ra nằm bên Nhạc Mẫu, thôi thế là kiếp này, hai ông bà đã vẹn toàn mối duyên giai ngẫu.
            Nói rằng Nhạc Phụ nặng tình với Nhạc Mẫu, nói thế không có nghĩa là Nhạc Phụ coi nặng tình nhi nữ mà sao lãng bổn phận của đấng nam nhi. Suốt một quảng đời dài Nhạc Phụ phục vụ cho dân cho nước, khi Tri Phủ ở Thanh Hóa, khi Tỉnh Trưởng Quảng Nam, ở đâu Nhạc Phụ cũng đã cố gắng chu toàn nhiệm vụ nặng nề và cao cả của bậc làm cha mẹ dân (4). Ngay khi về hưu trí, sống ở đất Nam đô này, ngày đêm Nhạc Phụ vẫn còn quan tâm đến vận mạng dân tộc, đất nước, con tim và khối óc luôn luôn phải lao lung, tâm sự chỉ một mình mình biết, một mình mình hay.
            Cuộc sống của Nhạc Phụ là một cuộc sống vô cùng thanh bạch, có thể nói là khắc khổ. Sở dĩ như vậy là vì Nhạc Phụ xem thường danh lợi. Danh lợi đối với Nhạc Phụ như đám phù vân, danh lợi không phải là điều Nhạc Phụ sở nguyện. Cho nên có thể tóm tắt rằng cuộc đời của Nhạc Phụ là một tấm gương sáng ngời đạo lý, tấm lòng của Nhạc Phụ là một tấm lòng son, thế gian chưa dễ tìm.
            Trước đáy mồ thăm thẳm chốc nữa sẽ vĩnh viễn ngăn cách hai cõi âm dương, với tấm lòng chân thật của một kẻ sĩ tiếc thương và ngưỡng vọng một kẻ sĩ, người con rễ này của Nhạc Phụ, không quản ngại sở đắc chữ nghĩa Thánh Hiền của mình còn hạn hẹp, xin đọc lại bài thơ đã dâng Nhạc Phụ nhân dịp bát tuần khánh hạ của Nhạc Phụ, để tỏ lòng hiếu kính:

           
岳父黎忠大人八旬慶壽

    八十年萊家國心
    孝忠仁義甚高深
龍頭節操長山水
天印風姿照古今
帝闕曾時圓佳偶
南城几度獨勞心
浮雲名利非公願
此片丹心未易尋
壻胡文箴恭賀
            Nhạc phụ Lê Trung Đại nhân bát tuần khánh thọ

                        Bát thập niên lai gia quốc tâm
                        Hiếu Trung Nhân Nghĩa thậm cao thâm.
                        Long Đầu tiết tháo trường sơn thủy,
                        Thiên Ấn phong tư chiếu cổ câm (kim).
                        Đế khuyết tằng thời viên giai ngẫu,
                        Nam thành kỷ độ độc lao tâm.
                        Phù vân danh lợi phi công nguyện,
                        Thử phiến đan tâm vị dị tầm!
                           
  Tế Hồ Văn Châm cung hạ.

Linh hồn Nhạc Phụ linh thiêng, xin hãy về đây chứng giám.

            Hỡi ơi! Bái biệt.

                                                Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải:

1. Lê Trung Chi quán làng Phú Nhơn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tổ bốn đời là Lê Đăng Lượng, đỗ Tiến sĩ, làm Bố Chánh Bình Thuận và An Phủ sứ Thanh Hóa dưới triều Tự Đức, có công lập một số làng ở thượng du Thanh Hóa nên mãi gần đây vẫn còn được dân các làng ấy thờ làm Tiền hiền. Hai con trai của Lê Đăng Lượng là Lê Trung Phu và Lê Trung Đình hưởng ứng chiếu cần vưong của vua Hàm Nghi, khởi nghĩa binh chống Pháp. Bị thất bại, Lê Trung Phu tự vẫn, Lê Trung Đình bị bắt và bị xử trảm. Sau Cách mạng Tháng tám, chính quyền cộng sản đặt tên tỉnh Quảng Ngãi là tỉnh Lê Trung Đình. Chính quyền cộng hòa đặt tên một trong 2 con đường lớn nhất thị xã Quảng Ngãi là đường Lê Trung Đình, (đường kia là đường Quang Trung).

         2. Quảng Ngãi có 10 thắng cảnh, đáng lưu ý là hai cảnh    Thiên ấn niêm  hà và Thiên bút phê vân. Vì núi Thiên ấn lớn hơn núi Thiên bút rất nhiều nên trong dân gian thường truyền tụng câu chuyện ‘ hòn ấn lấn hòn bút’, có nghĩa rằng đất Quảng Ngãi không thịnh về mặt văn học và khoa bảng, nhưng lại có nhiều người làm quan to, đứng vào hàng cực phẩm trều đình. Thời trước có Lê Văn Duyệt, Trương Đăng Quế, Nguyễn Thân; thời nay có Phạm Văn Đồng, Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Thiện Khiêm, Trần Đức Lương.

3. Huyện Sơn Tịnh nằm bên bờ bắc sông Trà Khúc, có 2 thắng cảnh Long đầu hí thủy  (Đầu rồng bỡn nước) và Thiên ấn niêm hà (Ấn trời dính sông). Sát bờ sông, cạnh quốc lộ 1, gò Long đầu (Đầu rồng) đột khởi giữa đồng bằng, vươn mình soi bóng, đùa bỡn với mặt nước sông trong. Xa xa một chút về phía thượng lưu, núi Thiên ấn (Ấn trời) vuông vức, sừng sững, đóng dấu lên cánh đồng , xa trông như kết dính với dòng sông Trà Khúc. Trên núi Thiên ấn có mộ  phần của Huỳnh Thúc Kháng.

4. Lê Trung Chi là cựu học sinh trường Pellerin, Huế, và trường Bưởi, Hà Nội, trúng tuyển ngạch quan lại Nam Triều, sơ bổ Tri huyện Yên Thành, rồi Tri huyện Yên Định, Tri phủ Quảng Xương, bị huyền chức năm 1944 một lượt với Tổng đốc Hồ Đắc Ứng và các Tri phủ Tri huyện khác của tỉnh Thanh Hóa vì tội không thi hành lệnh bắt dân nhổ mạ để trồng đay. Năm 1955, đương chức Tỉnh trưởng Quảng Nam, Lê Trung Chi chủ trương đoàn kết dân tộc nên bổ dụng một số Quận trưởng đảng viên  Quốc Dân Đảng, vì thế bị cách chức, bị loại ra khỏi ngành công vụ và bị chỉ định cư trú ở Nha Trang. Đầu năm 1963, Lê Trung Chi lại bị đưa lên an trí ở Ban Mê Thuột. Sau chính biến 1-11-1963, Lê Trung Chi được trở lại ngạch công vụ, được bổ nhiệm làm Giám đốc Nha Thanh tra Kinh tế Trung nguyên Trung Phần, và giữ chức vụ này cho đến khi về hưu trí vào năm 1972.

 



































Tản Mạn Về

Hương Bình Thi Xã





            Nhớ Huế thì không thể nào không nhớ đến Vỹ Dạ. Nhớ đến Vỹ Dạ thì nhớ đến Hương Bình Thi Xã của cụ Thúc Giạ. Ta hãy nghe cụ Thúc Giạ mời bạn tri âm bốn phương:

            "Thôn Tây Thượng thẳng xuống,
            "Đò Bến Cạn trông sang.
            "Lơ thơ một dãy trúc vàng,
            "Mời anh ghé lại nghe chàng tụng kinh.

            Tôi chưa hề được giáp mặt cụ Thúc Giạ, nhưng tôi biết tiếng cụ từ thời tôi còn ấu thơ. Dạo đó, cha tôi thường mua Thần Kinh Tạp Chí; và từ khi biết đọc quốc ngữ là tôi bắt đầu giở các trang Thần Kinh Tạp Chí, say sưa với tuồng Lộ Địch (Le Cid), với nàng Chi Manh (Chimène), với Mai Nương Lệ Cốt (Mannon Lescaut), với Tuyết Hồng Lệ Sử, với Hồng Lâu Mộng, Cô Lâu Mộng, v.v... và tất nhiên là quen thuộc với các bài thơ trong mục Việt Sử Tổng Bình của Ưng Bình Thúc Giạ Thị. Thần Kinh Tạp Chí xuất bản hàng tháng, cùng khuôn khổ với tạp chí Nam Phong. Tôi rất lấy làm lạ là các nhà viết văn học sử sau này, như các ông Dương Quảng Hàm, Nghiêm Toản, Hà Như Chi, không có ai nhắc nhở đến Thần Kinh Tạp Chí, mặc dù tạp chí này xuất hiện cùng thời với Đông Dương Tạp Chí của Nguyễn Văn Vĩnh và Nam Phong của Phạm Quỳnh, và đã đóng góp một phần quan trọng trong việc quảng bá chữ quốc ngữ và văn hóa Tây phương trong giới sĩ phu Đô Thành Huế.

            Vào những năm cuối thập niên 50, tôi trở lại sống và làm việc ở Huế và có dịp theo dõi hoạt động của Hương Bình Thi Xã. Dạo đó, Hương Bình Thi Xã quy tụ hơn mười cụ cựu học, do cụ Thúc Dạ làm Tao Đàn Nguyên Súy. Các cụ họp nhau mỗi tuần một lần, vào chiều thứ năm, để uống rượu làm thơ. Địa điểm hội họp thường là nhà cụ Thúc Giạ. Đi qua Đập Đá, xuống khỏi Vỹ Dạ, đến đầu thôn Tây Thượng là tới. Những buổi hội họp của các cụ trong Hương Bình Thi Xã, ngoài cái vẻ tao nhã của sinh hoạt văn thơ, còn đượm thêm không khí đầm ấm thân tình. Được như vậy đều là nhờ vào sự chăm chút của lệnh ái cụ Thúc Giạ là cô Tôn Nữ Hỷ Khương. Cô Tôn Nữ Hỷ Khương làm thơ rất hay, thỉnh thoảng cũng dự vào các cuộc xướng họa của các bạn hữu của cha già.

            Văn chương cụ Thúc Giạ người trong cả nước mấy ai không biết tới. Riêng tôi, tôi rất xúc động mỗi khi nghe lời ca của bài nam ai đắc ý nhất của Ưng Bình Thúc Giạ Thị :

            "Nước non ngàn dặm ra đi,
            "Cái tình chi,
            "Mượn màu son phấn, đền nợ Ô Ly.
            "Đắng cay vì đương độ xuân thì,
            "Số lao đao hay là nợ duyên gì?
            "Má hồng da tuyết
            "Quyết liều như hoa tàn trăng khuyết,
            "Vàng lộn theo chì...

            Cụ Thúc Giạ làm thơ rất nhiều, đều là thơ Đường luật. Cái đặc sắc của thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị là ngôn từ trong thơ đặc sệt Huế, Huế đến dễ sợ :


            "Trong gánh tương tư những vật gì?
            "Dây hồng lá đỏ đó chơ chi.
            "Hãy còn bợ ngợ sương không nổi,
            "Sao lại lần đân chẳng vất đi?
            "San sẻ khôn nhờ cân tạo hóa,
            "Nặng nề thêm mãi khối tình si.
            "Hỡi ai là bạn thương mình đó
            "Xin hãy xê vai rợt chút nì.

            Vào đầu thập niên 60, cụ Thúc Giạ mất. Các cụ trong Hương Bình Thi Xã bầu cụ Tử Hương Hồ Đình Lan làm Tao Đàn Nguyên Súy, thay  thế cụ Thúc giạ. Nhà tôi ở đầu đường Nguyễn Công Trứ, gần Đập Đá, nhà cụ Tử Hương ở cuối đường, bên kia Chợ Cống, nên mỗi lần chống gậy đi họp thi xã về, cụ Tử Hương thường ghé tôi chơi để kể cho tôi nghe chuyện xướng họa vừa xẩy ra ở thi xã. Vào thời điểm này, nền cựu học đã tàn tạ. Những người giỏi Hán văn đều nghiên cứu Hán học với tinh thần mới. Không mấy ai còn chịu khó làm công việc trích cú tầm chương. Bởi vậy, hoạt động của Hương Bình Thi Xã chỉ còn thu gọn trong phạm vi hạn hẹp của mười mấy cụ già. Chỉ duy tôi là còn mang đậm máu nhà nho trong người nên chịu khó ngồi nghe các cụ ngâm nga những câu thơ đắc ý. Vậy là, dạo đó, mỗi tuần một lần, nắng hạ cũng như mưa đông, đi họp thi xã về, cụ Tử Hương lại ghé tôi, để rồi một già một trẻ, kẻ nói người nghe, say sưa tiếp tục câu chuyện văn chương của Hương Bình Thi Xã.

            Tết Nhâm Dần 1962, Hương Bình Thi Xã họp tiệc tất niên. Các cụ sưu tập những bài thơ đã làm trong năm để nhuận sắc, nhân thể mỗi cụ làm một bài thơ với đề tài "Xuân mới đọc thơ cũ". Đi họp thi xã về, cụ Tử Hương lại ghé tôi chơi, đưa cho tôi tập giai phẩm của các cụ và luôn cả bài thơ cụ vừa làm, yêu cầu tôi đọc và nhận xét. Hôm sau, tôi đưa cụ Tử Hương bài thơ sau đây, họa nguyên vận :

            Lần trang giai phẩm giữa đêm xuân
            Lai láng dòng thơ góp ít vần.
            Hồn bướm canh trường mơ mặc khách,
            Xác ve đêm vắng mộng giai nhân.
            Nghìn câu ngọc nhả lời thơ thánh,
            Trăm vẻ hoa thêu nét bút thần.
            Bao quản ngại ngần tiên với tục
            Nối điêu xin góp chút xuân tân.

            Nhân dịp giổ đầu cụ Thúc Giạ, cô Tôn Nữ Hỷ Khương có bài thơ thương nhớ cha đưa trình thi xã. Các cụ đều họa lại nguyên vận. Tôi nghe chuyện cô Hỷ Khương, lòng thấy cảm thương cho số phận con người khuê các phải chịu cảnh đơn côi, ngày xanh vàng võ, bèn cũng mượn mấy câu thơ, họa lại nguyên vận, để chia sẻ nỗi buồn thiên cổ với người đồng điệu :

            Chứng tri đã có Phật mười phương.
            Hiếu thảo khen ai đủ mọi đường.
            Hạc nội mây ngàn muôn dặm thảm,
            Đào tơ liễu yếu một trời thương.
            Minh quân lương tể nhiều giai ngẫu,
            Tài tử giai nhân luống đoạn trường.
            Chiếc bóng canh dài ngao ngán nhẽ!
            Lưng trời vẳng tiếng vạc kêu suơng.

            Thấm thoát đã hơn ba mươi năm qua, biết bao sao dời vật đổi. Các cụ trong Hương Bình Thi Xã hầu hết đã thành người thiên cổ. Thi phẩm của các cụ, trải qua các biến động bời bời khói lửa, chẳng biết ngày nay còn lại được những gì? Những gì còn, những gì mất? Theo với vận nước nổi trôi, thân phận con người chẳng có gì đáng kể. Những sáng tác của Thúc Giạ Thị, một phần đã xuất bản, may ra còn truyền lại đời sau. Những sáng tác của các cụ khác, đám con cháu các cụ, có ai may mắn giữ lại một vài phần? Giai phẩm Xuân Nhâm Dần của các cụ, đọc xong tôi đã giao trả lại cụ Tử Hương. Riêng các sáng tác của Tử Hương Thị, may ra thầy Hồ Văn Lê hiện nay ở San Jose, California, còn giữ lại được ít nhiều. Thầy Hồ Văn Lê là con trai cụ Tử Hương, trước đây là Giáo sư Đồng Khánh, Hiệu trưởng Hàm Nghi, rồi Thanh tra Trung học Bộ Giáo Dục. Nhớ Huế, nhớ Vỹ Dạ, nhớ Hương Bình Thi Xã, nhớ những người muôn năm cũ, lòng tôi luống những ngậm ngùi trong nỗi hoài niệm man mác về quê xa, một quê hương đẹp đẽ vô cùng trong sương sớm Hương Giang và rực rỡ vô cùng trong nắng tà Kim Phượng (còn gọi là Thương Sơn).

                                                Toronto, tháng bảy 1993

                                               Minh Vũ Hồ Văn Châm























      













Hoài Niệm Trường Xưa
(Thân tặng Thầy Nguyễn Hữu Thứ)

            Tôi là dân Quốc Học chính cống. Suốt bảy năm trung học, từ 1945 đến 1952, tôi chỉ độc có học mỗi một trường Quốc Học. Thế nhưng duyên nợ với chính ngôi trường như hiện nay đang in bóng trên đường Lê Lợi bên giòng sông Hương thì lại không nhiều so với mối gắn bó của bản thân tôi với những mái trường khác có liên hệ thân thiết với trường Quốc Học.
            Dạo đó trường Quốc Học mang tên là trường Trung học Khải Định. Vào một ngày đầu thu rợp bóng cờ sao, tôi vào học lớp đệ thất. Lớp chúng tôi gồm những học sinh trong số 200 trúng tuyển chính thức nên được xếp vào học ở cuối dãy nhà lớn gần préau, tức là sân chơi có mái lợp. Lớp thoáng mát, bàn ghế đều bằng gỗ lim, có hàng hiên cao rộng. Về sau, trường lấy thêm 600 học sinh dự khuyết, chia làm 12 lớp nữa, xếp vào dãy nhà trệt bên rìa sân banh, đối diện với nhà kho và nhà bếp. Trong trí óc thơ dại của chúng tôi dạo đó tuyệt nhiên không có ý niệm phân biệt chính thức với dự khuyết, mà chỉ có sự so sánh hơn thua giữa lớp học ở nhà trên cao rộng với lớp học ở nhà ngang thấp lè tè. Tất nhiên là chẳng mấy khi chúng tôi xuống chơi "lớp tụi nó" mà chỉ có "tụi nó" ngày ngày mon men lên lớp chúng tôi giương những cặp mắt láo liên nhìn ngang nhìn ngữa. 
Trường Khải Định là một trong những truờng Trung học lớn nhất nước nên quy mô rộng lớn, kiến trúc uy nghi, trang bị đầy đủ. Phòng vạn vật của thầy Thân Trọng Hy là nơi hấp dẫn chúng tôi nhất. Giờ ra chơi nào chúng tôi cũng chạy lên phòng vạn vật, say sưa ngắm nghía những con thú nhồi bông, những con rắn ngâm ruợu, những con chim dang rộng đôi cánh giống như chim thật đang bay. Không biết thầy Hy lúc đó đang nghiên cứu đề tài gì mà tuần nào thầy cũng bắt chúng tôi mỗi đứa phải nộp một tờ tường trình kê rõ các thứ cá đang bày bán ở các chợ trong thành phố Huế. Chúng tôi một phần thì vì lười biếng, một phần thì vì bị mắng mỏ khi len lỏi vào hàng tôm hàng cá hỏi han lôi thôi, nên "phiếu điều tra" rốt cuộc đều giao cho mẹ và chị hoặc người nhà làm hộ.
            Trường có nhiều loại phòng học chuyên dụng, học vạn vật thì cả lớp chuyển đến phòng vạn vật, học vẽ thì đến phòng vẽ, học lý hóa thì đến các phòng Lý Hóa 1, Lý Hóa 2. Những lúc chuyển lớp như thế, chúng tôi vui đùa chẳng khác gì trong giờ ra chơi. Phòng vẽ của trường Khải Định hồi đó có những bực cấp hình cánh cung, học sinh ngồi trước giá vẽ y như họa sĩ thực thụ. Phòng vẽ này theo tôi thì hơn hẳn phòng vẽ của trường Mỹ thuật Huế sau này. Phòng Lý Hóa 2 còn gọi là "amphithéâtre" thì đúng là vóc dáng giảng đường của một trường Đại học, bàn ghế được sắp xếp theo từng dãy từ thấp lên cao như trong các rạp hát hiện đại. Phòng Lý Hóa 2 này thường để cho học sinh đến quan sát biểu diễn thí nghiệm, hoặc để hội họp học sinh trong các buổi sinh hoạt và bầu bán hiệu đoàn. Năm đó Việt Minh mới lên cầm quyền nên các hoạt động hiệu đoàn vô cùng sôi nổi. Chúng tôi là lớp nhỏ tuổi nhất trường nên nhìn các anh các chị ban Tú tài hùng hồn diễn thuyết với tấm lòng khâm phục chân thành của tuổi thơ. Hồi đó anh Lê Văn Giáp người Nghệ đứng ra làm chủ tịch lâm thời, vận động thành lập ban học sinh cứu quốc và tổ chức bầu cử chủ tịch chính thức. Đến ngày bầu cử, hai anh Lê Văn Giáp và Nguyễn Văn Đãi được đề cử vào chức vụ đó. Bọn nhỏ chúng tôi chẳng để ý gì đến xu hướng chính trị của hai anh, chỉ bàn với nhau là bầu anh Đãi vì một lẽ đơn giản anh Đãi là người Huế. Kết quả anh Đãi trúng cử. Trong buổi họp bầu, có chị Vượng người Bắc được đề cử vào chức vụ ủy viên tài chánh. Khi kiểm phiếu có một phiếu ghi là gibbon, mọi người trong phòng họp đều cười ồ, chỉ duy chị Vượng bình thản phát biểu : "Gibbon là vượn mà tên tôi là Vượng, vậy thì anh không giỏi quốc văn rồi". Tôi vô cùng khâm phục tài ứng phó của chị Vượng.
            Văn phòng Hiệu trưởng là một ngôi nhà uy nghi riêng biệt ở gần cổng chính. Hiệu trưởng lúc bấy giờ là giáo sư Phạm Đình Ái. Thầy Ái không dạy lớp chúng tôi mà chúng tôi cũng không hề dám bén mãng đến văn phòng Hiệu trưởng nên chúng tôi không được gần gũi với thầy. Riêng tôi được người lớn cho biết phu nhân của thầy là con gái cụ Thượng Tiến, trước đây đã được Triều đình tuyển chọn vào ngôi vị mẫu nghi thiên hạ, chỉ vì vua Bảo Đại là người tân học, tự chọn lấy vợ, nên bà mới phải nhường ngôi vị này cho bà Nam Phương. Người ta nói rằng bà đẹp lắm. Tôi chưa bao giờ được giáp mặt, nhưng vẫn có thể phần nào hình dung được nhan sắc của bà qua mấy người cháu gái gọi bà bằng cô sau này đã từng một thời nổi tiếng chim sa cá lặn. Thầy Phạm Đình Ái về sau đi theo kháng chiến và đã đóng góp nhiều hiểu biết khoa học vô cùng thiết thực cho việc chế tạo vũ khí đạn dược. Sau hiệp định Genève, thầy trở về thành, và sau này thầy là Thượng Nghị sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
            Trong số giáo sư quốc văn thời đó có thầy Nguyễn Lân, bút hiệu Từ Ngọc. Tôi vốn mê đọc sách, kể cả loại tiểu thuyết Phổ thông bán nguyệt san mà người lớn khó tính thường cấm không cho con em mua đọc, viện lẽ là văn chương loại đó chỉ để dành cho các cô bán hàng chợ Đông Ba. Chính vì lẽ không bỏ sót một số Phổ thông bán nguyệt san nào nên trước khi được vào học trường Trung học Khải Định tôi đã biết tiếng nhà văn Từ Ngọc qua tác phẩm "Khói Hương". Tôi lại còn nhớ đến một tác phẩm khác của thầy Nguyễn Lân, tác phẩm loại khảo cứu mang tựa đề "Những Trang Sử Vẻ Vang" với lời đề tặng ở đầu sách "Âu yếm mong bốn con, Lân Tuất, Tề Chỉnh, Lân Dũng, Lân Cường, sau này sẽ tìm thấy ở những trang sử vẻ vang một nguồn sống mạnh mẽ và xứng đáng". Hồi đó, đọc lời đề tặng, tôi cứ nghĩ lẩn thẩn là thầy có 4 nguời con, 3 trai 1 gái, mà Tề Chỉnh chắc chắn là con gái. Xong năm học 1945-1946, thầy Nguyễn Lân đổi về Bắc, từ đó tôi không biết tin tức gì về thầy cũng như mấy người con của thầy, tuy nhiên tôi rất biết ơn tác phẩm "Những Trang Sử Vẻ Vang" của thầy, và nhất là lúc nào tôi cũng nghĩ đến niềm mong mỏi của thầy đối với các con qua lời đề tặng ở đầu sách. Tôi xem lời đề tặng đó cũng như là lời khuyên nhủ của thầy đối với bọn học trò nhỏ chúng tôi, phải biết noi gương anh dũng của người xưa, để biết sống có khí phách, có đạo nghĩa, "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất".
            Dạo đó, tôi không học quốc văn với thầy Nguyễn Lân mà học quốc văn với thầy Phan Thanh Hy. Thầy Hy đang còn trẻ. Đối với chúng tôi, thầy Hy lúc đó đúng nghĩa là người anh hơn là người thầy. Mỗi chủ nhật, thầy thường dẫn chúng tôi qua nhà thương Huế thăm các anh Vệ quốc đoàn bị thương ở mặt trận Nam Trung bộ đang nằm điều dưỡng tại đây. Chúng tôi theo sự chỉ dẫn phân phối của thầy, mỗi đứa chăm sóc một anh Vệ quốc quân, giúp các anh đọc sách, viết thư, và giặt áo quần cho các anh bị thương nặng không có thân nhân chăm sóc. Thầy Phan Thanh Hy đã dạy cho chúng tôi một bài học cụ thể về lòng yêu nước, nghĩa đồng bào. Các anh lính Vệ quốc nằm trên giường bệnh lúc đó đều rất trẻ, tuổi đời chưa quá 20, đều là cựu học sinh ban Thành chung hoặc ban Tú tài của các trường trung học Khải Định, Pellerin, Providence, Việt Anh, Phú Xuân, Thuận Hóa, Hồ Đắc Hàm. Các anh nào có nghĩ gì đến các mưu đồ chính trị. Các anh chỉ có tấm lòng hăng say của tuổi trẻ, các anh chỉ muốn cống hiến linh hồn trong sáng và thể xác kiện khang cho Tổ quốc, cho đồng bào. Mới hôm nào tựu trường, chúng tôi còn gặp một số các anh nhởn nhơ trong préau trường Khải Định, mà nay các anh đang nằm đó, thương tích đầy mình mà tâm hồn vẫn hào sảng :"Người Vệ quốc quân một lần ra đi, nào có mong chi đến ngày trở về; ra đi, ra đi, bảo tồn sông núi, ra đi, ra đi, thà chết chớ lui". Đối với các anh, đâu có phải vì áo cơm mà phải lụy đến hình hài. Các anh cống hiến máu xương cho quyền lợi của đất nước, của giống nòi. Và chúng tôi thương yêu các anh, khâm phục các anh, cũng chỉ vì trong thăm thẳm đáy tâm tư của chúng tôi đang manh nha mầm mống tốt tươi của tình tự dân tộc. Cuối năm 1946, thành phố Huế tản cư toàn diện. Tôi không biết các anh trôi dạt về nơi nào, anh nào còn, anh nào mất.
Giữa năm 1947, tôi hồi cư về Huế và gặp lại thầy Phan Thanh Hy. Lần này, thầy dạy chúng tôi Pháp văn. Về sau, thầy vào Sài Gòn học Luật, và trở thành một luật sư nổi tiếng ở tòa Thượng thẩm Sài Gòn. Thầy là cháu bốn đời cụ Phan Thanh Giản. Cụ Phan là một nhà nho chân chính. Tôi không đồng ý việc nhà cầm quyền cộng sản sau năm 1975 đã bỏ tên đường Phan Thanh Giản. Trong chúng ta có thể có nhiều người không đồng ý việc cụ Phan không đánh mà lại chịu giao ngay 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ cho thực dân Pháp. Nhưng cụ đã lấy cái chết để tạ tội với vua, với nước. Cái chết đầy tiết tháo của cụ đã đủ để trả món nợ công danh một cách sòng phẳng và giữ chỗ đứng vững chắc cho cụ trong lòng dân tộc Việt Nam. Hơn nữa, cụ là vị tiến sĩ đầu tiên của đất Nam Kỳ, và cụ đã lưu lại cho hậu thế nhiều văn thơ tuyệt bút. Lúc lên đường ra kinh nhậm chức, cụ có bài thơ "Giả vợ ở nhà đi làm quan":
                        "Từ thuở vương xe mối chỉ hồng
                       "Lòng này ghi tạc có non sông.
                        "Đường mây cười tớ ham rong ruỗi,
                        "Trướng liễu thương ai chịu lạnh lùng.
                        "Ơn nước nợ trai đành nổi bận,
                        "Cha già nhà khó cậy nhau cùng.
                        "Mấy lời dặn bảo lúc lâm biệt
                        "Rằng nhớ, rằng quên, lòng hỡi lòng.

Lúc đi sứ sang Yên Kinh, qua lầu Hoàng Hạc, cụ có bài thơ sau:
                        "Tích thời hạc dĩ hà niên khứ?
                        "Thiên tải nhân tùng nam cực lâm.
                        "Anh Võ châu tiền phương thảo lục,
                        "Tình Xuyên các thượng bạch vân thâm.
                        "Bán thiên lạc nhật phù giang hán,
                        "Nhất phiến hàn lưu tống cổ câm.
                        "Mãn mục quan san bội trù trướng,
                        "Du du trần mộng thập niên tâm.
Hai bài thơ trên, một Nôm một Hán, đã đủ để nói lên cái tài tình và cái uyên bác trong thơ của cụ. Hậu thế chúng ta không nên nông nổi, chỉ vì chính kiến bất đồng mà đã vội vàng đối xử bất công với người xưa.
            Dạo đó, người phụ trách môn công dân giáo dục lớp chúng tôi là thầy Đoàn Nồng. Thầy Đoàn Nồng là một nhà hùng biện. Giờ lên lớp, thầy đưa cho chúng tôi một bài giáo khoa ngắn gọn, bảo chúng tôi liệu thu xếp với nhau để chép vào vở học. Thầy dành toàn bộ thời gian lên lớp để giảng bài. Thầy nói thao thao bất tuyệt, thỉnh thoảng cao hứng lại nắm tay đấm xuống bàn thình thịch để nhấn mạnh lời nói. Chúng tôi say sưa ngồi nghe. Thầy thường đẩy đưa câu chuyện về tệ nạn xã hội thời thực dân Pháp đô hộ nước ta. Thầy cho chúng tôi biết những tổ chức buôn bán độc quyền thuốc phiện và rượu của nhà nước, thời đó gọi tắt là RO (régie d'opium) và RA (régie d'alcool). Thầy nói tỉ mỉ về những mánh khoé chèn ép của tư bản Pháp đối với tư bản bản xứ như công ty rượu Văn Điển và công tư chuyển vận Bạch Thái Bưởi. Thầy cũng đề cập đến sự vô liêm sỉ của các viên Tri huyện và Lý trưởng thời thực dân đã dùng mọi thủ đoạn gian ác để bắt dân đen phải mua rượu ty để đạt chỉ tiêu số lượng do nhà đoan Pháp gán ép. Chúng tôi được người lớn cho biết sỡ dĩ thầy Đoàn Nồng ăn nói hùng hồn lưu loát như vậy vì thầy vốn là người "làm quốc sự". Thầy Đoàn Nồng là một trong những nhân vật chủ chốt ở Huế của các hoạt động thanh niên học sinh ủng hộ các cụ Phan Sào Nam và Phan Tây Hồ. Sau năm 1946, thầy Đoàn Nồng đi theo kháng chiến, và chỉ sau này, vào những năm cuối thập niên 80, tôi mới lại được nghe một vài người quen nhắc nhở đến thầy Đoàn Nồng. Thầy đã về già và đã nghỉ hưu.
            Trái với thầy Đoàn Nồng, ở trường Trung học Khải Định lúc đó có thầy Nguyễn Trung Thuyết cũng là người "làm quốc sự" nhưng lại thâm trầm ít nói. Thầy dạy chúng tôi môn lý hóa. Suốt giờ lên lớp, thầy chỉ chuyên tâm giảng bài. Chỉ một lần duy nhất, trong giờ giảng của thầy, anh Lê Văn Giáp, Chủ tịch lâm thời ban học sinh cứu quốc, đến xin phổ biến thông cáo của nhà nước về phong trào thanh niên khỏe, cứ mỗi lần anh Giáp đọc đến 3 tiếng thanh niên khỏe thì thầy Nguyễn Trung Thuyết lại gằn giọng chữa lại là thanh niên khóc. Nét mặt thầy Thuyết lúc đó thật là lạ lùng, vừa cứng rắn, vừa bi phẫn. Chúng tôi nhìn thầy Thuyết, nhìn anh Giáp, trong lòng băn khoăn lo lắng không hiểu đã có chuyện gì xẩy ra giữa hai người. Anh Lê Văn Giáp không có phản ứng gì, đọc thông báo xong là anh chào thầy Thuyết, chào chúng tôi, rồi đi nhanh sang lớp khác. Chỉ nhiều tháng sau, khi nghe người lớn bàn tán về phong trào Ngũ Xã, về tòa báo đường Quan Thánh, về vụ Ôn Như Hầu, và về cuộc chém giết đẫm máu huynh đệ tương tàn ở Vĩnh Phúc Yên, Phú Thọ, Việt Trì..., chúng tôi mới lờ mờ hình dung được con người đích thực của thầy Nguyễn Trung Thuyết ẩn tàng bên trong cái vỏ bề ngoài khô khan, khắc khổ, ít nói, ít cười. Giữa năm 1947, hồi cư về Huế, tôi được tin thầy Nguyễn Trung Thuyết đã bị Việt Minh thủ tiêu. Ở đây, tôi xin kính dâng thầy một nén hương lòng để cùng các anh chị nhóm Phuợng Vỹ hoài niệm mái trường xưa, tưởng nhớ đến một người thầy, một người anh, một người đồng chí, một người Việt Nam chân chính oai hùng.
            Vào một buổi sáng cuối năm 1945, đang giờ học, cả trường Khải Định bỗng dưng nhốn nháo khi rất nhiều lính Tàu vàng ùn ùn kéo vào trường xuyên qua cổng chính đi thẳng vào préau. Lính Tàu mặc quân phục màu vàng đất, súng ống lổn nhổn đầy người. Từng toán, từng toán kéo qua sân trường, vào hết trong sân chơi. Mỗi toán lại có mấy nguời lính gồng gánh nồi niêu dao thớt, thật là lôi thôi lếch thếch. Chúng tôi được các thầy giám thị cho biết là lính Tàu được chính phủ cho vào tạm trú ở préau trong một vài ngày. Suốt ngày hôm đó, chúng tôi chỉ được phép quanh quẩn ở trong phạm vi lớp học và hàng hiên, không được ra ngoài sân trước cũng như không được xuống dưới préau. Ngày hôm sau khi tình hình đã ổn định, chúng tôi mới được đi lại tự do trong giờ ra chơi. Chúng tôi bèn mon men xuống préau để xem lính Tàu vàng. Họ ăn mặc lôi thôi, áo quần nhầu nát, chân quấn xà cạp, da mặt bủng beo, dáng dấp còm cỏi. Đúng là một đạo quân thiếu cơm. Rất nhiều người trong bọn họ bị "ghẻ hờm", vết loét to bằng miệng chén. Người lớn cho chúng tôi biết đây là đạo quân của tướng Long Vân ở Vân Nam, sang đây giải giới quân Nhật. Họ chỉ trú đóng ở sân chơi trường Khải Định vỏn vẹn có 3, 4 ngày. Sau đó, họ được thu xếp vào ở các biệt thự và các cư xá rải rác bên hữu ngạn sông Hương, trả lại sân chơi cho học sinh trường Khải Định. Ngày bốn buổi, trên đường đi về trường học, ngày nào cũng như ngày nào, chúng tôi thường gặp lính Tàu vàng lũ năm lũ ba kéo nhau đi dạo phố, ăn quà vặt, láo liên nhìn ngang nhìn ngửa, chỉ trỏ líu lo rồi cười hô hố. Trong các vườn cây bao quanh các biệt thự, lính Tàu vàng đào hố xí lộ thiên, mùi hôi thối bay ra nồng nặc. Trong trí óc thơ dại của chúng tôi đã sớm nẩy nở mối hoài nghi về sự chiến thắng của đạo quân ô hợp đó khi đem họ so sánh với dáng dấp uy dũng của mấy quân nhân Nhật Bản trước đây thường ngồi gác trước cổng trường Hồ Đắc Hàm. Ít tháng sau thì quân Tàu xanh kéo sang thay thế quân Tàu vàng. Quân Tàu xanh mới là quân chính quy của Tưởng Giới Thạch, phong độ so với quân Tàu vàng thì khá hơn nhiều. Chúng tôi nghe người lớn nói đây là kế hoạch điệu hổ ly sơn của Tưởng Giới Thạch, nhằm giải giới quân Tàu vàng của Long Vân để lấy lại Vân Nam. Điạ thế Vân Nam hiểm trở, lại ở xa trung ương, nên vào những lúc tao loạn, nhà cầm quyền Vân Nam thường nổi lên cát cứ. Ngày xưa, dưới triều Thanh sơ, Tây vương Ngô Tam Quế đã dựng cờ độc lập ở đây. Đến thời Thanh mạt, Tổng đốc Sái Ngạc đã bỏ Viên Thế Khải theo Tôn Dật Tiên khiến cho đế nghiệp của họ Viên hóa thành bọt xà phòng. Nhân buổi nhiễu nhương, hết Trung Nhật chiến tranh đến Đệ nhị thế chiến, Đường Kế Nghiêu rồi tiếp đến Long Vân đã giữ vững Vân Nam làm giang sơn riêng biệt của mình. Đến nay, Tưởng Giới Thạch mới dùng mưu lấy lại. Đất Vân Nam là nơi dung thân của các nhà cách mạng Việt Nam. Những năm 1945, 1946, họ lần lượt về nước trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Qua họ, ngay từ thuở mới vào học trường Trung học Khải Định, tôi đã được nghe xưng tụng cảnh đẹp hồ Côn Minh, tượng đài Sái Ngạc và lầu Túy Hương với đôi câu đối bất hủ:
“Túy ý hôn hôn, thả quy khứ,
“Hương sầu nồng nồng, thỉnh lai hề,
nhắc nhở thiên hạ nhớ đến mấy chữ Quy khứ lai hề trong một bài phú nổi tiếng của Đào Uyên Minh.
            Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 để cho người Pháp đem quân vào phía bắc vĩ tuyến 16. Nhà cầm quyền ở Huế sắp xếp cho quân Pháp vào trú đóng tại trường Trung học Khải Định. Thế là chúng tôi phải dọn qua học tạm trong Đại Nội. Bắt đầu từ đây, thầy trò chúng tôi giã từ ngôi trường uy nghi cổ kính để bước chân vào một cuộc đời mới, cuộc đời nổi trôi phiêu bạt theo liền với mệnh nước nổi trôi. Đại Nội, rồi Việt Anh, rồi đi tản cư. Hồi cư về thì Chaigneau, Việt Anh, rồi Đồng Khánh. Cho đến năm cuối cùng bậc trung học, mang danh là học sinh trường Trung học Khải Định, tôi vẫn chưa từng được trở lại học ở ngôi trường xưa. Duyên nợ với chính ngôi trường như hiện nay đang in bóng trên đường Lê Lợi bên bờ sông Hương quả thật là ngắn ngủi, vỏn vẹn chỉ có bảy tháng trời mà thôi! Nhưng sao mà thương, mà nhớ đến thế! Trong thăm thẳm tột cùng của đáy tâm tư, chuyện cũ  của  gần nửa  thế  kỷ, nhớ  nhớ, quên  quên, dằng dặc, miên viễn, là chuổi dài hoài niệm mái trường xưa thân thương in đậm dấu ấn của một thời trẻ dại, ngây thơ nhưng nhiệt tình.
                                                            Toronto, tháng 7, 1993
                                                           Minh Vũ Hồ Văn Châm



























Tùy bút

Mộng  Nhà  Nho



Kính Viếng Hương Hồn Anh Võ Văn Hải

Minh Vũ Hồ Văn Châm



            Tôi có người bạn vong niên, quen nhau trong trại cải tạo Xuân Phước. Đó là một người Huế “gin”. Huế gin chứ chưa hẳn là Huế điển hình. Nói thế có nghĩa là bạn tôi có ngoại hình và tâm tính rất đặc biệt Huế, không thể lẫn lộn với người của một địa phương nào khác. Nhưng bạn tôi cũng có những tính nết và cảm nghĩ hơi khác thường, không phải người Huế nào cũng cư xử và cảm nghĩ như vậy. Người ấy là anh Võ Văn Hải, nguyên Chánh Văn Phòng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

            Anh Hải lớn hơn tôi những mười mấy tuổi. Hồi trước tôi chưa từng được gặp mặt anh, mà chỉ nghe tiếng anh thôi. Anh Hải là bạn của anh Cả tôi, nên ngay từ lúc anh chưa nổi tiếng, tôi đã được nghe nói nhiều về anh, về cả tông chi họ hàng nhà anh. Tôi được biết anh là con trai cụ Võ Vọng, một nhà nho thi đỗ Cử Nhân Hán học, làm quan chức Án Sát, hàm Hường Lô. Tôi cũng được biết anh là con rễ cụ Nguyễn Khoa Toàn, thời đó làm Tá Lý bộ Học(1). Tôi còn nhớ rõ hình ảnh cụ Tá Lý mặc quốc phục, áo gấm bài ngà, giày dừa khăn đóng, nghiêng mình bên giá vẽ trong sân préau trường Tiểu học Chaigneau, tô đìểm cho "con rồng nhà Nam" dùng làm bức phông cho buổi lễ Vạn Thọ mà bọn học sinh Huế chúng tôi sẽ hát bài phú lục "Vạn Thọ Vô Cương" chúc tụng Hoàng Đế Bảo Đại :
                        "Chói, chói ơn Thánh!
                        "Đâu dám quên lễ này.
                        "Nước ta rày có tên
                        "Nhờ Thánh Đế, đức Minh Quân
                        "Trời Nam...

            Khi anh Võ Văn Hải làm Chánh Văn Phòng cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm thì tiếng tăm anh nổi như cồn. Tất nhiên là với chức vụ Chánh Văn Phòng phủ Tổng Thống, anh nổi tiếng trong giới hành chánh. Đơn từ, kiến nghị, thứ nào cũng phải qua tay Chánh Văn Phòng đệ trình lên Tổng Thống. Sắc lệnh, thông điệp, thứ nào cũng phải qua tay Chánh Văn Phòng ban bố ra ngoài. Nhưng anh Hải không phải nổi tiếng chỉ vì thế. Anh nổi tiếng vì anh là điểm tựa của phe phái người Trung bên cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Anh nổi tiếng vì anh là đối cực của phe phái Bác sĩ Trần Kim Tuyến, người giữ chức vụ bề ngoài có vẻ rất khiêm nhường là Giám Đốc Sở Nghiên Cứu Chính Trị, nhưng thực chất bên trong lại quan trọng tột cùng. Anh nổi tiếng vì thái độ thiếu thiện cảm của anh đối với phe phái bà Cố vấn Ngô Đình Nhu. Và đặc biệt anh nổi tiếng vì anh rập khuôn tâm lý "e ngại" người Bắc và người Hoàng Tộc của Tổng Thống Ngô Đình Diệm qua câu nói cửa miệng "Nhất Bắc Kỳ, nhì các Mệ". Chính vì những điểm trên đây, nếu làm cho anh nổi tiếng một thời, thì cũng đã làm cho anh tuy là một người gốc Huế "gin" mà không phải là người Huế điển hình. Thực vậy, xưa nay người Huế và người Bắc thường đi với nhau để thành những cặp bài trùng tuyệt vời xây dựng nên bao nhiêu sự nghiệp lưu danh vạn cổ. Xưa nay, có người Huế nào lại không có liên hệ gia đình với Hoàng Tộc, và có người con trai Huế nào lại không thấy lòng vấn vương với hình ảnh :
                        "Một hàng Tôn Nữ cười trong nón,
                        "Sông mở lòng ra đón bóng yêu...

            Đầu năm 1983, sau Tết Nguyên đán, bọn chúng tôi khoảng chừng 60 người, được đưa từ phân trại C ra phân trại B Trại Cải tạo Xuân Phước. Đến phân trại B cũng đã gần trưa, bọn chúng tôi được đưa đến hội trường lãnh cơm ăn và trải chiếu nằm nghỉ, chờ đến chiều sẽ được phiên chế đội ngũ và chỉ định nhà ở. Buổi trưa chốn thâm sơn cùng cốc, tuy mới đầu xuân mà đã gay gắt chói chang; hội trường trống trơn mà hơi nóng từ mái tôn hắt xuống cũng hầm hập ngột ngạt vô cùng. Chúng tôi không ai nằm yên chiếu, phần trăn trở vì khí hậu oi bức, phần băn khoăn không biết cuộc sống nay mai ở phân trại này sẽ ra sao. Đúng lúc ấy, tôi chú ý đến một người tầm thước, tóc hớt ngắn, mình ở trần, chân đi đôi guốc mộc, trên người chỉ có mỗi cái quần đùi may bằng vải bao cát xám nhạt, phía trước có thêu một đóa hoa năm cánh đỏ chói. Người đó đứng dưới bóng cây mít trước sân hội trường, nhìn chúng tôi có vẻ tìm tòi. Có người nói cho tôi biết đó là ông Võ Văn Hải, Chánh Văn Phòng cụ Diệm. Tự nhiên trong lòng tôi dâng lên một nỗi xót thương vô hạn. Con người tôi nghe tiếng bấy lâu thì bây giờ đang đứng đó, cô đơn, trần trụi. Văng vẳng trong tôi tiếng vọng xa vời :
                        "Phượng hoàng vách đá cheo leo,
                        "Sa cơ thất thế phải theo đàn gà...
Có chút gió thoảng nhẹ và một vài ngọn lá mít rụng rơi trong nắng trưa gay gắt miền sơn dã. Cụ Tản Đà hốt nhiên hiện ra trong ký ức với mấy lời tán thán xót xa :
                        "Vèo trông lá rụng đầy sân,
                        "Công danh trần thế có ngần ấy thôi!
Quả chỉ có ngần ấy thôi. Cái quần cộc vải thô, đôi guốc gỗ không sơn phết. Tôi vội vã chạy ra chào và xưng danh tánh. Người ấy vui vẻ bắt tay tôi, nói rằng đã quá biết tôi, mặc dù chưa có lần đối mặt. Chúng tôi quen nhau và trở thành bạn vong niên của nhau kể từ trưa hôm đó.

            Tôi với anh Võ Văn Hải kết thân với nhau hoàn toàn không phải vì sự đẩy đưa của cuộc sống tù hãm hàng ngày trong trại cải tạo. Tôi với anh Hải không ở chung nhà giam. Tôi với anh Hải không cùng thuộc một đội lao động. Tôi với anh Hải cũng không hề ăn chung với nhau, hay biếu xén quà cáp qua lại. Tôi với anh Hải thân nhau chỉ vì cả hai đều mang đậm máu nhà nho trong người. Chúng tôi tìm đến nhau để trao đổi chuyện văn chương, để đọc cho nhau nghe những câu thơ tâm đắc, để kể cho nhau nghe những mẩu chuyện ngày xưa trong lãnh vực văn học đã từng một thời lưu lại vang bóng. Mỗi sáng chủ nhật, chúng tôi không phải đi lao động. Khi các nhà giam mở cửa, điểm danh xong, chúng tôi được ra ngoài sân đun nấu. Thông thường dịp này bọn tù chúng tôi tổ chức ăn uống, thù tạc với nhau. Riêng tôi với anh Hải, vốn quen với nếp sống thanh đạm ngày trước, nên không mấy khi tụ họp ăn uống, mà thường hẹn nhau ra bờ rào bên nhà văn hóa, dưới bóng mát mấy cây mít sum sê, để nói với nhau chuyện văn chương chữ nghĩa. Anh Võ Văn Hải là người thông hiểu Hán tự. Sau khi rời khỏi chức vụ Chánh Văn Phòng Tổng Thống, anh Hải theo học ban Hán học trường Đại Học Văn Khoa, tốt nghiệp Cử Nhân Hán học và sau đó theo học ban Cao học chuyên về Cổ văn Trung Quốc. Chúng tôi gặp nhau như thể kẻ khó bắt gặp vàng ròng. Thời buổi bây giờ, mấy ai lưu tâm đến cổ văn. Trong chốn lao tù, dễ gì tìm được bạn đồng thanh đồng khí.

            Tâm lý bọn tù chúng tôi là e ngại chuyển phòng chuyển trại. Mỗi lần di chuyển là mỗi lần khánh kiệt "gia tài". Rời trại cũ là phải qua một đợt kiểm tra gắt gao. Đến trại mới lại thêm một đợt kiểm tra gắt gao nữa. Thứ gì cũng có thể bị cán bộ trại giam tịch thu với lý do vi phạm nội quy của trại. Rút lại chỉ còn mấy mớ quần áo, cái chén ăn cơm, cái ca uống nước, cái muỗng nhôm, đôi đũa mộc. Bởi vậy bọn tù chúng tôi chỉ muốn yên nơi yên chỗ. Trừ phi là được thả về, còn đã là ở tù thì ở đâu cũng vậy thôi. Bị chuyển phòng chuyển trại là điều bọn chúng tôi chẳng muốn. Do tâm lý đó, tôi rất thấm thía ý nghĩa của một bài thơ cổ :


                        "Trú tại Ba Châu dĩ thập thu,
                        "Thần tư nhật dạ ức Hàm Dương.
                        "Vô đoan cánh độ Tang giang thủy
                        "Khước bả Ba Châu thị cố hương!
nói lên tâm trạng một người vốn sinh trưởng ở Hàm Dương nay phải ra ở Ba Châu, tuy đã mười năm rồi mà ngày đêm vẫn tưởng nhớ kinh đô, cho đến khi được lệnh phải vượt Tang giang thủy di chuyển đi nơi khác mới xem Ba Châu là chốn quê nhà. Tuy nhiên trong bài thơ ấy, tôi thấy câu đầu "Trú tại Ba Châu dĩ thập thu" có điểm không ổn là "thập thu" làm sao hiệp vận với "Hàm Dương" ở câu thứ hai và "cố hương" ở câu thứ tư. Đến khi chuyển ra phân trại B Xuân Phước, quen với anh Võ Văn Hải, một hôm tình cờ tôi nghe anh Hải đọc bài thơ nói trên với câu đầu như sau :
                        "Trú tại Ba Châu dĩ thập sương,
tôi vô cùng sãng khoái vì bao nhiêu thắc mắc bấy lâu nay phút chốc được giải tỏa. Tôi càng giận mình đần độn, giản dị như vậy mà nghĩ mãi không ra, càng thấy thích thú được cùng anh Hải lâu lâu có dịp đàm luận thơ phú.

            Trong gia đình, anh Hải là một người chồng khó tính. Chị Hải tuy là tiểu thư con quan nhưng một mực nể trọng chồng, nể trọng đến mức gần như sợ hãi. Bọn tù chúng tôi bị giam đói giam khát, sống được là nhờ vào sự tiếp tế của gia đinh. Chúng tôi trông mong vợ con đến thăm nuôi y như trẻ con đợi mẹ về chợ. Ấy vậy mà anh Hải chỉ cho phép chị Hải ra thăm nuôi khi nào anh thấy cần. Không có lệnh của anh mà tự tiện ra thăm nuôi là anh chỉ cho gặp mặt, còn các thứ tiếp tế phải mang trở về. Chị Hải có năn nỉ phân bua gì đi nữa thì anh cũng vẫn không nghe. Bảo mang đồ tiếp tế về là phải mang về. Lần sau nhận thơ bảo ra thăm rồi hẳn ra thăm. Tự tiện ra thăm là không ra gặp mặt nữa, đừng nói đến chuyện nhận quà tiếp tế.

            Trong trại giam, anh Hải là một người tù dễ dãi. Anh chấp hành nghiêm chỉnh nội quy. Anh tin tưởng vào lời hứa hẹn khoan hồng của "Đảng và Nhà nước". Có lần cán bộ an ninh trại giam hở hơi cho biết trong danh sách tù nhân sắp được phóng thích có tên anh, thế là anh làm giấy ủy quyền cho anh Ngô Khắc Tỉnh lãnh quà tiếp tế của gia đình anh gửi ra theo đường bưu điện. Anh lại còn đem chia hết cho anh Tỉnh những thức ăn khô anh đang có. Bọn tù chúng tôi còn lạ gì cái mánh khoé của cán bộ trại giam luôn tìm cách tạo ảo tưởng sắp được tha để dễ duy trì trật tự. Ấy vậy mà anh Hải thật sự tin tưởng vào lời nói của bọn cán bộ. Đến khi không thấy ai được tha, hoặc có người được tha nhưng không phải là anh, anh Hải lại mất tinh thần đến độ khủng hoảng. Nhưng chỉ ít lâu sau thôi, đến dịp một ngày lễ lớn khác, bọn cán bộ lại tung tin vịt phóng thích, và anh Hải lại phập phồng hy vọng, tin rằng trong danh sách tù nhân sắp được thả chắc chắn có tên mình. Tóm lại, anh Hải luôn luôn bị dao động, thần kinh suy nhược và điều này đã làm cho bệnh suyễn của anh mỗi ngày một thêm trầm trọng. Được cái là anh Hải không làm hại ai, không tố cáo ai, không xu nịnh ai, luôn luôn cư xử thật thà đôn hậu với mọi người. Anh sống trầm mặc, tìm thú vui trong các công việc lặt vặt như kiếm vải bao cát may quần đùi và kiếm chỉ đỏ để thêu đóa hoa năm cánh ở trên lưng chiếc quần đùi đó. Lúc đầu tôi cũng không hiểu sao có bao nhiêu áo quần lành lặn nhà anh gửi ra anh Hải không chịu mặc, mà anh chỉ khoái cái quần đùi vải bao cát đó mà thôi.

            Trại Xuân Phước ở sâu trong dãy núi phía tây quốc lộ I, thuộc địa phận huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Từ Chí Thạnh, người nhà đi thăm nuôi phải vượt 32 kilômét đường núi bằng xe Lam hay xe Honda ôm để đến cuối xã Xuân Phước. Từ đây, họ phải xuống đi bộ, đồ tiếp tế nếu không tự mang xách được thì phải thuê người gánh. Đi vào phân trại A khoảng 4 kilômét. Đi vào phân trại B chừng 6 kulômét nếu đi đường tắt, 10 kilômét nếu đi đường cái qua phân trại A. Giữa năm 1983, nhà tôi với chị  Hải  chung  nhau  thuê  một  chiếc xe hơi  nhỏ từ Sài Gòn ra
Xuân Phuớc thăm chúng tôi. Nhờ có người bà con với anh Hải là anh Võ Đình Cường lúc đó ở trong Mặt Trận Tổ Quốc thành phố Hồ Chí Minh cũng cùng đi ra thăm anh Hải, nên xe được cán bộ trại giam cho đi thẳng vào tận nhà thăm nuôi phân trại B. Lúc tôi với anh Hải được gọi ra cho người nhà gặp mặt, anh Hải nhăn nhó phàn nàn với tôi là anh chưa bảo chị ra thăm mà sao lại ra thăm, và anh kết thúc bằng câu tiếng Pháp tôi còn nhớ rõ: "Je suis vraiment vexé ". Quả nhiên sau đó, anh chỉ nhận một túi xách nhỏ, còn bao nhiêu bao bị khác chị Hải phải mang về. Phần tôi, tối hôm đó thao thức không ngủ được, trong lòng ngổn ngang trăm mối, phần thương cảm vợ con đơn chiếc, phần nghĩ mà buồn cho vận nước nổi trôi, nên nhân lúc chiều nhà tôi có hỏi là có hy vọng gì được thả về hay không, tôi bèn làm bài thơ Hán tự lấy tên là "Vị hữu quy kỳ " (Chưa hẹn ngày về) sau đây :


  未有歸期
      (寄賢)
                        林鳥鳴霜夜已持
              旁窗獨醒几多時
              兩回心在懷妻子
              萬度胸中賦識微
              立志前程猶是夢
              回頭往事一沾衣
              男兒未遂平生志
              卿問歸期未有期

                               Vị hữu quy kỳ (2)
                                      (Ký hiền nội)

                        Lâm điểu minh sương dạ dĩ trì,
                        Bàng song độc tỉnh kỷ đa thì?
                        Lưỡng hồi tâm tại hoài thê tử,
                        Vạn độ hung trung phú Thức Vi.
                        Lập chí tiền trình do thị mộng,
                        Hồi đầu vãng sự nhất triêm y.
                        Nam nhi vị toại bình sinh chí
                        Khanh vấn quy kỳ, vị hữu kỳ!

(Chim rừng kêu sương, đêm đã khuya. Một mình thức bên cửa sổ không biết bao lâu rồi. Trong lòng, nếu đôi lúc nhớ vợ con thì vạn lần vang lên lời phú mất nước. Chí lập mà đường lên phía trước còn là mộng; ngoảnh đầu lại, chuyện cũ chỉ làm rơi nước mắt. Thân làm trai, nếu chí bình sinh chưa thỏa thì em hỏi ngày về, ngày về chưa thể hẹn được...).

Chủ nhật kế đó, tôi gặp anh Hải và đọc cho anh nghe bài thơ nêu trên. Anh gật gù cho là được và khuyên tôi đổi chữ "dĩ " (đã) ra chữ "dục " (muốn) :
                        Lâm điểu minh sương dạ dục trì.
Tôi thấy anh có lý và ngỏ ý muốn bái anh làm "nhất tự sư" như chuyện ngày xưa Tề Kỷ với Trịnh Cốc bên Tàu. Anh cười đôn hậu mà nói: "Không dám, không dám". Nhân đó chúng tôi nói lan man đến chuyện công danh sự nghiệp. Anh hỏi tôi còn muốn gì nữa mà than van là chí bình sinh chưa toại nguyện. Người có thời, nước có vận. Trời đất tuần hoàn, vạn vật biến hóa. Đã là mệnh trời thì không thể cưỡng. Và anh bảo rằng tôi đã một thời phú quý vinh hoa, như thế đã là "đạt". Nghe anh nói, tôi chỉ cười buồn. Trong chốn lao tù, tai vách mạch dừng, lúc này chỉ có thể nói chuyện văn chương với nhau chứ không phải là lúc giải bày nỗi niềm tâm sự, bộc lộ tâm chí của mình.

            Bệnh suyễn của anh Hải mỗi ngày một trầm trọng. Tim anh suy yếu. Đến đầu xuân 1984, anh mất vào một đêm trời rất lạnh. Lúc đó là nửa đêm về sáng. Khí hậu chốn đồng rừng rất khắc nghiệt. Ban ngày nóng ngột ngạt nhưng đêm đến lại lạnh giá vô cùng. Thế là anh vẫn chưa được trở lại mái nhà xưa như anh hằng mong mỏi. Anh vĩnh viễn nằm xuống, đem cái thân còm cõi làm phân bón cho cỏ nội cây ngàn. Tôi tiếc thương anh. Tiếc là tiếc phải mất một người bạn vong niên làu thông kinh sử. Thương là thương cho thân thế anh, chung quy gió mưa một thời ngang dọc cũng chỉ gom lại trong mấy tấm ván đơn sơ trần trụi không ủ ấm hình hài. Nhưng tôi thương anh không phải giản dị chỉ vì có thế. Tôi thương anh vì tôi hiểu anh vẫn hằng ôm ấp những mộng lớn của nhà nho mà suốt đời anh vẫn chưa đạt tới theo như ý anh nghĩ. Trước khi nhắm mắt lìa đời, có giây phút nào tỉnh táo hẳn anh phải đau lòng cho sự nghiệp dở dang với những giấc mộng lớn chưa thành.

            Thuở còn nhỏ, tôi đã từng nghe cha tôi nói về những mộng lớn của nhà nho. Sau này qua sách vở, tôi càng hiểu rõ hơn chữ "đạt" của nhà nho với những giấc mộng lớn của họ. Đó là "đỗ Tiến Sĩ, làm Thượng Thư, và đi Sứ".

             Đỗ Tiến Sĩ ở đây là đỗ Đại khoa, tức là đỗ từ Phó Bảng trở lên. Phó Bảng là những người trúng tuyển Hội thí, nhưng không được vào Đình thí, tức là vào điện Cần Chánh làm bài thi trước mặt Vua. Đình thí không đánh rớt ai mà chỉ để sắp hạng Tiến Sĩ : Đồng tam giáp Tiến Sĩ, Đệ nhị giáp Tiến Sĩ (Hoàng Giáp), Đệ nhất giáp Đệ tam danh (Thám Hoa) và Đệ nhất giáp Đệ nhị danh (Bảng Nhãn). Triều Nguyễn có lệ không lấy Trạng Nguyên nên không có Đệ nhất giáp Đệ nhất danh. Nhà nho ngày trước sau khi đỗ Cử Nhân, vác lều chõng đi thi Hội, không ai mong muốn đỗ Phó Bảng. Hỏng Hội thí thì ba năm sau đi thi lại còn có hy vọng đỗ Tiến Sĩ, chứ đã đỗ Phó Bảng rồi thì khoa danh chỉ chừng ấy thôi, không còn được thi Hội trở lại, và không bao giờ được hưởng những vinh dự dành riêng cho người đậu Tiến Sĩ như được ban mũ áo, ban ấm chén, được cỡi ngựa dạo phố, được thưởng ngoạn hoa cảnh Ngự Viên. Mũ áo Tiến Sĩ được ban ngay vào lúc thi Đình để bái yết nhà Vua, và về sau để vinh quy bái tổ. Ấm chén được ban sau khi ăn trưa tại điện Cần Chánh giữa buổi thi Đình. Đó chính là chén bát, muỗng đũa, ấm chén uống trà mà người dự Đình thí đã dùng trong buổi ăn trưa đó. Mũ áo và ấm chén về sau là bảo vật gia đình, để truyền tử lưu tôn.

            Mộng lớn thứ hai của nhà nho là làm Thượng Thư. Sau khi đỗ Tiến Sĩ, nhà nho xuất chính thờ Vua giúp Nước. Thông thường với học vị Tiến Sĩ, vị tân quan khởi đầu hoạn lộ với chức Tri Phủ. Đường mây thênh thang mở rộng, con cá chép vượt sóng Vũ môn hóa rồng, thỏa chí bình sinh, mặc sức bay nhảy. Do khoa bảng xuất thân đã là điều hãnh diện, nhưng phải làm quan đến chức Tổng Đốc, Thượng Thư mới được kể là "đạt". Tổng Đốc được kể là có hàm Thượng Thư, đương nhiên được gọi là Cụ Thượng. Thượng Thư sung Cơ Mật Viện Đại Thần lại càng vinh hiển, được xem như lương đống Triều đình. Nếu làm Thượng Thư mà còn được gia hàm Hiệp Tá, Đông Các, Võ Hiển, Văn Minh, Cần Chánh, Thiếu Bảo, Thái Bảo thì ân sủng Quốc Vương được kể như tột cùng. Cũng là Nhất phẩm Triều đình, nhưng không giữ chức Thượng Thư mà được bổ nhiệm làm Quốc Sử Quán Tổng Tài, Quốc Tử Giám Tế Tửu, Ngự Sử Đài Đô Sát Sứ thì tuy cũng thỏa mộng công khanh, nhưng chưa phải đã là muôn phần đắc ý.

            Mộng lớn thứ ba của nhà nho là đi Sứ. Nhà nho mặt trắng, sức lực trói gà không chặt. Nhà nho chỉ quý ở điểm tâm cao chí đại. Nhà nho chỉ giỏi trong trận bút trường văn. Do đó được sung vào sứ bộ đi Trung Quốc là điều nhà nho mơ ước. Đi sứ là dịp trổ tài thông kim bác cổ. Đi sứ phải ứng đối làm sao để không nhục mệnh Vua, để làm vững thế Nước. Suốt cuộc hành trình dài dằng dặc, cả đi lẫn về từ Nam Quan đến Bắc Kinh, có biết bao nhiêu dịp lộng bút thù tạc với các quan chức Trung Hoa, có biết bao nhiêu dịp đề thơ vịnh cảnh, có biết bao nhiêu dịp sưu tầm tài liệu. sách vở, mở mang kiến thức. Các nhà nho đi sứ đều để lại những thi tập giá trị. Hồ Tông Thốc với bài thơ "Đề miếu HạngVõ ", Nguyễn Du với bài từ "Chiêu hồn Khuất Nguyên " đã từng làm chấn động giới văn học Trung Quốc một thời.

            Anh Võ Văn Hải, bạn vong niên của tôi, là con nhà nho, mang đậm máu nhà nho trong nguời. Đương nhiên anh hằng ôm ấp những mộng lớn của nhà nho theo nghĩa thời bấy giờ. Có hiểu tâm sự anh, có hiểu hoài bảo anh, mới thông cảm cho anh, thương anh và phục anh. Sau khi thôi giữ chức Chánh Văn Phòng phủ Tổng Thống, anh Hải theo học Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Đỗ xong Cử Nhân, trường Văn Khoa ì ạch mãi không tổ chức được cho anh kỳ thi lấy học vị Tiến Sĩ. Đối với anh, cũng như đối với các nhà nho xưa kia, Cử Nhân chỉ là "Hương Khoa Huyện Lệnh". Mà xót xa thay cho anh, anh là người đã tốt nghiệp Trường Hành Chánh Thuộc Địa Paris. Lớp tuổi của anh, mấy ai đã được đi Pháp và học hành đỗ đạt như anh. Nhưng giá như ngày trước, gia đình anh cho anh theo học Đại Học Sorbonne để lấy bằng Tiến Sĩ Luật hay Tiến Sĩ Văn Chương thì anh hẳn đã thỏa mộng bình sinh về đường khoa cử.

            Cử nghiệp đã vậy mà hoạn trường cũng không làm cho anh thỏa chí. Anh giữ chức Chánh Văn Phòng phủ Tổng Thống, quyền lực trong tay, biết bao nhiêu người đã chạy theo anh xun xoe, qụy lụy. Một lời của anh tâu trình Tổng Thống, nếu lọt tai người lãnh đạo quốc gia, thì có khác gì sức nặng ngàn cân. Một số Bộ Trưởng trong Nội các thời bấy giờ chưa chắc đã có quyền lực và ảnh hưởng ngang tầm với anh. Thế nhưng đối với anh, Tổng Bộ Truởng mới là Thượng Thư ngày trước, còn Chánh Văn Phòng phủ Tổng Thống chỉ là Đổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng mà thôi.

            Đối với chuyện đi sứ cũng vậy. Đi sứ ngày xưa là đi sứ sang Trung Quốc. Mộng nhà nho không phải là đi sứ sang các phiên bang. Ngày nay, theo ý anh Hải, quan niệm đi sứ tuy có rộng rãi hơn, nhưng tuyệt nhiên đi sứ ngày nay không phải giản đơn là đi công cán nước ngoài, cho dù là đi đến các nước văn minh tiên tiến như Pháp, Anh, Mỹ... chăng nữa. Đi ra nước ngoài thì ai lại chẳng đi được. Đi như thế thì có khác gì các doanh nhân đi buôn hay kẻ có tiền đi du lịch. Đi Sứ ở đây là đi công cán nước ngoài với Ủy Nhiệm Thư của Quốc Trưởng, cũng như ngày xưa đi sứ mang theo quốc thư vậy. Người đi sứ nước ngoài với ủy nhiệm thư trong các cương vị Đại Sứ hay Đặc Phái Viên Tổng Thống được hưởng những vinh dự đón tiếp dành cho người Đại Diện Quốc Gia, có cờ treo súng nổ, duyệt binh dàn chào v.v. Ở những nước nặng nghi lễ cổ truyền như Vương Quốc Anh, người Đại Sứ đến trình Ủy Nhiệm Thư được Nữ Hoàng gửi ra hai cỗ xe tứ mã đón vào Hoàng Cung, một cỗ dành cho Đại Sứ, một cỗ dành cho đoàn tùy tùng. Thế cho nên anh Võ Văn Hải bạn tôi, tuy quyền cao chức trọng một thời, nhưng trong thâm tâm anh cảm thấy không lấy gì làm đắc ý. Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tin dùng anh nhường ấy, giá như Tổng Thống Diệm bổ nhiệm anh làm Bộ Trưởng hay Đại Sứ thì có lẽ anh đã thực sự cảm thấy thỏa mộng công hầu.

            Anh Võ Văn Hải là con nhà nho, tuy ném bút lông cầm bút sắt, nhưng tâm hồn và chí hướng vẫn theo nề nếp nhà nho, suy tư và cảm nghĩ vẫn đậm đà mang bản sắc nhà nho. Thời đại nhà nho bắt đầu suy vong từ cuối thế kỷ 19, đến giữa thế kỷ 20 này thì được xem như chấm dứt. Rơi rớt đâu đây một vài con người lạc lõng còn mang dấu ấn một thời qua. Nay anh Võ Văn Hải đã vĩnh viễn nằm xuống, thế gian này lại bớt đi một con người của muôn năm cũ. Thắp nén hương lòng tưởng niệm anh, tâm trí man man trôi xuôi theo dòng hoài niệm về quê cũ, tôi xót xa cho những cái hay cái đẹp của một thời xưa nay không còn tìm đâu ra vang bóng. Thời thế đổi thay, nhân sinh quan không còn như trước. Nhưng xin đừng vì tư duy mới mà quá khắc khe với mộng ước của bạn tôi. Xin đừng hiểu lầm rằng mộng nhà nho chỉ là tham vọng hư danh, quyền lực và tiền tài. Thật ra nhà nho "ăn không cầu ngon, mặc không cầu xa xỉ ". Nhà nho tiết độ, nhà nho mực thước, nhà nho tùy thời xuất xử. Nhà nho biết chọn minh quân để phò tá, nhà nho biết xem cái chết nhẹ như lông hồng để trả nợ núi sông. Nhà nho khi đắc thời vẫn một lòng hiếu kính cha mẹ, không phụ bạc vợ tao khang, không quên bạn nối khố thuở hàn vi. Nhà nho không bao giờ là kẻ cơ hội, tham phú phụ bần. Nhà nho không bị sức mạnh khuất phục mà đổi dời khí tiết. "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất ". Nếu lãnh trách nhiệm giúp nước chăn dân, nhà nho biết lo trước cái lo của thiên hạ, và vui sau cái vui của thiên hạ, nhà nho quên mình vì nghĩa cả. "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc ".

            Tóm lại, nhà nho suốt đời lập chí tu thân. Nhà nho nuôi mộng lớn để có danh chính ngôn thuận giúp nước chăn dân, ra tài kinh bang tế thế, lưu tiếng thơm muôn thuở.

                                                            Toronto, tháng 12, 1993

                                                           Minh Vũ Hồ Văn Châm








Chú thích:

1.  Sau này cụ Nguyễn Khoa Toàn làm đến chức Đại Sứ và là một họa sĩ nghiệp dư có tài.

2. Chi Điền Hoàng Duy Từ đã chuyển sang thơ Việt, Nguyệt san Thế Giới, số 162, tháng 5, 1994, Houston, TX, USA, như sau :


                                Ngày Về ?
                               (Gởi hiền nội)
                        Đêm khuya chim núi kêu sương,
                        Bên song thao thức, canh trường lần qua.
                        Lòng riêng đôi lúc nhớ nhà,
                        Thức Vi bài phú xót xa vạn lần!
                        Chí đã lập, đường lên phía trước
                        Còn mông lung mộng ảo xa vời.
                        Ngẫm xem chuyện cũ lệ rơi!
                        Bình sinh chưa thỏa chí người nam nhi
                        Ngày về! Em hỏi làm chi?
                        Ngày về!...Ai dễ biết khi nào về!










Phụ Lục:       

Giai Thoại Văn Chương: Ngày Về

của Chi Ðiền Hoàng Duy Từ, trong Tuyển Tập Nhớ Huế, số 6, 28-8-1994, Westminster, CA 92683, USA

        Vị  Hữu  Quy  Kỳ

    未有歸期
(寄賢) 

                        林鳥鳴霜夜欲持
              旁窗獨醒几多時
              兩回心在懷妻子
              萬度胸中賦識微
              立志前程猶是夢
              回頭往事一沾衣
              男兒未遂平生志
              卿問歸期未有期

[Nguyên tác]
(Ký hiền nội)

Lâm điểu minh sương dạ dục trì
Bàng song độc tỉnh kỷ đa thì.
Lưỡng hồi tâm tại hoài thê tử,
Vạn độ hung trung phú Thức Vi.
Lập chí tiền trình do thị mộng,
Hồi đầu vãng sự nhất triêm y.
Nam nhi vị toại bình sinh chí,
Khanh vấn quy kỳ vị hữu kỳ!

                        Minh Vũ Hồ Văn Châm

Ngày  về ?

[Chuyển sang thơ Việt]
(Gởi hiền nội)

Đêm khuya chim núi kêu sương,
Bên song thao thức, canh trường lần qua.
Lòng riêng đôi lúc nhớ nhà,
Thức Vi bài phú, xót xa vạn lần!
Chí đã lập, đường lên phía trước
Còn mung lung mộng ảo xa vời.
Ngẫm xem chuyện cũ lệ rơi!
Bình sinh chưa thỏa chí người nam nhi.
Ngày về! Em hỏi làm chi?
Ngày về!...Ai dễ biết khi nào về! 
                        Chi Điền Hoàng Duy Từ
                                 Quý Xuân 1994

Trong trường hợp nào đã phát sinh hai bài thơ, một Hán một Việt trên đây?
BS Hồ Văn Châm, nguyên Bộ Trưởng Chiêu Hồi, người Huế, trong bài tùy bút Mộng Nhà Nho, đăng trong BNS Thế Giới ở Houston tháng 4/94 để tưởng niệm Ông Võ Văn Hải, nguyên Bí Thư kiêm Chánh Văn Phòng đặc biệt của cựu Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có làm bài thơ chữ Hán Vị Hữu Quy Kỳ.

            Bạn Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ Trưởng Nội Vụ, nói với tôi rằng : Bài thơ chữ Hán này chưa chuyển sang thơ Việt. Anh cũng là người Huế, anh nên chuyển bài Hán thi này ra Việt thi để bổ khuyết mà cũng để gián tiếp tưởng niệm người quá cố Võ Văn Hải, một nhà khoa bảng Tây phương với căn bản Nho giáo. Hai nhân vật trong tiểu luận đều bị Việt cọng bắt đi cải tạo, một mất một còn sau mười mấy năm làm thân tù của bạo quyền cọng sản. Tôi không phải là nguời Huế nhưng rất có cảm tình với xứ Huế của anh. Mấy năm học Lycée Providence tôi đã ăn gạo de An Cựu, uống nước Vạn Niên của sông Hương và đã hân hạnh thưởng thức những "đặc phẩm tuyệt vời" của Huế. Vì thế cho nên tôi mong anh dịch bài Hán thi này để kéo nhà thơ Hồ Văn Châm về nhập làng văn Cali, Texas.

            Nay đọc bài tùy bút Mộng Nhà Nho của Hồ Văn Châm, tôi càng cảm mến và tiếc thương Ông Võ Văn Hải. Do đó mà có bài "Cãm Nghĩ Về Tùy Bút Mộng Nhà Nho"của tôi đăng ở BNS Thế Giới, Houston, số 162, tháng 5/1994 và bài dịch thơ của Hồ Văn Châm.
                                                Chi Ðiền Hoàng Duy Từ




































Chuyện Đứa Con Đầu Lòng


Lời phát biểu trong buổi tiếp tân ngày 25 - 6 -1994 tại tư gia mừng con trai đầu lòng được bổ nhiệm Giáo sư phụ đạo
 b môn Giải phẩu Trường Y khoa UCDavis.



Thưa quý vị quan khách, quý vị bà con, bạn bè,

Hôm nay gia đình chúng tôi tổ chức tiệc rượu để cùng quý vị chung vui nhân dịp cháu Sỹ Hưng hoàn tất chương trình Thường trú trưởng và được bổ nhiệm làm Giáo sư phụ đạo chuyên khoa Giải phẩu Trường Y Đại Học UCDavis.

Cháu Sỹ Hưng sinh năm 1958 tại Huế, tốt nghiệp phổ thông năm 1976 tại Sài Gòn. Năm 1978 cháu Sỹ Hưng vượt biên sang Mã Lai, và năm 1979 đến định cư tại Mỹ. Kể từ ngày ấy đến nay, đằng đẵng 15 năm trời, cháu Sỹ Hưng chuyên tâm học hành, 8 năm ngành y tổng quát, 7 năm chuyên khoa giải phẩu, qua các chương trình n¶i trú, nghiên cứu sinh, thường trú, thường trú trưởng. Ngày 12-6-1994 vừa qua, cháu Sỹ Hưng đã được nhà trường cấp bằng chứng nhận hoàn tất chương trình Thường trú trưởng và bổ nhiệm làm Giáo sư phụ đạo chuyên khoa giải phẩu. Trước những thành quả tốt đẹp đó, với tư cách là thân sinh của cháu Sỹ Hưng, tôi rất đổi sung sướng và tự hào. Nhân dịp này, tôi xin nói lên m¶t vài cảm nghĩ riêng tư liên quan đến bước đầu thành công của cháu.

Trưóc hết, tôi xin thưa quý vị rõ cháu Sỹ Hưng không những là người “không phải da trắng” duy nhất trong số 6 người thường trú trưởng cùng khóa, mà còn là người được chọn là thường trú trưởng xuất sắc nhất. Điểm nữa là cháu Sỹ Hưng được bổ nhiệm ngay làm Giáo sư phụ đạo bậc 2, ngang hàng với các giáo sư đàn anh được bổ nhiệm trước đây hai ba năm. Những điều vinh dự này tất nhiên là kết quả của quyết tâm vươn lên cũng như khả năng trí tuệ và đôi bàn tay khéo léo của cháu Sỹ Hưng. Nhưng mặt khác cũng là nhờ vào tinh thần đặc biệt của xã h¶i Hoa Kỳ đã mở r¶ng tầm tay đón nhận và dung dưỡng cháu. Hoa Kỳ là nơi đất lành chim đậu, là đất nước phú cường, là xã h¶i tốt đẹp, sẵn sàng đón nhận mọi tài năng bất kỳ từ đâu tới. Cho nên tôi hết sức vui mừng là cháu Sỹ Hưng đã may mắn được định cư lập nghiệp ở đất nước phú cường này, ở xã h¶i tốt đẹp này.

Mặt khác, cũng chính từ nhận định này mà tôi hết sức phàn nàn thái đ hẹp hòi của nhà cầm quyền Việt Nam trước đây đã ngăn đường lấp lối, cản trở tuổi trẻ tiến lên. Năm 1976, cháu Sỹ Hưng học xong chương trình trung học, cháu n¶p đơn thi vào Đại học. Lúc bấy giờ, để chấm thi người ta đặt ra 2 bậc thang điểm khác nhau; m¶t dành cho con em cán b, m¶t cho thí sinh bên ngoài. Bởi sự bất công có dụng ý sàng lọc này, cháu đã không qua được kỳ thi tuy‹n. Không nãn chí, năm sau cháu lại n¶p đơn dự thi. Lần này, cán b phòng thi đã ngang nhiên trắng trợn đánh dấu vào quyển thi của cháu và nói thẳng vào mặt cháu rằng: “Con Hồ Văn Châm thì thi làm gì cho mất công”. Không vào được Đại học, cháu Sỹ Hưng đi kiếm việc làm. Mẹ cháu đóng tiền góp vốn cho cháu vào làm việc ở Hợp Tác Xã sơn mài. Mặc dầu cháu siêng năng cần cù, cưa ốc cũng khéo tay, nhưng chỉ được hai tháng, khi biết rõ lai lịch của cháu, người ta cũng cho cháu nghỉ việc. Không kiếm được việc ở Sài Gòn, cháu lên Đơn Dương  xin  vào làm cho Hợp Tác Xã chăn nuôi, xin m¶t chân chăn bò, nhưng vì lý lịch nên cũng không được nhận. Thế rồi cháu bị gọi đi Thanh niên xung phong, bị đưa lên nông trường Lê Minh Xuân, chuẩn bị sang Campuchia tãi đạn. Rõ ràng cháu Sỹ Hưng đã bị dồn ép đến chân tường, bị xua đẩy đến cái thế chẳng đặng đừng phải bỏ nước mà đi. Bởi vậy, sự thành công bước đầu của cháu Sỹ Hưng ngày hôm nay là m¶t sự kiện cảnh tỉnh những người lãnh đạo chính quyền Việt Nam phải từ bỏ chính sách sai lầm đối xử phân biệt, phải tôn trọng tự do, mở r¶ng dân chủ, thc hin công bng, đừng quá đặt nặng vấn đề đấu tranh giai cấp mà ngăn đÜng lấp lối, cản trở tuổi trẻ tiến lên, loại bỏ oan uổng nhiều tài năng của đất nước.

Nhân dịp này, tôi thiết nghĩ không thể không nói đôi lời về công lao của thân mẫu cháu Sỹ Hưng, cũng như của vợ cháu là cháu Ngọc Diệp. Mẹ cháu là m¶t phụ nữ hiếm có, suốt đời tận tuỵ với chồng với con. Cháu Sỹ Hưng lại là con trai đầu lòng, mẹ cháu không những hết sức thương yêu mà còn rất tự hào về cháu ngay từ khi cháu còn ấu thơ. Tôi thường có thói quen hay khoác lác với vợ. Ra ngoài đời không biết khoác lác với ai thì đành về nhà khoác lác với vợ vậy. Hồi cháu Sỹ Hưng còn nhỏ, m¶t hôm, mẹ cháu bực mình vì thói quen khoác lác của tôi nên nổi giận, gắt với tôi rằng: “Anh đừng có dốc, thằng Cu Hưng sau này nó sẽ giỏi gấp trăm anh!”. Tôi cuời mà đáp lại rằng: “Vậy thì nhà ta có phước! Tục ngữ chẳng đã có câu con hơn cha là nhà có phước đó sao?” Khi cháu Sỹ Hưng bị đưa lên nông trường Lê Minh Xuân, mẹ cháu đã thu xếp cho cháu trốn tråi, đưa cháu lên ẩn náu trên Thủ Đức rồi kiếm đường cho cháu vượt biên. Có th nói là nhờ tình yêu thuơng, lòng tận tụy và ý chí can trường của mẹ mà cháu Sỹ Hưng mới có ngày hôm nay. Về phần Ngọc Diệp là vợ của cháu Sỹ Hưng, thì đây là người vợ tự cháu chọn lấy. Chúng tôi rất vui mừng có được người con dâu tài sắc vẹn toàn. Cháu Ngọc Diệp lại đảm đang, chúng tôi tin chắc rằng cháu sẽ đỡ đần cho chồng rất nhiều trên con đường xây dựng sự nghiệp.

Hôm nay, đối với tấm thịnh tình của quý vị quan khách, bà con, bạn bè, đã đáp ứng lời mời đến chung vui cùng chúng tôi, thì bác Lâm Kim Phúc đây, là nhạc phụ của cháu Sỹ Hưng, đã bày tỏ đầy đủ lời cám ơn chân thành của hai gia đình chúng tôi rồi, tôi không cần lặp lại.

Trước khi dứt lời, tôi chỉ xin quý vị cho phép tôi được nói đôi lời khen thưởng cháu Sỹ Hưng. Thông thường, theo truyền thống Đông phương chúng ta, cha mẹ tự thấy có bổn phận nuôi dạy con cái nên người, khi chúng khôn lớn lại lo chuyện dựng vợ gả chồng. Trong trường hợp chúng tôi, vì hoàn cảnh đặc biệt, cháu Sỹ Hưng đã phải từ giả mái ấm gia đình khi mới hai mươi tuổi, m¶t thân m¶t mình nơi đất khách quê người, vừa đi học vừa đi làm, tự kiếm cơm, tự kiếm vợ, thật là muôn vàn gian khổ. Vì lẽ cha con chúng tôi cùng chung m¶t nghề, bản thân tôi lại cũng là người tự mình xây dựng lấy sự nghiệp của mình, nên hơn ai hết tôi cảm thông sâu sắc nổi vất vả nhọc nhằn của cháu Sỹ Hưng m¶t thân m¶t mình tự lo liệu việc tiến thân và xây dựng gia đình. Hơn ai hết, tôi hi‹u rõ cái quyết tâm, cái ý chí của cháu, nên để khen thưởng con, tôi xin mượn lời của Đại Đế Alexandre ngày xưa xưng tụng cha mình là Quốc vương Macédoine. Alexandre đã nói rằng: “Không cần phải nhiều lời để xưng tụng Người, bởi m¶t lẽ giản đơn: Người là cha của Alexandre”. Hôm nay, đ khen thưởng con, tôi xin mượn cái ý đó, tuy rằng chúng tôi ở m¶t vị thế đảo ngược lại. Tôi muốn nói với con tôi rằng: “Sỹ Hưng, con đúng là Thằng Cu con cha!”

Xin cám ơn liệt vị.

                                                            Hồ Văn Châm



Tùy bút

Nhớ Người Không Quen



            Kể cũng lạ. Có những người ta không quen, nhưng mà ta biết rất rõ. Không quen, nhưng biết, và bây giờ ở xa, lại nhớ. Nhớ Huế, nhớ cảnh, bâng khuâng lại nhớ người. Nhớ người không quen.

x
x      x

            Dạo đó, tôi sửa soạn đi hỏi vợ. Mẹ tôi bảo chị tôi đưa tôi vào một tiệm kim hoàn ở Ngã Giữa để làm chiếc nhẫn đính hôn. Tôi đi theo chị tôi đến tiệm kim hoàn để thợ lấy ni ngón tay, vì ni ngón tay của tôi và của vợ sắp cưới vừa vặn bằng nhau, mặc dầu ngón tay tôi thô ngắn, còn ngón tay của nàng thì thon thả búp măng. Vào trong tiệm kim hoàn, tôi lơ đễnh nhìn mấy cái tủ kính rực sáng đèn, mặc cho chị tôi nói chuyện với bà chủ tiệm. Trên cái sập chân quì kê sát vách có một vài bà đang ngồi. Tôi chẳng mảy may chú ý một ai. Nhìn chán mấy cái tủ kính, tôi lại lơ đễnh nhìn ra đường, hướng tầm mắt về những tà áo trắng thướt tha qua lại. Bỗng tôi có cảm giác như ai đang nhìn mình từ phía sau. Tôi quay người lại. Tôi nhận thấy một bà to lớn, chễm chệ ngồi trên sập, đang nhìn tôi chằm chằm. Mặc dù tôi đã quay người nhìn lại, bà ta vẫn tiếp tục nhìn thẳng vào mặt tôi. Quả tình xưa nay đàn bà con gái không quen, chưa ai nhìn tôi chăm chú và trực diện như vậy. Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau hơn một phút, không ai có động tĩnh gì cho đến lúc tôi khẽ nghiêng đầu chào thì bà ta cũng khẽ gật đầu đáp lễ và xoay tầm nhìn về hướng khác.

            Người đàn bà đó đối với tôi không xa lạ gì. Đó là bà Tham Đ., mợ của vợ sắp cưới của tôi. Tôi chưa từng quen, nhưng biết bà khá rõ. Trước đây, chồng bà làm Tỉnh Trưởng Thừa Thiên, Thị Trưởng Thành phố Huế. Dạo đó, bà có mấy cô con gái đang tuổi cập kê, và tôi còn đang theo học cấp đệ nhị trường Trung học Khải Định. Những ngày nghỉ gần kỳ thi, tôi và mấy đứa bạn học chung tụ họp bên dãy nhà lầu trường Đồng Khánh, ôn bài thi. Những lúc nghỉ mệt, chúng tôi leo lên bờ tường nhìn sang tư dinh Tỉnh Trưởng để mà tưởng tượng đến tình huống thơ mộng trong Tây Sương Ký: "Cách tường hoa ảnh động, Nghi thị ngọc nhân lai. Nhưng "tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra", chỉ thỉnh thoảng nghe tiếng Bà Tỉnh quát tháo người làm mà thôi. Bây giờ thì chồng bà chuyển sang làm Giám Đốc Viện Văn Hoá Trung Việt, gia đình bà dọn ở tư dinh đàng sau công đường, trong một khuôn viên cổ kính, mái ngói rêu phong, cỏ cây u tịch. Một hôm bà vào giường sửa soạn đi ngủ, bỗng nghe tiếng thở phì phì. Bà nhìn quanh và chợt nhận ra một con rắn cạp nong đang quấn quanh chấn song đầu giường. Bà la hoảng và người nhà đã chạy đến tiếp cứu kịp thời, đánh chết con rắn. Hôm sau, toàn bộ nhân viên Viện Văn Hoá tổ chức một cuộc bố ráp đại qui mô. Tất cả các hang hốc trong khuôn viên Viện Văn Hoá đều được bít chặt bằng cỏ khô hoặc giấy báo cũ, mỗi nhân viên đàn ông đều thủ sẵn gậy gộc. Người ta đốt lửa, hun khói các miệng hang và chừng nửa giờ sau, rắn lớn rắn nhỏ bò ra lổn nhổn, có cả gần trăm con. Ngoại trừ 5, 6 con rắn cạp nong, còn toàn là rắn hổ. Tất cả đều bị đánh nát đầu, sắp một dãy dài trước sân gạch tòa nhà chính. Sau đó, người ta đem vằm nát trộn vào rau và cám nấu cho heo ăn. Người Huế không ăn thịt rắn. Thật tình tôi cũng không hiểu vì sao người Huế lại không ăn thịt rắn. Bản thân tôi cũng chẳng thích gì thịt rắn, mặc dù trong đời đã có vài lần nếm qua.

            Sau khi hỏi vợ, tôi chia sẻ họ hàng với vợ. Bà Tham Đ. bây giờ không còn là người biết mà không quen nữa. Bà trở thành mợ bên vợ của tôi. Ông bà Tham Đ. được nhà gái mời làm người bưng quả hộp. Theo tập tục ngày trước ở Huế, người ta mong mỏi đôi vợ chồng mới ăn ở với nhau đằm thắm hạnh phúc, đông đúc con cháu, giống y như hai ông bà bưng quả hộp bên họ nhà gái và hai ông bà trải chiếu bên họ nhà trai. Chuyện vợ chồng đằm thắm hạnh phúc thì ở Huế không ai bằng được hai ông bà Tham Đ. Cả hai ông bà đều con nhà trâm anh thế phiệt. Ông Tham Đ. là con cụ Thượng Văn Xá, dòng dõi hoàng tộc, thuộc hệ chín, hậu duệ Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Bà Tham Đ. là con cụ Thượng Hoàng Mạnh Trí, là cháu nội cụ Quận Công Thái Xuyên, Bắc Kỳ Kinh Lược Sứ Đại Thần Hoàng Cao Khải. Họ Hoàng vốn người làng Đông Thái, Nghệ Tĩnh, thiên di ra lập ấp Thái Hà ở quãng giữa đường Hà Nội đi Hà Đông. Bà Tham Đ. sinh trưởng ở đất Bắc, trở thành người Bắc chính cống. Ngày gia đình bàn chuyện gả bà cho con trai cụ Thượng Văn Xá, bà đã tru tréo: "Không lấy người ta nước Huế! Không lấy người ta nước Huế!" Ấy thế mà về nhà chồng ở mãi tít tận trong "nước Huế" được ít lâu, vợ chồng quen hơi bén tiếng, bà Tham Đ. đã cùng chồng nổi tiếng ở đất đế đô về cuộc sống lứa đôi thắm thiết mặn nồng cho đến lúc cả hai răng long đầu bạc. Lúc mới lấy nhau, ông Tham Đ. có chiếc xe hơi thể thao mui trần để đi chơi, ông lái đi đâu cũng có bà Tham Đ. ngồi bên cạnh. Đi làm thì ông ngồi xe kéo gọng đồng. Thành thử không bao giờ thiên hạ thấy ông lái xe hơi đi một mình. Thuở đó, đường thuộc địa số 1 chỉ rộng có 4 mét, xe hơi ở Hà Nội và ở Huế thì đếm được trên đầu ngón tay. Thường chỉ có một số quan Tây cấp lớn dùng xe hơi, còn các quan lại An Nam thì dùng xe kéo gọng đồng. Bởi vậy, chuyện cậu công tử con cụ Thượng Văn Xá có xe hơi mui trần đã là chuyện gây sự chú ý của thiên hạ, mà chuyện cậu lái xe đi đâu cũng có vợ ngồi bên cạnh lại càng là chuyện làm cho thiên hạ bàn ra tán vào. Đến lúc hai người sinh con thì quả tình là ở Huế không ai là không nhắc nhở tới. Ngày bà Tham Đ. chuyển bụng đi nằm nhà hộ sinh cũng là ngày ông Tham Đ. đệ đơn xin nghỉ phép. Ông chuyển vào ăn ở ngay trong phòng sinh của vợ. Đến lúc vợ xuất viện bồng con ra về, ông cũng đốc thúc người nhà thu dọn đồ đạc của ông mang về theo. Và cứ thế tiếp diễn, suốt sáu kỳ sinh nở, ba trai ba gái, cứ mỗi lần bà Tham Đ. đi sinh là ông Tham Đ. lại xin nghỉ phép để đi nằm nhà thương cùng vợ. Bà vẫn thường nói :"Em đẻ, cậu đẻ". Và ông nhìn bà trìu mến :"Chứ sao!"

            Các con trai con gái của ông bà Tham Đ. đều thông minh dĩnh ngộ. Tất cả đều hiển đạt, có người còn nối được nghiệp lớn của cha ông, dự vào ngôi vị tôn vinh nơi chốn triều miếu. Chỉ duy có người con trai lớn, tâm tính nhiều khi không được bình thường. Tên anh là Q. Sau khi đỗ Cử Nhân Luật Khoa, anh không tiếp tục học mà cũng không đi làm. Tất nhiên là gia thế nhà anh không bắt buộc anh ngày ngày phải vác cần đi câu cơm. Anh về Huế sống trầm lặng bên cạnh song thân. Những ngày tạnh ráo, anh đến chơi nhà bà con nói dăm ba câu chuyện gẫu, đánh một vài ván cờ. Anh đánh cờ vào hạng có tiếng. Giới chơi cờ ở Huế cho rằng anh chỉ thua cụ Võ Truy nửa ngựa mà thôi. Hầu như anh Q. không có bạn. Vì tâm tính không được bình thường của anh nên nhiều người cho rằng anh là bạn thân của anh Tr. ở Vỹ Dạ. Sự thực thì không mấy khi hai người đi lại với nhau. Hai người chỉ giống nhau mà thôi. Cả hai đều là những người rất hiền lành ít nói. Có nói thì thường cũng chỉ lẩm bẩm nói cho một mình mình nghe. Cả hai đều thích đi lang thang. Một người ở trong Thành, một người ở Vỹ Dạ, thế mà hầu như ngày nào thiên hạ cũng gặp hai anh đếm bước trên vĩa hè các đường Gia Long và Trần Hưng Đạo. Cái khác nhau giữa hai anh là anh Q. không thích làm thơ để tính chuyện đem đi in như anh Tr. Thời đó, muốn xuất bản sách báo thì phải đưa bản thảo đến nha Thông Tin để kiểm duyệt. Anh Tr. cũng trịnh trọng đem tập thơ của anh đến nha Thông Tin. Khổ thay, nhân viên kiểm duyệt nào có biết anh muốn nói những gì trong lời thơ khó hiểu của anh.

            Anh Q. không làm bận lòng nhân viên kiểm duyệt nha Thông Tin, nhưng anh làm bận lòng gia đình anh rất nhiều, nhất là làm bận lòng mẹ anh, bà Tham Đ. Tâm tính anh mỗi ngày một khác thường. Càng ngày anh càng trầm mặc. Dáng người khắc khổ, cử chỉ già nua, nom anh cứ như ông già bảy mươi tuổi. Tính tình cũng thay đổi không chừng, chợt nắng, chợt mưa. Tiếp xúc với ai, có khi anh cao ngạo đến độ xấc xược, nhưng cũng có khi lại khiêm cung một cách quá đáng, đến mức độ khúm núm, sợ sệt. Có người nói với bà Tham Đ. rằng anh Q. bị khủng hoảng sinh lý. Anh Q. đã không có bạn trai, chắc chắn là anh không có bạn gái. Tuy chưa phải là lúc thuận tiện để lấy vợ cho anh, nhưng cũng đã là lúc phải kiếm cho anh một người đàn bà. Thương con, bà Tham Đ. đã lặn lội vào tận chốn yên hoa để tìm bạn gái cho con. Ở Huế, một dạo người ta đã xôn xao bàn tán chuyện "bà Tham Đ. đi chơi đĩ ". Lòng mẹ bao la, lòng mẹ cao cả. Có lời lẽ nào trên thế gian này đủ để diễn tả được nổi lòng người mẹ thương con, nhất là những đứa con không bằng anh bằng chị! Thực tình thì cũng không ai biết được đích xác mức độ dính dấp của anh Q. với những cánh bướm ăn đêm do bà Tham Đ. đem về cho con. Người ta chỉ nhận thấy rằng những cố gắng vô biên của người mẹ đã không mang lại chút kết quả nào trong việc thay đổi tâm tính người con bất hạnh.

            Dòng đời cứ tiếp tục êm trôi nếu như bệnh tình anh Q. chỉ có thế. Nỗi khổ tâm của bà Tham Đ. cũng chỉ giới hạn trong sự xót xa của người mẹ thương con bệnh hoạn, không được như người. Nhưng oái oăm thay, anh Q. lại là người học nhiều hiểu rộng. Khi tâm trí người ta được gọi là bình thường thì người ta tỉnh táo phân biệt trong những điều sở đắc, có điều nên nói ra, có điều nên giữ kín. Thương thay cho bà Tham Đ., anh Q. bây giờ không kiểm soát được những điều bấy lâu chôn kín trong tiềm thức. Một buổi sáng mai bình thường như những buổi sáng khác, người nhà bỗng nhiên nghe anh Q. lẩm bẩm: "Thằng Hoàng Cao Khải, thằng Hoàng Mạnh Trí là đồ Việt gian". Bà Tham Đ. lặng nguời khi nghe con lẩm bẩm những lời lẽ khủng khiếp và vô đạo như thế. Bà run rẩy nói với anh Q.: "Q.! Sao mày lại đem ông đem cha tao ra mày chửi?" Anh Q. không nói gì, anh lại tiếp tục đi vào đi ra, luôn miệng lẩm bẩm: "Thằng Hoàng Cao Khải, thằng Hoàng Mạnh Trí là đồ Việt gian".

            Anh Q. là cháu ngoại họ Hoàng, nhưng từ thuở anh chưa thọ bệnh, anh đã không mấy thiện cảm với họ hàng bên ngoại. Điều này cũng dễ hiểu. Họ Hoàng lập nghiệp ở ngoài Bắc, khói lửa chiến tranh lại phân tán gia đình mỗi người một nơi. Ở Huế, anh Q. chỉ có gia đình bác Tham L. là chỗ cật ruột bên ngoại. Hơn nữa, anh Q. là người ham học ham biết. Anh còn lạ gì những câu chuyện liên quan đến họ Hoàng một thời là đầu đề cho thiên hạ đàm tiếu. Cho nên trong thâm tâm anh Q. chắc chắn là không lấy gì làm hãnh diện về hoạn lộ lẫy lừng của bên họ ngoại:

                        "Con cháu một nhà hai Tổng Đốc,
                        "Pháp Nam hai nước một công thần!

            Họ Hoàng vốn người làng Đông Thái, tổng Việt Yên, huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, cùng quê với cụ Phan Đình Phùng. Làng Đông Thái có truyền thống trọng khoa hơn trọng hoạn. Điều này có nghĩa là ngôi vị Tiên Chỉ trong làng được dành phần cho người thi đỗ cao nhất chứ không phải cho người làm quan lớn nhất. Họ Hoàng tuy là Đại Thần cực phẩm Triều Đình, tước Quận Công, chức Kinh Lược Sứ, nhưng chỉ đậu Cử Nhân mà thôi. Một hôm, họ Hoàng nghênh ngang áo gấm về làng, điềm nhiên ngồi vào chiếu giữa, nghĩ rằng không ai dám hé răng phản đối. Nào ngờ một cụ già trở cán quạt đánh vào đầu họ Hoàng và mắng rằng :"Thằng kia, mày đậu đại khoa năm nào mà dám ngồi vào đây?". Họ Hoàng bẽ mặt, đứng dậy bỏ ra về, và thề rằng không bao giờ trở lại làng Đông Thái. Họ Hoàng lập ấp Thái Hà và từ đó ở luôn ngoài Bắc. Một vài vị túc nho cho rằng tên Thái Hà bắt nguồn từ câu :"Thái Sơn như lệ, Hoàng Hà như đái", ngụ ý nhà Vua và con cháu nhà Vua đời đời nhớ công khai quốc và đối xử với công thần thủy chung như nhất cho đến lúc núi Thái Sơn chỉ còn như hòn đá mài và sông Hoàng Hà nhỏ như một giải nước cạn. Sự thực thì tên Thái Hà chỉ giản dị là tên ghép lấy ra từ hai địa danh Đông Thái và Hà Đông mà thôi. Triều Đình Huế thời bấy giờ, tuy rằng cũng có những phần tử chủ hòa muốn thỏa hiệp với người Pháp, nhưng không một ai tán đồng chủ trương tách Bắc Kỳ thành một quốc gia riêng biệt với lá bài Hoàng Cao Khải. Người cầm đầu phe chống đối quyết liệt là Đông Các Đại Học Sĩ Cao Xuân Dục đã nói rằng :"Trời không thể hai mặt, nước không thể hai vua". Bởi vậy không thể nào có cái ngụ ý ân tình thủy chung như nhất của Hoàng Gia và Triều Đình đối với Hoàng Cao Khải trong địa danh Thái Hà được.

            Dư luận giới sĩ phu trong Triều không thuận lợi cho họ Hoàng như vậy mà tình cảm ngoài dân gian đối với họ Hoàng cũng không hơn gì. Cho đến lúc họ Hoàng nhắm mắt xuôi tay, dân Hà Đông vẫn xem họ Hoàng là dân ngụ cư, và kẻ thức giả vẫn không đồng tình với vai trò chính trị họ Hoàng đã đóng trong lịch sử đất nước thời cận đại. Lúc tang ma họ Hoàng, người ta thấy xuất hiện một câu đối mỉa mai rằng:

                        "Ông ra Bắc là may, trước Kinh lược, sau Quận công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ!
                        "Cụ về Tây cũng tiếc, trong Triều đình, ngoài Chính phủ, một lòng vì nước có hai đâu.

Việc họ Hoàng mở đường cho người Pháp biến Bắc Kỳ thành một xứ bán thuộc địa tách khỏi Triều Đình Huế là một trong những hành vi chính trị của họ Hoàng khiến người trong nước không tâm phục. Thêm vào đó, họ Hoàng tuy thi đỗ Cử Nhân nhưng trong cuộc sống đã tỏ ra không phải là người thông hiểu đạo Thánh Hiền. Người xưa đã dạy là "phú quý bất năng dâm", nhưng họ Hoàng đã đem cô đào hát làng Bông về làm vợ. Người xưa đã dạy là "tu, tề, trị, bình", nhưng họ Hoàng gia pháp bất minh, con không nể mặt cha, anh em không thuận thảo. Trong tang lễ bà Bông, Tổng Đốc Nam Định Hoàng Mạnh Trí và Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu đã cãi vã to tiếng và đánh nhau trước mặt cha. Thời bấy giờ, cụ Phan Điện có bài thơ đăng báo mỉa mai câu chuyện này:

“Hỏi đám nhà ai ấp Thái Hà?
                        “Người xem nô nức khắp gần xa.
                        “Toàn Quyền, Thống Sứ nâng tay cụ,
                        “Nam Định, Hà Đông nể mặt cha.
                        “Xe điện đông nêm người tứ xứ,
                        “Ô tô để chật bãi tha ma.
                        “Tàu bay nghiêng cánh bay qua lại.
                        “Cái gái làng Bông sướng dữ a!

                        “Thay cả quốc dân khóc cụ bà.
                        “Non sông nay chỉ thấy ông già.
                        “Biết bao đau đớn người Nam Việt,
                        “Há những xôn xao đất Thái Hà?
            “Lầu đá ngàn năm tơ tưởng ngọc,
                        “Cầu Ô một dải ngậm ngùi hoa.
                        “Khen con cháu cụ nhà gia pháp,
                        “Cụ nghĩ làm sao phải đạo cha.

            Khi mà bệnh tình anh Q. đã tới thời kỳ trầm trọng hơn, anh Q. không còn kiểm soát được tiềm thức nữa. Anh nghĩ gì thì anh nói ra, không nhọc công uốn lưỡi bảy lần nữa. Tội nghiệp cho bà Tham Đ. ngày nào cũng nghe con mình kêu réo cha ông mình ra chửi. Cái chửi thầm thì, cái chửi cay đắng, cái chửi của người có học, cái chửi của kẻ nói có sách, mách có chứng, phê phán khách quan để xứng đáng là chứng nhân của thời cuộc. Tới nước này thì bà Tham Đ. không có phương thức nào khác là đem anh Q. về Văn Xá ở dưỡng bệnh. Trong cái không khí u tịch của ngôi nhà thờ cổ kính, mái ngói rêu phong, ngày ngày anh Q. âm thầm kéo lê cuộc sống tách biệt với gia đình và xã hội. Bà Tham Đ. một tháng đôi lần về thăm anh, gan tan ruột nát, thương xót đứa con đầu lòng thông minh dĩnh ngộ, không hiểu do nghiệp chướng tiền căn nào mà ra nông nỗi ấy. Cuối cùng bà Tham Đ. cũng thuyết phục được một cô gái người làng chịu lấy anh Q. làm chồng. Đám cưới được ít lâu, người vợ thôn dã sinh hạ cho anh đứa con gái đầu lòng. Anh đặt tên cho con là Tâm. Điều lạ lùng là anh thường tỏ ra thờ ơ với mọi chuyện, thế mà giờ đây anh thương yêu trìu mến bé Tâm vô cùng. Anh không cho phép bất kỳ ai làm phật lòng bé Tâm. Sau bé Tâm anh còn thêm một vài đứa con nữa, nhưng anh không cưng quí đứa nào bằng bé Tâm. Bé Tâm cũng tỏ ra rất quyến luyến cha.

            Thời cuộc mỗi ngày một rối ren, chiến tranh lan tràn dữ dội khắp miền Trung. Bà Tham Đ. phải rời Huế, vào Sài gòn ở với mấy người con khác. Bà không còn tháng tháng đôi lần ra Văn Xá thăm anh Q. được nữa. Điều an ủi là bà vẫn đều đặn nhận được tin anh Q. Anh hình như cũng dần dà thích nghi với cuộc sống mới. Bệnh tình không khả quan hơn, nhưng cũng không trầm trọng thêm. Bé Tâm hình như là lẽ sống của anh. Thế rồi, vào những ngày cuối tháng tư năm 1975, bà Tham Đ. buộc lòng phải theo mấy người con khác chuẩn bị di tản ra nước ngoài. Bà đến thăm vợ chồng tôi, chủ yếu là để dò hỏi tình hình. Trong câu chuyện, bà rưng rưng nước mắt, nhắc nhở đến anh Q., xót xa cho hoàn cảnh của anh ấy bây giờ còn kẹt lại ngoài Văn Xá. Ít hôm sau, bà Tham Đ. cùng với mấy người con khác đi Mỹ. Kể từ dạo đó đến nay, tôi chưa có dịp gặp lại bà Tham Đ. Tuy nhiên tôi được biết bà vẫn mạnh khoẻ. Và tôi nghĩ rằng trong sâu thẳm tột cùng của đáy tâm tư, bà Tham Đ. vẫn ấp ủ nỗi xót xa hướng về đứa con trai đầu lòng đang kéo lê cuộc sống nơi miền quê ngoại ô thành phố Huế.

            Riêng về anh Q., tuy biết anh nhiều mà tôi vẫn chưa có dịp quen anh. Trong một thời gian khá dài, chúng tôi sống ở cùng một thành phố, vậy mà chúng tôi không có dịp gặp nhau. Sau khi tôi lấy vợ, anh Q. trở thành chỗ bà con họ hàng, thế mà chúng tôi vẫn không một lần gặp gỡ trò chuyện. Bây giờ thì nghìn trùng xa cách, làm gì có dịp đối mặt nhau. Thế nhưng tôi vẫn thấy nhớ anh mỗi khi nghĩ về quê cũ. Tôi không hiểu tại sao trong cái vẻ khắc khổ gầy guộc của con người anh và khuôn mặt già trước tuổi của anh vẫn toát ra một sức hút vô hình lôi cuốn sự chú ý của tôi. Nhiều lúc tôi tự hỏi: "Có thật là anh Q. điên không?". Anh Q. điên, sao anh Q. lại đánh cờ rất cao nước? Anh Q. điên, sao anh Q. lại học đậu được Cử Nhân Luật Khoa? Hay anh Q. điên chẳng qua là vì chúng ta quyết đoán rằng anh Q. điên, bởi một lẽ giản đơn là anh Q. không có cùng cảm nghĩ và cung cách ăn nói như chúng ta mà thôi.

            Vào những năm đầu thập niên 80, tôi nghe nói bà Tham Đ. có bảo mấy người con ở Mỹ lập hồ sơ bảo lãnh cho ba chị em bé Tâm. Bà Tham Đ. nghĩ rằng về phần vợ chồng anh Q. thôi thì đành cam phận. Anh Q. ra nước ngoài cũng chẳng giúp cho anh có cuộc sống khả quan hơn, ngược lại chỉ thêm nặng gánh cho gia đình và cho xã hội mà thôi. Về việc bảo lãnh cho ba chị em bé Tâm thì bà Tham Đ. vô cùng sốt sắng. Bà nghĩ rằng các cháu phải được học hành đến nơi đến chốn. Không thể nào chôn vùi cuộc sống thanh xuân mơn mởn của các cháu trong ngôi nhà thờ mái ngói rêu phong nơi miền quê ngoại ô thành phố Huế. Tôi không nghe nói đến phản ứng của vợ chồng anh Q. về sự sắp xếp của bà Tham Đ. cho mấy đứa cháu nội. Tôi chỉ nghe kể lại lời của cháu Tâm mà thôi. Cháu đã dứt khoát chối từ sự bảo lãnh của bà nội và các cô chú. Cháu nói rằng cháu đã quen sống như thế này với cha mẹ nơi quê cha đất tổ. Cháu sợ rằng cháu sẽ ngỡ ngàng lạc lõng nơi đồng đất nước người. Nhất là nếu cháu ra đi, cháu sẽ bỏ cha cháu cho ai bầu bạn hôm sớm. Ngổn ngang tình nhà nỗi nước, trăm mối vò tơ, làm sao cháu nỡ bỏ đi cho đành!

            Câu chuyện của mấy chục năm qua, bây giờ nhắc lại, lòng tôi không khỏi ngậm ngùi. Cháu Tâm là người thuộc thế hệ thứ ba tôi biết mà không quen. Chắc bây giờ cháu đã trưởng thành. Bên ngoại cháu là người dân dã, cháu lại sinh ra và lớn lên nơi miền quê ngoại ô, không biết cháu còn giữ được những gì đặc trưng cho cái phong thái quí tộc lâu đời của người con gái Tôn Nữ đất Thần Kinh? Cháu đang còn là thiếu nữ chưa chồng, hay là cháu đã tay bồng tay mang? Trời Ottawa hôm nay âm u và se se lạnh, tôi nghĩ tới những ngày đầu thu nơi quê cũ. Trong dòng hoài niệm vô biên đầy vang bóng một thời, tôi chợt thấy trong tôi dâng lên niềm cảm phục đối với người con gái không quen là cháu Tâm con anh Q. Trong lúc có bao nhiêu thiếu nữ Việt Nam, thành thị và thôn quê, trong nước cũng như ngoài nước, có những hành động bon chen nhiều khi hạ thấp phẩm giá, cốt sao đạt cho được thị hiếu và mục đích, thì cháu -cháu Tâm thân mến-  cháu đã có lời nói và hành động tràn đầy tình nghĩa. Cháu là con người Việt Nam chân chính. Cháu sinh ra và lớn lên trong lòng thôn ấp Việt Nam, ăn cơm Việt Nam, uống nước Việt Nam, thở không khí Việt Nam và hấp thụ tinh anh sông núi Việt Nam, cho nên tâm tư và cảm nghĩ của cháu hoàn toàn đượm tính chất Việt Nam.

Thương yêu và cảm phục cháu vô cùng.

Ottawa, 10 tháng 7 năm 1994

Minh Vũ Hồ Văn Châm





 






































Gió Đưa Cành Trúc La Đà




               
Đầu năm 1988, tôi trở về thăm Huế sau mười mấy năm trời xa cách. Trước cảnh lâu đài đình tạ cát lấp rêu phong, trước vẻ nghèo khó xác xơ của người dân Huế hàng ngày chật vật với miếng cơm manh áo, lòng tôi luống những ngậm ngùi. Cung cách đài các kiêu sa của chốn đế đô mơ mộng không còn tìm đâu ra vang bóng!

            Biết nói gì với những bạn đồng hành trước đây chưa một lần đến Huế nhưng lại nghe và đọc rất nhiều về Huế. Tôi chợt nhớ tới bà Tân Du, tiểu thư quan Lễ Bộ Thượng Thư Võ Liêm và là Đệ Tam Giai Phi (Tân nhân) (1) của vua Khải Định. Bà Tân Du lá ngọc cành vàng, là người của lầu son gác tía, một thời nổi danh hương trời sắc nước. Sau năm 1945, theo vận nước nổi trôi, bà Tân Du rời Đại Nội trở về với cuộc sống bình thường. Bắt đầu từ đó, bà từ giã cuộc đời vương giả kiêu sa, ăn sung mặc sướng, bước chân vào một cuộc đời mới, mỗi ngày một khó khăn chật vật vì chén cơm manh áo, nhưng luôn luôn ghi nhớ và ứng dụng câu ngạn ngữ "Giấy rách vẫn giữ lấy lề". Cho đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, bà Tân Du vẫn chịu khó giữ cho cái vẻ bên ngoài được tươm tất, dù cho phải mất nhiều công sức để che dấu cái vá chằng vá đụp bên trong. Đấy, Huế ngày nay của chúng tôi là thế đấy, hỡi những người bạn phương xa đến thăm Huế lần đầu.

            Vậy thì Huế ngày nay có thể được ví von như một bà già nghèo khó, thất thế sa cơ, đang cố công cố sức che đậy vẻ lam lũ bên ngoài, và mặt khác rất mực tự hào về cái phong tư thanh nhã đã được hun đúc qua những thử thách dồn dập của cuộc đời, cái phong tư tự nhiên mà có trong từng tia máu, từng thớ thịt, bởi một lẽ giản đơn : xưa kia vốn là tiểu thư ngàn vàng, là thiếu phụ vương giả. Cho nên, đến thăm Huế, xin đến với tấm lòng chân thật, đôn hậu, tấm lòng trong sáng thanh cao, để hoài niệm về những cái chân, thiện, mỹ của một thời vàng son lộng lẫy, để cảm nhận cái thơ mộng của mây tím hoàng hôn rực rỡ đằng sau màu xanh đen thm của dãy núi Kim Phượng, để xao xuyến với vẻ tinh khiết của những giọt sương mai ngưng đọng trong lòng sen Tĩnh Tâm đang bừng rộ nở hoa mỗi độ sang hè. Và sau hết, đến thăm Huế hay ở xa nghĩ về Huế, xin hãy trả lại cho Huế những gì của Huế.        

            Từ thuở ấu thơ, lùi xa về trước năm 1945, cho đến tuổi trung niên, giữa năm 1975, mình trần thân trụi vào sống trong các trại tập trung cải tạo, tôi thường nghe nhắc nhở đến câu ca dao :
            "Gió đưa cành trúc la đà,
            "Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Câu ca dao được nhắc nhở trong những tình huống khác nhau, nhưng tựu trung thì cũng vì mỗi một mục tiêu văn chương nghệ thuật, muốn tô điểm cho tác phẩm thêm phần ướt át, mượt mà. Thảng hoặc, cũng có trường hợp người ta mượn chuyện văn chương để mà châm biếm nhau, như câu chuyện "chicken soup" được gán cho một vị dân biểu khi công du nước ngoài đã có cái nhầm lẫn to lớn dịch câu ca dao trứ danh trên đây ra Anh ngữ với cụm từ Thọ Xương chicken soup!

            Tôi không dám tự phụ đã đọc hết sách báo Việt ngữ xuất bản trước năm 1975, nhưng tôi có thể khẳng định trước năm 1975 trên diễn đàn văn học Việt Nam, không ai đặt vấn đề câu ca dao trên không phát xuất từ Huế. Cũng có người thắc mắc về điạ danh Thọ Xương là tên một huyện thời trước ở vùng ven Hà Nội, một địa danh không tìm thấy ở vùng ven Huế và đã giải thích rằng sở dĩ Thọ Xương cùng đi chung với Thiên Mụ là vì có lẽ tác giả câu ca dao là một người sinh trưởng ở Hà Nội đã vào lập nghiệp ở Huế, nhân đi chơi trên sông Hương lúc nửa đêm về sáng, nghe tiếng chuông Thiên Mụ ngân nga bỗng cảm khái nặng lòng cố quận mà tưởng tới canh gà Thọ Xương. Sự giải thích như vậy chỉ nhằm mục đích bảo vệ cho hai chữ Thọ Xương, chứ không hề muốn thay đổi ý tứ và phủ nhận xuất xứ của câu ca dao đã trở thành quá quen thuộc đối với người dân trong cả nước. Lại cũng có người cho rằng không phải Thọ Xương mà là Thọ Khương, tên một làng nằm bên bờ sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ. Sở dĩ Thọ Khương biến thành Thọ Xương là vì có người vui miệng nói trại Thọ Khương thành ra Thọ Xương, rồi vì chữ Thọ Khương khó đọc hơn, khó nói hơn nên đã phải nhường chỗ cho chữ Thọ Xương trong cửa miệng dân gian, chẳng khác gì trường hợp Phu Văn Lâu biến thành Phú Văn Lâu, hay đơn giản hơn, Văn Lâu :
            "Trước bến Văn Lâu,
            "Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm...
Đố ai tìm được người bình dân Huế nào nói đúng ba tiếng Phu Văn Lâu, mà đối với người thông hiểu Hán tự thì Phu Văn mới có nghĩa chứ Phú Văn thì có hay ho gì. Quá trình phát triển của sinh ngữ là như thế đấy và mấy ai thay đổi được cửa miệng dân gian.

            Vậy thì, cho dù là canh gà Thọ Xương hay canh gà Thọ Khương thì những vế còn lại của câu ca dao không có gì thay đổi. Cành trúc la đà trên bến nước sông Hương, tiếng chuông ngân nga từ chùa Thiên Mụ, toàn thể câu ca dao diễn tả cảnh sắc xứ Huế và tình cảm con người sống tại Huế, bất kể nguyên quán là Trung, là Nam, là Bắc.
           
            Thế rồi, sau năm 1988, từ trại cải tạo trở về, trong những ngày sống ở Sài Gòn chờ xuất cảnh, tôi có  dịp đọc một  số  báo Việt ngữ xuất bản ngoài Bắc, sửa câu ca dao nêu trên lại như sau :
            "Gió đưa cành trúc la đà,
            "Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
Các bài văn bài báo này đã trích dẫn câu ca dao ấy một cách hết sức tự nhiên, xem như chưa từng có một câu ca dao tương tự đã được lưu truyền trước đó. Cũng không ai nêu lên vấn đề Thiên Mụ hay là Trấn Võ, tại sao phải đổi Thiên Mụ thành Trấn Võ. Mãi đến đầu năm 1990, tạp chí Sông Hương xuất bản ở Huế mới rụt rè đặt lại vấn đề xuất xứ của câu ca dao. Theo tác giả của bài báo, trên bờ nam sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ, có một làng tên là Thọ Khương, và câu ca dao nêu trên là lời ru quen thuộc của cả vùng ven đô đó, bất kỳ người dân nào của Thọ Khuơng, cho dù đi tận chân trời góc biển, vẫn không bao giờ quên lời ru của mẹ, của bà ngày trước văng vẳng bên tai và giờ đây đã thấm sâu vào tim, vào óc. Rồi tạp chí Sông Hương đưa ra một kết luận có vẻ dĩ hòa vi quý, hết sức nhỏ nhẹ rất là Huế, rằng như vậy là có đến hai câu ca dao, một câu là :
            "Gió đưa cành trúc la đà,
            "Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
và một câu là :
            "Gió đưa cành trúc la đà,
            "Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Khuơng.

            Chẳng thấy ai có ý kiến gì khác. Rồi tạp chí Sông Hương bị đình bản, và ít lâu sau, trên một bức tranh chụp cảnh Hồ Tây, tôi lại thấy có in mấy câu chú thích như sau :
            "Gió đưa cành trúc la đà,
            "Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương.
            "Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
            "Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ.
Toàn bộ mấy câu này nghe thoáng qua có vẻ xuôi tai, nhưng xét kỹ lại thì phần sau ý tứ hời hợt, không ăn khớp với phần trước về phương diện nội dung. Hơn nữa, mặt sông, mặt hồ chỉ phẳng lặng, sáng rỡ như gương khi trời quang mây tạnh, "giang tâm như kính tịnh vô trần", chứ không tài nào sông hồ lại có thể phơi bày mặt gương cho thiên hạ quang chiêm khi khói sương mù mịt. Đáng tiếc lắm thay! Câu ca dao được lưu truyền hàng trăm năm nay, đẹp đẽ và quý báu như chiếc vòng ngọc bích muôn phần hoàn hảo thì nay thêm thắt vào mấy câu đã trở thành chiếc vòng ngọc khảm vàng mười đỏ choé! Có người phụ nữ thanh lịch và cao sang nào lại chịu đeo chiếc vòng khảm vàng mười đỏ choé đó vào cổ tay.

            Đối với một bà già nghèo khó, thất thế sa cơ, bất cứ ai là kẻ có lòng cũng không nỡ đang tâm tước đoạt một vài vật trang sức còn sót lại trên người bà. Hãy giữ nguyên vẹn những thứ ấy, vì đó là chứng tích của một thời vàng son xa xưa, khi bà còn là thiên kim tiểu thư, khi bà còn là đệ tam giai phi. Giữ nguyên vẹn không phải là giữ nguyên cho bà làm của riêng. Giữ nguyên vẹn là vì nó đẹp quá, nó quý quá, giữ nguyên vẹn để cho mọi người của muôn đời có dịp thưởng thức. Riêng đối với con em vùng Thọ Khương, xin các ngài cũng đừng khăng khăng câu nệ. Thọ Khương đã biến thành Thọ Xương, là do vua quan nhà Nguyễn (2), mà cũng là do cửa miệng người đời, mà đã là thành quả của đại khối quần chúng thì xin đừng động chạm đến.

            Tóm lại, trước sau cũng chỉ có một câu ca dao thôi :
            "Gió đưa cành trúc la đà,
            "Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.

Ottawa, tháng tám,1995

Minh Vũ Hồ Văn Châm


  


Chú giải:

(1) Cửu giai :
- Đệ nhất giai Phi
- Đệ nhị giai Phi
- Đệ tam giai Tân
- Đệ tứ giai Tân
- Đệ ngũ giai Tiệp Dư
- Đệ lục giai Tiệp Dư
- Đệ thất giai Thục Nhân
- Đệ bát giai Mỹ Nhân
- Đệ cửu giai Tài Nhân

(2) Ở thôn Nguyệt Biều, xã Thủy Biều, cách sông đối mặt với gò Thiên Mụ là gò Long Thọ, tên cũ thời các chúa Nguyễn là Thọ Khương (Thọ Khang), đầu đời Gia Long đổi tên làm Thọ Xương, niên hiệu Minh Mạng thứ năm (1824) lại đổi làm Long Thọ Cương.

















Tùy bút


Khải Định
Nghĩ Về Đồng Khánh


            Khải Định và Đồng Khánh là niên hiệu của hai ông vua Triều Nguyễn. Đồng Khánh là vua cha, Khải Định là vua con. Nhưng Khải Định nghĩ về Đồng Khánh không phải là câu chuyện ông vua con nghĩ về ông vua cha. Đây là câu chuyện người học trò con trai nghĩ về người học trò con gái. Thật vậy, Khải Định và  Đồng Khánh là  niên hiệu của hai ông vua Triều Nguyễn đã được đem đặt tên cho hai ngôi trường trung học nổi tiếng ở Huế, Trường Trung Học Khải Định và Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh. Khải Định nghĩ về Đồng Khánh là câu chuyện người học trò con trai ở trường Khải Định nghĩ về người học trò con gái trường Đồng Khánh kế bên.

            Trường Khải Định và trường Đồng Khánh cùng quay mặt ra đường Lê Thái Tổ. Phía trước là sông Hương. Bên kia sông là Kinh thành, một giải trường thành rêu phong cổ kính, vọng lâu ngất ngưỡng, kỳ đài vòi vọi. Hai ngôi trường ở kế bên nhau, cách  nhau  một  con  đường nhỏ, có  bờ tường thấp. Cách
nhau một con đường cho có lệ vậy thôi, chừng như để nhắc nhở những cặp chim non tập tễnh những bước đầu đời trên con đường phiêu lưu tình cảm cần lưu tâm đến miệng thế thị phi.  Chứ đường ngang lối tắt Thành phố Huế thiếu gì ngõ ngách quanh co, mà học trò hai trường mỗi lần bãi học, tuy cách nhau trước sau mười lăm phút, nhưng cứ như là ong vỡ tổ, người đi xe đạp, kẻ đi bộ, nếu có tình ý chi mà "kẻ nhìn tận mặt người e cúi đầu" thì có thiếu gì cơ hội, cần chi phải tìm gặp nhau nơi con đường nhỏ ngăn đôi hai bờ tường!

            Nói cho ngay thì con đường nho nhỏ ngăn đôi hai ngôi truờng cũng đã từng có huyền thoại. Hồi tôi mới chân ướt chân ráo vào trường Khải Định cuối năm 1945, tôi đã được các anh lớn kể cho biết trước kia, khi còn có nội trú bên trên các dãy lầu của Khải Định và Đồng Khánh, có đôi tình nhân học trò yêu nhau thắm thiết mặn nồng, nhưng "yêu nhau thì đặng mà lấy nhau thì không đặng" nên cả hai, vào một đêm nhạt ánh trăng sao đã leo lên cửa sổ phòng nội trú, bám vào ống máng, chàng bên này lầu tây, nàng bên kia lầu đông, cách nhau một con đường nhỏ có bờ tường thấp, để "nhìn nhau mà lệ ứa" hết khóc lại than, rồi trong một lúc quá đau đớn mà mất cảnh giác nên sẫy tay, để thân xác rơi xuống lòng đường nặng nề như hai trái mít rụng, nát thịt tan thây. Người đời cho rằng thôi thế cũng là hay, cát bụi lại trở về với cát bụi, cứ để họ trả cho xong cái nợ hình hài, rồi tình yêu ấp ủ bấy lâu sẽ theo gót linh hồn vừa được giải thoát mà thăng hoa vào cõi vĩnh hằng.

            Truyện kể như vậy, hồi nhỏ tôi nghe thì nghe vậy thôi, thơ ngây chẳng nghĩ ngợi gì. Sau này khôn lớn, nhớ lại chuyện xưa, tôi nghĩ rằng câu chuyện chẳng hợp lý cho lắm. Trường nội trú đâu phải là trại giam kiên cố đối với nguời tình học trò con trai, càng không phải là cung cấm thâm nghiêm đối với người tình học trò con gái. Vậy thì cuối tuần nghỉ học, thiếu gì cơ hội gặp nhau. Lầu đông lầu tây tuy có ngăn cản chim xanh đưa tin đi lại trong những ngày đi học, nhưng chiều chiều tan lớp, chàng bên này đường, nàng bên kia đường, vẫn có thể nhìn nhau qua đôi khung cửa sổ, để cho chàng mơ mộng :


            "Lầu tây đối diện lầu đông,
            "Nắng chiều đỏ ối nhuộm hồng chấn song.
            "Vẩn vơ lòng những hỏi lòng,
            "Người đâu ở chốn lầu đông áo hồng?
và mong ước :
            "Mơ theo lá gió chim cành,
            "Luồn qua ngăn cách cho mình có nhau."
Rồi tình cảnh có trắc trở, duyên phận có bẽ bàng, có muốn cùng chết bên nhau cho trọn vẹn lời thề thì thiếu gì nơi thuận lợi, này cầu Bạch Hổ, này Ngã ba Sình, sông sâu nuớc chảy, chỉ một phút buông xuôi là rũ sạch nợ đời, việc gì phải leo lên khung cửa sổ, bám vào ống máng bờ tường để tìm cái chết nặng nề, đã không thơ mộng mà lại cũng chẳng thoải mái chút nào!

            Theo với thời cuộc đổi thay, con đường biên giới giữa hai ngôi trường cũng thay đổi theo. Đầu năm 1946, trường Khải Định được nhường cho quân đội Pháp đóng quân. Cho đến hơn mười năm sau, khi quân đội Pháp rút về nước và trường Khải Định lấy lại tên cũ là Trường Quốc Học, con đường nho nhỏ từng có huyền thoại riêng đã trở nên đìu hiu quạnh quẽ, vắng bóng học trò. Ngay cả người dân thuờng cũng lánh xa con đường đó. Ai dại gì đi qua những lỗ châu mai lấp ló nòng súng và những tròng mắt trắng dã của những người lính gốc Phi châu.

            Con đường biên giới giữa hai ngôi trường bây giờ được chuyển vào bên trong truờng Đồng Khánh. Số là truờng Khải Định, sau một thời gian phải dời vào Đại Nội, rồi qua trường Việt Anh, lên trường Lý Thường Kiệt, giữa năm 1948, được chia một nửa cơ ngơi của trường Đồng Khánh. Khải Định được phân nửa nằm ở phía tây con đường đi từ cổng chính đến sân chơi (préau). Học trò của Khải Định đi học, đi vào cổng chính, nhưng chỉ được đi theo con đường đó một đoạn ngắn mà thôi. Qua khỏi văn phòng hiệu trưởng là phải rẽ vào con đường nhỏ đi thẳng đến dãy lầu lớp học. Học trò của Đồng Khánh đi học, đi vào cổng bên, phía dinh Phủ Doãn, qua khỏi cổng là đến ngay dãy lầu lớp học đối diện. Như vậy, con đường biên giới giữa hai ngôi truờng , trừ phần ngoài cổng chính đi vào, không một học sinh nào được phép đi lại. Sáng sáng, vào giờ tựu trường, chỉ thấy thầy hiệu trưởng Nguyễn Hữu Thứ thong dong đạp chiếc xe đu-ra bóng lộn từ cổng chính tiến vào, theo con đường biên giới đến cột cờ, từ từ rẽ sang phải, đi về phòng giáo sư, và trăm lần như một, xe thầy còn xa mới tới bậc thềm đã thấy bác Tôn tùy phái văn phòng chạy ra đỡ lấy xe mang vào bên trong. Đây là màn show rửa mắt buổi sáng quen thuộc của bọn học trò con trai chúng tôi.

            Thầy hiệu trưởng Nguyễn Hữu Thứ được tiếng là người quen biết rộng, nên thầy qui tụ được một số giáo sư nổi tiếng. Lại nữa, Thủ Hiến Trung Việt hồi đó là ông Phan Văn Giáo là người biết chiêu hiền đãi sĩ. Nhiều nhân sĩ Bắc Hà vừa ở vùng cộng sản trở về thành, e ngại ở Hà Nội bị rắc rối với chính quyền thân Pháp ngoài đó nên đã tìm vào Huế qui tụ dưới trướng ông Phan Văn Giáo để nương tựa. Bởi các lẽ đó, trường Khải Định có được những giáo sư cừ khôi như Nguyễn Đức Quỳnh (Trốt kít), Đái Đức Tuấn (Nhà văn), Từ Ngọc Toản (Nhạc sĩ), Nguyễn Khắc Du (Đại Việt), Lê Hữu Khải (Việt Quốc), Ngô Văn Hân (Việt Quốc), Phan Ngô (Việt Quốc), Cao Văn Luận (Triết học), Bạch Văn Ngà (Toán học), Tôn Thất Lương (Hán học), Nguyễn Văn Thích (Hán học) v.v... Một số giáo sư và nhân viên ngành giáo dục được bố trí ở trong khuôn viên nhà trường. Những vị có gia đình, trong những ngày tạnh ráo, lúc sáng sớm tinh mơ chưa nổi trống tựu trường, hay những buổi chiều tà sau giờ tan học, thường đưa cả nhà tung tăng đi dạo trên con đường biên giới ngăn đôi phần đất hai ngôi trường Khải Định-Đồng Khánh. Cảnh đẹp thơ mộng đất đế đô chừng như thêm phần rực rỡ vì bóng sắc kiều mị của những người đẹp Bắc Hà như phu nhân giáo sư Trịnh Hồ Uy, bào muội giáo sư Vũ Đình Chính. Ngược lại, cũng có nhiều gia đình cư ngụ trong khuôn viên nhà trường mà rất mực cổng kín tường cao, quanh năm không hề có ai được giáp mặt, chỉ "kiến kỳ thanh mà bất kiến kỳ hình", trong số này có người bạn của tôi thời "trúc mã thanh mai", trước năm 1945 ở nhà liền nhau, chơi với nhau rất thân thiết :
            "Thiếp phát sơ phú ngạch
            "Chiết hoa môn tiền kịch.
            "Lang kỵ trúc mã lai
            "Nhiễu sàng lộng thanh mai.
            "Đồng cư Trường Can lý
            "Lưỡng ti‹u vô hiềm xai.
            (Trường Can Hành. Lý Bạch)            
Hồi tản cư cuối năm 1946, tôi còn gặp lại bạn tôi lần chót trong một cái quán nhỏ vùng Ưu Điềm, bạn tôi đứng trông hàng giúp mẹ. Rồi thôi. Bây giờ, ngày ngày đi học, tôi nghe bọn học trò con trai ca tụng bạn tôi ghê gớm lắm, thế mà tôi chẳng biết mặt mũi bạn tôi bây giờ thay đổi ra sao. Hẳn là bạn tôi đã lớn và xinh đẹp lắm.

            Cuối năm học 1948-1949, Hội Đồng chấm thi Trung học Đệ nhất cấp ở Huế tổ chức thi tại trường Khải Định. Ban A là ban Hán tự chỉ có thí sinh của trường Khải Định dự thi mà thôi. Ngược lại, ban B là ban Anh văn rất đông thí sinh, ngoài thí sinh của hai trường Khải Định, Đồng Khánh, còn có thí sinh các trường Pellerin, Providence, Nguyễn Du, Lycée francais v.v... Điều đáng nói là thầy cô trường Đồng Khánh năm đó hạ quyết tâm dành giải khôi nguyên cho thí sinh của trường. Trước ngày thi cả tháng trời, Hội Đồng Giáo sư trường Đồng Khánh nhóm họp, có cả các đại diện học sinh các lớp đệ tứ của trường tham dự. Trong kế hoạch đoạt giải khôi nguyên có mục nhận diện đối thủ tức là khoanh tên những nam thí sinh có khả năng đậu đầu kỳ thi năm đó. Tin tức tình báo của bọn học trò con trai Khải Định chúng tôi cho biết là sổ đen của ban tham mưu trường Đồng Khánh có ghi các tên Ngô Đình Long, Thái Công Tụng, Nguyễn Xuân Chánh và Hồ Văn Châm. Hồi đó, Bùi Hữu Lân cũng học giỏi có tiếng, nhưng vì Bùi Hữu Lân dự thi ban A Hán tự nên không can dự gì đến quyết tâm tranh giải khôi nguyên của trường Đồng Khánh, do đó mà Bùi Hữu Lân thoát khỏi sự chiếu cố của bàn tay các người đẹp. Đến ngày thi, lúc giám khảo xướng danh vào phòng, nghe tôi và Nguyễn Xuân Chánh ngồi liền bên nhau, nhiều tiếng thì thào đã nổi lên. Giám khảo phòng thi của chúng tôi là giáo sư Hồ Văn Lê trường Đồng Khánh. Suốt mấy ngày thi, thầy Lê giám sát tôi và Nguyễn Xuân Chánh sát nút. Thầy bắt hai chúng tôi ngồi tách ra xa nhau, mỗi đứa ở tít tận một đầu bàn. Kỳ thi năm đó, tôi đậu đầu và Nguyễn Xuân Chánh đậu thứ sáu. Người học trò con gái trường Đồng Khánh đậu cao nhất có ngôi vị thứ 18. Từ năm đó, chúng tôi không còn nghe bên trường Đồng Khánh bàn bạc chuyện tranh giải khôi nguyên với bọn học trò con trai chúng tôi nữa. Điều lý thú là thầy Hồ Văn Lê là chú họ của tôi. Dạo đó tôi biết chú nhưng chú không biết tôi. Chiến tranh liên miên, đâu còn có dịp nhóm họ nhóm làng để cho người lớn biết đến bọn nhỏ. Mãi mấy năm sau, nhân dịp họ chúng tôi họp để phiên dịch gia phả bản chữ Hán ra quốc ngữ, thầy Hồ Văn Lê và tôi mới có dịp nhận chú cháu, và khi nhắc lại câu chuyện thi cử mấy năm về trước, thầy Hồ Văn Lê cũng thấy câu chuyện là nực cười.

            Trường Đồng Khánh thuở đó chưa có các lớp trung học đệ nhị cấp, nên học trò con gái sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp là phải qua học tiếp bên trường Khải Định. Lớp Đệ tam Khoa học A  năm đó được vinh hạnh đón nhận 8 cô, vừa vặn ngồi hai bàn đầu. Có mặt học trò con gái cũng không làm cho bọn học trò con trai tử tế hơn được chút nào. Lý do là vì đa số học trò con trai so ra thì nhỏ tuổi hơn học trò con gái lại chưa biết làm duyên làm dáng. Một số ít lớn tuổi hơn, đã biết ăn biết diện, thì đi tìm thần tượng ở lứa con gái nhỏ tuổi đang còn cắp cặp ngày ngày sắp hàng vào các lớp học ở bên kia con đường biên giới phân chia hai ngôi trường. Tết năm đó tôi có bài thơ tám câu ghi tên 8 cô bạn học cùng lớp :


            "Thần Kinh vui đón tiết XUÂN AN,
            "HƯƠNG THẢO bâng khuâng quyện lá vàng.
            "Gió thổi LÊ rơi đầy thạch động
            "Mây đùn lụy nhỏ ngút THIÊN THƯƠNG.              
            "THANH HÀ một giải chia đôi ngã,
            "THU CÚC mười bông đã chín tàn.
            "Mũi chỉ đường KIM CHI phải bận,
            "CẨM HÀ một bức hóa công ban.
Bài thơ này chẳng có ý tứ gì sâu sắc, chỉ là loại thơ lắp ghép cho đủ chữ đủ vần, nhưng bọn học trò con trai chúng tôi ồn ào chuyền tay nhau đọc, xem chừng đắc ý lắm. Đến giờ ra chơi, bạn Lê Mộng Quán viết bài thơ lên bảng đen, lại lấy phấn màu tô rồng tô phượng, nắn nót mấy chữ chúc mừng xuân mới rất chi là "hoa lá cành". Nhưng không may cho chúng tôi, giờ học tiếp theo là giờ thầy Phan Ngô. Vừa trông thấy cái bảng đen đầy màu sắc, thầy Phan Ngô đã vội nghiêm nghị nói lớn : "Anh nào viết lăng nhăng lên bảng thì lên chùi đi ngay". Bạn Lê Mộng Quán lại phải vội vã lên bảng xóa sạch tất cả, và chúng tôi tiu nghỉu ngồi im nhìn bụi phấn bay qua khung cửa sổ.

            Một trong những vẻ đẹp linh hoạt của thành phố Huế là cảnh tan học của hai trường Khải Định-Đồng Khánh, nhờ vào dòng người áo trắng nữ sinh. Trường Jeanne d' Arc, trường Mai Khôi, trường Bồ Đề cũng có nữ sinh, nhưng cảnh tan học không bì được với cảnh tan học của hai trường Khải Định-Đồng Khánh. Trường Trưng Vương, trường Couvent du Domaine de Marie ở Hà Nội, trường Trưng Vương, trường Gia Long, trường Marie Curie ở Sài Gòn, những trường này thiếu gì nữ sinh sắc nước hương trời. Thế nhưng cảnh tan học của những trường này cũng không bì được với cảnh tan học của hai trường Khải Định-Đồng Khánh. Lý do là vì học sinh những trường này vừa ra khỏi cổng là phân tán ngay ra bốn phương tám hướng. Trong lúc đó, học sinh hai trường Khải Định-Đồng Khánh ra khỏi cổng thì chỉ một phần rất nhỏ ngược lên Bến Ngự, Nam Giao, còn tuyệt đại bộ phận thì theo đường Lê Thái Tổ xuôi xuống phía cầu Trường Tiền, nhiên hậu mới phân rẽ làm hai dòng, dòng qua Thành Nội, dòng xuống Tòa Khâm. Suốt một đoạn đường Lê Thái Tổ từ cổng trường đến chân cầu Trường Tiền, những tà áo trắng nối tiếp nhau diễn hành, hàng hàng lớp lớp cho người thế gian chiêm ngưỡng. Ai đi xa Huế mà không cảm thấy cái nhớ nhung bàng bạc trong tâm hồn, mỗi khi hồi tưởng đến cảnh tan học Khải Định-Đồng Khánh. Ai trở về Huế khi chưa quá đỗi già nua, nhựa sống trong người chưa cạn kiệt, mà không thử một lần đi ngược đường Lê Thái Tổ vào giờ bãi trường. Tôi còn nhớ cảnh nhà văn Tô Kiều Ngân mang lon trung úy trên vai nhưng đầu để tóc trần chải mượt, lái chiếc xe  jeep quân đội bỏ mui, sáng sáng chiều chiều, từ từ đi ngược dòng người nữ sinh áo trắng. Đối với con mắt lạnh lùng của người nhà binh tuân thủ quân kỷ thì đó là chuyện không được làm, nhưng đối với tâm hồn khai phóng của người thanh niên văn nghệ thì đó là thơ, là nhạc, là mộng, là mơ, là cuộc sống hết mình, là sống cho đáng sống. Dù đã đi xa hay vẫn còn ở lại, dù có trở về hay mãi mãi ly hương, những ai xưa kia vốn là người của Khải Định, có khi nào nghĩ về Đồng Khánh, thì trước hết vẫn nghĩ đến cảnh bãi trường Khải Định-Đồng Khánh với dòng người áo trắng nữ sinh :
            "Ta nhớ kinh kỳ ngày đầu thu năm ấy,
            "Đường Lê Thái Tổ rải hoa nắng lung linh.
            "Bím tóc đong đưa xuôi bờ vai nhún nhẩy,
            "Theo buớc chân em, lòng ta rợn ngợp men tình...
           
Thế là Khải Định nghĩ về Đồng Khánh suốt cả cuộc đời, trọn cả kiếp người. Với tình yêu và lòng bao dung độ lượng :
            "Đôi ta như keo sơn
            "Gắn liền thành một khối
            "Không thể chia lìa.
            "Mãi mãi đến muôn vạn ngày sau.
                                                             Ottawa, tháng tư, 1996
                                                           Minh Vũ Hồ Văn Châm 

Tùy Bút


Lặn   Lội   Thân  


                                                Con cò lặn lội bờ sông,
                                    Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
                                                                        (Ca dao)


Tôi không thể hình dung cảnh con cò gánh gạo nuôi chồng vất vả cơ cực như thế nào đến nỗi phải nỉ non kể lể như vậy, nhưng tôi có thể đoan chắc với bạn đọc rằng tình cảnh những bà vợ tù cải tạo cơm đùm gạo bới đi thăm nuôi chồng ở các nhà tù và các trại tập trung tại Việt Nam sau năm 1975 thì quả tình là muôn phần vất vả cơ cực. Vất vả là vì phải cùng một lúc, hoặc lần lượt trước sau, giải quyết một số vấn đề mà trước đây chưa từng đã gặp hoặc không phải là những công việc mà mình phải bận lòng. Cơ cực là vì phải cúi luồn, phải bon chen, phải vận động, phải năn nỉ, phải lanh lợi, phải mưu trí, phải gan dạ, phải nói những lời không từng quen nói, phải làm những việc không từng quen làm. Thân phận con cò lặn lội nuôi chồng vất vả cơ cực muôn phần như vậy, lại còn vất vả cơ cực muôn vạn lần hơn nữa, nếu không may cò lại thuộc vào một trong mười loại chúng sinh mà thi hào Nguyễn Du đã làm văn tế cô hồn:

            "Nào những kẻ màn loan trướng huệ,
            "Những cậy mình cung quế hằng nga.
            "Một phen thay đổi sơn hà,
            "Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu?

Về đâu thì chưa biết, chỉ biết thân phận hiện giờ là bơ vơ, lạc lõng, là lá xa cành, là cây xa cội, là mình xa ta, mà mình xa ta thì còn đâu là cảnh cũ quen thuộc, người xưa thân thương để "ngày ngày núp bóng tùng quân, tuyết sương che chở cho thân cát đằng"! Bởi vậy, bằng mọi giá, phải tìm cho được nơi chồng đang bị giam giữ, để rồi cơm đùm gạo bới mang đến tận nơi thăm nuôi chồng. Không phải là ngày ngày, tháng tháng, mà năm này sang năm khác, trong quá trình chuyển biến lâu dài của nếp sinh hoạt mới, xuyên qua nhiều trạng huống đổi đời thấm đượm đắng cay, chiếc lá, một là sẽ bị cuốn theo cơn lốc thời thế, hai là sẽ cương cường vươn ra trước gió bão, quyết tâm sống chết tranh đấu cho sự sống còn của bản thân, của cành lá, của cội cây, để rồi thân phận cát đằng trở thành gốc lớn đại thụ.

Cái cảnh các bà vợ bà mẹ tù nhân cải tạo lặn lội đi thăm nuôi chồng con là một hiện tượng phổ biến. Sau tháng tư đen, khoảng ba trăm nghìn công chức và hơn một triệu quân nhân cùng một số người thuộc các giai tầng xã hội khác nhau như tôn giáo, đảng phái, văn nghệ sĩ, tư sản mại bản, học sinh sinh viên, phải chịu đi tù, hay nói theo ngôn từ thời thượng là bị lãnh án tập trung cải tạo. Thời hạn giam cầm ngắn dài tuy có khác nhau, mức độ khắc nghiệt trong cách đối xử tuy không đồng nhất, hình thức giam cứu và chế độ lao động tuy thiên hình vạn trạng, nhưng dấu ấn để lại trong lòng những người phụ nữ lặn lội đi thăm nuôi chồng con thì không khác biệt gì mấy cả. Ngày nay, một số còn ở lại Việt Nam, một số tản mác sinh sống khắp năm châu bốn biển, những thân cò ngày ấy, dù vẫn xác xơ còm cõi hay tươi tốt mỡ màng hơn truớc, chắc hẳn không bao giờ quên được những vất vả cơ cực ngày nào lặn lội gánh gồng, cơm đùm gạo bới, băng rừng vượt suối đi thăm nuôi chồng con. Những ai may mắn lanh chân lẹ cánh thoát đi khỏi Việt Nam năm 1975 thì tuy không hiểu thấu được nông nỗi đắng cay cơ cực này tận tường trong chân tơ kẻ tóc, nhưng cũng ít nhiều có nghe nói qua, có được kể lại, có đọc trên báo, có thấy trên truyền hình, nên cũng phần nào cảm thấy thảng thốt, hãi hùng, thấy mình may mắn thoát được trong gang tấc cái thân phận bất hạnh của những người bị kẹt lại, mặt khác, không khỏi cảm thấy xót thương cho những thân cò trong bao nhiêu năm tháng lặn lội gánh gạo nuôi chồng nuôi con đang phải chịu cảnh giam hãm đọa đày trong các nhà tù và các trại tập trung cải tạo.

Nhà văn Thế Uyên có viết trong một tác phẩm của anh xuất bản năm 1989 tại Mỹ về nông nỗi vất vả cơ cực của các bà vợ, bà mẹ đi thăm nuôi chồng con bị tù. Những điều anh viết là những điều anh và thân nhân của anh đã kinh qua trong thời gian anh phải đi cải tạo, hoặc là những điều anh được nghe kể lại sau này khi anh vượt biên thoát ra khỏi Việt Nam và có dịp trở về thăm quê hương. Nhà văn Duyên Anh, trong các hồi ký Nhà Tù xuất bản năm 1987, và Trại Tập Trung xuất bản năm 1988, cũng tại Mỹ, tuy chuyên chú nói nhiều về các mặt sinh hoạt của tù nhân, nhưng cũng phần nào có đề cập tới tình cảnh những người mẹ, người vợ lặn lội đi thăm nuôi chồng con. Những điều các anh viết về các bà mẹ, bà vợ tù nhân là rất trung thực, và những ai thuở ấy đã từng làm thân cò lặn lội gánh gạo đi thăm nuôi chồng con sẽ thấy được một phần nào hình bóng và tâm tư của mình trong các tác phẩm của Thế Uyên và Duyên Anh. Người viết chỉ bổ túc thêm một số tình tiết xuyên qua quá trình thụ án của bản thân có liên hệ đến người bạn đời tấm cám của mình để những bạn đọc may mắn lanh chân lẹ bước thoát đi khỏi Việt Nam năm 1975 có thêm được một chút ý niệm khái quát về tình cảnh điêu linh mà rất đáng tự hào của một lớp người đã vì tình yêu và nghiã vụ mà can đảm chấp nhận số kiếp thân cò.  

Tôi bị bắt vào đầu tháng sáu năm 1975. Người ta đưa tôi vào T3, ở số 3 Bạch Đằng, tức là Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo lúc trước, cho ăn cơm trưa, sau đó đưa qua An ninh Nội chính Bộ Nội vụ, tức là Tổng Nha Cảnh sát cũ, làm thủ tục tống giam, rồi giải vào khám Chí hòa, nhốt ở khu xà lim AB. Vợ tôi chứng kiến tận mắt cảnh tôi bị hai người cán bộ có võ trang dẫn đi, một người dí súng lục vào đầu tôi, một người thúc súng AK vào lưng tôi, nên hãi hùng lắm. Trong trí tưởng tượng của vợ tôi lúc đó, người ta đang đưa tôi đi xử bắn. Những ngày tiếp theo, vợ tôi đi đến các cơ quan an ninh các cấp của chính quyền chiếm đóng, ai chỉ cho biết ở đâu là lần mò đến đó, để thăm hỏi tin tức của tôi. Ở đâu, người ta cũng lịch sự nhẹ nhàng khuyên nhủ an ủi vợ tôi, rằng "thì là đừng có lo", tôi không phải bị bắt giữ, tôi đang được ở một nơi rất an toàn, được bảo vệ chu đáo, và việc cán bộ võ trang đưa tôi đi ở một nơi riêng biệt chưa tiện tiết lộ chẳng qua chỉ là biện pháp bảo vệ an ninh cho tôi, để tránh sự phẫn nộ căm hờn của quần chúng, có phương hại cho sinh mạng của tôi. Những lời an ủi đó đương nhiên  không làm cho vợ tôi bớt lo sợ, ngược lại, càng làm cho vợ tôi nghĩ rằng tôi đã bị bắn chết. Về sau, vợ tôi không còn năn nỉ xin gặp mặt thăm nuôi mà chỉ xin cho biết xác tôi ở đâu để lãnh đem về chôn cất. Lại vẫn những lời an ủi khuôn sáo, những luận điệu động viên nghe mãi vợ tôi đâm ra thuộc nằm lòng, do đó vợ tôi lại càng tin chắc là tôi đã bị thủ tiêu, nên cuối cùng vợ tôi cũng không còn năn nỉ xin biết nơi chôn xác tôi mà chỉ xin cho biết ngày giờ tôi bị giết chết để viết bài vị thiết lập bàn thờ. Vợ tôi đã vì tôi mà phải trải qua những tâm trạng hãi hùng, khắc khoải, lo âu, rồi tuyệt vọng, lại thêm sau đó bị xét nhà vào lúc nửa đêm, của cải cũng có phần bị thất thoát, cho nên ngoài cái buồn cái lo chồng tuyệt tích không biết sống chết ra sao, lại thêm cái lo cái sợ con đông nhà nghèo, biết trông cậy vào đâu mà xoay trở. Lúc đó, vợ tôi đang mang thai bốn tháng, và vì quá lo nghĩ đến độ tuyệt vọng, vợ tôi đã bị sẩy thai. Bị băng huyết do sót nhau, vợ tôi phải đi nằm bệnh viện gần cả tháng trời. Ra khỏi nhà thương, vợ tôi trở thành con người khác hẳn, thân tàn ma dại không ai nhận ra. Còn tôi, tôi chỉ ở cách đó có mấy con đường, trong bốn bức tường đá xà lim, nào tôi có biết gì.

Bốn tháng sau, trong lúc phần lớn tù nhân ở Chí Hòa được chuyển đi các trại khác thì tôi được bố trí ở riêng một xà lim và bắt đầu bị hỏi cung. Tôi có đưa ra một yêu cầu để dọ dẫm, là xin viết thư về nhà để lấy cái kính đeo mắt, nhiên hậu mới viết các bản khai báo được, và yêu cầu của tôi đã được chấp thuận. Tôi được viết cho vợ tôi một lá thư ngắn, và mấy hôm sau khi người cán bộ chấp pháp trở lại với cái kính đeo mắt đúng là của tôi thì tôi biết chắc là tôi không bị xếp vào loại tù phải bị thủ tiêu. Nếu là thành phần tù cần phải thủ tiêu thì không bao giờ người ta cho liên lạc với gia đình hoặc cho gia đình biết tin tức. Hỏi thăm tình hình sức khoẻ của vợ tôi, tôi được người cán bộ liên lạc cho biết là vợ tôi đã gần ngày sinh, bụng rất lớn nhưng người vẫn nhanh nhẹn hồng hào. Tôi biết là người cán bộ nói không đúng sự thực, vợ tôi xưa nay có mang là bị thai hành dữ lắm, làm thế nào mà nhanh nhẹn hồng hào được, tuy nhiên tôi vẫn không nghĩ là vợ tôi đã sẩy thai. Trong thư gửi đi, tôi đã dặn vợ là nếu sinh con trai thì đặt tên là Sỹ Đạt, còn sinh con gái thì đặt tên là Tú Anh cơ mà. Vợ tôi không được phép viết thư cho tôi, nhưng được gửi cho tôi mấy thứ cần dùng và một ít thức ăn. Qua các thứ gửi vào, tôi vẫn nhận thấy được sự chăm chút của vợ tôi, nhưng tôi không tài nào hình dung được tình hình sinh họat của vợ con tôi lúc này ra sao. Các thức ăn gửi vào rất đạm bạc, tôi lo lắng không biết các con tôi no đói thế nào. Mãi về sau tôi mới biết mọi người ở Sài Gòn lúc đó đều nghĩ rằng tiếp tế cho thân nhân phải thật đơn sơ đạm bạc thì thân nhân sớm được cứu xét tha cho về, chứ lòng tôi lúc đó thật là ngổn ngang trăm mối. Sỡ dĩ tôi lo lắng cho vợ con như vậy là vì trong thư gửi đi, tôi đã nhắn nhủ vợ tôi là trong tình thế khó khăn hiện tại, chấp kinh phải tòng quyền, phải đặt nghĩa vụ lên trên tình yêu, phải lo cho con cái trước đã, do đó, nếu tình hình bắt buộc thì cũng đành phải hy sinh tình riêng đôi lứa để nuôi đàn con dại khôn lớn nên người. Chúng tôi quen biết nhau khi vợ tôi hãy còn nhỏ tuổi, chúng tôi cưới nhau khi vợ tôi chưa đủ tuổi làm thẻ kiểm tra. Từ bấy đến nay, vợ tôi chỉ biết quanh quẩn trong nhà, vui cảnh chồng con, nào có biết gì công việc ngoài đời. Người thiếu phụ vốn là học trò con quan, phu nhân vợ quan, không quen tháo vác, không phải tảo tần, giờ đây, trước giông tố bão bùng của thế giới đổi đời, làm sao đứng vững một mình mà chở che cho một đàn con nhỏ dại tám đứa. Bởi thế, trong thư gửi đi tôi đã khuyên nhủ vợ tôi rằng trong cái thế chẳng đặng đừng thì hãy can đảm tìm người tử tế mà nương tựa để đưa đàn con vượt qua khó khăn, để có điều kiện nuôi dạy chúng nên người. Nỗi dằn vặt con thơ vợ dại rồi cũng dần dần chìm lĩm trong cái lê thê của cuộc đời tù hãm giữa bốn bức tường đá xà lim, mà tin tức gia đình thì không vang không bóng, quá khứ thì mông lung hư ảo như là vọng về từ muôn kiếp xa xưa, và tương lai thì hoàn toàn chìm ngập trong bóng tối mịt mùng, không tài nào tìm thấy con đường tiến lên phía trước. Và cứ như thế kéo dài đằng đẳng gần hai năm, qua các xà lim khu AB rồi khu ED, rồi trở lại khu AB, mà "đêm thì không ánh trăng sao”, còn “ ngày thì chẳng ánh mặt trời."

Cuối cùng thì chúng tôi cũng được ra khỏi khu biệt giam khám Chí hòa để được chuyển qua khu tập thể AH, 55 người ở chung một phòng, 3 tháng một lần được gia đình gửi thức ăn vào nuôi, một năm một lần được thân nhân vào thăm gặp 15 phút. Lần thăm gặp đầu tiên, lòng tôi rộn rã nhưng vẻ mặt thì cố giữ bình thản, chuẩn bị tinh thần để đón nhận tình huống bất lợi nhất. Gia đình có còn đông đủ, hay xiêu lạc mỗi người một nơi? Liễu Chương đài, cành dài có còn chốn cũ hay đã chuyền vào tay ai rồi? Chúng tôi mỗi người được bố trí vào một ô "chuồng chim", có cán bộ đứng sau lưng, gia đình đứng trước mặt, ngăn cách bởi một tấm lưới thưa mắt cáo bằng kim loại. Vợ tôi "mười phần xuân cũng đã gầy năm bảy phần", duy đôi mắt thì lại long lanh láng mướt như ngày còn con gái. Các con tôi, đứa nào cũng gầy, và có lớn hơn chút đỉnh so với ngày tôi xa chúng. Riêng đứa con nhỏ nhất thì lớn phỗng và xinh xắn lạ thường, tôi cơ hồ không nhận ra. Nó cũng e sợ nhìn tôi như nhìn người lạ. Ngày tôi xa nhà, nó chỉ mới biết đi chập chững. Trông quanh không thấy còn đứa bé nào khác, hỏi ra mới biết vợ tôi đã bị sẩy thai, đứa con trông đợi đã không được làm người. Trông nét mặt vợ tôi có vẻ hờn dỗi, tôi nghĩ là vợ tôi còn oán hận tôi đã nhận định chủ quan khiến cho toàn bộ gia đình bị kẹt lại, chịu cảnh đắng cay cơ cực như thế này. Lúc tôi động viên các con hãy cố gắng học hành, vợ tôi đã gay gắt: "Anh đừng có nói chuyện học nữa, tụi con mình bây giờ là tính chuyện đi cày". Biết vợ đang giận, tôi không nói gì. Tôi thừa nhận là tại vì mình tính sai nước cờ mà vợ con mang lụy, nên bị vợ giận tôi đành chịu trận vậy. Nhưng tôi đã lầm. Sau này tôi mới biết là vợ tôi không giận tôi về chuyện cả nhà vì tôi mà bị kẹt lại, mà giận tôi là vì chuyện lá thư tôi viết gửi về nhà năm trước khuyên nhủ vợ tôi nếu hoàn cảnh bắt buộc thì hãy lấy chồng khác để nuôi con, và thái độ lạnh nhạt của tôi khi được ra thăm nuôi lần đầu, được gặp mặt vợ con sau hai năm trời bặt tăm âm tín. Vợ tôi đã trách tôi là trong lúc ai ai cũng hớn hở tươi cười gặp gỡ gia đình mà tôi lại mang bộ mặt xa lạ thản nhiên như đối với người dưng nước lã. Vợ tôi đâu có biết là con người tôi lúc đó bên ngoài trơ trơ như gỗ đá nhưng bên trong thì tình cảm sôi sục như dầu sôi lửa bỏng. Vợ tôi đâu có biết cùng với việc chuẩn bị tinh thần, tôi cũng cần có tư thế thích nghi để phù hợp với những tình huống khó khăn, cay đắng, để tránh đột ngột bị bẽ bàng.

May mắn cho tôi là đã không xảy ra chuyện gì đắng cay bẽ bàng cả. Từ đó, cứ ba tháng một lần, chúng tôi được viết thư về nhà, thư không được viết quá một trang giấy học trò, nội dung gồm 3 phần: báo tin sức khoẻ, thăm hỏi vợ con, và liệt kê nhu cầu. Thư ấy được cán bộ phòng, cán bộ khu duyệt xét xong, chuyển cho cán bộ giáo dục đóng dấu "Được phép thăm nuôi" lên phong bì, và được gửi về cho gia đình tù nhân. Người nhà đem phong bì có đóng dấu ra cơ quan phường để xin phép, chạy tiền chạy gạo sửa soạn thức ăn, rồi mang vào Chí hoà giao cho cán bộ thăm nuôi soát xét, xong chuyển lại cho tù nhân. Các giỏ "quà tiếp tế"này là lẽ sống của tù nhân, vì cơm trong tù đã kém cả phẩm lẫn lượng lại còn độn khoai sắn, bột mì, bo bo, thức ăn trong tù thì ngoài những ngày tư ngày tết chỉ gồm giản đơn có nước muối pha loãng mà thôi. Không có quà tiếp tế của gia đình thì tù nhân sẽ chết dần chết mòn vì các chứng bệnh thiếu dinh dưỡng và thiếu sức đề kháng. Nhưng mặt khác, các giỏ quà tiếp tế lại là những gánh nặng cho những thân cò lặn lội đi thăm nuôi chồng con. Thư tù nhân gửi về nhà như là những giấy đòi nợ. Thực phẩm thì khan hiếm, đắt đỏ, phải mua chui, mua rúc ở thị trường đen. Đối với phần đông các bà mẹ, bà vợ, lại còn vấn đề phải xoay xở tiền nong, cả nhà phải nhịn ăn nhịn uống hàng tháng mới đủ tiền sắm sửa một giỏ quà đi thăm nuôi. Lại còn vấn đề "lễ tiết" đối với cán bộ trại giam, cán bộ phường xã, thưa gửi phải ngọt ngào, thái độ phải cung kính. Làm sao nói cho hết được nỗi niềm đắng cay cơ cực của những ai đã từng vì tình yêu và nghĩa vụ đối với chồng con mà cam tâm chấp nhận làm thân cò.

Thư tù nhân gửi về nhà đã có khuôn mẫu, ai không theo đúng sẽ biết ngay hậu quả. Gặp lúc được phép viết thư nhằm vào dịp kỷ niệm ngày cưới, tôi đã gửi tặng vợ mấy câu thơ gọi là "cho có chút tình", thay cho tờ giấy thăm hỏi và liệt kê nhu cầu tẻ nhạt:
           
            Ta nhớ kinh kỳ ngày đầu thu năm ấy,
            Đường Lê Thái Tổ rải hoa nắng lung linh.
            Bím tóc đong đưa xuôi bờ vai nhún nhẩy,
            Theo bước chân em, lòng ta rợn ngợp men tình.

            Ta nhớ kinh kỳ ngày Nguyên tiêu năm ấy,
            Đường Nam giao in bóng hai ta theo mẹ lên chùa.
            Hồn ta chơi vơi theo làn gió xuân hây hẩy,
            Chuyện yêu thương, nói mấy cũng chưa vừa.

            Ta nhớ kinh kỳ đêm cuối hè năm ấy,
            Hiên nhà em lặng nghe hai ta thủ thỉ chuyện tâm tình.
            Tay trong tay, vai kề vai, môi tìm môi run rẫy.
            Trời trong, sao sáng, đêm quê hương như đồng lõa với chúng mình.

            Bao nhiêu năm rồi, tình ta không mảy may thay đổi,
            Yêu em, ta vẫn yêu tha thiết như thuở ban đầu.
            Đời hai ta như keo sơn gắn liền thành một khối
            Không thể chia lìa, mãi mãi đến muôn vạn ngày sau.
                                                            (Kỷ niệm ngày cưới)

Đương nhiên là vợ tôi đã không nhận được bài thơ và tôi đã phải chịu "đói" 6 tháng. Những ai đã từng bị đói mới thấm thía trọn vẹn ý nghĩa cuộc đời. Ngày trước, Khái Hưng có viết một truyện ngắn diễn tả tâm trạng con người bị cái đói dằn vặt, nhưng những điều Khái Hưng viết ra chẳng thấm vào đâu so với thực tế phũ phàng mà các tù nhân cải tạo đã phải đối đầu trong các trại giam do cái đói mà ra. Có đói mới hiểu vì sao dân quê ta có đầu óc xôi thịt. Có đói mới hiểu vì sao nhiều người lại cam tâm làm những việc hèn hạ. Khi người ta bị cái đói ngày đêm dằn vặt, có lẽ trong đầu ai cũng như ai, ai cũng nghĩ tới cái ăn, ai cũng ao ước được ăn. Cái khác nhau là hành vi, là thái độ biểu hiện bên ngoài. Mà điều này là do giáo dục gia đình, và khuôn phép xã hội, đã uốn nắn, đã rèn dũa, đã tích lũy từ rất nhiều năm tháng trước đó, đã ẩn sâu, đã dấu kín trong tiềm thức, để giờ đây giúp cho con người đang bị cái đói hành hạ có thể vận dụng được lý trí đè bẹp bản năng đấy mà thôi.

Hết hè lại sang thu. Nghĩ đến chuyện về, đường đi chỉ là mộng mị, mờ mịt lắm. Vợ con biết ngày nào được gặp mặt đây. Tường đá, nền xi măng lạnh lẽo, chăn đơn gối chiếc phong phanh. Qua chấn song sắt, đêm khuya đối cảnh trăng chiếu sương sa, người nhậy cảm tránh sao khỏi động lòng:

            Sương giáng lâu tiền liễm nguyệt quang,
            Tư qui, mộng nhiễu lộ man man.
            Thê nhi tái kiến tri hà nhật?
            Truờng dạ cô miên chẩm bị hàn.

Đến Tết năm sau, chúng tôi lại được gặp mặt gia đình. Lần này thì trại không tổ chức thăm gặp ở địa điểm chuồng chim khó kiểm soát, mà tổ chức trong các phòng nhỏ thường ngày dùng để hỏi cung. Mỗi phòng tùy theo kích thước mà được dành cho một hoặc hai gia đình. Trong phòng kê một chiếc bàn, hai bên là hai chiếc ghế dài, một bên dành cho tù nhân ngồi, bên kia dành cho thân nhân ngồi đối mặt; đầu bàn kê chiếc ghế gỗ là chỗ của cán bộ. Mọi người nói chuyện phải nói thật lớn để cán bộ theo dõi nghe cho rõ. Hai tay tù nhân cũng như của thân nhân phải được đặt trên bàn. Thời gian gặp gỡ là 15 phút. Xong là nhận quà và chia tay. Trời hôm đó âm u, buồn chi lạ. Vợ tôi xanh xao, gầy gò; các con tôi hom hem, đen đủi. Giờ phút chia ly, vợ tôi khóc như mưa. Tôi an ủi vợ mà không biết đã nói những gì, vì không được phép nói nhiều và phải nói lớn tiếng để mọi người cùng được nghe. Tôi đã viết tối hôm đó:

            Ngày gặp mặt cuối năm,
            Ta nom em gầy gò ốm yếu.
            Em nói với ta những lời hiền dịu,
            Ta thương em ruột quặn tơ tằm.
            Được gặp nhau một khắc,
            Đã đến rồi cái phút thứ mười lăm!
            Ủ tay con chưa ấm,
            Nhìn mặt vợ đăm đăm,
            Ta lại phải trở về nơi có những hàng song sắt.
            Trời cuối năm hiu hắt,
            Thoáng đâu đây cánh én lạc đàn.
            Râm ran lời giã biệt.
            Nắm tay em, ta nghe tiếng lòng em thảm thiết.
            Nước mắt em buồn lả chả tuôn rơi.
            Sầu thương chi lắm em ơi!
            Vật đổi sao dời,
            Ai tránh khỏi cảnh hồng nam nhạn bắc.
            Sông có khúc, người có lúc.
            "Hoan bi ưu lạc điệt vãng lai,
            "Nhất vinh nhất tạ hoàn tương tục.*
            Hẹn em ngày tái hợp.
            Nắng xuân hồng, nắng ấm, xuân tươi.
                                                (Thăm gặp cuối năm)

Qua các buổi thăm gặp định kỳ ngắn ngủi đó, tôi cũng biết được phần nào cuộc sống của vợ con ở nhà. Tôi và vợ tôi đã trao đổi với nhau bằng những ngôn từ chỉ riêng hai chúng tôi hiểu mà thôi. Trong lúc tôi ngày ăn hai bữa rồi nằm yên một xó trong khám Chí hoà thì vợ tôi đã phải đương đầu với bao nhiêu sóng gió bão bùng. Trong năm 1977, gia đình tôi được xếp vào loại "dãn dân", phải chuẩn bị đi kinh tế mới. Tổ dân phố, Phân hội Phụ nữ, Công an Khu vực, Cán bộ Phường, Cán bộ Quận, lần lượt đến động viên gia đình tôi đi kinh tế mới, đi sớm khai phá sớm, đi sớm thu hoạch sớm, đi sớm thắng lợi sớm, đi sớm chồng được tha về sớm. Vợ tôi cứ gan lỳ bám trụ. Hết động viên đến hăm doạ, vợ tôi cũng không nao núng, cứ một mực xin thả chồng về rồi sẽ đi kinh tế mới. Bị thúc bách quá mức, vợ tôi đâm liều, xin cán bộ cho mấy mẹ con mỗi người một viên đạn. Cuối cùng rồi cũng thôi. Lại thêm con trai lớn không được thi vào đại học, con trai nhỏ không được vào lớp 10. Qua năm 1978, con trai lớn "trúng tuyển" nghĩa vụ quân sự, Phân hội Phụ nữ, Tổ dân phố đến chúc mừng. Kỳ thực thì con tôi bị cưỡng bức đi thanh niên xung phong, đưa lên tập trung ở nông trường Lê Minh Xuân, chuẩn bị sang Campuchia lao động chiến trường, tải gạo tải đạn. Vợ tôi đã tổ chức cho con trốn trại, đưa lên Thủ Ðức ẩn náu mấy tháng rồi vượt biên trốn ra nước ngoài. Cũng cùng thời gian này, vợ tôi cho đứa con trai không được vào lớp 10 vượt biên đi Mỹ, và gả chồng cho con gái lớn, rồi đầu năm 1979 cho cả hai vợ chồng vượt biên đi Canada. Qua năm 1980, đến lượt hai đứa con gái tiếp theo vượt biên đi Mỹ. Mỗi năm vào thăm gặp, gia đình tôi cứ ít người dần dần. Để giải thích sự kiện đó, tôi đã nói cho mọi người biết là hai con trai lớn ra Thuận Hải làm garage, con gái lớn lấy chồng trên Đà Lạt, hai đứa con gái tiếp theo thì cho ra Tuy Hòa ở với chị tôi. Anh chị tôi ngoài Tuy Hòa không có con nên nhận nuôi hai cháu. Mọi người đều tin lời tôi, không ai thấy có gì là bất thường trong việc sắp xếp như vậy. Mãi cho đến cuối năm 1982, khi chúng tôi bị chuyển ra trại trừng giới Xuân Phước ở Phú Khánh, tôi thấy không cần phải dấu diếm nữa, mọi người mới biết sự thực và các bạn tù đã tíu tít chia vui với tôi, đồng thời khen ngợi vợ tôi không tiếc lời. Phần tôi, ngày truớc thấy vợ thụ động, mọi chuyện nhất nhất đều tùy thuộc vào mình nên không biết được tài tháo vát của vợ, tôi đã lo lắng băn khoăn không biết vợ tôi sẽ xoay trở ra sao trước sóng gió của cuộc đổi đời. Nay thì quả tình tôi thấy người phụ nữ Việt Nam thật là tuyệt vời về cả hai khía cạnh đức hạnh và tài năng:

            Ngày xưa,
            Anh ví anh như mây mùa thu,
            Anh xem em như khói trong lò.
            Nay mây mùa thu thôi không bay,
            Khói trong lò thoát ra thay vào đó.
            Em thay anh nuôi đàn con nhỏ.
            Không có em, ai nuôi dạy chúng nó nên người.
            Yêu em nhiều, và cảm phục em lắm em ơi.

Tôi và vợ tôi đã tính toán với nhau là vợ tôi cùng ba đứa con nhỏ còn lại sẽ vượt biên vào cuối năm 1980. Tôi đã đổi địa chỉ viết thư thăm nuôi gần cả năm trời. Vợ tôi cũng đã đóng lộ phí vượt biên cho chủ tàu. Thế mà, chỉ còn năm hôm nữa lên đường, vợ tôi lại đổi ý. Vợ tôi không nỡ bỏ tôi mà đi. Vợ tôi thu xếp cho hai đứa con kế tiếp vượt biên đi Mỹ, còn vợ tôi cùng con gái út tiếp tục ở lại Việt Nam chờ ngày tôi về. Dạo đó, ngày về còn xa lắc xa lơ. Tôi còn bị chuyển trại mấy lần nữa, hết A30A, A30B, A30C Xuân Phước đến Z30A Xuân Lộc, trải qua đủ mọi giai đoạn của qui chế cải tạo tập trung, từ biệt giam, kiên giam, đến lao động cải tạo rồi lao động tự giác. Thế là, cứ ba tháng một lần, năm này qua năm khác, "cây khiêng và chiếc giỏ", vợ tôi tiếp tục lặn lội đi nuôi chồng. Cháu tôi cảm thương cho người con gái học trò năm nào giờ đây mang kiếp thân cò, đã tặng thím bài thơ Lối nào đi thăm anh", tôi chép lại ở đây để thay lời kết:
           
            Giòng đời cuồn cuộn chảy
            Nắng mai đã dậy rồi
            Lối nào đi thăm nuôi.
            Xích lô. Cầu Công lý.
            Còn thiết gì hoa mỹ,
            Điệu buồn trên nét mi
            Niềm vui tươi nụ cười.
            Cây khiêng và chiếc giỏ
            Trọn tình trao anh đó
            Chắt chiu bàn tay em
            Còn thức nào mang thêm?
Phố phường hờ hững quá,
            Riêng em buồn chi lạ.
            Hàng cây dài chia vui,
            Thương cho ai ngậm ngùi.
            Cầm thư anh, suy nghĩ.
            Nhớ về thư ngỏ ý
            Nét chữ hiền, thương nhau
            Bâng khuâng nụ hôn đầu.
            Em không nhìn thiên hạ,
            Gặp anh là tất cả.
            Như ngày xưa học trò
            Bài thuộc vẫn còn lo.
            Thăm nuôi giờ cũng thế
            Ngại còn chi khó dễ
            Cho tương biệt cơ cầu
            Xa cách vợ chồng ngâu...
            Bước qua lòng cổng nhỏ
            Anh mang niềm thương nhớ.
            Gặp anh, gặp anh rồi...
            Lát nữa về chia phôi
            Cô đơn mềm vai áo.
            Nhớ anh, em thầm bảo
            Nắng giữa trời lên cao
            Tình ta vẫn ngọt ngào...
                        (Lối nào đi thăm anh. 9/82)

Ottawa, tháng sáu, 1996
Minh Vũ Hồ Văn Châm

Chú thích:
*Hai câu này của Nguyễn Trải.


















 






Hồ Lãng Bạc

Có Phải Là Hồ Tây Không?





           
             Người Việt Nam có học, và ít nhiều quan tâm tới lịch sử nước nhà, không mấy ai lại không biết Hồ Lãng Bạc là nơi Hai Bà Trưng đánh nhau với Mã Viện. Nhưng Hồ Lãng Bạc ở đâu thì từ trước đến nay, rất hiếm người đặt vấn đề để tìm hiểu thêm, ngõ hầu xác định vị trí đích thực của địa danh lịch sử nổi tiếng đó.

            Thư tịch cũ của ta đều nói rằng Hồ Lãng Bạc là Hồ Tây ở Hà Nội. Mãi đến gần đây, nhiều nhà biên khảo vẫn còn viết rằng Hồ Tây còn có tên là Hồ Lãng Bạc. Họ trích dẫn thi ca của các nhà nho ngày trước :

Phan Mạnh Danh :
            Hồ Lãng Bạc, đất Long Thành,
            So cùng Bành Lãi, Động Đình kém đâu.
            Cuộc đời nay bể mai dâu,
            Mà hồ kia vẫn còn sâu mấy trùng.
            Bốn bề khói nước mênh mông,
            Đôi bên sông Nhị, non Nùng bao la.


 Hoàng Cao Khải :
            Tượng đá trời Nam trải tuyết sương,
            Nghìn năm công đức nhớ Trưng Vương.
            Tham tàn trách bởi quân gây biến,
            Oanh liệt khen cho gái dị thường.
            Liều với non sông hai má phấn,
            Cùng nhau nòi giống một da vàng.
            Cột đồng Đông Hán tìm đâu thấy?
            Chỉ thấy Tây Hồ bóng nước gương.

Lê Ngô Cát :
            Chị em nặng một lời nguyền,
            Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.    
            Ngàn tây nổi áng phong trần
            Ầm ầm binh mã tiến gần Long Biên.
            Uy danh động đến Bắc phương,
            Hán sai Mã Viện lên đường tiến công.
            Hồ Tây đua sức vẫy vùng,
            Nữ nhi sánh với anh hùng được nao!
            Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo,
            Chị em thất thế phải liều với sông.

            Sự thực như thế nào? Hồ Lãng Bạc có phải là Hồ Tây hay không? Mà Hồ Lãng Bạc có thể nào là Hồ Tây được không? Nếu Hồ Lãng Bạc không phải là Hồ Tây thì Hồ Lãng Bạc ở đâu?

            Sách Hậu Hán Thư của Trung Quốc chép rằng về đầu đời Đông Hán, quận Giao Chỉ làm phản, vua Hán Quang Vũ sai Phục Ba Tướng Quân Mã Viện mang quân sang đánh dẹp. Mã Viện đem quân vào Giao Chỉ theo đường bộ qua Quỷ Môn quan, đến Lãng Bạc thì gặp sự kháng cự mãnh liệt của nghĩa quân Hai Bà Trưng. Sách Hậu Hán Thư chép rằng quân hai bên chống nhau ở Lãng Bạc dằng co cả năm trời, khiến Mã Viện lo lắng buồn phiền, nhớ tới lời khuyên của em trai là Thiếu Du ngày trước khuyên Mã Viện không nên xông pha gian khổ, cứ ở nhà cho nhàn nhã tấm thân, và Mã Viện đã cười mà trả lời em rằng :"Làm tài trai phải xông pha nơi chiến trận, lấy da ngựa bọc thây, chứ sao lại ru rú ở xó nhà để chịu chết trong cánh tay đàn bà". Nay việc quân không lợi, Mã Viện lo lắng buồn phiền, ngày ngày nhìn đàn cò bay là là trên mặt nước hồ mà đôi lúc thấy hối hận đã không nghe lời em.

            Sách Tàu chỉ nói vắn tắt có vậy, rằng hai bên đã đánh nhau dằng co và quyết liệt ở vùng Hồ Lãng Bạc. Kịp đến lúc nước ta dựng nền tự chủ, quốc thống được xây dựng lùi về mấy thiên niên kỷ, rồi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ra đời mở đường cho các sách sử đời sau nhấn mạnh đến nguồn gốc Tiên Rồng, thì Hồ Lãng Bạc nói trong Hậu Hán Thư bỗng dưng trở thành Hồ Tây trong thư tịch của ta. Nguyên do là vì các nhà viết sử mở đường, thảng hoặc phạm sai sót như khi chép y nguyên truyền thuyết nói rằng Họ Hồng Bàng làm vua được hai nghìn năm, truyền được 18 đời*, thành thử có điều không hợp lý là bình quân mỗi đời vua kéo dài đến 130 năm; cũng như không chịu khổ công suy nghĩ, không chịu nghiên cứu thực địa, nên khi dẫn chứng thư tịch Trung Quốc, thấy sách Tàu chép hai bên đánh nhau ở vùng Hồ Lãng Bạc, nhìn trước nhìn sau chẳng thấy cái hồ nào rộng lớn ngoài cái Hồ Tây ngay sát kinh thành, đã vội vàng suy diễn một cách võ đoán rằng Hồ Lãng Bạc nói trong Hậu Hán Thư chính là Hồ Tây. Và cứ thế, cứ thế, người này trích dẫn thơ văn trước tác của người kia, hết lớp cựu học đến lớp tây học, cái lầm của một người trở thành cái lầm của nhiều người, rồi vì lẽ không ai chịu khó suy nghĩ đặt lại vấn đề, nên rút cục mọi người đã tin vào một đìều không đúng sự thực là "Hồ Tây còn có tên là Hồ Lãng Bạc".

            Tận tín thư bất như vô thư, mù quáng tin vào sách thì thà không có sách còn hơn. Nay ta hãy gột bỏ cái tinh thần trích cú tầm chương cố hữu, mà hãy tỉnh táo lấy con mắt của người phân tích tình hình quân sự để phác họa đường lối công thủ của cả hai phe, phe xâm lược Mã Viện và phe kháng chiến Hai Bà Trưng, để xác định trận đánh dằng co và quyết liệt ở vùng Hồ Lãng Bạc nói trong Hậu Hán Thư có thể xẩy ra ở vùng Hồ Tây Hà Nội ngày nay được hay không.
           
            Điều đáng lưu ý là cho đến đời Đông Hán, phủ lỵ của quận Giao Chỉ là Luy Lâu, sau đổi tên thành Long Uyên hoặc Long Biên, ở vùng Bắc Ninh ngày nay, tức là ở bờ bắc sông Nhĩ Hà. Về sau này, hết đời Đông Hán, trải qua các triều đại Đông Ngô, Tấn, Nam Bắc Triều, Giao Chỉ Bộ đổi thành Giao Châu, rồi Giao Châu chia thành Giao Châu và Quảng Châu, phủ lỵ quận Giao Chỉ vẫn ở bên bờ bắc sông Nhĩ Hà. Đến đời Tùy, vào năm 607, phủ lỵ quận Giao Chỉ mới dời qua bờ nam sông Nhĩ Hà, ở vùng Hà Nội ngày nay, và gọi là Tống Bình. Về sau, nhà Đường đổi Tống Bình thành Đại La. Vậy, vào thời điểm Hai Bà Trưng khởi nghĩa, bản doanh của Thái Thú Tô Định là Long Biên, ở Thuận Thành, vùng Bắc Ninh ngày nay, nằm trên phần đất phía bắc sông Hồng. Hai Bà Trưng dấy nghĩa ở quê nhà là Mê Linh; sau khi đánh đuổi Tô Định, thu dụng các thủ lĩnh nghĩa quân Cửu Chân và Hợp Phố, Hai Bà đóng đô ở Phong Châu, thuộc vùng Phú Thọ ngày nay, cũng nằm trên phần đất phía bắc sông Hồng.

            Như vậy, chiến tranh nổi dậy đánh đuổi Tô Định, từ điểm xuất phát cho tới lúc thành công, là hoàn toàn đã xẩy ra ở bờ bắc sông Hồng. Còn chiến tranh chống cự Mã Viện thì sao? Đặc biệt là trận đánh quyết định ở Hồ Lãng Bạc nói trong Hậu Hán Thư, trận đánh này đã xẩy ra ở đâu, có thể nào ở trên phần đất bờ nam sông Hồng được không?

            Ta hãy bắt đầu bằng việc phân tích chiến lược tiến công của Mã Viện. Quân Mã Viện là quân đi bộ (bộ binh) và quân cưỡi ngựa (kỵ binh), tiến vào Giao Chỉ qua ngã Quỷ Môn quan. Mục tiêu tiến công là Long Biên (Bắc Ninh) và Phong Châu (Phú Thọ). Chiếm đóng được Long Biên là phủ lỵ quận Giao Chỉ, và Phong Châu là căn cứ chủ yếu của nghĩa quân, là việc bình định xem như căn bản đã hoàn tất. Quân nổi dậy ở Hợp Phố, ở Cửu Chân tự nhiên sẽ tan rã. Như vậy, đường tiến quân của Mã Viện lúc đầu là con đường từ biên giới Hoa-Việt men sông Kỳ Cùng để vào vùng Lạng Sơn, rồi theo lưu vực sông Thương, sông Cầu, xuyên qua Bắc Cạn, Bắc Giang, Thái Nguyên để đến Bắc Ninh và Vĩnh Phú. Mã Viện không có thủy quân nên ngoài con đường nói trên không còn có con đường tiến quân nào khác. Mã Viện không có phương tiện để tiến công Long Biên và Phong Châu từ phía đông, cũng như không thể nào có khả năng đánh vu hồi bằng cách đổ quân vào mạn nam sông Hồng để tiến ngược lên phía bắc. Nói tóm lại, Mã Viện đã tiến hành chiến dịch bình định nghĩa quân Hai Bà Trưng hoàn toàn ở phần đất phía bắc sông Hồng. Mãi sau khi thắng trận Cấm Khê (vùng Vĩnh Phú ngày nay), cơ bản nghiền nát cuộc kháng chiến của nghĩa quân, và thủ lĩnh nghĩa quân là Hai Bà Trưng đã bị bắt giết, Mã Viện mới đem quân vượt sông Hồng sang bờ nam để tiến vào bình định Cửu Chân. Trên phần đất phía nam sông Hồng đã không xẩy ra chiến trận nào đáng kể ngoại trừ trận đánh tại huyện Cư Phong ở tít tận trong vùng Thanh Hóa ngày nay. Sử chép rằng Hợp Phố không đánh đã hàng nên sau trận Cư Phong, việc bình định phiến loạn ở Lĩnh Nam xem như hoàn tất, Mã Viện quay binh trở về**.

            Về phía Hai Bà Trưng, sau khi đánh đuổi Thái Thú Tô Định chạy khỏi Long Biên và thu phục bốn mươi lăm thành, từ Hợp Phố đến Cửu Chân, Hai Bà lên ngôi vua, đóng đô ở Phong Châu. Lãnh thổ dưới quyền cai trị của Hai Bà là vùng Bắc Việt ngày nay, phía bắc bao gồm cả Nam Quảng Đông, phía nam vào tận Thanh Hóa. Tuy nhiên, ta cần lưu ý là chính quyền của Hai Bà không phải là chế độ trung ương tập quyền, và bốn mươi lăm thành dưới quyền cai trị của Hai Bà thực ra chỉ là bốn mươi lăm điểm thị tứ; tại mỗi điểm thị tứ ấy, dân chúng quần tụ dưới quyền của một Lạc Hầu. Thực vậy, chính quyền đô hộ cho tới đầu đời Đông Hán là chế độ "ki mi", tức là vẫn còn Lạc Hầu trực tiếp cai trị dân, làm trung gian giữa dân và chính quyền đô hộ. Kịp đến lúc Hai Bà Trưng lên làm vua, các Lạc Hầu thủ lãnh của bốn mươi lăm thành lại tiếp tục làm trung gian giữa dân và chính quyền nổi dậy. Nay Mã Viện theo lệnh vua Hán kéo quân sang, để chống cự lại, Hai Bà trước hết phải trông cậy vào quân bản bộ Phong Châu, hiện một phần đang trấn thủ kinh đô, một phần đang chiếm đóng phủ thành đô hộ. Như vậy, hai cứ điểm quân sự trọng yếu của nghĩa quân Hai Bà lúc bấy giờ là Phong Châu và Long Biên, hoàn toàn ở bờ bắc sông Hồng. Quân Mã Viện từ biên giới phía bắc tràn xuống, Hai Bà đương nhiên phải đưa quân lên phía bắc đón đánh. Không thể có một lý do gì lúc bấy giờ khiến Hai Bà lại đưa quân xuống phía nam, vượt qua sông Hồng để dàn trận phòng ngự ở vùng Hồ Tây.

            Việc phân tích chiến lược tiến công của quân Mã Viện cũng như chiến lược phòng ngự của nghĩa quân Hai Bà Trưng đã cho thấy rõ là chiến tranh giữa hai bên hoàn toàn xẩy ra ở mạn bắc sông Hồng. Trận đánh quyết định ở vùng Hồ Lãng Bạc nói trong sách Hậu Hán Thư của Trung Quốc, như vậy là đã xẩy ra trong phần đất phía bắc sông Hồng. Nói một cách khác, Hồ Lãng Bạc có vị trí địa lý đích thực là ở phía bắc sông Hồng, và như vậy, Hồ Lãng Bạc không thể nào lại là Hồ Tây ở Hà Nội có vị trí địa lý ở bờ nam sông Hồng. Tóm lại, Hồ Lãng Bạc trong Hậu Hán Thư không phải là Hồ Tây ngày nay ở Hà Nội. Và Hồ Tây ngày nay càng không thể vào thời Trưng Vương còn có tên là Hồ Lãng Bạc.
           
            Vậy thì Hồ Lãng Bạc ở đâu?

            Hậu Hán Thư đã ghi rõ là quân tiến công của Mã Viện gặp phải sự chống trả quyết liệt của nghĩa quân Hai Bà Trưng tại vùng Hồ Lãng Bạc. Hai bên dằng co bất phân thắng phụ gần cả năm trời, khiến cho viên tư lệnh bách chiến Phục Ba Tướng Quân của Đông Hán phải lo lắng buồn phiền. Như vậy, trận Hồ Lãng Bạc đã xẩy ra khi nghĩa quân của Hai Bà Trưng còn đầy đủ thực lực, quân Mã Viện chỉ mới phạm vào bờ cõi Giao Chỉ, chưa tiến sâu vào nội địa, chưa chiếm đóng được Long Biên và Phong Châu. Từ đó, ta có thể rút ra hệ luận là Hồ Lãng Bạc phải nằm trên đường tiến quân của Mã Viện, khởi đầu từ vùng phân ranh Hợp Phố với Giao Chỉ, tức là biên giới Hoa-Việt ở vùng ven biển ngày nay, hướng đến các mục tiêu chủ yếu là Long Biên, phủ lỵ quận Giao Chỉ, tức là Bắc Ninh ngày nay, và Phong Châu, kinh đô của Hai Bà Trưng, tức là Phú Thọ ngày nay. Đối chiếu với bản đồ miền bắc nước ta, đường tiến quân của Mã Viện ngày ấy chạy dài qua địa phận các vùng Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Bắc Giang, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Vĩnh Phú, theo dọc lưu vực sông Thương, sông Cầu, và miền phụ cận. Và Hồ Lãng Bạc nói trong sách Hậu Hán Thư của Trung Quốc, nơi xẩy ra trận đánh quyết liệt giữa quân xâm lược Mã Viện và nghĩa quân Hai Bà Trưng ngày ấy, là một trong những cái hồ nằm dọc đường tiến quân của Mã Viện, tại miền Việt Bắc nước ta. Tất nhiên là lúc nào cũng cần phải có thêm các cuộc nghiên cứu thực địa bổ túc để khẳng định các thành quả nghiên cứu lý luận. Nhưng ngay từ bây giờ, ta đã có thể dứt bỏ sự nhận định sai lạc bấy lâu về vị trí của địa danh lịch sử này để tránh cho lớp người đi sau khỏi phải lầm lạc tin vào một điều không đúng sự thực.

            Tóm lại, Hồ Lãng Bạc nói trong Hậu Hán Thư không phải là Hồ Tây ở Hà Nội mà ở trên miền Việt Bắc nước ta.                                                                               

                                         Ottawa, tháng mười năm 1996

                                              Minh Vũ Hồ Văn Châm




Chú giải:

* Về truyền thuyết Tiên Rồng, cần tiếp thụ chính xác và diễn giải hợp lý hơn; phải nói rằng Kỷ nguyên Hồng Bàng (thay vì nói Họ Hồng Bàng) kéo dài hai nghìn năm, có đến 18 triều đại (hoặc 18 thị tộc) tiếp nối nhau làm vua (thay vì nói truyền được 18 đời).

** Theo Bình nguyên Lộc thì sau trận Cư Phong, Mã Viện đã bí mật đưa quân xuống sâu phía nam, vào tận huyện Tượng Lâm, lập đồn binh ở chân núi mặt nam Hải Vân ngày nay để thu mua chu sa, chở về bắc cho triều đình Đông Hán luyện vàng. Việc buôn bán này phát sinh những khoản lợi nhuận khổng lồ nên sử Tàu có nói đến chuyện một viên quan tại triều tình nguyện giã từ kinh đô Lạc Dương để làm biện lại trông nom thương điếm biên ải heo hút này.

           




















Góp Ý Về Bài

Tiếng Chuông Thiên Mụ

               Của Lê Dư Khương


Ngày 16 tháng 6 năm 1997

Kính gửi Ban Biên Tập Tập san Y Sĩ
6338  Đường Victoria, Suite # 6
Montréal, Québec, Canada H3W 2S5

Thưa Ban Biên Tập,

Tôi xin đóng góp vài ý kiến về bài "Tiếng Chuông Thiên Mụ" của Lê Dư Khương đăng trên Tập san Y Sĩ số 135 tháng 5/97.

            1.  Việc viện dẫn sách Tục Ngữ Phong Dao của Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc ấn hành năm 1928 không có các câu "Gió đưa cành trúc la đà" hoặc "Phất phơ ngọn trúc trăng tà" để chứng minh rằng vào thời điểm này ở vùng Huế chưa lưu hành câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương", là không có giá trị thuyết phục. Thực vậy, tự cổ chí kim, không có tác phẩm nào có thể đề cập đến tất cả mọi sự kiện để có thể dùng chứng minh rằng không đề cập đến trong tác phẩm đó có nghĩa là đã không hề xảy ra, không hề hiện hữu, không hề tồn tại. Hơn nữa, căn cứ vào dữ kiện này để suy luận rằng vào cuối thập niên 20, những câu thơ nêu trên chưa được xem như ca dao, vậy thì nhất thiết phải đặt vấn đề "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương" chưa phải là ca dao mà là thơ Dương Khuê, thì "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương"chưa phải là ca dao mà vẫn còn là thơ thì là thơ của ai vậy?

            2.  Việc viện dẫn các bạn người Huế bảo cho biết rằng bên kia sông Hương, đối diện với chùa Thiên Mụ, chỉ có làng Nguyệt Biều, để chứng minh rằng ở bên đó xưa nay không hề có các địa danh Thọ Khang, Thọ Khương, Thọ Xương, là không có giá trị thuyết phục. Thực vậy, người không quan tâm đến sử học thì chỉ biết địa danh hiện tại mà không chú ý đến các tên cũ trước đây. Chẳng hạn, người dân làng quê tôi ở phía bắc Thừa Thiên chỉ biết có Xóm Hội Phước Tích, chứ không hề biết rằng đó là Trạm Hoàng Giang nói trong sách Hoàng Lê Nhất Thống Chí, nơi Thái Sư Bùi Đắc Tuyên lưu đày Trung Thư Lệnh Trần Văn Kỷ ra đó chăn ngựa, cắt cỏ. Người dân Hà Nội, nếu không thông thạo lịch sử, mấy ai đã biết trước kia, ngoài các tên Đông Đô, Thăng Long, Đại La, Hà Nội còn có các tên Bắc Thành, Đông Quan, Tống Bình. Như vậy, người dân Huế nào không quan tâm đến sử học, không tìm đọc Đại Nam Nhất Thống Chí, I: Kinh Sư, thì có thể không biết rằng:" Ở xã Nguyệt Biều, cách sông tương đối gò Thiên Mụ, là gò Long Thọ, tên cũ thời các chúa Nguyễn là Thọ Khang (Thọ Khương), đầu đời Gia Long đổi tên làm Thọ Xương, niên hiệu Minh Mạng thứ năm (1824) lại đổi làm Long Thọ Cương."

            3.  Văn Đàn Bảo Giám do Văn Học Tùng Thư ấn hành cũng như Việt Nam Phong Cảnh Qua Thi Ca của Phan Phong Linh biên soạn đều khẳng định bài thơ "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương. Mịt  mù khói tỏa ngàn sương, Nhịp chày An Thái, mặt gương Tây Hồ" là của Dương Khuê. Ngược lại, Thái Văn Kiểm trong bài "Hồi Chuông Thiên Mụ" đăng trên Làng Văn Magazine, Vol. 2, số 20, April 1986, lại phân vân do dự, một mặt nhắc đến tác phẩm của Phan Phong Linh cho rằng đó là thơ Dương Khuê, mặt khác lại ước đoán rằng có lẽ nguyên sơ chỉ có hai câu đầu rồi về sau một nhà thơ thời cận kim thêm vào hai câu tiếp cho đầy đủ cảnh trí. Dù ở dạng thức khẳng định hay nghi vấn, tất cả đều thống nhất trích dẫn "Tiếng chuông Trấn Võ" đi theo với "Phất phơ ngọn trúc trăng tà". Tại sao sách báo Hà Nội cuối thập niên 80 đầu thập niên 90 lại đổi "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương" thành "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương"? Phải chăng đây là công việc đem râu ông nọ cắm vào cằm bà kia, và công việc này đã được từ đâu đó chỉ đạo? Chả thế mà Vũ Ngọc Phan thận trọng và khôn khéo vừa viết vừa lách, một mặt vẫn phải a dua theo thời "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Trấn Võ, ...", mặt khác lại chú thích câu đầu có bản chép "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, ..."để sự thật được tôn trọng, và lương tâm khỏi cắn rứt.

            4.  Mọi người ai cũng biết các mặt sinh hoạt văn hóa xã hội tại Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều được chỉ đạo chặt chẻ để phục vụ các mục tiêu chính trị. Vì nhà nước không có khả năng cung cấp đủ thịt cho dân chúng nên khoa bảng như Từ Giấy cũng phải cúi đầu tuân lệnh thượng cấp viết khảo luận khoa học công khai và trắng trợn nói rằng 3 kilô đọt sắn (đọt khoai mì) có giá trị dinh dưỡng bằng 1 kilô thịt bò. Vì nhà nước không có khả năng cung cấp đủ kháng sinh cho dân chúng nên các cán bộ y tế được lệnh dùng xuyên tâm liên như là một dược liệu vạn năng để trị tất cả các thứ bệnh. Vì mất chỗ dựa Liên Xô, Đỗ Mười và Lê Đức Anh đầu thập niên 90 phải đi Thành Đô và Bắc Kinh cầu hòa, nên các thầy cô giáo  nhà trường xã hội chủ nghĩa được lệnh bôi bỏ tên người anh hùng diệt xâm lăng, chống bành bá Nguyễn Đình Chính trong sách giáo khoa; và tệ hại hơn nữa, các nhà sử học xã hội chủ nghĩa, những năm 1991, 1992, được lệnh đồng loạt tung ra những công trình biên khảo minh oan cho Mạc Đăng Dung, nói rằng Mạc Đăng Dung chỉ trả đất chứ không cắt đất dâng cho Tàu, để chuẩn bị công luận, vạn nhất các nhà lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam phải chịu chấp nhận mất 10 địa điểm dọc biên thùy Hoa-Việt hiện đang bị Trung Quốc cưỡng chiếm từ 1979, và thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ Trung Quốc.

            5.  Vì lẽ trên đây, việc trích dẫn các tài liệu của chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cần phải thận trọng để khỏi rơi vào những nhận định sai lạc. Trích dẫn dồn dập một số tác phẩm của chế độ xã hội chủ nghĩa như Văn Hóa Việt Nam Tổng Hợp (1989), Tục Ngữ Ca Dao Dân Ca Việt Nam (1992), Hà Nội Trong Ca Dao Tục Ngữ (1994), ra đời trong mấy năm gần đây, để khẳng định rằng bài thơ "Hà Nội tức cảnh" của Dương Khuê là nguồn gốc của hai câu "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương", là một việc làm phiến diện. Dương Khuê vào Huế làm quan dưới triều Tự Đức, nửa sau thế kỷ 19, mà chùa Thiên Mụ khởi công xây dựng từ năm 1601, chuông chùa Thiên Mụ hiện nay được đúc năm 1710, gò Thọ Khương xưa kia là cung điện mùa hè của các chúa Nguyễn trong các thế kỷ 17, 18, danh xưng Thọ Khương của vùng đất đối lập với chùa Thiên Mụ ở bên kia sông Hương được đổi thành Thọ Xương vào đầu thế kỷ 19. Sinh ra ta là cha mẹ ta, sinh ra cha mẹ ta là ông bà ta, đó là lẽ thường, cũng như việc cũ, việc thời trước, mới có thể là nguồn gốc của việc mới, việc xảy ra về sau. Vậy nếu có liên quan ảnh hưởng thì chỉ có thể có sự kiện câu thơ "Phất phơ ngọn trúc trăng tà, Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà Thọ Xương" bắt nguồn từ câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương" mà thôi, giống y như sự kiện nhà họ Dương Vân Đình từ đời Tự Đức trở về sau mỗi thế hệ dùng một tên đệm (Dương Thiệu, Dương Hồng v.v.) đã bắt nguồn từ các bài Đế hệ thi và Phiên hệ thi của Minh Mạng (Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh v.v.).
 
6.  Phần kết với việc viện dẫn bài "Huế Chừ" của Lệ Vân để bày tỏ nỗi lo ngại rằng trong đám con em chúng ta có kẻ lại khẳng định bài này mới thật sự là nguồn gốc của câu ca dao "Gió đưa cành trúc la đà, Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương", tuy văn phong có tính cách hài hước nhưng lời lẽ không khỏi mang tiếng mục hạ vô nhân. Việc khẳng định hai câu "Đường vô xứ Huế quanh quanh, Non xanh nước biếc như tranh họa đồ" nguyên sơ không phải là ca dao mà chỉ là hai câu đầu bài thơ của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu làm khi vào thăm Huế năm 1919, là một việc làm hấp tấp, thiếu thận trọng, thiếu điều nghiên. Thực vậy, Tản Đà dùng ca dao đã có để mở đầu cho sáng tác, chứ không phải từ hai câu thơ đầu của Tản Đà mà phát sinh bài ca dao.
Toàn bộ bài ca dao như sau :
            Đường vô xứ Huế quanh quanh,
            Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
            Thương em anh cũng muốn vô,
            Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam giang.
            Phá Tam giang ngày rày đã cạn,
            Truông nhà Hồ Nội Tán cấm nghiêm.
Nội Tán là một chức quan thời các chúa Nguyễn. Quan Nội Tán đã có công tiễu trừ thổ phỉ truông nhà Hồ nói ở đây là Nguyễn Khoa Đăng, nửa sau thế kỷ 17, nửa đầu thế kỷ 18. Tản Đà sống vào thời Pháp thuộc, vào thăm Huế đầu thế kỷ 20. Không thể có chuyện trái lẽ thường, con cháu lại sinh ra cha mẹ, ông bà.
Thân chào Ban Biên Tập, chúc sức khoẻ và thành công trong sự nghiệp phục vụ bạn đọc, phục vụ dân tộc, phục vụ Tổ Quốc.
                                                               Tháng 6/1997

                                                      Minh Vũ Hồ Văn Châm








































Công Chúa  Đông Đô,
Hoàng Hậu Phú Xuân,
Nàng Là Ai?



            Trên dưới hai trăm năm nay, trong dân gian thường truyền tụng câu ca dao:

            "Gái đâu có gái lạ đời,
            "Con vua lại lấy hai đời chồng vua.
Con vua đây là con vua Hiển Tông triều Hậu Lê. Nhà Hậu Lê đóng đô ở Hà Nội ngày nay, thời bấy giờ gọi là Đông Đô. Nàng là Công Chúa Đông Đô. Hai đời chồng vua, thì một đời chồng là vua nhà Nguyễn Tây Sơn, còn đời chồng kia là vua sáng nghiệp nhà Cựu Nguyễn. Cả hai triều vua Nguyễn Tây Sơn và Cựu Nguyễn đều đóng đô ở thành phố Huế ngày nay, thời bấy giờ gọi là Phú Xuân. Nàng là Hoàng Hậu Phú Xuân. Vậy nàng là Công Chúa Đông Đô, Hoàng Hậu Phú Xuân. Nàng quả thật là một nhân vật phi thường. Nàng là ai vậy?
            Trong lịch sử cận đại Việt Nam, hễ nói đến công chúa con vua mà lại lấy chồng vua, làm hoàng hậu, là người ta nghĩ ngay đến công chúa Lê Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông, gả làm vợ vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn. Dựa vào câu hát dân gian trên đây, người ta lại cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, Công Chúa Lê Ngọc Hân đưọc vua Gia Long lập làm Đệ Tam Cung, cho nên bà là công chúa con vua mà lại lấy chồng hai lần, cả hai đời chồng đều là chồng vua cả. Lại cũng có truyền thuyết cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân vô cùng bi thảm. Bà đã cùng hai con trốn tránh được một thời gian rồi bị bắt và bị xử cực hình.
            Sự thực như thế nào? Nàng Công Chúa Đông Đô, Hoàng Hậu Phú Xuân đích thực là ai vậy?
            Công Chúa Lê Ngọc Hân sinh năm 1771, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, là công chúa thứ 21 con vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Bà mẹ Công Chúa Lê Ngọc Hân tên là Nguyễn Thị Huyền, người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Công Chúa Lê Ngọc Hân là em Thái Tử Lê Duy Vỹ và là cô Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ tức là người sau này lên nối ngôi vua Lê lấy niên hiệu là Chiêu Thống. Khi Nguyễn Huệ làm Tiết Chế, thống lĩnh quân đội Tây Sơn ra đánh Bắc Hà với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh" vào năm 1786 thì Công Chúa Lê Ngọc Hân mới 16 tuổi. Vì Nguyễn Huệ một phần nào cũng có bụng tôn phù nhà Lê, mặt khác do sự mối mai thu xếp của Nguyễn Hữu Chỉnh muốn bắt cầu thân gia giữa Vua Lê Hiển Tông và Tiết Chế Nguyễn Huệ, nên Vua Lê Hiển Tông đã đem Công Chúa Lê Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ và phong Huệ làm Nguyên súy dực chính phù vận Uy Quốc Công.
            "Từ cờ thắm trỏ vời đất Bắc,
            "Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
            "Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
            "Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.
Hai vợ chồng Nguyễn Huệ lưu lại Đông Đô một thời gian ngắn. Sau khi vua Lê Hiển Tông băng hà, Công Chúa Lê Ngọc Hân theo chồng về Phú Xuân. Đến năm 1789, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, phong cho Công Chúa Lê Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu. Thế là nàng Công Chúa Đông Đô đã trở thành Hoàng Hậu Phú Xuân.
            Điều cần lưu ý là Vua Quang Trung có đến hai bà Hoàng Hậu được tấn phong cùng một lúc. Ngoài Bắc Cung Hoàng Hậu họ Lê, Vua Quang Trung còn có Chính Cung Hoàng Hậu họ Phạm. Theo Tây Sơn Tiềm Long Lục, bà Hoàng Hậu họ Phạm này tên là Phạm Thị Liên, người Bình Định, là anh em ruột với Hộ Giá Phạm Văn Ngạn, Giả Vương Phạm Văn Trị, Thái Úy Phạm Văn Tham và Thái úy Phạm Văn Hưng. Bà Phạm Thị Liên lại còn là anh em cùng mẹ khác cha với Thái Sư Bùi Đắc Tuyên và Hình Bộ Thượng Thư Bùi Văn Nhật. Chính Cung Hoàng Hậu họ Phạm sinh hạ được 5 người con, 3 trai 2 gái. Người con trai lớn là Quang Toản, còn có tên là Quang Bình, về sau nối ngôi nhà Tây Sơn, tức là Vua Cảnh Thịnh. Hai người con trai kia thì một người tên là Quang Bàn, được phong Tuyên Công lãnh Đốc Trấn Thanh Hoa, một người tên là Quang Thiệu được cử làm Thái Tể. Hai người con gái thì một người lấy Phò mã Nguyễn Văn Trị, còn một người thì gả cho Nguyễn Phước Tư là Tôn Thất hệ nhất nhà Cựu Nguyễn. Vua Quang Trung rất mực quý trọng bà Chính Cung Hoàng Hậu họ Phạm này. Theo các tài liệu của Phái bộ Truyền giáo Nam Hà, nhất là lá thư của Giáo sĩ Girard đề ngày 25-11-1792 gửi Giáo sĩ Boiret ở Macao, thì khi Hoàng Hậu lâm bệnh, Vua Quang Trung đã cho mời thầy thuốc người Âu đến chửa bệnh và đến khi Hoàng Hậu mất thì nhà vua đau đớn vật vã đến phát điên phát cuồng. Bà mất ngày 29 tháng 3 năm 1791 mà mãi đến ngày 25 tháng 6 năm đó mới đưa đi chôn cất. Bà được truy tặng là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ Hoàng Chính Hậu.
            Về phần Bắc Cung Hoàng Hậu họ Lê, bà là lá ngọc cành vàng, quê ngoại lại là xứ Kinh Bắc tài hoa văn vật, nên bà là một phụ nữ thông minh, đức hạnh và nhan sắc, thật là vẹn toàn mọi vẻ. Ngày mới thành hôn với Nguyễn Huệ, trên đường đi bái yết các Tiên Đế ở Thái miếu trở về, Nguyễn Huệ hỏi bà :"Các hoàng tử và công chúa, mấy ai được vinh hạnh như nàng, được thành thân với Ta, nàng cảm thấy như thế nào?" Tuy mới 16 tuổi đầu, Công Chúa Lê Ngọc Hân đã tỏ rõ là người giỏi ứng đối :"Nhà vua quen sống đạm bạc, bổng lộc ít ỏi, các hoàng tử và công chúa đều thanh bạch, nay thiếp được nâng khăn sửa túi cho Chúa Công, cũng tỷ như giọt nước trên không trung rơi vào nơi lầu son gác tía, thân phận thiếp quả là may mắn hơn cả". Nguyễn Huệ rất đẹp lòng. Bà có nhiều ảnh hưởng trong các quyết định quan trọng của Nguyễn Huệ. Khi Vua Lê Hiển Tông băng hà, Nguyễn Huệ đã nghe lời Công Chúa Lê Ngọc Hân, có ý muốn lập Sùng Nhượng Công Duy Cận lên ngôi thiên tử. Đến khi Hoàng tộc nhà Lê vì việc đó mà đòi tước bỏ sổ bộ của Công Chúa, Nguyễn Huệ lại theo lời bà mà chịu lập Hoàng Tự Tôn Duy Kỳ lên ngôi vua. Vừa thông minh, vừa khôn khéo, trong thời gian làm Hoàng Hậu ở Phú Xuân, Công Chúa Lê Ngọc Hân chẳng những chỉ làm đẹp lòng Đức chí tôn mà còn khuynh loát cả Triều đình như chúng ta sẽ thấy về sau này ảnh hưởng của bà lớn lao như thế nào trong việc tuyển chọn Hoàng Hậu cho Vua Cảnh Thịnh. Thật vậy, bà đã quyết định đem em gái là Công Chúa Lê Ngọc Bình, cũng là công chúa con Vua Lê Hiển Tông như bà, vào làm chính cung cho Hoàng Đế nối nghiệp nhà Tây Sơn là Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản.
            Công Chúa Lê Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ năm 1786, thụ phong Bắc Cung Hoàng Hậu năm 1789. Bà sinh hạ một trai là Nguyễn Văn Đức và một gái là Nguyễn Thị Ngọc. Công Chúa Lê Ngọc Hân mất năm 1799, đương triều Vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn. Năm đó, bà mới 29 tuổi. Bà được truy tặng là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Bà là người vừa giỏi văn quốc âm, vừa thông sách Hán tự. Lúc Vua Quang Trung còn sống, bà thường giảng giải kinh điển cho nhà vua nghe. Lúc Vua Quang Trung cử hành lễ Tứ Tuần Vạn Thọ Khánh Tiết, bà dâng bài biểu mừng như sau:
            "Tư ngộ thiên thọ khánh tiết, thanh thiên ứng luật, hôn chử tại thì. Ngọc thụ phiêu hương, bích đào hiến trường sinh chi quả; ngân thiềm thổ diễm, băng hồ khai phục đán chi hoa. Tử ái nùng nhi khuê các đằng phương, thụy khí sảng nhi vu huy tăng sắc. Cẩn phụng biểu xưng hạ giả. Phục dĩ thụy khí trình tường, thông uất phụng lân chi thái; quang thiên xiển lãng, chiếu hồi Dực Chẩn chi hư. Quế điện truyền hương; tiêu đình dật khánh. Khâm duy Hoàng đế Bệ hạ, tài cao thiên cổ, đức phối lưỡng nghi. Cung thiên phi chấn vũ công,Tây thổ bí hưng vương chi sự nghiệp; thì hạ tứ trần ý đức, đông giao hoàn định quốc chi qui mô. Xích nhật minh nhi ngung nhược hữu phu; thọ tinh diệu nhi chiêm y cọng ngưỡng. Thần Xu điện nhiễu quang phù Vạn thọ chi bôi; xương hạp vân khai dinh triệt thiên thu chi kính. Tứ tự thường điều ngọc chúc, ức niên vĩnh điện kim âu. Thần đức thiểm Quan thư, nhân tàm Cưu mộc. Trung khổn cận bồi chẩn tọa, bái chiêm bát thiên xuân sơ kỷ chi tiên trù; nội đình mật nhĩ thiều âm, cẩn chúc thiên vạn tuế vô cương chi đỉnh tộ."
            (Nay gặp khánh tiết mừng tuổi thọ của Hoàng đế, khúc nhạc Thanh thương ứng luật hợp tiết, cồn hoa đang độ. Cây ngọc đưa hương, cây bích đào dâng quả trường sinh; trăng bạc nhả ánh trong, hồ băng lại nở hoa buổi sáng. Mây mù sắc tía nồng đượm mà khuê phòng hương nức; khí lành sáng tỏ mà áo xiêm thêm màu. Kính cẩn dâng bài biểu chúc mừng. Cúi nghĩ lấy khí lành trình điềm tốt, tưng bừng màu sắc con phụng con lân; đầy khắp thiên hạ chiếu về cõi hư không sao Dực sao Chẩn. Điện quế truyền hương; sân tiêu tràn điều mừng. Kính nghĩ Hoàng đế Bệ hạ, tài cao thiên cổ, đức hợp với Trời và Đất. Cung kính thi hành sự trừng phạt của Trời lớn lao chấn động vũ công, đất Tây Sơn đẹp đẽ hưng sự nghiệp đế vương; trần bày đức đẹp vào bản nhạc ca vĩ đại, ở cõi giao dã phía đông đã định xong qui mô của nước nhà. Mặt trời đỏ rạng mà nghiêm đáng tin [quẻ quan]; sao thọ tinh chiếu sáng mà thiên hạ đều cùng ngưỡng lên trông mong nương tựa [thiên Tiểu biền, phần Tiểu nhã trong Kinh Thi]. Sao Xu của Bắc đẩu điện vây, ánh sáng nổi lên chen mừng Vạn thọ; cửa Trời mây mở, sắc trong thấu triệt mặt kính ngàn thu. Bốn mùa thường điều hòa khiến cái đức của Vua đẹp như ngọc và sáng như đuốc; trong ức năm mãi vững chiếc lọ vàng. Hạ thần đức thẹn với thơ Quan thư, nhân ngượng với thơ Cưu mộc. Trong nội thất theo hầu kề cùng ngồi mặc đồ lộng lẫy, vái mong tính theo tuổi thiên niên kỷ khởi đầu của Bệ hạ một mùa xuân tám ngàn năm; chốn nội đình kề sát nghe nhạc thiều, ân cần chúc phước của quốc gia được ngàn muôn năm vô hạn.)
            [Nam Phong Tạp Chí, số 103, năm 1926, phần Hán văn. Bản dịch của Tạ Quang Phát].
           Lúc Hoàng Đế Quang Trung băng hà vào ngày 15 tháng 9 năm 1792, Công Chúa Lê Ngọc Hân mới có 22 tuổi. Bà chỉ mới chung sống với nhà vua vỏn vẹn có 6 năm trời, có được hai mặt con. Làm sao có thể tưởng tượng hết tâm trạng thống khổ của bà lúc bấy giờ. Rất may cho hậu thế là bà có soạn một bài văn tế bằng quốc âm để tế nhà vua. Trong nỗi bất hạnh lớn lao của Công Chúa Lê Ngọc Hân là cái may mắn tột cùng của nền văn học nước nhà. Bà đã để lại cho đời sau bài Ai Tư Vãn mà tất cả chúng ta đều đã biết. Tuy không thể so sánh ngang hàng với Truyện Kim Vân Kiều hay Khúc ngâm Chinh Phụ, nhưng bài Ai Tư Vãn cũng là một áng văn rất đáng trân trọng, cũng là một vật báu trong kho tàng văn học nước nhà. Trong bài điếu văn có nhiều câu nhiều chữ đọc lên như oán như than, khiến người thưởng lãm cũng thấy não lòng. Phải là người trong cuộc, và tâm hồn hết sức tinh tế, tình cảm hết sức bén nhạy, mới có thể giải bày tâm trạng bi thương thành những lời thơ não nùng diễm tuyệt nhường ấy! Nổi buồn nào lê thê bằng nổi buồn của người góa phụ còn quá trẻ đau đớn than van về cái chết đột ngột của người chồng vương giả:
            "Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
            "Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu.
            "Vội vàng sửa áo lên chầu,
            "Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện chăng!
và niềm xót xa nào bi thiết hơn niềm xót xa của người mẹ trẻ vì thương con còn trứng nước mà chưa thể liều thân cho vẹn chữ tòng :

            "Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
            "Trên rường nào ngại, giữa giòng nào e.
            "Còn trứng nước thương vì đôi chút,
            "Chữ thâm tình chưa thoát được đi.
            Công Chúa Lê Ngọc Hân là người tài sắc vẹn toàn. Bà sinh trưởng nơi chốn điện ngọc đền vàng, đã là công chúa con vua lại lấy chồng làm vua. Sau khi Hoàng Đế Quang Trung băng hà, Hoàng Thái Tử Quang Toản lên kế vị, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Tuy Vua Cảnh Thịnh là con của bà Vũ Hoàng Chính Hậu họ Phạm, nhưng lúc bấy giờ bà này đã mất, nên Công Chúa Lê Ngọc Hân được tôn lên ngôi vị Hoàng Thái Hậu. Hơn nữa, bà lại còn là chị ruột của Công Chúa Lê Ngọc Bình lúc bấy giờ là Hoàng Hậu vợ Vua Cảnh Thịnh. Trong chốn nội đình, địa vị của bà như vậy có thể nói là tột cùng tôn quí. Tuy nhiên, trong thời gian Vua Cảnh Thịnh mới lên ngôi, quyền lực trong triều bị thu tóm vào tay Thái Sư Bùi Đắc Tuyên và gia đình họ Bùi, gây nên tình trạng bè phái chia rẽ, và Công Chúa Lê Ngọc Hân đã rất đổi đau lòng. Thật vậy, nhóm quyền thần gốc Bình Định của Thái Sư Bùi Đắc Tuyên và Thái Phó Trần Quang Diệu đã chèn ép các bề tôi cũ của Vua Quang Trung gốc Thuận Hóa và Bắc Hà, gây nên việc Trần Văn Kỷ bị đi đày, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích bị thất sủng, khiến Ngô Văn Sở bỏ chạy theo Nguyễn Vương, tất cả những điều đó đã làm cho cuộc sống của Công Chúa Lê Ngọc Hân phải trải qua một giai đoạn giao động. Nhưng sau cuộc chỉnh lý của Tư Đồ Võ Văn Dũng, cha con Bùi Đắc Tuyên, Bùi Đắc Trụ bị trầm hà, phe phái lộng thần bị dẹp tan, triều đình trở lại ổn định, bên trong Tư Đồ với Thái Phó giảng hoà, bên ngoài dân chúng liên tiếp mấy năm được mùa, thì nỗi lòng Công Chúa Lê Ngọc Hân cũng vơi bớt chút ưu tư về thế cuộc, chỉ còn chĩu nặng niềm thương nhớ người chồng tài cao mà mệnh đoản :
            "Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
            "Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân
            "Theo xa thôi lại theo gần,
            "Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.

và nỗi xót xa hai đứa con còn trứng nước sớm lâm cảnh côi cút mà thôi :

            "Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm,
            "Đầu mũ mao mình tấm áo gai.
            "U ơ ra trước hương đài,
            "Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào.
            Năm kỷ mùi (1799), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7, Công Chúa Lê Ngọc Hân mất, hưởng dương 29 tuổi. Lễ Bộ Thượng Thư Đoàn Nham Hầu Phan Huy Ích phụng chỉ soạn bài văn tế cho Hoàng Đế Cảnh Thịnh đích thân đọc trước linh sàng Hoàng Thái Hậu họ Lê. Bà được truy tặng là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Bài văn tế này đã được Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm tìm thấy và công bố trên Tạp Chí Tri Tân vào năm 1943 tại Hà Nội.
            Vậy rõ ràng Công Chúa Lê Ngọc Hân đã mất tại Phú Xuân, đương triều Vua Cảnh Thịnh. Tuy vậy, chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân vẫn là một đề tài cho nhiều câu chuyện thành văn hoặc truyền khẩu khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau là đằng khác. Nguyên do là sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, con cháu nhà Tây Sơn bị tuyệt diệt, các tài liệu về nhà Tây Sơn bị cấm tàng trữ, nên chẳng còn ai có cơ hội và phương tiện nghiên cứu thân thế và sự nghiệp các nhân vật thời Tây sơn một cách chính xác và rõ ràng. Các tài liệu về nhà Tây Sơn được lưu hành chỉ thuần một loại là các sử liệu của Quốc Sử Quán triều Nguyễn mà thôi. Hơn nữa, những người đặt chuyện dã sử lại có thói quen dệt gấm thì thường thêm hoa, để cho câu chuyện đượm phần ly kỳ hấp dẫn. Bởi những lẽ đó mà chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân được kể lại trong các câu chuyện thành văn hay truyền khẩu đã không đúng với sự thật. Không có câu chuyện nào kể rằng Công Chúa Lê Ngọc Hân đã chết khi nhà Tây Sơn đang còn trị vì ở Phú Xuân. Ngay cả việc ông Hoa Bằng đã công bố bài văn tế Vũ Hoàng Hậu do Phan Huy Ích soạn cũng chẳng thay đổi được tình trạng ngộ nhận nói trên. Từ 1943 đến nay, các huyền thoại về Công Chúa Lê Ngọc Hân truyền tụng trong dân gian cũng như các chuyện dã sử viết về chung cục Công Chúa Lê Ngọc Hân xuất hiện trên sách báo vẫn cứ một chiều đi theo con đường cũ sai lạc bấy lâu nay. Những truyền thuyết và chuyện dã sử về Công Chúa Lê Ngọc Hân từ trước đến nay có thể xếp vào hai loại. Loại thứ nhất nói rằng sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, Công Chúa Lê Ngọc Hân đã đưa hai con đi trốn, sống trà trộn trong dân chúng được một thời gian rồi rốt cục cũng bị phát hiện và bị giải về Huế xử cực hình. Loại thứ hai nói rằng sau khi diệt nhà Tây Sơn, Vua Gia Long đã sách lập Công Chúa Lê Ngọc Hân làm Đệ Tam Cung, và bà đã có hai con với nhà vua là các Hoàng Tử Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương mà từ đường đến nay vẫn còn ở ngoại ô thành phố Huế.
            Những truyền thuyết và chuyện dã sử về chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân thuộc loại thứ nhất thì đại thể về nội dung đều giống nhau, có khác biệt là chỉ khác biệt về địa điểm đi lánh nạn mà thôi. Sau khi nhà Tây Sơn mất, Công Chúa Lê Ngọc Hân đem hai con chạy trốn vào Quảng Nam, sống trà trộn trong dân chúng được một thời gian, cuối cùng bị phát hiện, bị bắt đưa về Phú Xuân và bị xử án tam ban triều điển. Nhiều truyền thuyết khác thì nói rằng Công Chúa Lê Ngọc Hân đem các con chạy trốn vào quê chồng ở Bình Định, rồi cũng bị bắt và cũng bị xử cực hình như đã nói trên. Trong những thập niên 60, 70, lại có những câu chuyện ly kỳ hơn về chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân, cả thành văn lẫn truyền khẩu, theo đó thì Công Chúa Lê Ngọc Hân đã mang các con chạy trốn vào tận Đồng Nai Gia Định, nhờ đó mà tránh được tai mắt và nanh vuốt kẻ thù. Nhiều câu chuyện truyền miệng lại còn đi xa hơn, kể rằng sau khi nuôi dạy các con khôn lớn nên người, Công Chúa đã thí phát, tu hành đắc đạo và trở thành Giáo Chủ của giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Nhiều người trong Nam mang họ Hồ lại tự nhận là hậu duệ của hoàng tử Nguyễn Văn Đức con Đại Đế Quang Trung và Vũ Hoàng Hậu Lê Ngọc Hân. Gần đây, ở hải ngoại lại có một vài tác giả viềt dã sử về chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân, viết rằng sau khi Đông đô thất thủ, nhà Tây Sơn mất ngôi, Công Chúa đã đem hai con chạy trốn về một vùng quê hẻo lánh ở Hải Dương, sống lén lút trà trộn trong dân chúng được một thời gian rồi rút cục cũng bị phát hiện, bị bắt và bị giải về Phú Xuân lãnh án tử hình.
            Tất cả những câu chuyện về chung cục bi thương huyền hoặc của Công Chúa Lê Ngọc Hân là hoàn toàn không phù hợp với sự thật lịch sử bởi một lẽ giản đơn và rõ ràng là Công Chúa Lê Ngọc Hân đã chết khi nhà Tây Sơn chưa mất ngôi. Công Chúa Lê Ngọc Hân mất vào năm 1799, dưới triều Vua Cảnh Thịnh, nghĩa là trước khi kinh thành Phú Xuân thất thủ. Công Chúa Lê Ngọc Hân đã được truy tặng là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. Công Chúa Lê Ngọc Hân đã được ma chay tống táng tại kinh thành theo đúng nghi thức vương giả dành cho một bực mẩu nghi thiên hạ. Bằng chứng hùng hồn là bài văn tế Vũ Hoàng Hậu tìm thấy trong Dụ Am Văn Tập của Phan Huy Ích mà Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm đã công bố trên Tạp Chí Tri Tân vào năm 1943 tại Hà Nội. Công Chúa Lê Ngọc Hân đã chết đương thời Vua Cảnh Thịnh trị vì thì làm gì còn có câu chuyện Công Chúa Lê Ngọc Hân phải lâm cảnh bôn ba lưu lạc sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi. Về phần hai người con của Công Chúa Lê Ngọc Hân thì một nhà truyền giáo Tây phương thời bấy giờ tên là L. Barizy đã cho biết là cả hai đều bị Nguyễn Vương bắt lúc thành Phú Xuân thất thủ năm 1801, không kịp chạy theo Vua Cảnh Thịnh ra Bắc Hà. Giáo sĩ L. Barizy đã nhận diện và không tiếc lời ca ngợi khuôn mặt tuấn tú và thái độ cứng cỏi của hai đứa trẻ khi bị xử tử hình vào năm sau, 1802, cùng một lần với Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Như vậy, hai người con của Công Chúa Lê Ngọc Hân đều đã bị yểu vong thì làm gì có câu chuyện hậu duệ của Công Chúa còn nối dõi tới bây giờ.
            Các truyền thuyết và truyện dã sử về chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân thuộc loại thứ hai so với những câu chuyện trên đây thì ly kỳ hơn và chứa đựng nhiều tình tiết hư cấu xoay quanh các sự kiện lịch sử có thật. Thí dụ có chuyện kể rằng đầu năm Tân Dậu 1801, Nguyễn Vương theo kế sách "tượng kỳ khí xa" của Nguyễn Văn Thành, đã bỏ rơi Võ Tánh bị vây trong thành Bình Định để đem toàn lực ra đánh úp Phú Xuân. Ngày mồng 1 tháng 5 năm Tân Dậu, Nguyễn Vương vào cửa Tư Dung, đến tối vượt phá Hà Trung tiến chiếm bến đò Trừng Hà, ngày hôm sau đánh tan quân của Vua Cảnh Thịnh ở cửa Eo và sáng ngày mồng 3 tháng 5 đem đại binh vào thành Phú Xuân, dụng quân thần tốc đến độ Vua Cảnh Thịnh thua chạy không kịp mang theo gia quyến. Tối hôm mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu, Nguyễn Vương đi tuần tra trong thành và đã gặp gỡ người thiếu phụ vương giả để rồi nên duyên vợ chồng. Lại có chuyện kể rằng khi Vua Gia Long quyết định sách lập Công Chúa Lê Ngọc Hân làm Đệ Tam Cung, triều thần có người can gián, cho rằng Công Chúa chỉ là vật dư thừa của Tây Sơn, và nhà vua đã trả lời rằng chúng ta tiêu diệt Ngụy Tây thì giang san này, thành quách này, nhất nhất há chẳng phải lấy lại từ tay Ngụy Tây hay sao, như thế cũng là vật dư thừa của Tây Sơn vậy. Lại có chuyện kể rằng sau khi Vua Gia Long băng hà, Quảng Oai Công yểu tử, Thường Tín Quận Vương đã lập phủ đệ riêng, thì Đệ Tam Cung Lê Ngọc Hân lui về dưỡng già tại quê mẹ ở Bắc Ninh cho đến lúc lâm chung. Tình cảnh Công Chúa, "vinh diệu một đời có thể nói là cùng tột, thế mà trong những ngày xế bóng lưu lạc nơi quê ngoại, tưởng tới chuyện xưa cảnh cũ, há chẳng nao lòng mà than thở cho Tạo vật đã khéo trêu ngươi, không có việc gì lại không xảy ra được, khiến phát sinh nỗi cảm khái vô cùng cho cuộc sống phù du!" 
            (Hậu hứa Bắc quy tùng mẫu thị hương quán trú ư Bắc Ninh nhi chung yên. Khảo Chúa thiểu tắc vi hoàng nữ, trưởng tắc vi hoàng hậu, kế vị hoàng thái hậu. Kỳ nhất sinh chi vinh diệu khả vị cực hỉ. Cập kỳ vãn niên bất miễn ư lưu lạc, tưởng Chúa ư thử thì phủ kim tư tích, xúc cảnh hưng hoài, ninh bất trướng nhiên thán Tạo vật chi lộng nhân, mỹ sở bất chí, nhi sinh vô cùng chi cảm khái tai!)
             [Ngọc Hân Công Chúa dật sự. Nam Phong Tạp chí, số 103, 1926].
            Nhưng độc đáo hơn hết phải kể đến bản gia phả của họ Nguyễn hoàng tộc. Đó là cuốn Hoàng Triều Ngọc Phả, bản quốc ngữ, do Tôn Nhân Phủ biên soạn và ấn hành dưới triều Vua Thành Thái. Trong cuốn sách này, ở các chương nói về Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương con Vua Gia Long, rõ ràng mẹ đẻ của các ngài được ghi là Công Chúa Lê Ngọc Hân, con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Thật là rõ ràng và chính xác như một cộng một là hai, như hai cộng hai là bốn, không còn bàn cãi gì nữa cả. Người viết đã chính mắt được đọc những giòng chữ đó vào năm 1988 tại nhà nhạc phụ, sách do ông Tôn Thất Yên đưa cho mượn. Ông Tôn Thất Yên lúc bấy giờ là người được Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc ủy thác điều hành công việc thường ngày của Hội Đồng Nguyễn Phước Tộc ở Sài Gòn, và được Hội Trung Việt Ái Hữu ủy thác trông nom quản lý nghĩa trang Gò Dưa, Thủ Đức. Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương là những nhân vật có thực, tuy rằng Quảng Oai Công yểu tử và Thường Tín Quận Vương ngày nay không có con cháu nối dòng, nhưng từ đường các ngài hiện nay ở vùng ven đô Huế vẫn còn hương khói, các bài phiên hệ thi về phần các ngài vẫn còn được truyền tụng, vì vậy việc gia phả hoàng tộc do Tôn Nhân Phủ ấn hành ghi rằng mẹ đẻ các ngài đích thị là Công Chúa Lê Ngọc Hân là một sự kiện không thể không lấy làm trọng yếu hàng đầu trong việc nghiên cứu chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân.
            Vậy thì vấn đề được đặt ra là Công Chúa Lê Ngọc Hân có lấy Vua Gia Long hay không. Nếu Công Chúa Lê Ngọc Hân không lấy Vua Gia Long thì không còn có vấn đề Công Chúa Lê Ngọc Hân được sách lập làm Đệ Tam Cung, cũng như không thể có sự kiện Công Chúa Lê Ngọc Hân là mẹ đẻ các hoàng tử Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương . Mà chúng ta đã biết đích xác là Công Chúa Lê Ngọc Hân chết vào năm 1799, dưới triều Vua Cảnh Thịnh, khi nhà Tây Sơn chưa mất ngôi, vậy thì khi Vua Gia Long tiến quân vào thành Phú Xuân tháng 5 năm Tân Dậu, dương lịch 1801, Công Chúa Lê Ngọc Hân đã mất trước đó 2 năm, hình hài đã nằm sâu dưới lòng đất lạnh, thì làm sao sống lại để kết duyên vợ chồng với vì vua chiến thắng. Bởi lẽ đó, những câu chuyện thêu dệt chung quanh việc Công Chúa Lê Ngọc Hân lại một lần nữa lấy chồng vua là hoàn toàn không có căn cứ, là hoàn toàn sai sự thực.
            Nhưng còn cuốn ngọc phả bản quốc ngữ của Tôn Nhân Phủ đã khẳng định Công Chúa Lê Ngọc Hân là mẹ đẻ của Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương? Xin thưa ngay rằng cuốn gia phả này là bản quốc ngữ, không phải bản Hán văn, lại không phải do Quốc Sử Quán biên soạn mà là tác phẩm phiên dịch của Tôn Nhân Phủ từ bản Hán văn cũng của Tôn Nhân Phủ mà ra. Mà bản Hán văn này thì trong các chương nói về Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương đã viết rằng mẹ các ngài là Công Chúa Lê Ngọc con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Cái lối hành văn cổ điển bằng Hán tự thì có khi nào nêu rõ tục danh đâu. Mà tác giả bản Hán văn khi viết rằng mẹ các ngài là Công Chúa Lê Ngọc con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê đã chắc đâu muốn khẳng định rằng đó là Công Chúa Lê Ngọc Hân. Biết đâu tác giả bản Hán văn muốn nói đến một nàng Công Chúa Lê Ngọc khác, cũng con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê? Mà điều này thì những người phiên dịch ra quốc ngữ đã không hề hay biết, lại thêm nặng tinh thần tân học, viết lách trình bày chuyện gì cũng muốn tách bạch rõ ràng nên đã phiên dịch cụm từ "Công Chúa Lê Ngọc con Vua Hiển Tông" thành "Công Chúa Lê Ngọc Hân con Vua Hiển Tông" theo sở kiến chủ quan của mình.
            Như vậy rõ ràng hai hoàng tử Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương con Vua Gia Long đích thực là cháu ngoại Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Chỉ vì bản quốc ngữ do sở kiến chủ quan của người phiên dịch đã khẳng định mẹ đẻ hai ngài là Công Chúa Lê Ngọc Hân thay vì cứ để là Công Chúa Lê Ngọc như nguyên bản Hán tự nên mới nảy sinh ra điểm phi lý là người đã chết mấy năm trước đó bây giờ còn đâu mà lại lần nữa đi lấy chồng để rồi sinh đặng 2 con trai. Lại nữa, cuốn Hoàng Triều Ngọc Phả của Tôn Nhân Phủ là gia phả thành văn của Nguyễn Phước Tộc, là tài liệu chính thức về phả hệ hoàng phái, không thể nào được trước tác tùy tiện và thiếu chính xác được. Bởi vậy, Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương đích thực là cháu ngoại Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, mẹ là Công Chúa Lê Ngọc, nên trong ngọc phả bản Hán văn mới ghi chép rõ ràng như vậy. Cũng không thể có trường hợp thấy sang bắt quàng làm họ, thấy công chúa con vua lá ngọc cành vàng bèn nhận càng là bên ngoại cho thêm phần vẻ vang, bởi một lẽ giản đơn họ Nguyễn cũng là đại quí tộc, đã ở ngôi chúa Nam Hà ba trăm năm nay rồi và hiện tại đang giữ ngôi vua thống nhất thiên hạ. Cho nên một khi mà Hoàng Triều Ngọc Phả của Tôn Nhân Phủ đã ghi chép như vậy thì Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương con Vua Gia Long đích thực là cháu ngoại Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê.
            Nhưng nếu đã khẳng định rằng mẹ đẻ của Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương không phải là Công Chúa Lê Ngọc Hân thì đương nhiên phải nêu lên vấn đề mẹ đẻ của các ngài là ai vậy? Xin thưa rằng mẹ đẻ của các ngài cũng là công chúa con vua, cũng đã có một đời chồng trước là chồng vua, bây giờ lấy đời chồng thứ hai là Vua Gia Long sinh hạ được hai hoàng tử. Mẹ đẻ của các ngài quả là một nhân vật dị thường đúng như lời truyền tụng của nhân gian trong gần hai trăm năm nay :
            "Gái đâu có gái lạ đời,
            "Con vua lại lấy hai đời chồng vua.
Bà là Công Chúa Lê Ngọc Bình, công chúa con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, em ruột Công Chúa Lê Ngọc Hân, Chính Cung Hoàng Hậu Vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn, Đệ Tam Cung Vua Gia Long nhà Cựu Nguyễn, mẹ đẻ các Hoàng tử Quảng Oai Công (sinh năm 1809) và Thường Tín Quận Vương (sinh năm 1810).
            Thân thế và sự nghiệp hai bà Lê Ngọc Hân và Lê Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng mà những điểm tương đồng đó lại là những điểm rất căn bản. Hai bà đều là công chúa con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, hai bà đều sinh trưởng ở ngoài Bắc, nghĩa là cả hai bà đều là Công Chúa Đông Đô. Lớn lên hai bà đều lấy chồng trong Trung, chồng của hai bà đều là Hoàng Đế nhà Nguyễn Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà đều là Hoàng Hậu Phú Xuân. Do những điểm tương đồng căn bản đó mà những câu chuyện truyền tụng về cuộc đời của hai bà đan kết vào nhau, theo với không gian và thời gian mà dần dà thay đổi, để rồi lẫn lộn với nhau, cuối cùng thì chuyện có thật về người này trở thành chuyện huyền thoại của người kia. Nói rõ hơn, Công Chúa Lê Ngọc Hân chỉ lấy chồng một lần, còn Công Chúa Lê Ngọc Bình, sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, mới là người được Vua Gia Long sách lập làm Đệ Tam Cung, mới là người phụ nữ lạ thường, "con vua lại lấy hai đời chồng vua".
Điều đáng lưu ý là chính sử nhà Cựu Nguyễn không nói gì về Công Chúa Lê Ngọc Bình, còn các sử liệu liên quan đến nhà Nguyễn Tây Sơn thì tất nhiên dưới triều nhà Cựu Nguyễn đã không được lưu hành, tàng trử. Lại nữa, sự nghiệp của hai Hoàng Đế Quang Trung và Cảnh Thịnh khác biệt nhau một vực một trời, cho nên sử Tàu, sử ta, trong Nam, ngoài Bắc, đâu đâu cũng nói nhiều về vua cha mà ít khi đề cập đến vua con, do đó mà có hệ luận tất yếu là những gì liên quan đến vua cha thì người đời biết đến nhiều hơn những gì liên quan đến vua con. Bản thân Công Chúa Lê Ngọc Hân cũng có nhiều điểm sắc sảo lanh lợi hơn Công Chúa Lê Ngọc Bình. Bởi các lẽ đó mà từ trước tới nay chúng ta chỉ nghe nói đến Công Chúa Lê Ngọc Hân mà không nghe ai đề cập đến Công Chúa Lê Ngọc Bình. Chỉ từ sau năm 1975, Ty Thông Tin Văn Hóa Nghĩa Bình ấn hành và phổ biến một số tài liệu liên quan đến thân thế và sự nghiệp các nhân vật đời Tây Sơn, chúng ta mới bắt đầu chú ý đến nhân vật Lê Ngọc Bình, là Công Chúa con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê và là Chính Cung Hoàng Hậu Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Theo các sử liệu do Ty Thông Tin Văn Hóa Nghĩa Bình công bố, Vua Cảnh Thịnh và Công Chúa Lê Ngọc Bình đồng trang lứa với nhau. Vua Cảnh Thịnh sinh năm 1783, đúng như Đại Nam Chính biên Liệt truyện và các phúc trình của các giáo sĩ Longer và Le Labousse gửi cho Phái bộ Truyền giáo Nam Hà đã ghi chép. Như vậy, ngày Công Chúa Lê Ngọc Hân vầy duyên cá nước với Tiết Chế Nguyễn Huệ (1786) thì Công Chúa Lê Ngọc Bình mới có 4 tuổi. Đến năm bính ngọ (1792), Vua Quang Trung mất, Vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi, cả nhà vua lẫn Công Chúa Lê Ngọc Bình mới được 10 tuổi. Thời gian này, cả hai đang ở tuổi trúc mã thanh mai. Những năm tiếp theo là những năm Thái sư Bùi Đắc Tuyên chuyên quyền, nên chắc chắn là Công Chúa Lê Ngọc Hân cho dù đã có ý định vẫn chưa thể thực hiện việc kết hợp sắt cầm cho em gái với con chồng. Phải đợi đến sau chính biến năm ất mão (1795), phe cánh Thái sư Bùi Đắc Tuyên bị dẹp tan, Công Chúa Lê Ngọc Hân mới có điều kiện thu xếp đưa em gái lên ngôi chính cung hoàng hậu. Lúc này, các bề tôi thân tín lục tục trở về triều, Công Chúa Lê Ngọc Hân củng cố lại thế lực trong chốn nội đình và có ảnh hưởng quyết định đến công việc triều đình, thì cũng là lúc Công Chúa Lê Ngọc Bình vừa được 13 tuổi. Như vậy, Công Chúa Lê Ngọc Hân đối với Công Chúa Lê Ngọc Bình thì vừa là chị ruột, vừa là mẹ chồng. Đến năm kỷ mùi (1799), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 7, Công Chúa Lê Ngọc Hân mất, Công Chúa Lê Ngọc Bình vừa được 17 tuổi. Đến năm tân dậu (1801), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9, kinh thành Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc Hà, không kịp mang theo gia quyến, thì Công Chúa Lê Ngọc Bình chỉ mới có 19 tuổi, nếu tính tuổi theo lối ngày nay thì Công Chúa Lê Ngọc Bình chỉ mới được 18 tuổi mà thôi. Chính vào thời điểm này Đại Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Nguyễn Phúc Ánh gặp Công Chúa Lê Ngọc Bình và năm sau, tức là năm nhâm tuất (1802), Nguyễn Vương lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Gia Long, và sách phong Công Chúa Lê Ngọc Bình làm Đệ Tam Cung. Năm ấy, Công Chúa Lê Ngọc Bình vừa tròn 20 tuổi.
            Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề cần nêu lên là một sự kiện trọng yếu, rõ ràng và chính xác nhường ấy mà tại sao chính sử nhà Nguyễn lại không đề cập đến? Xin thưa ngay rằng các sử thần nhà Nguyễn trước nay vẫn lược qua không ghi chép những sự kiện lịch sử không phù hợp với quan điểm chính thống của ý thức hệ phong kiến phương Đông. Thí dụ rõ ràng nhất là trường hợp Công Nữ Ngọc Vạn con Chúa Hy Tông, gả làm Hoàng Hậu cho vua Chân Lạp Chey Chetta II vào năm 1620, mở đầu việc chính quyền Chúa Nguyễn kinh dinh đất Prey Kôr, tức là Sài Gòn Chợ Lớn sau này. Sự nghiệp của Công Nữ Ngọc Vạn ở Cao Mên cũng như công trạng của Công Nữ Ngọc Vạn đối với dân tộc Việt Nam đem so sánh với sự nghiệp và công trạng của Công Chúa Huyền Trân đời Trần thì to lớn hơn nhiều lần, thế mà chính sử nhà Nguyễn, vì tinh thần tự tôn dân tộc nghĩ rằng việc gả con cho người nước ngoài là việc không đẹp, nên về thân thế thì ghi là "khuyết truyện", còn về sự nghiệp thì đã không chép được một câu. Trong những trường hợp khác thì sử thần nhà Nguyễn dấu nhẹm những sự kiện lịch sử mà luân lý phong kiến phương đông cho là đi ngược đạo lý. Thí dụ như trường hợp Chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần là con Chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát với một bà Công Nữ em con chú con bác với Chúa Võ Vương (Công nữ Ngọc Cầu, con gái Dận quận công Nguyễn Phúc Điền). Việc hợp hôn như vậy theo quan điểm đạo lý Á Đông là loạn luân, bởi thế chính sử nhà Nguyễn không đả động đến chuyện đó, mặc dù sự kiện này vô cùng trọng đại đối với tương lai vương nghiệp nhà Cựu Nguyễn, vì đã mở đầu cho việc Chúa Võ Vương bỏ trưởng lập thứ, đưa đến việc Trương Phúc Loan chuyên quyền và anh em nhà Tây Sơn khởi nghĩa, khiến cơ nghiệp họ Nguyễn chút nữa thì tiêu vong, dòng dõi họ Nguyễn chút nữa thì tuyệt diệt.
            Vậy thì đã lại tái diễn việc chính sử nhà Nguyễn lược qua không đả động đến dữ kiện Hoàng Đế Gia Long sách lập Công Chúa Lê Ngọc Bình làm Đệ Tam Cung. Lý do cũng vẫn là ý thức hệ phong kiến nho giáo ràng buộc người phụ nữ vào khuôn phép tứ đức tam tòng, chồng chết thì chết theo chồng hoặc ở vậy chứ không được lấy chồng khác. Lý do cũng vẫn là ý thức hệ phong kiến nho giáo ràng buộc người nam nhi khi xuất khi xử luôn luôn phải tuân thủ đạo nghĩa tam cương ngũ thường, phân biệt minh bạch chính thống và tà ngụy. Bởi vậy, sử thần nhà Nguyễn đã cho rằng chuyện Công Chúa Lê Ngọc Bình vốn là người cũ của Ngụy Tây mà được sách lập làm Đệ Tam Cung là chuyện không đẹp, nên lược qua không đề cập đến. Thái độ này phản ánh dư luận đa số trong giới phong kiến nho sĩ đương thời mà rõ nét nhất là những câu chuyện truyền tụng về những lời lẽ của triều thần can gián nhà vua. Tuy nhiên, những lý lẽ phản bác rất chính đáng của vua Gia Long cũng lại đã cho thấy ý chí không thể lay chuyển của nhà vua trong quyết định sách lập Công Chúa Lê Ngọc Bình làm Đệ Tam Cung. Hành động của Vua Gia Long không phải là hành động của con người bình thường tiếc ngọc thương hoa, cho dù Công Chúa Lê Ngọc Bình có là công chúa con vua trẻ đẹp, tuổi tác chưa được hai mươi. Hành động của Vua Gia Long là hành động đã suy tính kỹ lưỡng, không vì tình nhi nữ nhỏ mọn ở chốn phòng khuê mà vì quyền lợi tối thượng của phe nhóm, của dòng họ, của triều đình, của chính nghĩa, của quốc gia đại sự. Thật thế, Vua Gia Long tuy đã thống nhất đất nước, thu Nam Bắc về một mối, nhưng lòng người Bắc Hà vẫn còn tưởng nhớ nhà Lê. Song song với việc thiết lập cơ chế Bắc Thành Tổng Trấn, cho địa phương được tự trị rộng rãi, cũng như song song với việc lục dụng con cháu nhà Lê vào các cơ quan nhà nước, tùy tài khiển dụng không phân biệt nam bắc, mới cũ, việc sách lập một công chúa Bắc Hà con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê vào một địa vị tôn quí ở chốn nội đình là một hành động tâm lý chiến sâu sắc của một chính trị gia bậc thầy, một hành động có tính toán kỹ lưỡng và khôn ngoan tuyệt cùng.

            Tóm lại, việc Vua Gia Long sách lập Công Chúa Lê Ngọc Bình làm Đệ Tam Cung là một sự kiện lịch sử có thật, rõ ràng và chính xác, mặc dù chính sử nhà Nguyễn đã không đề cập tới. Công Chúa Lê Ngọc Bình là em ruột Công Chúa Lê Ngọc Hân. Cả hai đều là Công Chúa Đông Đô, đều được sắc phong Hoàng Hậu Phú Xuân. Nhiều câu chuyện truyền tụng trong dân gian được thêu dệt chung quanh cuộc đời hai bà, đan kết vào nhau, lẫn lộn với nhau, thay đổi dần dà với thời gian và không gian, và đặc biệt là vì không mấy ai biết đến Công Chúa Lê Ngọc Bình mà chỉ biết có Công Chúa Lê Ngọc Hân mà thôi, nên cuối cùng, có nhiều chuyện là đời thực của bà này lại trở thành huyền thoại về bà kia.
            Vậy từ nay, chúng ta hãy dứt khoát khẳng định sự kiện Công Chúa Lê Ngọc Hân chỉ có một đời chồng, và chung cục của bà vẫn là giàu sang tôn quí. Bà là Bắc Cung Hoàng Hậu của Vua Quang Trung, và bà đã chết dưới triều Vua Cảnh Thịnh, khi nhà Tây Sơn chưa mất ngôi. Còn người phụ nữ lạ thường, đã là Công Chúa con vua lại lấy hai đời chồng vua là Công Chúa Lê Ngọc Bình, em ruột Công Chúa Lê Ngọc Hân. Công Chúa Lê Ngọc Bình là con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, có đời chồng thứ nhất là Vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn, và đời chồng thứ hai là Vua Gia Long nhà Cựu Nguyễn, đúng như câu ca dao trong dân gian vẫn còn tuyền tụng đến ngày nay :
            "Gái đâu có gái lạ đời,
            "Con vua lại lấy hai đời chồng vua.  
                                                                                                                                                                                                                                                 Minh Vũ  Hồ Văn Châm                                                                                                                                                                                                                                                                                             
Tài liệu tham khảo:

1. Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, Sơ Tập, Quyển 30, Ngụy Tây Liệt Truyện. Quốc Sử Quán, Huế. Bản dịch chép tay của Tạ Quang Phát.

2. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Công Chúa Liệt Truyện. Quốc Sử Quán, Huế.

3. Hoàng Triều Ngọc Phả, Bản Hán Văn và Bản Quốc Ngữ. Tôn Nhân Phủ, Huế.

4.Việt Sử : Xứ Đàng Trong. Phan Khoang, Xuân Thu, Houston, TX.

5. Hoàng Lê Nhất Thống Chí. Ngô Gia Văn Phái, Bản dịch Ngô Tất Tố, Cơ sở Xuất bản và Báo chí Tự Do, Sài Gòn, 1958.

6. Quốc Văn Thời Tây Sơn. Hoàng Thúc Trâm, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1950.

7. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, Tập II, Văn Học Lịch Triều : Việt Văn. Phạm Thế Ngũ, Quốc Học Tùng Thư, Dai Nam Co, Glendale, CA, 1982.

8. Một Vài Sử Liệu Về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ. Một Nhóm Học Giả, Dai Nam Co, Glendale, CA, 1992.

9. Documents historiques sur La Mission de Cochinchine. A. Launay, Archives des Missions Etrangères de Paris.
10. Tonkin, Volume 692, Volume 693. Archives des Missions Etrangères de Paris. Các bản trích dịch của Đặng Phương Nghi, Tập San Sử Địa, Sài Gòn.
11. Nam Phong Tạp Chí, số 103, phần Hán văn. Hà Nội, 1926.

12. Tạp Chí Tri Tân. Hà Nội, 1943.

13. Một Số Sử Liệu Về Các Nhân Vật Thời Tây Sơn. Ty Thông Tin Văn Hóa Nghĩa Bình, Qui Nhơn, 1980.

14. Ca dao và Triều Nguyễn. Tôn Thất Hứa, Tuyển Tập Nhớ Huế, số 8, Westminster, CA,1996.
















































Ý nghĩa ngày họp mặt

Quốc Học-Đồng Khánh




Thưa quý vị, quý thầy cô, quý bạn,

Hằng năm chúng ta họp mặt mỗi độ thu về để kỷ niệm ngày Quốc Học-Đồng Khánh.

Có người đưa ra nhận xét các cựu học sinh Quốc Học-Đồng Khánh hội họp hơi nhiều, hơi ồn ào, và nêu lên thắc mắc các cựu học sinh Quốc Học-Đồng Khánh hội họp như thế để làm gì?

           Tôi xin thưa :

Chúng ta, những cựu học sinh Quốc Học-Đồng Khánh, hội họp hằng năm để kỷ niệm ngày thành lập trường thì cũng giống như cựu học sinh các trường bạn trong Nam ngoài Bắc : trường Chu Văn An, trường Trưng Vương, trường Nguyễn Hoàng, trường Phan Châu Trinh, trường Võ Tánh, trường Petrus Ký, trường Gia Long, trường Phan Thanh Giản v.v. Y hệt cựu học sinh các trường bạn, chúng ta họp mặt để cùng nhau tưởng nhớ mái trường xưa, thầy cô và bạn bè ngày trước. Y hệt cựu học sinh các trường bạn, chúng ta họp mặt để cùng nhau sống lại đoạn đời thuở hoa niên, ngây thơ, trong sáng, vô tư lự. Y hệt cựu học sinh các trường bạn, chúng ta họp mặt để cùng nhau thăm hỏi tin tức thầy cô, bạn bè, ai vui ai buồn, ai sướng ai khổ, ai khỏe ai đau, ai còn ai mất.

Tuy nhiên, các cuộc họp mặt của chúng ta cũng có một vài điểm độc đáo, khiến cho những buổi hội họp của Quốc  Học-Đồng Khánh như hôm nay đây có phần nào khác biệt  với các buổi họp mặt cựu học sinh các trường bạn.

Điểm độc đáo nổi bật là Quốc Học-Đồng Khánh bao giờ cũng hội họp chung. Cựu học sinh các trường bạn tuy cũng thường tay đôi tổ chức những buổi họp mặt chỉ có riêng ta với mình, nhưng không thường xuyên và đương nhiên như Quốc Học với Đồng Khánh. Quốc Học với Đồng Khánh như hình với bóng. Ăn gì cũng ăn chung, nói gì cũng nói chung, viết gì cũng viết chung, làm gì cũng làm chung, tổ chức gì cũng tổ chức chung, kỷ niệm gì cũng kỷ niệm chung, y hệt như sinh hoạt của một đôi vợ chồng hòa thuận. Phải chăng vì hai ngôi trường Quốc Học và Đồng Khánh được xây cất liền sát bên nhau, chỉ cách nhau một con đường nhỏ với hai bờ tường thấp, cấu trúc lại giống nhau, thậm chí màu vôi tường và màu sơn cửa cũng giống nhau, lại thêm vẻ im lìm ảm đạm của mưa dầm gió bấc mùa đông và rộn rả tưng bừng của ve kêu phượng nở mùa hạ trong sân trường cũng giống nhau, cho nên cảnh sắc hài hòa của hai ngôi trường đã un đúc nên tinh thần dễ dàng cảm thông và chân thành hòa hợp trong tâm tư cựu học sinh Quốc Học-Đồng Khánh. Phải chăng vì hai ngôi trường Quốc Học và Đồng Khánh cùng quay mặt ra đường lớn dọc bờ sông Hương, để ngày ngày mấy buổi đi về, trong sương sớm đầu xuân hay dưới nắng chiều thu muộn, học sinh hai trường thấp thoáng bóng hình của nhau, cho nên sau này, dù có nổi trôi đến tận chân trời góc biển nào chăng nữa, trong lòng mỗi cựu học sinh Quốc Học-Đồng Khánh vẫn cứ vấn vương hoài niệm về những rung cảm nhẹ nhàng của tuổi vào đời, khiến họ dễ dàng tìm ra nền tảng đồng thuận trong các sinh hoạt có liên hệ đến mái trường xưa.

Nhưng Quốc Học-Đồng Khánh không giản đơn như hình với bóng chỉ vì những nguyên ủy lãng mạn trữ tình có tính chất cá nhân chủ nghĩa, mà còn vì những căn do nguồn cội khác, sâu lắng và cao xa, thấm nhuần tinh thần quốc gia dân tộc, và được tôi luyện kỹ càng xuyên suốt bề dày lịch sử dựng nước và giữ nuớc. Từ thuở chim trĩ trắng bộ Việt Thường nước Văn Lang, ở sân triều nhà Chu, luôn luôn ngóng về phương Nam, "Việt điểu sào nam chi", đến cuộc kháng chiến đời Hậu Trần với ý chí quật cường bất khuất của dân quân Hoá Châu khiến viên chủ tướng nhà Minh là Trương Phụ phải quyết liệt thề độc"Ta sống phen này là ở Hóa Châu, ta chết phen này cũng ở Hóa Châu", cho đến chủ lực quân của Nguyễn Huệ phá tan ba mươi vạn quân Mãn Thanh, và thân binh Thang Mộc ấp của Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà về một mối, thảy thảy đều là người Thuận Quảng, thậm chí gần đây, các phong trào quần chúng đòi hỏi nhà cầm quyền cải tiến dân sinh, mở rộng dân chủ đều bắt nguồn từ Huế, cả một chuỗi dài liên tục những sự kiện lịch sử đó đã un đúc nên tinh thần Huế, làm nền móng xây dựng bản chất con người Huế, con người miền Trung, con người Việt Nam bất khuất, yêu nước và thương nòi.

Cựu học sinh hai trường Quốc Học Đồng Khánh từ thuở hoa niên đã thấm nhuần tinh thần đó. Cựu học sinh hai trường Quốc Học Đồng Khánh, tản mác ra bốn phương trời, luôn luôn nuôi dưỡng tinh thần đó.

Vậy thì, hôm nay đây, tại cuộc hội họp này, nếu còn có bạn thắc mắc hội họp để làm chi, thì tôi xin thay mặt trả lời, cựu học sinh hai trường Quốc Học Đồng Khánh đã tổ chức buổi hội họp này để tưởng niệm trường xưa, thăm hỏi thầy cô, bạn bè, xiển dương truyền thống tôn sư trọng đạo, thể hiện tình nghĩa tương thân tương ái đối với đồng môn, đồng thời nuôi dưỡng và phát huy tinh thần vì nước quên mình, không vì danh lợi riêng tư mà lãng quên đại nghĩa dân tộc. 
                                                            Toronto, 12-10-1997
                                                         Minh Vũ Hồ Văn Châm






































Chuyện Ông Già

Sĩ Quan Tình Báo Chiến Lược



            Ông già ấy họ Lý, tên Thành Cầu. Già Lý là người Việt gốc Hoa, sinh trưởng ở Hải Phòng, công tác nhiều năm tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954, lập nghiệp ở Gò Vấp ngoại ô Sài Gòn, chủ hãng xì dầu Hai Con Bướm.

            Từ Sài Gòn lên, ngược đường Lê Quang Định, quá chợ Gò Vấp một quãng ngắn, rẽ tay mặt chừng 200 thước là thấy cơ ngơi của Già Lý. Khuôn viên hãng xì dầu Hai Con Bướm khá rộng, phía trước là cửa hiệu và nhà ở, phía sau là xưởng chế xì dầu và nhà kho. Ngoài đường nhìn vào thì cơ ngơi của Già Lý có vẻ khiêm tốn, như tự co rúm mình lại để tránh sự chú ý của khách bàng quan. Sản lượng xì dầu lớn lao nhường ấy, địa bàn tiêu thụ rộng rãi nhường ấy, mà mặt tiền cửa hiệu chỉ có cái bảng con con sơn vàng kẻ nét đỏ với hàng chữ quốc ngữ "Xì Dầu Hai Con Bướm" ở chính giữa, mấy chữ Hán "Song Điệp Tương Du" ở hai bên, cùng với số nhà, tên đường, tên thị trấn ở bên dưới. Già Lý có vợ người Việt Nam, có với bà này 3 mặt con. Già Lý cưới vợ sau ngày định cư lập nghiệp ở Gò Vấp, nên các con của Già Lý còn nhỏ tuổi. Ngoài ra, Già Lý còn có bà vợ tấm cám người Tàu và hai người con trai lớn sinh sống tại Hương Cảng. Đầu năm 1975, bà này mua sẵn vé máy bay Sài Gòn-Hồng Kông cho Già Lý và đích thân sang Sài Gòn nài nỉ Già Lý theo bà về Hồng Kông. Tuy nhiên, Già Lý nhận thấy tình cảm với người vợ cũ đã phai nhạt nên từ chối không chịu ra đi, quyết tâm ở lại với người vợ Việt. Gan ruột Già Lý đã cố kết với đất nước và con người miền Nam, Già Lý bỏ đi sao đành. Tuy tình hình chiến sự mỗi ngày một sôi động, nguy cơ mất nước mỗi ngày một rõ ràng, nhưng Già Lý hy vọng với thân phận tiểu thương tiểu chủ của mình, và với cung cách làm ăn khiêm tốn thật thà của gia đình mình, rất có nhiều khả năng "cách mạng" sẽ không bắt tội mình, vẫn để cho gia đình mình yên ổn làm ăn như cũ. Vậy mà mới sáng tinh mơ ngày 2 tháng 5 năm 1975, cán bộ an ninh nội chính đã tìm đến nhà, còng tay Già Lý dẫn đến Tổng Nha Cảnh sát cũ ở đường Võ Tánh tống giam và hỏi cung trong mấy năm trời, rồi đến năm 1979 thì chuyển Già Lý ra Trại Trừng giới Xuân Phuớc ngoài Phú Khánh. Tất cả những tình tiết trên đây dều do chính miệng Già Lý kể cho tôi nghe, chứ tôi chưa bao giờ quen biết một ai trong thân tộc hay bạn bè của Già Lý để nghe kể chuyện về Già Lý, cũng như tôi chưa bao giờ được nhìn tận mắt cơ ngơi sản xuất xì dầu của Già Lý, mặc dù năm 1989, tôi đã cất công đi lên Gò Vấp tìm thăm Già Lý, đi xuyên suốt tất cả các ngõ ngách bên này và bên kia lồng chợ, cả phía trái lẫn phía phải con đường, nhưng sao dời vật đổi, tôi chẳng tìm đâu ra dấu vết cửa hiệu xì dầu Hai Con Bướm của Già Lý.

            Tôi quen Già Lý tại Phân Trại C, Trại Cải Tạo Xuân Phước, thuộc huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Khánh, vào cuối năm 1982, lúc cả hai chúng tôi cùng được phiên chế ở chung một đội đưa vào giam giữ tại đó. Già Lý vóc người nhỏ thó, nói năng dịu dàng và lễ độ. Già Lý nói tiếng Việt rất lưu loát, phát âm đúng giọng chuẩn miền bắc, tuy sinh trưởng ở Hải Phòng nhưng giọng nói không nằng nặng như người Hải Phòng, trái lại nhẹ nhàng như giọng Hà Nội mà không phạm phải những lỗi phát âm sai lệch thông thường của người Hà Nội. Sẵn căn bản học thức, lại thêm vốn liếng văn hóa cố cựu của "thoòng dần" (Đường nhân, người Tàu hải ngoại), Già Lý nói năng văn hoa, chải chuốt, y hệt như những lời đàm thoại trong các truyện Tàu dịch ra Việt ngữ. Ai khen ngợi hay ngõ lời cám ơn, Già Lý luôn luôn đáp lại: "Không dám! Không dám!" Ai biếu xén chút quà bánh ăn lấy thảo, bao giờ Già Lý cũng cung tay trân trọng đón nhận và nhỏ nhẹ ngõ lời: "Đa tạ, đa tạ! Khước bất cung, thụ hữu quí!" (Cám ơn, cám ơn! Khước từ thì thiếu lễ phép, mà thụ nhận thì hổ thẹn xét mình không xứng đáng!). Ngay cả với những nguời lỗ mãng quen thói bộc trực, nói năng không rào trước đón sau, nắm vai kéo áo hỏi Già Lý: "Bác Cầu già rồi, làm cái gì mà bị bắt vào đây?", Già Lý vẫn từ tốn trả lời: "Ngài (hay ông, chú, anh ...) đã có lòng thương tưởng hỏi tới, tôi đâu dám không hết lòng giải bày cặn kẻ ngọn nguồn....". Đối với những ai đã phong thanh biết Già Lý trước đây là sĩ quan tình báo chiến lược của Trung Hoa Dân Quốc, nay muốn biết rõ Già Lý mang cấp bậc gì, thì Già Lý khiêm tốn rào đón: "Nói ra thêm hổ thẹn với mọi người, năm 45-46, tôi mang quân hàm Đại Tá". Đại loại, cung cách ăn nói của Già Lý là như vậy.

            Buổi đầu, câu chuyện trao đổi giữa tôi với Già Lý thường giới hạn trong địa hạt văn chương. Già Lý lại dạy tôi nói quan thoại và dạy một linh mục dòng Don Bosco nói tiếng Quảng Đông. Dạo đó, chúng tôi bị đưa đi giam cách ly ở Phân Trại C, nằm sâu trong thung lũng thượng nguồn La Hai. Chúng tôi không phải lao động nên vô cùng rỗi rãi. Không có sách vở báo chí để đọc, lại không được tiếp xúc với bên ngoài, suốt ngày vào ra cũng chỉ từng ấy khuôn mặt, nên chúng tôi chỉ còn lấy việc học ngoại ngữ và nói chuyện phiếm làm vui. Già Lý thường kể cho chúng tôi nghe những giai thoại trong khu rừng văn học Trung Quốc, nhiều chuyện lại có liên hệ đến Việt Nam như chuyện Mao Bá Ôn xướng họa với sứ giả nhà Mạc (xem Phụ lục). Tôi thích nhất câu chuyện Chu Nguyên Chương làm thơ sau đây.

            Chu Nguyên Chương xuất thân từ đám lục lâm thảo khấu, nổi loạn chống triều đình Mông Nguyên. Một hôm một mình một ngựa đến một sơn thôn, Chu Nguyên Chương thấy một cảnh chùa vô cùng u nhã nên rẽ cương vào chơi. Vị sư trụ trì vội vàng ra đón. Nhân thấy khách hành hương dung mạo hung tợn, y phục xốc xếch, hành tung khác thường, nhà sư lên tiếng chào hỏi:"Bần tăng xin ra mắt thí chủ. Dám xin thí chủ cho biết quý tính cao danh?". Chu Nguyên Chương trừng mắt, chắng nói chẳng rằng, vội vã lượm một mảng gạch viết ngay lên vách chùa mấy câu thơ sau đây:
                        "Sát tận Giang Nam bách vạn binh,
                        "Yêu gian bảo kiếm huyết do tanh.
                        "Sơn tăng bất thức anh hùng chủ,
                        "Nhiễu nhiễu do lai vấn tính danh!
(Giết sạch trăm vạn lính Giang Nam, Kiếm báu bên hông còn tanh máu. Thầy chùa xó núi không biết tới người đứng đầu anh hùng trong thiên hạ, Cứ mãi quấy rầy hỏi họ tên!). Viết xong, Chu Nguyên Chương quày ngựa ra đi, không thèm nói nửa lời. Sư trụ trì bây giờ đã biết khách là ai rồi, sợ quá, nếu quan quân triều đình thấy bài thơ thì chắc chắn sư phải rụng đầu, nên vội vàng lấy nước vôi tẩy xóa toàn bộ bài thơ, không còn một chút dấu tích. Thời gian sau, Chu Nguyên Chương đuổi được quân Mông Nguyên ra khỏi Trung Quốc, lên làm vua, tức là Minh Thái Tổ, vì vua sáng nghiệp nhà Đại Minh. Một hôm rỗi việc, Minh Thái Tổ chợt nhớ tới bài thơ duy nhất đã làm trong đời, nên hạ chỉ du hành đến ngôi chùa thuở nọ. Không còn thấy bài thơ trên vách, lại biết nhà sư đã lấy nước vôi tẩy xóa, nhà vua nổi giận, truyền lệnh đem nhà sư chém đầu. Nhà sư lanh trí, vội vàng phủ phục tâu rằng: "Hạ thần tội đáng chết ba họ, nhưng hạ thần có lý do chính đáng không lưu ngự thi trên vách, cúi xin Hoàng Đế Bệ Hạ cho thần tâu bày". Nhà vua chuẫn tấu. Sư trụ trì bèn đọc bài thơ sau đây:
                        "Ngự bút đề thi bất cảm lưu.
                        "Lưu thời quỹ khốc dữ thần sầu.
                        "Toại dụng pháp thủy khinh khinh tẩy,
                        "Do hữu hào quang xạ Đẩu Ngưu.
(Chính tay vua đề thơ mà không dám lưu, Nếu lưu lại thì quỹ khóc thần buồn (vì thơ hay quá). Vì thế phải dùng nước phép tẩy xóa nhè nhẹ, Tuy vậy hào quang vẫn bắn tới sao Đẩu sao Ngưu). Minh Thái Tổ khoái trí, cười ha hả, tha tội cho nhà sư, lại ban thưởng vàng bạc hậu hỉ.

            Chúng tôi sống với nhau ở tình trạng hoàn toàn cách ly với thế giới bên ngoài, như thế trong một thời gian khá dài, nên dần dà thông cảm nhau hơn, thân thiết nhau hơn. Già Lý không còn giữ thái độ dè dặt và khách sáo buổi đầu. Ngoài chuyện văn chương chữ nghĩa, Già Lý bây giờ vui miệng thổ lộ cho chúng tôi biết một phần nào cuộc đời phiêu bạt của mình, từ Hải Phòng lên Hà Nội, qua Liễu Châu, sang Hương Cảng, rồi quay lại Hải Phòng và cuối cùng định cư lập nghiệp tại Gò Vấp. Qua các mẫu chuyện của Già Lý, tôi được soi sáng nhiều điểm liên quan đến chính trường Việt Nam cận đại, nhất là giai đoạn những năm đầu thập niên 40. Già Lý được Trung Hoa Quốc gia tuyển dụng làm tình báo từ cuối thập niên 30, đặc trách vùng Hải Phòng và phụ cận. Cuối năm 1945, Già Lý được thuyên chuyển lên Hà Nội, công khai mang quân hàm Đại Tá và được bố trí làm việc trong ban Tham mưu chính trị của Tiêu Văn. Tư lệnh quân Tàu sang Việt Nam giải giới quân Nhật là Lư Hán, nhưng Lư Hán võ biền, không có ý thức chính trị, suốt ngày chỉ hút thuốc phiện và ăn của đút, mọi việc đều phó thác cho Tiêu Văn và Chu Phúc Thành. Hơn nữa, Lư Hán là tay chân của Long Vân, cho nên từ khi Long Vân bị Tưởng Giới Thạch thừa cơ đánh úp đoạt mất căn cứ địa Vân Nam, Lư Hán lại càng tỏ ra tiêu cực. Chính vào lúc này, tức là đầu năm 1946, Hồ Chí Minh đang gặp quá nhiều khó khăn, đã toan nhường quyền lại cho Bảo Đại, nhưng nhờ Tiêu Văn hết lòng giúp đỡ khuyến khích, Hồ Chí Minh mới qua được cơn ngặt nghèo. Từ lâu, Tiêu Văn đã có khuynh hướng thân cộng, nên đầu năm 1941, sau khi Hồ Chí Minh được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh đem ra khỏi ngục Liễu Châu, cho gia nhập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội và đưa lên làm Hậu Bổ Ủy Viên, Tiêu Văn đã cùng Ngô Trạch bảo cử cho Hồ Chí Minh xung phong lãnh đạo đoàn công tác của Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, xâm nhập vào Việt Bắc làm gián điệp, lấy tin tức hoạt động của quân Nhật cung cấp cho Đồng Minh. Hồ Chí Minh lãnh tiền bạc, chọn cán bộ, lấy danh nghĩa quốc gia và danh xưng Việt Minh của Đồng Minh Hội, về Việt Bắc hoạt động cho Đồng Minh Hội nhưng chỉ chuyên tâm làm việc riêng tư cho phe đảng. Già Lý có đề cập đến một thiếu nữ cán bộ Đồng Minh Hội tên là Đỗ Thị Lạc trong đoàn công tác đã bị Hồ Chí Minh quyến rũ, sau sinh hạ một người con gái. Lúc này, phái đoàn quân sự Pháp đã tiết lộ với Trùng Khánh thành tích cộng sản của Nguyễn Ái Quốc và cho biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn Ái Quốc, nên Chính phủ Trùng Khánh không ưa gì Hồ Chí Minh, một mặt vì đã được biết Hồ Chí Minh là cộng sản, mặt khác vì Hồ Chí Minh thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội ngày 19 tháng 5 năm 1941 mà vẫn nhập nhằng lấy tên tắt là Việt Minh, lạm dụng chiêu bài quốc gia dân tộc để bành trướng ảnh hưởng chính trị riêng của phe nhóm. Chính phủ Trùng Khánh ra lệnh cho Trương Phát Khuê ngăn cản hoạt động của Hồ Chí Minh. Tiêu Văn và Ngô Trạch bèn gỡ rối cho Hồ Chí Minh bằng cách hiến kế với Trương Phát Khuê để cho Hồ Chí Minh tham gia Chính phủ Liên Hiệp Lâm Thời thành lập tại Liễu Châu ngày 28 tháng 3 năm 1944 do Trương Bội Công làm Chủ Tịch, Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Hồ Chí Minh, Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật, Nghiêm Kế Tổ làm Ủy Viên. Đó là chính phủ liên hiệp quốc cộng lần thứ nhất. Nhờ vào chính phủ liên hiệp này mà Hồ Chí Minh tạm thời được yên thân với phía Trùng Khánh. Nhưng qua mùa hè 1945, sau khi liên hệ được với tổ chức OSS của Mỹ ở Vân Nam, nhất là sau khi Thiếu Tá Allison K. Thomas chỉ huy một toán chuyên viên OSS nhảy dù xuống Việt Bắc huấn luyện tác chiến và trang bị vũ khí cho du kích Việt Minh, thì Hồ Chí Minh ngang nhiên cắt đứt liên hệ với chính phủ Trương Bội Công, thành lập Ủy Ban Giải Phóng Dân Tộc, chuẩn bị chớp thời cơ tổng khởi nghĩa. Nay cướp được chính quyền rồi thì Hồ Chí Minh lại gặp khó khăn với phe quốc gia. Tờ Thiết Thực của Phan Quang Đán ở Ngũ Xã và tờ Việt Nam của Khái Hưng ở Quan Thánh ngày nào cũng có bài cay độc chửi rũa phe cộng sản. Chính phủ Trùng Khánh lại liên tục thôi thúc Lư Hán yểm trợ phe quốc gia lật đổ Hồ Chí Minh. Lần này, Tiêu Văn cũng lại dùng nước cờ liên hiệp quốc cộng để gỡ bí cho Hồ Chí Minh. Tiêu Văn làm áp lực với Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội để họ tham gia chính phủ liên hiệp quốc cộng lần thứ hai do Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch, Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch, với 10 Bộ Trưởng gồm 4 cộng sản, 2 không đảng phái, 2 Việt Nam Quốc Dân Đảng, và 2 Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội. Lãnh tụ các đảng Đại Việt (Trương Tử Anh), Duy Dân (Lý Đông A), Quốc Xã (Nguyễn Xuân Tiếu), nhất quyết không tham gia chính phủ liên hiệp nên Hồ Chí Minh để tâm oán thù, trước sau đều bị Hồ Chí Minh sát hại. Khi ký kết hiệp định sơ bộ với Pháp ngày 6 tháng 3 năm 1946, Nguyễn Tường Tam không chịu phó thự thì Tiêu Văn lại làm áp lực khuyến cáo Vũ Hồng Khanh ký thay. Tiêu Văn cố tình làm ngơ không thi hành các chỉ thị của Trùng Khánh. Do đó mà Hồ Chí Minh qua được cơn sóng gíó ngặt nghèo, và bọn Lư Hán, Tiêu Văn tránh được việc đụng đầu với quân đội Pháp, yên ổn rút về Trung quốc với tiền bạc châu báu cướp đoạt được. Già Lý cho biết là về sau Ngô Trạch bị chính phủ Tưởng Giới Thạch xử tử hình; Tiêu Văn thì không chạy ra Đài Loan mà ở lại lục địa với Trung cộng, cam phận hàng thần lơ láo rồi bị cho về hưu non; còn Lư Hán thì bị đưa đi cải tạo dài hạn.

            Già Lý cũng xác nhận với tôi là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, được thành lập tại Nam Kinh từ năm 1936, chứ không phải như các tác giả ở Sài Gòn trước năm 1975 viết rằng Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội được thành lập ở Liễu Châu vào đầu thập niên 40. Có tác giả còn khẳng định là Nguyễn Hải Thần triệu tập ở Liễu Châu một Đại Hội họp từ ngày 4 đến ngày 10 tháng 10 năm 1942 để thành lập Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội. Sự thực thì Đồng Minh Hội trước đã có mặt ở Nam Kinh, đến đầu Thế chiến II thì trụ sở dời về Liễu Châu để được Tướng Tư Lệnh đệ IV Quân Khu Trương Phát Khuê trực tiếp yểm trợ. Vào năm 1940 thì Đồng Minh Hội bị cộng sản đệ tam xâm nhập trầm trọng. Qua năm 1941 thì Đồng Minh Hội bị Hồ Chí Minh cưỡng đoạt mất danh xưng Việt Minh. Đại Hội Liễu Châu tháng 10 năm 1942 chỉ là để chấn chỉnh lại tổ chức chứ không phải là để thành lập tổ chức. Sau này, ra hải ngoại, có dịp tham khảo các thư tịch tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa, nhiều tác giả Việt Nam hải ngoại đã xác định là Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội do Nguyễn Hải Thần thành lập năm 1936 tại Nam Kinh.

            Già Lý cũng bàn luận nhiều về vai trò của chính phủ Trùng Khánh trong việc kết hợp 3 đảng Việt Nam Quốc Dân Đảng , Đại Việt Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng thành Quốc Dân Đảng Việt Nam hay Mặt Trận Quốc Dân Đảng. Việc này được thực hiện vào tháng 5 năm 1945. Trước đó, chính phủ Trùng Khánh soạn thảo kế hoạch "Hoa Quân nhập Việt", trong đó có điểm chính yếu là phải liên minh với một tổ chức chính trị có thực lực của người Việt Nam để làm hậu thuẫn chính trị cho quân đội Trung Hoa vào Việt Nam giải giới quân Nhật. Tình báo Trung Quốc phân tích tình hình các chính đảng Việt Nam đương thời và nhất loạt loại bỏ nhóm Đại Việt Quốc Gia Liên Minh thân Nhật và các tổ chức cộng sản đệ tam và đệ tứ. Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội đương nhiên là thân hữu với Trung Quốc, nhưng không có cơ sở trong nước. Đại Việt Dân Chính Đảng thì đã hoàn toàn tan rã, anh em Nguyễn Tường Tam đã trốn qua Côn Minh tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tàn dư lực lượng Kiến Quốc Quân của Trần Trung Lập và Đoàn Kiểm Điểm ở trong nước chẳng còn gì; số ít chạy được qua Trung Quốc thì tập trung gần biên giới Hoa Việt bên trên Đông Hưng dưới sự chỉ huy của Vi Văn Lưu, hay tập hợp ở Liễu Châu để thành lập Đại Việt Duy Dân Đảng dưới sự lãnh đạo của Lý Đông A. Nhìn đi nhìn lại thì chỉ còn có Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Quốc Dân Đảng là có thực lực, có cơ sở quần chúng, có lãnh đạo chặt chẻ. Nhưng Việt Nam Quốc Dân Đảng lại bị phân hóa thành nhiều nhóm. Tân Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thế Nghiệp, Ngô Thúc Địch, Nhượng Tống ở Hà Nội không lãnh đạo được nhóm Quảng Nam của Phan Khôi, Phan Kích Nam. Trên đất Trung Quốc thì các nhóm ở Nam Kinh, Quảng Châu, Quí Châu, Côn Minh, tất cả đều thân hữu với Trung Quốc, nhưng mỗi nhóm một chợ, không ai chịu ai. Tuy nhiên, nhìn chung thì nhóm Côn Minh tức là Việt Nam Quốc Dân Đảng Trung Ương Đảng Bộ Hải Ngoại Chấp Hành Ủy Viên Hội do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo là có thực lực hơn cả. Trong lúc đó thì tình báo Trung Quốc nhận định rằng Đại Việt Quốc Dân Đảng do Trương Tử Anh lãnh đạo trải rộng địa bàn hoạt động khắp nước, lãnh đạo lại thống nhất, đảng viên đa số là tiểu tư sản trí thức, đúng là đối tượng lý tuởng để liên minh liên kết trong chiến dịch "Hoa Quân nhập Việt". Tuy vậy, vẫn còn một trở ngại lớn là chủ trương triệt để dân tộc (thuyết dân tộc sinh tồn) của Đại Việt Quốc Dân Đảng. Mặt khác, người Tàu cảm thấy rất khó chịu về danh xưng Đại Việt. Từ ngàn xưa, người Tàu đã bị ám ảnh bởi câu nói của Tư Mã Thiên: "Đời Nhị Thế Hoàng, nhà Tần phía bắc thì khổ vì nạn người Hồ, phía nam thì khổ vì nạn người Việt". Thực vậy, mười vạn quân Tần cùng với chủ tướng Đồ Thư đã phải phơi thây trên đất Quảng Tây và Việt Bắc, để rồi cuối cùng, Triệu Đà dựng cờ cát cứ ở Quảng Đông, lập ra nước Nam Việt, lấy rặng Ngũ Lĩnh làm cương giới. Cuối đời Ngũ Đại, cha con Lưu Ẩn, Lưu Cung lập ra nước Đại Việt (về sau Lưu Cung đổi lại là Nam Hán) trên đất Lĩnh Nam, mở đường cho Ngô Quyền chiến thắng trận Bạch Đằng và Đinh Bộ Lĩnh lập nên nước Đại Cồ Việt. Từ Lý Trần về sau thì là nước Đại Việt. Gia Long lên ngôi, yêu cầu nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, nhưng người Tàu nghi ngại, đổi lại là Việt Nam. Minh Mạng đặt lại tên nước là Đại Nam cho đến Bảo Đại ngày 4 tháng 5 năm 1945 đổi lại là Việt Nam. Nhưng đấy là vua ta xưng với thần dân trong nước hay với vua chúa các lân bang, chứ đối với Trung Quốc thì Đinh và Tiền Lê chỉ là Giao Chỉ Quận Vương, Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê là An Nam Quốc Vương, Nguyễn là Việt Nam Quốc Vương. Bởi các lẽ trên đây, chính phủ Trùng Khánh tìm cách liên minh với lực lượng Đại Việt Quốc Dân Đảng mà tránh né danh xưng Đại Việt bằng cách dồn mọi nỗ lực vào việc làm trung gian kết hợp Đại Việt Quốc Dân Đảng với Việt Nam Quốc Dân Đảng Trung Ương Đảng Bộ Hải Ngoại Chấp Hành Ủy Viên Hội. Từ cơ sở trong Chợ Lớn, Đặc Ủy Tình Báo Trung Hoa Dân Quốc đầu năm 1945 phái người ra Hà Nội liên lạc thương lượng với Trương Tử Anh. Kết quả là ngày 12 tháng 4 năm 1945, Trương Tử Anh gửi phái đoàn Nguyễn Tiến Hỷ đi Trung Quốc thương lượng với lãnh đạo Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đại Việt Dân Chính Đảng để thống nhất 3 đảng thành Quốc Dân Đảng Việt Nam. Phân tích diễn biến các buổi thương lượng qua việc thỏa hiệp về danh xưng của tổ chức mới, ta sẽ thấy rõ dụng tâm của chính phủ Trùng Khánh. Trước hết, Nguyễn Tiến Hỷ gặp Nguyễn Tường Tam ở ga Khai Viễn; Nguyễn Tường Tam thỏa thuận đem Đại Việt Dân Chính Đảng nhập vào Đại Việt Quốc Dân Đảng. Sự thỏa hiệp có phần dễ dàng vì Nguyễn Tường Tam có tinh thần quốc gia sôi nổi, vã lại lúc này, Đại Việt Dân Chính Đảng không còn cơ sở hạ tầng, bản thân Nguyễn Tường Tam cũng phải nương nhờ Vũ Hồng Khanh. Tiếp theo, Nguyễn Tiến Hỷ cùng với Nguyễn Tường Tam lên Côn Minh gặp Vũ Hồng Khanh. Hai bên thỏa thuận là tổ chức mới kết hợp 3 đảng, ở trong nước thì lấy tên là Đại Việt Quốc Dân Đảng, còn ở Trung Quốc thì lấy tên là Quốc Dân Đảng Việt Nam, tránh dùng danh xưng Đại Việt vì lý do tế nhị trong giao tế với bạn đồng minh Trung Hoa. Cờ thì lấy cờ của Đại Việt Quốc Dân Đảng. Sau đó thì các đại biểu của 3 đảng kết hợp trong tổ chức mới lên Trùng Khánh gặp Bí Thư Trưởng Trung Hoa Quốc Dân Đảng Ngô Thiết Thành, yết kiến Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch, và dự lễ liên hoan do Quốc Dân Đảng Trung Quốc tổ chức chào mừng Quốc Dân Đảng Việt Nam. Trong văn bản công nhận Quốc Dân Đảng Việt Nam, viết bằng Hán tự, Quốc Dân Đảng Việt Nam trở thành Việt Nam Quốc Dân Đảng, theo đúng mẹo luật văn phạm Hán tự. Vậy là mọi chuyện được diễn tiến theo đúng ý đồ của Trùng Khánh, Đại Việt Quốc Dân Đảng nhập vào Việt Nam Quốc Dân Đảng, đã mất danh xưng lại còn mất luôn cả đảng kỳ, mà Nguyễn Tiến Hỷ không có lý do gì để phản đối. Vã chăng, Nguyễn Tiến Hỷ bản chất thụ động, không phải là người dám ăn dám nói, hoặc giả Nguyễn Tiến Hỷ không đủ sắc bén để nhận thức được dụng tâm của người đối thoại ngay từ buổi thỏa hiệp tại Côn Minh.

            Dù sao thì đấy cũng chỉ là quan điểm của người Trung Quốc. Đối với người Việt Nam quốc gia chủ nghĩa, ngoại trừ một vài phần tử có những ý đồ riêng tư, tuyệt đại bộ phận đảng viên của 3 đảng, từ trung ương đến hạ tầng, tất cả đều xem việc kết hợp 3 đảng thành một tổ chức duy nhất là sự thể hiện trọn vẹn tình tự dân tộc, chung sức chung lòng, để mưu cầu độc lập cho quốc gia, hạnh phúc cho quốc dân đồng bào. Từ ngày kết hợp và ra sinh hoạt công khai, tuy Đại Việt Quốc Dân Đảng chống lại áp lực của Tiêu Văn không chịu tham gia chính phủ liên hiệp Hồ Chí Minh, nhưng theo đúng tinh thần kết hợp, đảng viên kỳ cựu các cấp đều chỉ xưng mình là Quốc Dân Đảng, đảng viên mới tuyên thệ tham gia cũng chỉ biết mình là Quốc Dân Đảng. Bởi vậy, sau ngày bị cộng sản phản bội ra tay đánh diệt, Quốc Dân Đảng tan rã, các đảng thành viên trở lại sinh hoạt riêng rẽ, thì không những người ngoài mà ngay cả những người trong 3 đảng, mấy ai biết Đỗ Đình Đạo với Cung Đình Quỳ là Quốc Dân Đảng gốc Việt Quốc hay Quốc Dân Đảng gốc Đại Việt, và sách vở do anh em Việt Quốc trước tác thường vẫn ghi Bữu Hiệp và Nguyễn Trung Thuyết là những cán bộ lãnh đạo nòng cốt của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

            Mà ngẫm cho cùng thì đó cũng là một điều tốt đẹp. Họ là những người viết nên lịch sử dân tộc của một thời. Việc gì phải mất công phân định tách bạch họ là Việt Nam Quốc Dân Đảng hay Đại Việt Quốc Dân Đảng. Chỉ cần biết họ là những người Việt Nam yêu nước quốc gia chủ nghĩa. Bằng cách này hay cách khác, họ đã lần lượt trở nên người thiên cổ. Hình hài họ đã tiêu tan thành tro bụi. Chỉ còn tấm lòng son sắt yêu nước thương nòi lưu lại ngàn sau.

            Ông già Lý Thành Cầu có lẽ cũng đã trở nên người thiên cổ. Đã chết thì hết chuyện.

                                                            Tháng mười hai, 1998

                                                         Minh Vũ Hồ Văn Châm

Phụ Lục:
                                   
    I. Vịnh Cánh Bèo
                        Nguyên xướng của Mao Bá Ôn:

            Tùy điên trục thủy mạo ương châm,
            Đáo xứ khan lai thực bất thâm.
            Không hữu bản căn không hữu cán,
            Cảm sinh chi tiết cảm sinh tâm.
            Đồ từ tụ xứ minh tri tán,
            Đản thức phù thì ná thức trầm.
            Đại để trung thiên phong khí ác,
            Tảo qui hồ hải tiện nan tầm.

                        Lược dịch:

            Ruộng nước lênh đênh nhỏ tựa kim,
            Nơi nơi trông thấy mọc nông mèm.
            Đã không cành cỗi còn không gốc,
            Dám có rễ mầm lại có tim.
            Nào biết nơi tan duy biết tụ,
            Chỉ hay khi nổi nọ hay chìm.
            Giữa trời giông tố thình lình nổi,
            Quét bạt ra khơi hết kế tìm.

                       
                        Bài họa của Đại biểu nhà Mạc:

            Cẩm lân mật mật bất dung châm,
            Đối diệp liên căn bất kế thâm.
            Thượng dữ bạch vân tranh thủy diện,
            Khẳng giao hồng nhật chiếu ba tâm.
            Thiên tùng lãng đả thành nan phá,
            Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm.
            Đa thiểu ngư long tàng giá lý,
            Thái công vô kế hạ câu tầm.

                        Lược dịch:

            Vẫy gấm khen dầy chẳng lọt kim,
            Lá liền rễ mọc kệ nông mèm.
            Mây bạc không cho soi thủy diện,
            Ánh hồng đâu dễ dọi ba tâm.
            Sóng dồn ngàn lớp không xô vỡ,
            Gió dập muôn cơn khó đánh chìm.
            Rồng cá ít nhiều nương dưới đó,
            Cần câu Lã Vọng hết mong tìm.                    



                    II. Điện thư của con trai
          Ông Già Sĩ Quan Tình Báo Chiến Lược
Sun, October 11, 2009 4:49:12 PM
From:
ly tai    

To:
chamho@yahoo.com



Chào ông Minh Vũ Hồ Văn Châm,

Hôm nay tình cờ đọc được bài viết của ông, cháu rất xúc động vì 2 lý do:
Thứ nhất là nhận thấy được trên thế gian này còn có những "tấm lòng son sắt yêu nước thương nòi lưu lại ngàn sau" (như ông đã viết).
Thứ hai là chuyện cá nhân gia đình: ông Già Lý là người cha mà tôi đã từng mang lòng kính mến. Nay lại được nghe ông kể lại những thời gian ngục tù chua xót của cha tôi mà tôi chưa bao giờ được biết rõ ràng như thế?
Một lần nữa, cháu xin cám ơn ông đã khách quan và để cho người đời nói chung và chúng tôi, con cháu của Ông Lý thành Cầu, nói riêng, được biết rõ một chút ngõ quanh của lịch sử nước nhà.
Về việc những điều mà cha tôi đã nói, tôi tin là có thật, vì ông đã không bao giờ dạy cho chúng tôi nói dối. Chuyện hãng xì dầu con Bướm ở Gò Vấp cũng là có thật, ở đường Trung Dũng Gò Vấp, tôi đã từng đến đấy nhiều lần chạy tung tăng khắp xưởng lúc còn nhỏ. Tôi lúc nào ũng rất hãnh diện về người cha chính trực của mình và lấy đó làm nghị lực cho cuộc sống của mình.
Kính chúc ông đuợc mạnh khoẻ và thật nhiều an vui.

Lý Tài





No comments: