Wednesday, February 25, 2015

NGUYỄN CHÍ THIỆP * TRẠI KIÊN GIAM V




CHƯƠNG 17
  Về trở lại trại Z-30A, bị cùm trong xà lim không gì đáng kể, một phần đã quá quen, một phần sự kiểm soát ở trại tù không còn quá khắt khe. Mở, đóng cửa xà lim, đưa cơm, đều do trật tự cũng là tù nhân. Đó là anh Ngọc, cựu trung tá Dù, trưởng ban trật tự, giúp đỡ tận tình, cho đem đủ tiêu chuẩn ăn và thức uống. Ngoài ra, thuốc hút và thức ăn thêm do người bạn trẻ từ trại Xuân Phước là Phạm Văn Đồng gửi lén vào. Chỉ có ban đêm thì muỗi từ rừng ra quá nhiều và bị lắc còng kiểm soát không ngủ được. Cùm ở xà lim như vậy xem như tạm nghỉ dưỡng sức khỏi phải lao động.
Ra khỏi xà lim, Ánh, San, Ngọc và tôi được biên chế về đội 15, khu tù có án. Phân trại chia hai khu vực, khu các sĩ quan trình diện và khu tù có án, khu có án thêm một vòng rào kẽm gai, buổi trưa bị đóng cửa từ nhà một; khu trình diện, trong giờ nghỉ tù có thể đi lại với nhau tương đối thoải mái hơn.

Ngoài ra thì mọi qui chế như nhau. Rời khỏi trại Xuân Lộc 8 năm về trước, bây giờ quay trở lại, trại thay đổi nhiều, bạn bè cũ đã được về gần hết, chỉ còn lại Phố và các em từng bị kỷ luật sau vụ Tết Kỷ Mùi như Bằng, Huề, Lộc, Phương, nhưng tất cả đều đã đổi qua phân trại B. Gặp lại các anh Ngô Khắc Tỉnh, Ngô Khắc Tịnh, Lê Văn Sanh, Hoàng Bá Tất, Vũ Xuân Thông, các linh mục và mục sư từ trại Xuân Phước được chuyển về từ cuối năm 1984.


 Những bạn bè cũ từ tòa hành chánh và tiểu khu Quảng Nam… loay hoay rồi gặp lại nhau gần đủ mặt trong nhà tù. Lénine hướng dẫn các cơ quan coi tù của Liên Sô, cứ đổi trại liên tục để nuôi hy vọng cho tù là họ được về, cuối cùng gặp nhau và chết ở Siberia. Cộng Sản Việt Nam cũng áp dụng điều đó, suốt 13 năm họ điều động từ Nam ra Bắc, cũng đổi trại liên tục, nhưng cuối cùng phải đưa tù cải tạo về Nam. Chúng tôi gặp lại nhau ở trại Z-30A, không phải chết như những người tù Liên Sô, mà để được về. Đó là điều mà tù tin chắc. Việt Cộng muốn đưa chúng tôi đi khai thác các vùng rừng thiêng nước độc ở miền Bắc và miền Trung rồi chết ở đó, nhưng do tình thế chúng không được tự do thực hiện ý đồ đó, chúng bắt buộc phải đưa tù trở lại các trại miền Nam là để thả. Việt Cộng là một chính quyền rất ngoan cố, không bao giờ tôn trọng luật pháp và công luận quốc tế. Nhưng bây giờ chúng phải chiều theo áp lực của công luận, chúng tôi chắc chắn Việt Cộng đang ở thế yếu.

Trại Xuân Lộc đã đổi khác rất nhiều, không như 8 năm trước khi chúng tôi ở đây. Một phần vì để chuẩn bị cho tù về, đã có những chỉ thị cởi mở trong việc kiểm soát, thăm gặp và nhận quà của gia đình. Một phần vì chính bọn giám thị và cán bộ cũng không còn tin tưởng vào đảng, nên đã tùy tiện đối xử, một phần vì nghèo đói phải tự lo lấy đời sống nên bị mua chuộc.

Những anh tù trình diện đã đem kinh nghiệm dùng quà cáp và tiền của gia đình gửi, mua chuộc sự dễ dãi của cán bộ ở trại Nam Hà về áp dụng ở trại Xuân Lộc. Trại Xuân Lộc giờ đây gần như một thị trường mua bán. Tù có thể nhờ cán bộ mua đem vào trại những thứ bị cấm như trà, cà phê, kể cả rượu. Cán bộ còn buôn bán giờ thăm gặp gia đình; ngoài tiêu chuẩn cải tạo tốt còn nếu biết bỏ tiền mua, tù có thể gặp mặt và ở lại với thân nhân 72 giờ, 64 giờ, 48 giờ, 36 giờ, 24 giờ, 12 giờ, 3 giờ – mỗi giá cho mỗi thời gian; ngoài ra để được tự do với bà xã trong một phòng riêng thì có thể bỏ thêm ra từ 2000 đồng trở lên, tức là giá của 4 bao thuốc lá nhập cảng hiệu 555 hay Jet. Tù nhân cải tạo chưa tốt và không cần mua chuộc thì được gặp gia đình theo tiêu chuẩn một giờ; một giờ gặp mặt gia đình cũng đủ để nói chuyện cần thiết, trước kia chỉ 15 phút.

Tình trạng tại trại Xuân Lộc như là sự mệt mỏi của cả hai bên. Cai tù đã mệt mỏi vì đời sống càng khó khăn, họ đã thấy rằng theo mãi lệnh của Đảng chỉ có húp cháo và ăn khoai mì, trong khi họ thấy rõ cấp trên từ thủ trưởng các cơ quan như tiếp liệu, vật tư đều giầu có, nên không muốn hành hạ tù nữa, họ đã thấy bài học căm thù giai cấp mà Đảng dậy cho họ khi bước chân vào trường công an coi tù đã có cái gì lấn cấn sau sự thật nên họ có thể làm ngơ nếu không có gì quá đáng xảy ra và họ có thể thỏa hiệp với tù nhân nếu có lợi, dù nhỏ. Mặt khác, những người tù từng sừng sỏ chống đối ở các trại tù trước có lẽ cũng đã thấy sự chống đối quá khích cũng không đem lại cái gì cụ thể. Đa số những người chống đối không có những lý luận sâu sắc về lý thuyết, về chế độ, về tương lai đất nước, đa số chống vì hận thù, vì bị áp bức, vì tuyệt vọng.

Giờ đây tình thế không còn tuyệt vọng, ngày về rõ ràng, đã thấy tình trạng sống ở tù đã có phần thay đổi, nhu cầu gặp gỡ gia đình… những yếu tố đó khiến nhiều người bỏ đường lối đối đầu. Trong khung cảnh chật hẹp của nhà tù, sự việc xảy ra có thể gọi là nhỏ nhặt, nhưng cũng phản ảnh một ý niệm rất cơ bản là khi người ta không thể tiêu diệt được nhau, người ta có thể tìm một công thức tương nhượng nào đó để có thể sống với nhau mà mỗi bên đều tìm thấy cái lợi của mình.

Tờ báo Tuổi Trẻ phê phán thi cử tuyển chọn theo lý lịch. Nguyễn Văn Linh nêu vấn đề này từ năm 1985 khi y là Bí thư Thành ủy Sài Gòn, bây giờ y là Tổng Bí thư, y vẫn không giải quyết được vấn đề nhỏ đó, các Tỉnh ủy bảo thủ vẫn không nghe lệnh của Trung Ương. Tình trạng sứ quân, địa phương nào bảo thủ quyền lợi của địa phương đó.

Báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật nêu trường hợp em Nguyễn Minh Huy, học sinh, quê quán ở Nghĩa Bình, 6 năm liên tiếp thi đậu vào đại học, đậu với điểm số cao nhất, vẫn không được Tỉnh ủy Nghĩa Bình cấp giấy vào Sài Gòn học vì lý lịch cha là Trung úy Quân Đội Cộng Hòa tử trận năm 1962, năm em Huy được sinh ra. Thân nhân bên ngoại của Huy đều là cán bộ cấp Huyện của Cộng sản. Huy phải sống bằng cách đi giữ trâu rồi làm thợ mộc. Phóng viên báo Tuổi Trẻ đã đến Bình Định để điều tra tại chỗ, biết thêm không riêng mình Huy, tại địa phương này có cả gần 100 học sinh thi đậu vào các Đại học Sài Gòn không được Tỉnh ủy cấp giấy phép đi học vì lý lịch là con sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Khi báo Tuổi Trẻ tạo dư luận ồn ào về vụ này thì em Nguyễn Minh Huy bị Thành ủy tỉnh Nghĩa Bình trả đũa bằng cách gọi em đi nghĩa vụ quân sự.


Có lẽ chưa bao giờ một chính quyền mà mâu thuẫn nội bộ tồi tệ đến như vậy. Càng thêm niềm tin cho những người chống Cộng sản về sự sụp đổ không thể nào tránh khỏi. Đặt cho người yêu nước mối ưu tư làm sao tổ chức được một lực lượng đối kháng mạnh mẽ, vận động được toàn dân khắp cả nước. Chúng tôi nghĩ đến những người đã khôn ngoan hay may mắn ra đi trước ngày miền Nam sụp đổ. Ở nước ngoài không sợ bị công an đến nhà bắt, có nhiều phương tiện tiền bạc và khả năng trí óc, họ có nghĩ đến đất nước để làm chuyện đó hay không hay là họ bị ru ngủ trong văn minh và tiện nghi vật chất cùng mặc cảm thua sút nên mải chạy đua mong theo kịp người da trắng bản xứ. Và họ có còn chống Cộng hay vẫn còn sợ Cộng sản, tin là không thể lật ngược được tình thế như sự tuyên truyền của Cộng sản và tay sai?


Phong trào nói thẳng, nói thật được Nguyễn Văn Linh phát động đi quá đà. Chắc Nguyễn Văn Linh và những tên Cộng sản cùng phe cánh của y chỉ muốn đưa ra những sự sai lầm được gọi là hiện tượng tiêu cực của cán bộ cấp thấp, để rửa bớt bộ mặt bẩn thỉu của chính quyền Cộng sản đang bị dân chúng nguyền rủa và khinh bỉ, nhưng sự uất ức trong xã hội đã có từ lâu nên khi có lịnh cởi mở, nhiều người đã tiến rất xa.


Truyện ngắn “Tướng Hồi Hưu” của Nguyễn Huy Thiệp được tù truyền nhau đọc vô cùng thích thú. Có thể nói, khi đưa ra chủ trương cởi mở có giới hạn, Nguyễn Văn Linh nhằm mục đích cứu nguy chế độ đang suy sụp và sự đòi hỏi của quần chúng và sự thay đổi mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Nhưng mặt khác, những biện pháp cởi mở đó cũng cho thấy đã đến lúc Cộng sản biết không còn có thể bưng bít mọi cái xấu họ tạo ra cho xã hội cũng như đã đến lúc phải công nhận một giá trị khác hơn là “tư tưởng Mác Lénine vô địch”. Trong điều kiện đó, dù vẫn bị nhiều ràng buộc, nhưng những nhà văn Cộng sản cũng đã có thể phát biểu ý kiến riêng của con người họ, thay vì trước đây, họ chỉ hoàn toàn phát biểu ý kiến với tư cách là một đảng viên tô hồng chế độ để bảo vệ miếng cơm manh áo, đời sống kinh tế và con đường tiến thân


. Con người thứ hai, tức con người đích thực từ lâu bị che dấu, có dịp bùng lên. Nhớ lại từ năm 1975, tiếp xúc với chú Bình, chú luôn luôn nói với cách phân hai “với tư cách đảng viên”, và “với tư cách người kỹ thuật”, bài học đó chú Bình muốn tôi hiểu về con người Cộng sản. Hy vọng trong một hoàn cảnh thuận tiện nào đó, con người đích thực trong các đảng viên Cộng sản nhất tề vùng lên, và khi đó, Cộng sản không còn sử dụng được bộ máy bạo lực đàn áp, đó là ngày chế độ Cộng sản sụp đổ.
Nguyễn Huy Thiệp là một người học môn Sử và dậy môn Sử, anh đã hiểu rõ Việt Cộng đã dùng cả sử học để ngụy chứng tính cách chính thống của người Cộng sản trong lập trường yêu nước. Truyện ngắn “Tướng Hồi Hưu”, người nông dân yêu nước đi kháng chiến chống Pháp, thành đảng viên Cộng sản cấp bậc Tướng Tư Lệnh Sư Đoàn. Trở về nhà, không sống nổi trong gia đình vì ghê tởm cách sống của con trai và con dâu, những thanh niên trí thức thế hệ Cộng sản thứ 3, thế hệ mà Hồ Chí Minh đặt kỳ vọng giáo dục thành con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Kỳ vọng 100 năm trồng người của Hồ Chí Minh kết quả sinh ra một lớp “thú người” sống sa đọa, tàn nhẫn, đê tiện, tôn thờ vật chất và không có lương tâm. Người Cộng sản trưởng thành trong kháng chiến, không sống nổi với người Cộng sản mới được đúc ra chính là con trai và con dâu mình, cùng lớp trai trẻ trong làng, đến nỗi phải quyết định đi tìm cái chết như là tự tử ngoài chiến trường. Đây là một mấu chốt trong tư tưởng chống Cộng. Cộng sản thành công trong cuộc chiến nhờ ngụy trang trong lớp áo dân tộc, làm nhiệm vụ của người dân yêu nước đánh ngoại xâm. Nhưng từ khi chiếm miền Nam, lá bài dân tộc kết thúc, Cộng sản lộ nguyên hình và bắt đầu thất bại ở Việt Nam. Dù Cộng sản đang nắm chính quyền nhưng trong lịch sử Việt Nam, họ đang là kẻ bại trận. Việt Cộng chỉ còn sức mạnh duy nhất là tổ chức đảng và hệ thống công an là phương tiện bạo lực trấn áp và câu thúc con người. Tổ chức Đảng đã lung lay, không còn tin tưởng, nên mạnh tên nào có phương tiện thì hủ hóa tham nhũng, cán bộ cao cấp trở thành chúa trùm phong kiến quan liêu giữ đặc quyền đặc lợi.
Truyện ngắn “Tướng Hồi Hưu” của Nguyễn Huy Thiệp không những được tù nhân chúng tôi thích thú mà ngay trong cán bộ cũng có dư luận bàn tán và phân hai phe rõ rệt, báo chí lên tiếng phê bình, kẻ khen đúng muốn phát huy thêm, phe khác buộc tội phải yêu cầu đảng tỏ thái độ.
Những vở kịch của Lưu Quang Vũ được trình diễn trên sân khấu, trên màn ảnh truyền hình nên tác động sâu rộng và mạnh mẽ hơn. Lưu Quang Vũ phê phán thẳng tính cách láo khoét bịp bợm của những khẩu hiệu tuyên truyền, những sự hứa hẹn mơ hồ về một đất nước Việt Nam giàu đẹp.
Được xem vài vở kịch của Lưu Quang Vũ như “Tôi và Chúng ta”, “Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt”, “Bệnh Sĩ”, tôi đã thấy Lưu Quang Vũ phê phán thẳng vào bản chất của chế độ Cộng sản. Một điều rất khó tin nếu ở thời điểm trước 1987. Điều này khiến tù nhân phấn khởi càng tin tưởng là chế độ Cộng sản sắp phải tàn lụi và con đường chống Cộng của mình là đúng.
Sau đó, được tin cả gia đình Lưu Quang Vũ bị tai nạn xe hơi chết, tôi không ngạc nhiên. Lưu Quang Vũ đã đi quá sớm phê phán thẳng bản chất chế độ, trong khi Nguyễn Văn Linh và nhóm cởi mở chỉ muốn hạn chế sự phê phán trên những sai lầm hiện tượng. Ảnh hưởng của kịch sâu rộng hơn văn, nên Lưu Quang Vũ phải chết. Ông ta đã bị giết chết bằng cách sắp xếp một tai nạn. Chế độ Cộng sản thường sắp xếp những cái chết như vậy. Đinh Bá Thi bị giết trong tai nạn ở Hàm Tân, Đinh Đức Thiện bị giết trên đường về nhà, Lê Trọng Tấn bị giết chết đột ngột trước đại hội kỳ sáu khi đang làm Tổng Tham Mưu Trưởng và Trường Chinh cũng bị té lầu chết đột ngột.
Cộng sản họ thanh toán nhau rất tàn bạo, đó là họ học bài học Staline, Mao Trạch Đông để cư xử với những người tranh chấp quyền hành. Cái chết của Lưu Quang Vũ là cái chết của một nghệ sĩ can đảm, dù ông là một đảng viên Cộng sản, tôi vẫn phục ông, và tôi tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ từ những người đảng viên Cộng sản đã nhận biết sự sai lầm của họ, nhận biết sự lạc hậu của thuyết Marxism và sự vô ích của đảng Cộng sản, nó không cần thiết để tồn tại, thành phần đảng viên như chú Bình, như Lưu Quang Vũ không ít.

Chúng ta từng chống Cộng bằng cách trưng bày cái xấu xa tàn bạo của địch để dân chúng sợ hãi mà tránh, nhưng thời trước chúng ta đã cấm quần chúng tìm hiểu địch. Việc này có thể đúng khi chúng ta đang có chính quyền, mà chính quyền lại không vững và thường bị điều khiển bởi những thành phần bán nước. Trong mặc cảm đó, chúng ta sợ Cộng sản và sợ tài liệu tuyên truyền của họ. Chúng ta đã theo đuổi một cuộc chiến mà chúng ta ít hiểu biết về địch thủ, ngoại trừ những điểm công thức biểu ngữ và khẩu hiệu nhàm chán. Dựa vào chủ trương nói thẳng, nói thật, hy vọng sẽ có nhiều tác phẩm như Tướng Hồi Hưu ra đời, để cổ võ cho sự đối kháng từ trong lòng của hàng ngũ cán bộ Cộng sản làm cho chế độ Cộng sản mau sụp đổ hơn.

Tháng 8-1987, báo Nhân Dân đăng tải hai lập trường gần như đối nhau của Nguyễn Văn Linh và Phạm Hùng về số phận của khoảng gần 3000 người cải tạo còn lại. Số 3000 người mà năm 1985, Lê Đức Thọ đã tuyên bố thẳng là không thể cho về được vì nguy hiểm cho chế độ nhưng cuối cùng, Phạm Hùng phải nhượng bộ. Tin tức về thả tù cải tạo được nói hàng ngày trong trại cũng như từ nhà thăm nuôi. Trại Xuân Lộc tổ chức tổ may, may quần áo mới phát cho người tù được tha.

Tên trại trưởng gặp San, Ánh và tôi, hắn khẳng định mọi người sẽ được về hết nhưng chúng tôi sẽ không được cứu xét, nhưng rồi Ngọc được thả trong đợt tháng 9-1987, Ánh và San trong tháng 10-87, tôi mới bắt đầu nghĩ đến hy vọng ngày về đoàn tụ với gia đình.

Đường lối của Đảng thay đổi mau chóng và làm mất niềm tin của cán bộ. Tên Hoạt, trưởng ban an ninh phân trại nổi tiếng ác ôn nhất, giờ cuối cùng phải phát biểu rất thành thật là “tôi chẳng hiểu ra sao, trước kia chỉ thị quản lý các anh chặt chẽ, sau lại chỉ thị đối xử tử tế, trước thì chủ trương giam lâu dài, bây giờ thì thả hết”, cũng như họ đã từng ngạc nhiên, có lúc Đảng dậy cho họ gọi ông Liên Sô, ông Trung Quốc, rồi đến lúc gọi ông Liên Sô, thằng Trung quốc, họ tự hỏi rồi không biết bao giờ đảng dậy họ gọi ông Trung Quốc và thằng Liên Sô, và cả đế quốc Mỹ nữa, không biết đến ngày nào đảng sẽ dậy họ gọi là ông bạn Mỹ vĩ đại. Trước kia cán bộ Cộng sản tin tưởng chỉ có Đảng Cộng sản quang vinh và bác Hồ vĩ đại, và Đảng tuyệt đối không bao giờ sai lầm và “chân lý đó không bao giờ thay đổi” nhưng ngày nay, người đảng viên Cộng sản biết là không có gì là vĩnh viễn, mọi sự sẽ thay đổi và sẽ thay đổi nhanh chóng.
Trại Xuân Lộc được trang bị một số máy thu hình tại ban thông tin văn hóa, số máy được phân phối cho mỗi phòng, được xem mỗi tuần độ hai buổi tối.


Cũng trên màn TV, bài trình bày của chủ nhiệm hợp tác xã may mặc của thành phố về những khó khăn của ngành. Anh ta đã nói thẳng một tình trạng bất công và vô lý trong chế độ giá cả ngành ngoại thương. Công may một cái áo sơ mi theo thời giá thị trường lúc đó tại Sàigòn từ 500 đến 700 bạc ngân hàng nhà nước, nhưng bộ ngoại thương được Liên Sô trả 50 đồng 1 chiếc nên chỉ trả công ty 40 đồng và công ty trả lại cho công nhân 30 đồng 1 chiếc.

Con số sai biệt rất xa, đó là một trong những bế tắc của ngành ngoại thương của Việt Cộng và tình trạng này tố cáo sự bóc lột của đế quốc Liên Sô đối với các nước chư hầu trong chính sách mà hiến pháp Liên Sô gọi là phân công lao động quốc tế trong khối xã hội chủ nghĩa anh em, và sự phản dân hại nước của đảng Cộng sản Việt Nam đã đem tất cả tài nguyên nhân vật lực trả súng đạn. Hàng hóa Việt Cộng bán cho Liên Sô với giá rẻ mạt và các nhân viên Liên Sô ở Việt Nam đều được hưởng sự ưu đãi về giá cả đó. Liên Sô đã đem tầu qua vơ vét tất cả nông sản kể cả các thứ rau xanh, cây trái nhiệt đới mà ở Liên Sô không có hoặc phải canh tác khó khăn vì thời tiết lạnh lẽo. Trong các cửa hàng quốc tế tại Sàigòn, người Liên Sô chỉ trả 10 đồng bạc Việt Cộng để mua một lon bia xuất khẩu nhãn hiệu Sàigòn trong khi đó giá ngoài thị trường, người Việt Nam phải trả là $800 đồng. Ngoài ra, tất cả cơ quan du lịch, câu lạc bộ quốc tế, những nữ nhân viên phục vụ tại đó, đều bị chính phủ Việt Cộng bắt buộc phải phục vụ xác thịt cho khách ngoại quốc trong khối xã hội chủ nghĩa anh em, họ chỉ được lãnh lương mà không được biết đến sự giao dịch trả tiền giữa khách và ban quản lý.


Ngay từ những ngày đầu sau khi chiếm miền Nam, tại Sàigòn và từ từ lan ra các thành phố, Việt Cộng cho tổ thức các cơ sở du lịch do công an quản trị, chúng cho tuyển nữ nhân viên một cách khó khăn, trên các tiêu chuẩn có học vấn và nhan sắc, làm lý lịch an ninh kỹ lưỡng vừa có tính cách làm cho nghề nghiệp có vẻ quan trọng vừa có tính cách đe dọa, vừa trả lương cao hơn các ngành nghề khác, rồi sau đó buộc những nữ nhân viên này làm gái điếm cho khách ngoại quốc, chúng chỉ xảo trá giải thích nhiệm vụ làm điếm đó như một hành động cao cả có tính cách phục vụ đảng và nhân dân vừa cột chặt nhân viên vào nhiệm vụ không thể thôi việc. Vì gái điếm trá hình nay được xem như là một nhân viên tình báo, vả lại chính sự ưu đãi về lương bổng, và một số quyền lợi khác cũng hấp dẫn tính tự nguyện của nữ giới, trong khi bên ngoài xã hội, tìm được một việc làm ổn định ở thành phố là một điều rất khó khăn.

Cũng nhờ nói thẳng nói thật, chúng tôi được biết cụ thể vấn đề tham nhũng, và tính cách thư lại ở trong chính quyền Cộng sản như thế nào. Báo Nhân Dân tố cáo những trường hợp gian lận thi cử trong kỳ thi tốt nghiệp trung học của tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, văn bằng được cấp bừa bãi cho con của đảng viên và cán bộ Cộng sản chỉ có ghi tên mà không đến trường học. Bộ Giáo Dục của Hà Nội đã làm một cuộc kiểm tra cho thi lại thì 83% con số người được chấm đậu trong năm 1986 không đủ tiêu chuẩn. Trường hợp ăn lương ma trong guồng máy công quyền Cộng sản lên đến con số khủng khiếp, nếu không chính mắt đọc trên tờ báo chính thức của đảng Cộng sản là tờ Nhân Dân thì dù có ghét Việt Cộng đến đâu cũng không thể tin được. Báo Nhân Dân đưa ra con số công nhân viên và người ăn theo có lãnh lương mà không làm việc ở tỉnh Hải Hưng là 38 ngàn người và tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng xấp xỉ gần 40 ngàn. Những khám phá kinh khủng thời Đệ Nhị Cộng Hòa, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư Lệnh Quân Đoàn IV bị tố cáo có 40 ngàn lính ma ở 16 tỉnh vùng 4 chiến thuật đã làm chấn động dư luận cả nước sang đến nước Mỹ. Bây giờ sự tham nhũng hối mại quyền thế của chính quyền Cộng sản đã lên đến mấy chục lần hơn.


 Đại tá Lâm Quang Chính, Tỉnh trưởng Biên Hòa chỉ dùng áp lực để cho một người con trai ông ta được chấm đậu tú tài đã phải bị bãi chức, nay thì Tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng cho 83% con em của họ được cấp bằng mà không phải đi học.

Rồi chính những người này được ưu tiên vào đại học và tuyển dụng vào các ngành hưởng lương bổng và có quyền lợi hơn người dân bình thường khác. Những người chống Cộng không cần biết là sự nói thẳng nói thật là màn trình diễn cứu nguy chế độ hay không, đó là việc của Việt Cộng và Nguyễn Văn Linh. Người chống Cộng chỉ biết đó là chứng liệu đáng kể để có niềm tin khẳng định là chế độ Cộng sản phải sụp đổ, không có lý do để tồn tại và tin chắc những tài liệu đó được công bố thì sự bất mãn của người dân đối với chế độ càng gia tăng, sự sợ hãi của cán bộ Cộng sản khi đọc những tài liệu đó thì niềm tin đối với đảng và người lãnh đạo vốn đã giảm sút đi nhiều. Đó là những yếu tố thắng lợi của lực lượng đối kháng, nếu những người chống Cộng kết hợp được một lực lượng.


Sự thất bại trong quản lý của Cộng sản là một vấn đề rất căn bản làm cho cả chế độ sụp đổ không riêng gì ở Việt Nam. Ngay tại Liên Sô, thành trì của xã hội chủ nghĩa, những bế tắc về quản lý cũng là vấn đề then chốt. Các lý thuyết gia kinh tế Cộng sản tự hào chế độ của họ không có thất nghiệp nhưng thực tế nền kinh tế của Cộng sản là tình trạng bán thất nghiệp.

Đọc tờ Nguyệt San Spoutnik của Liên Sô nói về một cuộc cách mạng quản lý trong công ty Hỏa Xa của Cộng Hòa Liên Bang Beylorussia. Tài liệu viết Công Ty Hỏa Xa có 6000km đường tàu được điều hành bởi hơn 100 ngàn nhân viên và công nhân (trung bình trên 100 người cho 6km). Với số lượng công nhân và nhân viên khổng lồ đó, công ty không có khả năng tài chính để trả lương cho họ đủ sống, do đó Cộng Hòa Beylorussia và công ty đã làm một cuộc cách mạng quan trọng, cải cách quản lý, giảm thiểu được 30 ngàn công nhân – con số này sau đó được tái phối trí vào các ngành lao động khác.

Cuộc cách mạng quản lý đó là một hứng khởi cho chương trình Perestroika và Glasnost của ông Gorbachev, và chính Gorbachev đã đưa ra thành tích ở công ty Hỏa xa đó ra thảo luận tại Sô Viết tối cao xem như một tấm gương sáng cho toàn thể Liên Sô. Qua tài liệu trên thấy được không riêng gì ở Việt Nam mà toàn thể khối xã hội chủ nghĩa đang gặp tình trạng tắc nghẽn quản lý. Mỗi cơ quan chính quyền cũng như các cơ sở kinh tế phải gánh chịu hai hệ thống nhân viên hành chánh và đảng ủy, mỗi hệ thống đều tuyển rất nhiều người để làm việc không có hiệu năng và sự tương quan trình báo, hội họp của hai hệ thống làm trì chậm tất cả mọi sinh hoạt, đưa đến đặc tính về nhân sự của khối xã hội chủ nghĩa, là cán bộ nhân viên họ chỉ kéo dài công việc cho đến hết giờ, qua ngày, qua tháng để sau đó nhận một đồng lương chết đói. Tài liệu còn cho thấy một công việc tầm thường là làm giảm nhân số vô ích tại một công ty Hỏa xa được Gorbachev xem như là một cuộc cách mạng tiêu biểu cho toàn thể Liên Sô, dù bản chất của cuộc “cách mạng” đó cũng chỉ là một sự “đá bùn sang ao”, số nhân sự được loại ra lại được phối trí vào các cơ quan khác. Đó cũng là một cái vòng luẩn quẩn về quản lý của khối xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế èo uột không có công ăn chuyện làm đưa đến tình trạng đảng viên và cán bộ phải bám vào các cơ quan chính quyền và xí nghiệp quốc doanh để sống – vì một công việc làm có giá trị xã hội cao đưa đến sự lạm dụng của nhân viên có thẩm quyền cũng như chính sách của đảng là ưu đãi cho đảng viên và thân nhân của họ


. Đảng viên và thân nhân chắc chắn được ưu đãi nên không cần chú tâm học tập hay rèn luyện chuyên môn – không có khả năng nên vào cơ quan phải kết bè kết phái để bảo vệ quyền lợi, đồng thời hiệu năng công tác không có, chính sách ưu đãi đảng viên thực hiện bằng chương trình bổ túc văn hóa tại chỗ cho đảng viên cán bộ, vừa đi làm vừa đi học, mỗi năm thăng tiến 3, 4 lớp nhưng thực chất của nền giáo dục chỉ là sự bịp bợm (trường hợp thi cử của Quảng Nam-Đà Nẵng), cứ thế hết tệ trạng này kéo theo tệ trạng khác, đó là một quy luật tất yếu của một chính quyền và một đảng độc tài nắm quyền cai trị, qui luật đó tác dụng mạnh mẽ hơn ở những nước kém mở mang, đó là sự thất bại từ bản chất của chế độ Cộng sản không phải là hiện tượng như họ đã biện minh.

Người Cộng sản thường cho những khuyết điểm của chế độ họ là những hiện tượng tiêu cực – nhưng chúng ta cứ tưởng tượng một con người bị một vết ghẻ thì vết ghẻ được xem như một hiện tượng của một thân thể (bản chất) sạch sẽ khỏe mạnh, nhưng nếu một thân thể đầy cả những mụn lở, và tình trạng đó kéo dài suốt đời con người từ sinh ra đến lúc chết hãy còn ghẻ hay chết vì bệnh ghẻ lở đó thì ghẻ lở không xem là hiện tượng của thân thể khỏe mạnh được. Khi trả lời câu hỏi: “Bao giờ có chế độ Cộng sản?” – Lénine đã viết: “Chế độ Cộng sản thành công khi mọi người trong chế độ biết tiết kiệm từng Put hàng hóa, khi thấy một đơn vị hàng nhỏ rơi vãi thì biết tự động đem cất vào kho”. Đó là một mơ tưởng của Lénine đối với con người trong chế độ xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Karl Marx bàn đến Cộng sản chủ nghĩa, trong xã hội đó mọi người đều biết tự giác, nên tự đóng góp vào việc quản lý xã hội nên hình thức chính quyền bị thủ tiêu.

Mọi người, kể cả đảng viên trong chế độ xã hội chủ nghĩa không ý thức tự giác như Lénine phân tích, ngược lại họ chỉ phát triển được tối đa khía cạnh xấu của con người. Con người trở nên đê tiện, ích kỷ, lừa đảo, ngu dốt, hối mại quyền thế, nghĩa là mọi tính xấu, vì chỉ như vậy họ mới sống vững trong xã hội; nếu họ chỉ cần biểu lộ tính tốt thẳng thắn, cương trực, trọng danh dự và có lương tâm thì chỉ có hai con đường đi đến là chết và tù.

Do đó, chế độ cộng sản thất bại ngay từ đầu về phương diện nhân sự – đưa đến tình trạng xã hội suy thoái – không thể nào tháo gỡ. Không phải chỉ Việt Nam sau chiến tranh chậm tiến, mà ngay cả ở tại Liên Sô sau hơn 70 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa gọi là thành công, mà mỗi năm dân Liên Sô vẫn thiếu nông sản trong khi 30% số lúa mì chín bị hư rục ngoài đồng hay vương vãi trên đường chuyên chở hay mục nát trong kho. Điểm rõ ràng nhất trong bất cứ nước xã hội chủ nghĩa nào cũng giống nhau là dân vẫn phải đói, lương bổng không đủ ăn, nhưng tài nguyên bị phí phạm.

Đó là điểm mấu chốt của Gorbachev hay Đặng Tiểu Bình muốn thay đổi, muốn cải cách nhưng tùy hoàn cảnh của mỗi nước và tham vọng cùng thế đứng chính trị của mỗi cá nhân, mỗi người thi hành ở mức độ khác nhau và họ sẽ gặp những khó khăn khác nhau và đạt được những kết quả khác nhau.

Hoàn cảnh cộng sản Việt Nam còn khó khăn hơn Liên Sô hay Trung Quốc. Vì đảng Cộng Sản Việt Nam mới nắm được toàn bộ chính quyền sau một cuộc chiến đấu lâu dài và chết chóc, nên họ đang gặp một trở ngại về nhân sự vô cùng lớn – hầu hết cán bộ và đảng viên đều là cán bộ chiến đấu, không được huấn luyện quản trị và xây dựng – bản chất loại cán bộ này vừa tàn bạo vừa dốt nát. Ngày nay họ là kẻ chiến thắng và đang ngồi thụ hưởng trên sự chiến thắng; bệnh công thần đưa đến tự mãn tự đắc, lạm dụng chức vụ, hối mại quyền thế. Do đó tính bảo thủ trong guồng máy Cộng Sản Việt Nam không phải chỉ ở những người già nua mà còn ở cả trong đa số đảng viên ở mọi cấp.


 Bảo thủ vì hai yếu tố chính là dốt nát và đặc quyền đặc lợi. Thành ra lá bài cải cách của Nguyễn Văn Linh không thể tiến xa được vì trước hết Linh cũng là người nằm trong hai yếu tố dốt và đặc quyền, thứ nữa y là người nắm quyền Tổng Bí thư nhưng không đủ sức mạnh và không nắm được đa số. Chức Tổng Bí Thư của y do áp lực của Liên Sô đặt nên cho nên trong tình trạng đó, mọi nỗ lực cải cách ở Việt Nam hiện tại chỉ là nhu cầu của một trào lưu, đồng thời sự bắt buộc phải làm để gỡ rối về những thất bại quản lý, đồng thời rửa mặt để hy vọng nhận đầu tư và giải tỏa bị cô lập chính trị và bao vây kinh tế.


 Khi gặp các khó khăn nội bộ, Đặng Tiểu Bình xoay qua công thức cải cách kinh tế nhưng vẫn củng cố chính trị – hai mục tiêu này rất mâu thuẫn nên chỉ là một giải pháp gượng ép. Giữ độc tài chính trị nhưng nhận được sự đầu tư và trợ giúp kinh tế của Tây Phương là giấc mơ của những tên lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam – một giấc mơ đầy tham lam đúng như bản chất của họ, muốn được tất cả mà không muốn mất một tí gì, muốn lời thật nhiều nhưng không muốn bỏ vốn vì bản chất của họ là một bọn cướp.
Để thực hiện ý định thu hết đầu tư ngoại quốc, luật đầu tư được ban hành ngày 1 tháng 1 năm 1988. Từ ý muốn đến kết quả là một khoảng đường rất xa. Không phải chỉ ban hành một đạo luật là chuyển từ kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa sang kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế ở Việt Nam đang gặp các trở ngại sau:
1. Hệ thống pháp luật không bảo đảm cho quyền tư hữu. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa xác định quyền lãnh đạo duy nhất của đảng cộng sản (điều 4), chủ trương chuyên chính vô sản (điều 2), tư tưởng Mác xít Lê Nin chỉ đạo (điều 19), không công nhận quyền tư hữu v.v… Những điều khoản hiến pháp này còn tồn tại thì những bảo đảm về quyền tư hữu của luật đầu tư thành bấp bênh.
2. Chưa có đạo luật lao động để minh định rõ quyền hạn, quyền lợi và trách nhiệm của chủ thợ. Công nhân được xem là lực lượng nòng cốt của chế độ; đảng cộng sản lãnh đạo công nhân qua tổ chức công đoàn. Trong hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa, công nhân trên danh nghĩa là “chủ” của các nhà máy xí nghiệp quốc doanh nhưng họ không có quyền đình công. Nhưng đối với một xí nghiệp tư nhân thành lập trên luật đầu tư, lực lượng công nhân với sự lãnh đạo của công đoàn (đảng cộng sản) trở thành một lực lượng quá mạnh, khuynh loát, đe dọa chủ nhân không lường trước được những gì xảy ra sau khi nhà máy, xí nghiệp đi vào sản xuất.

3. Hệ thống tòa án và các viên chức tòa án chưa quen với nguyên tắc trọng pháp. Bộ Tư Pháp mới được tổ chức vào năm 1979, nhưng thói quen giải quyết bằng công an trở thành một truyền thống độc tài khó thay đổi. Cho dù luật lệ ban hành nhưng trong thời gian ngắn, viên chức tư pháp vẫn lúng túng không thể đóng vai trò trọng tài phân xử. Ngoài ra những viên chức này là đảng viên cộng sản nên họ sẽ nghe lệnh đảng hơn là tôn trọng công lý. Chưa có tổ chức luật sư đúng nghĩa là một luật sư đoàn của những người có khả năng về luật học và độc lập, được bảo vệ tính tự do trong khi bênh vực quyền lợi của các bên tranh tụng trước tòa án. Đoàn luật sư hiện có mới được tổ chức từ năm 1987, do các hội đồng nhân dân đề cử, cũng gồm các đảng viên cộng sản không căn cứ vào khả năng hiểu biết về luật pháp.

4. Tổ chức chính quyền không thống nhất từ trung ương đến địa phương, chính quyền cộng sản từ trung ương tập quyền mạnh mẽ, đến tình trạng sứ quân. Sự thay đổi này không phải do định chế tổ chức, mà do sự phân hóa trong hàng ngũ lãnh đạo, sự tranh chấp quyền lợi phe nhóm. Hiện trạng hành chánh trở thành kỳ quái, mỗi cơ quan chính quyền, mỗi cấp, mỗi đơn vị đều bảo thủ và luôn luôn muốn chứng tỏ quyền lực.


 Không ai đủ khả năng giải quyết và điều hợp, đã đi xa hơn cả tình trạng thư lại cửa quyền. Với hoàn cảnh đó, nhà đầu tư luôn luôn phải lúng túng và tốn thì giờ cũng như tiền của hối lộ. Nhà đầu tư sẽ gặp phải tình trạng bấp bênh không ổn định, không thể thiết lập kế hoạch sản xuất có lời. Với thực trạng hành chánh của chính quyền Việt Cộng, người đầu tư sẽ gặp trường hợp của Thủ tướng cho phép, nhưng cán bộ các tỉnh khó dễ làm trì chậm, hoặc giấy phép của Bộ A cấp khi có việc liên hệ Bộ B bị bộ này bác. Nhất là tình trạng “sứ quân” của chính quyền cấp tỉnh. Nhà đầu tư sẽ thấy không ai giải quyết nhanh chóng cho họ những điều cần thiết.

5. Hạ tầng cơ sở kinh tế khiếm khuyết: đây là vấn đề căn bản đang bị bế tắc, chính quyền Việt Cộng cần có hàng chục tỉ canh tân phi trường, bến cảng, kho vựa, xa lộ, thiết lộ, điện lực, điện thoại, khách sạn. Đối với nhà đầu tư, thì giờ là tiền bạc, các hệ thống hạ tầng cơ sở này hiện đang ở trong tình trạng lạc hậu và hư hỏng. Nhà máy xí nghiệp, văn phòng không thể thiếu điện. Điện lực hiện nay không bảo đảm lúc nào bị cắt. Cái vòng luẩn quẩn khó thoát, không có đầu tư thì không có ngoại tệ để xây dựng thì không thu hút được đầu tư.

6. Các định chế tài chánh như ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm chưa được tổ chức. Chính quyền đã thử nghiệm tổ chức một số ngân hàng quản trị theo tư doanh kết quả bị phá sản vì không có bộ máy quản lý. Các ngân hàng trở thành tổ chức bịp bợm, lường gạt hàng tỉ đồng tiết kiệm của người dân. Các định chế tài chánh phải được trang bị máy móc điện tử tối tân do nhân viên được huấn luyện thành thạo sử dụng. Cả hai điều kiện này đều thiếu. Phải cần số tiền lớn và thời gian. Hệ thống giáo dục dành đặc quyền cho đảng viên và gia đình của họ hiện nay, đưa đến kết quả là những người tốt nghiệp đại học và trung học chuyên nghiệp kém khả năng, không thông thạo ngoại ngữ. Nhất thời không thể đào tạo họ thành cán bộ quản lý giỏi và khá.

7. Thị trường nhân công rẻ nhưng kém hiệu năng. Điều hấp dẫn duy nhất hiện nay là thị trường nhân công rẻ nhưng đó chỉ là bề mặt. Đi sâu vào thực tế gặp trở ngại:
– Công nhân quen thói lề mề, chỉ làm hết giờ mà không làm hết việc, làm láo báo cáo hay. Họ không thích hợp cho công việc tại các nhà máy, xí nghiệp tân tiến là phải làm với năng suất cao.
– Nếu không giải tỏa được đặc quyền của cộng sản, chủ nhân không được trực tiếp tuyển dụng nhân công, nhà nước độc quyền giới thiệu đảng viên hay thân nhân đảng viên cộng sản vào các nhà máy, xí nghiệp, thành phần này càng kém năng suất hơn và tương lai sẽ có nguy cơ đình công, lủng củng hoặc đấu tranh làm tê liệt sinh hoạt. Ngoài tình trạng kém đói lâu ngày, công nhân Việt Nam không đủ sức khỏe làm việc mỗi ngày 8 giờ với mức độ lao động nhà máy đòi hỏi: tình trạng ốm đau bệnh tật của họ khiến nhà đầu tư phải chi phí nhiều. Thói quen ăn cắp của công nhân trở thành nếp, xí nghiệp khi hoạt động phải thiết lập hệ thống kiểm soát. Tóm lại, nhân công rẻ nhưng các chi phí cao, và năng suất thấp. Ưu điểm nhân công rẻ không còn hấp dẫn. Thực tế, người công nhân không được nhận đúng đồng lương của nhà đầu tư trả cho họ. Qua trung gian nhà nước, vì chính sách điều hòa thị trường nhân công, họ chỉ lãnh một phần. Nhà đầu tư lúng túng không thể dùng chính sách công xá để kích thích tăng năng suất.

Cộng sản thường dùng lý luận hiện tượng và bản chất để giải thích những sai lầm của họ. Qua kinh nghiệm quản lý các chính quyền cộng sản từ Liên Sô hơn 70 năm, Trung Quốc 40, Đông Âu 45 năm, dù với hoàn cảnh kinh tế như thế nào thì xã hội cũng gặp bế tắc. Tình trạng tham nhũng đặc quyền đặc lợi, thói quen làm việc lề mề không năng suất, tình trạng sứ quân mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương v.v… là hậu quả tất yếu của nền chính trị độc tài, quyền lãnh đạo độc tôn của đảng cộng sản. Đó không phải là hiện tượng.
Người ta có thể biện luận là Nam Hàn tiến bộ nhờ Tổng Thống Phác Chính Huy độc tài, Đài Loan tiến bộ nhờ độc quyền lãnh đạo của Quốc Dân Đảng, Tân Gia Ba tiến bộ là nhờ ông Lý Quang Diệu nắm vững chính quyền. Đây là một ngụy biện hời hợt. Ổn định chính trị là một điều cần yếu để phát triển kinh tế, hấp dẫn đầu tư ngoại quốc. Các chính quyền Nam Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba có chính sách cứng rắn để nắm vững trị an, chống lại hoạt động lật đổ. Nhưng mọi định chế xã hội đều nhắm vào việc xây dựng thể chế dân chủ, trong đó tôn trọng quyền tư hữu và tự do kinh doanh. Điều hiển nhiên là các chính quyền này không thể so sánh với sự độc tài của các chính quyền cộng sản. Nếu nói là có độc tài mới đảm bảo được phát triển kinh tế thì trở lại vấn đề từ đầu, là các chính quyền cộng sản đã không thất bại.
Do đó, lý luận cởi mở kinh tế mà không thay đổi chính trị trở thành một ước mơ không thực hiện được của các lãnh tụ cộng sản. Không thể có hòa hợp giữa chính trị cộng sản và kinh tế tư bản. Đây chỉ là một cuộc hôn nhân gượng gạo, khi áp dụng sẽ không phát huy được ưu điểm của hai thành phần, ngược lại chỉ tăng thêm khuyết điểm. Vì áp dụng kinh tế thị trường, nhắm vào lợi nhuận, các cơ quan nhà nước cộng sản sẽ đua nhau kiếm lời, họ lại tham nhũng nhiều hơn, đặc quyền đặc lợi nhiều hơn vì vẫn giữ trong tay sức mạnh chuyên chính. Kinh nghiệm của chính quyền Việt Cộng trong những năm vừa qua, chỉ mới nới lỏng áp dụng chế độ hạch toán kinh tế, các địa phương và các cơ quan nhà nước đã lạm dụng làm giàu riêng tư, làm cho xã hội hỗn loạn thêm.

Bốn mươi năm qua, cuộc chiến tranh ý thức hệ đã ngã ngũ, chế độ độc tài với nền kinh tế chỉ huy đi đến chỗ bế tắc. Nền dân chủ đa đảng với kinh tế thị trường không phải là hoàn hảo nhưng có ưu điểm phục vụ được con người và sự phát triển của đất nước. Vấn đề Việt Nam hiện nay thật rõ rệt, hoặc tiếp tục đóng cửa, độc tài chính trị và độc quyền kinh tế thì nhân dân tiếp tục chịu đựng nghèo khổ cho đến khi bùng nổ ra cuộc cách mạng. Hoặc sớm dứt khoát từ bỏ chế độ cộng sản, thực hiện dân chủ.

Luật đầu tư và các cải cách sẽ không đem lại thành công. Không giải quyết vấn đề căn bản là từ bỏ cộng sản để dân chủ hóa thì luật đầu tư hay các biện pháp kinh tế chỉ là sự sửa đổi nửa vời.
Hiện chính quyền Việt Cộng bị bao vây kinh tế và cô lập chính trị, họ muốn phá vỡ sự kềm hãm đó bằng một số hành động và biện pháp, kể cả việc có thể sửa đổi một vài điều khoản hiến pháp, nhưng thâm tâm của những người lãnh đạo cộng sản già nua vẫn muốn duy trì độc quyền lãnh đạo cộng sản. Ước mơ của Đặng Tiểu Bình đang được Nguyễn Văn Linh ươm mộng. Xã hội cộng sản đã tan rã, tổ chức cộng sản đã hết lý tưởng để gắn bó. Họ chỉ còn dính dáng với nhau bởi đặc quyền đặc lợi mà có một số người được hưởng, tuyệt đại đa số nhân dân kể cả đa số đảng viên phải chịu đựng hậu quả trầm trọng của một đất nước đang sụp đổ, một tình trạng kinh tế suy kiệt tồi tệ.

Những cải cách nửa vời của các lãnh tụ cộng sản tưởng là cứu vãn được quyền lợi của họ, thực tế sẽ là một cơ hội để bùng nổ của đấu tranh.
Cuối tháng chạp năm 1987, vợ tôi lên thăm báo tin Đoan Trang, con gái út của tôi đã vượt biên đến Thái Lan. Để Trang đi một mình ra ngoại quốc khi bé mới 13 tuổi, chúng tôi đau xót lắm, nhưng không còn cách gì khác tốt đẹp hơn cho gia đình tôi. Chúng tôi đã mất tất cả từ khi miền Nam sụp đổ, chỉ mong cho con được ra ngoại quốc mới có thể tiếp tục học lên được, để chúng tự xây dựng cuộc đời của chúng nó. Ở tù, tôi không còn một chút hy vọng nào, ngoài sự mơ ước cho vợ con, anh em được đi thoát ra ngoại quốc, đi được người nào tốt người đó, tất cả mọi người thân đều đi được, nỗi mừng càng lớn dù còn phải ở lại một mình trong trại không ai viếng thăm. Sự chia ly nào không buồn, nhưng đã lỡ không trọn vẹn với đất nước, với gia đình, tù cải tạo phải chấp nhận hết.
Tôi còn được may mắn là có hai đứa con đều lần lượt vượt biên an toàn. Vào trong trại chia sẻ niềm vui riêng với anh em, bạn bè mừng cho tôi, người nào cũng ao ước cho con mình được ra đi thành công như vậy.



CHƯƠNG 18

Tôi được thả ra khỏi trại cải tạo Long Khánh ngày 13 tháng 2 năm 1988 tức là 26 tháng chạp năm Đinh Mão. Lần thả tù này được quảng cáo rầm rộ để chứng tỏ với dư luận trong và ngoài nước chính sách cởi mở của Nguyễn Văn Linh. Chúng tôi được xe đưa đến tận Ty Công An Quận Hai để nghe Phó Giám đốc Công An Thành Phố nói chuyện. Ngoài nội dung tuyên truyền về chính sách cởi mở, y lưu ý chúng tôi hai điểm, thứ nhất là đừng quá ngạc nhiên về sự thay đổi của xã hội và ngay cả gia đình chúng tôi, thứ hai đừng lo lắng về cán bộ công an phường quận, cán bộ những đoàn thể nhân dân sẽ thường xuyên thăm viếng chúng tôi tại nhà. Chúng tôi sẽ không bị quản chế và được nhập hộ khẩu tại thành phố ngay sau dịp nghỉ Tết. Không bị quản chế và được nhập hộ khẩu là những thay đổi rất quan trọng đối với người tù cải tạo được về.

Trước đây một người tù về địa phương phải chịu chế độ quản thúc rất chặt chẽ, mỗi người phải giữ một quyển sổ ghi công việc hàng ngày và sự quan hệ tiếp xúc với người khác trong ngày, cuối mỗi tuần phải đưa lên công an phường để đóng dấu chứng nhận. Muốn đi khỏi địa phương phải xin phép, và chỉ được cho đi trong thời gian vài ba ngày. Người bị quản chế thường bị huy động đi làm những công việc lao động nặng nhọc và bị nhục nhiều hay ít tùy tính tình của những tên công an phường, xã, luôn luôn muốn chứng tỏ quyền uy trên người chiến bại. Có được hộ khẩu tại Sài Gòn không phải là điều dễ; trước đây người tù cải tạo về bị bắt buộc phải đi kinh tế mới, nếu nấn ná sống ở Sài Gòn là tạm trú và tùy vào khả năng xoay xở đút lót của gia đình cho trưởng công an phường xã và công an khu vực.

Ra khỏi cổng Ty Công An Quận Hai không có người nhà trong đám đông đi đón thân nhân, tôi gọi một chiếc xích lô để về nhà ở đường Trương Minh Ký, Gia Định. Chợ Bến Thành nhộn nhịp người đi lại nhưng hàng quán lèo tèo, không có dãy hàng bán quảng cáo đồ Tết nên kém màu sắc và mất vui. Người đi bộ, đi xe đạp, một ít đi xe honda và thỉnh thoảng mới có một chiếc xe hơi của nhân viên nhà nước hay các cơ sở kinh doanh thương nghiệp hợp doanh; tư nhân chưa được phép sử dụng xe hơi.

Người phu xe nói Sài Gòn mới có sinh khí trở lại trong khoảng hơn một năm kể từ đầu năm 1987, tư nhân được mở cửa hàng buôn bán lẻ, hàng ngoại quốc gởi về theo những thùng quà gia đình được bày bán công khai, trước kia chỉ bán chui ở chợ trời. Nếu có tiền có thể mua được nhiều loại hàng tiêu dùng của khắp các nước trên thế giới, nhưng rất ít người làm ra tiền, trừ những người có thân nhân ở ngoại quốc gởi cho đều đặn thì có thể có mức sống sung túc hoặc là sung sướng, hoặc dân buôn bán chợ trời mánh mung và cán bộ chính quyền có lợi tức bất hợp pháp.

Hầu hết người dân đều đói khổ, tiền làm không có, giá hàng hóa lương thực khá cao. Ở thành phố, nghề đạp xích lô được xem là có lợi tức khá nhất, nhưng một chiếc xích lô thường là do hai người thay phiên nhau đi; những người cải tạo về sớm, bác sĩ, dược sĩ, trí thức đều đạp xích lô, nhưng sau công đoàn thành phố thấy nghề xích lô nhiều lợi tức nên không cấp giấy phép cho những người đi cải tạo về sau, vả lại số lượng xích lô có giới hạn, nên dù không bị ngăn cấm thì cũng không thể tìm được người phu xe có xe rảnh cho mình đạp ở thì giờ họ nghỉ ngơi. Tù cải tạo về chuyển qua nghề xe ôm, gia đình nào còn giữ được chiếc honda có thể kiếm sống qua ngày, nếu phải dùng xe đạp để chở người thì quá vất vả và ít khách.

Xe chạy qua đường Đoàn Thị Điểm, trên lề đường gần trường nữ trung học Gia Long mặt lề rộng nên người nằm ngủ la liệt, có rất nhiều đàn bà và trẻ con nằm ngủ, có người mặc cả áo dài nằm ngủ, đầu gối trên một bao nhỏ và che nắng bằng nón lá. Đó là dân đi vùng kinh tế mới trở về, không nhà cửa, sống lang thang gầm cầu xó chợ, công viên lề đường. Tình trạng này kéo dài từ năm 1976 đến nay trở thành vấn đề nan giải. Lúc đầu công an hành quân bắt nhốt, đưa trở về vùng kinh tế mới hoặc đưa đi cải tạo, nhưng những biện pháp đó chỉ có hiệu quả với đàn ông, đàn bà và trẻ con thì họ vẫn kéo dài từ năm này qua năm khác, cuối cùng rồi công an cũng mệt mỏi làm ngơ.

 Những người này kiếm ăn bằng đủ thứ nghề, con nít thì bới đống rác tìm phế liệu phế phẩm để bán, hoặc móc túi, cướp giật. Phụ nữ còn trẻ thì lén lút hành nghề mãi dâm, họ rước khách và giải quyết tại bất cứ nơi nào, nhiều khi không cần phòng, nơi góc đường tối, cầu tiêu công cộng, các công viên, nhất là vườn Tao Đàn, công viên Chiến Thắng trước Tổng Tham Mưu cũ, công viên Hòa Bình tại ga xe lửa giữa đường Lê Lai và Phạm Ngũ Lão. Những em bé gái còn quá nhỏ chưa bán được thân, phải làm “đào xào”, tức là chỉ để cho đàn ông sờ mó thân thể lấy tiền nuôi thân và nuôi gia đình.

Những người phu xích lô ở thành phố thường là những người rất rành về mặt trái của sinh hoạt xã hội, anh tiếp tục kể cho tôi nghe về tình trạng mãi dâm phổ biến quá nhiều ở thành phố, hơn hẳn thời kỳ trước 1975, tình trạng thê thảm đến nỗi có em làm nghề từ lúc mười ba, mười bốn tuổi và có những trường hợp oái oăm khi chính người chồng thất nghiệp phải đi rước mối và canh cửa cho vợ tiếp khách. Tôi nghe người phu xích lô nói mà nổi da gà; tôi không thể tưởng tượng xã hội suy sụp đến như vậy. Trước năm 1975, Việt Nam đang chiến tranh, với hơn một triệu lính và hơn nửa triệu quân đội đồng minh xa gia đình, tình trạng mãi dâm đã quá trầm trọng, và chính cộng sản đã xem tệ nạn này là một lợi khí tuyên truyền nhưng cũng chưa có những trường hợp bi đát như anh phu xe đã kể. Sau hơn mười năm nắm chính quyền, cộng sản có còn đổ cho tệ nạn mãi dâm là “tàn dư của chế độ Mỹ-ngụy” hay không? Và chắc chắn đó không phải là sự thay đổi xã hội mà tên phó giám đốc Công An Thành Phố muốn nói với chúng tôi. Tôi hiểu điều hắn muốn nói với chúng tôi là sự đổ vỡ của gia đình một số người tù, một điều không thể tránh khỏi khi thời gian tù đày quá lâu, hoàn cảnh xã hội thay đổi đột ngột, khó khăn kinh tế dồn dập và sự cố tình của đảng cộng sản muốn đẩy mạnh sự phá vỡ gia đình của tù nhân trong chính sách trả thù và làm thay đổi tận gốc xã hội miền Nam.
Ở nhà được hai hôm, bạn bè cũ đến thăm, Trần Quí Hùng và Trịnh Thiều cho biết Kiều Trinh từ Hoa Kỳ về muốn mời tất cả bạn bè còn ở Sài Gòn dự bữa tiệc họp mặt tối 28 tháng Chạp tại nhà hàng Nguyễn Tri Phương. Hầu hết bạn bè trong những khóa học gần với Kiều Trinh còn ở Sài Gòn đến tham dự, khoảng gần 50 người. Kiều Trinh du học từ 1972 và tốt nghiệp bằng tiến sĩ kinh tế năm 1975, từ Mỹ về Sài Gòn đãi tiệc họp mặt bạn bè công khai cũng là một điều lạ, nhiều anh em tò mò đi tham dự vì có nhiều người tôi biết không thân Kiều Trinh lắm, vả lại trong hoàn cảnh chính trị tại Việt Nam, dù có chính sách cởi mở cũng là một điều đáng ngại.
Đối với tôi, đây là một cuộc vui, có dịp để cùng một lúc gặp gỡ nốt số đông bạn bè sau nhiều năm xa cách và để hiểu biết cuộc sống của họ trong xã hội mới ra sao. Hầu hết đều đã qua nhiều lần vượt biên tiêu tan hết tài sản, làm đủ mọi nghề để sống, tương đối khá nhất là nghề bán thuốc tây ở chợ trời.
Biết anh em thắc mắc về mục đích buổi họp mặt, Kiều Trinh luôn miệng nhắc nhở bạn bè đây chỉ là một cuộc họp gặp gỡ riêng tư, trên tình bạn mà thôi; sau khi gặp chúng tôi Trinh sẽ về Huế thăm nhà và đi du lịch Hà Nội cho biết.
Tôi hỏi thăm tin tức về các bạn bè đang sống ở Mỹ, Trinh trả lời tôi rằng anh ít giao thiệp bạn bè cũ vì bị họ tẩy chay, họ nghĩ Trinh theo Việt Cộng. Thấy bạn dấu đầu hở đuôi tôi hỏi tiếp:
– Bạn ở nước ngoài, là người học thức, chắc là theo dõi và hiểu nhiều về những vấn đề thời cuộc, chính quyền cộng sản đang công bố chính sách đổi mới, vậy tôi có cần vượt biên không?

Trinh hỏi lại tôi:
– Bạn ở tù lâu quá nên cay cú chăng?
Không giận vì câu hỏi quá ấu trĩ của một người bạn có học thức và bằng cấp cao, tôi thấy cần phải cho bạn hiểu rõ hơn nên kiên nhẫn nói tiếp:
– Bạn hỏi câu đó là bạn khinh tôi quá, kẻ chiến bại bị kẻ chiến thắng cầm tù mà cay cú là không công bằng. Những người tù chúng tôi không tiếc vì bị ở tù nếu thực sự chế độ cộng sản cần thiết cho một giai đoạn lịch sử dân tộc, và có thể phát triển được đất nước. Đằng này ngược lại, trong hơn mười ba năm qua, toàn thể xã hội đi xuống và đa số người dân đều biết rõ điều đó.
Trinh nói:
– Sau mười mấy năm cải tạo bạn vẫn còn bướng như thời sinh viên.
Tôi chọc bạn:
– Cám ơn bạn đã khen tôi, một tên cán bộ trong trại tù cũng đã nói với tôi như thế. Bạn đậu tiến sĩ mà cũng chỉ nhận xét được như một tên cán bộ quản giáo thôi thì ít quá. Tôi hỏi bạn rằng tôi có cần vượt biên không?
Trinh đáp:
– Tôi nghĩ thời gian ngắn nữa Nguyễn Văn Thiệu hay Hoàng Đức Nhã cũng có thể về Việt Nam an toàn.
– Bạn cũng chưa đi đúng câu hỏi, cuộc đời thay đổi, con người cũng thay đổi, có thể Nguyễn Văn Thiệu hay Hoàng Đức Nhã về an toàn mà một người khác không an toàn hay là tôi không có thể ở được thì tính sao? Hơn mười năm rồi mà chúng ta còn chưa đổi được một lối suy nghĩ theo đúng tình thế mới. Bạn ở Mỹ mà vẫn suy nghĩ theo kiểu “Sài Gòn nối dài”.
Trinh nói:
– Tôi không hiểu ý bạn.
– Rất dễ hiểu, có thể trong điều kiện nào đó, chính phủ cộng sản thấy Nguyễn Văn Thiệu và Hoàng Đức Nhã về nước hay cộng tác có lợi thì họ vẫn cho về và có thể mời về. Trước khi chiếm miền Nam, cộng sản xem Nguyễn Văn Thiệu là kẻ thù chính nên tuyên truyền triệt hạ Thiệu và tìm sự ủng hộ của người dân miền Nam bất mãn chế độ Cộng Hòa. Ngày nay, đối tượng cần áp chế để củng cố quyền lực cộng sản là người dân, người dân là kẻ thù chính của họ, dân chúng đã nhìn rõ mặt thật và muốn thay đổi chế độ. Nguyễn Văn Thiệu hay bất cứ chính trị gia cũ ở miền Nam không được dân chúng ủng hộ cũng có thể trở thành đồng minh giai đoạn của chính quyền cộng sản. Do đó, Nguyễn Văn Thiệu, Hoàng Đức Nhã, Nguyễn Khánh, Nguyễn Cao Kỳ v.v… là những người cộng sản có thể mời về, để chứng minh họ được người quốc gia hợp tác. Thiệu, Kỳ, Khánh, Nhã v.v… không phải thực sự là người quốc gia, những người này chỉ lo cho bản thân của họ. Cộng sản là một tổ chức chỉ úy kỵ những người có uy tín trong dân, có khả năng tập hợp dân chúng thành tổ chức để xây dựng đất nước. Các cá nhân có nhiều tham vọng mà ít uy tín, nếu cần, cộng sản sẽ xem như là đồng minh. Vấn đề chính ở Việt Nam và lịch sử Việt Nam không thể được suy nghĩ đơn giản trên một vài cá nhân. Chúng ta nên bỏ tất cả mọi thiên kiến, quyền lợi, ước muốn riêng tư, thật sự khách quan để suy nghĩ về những vấn đề trọng đại của đất nước. Thời điểm lịch sử đã đến và những người có thể làm được việc đó là những người có may mắn là đi học nhiều, có điều kiện thuận lợi như bạn. Chắc các bạn ở đây cũng như tôi đều biết bạn là ai, nhưng không ai nói, chỉ có tôi mới ở trong nhà tù ra nóng hổi chưa mất hơi tù nên mới nói – có thể làm phật ý bạn – xin lỗi, bỏ qua chuyện nhức đầu đi.
Tôi không nghĩ Kiều Trinh nhận một công tác tuyên truyền của cộng sản, với chúng tôi là những bạn cũ, nhưng chắc chắn để có thể mời chúng tôi, những nhân viên của chế độ cũ đi cải tạo về, đến dự một bữa cơm công khai tại một nhà hàng ở Sài Gòn, Kiều Trinh cũng đã được phép của Sở Công An Thành Phố.
Tết đầu tiên ở ngoài xã hội đối với tôi không vui vẻ gì, chỉ còn hai vợ chồng trơ trọi, hai con tôi đều đã đi xa, tôi lo lắng vì Đoan Trang còn quá nhỏ dại ở trong trại tỵ nạn tại Thái Lan. Tôi chưa về Đà Nẵng thăm gia đình để lạy mộ bà nội và mẹ tôi. Tôi là đứa cháu, đứa con bất hiếu. Bà nội và mẹ tôi đã lo lắng dành rất nhiều yêu thương cho tôi mà tôi chưa hề đáp được mảy may. Tôi phải ở lại Sài Gòn để chờ làm xong các thủ tục nhập hộ khẩu mới đi được. Đêm giao thừa Mậu Thìn, Sài Gòn đốt pháo thật nhiều. Dân Việt Nam dù nghèo đói đến đâu, dù phải thiếu nợ nhưng họ vẫn tổ chức đón Tết long trọng, nhà nào cũng đốt pháo. Mùa xuân là một mùa hy vọng sẽ đổi mới cho mỗi người, cho mỗi gia đình và hy vọng đổi mới cho xã hội. Xác pháo hồng trộn lẫn với cánh hoa mai vàng rơi rụng thành màu sắc rực rỡ trên nền đất. Tôi hy vọng rất nhiều vào tương lai, luôn luôn tôi có niềm tin là đất nước Việt Nam sẽ có ngày hưng thịnh trở lại, và toàn dân Việt Nam sẽ đứng lên làm một cuộc vận động lịch sử mới cho dân tộc, tất cả hầu như đã sẵn sàng chỉ còn chờ một hiệu lệnh phát khởi.

Tôi tin vào sự trưởng thành của dân chúng và trong vận hội mới đó sẽ lọc lựa được những người đủ tài trí, thực tâm đối với con người, xã hội và đất nước thành người lãnh đạo tương lai và sẽ tự động đào thải những thành phần cơ hội, hoạt đầu tham vọng cá nhân. Hoàn cảnh chính trị Việt Nam không có ngay được những người lãnh đạo có uy tín nên phải xây dựng lãnh đạo từ hành động và chỉ có người dân mới làm được một cuộc lựa chọn đó. Chỉ có lòng chân thành, còn mọi thủ đoạn, mánh lới, xảo trá vặt vãnh, bịp bợm đều đã lỗi thời – những cái đó chỉ có Hồ Chí Minh là sử dụng thành công và đã chết theo ông ta rồi. Những ai còn bắt chước theo Hồ Chí Minh sẽ trở nên những tên hề lố bịch trước sự phán xét sáng suốt của người dân. Trong tương lai, chính người dân quyết định người lãnh đạo và tương lai đất nước qua sự phổ thông đầu phiếu.

Ngày mùng 5 Tết, theo đúng lịch trình, đến phòng chính trị Sở Công An Thành Phố, chúng tôi được cấp giấy chứng nhận nhập hộ khẩu. Thủ tục dễ dàng theo đúng lời hứa của Phó Giám Đốc Công An Thành Phố. Đem giấy chứng nhận về nộp tại phường để ghi vào hộ khẩu. Phường 11 quận Tân Bình nằm ngay trước gia đình tôi thuê ở trên đường Trương Minh Ký Gia Định nay đổi tên là Lê Văn Sỹ. Văn phòng phường trang trí sạch sẽ, nhân viên làm việc ăn mặc gọn gàng sang trọng áo trắng muốt, bỏ vào trong quần tây loại vải ngoại quốc đắt tiền, so với thời kỳ năm 1975, 1976 thay đổi nhiều lắm. Lúc đó cán bộ cộng sản hành chánh, công an hay quân đội đều ăn mặc luộm thuộm, quần tây vải ka-ki Nam Định, áo đủ loại hàng vải, lúc nào cũng nhàu nát như mới nằm ngủ dậy; các văn phòng thì lẫn lộn giữa công và tư, áo quần phơi đầy ngay trên lan can hay cầu thang.

Người cán bộ trung niên đeo kính trắng trễ xuống mũi, đọc xong hồ sơ của tôi, ngước nhìn thẳng mặt tôi hỏi:
– Anh không biết hút thuốc à?
Tôi tròn mắt ngạc nhiên vì câu hỏi không dính líu đến công việc tôi xin trong đơn. Thấy tôi ngạc nhiên hắn nhìn tôi chòng chọc, tay phải cầm bút chì gõ nhịp trên bàn, lập lại câu hỏi:
– Tôi hỏi anh có biết hút thuốc không?
Tôi như chợt tỉnh, nhớ bao thuốc đen hiệu Đà Lạt hút giở trong túi áo, vừa rút bao thuốc ra vừa trả lời:
– Báo cáo tôi có hút thuốc.
Tôi chìa bao thuốc ra:
– Mời cán bộ hút thuốc.

Hắn đưa tay rút ra một điếu thuốc, xong đưa điếu thuốc lên ngang tầm mắt, làm điệu bộ ngắm nghía, gục gặc cái đầu và hỏi tôi:
– Anh mời tôi hút thuốc này, tôi hút đầu nào?
Các tên cán bộ ở trong phòng cười rộ lên, tôi càng ngơ ngác không hiểu họ muốn gì cả.
Hắn nhìn tôi rồi xoay qua hỏi tên cán bộ trẻ tuổi ngồi bên cạnh:
– Ê, Năm, thuốc này mồi ở đầu nào?
Cán bộ tên Năm nói:
– Thuốc này em cũng không biết mồi đầu nào.
Trong phòng lại cười rộ lên. Tôi thực tình không hiểu gì hết, ngoài việc cảm thấy bọn họ đang chế giễu tôi, tôi thấy nóng ở mặt nhưng cố nuốt cái nghèn nghẹn nơi cổ, đứng lặng thinh.

Tên cán bộ ném điếu thuốc vào sọt rác xong nói với tôi:
– Ngày mai anh trở lại.
Tôi bước ra, ngay lúc đó một người đàn bà vào trình giấy. Tự nhiên tôi đứng lại nhìn bà ta để xem họ đối xử thế nào. Người đàn bà trình giấy xong ngồi xuống ghế mở bóp lấy ra hai bao thuốc lá hiệu ba số 555, đưa một bao mời tên cán bộ nhận đơn, hắn không ngước nhìn lên, đưa tay kéo bao thuốc vào trong hộc bàn. Người đàn bà tiếp tục mở bao thuốc thứ hai mời hắn một điếu, xong đưa mời mỗi tên cán bộ trong phòng mỗi người một điếu.

Tôi chợt hiểu, đó là thủ tục đi trình xin giấy tờ. Về đến nhà tôi kể lại chuyện đi xin giấy và mời thuốc để xác nhận lại sự nhận xét của tôi. Vợ tôi nói đã lâu không có việc gì phải xin giấy nên quên dặn tôi trước. Theo thủ tục hiện tại muốn xin bất cứ loại giấy tờ gì phải mang theo hai bao thuốc, phải là loại thuốc nhập cảng đầu lọc mới đúng như người đàn bà đã làm tại phường. Nếu việc không quan trọng như vậy là đủ, việc quan trọng người nhận đơn sẽ nói thẳng phí tổn phải đóng là bao nhiêu chỉ vàng hay bao nhiêu cây vàng – mời thuốc gọi là thủ tục vì nhân viên cán bộ bây giờ đã giàu có, họ không cần thuốc để hút như thời gian mới ngồi vào chính quyền; nhưng mời thuốc để chứng tỏ người dân biết “kính trọng” quyền uy của họ. Thuốc mời phải là thuốc ngoại quốc đầu lọc, thuốc đen họ chê, điều này đã trở thành nếp sống văn hóa mới.

Mỗi ngày đúng 8 giờ sáng người công an khu vực đến nhà gọi là để thăm tôi. Hôm mồng một Tết vợ tôi lì xì 10 ngàn – nhận tiền xong hắn trở nên lễ phép – gọi tôi bằng anh xưng em. Ngoài đời có tiền thì cũng sướng – mới ngày nào trong trại cải tạo những cán bộ trẻ đáng con em gọi tù là mày xưng tao. Mỗi ngày hắn đến thăm tận nhà, tôi phải ngồi tiếp, chẳng có gì để nói ngoài những lời thăm hỏi xã giao. Uống xong ly cà phê và hút xong hai điếu thuốc (đầu lọc) – tôi mời đúng thủ tục xong, 9 giờ, hắn chào tôi qua thăm ông Phạm Thái cũng mới ở Hà Nam Ninh về đến Sài Gòn hôm 15 tháng 2 tức sau tôi hai ngày. Tên công an khu vực mỗi ngày đều làm đúng chương trình thăm viếng mỗi nhà một giờ. Đến thứ sáu thì hắn thông báo ngày thứ bảy có nhân viên công an từ phường đến, và 2 tuần một lần công an quận Tân Bình đến thăm. Việc tiếp người nhà nước đến thăm trở thành một sự phiền phức. Vừa tốn hao, vừa phải ngồi nói và nghe nói những lời giả dối với nhau. Đó là một hình thức kiểm soát mới thay cho quản chế, nhưng dù sao cũng đỡ hơn chế độ quản chế.

Tôi ngỏ ý xin phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng được công an phường đồng ý cho phép tôi đi một tuần. Tôi đã hiểu các thủ tục xin giấy, nên không có trở ngại khi xin giấy phép đi đường ở phòng công an phường. Các đặc điểm của người trưởng công an phường là khi nhận giấy và thuốc lá của tôi anh ta rất lạnh lùng, không vồn vã thân thiện như lúc đến thăm tại nhà. Cuộc sống giả dối của xã hội khiến cho con người trong xã hội đó diễn xuất rất tài tình và tự nhiên.
Trong khi chờ đợi ngày về Đà Nẵng, tôi được tự do đạp xe đi thăm bạn bè và xem sự biến đổi của Sài Gòn. Đời sống thay đổi dễ sợ, không riêng gì cách sống và khung cảnh sống thay đổi, mà tâm tính con người cũng thay đổi. Hầu như mọi người đều trở nên quá thực tế, người ta chỉ nói đến gạo cơm, tiền quà gởi từ ngoại quốc và than thở vì vật giá leo thang. Xã hội hình thành những giá trị mới, những công nhân viên nhà nước ở vị trí làm được nhiều tiền được trọng vọng.

 Những người buôn bán chợ trời chụp giựt trao đổi những món quà từ ngoại quốc gởi về hay những món hàng xuất kho nhà nước bất hợp pháp trở thành những người dân có ưu thế. Họ đi lại với công nhân viên dễ dàng, và họ chiếm lãnh một khu vực chi tiêu từ nhà hàng ăn tư nhân mới được mở trở lại, đến những sàn nhảy ở các Câu Lạc Bộ và các nhà nhảy đầm ở các quận mới được mở ra. Sân khấu ca nhạc và phòng chiếu phim video mọc lên như nấm trong chương trình ba lợi ích kinh tế. Những người có thân nhân ngoại quốc gởi tiền đều đặn là những người sung sướng, nhiều người mơ ước vị trí của thành phần này, vừa có tiền chi tiêu, không làm việc, chờ đợi được đi đoàn tụ với thân nhân, thoát cũi sổ lồng. Mỗi đứa con đi vượt biên đến nơi chốn đánh giá phúc phần của gia đình, mỗi thùng quà hay món tiền gởi về đánh giá lòng hiếu thảo của con cái hay sự thủy chung của vợ chồng đã ra đi. Xe gắn máy hiệu Cub, hiệu Dream tiêu biểu cho sự sang trọng của chủ nhân. Trong khi đại đa số dân chúng càng ngày càng nghèo khổ, phải kiếm ăn bằng nhiều cách, thông thường nhất là bán quà vặt và thuốc lá lẻ, có rất nhiều em gái nhỏ tuổi 14, 15 bỏ học đi bán thân nuôi gia đình thì thiểu số người có ưu thế ăn chơi xa xỉ.

 Phong trào chống đối hình như lắng xuống, đa số người dân phải lo sinh kế hoặc quay cuồng hưởng thụ trong lối sống mới. Phần vì những người chống đối đã bị bắt quá nhiều mà không có được một hành động có kết quả cụ thể để tạo niềm tin. Phần Việt Cộng đã thành công khi tạo ra những tổ chức chống đối giả để bắt người có tư tưởng chống đối nên dân chúng đã nhìn các phong trào chống đối ít thiện cảm và nghiêm túc, có nhiều người nghĩ về hành động chống đối là một việc làm vừa như điên cuồng vừa không thực tế. Kỹ thuật tiêu diệt sức đề kháng của người dân như thế, vừa trấn áp cho người dân sợ, vừa làm cho người dân có tư tưởng phi chính trị.
Thật đáng tiếc cho chế độ cộng sản đang mất lòng dân, mất niềm tin cả hàng ngũ đảng viên, gặp khó khăn về kinh tế và ngoại giao chỉ còn chờ giờ sụp đổ, nhưng đối lực còn quá yếu, chưa có ai làm phát khởi cuộc đấu tranh.

Tại Đà Nẵng, bạn bè cũ đi cải tạo về sống thê thảm hơn ở Sài Gòn nhiều. Có người về đã 10 năm vẫn còn bị đối xử phân biệt, sống tận cùng đáy xã hội, một xã hội đói rách, nghề được anh em làm nhiều nhất là nghề chở khách bằng xe đạp. Trời tháng Giêng lạnh như cắt, nửa đêm còn đứng đợi khách ngoài vòng rào bến xe, mình khoác một mảnh vải nhựa mong manh. Rước khách bằng xe đạp không được vào bến xe vì không hợp pháp như phu xích lô.

Những người đi xe đò thường xuyên chịu khó xách hành lý ra ngoài hàng rào bến xe ngồi sau xe đạp thồ giá chưa bằng một nửa giá xe xích lô. Nhìn bạn, nghĩ đến thân phận mình mới ở tù về chưa được một tháng, tôi trào nước mắt. Nếu không có gia đình ba tôi giúp đỡ tôi sẽ ra sao, tôi không có cả chiếc xe đạp đi rước khách trong đêm lạnh lẽo. Cái nhục của kẻ chiến bại kéo dài suốt đời chăng? Những ngày ở trong tù chỉ mong được ra khỏi trại. Tưởng rằng ra khỏi trại là trút xong mọi gian khổ, nhưng không, gian khổ nhục nhã còn dài cả đời người chưa dứt, kéo theo đời của con cháu. Người chiến sĩ đã chiến đấu, một sống hai chết đừng đầu hàng, đầu hàng khổ hơn là chết. Nhưng con người hèn yếu, ngay lúc chết mà không chết được, đã đầu hàng rồi thì ít người còn đủ can đảm để tự kết liễu đời mình – còn bao nhiêu ràng buộc tình cảm của người thân.

Tôi được nhiều bà con đến mừng tôi được trở về thân thể còn toàn vẹn, tóc chưa bạc, răng chưa rụng. Bà con nội ngoại nhiều người bên phía cộng sản. Người anh con dì Hai tôi, anh Thật đã nói chuyện với tôi rất nhiều. Anh Thật, một cán bộ nằm vùng ngay tại Đà Nẵng, lúc Việt Cộng chiếm Đà Nẵng anh mang lon thiếu tá, bây giờ anh làm gì, chức gì tôi không cần biết. Chúng tôi chỉ nói chuyện gia đình để tránh tranh luận. Thời xưa trước năm 1975, khi cậu tôi còn sống, mỗi lần có đám giỗ ngoại tôi là cậu và các anh con dì tôi thường cãi nhau về chính trị, bao giờ dì tôi cũng khóc khi đến màn kết cục cậu tôi cầm chiếc ghế lên định đánh vào anh và anh bỏ chạy. Cậu tôi ghét cộng sản, cậu biết các anh con dì hoạt động cho cộng sản nên cậu thường công kích. Các anh thường nhẫn nhịn, nhưng khi cậu tôi gọi Hồ Chí Minh bằng thằng thì các anh không nhịn nữa và lên tiếng cãi lại. Hầu như đám giỗ nào cũng xảy ra màn chiến tranh ý thức hệ trong gia đình.

Nói chuyện gia đình một lúc thì anh Thật cũng lái qua chuyện chính trị, hình như người Quảng Nam ngồi với nhau không nói chuyện chính trị thì không vui. Anh Thật nói là chế độ sai lầm khi nhốt những người như tôi quá lâu. Tôi không biết anh nói thật hay an ủi tôi. Nếu anh nói thật thì anh là cán bộ cộng sản nhưng không thuộc chính sách và chưa đọc Lénine: “Là Cộng sản phải đấu tranh không khoan nhượng với kẻ thù”, và trong chính sách của Lénine có viết rõ chính sách cải tạo và kỹ thuật đánh lừa người tù cải tạo, “luôn luôn làm cho chúng có hy vọng được tự do, chuyển trại thường xuyên để nuôi dưỡng hy vọng giả tạo đó, cuối cùng chúng gặp nhau và chết ở Siberia”. Nếu Cộng Sản Việt Nam không bị áp lực hoặc không vì nhu cầu nào đó, chúng tôi cũng sẽ bị giam giữ vĩnh viễn cho đến chết ở các vùng rừng thiêng nước độc ở miền Bắc hay miền Trung. Giam giữ tù, Việt Cộng không hao tốn gì cả, tù phải tự làm lấy ăn và nuôi sống cán bộ, mót hết sức lao động, khi chết thi thể người tù còn là phân bón tốt cho cây cỏ. Anh nói đến những mâu thuẫn trong nội bộ của nhóm lãnh đạo, đổ tội cho Lê Đức Thọ – anh gọi Lê Đức Thọ bằng thằng, anh nói: “Thằng Lê Đức Thọ phản quốc”. Anh kể chuyện Võ Nguyên Giáp đi Liên Sô về bị ám sát hụt do phe Lê Đức Thọ tổ chức – Giáp đi máy bay Liên Sô về đến phi trường Gia Lâm thì có điện báo của Tòa Đại Sứ Liên Sô tại Hà Nội yêu cầu máy bay đáp xuống phi trường quốc tế. Máy bay đáp không đúng nơi, nên toán xe rước Võ Nguyên Giáp tại phi trường Gia Lâm xoay trở không kịp – Giáp đi xe của nhân viên Liên Sô về tư dinh, trong khi đó xe đón Giáp tại phi trường Gia Lâm nổ – Giáp chết hụt. Anh kể chuyện Đinh Đức Thiện bị ám sát chết, vì trước đó Đinh Đức Thiện phản đối hành động bám lấy quyền lực của Lê Đức Thọ. Trong một buổi tranh luận giữa hai anh em, Đinh Đức Thiện nói với Lê Đức Thọ: “Gia đình ta mấy đời đều đóng góp vào lịch sử xây dựng đất nước và phục vụ nhân dân, bây giờ anh đi ngược lại truyền thống đó”. Đinh Đức Thiện bị một quân xa ép chết trên đường đi làm về. Thiện có thói quen trước khi về nhà ra khỏi xe hóng gió trên chỗ đồng vắng. Anh Thật còn kể cho tôi nghe về chuyến đi của Lê Duẩn qua Mạc Tư Khoa nhân lễ nhậm chức của Gorbachev năm 1985, lễ này được trực tiếp truyền hình qua đài Hoa Sen tiếp vận hệ thống truyền hình vệ tinh nhân tạo Liên Sô đến Việt Nam.

Trước đây Lê Duẩn sui gia thân thiết với Breznev nên mỗi lần đến Mạc Tư Khoa được Breznev đón tiếp rất niềm nở. Lần này Lê Duẩn đã phải sượng sùng vì sự lạnh nhạt của Gorbachev. Lê Duẩn giới thiệu người kế theo là Tố Hữu, Gorbachev hỏi ngay: “Ông Tố Hữu có phải là người làm thơ ca tụng Staline không?” Tố Hữu chỉ mới vâng một tiếng thì Gorbachev tiếp theo: “Ông đã được gặp Staline chưa?” Lần ra đi thất bại đó của Lê Duẩn hầu hết người Việt Nam đều biết, các đảng viên cộng sản bàn tán rất nhiều về việc đó: trở về Việt Nam vai trò Tố Hữu bị lu mờ để rồi bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị tại đại hội kỳ 6 sau khi Lê Duẩn chết. Những chuyện kể của anh Thật, không biết có đúng hoàn toàn hay không, điều đó không quan trọng lắm. Quan trọng là anh làm cho tôi hiểu được sự mâu thuẫn trong nội bộ của lãnh đạo cao cấp Cộng Sản Việt Nam không hàn gắn được. Cộng Sản Việt Nam không còn “sợi chỉ hồng xuyên suốt” để giữ thống nhất nội bộ và họ không còn giữ gìn sự đoàn kết như giữ con ngươi của mắt như Hồ Chí Minh từng lập lại lời di chúc của Lénine.

Về quê thăm khu mộ gia đình xong, tôi đến nhiều nơi trong làng, đã gần 30 năm tôi mới trở lại nhưng tôi nhận rõ nhiều địa điểm, dù sau cuộc chiến tàn phá, làng tôi đã được xây dựng lại, mở nhiều đường mới và trồng nhiều cây cối xanh tươi hơn. Ngoài đồng xanh ngát thuốc lá đã cao ngang tầm đầu người. Thuốc lá là nông sản chính của quê tôi. Dân Thanh Quít giàu có hơn những dân làng khác nhờ vào thuốc lá. Mùi thuốc lá hăng hắc khắp nơi, tôi có cảm giác như mình đang say. Tôi đến nhìn rõ nền Kỳ Yên, là nơi tôi từng xem Việt Minh xử chôn sống Việt gian, tôi đứng lại nơi đầu cầu Thanh Quít nhìn qua trụ sở xã bên kia sông, lúc xưa đó là đồn Tây, nhiều buổi sáng tôi đứng ngoài rào xem Pháp cắt đầu Việt Minh, đạp thây xuống nước rồi đem đầu cắm vào một thanh tre bêu nơi đầu cầu để người qua lại xem. Chiếc đầu sau khi chặt được chải brillantine bóng láng và miệng cho ngập một điếu thuốc. Người Pháp và bọn Việt gian theo Pháp đã đem thi thể người Việt Nam ra làm trò đùa, họ tưởng là tiêu diệt Việt Minh nhưng chính là đẩy dân quê Việt Nam về phía Việt Minh.

Sau này làng Thanh Quít nổi tiếng nhiều cộng sản, đi dọc quốc lộ 1 chỉ ngán Sa Huỳnh và Thanh Quít, viên chức và quân nhân, ít khi lái xe qua đó sau hai giờ chiều mà không có hộ tống. Ít người biết và nhớ là Thanh Quít từng là nơi chống Việt Minh mạnh mẽ nhất trong thời chiến tranh Việt-Pháp. Ba tôi, cậu tôi, các chú bà con họ hàng lứa tuổi đó đều theo kháng chiến từ ngày đầu. Chủ trương giết hại hơn ngàn tín đồ Cao Đài ở Quảng Ngãi ảnh hưởng đến làng tôi, vì làng tôi có một thánh thất Cao Đài và nhiều người có học đã theo đạo. Những người Thanh Quít có đạo Cao Đài hay liên hệ đến thánh thất ở trong hàng ngũ kháng chiến đều bị loại và có nguy cơ bị sát hại. Cậu, các chú và ba tôi quay về làng rào làng chiến đấu để tự vệ. Trước khi Pháp từ Vĩnh Điện ra chiếm đóng đồn, giải tán lực lượng tự vệ của làng, thì làng đã đẩy lui ba cuộc tấn công của Việt Minh vào làng. Lần tấn công thứ hai tháng 11 năm 1947 nhiều nhà trong làng bị đốt cháy trong đó có nhà nội và bà ngoại tôi, và trong làng có khoảng 50 người lớn bé bị giết chết, có người bị chém bằng mã tấu, có người bị đâm và ném thây vào lửa. Chính mắt tôi đã trông thấy cảnh tượng đó khi gia đình tôi trốn dưới một cái ao.

Lần Việt Minh tấn công lần thứ ba vào làng, đánh thẳng vào đồn tự vệ nằm bên quốc lộ, đồn là nhà lầu của ông Năm Ngoạn, Việt Minh tấn công vào chiếm được tầng dưới nhà, bí lối mọi người thoát được lên lầu chống cự. Tôi theo ngủ với ba tôi trên lầu vào đêm hôm đó. Hai bên vũ khí đều thô sơ nên đến sáng Việt Minh không chiếm được tầng trên lầu và phải rút lui. Kết quả trong đồn chỉ chết hai mẹ con thím Cơ là vợ của chú Nguyễn Hữu Tuân, người chỉ huy lực lượng tự vệ. Thím không kịp chạy lên lầu nên bị giết và thi thể bị bằm nát thành từng mảnh. Chính những hình ảnh đó in đậm nét trong đầu tôi, cản bước tôi đi về phía cộng sản khi tôi được bạn bè lôi cuốn lúc 16 tuổi. Lý tưởng công bằng xã hội, cách mạng giải phóng dân tộc quá hấp dẫn trí óc non nớt ở tuổi đó, nhưng hình ảnh



 CHƯƠNG 19

Tôi có ý định vượt biên từ khi ở trong tù, ra khỏi tù, ý định đó không thay đổi và trở thành một nhu cầu cần phải đi sớm chừng nào hay chừng đó.
Trước khi đi, tôi đến thăm Đoàn Viết Hoạt, anh được thả ra từ Chí Hòa sau tôi hai ngày. Gần 13 năm anh bị giam ở các nhà giam tại Sài Gòn, may mắn không phải đi thụ hình tại các trại lao động cải tạo. Tôi mến Hoạt từ khi mới gặp trong khu xà lim Sở Công An Thành Phố, trong lúc đa số trí thức Sài Gòn bị ru ngủ trong lý luận “một nước đã bị cộng sản hóa thì không đảo ngược lại được.”, thì Hoạt rất lạc quan, lần đầu tiên tôi nghe một người nói với tôi rằng cộng sản tạm thời thắng lợi về quân sự, nhưng sẽ thất bại trong chính trị và tình cảm dân tộc và con người.


 Trong lúc các bạn tù tiêu phí thì giờ bằng cờ tướng, học tử vi, kể chuyện kiếm hiệp hay tưởng nhớ quá khứ huy hoàng ăn chơi trụy lạc và ước mơ phép lạ Hoa Kỳ đến để tiêu diệt cộng sản, Hoạt làm việc, anh chia sẻ những điều hiểu biết cho những người tù trẻ tuổi, giúp họ nung đúc ý chí, rèn luyện phẩm cách, anh phân tích những điểm sai lầm phản tự nhiên của thuyết Marxism để truyền niềm tin là chế độ cộng sản không thể tồn tại, cho những người tù trẻ tuổi. Hoạt là một nhà giáo, từng du học ngoại quốc, anh quan tâm đến việc xây dựng một ý thức mới trong lớp người mới để phục vụ cho đất nước mai sau; tôi thấy anh thành công trong việc nhen lên một niềm tin cho các người trẻ và nhiều bạn tù trẻ tin nơi anh.

Hoạt nói với tôi: “Chế độ cộng sản sụp đổ là điều chắc chắn, vấn đề cần suy nghĩ là sau cộng sản là cái gì cho đất nước Việt Nam”, lời nói của Hoạt không quá sớm đối với những ai chịu khó nghiên cứu tất cả những diễn biến quan trọng xảy ra trên thế giới từ sau năm 1975. Cộng sản thường dùng thuật ngữ “thời kỳ sau Việt Nam” với ý chủ quan là khối cộng sản quốc tế lớn mạnh, nhưng ngược lại thực tế sau Việt Nam là thời kỳ suy thoái, khối cộng sản đi dần đến chỗ tan vỡ. Dù sau Việt Nam, cộng sản xích hóa thêm các nước Angola, Afghanistan, Ethiopia, Nicaragua, nhưng Liên Sô bị sa lầy trong chiến lược mới của Hoa Kỳ. Thế giới chuyển từ thế tranh chấp lưỡng cực của Cộng sản và Tư bản, đã hình thành hai trung tâm Tây Âu và Nhật Bản vững mạnh cả kinh tế lẫn chính trị. Trung Quốc tuy chậm tiến về kinh tế nhưng đóng vai trò một siêu cường và Hoa Kỳ đã đẩy mạnh tham vọng đó của Trung Quốc làm cho khối cộng sản càng chia rẽ trầm trọng hơn, sự chia rẽ không hàn gắn được.

Sự thống nhất của khối 7 quốc gia phát triển chia xẻ trách nhiệm với Hoa Kỳ và toàn khối Tây phương và Nhật Bản đã tấn công ào ạt về kinh tế, tạo nhu cầu tiêu thụ trong khối Cộng sản, làm cho dân chúng muốn có đầy đủ sản phẩm tối thiểu cho đời sống, không còn an phận chịu sự đè nén chèn ép của chính quyền Cộng sản. Sự phát triển khoa học và phổ biến các dụng cụ và phương tiện truyền thông làm cho thế giới thu hẹp lại. Các nước Cộng sản không thể giam hãm mãi con người và tư tưởng của dân chúng sau bức màn sắt. Những nhận thức và hiểu biết mới về con người, làm cho tư duy thuần lý, giáo điều và các cấu trúc chính trị, kinh tế trên hệ tư tưởng đó trở nên lỗi thời. Đó là nguyên nhân sự cáo chung của chủ nghĩa Cộng sản. Cộng sản chỉ còn lại hình thức tổ chức, ở nơi nào dân chúng và chính đảng viên Cộng sản đứng lên đấu tranh xóa bỏ tổ chức thì chế độ Cộng sản sẽ tiêu diệt hoàn toàn.

Tiến bộ vượt bực về khoa học kỹ thuật thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế xã hội. Cuộc cách mạng về điện tử đã thay đổi bộ mặt thế giới, những nước kém tài nguyên thiên nhiên như Nhật Bản có thể xây dựng sự tiến bộ kinh tế đưa đất nước thành một trung tâm kinh tế thế giới mà nhiều khu vực mạnh hơn cả Hoa Kỳ. Sự phát triển kinh tế của Nhật Bản cùng các nước khác như Đại Hàn, Tân Gia Ba làm cho quan niệm phát triển kinh tế kiểu xây dựng kỹ nghệ nặng của thời Lénine, Staline không còn là phương thức tối ưu.

Sự tương quan giữa nước giàu và nghèo không còn tương quan bóc lột như Karl Marx định nghĩa, mà trở thành tương quan hợp tác, nước nghèo và nhỏ nếu có chính sách phát triển đứng đắn sẽ thừa hưởng được kiến thức, kinh nghiệm và sự trợ giúp của các nước giàu để nhanh chóng mở mang. Điều này đã chứng minh chính sách cô lập kiểu Cộng Sản Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông, và tham vọng phát triển kỹ nghệ nặng của Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn lỗi thời và trở thành một sự trì trệ. Xu thế chung của thời hiện đại là tạo sự hòa bình ổn định để phát triển kinh tế và xây dựng tự do dân chủ. Chính trị và kinh tế là hai mặt của một vấn đề xã hội. So sánh hai xã hội tư bản và Cộng sản qua quá trình phát triển, người ta đã thấy rõ không thể phát triển được kinh tế khi toàn thể con người trong xã hội bị câu thúc mất tự do bởi một tập đoàn quản lý kém tài năng và lạc hậu.

Ngày nay, các nước Cộng sản đã thấy rõ điều đó, nhưng vẫn còn cố níu kéo quyền lợi bằng một mơ ước là cải cách quản lý kinh tế theo kiểu thị trường để lấy được ưu thế của tính linh động nhưng vẫn muốn giữ độc quyền chính trị. Nhưng điều này chỉ là một mơ ước vì không thể có cải cách kinh tế mà không thay đổi chính trị – có chăng chỉ là một giải pháp tạm thời khi dân chúng nước đó chưa tập trung được sức mạnh bởi vì họ mới trải qua một giai đoạn phân tán trong chế độ độc tài.


Tóm lại, từ khi chiếm hoàn toàn nước Việt Nam, chế độ Cộng sản đã mất ưu thế của chiêu bài giải phóng dân tộc, từ khi nắm toàn bộ chính quyền họ phô diễn toàn thể thế yếu kém và lạc hậu chứng tỏ không cần thiết và không xứng đáng để lãnh đạo nước Việt Nam. Nhưng để loại bỏ, chúng ta chưa có một đối lực đáng kể. Những người quốc gia cũ, sau sự thất bại đã trở nên phân tán hơn trước, những lực lượng đối kháng nổi lên thường xuyên nhưng chỉ là những tập hợp nhỏ bị chính quyền Cộng sản tiêu trừ từ trong trứng nước.


Chúng ta không thể trông cậy vào một giải pháp quân sự để lật đổ chính quyền Cộng sản vì kinh nghiệm thất bại của những tổ chức đối kháng cho thấy khó có thể có một tập hợp lớn, cũng như từ những thất bại của phong trào đối kháng phục quốc làm cho người dân hết tin tưởng trở nên thái độ phi chính trị rất tai hại. Ngoài ra, chúng ta cũng có kinh nghiệm không thể một nước đơn độc chống Cộng sản mà phải trông cậy vào đồng minh – Thất bại quân sự ở Việt Nam 1975, Hoa Kỳ và Tây Phương đã thay đổi chiến lược không sử dụng giải pháp quân sự. Hiện nay, Hoa Kỳ và Tây phương đang sử dụng ưu thế về kinh tế để buộc các quốc gia Cộng sản thay đổi chính trị, tôn trọng nhân quyền và thực thi dân chủ. Dù mỗi nước có một sắc thái riêng nhưng những nét chính cũng phải nằm trong trào lưu chung đó.

Nội bộ đảng Cộng Sản Việt Nam cũng phân hóa trầm trọng, đảng không còn là khối thống nhất, những cán bộ đảng viên hiểu biết, sống trong thái bình họ có điều kiện suy nghĩ, đối chiếu thực tế với lý thuyết để thấy con đường họ đi theo là sai lầm và phản lại tổ quốc. Cuộc vận động chính trị trong tương lai còn có thể tập hợp đông đảo những người này. Chúng ta dễ dàng phân biệt hai thành phần con người Cộng sản trong số những người muốn có thay đổi, một thành phần còn tin tưởng ít nhiều vào đường lối Cộng sản, họ nghĩ là chế độ còn cứu vãn được với những thay đổi cần thiết và một phần đã nhận thức được rằng con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa là một lỗi lầm cần phải loại bỏ càng sớm càng tốt.

Chúng ta có thể phát khởi một cuộc vận động cho dân chủ toàn dân nhắm vào các mục tiêu:
1- Đòi hỏi tự do và độc lập của các sinh hoạt văn hóa nghệ thuật.
2- Đòi hỏi một nền giáo dục bình đẳng cho mọi người dân không phân biệt đối xử, đãi ngộ, nội dung chương trình giáo dục phải tôn trọng tính khoa học, sự tự do, tôn trọng giá trị lịch sử và con người. Giáo dục là đào tạo con người cho đất nước, giáo dục không phải là một hệ thống đào tạo đảng viên.
3- Đòi hỏi tự do tôn giáo.
4- Đòi hỏi một nền kinh tế thị trường linh động, tôn trọng tài sản và công sức lao động của mọi người.
5- Đòi hỏi để tư nhân tham dự vào việc quản lý và phát triển kinh tế và xã hội. Một chính quyền phải gọn nhẹ, ít tiêu hao công sức tức là sự đóng góp của toàn dân, ít can thiệp vào đời sống xã hội vì chính quyền càng can thiệp thì càng giảm bớt tính dân chủ và tự do.
6- Đòi hỏi chính quyền phải có một hệ thống tư pháp độc lập, đứng ngoài sự điều khiển của đảng chính trị, tôn trọng dân quyền và nhân quyền.
7- Chính quyền phải do dân bầu cử trực tiếp, đưa tới sự công nhận chế độ đa đảng. Chính đảng là một tập thể chính trị không thể nhân danh bất kỳ lý do gì để độc quyền cai trị đất nước.
8- Đòi hỏi thả hết cả tù cải tạo và tù nhân chính trị của tổ chức đối kháng đi dần đến sự công nhận đối lập. Những cuộc vận động có thể bị Cộng sản đàn áp, nhưng kinh nghiệm cho thấy ngày nay các nước Cộng sản không thể che đậy hoàn toàn những cuộc đàn áp mà không bị khám phá và lên án. Nhân cơ hội Cộng sản đang có những cởi mở cần thiết để an lòng dân, chúng ta cần đẩy mạnh sự đấu tranh hợp pháp cho đến lúc trở thành phong trào mà Cộng sản không còn kiểm soát được.
Trong tương lai, giai đoạn xây dựng đất nước – vấn đề giáo dục vô cùng quan trọng, giáo dục không những chỉ đào tạo cho nhu cầu phát triển kinh tế, giáo dục để tạo ra một con người mới, mẫu người Việt Nam tiêu biểu, thay thế cho hình ảnh sĩ phu bị mất. Chúng ta không cần thiết phải có một mẫu người toàn vẹn như người quân tử trong Nho giáo. Mẫu người mới là con người biết quân bình quyền lợi cá nhân với quyền lợi xã hội, một con người có lòng yêu nước và thương người. Hơn 20 năm chiến tranh và thời gian Cộng sản cai trị đã làm thay đổi tận gốc rễ xã hội Việt Nam, chính sách giáo dục thù hận và đời sống kinh tế khó khăn biến con người trở thành chi li bần tiện. Hệ thống giáo dục gia đình và học đường sụp đổ. Giá trị đạo lý cổ truyền, thuần phong mỹ tục biến mất. Chính sách giáo dục tương lai phải được định rõ ràng để mục đích phục hồi lại giá trị đạo lý. Chúng ta xây dựng một xã hội trong đó quân bình giữa vật chất và tinh thần để nâng cao giá trị con người lên, triệt để bỏ chủ trương dùng bạo lực để câu thúc con người, con người phải được quan niệm bình đẳng với nhau, có bình đẳng mới có dân chủ, vì dân chủ không phải là sự ban phát của người này với người khác, của người cầm quyền với dân chúng. Bình đẳng để không có sự thôn tính, không có quan niệm người này chinh phục người khác, buộc người khác nghe theo luận cứ và sự điều khiển của mình. Chưa có bình đẳng, còn muốn chinh phục thì chưa có sự đoàn kết.
Rõ ràng là chúng ta bắt đầu chống Cộng sản trên thế mạnh. Cộng sản không yêu nước, họ yêu nước tức là yêu xã hội chủ nghĩa thì không thích hợp với Việt Nam. Trước kia ta sợ rằng người quốc gia không có tinh thần cách mạng bằng Cộng sản, người Cộng sản họ dám hy sinh đi làm cách mạng, chịu đựng gian khổ, ngày nay ngược lại, khi nắm chính quyền, người Cộng sản còn phô bày bao nhiêu xấu xa hơn người phe quốc gia.


Trước kia có người xấu kẻ tốt, còn xã hội Cộng sản chỉ phát triển tính xấu – ai còn nhân tính phải che dấu và chỉ phát triển được khi bạo lực Cộng sản không còn câu thúc nữa. Trước kia chúng ta nghĩ đến Cộng sản là một cái gì đó bí mật ghê gớm lắm, bây giờ ta đã hiểu rõ Cộng sản từ lý thuyết đến tổ chức, phương thức làm việc của họ. Tóm lại, trước kia chúng ta vừa chống cộng, vừa ghét, vừa sợ nhưng có một chút khâm phục. Bây giờ, nếu không khinh thường Cộng sản thì ta cũng đã dứt khoát là cần phải loại trừ chế độ Cộng sản khỏi đất nước, khỏi xã hội loài người và việc đó, chúng ta tin tưởng là sẽ làm được. Có nhiều động lực để kết hợp thành một lực lượng chống Cộng – trước kia chúng ta chỉ có hai động lực chính là lòng căm thù của những người từng là nạn nhân hay là gia đình của nạn nhân Cộng sản và những người vì quyền lợi –


Những người vì quyền lợi chống Cộng thì lập trường không bền vững và không dám hy sinh. Trước kia lòng yêu nước và tình thương con người và lý tưởng công bằng bị Cộng sản tương tranh và họ ở thế hấp dẫn hơn. Ngày nay, chúng ta hoàn toàn thuận lợi ở những giá trị tinh thần này. Chỉ có những giá trị tinh thần này mới là động lực của toàn dân. Sức mạnh tinh thần cộng thêm phương tiện vật chất và kỹ thuật tổ chức là những yếu tố tất thắng của người quốc gia – Sức mạnh tinh thần đã có; chỉ còn hai yếu tố sau, như vậy, vấn đề chống Cộng ngày hôm nay sớm muộn tùy thuộc vào khả năng kết hợp thành tổ chức và sự huy động phương tiện, phương tiện có thể từ chính của chúng ta có được hay cả sự giúp đỡ của đồng minh.

Kinh nghiệm của Cộng sản giúp chúng ta thấy được chế độ Cộng sản được xây dựng trên hận thù, kích thích lòng thù hận, để đem lại sức mạnh và sự thắng lợi, nhưng hận thù vừa không hợp với tình tự con người và tình tự dân tộc. Dùng hận thù phải có kỹ thuật kích thích lòng hận thù và phải có đối tượng phát tiết – khi hết đối tượng hận thù thì tổ chức cũng lung lay hay tan rã. Chúng ta không ngăn cản động lực thù hận của những người là nạn nhân của Cộng sản, nhưng trên toàn lý tưởng của cuộc đấu tranh giải trừ Cộng sản không xem hận thù là yếu tố chính, vì chúng ta giải trừ Cộng xong phải nghĩ đến xây dựng một đất nước hòa bình và thịnh vượng. Đất nước chúng ta đã không may mắn bị kéo lùi, thua xa các dân tộc trên thế giới, kể cả những quốc gia cựu thuộc địa trong vùng Đông Nam Á trước kia còn kém Việt Nam. Hận thù chỉ dùng được trong giai đoạn đấu tranh mà không sử dụng được trong giai đoạn xây dựng đất nước.

Chúng ta không xem hận thù là yếu tố chính thì chúng ta giải quyết được vấn đề con người của chế độ Cộng sản. Chúng ta nhằm triệt tiêu lý thuyết Cộng sản và giải trừ tổ chức Cộng sản là chính; khi lý thuyết và tổ chức Cộng sản không còn thì con người Cộng sản không còn nguy hiểm nữa. Trong cuộc đấu tranh, chúng ta còn phải tiêu diệt những người Cộng sản bảo thủ lạc hậu, nhưng những người Cộng sản đã biết từ bỏ lý thuyết và tổ chức thì họ có thể đứng vào hàng ngũ của người đấu tranh chung của cả dân tộc Việt Nam. Những người này hiện nay trong hàng ngũ Cộng Sản Việt Nam không hiếm – họ cũng đang chờ đợi cơ hội.

Trước kia, chúng ta chống Cộng sản trong tình thế lúng túng về mặt tư tưởng, không chứng minh được rõ ràng đó là cuộc chiến tranh ý thức hệ – nên sự giúp đỡ của đồng minh, đồng thời với lý lịch của những người lãnh đạo ít nhiều đều có quan hệ đến thực dân Pháp trở thành là một nhược điểm, bị lâm vào thế kẹt của trận chiến tư tưởng của Cộng sản đặt ra. Họ ngụy trang cuộc chiến tranh thôn tính của Cộng sản quốc tế dưới hình thức cuộc chiến yêu nước và giải phóng dân tộc. Do đó, cuộc chiến đấu giữa hai bên, người lính chiến Cộng sản họ được giáo dục hận thù và đấu tranh không khoan nhượng, họ nhìn chúng ta là một kẻ địch cần tiêu diệt. Tệ hại hơn là dưới mắt của họ chúng ta là tay sai ngoại bang.


Nền giáo dục của chúng ta dạy cho con người tình thương với nhau và trách nhiệm đối với tổ quốc và xã hội. Sau mỗi trận chiến nếu thắng thế, người Cộng sản thường tiêu diệt tất cả địch thủ và kể cả người dân trong vùng chiến tranh. Sau mỗi lần chiến thắng, người chiến sĩ Cộng Hòa luôn luôn ray rứt khi nhìn xác chết đối thủ và nghĩ đó là người cùng nòi giống Việt Nam. Thời gian tù đầy, ngậm đắng nuốt cay, nhiều người tù tự kiểm lại ưu khuyết điểm, rút kinh nghiệm, tự hứa là nếu có dịp sẽ lại tiêu diệt kẻ thù không thương tiếc, họ muốn học lấy bài học mà kẻ địch đã dậy cho họ. Đó là một phản ứng rất tự nhiên, hợp lý vì nó hợp với tính của con người trong xã hội luôn luôn tranh đấu để sống còn. Con người nhất thời bao giờ cũng có những phản ứng cực đoan, thái quá, nhưng rồi những hành động không thích hợp dần dần sẽ bị đào thải theo thời gian, đó là sự điều chỉnh tự nhiên của xã hội và lịch sử.



Sau Cộng sản, chúng ta phải xây dựng Việt Nam như thế nào? Đâu có thể quay trở lại thời kỳ dân chủ hỗn loạn không chính sách như trước năm 1975. Những người có quan tâm đối với đất nước cần suy nghĩ. Điều này không phải là quá sớm.
Từ sau đệ nhị thế chiến, nhiều quốc gia thu hồi độc lập, nhiều quốc gia mới hình thành, tìm một mô thức để xây dựng một nước cựu thuộc địa là một vấn đề khó khăn. Nhiều nhà lãnh đạo quá cấp tiến, phản ứng ngược lại quá khứ lệ thuộc các đế quốc Tây phương, ôm ngay lấy lý thuyết Cộng sản như là một lá bài cứu nước và dựng nước. Kết quả nhiều nước đã biến thành bãi chiến trường của cuộc chiến tranh ý thức hệ, đưa xã hội lùi xa hơn thời nô lệ, nhiều nước may mắn không có chiến tranh thì đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa đưa đến chỗ bế tắc. Lịch sử đã minh chứng rõ rệt, chế độ Cộng sản không thể phát triển ở những nước kỹ nghệ hóa như Karl Marx tiên đoán. Khẩu hiệu lếu láo của của các lý thuyết gia Cộng Sản Việt Nam về việc “xây dựng xã hội chủ nghĩa không qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.”


Lúc đầu mới chiến thắng tạm thời về quân sự ở miền Nam, họ muốn làm thành công để đưa ra một mô thức mới, để thực hiện tham vọng ấu trĩ và điên cuồng là Việt Nam Cộng Sản là “cường quốc về chính trị”. Kết quả là sau hơn 10 năm đẩy mạnh xây dựng qua ba cuộc cách mạng (cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng, cách mạng khoa học kỹ thuật) nước Việt Nam tiến đến nước nghèo nhất thế giới. Khối Cộng sản tan rã, cục diện thế giới biến đổi từ cuộc tranh chấp lưỡng cực sang một tình trạng sắp xếp đa cực. Hoa Kỳ cực thịnh về chính trị vì phong trào dân chủ hóa tại các nước mới giải trừ chủ nghĩa Cộng sản nhìn về đây như là một mẫu mực về dân chủ và kỳ vọng sự trợ giúp tư bản kỹ thuật. Nhưng theo bản chất của nền kinh tế phát triển trên sự sản xuất chiến cụ, Hoa Kỳ gặp phải tình trạng suy thoái kinh tế khi thế giới đi vào kỷ nguyên hòa bình giảm thiểu cuộc chạy đua vũ trang.



Nhật Bản đang là một cường quốc kinh tế, cán cân mậu dịch chênh lệch giữa Mỹ và Nhật Bản đã đến lúc buộc người Mỹ phải đối phó, người Nhật gặp lại sự cạnh tranh khác từ nước Đại Hàn đang lên mà tính chất sản phẩm không khác với hàng hóa của Nhật là bao nhiêu. Nhật Bản phải quay lại tìm thị trường ở Đông Nam Á. Trung Quốc đang phát triển chậm chạp vì muốn níu kéo lại cỗ xe già chính trị Cộng sản để giữ thế ổn định nội bộ. Tuy nhiên, hàng hóa Trung Quốc cũng đang tìm thị trường tiêu thụ, họ cũng đang tìm mọi cách tràn xuống phía Nam, nếu chưa thể qua cửa ngõ Việt Nam thì họ phải xuyên thẳng đường xuống Lào và Miến Điện. Khmer Đỏ đóng vai trò con ngựa thành Troie của Trung Quốc đang bị lên án, nhưng vẫn là một lực lượng mạnh và là con bài để giải quyết vấn đề Cambodia.


Thị Trường Chung Châu Âu sẽ thống nhất tiền tệ. Nước Đức sẽ đi đến thống nhất và cường thịnh, ngoài việc ảnh hưởng vào Đông Âu và Liên Sô, các cựu đế quốc Anh, Pháp, Hòa Lan cũng sẽ tìm lại ảnh hưởng tại các cựu thuộc địa. Người Pháp vẫn còn ấm ức về cuộc thua trận và bị đẩy khỏi Đông Dương. Trước đây, Pháp từng tiếp tay cho Việt Cộng để phá người Mỹ và miền Nam Việt Nam. Chiến tranh Đông Dương kết thúc, Pháp bị Việt Cộng lừa lọc, họ càng cay cú. Họ đang hy vọng gây dựng lại ảnh hưởng để khai thác lại những quyền lợi cũ tại ba nước Đông Dương qua ảnh hưởng văn hóa còn sâu sắc và sự tiếp tay của thành phần tay sai cũ hay những người được họ huấn luyện trước đây đã trốn chạy qua Pháp cư trú sau chiến cuộc Đông Dương kết thúc năm 1975.
Trong khi đó, các nước Đông Nam Á đang phát triển kinh tế mạnh mẽ, muốn có thị trường tiêu thụ và sự ổn định chính trị tại khu vực.
Việt Cộng đang suy sụp trầm trọng đến độ tan rã, điều mong muốn gần nhất của chúng là được Hoa Kỳ giải tỏa lệnh cấm vận để kế hoạch thu hút đầu tư có kết quả và sự mong mỏi được Hoa Kỳ và Tây Phương giúp đỡ kỹ thuật và tài chánh, chúng biết là chỉ có Hoa Kỳ mới giúp đỡ cho Việt Cộng thoát khỏi cơn nguy khốn. Việt Cộng cũng biết là muốn Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận và bang giao phải có sự thay đổi chính trị triệt để và phải giải quyết vấn đề Cambodia.
Cambodia là một vấn đề khó giải quyết của Cộng Sản Việt Nam. Đây là một chiến trường mà Việt Cộng và Liên Xô bị sa lầy.


Khởi đầu, Việt Cộng có thể đã xúi giục Khmer Đỏ làm cuộc cách mạng đến quá trớn để lấy cớ tiến quân làm sứ mạng quốc tế đánh bè lũ diệt chủng Pol Pot. Đánh chiếm Cambodia, lúc đầu Việt Cộng có hai cái lợi lớn.
Về phương diện quân sự, chiếm Cambodia để phòng thủ miền Nam Việt Nam. Về phương diện chính trị, tạo thành một tình thế mới cho chính trường Đông Dương, trong đó, Việt Cộng là một yếu tố chính để thương thuyết, hiệp định Paris về Việt Nam và sự xâm lăng miền Nam trở thành quá khứ. Hơn mười năm xâm chiếm Cambodia, Việt Cộng đã đưa hàng triệu người Việt Nam qua khai thác và cư trú tại đây, nhất là giải quyết công ăn chuyện làm cho hàng triệu người và hàng trăm ngàn binh sĩ được duy trì khỏi phải giải ngũ sau chiến thắng quân sự ở miền Nam ngày 30-4-75.


Nhưng những yếu tố thuận lợi đó, càng ngày càng trở thành bất thuận lợi, sự xâm lăng Cambodia thành một nguyên cớ để Hoa Kỳ và Tây Phương bao vây chính trị và cô lập kinh tế, một mâu thuẫn không dàn xếp được với quan thầy cũ là Trung Quốc. Thế chính trị và quân sự chủ động lúc đầu trở thành bị động, duy trì đạo quân đông đảo và một chính phủ bù nhìn bấp bênh ở Nam Vang trở thành một gánh nặng mà cả Hà Nội và Mạc Tư Khoa không kham nổi. Tình thế mắc phải đối với Việt Cộng hiện tại là nếu không giải quyết vấn đề Cambodia thì Hà Nội tiếp tục bị cô lập kinh tế đi dần đến chỗ phá sản toàn bộ kéo theo sự mất ảnh hưởng ở cả Ai Lao là nơi Việt Cộng đã đặt được ảnh hưởng từ xã ấp.


Nếu giải quyết vấn đề Cambodia, Việt Cộng không có thể kiểm soát được hành lang biên giới để bảo vệ miền Nam Việt Nam, các lực lượng chống đối Việt Nam có thể nhờ vào đất Cao Miên để mở mặt trận quân sự, sử dụng chiến tranh du kích, liên lạc với bên ngoài mỡ hành lang xâm nhập nội địa Việt Nam. Giải quyết vấn đề Cambodia làm sao bảo đảm an toàn cho những người Việt Nam được Việt Cộng đem gài cấy vào sống tại nông thôn Cambodia.


Làm sao bảo đảm rằng số người này có thể ở lại mà không thể bị người Cambodia tàn sát. Khó khăn của Việt Cộng là nếu công khai đặt vấn đề này để thương thuyết tức là công nhận chính sách xâm lăng và thực dân của mình, còn nếu bỏ rơi hay âm thầm rút lui thì tạo một cuộc hỗn loạn không kiểm soát được. Do đó, vấn đề Cambodia đối với Việt Cộng là tình thế tấn thối lưỡng nan; Việt Cộng chỉ còn tìm cách kéo dài thời gian để tìm yếu tố mới. Yếu tố có thể chỉ là sự thắng thế của giới bảo thủ trong đảng Cộng Sản Liên Sô để thế giới trở lại thời kỳ đối đầu. Nhưng đây sẽ là một sự trông chờ trong ảo mộng vì đặc điểm của các chế độ độc tài là một khi không còn kiểm soát được kỷ luật xã hội thì các sinh hoạt chính trị chỉ tiến tới mà không kéo lùi được. Con đường dân chủ hóa các nước Cộng Sản Châu Âu kể cả Liên Sô không thể quay lại, đúng như thuật ngữ họ đã sử dụng trước đây là “tình thế không đảo ngược được”.


Thuận lợi còn lại của chế độ Cộng Sản Việt Nam hiện nay chỉ có thể có là, trên bình diện quốc tế, thực tâm Hoa Kỳ không muốn loại bỏ chính quyền Cộng Sản Việt Nam vì vẫn xem đây là một lực lượng có thể kềm hãm con đường tiến của Trung Cộng về phía Nam và các nước Đông Nam Á cũng xem là lá chắn giúp họ hết mối họa Trung Quốc. Do đó, nếu có một sự thay đổi chính trị, kinh tế đến một mức độ nào đó mà Hoa Kỳ có thể chấp nhận được trong ý hai bên thuận mua vừa bán.

Tình thế đa cực của thế giới hiện nay, Đông Dương và khu vực Đông Nam Á chịu nhiều ảnh hưởng của các trung tâm quyền lực thế giới kể trên, trong đó dù có ưu thế đến đâu, Hoa Kỳ cũng không thể độc quyền quyết định.

Bình diện của người Việt Nam thì chính quyền Việt Cộng chưa lo sợ các lực lượng đối kháng của người Quốc gia. Trong hơn 10 năm qua, hàng ngũ quốc gia thua trận chưa hình thành được một lực lượng đối kháng đáng kể. Trong nội bộ Cộng sản, tình trạng nội bộ rối ren, nhưng sự tranh chấp bên trên chỉ mới là cuộc tranh chấp quyền lãnh đạo; một số lớn đảng viên Cộng sản muốn có sự thay đổi, nhưng vẫn muốn sự thay đổi vừa phải để họ tồn tại và duy trì được quyền lực. Đảng Cộng Sản Việt Nam không còn “sợi chỉ hồng xuyên suốt” vì lý tưởng mà chỉ còn sự liên kết vì quyền lợi. Trong hoàn cảnh kinh tế đổ nát, nhân dân càng nghèo đói, nhưng đảng viên các cấp vẫn còn nhiều người đặc quyền đặc lợi. Số người muốn bỏ hẳn đi tổ chức Cộng sản vì yêu nước, vì lương tâm vẫn còn rời rạc.

Trong tình thế đó, Việt Cộng còn kéo dài sự cai trị dù chúng đang ngắc ngoải và tiếp tục ngoan cố trên việc thương thuyết với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, tư tưởng Cộng sản đã lỗi thời, chế độ Cộng sản sẽ bị đào thải trên khắp thế giới, xu hướng dân chủ hóa không thể nào bị chặn đứng. Tình thế Việt Nam sớm muộn gì cũng được giải quyết bằng hai cách, hoặc là chính quyền Cộng sản chủ động thay đổi, dân chủ hóa chính trị, từ bỏ độc quyền, độc tôn chấp nhận kinh tế thị trường dẫn đến tình trạng thay đổi ôn hòa; hoặc các nhà lãnh đạo Cộng sản tiếp tục ngoan cố thì không tránh khỏi cuộc cách mạng đổ máu để xóa sạch chế độ bạo tàn này.

Cả hai cuộc cách mạng tùy thuộc vào nhiều yếu tố – vấn đề là làm thế nào để kết hợp được một lực lượng chính trị của người Việt Nam không Cộng sản càng sớm càng tốt. Đối lực chính trị này cần thiết trong việc giải quyết vấn đề chính trị Việt Nam và Đông Dương trong cả hai trường hợp ôn hòa hay sắt máu. Sau khi Cộng sản sụp đổ, Việt Nam đứng trước hai khó khăn chính là một nền kinh tế lạc hậu và một xã hội băng hoại hơn bao giờ hết. Hậu quả của một cuộc chiến tranh lâu dài bao giờ cũng đưa đến sự suy thoái về các giá trị xã hội, nền tảng luân lý sụp đổ.


Nhưng tình trạng Việt Nam hiện tại khác biệt với những hoàn cảnh hậu chiến khác trong lịch sử. Sự giao lưu giữa nền văn hóa dựa trên giáo lý Khổng Mạnh cũ một phần bị phá sản và nền văn hóa có tính thực tiễn và cá nhân chủ nghĩa của Tây Phương chưa hình thành được một hệ thống giá trị tương đối ổn định cho xã hội. Sau thời gian bị Cộng sản cai trị, sự tàn phá lại càng nặng nề. Những bài học hận thù, đấu tranh không khoan nhượng được phổ biến trong điều kiện nền kinh tế suy kiệt, làm xã hội Việt Nam biến chuyển dễ sợ. Những tính xấu của con người như lòng tham lam, thủ đoạn vặt vãnh, xảo trá, mánh mung, tính ti tiện được phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng. Con cái không còn kính trọng cha mẹ vì đảng dậy cho con cái bài học đấu tranh, và thực tế là cha mẹ không còn khả năng để lo toan đời sống kinh tế cho gia đình.

Vợ chồng không còn sự tương kính nhau vì đa số đàn ông, trước là cột trụ gia đình nay trở thành mất chỗ đứng trong xã hội, sự ly dị và tan vỡ gia đình, sự thoát ly của con cái ra khỏi gia đình đều được luật pháp nhà nước khuyến khích. Tại trường học, học trò không còn kính trọng thầy giáo, tổ chức hội đoàn của học trò, gián tiếp bảo vệ những hành động xấu của học trò mà không bị thầy, cô giáo quở trách. Chính sách thang điểm thi cử, biện biệt, khiến những thành phần ưu đãi không cần học và thành phần bị biền biệt mất cố gắng. Thực tế của đời sống khó khăn, người thầy giáo không giúp nhiều cho học trò để giữ được sự tôn trọng tối thiểu. Làm sao học trò tôn trọng thầy cô giáo khi thầy cô giáo vừa dậy vừa bán cà rem hay bánh kẹo lẻ cho học trò ngay trong lớp học để làm kế độ nhật.

Đại học là nơi đào tạo con người cho sự phát triển xã hội cũng gặp bế tắc vì chính sách dành ưu đãi cho con em đảng viên, họ được thâu nhận dựa trên lý lịch cha mẹ và gia đình hơn là trên khả năng học vấn, vào trường không cần học cũng được chấm đậu – chính sách và thực tế này làm cho đất nước càng ngày càng thiếu những người có tài năng. Chính quyền Việt Cộng có người trung thành nhưng tham lam và kém cỏi không thể thi hành kết quả bất cứ một kế hoạch nào. Tình trạng này sẽ di lụy mãi lâu dài về sau kể cả thời kỳ hậu Cộng sản. Do đó, cần nghĩ ngay đến một kế hoạch và tập trung phương tiện mở mang tức khắc những trường đại học kiểu cộng đồng, vừa đào tạo chuyên viên ngắn hạn vừa chuyển tiếp đào tạo nhân sự dài hạn vừa giúp đỡ cho rất đông đảo thanh niên bị dang dở việc học trong thời kỳ Cộng sản cai trị có cơ hội học lại. Chương trình này vừa giải quyết cùng lúc các vấn đề chính trị, xã hội và kinh tế, đồng thời phải xây dựng lại các giá trị tinh thần văn hóa dân tộc và con người có lý tưởng.


Tóm lại, hai tác dụng, một phần chủ trương tàn phá xã hội của chế độ Cộng sản và một phần thực tế tình trạng kinh tế nghèo đói, cả hai tác động với nhau làm cho xã hội Việt Nam đi xuống không thể tưởng tượng được. Những điều đó, mọi người đều có thể thấy được, nhưng thấy rõ hơn hết là những người từ bên ngoài xã hội đi đến. Những người trong nhà tù mới bước ra hay những người từ ngoại quốc đi về, sẽ choáng váng và ngầy ngật về sự thay đổi chung quanh mình, kể cả những người thân thích; và sẽ có cảm giác như người say sóng và bỗng nhiên thấy cô đơn hơn bao giờ hết.


Suy nghĩ về một xã hội tương lai cho Việt Nam sau Cộng sản không phải là việc của một người. Dĩ nhiên đó là nhiệm vụ của những người lãnh đạo trong tương lai – nhưng thiết nghĩ mọi người dân có quan tâm và suy nghĩ cũng cần nên đóng góp những ý kiến để tham khảo, để gợi ý, để cho mọi người chuẩn bị. Mọi sự chuẩn bị đều cần thiết vì trong lịch sử của miền Nam Việt Nam, đã có nhiều người khi thời cơ đến họ nắm chính quyền nhưng không hề chuẩn bị trước là sẽ làm những gì nên đã có một thời đất nước bị thí nghiệm rối tung lên, có người gọi đó là đánh võ rừng – và những người lãnh đạo nhờ thời cơ nhưng thiếu chuẩn bị đó trở thành những người múa rối, làm một thứ hề chính trị, rồi kết quả là ngoài sự phục vụ cho lòng tham lam, họ không làm được một điều gì ích lợi, ngoài sự phá hoại.

Trong muôn vàn khó khăn về mọi mặt, trong tương lai sau thời Cộng sản, Việt Nam phải phục hưng những truyền thống văn hóa tốt đẹp cổ truyền, hội nhập với những tư tưởng mới, từ bên ngoài đưa vào chính sách, những lực lượng của người Việt Nam ra đi khắp nơi trên thế giới hấp thụ được để xây dựng một mạch sống cho dân tộc, giá trị tinh thần đó làm nền tảng cho những kế hoạch phát triển kinh tế tự túc tự cường, để có thể từ việc nuôi sống một số dân quá đông đảo trên mảnh đất chật hẹp, đến việc xây dựng tiến bộ dần dần, thu ngắn cách biệt với các quốc gia trong vùng và những nước tiến bộ khác trên thế giới. Chúng ta đã chậm tiến, thời gian Cộng sản cai trị đã làm đất nước lùi lại quá xa.

Chúng ta cần phát triển lòng yêu nước, không phải là tính cực đoan, xem đất nước chúng ta cái gì cũng nhất, nhưng lòng tự hào về một dân tộc đã có khả năng tồn tại qua bao biến cố lịch sử trước bao nhiêu âm mưu thôn tính từ người Hán ở phương Bắc, từ phương tiện vật chất Tây phương và từ chính sách nô dịch quốc tế của Cộng sản. Dân tộc Việt Nam xứng đáng để tồn tại, lòng tự hào về tinh thần nhân bản tôn trọng con người, lịch sử Việt Nam đã chứng minh chế độ nô lệ đã được bãi bỏ ở Việt Nam từ thời nhà Lý vào thế kỷ XI, trong khi các nước Tây Phương mới bãi bỏ chế độ nô lệ trong vòng 200 năm nay; tính dân chủ và bình đẳng trong xã hội – xây dựng lại lòng yêu nước và sự tự hào dân tộc không những để bảo vệ được sự độc lập và tồn tại của Việt Nam trước bao nhiêu âm mưu thôn tính có thể có.


Nguy cơ chính bao giờ người Việt Nam cũng nghĩ phải cảnh giác là từ nước Trung Hoa ở phương Bắc. Lòng yêu nước và tự hào dân tộc còn là mối dây tinh thần để giữ liên hệ giữa người Việt Nam trong nước và khối người Việt ra đi đang ở nước ngoài không bị tan loãng khi hội nhập vào xã hội họ đang sống. Trong biến cố của lịch sử, sự bỏ nước ra đi hàng triệu người là một mối đau thương, nhưng chính khối người này lại trở thành một sức mạnh, một vốn liếng lớn của đất nước về cả nhân sự và tài chánh, trong sự không may, nảy sinh ra may mắn mới.

Lòng yêu nước còn động lực phát triển kinh tế, hỗ trợ cho các chính sách kinh tế về sau này, cụ thể là tinh thần sử dụng hàng nội hóa của người trong nước, và “hàng hóa nước nhà” của người Việt hải ngoại, sự chấp nhận các chính sách tiết kiệm cần thiết trong giai đoạn đầu ổn định đời sống xã hội và đặt nền móng cho chương trình phát triển. Phải có một chính sách giáo dục cụ thể, ngoài việc đào tạo nên mẫu người có giá trị tinh thần cao, biết yêu nước, thương người, có tinh thần trách nhiệm với xã hội, chúng ta phải loại bỏ sự ảnh hưởng của tính ích kỷ cá nhân chỉ biết ca tụng hạnh phúc nhục thể và quyền lợi cá nhân.

Phải đào tạo con người thực tiễn, bỏ tính lè phè, ưa tranh luận không ích lợi, phát huy tinh thần làm việc khoa học có kế hoạch, biết tôn trọng và quí thì giờ, không lẫn lộn giữa làm và thụ hưởng.
Về phương diện kinh tế, chúng ta đã biết được ưu và khuyết điểm của hai nền kinh tế thị trường và kinh tế chỉ huy, chế độ Cộng sản đã trả lời là sự chỉ huy kinh tế cứng nhắc không thể thành công được, ưu điểm của nền kinh tế thị trường là tính linh động. Chính phủ không thể đứng ra trực tiếp kinh doanh và cạnh tranh với tư nhân. Các xí nghiệp quốc doanh không phát triển được các ưu điểm về lý thuyết mà chỉ là một nơi để nhân viên và cán bộ lạm dụng; phải tận dụng những ưu thế của chế độ kinh tế tự do và sáng kiến của tư nhân.

Vai trò của chính quyền trong kinh tế là trách nhiệm hỗ trợ và tạo điều kiện và sự thoải mái cho tư doanh phát triển đất nước, chính quyền xây dựng mọi hệ thống hạ tầng cơ sở, về giao thông, bến tàu để cho tư nhân khai thác các phương tiện chuyển vận để đạt được yếu tố thời gian vì đặc điểm sinh hoạt kinh tế hiện nay là sự tranh thủ thì giờ. Sử dụng đúng thì giờ mới thành công, kinh nghiệm của chế độ Cộng sản, một trong những thất bại của họ là sự trì chậm do hệ thống chính quyền quan liêu thư lại. Do đó, một hệ thống hành chánh càng gọn nhẹ càng tốt, chính quyền càng ít can thiệp vào đời sống của người dân thì mọi việc càng được giải quyết nhanh chóng. Chính quyền chỉ giữ gìn trật tự xã hội đúng theo các sự qui định của luật pháp được ban hành một cách dân chủ.

Phát huy tính cần cù lao động cho mọi người thấy giá trị của lợi tức thu hoạch từ sức lao động vừa hợp với đạo lý vừa đóng góp vào sự xây dựng. Làm cho dân chúng từ bỏ lần lần càng sớm càng tốt tinh thần đầu cơ trục lợi của tình trạng kinh tế thị trường không ổn định và tính mánh mung láu cá của tình trạng kinh tế xã hội Cộng sản. Vừa phải đào tạo tay nghề, sử dụng khéo léo kỹ thuật của đôi bàn tay, vì lực lượng lao động của Việt Nam trước kia chỉ có cần cù nhưng kém huấn luyện, dân ta chưa có trình độ kỹ thuật cao, mà trình độ mỹ thuật trong tiểu công nghệ so với các dân tộc quanh vùng hẳn còn kém.

Việt Cộng quá tham lam khi áp dụng chính sách kỹ nghệ hóa đất nước theo kiểu Staline thực hiện ở Nga thời kỳ thập kỷ 1920 đến thời Đệ Nhị Thế Chiến. Lúc đó tương đối thích hợp vì các nước Tây phương đều tăng cường phát triển kỹ nghệ nặng. Vả lại điều kiện của Liên Sô là một quốc gia lớn, tài nguyên phong phú và có nền móng phát triển kỹ nghệ của thời trước chính biến tháng 10 để lại.

Trong khi xây dựng kinh tế cho Việt Nam, ngoài khó khăn của một nước bị tàn phá sau cuộc chiến lâu dài, Việt Nam thiếu hẳn ba yếu tố chính là tài nguyên, kỹ thuật và tài chánh. Ngày nay, cục diện thế giới đã thay đổi rất nhiều. Sau gương Nhật Bản, nước không có tài nguyên mà tiến bộ thành nước phát triển nhất thế giới; Đại Hàn, Đài Loan, Tân Gia Ba, Hongkong cũng trở thành những nước phát triển quan trọng. Điều này đã đánh dỗ lý luận và chủ trương phát triển kinh tế của Cộng sản chủ nghĩa. Karl Marx và Lénine lý luận đơn giản giao dịch giữa hai người, kẻ có lợi thì người kia có hại, hai giai cấp chủ nhân bóc lột (có lợi) thì công nhân có hại (bị bóc lột) và tương quan giữa hai quốc gia nước có lợi (đế quốc) nước bị bóc lột (thuốc địa). Thời đại phù hợp với lý luận đó đã qua. Ngày nay, người ta đã chứng minh được tương quan lưỡng lợi giữa hai người, hay nhóm người hay kể cả các quốc gia với nhau.


Quan niệm sai nên chính sách phát triển sai lầm. Các nước Cộng sản buông bức màn sắt không những về chính trị mà cả về kinh tế, làm cho họ tiếp tục nghèo nàn lạc hậu. Điều đó, những nhà lãnh đạo Cộng sản đã thấy, Mao Trạch Đông đã nói với Nixon vào năm 1972: “Tôi sẽ thay tất cả chiếc cầy và con trâu bằng những máy cày.” Họ thấy, nhưng vì quyền lợi riêng, quyền lợi của đảng, và những khó khăn từ bên ngoài tấn công vào cũng như những khó khăn từ bên trong, khiến họ không xoay xở được bằng một sự thay đổi có mức độ như họ muốn. Họ biết rõ là nếu có thay đổi thì sự thay đổi đó sẽ kéo theo sự đổ vỡ toàn thể không kiểm soát được và chế độ Cộng sản bị tiêu diệt, nên họ không dám tự ý thay đổi.


Trường hợp Việt Nam, trong tương lai, con đường lâu dài ai cũng mong muốn kỹ nghệ hóa đất nước phú cường nhưng con đường phát triển đó chưa nhất thời làm được. Chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của Đại Hàn, Đài Loan, phát triển theo khuynh hướng vừa kỹ nghệ nặng vừa kỹ nghệ nhẹ trong chiều hướng tận dụng nhân công vì khéo léo tay nghề vừa nhân công rẻ là ưu điểm duy nhất của nước kém mở mang trong sự cạnh tranh quốc tế. Ngoài ra, quản lý là một phần quan trọng quyết định sự thành bại của các kế hoạch phát triển.

Phải có chính sách huy động tiết kiệm để người dân đóng góp trực tiếp vào vốn liếng tài chánh, nhất là khối lượng tiết kiệm của người Việt Nam ở nước ngoài. Trong sự cạnh tranh của nền kinh tế thế giới hiện tại, chúng ta rất khó trông cậy vào khối lượng ngoại viện. Sự sử dụng tín dụng quốc tế cũng phải cẩn thận để khỏi lâm vào tình trạng nền sản xuất không đủ trả tiền lời tín dụng. Phải tranh thủ ngoại tệ bằng xuất cảng, nhất thời đối với Việt Nam là rất khó khăn, vì trong nước chưa đủ dùng và sản phẩm xuất cảng kém về mọi mặt trong vấn đề cạnh tranh ở thị trường. 


Chúng ta lại đi sau các nước Á châu khác dựa vào ưu điểm nhân công rẻ. Nhưng dù sao, vấn đề trọng yếu vẫn phải đạt được là thu hồi ngoại tệ để tăng cường thêm đầu tư mới. Một điểm rất tế nhị là vai trò kinh tế của người Hoa ở Việt Nam. Trước kia, người Hoa và Việt gốc Hoa chi phối hoàn toàn kinh tế của miền Nam Việt Nam. Sau khi chiếm miền Nam, chính sách bài ngoại và chủ trương đánh tư sản cải tạo công thương nghiệp của Việt Cộng làm cho một số đông người Hoa ra đi. Hoạt động kinh tế hầu như ngưng lại, vì hầu hết các sản phẩm kỹ nghệ, thủ công nghiệp tại miền Nam do người Hoa và gốc Hoa sản xuất. Thời gần đây, vì cần có hàng hóa tiêu thụ, Việt Cộng nới lỏng sự kiểm soát kinh tế, sinh hoạt của người Hoa ở Chợ Lớn lại phục hồi trở lại. Người Hoa có tay nghề cao hơn người Việt, kinh nghiệm làm ăn dồi dào, chịu khó hơn, họ không lấn cấn về vấn đề chính trị, họ giỏi mua chuộc cán bộ chính quyền, nên họ phục hồi kinh tế nhanh hơn người Việt.


Với người Hoa đã ra đi, ở nước ngoài họ cũng làm ăn lớn hơn người Việt vì có nhiều vốn. Trong lúc giao thời, nếu Việt Cộng có những thay đổi chính trị quan trọng để sinh hoạt kinh tế khởi sắc trở lại, thì người Hoa lại nắm cơ hội nhanh chóng hơn người Việt Nam. Ngoài ra, người Hoa còn được sự yểm trợ tài chánh, hoặc sự cộng tác kinh tế của các trung tâm kinh tế của người Hoa trên thế giới như Hongkong, Singapore, Taiwan, ngày nay còn ở Thailand, Indonesia, Hoa Kỳ, Canada, Malaysia, các nước Tây Âu và Úc.

Do đó, nếu không có một chính sách kinh tế thích hợp, người Hoa trở lại làm chủ nền kinh tế của Việt Nam trong tương lai. Ngoài ra, còn phải kể đến ảnh hưởng kinh tế của người Nhật, Đại Hàn – chúng ta không chủ trương bài ngoại và ái quốc cực đoan, nhưng cần phải thấy trước những khó khăn để hoạch định chính sách kinh tế có thể lôi cuốn đầu tư mà vẫn bảo vệ được quyền lợi của đại đa số người Việt Nam nghèo khổ.

Vấn đề đất đai cũng là một điểm tế nhị trong tương lai. Hai miền Nam-Bắc Việt Nam đều trải qua các cuộc cải cách ruộng đất. Miền Bắc phải trả giá cho cuộc cải cách đó bằng sinh mạng của cả triệu người, miền Nam đã trả giá bằng số tiền lớn trong chương trình ruộng cho người cầy tức là sự đóng góp của toàn dân qua chính sách thuế khóa.


Từ đó, trên nguyên tắc hiện nay, Việt Nam không có tư hữu đất đai với diện tích lớn. Nước Việt Nam rất hẹp, dân đông, mật độ dân cư cao hơn Trung Hoa là nước đông dân nhất thế giới. Do đó, chúng ta không nên quan niệm quyền tư hữu đất đai lớn. Chính sách tập trung nông nghiệp, tổ chức nông trường, sản xuất quốc doanh của Việt Cộng đã thất bại. Ngày nay, kỹ nghệ sản xuất nông nghiệp tiến bộ, nhiều nước không có nhiều đất đai canh tác như Nhật Bản, Đài Loan đã chứng tỏ sự thành công trên sự sử dụng kỹ thuật tân tiến và thâm canh để tự túc nông phẩm, cho ta kinh nghiệm phát triển nông nghiệp cho tương lai. Đất đai là vốn liếng chung của toàn dân và sử dụng đất đai phải được thể hiện qua việc đóng thuế.


Ngoài đất đai bảo đảm cho quyền cư trú và quyền canh tác của nông dân trong giới hạn luật pháp qui định, mọi đất đai dùng trong kỹ nghệ phải qua quyền hạn của chính phủ bằng hình thức thuê mướn, giai đoạn đầu khuyến khích đầu tư cho mướn giá hạ; khi kinh tế phát triển, sau thời gian do kế hoạch phát triển ấn định, giá thuế đất phải được nâng cao. Tiền thuê đất đóng góp vào ngân sách làm giảm nghĩa vụ đóng thuế của toàn dân, phù hợp với quan niệm đất đai là tài sản chung mà người dân đã nhiều lần đóng góp máu, xương và mồ hôi mới có được.
Một số lớn người Việt Nam đi ra nước ngoài định cư ở các quốc gia như Hoa Kỳ, Úc và Gia Nã Đại, là những đất nước rộng, người thưa – chế độ tư hữu về đất đai được công nhận rộng rãi, nếu chúng ta không có quan niệm ngay về đất đai cho trường hợp Việt Nam về sau – thì trong thời gian đầu tiên, nhiều người giầu có, sẽ làm chủ những khoảnh đất lớn, đó là một tình trạng đầu cơ trên xương máu của người dân rất bất công.


Tóm lại, trách nhiệm của những người cầm quyền trong tương lai rất nặng nề và tế nhị, vừa phải phục hồi lại đất nước vừa phải xây dựng cho đất nước, nên phải có những kế hoạch đứng đắn, bảo đảm cho mọi người dân tự do đóng góp trong một đường hướng mạnh mẽ là con đường tiến tới, để nhanh chóng thoát khỏi nghèo đói lạc hậu và tiến kịp với đà tiến chung – mà chiến tranh và chế độ Cộng sản đã làm trì chậm hơn nửa thế kỷ.


Những người đã ra đi khỏi nước là vốn liếng quí giá, trong tương lai chỉ cần sự đóng góp một phần của những khối óc khoa học kỹ thuật được đào luyện ở nước ngoài cũng đủ chất xám cần thiết cho việc xây dựng tương lai cho đất nước.
Về phương diện chính trị, con đường phải chọn rõ ràng là định chế dân chủ thực sự. Người dân phải làm chủ đất nước qua hình thức tự do lựa chọn chính trị lãnh đạo trong những cuộc bầu cử có định kỳ do hiến pháp và luật pháp qui định. Nguyên tắc tự do, chấp nhận qui luật đa số dù không hoàn hảo nhưng không có thể thức nào khác hơn.
Thiểu số cũng được tôn trọng là những ý kiến hay tổ chức đối lập. Có đối lập mới có dân chủ thực sự. Chế độ Cộng sản thất bại vì thủ tiêu đối lập.

Vị trí địa lý và lịch sử của Việt Nam là nơi đặc biệt tiếp thu nhiều nền văn hóa cũng như đã trải qua nhiều định chế chính trị. Trong tương lai, điều này trở thành một yếu tố chính yếu, khi thực tế, trong cuộc ra đi lớn lao hơn 10 năm qua, người Việt Nam ở khắp mọi nơi trên thế giới, nên sự ảnh hưởng ngược lại, Việt Nam sẽ là nơi hội tụ của nhiều nguồn tư tưởng chính trị, và nơi phản ảnh của nhiều kinh nghiệm chính trị khác nhau. Do đó, phải tổ chức đất nước như thế nào để những kinh nghiệm đó thành một hội nhập hài hòa mà không trở thành những mâu thuẫn xâu xé.
Trong hoàn cảnh đó, mọi tư tưởng độc tôn sẽ trở nên lỗi thời sẽ bị loại bỏ ngay. Sự tôn trọng nhiều nguồn tư tưởng chính trị và những nhóm nhỏ, lúc đầu không tránh được tình trạng manh mún, nhưng khó có con đường lựa chọn nào khác hơn. Chúng ta phải chấp nhận để sinh hoạt chính trị được tự do, công khai và dân chủ. Chúng ta phải tin vào sự lựa chọn của dân chúng, vì dân chúng Việt Nam là khối dân đã trưởng thành và có kinh nghiệm.
Sau thời Cộng sản, có nhiều vấn đề cần được suy nghĩ một cách khách quan, bình tĩnh, không thiên kiến, không mặc cảm. Phải có cái nhìn nghiêm túc đúng đắn trong tương lai.
Cộng sản hoàn toàn sai, bị lịch sử dân tộc và nhân dân đào thải, nhưng không phải những gì của ta trước thời Cộng sản là hoàn toàn đúng. Chúng ta có nhiều khuyết điểm, nên Cộng sản mới tạm thời thắng chúng ta. Nếu ta hoàn toàn đúng thì ta đã không thua cuộc chiến vừa qua. Với vấn đề phân rẽ địa phương, chúng ta đã biết nó có nguyên do từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, đến thời nhà Nguyễn, thời Pháp, các chính quyền Cộng Hòa, chính quyền Cộng sản, đều vì quyền lợi chủ trương sự chia rẽ. Tiêu biểu là cách dùng người do liên hệ đến sinh quán của lãnh đạo hay địa phương của phe nhóm đương nhiên sẽ có phản ứng ngược lại của các địa phương khác. Ngày nay, Cộng sản chủ trương đưa rất nhiều người sinh quán miền Bắc vĩ tuyến 17 vào nắm quyền cai trị tại miền Nam, chính sách này tất nhiên sẽ đưa đến một sự chống đối ngấm ngầm của những người sinh quán ở miền Nam vĩ tuyến 17. Hậu quả nhất thời sau khi Cộng sản cáo chung sẽ rất trầm trọng. Nếu chính quyền có trách nhiệm trong tương lai không có cái nhìn và chính sách tế nhị, thì sự phân chia địa phương sẽ trầm trọng hơn lên. Chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, những vết thương do lịch sử để lại không nên khơi lại; nên để cho nó lành dần. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc thống nhất từ phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết từ Nam đến Bắc, dị biệt nếu có chỉ là nhỏ. Không nên vì quyền lợi phe nhóm, vì xúc cảm nhất thời mà làm cho những việc nhỏ biến thành trầm trọng.
Thứ đến là vấn đề chính đảng. Chúng ta đã biết là cũng vì vấn đề lịch sử mà các đảng quốc gia không thể có tầm vóc hoạt động toàn quốc, không đủ sức thuyết phục một đa số cử tri toàn quốc. Đảng Cộng sản là chính đảng lớn nhất nước, mạnh nhất nước, đã nắm chính quyền toàn quốc thì đã phô bày ra bao nhiêu nhược điểm, đã không xây dựng được đất nước, họ trở thành một đảng phá hoại, một đảng cướp lớn nhất. Từ đó, sau thời Cộng sản, phản ứng của người dân tất nhiên là họ không thích các hình thức đảng phái, hội đoàn. Đây cũng là một phản ứng và cảm xúc nhất thời có tính tiêu cực. Chúng ta cũng biết rằng sinh hoạt dân chủ rất cần thiết; một xã hội trưởng thành, lành mạnh, ổn cố là một xã hội có những chính đảng ổn định, những hội đoàn lành mạnh. Chính trị dân chủ đi đôi với sinh hoạt chính đảng và hội đoàn vững mạnh, phổ thông. Có dân chủ khi người dân ý thức tham gia sinh hoạt chính trị, đóng góp sinh hoạt xã hội – tham gia ứng cử, bầu cử, phát biểu ý kiến dưới mọi hình thức bỏ phiếu, viết báo, diễn thuyết, biểu tình v.v…


 Do đó, nhiệm vụ của những người làm chính trị, người nắm chính quyền, các đảng phái là phải kiện toàn các chính đảng từ lý thuyết, đường lối, phương thức hành động và tổ chức để lấy lại niềm tin của dân chúng, khuyến khích dân chúng tham gia chính trị, gia nhập chính đảng, hội đoàn. Chính đảng và hội đoàn phải nhận trách nhiệm xây dựng dân chủ cho đất nước, trước tiên phải có hoạt động dân chủ từ trong đảng phái, hội đoàn mình. Hoạt động công khai và công nhận kết quả bầu cử theo đa số. Bỏ tập quán mỗi khi không được bầu đa số thì tách ra làm hệ phái mới, lập hội đoàn mới. Phải làm cho chính đảng, hội đoàn là nơi dân chúng tin cậy, không phải là những tổ chức làm cho dân sợ, dân ghét.

Quan trọng nhất là vấn đề tôn giáo. Cộng sản chủ trương tiêu diệt tình cảm cá nhân, phá bỏ quan hệ gia đình, vượt trên ranh giới quốc gia và bài xích tôn giáo. Phản ứng tự nhiên của con người sau chế độ Cộng sản là cá nhân chủ nghĩa sẽ mạnh hơn, hạnh phúc gia đình sẽ được chú trọng hơn; biên giới các quốc gia sẽ được vạch lại giữa các dân tộc có văn hóa, truyền thống lịch sử khác nhau và tôn giáo sẽ được người ta sùng tín hơn. Nhưng có điều đáng cho ta suy nghĩ là cũng chính vì cái phản ứng tự nhiên đó sẽ đưa tới tinh thần cực đoan hơn. Ví như tinh thần quốc gia rất tốt nhưng tinh thần quốc gia cực đoan sẽ dễ đưa đến mâu thuẫn giữa các quốc gia, các chủng tộc và tạo nên chiến tranh.


Con người có đức tin vào tôn giáo rất tốt, giáo lý nào cũng dạy con người làm lành lánh dữ, giúp người và giúp đời. Cộng sản phê phán sự mê tín và nhầm lẫn mê tín và tôn giáo, nên triệt hạ tôn giáo. Cộng sản muốn con người nuôi thù hận để đấu tranh với nhau không khoan nhượng nên bài xích tôn giáo, xem tôn giáo là thuốc phiện, là lợi khí để người cầm quyền làm cho con người mất ý chí tranh đấu. Nhưng những người lãnh tụ Cộng sản từ Karl Marx, Engels, đến Lénine, Mao Trạch Đông không hiểu tôn giáo là một phương thức giải thoát cho tâm hồn con người.


Nếu không tin vào những sự cứu rỗi hay giải thoát cho cuộc đời sau thì lòng tin vào tôn giáo cũng giải thoát cho con người khỏi những áp lực đời sống hiện tại. Con người sẽ khổ sở như thế nào khi không có một niềm tin để hướng tới. Có những lúc con người thật sự sợ hãi, thật cô đơn, lúc đó lòng tin vào tôn giáo rất cần thiết. Con người sẽ ra sao khi không có niềm tin, khi biết mình chết là hết. Chết nghĩa là một bóng đen bao trùm xuống rồi hết.


Chính Cộng sản mâu thuẫn khi buộc con người hy sinh hiện tại cho tương lai, nhưng không phải tương lai cho họ mà cho con cháu. Lý luận này mới nghe thì lý tưởng, nhưng thật ra là không tưởng. Cộng sản dựa trên duy vật mà đòi đảng viên phải có tinh thần phục vụ cao, đòi hỏi hy sinh, trong khi sự hy sinh đó không cho bản thân họ nên thật mâu thuẫn. Xã hội Cộng sản đầy rẫy bất công, tham nhũng, áp bức chính là hệ luận của những luận cứ của lý thuyết Cộng sản. Con người không có niềm tin nào cho tương lai của họ nên họ thực tế chỉ biết lo cho hiện tại. Xã hội gồm toàn những người thực tế, chỉ biết lo toan cho mình và đấu tranh không khoan nhượng với người khác, nên xã hội đó trở nên xấu xa. Xã hội Cộng sản làm sao tồn tại được.

Tôn giáo ít ra giúp cho con người giải thoát khỏi những hệ lụy gay gắt và áp lực của đời sống. Có tôn giáo là điều rất tốt cho con người. Tôn giáo bổ túc cho những định chế xã hội khác làm cho đời sống con người dễ chịu hơn.
Tin vào tôn giáo nào cũng tốt. Nhưng nếu chỉ tin vào độc nhất tôn giáo của mình cũng là một hình thức độc tài. Lịch sử con người đã xảy ra rất nhiều lần chiến tranh tôn giáo cũng chỉ vì hình thức độc tài đó: bó buộc người khác tin giống như mình. Do đó, một điều để suy nghĩ là sau thời Cộng sản, làm thế nào đừng có những hình thức độc tài khác. Mỗi người có quyền tin theo ý riêng mình nhưng phải tôn trọng đức tin của người khác.

Xã hội Việt Nam được duy trì và phát triển trong tinh thần hội nhập ba tôn giáo chính: Nho, Thích và Lão. Đến thế kỷ 16, đạo Gia Tô bắt đầu được truyền bá.
Sau những lần trầm và thăng, Gia Tô giáo cũng có ảnh hưởng vững chắc trong xã hội Việt Nam.
Đa số trong các giáo hội Gia Tô giáo là Thiên Chúa giáo La Mã, phần còn lại là Tin Lành và các giáo hội Cơ Đốc.
Hòa Hảo và Cao Đài phát xuất từ tín ngưỡng thờ Trời, Đất, Phật, Thánh, Tiên và Tổ Tiên. Hai tôn giáo này, ngoài truyền bá đức tin còn là hai tổ chức chính trị quân sự chống ngoại xâm và chống Cộng sản. Trong vòng nửa thế kỷ tuy ngắn ngủi, nhưng Cao Đài và Hòa Hảo đã có số lượng tín đồ rất đáng kể nhưng đặc biệt là chưa phổ quát toàn quốc.


Lịch sử tôn giáo Việt Nam gắn liền với lịch sử chính trị của đất nước.
Phật giáo là quốc giáo thời Lý, Trần, nhưng qua thời gian đã hội nhập trở thành một tôn giáo riêng cho dân tộc. Phật giáo bàng bạc trong đời sống. Mỗi làng đều có một hay nhiều chùa. Nhưng chùa vừa thờ Phật, vừa thờ các Thánh Thần. Giáo hội Phật giáo mới được thành lập khởi đầu bằng Giáo Hội Tăng Già Trung Việt, Giáo Hội Tăng Già Bắc Việt và Hội Phật Học Nam Việt. Đa số người Việt Nam thờ Phật, kính tăng; nhưng số người đi lễ chùa, qui y, có pháp danh, gia nhập và sinh hoạt giáo hội không phải là đa số người thờ Phật.


Thời xưa, người dân có trình độ học vấn kém. Các vị sư sãi là thành phần hiếm hoi những người có học tại các địa phương. Mỗi làng, nhà chùa được xem là một trung tâm văn hóa của làng, sư sãi có ảnh hưởng hướng dẫn đời sống dân chúng.
Đất nước thường bị ngoại xâm, chùa chiền còn là trung tâm sinh hoạt của những tổ chức kháng chiến.
Thời Pháp thuộc, Phật giáo và chùa chiền cũng nằm trong trường hợp đó. Các tăng sĩ thường đứng về phía đa số dân chúng chống ngoại xâm và chống cường hào ác bá.


Tuy nhiên, ngay cả thời Pháp thuộc cũng không có chính sách đàn áp Phật giáo. Chính quyền thực dân và Nguyễn Triều tay sai có đánh vào ngôi chùa, có bắt sư sãi cũng chỉ vì lý do nhà sư tham gia các tổ chức cách mạng và chùa chiền đó là nơi hoạt động cách mạng. Các chùa và sư bị đánh bị bắt không vì lý do tín ngưỡng.
Chính quyền Ngô Đình Diệm nâng đỡ đặc biệt để phát triển giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã nhưng cũng không có chính sách đàn áp hay tiêu diệt Phật giáo.



So sánh giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo dưới thời Pháp thuộc và các chính quyền Cộng Hòa Miền Nam thì một bên được ưu đãi và một bên không có ưu thế. Nhưng lẽ thông thường, những người có quyền thế và được ưu đãi thường hay có lạm dụng và quá trớn. Những quá trớn của Giám Mục Ngô Đình Thục và những người tay sai trong chính quyền Ngô Đình Diệm đưa đến cuộc đấu tranh của Phật giáo năm 1963. Tiếp theo đó, những cuộc đấu tranh đòi dân chủ của Phật giáo nguyên tắc là đúng đắn, vì các chính quyền miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến 1975 là những chính quyền dân chủ nửa vời. Muốn có dân chủ phải có đấu tranh. Không phải chỉ riêng một Phật giáo đấu tranh đòi dân chủ, mà ngay từ cuộc đấu tranh năm 1963, ngoài Phật giáo còn có các tôn giáo khác (ngoài Thiên Chúa giáo) và các tổ chức chính trị đã bị chính quyền Ngô Đình Diệm loại trừ.

Có nhiều người cho rằng vì các vụ đấu tranh của Phật giáo làm cho miền Nam suy yếu và mất về tay Cộng sản. Kết luận như vậy không đúng. Ngày nay chúng ta đã thấy dùng độc tài để chống lại tổ chức độc tài Cộng sản là một cách giải quyết không đúng. Chỉ có dân chủ thực sự mới thắng Cộng sản. Nhưng chúng ta có thể nói chắc là Cộng sản đã lợi dụng được nhiều trong những cuộc đấu tranh chính trị tại miền Nam trước ngày 30-4-1975. Có rất nhiều cán bộ Cộng sản đã len lỏi vào hàng ngũ lãnh đạo của Phật giáo để sách động và thủ lợi. Những người này đã lộ diện sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Có dư luận cho rằng những tu sĩ Phật giáo là cán bộ Cộng sản. Điều đó không đúng. Cộng sản đã bắt giam giữ tù đày hầu hết những người lãnh đạo Phật giáo và nhiều người đã chết trong tù và nhiều người đến nay còn bị giam giữ.

Chúng ta không thể trách được rằng Phật giáo không kiểm soát được giáo hội để cán bộ Cộng sản xâm nhập. Chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu dày đặc an ninh, mật vụ, cảnh sát mà Vũ Ngọc Nhạ, Huỳnh Văn Trọng, Đinh Xáng, Phạm Ngọc Thảo còn len lỏi vào được và đều nắm những chức vụ quan trọng, chưa kể rất nhiều nhân viên tình báo không nổi tiếng khác.

Phật giáo ảnh hưởng sâu sắc trong văn hóa dân tộc, nhưng không phải dân tộc chỉ có một nguồn tư tưởng Phật giáo. Những tư tưởng xem Phật giáo là dân tộc, dân tộc là Phật giáo, hay những chủ trương đưa đất nước trở về thời Lý-Trần trong đó Phật giáo là quốc giáo là những tư tưởng quá khích, đã không thực hiện được mà chỉ gây hiềm khích chia rẽ. Những tư tưởng đó mới xem như là ủng hộ Phật giáo nhưng thực ra là có hại. Qua kinh nghiệm độc tôn của Cộng sản thất bại, mọi chủ trương độc tôn khác đều không thực hiện được và đều lạc hậu.
Có nhiều người giở lại lịch sử để tìm lý luận chống Thiên Chúa giáo. Chính Việt Cộng cũng đã làm điều đó. Họ đồng hóa Thiên Chúa giáo và ngoại xâm. Thực sự lịch sử giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã truyền đạo cùng với những quân đội Tây phương chiếm thuộc địa. Giáo Hội Thiên Chúa Giáo Việt Nam cũng nằm trong trường hợp đó. Lịch sử giáo hội Thiên Chúa giáo khởi đầu bị triều đình nhà Nguyễn và đa số dân chúng không chấp nhận và loại trừ.


Từ thời Pháp thuộc, giáo hội được bảo vệ và được ưu đãi nên phát triển rất nhanh. Hai mươi bốn năm ở miền Nam, giáo hội Thiên Chúa giáo cũng nhận được tất cả ưu thế của chính quyền. Do đó, vị trí Thiên Chúa giáo trong dân tộc như địa vị cô dâu, nhưng cô dâu lại nắm hết quyền lợi trong gia đình chồng trong khi những người anh em chồng thì nghèo đói. Do đó, giáo hội Thiên Chúa giáo và chính quyền miền Nam bị đa số dân chúng chống đối là một điều tự nhiên.


Nhưng tư tưởng bác ái của Kitô giáo rất phù hợp với văn hóa Việt Nam nên nếu phát triển một cách hài hòa và bình đẳng, giáo hội sẽ không gặp sự chống đối quyết liệt. Ngày nay, cộng đồng Thiên Chúa giáo là một cộng đồng lớn mạnh vững chắc trong xã hội Việt Nam. Mọi âm mưu triệt phá giáo hội là điều không tưởng; nhưng ngược lại, cũng giống như mọi tôn giáo khác, âm mưu độc tôn tôn giáo, chỉ xem giáo hội mình là duy nhất và ước muốn biến tôn giáo mình thành quốc giáo cũng là điều không thể có được. Trong nhà tù Cộng sản, rất nhiều tu sĩ của các tôn giáo đều bị giam chung với nhau không phân biệt; họ sống rất hài hòa với nhau và đều nhìn thấy kẻ thù chung là chủ nghĩa Cộng sản vô thần. Không ai trong những tu sĩ ở tù xem tôn giáo mình là duy nhất, và không ai còn khích bác tôn giáo bạn, xem những hoạt động của tôn giáo bạn là nguyên do đưa đến sự thất bại của miền Nam trước Cộng sản.


Có một số người theo cung cách cũ của xã hội miền Nam trước 30-4-75 muốn gây sự khích bác chống đối nhau giữa các tôn giáo như là một phương thức để tạo chỗ đứng cho cá nhân họ. Gây xích mích chia rẽ giữa các tôn giáo là sách lược của Cộng sản và những nhà lãnh đạo độc tài của miền Nam cũ. Những người này chỉ biết quyền lợi cá nhân và phe nhóm, không nghĩ đến quyền lợi chung của dân tộc.

Ai cũng biết thời đại sau Cộng sản, con người đã chán ghét độc tài và bạo lực. Ai cũng hiểu là thời đại ngày nay không thể tiêu diệt một tổ chức, loại bỏ một tư tưởng dù là của thiểu số nhỏ. Tình trạng thực tế ở Việt Nam, các tổ chức tôn giáo đều có số lượng tín đồ lớn, đều có tổ chức sâu rộng. Không có lực lượng nào tiêu diệt được; không có tổ chức nào có thể thôn tính nhau. Trong tình thế này, chủ trương độc tôn là ấu trĩ và là ảo tưởng.

Do đó, chúng ta cần tránh những tư tưởng tôn giáo cực đoan, phải cảnh giác ngay với những thành phần chủ trương cực đoan trong giáo hội. Cộng sản có thể cho cán bộ xâm nhập vào các đoàn thể chính trị, tôn giáo. Những cán bộ này có lúc họ sẽ chống Cộng hơn ai hết, đòi bắn, đòi giết Cộng sản hết mình để làm cho các tổ chức trở thành đơn độc, ấu trĩ, vì ngày nay cả thế giới không ai tán thành chủ trương bắn giết tiêu diệt đẫm máu. Người ta đã thấy kinh nghiệm chế độ Cộng sản có thể hóa giải mà không tiêu diệt.

Những cán bộ Cộng sản xâm nhập vào các tôn giáo sẽ tỏ ra là tín hữu trung kiên nhất, hô hào phổ biến những hành động quá trớn để làm giảm uy tín của các tôn giáo.
Tình trạng các tổ chức chính trị quốc gia còn yếu kém, các tổ chức tôn giáo ảnh hưởng sâu rộng; chính quyền Cộng sản Việt Nam đang e ngại các tôn giáo hơn là lo sợ các tổ chức chính trị. Họ sẽ nhắm vào các tôn giáo để phá hoại và khích bác tạo sự chia rẽ lẫn nhau.



 CHƯƠNG 20

Tình cờ trước khi đi, tôi gặp một số bạn của thời trung học. Đặng Thao đến thăm tôi tận nhà. Cha của Thao là một giáo sư Việt văn của một trường trung học tư thục. Thao ngồi sát tôi, Thao làm thơ và đưa cho tôi đọc. Tôi không làm được thơ nhưng rất thích đọc thơ. Tôi khâm phục và yêu mến thi sĩ, họ là người được Thượng Đế ưu đãi cho một tâm hồn nhậy bén, phong phú và khả năng diễn tả làm rung động lòng người. Từ chỗ thơ, tôi được Thao cho mượn nhiều truyện đọc và có hôm Thao đưa cho tôi đọc cuốn ”Bàn Về Vấn Đề Thanh Niên” của Lénine, một số bài thơ của Tố Hữu và thỉnh thoảng lại một tác phẩm khác của các nhà lãnh đạo Cộng sản, một tuyển tập của Mao Trạch Đông. Thuở còn bé được đọc lén những tác phẩm của Cộng sản quả là thích thú và nhiều xúc cảm. Sau khi đưa tôi đọc.


Thao hỏi ý kiến tôi về những vấn đề liên hệ trong sách, tôi trả lời Thao là tôi thấy điều Lénine và Mao Trạch Đông viết đáng suy nghĩ nhưng với tôi, Cộng sản luôn có một giới hạn mà tôi không vượt qua được. Cái giới hạn đó hình thành trong tôi không phải bằng lý trí mà bằng tình cảm, bằng những kỷ niệm ăn sâu vào ký ức của tôi lúc còn thật bé chưa cắp sách đến trường ở quê tôi làng Thanh Quít. Tôi kể cho Đặng Thao nghe về những điều tôi thấy lúc bé và tôi thù người Pháp, khinh người Việt Nam theo Pháp và ghét Việt Minh. Từ đó, giữa tôi và Thao có giới hạn- Thao không thuyết phục tôi nữa. Năm 1966, tôi được tin Đặng Thao vào khu khi đang học Sư Phạm Huế. Đầu năm 1976, Thao đến thăm tôi tại nhà, lúc đó, Thao là Trưởng Ban Chấp Pháp Quận Gò-Vấp, biết tôi trốn trình diện, Thao khuyên tôi cố tránh đừng để bị bắt, và theo Thao thời gian qua rồi mọi việc sẽ xóa hết và tôi có thể trở lại đời sống bình thường.


 Tôi biết Thao đến thăm tôi để hàm ý xác nhận với tôi là Thao đúng và tôi sai, hoặc Thao là kẻ chiến thắng và tôi là kẻ chiến bại. Ngay lúc đó tôi biết Thao là cán bộ Cộng sản nhưng chưa hiểu biết hết chế độ vì đối với Cộng sản không có việc thời gian sẽ xóa hết, vì theo lý thuyết Cộng sản, họ đấu tranh không khoan nhượng đối với kẻ thù, đã là kẻ thù của họ, họ sẽ đuổi tận giết tuyệt hay câu thúc mãi mãi trong nhà tù cải tạo, chỉ có khi nào chế độ đó bị loại bỏ thì mới xóa được.

Lần này, Thao lại đến thăm tôi khi tôi đi tù về, Thao đã thôi ngành công an để chuyển qua ngành giáo dục. Chúng tôi chỉ nhắc lại những chuyện thời thơ ấu, vì chỉ có tình bạn đậm đà với những kỷ niệm, tôi không muốn gợi lại chuyện tù đày của tôi và có lẽ Thao cũng tránh. Sau tuần cà phê thuốc lá đầu tiên, thì Thao muốn uống rượu, tôi phải nhờ người nhà đi mua rượu cho bạn, Thao nói mỗi ngày có thể uống hai lít rượu và anh than phiền là không có rượu ngon.
Tôi hỏi Thao:
– Tại sao bạn ra khỏi ngành công an, tự xin hay bị loại trừ?
Không có vẻ tức giận với câu hỏi có phần soi mói của tôi, Thao nói:
– Tôi tự ý xin ra, tôi thấy ngành công an không hợp, bạn có nhớ lúc nhỏ, tụi mình đứa nào cũng không ưa cảnh sát?

Tôi không buông tha nên tiếp tục hỏi:
– Cảnh sát thì khác, còn công an của bạn là cán bộ cách mạng phải khác chứ, tinh thần cách mạng của bạn, mơ ước một xã hội công bằng của bạn từ lúc nhỏ, bây giờ có dịp thi thố hoài bão.
Thao không trả lời ngay câu nói châm chọc đó, rất thành thật hỏi tôi:
– Lúc bạn làm trong chính quyền, bạn có thưc hiện ước mơ của mình không?
Tôi đáp:
– Ai cũng biết ước mơ và thực tế xã hội bao giờ cũng có khoảng cách rất xa, đi làm gặp nhiều trở ngại, nhưng ít ra tôi cũng làm được một phần những gì mà lúc trẻ mình gọi là hoài bão. Cụ thể khi tôi làm việc, tôi biết là tôi có thể giúp được nhiều người, dù không chủ quan nhưng tôi nghĩ ít nhất mình cũng có ích một phần chứ không phải là người có hại cho xã hội.


Thao thở dài nói:
– Cũng vì lý do đó tôi chuyển qua nghề dạy học, không tiếp tục ở công an nữa.
Tôi hỏi Thao dạy học có sống nổi không? Thao trả lời là nhờ vào vốn liếng của người cha để lại trước khi chết. Cuối cùng buổi gặp gỡ, Thao khuyên tôi nên ra đi. Thao nói không có chỗ đứng nào cho tôi ở đất nước này. Tôi đồng ý với bạn là hiện tại tôi khó ở lại Việt Nam. Tôi muốn tìm một việc để chờ đợi vận hội mới như tôi tin tưởng, cũng chưa được và bấp bênh. Tôi có thể bị bắt lại bất cứ lúc nào vì lý lịch cải tạo không tốt của tôi. Tôi không thể nói với Thao là tôi tin sẽ có những biến chuyển trong tương lai mà trong đó mọi người có lòng với đất nước dân tộc phải dấn thân thêm một lần nữa để xoá sạch Cộng sản xây dựng dân chủ.

Tôi không thể ngồi chờ đợi giải pháp ra đi có trật tự đang được thảo luận giữa người Mỹ và Việt cộng. Tất cả những người cải tạo về đều đặt hy vọng vào đó. Tôi không muốn chờ đợi người ta ban phát tiện nghi cho mình. Tôi phải tự quyết định lấy đời tôi, một lần quyết định sai lầm đã phải chịu đựng một giá quá đắt. Tôi phải vượt biên.

Một người em gái họ đến thăm tôi, rủ tôi đi nghe đêm đọc thơ tiền chiến của sinh viên Sài Gòn tổ chức. Theo phong trào cởi mở, các loại thơ đỏ của Tố Hữu và thơ con cóc của Hồ Chí Minh, Lê Đức Thọ, Xuân Thuỷ, thơ đặt theo hoá đơn của Huy Cận, Xuân Diệu bị xếp xó. Báo Tuổi Trẻ đã đăng nhiều thơ của các thi sĩ trẻ, họ làm thơ ca tụng tình yêu (không còn ca tụng Đảng và lao động), thơ hay, kỹ thuật cao.


Thơ Quang Dũng và Hữu Loan được giới trẻ yêu chuộng, giống như thời kỳ trẻ, chúng tôi yêu thơ Quang Dũng, những bài thơ vừa hung vừa lãng mạn, như đời của một thanh niên chỉ biết hiến thân cho đất nước không cần đến công danh, thành bại hay lập trường chính trị, giai cấp hay đảng phái. Phong trào nói thẳng nói thật là dịp để văn nghệ sĩ giải bày tâm tình của họ sau thời gian bị câu thúc vì kỷ luật tổ chức, hay vì miếng cơm manh áo, tương lai, sự nghiệp, công danh. Nguyễn Văn Tý viết bày tỏ tâm hồn thực với tác phẩm đầu tay là bài Dư Âm, Tý thú nhận là với bài Dư Âm ông đã phải viết hằng trăm lần kiểm điểm, tự phê tính lãng mạn đi quá khuôn khổ lập trường của một nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa, nhưng ông vẫn yêu bài nhạc kỹ thuật non nớt đó hơn là những bản nhạc làm theo khuôn khổ đảng đặt ra trong chức vụ chủ tịch hội nhạc sĩ, như bài “Dáng Đứng Bến Tre” mới vừa được phổ biến.

Bích, cô em họ tôi, tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Triết, dạy triết tại trường trung học lớn nhất tỉnh nhà. Cô đẹp người, học giỏi, tính tình cứng cỏi nên không tìm được một ý trung nhân. Trước kia tôi tưởng Bích chỉ là người có tinh thần cấp tiến, muốn đấu tranh cho sự công bằng xã hội, tôi không ngờ Bích là một đảng viên Cộng sản, đã có lúc vào mật khu để tham gia huấn luyện hoạt động nội thành. Việt cộng chiếm miền Nam, đầu tiên, Bích được đề bạt như Chánh văn phòng của Hồ Nghinh, Bí Thư Tỉnh Uỷ Quảng Nam-Đà Nẵng.


Thời gian đầu hồ hởi phấn khởi vì cách mạng, Bích sáng tác nhiều thơ ca tụng “bác Hồ”, và dấn thân làm việc trong tinh thần cách mạng. Dần dần Bích nhìn ra sự thật; một lần tranh luận với Hồ Nghinh về chính sách cải tạo người chế độ cũ, Bích tưởng đó là một chương trình học để người “lầm đường hiểu rõ chính sách, hiểu rõ cách mạng, từ bỏ thói hư tật xấu để học tinh thần phục vụ nhân dân”. Nhưng Hồ Nghinh đã cho Bích thấy rõ đó là một chính sách nhằm tiêu diệt và vô hiệu hoá kẻ thù giai cấp. Tiếp tục đến chính sách cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản, Bích không ngờ chính quyền mới chỉ thi hành việc triệt tiệu người tư sản để cào bằng xã hội làm cho mọi người nghèo khổ, chỉ có giai cấp đảng viên là càng lúc càng giàu. Bất công xã hội ngày càng đầy rẫy hơn trước.


Bích nói:
– Xã hội miền Nam trước nổi tiếng là tham nhũng, nhưng không bằng chế độ mới, bây giờ cán bộ có quyền hạn tuyệt đối, không ai chỉ trích, họ lộng hành; một Phường-trưởng miền Nam có tham nhũng cũng chỉ sống qua ngày, bây giờ một Phường-trưởng là một ông vua con có quyền sinh sát, đưa người đi cải tạo, tóm thâu mọi quyền lợi trong phường nên trở nên thật giàu.

Muốn ghẹo Bích một tí, tôi hỏi:
– Tại sao em bênh vực cho chế độ cũ như vậy, trước kia cô là nhân viên chính phủ VNCH, lại hoạt động cho Cộng sản. Bây giờ cô ân hận sao?
– Em làm việc gì, em không bao giờ ân hận, mình nghĩ phải thì làm, thấy sai thì bỏ, thế thôi.
Tôi biết cô em họ bướng bỉnh, mạnh bạo như con trai, tôi chưa kịp nói gì thì Bích tiếp:
– Lúc nhỏ em thấy mến anh. Đến khi anh không đi theo ngành Sư Phạm mà thi vào trường Hành Chánh thì em ghét anh lắm, em nghĩ anh mê công danh, thích bon chen, ăn trên ngồi chóc thiên hạ. Khi anh trở về làm việc tỉnh thì em đã hoạt động trong hội Liên Hiệp Sinh Viên Học Sinh rồi, anh Hà Trọng Xuân, bạn của anh, móc nối đưa em vào tổ chức tại Đại Học Huế.

Đa số thanh niên, sinh viên học sinh người Quảng Nam đều quan tâm đến các vấn đề đất nước. Một số đã có lập trường quốc gia vững chắc thì đứng hẳn vào chuyến tuyến chống Cộng bằng cách tham gia đảng phái chính trị do quan hệ gia đình, hoặc tình nguyện vào các trường huấn luyện sĩ quan, thi vào trường Hành Chánh. Số khác cũng do quan hệ gia đình móc nối đứng hẳn vào tổ chức Cộng sản. Những người này đã tham dự tích cực vào những biến động chính trị tại miền Trung trong những phong trào tranh đấu Phật Giáo những năm 1964-1966. Viện Đại Học Vạn Hạnh trở thành trung tâm đầu não của hoạt động chống Chính Phủ Cộng Hòa, Sinh viên Cộng sản và thân Cộng từ các tỉnh miền Trung vào Sài Gòn trọ học.

Để câu chuyện giữa tôi và Bích không đi sâu vào các vấn đề chính trị, tôi hỏi Bích:
– Cô nghĩ tôi ham mê danh lợi nên thi vào trường Hành Chánh, vậy khi tôi làm việc, cô có thấy tôi có nhiều danh lợi không?
– Anh chỉ là một Don Quichote thời đại, anh có lý tưởng, nhưng một đời anh chỉ đánh cối xay, người ta đua nhau làm giàu, còn anh lo làm việc. Bây giờ em cũng giống như anh lúc đó nên em hiểu và thương anh trở lại như lúc nhỏ. Mình có chút lòng muốn đóng góp cho xã hội, thì chính quyền là cơ hội mình có thể giúp được nhiều người. Nhưng cũng chính ở chính quyền càng mau chán vì biết được tận gốc những điều bất công của xã hội, thấy quả tình mình khó xoay chuyển được một hiện tượng trong xã hội nó đã trở thành có hệ thống và nề nếp. Anh có tưởng tượng được chỉ là một Ty-trưởng Giáo Dục mà có đủ quyền hạn để làm mọi hành động bỉ ổi và được bảo vệ không?

Lúc em làm ở Tỉnh Uỷ em mới biết được nhiều chuyện, lúc đầu em cho đó là những hiệng tượng riêng rẽ, nhưng rồi em nghĩ không thể dùng lý luận hiện tượng, bản chất để biện minh cho những xấu xa được. Những sự xấu xa tồi tệ đầy rẫy và liên tục thì hiện tượng đồng hoá thành bản chất. Em đụng chạm với Hồ Nghinh nhiều lần vì cương vị Bí Thư Tỉnh Uỷ, hầu như ông ta chỉ lo triệt hạ và trả thù những người chế độ cũ, và trịệt phá tất cả những gì của xã hội miền Nam cũ dù những cái đó có lợi cho dân.



Có những lúc em hoang mang tự hỏi con đường mình đi có đúng hay không, có những lúc em biện luận, an ủi, chịu đựng và hy vọng vào thời gian, hy vọng vào ngày mai một cách lơ mơ, vu vơ không có gì là chuẩn xác. Có những lúc em không kềm được tính nóng rồi em đụng chạm. Lần đụng chạm mạnh nhất là trường hợp tên Trưởng-ty Học Vụ Nguyễn Văn Dạng. Em không thể tưởng tượng được những xấu xa bỉ ổi lại xảy ra trong ngành giáo dục, em là nhà giáo nên em càng đau xót. Dù em đã tự nguyện đứng về phía chính quyển Cộng sản nhưng em cũng phải công bình. Trước kia, chính quyền miền Nam có nhiều khuyết điểm đến đâu, nhưng về phía giáo dục cũng không không đến nổi tệ, cũng có người bán điểm thi lấy tiền, hoặc nhân viên văn phòng kiếm tiền vặt vãnh nhưng không có hiện tượng trầm trọng gây thương tổn đến luân lý.

Thấy Bích cao hứng, tôi hỏi thẳng vào chuyện:
– Có gì bi phẫn mà cô mà cô nói hăng hái như vậy, mà chưa cho tôi thấy trường hợp cụ thể?
– À mà quên, em lại đi xa đề tài em đề cập đến trường hợp Nguyễn Văn Dạng, Ty-trưởng Học Vụ mà hắn có quyền đưa những giáo sinh mới tốt nghiệp trường Sư Phạm về làm việc tại Văn-phòng Ty, hắn chỉ lựa chọn toàn các em có nhan sắc; ai cũng muốn làm việc tại Ty vì nhàn và gần nhà, đi xa vừa khổ và không đủ tiền lương sống. Lợi dụng hoàn cảnh đó, sau thời gian ngắn làm việc tại Ty, Dạng bắt đầu đem quyền hạn ra dụ dỗ hoặc cưỡng ép các cô giáo chuyện tình ái, nếu em nào không thuận thì hắn đầy đi dạy học ở một trường đèo heo hút gió.


Chuyện ai cũng biết mà Tỉnh Ủy cứ coi như không. Một hôm em nói thẳng với Hồ Nghinh, yêu cầu ông ta có thái độ nhưng ông ta cũng lờ đi. Nhóm trẻ tụi em xấu hổ lắm, mình suốt đời tin tưởng vào cách mạng sẽ đem lại công bằng và no ấm cho toàn dân. Bây giờ dân thì đói hơn thời chiến tranh, còn bị cường quyền bạo lực chèn ép hơn thời lệ thuộc ngoại bang. Tụi em tổ chức rình bắt ngay tại trận, khi tên Dạng cưỡng bức một cô giáo ngay tại Văn-phòng Ty. Việc không thể còn che dấu được, đưa ra xử tại Tỉnh Ủy, ngay tại phiên họp, hắn vẫn giữ thái độ nghênh ngang và nhận lỗi qua loa, anh có biết hắn “bị phạt” ra sao không ? Hắn đổi qua làm Chủ-nhiệm Liên Hiệp Vận Tải của tỉnh, chức vụ này còn lớn hơn và kiếm nhiều tiền hơn là Ty-trưởng Học Vụ. Và cũng từ đó, tụi em bắt đầu bị khó dễ, em chán nên đưa đơn xin thôi việc. Em bỏ luôn tỉnh đi thẳng vào huyện Tuy Phong tỉnh Thuận Hải dạy học.


Tôi hỏi tiếp:
– Cô dạy được bao lâu và vì sao lại nghỉ dạy?
– Em vào đến Tuy Phong hoàn toàn xa lạ, em muốn như vậy, em muốn ít ra cũng làm được công việc gì hữu ích. Làm một cô giáo tại huyện nhỏ buồn và kham khổ lắm nhưng em chịu được. Lương không đủ tiêu, tiện tặn chỉ trong 10 ngày là hết. Em sống nhờ vào số vốn dành dụm gần 10 năm trời dạy học thời trước. Em cảm thấy việc làm của em càng ngày càng vô ích. Phần lớn học trò ở đồng quê phải bận công việc đồng áng giúp gia đình, không có thì giờ để soạn bài vở, còn số ít con cán bộ thì tụi nó không chịu học, vào lớp chỉ quấy phá bạn bè và chọc ghẹo thầy cô giáo.


Đối với thành phần học sinh này, chúng em bất lực, không thể la rầy được, rầy la thì bị Hội Liên Hiệp và Đoàn Thanh Niên bảo vệ, cho điểm xấu thì cha mẹ chúng cậy thế cán bộ quyền hành tại địa phương đến thẳng trường cãi cọ với mình. Đó là em cũng là đảng viên mà vẫn bị khó khăn trong nghề nghiệp như vậy, còn thầy cô giáo không là đảng viên thì còn bị chèn ép nhiều hơn, nên cuối cùng họ cũng không cần dạy học nữa, họ đến trường cho có, bài vở chỉ hỏi qua loa rồi cho điểm cao cho học sinh vừa ý, còn thì giờ phải lo sinh kế.


Chỉ có ai còn chút lương tâm nghề nghiệp là cảm thấy đau khổ mà thôi. Em sống cạnh người dân em biết, họ đau khổ lắm, không những làm vất vả không đủ ăn còn bị chèn ép đủ thứ, cán bộ tên nào cũng là vua con, tên nào cũng trở thành thứ cường hào ác bá nhân danh cách mạng. Bây giờ cứ nhớ tới hai tiếng cách mạng là em xấu hổ. Nhưng vẫn cố bám lấy trường lớp để dạy tới năm 1984 thì trường đóng cửa, thầy cô giáo và học sinh vượt biên gần hết. Em thấy nổ lực cuối cùng của mình cũng không đi đền đâu nên em bỏ luôn nghề dạy học và xin ra khỏi đảng để trở về Sài Gòn sống.
Nhân Bích nhắc đến chuyện vượt biên, tôi hỏi ý kiến Bích:


– Nếu anh vượt biên, em có đi cùng anh không?
Bích trả lời ngay không suy nghĩ:
– Anh vượt biên là đúng, vì anh ở lại cũng không làm được gì, mà còn quá nhiều bấp bênh; nhưng em thì không, nếu muốn đi em đã đi lâu rồi, đâu cần anh phải rủ. Trước đây em tin vào cách mạng, ngày nay em đã hiểu rõ chế độ Cộng sản, chỉ trích thì đúng mà làm không đúng. Em đã bỏ đảng, nhưng em thấy một phần có trách nhiệm và xấu hổ những gì đảng Cộng sản đã làm cho đất nước rách nát tàn hại như ngày hôm nay. Em phải ở lại.


Ý kiến của Bích đã làm tôi nhớ lại những gì chú Bình đã nói với tôi hơn 10 năm về trước: “Đừng tin tưởng tụi nó (Cộng sản) làm được gì cho đất nước”. Tôi tin là những gì người trẻ tuổi, những người có học, và những người còn lương tâm trong hàng ngũ Cộng sản họ đều như vậy. Người đảng viên Cộng sản đều sống với hai tư cách, tư cách một đảng viên: họ phải luôn luôn giả dối để sống, tư cách một người trung trực, họ phải che giấu, chỉ bộc lộ những khi họ thấy không nguy hiểm. Đó là những mầm mống đối kháng chỉ chờ cơ hội là bùng nổ thành lực lượng chống chế độ Cộng sản.

Tôi ra đi mà nhớ chú Bình, nhớ Đặng, nhớ Bích, nhớ Phố, nhớ Đoàn Viết Hoạt, nhớ Hụê Nhật, nhớ anh Cao Xuân Biên, nhớ Ánh cùng tất cả những người bạn trong trại cải tạo. Những người Việt Nam cùng một thế hệ, đứng bên này hay bên kia chiến tuyến luôn luôn nghĩ đến đất nước và mơ ước ngày đất nước thanh bình thật sự và thịnh vượng, cho người dân được yên ổn làm ăn bằng sức lao động của mình mà không bị một câu thúc ép buộc nào, những con người luôn luôn muốn tìm cho tổ quốc một con đường tiến tới và sẵn sàng dấn thân, nhưng mỗi lần dấn thân là học được bài học đau thương mà vết tích hằn rõ trong cả linh hồn và thể xác . Tôi nhớ đến lời nói của một người bạn của những năm đầu trong tù. Cộng sản là một bài học chua cay, mà khi học xong rồi thì kinh nghiệm không bao giờ có cơ hội áp dụng.

Bây giờ tôi đã học bài học chua cay đó, nhưng với một tin tưởng là đất nước sẽ qua một giai đọan mới, mà vận hội mới đã bắt đầu ló dạng bằng những ánh sáng tươi đẹp như một buổi bình minh mùa xuân, trong đó hy vọng là có cơ hội đóng góp bàn tay của mọi người từ Hội, Hụê Nhật, Hoạt, Cao, Ánh, Đèn đến những người như chú Bình, như Bích, có thể cả Đặng Thao nếu Đặng biết tìm một lối tranh đấu mới mà không cần hai lít rượu để quên mỗi ngày. Trong vận hội mới đó, hận thù không còn chỗ phát triển mà phải dành cho tình yêu thương giữa con người với nhau và tình yêu đối với đất nước và dân tộc.

Tôi thú thật là tôi đã quá mệt mỏi, con người tầm thường như tôi thì 12 năm trong tù quá nặng, nhưng tôi tin vào bạn bè của tôi, những người đã quen biết và những người chưa quen biết, những con người Việt Nam: sau những biến động quá lớn của lịch sử dân tộc, biết rút kinh nghiệm từ bỏ những thiếu sót và những thành kiến cũ, để cùng nhau bước qua một giai đoạn mới, trong đó chủ nghĩa Cộng sản bị vứt bỏ, tổ chức Cộng sản bị giải tán, và mọi người có thể sống hài hòa với nhau để xây dựng đất nước.

Tôi hy vọng vào những người đã ra khỏi đất nước. Ở ngọai quốc có điều kiện để họ nhìn thấy rõ vấn đề hơn, tìm hiểu rõ Cộng sản và không còn sợ Cộng sản nữa. Trước kia, chúng ta có khuyết điểm là thù ghét Cộng sản nhưng quá sợ Cộng sản – xem Cộng sản là một chủ thuyết không thể thay thế và lực lượng Cộng sản không thể bị đánh bại. Từ tâm lý sợ hãi đó, cả Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không nghiên cứu và làm được gì khi Liên Xô và Trung Quốc mâu thuẫn lẫn nhau.



Lúc đó còn có người xem sự mâu thuẫn đó là một chiến lược để đánh lừa khối Tây phương. Tính cẩn trọng là tính tốt, nhưng quá cẩn trọng để lo sợ là một hình thức khiếp nhược và đầu hàng. Tôi sợ rằng cái tính e dè đó lan truyền thành một thứ bệnh trong hàng ngũ người quốc gia để rồi họ không chuẩn bị gì cả để mất thời cơ. Trong khi Cộng sản đang rữa nát từ bên trong mà người quốc gia cứ e sợ không khác gì Tư Mã Ý sợ tượng gỗ của Khổng Minh để mất nhiều cơ hội chiếm thành .

Tôi cũng e rằng người quốc gia lại quá trông chờ vào Mỹ mà không chuẩn bị sức mạnh cho riêng mình. Để rồi đến một lúc nào đó, nếu Mỹ không còn cấm vận đối với Việt Cộng và bang giao thì nhiều người sẽ thối chí bỏ cuộc. Qua sự bỏ rơi miền Nam năm 1975, ai cũng hiểu Mỹ là đồng minh, nhưng họ vẫn quyết định trên quyền lợi của đất nước Mỹ – điều đó hẳn nhiên – Tuy đã nhìn ra điều đó, nhưng thói quen trông chờ vào Mỹ vẫn chưa bỏ được, hầu hết những lực lượng chống đối sau ngày 30-4-75 đều đặt trên cơ sở lý luận Mỹ sẽ đánh đổ Cộng sản và người Việt Nam chỉ chờ nắm cơ hội. Có thể Việt Cộng nhìn ra điều đó nên chúng vẫn bình chân không thay đổi đường lối tuy đang gặp nhiều khó khăn .

Tóm lại, sự kết hợp lực lượng của người quốc gia lúc này là cần thiết, nếu chưa trực tiếp đánh đổ được chế độ Cộng sản cũng tạo niềm tin cho người trong nước nổi dậy trong đó có cả cựu cán bộ và đảng viên Cộng sản, những người đã giác ngộ nhìn thấy rõ Cộng sản không còn hợp thời và không còn cần thiết nữa, đã là mối họa và một trở ngại cho sự phát triển. Hoặc nếu không thì ít ra sự kết hợp đó tạo thành một đối lực đáng kể buộc Cộng sản phải thay đổi dần đi đến chế độ dân chủ thật sự là con đường tất yếu của trào lưu tư tưởng con người thời đại cuối thế kỷ 20.
Viết xong tại San Jose tháng năm 1990
Nguyễn Chí Thiệp
Thư từ xin liên lạc về:
Nguyễn Chí Thiệp
10735 Fallsbrige Dr
Houston TX 77065
(281) 749-5332


No comments: