Saturday, April 12, 2014

HO CHI MINH A LIFE II


HO CHI MINH A LIFE

  WILLIAM DUIKER


2. Con ngựa hoang


Mặc dù không có những ghi chép chính xác về các hoạt động của Thành sau khi rời Việt nam, những bằng chứng thu thập được cho phép dự đoán rằng phần lớn thời gian của Thành dành cho việc lang thang trên biển và đi qua khắp 5 châu. Vào thời đó, chế độ thực dân châu Âu đã thuộc địa hóa hầu như cả thế giới. Trên các bến cảng Á, Phi, Mỹ la tinh, những người dân bản xứ xun xoe thoả mãn nhu cầu của các ông chủ da trắng. Trong các tác phẩm sau này, Hồ Chí Minh đã miêu tả sự tàn bạo của các ông chủ và sự khốn cùng của dân lao động một cách hết sức ấn tượng. Có thể phần lớn các quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh đã được hình thành trong giai đoạn này.

Tàu "Đô đốc Latouche Treville" là một tàu nhỏ đối với các tàu vượt đại dương, dài khoảng 400 fut và có trọng tải nhỏ hơn 6000 tấn. Vì thế cuộc sống của Thành trên tàu hết sức vất vả. Tuy nhiên anh vẫn nhìn đời một cách hóm hỉnh: "nhân vật của chúng ta vừa huýt sáo vừa chùi toa lét và đổ rác". Một trong những đối thủ chính trị của Hồ Chí Minh sau này, ông Bùi Quang Chiêu đã tình cờ gặp Thành trong chuyến đi. Ông lấy làm kinh ngạc sao một người thông minh như Thành lại chấp nhận một thứ lao động khổ sai như vậy. Thành chỉ cười và nói, anh cần đi đến Pháp để đòi sửa lại bản án cho cha.

"Đô đốc Latouche Treville" cập bến Marseilles ngày 6 tháng bảy năm 1911 sau khi đã qua Singapore, Colombo và Port Said. Thành nhận được những đồng lương đầu tiên khoảng 10 frances. Chừng đó chỉ đú cho vài ngày trên bờ, nhưng Thành đã có thể dừng bước uống cafe trên đường Cannebiere, để được gọi bằng "Ngài". Thành ngạc nhiên kết luận: "Người Pháp ở Pháp tốt hơn và lịch sự hơn người Pháp ở Đông dương". Sau khi tìm hiểu các hang cùng, ngõ hẻm, gặp gỡ đủ các loại đĩ bợm ở đây, Thành tự hỏi, tại sao người Pháp lại không khai hoá văn mình cho đồng bào chính quốc trước.

Thành quay lại tàu trước khi nó nhổ neo và đến Le Havre ngày 15 tháng 7. Sau đó "Đô đốc Latouche Treville" giong buồm đi Dunkirk, rồi quay về Marseilles và neo ở đó đến giữa tháng 9. Từ đó,Thành đã viết một bức thư gửi thẳng cho tổng thống Pháp. Quả là một sự kiện gây tò mò, và đáng để in toàn văn bức thư ở đây:


Marseilles

15 tháng 9 năm 1911
Thưa ngài Tổng thống!
Tôi rất rất lấy làm vinh dự được nhờ ngài một việc nhỏ để có thể được vào học tại trường Thuộc địa như một sinh viên thực tập.
Hiện tại, để kiếm sống, tôi đang phải làm việc tại hãng Chargeurs Réunis (tàu đô đốc LT). Tôi đang bị bỏ rơi và rất muốn có được một nền giáo dục đầy đủ. Tôi muốn trở thành có ích cho nước Pháp về vấn đề các đồng bào của tôi, và giúp họ có thể được hưởng những thành quả của giáo dục. Tôi sinh tại tỉnh Nghệan thuộc Annam .Vô cùng biết ơn Ngài Tổng thống đã ra tay cứu giúp
Nguyễn Tất Thành
Sinh năm 1892
Con ông Nguyễn Sinh Huy (Tiến sĩ)
Sinh viên Pháp ngữ và Hán ngữ

Trường Thuộc địa được thành lập năm 1885 nhằm mục đích đào tạo nhân viên cho bộ máy cai trị của Pháp tại thuộc địa, có khoảng 20 học bổng cho các sinh viên từ Đông Dương. Một số nhà nghiên cứu tỏ ra ngạc nhiên về quyết định xin học của Thành, họ cho rằng có thể lúc đó Thành đã từ bỏ giấc mộng ái quốc để đeo đuổi con đường công chức. Tuy nhiên, thực ra quyết định này chẳng có gì khác với việc gia nhập Quốc học Huế. Rõ ràng là Thành chưa quyết định được mình sẽ phải chọn con đường nào để cứu nước. Và điều có ích nhất bây giờ là tiếp tục sự nghiệp học hành. Trong bức thư viết cho chị cậu mùa hè năm 1911, Thành cũng đã nói với chị là sẽ đi học tại Pháp khoảng 5-6 năm. Cũng có thể đây chỉ là một động tác “qua người” đẹp mắt, mà sau này Hồ Chí Minh cũng đã nhiều lần sử dụng, nguỵ trang cho ý đồ đích thực của mình nhằm đạt được mục đích cuối cùng.

Từ Marseilles, tàu "Đô đốc Latouche Treville" về Việt nam và cập bến Sài gòn vào khoảng giữa tháng 10, Thành rời tàu và tìm cách gặp cha. Từ khi mất việc, Sắc lang thang bán thuốc nam và dạy học trong khắp Nam bộ. Thậm chí có lần còn bị bắt vì say rượu. Mặc dù rất có thể trong khoảng thời gian đó, ông đang ở loang quanh Sài gòn, nhưng không có bằng chứng là hai cha con đã gặp nhau. Ngày 31/10/1911, Thành viết một lá thư cho Toàn quyền Pháp tại Annam, giải thích về việc cha con chia cách đã 2 năm và nhờ chuyển cho cha một khoản tiền nhỏ nhưng không được trả lời.

Quay trở lại Marseilles, Thành nhận được tin là đơn xin học của mình đã bị từ chối. Nhà trường chỉ nhận những học sinh được toàn quyền Đông Dương giới thiệu. Khi tàu được đưa lên bờ sửa chữa tại Le Havre, Thành quyết định ở lại. Anh xin vào làm vườn cho một chủ tàu ở Sainte-Addresse, một khu nghỉ mát đã nổi tiếng nhờ những bức tranh mà Monet vẽ tại đây. Hàng ngày, lúc rảnh rỗi anh lang thang trong thư viện của ông chủ hoặc luyện tiếng Pháp với con gái ông chủ. Có thể là Thành đã đi Paris gặp Phan Chu Trinh trong thời gian này. (Theo một số nguồn tin, ông Sắc đã viết cho Thành một thư giới thiệu cho Trinh khi cậu rời Việt nam). Nếu họ gặp nhau, chắc chắn chủ đề sôi nổi nhất là cuộc cách mạng dân quyền của Trần Dân Tiên lật đổ triều đình nhà Thanh để thành lập một nước cộng hoà kiểu phương Tây.

Thành có quan hệ rất tốt với chủ nhà, và chính ông này đã giới thiệu cậu cho một con tàu đi châu Phi cũng của hãng Chargeurs Reunis. Mặc dù nhiều người ngăn cản, Thành vẫn quyết chí ra đi. Anh đã đến một loạt các nước Á-Phi, bao gồm Algeria, Tunisia, Morroco, India, Indochina, Saudi Arabia, Senegal, Sudan, Dahomey và Madagascar. Anh bị mê hoặc bởi những điều nghe được, học được. Những cảnh tượng kinh hoàng của chế độ thuộc địa cũng gây cho anh những xúc động sâu sắc. “Đối với bọn thực dân, tính mạng những người dân thuộc địa không đáng 1 đồng xu.”

Trong những năm đó, Thành đã đến nhiều hải cảng trên Tây bán cầu. Sau này, HCM đã kể lại cho những người bạn Cuba của mình rằng ông đã đến Rio và Buenos Aires. Con tàu của anh cũng đã ghé qua bờ Đông nước Mỹ, và Thành đã chọn NewYork làm nơi dừng chân của mình. Anh rời tàu và quyết định tìm việc để ở lại nước Mỹ. Giai đoạn này là một trong những giai đoạn mù mờ nhất trong cuộc đời Hồ Chí Minh. Theo lời ông và một số người quen biết khác, anh đã làm đầy tớ cho một gia đình giàu có ở New York với mức lương “trên trời” là 40$/tháng. Ngoài giờ làm việc, Thành lang thang với bạn trong khu China town, ngửa cổ ngắm những toà nhà chọc trời NewYork, tham dự các cuộc họp của hội da đen Harlem, và ngạc nhiên khi thấy pháp luật công nhận sự bình đẳng của những kẻ nhập cư châu Á. Sau này, một đoàn đại biểu các nhà hoạt động hoà bình Mỹ đã hỏi Hồ Chí Minh: tại sao ông lại đến nước Mỹ? Hồ Chí Minh đã trả lời, ông nghĩ là nước Mỹ là biểu tượng chống chủ nghĩa thực dân châu Âu và sẽ giúp Việt nam giành độc lập. Nhưng ông đã nhầm. Hồ Chí Minh còn nói là ông đã từng sống ở Boston và làm bánh ngọt cho khách sạn Parker House. Ông cũng đã đi thăm một số bang miền Nam để chứng kiến cảnh bọn 3K (?) hành hình người da đen mà sau này ông đã miêu tả rất sống động trong một truyện ngắn viết khi đang ở Nga những năm 1920. Rất tiếc là chỉ có ít bằng chứng rõ ràng về việc Hồ Chí Minh đã từng ở nước Mỹ. Một là bức thư ký tên là Paul Tất Thành gửi cho toàn quyền Pháp xin phục hồi cho cha anh. Bức thư đóng dấu New York ngày 15/12/1912. Thứ hai là tấm bưu thiếp gửi Phan Chu Trinh từ Boston, kể rằng anh đang phụ bếp tại khách sạn Parker House , Hồ Chí Minh nói với một nhà báo Mỹ, bà Anna Louise Strong rằng quãng thời gian ở Mỹ ảnh hưởng rất ít đến quan điểm chính trị của ông vì lúc đó ông còn quá trẻ. Nhiều khả năng là Hồ Chí Minh rời Mỹ vào năm 1913.

Sau chặng dừng chân ở Le Harve, anh đến Anh để học tiếng Anh. Trong một bức thư gửi Phan Chu Trinh, anh nói rằng đã ở London bốn tháng rưỡi để học tiếng Anh và giao lưu với người nước ngoài. Bức thư chắc phải được viết trước khi nổ ra đại chiến thế giới I, tháng 8 năm 1914, vì Thành còn hỏi Phan Chu Trinh sẽ đi nghỉ hè ở đâu. Bức thư thứ hai cho Phan Chu Trinh, Thành đã bình luận về sự khởi đầu của chiến tranh. Anh cho rằng những kẻ dây vào sẽ phải lãnh đủ, anh chờ đợi những sự thay đổi lớn ở châu Á và hy vọng chiến tranh sẽ làm sụp đổ hệ thống thuộc địa của Pháp.

Trong hồi ký của mình Hồ Chí Minh đã thừa nhận những công việc rất cực nhọc của ông ở Anh như quét tuyết và đốt lò. Một vài người quen khi gặp Thành ở Pháp đã nhận thấy bàn tay của anh bị cái lạnh làm cho cong queo. Cũng may là sau đó anh tìm được một chân phụ bếp trong khách sạn Drayton Court rồi chuyển đến Carton giúp việc cho đầu bếp nổi tiếng Auguste Escoffier và ông đã từ chối cơ hội để trở thành đầu bếp.

Ngoài việc lang thang ở Hayden Park với cây bút chì và quyển sách để học tiếng Anh, Thành còn tham gia vào các hoạt động chính trị của Hội công nhân hải ngoại, tham gia vào các cuộc biểu tình đòi độc lập của người Ailen. Có thể là trong thời gian này Thành đã lần đầu tiên làm quen với các tác phẩm của Karl Max. Anh vẫn không quên nỗi đau mất nước. Trong một bức thư gửi Phan Chu Trinh, Thành đã viết những câu thơ:


Đương đầu với trời đất
Thôi thúc bởi ý chí
Người anh hùng phải chiến đấu cho đồng bào


Có một điều Thành không biết là các bức thư của anh gửi cho Phan Chu Trinh đều rơi vào tay mật thám Pháp. Trong khi khám xét căn hộ của Phan Chu Trinh, chúng đã phát hiện ra những bức thư ký tên N. Tất Thành gửi từ số 8, Stephen Street, Tottenham Court Road, London. Trong một bức thư, người thanh niên này còn thề thốt là sẽ tiếp tục sự nghiệp của Phan Chu Trinh. Cảnh sát Pháp đã nhờ các đồng nghiệp Anh tìm kiếm nhưng chẳng thấy ai ở địa chỉ đó. Cảnh sát Anh lục khắp London được 2 sinh viên Việt nam tên là Thành, trong đó có một Nguyễn Tất Thành, nhưng họ chẳng có dính líu gì đến chính trị.

Không có nhiều tài liệu minh chứng cho hoạt động của Hồ Chí Minh ở Anh. Một số nhà sử học thậm chí nghi ngờ ông đã ở Anh. Họ cho rằng ông đã bịa ra giai đoạn đó để có được tấm áo xuất thân vô sản. Điều này hơi vô lý vì Hồ Chí Minh chẳng bao giờ phủ nhận nguồn gốc nhà nho của mình. Tuy nhiên có nhiều chứng cớ khằng định được Hồ Chí Minh đã ở London. Thời điểm chính xác Thành quay về Pháp cũng gây nhiều tranh cãi. ít nhất là chính quyền Pháp cũng không biết gì về chuyện này cho đến khi có một sự kiện làm cho Thành trở thành người Việt nam yêu nước nổi tiếng nhất ở đất nước mình. Hồ Chí Minh viết rằng, ông đã quay về Pháp khi chiến tranh còn đang xảy ra. Một số người quen cũ của ông ở Pari cho rằng ông đến Pháp năm 1917 hoặc 1918. Viên mật vụ được phân công theo dõi ông vào năm 1919 báo cáo rằng Hồ Chí Minh đã “ở Pháp từ lâu”. Nhiều nguồn cho rằng đó là khoảng tháng 12/1917. Lý do Thành về Pháp có thể dễ hiểu. Sau chiến tranh, số người Việt nam tại Pháp đã tăng lên gấp bội so với trước đó. Hàng ngàn người Việt nam làm việc tại các công xưởng, tham gia quân đội so với không đến 100 người trước chiến tranh. Qua mối quan hệ đã sẵn có với Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường, Thành có thể thâm nhập vào cộng đồng chính trị Việt nam hải ngoại nhằm mưu đồ cứu nước. Trinh đang được coi là lãnh tụ của phong trào, nhưng sau khi bị bắt vì nghi ngờ phản bội hồi đầu chiến tranh, Trinh trở nên rất thận trọng.

Sau khi về Paris, Thành nhanh chóng tham gia vào các hoạt động kích động công nhân Việt nam trong bối cảnh các cuộc chống đối ở Pháp ngày một nhiều do sự kéo dài khốc liệt của chiến tranh. Cũng chưa rõ, làm thế nào Thành có thể tham gia vào các hoạt động đó. Có thể với tư cách của Hội công nhân hải ngoại? Cũng có thể là quan hệ trực tiếp với các nhà hoạt động cánh tả. Một nhà hoạt động cách mạng, Boris Souvarine, sau này trở thành sử gia nhớ lại đã từng gặp Thành ngay sau khi anh từ London trở về. Ông cho rằng đó là vào khoảng năm 1917.

Thành thuê 1 căn hộ dơ dáy tại Montmartre và tham gia sinh hoạt với chi bộ đảng Xã hội Pháp tại đó. Souvarine đã giới thiệu Thành với Leo Poldes, người sáng lập câu lạc bộ Faubourg. Các buổi nói chuyện diễn ra thường xuyên về tất cả các chủ đề từ chính trị tới những điều huyền bí. Souvarine nhớ lại là Thành rất bẽn lẽn, thậm chí khúm núm, nhưng hoà nhã và ham học. Mọi người còn gọi anh là “Người câm ở Montmartre”. Leo Poldes là người đã rèn luyện tính nhút nhát của Thành bằng cách bắt anh phát biểu trước cử toạ. Trong bài phát biểu đầu tiên của mình miêu tả sự thống khổ của nhân dân thuộc địa, Thành thậm chí còn nói lắp. . Không mấy người trong cử toạ hiểu, nhưng họ thông cảm với chủ đề và Thành được hoan hô nhiệt liệt. Sau đó Thành được mời phát biểu thường xuyên.

Trong cuộc trả lời phỏng vấn nhà văn Mỹ Stanley Karnow, Leo đã nhận xét về Thành trong thời gian anh tham gia câu lạc bộ Faubourg: “có hơi hướng của Chapline, hài hước nhưng buồn, vous savez”. i Leo đặc biệt có ấn tượng về đôi mắt sáng và lòng ham mê học hỏi của Thành. Anh đã vượt qua được nỗi sợ hãi phải phát biểu trước công chúng và tích cực tham gia vào các cuộc tranh luận. Qua đó Thành quen biết những nhân vật nổi tiếng trong giới trí thức cách mạng Pháp: nhà văn xã hội Paul Louis, nhà quân sự Jacque Doriot, tiểu thuyết gia Henri Barbeusse với những tác phẩm miêu tả sự cùng cực của binh lính trên mặt trận.

Đã gần 30 tuổi, và hầu như kinh nghiệm nghề nghiệp chỉ loanh quanh mấy việc phụ bếp hoặc dạy học, lại không có giấy phép làm việc Thành không thể xin được việc ổn định. Anh phải làm đủ việc từ bán món ăn Việt nam, kẻ bảng hiệu, dạy chữ Hán, làm nến... Cuối cùng anh kiếm được một chân tô màu ảnh đen trắng trong một hiệu ảnh của Phan Chu Trinh. Vào những thời gian rỗi Thành hay ngồi lì trong thư viện và đọc các tác phẩm của Secxpia, Tolxtoi, Lỗ Tấn, Hugo, Zola, Dickens. Gia tài của anh chỉ có cái va li và thường xuyên chuyển chỗ trong những nhà trọ chật hẹp của khu công nhân Paris

Thủ đô của nước Pháp cuối chiến tranh vẫn tham vọng trở thành trung tâm chính trị và văn hoá của thế giới phương Tây. Rất nhiều những nhà tư tưởng lỗi lạc của thế kỷ 19 đã sống ở Paris. Không khí cách mạng càng sục sôi trong giai đoạn cuối chiến tranh, khi sự tàn bạo của cuộc chiến đổ thêm dầu vào phong trào chống chủ nghĩa tư bản. Việt nam chiếm số lượng lớn nhất trong cộng đồng hải ngoại tại Paris thời điểm đó: khoảng 50.000 người, trong đó có hàng trăm con em trí thức. Trong bầu không khí bị chính trị hoá cao độ, lớp sinh viên này đã hoàn toàn chín muồi cho những hoạt động chính trị hướng tới độc lập dân tộc. Rất tiếc là chẳng có gì xảy ra cả. Trong giới có ảnh hưởng, một số muốn mặc cả với Pháp cho thêm quyền tự chủ đổi lấy việc đã tham gia bảo vệ mẫu quốc trong chiến tranh, một số thì lại bí mật đi đêm với Đức để hy vọng Pháp thua trận. Theo cảnh sát Pháp, Phan Chu Trinh và bạn ông là Phan Văn Trường đã thử cả hai phương án này. (Phan Văn Trường sinh năm 1878 tại Hà đông, học luật và trở thành công dân Pháp năm 1910). Cả hai đã thành lập “Hội đồng thân ái” trước khi chiến tranh xảy ra, nhưng chỉ thu thập được khoảng 20 chục thành viên. Trinh, được coi là nhà ý tưởng, tỏ ra rất ít có khả năng tổ chức. Tuy nhiên, do có tin đồn về việc họ đang dự kiến lật đổ chính quyền tại Đông dương, cả hai đã bị tạm giam ngay sau khi chiến tranh nổ ra. Chính vì lý do đó mà những bức thư Thành gửi cho Trinh đều rơi vào tay cảnh sát Pháp.

Sau khi được tha, Trường và Trinh không dám nghĩ đến chuyện thách thức chế độ thực dân nữa. Cộng đồng Việt nam hải ngoại thực sự đình trệ về mặt chính trị. Thành muốn nhanh chóng thay đổi tình hình đó. Mặc dù, cho đến lúc đó thành tích chính trị của anh mới chỉ là phiên dịch cho cuộc biểu tình tại Huế năm nào. Trông bề ngoài hoàn toàn không bắt mắt, bạn bè đều phải thừa nhận anh có một đôi mắt sáng và cái nhìn mãnh liệt như xuyên thấu suy nghĩ của người đối thoại.

Hè năm 1919, được sự bảo trợ của Trinh & Trường, Thành thành lập Hội ái quốc Annam. Ngoài những thành viên trí thức, Thành còn lôi kéo thêm một số thành viên từ tầng lớp lao động mà anh quen từ hồi còn làm thuỷ thủ tại Marseilles, Le Havre, Toulon. Bề ngoài, hội không đặt ra những mục tiêu cực đoan để lôi kéo đông đảo sự tham gia của cộng đồng người Việt. Việc dùng chữ Annam thay cho Việt nam muốn cho chính quyền thấy Hội không phải là mối nguy hiểm cho chế độ thực dân. Thực chất, ngay từ đầu, Thành muốn biến hội thành một lực lượng hiệu quả chống lại chế độ thực dân ở Đông Dương. Anh đã liên lạc với những hội tương tự của người Triều tiên và Tuynizi. Đây là một thời điểm hết sức thuận lợi cho những hoạt động tương tự. Sau chiến tranh, Paris trở thành trung tâm kích động của các nhóm chống thực dân. Các cuộc thảo luận về chủ đề này diễn ra thường xuyên ở quốc hội Pháp. Toàn quyền Albert Sarraut đã phát biểu tại Hà nội hứa hẹn nhiều quyền hơn cho nhân dân Việt nam. Năm 1919, đại diện các nước Đồng minh thắng trận họp tại Versailles để đàm phán điều kiện đầu hàng của khối Trung tâm và tổ chức thế giới sau chiến tranh. Tổng thống Mỹ Wilson đã mang lại niềm hy vọng cho các dân tộc thuộc địa bằng luận cương 14 điểm, trong đó thừa nhận quyền tự quyết của tất cả các dân tộc.

Ngày 18/6/1919, Hội ái quốc Annam do Nguyễn Ái Quốc ký tên đã công bố bản kiến nghị 8 điểm có tên: “Yêu cầu của nhân dân Annam” gửi các quốc gia Đồng minh, đề nghị áp dụng những tư tưởng của Wilson cho thuộc địa của Pháp tại Đông Nam Á. Ngôn ngữ của bản kiến nghị rất ôn hoà, không đặt điều kiện độc lập dân tộc mà chỉ đòi hỏi quyền tự quyết về chính trị, sự bình đẳng giữa người Pháp và người Việt, quyền tự do báo chí, hội họp, bãi bỏ các loại thuế hà khắc.

Nhiều nhà sử học đã nghi ngờ rằng Thành là tác giả duy nhất của bản kiến nghị. Họ cho đó là công sức tập thể. Nhiều người cho rằng đây là tác phẩm của Phan Văn Trường, người được cho là trí thức nhất trong hội. Trong cuốn tự truyện của mình, Hồ Chí Minh tự nhận mình là tác giả và Phan Văn Trường đã chỉnh văn phạm tiếng Pháp cho ông. Tuy nhiên việc Thành có là tác giả hay không không quan trọng bởi chính anh là người đã tổ chức công bố bản kiến nghị và sau đó tự nhận mình là Nguyễn Ái Quốc. Chính Thành đã đưa tận tay bản kiến nghị cho các thành viên chủ yếu của nghị viện và tổng thống Pháp. Cũng là anh dấn bước trên các hành lang của điện Verseille để trao bản kiến nghị cho các đoàn đại biểu Đồng minh. Qua các mối quan hệ của mình Thành đã công bố bản kiến nghị trên báo Nhân đạo và nhờ các chiến hữu từ thời còn thuỷ thủ phân phối hơn 6000 bản copy trên các đường phố Paris. 

 Chẳng có hồi âm nào từ chính quyền Pháp mặc dù các cuộc thảo luận về vấn đề thuộc địa vẫn đang diễn ra tại nghị viện. Hội nghị Versaille cũng làm thinh về chủ đề này. Tổng thống Wilson, dưới sức ép của các đồng minh đã không bảo vệ tuyên bố 14 điểm của mình. Cả thế giới thuộc địa bị thất vọng.

Tuy nhiên bản kiến nghị cũng đã làm kinh ngạc giới chức chính trị Pháp. Ngày 23/6, tổng thống Pháp viết thư cho toàn quyền Albert Sarraut, đề nghị xem xét và xác định danh tính tác giả. Tháng 8, tin từ Đông dương báo về: bản kiến nghị đang được phân phát trên các đường phố Hà nội và đã gây nên cuộc thảo luận sôi nổi trong báo giới. Tháng 9, Thành chính thức xác nhận mình là Nguyễn Ái Quốc trong một cuộc phỏng vấn cho một phóng viên người Mỹ của một tờ báo Trung hoa tại Paris. Cũng vào quãng thời gian đó, thanh
tra mật thám Pháp Paul Arnoux, chuyên theo dõi cộng đồng Việt nam hải ngoại, tình cờ gặp Thành đang đi phân phát truyền đơn. Sau mấy lần uống cafe, bị ảnh hưởng bởi nhiệt huyết của chàng trai trẻ, Arnoux đã liên lạc với Bộ thuộc địa và thu xếp để Albert Sarraut gặp Thành. Và cuộc gặp đã diễn ra ngày 6 tháng 9 tại toà nhà Bộ thuộc địa ở phố Ordinot. Các mật thám Pháp đã tranh thủ thời cơ này để chụp ảnh hòng tìm ra tung tích chính xác của Thành.

Có thể Nguyễn Ái Quốc (như Thành đã tự gọi mình) đã nuôi một chút hy vọng bản kiến nghị của mình có thể thấu tai chính quyền Pháp và mang lại những thay đổi ở Đông Dương. Bản tính của anh là tin vào những điều tốt đẹp của con người, kể cả kẻ thù. Sau khi đi một vòng Thuỵ sĩ, ý, Đức, Thành đã kể với bạn của mình: “nếu bạn là người tốt, ở đâu bạn cũng gặp người tốt” . Cũng có thể là Thành đã tin vào những lời dụ dỗ của A. Sarraut. Trong cuộc trả lời phỏng vấn cho tờ báo Trung hoa Thế giới, sau khi phàn nàn về tình hình tồi tệ ở Đông Dương, Thành đã thừa nhận là trước tiên cần có quyền tự do ngôn luận để nâng cao dân trí sau đó mới có thể tính đến quyền tự trị, tiến lên độc lập.

Nhưng những hy vọng của Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng bị tàn lụi. Ngay sau cuộc gặp gỡ, Thành đã gửi đến A. Sarraut toàn văn bản kiến nghị cùng với bức thư đi kèm như sau:

Như đã trao đổi với Ngài hôm qua, tôi xin gửi kèm đây toàn văn Bán kiến nghị. Vì Ngài đã thật là tốt bụng cho phép tôi nói chuyện thẳng thắn, tôi đã mạo muội hỏi Ngài rằng liệu đã có hành động nào được tiến hành liên quan đến 8 điểm kiến nghị. Đáng tiếc là câu trả lời không được thoả mãn.
Xin Ngài nhận cho lòng kính trọng của tôi.
Nguyễn Ái Quốc


Mấy ngày sau, mật thám Pháp đã xác định được Nguyễn Ái Quốc tên thật là Nguyễn Tất Thành, con ông Nguyễn Sinh Sắc và đã tham gia xúi giục nổi loạn ở Huế năm 1908.

Cho dù động cơ gửi Bản kiến nghị là gì đi nữa, không nghi ngờ là Nguyễn Ái Quốc đã gây được tiếng vang to lớn trong phong trào yêu nước Việt nam tại Pháp. Người già thì kinh ngạc vì sự táo tợn của anh thợ tô màu. Thanh niên thì như được tiếp thêm nhiệt huyết. Một số kẻ khôn ngoan thì coi anh như “Người man rợ”. Họ thì thầm: liệu có thể hy vọng được gì ở một tay đầu gấu xứ Nghệ?

Bán kiến nghị cũng đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc sự kính trọng của các đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp (FSP). Mặc dù lúc đó đã quen với những tên tuổi lớn của FSP như Marcel Cachin, Paul-Vaillant Couturier, Leon Blum, Edouard Herriot, Henri Barbusse và cháu của Karl Max -Jean Longuet, theo lời của Zecchini, Thành chưa bao giờ được coi là thành viên đầy đủ của FSP cho đến khi Bản kiến nghị được công bố.Hồ Chí Minh đã thừa nhận rằng ông tham gia FSP vì “họ thông cảm với tôi, với cuộc đấu tranh của những dân tộc bị áp bức”. Thiên hướng về Chủ Nghĩa Xã Hội của Hồ Chí Minh cũng như của nhiều nhà dân tuý châu Á khác có thể giải thích như hậu quả tự nhiên của chế độ thuộc địa tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đế quốc. Nhưng giải thích như thế cũng chưa đầy đủ. Các nhà trí thức châu Á, (đặc biệt là ở Trung quốc và Việt nam) cảm thấy đạo đức tập thể của chủ nghĩa xã hội phương Tây xem ra gần gũi với đạo Khổng hơn thái độ vị kỷ và chạy đua lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản. Đối với họ sự hào nhoáng của các thành phố thương mại thật đáng tởm, còn nền công nghiệp thì bị tha hoá bởi sự tham lam và bành trướng. Ngược lại chủ nghĩa xã hội tán dương các cố gắng tập thể, kêu gọi lối sống giản dị, bình đẳng về của cải và cơ hội có nhiều điểm tương đồng với nho giáo. Xem ra là từ Khổng tử tới Max gần hơn tới Adam Smith và John Mill.

Từ năm 1920 trở đi Ngài (Monsieur) Nguyễn tham gia tích cực hơn các hoạt động chính trị của FSP, Liên đoàn lao động và Liên minh quyền con người. Nhưng có vẻ như ông cũng dần dần nhận ra rằng, các đồng chí của ông chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề thuộc địa. Max có khuynh hướng trọng Âu và hội của ông cũng vậy. Thuộc địa, nói cho cùng, cung cấp của cải cho cách mạng và công việc cho các công nhân. Cuộc cách mạng Bolsevich ở Nga đã làm sâu sắc thêm sự bất đồng trong hàng ngũ những người xã hội, giữa một bên là phe ôn hoà của Jean Longuet, Leo Blum và phe cấp tiến của Couturier và Cachin. Nên nhớ rằng lúc đó Quốc tế thứ nhất của Max đã bị thay bởi Quốc tế II chủ trương ôn hoà và đấu tranh nghị viện. Vào cuối năm 1919, một uỷ ban ủng hộ lời kêu gọi của Lênin thành lập Quốc tế thứ ba, đấu tranh vũ lực để giành chính quyền cho giai cấp vô sản, đã được thành lập trong nội bộ FSP. Nguyễn Ái Quốc cũng tích cực tham gia, quyên góp tiền cho chế độ Xôviết. Tuy nhiên ông vẫn tỏ ra ngờ nghệch, mơ hồ về sự khác nhau giữa Quốc tế II và Quốc tế III, đặc biệt mù mờ trong lĩnh vực lý thuyết. Có lần Quốc còn đề nghị Longuet giải thích ý nghĩa của chủ nghĩa Max. Ông này ngượng nghịu chỉ cho Quốc chỗ tìm đọc cuốn Tư bản luận. Đúng lúc đó “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê nin ra đời đã biến Quốc từ một người yêu nước thành nhà cách mạng Marxist chân chính. Sau này, Nguyễn Ái Quốc thừa nhận, ông chẳng hiểu gì các cuộc cãi vã lúc đó và đơn giản chỉ ủng hộ phe nào đứng về phía nhân dân các thuộc địa. Lê nin đã chỉ ra rằng, chế độ thuộc địa là dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa đế quốc, và các Đảng cộng sản châu Âu cần liên minh với các phong trào giải phóng dân tộc Á-Phi chống lại kẻ thù chung. Khác xa với các nhà xã hội Paris, Lê nin là con người của hành động và đã chinh phục hoàn toàn Nguyễn Ái Quốc.

Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết cho các báo cánh tả từ hè 1919. Các bạn phóng viên của ông như Jean Longuet, Gaston Monmosseau đã giúp hoàn thiện lối viết mộc mạc và nhiều khi quá thẳng của Quốc. Bài báo đầu tiên: “Vấn đề người bản xứ” được đăng trên báo Nhân đạo ngày 2/8/1919. NAQ cho rằng, người Pháp chẳng mang lại gì cho người bản xứ. Mang tiếng là khai hoá văn minh, hệ thống giáo dục của họ chỉ nhồi sọ và phục vụ một số nhỏ con cái các quan chức. Quốc dự đoán, người Việt nam hoàn toàn không được chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh với các nước láng giềng, sớm muộn sẽ bị Nhật bản đè bẹp về kinh tế. Trong một bài khác “Đông dương và Triều tiên” đăng trên báo Nhân dân tháng 10/1919, và sau đó là “Thư gửi Ngài Outrey” Quốc đả kích Maurice Outrey, đại diện cho Nam bộ tại Nghị viện Pháp vì tay này đả kích Hội an nam ái quốc và cho rằng chẳng có ai đàn áp dân chúng cả.

Công việc thợ ảnh của Quốc rõ ràng là chẳng bận rộn lắm. Ngoài viết báo, anh còn bắt tay vào viết một tác phẩm dài với tên gọi “Những người bị áp bức” với sự giúp đỡ của một nhà văn chống chế độ thuộc địa Paul Vigne d’Octon. Anh cố tình sử dụng rất nhiều trích dẫn mà không nói rõ nguồn, hy vọng khi các nhà xuất bản xúm vào đòi quyền tác giả sẽ làm cho cuốn sách nổi tiếng hơn. Đáng tiếc là bản thảo cuốn sách này bị đánh cắp. Nhiều người cho rằng mật thám Pháp đã “tháu”, tuy nhiên không thấy có bằng chứng lưu lại trong hồ sơ. Mặc dù không có nhiều thông tin về nội dung cuốn sách, chúng ta có thể dự đoán là rất nhiều dữ liệu đã được dùng lại trong cuốn sách viết được công bố năm 1925: “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Giọng điệu cuốn sách này đã gay gắt hơn rất nhiều, thể hiện rõ quan điểm Marxism của Quốc.

Quãng tháng 7/1919, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến căn hộ của Phan Chu Trinh tại Villa des Gobelins, (gần quảng trường Italia, khu trung lưu của Paris) cùng với 1 số đồng nghiệp khác. So với những chỗ ở trước của Quốc thì đây quả là một sự cải thiện đáng kể. Tuy nhiên cuộc sống chung cũng có nhiều vấn đề. Theo các báo cáo của cảnh sát Pháp theo dõi Trinh, Nguyễn Ái Quốc và Phan Chu Trinh thường to tiếng với nhau về con đường của cách mạng Việt nam. Quốc cho rằng các quan lại Việt nam như những con cừu non trong tay Pháp, sử dụng để ngăn cản và bóc lột nhân dân. Trinh thì cho rằng Quốc quá nông nổi: “Anh bạn Quốc, hãy để tôi nói rằng anh còn rất trẻ và có cái đầu nóng. Anh muốn 20 triệu đồng bào ta đứng lên làm gì đó khi họ không có một tấc vũ khí trong tay. Tại sao lại phải tự sát một cách vô mục đích như vậy?” Trinh muốn dựa vào Pháp để cải cách chế độ đã thối nát trong tay các nhà nho. Quốc thì coi Pháp là kẻ thù số một: “Tại sao 20 triệu dân ta không làm gì đó để buộc chính quyền phải coi chúng ta như những con người. Kẻ nào không coi chúng ta là người, kẻ đó là kẻ thù. Chúng ta không thể chung sống với chúng. Không thể chịu nhục!” Quốc nói, “Ông có kinh nghiệm hơn tôi, nhưng hãy nhìn xem. Cha anh ta đã đòi cái mà ông đòi suốt hơn 60 năm nay. Hỏi họ nhận lại được cái gì?” Tuy nhiên Quốc vẫn rất kính trọng Trinh và thường dẫn ông này đến các cuộc hội họp của các nhà cách mạng cấp tiến, hy vọng rằng Trinh sẽ thay đổi quan điểm.

Trong lúc đó, chính quyền Pháp vẫn tiếp tục thẩm tra nhân thân của Quốc. Họ đã thẩm vấn cha, anh và chị của Thành và hy vọng có thể kiểm tra vết sẹo trên tai từ thời nhỏ.Năm 1920, khi vào viện vì bị apxe, Quốc đã bị cảnh sát chụp ảnh. Ngày 17/8/1920, Albert Sarraut, khi đó đã là Bộ trưởng thuộc địa, ra lệnh phải truy xét bằng được nguồn gốc của Nguyễn Ái Quốc. Quốc bị chất vấn tại Bộ thuộc địa. Sau đó 3 ngày lại bị gọi lên đồn cảnh sát. Tại đó Quốc khai mình sinh năm 1894, tại Vinh có 6 anh chị em và đều đã chết cả.
“Hắn ta là ai vậy? Hắn thường xuyên thay tên đổi họ và hiện đang dùng một cái tên mà ngay cả người mù tịt về tiếng Việt cũng thừa hiểu nghĩa là gì. Hắn không có một tí giấy tờ tuỳ thân nào từ Đông Dương, thế mà dám can thiệp vào công việc chính trị của chính phủ, tham gia các đảng phái, phát biểu tại các cuộc hội họp. Và còn cười vào mũi chúng ta bằng những thông tin giả mạo”. Đó là nội dung báo cáo của Pierre Guesde cho Bộ thuộc địa. Cũng theo báo cáo đó, mật thám Pháp đã nhận dạng chính xác Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Tất Thành.

 Trong một thời gian dài, các phong trào xã hội Pháp do nhiều phe phái hợp thành:

- Những người theo Auguste Blanqui đòi lật đổ cái đã, xây dựng xã hội mới tính sau.
- Những nhà cải cách ôn hoà, đệ tử của Eduard Bernstein và Quốc tế II
- Những lý thuyết gia cấp tiến có nguồn gốc từ cách mạng Pháp chứ không phải Marx
- Những lãnh đạo công đoàn, đấu tranh đòi quyền lợi trước mắt và không quan tâm lắm đến ý thức hệ

Cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất đã giáng một đòn mạnh vào sự thống nhất mong manh trong một Đảng Xã Hội Pháp (FSD ) hỗn tạp. Và khi Lenin đứng lên kêu gọi cuộc thánh chiến chống chủ nghĩa tư bản, các thành viên của FSP phải lựa chọn chỗ đứng của mình. Tại hội nghị Strasbourg tháng 2/1920, mặc dù đa số đồng ý ly khai với Quốc tế II, cũng còn rất đông người phản đối gia nhập Quốc tế III. Cuộc tranh luận ngày càng trở nên quyết liệt. Marcel Cachin và Tổng bí thư Louise Frossard sau khi tham gia đại hội QTCS lần thứ hai ở Matxcơva, đã tổ chức một cuộc biểu tình với khoảng 30 ngàn người tham gia tại ngoại ô phía Tây Paris ngày 13/8. Nguyễn Ái Quốc chen trong đoàn người lắng nghe Cachin nhân danh Quốc Tế Cộng Sản (QTCS) phát động cuộc chiến đấu giải phóng các dân tộc bị nô lệ, đánh thẳng vào thành trì của chủ nghĩa đế quốc. Trước thềm đại hội Tour vào cuối tháng 12, các cuộc họp cấp địa phương diễn ra liên miên, với hai nhóm tả hữu và lớp lưng chừng dưới cờ của Jean Longuet. Nguyễn Ái Quốc ít tham gia tranh luận, khi phải phát biểu, ông kêu gọi sự đoàn kết và chú ý đến các vấn đề thuộc địa: “Các đồng chí, chúng ta đều là những nhà xã hội. Dù là quốc tế Hai, Hai rưỡi, hay Ba, chúng ta đều cùng muốn giải phóng giai cấp công nhân... Trong lúc các đồng chí tranh cãi ở đây, đồng bào của tôi đang chết dần chết mòn”

Nguyễn Ái Quốc được mời đi dự đại hội với tư cách đại diện cho nhóm các đảng viên từ Đông Dương. Đại hội khai mạc ngày 25/12/1920 trong một trường dạy đua ngựa cạnh nhà thờ St. Julian trên bờ nam sông Loire. Gian đại hội được trang trí bằng các bức ảnh nhà xã hội Jean Jaure và những khẩu hiệu kêu gọi giai cấp công nhân đoàn kết. Bục phát biểu được dựng tạm bằng những tấm ván gỗ đặt lên trên các giá cưa. 285 đại biểu đại diện cho 178,000 đảng viên, ngồi sau các bàn gỗ theo khuynh hướng chính trị của mình. Nguyễn Ái Quốc ngồi với cánh tả do Marcel Cachin lãnh đạo. Chủ đề chính của đại hội là có tham dự QTCS hay không? Với bộ comple rộng thùng thình trên một cơ thể mảnh khảnh của đại biểu châu Á duy nhất, Nguyễn Ái Quốc nổi bật giữa một đám hàng trăm tay người Âu râu ria xồm xoàm. Vì thế ảnh Quốc được báo Le Matin đăng ngay sáng hôm sau. Lần theo bức ảnh, cảnh sát mò đến định tóm Nguyễn Ái Quốc, nhưng các đại biểu đã xúm vào bảo vệ được Quốc.

Nguyễn Ái Quốc đã lên diễn đàn ngay hôm đầu tiên của hội nghị. Ông nói một mạch, không cần giấy tờ và đi thẳng vào vấn đề, đả kích sự tàn bạo của chế độ thực dân và kêu gọi các nhà xã hội hành động ủng hộ các dân tộc bị áp bức. Bài diễn thuyết của ông bị Jean Longuet cắt đứt với lý do rằng ông ta đã bàn đến chuyện đấy rồi. Quốc đã nhanh trí ví von ngay với quan điểm của Max (ông của Jean Longuet ): “tôi đành phải áp dụng chuyên chính của sự im lặng”. Theo Quốc, chỉ có gia nhập quốc tế III mới chứng tỏ rằng FSP đánh giá được tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. “Nhân danh loài người, nhân danh tất cả các nhà xã hội cánh hữu và cánh tả, chúng tôi khẩn thiết kêu gọi các đồng chí. Hãy cứu chúng tôi” đó là những lời cuối cùng của bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc . Ngay sau đó Jean Longuet vội vã giải thích rằng ông ủng hộ nhân dân Việt nam và vấn đề đang được thảo luận ở quốc hội. Nhưng Couturier đã bác bỏ luận điểm đó: nhân dân thuộc địa đang cần những hành động chứ không phải các cuộc thảo luận.

Ngày 27, Cachin chính thức đề nghị FSP chấp nhận những điều kiện của Lênin và gia nhập quốc tế III. Hơn 70% đại biểu ủng hộ. Những người đối lập đã rời khỏi hội trường để phản đối. Các đại biểu còn lại đã biểu quyết tách ra khỏi FSP và thành lập Đảng cộng sản Pháp (FCP). Tuy nhiên chẳng có cuộc thảo luận tiếp theo nào về vấn đề thuộc địa và chủ tịch đoàn đã từ chối đề nghị (chắc là của Nguyễn Ái Quốc ) ra một thông cáo ủng hộ các dân tộc thuộc địa.

Tại đại hội Tour, Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra chính kiến rõ ràng, ông không chỉ quan tâm đến sự thành công của cách mạng quốc tế mà còn cả vận mệnh của dân tộc mình. Trong một nhận xét gửi cho bạn mình Quốc viết: “Tôi không có may mắn được học hành trong trường đại học. Nhưng tôi đã được học trong cuộc sống từ lịch sử, xã hội đến khoa học quân sự. Người ta phải yêu quý điều gì? Khinh thường điều gì? Người Việt nam chúng tôi yêu độc lập, lao động và tổ quốc”. Nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu cảm thấy thất vọng về các đồng nghiệp của mình ở FCP (Đảng cộng sản Pháp ).

Tháng 2/1921, Nguyễn Ái Quốc bị ốm phải vào viện. Khi khỏi bệnh, Quốc viết bài “Đông Dương” cho tạp chí Người Cộng sản. Bài báo đã thể hiện thái độ phê bình gay gắt đối với sự thiếu quan tâm của FCP tới các vấn đề thuộc địa. Ngược lại với quan điểm thế giới vô sản đại đồng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “các dân tộc Đông dương sẽ sống mãi”. Ông cũng từ bỏ hy vọng giành được mục tiêu mà không phải dùng đến vũ lực. “Dưới bề ngoài dễ bảo là sự bất bình đang sôi sục, chờ dịp bùng nổ”. Trong bài báo thứ hai dưới cùng một tiêu đề viết trong tháng 5, Nguyễn Ái Quốc đề cập đến khả năng tiến hành cách mạng tại các nước thuộc địa. Nên nhớ rằng, tại thời điểm đó, các nhà cách mạng cấp tiến châu Âu cho rằng phải còn lâu các dân tộc chậm tiến mới có thể tiến hành cách mạng. Cũng trong tháng đó, Stalin đăng đàn trên báo Sự thật khẳng định “các dân tộc tiên tiến sau khi tự giải phóng bản thân, sẽ có trách nhiệm giải phóng các dân tộc chậm tiến”. Về phía mình, Nguyễn Ái Quốc cho rằng các điều kiện cách mạng đã hình thành ở Trung quốc và Nhật bản, rất có thể một ngày gần đây, Trung quốc sẽ là đồng minh với Nga trong cách mạng toàn cầu. Quả là một sự tiên tri khi tình hình ở Trung quốc lúc đó còn đang rối ren sau cái chết của Viên Thế Khải và Tôn Dật Tiên thì phải đi tị nạn.

Nguyễn Ái Quốc đã dẫn ra những chứng cớ lịch sử cho rằng chủ nghĩa cộng sản có nhiều cơ hội để phát triển ở châu Á hơn châu Âu. Người Trung hoa cổ đại đã áp dụng hệ thống “bình điền”, chia ruộng đất thành những phần bằng nhau cho nông dân và dành một phần cho ruộng công. Hơn 4000 năm trước, nhà Hạ đã áp dụng chế độ lao động bắt buộc. Và chính Khổng Tử đã qua mặt Quốc tế cộng sản khi tuyên truyền học thuyết về bình đẳng tài sản từ thế kỷ 6 trước công nguyên. Ông nói, sẽ không có hoà bình cho thế giới cho đến ngày xây dựng được một nhà nước toàn cầu. Ông còn thuyết giảng: “người ta không sợ có ít, chỉ sợ chia không bình đẳng”. Một trong những học trò của ông là Mạnh Tử còn đi xa hơn trong việc xây dựng kế hoạch chi tiết cho sản xuất và tiêu thụ. Những truyền thống như vậy vẫn còn ảnh hưởng to lớn trong những xã hội châu Á. Chẳng hạn, Việt nam đã áp dụng những hạn chế trong việc mua bán đất đai, 1/4 đất ruộng được sử dụng như tài sản công. Khi các dân tộc châu Á thức dậy, họ sẽ trở thành một thế lực to lớn của cách mạng, lật đổ chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.

Nguyễn Ái Quốc còn dùng ngòi bút của mình để vạch trần những ảo tưởng của xã hội văn minh Pháp. Trong bài báo với nhan đề: “nền văn minh thượng đẳng”, viết tháng 9 năm đó, Nguyễn Ái Quốc chế diễu nguyên tắc tam ngôi của cách mạng Pháp, sử dụng những ví dụ cụ thể trong một cuốn hồi ký của 1 người lính Pháp. Trong tờ Le Libertaire, Quốc kể lại những sự tàn bạo của các thầy giáo Pháp ở trường quốc học Huế, ngay dưới khẩu hiệu Aimez la France, qui vous protege. Chính quyền Pháp càng ngày càng theo dõi Nguyễn Ái Quốc chặt chẽ hơn vì sự cấp tiến của ông.

Đầu năm 1921, Allbert Sarraut lại mời Quốc lên Bộ thuộc địa và tuyên bố “Nếu Pháp trả lập của Đông Dương cho ông, ông làm sao có thể điều hành được. Các ông làm gì có đủ sức mạnh”. Nguyễn Ái Quốc đã trả lời “Ngược lại, các ông sẽ thấy chúng tôi sẽ biết cách cai trị như thế nào. Nhật bản và Xiêm cũng chẳng có bề dày lịch sử hơn chúng tôi, và họ là những dân tộc tự do”. Đến đó, Allbert Sarraut chủ động đổi chủ đề. Việc Quốc tham gia Đảng cộng sản Pháp đã làm tình hình tại Villa des Gobellin thêm căng thẳng. Một người bạn thân của Quốc là Trần Tiến Nam đã tâm sự với 1 cô bạn gái của mình (trong thời gian Đại hội Tour) là ít người đồng tình với quan điểm của Nguyễn Ái Quốc

Cảnh sát theo dõi ngôi nhà cũng thông báo là thường xuyên có những cuộc cãi lộn. Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm vào tháng Bảy. Ngày 6/6, Quốc tham gia vào đoàn biểu tình công nhân kỷ niệm những chiến sĩ ngã xuống trong Công xã Paris 1871, bị cảnh sát đánh tơi bời may mắn thoát được về nhà. Bạn cùng phòng được một phen khiếp vía. Trần Tiến Nam vội vàng chuyển chỗ vì sợ dính líu. Ngày 11/7, cảnh sát báo cáo đã xảy ra một cuộc cãi vã lớn từ 9h tối tới tận sáng hôm sau. Quốc thu xếp hành lý bỏ đến ở với mình là Võ Văn Toàn ở 12 Rue Buot. Một tuần sau, Paul Couturier thu xếp được cho Quốc một căn phòng nhỏ tại số 9 ngõ cụt Compoint khu công nhân Batignolles - Tây bắc Paris

*************
1. FSD - Đảng Xã Hội Pháp
2. FCP - Đảng cộng sản Pháp 


 Chỗ ở mới thật là thảm hại so với tiện nghi tại Villa des Gobellin. Căn phòng chỉ vừa đủ để kê một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và tủ quần áo. Cửa sổ nhòm thẳng vào tường nhà người khác. Không điện, nước, lò sưởi. Công việc của Nguyễn Ái Quốc cũng thay đổi thường xuyên, anh làm thợ tô màu cho Phan Chu Trinh đến ngày 7/1920. Sau đó chuyển sang vẽ bích hoạ cho một nhà sản xuất đồ gỗ Tàu ở khu Latin. Lại chuyển đến hiệu ảnh tại phố Froidevaux. Cuối cùng Quốc cũng tìm được một chỗ làm ở hiệu ảnh gần nhà sau khi chuyển khỏi Villa des Gobellin. Nhưng đồng lương còm cõi khoảng 40 fr/tuần có vẻ chẳng ảnh hưởng gì đến lối sống của Quốc. Anh vẫn thường xuyên dự các cuộc miting, thậm chí ở tỉnh xa, thăm triển lãm, đi thư viện, thù đãi bạn bè trong căn phòng nhỏ của mình.Trong số những người quen mới có ca sĩ Maurice Chevalier và nhà văn Collete. Chắc chắn là Nguyễn Ái Quốc được Đảng CS Pháp (FCP) tài trợ thêm.

Cuộc chia tay tại Villa des Gobellin có lẽ đã được khơi mào bằng sự bất đồng xung quanh việc thành lập Uỷ ban các vấn đề thuộc địa thuộc Đảng Xã Hội Pháp(FSP). Khoảng giữa tháng sáu, Quốc đã dẫn Phan Chu Trinh đến dự một cuộc họp của Uỷ ban. Vài tuần sau, Quốc dự cuộc họp thứ hai tại Fontaineblau. Sau khi trở về 2 ngày, đã xảy ra cuộc cãi lộn cuối cùng (cảnh sát còn thông báo là trước đó 1 ngày có 6 người đàn ông lạ mặt đến căn hộ). Một trong những hoạt động đầu tiên của ủy ban là thành lập Hội Liên thuộc địa, nhằm tạo một tiếng nói chung cho đại diện tất cả các thuộc địa hiện đang sinh sống ở Pháp. Lúc mới thành lập hội có khoảng 200 thành viên, chủ yếu là Việt nam và Madagascar, thêm vài thành viên Bắc Phi và Ấn độ. Nguyễn Ái Quốc là động lực chủ yếu của tổ chức mới cùng với Nguyễn Thế Truyền, Max Bloncourt, Hadj Ali người Alger. Chính tại đây anh hiểu ra những khó khăn to lớn khi liên kết các lực lượng thuộc địa thành một tổ chức thống nhất. Người Việt thì đòi một tổ chức thuần Việt, người Phi thì cho rằng dân châu Á kiêu căng, hợm mình. Một số phần tử cấp tiến châu Âu muốn tham dự thì lại bị cho ra rìa... Các cuộc họp cứ vắng dần, từ hơn 200 người xuống còn khoảng 50. Trong một phiên họp thậm chí chỉ có 27 mống, kể cả hai cô gái Pháp, bồ của các thành viên. Quốc cũng có một số bạn gái nhưng chẳng dính dáng gì đến chính trị. Tuy nhiên Quốc cũng đã có một thành công nhỏ là thuyết phục được Phan Văn Trường tham gia.

Hội họp chẳng phải là hoạt động duy nhất của Quốc trong thời gian này. Anh đã học được từ những người bạn Pháp cách sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng để tuyên truyền cách mạng. Được sự đồng tình của uỷ ban và Hội, Quốc thành lập báo Le Paria (Người cùng khổ) viết bằng tiếng Pháp, nhưng có thêm tiêu đề tiếng Hoa và Arab. Báo ra hàng tháng và số đầu tiên ra ngày 1/4/1922. Nguyễn Ái Quốc là tổng biên tập kiêm phóng viên chính, và thỉnh thoảng kiêm luôn cả việc trình bày và phát hành. Qua các trang Le Paria (Người cùng khổ), Quốc tiếp tục rèn luyện kỹ năng viết báo của mình. Lối viết của anh đơn giản, không hoa mỹ, chịu ảnh hưởng nhiều của Leo Tonstoi. Quốc chủ yếu dựa trên các sự kiện và con số để nêu quan điểm của mình. Độc giả có cảm tưởng như Quốc là một từ điển thống kê sống về cuộc sống khổ cực tại các thuộc địa. Đôi khi, anh sử dụng giọng văn châm biếm thay cho các con số. Lối châm biếm của anh cũng rất trực diện, đi thẳng vào vấn đề không mang tính triết lý như Lỗ Tấn thời bấy giờ. Sau này, rất nhiều nhà nghiên cứu cũng không thể hiểu nổi, tạo sao một con người có sự quyến rũ cá nhân sâu sắc và một tính cách huyền ảo lại có thể áp dụng một cách hành văn có vẻ vụng về và đơn giản như vậy. Đây chính là chìa khoá của tính cách và sự hiệu quả trong hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Không giống như nhiều lãnh tụ Marxist khác, Hồ Chí Minh luôn coi độc giả của mình là tầng lớp bình dân: nông dân, thợ thuyền, viên chức, binh lính, chứ không phải các trí thức của xã hội. Ông không có ý định gây ấn tượng bằng sự uyên bác, sắc sảo của mình mà thuyết phục độc giả bằng sự đơn giản và sống động, để chia sẻ các quan điểm về thế giới và con đường tiến tới thay đổi. Độc giả sành điệu sẽ có khi cảm thấy chán ngấy, ngược lại, những bài viết tố cáo, kêu gọi lại có sức mạnh phi thường. Phút chốc, Người cùng khổ đã trở nên nổi tiếng là tiếng nói đại diện cho các dân tộc bị áp bức. Bất cứ ai sẽ bị bắt ngay lập tức nếu bị bắt gặp đang đọc báo. Nguyễn Ái Quốc nhớ lại “Hầu như tất cả các số báo đều được Bộ thuộc địa mua hết”. Tuy nhiên một số lượng nhỏ cũng được chuyển về các thuộc địa qua kênh các thuỷ thủ. Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục viết cho các báo cánh tả khác tại Paris.

Năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Triển lãm thuộc địa, được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 8 tại Marseille. Mặc dù đã được Sarraut đề nghị im lặng, Nguyễn Ái Quốc và Phan Chu Trinh vẫn tận dụng cơ hội này. Trên tờ Dán báo, 9/8/1922, Quốc miêu tả Khải Định như một món đồ trang trí được bày trong tủ kính của Triển lãm trong khi dân chúng thì bị đày xuống bùn đen. Nguyễn Ái Quốc còn viết vở kịch “Con rồng tre” được công diễn tại CLB Fabourg. Sự khinh quân này đã đẩy cha con Nguyễn Ái Quốc tới sự chia rẽ sâu sắc hơn. Khi nhận được tin con, Sắc đã tuyên bố, đứa con nào không công nhận hoàng đế, đứa con đấy cũng không có cha.

Chuyến đi thăm của Khải Định là cơ hội cuối cùng cho Quốc và Trinh đứng trên một trận tuyến. Trước đó, tháng 2/1922, Trinh đã gửi cho Quốc một lá thư. Mặc dù vẫn bảo vệ quan điểm của mình về việc nhấn mạnh giáo dục, Trinh tự nhận mình là một “con ngựa già”, con Quốc đang là một “chú ngựa hoang” đầy sức sống. Tuy nhiên Trinh khuyên Quốcđừng mất thời giờ tại nước ngoài như Phan Bội Châu mà hãy về nước chiến đấu. Nếu chẳng may thất bại, sẽ có người khác đứng lên tiếp tục. Quốc lại có những kế hoạch khác. Bây giờ anh đã trở nên một nhân vật chủ chốt trong phong trào cấp tiến của Pháp. Được sự trợ giúp của George Pioch, kỹ năng phát biểu của anh đã hoàn thiện và Quốc thường xuyên tranh luận với các lãnh đạo chủ chốt của Đảng CS Pháp (FCP). Anh cũng bị mật thám Pháp quan tâm kỹ lưỡng. Ngày 22/6/1922, Albert Sarraut lại mời Quốc lên Bộ thuộc địa. Sau khi đe doạ sẽ trừng trị thẳng tay những hoạt động nhập khẩu cách mạng vào Đông Dương, Albert Sarraut định mua chuộc Quốc: “Tôi rất kính trọng ý chí của anh. Hãy để quá khứ thành quá khứ. Chúng ta đã là bạn. Khi nào anh cần gì cứ bảo tôi”. Nguyễn Ái Quốc đứng dậy cám ơn và nói: “Điều tôi cần nhất trong cuộc đời là độc lập cho đồng bào của tôi. Xin phép ngài cho tôi đi”.

Vài ngày sau, Quốc viết thư cho Bộ thuộc địa. (Bức thư này cũng được công bố trong báo Nhân đạo và Người cùng khổ). Trong thư Quốc đã cám ơn chính phủ Pháp đã cung cấp một số “phụ tá” (tức các mật thám theo dõi) và rất lấy làm “xấu hổ” vì đã tiêu tốn mồ hôi của giai cấp vô sản. Quốc cũng cung cấp luôn lịch hoạt động hàng ngày của mình

“Sáng: từ 8h-12h, tại cửa hàng
Chiều:tại toà báo
Tối: ở nhà hoặc đi học
Chủ nhật/ngày nghỉ: viện bảo tàng, thăm quan
Tôi mong rằng phương pháp này sẽ làm Ngài hài lòng, kính thư - Nguyễn ái Quốc”


Sarraut tất nhiên là chẳng có bụng dạ nào để ý đến sự châm biếm của Quốc. Ông này liên lạc với Toàn quyền Đông dương Maurice Long, đề nghị bắt và đưa về VN. Long cho rằng cứ nên giữ Quốc ở Pháp, dễ theo dõi hơn. Sarraut lại đề nghị đầy Quốc đến vùng Nam Trung Quốc. Long cũng không đồng ý, sợ Quốc có thể lãnh đạo cách mạng trong nước từ đó. 

 Tuy nhiên điều làm Quốc thất vọng hơn cả là thái độ của các đồng chí trong cánh tả Pháp về vấn đề thuộc địa. Sau khi xuất hiện rùm beng, Hội Liên thuộc địa nhanh chóng bị lãng quên. Theo Quốc ngay cả báo Nhân đạo cũng không quan tâm đến vấn đề đúng mức. Quốc cho rằng các báo tư sản còn miêu tả thuộc địa kỹ hơn, thậm chí đã tạo cho mọi người hình ảnh các nước thuộc địa hết sức mỹ mãn: “cát, mặt trời, gió biển, những hàng dừa xanh và các thổ dân loè loẹt”. Điều này làm cho giọng điệu của Quốc ngày càng trở nên chống Pháp. Trong loạt bài báo miêu tả cảnh khổ cực của các công nhân cảng Marseilles cuối năm 1921, Quốc đã ký tên Nguyễn Ô Pháp (tức là ông Nguyễn ghét Pháp). Quốc còn tranh luận nảy lửa với một lãnh đạo của FCP về vấn đề thuộc địa. Đến nỗi, Jacques Doriot - một ngôi sao mới nổi của FCP phải thì thầm khuyên Quốc dịu giọng.

Tháng 3/1923, một mặt để tiết kiệm tiền, mặt khác tiện làm việc, Quốc chuyển từ ngõ Compoint đến căn phòng 100fr/tháng ở tâng trên của trụ sở báo Người Cùng Khổ tại Rue du Marche des Patriarches. Đây là chỗ ở cuối cùng của Quốc ở Paris. Một nhân vật Việt nam quan trọng đã giúp Quốc rất nhiều trong việc phát hành báo là Nguyễn Thế Truyền. Truyền sinh năm 1898, đến Paris năm 1920 để nghiên cứu kỹ nghệ. Năm 1921 Truyền gia nhập FCP và trở thành đồng minh thân cận nhất của Quốc trong cộng đồng Việt nam.

Trong một lần đại hội FCP vào tháng 10 năm trước, Nguyễn Ái Quốc gặp Dmitri Manuilsky, đại diện của QTCS tại Liên xô. Ông này rất đắc ý nghe Quốc đả phá kịch liệt sự thiếu quan tâm đến các vấn đề thuộc địa của FCP. Nhiều tháng sau, khi Mauilsky được phân công chuẩn bị bản báo cáo về các vấn đề dân tộc và thuộc địa cho Đại hội 5 QTCS mùa hè năm 1924, ông lập tức nhớ đến chàng thanh niên Việt nam đầy nhiệt huyết. Quốc được mời đến Moscow làm việc cho QTCS.

Đối với Quốc, lời mời đến Moscow là phần thưởng to lớn cho nhiệt huyết anh đã bỏ ra cho Đảng. Đây cũng là cơ hội to lớn để Quốc quay về châu Á và Việt nam. Nhưng vốn tính cẩn thận, Quốc thông báo cho bạn bè là chuẩn bị đi nghỉ 3 tuần ở miền Nam Pháp. Ngày 13/6/1923, sau khi không để lại một chút nghi ngờ nào cho 2 “trợ lý” của cảnh sát Pháp, Quốc đi ra cửa sau của một rạp chiếu bóng, đến Gare du Nord và lên tàu đi Berlin trong vai một nhà buôn châu Á giàu có. Đến Berlin, Quốc đi tiếp đến Hamburg, lên tàu Karl Liebknecht đến nước Nga Xô viết. Ngày 30/6 Quốc cập bến Petrograd với hộ chiếu của một nhà buôn Trung quốc - Trần Vang Chuyến đi của Nguyễn Ái Quốc đã làm cho cả cảnh sát Pháp và những người bạn của Quốc nhức đầu. Quốc đã chính thức nói không với con đường cải cách của Phan Chu Trinh để đi theo Vladimir Lenin.

“Mặc dù Quốc còn trẻ và có thể có những hành động thiếu suy nghĩ. Nhưng điều quan trọng là anh ta có một trái tim của con người yêu nước. Anh đã chọn con đường cô đơn và đầy gian khó để giải phóng dân tộc mình. Và tất cả chúng ta phải kính trọng trái tim can đảm đó”. Đó là những lời tâm huyết của Phan Chu Trinh dành cho người đồng chí trẻ tuổi của mình trong bức thư gửi cho bạn bè tháng 9/1923.


3.Nhà cách mạng tập sự


Năm 1923, Nước Nga đang phục hồi từ 7 năm chiến tranh, cách mạng và nội chiến. Ngoài Moscow, Petrograd và một số thành phố lớn thuộc phần lãnh thổ châu Âu, cuộc cách mạng tháng 10 vẫn chỉ là cuộc “Cách mạng trên điện báo” (theo lời của Leo Trotsky). Trên những cánh đồng Nga mênh mông, gần 50 000 đảng viên Bolsheviks đang tìm cách thuyết phục hàng chục triệu nông dân Nga, vốn chẳng biết gì về những ý tưởng của Karl Max, lại càng không quan tâm đến số mệnh của cách mạng vô sản thế giới. Để điều chỉnh lại chính sách cưỡng đoạt mà nhà nước Bolshevik đã sử dụng để thiết lập quyền lực của mình trong cuộc nội chiến, Lenin đã buộc phải thừa nhận rằng nước Nga xô viết phải đi qua giai đoạn quá độ của chủ nghĩa tư bản. Năm 1921, Lenin tung ra chính sách kinh tế mới NEP, công nhận quyền tư hữu ruộng đất, áp dụng chế độ thuế thay cho trưng thu, nhà nước chỉ kiểm soát những ngành công nghiệp quan trọng.

Những cảm tưởng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc tại thiên đường của CNXH, cái mà anh đã từng tô màu rực rỡ trong những bài báo hồi còn ở Pháp, không được dễ chịu cho lắm. Quốc bị giữ lại mấy tuần trong không khí căng thẳng, cho đến khi có một đại diện của FCP đến nhận diện. Sau đó Quốc được phân làm việc tại văn phòng Viễn đông của QTCS (gọi tắt là Dalburo) Dalburo được thành lập tháng 6/1920 theo sáng kiến của Maring (Người Hà lan tên thật là Hendrik Sneevliet, sau này trở thành cố vấn thường trực cho Đảng CS Trung quốc), do nhà Đông phương học người Nga, Safarov lãnh đạo. Mục tiêu là tuyên truyền cho tư tưởng cách mạng tại vùng Trung đông và Viễn đông. Maring còn đề nghị thành lập các trường học để huấn luyện cho những hạt nhân cách mạng từ châu Á và châu Phi.

Vô cùng nhanh nhạy trong việc gây ấn tượng, mới chân ướt, chân ráo đến nơi Quốc đã viết thư cho ban chấp hành trung ương FCP, đả kích cơ quan này đã không thực hiện đúng nghị quyết của đại hội 4 QTCS về việc mở rộng các hoạt động liên quan đến các vấn đề thuộc địa. Anh nhấn mạnh “nhân dân thuộc địa được hứa hẹn mà không thấy có hành động, tự nhiên sẽ đặt câu hỏi, liệu các đồng chí cộng sản là nghiêm túc hay lừa bịp”. Cuối thư Quốc nhắc lại, điều kiện tiên quyết để gia nhập QTCS là cam kết tiến hành một cách có hệ thống các hoạt động tuyên truyền để hỗ trợ giải phóng các dân tộc thuộc địa. Quốc cũng viết thư cho chủ tịch đoàn chủ tịch QTCS, trình bày các ý tưởng của mình để ủng hộ cuộc đấu tranh ở Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc miêu tả Việt nam như một thuộc địa chỉ có 2% vô sản mà lại vô tổ chức, tầng lớp trung lưu bé tí tập trung ở vài thành phố lớn, giai cấp tiểu tư sản ủng hộ độc lập nhưng không có chủ kiến chính trị rõ ràng, nông dân thì đông, bị áp bức và nếu được tổ chức tốt sẽ có tiềm năng lớn. Quốc cũng nhấn mạnh, động lực cách mạng chủ yếu bây giờ nằm trong tay các trí thức và nhà nho yêu nước. Bởi thế Quốc cho rằng mục tiêu đầu tiên là phải có hành động chung giữa các lực lượng cách mạng dân tộc và Đảng cộng sản.

Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc chính là tư tưởng của Lenin trong “Luận cương các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Mặc dù những tư tưởng đó không còn là rất mốt như thời sau đại hội 2 của QTCS, nhưng các nhà lãnh đạo xô viết buộc phải chú ý đến chàng thanh niên châu Á đầy tham vọng này và tính đến anh trong các nước cờ lâu dài ở châu Á.

Năm 1923, quan điểm của Lenin về một nhà nước công nông trong các xã hội chưa qua cuộc cách mạng công nghiệp lại được khuấy lên. Năm 1922, một số kẻ theo chủ nghĩa dân túy đã lập nên “Quốc tế xanh” ở Prague, khuyến khích thành lập các đảng nông dân với đường lối chính trị mới. Các phần tử cấp tiến Đông Âu, do Dombal (đảng viên cộng sản người Balan) khởi xướng, cũng muốn QTCS phải có một tổ chức tương tự để lôi kéo sự ủng hộ của nông dân. Tuy không hào hứng lắm nhưng ban chấp hành QTCS cũng quyết định lợi dụng Triển lãm nông nghiệp quốc tế tại Moscow để tổ chức hội nghị Nông dân quốc tế vào ngày 10/10/1923. Những nhà tổ chức cũng gom được khoảng 150 đại biểu từ các nước tham dự triển lãm. Nguyễn Ái Quốc được bầu đại diện cho Đông dương. Trong bài phát biểu của mình vào ngày 13, Nguyễn Ái Quốc , qua các ví dụ và sự kiện đơn giản, đã chỉ ra rằng nông dân là nạn nhân bần cùng nhất của chủ nghĩa đế quốc. Bởi thế, Quốc kết luận QTCS chỉ có thể là QTCS chân chính nếu có được sự tham gia tích cực của nông dân châu Á. Hội nghị đã quyết định thành lập Quốc tế Nông dân do A. Smirnov làm tổng thư ký. Nguyễn Ái Quốc được bầu làm 1 trong 11 thành viên của chủ tịch đoàn của Hội đồng Nông dân quốc tế.

******************
1. FCP - Đảng cộng sản Pháp
2. QTCS: Quốc tế Cộng Sản
3. CNXH: Chủ nghĩa xã hội 


 Tháng 12/1923. Nguyễn Ái Quốc nhập học tại Đại học Cộng sản cho những người bị áp bức phương Đông. Trường này do Lênin lập ra từ năm 1921, nhưng lại đặt dưới quyền của Stalin nên còn được gọi là trường Stalin, chuyên dạy cho các học viên từ các nước châu Á và các học viên không phải dân tộc Nga từ miền đông Nga. Một trường khác, gọi là trường Lênin, chuyên đào tạo cán bộ cho châu Âu.

Trường có khoảng 1000 học viên từ 62 dân tộc khác nhau, trong đó 900 là đảng viên cộng sản, 150 là phụ nữ, khoảng một nửa xuất thân từ nông dân, số còn lại là công nhân và “trí thức vô sản”. Có vẻ Nguyễn Ái Quốc là học viên đầu tiên từ Đông Dương. Khoảng 150 giáo viên dạy đủ các môn từ Toán học cho tới Lịch sử phong trào cách mạng và công nhân cũng như chủ nghĩa Max, trong ngôi nhà số 10 trên phố Tverskaya. Học viên còn được học các hoạt động cách mạng như tổ chức biểu tình, rải truyền đơn. Học viên đều dùng bí danh trong sinh hoạt. Các môn học được dạy bằng tiếng Pháp hoặc tiếng mẹ đẻ. Tiếng Nga được khuyến khích sử dụng trong giao tiếp. Năm học kéo dài từ tháng 9 tới tháng 7 với 3 tuần nghỉ Noel, 1 tuần nghỉ Xuân và nghỉ Hè. Trường có hai trại hè ở Crưm. Vào các kỳ nghỉ, học viên được huy động tham gia tăng gia sản xuất. Điều kiện học tập ở đây khá lý tưởng, trường có 2 thư viện với gần 47000 đầu sách. Mỗi dân tộc lớn đều có phòng riêng với các sách báo bằng tiếng mẹ đẻ.

Ngay sau lễ kỷ niệm 3 năm ngày thành lập trường, Quốc đã viết thư cho Petrov, bí thư Dalburo, phàn nàn là hầu như chẳng có người Việt nam nào học ở đây cả. Quốc đề xuất trường Stalin đặc biệt quan tâm đến đào tạo đội ngũ cán bộ thế hệ mới cho châu Á tiến tới thành lập Liên bang Cộng sản Phương Đông. Trường Phương Đông có hai mức: căn bản 3 năm và tại chức 7 tháng. Nhiều khả năng là Quốc học lớp 7 tháng vì anh còn phải làm việc tại QTCS. Lãnh đạo QTCS coi Quốc là một thành phần quan trọng, thêm đại diện cho các nước châu Á và thuộc địa trong vô khối những tổ chức quốc tế được thành lập thời bấy giờ. Anh được mời đến quảng trường Đỏ dự miting và phát biểu trong ngày quốc tế lao động với tư cách là thành viên của Quốc tế lao động Đỏ. Quốc còn dự đại hội của Quốc tế phụ nữ và nói chuyện với vợ goá của Lenin: Krupskaya.

Bằng vô số cách khác nhau, Quốc dần dần trở thành một nhân vật nhẵn mặt trong giới lãnh đạo QTCS và quen thân với các cây đa cây đề như Bukharin, Dmitrov, Thalemann, Kuusinen. Quốc còn chơi với một số bạn bè Trung quốc học cùng trường như Chu Ân Lai. Quốc cũng gặp Tưởng Giới Thạch khi ông này thăm Nga 3 tháng cuối hè năm 1923. Có vẻ như mọi người đều thích Quốc. Ruth Fischer, một nhà cộng sản cội người Đức nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc không gây ấn tượng từ lần gặp đầu tiên, anh ta chinh phục bằng lòng hào hiệp và sự giản dị”. Là một người thực tế, không tham gia các cuộc tranh luận vô bổ về học thuật, Quốc đã tránh được sự bất đồng đang hình thành lúc đó trong giới lãnh đạo xô viết, dẫn đến sự méo mó của Đảng Bolsevic và QTCS trong thập kỷ tiếp theo.

Nhà báo Ossip Mandelstamd, người đã phỏng vấn Quốc tháng 12 năm 1923 cho báo “Ngọn lửa nhỏ” viết về Quốc: "Một người trẻ tuổi mảnh dẻ, thấm đẫm những triết lý của đạo Khổng, với cặp mắt to và xuyên thấu. Khi anh ta nói về đất nước mình, cả người anh như co giật, mắt anh chói lên những tia hào quang. Anh ta phát âm từ “văn minh” với một sự ghê tởm lộ rõ, và đặc biệt phẫn uất với việc nhà thờ Thiên chúa chiếm mất 1/5 đất trồng trọt của đồng bào anh ". Còn Boris Souvarin, người sau này đã rời bỏ FCP- Đảng cộng sản Pháp , tuyên bố: “ Quốc đã trở thành một người Stalinist hoàn hảo”

Chỉ có một người không mấy ấn tượng với Quốc,đó là M. Roy, một đảng viên cộng sản Ấn. Ông này cho rằng Quốc là một người yếu đuối cả về thể xác và tư tưởng. Trớ trêu thay, chính Quốc là một trong số ít người ủng hộ luận điểm của Roy cho rằng các nước châu Á cũng có thể làm cách mạng. Roy sau này trở thành đặc phái viên của QTCS tại Trung quốc và theo nhiều nhà quan sát, chính sự yếu kém của ông này đã làm Đảng cộng sản Trung quốc thất bại trong cuộc tranh giành quyền lực năm 1927.

Quốc còn dành nhiều thời giờ để viết cho các báo cánh tả ở Pháp cũng như Inprecor (cơ quan ngôn luận của QTCS). Chủ đề của ông rất rộng: từ chủ nghĩa đế quốc ở Trung quốc, 3K(??) ở Mỹ, thiên đường Liên xô đến sự cùng khổ của nhân dân Đông dương. Cùng với các bạn Trung quốc tại trường Stalin, Quốc viết một cuốn sách nhỏ: “Trung quốc và thanh niên Trung quốc” xuất bản bằng cả tiếng Nga, Trung và Anh. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Quốc trong thời kỳ ở Nga, và có lẽ trong cả cuộc đời là cuốn “Bản án chế độ thực dân Pháp”, được xuất bản ở Paris năm 1926 (NXB Lao động). Tác phẩm chủ yếu đả kích chế độ thực dân Pháp tại Đông dương, tuy cũng có vài dẫn chứng khác tới các thuộc địa châu Phi. Tuy nhiên cách hành văn dông dài cũng như trình bày cẩu thả làm có nhà nghiên cứu cho rằng, có lẽ ai đó đã mượn tên Quốc để xuất bản. Tuy nhiên nếu xét kỹ giọng điệu và văn phong, có vẻ như vẫn là Quốc. Chắc chắn là cuốn sách đã được ra đời một cách vội vàng.

Một điều dễ nhận thấy trong các bài viết của Quốc là niềm tin “ngây thơ” với Liên xô và đặc biệt là tình cảm với Lênin. Có lẽ thất vọng lớn nhất trong đời Q là không được gặp Lenin. Năm 1923, khi được hỏi mục đích đến Liên xô, Quốc đã trả lời: để gặp Lenin. Rất tiếc tháng Giêng năm 1924, Lenin qua đời. Giovani Germanetto, một người quen Italia của Q kể lại:
“Matxcova, tháng giêng 1924, lạnh buốt, nhiệt độ xuống dưới -40. Lenin mất mấy ngày trước đó. Có tiếng gõ nhẹ vào cửa phòng chúng tôi ở khách sạn Lux. Một người thanh niên châu Á mảnh dẻ bước vào tự giới thiệu là Nguyễn Ái Quốc . Anh nói muốn đi tiễn đưa Lenin. Tôi khuyên anh nên ở nhà đợi thêm một chút vì thấy anh ta ăn mặc rất mỏng manh. Chúng tôi uống chè rồi Quốc về phòng mình.

Quãng 10h đêm lại thấy có tiếng gõ cửa. Vẫn đồng chí Quốc. Mặt, tay, mũi, tai tím ngắt vì lạnh. Anh lập cập nói đã đến thăm Lenin. Anh không thể đợi được đến ngày mai để viếng người bạn tốt nhất của các dân tộc bị áp bức trên thế giới... . Cuối cùng anh xin chúng tôi một chén trà nóng”


Theo Yevgeny Kobelev, sau khi dự đám tang Lenin, Quốc đã giam mình vào trong phòng và viết: “Người là cha, anh, thầy, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Người là ngôi sao dẫn đường cho các dân tộc bị áp bức. Người sẽ sống mãi trong hành động của chúng ta”

Tuy nhiên nếu để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt, dễ nhận thấy là không phải cái gì tại nước Nga xôviết cũng làm Quốc dễ chịu. Tháng 12/2003, người ta phân cho Quốc vào 1 buồng của khách sạn Lux với 4-5 anh bạn nữa. Và có vẻ mấy anh này không phải là những người đồng phòng dễ chịu. Tháng 3, Quốc viết thư kêu cứu: “ban ngày tôi không ngủ được vì ồn, ban đêm tôi không ngủ được vì rận/rệp”. Cuối cùng Quốc được chuyển sang một phòng khác.

Về chiến lược đường lối cách mạng, cũng chẳng phải mọi thứ đều suôn sẻ. Từ khi đặt chân đến Nga, Quốc liên tục thả bom xuống những người bạn có thế lực của mình về các vấn đề thuộc địa. Trong một bức thư viết tháng 2/1924 cho người bạn tại Trung ương QTCS (chắc là Manuilsky), Quốc cảm ơn bạn đã nêu vấn đề thuộc địa tại hội nghị của FCP - Đảng Cộng Sản Pháp ở Lyon. Cũng ngày đó, Quốc viết thư cho Tổng thư ký QTCS Grygori Zinoviev đòi được gặp mặt thảo luận về vấn đề thuộc địa. Không được trả lời, Quốc viết lá thư thứ hai kêu ca là tại sao không trả lời lá thư thứ nhất. Zinoviev quyết định lờ đi. Chẳng biết Quốc định thảo luận gì với Zinoviev, nhưng tháng Tư, Quốc công bố bài báo: “Đông dương và Thái bình dương” trong tạp chí Inprecor. Ông tuyên bố giai cấp vô sản châu Âu thực là ngây thơ khi cho rằng các vấn đề châu Á chẳng liên quan gì đến họ. Sự bóc lột các thuộc địa không những đang làm giàu cho các nhà tư bản và các chính trị gia vô liêm sỉ mà còn dẫn đến hiểm hoạ chiến tranh đế quốc. Khi đó thì công nhân châu Á và Đông dương chết, giai cấp vô sản châu Âu cũng bị hiểm hoạ. Tầm quan trọng của “vấn đề phương Đông” đã được Roy nêu lên từ Đại hội 2 năm 1920 nhưng bị các đồng chí châu Âu gạt đi. Họ cho rằng, trước hết các Đảng châu Âu phải dành được chính quyền trước. Các đồng chí châu Á cứ đợi đã!

Thoạt đầu quan điểm châu Á được sự ủng hộ từ các cấp cao nhất: Lenin và cả Stalin. Tuy nhiên sau khi Lenin chết đi, Stalin chuyển trọng tâm sang đấu đá để dành quyền lực tại Moscow. Zinoviev tìm cách lảng tránh. Maring bỏ QTCS chạy lấy người, thậm chí Manuilsky, vì thiếu các thông tin thực tế, đành tập trung vào các điều kiện tại Balkans. Vai trò của nông dân còn thấp kém nữa. Thậm chí Bukharin còn chế nhạo Thomas Dombal là: “Một người nông dân hão huyền”. Nguyễn Ái Quốc không chịu đầu hàng, phát biểu tại hội nghị Quốc tế nông dân tháng 6/1924. Tuy nhiên ông cũng phải thừa nhận với một người bạn đó chỉ là: “tiếng kêu cứu giữa hoang mạc”.

Đại hội lần thứ 5 của QTCS tại Matxcova vào ngày 17 tháng 6 năm 1924 là cơ hội tuyệt vời để Nguyễn Ái Quốc chiếm lĩnh diễn đàn về vấn đề thuộc địa. Đó cũng là mục tiêu của chuyến đi Nga của ông theo lời mời của Manuilsky. Vì lúc đó chưa có đảng cộng sản tại Đông dương, Quốc nằm trong thành phần của FCP - Đảng cộng sản Pháp . Hơn 500 đại biểu từ khoảng 50 nước tham dự.

Mặc dù chương trình nghị sự có hẳn một phiên họp về vấn đề thuộc địa và các dân tộc ngoài Nga, các thủ lĩnh của CPSU- Đảng CS Liên Xô đang bù đầu với cuộc đấu đá giữa Stalin và Trotsky, bởi thế các đồng chí châu Á cũng chẳng được quan tâm lắm. Ngay tại phiên họp đầu tiên, Quốc đã làm cho mọi người chú ý. Khi đại biểu Koralov đang đọc dự thảo nghị quyết để công bố, Quốc đã đứng lên hỏi: "liệu văn kiện này có nhắm tới nhân dân các nước thuộc địa không ?". Koralov bực tức trả lời, đã có phiên họp riêng về vấn địa thuộc địa, cần gì phải bàn ở đây. Quốc không chịu và yêu cầu đại hội phải đề gửi nhân dân các nước thuộc địa trong tất cả các văn kiện của mình. Ngày 23/6, đến phiên Quốc phát biểu. Người thanh niên Việt nam mảnh dẻ dõng dạc tuyên bố: "Tôi ở đây để nhắc nhở QTCS về sự tồn tại của các thuộc địa. Có vẻ như các đồng chí không chịu hiểu rằng, số phận của giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt giai cấp vô sản ở các nước thực dân gắn chặt với số phận của các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Thuộc địa chứa đựng hiểm hoạ cũng như tương lai của cuộc cách mạng thế giới. Tôi nghe bài phát biểu hùng hồn của nhiều đồng chí ở mẫu quốc, nhưng xin lỗi, các đồng chí định giết con rắn bằng cách dẫm lên đuôi nó. Chúng ta đều biết là sức mạnh và nọc độc của con rắn đế quốc nằm nhiều ở thuộc địa hơn ở mẫu quốc. Thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, binh lính cho chiến tranh. Trong tương lai thuộc địa sẽ là thành trì của phản cách mạng. Nếu muốn phá vở một vật gì đó, các đồng chí đủ thông minh để chọn công cụ thích hợp. Đập trứng thì cần thìa, đập đá cần rìu. Vậy sao các đồng chí lại không muốn sức mạnh, sự tuyên truyền của cách mạng tương xứng với kẻ thù. Trong khi các đồng chí lờ đi các thuộc địa, chủ nghĩa tư bản dùng thuộc địa để hỗ trợ, bảo vệ và đánh lại các đồng chí. "

Ngày 1/7, Quốc phát biểu lần nữa, tiếp sau sự chỉ trích của Manuilsky đối với một số đảng cộng sản châu Âu về vấn đề thuộc địa. Quốc trực tiếp chỉ ra sự yếu kém của FCP - Đảng Xã Hội Pháp và đảng cộng sản Anh, Hà lan và đưa ra một loạt các biện pháp cải thiện tình hình. Mặc dù chưa dám khẳng định nông dân sẽ đóng vai trò chủ đạo trong cuộc cách mạnh sắp tới, Quốc cũng nhấn mạnh vai trò của họ: "Nạn đói đang hoành hành trên tất cả các thuộc địa Pháp. Nông dân căm thù và sẵn sàng nổi dậy. Nhưng họ không có tổ chức và lãnh đạo. QTCS cần phải giúp họ đứng lên tự giải phóng mình. "

Với những bài phát biểu sắc bén của mình, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành một nhân vật gây chú ý với giới lãnh đạo QTCS. Chân dung của Quốc do hoạ sĩ Nga Kropchenko N.I. vẽ xuất hiện trên Báo Công nhân Nga số cuối tháng Bảy. Báo Pravda chạy một tiêu đề giật gân: “Từ lời nói đến hành động - Diễn văn của đại biểu Đông dương Nguyễn Ái Quốc ”. Tuy nhiên, chẳng ai ngờ được, chẳng bao lâu sau quan điểm coi trọng nông dân trong cách mạng châu á sẽ bị coi la dị giáo và sẽ bị Matxcova trừng phạt. 


 Không hiểu có phải vì những lời phê phán của Quốc mà lãnh đạo QTCS đã chú ý đến việc tuyển mộ nhiều nhà cách mạng trẻ từ châu Á đưa sang Nga để đào tạo. Trong những năm sau đó, chỉ riêng từ Việt nam đã có hơn 100 học viên. Nhóm học viên Việt nam đầu tiên đến qua đường Pháp vào khoảng giữa năm 1925. FCP- Đảng cộng sản Pháp cũng lẳng lặng sửa sai bằng cách thành lập Uỷ ban thuộc địa do Jacques Doriot lãnh đạo. FCP còn tổ chức một trường đào tạo ở ngoại ô Paris dành cho các học viên từ các nước thuộc địa trước khi chuyển tiếp sang trường Stalin ở Nga. Một trong 8 học viên đầu tiên của trường này là người Việt nam.

Với sự xuất hiện tại Đại hội V của QTCS, Quốc đã chấm dứt giai đoạn “tập sự”, chính thức trở thành nhà lãnh đạo cách mạng châu Á, người phát ngôn cho các vấn đề phương Đông và nông dân. Quốc cảm thấy đã hoàn tất công việc của mình tại Moscow, sẵn sàng trở về châu Á để bắt tay xây dựng phong trào. Đó cũng là mục đích chính của Quốc khi rời nước Pháp. Trong lá thư của mình gửi Uỷ ban TW của QTCS năm 1924, Quốc viết:

Khi tôi đến Matxcova tôi nghĩ sẽ chỉ ơ đây 3 tháng trước khi sang TQ để liên lạc với đất nước tôi. Bây giờ đã là tháng thứ 9 và tôi vẫn chờ đợi trong vô vọng. Tôi không hề có ý định đưa ra các luận điểm về sự tồn tại hay không tồn tại của các tổ chức công nhân, của các phong trào dân tộc chủ nghĩa hay của những hội nhóm bí mật nào đó. Chúng ta cần nghiên cứu tình hình một cách nghiêm túc và nếu ở đó chưa có gì thì phải THÀNH LẬP MỘT CÁI GÌ ĐÓ.

Chuyến đi của tôi sẽ phải có các nhiệm vụ sau:
- Tạo mối liên lạc giữa Đông dương và QTCS
- Nghiên cứu tình hình kính tế chính trị xã hội tại thuộc địa
- Liên lạc với các tổ chức đã có sẵn
- Tạo cơ sở thông tin và tuyên truyền

Làm thế nào để có thể hoàn thành những nhiệm vụ đó? Trước hết là phải đi Trung quốc. Sau đó thì phải làm bất cứ việc gì mà tình hình yêu cầu. Cần bao nhiêu tiền? Tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung quốc, chắc là khoảng US100/tháng (chưa tính thuế), không kể chi phí chuyến đi sang TQ. Tôi nghĩ là chúng ta đã có đủ thông tin căn bản để thảo luận.


Nỗi khát khao được trở về của Quốc được sự ủng hộ của Dalin, đặc vụ của QTCS nằm trong phái đoàn của Borodin trợ giúp Tôn Trung sơn tổ chức lại Quốc Dân Đảng theo đường lối Lenin. Khi về Matxcova Dalin cũng ở khách sạn Lux và có nhiều dịp nói chuyện với Quốc. Tháng Tư năm 1924, sau khi tháp tùng đoàn đại biểu Trung Quốc từ Yakutsk về Matxcova, Quốc được mời lên phòng làm việc của Manuilsky. “Thế nào, anh bạn trẻ? Anh có sẵn sàng chiến đấu không?” Manuilsky đồng ý cử Quốc về Quảng đông với điều kiện Quốc phải hỗ trợ các dân tộc khác trong vùng. Chẳng bao lâu sau, Quốc được cử làm thành viên Ban bí thư Viễn đông (Dalburo) của QTCS. Tuy nhiên bộ máy quan liêu đã làm cản trở chuyến đi của anh vì không tìm được công việc thích hợp. Bực mình Quốc đề nghị chỉ cần chi trả tiền vé, anh sẽ tự lao động để kiếm sống. Cuối cùng, ngày 25/9, Dalburo quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc sẽ đi Quảng châu”

Quốc đã thuyết phục được QTCS cử về quê hương với cái giá khá đắt Vì không có vị trí chính thức, anh phải sống một cách bất hợp pháp trong thành phố đầy rẫy những mật vụ Anh, Pháp. Quốc còn phải tự kiếm sống trong một đất nước mà anh chưa bao giờ đến. (Trước khi đi anh đã tranh thủ nhận nhiệm vụ với hãng tin ROSTA thỉnh thoảng gửi bài từ Trung Quốc về kiếm thêm tí chút)

Quốc rời Matxcova một ngày tháng 10 trên chuyến tàu xuyên Xiberi khởi hành từ ga Yaroslavskii, sau khi đã nhờ Dombal thông báo với mọi người là bị ốm. Quốc còn viết một lá thư gửi cho một người bạn Pháp thông báo anh không được phép đi Đông dương, bởi thế sẽ quay về Pháp. Quốc ở lại Vladivostock vài ngày rồi lên một con tàu Xoviet. Tàu cập bến Quảng châu ngày 11/11/1924 

 4. Con Rồng Cháu Tiên


Châu Á năm 1924 đã khác xa so với thời Quốc ra đi năm 1911. Mặc dù Thế chiến thứ Nhất không phá vỡ hệ thống thuộc địa tại Nam và Đông Nam á, Trung quốc đã thay đổi sâu sắc. Mùa thu năm 1911, một cuộc cách mạng đã phá vỡ triều đình Bắc Kinh. Những người nông dân của Tôn Dật Tiên đã nổi dậy lật đổ nhà Thanh nhưng đã không qua mặt được Viên Thế Khải. Tháng 2/1912 Tôn Dật Tiên đã buộc phải nhường chức tổng thống của nước cộng hoà mới thành lập cho Viên Thế Khải với trụ sở tại Bắc kinh. Viên Thế Khải thực chất muốn trở thành hoàng đế. Tuy nhiên đảng viên của Tôn, chiếm gần nửa trong nghị viện đã không cho Viên thực hiện điều này. Tháng Giêng năm 1914, Viên giải tán quốc hội và điều hành bằng sắc lệnh. Đảng của Tôn bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tôn phải chạy ra nước ngoài. Năm 1916, Viên đột ngột qua đời. Trung Hoa rơi vào vòng loạn đả của các thủ lĩnh địa phương. Mặc dù chính quyền vẫn còn tồn tại một cách mong manh tại Bắc kinh, nhưng men xã hội đã tích luỹ khắp nơi. Tháng 1/1919, sinh viên nổi dậy tại Bắc Kinh và các thành phố lớn. Cũng năm đó, Tôn đổi tên đảng thành Quốc dân Đảng, hùng cứ tại Quảng Châu (dưới sự bảo trợ của một thủ lĩnh địa phương). Tháng 4/1921, Tôn tuyên bố thành lập nước cộng hoà mới và tự phong làm tổng thống.

Tại Nga, sau khi tạm yên tình hình trong nước, năm 1920, đảng bộ Viễn đông được thành lập tại Iakurst để lãnh đạo phong trào cộng sản vùng Viễn đông-Thái Bình dương. Grigorin Voitinsky được cử sang Trung Quốc. Sau khi ở BK một thời gian ngắn, ông sang Thượng hải và bắt đầu tụ tập các lực lượng cách mạng trong vùng. Mùa hè năm 1922, Đảng cộng sản Trung Quốc được thành lập tại Thượng hải. Maring (đảng viên cộng sản người Hà lan), người được cử thay Vointinsky phụ trách Quốc tế cộng sản tại Trung Quốc đã rất kiên quyết yêu cầu ĐCS Trung Quốc kết hợp với Quốc dân Đảng. Tháng giêng 1923, hai đảng ký thoả thuận Nội Liên (bloc within) để thành lập mặt trận thống nhất Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của Nga. Các đảng viên ĐCS Trung Quốc được mời tham dự Quốc dân Đảng

Tại Đông Dương, tình hình cũng thay đổi nhanh chóng, mặc dù có thể không nhanh như bên Trung Hoa. Dân số ở cả 3 miền tăng từ 7 triệu năm 1880 đến 16 triệu năm 1926 (Tokin: 6, Annam: 5 và khoảng hơn 4 triệu tại Cochin China). Mặc dù vẫn là đất nước nông nghiệp nặng nề, đến giữa những năm 20 đã có khoảng 1 triệu dân sống ở các đô thị, chủ yếu là Hà nội và Sài gòn.
Phong trào đấu tranh giành độc lập cho Việt nam đã hầu như suy sụp. Những nhà cải lương phải im tiếng sau khi Phan Chu Trinh bị bắt và đày sang Pháp. Phan Bội Châu khởi đầu khá ấn tượng, lôi kéo được sự hỗ trợ của nhiều nhà yêu nước xuất chúng, cũng dần dần héo hắt sau mấy cuộc khởi nghĩa vội vàng thất bại, đặc biệt sau khi Phan Bội Châu bị bắt ở Nam Trung quốc.

Năm 1911, nghe tin cuộc cách mạng của Tôn Trung Sơn, Phan Bội Châu đã từ bỏ ý định phục hồi chế độ quân chủ, lập ra đảng mới: Việt nam Quang phục Hội. Mục tiêu của Châu là xây dựng mô hình nước cộng hoà kiểu Tôn. Năm 1912, Châu gặp Tôn và được hứa Việt nam sẽ là nước đầu tiên được giúp đỡ một khi cách mạng thành công tại Trung hoa. Đáng tiếc sau đó, Châu bị mấy thủ lĩnh địa phương tống giam vì các hoạt động lật đổ. Năm 1917, khi Châu ra tù, Quốc dân đảng đã bị mất quyền, Tôn thì đã chạy sang Nhật bản. Một lần nữa hy vọng vào sự trợ giúp của nước ngoài bị tan vỡ. Có vẻ như Châu đã hoàn toàn mất hết kiên nhẫn, ông thậm chí còn đề nghị hợp tác với Pháp, hy vọng vào sự cải cách của chế độ thực dân. Đầu những năm 20, bộ máy cách mạng của Châu tại Việt nam thực tế đã tan vỡ. Châu ra sống lưu vong tại Nam Trung hoa với một số những môn đệ gần gũi nhất. Thời kỹ Phan Bội Châu rõ ràng đã đến hồi kết thúc. 


Hai Phan thất bại đã cho thấy một sự thay đổi lớn lao trong xã hội Việt nam. Tầng lớp quý tộc-học giả truyền thống, những người đã chi phối nền chính trị Việt nam hàng thế kỷ qua, đã mất dần ảnh hưởng. Mặc dù nhiều học giả đã nhận thức được sự thay đổi của thời cuộc và vai trò ngày càng tăng của quần chúng, như một giai cấp, họ không cảm thấy tự tin. Phan Bội Châu nhắc nhiều đến hình ảnh: “hàng chục nghìn anh hùng vô danh, đánh đuổi thực dân Pháp”, nhưng đảng viên của ông chỉ gồm toàn những học giả với đời sống khá giả. Mặc dù cương lĩnh của đảng là cổ vũ thương mại và công nghiệp, thành phần lãnh đạo đảng lại chủ yếu là các địa chủ. Những nhà quý tộc giàu có khăn áo thướt tha mở cửa hàng để quyên vốn cho đảng, thực chất coi khách hàng bằng nửa con mắt.

Khoảng cuối chiến tranh thế giới thứ nhất, chế độ thi cử kiểu Khổng tử bị bãi bỏ trên khắp Việt nam. Chữ quốc ngữ được phổ biến ở khắp 3 miền. Mặc dù đa số thanh niên vẫn phải học ở các thầy đồ làng truyền thống, con cháu của các quý tộc đã được gửi đi học tại các trường kiểu Pháp như Quốc học. Họ được dạy bằng tiếng Pháp và được tiếp tục đưa sang Pháp đào tạo. Cùng lúc đó, một tầng lớp trung lưu mới được hình thành. Họ là những nhà buôn, chủ hãng hoặc công chức trong các công sở của người châu Âu. Họ ngưỡng mộ lòng yêu nước của Phan và các bạn, nhưng trong lòng họ giễu cợt các quan điểm bảo thủ. Họ mặc đồ Tây, uống vang Bordeaux và nói tiếng Pháp. Nhà văn Pháp Paul Monet miêu tả họ như: “nguyên mẫu của nền văn minh Pháp, bị tách khỏi những tín ngưỡng truyền thống, hoàn toàn coi thường Khổng tử vì họ không hiểu”. Các quan chức thuộc địa Pháp vui mừng vì có những thành quả đầu tiên của quá trình văn minh hoá. Họ không hề ngờ rằng, chính thế hệ này mới là những người thách thức sự thống trị của họ.

Những hành động bất nhất của nhà cai trị Pháp vô tình lại tăng thêm nỗi thất vọng của dân Việt. Năm 1919, toàn quyền Albert Sarraut hứa hẹn: “sẽ coi những con dân của mình như người anh em và dần dần phục hồi toàn bộ nhân quyền”. Ngay cả Nguyến Ái Quốc khi đó đang ở Paris, cũng không khỏi khấp khởi một chút hy vọng mong manh về đất nước đã sản sinh ra khẩu hiệu: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Tuy nhiên sau khi Albert Sarraut được thăng chức đưa về cố quốc, chẳng ai hơi đâu nhớ đến những lời hứa đó nữa. Hệ thống trường học thiếu tiền, cả nước chỉ có khoảng 5000 học sinh trung học. Nếu trước đây trong chế độ phong kiến, có đến 25% dân số có khả năng giải mã được trên những ký tự ngoằn ngoèo của chữ Hán, thì sau chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ biết chữ (kể cả quốc ngữ hay chữ Hán) chỉ vào khoảng 5%. Những thống kê này đặt một dấu chấm hỏi to đùng lên “Sứ mệnh mang lại nền văn minh” của thực dân Pháp. Mặc dù không ít người Việt nam đã cống hiến cho mẫu quốc trong thế chiến thứ Nhất, họ vẫn không bộ máy thực dân công nhận ngay tại nước mình. 10000 viên chức Pháp được trả lương cao gấp nhiều lần đồng nghiệp Việt nam. Đại đa số trong hơn 40000 người châu Âu, nhiều người đến Việt nam “trên răng, dưới dép”, nay khá giả nhìn dân bản địa không khác gì một con chó. Chính quyền độc quyền sản xuất muối, thuốc phiện và rượu bán cho dân với giá cắt cổ. Hơn 500 ngàn nông dân không ruộng đất, phải cày thuê cuốc mướn, nộp tô đôi khi tới 50% mùa màng cho khoảng 5 vạn địa chủ. Georges Garros, trong cuốn sách xuất bản giữa thập kỷ Forceries humaines lạnh lùng nhận xét: người Pháp mà rơi vào hoàn cảnh ấy, chắc chắn sẽ làm cách mạng. Về phần mình, trong cuộc trả lời phỏng vấn Ossip Mandelstam năm 1923 tại Moscow, Nguyến Ái Quốc miêu tả Việt nam như một dân tộc: “bị đẩy vào địa ngục”.

Một lớp các nhà hoạt động chính trị mới ra đời khoảng giữa những năm 20 là con đẻ của tâm trạng vỡ mộng của xã hội. Họ được đào tạo theo hệ thống trường Tây, ngưỡng mộ văn hóa Tây, đọc sách báo Tây nhưng phẫn nộ vì sự bất công mà nhà cầm quyền Pháp áp đặt cho đồng bào của mình. Họ đòi hỏi: “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” cho dân tộc mình. Những hạt giống phản kháng đầu tiên nảy mầm ở Sài gòn nơi khoảng cách giàu nghèo, bản xứ và ngoại quốc rõ rệt nhất. Sài gòn cũng là nơi tập trung nhiều ngoại kiều và công
nhân nhất do sự phát triển kinh tế nhanh chóng. Người đầu tiên là nhà địa chủ Bùi Quang Chiêu, người mà Nguyến Ái Quốc đã từng gặp trong chuyến xuất ngoại đầu tiên của mình. Ông ra tờ báo La Tribune Indigene và thành lập Đảng Hiến pháp, đảng chính trị đầu tiên ở Đông dương. Mặc dù Chiêu và các đồng sự gây sức ép đòi Pháp cho người Việt nam nhiều quyền hơn nữa trong đời sống chính trị, mục tiêu của các ông là giảm sự thống trị của Hoa kiều trong lĩnh vực kinh tế.

Người mà người Pháp sợ hơn là Nguyễn An Ninh. Ông này là con của một nhà nho Nam bộ, có liên quan đến Trường Tự do Hà nội, sau đó tham gia vào phong trào kháng chiến của Phan Bội Châu. Ninh tốt nghiệp luật ở Paris, đã từng gặp Nguyến Ái Quốc và tỏ ra rất ham thích chính trị. Về nước đầu những năm 20, Ninh ra báo: La Cloche Felee (Tiếng chuông rè) để kêu gọi tinh thần yêu nước của dân chúng và đòi cải cách chính trị. Cũng như Phan Chu Trinh, Ninh ngưỡng mộ văn hoá phương Tây và coi đó là sự bù đắp cho nền Nho giáo kìm hãm sự sáng tạo của con người. Theo ông đó là nguyên nhân mà ta mất nước. Ông kêu gọi khởi xướng một nền văn hoá mới, không bị ảnh hưởng bởi những tư tưởng du nhập của Khổng tử và Lão tử. Cũng như Mahamat Ghandi, Ninh cho rằng giải pháp nằm trong vấn đề tinh thần và chỉ có thể tìm thấy trong nhân dân. Ảnh hưởng của Ninh mạnh đến nỗi đại sứ Maurice Cognacq phải mời lên thẩm vấn. Ngài đại sứ thông báo là các hoạt động của Ninh đã bị theo dõi chặt chẽ và Ninh phải thôi ngay, nếu không ngài sẽ buộc phải có những hành động không hay. Ngài còn châm biếm, dân Việt còn ngu lắm, làm sao hiểu được những điều ông phát biểu, tốt hết là ông hãy đến Moscow. Ninh bỏ ngoài tai và vẫn tiếp tục hoạt động.


 Khi Nguyễn Ái Quốc đến Quảng đông tháng 11/1924, thành phố đang náo động vì hàng ngàn người đổ ra bờ sông để bày tỏ sự ủng hộ đối với chính quyền Tôn Trung Sơn và tiễn tổng thống đi Bắc kinh. Từ tháng giêng năm 1923, theo sự thoả thuận với Maring mật vụ của Quốc Tế Cộng Sản,Tôn thi hành chính sách: Nội liên, đưa một số Đảng viên CS Trung Quốc vào những vị trí quan trọng của Quốc dân đảng. Sau khi đại diện của Quốc Tế Cộng Sản- Mikhail Borodin đến Quảng đông, Quốc dân đảng được tái cơ cấu theo đường lối của Lê nin. Học viện quân sự Hoàng phố được mở ra để đào tạo các sĩ quan trẻ cho cách mạng. Tưởng Giới Thạch, cánh tay phải của Tôn được bổ nhiệm làm Giám đốc, Chu Ân Lai làm chính uỷ học viện.

Quyết định của Tôn nghiêng về nước Nga xô viết và hợp tác với Đảng CS Trung Quốc làm cho giới ngoại giao và thương mại phương tây ở Quảng đông sôi máu. Mùa hè năm 1924, chính quyền Anh ra lệnh đàn áp các cuộc biểu tình của công nhân trên Đảo Sa điện. Đáp lại, công nhân công bố tổng bãi công. Chính phủ Tôn cử quân đội đến ủng hộ các công nhân bãi công. Hội Công thương Quảng đông (chủ yếu gồm các thương gia phương Tây) thành lập các đội du kích vũ trang để bảo vệ cộng đồng phương tây. Đã xảy ra các cuộc đụng độ giữa họ và quân đội chính phủ. Tình hình bắc Trung quốc cũng thay đổi nhanh chóng. “Tướng Thiên chúa” Phương Du Tường lật đổ Vu Bắc Phú ở Bắc kinh. Phương có cái nhìn thiện cảm với chế độ của Tôn và mời Tôn lên Bắc kinh đàm đạo. Tôn đồng ý.

Mặc dù không được giao nhiệm vụ rõ ràng, vừa đến Quảng châu, Nguyễn Ái Quốc đã ngay lập tức bắt liên lạc với Borodin và được ông này mời đến ở cùng với mình tại Bao công Quán, một biệt thự ngay cạnh cơ quan trung ương của Quốc dân đảng. Tầng 1 là văn phòng của 20 nhân viên phái bộ QTCS. Tầng 2, Quốc và Borodin ở. Cả hai đã từng gặp nhau ở Moscow, cùng nói được tiếng Anh (Borodin đã ở Chicago) và cùng chia sẻ mục tiêu thúc đẩy cách mạng ở châu á. Vì thế nên họ nói chuyện rất tâm đầu ý hợp. Để che mắt mật thám Pháp, Nguyễn Ái Quốc lấy tên là Lý Thuỵ. Chỉ có Borodin và vợ biết được danh tính của Nguyễn Ái Quốc. Quốc được phân vào phân xã của cơ quan thông tấn Xô viết ROSTA. Trong các bài viết về Moscow, Quốc thường ký tên Nilovskii. Thỉnh thoảng Quốc còn làm việc phiên dịch hoặc đại diện cho Quốc tế nông dân. Tuy nhiên, mục đích chính của chuyến trở về của Nguyễn Ái Quốc là xây dựng hạt nhân cho một đảng mới theo kiểu Lenin, từ đó tìm cách đưa phong trào cách mạng Việt nam vào tổ chức, theo ý chỉ của mình.

Sự hiểu biết của các nhà cách mạng Việt nam lúc đó về chủ nghĩa Max và cuộc cách mạng Nga lúc đó hết sức đơn giản. Một nhà dân tuý nói: “Chúng tôi không theo chủ nghĩa cộng sản, chúng tôi theo những người cộng sản, bởi vì họ hứa sẽ mang lại quyền tự quyết cho các dân tộc. Chúng tôi chờ đợi họ như những vị cứu tinh.” Có người còn ngây thơ: “Nếu phương Tây căm thù người Nga và những người cộng sản, họ phải là những người tốt.”.Nguyễn Ái Quốc không hề có một ảo tưởng nào. Từ năm 1922, trong một bài báo viết tại Paris, ông nhận xét, đa số nhân dân tại thuộc địa hiểu Bolsevism là: “Đạp đổ tất cả hoặc tẩy chay nước ngoài. Cả hai cách hiểu đều nguy hiểm”. Quần chúng “đã sẵn sàng nổi dậy, nhưng họ không biết bắt đầu như thế nào”. Việc xây dựng một đảng đại diện cho các tư tưởng Max và Lenin nhưng lại đáp ứng được khát vọng: độc lập dân tộc của đông đảo quần chúng, là một việc cấp bách nhưng vô cùng khó khăn.

Người Việt nam nổi tiếng nhất ở Trung Quốc khi đó là Phan Bội Châu. Sau khi ra tù vào năm 1917, Châu đã có một thời ve vãn ý tưởng dàn xếp với Pháp nhưng nhanh chóng vỡ mộng. Ông xoay sang dưỡng lão tại Hàng Châu ở nhà của đệ tử có tên là Hồ Học Lâm. Tuy đã 55 tuổi, lại chẳng có cơ sở nào ở trong nước, nhưng hình ảnh một nhà cách mạng lão thành quắc thước với bộ râu quai nón và cặp kính trắng lạnh lùng vẫn có sức hấp dẫn lớp trẻ. Khoảng đầu những năm 20, một nhóm các thanh niên trí thức Việt nam do Lê Hồng Phong, Lê Văn Phan (sau này gọi là Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn Lệnh dẫn đầu đã vượt biên sang nhận Châu làm sư phụ. Một điều thú vị là nhóm này hầu như đều đến từ Nghệ an và sau đều trở thành nòng cốt của tổ chức cách mạng do Quốc thành lập. Nhóm thanh niên kích động này nhanh chóng cảm thấy tù túng với tổ chức của Châu. 8 tháng trước khi Quốc tới Quảng châu, tháng 3/1924, họ tách ra thành lập tổ chức mới lấy tên là Tâm Tâm Xã. Nóng nảy và dễ kích động, họ cho rằng mọi thứ lý thuyết đều vớ vẩn, họ theo đuổi đường lối của Auguste Blanqui ở châu Âu thế kỷ 19, người đã kích động khởi nghĩa tại Pháp, Italia và Tây ban nha. Mục tiêu của tổ chức là tuyên truyền và khủng bố để châm ngòi cho việc lật đổ chế độ cai trị của Pháp.

Người đỡ đầu cho tổ chức là Lâm Đức Thụ. Ông này tuy đã 36 tuổi và giàu có nhờ lấy một bà vợ giàu, nhưng sinh ra trong một gia đình chống Pháp, lại có tiền và quan hệ rộng rãi nên rất có uy tín. Trụ sở của Tâm Tâm Xã đóng ngay tại hiệu thuốc của vợ chồng Thụ tại Da Trường, một phố nhỏ gần trụ sở QTCS. Một trong những phi vụ đầu tiên của nhóm là đánh bom toàn quyền Đông dương Martial Merlin khi tay này đến thăm Quảng đông tháng 6/1924. Đáng ra chàng thanh niên ngăm đen đẹp trai Lê Hồng Sơn sẽ xử lý vụ này, tuy nhiên anh này với biệt danh “Hit man” quá quen mặt với cảnh sát. Phạm Hồng Thái, một chàng trai mới lò dò từ Đông dương sang được giao nhiệm vụ thay thế. Anh này là con một viên quan đã từng tham gia phong trào Cần vương ở Nghệ An, được tiêm nhiễm tư tưởng cách mạng trong thời gian học tại trường Pháp ở Hà nội. Sau một thời gian làm thợ cơ khí ở ga ra, rồi thợ mỏ, Thái cùng các bạn là Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu chuồn sang Trung quốc. 
 Tối 19/6, khách sạn Victoria trên đảo Sa điện ồn ào những lời chúc tụng nhân đại tiệc chúc mừng toàn quyền Pháp. Đúng 8:30, khi món súp đang được dọn ra thì một tiếng nổ đinh tai nhức óc đã biến bàn tiệc thành một địa ngục. Năm thực khách chết ngay tại chỗ, hàng chục người khác bị thương nằm la liệt. Trên đường trốn chạy, Thái nhảy xuống sông và chết đuối trên sông Châu Giang. Thoát chết trong gang tấc, Merlin rời Quảng châu ngay hôm sau trong khi đám tang người liệt sĩ trẻ được tổ chức trọng thể. Đây là vụ ám sát một quan chức cao cấp châu Âu đầu tiên ở châu Á. Tiếng bom Sa điện đã gây một cú sốc lớn trong cộng đồng người Pháp và tôn Phạm Hồng Thái lên vị trí “tử vì đạo”. Chính quyền Tôn Trung Sơn quyết định dựng bia tưởng niệm. Phan Bội Châu thì tranh thủ vụ việc để “đánh bóng” lại hình ảnh của mình. Ông này viết một bài tiểu sử về Thái như một cộng sự trong tổ chức của ông.Tháng 7/1924, trong chuyến đi dự lễ khai trương bia tưởng niệm Thái, Châu đã trao đổi với một số đệ tử về việc thay Quang Phục Hội bằng Việt nam Quốc dân đảng, theo mô hình đảng của Tôn. Châu trở về Hàng châu tháng 9/1924.

Mặc dù Merlin thoát hiểm nhờ có một thực khách có hình dạng giống ngài toàn quyền một cách kỳ lạ (vị này chết ngay tại chỗ), nhưng vẫn có những nghi ngờ về kẻ phản bội ở trong hàng ngũ. Một thành viên của Tâm Tâm Xã, Lê Quang Đạt, đã công khai đặt vấn đề về vai trò của Lâm Đức Thụ vì những mối quan hệ của ông này với Pháp. Tuy nhiên Lê Hồng Sơn đã gạt đi, và Thụ vẫn tiếp tục cộng tác với tổ chức

Năm tháng sau vụ đánh bom, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng châu. Nhưng chỉ ngày hôm sau, ông đã tiếp cận các thành viên Tâm Tâm Xã trong vai một nhà báo Trung quốc họ Vương. Những hành vi cấp tiến của họ làm Quốc rất khoái. Việc đầu óc họ còn trong trắng về lý thuyết càng thuận tiện cho việc tuyên truyền những tư tưởng Max-Lenin. Quốc thích Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu nhưng đặc biệt ưu ái chàng trai chắc nịch Lê Hồng Phong, người được đích thân Châu tuyển mộ. Với bản lĩnh của mình, có vẻ như Quốc chẳng gặp khó khăn gì khi dụ khị mấy chàng trai trẻ.

Tháng 12/1924, Nguyễn Ái Quốc báo về Matxcova là đang bắt liên lạc và hợp tác với “một nhóm nhà cách mạng Việt nam”. Tháng 2/1925, Quốc thành lập nhóm 9 người và đặt tên là Quốc dân đảng Đông dương, 5 trong số đó được ông coi là nòng cốt của Đảng cộng sản tương lai.Quốc khuyến khích các thành viên về nước chiêu mộ thêm đệ tử, hoặc tham gia quân đội Quốc dân đảng Trung hoa, hay gia nhập Đảng CS Trung Quốc. Quốc cần gấp sự hỗ trợ về tài chính và tài liệu tuyên truyền từ Maxcova.

Mặc dù không nhất trí với các phương pháp đấu tranh của Châu, Quốc vẫn sử dụng ông này vào việc xây dựng tổ chức của mình. Thông qua các thành viên Tâm Tâm Xã, Quốc lần ra mối quan hệ với Châu. Châu có vẻ cũng như đã nhận ra được danh tính của Lý Thuỵ. Vào khoảng giữa tháng 2 và tháng 3, Châu viết cho Quốc một bức thư có nhắc đến cuộc gặp đầu tiên của hai người ở Kim liên. Châu hoàn toàn ủng hộ đường lối của Quốc trong việc cải tổ lại đảng của mình. Tuy nhiên Quốc nhanh chóng nhận thấy rằng Châu và
nhiều cộng sự lớn tuổi của ông không thể là hạt nhân cho một tổ chức mới mà Quốc đang gây dựng. Quốc thành lập Cộng sản đoàn với 5 hạt nhân ưu tú, trong đó có Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu.


Sự xuất hiện của một nhân vật hoạt động tích cực như vậy ở trụ sở QTCS, tất nhiên là gây chú ý cho các mật vụ Pháp. Một đặc vụ với bí danh “Noel” được cử sang từ Paris với mục đích xác định được danh tính của Lý Thuỵ. Kẻ giúp đỡ đắc lực nhất cho Noel chính là Lâm Đức Thụ với bí danh là “Pinot”. Tay này làm điệp viên hai mang cho cả Pháp và các lực lượng cách mạng. Tháng 3, Thụ chụp được 1 tấm ảnh Quốc cùng với các dồng chí trước cửa trụ sở Quốc dân đảng. Phòng Nhì nhanh chóng xác nhận: Lý Thuỵ chính là Nguyễn Ái Quốc.

Sự hình thành của một đảng cách mạng mới đã chín muồi. Tháng 6, tại nhà Lâm Đức Thụ, Quốc cùng với các nòng cốt trong Cộng sản đoàn lập nên Hội thanh niên cách mạng Việt nam. Cùng vói các hoạt động của Hội, tờ báo Thanh niên mà đa phần các bài là do Quốc viết đã đặt dần dần nền móng của một tầm nhìn mới vượt qua cả chủ đề độc lập dân tộc.

 Nhờ mối liên hệ của chính quyền Tôn Trung Sơn với QTCS, Quảng châu lúc đó được coi như là “Matxcơva của phương Đông” thu hút các nhà cách mạng từ Triều tiên, ấn độ, Đông dương và Tây ấn thuộc Hà lan. Từ kinh nghiệm hoạt động ở Paris, Quốc cùng với đặc vụ của QTCS người Ấn độ Roy và lãnh tụ cực tả của Quốc Dân Đảng Lão Trung Kha, thành lập “Hội các dân tộc bị áp bức châu Á”. Phiên họp đầu tiên của Hội được tiến hành vào giữa tháng Bảy. Cương lĩnh hoạt động của Hội thanh niên cách mạng được xây dựng dựa trên hai trụ cột chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xã hội theo mô hình của Lenin được đại hội QTCS lần II phê chuẩn năm 1920. Tuy nhiên nếu Lenin coi cách mạng dân tộc chỉ là một bước chiến thuật nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những người theo chủ nghĩa dân tộc, cương lĩnh của Hội lại tỏ ra chú trọng đến độc lập dân tộc hơn nhiều là số phận của cách mạng thế giới. Chính điều đó đã gây nhiều nghi ngờ cho nhiều nhà quan sát về sự trung thành của Quốc với các tư tưởng Maxism và cuộc đấu tranh để xây dựng ảo tưởng cộng sản. Trên thực tế cuối những năm 20, đã xuất hiện những bài viết chỉ trích Quốc ở Matxcơva và từ những người cộng sự của Quốc.

Có nhiều lý do để khẳng định, Quốc trước tiên là một nhà yêu nước. Trong bài báo “Con đường đưa tôi đến với Lenin” viết năm 1960, Quốc khẳng định, chính khao khát độc lập cho Việt nam đã đưa ông đến với chủ nghĩa Max. Khác với Lenin, đối với Quốc độc lập dân tộc gần như đã là mục tiêu cuối cùng. Quốc thường xuyên phát biểu: “cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam sẽ được tiến hành vào một thời điểm thích hợp”.

Tuy nhiên cũng khó có thể nói, Quốc chỉ coi chủ nghĩa Max chỉ là công cụ cho cuộc đấu tranh giành độc lập của mình. Những bài viết và phát biểu của cậu ở Paris và Matxcova về một thế giới tương lai sôi sục nhiệt huyết. Trước khi chết, khi trả lời một phóng viên Xoviet, Quốc đã ân hận mãi về việc đã đả kích một nữ đồng chí của mình ở Nga vì đã mặc lụa tơ tằm và đi giày cao gót. “Chẳng nhẽ những người trẻ tuổi ăn mặc đẹp lại là điều xấu xa?”Câu hỏi ngơ ngác của cô gái đã hằn sâu vào trí nhớ Quốc.

Nếu Quốc vừa là nhà dân tộc chủ nghĩa vừa là một người theo chủ nghĩa Max, câu hỏi làm thế nào kết hợp giữa bản chất yêu nước của Quốc và đòi hỏi tinh thần quốc tế vô sản của chủ nghĩa Max đã được Lenin phần nào đề cập đến trong “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Lenin đề xuất kháI niệm “Liên hiệp” các quốc gia độc lập như một hình thái chuyển tiếp trước khi thành lập “Quốc gia vô sản toàn cầu”. Sự liên kết giữa nước Nga cách mạng, Hungary và Phần lan cũng như giữa Armeni và Azerbaijan không thể không ảnh hưởng đến Quốc. Trong một bức thư gửi QTCS, Quốc đã đề nghị tuyển mộ thêm nhiều học viên vào trường Stalin cho “Liên hiệp cộng sản Đông phương”. Một tài liệu mới được tìm thấy ở Nga viết năm 1924, ký tên là Nguyễn. Có đến 99% đó chính là Quốc. Khi bàn về tương lai của Đảng cộng sản Việt nam, tài liệu khẳng định: “Cần phải tính đến thực tế Việt nam và giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc dưới danh nghĩa của QTCS” . Cương lĩnh của Việt nam thanh niên cách mạng Hội cũng nhắc đến cách mạng toàn cầu như “mục đích cuối cùng” của Hội.

Tại sao Quốc lại không chọn con đường phi bạo lực đòi lại độc lập dân tộc mà lại tin vào cách mạng trên phạm vi toàn thế giới? Mùa xuân năm 1925, Nguyễn Thượng Huyền, (cháu của Nguyễn Thượng Hiền, người đã có thời là hiệu trưởng Đông kinh nghĩa thục), có viết một bài báo và nhờ Quốc nhận xét. Trong bài báo, Huyền cho rằng nguồn gốc cách mạng là từ Kinh dịch và Khổng tử cho rằng thay đổi triều đại chính là cách mạng. Huyền kết luận, thất bại của các cuộc khởi nghĩa chống Pháp là tất yếu vì sự hung bạo của chúng và độc lập chỉ có thể đạt được bằng các cuộc chống đối phi bạo lực trong xã hội như Mahatma Gandhi. Trong bức thư trả lời, Quốc đã tỏ ý nghi ngờ nguồn gốc cách mạng và cho rằng nó xuất phát từ văn hoá Tây phương. Cách mạng thay đổi các thể chế điều hành đất nước, còn cải cách chỉ cải tiến chúng. Thay đổi triều đại không phải là cách mạng. Về thất bại của cách mạng ở Việt nam, Quốc viết: "Không lẽ ông chờ đợi người Pháp khoanh taynhìn ông đuổi họ ra? Tốt nhất là hãy tự nhìn lại mình: tại sao người Pháp lại cai trị được dân ta? Sao ta lại ngu thế? Bây giờ ta phải làm gì? "Ông so sanh với người ấn độ, Ai cập. Họ có đảng phá chính trị, các hội nông dân, các tổ chức. Ta không có đảng, không có tuyên truyền, không có tổ chức. Họ như chiếc ô-tô có cả tài xế, còn ta mới chỉ có cái khung xe. Vậy mà ông muốn ta chạy như họ! Để kết luận, Quốc dẫn câu chuyện của La Fontaine về các con chuột đùn đẩy nhau đeo chuông lên cổ mèo. “Giờ đây, các con rồng cháu tiên Việt nam chẳng khác gì những con chuột. Thật là nhục nhã” 


 Tại Hàng châu, Phan Bội Châu rất quan tâm đến những gì đang diễn ra. Ông hứa sẽ đến Quảng châu thăm Quốc mùa hè năm 1925. Trong bức thư viết cho Quốc trước đó, Châu hết lời khen ngợi sự sáng suốt và kinh nghiệm của Quốc, Châu còn tỏ vẻ vui mừng vì đã có người nối nghiệp vì ông đã quá “đát”. Tuy nhiên rõ ràng là Châu vẫn muốn đóng một vai trò trong tổ chức. Trong một bức thư khác gửi cho Hồ Tùng Mậu, ông đã cạnh khoé phê bình Quốc và các đồng sự quá nóng vội. Trước đó, Châu cũng đã từng than vãn là Quốc bỏ rơi ông.

Khoảng giữa tháng 5, Châu rời Hàng châu đi Thượng hải. Tại đó, nhờ có mật báo, các mật thám Pháp trong vai tài xế taxi đã đợi sẵn, tóm gọn và chở thẳng ông về Hà nội để xét xử về tội phản quốc. Vụ bắt giữ này đã gây ra một cuộc tranh cãi lâu dài và lôi thôi nhất trong lịch sử rắm rối của chủ nghĩa dân tộc Việt nam. Nhiều thành viên của Thanh niên hội cho rằng chính thư ký của Châu, Nguyễn Thượng Huyền đã phản bội ông. Châu cũng nghĩ thế. Tuy nhiên một số người theo chủ nghĩa dân tộc không cộng sản lại nghi ngờ Lâm Đức Thụ và thậm chí Nguyễn Ái Quốc đã dựng lên vụ này để kiếm tiền thưởng và dùng Châu như một anh hùng - “vật tế thần” cho phong trào. Quan điểm này cũng được nhiều nhà nghiên cứu phương Tây nhắc lại nhưng không có những chứng cớ cụ thể. Các tài liệu của phòng nhì Pháp không rõ, nhưng xu hướng không cho rằng Quốc có dính líu. Họ cũng cho là Huyền có thông tin tốt hơn về sự di chuyển của Châu. Lâm Đức Thụ về sau tự nhận trách nhiệm nhưng không đáng tin cậy vì ông này ưa khoác lác và thổi phồng.

Mặc dù không phủ nhận là Quốc có thể phản bội Châu nếu tin rằng điều đó phục vụ lợi ích cách mạng, nhưng trong vụ này rõ ràng là Quốc không tin là có thể khai thác được gì cho phong trào từ việc bắt Châu. Thanh niên Hội vẫn tập trung sử dụng hình ảnh Phạm Hồng Thái để tuyên truyền và lôi kéo các thành viên của mình. Vả lại một lãnh tụ có tính chất biểu tượng dễ điều khiển ngoài tự do rõ ràng có lợi hơn cho phong trào so với ngồi tù ở Việt nam. Cũng cần nhận thấy rằng đến cuối đời Châu vẫn dành sự kính trọng cao nhất cho Quốc.

Toà đã xử Châu khổ sai chung thân ngày 23/11/1925 dẫn đến một phong trào phản kháng mạnh mẽ trong khắp nước. Toàn quyền mới, đảng viên Xã hội Varrene chẳng muốn khởi đầu sự nghiệp của mình bằng sự thù hận, đã đề nghị Paris giảm xuống án quản thúc tại gia ở Huế. Trước khi giảm án, Varrene đã đề nghị Châu hợp tác. Lúc đầu ông này từ chối nhưng sau đã tỏ ra khôn ngoan hơn. Tuy vẫn giữ quan hệ với các thành viên chủ chốt của phong trào dân tộc, thỉnh thoảng Châu lại đưa ra những phát ngôn có thể coi là có lợi cho Pháp ví như khen ngợi hệ thống giáo dục của Pháp ở Đông dương. Theo mật thám Pháp, một số phần tử quá khích thậm chí đã có kế hoạch ám sát Châu. Châu chết tại Huế năm 1940.

Trong thời gian vụ án Châu, một lãnh tụ cải lương khác là Phan Chu Trinh đã trở về Việt nam sau nhiều thập kỷ trong sự chào đón của dân chúng. Ông này chết năm 1926 vào tuổi 53 và đám tang ông đã trở thành một sự kiện dân tộc. Quốc có vẻ như không hài lòng cho rằng Pháp đã cường điệu sự kiện này nhằm mang lại một bộ mặt nhân tính hơn cho chính sách thực dân của mình và đánh lạc hướng dân chúng.

Nhờ sự cố gắng không mệt mỏi của Quốc, những tư tưởng Marxism dần dần được phổ biến trong các tầng lớp cách mạng ở Việt nam. Những nhà yêu nước trẻ được đưa từ trong nước sang và được đào tạo tại một cơ sở có cái tên rất kêu: Trường chính trị đặc biệt cho Cách mạng Việt nam. Trường này ban đầu được đặt tại phố Dân Sinh, sau đó chuyển sang một toà nhà 3 tầng thuộc sở hữu của một người thân Cộng sản ở phố Văn Minh (đối diện với Đại học Quảng đông, bây giờ là bảo tàng Lỗ Tấn). Tầng 1 là cửa hàng, lớp học và văn phòng của Quốc ở tầng 2 còn ký túc xá ở tầng 3. Đằng sau có cửa hậu để chạy trốn khi cảnh sát vây bắt. Giáo viên chủ yếu là các thành viên Thanh niên Hội như Mậu, Quốc, nhưng thỉnh thoảng cũng có thầy từ phái đoàn Xôviet như Vasily Blucher (Galen), P.A. Pavlov, M.V. Kuibyshev, V.M. Primakov, hoặc từ CCP như Lý Đạo Cơ, Chu Ân Lai, Lý Phu Quân và nhà tổ chức nông dân Bằng Bái. Một phần ba kinh phí của trường do Đảng CS Trung Quốc - CCP đài thọ, phần còn lại là đóng góp từ các tổ chức khác nhau, trong đó có các học viên Việt nam tại học viện Hoàng Phố.

Thầy Vương (bí danh của Quốc) là thầy giáo nổi tiếng nhất trường. Học viên đều yêu ông thầy mảnh khảnh, mắt sáng, giọng ấm, hài hước, dễ gần và đặc biệt kiên nhẫn trong việc giải thích các khái niệm khó. Thầy Vương trở thành cuốn bách khoa sống khi cần đến các số liệu. Một học viên đến giờ còn nhớ: “Thầy kể vanh vách, thực dân Pháp đã trộm bao nhiêu tấn thóc, Ngân hàng Đông dương kiếm được bao nhiêu lợi nhuận, ông Varrene đã chở về nước bao nhiêu cổ vật của dân ta”. Cũng như ở Paris, Quốc vừa là thầy giáo, vừa là cố vấn tinh thần, một người nghiêm khắc và một người bày trò có hạng. Quốc dạy học viên cách ăn nói, phát biểu, cách thông cảm với nhân dân. Quốc lo lắng nơi ăn, chốn ở và động viên các học viên bằng một sự lạc quan vô bờ bến vào sự thắng lợi của cách mạng. Như một nghi lễ, khi kết thúc khoá học, Quốc dẫn các học viên thăm mộ của 72 liệt sĩ Trung hoa trên đồi Hoàng Hoa và tuyên thệ trước lăng Phạm Hồng Thái.

Một số học viên tài ba hơn (ví dụ như Lê Hồng Phong) được phái đi tu nghiệp tiếp ở Moscow. Một số người sung quân đội hoặc tham gia học viện Hoàng Phố. Nguyễn Lương Bằng, một con nhà lao động, được chỉ thị kiếm việc trên tàu viễn dương để móc nối giữa Hải phòng và Hongkong. Hơn 70 học viên đã tốt nghiệp cho đến hết năm 1927. Đa số học viên quay về Việt nam và tiếp tục tìm kiếm thêm lính mới. Lớp này đa số cũng từ tầng lớp môn sinh. Cảnh sát Pháp xác nhận khoảng 90% thành viên Thanh niên hội là tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Năm 1928, hội có khoảng 300 thành viên ở Đông dương, trong đó khoảng 150 ở Cochin China (Sài gòn, Cần thơ, Mỹ tho), 80 ở Annam và 70 ở Tonkin. Một năm sau, con số đã lên đến hơn 1700. Nguyễn Ái Quốc đã đi những bước quan trọng đầu tiên, tuy rất nhỏ và thận trọng, để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việtnam. Ông đã viết trước đó vài năm: “Thật là sai lầm khi cho rằng Đông dương đã sẵn sàng cho cách mạng, nhưng càng sai lầm hơn khi nghĩ rằng họ cam chịu và không muốn làm cách mạng” 


 Nguyễn Ái Quốc quá kinh nghiệm để hiểu rằng, muốn duy trì được tổ chức hãy còn trong trứng nước của mình, tuyên truyền là quyết định. Tạp chí Thanh niên ra đời. Được in tại Quảng châu, xuất bản hàng tuần và gửi sang Việt nam qua đường thuỷ. Từ 21/6/1925 đến 5/1930, tổng cộng đã có 208 số được phát hành. Cũng như với tờ Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc sử dụng lối hành văn đơn giản, với nhiều biếm họa đả kích chế độ thực dân Pháp cũng như bọn vua chúa bù nhìn. Hầu hết các bài xã luận đều do ông viết nhưng không ký tên. Thanh niên Hội còn phát hành tờ Lính Kách Mệnh 2 tuần 1 lần và tạp chí Việt nam Tiền phong hàng tháng.

Đối với các hội viên nằm trong chương trình đào tạo, Nguyễn Ái Quốc viết hẳn một cuốn sách nhỏ lấy tên là "Đường Kách mệnh". Đây là cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt giải thích những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Max-Lenin và khả năng áp dụng ở Việt nam. Tuy không có mục đích trước nhưng chắc chắn 1 số bản của cuốn sách này được tuồn về Việt nam. Cuốn sách được viết bằng một văn phong cực kỳ đơn giản. Quốc biết chắc rằng đa số độc giả thậm chí còn chưa biết thế nào là Kách mệnh (thuật ngữ này mới được đưa vào tiếng Việt đầu thế kỷ 20, tiếng Hán có nghĩa là Thay đổi số mệnh), bởi thế, ngay từ đầu ông đã định nghĩa Kách Mệnh là “phá hủy cái cũ, xây dựng cái mới, phá hủy cái xấu, xây dựng cái tốt”. Tiếp đó, Quốc tiến hành phân thành 3 loại Kách Mệnh:

1. Tư sản (như ở Pháp, Nhật, US)
2. Dân tộc (như ở Italy thế kỷ 19, cách mạng 1911 ở Trung quốc)
3. Giai cấp (như cách mạng tháng 10 Nga)

Quốc khẳng định tất cả các cuộc Kách Mệnh đều được tiến hành theo hai giai đoạn: giai đoạn dân tộc và giai đoạn toàn cầu. Tất nhiên quan điểm này được mượn của Lenin, nhưng Quốc cũng đã khéo léo lồng ý của mình vào đó. Ông không khẳng định rõ bao giờ thì giai đoạn 2 mới bắt đầu. Thậm chí ông cho rằng, Kách Mạng Việt nam chỉ có thể chuyển sang giai đoạn 2 nếu hầu như tất cả các nước đã làm việc đó. Quốc nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của liên minh công nông, đặc biệt là vai trò của nông thôn trong Kách mạng Việt nam với hơn 90% dân làm nông nghiệp. Giống như giai cấp công nhân trong Tuyên ngôn Đảng cộng sản, người nông dân trong Đường Kách Mệnh “không có gì để mất ngoài xiềng xích”. Cái mà họ cần, như Quốc đã từng viết ở Pháp trước đó là Tổ chức và Sự lãnh đạo. Cách mạnh Việt nam cần có một Đảng vững mạnh với những tư tưởng dễ hiểu và theo đuổi.

Một vấn đề thú vị được đề cập đến trong cuốn sách là tính cách của “nhà cách mạng”. Có thể so sánh với cuốn “Tự bạch về nhà cách mạng” nổi tiếng của Nechayev, một tay khủng bố Nga thế kỷ 19. Ông này cho rằng, nhà cách mạng là công cụ mù quáng để thực hiện những lý tưởng cách mạng. Họ phải tàn nhẫn, dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục tiêu, phải tuân thủ kỷ luật đảng, sẵn sàng từ bỏ những quan hệ bè bạn, gia đình, thậm chí lừa dối vì lợi ích của Cách mạng. Tuy quan điểm cực đoan của Nechayev bị phê phán nhiều, nhưng Lenin vẫn rất khoái và nhiều điểm trong cuốn “Tự bạch” trở thành tiêu chuẩn của người Bolsheviks. Có nhiều điểm tương đồng trong định nghĩa của Quốc về nhà cách mạng, như tuân thủ kỷ luật đảng, đặt quyền lợi cách mạng lên trên quyền lợi cá nhân. Nhưng điểm khác biệt chủ chốt ở cái hồn tinh thần nằm đằng sau hai bản tiêu chuẩn này. Trong khi Lenin cho rằng những quan điểm đạo đức không liên quan lắm đến tính cách của người Cách Mạng thì Quốc hầu như áp dụng tất cả những chuẩn mực đạo đức của người quân tử trong đạo Khổng: tiết kiệm, cởi mở nhưng công bằng, cương quyết sửa chữa lỗi lầm, thận trọng, ham học và quan sát, không kiêu ngạo và khoan hồng.

Nếu tính đến tài năng xuất chúng của Quốc trong việc thay đổi hình thức tuyên truyền cho những đối tượng khác nhau, có thể cho rằng Quốc cố tình giữ những “bình cũ” để đưa “rượu mới” vì biết rằng đa số hội viên của ông xuất phát từ những gia đình nho học và chắc chắn vẫn giữ những giá trị căn bản của đạo Khổng. Tuy nhiên, thực tế cuộc đời Hồ Chí Minh đã chứng tỏ rằng đạo đức cá nhân ông: hình ảnh một con người giản dị và hào hiệp với niềm lạc quan vô bờ bến và tinh thần nghiêm túc và hiến dâng cho những lý tưởng cách mạng, đã trở thành sự đảm bảo tiêu chuẩn của ảnh hưởng của ông trong đảng. Đối với rất nhiều người khác, Hồ Chí Minh trở thành biểu tượng của chủ nghĩa cộng sản Việt nam.

Cuốn sách của Quốc còn thỏa mãn những logic thầm kín của Việt nam. Trong khi bảo đảm rằng cách mạng VN sẽ được giúp đỡ từ cách mạng thế giới,người đọc cũng sẽ lấy làm sung sướng được biết rằng phương Tây cũng chưa ra gì và sẽ còn phải trải qua những thời loạn lạc. Việc phân tích nguyên nhân thất bại của các nhóm dân tộc chủ nghĩa cũng rất có ý nghĩa cho lớp trẻ. Quốc đã chỉ ra rằng các nhóm này thiếu hẳn một tư tưởng, một ý niệm rõ ràng về tương lai của Việt nam độc lập. Phật giáo với triết lý chịu đựng không thể là tác nhân thay đổi. Khổng giáo bị mất giá trị trầm trọng do sự đầu hàng của triều đình. Bởi thế các nhóm dân tộc chủ nghĩa chủ yếu được xác định bởi vùng, miền, chiến thuật hay cá nhân thủ lĩnh. Những hành động của họ chỉ biểu hiện sự phẫn uất của một nhóm người trước một kẻ thù muôn lần mạnh hơn. 

 Có thể coi "Đường Kách mệnh" là cuốn sách tư tưởng nhưng quá hoang sơ, thậm chí nhiều chỗ gây bối rối cho người đọc về chủ nghĩa Max-Lenin. Tuy nhiên với quan điểm tuyên truyền rất rõ ràng của Quốc: càng đơn giản càng tốt, cuốn sách đã trở thành công cụ giới thiệu tư tưởng tốt cho những nhà cách mạng sơ khởi. Ngoài ra, Quốc đã tiến một bước dài trong phong trào cách mạng Việt nam và thế giới bằng việc lần đầu tiên nhấn mạnh vai trò của nông thôn ở Việt nam và tương lai cách mạng châu Á. Một số nhà quan sát còn cho rằng Đường Kách Mệnh là tác phẩm đầu tiên của “chủ nghĩa cộng sản nông thôn”, một biến thể của chủ nghĩa Max-Lenin, vốn thường được gắn cho Mao Trạch Đông.

Tính đến mùa xuân năm 1927, chỉ với 2 năm ở Quảng châu, Quốc đã trở thành một thành viên được kính trọng và không thể thiếu của phong trào cách mạng ở đây. Quốc chơi thân với Chu Ân Lai, nhà tổ chức thanh niên Trương Đại Lợi (cần xem lại Zhang Tailei), lãnh tụ cánh tả của Quốc dân Đảng Lão Trung Khải (Liao Zhong Kai). Cuộc sống xem ra đã có vẻ ổn định, Quốc dự kiến kiếm 1 cô vợ Tàu vừa để học tiếng và lo việc gia đình và nhờ “thổ công” Lâm Đức Thụ lo hộ vụ này. Quốc chỉ đặt một điều kiện: “không trả một xu” (trái với tục lệ người Hoa) .Nhưng chẳng có vấn đề gì, Thụ tìm ngay được 1 cô tên là Tăng Tuyết Minh, con gái vợ ba của một nhà buôn. Sau khi bố chết, cô này bị đuổi ra khỏi nhà, sống vạ vật cho đến khi làm quen được với vợ của Thụ. Nhiều đồng chí của Quốc đã phản đối cuộc hôn nhân này vì cho rằng Minh không được học hành đầy đủ, tuy nhiên Quốc vẫn quyết định cưới và hai vợ chồng cùng sống trong căn phòng của Quốc tại biệt thự của Borodin. Tuyết Minh khá xinh (theo lời kể thì mặt tròn, môi nhỏ, da mịn, tóc thề ngang vai), nhưng chẳng quan tâm gì đến các vấn đề dân tộc và cách mạng. Sau mấy lần thử tìm cách dụ dỗ thất bại, Quốc từ bỏ ý định thay đổi quan điểm chính trị của vợ. Có nguồn tin cho rằng, vợ chồng Quốc có một đứa con gái??? ( Cần thêm tài liệu chứng minh)

Tuy nhiên mây đen đang che phủ dần sự nghiệp của Quốc ở Quảng châu. Trong khi ông đang tìm cách dẹp yên những đốm lửa bất hoà ở trong nước thì tình hình Trung quốc thay đổi nhanh chóng. Cuộc hôn phối khó khăn Quốc - Cộng trong những năm qua được duy trì chủ yếu nhờ uy tín cá nhân của Tôn cũng như quan hệ thân thiết giữa Tôn và Borodin. Tuy nhiên cái chết của Tôn năm 1925 trong khi đang thương thảo với tướng Phương Yuxiang, đã thay đổi tất cả. Sau một cuộc chiến quyền lực ngắn, Tưởng Giới Thạch lên nắm quyền. Tưởng tạm thời duy trì liên minh mặc dù có sự phản đối quyết liệt của phái hữu trong Quốc Dân Đảng. Bản thân Tưởng cũng chẳng có thiện cảm gì với cộng sản. Sau chuyến viếng thăm Matxcova năm 1923, Tưởng hiểu rằng mục đích cuối cùng của Matxcova là loại bỏ đảng của ông ta. Ngày 12/4/1927, trong chiến dịch chung tiễu trừ cát cứ tại phía Bắc và Trung nguyên, Tưởng đã ra tay, điều quân tàn sát hàng ngàn đảng viên cộng sản và những người ủng hộ tại Thượng Hải.

Quảng châu phản ứng tức thì, quân đội của Lu Jishen bao vây hơn 2000 đảng viên cộng sản. Hàng trăm học viên thân cộng tại Hoàng Phố (trong đó có một số Việt nam) bị bao vây và bắn chết. Bạn Quốc, Trương Lợi cũng nằm trong số này. Khi quân của Lý tiến hành bao vây lãnh sự quán Liên xô, Borodin và một số cộng sự phải trốn sang Vũ hán. Ban đầu, phòng nhì Pháp cũng nghĩ là Quốc sẽ chạy theo Borodin. Thực tế thì Quốc đã ở lại vì tin tưởng vào những mối quan hệ của mình với Quốc Dân Đảng. Tuy nhiên ông cũng ẩn vào một chỗ hẻo lánh hơn và đi bán báo để kiếm tiền sinh sống.

Chẳng được bao lâu, Trương Văn Lệnh, một tay chân trước đây của Tâm Tâm Xã, đang là quan chức của chính quyền thành phố, đã mật báo là đã có lệnh bắt Quốc và ông phải trốn càng nhanh càng tốt. Người đã chỉ điểm Quốc chính là Nguyễn Hải Thần. Thần vốn là bạn thân của Thụ và đã từng ở nhà ông này. Quốc muốn hợp tác với Thần và những thành viên còn sót lại của Phan Bội Châu VN Quốc Dân Đảng, nhưng Thần kịch liệt phê phán xu hướng thân cộng của Thanh niên hội. Năm 1926 Trương Bội Công mò đến từ Bắc kinh càng thôi thúc Thần phải thành lập đảng mới để chống lại ảnh hưởng của hội.

Ngày 5/5/1927, Quốc lên tàu đi Hồng kông bỏ Tuyết Minh lại Quảng châu. Cùng ngày, nhà ông bị khám xét. Một lần nữa Nguyễn Ái Quốc lại lên đường. 


 5. Thanh kiếm báu

Quốc nghĩ gì khi nhìn qua cửa sổ ngắm những cánh đồng lúa xuân đang vào vụ gặt trên con tàu đi vào vô định ngày ấy. Chắc chắn là ông hài lòng vì những gì đã làm ở Quảng châu. Đích thân ông đã đào tạo hàng trăm chiến sĩ phân phối về cả 3 miền đất nước, thành lập một tổ chức vững mạnh làm tiền thân cho đảng cộng sản Đông dương sau này. Cuộc đảo chính của Tưởng đã làm đảo lộn tất cả. Thanh niên Hội không thể đặt trụ sở ở Quảng châu được nữa. Liên lạc giữa Q với các đồng chí trong nước đã bị cắt đứt, có thể phải đến hàng năm. Bản thân Q cũng chưa biết mình sẽ đi về đâu!

Ban đầu, có thể Quốc (vẫn đang dùng tên là Lý Thuỵ) đã hy vọng là sẽ dùng HongKong làm nơi cư trú và bàn đạp cho tổ chức của hội. Nhưng chính quyền sở tại nghĩ khác và ngay ngày hôm sau Quốc phải lên đường đến Thượng Hải, thành phố vẫn đang còn bàng hoàng về vụ “khủng bố trắng”. Để che mắt, Quốc phải đóng giả một nhà buôn và thuê phòng khách sạn sang trọng. Chẳng mấy chốc hết tiền, Quốc may mắn vớ được một chuyến tàu về Vladivostok.

Vladivostock khi đó là cơ quan đầu não của các hoạt động cách mạng tại Viễn đông. Tại đây, Quốc đã gặp lại Jacques Doriot, một trong những ngôi sao đang lên của Đảng cộng sản Pháp. Ông cũng gặp lại đại diện QTCS Grigori Vointinsky. Mỗi ông một ý, Doriot khuyên Quốc dựa vào FCP- Đảng CS Pháp để thâm nhập Đông dương từ Thái lan, Voitinsky thì lại đề nghị Quốc về Thượng hải và xây dựng phong trào trong đám lính Việt đang đóng ở đó. Quốc lịch sự lắng nghe, nhưng trong thâm tâm, ông đã biết mình phải làm gì. Quốc về đến Matxcova tháng 6 năm đó và ngay lập tức viết đơn xin phép được cấp kinh phí để có thể hoạt động ở Thái lan trong khoảng 2 năm. Trong khi chờ phê duyệt, Quốc viết một loạt các bài báo cho Inprecor miêu tả tình hình tại Đông dương. Sau chuyến đi nghỉ chữa bệnh ở nhà nghỉ Eppatoria - Crum (chưa rõ bệnh gì), Quốc nhận được tin vui: Trường Stalin đã quyết định thành lập phân ban Việt nam cho những sinh viên đã được Quốc gửi đi từ Quảng châu. Trong số đó, Trần Phú là người gây được nhiều chú ý nhất. Con một viên quan triều đình ở Quảng ngãi, Phú đã tham gia một đảng dân tộc nhỏ, khi sang Quảng châu để bàn việc hợp tác với Thanh niên hội, Phú đã bị Quốc thu phục và gửi sang Matxcova đào tạo.

Tháng 11/1927, thay vì chi tiền cho Quốc đến Thái lan, QTCS điều ông sang Pháp để vạch một chiến lược toàn diện hơn xây dựng cơ sở cách mạng trong vùng. Không thấy đả động gì đến chuyện kinh phí cả. Trên đường sang Paris, Quốc ghé qua Berlin, tại đây ông tham gia xây dựng chi nhánh của Liên hiệp Phản đế (vỏ bọc của đại diện Liên xô ở nước ngoài). Đến Pháp, mặc dù được báo cáo trực tiếp cho trung ương FCP, Quốc tỏ ra hết sức thất vọng vì vấn đề thuộc địa không được ai quan tâm. Cũng không ai đề nghị tìm việc làm hoặc cấp kinh phí gì cho Quốc cả. Quãng cuối tháng 12, Quốc tham gia hội nghị Trung ương Liên hiệp Phản đế tại Brussel. Tại đây ông đã làm quen với Sukarno, Nehru, gặp lại ông bạn Nhật Katayama Sen và đặc biệt với vợ góa của Tôn Trung Sơn Tống Khánh Linh, người sẽ giúp đỡ Quốc trong thời điểm quyết định sau này.

Sau hội nghị, Quốc chỉ trở về Paris một thời gian ngắn và sang Berlin. Ông viết thư cho Dombai xin tiền của Quốc tế Nông dân để về Đông dương hoạt đông. Ông này khuyên Quốc nên xây dựng phong trào nông dân ở các tỉnh biên giới với Trung quốc nhưng cũng không thấy đả động gì đến chuyện tiền nong. Chẳng có việc gì làm, Quốc dự định hoàn thành một cuốn sách khoảng 120 trang về những kinh nghiệm bản thân trong phong trào nông dân Trung quốc. Đến khoảng tháng 4 thì Quốc cạn tiền, ông viết một bức thư thống thiết về Dalburo miêu tả mình như một người :

Không được làm việc ở Pháp, vô dụng ở Đức nhưng rất cần ở Đông dương. Tôi đã khẩn thiết đề nghị tổ chức cung cấp tài chính để tôi có thể trở về Đông dương hoạt động. Tôi đã nói với đồng chí Khi Doriot khi đi ngang qua đây là nếu không có tiền sống thì hãy cho tôi tiền đi lại để tôi có thể lên đường chứ không phải lang thang ở châu Âu này nữa. Rốt cuộc chẳng có hồi âm gì. Tình hình của tôi hiện tại như sau: 1/chờ đợi chỉ đạo trong vô vọng 2/không có gì để sống...

Hai tuần sau Quốc nhận được giấy phép trở về Đông dương, FCP cấp tiền đi đường và 3 tháng ăn ở. Đầu tháng 6, Quốc rời Berlin, qua Thụy sĩ, sang Italia. Tại biên giới, theo lời kể của Quốc, may mắn sao tên Quốc lại không có trong Từ điển chống QTCS của bọn cảnh sát phát xít. Tuy nhiên Quốc vẫn bị bắt tại Rome và bị đánh đập tàn nhẫn. Cuối cùng ông cũng được thả và lên một con tàu Nhật ở Naple để về Thái lan. Đó là cuối tháng 6/1928.

*****************
FCP- Đảng CS Pháp 



 Quốc đến ThaiLan tháng 7/1928. Vương quốc Thái lan khi đó là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không phải là thuộc địa. Bởi thế ngay cả nhà cách mạng nổi tiếng như Quốc cũng được đi lại thoải mái, chẳng ai quan tâm. Trước đó, theo lệnh của Quốc, thanh niên Hội đã xây dựng mạng lưới trong giới Việt kiều, vốn tập trung rất đông tại khu vực cao nguyên Khorat, Đông bắc Thái lan. Từ vùng núi Trường sơn đến cao nguyên này khoảng 2 tuần đi bộ, chính quyền Thái lan lại ưu ái các nhà yêu nước Việt nam, bởi thế khu vực này có thể được coi là thánh địa chống thực dân. Nhiều người trong số 20.000 Việt kiều ở khu vực này là tín đồ cũ của phong trào Cần Vương và Phan Bội Châu. Từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã cử Hồ Tùng Mậu sang lập 4 chi nhánh tại Phichit, Nakhon Panom, Udon Thani và Sakon Nakhon dưới dạng các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp.

Từ tháng 8 năm 1928, trong cộng đồng người Việt tại Bandong (một huyện của Phichit) xuất hiện một người Việt nam lạ mặt tự xưng là Thầu Chin. Ông ở đây 2 tuần và tháng 9/1928 vượt 10 ngày đường rừng để đến Udon Thani. Có ngày ông đi được đến 70 km. Cộng đồng người Việt ở đây vốn xuất phát là dân tiểu thương nên lười lao động và không muốn hoà nhập với xã hội Thái. Thầu Chin đến thay đổi tất cả. Đích thân ông đứng ra xin phép và khênh gạch để xây trường học cho bà con học tiếng Thái. Mỗi ngày ông đặt quyết tâm học 10 từ Thái. Tối tối ông đến các gia đình, kể cho họ nghe tình hình thế giới và Đông dương, giải thích cho họ chính quyền và người dân Thái ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt nam. Ông đổi tên tờ báo tiếng Việt Đồng Thanh thành Thân Ái (gắn với một tổ chức do Thanh niên Hội lập ra), bằng cách hành văn dễ hiểu, qua các bài thơ và vở kịch kích động tinh thần yêu nước.

Đầu năm 1929, Thầu Chin đến Sakhon Nakhon. Dân ta ở đây không được giác ngộ cho lắm, thờ chúa, phật và cả Trần Hưng Đạo đủ cả. Mỗi khi mắc bệnh lại cúng vái tứ phương. Thầu Chin đích thân chẩn bệnh và mời bác sĩ đến chữa bệnh cho nhân dân. Ông cũng không ngần ngại sử dụng đức Thánh Trần cho việc tuyên truyền yêu nước Trên Điện Diên Hồng, ngàn người như một "Kẻ nào muốn cướp Việt nam hãy bước qua xác chúng ta Còn một người Việt còn sống là sông núi Việt nam vẫn là của ta "

Mật thám Pháp đã mất khá nhiều công sức để tìm Quốc sau khi ông rời Quảng châu năm 1927. Phòng nhì Pháp đã dò được Quốc ở Paris nhưng lại mất vết khi Quốc bỏ Brussel. Năm 1928, 1929 chúng nghe nhiều tin đồn về một người Việt kỳ lạ lang thang trong các làng Việt kiều ở Đông bắc Thái và tìm cách xác định danh tính người này. Tháng 10/1929, toà án triều đình tại Vinh đã xử tử Quốc vắng mặt về tội nổi loạn. Trong hồi ký của mình, Quốc đã nhắc đến việc có lần phải cắt tóc trốn vào chùa đi tu để tránh cảnh sát. Trong lúc Quốc lặn lội sang Xiêm thì các đồng chí của ông tìm mọi cách để giữ vững hoạt động của Thanh niên Hội. Sau khi hầu như những thành viên chủ chôt được thả, Hội được đặt dưới sự lãnh đạo của Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu với trụ sở tại căn phố hẹp Dân Sinh gần Cửa Dong Da địa điểm cũ của Trường đào tạo. Tháng 12/1927 các đảng viên Đảng CS Trung Quốc liều lĩnh mở cuộc khởi nghĩa và bị đàn áp dã man. Nhiều chiến sĩ của Hội cũng tham gia và bị giết. Lê Hồng Sơn và một số người khác bị bắt và đưa ra toà, nhưng không bị buộc tội mà bị trục xuất. Hồ Tùng Mậu chuyển trụ sở sang Hồng kông và mất liên lạc với Đảng CS Trung Quốc và QTCS.

Dù những thất bại tạm thời Thanh niên Hội vẫn có vị trí vững chắc trong phong trào cách mạng Việt nam. Hội tiếp tục mở rộng trong nước và đàm phán với các đảng phái chính trị khác để thành lập mặt trận thống nhất chống Pháp. Có điều các cuộc đàm phán này thường diễn ra trong không khí nghi kỵ vì Hội kiên quyết giữ vai trò lãnh đạo. Quãng tháng 12/1927, một số nhà giáo và nhà báo ở Bắc bộ và Bắc Annam thành lập ra VN Quốc Dân Đảng. Tuy cùng tên với đảng của Phan Bội Châu nhưng chẳng có liên quan gì. Đảng này theo chủ nghĩa Tam dân của Tôn và cũng có mong muốn hợp tác với Thanh niên Hội. Hai bên đã từng hẹn đàm phán tại Xiêm nhưng thất bại vì Hội không cử đại diện đến. Vả lại VN Quốc Dân Đảng không chấp nhận sự lãnh đạo của Hội ở trong nước, tất yếu dẫn đến sự tranh giành ảnh hưởng quyết liệt giữa hai tổ chức. 


Ngoài ra những mâu thuẫn trong Hội cũng bắt đầu xuất hiện. Thực ra mâu thuẫn này có nguồn gốc từ chính sách hai mặt của Quốc: "cam kết theo chủ nghĩa quốc tế Max-Lenin nhưng vẫn lấy độc lập dân tộc làm cương lĩnh hoạt động chính". Sau khi Quốc rời Quảng châu mùa xuân năm 1927, một số học trò của ông như Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu nhanh chóng trở thành những người Marxist đầy khao khát, trong khi đó Lâm Đức Thụ và một số cựu binh lại quan điểm khác. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng khi mùa xuân năm 1928,
tại một cuộc họp ở nhà riêng của Thụ, ông này đã tìm cách thông qua được bản cương lĩnh mang tính dân tộc mà chẳng đả động gì đến cách mạng xã hội hay đấu tranh giai cấp gì cải.

Trong ba năm đầu tiên, cả hai phái trong Hội đều kìm chế, tuy nhiên sau hội nghị HongKong, mâu thuẫn bùng phát dẫn đến tan vỡ tổ chức. Mọi sự khởi đầu từ nhóm lãnh đạo Bắc bộ và bí thư thứ nhất Trần Văn Cung. Ông này người xứ Nghệ, đảng viên đảng Tân Việt, tham gia khởi nghĩa Quảng Châu và đã từng ngồi tù Quốc dân đảng. Cung cũng tham dự vào hội nghị HongKong và tỏ ra rất thất vọng về đường lối uỷ mị của ban lãnh đạo mới. Cung không tin là có thể thuyết phục nông dân và công nhân ủng hộ chỉ bằng diễn thuyết chung chung về lòng yêu nước và độc lập dân tộc. Cần phải mang lại cho họ những lợi ích kinh tế cụ thể. Không được chào đón nồng nhiệt ở hội nghị, Cung quay ra thuyết phục các đồng chí mình ở Bắc bộ.

Đầu tiên họ không hài lòng về việc chẳng ai quan tâm chiêu mộ giai cấp vô sản vào Hội. Ngoài Tôn Đức Thắng, thợ máy của Pháp về nước trở thành lãnh tụ công đoàn tại nhà máy đóng tàu Ba son và một vài “công hội đỏ” khác ở những thành phố lớn, không có nhiều công nhân gia nhập Hội. Hoạt động của Hội chủ yếu dựa vào các sinh viên từ Trung Quốc trở về. Số này phần lớn xuất thân từ thành phần học giả và chủ yếu mở rộng tổ chức trong tầng lớp bạn bè của mình. Cơ sở Hội ở nông thôn cũng rất yếu. Thứ đến, họ không hài lòng về thái độ của lãnh đạo Hội đối với việc thành lập Đảng cộng
sản mà theo họ là tuyệt đối cần thiết. Tại hội nghị 5/28 ở HongKong, khi Cung nêu vấn đề, Thụ đã gạt đi “để xem sau”. Sự bất mãn càng lộ rõ trước thềm đại hội VI của QTCS được tổ chức vào hè năm 1928. Thất vọng trước sự tan vỡ của liên minh Quốc - Cộng dẫn đến sự đàn áp đẫm máu những người cộng sản tại Trung Quốc, bị buộc phải tỏ ra cứng rắn trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với Troski, Stalin đã yêu cầu các đại biểu từ bỏ chính sách mặt trận liên hiệp rộng rãi được thông qua tại đại hội II 8 năm trước. Các đảng CS tại thuộc địa được chỉ thị không liên minh với các đảng tư sản dân tộc. Nội bộ trong đảng cũng phải thanh lọc các phần tử “tiểu tư sản”. Những đảng viên thành phần trung lưu phải được đưa đi “vô sản hoá”... . Tất cả phải hành động để chuẩn bị cho làn sóng cách mạng mới trong điều kiện nền kinh tế của các nước tư bản châu Âu đang có dấu hiệu đình trệ, hứa hẹn một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.

Vì chưa có đảng CS, Việt nam không có đại diện chính thức tại đại hội VI. Tuy nhiên có 3 người Việt nam trong thành phần đảng CS Pháp. Một người tên là Nguyễn Văn Tạo, quê gốc Nghệ an, đã từng bị đuổi khỏi trường tại Sài gòn do các hoạt động chống đối. Ông này đã phát biểu tại đại hội dưới tên An, kêu gọi cần nhanh chóng thành lập Đảng CS ở Việt nam để lãnh đạo giai cấp vô sản nhỏ nhoi ở đó. Ông còn cho rằng những tổ chức dân tộc cải lương như đảng Hiến pháp, đảng độc lập Việt nam (do Nguyễn Thế Truyền lập) theo đường lối cải cách hoà bình là “cực nguy hiểm” vì đánh lạc hướng dân chúng. Những nghị quyết của đại hội VI QTCS càng làm căng thẳng thêm những bất đồng và đổ thêm dầu vào yêu sách đòi cải tổ Hội thành đảng cộng sản có ý thức hệ tư tưởng rõ ràng. Dẫn đầu phe chống đối vẫn là Trần Văn Cung. Sau một thời gian làm thợ, Cung tin tưởng rằng chỉ bằng những khẩu hiệu yêu nước, khó có thể lấy được sự ủng hộ của công nhân. Cần phải tăng tiền lương, giảm giờ làm! Và chỉ có đảng CS mới làm được việc đó!!!

Tháng 5/1929, Thanh niên Hội tiến hành đại hội đầu tiên. 17 đại biểu đại diện cho hơn 800 thành viên tại Bắc bộ, 200 từ Nam bộ và 200 từ Trung bộ tập trung tại Hong Kong. Ngay sau khi đến nơi, Cung gặp Lê Hồng Sơn đề nghị giải tán Hội và thành lập Đảng CS. Là thành viên của nhóm cộng sản nòng cốt do Nguyến Ái Quốc thành lập trong Hội, đương nhiên là Sơn ủng hộ việc cải tổ. Tuy nhiên Sơn nghĩ chưa đến thời điểm vì các thành viên còn chưa đủ giác ngộ. Vả lại thành lập Đảng CS ở Hongkong dễ gây chú ý cho chính quyền Quốc Dân Đảng tại Quảng châu. Tuy nhiên Cung không nghe và đưa ra đề nghị ngay tại ngày đại hội đầu tiên. Bị chủ tịch Lâm Đức Thụ từ chối thẳng thừng, Cung cùng với các đồng chí liền bỏ hội nghị về Bắc bộ lập ra Đông dương cộng sản Đảng (CPI), công khai chỉ trích Hội không tuân theo các quyết định của QTCS. Sau khi Cung bỏ đi, hội nghị tiếp tục họp và thông qua nghị quyết về sự cần thiết thành lập một Đảng CS ở Việt nam, tuy nhiên thời điểm chưa chín muồi do giai cấp công nhân còn quá yếu và thiếu một lý thuyết cách mạng. Hội nghị cũng chính thức đề nghị QTCS công nhận Hội.


 Các nhà lãnh đạo Hội đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp sự ủng hộ cho một đảng cộng sản từ phong trào cách mạng trong nước. Đông Dương CS Đảng (CPI) ra sức lùa các thành viên của Hội sang hàng ngũ của mình. Tháng 8, Hồ Tùng Mậu và Lê Quang Đạt ra tù ở Quảng châu và trở về Hongkong . Được sự ủng hộ của Sơn, họ bí mật thành lập tổ chức cộng sản bên trong Hội, gọi là An Nam cộng sản Đảng (ACP), cho Lâm Đức Thụ ra rìa. Những chi bộ đầu tiên của ACP được thành lập ở Nam bộ. Cùng tháng, Mậu gửi thư cho Cung đề nghị sát nhập, nhưng Cung từ chối vì “bận”. Bí quá, Mậu viện cả QTCS: “Nếu chúng ta có hai Đảng, 1 ở phía Nam, một ở phía Bắc, thì không hiểu quốc tế thứ Ba sẽ nghĩ thế nào?”.

Suốt năm 1929, các phe phái tiếp tục đả kích nhau với chiếc mũ mensevick”. Cuối tháng 10, CPI cử Đỗ Ngọc Du tới HongkongK để hoà giải mà không cần sự giúp đỡ của người ngoài. Tuy thế, do đã được dặn trước, Du cứ khăng khăng đòi ACP giải thể và các đảng viên sẽ gia nhập CPI. Lẽ dĩ nhiên là ACP từ chối. Trong khi đó, các đảng viên của Tân Việt ở miền Trung cũng gia tăng hoạt động. Họ đổi tên thành Đông dương cộng sản Liên đoàn, nhằm tránh sự đào tẩu của đảng viên sang hai đảng kia. Thế là ở Việt nam có 3 đảng cộng sản một lúc còn Hội thì chỉ còn cái vỏ. Cuối tháng 8, được tin Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm, Sơn cử Lê Duy Diễm liên lạc với Quốc, hy vọng rằng Quốc, như người sáng lập Hội có thể sử dụng uy tín và khả năng thuyết phục của mình để hoà giải giữa các phe phái.

Matxcova cũng phê phán kịch liệt “sự chần chừ và thiếu kiên quyết” của Hội và ra mặt ủng hộ CPI. QTCS nhấn mạnh sự cần thiết phải có ngay một đảng thống nhất để lãnh đạo phong trào tại Đông dương và hứa sẽ gửi đại diện đến làm trung gian. Giọng điệu của Matxxcova càng hưng phấn khi nghe thị trường chứng khoán NewYork sập, tiếp theo những vụ khủng hoảng ngân hàng tại Áo. Các nhà lãnh đạo Xô viết như cảm thấy thời khắc sụp đổ của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đã điểm. Mùa thu 1928, Dalburo mở chi nhánh ở Thượng hải, gọi là Cục Viễn đông (FEB) . FEB đề xuất thành lập một tổ chức mới với trụ sở ở Sing để điều phối hoạt động các nhóm cộng sản ở Đông Nam Á, với tên gọi:“Liên hiệp các nhóm cộng sản”. ACP nắm được tin này qua các đồng chí Trung Quốc của mình và tỏ ra không hào hứng lắm. Đảng cộng sản Nam Dương, thành lập ở Sing giữa những năm 20, chủ yếu là dành cho người Hoa, vì thế chịu ảnh hưởng sâu sắc của Đảng CS Trung Quốc. ACP sợ rằng, Đảng CS Trung Quốc thực tế sẽ định hướng các hành động của họ. Họ cho rằng các đồng chí Trung Quốc thường chỉ quan tâm các vấn đề của mình và coi thường các dân tộc khác. Sơn gửi Lê Quang Đạt đến Thượng Hải để thuyết phục FEB trực tiếp lãnh đạo ACP. Ngày 16/12/1929 Hồ Tùng Mậu gặp phái viên của QTCS tại Hongkong. Phái viên này cho rằng cả 3 phe đều chưa xứng với danh hiệu “cộng sản” và nếu chưa có đảng thống nhất, hãy cứ để cho CPP lãnh đạo. ????


Tại Xiêm, Quốc được các đại biểu đi dự hội nghị 5/29 thông báo về sự chia rẽ trong Hội. Liền đó, tháng 9, Quốc viết một bức thư gửi cho CPI nói toẹt ra rằng, ông chỉ tin tưởng vào những người cộng sản, và để chứng tỏ lòng trung thành của mình với QTCS, CPI cần cử đại diện sang dự hội nghị dự kiến sẽ diễn ra ở Vladivostok vào đầu năm 1930. Lãnh đạo CPI chần chừ. Quốc đã hai lần định vượt biên giới về Việt nam nhưg phải hoãn vì bị cảnh sát
theo dõi quá sát sao. Khi ông đang chuẩn bị lần thứ ba thì phái viên từ Hôngkong đến (có thể là Lê Duy Diễm???) mang theo những tin tức khẩn cấp. Quốc liền đi Bangkok và từ đó đáp tàu đi Quảng châu.

Quốc đến Quảng châu 20/1/1930. Vì sợ cảnh sát Anh, Quốc viết thư mời các đồng chí của mình từ Hongkong. Tuy nhiên họ lại cho rằng gặp nhau ở Hongkong an toàn hơn vì cảnh sát Anh tỏ ra bao dung với các hoạt động của các ngoại kiều, miễn là đừng mất ổn định của Hongkong. Điều kiện sống ở Hongkong xem ra cũng tốt hơn ở Quảng châu. Người Hoa ở đây hiền hơn, thỉnh thoảng mới xảy ra bãi công. Hồ Tùng Mậu cử một đệ tử của mình hộ tống Quốc đến Hong kong và ở một khách sạn tại Cửu long. Ngay lập tức, Quốc đến nhà Lê Hồng Sơn và gặp các lãnh đạo của Hội. Ông đả kích họ đã xa rời quần chúng, miêu tả việc tách đảng như “trò trẻ con”. Quốc còn gặp với đại diện của CCP_ Đảng CS Trung Quốc. Sau đó, ông gửi thư mời ba phái cạnh tranh ở Đông Dương đến HongKong để chuẩn bị thành lập đảng mới.

***************************
* CPI - Đông Dương CS Đảng
* ACP - An Nam cộng sản Đảng
* FEB - Cục Viễn đông
* CCP - Đảng CS Trung Quốc 


 Cuối tháng Giêng, các đoàn ACP, CPI từ Đông dương lục đục kéo đến HK. Đại biểu của Liên đoàn bị bắt trên tàu thuỷ vì bị nghi đánh bạc. Ngày 3/2, Đại hội hợp nhất được diễn ra tại một căn nhà nhỏ ở khu phố nghèo của Cửu long, sau đó lại phải chuyển đến một sân vận động. Đại biểu của ACP là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiều, đại biểu CPI là Trịnh Đình Cừ và Nguyễn Đức Cảnh. Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn đại diện cho Hội cũ. Đại hội diễn ra một cách êm thấm đáng ngạc nhiên. Quốc nhẹ nhàng chỉ trích tất cả các bên và nhấn mạnh sự cần thiết phải đoàn kết. Hoá ra các mâu thuẫn kịch liệt chỉ là biểu hiện của tự ái cá nhân. Miền bắc thì chê miền nam lười và dễ tính, miền nam lại chê miền bắc khắc khổ và ương ngạnh. Cả hai đều không bằng lòng với việc các đồng chí Nghệ An chiếm hết vị trí lãnh đạo. Để tránh phiền phức, Quốc sử dụng uy tín QTCS của mình đề xuất giải tán tất cả các tổ chức hiện tại, lập ra đảng mới và được tán thành tức thì. Chỉ còn một vấn đề là đảng mới sẽ lấy tên là gì. Nhưng điều này Quốc cũng đã lo trước, ông bỏ cả Đông dương, An nam và sử dụng lại chữ Việt nam của triều Nguyễn, đảng mới sẽ có tên là Đảng cộng sản Việt nam (VCP). Phần còn lại của Đại hội diễn ra trong không khí đoàn kết và thân ái tiếp tục thông qua điều lệ và cương lĩnh của Đảng.

Cần phải nhắc lại rằng Quốc đã được báo cáo về Đại hội 6 của QTCS và những thay đổi về đường lối của phong trào, tuy nhiên ông không nhận được bức thư phê phán của QTCS trực tiếp gửi Hội năm 1929 thông qua FCP. Mặc dù thừa nhận rằng ở Việt nam chỉ có thể diễn ra cách mạng dân chủ tư sản, QTCS vẫn nhấn mạnh giai cấp công nhân phải giữ vai trò lãnh đạo và đấu tranh với tất cả các biểu hiện của bọn “dân tộc xét lại”. Lý thuyết cách mạng hai giai đoạn của Lê nin được Hội kế tục cũng bị đả kích là “kìm hãm và làm suy yếu quần chúng”. Cuối cùng bức thư kết luận: “không cần phải đợi đến khi ACP được tái tổ chức mới có thể phát động quần chúng nổi dậy”.
Chịu ảnh hưởng của sự thay đổi đường lối của QTCS, Lời kêu gọi của đại hội thống nhất tuy vẫn được gửi cho toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, binh lính, sinh viên học sinh và tất cả anh chị em bị áp bức bóc lột) Việt nam, nhưng đã xoá đi quan điểm của Quốc về liên minh công-nông chiến lược. Lời kêu gọi công khai nhấn mạnh đây là “Đảng của giai cấp vô sản”, có nhiệm vụ lật đổ “chế độ thực dân đế quốc, tàn dư phong kiến và các lực lượng tư sản phản cách mạng”, lập nên nhà nước “công nông binh” dần dần chuyển tiếp thành nhà nước XHCN. Dù thế, Quốc cũng không dễ dàng từ bỏ đường lối thành lập mặt trận rộng rãi của Lenin. Tài liệu chiến lược mới của đảng mới đòi hỏi phải lôi kéo sự ủng hộ của trung nông, trí thức, tiểu tư sản và các nhóm dân tộc như đảng Hy vọng Thanh niên của Nguyễn An Ninh. Chỉ có đảng Hiến pháp của Bùi Quang Chiêu là bị coi là rõ ràng “phản động”. Chính sự trung thành với Lê nin này sẽ mang lại cho Quốc rất nhiều sự rắc rối trong thời gian sắp tới.

Trong thư gửi Hilary Noulens, đại diện cho FEB (Far East Buro), Quốc miêu tả: “Từ quả trứng Thanh niên cách mạng đồng chí Hội, đã nở ra Đảng cộng sản Việt nam. Một tổ chức tuy còn non trẻ nhưng được tổ chức tốt nhất, có hiệu quả nhất và sẽ tiến bộ nhanh chóng”. Đảng có 204 đảng viên ở Bắc và Trung bộ, 51 tại Nam bộ, 15 ở Trung quốc và 40 ở Xiêm. Trong các tổ chức sinh viên, học sinh, nông dân, Đảng có khoảng 3500 môn đồ. Thanh kiếm thần mà Lê Lợi đã dùng để đánh tan quân xâm lược từ thế kỷ 15, giờ đây đang nằm trong tầm tay của Quốc.

*****************************

* CPI - Đông Dương CS Đảng
* ACP - An Nam cộng sản Đảng
* FEB - Cục Viễn đông
* CCP - Đảng CS Trung Quốc
* VCP - Đảng cộng sản Việt nam 

 6. Nghệ Tĩnh đỏ


Đảng cộng sản Việt nam ra đời, thỏa mãn ước mơ của Quốc khi rời quê hương cách đây 21 năm, tìm một con đường để giải phóng đất nước. Cùng với cuộc đại khủng hoảng đang diễn ra ở thế giới tư bản, phong trào cách mạng ở Đông dương có vẻ như minh chứng cho dự báo của QTCS về ngày huy hoàng sắp đến của cách mạng thế giới. Tuy nhiên, với Quốc, có nhiều câu hỏi cần phải trả lời. Liệu đảng mới sẽ thuộc đảng bộ sắp được thành lập tại Singapore hay sẽ báo cáo trực tiếp cho văn phòng FEB tại Thượng Hải? Liệu Quốc sẽ tiếp tục đóng vai trò đại diện của QTCS hay sẽ trực tiếp lãnh đạo Đảng? Nếu lãnh đạo thì sẽ đóng ở đâu vì nếu Quốc về Đông dương, sẽ bị bắt và xử ngay.

Ngày 13/2, bất chấp cái lạnh, Quốc đi Thượng hải để liên lạc với Hilaire Noulens tại trụ sở của FEB trong một biệt thự châu Âu trên phố Nam kinh náo nhiệt. Gặp Noulens không phải là việc dễ. Ngày 18, Quốc viết thư cho Nou, giọng rất bức xúc:
Tôi phải gặp đồng chí ngay, bởi vì
1/ báo cáo này đã viết 2 ngày vẫn chưa đến được tay đc;
2/ Mọi việc có thể giải quyết trong 1 giờ mà tôi đã ở đây 5 ngày rồi;
3/ tôi buộc phải ngồi không trong khi công việc chỗ khác đang chờ.

Trong bức thư, Quốc cũng kiên quyết phản đối quan điểm của QTCS về việc thành lập các đảng khu vực, bỏ qua yếu tố dân tộc. Quốc không đồng ý để VCP thuộc đảng bộ Đông Nam A, cho rằng Việt nam cần phải có một đảng độc lập, báo cáo cho FEB qua văn phòng Hồng kông. Có vẻ như cuối cùng Quốc cũng gặp được Nou và thuyết phục Nou đồng ý với quan điểm của mình, vì sau đó vài ngày Quốc báo cáo với Dalburo ở Moscow. Nhưng vẫn còn một vài khúc mắc:
Tôi không rõ vai trò của mình. Tôi là thành viên Đảng CS Pháp hay Việt nam. Khi chưa có lệnh mới, tôi sẽ tiếp tục làm việc với VCP. Nhưng dưới danh nghĩa nào? Tôi không thể về Đông dương vì đã có bản án tử hình vắng mặt. Liệu vai trò của tôi với QTCS đã chấm dứt? Nếu không, tôi có thể liên lạc với văn phòng địa phương được không? Rất mong Ban chấp hành xem xét nhanh.

Trước khi rời Thượng hải, Quốc gặp Nguyễn Lương Bằng, một tay chân cũ từ thời ở Quảng đông. Quốc dặn Bằng tìm cách tuyên truyền, thu phục gần 4000 lính Việt nam hiện đang đóng trong khu nhượng địa Pháp. Quốc còn nhấn mạnh việc giữ vững quan hệ với Đảng CS Trung Quốc. Sau đó Quốc về Hongkong thành lập văn phòng phía Nam của FEB, đợi lệnh mới. Văn phòng này được đặt trong một ngôi nhà 2 tầng ở đảo HongKong, dưới danh nghĩa một hãng buôn. Quốc thuê một căn hộ gần sân bay ở Cửu long, hoạt động với tên gọi nhà báo Vương. Văn phòng có trách nhiệm liên lạc với các đảng ở Đông Nam Á: Thái, Sing và Việt nam

Cuối tháng 3, Quốc đi tour trong khu vực với nhiệm vụ khôi phục tổ chức ở Nam Dương. Tại Thái lan, Quốc qua Udon Thani, thông báo về việc thành lập VCP. Theo lời của Hoàng Văn Hoan, Quốc kêu gọi các thành viên của Hội tham gia tích cực vào các hoạt động của đảng CS Thái sắp được thành lập. Để trấn an tâm lý bất ổn vì không được tham gia trực tiếp vào giải phóng VietNam, Quốc khuyên nên tổ chức Hội thành văn phòng tỉnh của VCP. Cuối thàng 4, Quốc quay trở về Băng Cốc chủ tọa hội nghị thành lập đảng CS Thái, bầu ban chấp hành lâm thời với 1 đại biểu Việt nam từ Udon Thani. Sau đó Quốc đi Malaya và Sing, dự hội nghị đảng Nam Dương, cải tổ thành đảng CS Malayan. Cả hai đảng mới đều báo cáo cho FEB qua văn phòng HongKong. Quốc quay về HongKong giữa tháng 5

*****************

* FEB - Cục Viễn đông
* CCP - Đảng CS Trung Quốc
* VCP - Đảng cộng sản Việt nam




No comments: