Friday, July 10, 2009

MỘT CÁI NHÌN TRỞ LẠI I

Cái Nhìn Trở Lại

Trần Ðộ

Sau khi phổ biến rộng rãi tài liệu "Tình hình đất nước và vai trò của đảng CSVN" kêu gọi đảng CSVN phải dân chủ hóa đất nước vào đầu năm 1997, ông Trần Ðộ đã nhiều phen bị trù dập, theo dõi, răn đe và gia đình của Ông cũng nhiều phen bị sách nhiễu. Nhân ngày sinh nhật 76 tuổi, ông đã viết một thiên bút ký "Một Cái Nhìn Trở Lại" nhằm suy ngẫm lại những gì mà ông cũng như nhiều đảng viên cộng sản khác từng xem là "chân lý". Ðặc biệt, ông đã xoáy vào hai vấn đề đó là "vấn đề giai cấp""vấn đề đảng cộng sản", mà kết luận vẫn không ra ngoài những gì ông đã kêu gọi, đó là phải dân chủ hóa đất nước.
Mặc dù những đánh giá và đề nghị của ông vẫn là tầm nhìn của một người nhiều năm đi theo đảng cộng sản, nhưng rất tích cực và hữu ích, giúp cho mọi người, đặc biệt là cho những người đang phục vụ trong guồng máy đảng cộng sản, nhìn thấy những sai lầm của đảng này đã và đang đưa đất nước đến tình trạng bế tắc như hiện nay.
Liên Minh Việt Nam Tự Do xin ghi lại dưới đây nguyên văn bài
"Một Cái Nhìn Trở Lại" của ông Trần Ðộ vừa viết xong vào tháng 9 vừa qua.

Ðây không phải là một luận văn, mà là một thiên bút ký thổ lộ nỗi niềm của một người 76 tuổi đời, 58 tuổi Ðảng.

Tháng 9 này tôi tròn 75 tuổi (1923-1998). Thấy cũng cần ghi lại những suy nghĩ về cuộc sống và về sự đời, mà lâu nay tâm tư lúc nào cũng bị xáo trộn.

Thế là gần hết thế kỷ 20 rồi. Thế kỷ đã diễn ra những sự kiện lớn làm xáo động cả sinh hoạt của nhân loại :

- Trước hết là chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918), tìếp đến Cách mạng Tháng Mười ở Nga.

- Tiếp theo là sự hình thành một loạt nước xã hội chủ nghĩa, hình thành một phe lớn trong hai phe của thế giới, diễn ra cuộc đấu tranh về hai hệ tư tưởng, kèm theo các mặt đấu tranh khác (kể cả quân sự).

- Một sự kiện quan trọng là "cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật" dẫn tới sự bùng nổ thông tin toàn cầu và hoạt động của loài người mở rộng ra không gian vũ trụ : những chuyến thám hiểm, những vệ tinh, những cuộc lên mặt trăng, sao Hỏa. Những vấn đề loài người ra sống ngoài vũ trụ và ở các hành tinh khác cũng đã được đặt ra (di dân, du lịch).

- Cuối cùng, sự kiện quan trọng nhất, là sự xóa bỏ thế giới "xã hội chủ nghĩa hiện thực", việc này làm đảo lộn hoàn toàn các suy nghĩ, các mối quan hệ của loài người giữa các nước.

- Riêng ở nước ta, có một biến động hết sức quan trọng : sau hơn 50 năm tranh đấu dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, nhân dân ta đã giành được độc lập và thống nhất đất nước, đưa cả nước Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới : kỷ nguyên độc lập, hòa bình, xây dựng và phát triển.

Do đó, cuộc sống và những suy nghĩ về cuộc sống lúc đầu thế kỷ và lúc ở cuối thế kỷ này hoàn toàn khác nhau. Vì thế kỷ 20 đem lại cho loài người nhiều thắng lợi, nhiều vẻ vang, nhưng cũng đem lại cho loài người nhiều bài học vừa cay đắng, vừa đau đớn.

***


(1)

Tôi đã sống 75 năm trong 100 năm sôi động vừa qua. Tôi đã trải và nghiệm ra nhiều điều, nhiều lẽ. Những trải nghiệm này có nhiều điều hay và tốt. Nhưng cũng có những điều đau. Tôi ghi lại để tôi ngẫm cùng tôi, nhưng những điều suy ngẫm ấy có thể giúp ích cho con cháu sau này, cho dù chúng cũng có những trải nghiệm của chúng.

Trải nghiệm một cuộc đời ngót nghét trăm năm không phải là ít, lại càng không phải là sự trải nghiệm một chiều. Nhưng trong những trải nghiệm trong chính cuộc đời tôi làm tôi phải suy ngẫm và trăn trở nhiều có lẽ có hai điều sâu sắc và phức tạp nhất, có tính chất học thuyết và nguyên lý.

Ðó là vấn đề "giai cấp" và vấn đề "Ðảng cộng sản".

I. Về vấn đề giai cấp

Từ những năm tuổi 14-15, còn đang thời học trò cấp 2 (so với hiện nay), tôi và các bạn tôi đều có một trạng thái tinh thần rất giống nhau : chúng tôi rất sục sôi yêu nước, rất căm phẫn trước tình hình mất nước, tình hình dân tình đau khổ và sống đời nô lệ. Những cụm từ "nước mất nhà tan ", "vong quốc", "hồn nước non "... đều lay động dữ dội tâm hồn chúng tôi. Chúng tôi thấy hết sức tự nhiên coi mình như đã là những phần tử của một phong trào, một thiên hướng tư tưởng "cứu nước ". Mặt khác, hàng ngày, trong đời sống bản thân, trong quan hệ họ hàng và xóm giềng và rộng ra nữa, trong quan hệ hàng tổng, hàng tỉnh, chúng tôi đều trông thấy, nghe thấy biết bao nhiêu điều bất công, tủi nhục và oan khuất. Chúng tôi đều là con nhà nghèo, từ góc độ con nhà nghèo nhìn thấy tình hình xã hội như thế thì tâm tư càng đau khổ nhức nhối. Nhưng chỉ biết đến thế, chứ chưa giải thích được tình hình và tìm ra phương hướng, chưa giải đáp được những vấn đề được đặt ra. Cho nên cũng chỉ lặng lẽ cùng nhau đọc sách và mơ ước. Mơ ước những năng lực phi thường, mơ ước những phương sách lý tưởng và mơ ước đến tương lai huy hoàng của dân tộc. Những mơ ước ấy không thoát ra ngoài những điều đã được viết trong các tiểu thuyết, nhất là những tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc, mơ ước có những vị vua anh minh, những tướng quân tài cao chí cả.

Trong trạng thái tâm hồn như vậy, chúng tôi gặp gỡ và tiếp xúc với những ý tưởng mới của chủ nghĩa Mác, trong đó nổi bật là vấn đề giai cấp.

Chúng tôi tiếp xúc với vấn đề giai cấp như một sự bừng sáng mạnh mẽ và rực rỡ trong tinh thần.

Nhờ chủ nghĩa Mác chúng tôi hình dung được những nét lớn trong việc lý giải tình trạng xã hội, lý giải hoàn cảnh mất nước của mình, trên cơ sở nhận thức : "phân rõ giai cấp".

Chúng tôi không còn căm thù chung chung "giặc Tây ", lòng căm thù của chúng tôi hướng rõ rệt vào cái gọi là đế quốc Pháp, mà đế quốc Pháp là con đẻ của giai cấp tư sản Pháp và chủ nghĩa tư bản Pháp. Ðó là một ánh sáng lớn soi rọi vào vấn đề giai cấp.

Nhìn vào trong xã hội nước nhà, chúng tôi không còn bối rối nhiều. Vì chúng tôi đã nhìn rõ tất cả những bất công, tủi nhục, oan khuất... của nhân dân trong xã hội là kết quả tất nhiên của một xã hội có phân chia giai cấp : giai cấp áp bức bóc lộtgiai cấp bị áp bức bóc lột. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp đó tác động mọi mặt vào xã hội và là động lực thúc đẩy xã hội tiến lên. Con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc, mang lại hạnh phúc cho nhân dân là con đường "phải tiêu diệt cho được giai cấp bóc lột ", mà giai cấp ấy giờ đây thể hiện rõ ở thế lực của đế quốc Pháp và bè lũ tay sai (Việt gian). Chúng tôi nhìn vấn đề như vậy từ chỗ đứng và với tư cách người bị áp bức bóc lột, thành ra nhận thức nói trên có một ánh sáng và một sức mạnh đặc biệt.

Dưới ánh sáng của nhận thức về giai cấp, mọi vấn đề, mọi quan hệ xã hội, mọi hiện trạng xã hội đều có thể lý giải.

Chúng tôi sung sướng, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc như có được trong tay một bảo bối quý giá để nhìn đời và bước vào đời : đó là sự giác ngộ giai cấpý thức giai cấp. Chúng tôi thực sự có ý thức về vị trí giai cấp của chúng tôi. Chúng tôi tôn trọng và thần tượng hóa vai trò của giai cấp bị áp bức bóc lột : công nhân và nông dân, dân nghèo vv... Chúng tôi nhìn những giai cấp bị áp bức với cảm tình và niềm khâm phục. Họ là động lực thay đổi cuộc sống ngột ngạt hiện tại.

Chúng tôi có một sức mạnh tinh thần mới rất lớn, rất lớn. Càng đi sâu vào cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và quyết liệt (trong chiến tranh), chúng tôi càng thấy rõ thêm, sâu thêm và rộng thêm sức mạnh tinh thần đó. Ý thức của chúng tôi cũng có những biến chuyển từ thấp đến cao. Trong những chuyển biến đó, tôi chú ý đến những chuyển biến sau đây :

- Từ ý thức và tình cảm tự nhiên là "thương người nghèo", chúng tôi đã tiến đến tình cảm và ý thức tôn trọng những người lao động (người nghèo), từ thương cảm đến tôn trọng, đến nhận thức rõ hơn vai trò cách mạng và năng lực cách mạng của công nhân và nông dân. Ðặc biệt trong chiến tranh cách mạng, chúng tôi được chứng kiến vô vàn thí dụ về tinh thần hy sinh cao cả và năng lực chiến đấu dũng cảm bền bỉ của những người nông dân, công nhân. Thành ngữ "công nhân lãnh đạo và nông dân là chủ lực" cho cách mạng cứ hiển hiện rõ từng ngày, không cần phải bàn cãi. Nhu cầu cần bồi dưỡng văn hóa, chính trị và năng lực lãnh đạo cho các đồng chí thành phần công nhân, nông dân cũng hiển nhiên rõ ràng. Do đó cần phải có những chính sách ưu tiên, tạo điều kiện cho các đồng chí ấy tiến bộ cũng là điều hiển nhiên và tất yếu.

- Sự chuyển biến thái độ đối xử với người nghèo diễn ra trong toàn xã hội. Tôi biết có gia đình một nhà trí thức cao cấp yêu nước đi ra chiến khu kháng chiến. Gia đình nhiều con nên có hai người giúp việc : một vú già, một "con sen" (con ở gái), hồi trước còn thêm một "anh xe" (kéo xe) nữa. Khi ra chiến khu, hai người nữ giúp việc cùng sống chung với gia đình nhà trí thức. Người vú già được coi như người mẹ thứ hai của lũ trẻ, còn cô gái thì được coi như con gái lớn trong nhà. Bà vú già khi mất được ma chay báo hiếu trọng thể. Cô gái lớn được dựng vợ gả chồng và được coi trọng đúng như cô chị cả trong gia đình. Sự chuyển biến cái quan hệ xã hội này tốt đẹp biết bao nhiêu.

Nó là kết quả tinh thần của Cách mạng Tháng Tám.

Sự tiếp nhận ý thức giai cấp trong chúng tôi cũng nẩy sinh vấn đề tình cảm : tình cảm giai cấp. Mọi tình cảm đều xoay quanh khái niệm giai cấp, phù hợp với ý thức giai cấp được coi là tốt đẹp, cái gì không phù hợp với tình cảm ấy thì không thể chấp nhận. Ðiều được coi như cao cả và thiêng liêng là "tình thương yêu giai cấp". Các thứ tình cảm khác như tình yêu, tình bạn, tình gia đình, tình họ hàng... đều phải lấy tình thương yêu giai cấp làm cơ sở và phải phụ thuộc vào nó. Những người thuộc giai cấp không phải nông dân, công nhân, mà tự nguyện nhận ý thức giai cấp, nhận lập trường giai cấp công nông là của mình, thì được khen ngợi, được biểu dương, được người ta lặng lẽ trao tặng một cái như là một danh hiệu tốt đẹp : những người biết "đầu hàng giai cấp", biết bỏ bóng tối tìm ra ánh sáng. Ðiều này tác động cả vào quan niệm thẩm mỹ. Trong chiến tranh chúng tôi sống ở nông thôn nhiều, thực lòng chúng tôi thấy vẻ chất phác và vóc dáng khỏe mạnh của thôn nữ là đẹp. Mỗi khi về sống lại ở thành phố, thời gian đầu chúng tôi thường dè dặt và xa lánh các cô gái thành thị "áo ve sầu, đầu súp-lơ" với những dáng vẻ ẻo lả mượt mà, mà chúng tôi cho là không đẹp. Ðịnh kiến ấy cũng tồn tại một thời gian.

Rồi nữa, chúng tôi đã từng sống nhiều chục năm trong một trạng thái tinh thần hứng khởi, cao thượng và trong sạch. Trạng thái tinh thần này phổ biến trong đa số nhân dân, nó là nền tảng cho những mối quan hệ, đặc biệt quan hệ giữa người và người rất tốt đẹp : giữa cán bộ và nhân dân, giữa quân đội và nhân dân, giữa cấp trên và cấp dưới... Tình trạng đó kéo dài suốt từ trước năm 1945 đến 1975.

Thế mà tại sao đến bây giờ, rất nhiều người, ít nhất là theo tôi thấy được và nghe được, đều than tiếc những điều tốt đẹp của mấy chục năm quá khứ. Những mối quan hệ nói trên cứ dần dần có sự biến đổi. Trong chiến tranh, sự biến đổi không rõ lắm, nhưng từ sau khi sự nghiệp cách mạng giành độc lập và thống nhất đất nước đã hoàn thành, thì sự biến đổi ấy càng rõ rệt và nhanh chóng. Nó đã diễn ra một sự "biến dạng". Nó đã biến dạng thế nào, từ cái gì trở thành cái gì và tại sao ?

Qua sự suy ngẫm về diễn biến ý thức của bản thân, qua sự nhớ lại các hành xử của mình và của người khác mà mình thấy được, qua sự quan sát và nghe được chuyện từ nhiều nguồn, tóm lại là qua sự trải và sự nghiệm của bản thân, tôi thấy được mấy điểm :

1. Trước hết hãy so sánh hai bức tranh :


Ngày xưa (trước 1945 và trước 1954,1975) và ngày nay (những năm 1990). Hai bức tranh biểu hiện hai thời kỳ, hai tình trạng, từ đó xuất hiện một "ước mơ giật lùi " : "bao giờ cho đến ngày xưa ?"

Ngày xưa, khi những ý tưởng về giai cấp và đấu tranh giai cấp được lan truyền đã làm bùng lên trong lòng mọi người một ánh sáng và tạo nên một sức mạnh tinh thần, thúc đẩy tinh thần yêu nước và cứu nước của toàn thể nhân dân. Tất cả những cái đó trở thành một chất keo tinh thần gắn bó mọi người lại với nhau trong một tinh thần đoàn kết đấu tranh trong sáng và đơn giản, nhằm một mục tiêu lớn và rất rõ rệt : giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân lao động khỏi nô lệ, khỏi áp bức.

Chủ nghĩa Mác-Lê đã giác ngộ mọi người một cơ sở lý lẽ như sau : xã hội có nghèo đói, bất công là do có sự áp bức bóc lột của giai cấp thống trị cầm quyền, do có sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.

Muốn "đổi đời" (giải phóng những người bị áp bức bóc lột) phải đẩy mạnh đấu tranh giai cấp, vừa lấy lại đất nước độc lập, vừa xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Như thế mới có một xã hội vừa độc lập vừa công bằng dân chủ, chính quyền thực sự về tay nhân dân. Những điều đó đã nhân lên bội phần tinh thần cứu nước và tinh thần xây dựng, xây dựng một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc. Tinh thần đấu tranh cách mạng nhờ sự giác ngộ đó được nhân cao lên nhiều lần. Lúc đó Ðảng cộng sản (nói cho rõ hơn là những người cộng sản) hòa mình trong nhân dân, nhân dân tìm đến những người cộng sản như tìm đến những người thân. Họ là những người vừa hướng dẫn đấu tranh vừa là những người cần được che chở bảo vệ và cứu giúp (về cả ăn, mặc, cũng như nơi ở an toàn). Trong nhiều hồi ký viết về nhà tù Sơn La, các tác giả miêu tả lại những hình ảnh rất cảm động, khi tù chính trị (những người cộng sản) bị đày từ Hỏa Lò (Hà Nội) lên Sơn La đi qua Suối Rút. Nhân dân Chợ Bờ, Suối Rút đã đón tiếp, chào mời và tự nguyện giúp đỡ từ bát cháo, điếu thuốc, cái chiếu, chỗ nằm. Cho nên, lúc ấy Ðảng ở trong dân, Ðảng với dân là một. Dân đi tìm Ðảng, Ðảng cũng đi tìm dân như tìm những người có ân có nghĩa.

Ngày nay Cách mạng đã thắng lợi : đất nước đã thống nhất và độc lập. Chính quyền đã về tay nhân dân. Và những người cộng sản là người thay mặt nhân dân nắm giữ chính quyền. Từ chỗ nhận thức như vậy tất cả những chức vụ quan trọng từ cấp cơ sở đến cấp toàn quốc đều phải do các đảng viên cộng sản nắm giữ. Tất cả những người cộng sản này phải có mức thu nhập và mức sống cao (từ nhà ở, phương tiện đi lại, phương tiện sinh hoạt) để đảm bảo sức khỏe và có điều kiện tốt để làm việc cho dân cho nước. Gia đình các vị này, con cái các vị cũng phải được bảo đảm điều kiện thuận lợi trong đời sống từ việc học hành, chữa bệnh. Phải cho các cháu học hành đầy đủ để có đủ năng lực nối tiếp truyền thống của cha anh mà giữ vững chính quyền nhân dân. Như thế là xuất hiện một tầng lớp người (chưa gọi là một giai cấp) làm việc trong những chức vụ cai trị, chủ yếu là những đảng viên Ðảng cộng sản. Chức vụ càng cao thì càng phải do những đảng viên quan trọng (cao cấp) nắm giữ.

Vậy là Ðảng với dân đã tách thành hai : một số người (chủ yếu là của Ðảng) làm việc cai trị dân. Mà đã cai trị thì phải có chức, đã có chức là có quyền, đã có quyền ắt có lợi. Quyền lực lớn thì có lợi lớn. Ðảng đâu còn "hòa trong dân, cùng với dân là một " như trước. Trên danh nghĩa, chính quyền của Ðảng khi làm việc gì cũng là thay mặt dân và nhân danh dân, vì lợi ích của dân (chính quyền do dân, vì dân, của dân). Thế mà dân hiện nay đi tìm Ðảng là đi tìm những ông bí thư, chủ tịch, bộ trưởng, đại biểu Quốc Hội, ủy viên Trung ương, để khiếu nại tố cáo, kêu oan và cầu xin sự cứu giúp. Có những ông đảng viên già (nhưng không có chức vụ gì, thì cũng như là dân) xếp các đơn kêu xin của mình vào một cái túi nặng hàng chục ki lô, đi lại các cấp các ngành hàng chục năm trời mà vấn đề của ông ấy vẫn không được giải quyết (vì nó phức tạp quá). Khi ông già này còn trẻ bắt đầu giác ngộ và hăng say đấu tranh ông ấy không thể tưởng tượng nổi tình cảnh ông ấy lúc về già.


(2)

Không những Ðảng với dân đã là hai, mà ngay trong Ðảng cũng thành hai. Một Ðảng gồm những người không có chức vụ hoặc chức vụ thấp. Một Ðảng gồm những người có chức vụ cao và quyền lực, quyền lợi cao. Hàng triệu chiến sĩ và nhân dân khi hy sinh đều không nghĩ rằng một kết quả quan trọng của sự hy sinh của họ lại là tình trạng thế này. Nhà thơ Bùi Minh Quốc đã phải thốt lên :

Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này !

Và hễ ai muốn nêu vấn đề để tìm ra phương thức lãnh đạo và tổ chức của Ðảng trong điều kiện mới cho có hiệu lực và quan hệ tốt đẹp "như ngày xưa" thì lập tức cũng bị bộ máy tư tưởng gán cho tội "phủ nhận Ðảng" và bộ máy công an coi là có tội "làm hại đến an ninh quốc gia", cho người theo dõi, canh giữ, giám sát và bỏ tù.

Kẻ viết những dòng này trong năm 1998, từ 25 tháng 7 vào ngôi nhà của con trai út số nhà 116/ 33 Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Ở đó dự định cho đến hết tháng 10. Trong hơn 100 ngày đó, trước ngôi nhà này luôn luôn từ sáng đến tối, mỗi ngày đều có từ một đến ba nhân viên an ninh mặc thường phục, hóa trang làm người chữa xe đạp, lái xe ôm, lái xe tắc xi... coi chừng, giám sát, ghi chép, và cả chụp ảnh nữa. Khi kẻ này đi chơi ở Huế cũng có những nhân viên an ninh từ Hà Nội bay vào Huế ở cùng khách sạn để theo dõi những người quen đến thăm kẻ này.

Rất nhiều triết gia Ðông và Tây, từ cổ chí kim, đều thừa nhận rằng trên đời này không có sự vật, hiện tượng nào đứng im, nó luôn luôn chuyển động và biến hóa. Vì vậy sự chuyển động và biến hóa (hoặc biến dạng) của xã hội và của Ðảng là điều rất tất nhiên, chỉ có điều ta phải xem sự biến dạng đó có kết quả ra sao, tốt hay xấu ?

Tình hình xã hội và con người trong thời chống Pháp khác với thời chống Mỹ. Thời chống Mỹ nước ta có hai miền nên cũng có nhiều vấn đề Ðảng và dân phải giải quyết, phức tạp và khó khăn hơn thời chống Pháp, nhưng trình độ tư tưởng và tổ chức của Ðảng, của dân đã cao hơn, làm việc hiệu quả tốt hơn. Tuy vậy, cũng có một số mặt kém đi : trong quân đội hiện tượng đào ngũ (B quay) xuất hiện, quan hệ quân dân không tốt hơn, những vụ kỷ luật về vi phạm đến quyền lợi của dân cũng nhiều hơn.

Sự chuyển động và biến dạng kể trên là sự chuyển động và biến dạng lớn nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất. Chính nó chi phối các sự chuyển động và biến dạng bộ phận nối tiếp sau. Mỗi sự vật sự việc đều có hai mặt : một mặt phải (tích cực), một mặt trái (tiêu cực). Trong chuyển động và biến hóa cả hai mặt đều chuyển động và biến hóa khác nhau, khi thì tiến lên, khi thì thụt lùi.

2. Về ý thức giai cấp.


Từ chỗ có ý thức thương yêu tôn trọng, tin cậy những người ngèo khổ bị bóc lột (là công nhân và nông dân), đánh giá cao khả năng cách mạng của họ, ý thức này dần trở thành cực đoan, đi tới chỗ không tin cậy các thành phần khác, chỉ đề cao công nông. Sự tuyệt đối hóa những ưu điểm cách mạng của công nông đã dẫn tới chỗ đánh giá thấp khả năng cách mạng của các tầng lớp khác. Có một dạo đã xuất hiện những từ khinh miệt gọi cánh học sinh và những người thuộc tầng lớp trung lưu là "tạch tạch sè" (tiểu tư sản), và những người này cũng vui vẻ tự gọi mình như thế. Ý thức này đã được chính thức công khai thể hiện trong cái gọi là "đường lối công nông về công tác cán bộ". Chính kẻ viết những dòng này cũng đã từng thuyết giảng nhiều lần về đường lối này và phê phán một cách đầy thuyết phục những hiện tượng vi phạm đường lối công nông.

Trong khi ấy, trong thực tiễn đấu tranh cách mạng có hai hiện tượng rõ rệt : một là, tinh thần dũng cảm chiến đấu và hy sinh rất quyết liệt của các cán bộ và chiến sĩ xuất thân từ công nông, số này chiếm đa số. Mặt khác, phần lớn các đồng chí lãnh đạo ở cấp cao nhất đều không phải xuất thân từ công nông, mà xuất thân từ những tầng lớp trung lưu hoặc tầng lớp trên của xã hội. Các đồng chí đó là những chiến sĩ cách mạng trung kiên, có một ưu thế mà những người xuất thân công nông không có, đó là trình độ học thức cao, ngoại ngữ giỏi. Nhưng tình hình này không được coi là thí dụ của một khả năng cách mạng của những người thuộc tầng lớp phi công nông.

Vấn đề đường lối công nông dẫn đến một số hiện tượng gọi là "thành phần chủ nghĩa", và "chủ nghĩa lý lịch". Hiện tượng này dẫn đến những định kiến, phân biệt đối xử, bỏ qua và lãng phí nhiều khả năng cách mạng, bỏ qua nhiều tài năng, làm cho nhiều tài năng bị thui chột, tổn thương đến tinh thần đoàn kết dân tộc để đấu tranh giành độc lập. Ðường lối này và "chủ nghĩa thành phần" tác động vào mọi mặt sinh hoạt của xã hội, làm tổn thương tính công bằng xã hội và tổn thương chính sách xóa bỏ hận thù trong quá khứ để đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước. Càng trong hoàn cảnh thắng lợi lớn và trong hòa bình xây dựng thì tổn thương và tai hại do "chủ nghĩa thành phần" thể hiện thành chính sách của Ðảng càng to lớn và không gì bù đắp được. Sự tai hại không chỉ tác động đến những thành phần lớp trên mà còn tác động đến toàn dân kể cả công nông. Hiện tượng nhiều người bỏ nước ra đi sau đại thắng 1975 là sự rạn nứt không chối cãi được của khối đoàn kết toàn dân. Có nhiều người tuy bỏ nước ra đi, nhưng trong lòng vẫn có cảm tình với cách mạng. Họ phải ra đi, bởi vì nếu họ ở lại thì họ không có cách gì sinh sống, trong khi tài sản của họ cũng không còn. Họ ra đi còn kéo theo hậu quả là hàng trăm lao động và gia đình mà trước đây bị họ "bóc lột", nay không còn đường sinh sống. Như thế là có những người ra đi là bị buộc phải ra đi, chứ họ chẳng chống ai, chẳng thù ai. Những người này và cả những người mất việc đều thấy có một sự "khó hiểu" trong chính sách của cách mạng, mà không ai giải thích được cả.

3. Mỗi triết thuyết đều có cái lý của nó


(3)

Nhưng cứ giản lược hóa nó, rồi nhấn mạnh vai trò của nó quá mức cần thiết thì tất sẽ dẫn đến hậu quả tai hại khôn lường. Tôi nay đã ngoài 70 tuổi, nhờ đọc thêm được một số sách, nghe thêm được nhiều ý kiến, cũng mới nhận ra được điều này. Vấn đề ý thức giai cấp cũng thế thôi. Từ chỗ tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp trong sự bộn bề của đời sống con người và xã hội sẽ đi tới chỗ nguy hiểm do giải quyết nhiều vấn đề không còn chừng mực của nó nữa. Một hệ quả quan trọng của chủ nghĩa thành phần là vấn đề chuyên chính vô sản. Tôi đã trải qua nhiều lần sinh hoạt ở Trung ương (Ðảng) các khóa, và tôi nhớ là nhiều lần Trung ương đã thảo luận vấn đề này. Nhưng quả thật sự thảo luận đã không đi đến được sự lý giải rõ ràng và nó dừng lại ở chỗ thỏa thuận với nhau và trở thành tư tưởng chỉ đạo cho đến bây giờ, là :

- Phải chuyên chính với kẻ thù (giai cấp) và dân chủ với nhân dân lao động.

- Phải có bộ máy mạnh để chuyên chính với kẻ thù.

- Vì chế độ ta là một chế độ dân chủ, cho nên sự thực hiện chuyên chính chỉ nói trong nội bộ, chứ không công khai nói ra làm gì !

Như vậy là cứ làm mà không nói, trong một phương châm hành động cũng không nói ra là : "nói một đàng, làm một nẻo". Như vậy đây là trường hợp làm mà không nói. Có trường hợp khác thì lại cứ nói, nói càng nhiều càng tốt, nhưng chỉ cần nói thôi, chứ không làm. Ðiều này làm cho nhân dân gặp rất nhiều điều khó hiểu. Ðiều đó trở thành một đặc điểm của chính quyền cộng sản. Mà không phải chỉ có kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản mới nhận xét thế. Có nhiều người bạn trung thực của phong trào cộng sản, nhiều lý thuyết gia thế giới, cũng nhận xét như thế. Những dẫn chứng cho nhận xét trên đây có rất nhiều trong sinh hoạt hàng ngày của xã hội ta.

Khi có sự thảo luận, tôi phải tìm hiểu vấn đề, do vậy tôi đã tìm đọc Lênin trong những đoạn ông nói về chuyên chính vô sản. Về khái niệm này Lênin có nói ở nhiều chỗ, nhưng nội dung không giống nhau. Tôi nhớ có hai loại ý khác nhau :

a) Có chỗ Lênin cho rằng đó là chính quyền cách mạng của giai cấp vô sản, nó có nhiệm vụ xóa bỏ và triệt tiêu mọi tồn tích của chính quyền cũ (tư sản) vừa bị đánh đổ. Cho nên chuyên chính vô sản không dùng và không dựa vào bất cứ pháp luật nào của chính quyền cũ, mà chỉ hành động vì lợi ích của cách mạng, vì lợi ích của giai cấp vô sản.

b) Có chỗ thì Lênin nói rằng : chuyên chính vô sản là dân chủ vô sản. Mà dân chủ vô sản thì cao hơn dân chủ tư sản. Vì vậy chuyên chính vô sản không bao giờ coi đàn áp là quan trọng, thậm chí coi đàn áp là chủ yếu cũng không chấp nhận được. Phải coi trọng sự tổ chức và giáo dục.

Do không có điều kiện để tìm và trích nguyên văn, nhưng tôi bảo đảm là tôi đã nhớ đúng hai tinh thần đó. Nghĩa là : thực hiện chuyên chính vô sản là thực hiện một cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để xóa sạch mọi tàn dư của chính quyền cũ vừa bị đánh đổ theo ý "a" nói trên. Ðó là chuyên chính vô sản trong hoàn cảnh mới giai cấp vô sản mới giành được chính quyền. Nhưng đến khi ta đã xây dựng được chính quyền rồi thì chính quyền mới này phải là một chính quyền dân chủ cao hơn hẳn chính quyền tư sản. Chính quyền dân chủ mới này quản lý xã hội bằng tổ chức và giáo dục chứ không phải bằng đàn áp, bằng bạo lực. Vì vậy mà lâu nay trong lý thuyết mới có sự đề cập tới việc xây dựng một "nhà nước pháp quyền" và quản lý xã hội bằng một hệ thống luật pháp ăn nhập cả với các thông lệ luật pháp quốc tế. Một nhà nước dân chủ giữa các nhà nước dân chủ của thế giới. Hay biết bao ! Và ta sẽ có dịp tỏ rõ tính ưu việt của nền dân chủ vô sản.

Tôi đã từng biết, từng gặp những đồng chí luôn luôn biểu thị khí thế đấu tranh giai cấp quyết liệt, hò hét tiêu diệt mọi kẻ thù. Quan niệm "kẻ thù giai cấp" đã ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động của các cơ quan pháp luật. Hầu hết những người làm việc trong các cơ quan pháp luật đều cho rằng hễ ai mà đã phạm luật, hoặc bị nghi ngờ là có vi phạm đều phải coi là kẻ thù của cách mạng và các đồng chí đó đều đối xử với đối tượng ấy như đối với kẻ thù : từ cách nhìn khi gặp gỡ, tiếp xúc, cách hỏi cung, cách dẫn đi, cách cho ăn cho uống...

(4)

Tôi đã được đọc một số hồi ký của một số người bị bắt và bị tù, nghe lời kể trực tiếp hoặc gián tiếp của thân nhân những người bị tù. Những người bị tù trong chế độ ta không được đối xử như một người "nhân dân", như bất kỳ một công dân nào, mà như một kẻ thù. Số người được đối xử đặc biệt cũng có, nhưng ít ỏi.

Tôi có một bà chị có chồng là tù nhân trong thời đế quốc phong kiến, nay có con rể là tù cách mạng. Chị có kể chuyện về hai cuộc đi thăm tù : trước đi thăm chồng, nay (sau năm 1975) đi thăm con rể. Chị có một ấn tượng rất nặng nề khi phải so sánh hai cuộc đi thăm ấy : tù nhân thời nay cực hơn thời đế quốc. Trưóc nhận xét thẳng thắn của chị, tôi buồn rầu nghĩ rằng ta đã công bố nhiều chính sách hay, cũng đã có một số việc làm tốt được tuyên truyền rộng rãi. Chẳng lẽ ta không có cách gì xóa bỏ được ấn tượng nặng nề của tinh thần thù địch hay sao ?

4. Sự nhấn mạnh quá mức cần thiết về ý thức giai cấp hay tính giai cấp còn có một hệ quả tai hại và ngày càng tai hại cho xã hội. Gần đây Ðảng có đề ra khẩu hiệu liên kết công nông với trí thức, mà có người phấn khởi đã gọi tắt là liên kết "công nông trí". Một số trí thức đã hoan nghênh và coi đó là dấu hiệu tốt của con mắt Ðảng khi nhìn vào trí thức. Nhưng công thức này vẫn đặt trên nền tảng là công nông. Trí thức chỉ được coi như một bộ phận không thể không có. Cái "ý thức giai cấp" coi thường và không tin cậy đối với trí thức xuất phát từ quan điểm cho rằng khả năng cách mạng của trí thức quá thấp, nhất là trong đấu tranh bạo lực. Ðiều này là rõ và hiển nhiên. Nhưng ngoài ra cái nhìn về trí thức còn bao hàm ý nghĩa : trí thức thuộc tầng lớp trên, tầng lớp bóc lột. Hình ảnh của họ là những người không thể tin cậy, những người cần phải cảnh giác, nhất là trí thức văn nghệ sĩ. Một bậc đàn anh của tôi đã có lúc ân cần thân mật dặn tôi : "Mày phải cẩn thận, văn nghệ sĩ nó hay xỏ xiên lắm đấy !"

Tài năng không có ý thức để chọn chỗ đầu thai. Cho nên những tài năng có không chọn chỗ đầu thai vào công nông là chuyện bình thường. Nhìn lại lịch sử ta thấy những nhân vật lẫy lừng của cuối thế kỷ thứ XIV đầu thế kỷ XX của ta đều xuất thân từ các gia đình khoa bảng hoặc bản thân là trí thức, kể cả Hồ Chí Minh. Cái nguyên lý đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội không thể khi nào cũng đúng với mọi thời đại và mọi dân tộc được. Nhưng những con người tài giỏi, có trí thức đóng vai trò quyết định số phận của đất nước và của dân tộc thì hình như rất đúng với Việt Nam, cả trong lịch sử xa cũng như lịch sử gần. Thời đại nào, dân tộc nào cũng nổi bật lên vấn đề người tài, và cũng chỉ có người tài mới để lại được những giá trị và ấn tượng tốt đẹp cho các đời sau.

Tôi thấy hình như cái ý thức công nông không có khả năng thấy rõ được vấn đề này. Và khi ai đó đề cập đến vấn đề mà ý thức giai cấp buộc phải lên tiếng thì y như rằng có những người trình bầy như thể các tài năng đều của công nông, đều từ công nông mà ra, đều phải dựa vào công nông mới phát triển được.

Tôi thì tôi thấy ngược lại. "Ý thức giai cấp" công nông không thể nhận biết được hai nguyên lý đơn giản mà tôi học được ở các nhà khoa học, đó là :

a/ Tài năng là của hiếm.

b/ Tài năng là của tất cả nhân dân.

Vì vậy phải đối xử với tài năng như là của hiếm, và của hiếm đó là tài sản quý của tất cả mọi người. Ngày xưa, vua chúa còn có khi tha tội hoặc xóa tội cho những người tài.

Nhưng "ý thức giai cấp" thì không. Từ "ý thức giai cấp" quá mạnh dẫn đến nhận thức cứng nhắc và mơ hồ chung quanh vấn đề "đức" và "tài". Khi nêu lên quan hệ "đức" và "tài" thì cho rằng "đức" phải là gốc. Hơn nữa, khái niệm "đức" được nói đến chỉ với ngụ ý về một số phẩm chất đặc trưng của công nông. "Ðức" chỉ là yêu quý và tích cực lao động (chân tay), không tham ô, hủ hóa, mà ít có gắn đức với những phẩm chất khác như trung thực, khiêm tốn, nhân ái, thương người, làm việc có hiệu quả. Vì vậy rất khó tìm đúng người đặt đúng việc.

Năm 1978, trong cuộc gặp gỡ giữa đồng chí Nguyễn Văn Linh với các văn nghệ sĩ, một nhà lý luận văn học đã phải thốt lên : "văn nghệ sĩ bị khinh bỉ sâu sắc". Còn nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện thì phàn nàn: "Có những thành kiến như những bản án, mà là án chung thân, treo lơ lửng trên đầu một số văn nghệ sĩ".

Tôi, thì tôi thấy rõ : "Cái ý thức giai cấp" trong xã hội ta có những đặc điểm sau :

  • Không có khả năng và phương pháp để phân biệt tài năng, vì nó không cần đến tài năng, không muốn có tài năng.

  • Không có khả năng và không biết sử dụng tài năng, vì nó cho rằng tài năng thường có hại, tài năng không chịu ngoan ngoãn phục tùng.

  • Nó lại càng không có khả năng phân biệt tài năng thật và tài năng giả. Nó chỉ thích nghe những điều xuôi chiều và xu nịnh. Nó không thể chịu được những cái độc đáo và không dung tha sự độc lập. Có những hiện tượng tác phẩm được giải thưởng nhưng không ai muốn đọc, muốn xem. Ngược lại, một số tác phẩm càng bị cấm, càng nhiều người tìm đọc. Tôi cho đây là một điều cần nghiêm túc xem xét, chứ không phải chuyện nói đùa chơi.

Ðáng buồn là như vậy. Nó (cái ý thức giai cấp) mất luôn cả khả năng phân biệt và nhận biết những lẽ phải thông thường. Có một hiện tượng hết sức nguy hại cho vận mệnh của dân tộc và quốc gia. Ðó là hiện tượng học giả, bằng giả, học hàm, học vị mua được bằng tiền. Những tác động nào đã đẻ ra tình trạng đó ? Ðó có phải là chính sách văn hóa của nhà nước công nhân không ? Có cần phải có những chính sách hạn chế được cái giả mà khuyến khích được cái thật không ? Riêng một người, hoặc một nhóm ai đó, thì không thể nghĩ ra cái chính sách ấy được. Khuyến khích nghĩ sâu, khuyến khích nói thẳng thì sẽ không thiếu gì giải pháp chính sách. Nhưng khổ nỗi, với cái ý thức giai cấp xơ cứng thì không sao làm được.

Gần đây, và cả hiện nay, có một từ được lưu hành một cách bán chính thức. Ðó là từ kẻ sĩ hoặc sĩ phu. Không biết ông trí thức, tác giả một số bài luận văn ký tên Hà Sĩ Phu có ý muốn bộc lộ nỗi lòng mà cất cao giọng hỏi : "Còn ai là sĩ phu nữa hay không ? Sĩ phu thời nay là ai và họ ở đâu rồi ?". Tôi thấy hiện tượng lưu hành từ kẻ sĩ sĩ phu là một sự phản ứng tế nhị nhưng dữ dội của giới trí thức trước tình hình bị đánh giá không đúng. Hai từ ấy có tác dụng giúp người ta phân biệt và nhận mặt kẻ giả và người thật.

Kẻ sĩ hay bậc sĩ phu có ngụ ý chỉ người hiểu sâu, học rộng (trí thức), nhưng lại là người trung thực và khảng khái, dám nói và nói thẳng. Như vậy từ kẻ sĩ có ngụ ý kêu gọi mọi người trí thức dù cao dù thấp, hãy xứng đáng là một kẻ sĩ, xứng đáng là một sĩ phu mà làm tròn trách nhiệm với đời như các bậc sĩ phu tiền bối. Nó cũng có ngụ ý lời tâm huyết của tầng lớp trí thức nói với giới lãnh đạo và quản lý : "Hãy để cho kẻ sĩ tự do nghĩ và tự do nói lời của mình". Mà lời của kẻ sĩ (thật) thì thường khác với lời chính thống. Ðó là dấu hiệu tốt để phân biệt thật giả. Mà hiện nay thật giả bị trộn lẫn, khó phân.

Cần khắc phục cái "ý thức giai cấp quá mức cần thiết", cần đánh giá lại vai trò của trí thức, của kẻ sĩ trong sự phát triển của đất nước. Càng nhiều kẻ sĩ góp lời và thi thố tài năng thì đất nước càng có điều kiện phát triển và mới phát triển được. Ðiều này không hề làm giảm vai trò của Ðảng cộng sản, mà trái lại, nó làm rõ thêm, sáng thêm đôi mắt và tấm lòng của Ðảng đối với đất nước, đối với kẻ sĩ. Ðó mới là chính trị sáng suốt. Ý thức công nông đúng đắn là phải tôn trọng và biết ơn giới trí thức (kẻ sĩ) là những người phát minh, sáng chế, tạo điều kiện cho công nhân sản xuất ra những giá trị vật chất ngày càng cao và cũng chính họ sản xuất ra những giá trị tinh thần cho xã hội rất cần thiết cho sự sinh tồn của một xã hội văn minh. Không thể để cho sự biến dạng ý thức giai cấp này kéo dài thêm nữa !!!

5- Có một điều lạ là để giải quyết các vấn đề của một dân tộc, một xã hội, phải có sự hiểu biết kỹ và sâu của xã hội đó, dân tộc đó

Ðến nay, Cách mạng Tháng Tám 1945 đã được hơn 50 năm, thắng lợi độc lập, thống nhất độc lập dân tộc đã được hơn 25 năm, mà chưa có một ý kiến nào đề ra việc phân tích xã hội ta hiện nay, tuy nhiều người vẫn thấy mình đứng trên lập trường giai cấp rất vững vàng. Riêng tôi, tôi nghĩ lập trường phải phù hợp với thực tiễn đời sống cụ thể, chứ không thể chỉ dựa vào kinh điển và những thứ "kinh điển" cần có dấu hỏi. Hình như hiện nay, khi phân tích xã hội Việt Nam về giai cấp vẫn còn những ý kiến từ trước Cách mạng Tháng Tám, khi đồng chí Trường Chinh còn là tổng bí thư. Bằng chứng là cho đến nay có người vẫn còn sử dụng những ý kiến phân tích giai cấp của xã hội ngày đó.

Còn ngày nay, giai cấp nông dân đang biến động thế nào, trong nông thôn xuất hiện thêm những tầng lớp nào ? Tâm lý và nguyện vọng của nông dân hiện nay ra sao ? Công nhân đang phát triển thế nào ? Có bao nhiêu thứ công nhân ? Bao nhiêu tầng lớp nông dân ? Ý kiến cho rằng tất cả công nhân viên, cán bộ các cơ quan nhà nước đều thuộc giai cấp công nhân có thỏa đáng không ? Những người làm thuê cho các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh với nước ngoài có hoàn toàn giống như công nhân các doanh nghiệp nhà nước không ? Có thể hiện nay có những lớp người không thể quy là nông dân hoặc công nhân ? Dân nghèo thành thị có phải là một giai cấp không ? Có cần phải thừa nhận có một lớp người làm các nghề tự do như nhà báo, thầy thuốc, văn nghệ sĩ..., và những người đó có phải là nhân dân lao động hay không ? Rõ ràng hiện nay xuất hiện nhiều nhóm xã hội khác nhau ở nông thôn cũng như ở thành thị. Ta cần phân tích và miêu tả nó như thế nào để làm nền tảng cho ý thức giai cấp hiện nay cho thật phù hợp. Không làm việc này mà chỉ hò hét lập trường quan điểm để rồi có người chê là giáo điều, bảo thủ thì lại giận.

Tóm lại, phải thể hiện rõ sự tôn trọng lý thuyết giai cấp của Mác-Lênin ở vấn đề này một cách thiết thực như vậy. Ðảng cần tập trung tinh lực, thời gian, trí tuệ, và tiền của vào những công việc nghiên cứu mà kết quả của nó đem lại điều kiện tốt đẹp cho sự lãnh đạo chính trị của Ðảng, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Ðảng.

***

Chủ nghĩa Mác-Lê về vấn đề giai cấp gồm nhiều vấn đề sâu rộng. Có thể có nhiều cách diễn giải tốt hơn (tôi không nói đúng hơn, vì có nhiều cách giải thích đúng và cái gì là đúng nhất là điều chưa thể có câu trả lời). Tôi đã được biết những ý kiến thảo luận chung quanh vấn đề giai cấp vô sản và sức mạnh của giai cấp vô sản quốc tế. Có ý kiến cho rằng cái lý thuyết của Mác dẫn Mác đến chỗ Mác phải có kết luận như vậy. Chứ thực ra xã hội loài người đang biến động, và sự biến động này chắc chắn không khớp với những tiên đoán của Mác.

Thật là mênh mông. Tôi chỉ dám đứng ở ngoài ngõ mà nhìn vào thôi. Tôi không đủ sức diễn giải được. Nhưng những gì tôi đã trải qua và nghiệm thấy, tôi thấy rõ trong xã hội ta có một sự hiểu biết vấn đề này quá giản lược và trong quá trình vận dụng sự hiểu biết ấy vào cuộc sống thì có nhiều biến dạng. Những biến dạng đều sinh ra những tai hại trong quan hệ xã hội và chính sách. Tôi cũng là người góp phần vào sự biến dạng đó. Nay tôi viết bài bút ký này với tinh thần phê bình rất thành thật, tôi mong có thể tìm được một bài học chung cho đời. Giờ đây, tôi thấy rất rõ là nếu chỉ biết chủ nghĩa Mác thôi thì chưa đủ, dù cho nó có hay đến bao nhiêu đi nữa, thì vẫn cứ cần phải đọc thêm để có được những hiểu biết về các học thuyết, các triết học khác, của cả phương Ðông lẫn phương Tây.

II. Chung quanh việc Ðảng


(5)

Tôi được kết nạp vào Ðảng cộng sản hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1940, lúc tôi 17 tuổi. Lần thứ hai vào năm 1943, trong nhà tù Sơn La. Lúc ấy tôi được chi bộ nhà tù Sơn La kết nạp lại, sau khi theo dõi, thử thách. Anh Lê Ðức Thọ là người giới thiệu tôi để kết nạp.

Từ bấy đến nay đã 58 năm, trải qua nhiều sự kiện lịch sử khác nhau :

- Những năm tháng vận động quần chúng bí mật để xây dựng lực lượng tổng khởi nghĩa, giành chính quyền.

- Những năm tháng kháng chiến chống Pháp với những chiến dịch và kết thúc bằng chiến dịch lớn Ðiện Biên Phủ.

- Những năm tháng đất nước bị chia cắt, tôi sống trong hoàn cảnh hòa bình ở miền Bắc với những sự kiện : cải cách ruộng đất, hợp tác hóa nông nghiệp, quân đội học tập và tập luyện.

- Tôi lại được tham gia kháng chiến ở miền Nam khoảng 10 năm (1965-1974).

- Rồi tôi lại được sống trong thắng lợi và hòa bình, tiếp xúc nhiều với văn nghệ sĩ, học tập được nhiều ở giới trí thức văn hóa, văn nghệ.

- Suốt từ năm 1960 đến năm 1992 tôi liên tục là ủy viên trung ương Ðảng 4 khóa.

Do đó, tôi tự cho rằng tôi có đủ điều kiện để nhận biết sự biến động, sự chuyển biến vận mệnh của Ðảng, và có thể có một nhận xét về những sự chuyển biến đó.

Rõ ràng, Ðảng từ những năm 1940 chỉ có mấy nghìn đảng viên, nhưng Ðảng có ảnh hưởng rất lớn và rất rộng trong nhân dân. Nhân dân ai cũng biết có Ðảng Cộng sản. Hướng về Ðảng Cộng sản. Những lời kêu gọi và ý kiến lãnh đạo của Ðảng đều hết sức đơn giản, dễ hiểu, nhưng đều lay động lòng người sâu sắc (cả trực tiếp lẫn gián tiếp). Ðảng đã có nhiều ý kiến lãnh đạo đưa đất nước vượt qua được nhiều thử thách và bước ngoặt hiểm nguy, đi tới thắng lợi ngày nay : độc lập, thống nhất đất nước.

Có một nhận xét của không ít người là mỗi khi Ðảng gắn với nhân dân, gắn với dân tộc, suy nghĩ và hành động phù hợp với suy nghĩ và nguyện vọng của nhân dân thì Ðảng thắng lợi rất vẻ vang. Ngược lại, khi Ðảng làm theo, học tập theo một "Ðảng anh em " nào đó, mà kinh nghiệm du nhập không phù hợp với hoàn cảnh dân tộc và đất nước thì đều có những bài học cay đắng. Cuộc cải cách ruộng đất và một số vụ trấn áp trong Ðảng đã để lại nhiều vết thương sâu và chắc còn hậu quả lâu dài nếu không có cách nào thanh toán đi được.

Lịch sử Ðảng Cộng sản Việt Nam là một lịch sử thắng lợi vẻ vang. Nhưng không phải chỉ có thắng lợi vẻ vang, mà có những lúc, những việc, gây tổn thất và đau xót trong Ðảng và nhất là trong nhân dân. Có những sự kiện mà có lẽ hàng trăm năm sau những nhà làm sử sẽ đánh giá lại. Khoảng cách thời gian có thể cho ta cái nhìn khách quan hơn và đúng đắn hơn. Không thể nóng vội hơn được. Nhưng không thể vì thế mà đi đến chỗ coi Ðảng Cộng sản chỉ là một lực lượng tàn bạo, chỉ có đàn áp và làm hại nhân dân, làm hại dân tộc, cần phải đánh đổ và thay bằng lực lượng khác. Cách nhìn nhận như thế là của những đầu óc thù địch, thiên lệch, không thể chấp nhận được. Thực tế hiện nay không có lực lượng nào thay thế được Ðảng Cộng sản.

Lịch sử của Ðảng gắn liền với lịch sử dân tộc. Ai nhìn lịch sử dân tộc mà tách khỏi lịch sử Ðảng Cộng sản là không được.

Ðến nay có thể thấy hình ảnh Ðảng Cộng sản là hình ảnh một cây cổ thụ xum xuê, thân hình lực lưỡng, gốc rễ sâu chắc. Vì Ðảng có đã hơn hai triệu đảng viên. Ðảng có những tổ chức quần chúng : công, nông, thanh, phụ, bao gồm nhiều chục triệu hội viên tích cực ủng hộ Ðảng và sẵn sàng nghe theo Ðảng.

Nhưng cũng có thể có một nhận xét là Ðảng ngày nay tuy đông và mạnh như thế, nhưng nhân dân nói chung không gần Ðảng hơn mà lại xa hơn. Lòng tin đối với Ðảng giảm sút nghiêm trọng, nếu không muốn nói là lòng tin ấy đã mất hẳn.

Vì vậy có thể nói tuy cây Ðảng bây giờ to lớn xum xuê về số lượng, nhưng thân cây và gốc cây có mang các bệnh hoạn nào đó mà chưa được chẩn đoán đúng để chữa trị.

Ngay từ khi gia nhập Ðảng, tôi đã thấm nhuần những nguyên lý về việc xây dựng một Ðảng kiểu mới - một đảng chiến đấu, là đội quân tiên phong và đội quân chiến đấu của giai cấp công nhân. Ðảng Cộng sản vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của toàn dân tộc. Ðảng Cộng sản là một đảng kiểu mới so với những đảng chính trị trước năm 1930, trong đó có Quốc Dân Ðảng của anh hùng Nguyễn Thái Học. Những đảng ấy không thiếu tinh thần yêu nước và đức hy sinh, nhưng có nhiều nhược điểm về tổ chức đảng, không thể trở thành một sức mạnh lớn đưa cách mạng tới thành công.

Ðảng Cộng sản là một đảng chiến đấu, cho nên mỗi đảng viên phải là một chiến sĩ, một người cách mạng chuyên nghiệp. Ðiều đó vừa là vinh dự lớn vừa là trách nhiệm nặng nề.

Ngày nay Ðảng đang lãnh đạo sự nghiệp phát triển đất nước và lãnh đạo một bộ máy nhà nước và một bộ máy xã hội khổng lồ. Việc thảo luận và phân tích tính chất chính trị của Ðảng có một ý nghĩa to lớn. Không thể cho rằng tính chất của Ðảng vẫn y nguyên như những năm trước năm 1945 và trong hai cuộc chiến tranh được. Nếu cứ giữ cái quán tính trong suy ngẫm từ mấy chục năm cho đến bây giờ để xử lý các vấn đề hiện tại về xây dựng Ðảng thì chắc chắn sẽ có sai lầm, hoặc ít nhất là không có hiệu quả.

Nguyên tắc tập trung dân chủ là một nguyên tắc cơ bản của Ðảng Cộng sản. Nguyên tắc này làm nên sức mạnh của Ðảng. Nó có những nguyên tắc chính yếu như sau :

  • Thiểu số phục tùng đa số.

  • Cấp dưới phục tùng cấp trên.

  • Toàn Ðảng phục tùng Ðại hội và Ban Chấp hành Trung ương.

Tất cả đều xoay quanh chữ "phục tùng". Sự phục tùng này đáp ứng yêu cầu thống nhất ý chí, thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động. Sự thống nhất này tạo nên sức mạnh to lớn. Vì vậy sự phục tùng này phải là vô điều kiện. Trong mấy chục năm tôi là người thực hiện sự phục tùng này rất tự nguyện và luôn phấn khởi. Tôi cũng là người đòi hỏi cấp dưới phục tùng vô điều kiện. Sự phục tùng vô điều kiện này trong chiến tranh tạo nên một sự thông suốt tốt đẹp trong sự chỉ đạo và chỉ huy và mỗi ý tưởng chỉ đạo lập tức biến thành sức mạnh hành động trong toàn đơn vị, hay toàn Ðảng. Vì vậy, nguyên tắc này không thể chấp nhận bất cứ một sự phản đối nào, một sự phê phán nào, thậm chí một sự nhận xét nào. Và như thế ý kiến cấp trên bao giờ cũng đúng, luôn luôn đúng, và chỉ có đúng mà thôi ! Ðiều này có hệ quả tất yếu của nó là sinh hoạt trong Ðảng về thực chất chỉ là sự quán triệt và phục tùng ý kiến cấp trên. Trong chiến tranh, do điều kiện đất nước và điều kiện xã hội có những đặc thù của nó, nguyên tắc nói trên là chấp nhận được.

Nhưng ngày nay, khi tình hình đất nước và xã hội đã biến đổi, hoàn toàn khác xa hoàn cảnh thời chiến, do vậy khi sự quán triệt nói trên gặp phải những nội dung mơ hồ và cũ kỹ thì sinh hoạt trong Ðảng không thể có chất lượng được. Có gì buồn hơn khi giá trị một ý kiến không phụ thuộc vào chất lượng ý kiến đó mà phụ thuộc vào người phát biểu ý kiến đó là ai, thuộc cấp bậc nào, và ý kiến đó phục tùng ý kiến nào. Một nhà trí thức văn hóa nói với tôi nhận xét của mình một cách thẳng thắn như sau : "Hôm trước anh chưa là ủy viên trung ương thì anh không biết cái gì hết. Hôm nay anh đã là ủy viên trung ương rồi thì anh biết rất nhiều, rất nhiều người phải hỏi anh, xin ý kiến anh, và thế là tự nhiên anh cũng có rất nhiều ý kiến chỉ đạo để mà phân phát, anh buộc phải có nhiều ý kiến để mà cho".

Tôi thấm cái câu ấy lắm, càng ngày càng thấm thía. Nhiều phen tôi rất ngượng và tự xấu hổ với mình vì những lời khen tặng, về những ý kiến "rất sâu sắc", "sáng rõ" của mình.

Thực hiện điều nói trên thì tự nhiên nảy sinh mặt trái của nó. Mặt trái này lại tiếp tục phát triển và ta thấy những kết quả tất yếu như sau :

  • Một tình trạng bao cấp về tư duy, tư tưởng (như một văn nghệ sĩ quá cố đã nói).

Mỗi người đều không phải là một chủ thể tư duy, vì đã có cấp trên tư duy hộ, vì cấp trên bao giờ cũng đúng, cấp dưới chỉ cần chờ ý kiến chỉ đạo, hết ý kiến này cấp trên lại cấp cho ý kiến khác. Cấp dưới có tư duy thì chỉ là tư duy để chấp hành. Mọi ý nghĩa sáng tạo trong tư duy hầu như bị triệt tiêu. Các văn nghệ sĩ chân chính thẩy đều bất bình và không chấp nhận sự bao cấp về tư duy và tư tưởng. Vì mọi người chỉ cần nghĩ và nói theo một khuôn, một kiểu, một câu là được rồi, là dễ sống hơn rồi, thì còn cần gì đến văn học nghệ thuật nữa.

Tình trạng này mâu thuẫn với tình trạng bình thường của cuộc sống. Vì cuộc sống vốn có bản chất sinh động và phong phú. Hiện nay, cả người trẻ lẫn người già đều ngấy đến tận cổ những cuộc họp có những diễn văn nhắc đi nhắc lại nhiều lần một số khẩu hiệu cũ kỹ. Tình trạng này làm tê liệt mọi sự sinh động và hào hứng trong sinh hoạt. Trước đây, trong cách mạng và chiến tranh, mỗi lần hội họp nhau lại là có những vấn đề mới phải giải quyết, nhiệm vụ mới phải hoàn thành. Ngày nay không có điều đó nữa.

Tình trạng nói trên tất yếu dễ đến một câu trả lời tiêu cực, một cách không thể tránh được câu hỏi : "Ðảng là ai ?", mỗi khi người ta nói "ý Ðảng" là thế này, "chủ trương của Ðảng" là thế nọ, "Ðảng muốn" như vậy... Trong thực tế câu trả lời hiển nhiên là : Ðảng là một nhóm người quan trọng trong cấp ủy và tập trung hơn nữa, là ông Bí thư. Việc gì mà ông Bí thư hoặc một nhóm người trong cấp ủy muốn, tức là Ðảng muốn. Chẳng lẽ nói cái gì của Ðảng cũng có nghĩa là có ý kiến của hơn hai triệu đảng viên ? ! Mỗi đảng viên bình thường phải làm theo ý kiến và mệnh lệnh của Ðảng thể hiện qua các nghị quyết, và không được tự coi mình là Ðảng. Nhưng vì là tập trung dân chủ, cho nên vai trò của bí thư và cấp ủy tất nhiên là quan trọng, không thể khác được. Thế mà ở một số cấp có một số đồng chí bất cứ lúc nào cũng nói năng và hành động như thể các đồng chí ấy thay mặt Ðảng và nhân danh Ðảng. Vậy Ðảng là các đồng chí ấy rồi còn gì, "lôgích" quá rồi còn gì ? ! Còn phải Ðảng là ai làm gì nữa !


(6)

  • Tình trạng nói trên cũng đưa tới một hệ quả hiển nhiên là sùng bái cá nhân. Sùng bái cá nhân không phải chỉ là một tệ nạn tạm thời và của riêng Ðảng cộng sản Liên Xô. Nó là kết quả tất yếu của tập trung dân chủ. Vì bí thư và một số đồng chí chủ chốt là quan trọng nên hàng ngày phải đề cao vai trò của các đồng chí ấy, phải ca ngợi các đồng chí ấy, phải coi từng câu nói của các đồng chí ấy như ánh sáng soi đường, phải trích dẫn những câu ấy để thêm sức nặng cho các văn kiện. Phải bảo vệ uy tín cho các đồng chí ấy, phải khôn khéo dập tắt những nhận xét có hại cho các đồng chí ấy. Cũng vì lẽ đó mà một cán bộ quan trọng về tư tưởng - văn hóa của Ðảng đã phê phán việc các báo đưa tin về chuyện đời tư của tổng thống Mỹ. Cán bộ này lo cho tổng thống Mỹ mất uy tín hơn cả nhân dân Mỹ, vì nhân dân Mỹ được thông báo nhiều chi tiết gấp trăm lần báo chí ta. Chuyện cứ như đùa mà có thật.

Nói về vai trò của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, ai cũng thừa nhận nó có sự cần thiết thực sự trong cuộc sống, nhưng nếu chỉ biết có thế mà không cần có những cơ chế giới hạn nó thì mặt trái của nó tất yếu phải dẫn tới chỗ làm hư hỏng cán bộ, và tai hại hơn nữa là nó mang lại nhiều điều khốn khó cho đảng viên thường và nhân dân.

  • Tập trung dân chủ trong Ðảng đã có những điều khúc mắc, thế mà lại đem nó áp dụng cho toàn xã hội thì còn khúc mắc ghê gớm đến chừng nào ? Trong khi đó thì chúng ta đang nhằm tới mục tiêu là một xã hội công bằng và văn minh, cũng tức là một xã hội có tự do và dân chủ. Cái tập trung dân chủ sống trên nền tảng tâm lý tiểu nông và tâm lý tôn ti trật tự của xã hội phong kiến thì lại càng có sự biến dạng và phát triển mặt trái nhiều hơn. Ngay trong thời gian hai cuộc kháng chiến, những lời kêu ca về tệ nạn cấp bậc cũng không ít. Tệ nạn quá lệ thuộc vào cấp bậc lại còn phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong môi trường bộ máy nhà nước nằm trong tay Ðảng.

  • Nhiều ý kiến cho rằng sở dĩ có tham nhũng là vì có "một bộ phận (nhỏ) thoái hóa và biến chất". Tôi cho là không phải. Sở dĩ có tham nhũng và càng chống lại càng tràn lan là vì thể chế của ta tạo ra điều kiện cho những người có quyền lực, dù nhỏ, cũng có thể dựa vào quyền lực đó mà mưu lợi cho mình. Ta thiếu một cơ chế có "phanh hãm" những người có quyền lực, thiếu sự giám sát những người có quyền lực đó, cho nên không thể chống tham nhũng được.

  • Vấn đề trên đây lại có liên quan tới quan niệm về luật pháp. Ở Việt Nam có một nhận thức phổ biến là : luật pháp làm ra chủ yếu để cho dân, dân phải chấp hành. Trong các nguyên nhân của tình trạng tiêu cực hoặc các tệ nạn thông thường người ta hay nói đến nguyên nhân là sự hiểu biết luật pháp của dân còn thấp. Tôi thấy cần phải nhận thức ngược lại. Luật pháp làm ra để cho các cơ quan nhà nước. Người nhà nước phải là người hiểu biết đầy đủ về luật pháp và chấp hành nghiêm chỉnh các điều luật pháp quy định. Ở nước ta, hình như các cơ quan và người của các cơ quan nhà nước được châm chước về luật pháp và hay tùy tiện vận dụng các điều luật đã được quy định. Ở các nước dân chủ (mà ta thường miệt thị gọi là dân chủ tư sản) người ta sống khác, ở đó thực sự có sự bình đẳng của mọi người trước luật pháp. Tổng thống cũng phải ra khai trước các thẩm phán, thề trước luật pháp, nếu khai man, nói dối, có thể bị luận tội và phế truất. Ở nước ta cũng có nhiều văn bản ghi rõ "Mọi công dân đều bình đẳng trước luật pháp". Nhưng đó là nói để mà nói, trong thực tế lại không như vậy.

  • Tôi có đọc cuốn "Hoàng Việt Luật Lệ ", cuốn sách giới thiệu luật Gia Long. Trong bộ luật Gia Long có những khoản quy định hình phạt, kể cả hình phạt cho quan tòa ra án phạt sai (nhẹ quá hoặc nặng quá), tức là luật bắt cả người xử sai cũng phải chịu phạt, với những hình phạt được quy định rõ. Ðủ thấy trong lịch sử nước ta đã từng có những điều luật tiến bộ, đầy tính nhân văn. Hình như ít có ai chú ý tới điểm này.

  • Nói tóm lại, tập trung dân chủ có nhiều ưu điểm trong đấu tranh cách mạng và trong chiến tranh. Nhưng cứ kéo dài mãi thì nó sẽ phát triển biến dạng từ mặt trái của nó về phía bệnh hoạn. Sự biến dạng ấy dẫn đến những hệ quả tai hại lớn : tạo nên một chế độ tập trung quan liêu, triệt tiêu dân chủ, triệt tiêu tính tích cực sáng tạo của các chủ thể cá nhân, tạo điều kiện cho sự phát triển đặc quyền, đặc lợi, và đó là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn tham nhũng.

  • Mỗi nguyên tắc đều có ý nghĩa tích cực trong môi trường của tình thế và giai đoạn. Không có nguyên tắc hoặc nguyên lý nào luôn luôn đúng và mãi mãi đúng. Nhu cầu phân tích và thảo luận lại vấn đề tập trung dân chủ là cần thiết. Ðó không phải là yêu cầu "phủ nhận" hay "phản động" như có một số kẻ dốt nát thường nói. Không ai tán thành dân chủ vô chính phủ, nhưng cũng không ai chịu được sự tập trung quan liêu. Tôi rất ngán những người nói lăng nhăng về vấn đề này.

***

Về phương thức lãnh đạo Ðảng.


(7)

Ta hãy xem lại phương thức "lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, triệt để", cả về tư tưởng và tổ chức, xem phương thức ấy phát sinh thế nào và trong điều kiện nào ?

Tôi nhớ lại thì phương thức ấy ta học của Ðảng Cộng sản Trung Quốc. Ðảng Cộng sản Trung Quốc nêu lên phương thức đó, nhấn mạnh tới việc Ðảng xây dựng và lãnh đạo lực lượng vũ trang. Ðảng phải trực tiếp nắm chặt lực lượng vũ trang cách mạng, không thể để cho một lực lượng chính trị nào có ảnh hưởng trong các lực lượng vũ trang cách mạng mà Ðảng cộng sản xây dựng và lãnh đạo.

Tuy từ năm 1945, khi chính phủ ban sắc lệnh 71 về xây dựng lực lượng quân đội quốc gia, tôi đã tích cực đóng góp vào việc đấu tranh cho chế độ công tác chính uỷ trong quân đội, nhưng tôi chỉ mới nhận thức sơ lược và đơn giản là quân đội thì phải có công tác chính trị, thế thôi. Ðó là nhờ đọc được về điều đó trong vài cuốn sách mỏng mà anh Văn (đồng chí Võ Nguyên Giáp) trao cho tôi. Mãi tới năm 1950, tôi được làm việc trực tiếp với quân giải phóng nhân dân Trung Hoa ở chiến dịch biên giới, và sau đó nhiều năm làm việc với các đồng chí cố vấn Trung Quốc, nhận thức của tôi mới được bồi bổ và nâng cao thêm. Viết đến đây, tôi thấy cần phải nói rằng bất luận là thế nào, tôi cũng vẫn biết ơn Ðảng Cộng sản Trung Quốc, giải phóng quân Trung Quốc trong sự nâng cao nhận thức quân sự và chính trị.

Như vậy rõ ràng là phương thức (hay nguyên tắc) lãnh đạo này đã phát sinh trong việc lãnh đạo quân đội. Nó đã tồn tại và phát triển suốt trong hàng chục năm chiến tranh. Mà trong chiến tranh thì lãnh đạo chiến tranh và lãnh đạo quân đội cũng là một mà thôi.

Từ phương thức này mà Ðảng trở thành Ðảng của quyền lực tối cao. Ðảng ta vẫn phê phán và chống lại ách "Ðảng trị", nhưng trong thực tiễn thì Ðảng thực hành triệt để nhất sự Ðảng trị.

Ðảng là nơi quyền lực tối cao, mà nơi thay mặt Ðảng và nhân danh Ðảng là Bộ Chính trị và một số nhỏ đồng chí trong Bộ Chính trị. Bộ Chính trị quyết định mọi việc của chính phủ, của Quốc Hội, phê duyệt mọi việc của các tổ chức xã hội, quyết định tất cả nhân sự của tất cả các cơ quan, kể cả cơ quan dân cử. Chẳng thế mà trong dân gian có câu "Ðảng cử, dân bầu".

Ấy là vì Ðảng đã thực hành nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối cả về tư tưởng và tổ chức. Cho nên các cơ quan của Ðảng, đặc biệt là các cơ quan tuyên huấn và tổ chức, mới trở thành cơ quan quyền lực đứng trên toàn xã hội. Cơ quan tuyên huấn trước đây chỉ làm việc tuyên truyền và huấn luyện trong Ðảng, tạo điều kiện cho các đảng viên hoạt động trong nhân dân, thì nay là cơ quan tư tưởng - văn hóa nắm và chi phối toàn bộ các tổ chức thông tin, báo chí, các tổ chức văn nghệ. Tình hình này đã xóa bỏ nhiều điều trong Hiến pháp, mà Hiến pháp ở nước ta thì đã được chính Ðảng cộng sản, chứ không phải ai khác, chỉ đạo và quyết định trước khi đưa ra Quốc Hội.

Vậy thì rõ ràng ta không có dân chủ.

Tuy thế, vẫn có người nói rằng nhân dân ta hơn 90 % đi bầu Quốc Hội, ứng cử viên và đại biểu Quốc Hội đi gặp gỡ cử tri trước và sau khi họp Quốc Hội... rồi lớn tiếng tự hào : Liệu trên thế giới này có nơi nào dân chủ bằng Việt Nam ???

Khi tôi hoạt động ở Quốc Hội, tôi có dịp thấy rõ lòng dân. Ðoàn đại biểu của Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc Hội do tôi làm chủ nhiệm khi đi các địa phương thường được giới thiệu rất trang trọng. Cán bộ giúp việc chúng tôi ở Văn phòng Quốc Hội khi đến các địa phương thường rất tự hào và tự tin giới thiệu tôi với chức danh ủy viên Ban chấp hành trung ương Ðảng. Khi tôi hết nhiệm kỳ khóa VI của Ðảng, không còn ở trong Trung ương nữa, thì khi công tác các đồng chí giúp việc hết sức băn khoăn là trong đoàn không có ủy viên trung ương thì liệu địa phương có thèm tiếp hay không ? Thế có nghĩa là người ta mặc nhiên thừa nhận chế độ Ðảng trị.

Tôi thấy lòng dân thế này : khi chúng tôi tiếp xúc với cử tri, được người ta giới thiệu với các chức danh : chủ tịch, chủ nhiệm, ủy viên... thì cử tọa vỗ tay lẹt đẹt, tỏ vẻ lịch sự một cách lạnh lùng. Nhưng khi trong đoàn chúng tôi có những văn nghệ sĩ có tác phẩm nổi tiếng, tôi tranh thủ giới thiệu bổ sung : đây là tác giả "Ðiêu Tàn", đây là tác giả "Bão Biển", tác giả "Nổi Gió", tác giả "Nổi Lửa Lên Em" và nói đùa rằng trong đoàn chúng tôi toàn những gió, bão và lửa thì cử tri tỏ rõ một nhiệt tình hết sức nồng nàn, và những đại biểu đó được mọi người đón tiếp, tìm gặp về sau rất lâu. Mới thấy là nhân dân biết rất rõ giá trị của từng đại biểu, họ rất hoan nghênh và yêu mến những người mang đến cho họ một giá trị nào đó, chứ còn chức vụ chỉ làm cho họ ngán ngại mà thôi. Phải đáp ứng trúng lòng dân mới gọi là dân chủ, gọi là để dân làm chủ. Còn chỉ hô khẩu hiệu và cổ động rầm rộ cái gọi là xã hội hóa, coi đó là để dân làm chủ thì hiệu quả ắt ngược lại. Càng xã hội hóa nhiều thì dân càng phải đóng góp nhiều hơn : nào là giáo dục,y tế, văn hóa, nào là đền ơn đáp nghĩa, chống tệ nạn này tệ nạn khác vv...

Nước ta chưa thể coi là nước có dân chủ, mà là một nước không dân chủ. Phương thức lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đi ngược lại với xu thế dân chủ hóa là nguyên nhân sâu xa của tình trạng không có dân chủ. Phương châm toàn diện tuyệt đối ấy còn liên quan tới một phương châm khác là phương châm "chính trị là thống soái". Phương châm này do Mao Trạch Ðông đề xướng, Ðảng ta cũng tiếp nhận phương châm này một cách sâu sắc. Vì yêu cầu giành thắng lợi cho cách mạng là yêu cầu lớn và bức thiết, yêu cầu "tất cả cho chiến thắng" của chiến tranh cũng vậy. Mục tiêu của chiến tranh cách mạng là mục tiêu chính trị, tất yếu chính trị là cực kỳ quan trọng. Tất cả mọi hoạt động đều phải nhằm vào mục tiêu đó. Cái gì quan trọng đều có ý nghĩa chính trị. Nhiệm vụ nào quan trọng, hành động nào quan trọng đều là nhiệm vụ chính trị, hành động chính trị hoặc hành động cách mạng. Những điều đó đã là những nội dung giáo dục và động viên rất lớn và là một sự thật rõ ràng, được lịch sử ghi nhận.


(9)

Ngày nay lịch sử đã sang trang. Vậy mà cái phương châm được áp dụng trong thời chiến ấy vẫn không hề thay đổi. Tuy không có sự xác nhận chính thức và công khai phương châm "chính trị là thống soái " nhưng chỉ cần theo dõi sinh hoạt xã hội những năm trước đây cho đến bây giờ thì thấy rành rành ý tưởng tuyệt đối hóa chính trị, chính trị hóa mọi sinh hoạt xã hội. Như vậy, mọi ngôn từ, mọi hành xử đều phải tuân theo yêu cầu chính trị, đáp ứng yêu cầu chính trị, chứ không được tự nhiên, nhi nhiên nữa.

Gần đây tôi có thời giờ được đọc ít nhiều về những nguyên lý của tam giáo (Nho, Phật, Lão), thì thấy ra một điều là cả ba đạo đều chú trọng đến con người và từng cá nhân con người, đều yêu cầu mỗi người phải biết phục tùng, đều yêu cầu mỗi người hoặc là phải diệt dục, giác ngộ, từ bi, để thoát khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời đặng đi tới cõi Niết bàn, hoặc là phải tu tâm dưỡng tính để trở thành người cao thượng, tử tế (quân tử), hoặc là phải sống thuận theo đạo trời, khiêm nhường và quên mình (vô vi). Còn chủ nghĩa cộng sản thì lại yêu cầu mỗi người phải biết phục tùng và tuân theo chủ nghĩa. Chủ nghĩa cộng sản chống chủ nghĩa cá nhân là hay, là đúng, nhưng đi đến chỗ triệt tiêu vị thế của cá nhân, đòi mỗi cá nhân phải quên mình đi, chỉ lấy chủ nghĩa làm lẽ sống của mình, thì không thể được. Mỗi con người cá nhân vẫn phải có cuộc sống riêng, có những nhu cầu, lo toan và ràng buộc riêng, mà điều đó hàng ngày hàng giờ chi phối tâm tưởng và cuộc sống riêng của mỗi người. Mỗi người không thể chỉ sống với lý tưởng và sống bằng lý tưởng. Tôi cho rằng đáng lẽ người cộng sản phải hiểu sâu sắc điều này, phấn đấu xây dựng một xã hội mà mỗi người đều có cuộc sống tốt đẹp, được tự do và hạnh phúc. Nhưng cuộc sống mà những người cộng sản tạo nên lại chủ yếu nhằm để bắt tất cả mọi người phải tin theo và đáp ứng yêu cầu chính trị của Ðảng, chỉ hướng mọi người vào một mục tiêu quan trọng là tin tưởng tuyệt đối và ra sức củng cố, tăng cường vai trò lãnh đạo của Ðảng, đẩy những điều đó lên và thiêng liêng hóa chúng thành như những tín điều của một tôn giáo. Trong khi ấy thì người cộng sản lại lớn tiếng nhấn mạnh quyền tự do không tín ngưỡng.

Cuộc sống hàng ngày của mỗi người trong xã hội hiện nay đầy ắp những yêu cầu chính trị, một cuộc sống đầy ắp không khí cổ động và khẩu hiệu. Tôi chẳng có điều kiện đi đâu để xem thiên hạ sống ra sao. Tôi chỉ biết chút ít ở một số ít nước Ðông Âu, nhưng tôi có cảm nhận rằng ở Việt Nam con người sống không được tự do thoải mái bằng dân các nước Châu Âu, cho dù là những Châu Âu Cộng sản. Xã hội Việt Nam có quá nhiều hội họp, quá nhiều đại hội, quá nhiều diễu hành, cờ quạt, quá nhiều kỷ niệm, quá nhiều chào mừng, quá nhiều diễn văn quan trọng và cả những diễn văn đọc nhầm... Do đó có quá nhiều sự biểu dương thành tích và quá ít sự nhìn lại khó khăn và khuyết điểm. Trong hầu hết các báo cáo ta đều thấy bao giờ khó khăn, khuyết điểm cũng là số ít, cũng là bộ phận nhỏ, cũng là tạm thời. Trong khi ấy thì người ta vẫn nhắc tới một nguyên lý dạy rằng phải tự phê bình nghiêm khắc mới tiến bộ được. Cuộc sống đầy rẫy những hình thức khoa trương, nó chứng tỏ ta mắc bệnh hình thức chủ nghĩa quá nặng. Cái gì cũng tô vẽ thành "ngày hội của nhân dân". Thực ra, nhân dân phải miễn cưỡng đáp ứng yêu cầu chính trị của Ðảng, thậm chí đến bầu cử Quốc Hội người ta cũng đi bầu phắt đi cho xong. Có trường hợp một người đi bầu hộ hàng chục người, nhưng bộ máy tuyên truyền bộ máy tuyên truyền của ta vẫn miêu tả ra được là "ngày hội của nhân dân", trong khi tâm trí mỗi người dân còn đang bận rộn với ngàn nỗi lo toan và nhiều người còn đang rên xiết vì oan khổ. Và người mà họ bỏ phiếu bầu có phải do họ chọn đâu, họ có biết gì đâu.

Phương châm tuyệt đối hóa chính trị còn nhiều nhánh lắm, đó là sự chính trị hóa tất cả mọi lĩnh vực :

- Chính trị hóa khoa học. Nghiên cứu khoa học cũng phải đáp ứng yêu cầu chính trị, đáp ứng ý kiến chỉ đạo của đồng chí lãnh đạo.

- Chính trị hóa luật pháp. Sự vận dụng luật pháp vào việc kiểm soát và xét xử cũng phải đáp ứng nhu cầu chính trị và mức án là do Ðảng chỉ đạo, tòa án chỉ diễn xuất (lãnh đạo tuyệt đối mà).

- Chính trị hóa văn hóa văn nghệ. Cái này là tai hại nhất. Tất cả các tổ chức và hoạt động văn hóa văn nghệ đều phải là công cụ, hoạt động tuyên truyền chính trị. Không còn văn học nghệ thuật nữa. Khen hay chê và trao giải thưởng cho tác phẩm cũng phải đáp ứng yêu cầu chính trị và Ðảng thường coi việc đó là thành tựu văn nghệ. Ðiều này tôi thấy đáng lo lắm. Văn nghệ Việt Nam đang trên đường hấp hối. Văn nghệ không được độc lập, không được tự do nẩy nở, thì chỉ có chết.

Chắc có người đọc đến chỗ này sẽ lại la toáng lên rằng Trần Ðộ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Ðảng. Kiểu cách lãnh đạo "chính trị hóa tất cả" đáng phủ nhận thật. Nó mang lại bao nhiêu tổn thương cho đời sống một dân tộc, mà với đời sống của cả dân tộc ấy, Ðảng Cộng sản lại là người phải chịu trách nhiệm hoàn toàn.

- Giáo dục cũng bị chính trị hóa. Có lúc, nhiều người (trong đó có tôi) phải la lên rằng sự dạy văn trong nhà trường không phải để dạy văn, mà là dạy chính trị. Học sinh không được học văn chương. Ðiểm này đã và đang có sự sửa chữa, nhưng sự sửa chữa đó cũng lại phải theo yêu cầu chính trị.

- Kinh tế cũng bị chính trị hóa nốt. Những sản phẩm mang lại lợi ích cho dân thì ít được nói đến, ngành tuyên truyền chỉ nói nhiều đến các sản phẩm đáp ứng yêu cầu chính trị. Ta có quá nhiều công trình và sản phẩm mang danh hiệu này nọ, quá nhiều công trình sản phẩm được gắn biển ghi tên, quá nhiều công trình sản phẩm gắn liền với sự "chào mừng" sự kiện này khác. Giá trị của các công trình không ở giá trị sử dụng của nó mà ở chỗ nó có hoàn thành đúng hạn và có kịp chào mừng hay không ?? Nghe nói có nơi đạt số lượng lớn trong việc xây dựng "nhà tình nghĩa" đền ơn các bà mẹ anh hùng và gia đình liệt sĩ, được "trên" khen ngợi, biểu dương, nhưng những ngôi nhà xây dựng vội vàng đó chưa kịp sử dụng hoặc mới vừa sử dụng thì đã sụp đổ hoặc hư hỏng. Có người chép miệng phàn nàn, cho đó là tệ nạn, là hậu quả của tham nhũng, thì có người khác an ủi rằng : chuyện đó là thường, bây giờ đâu chả thế ! Thế thì phát triển kinh tế làm sao đây ?! Tôi đã nhiều lần gặp một câu hỏi không trả lời được, đó là : "Cứ thế này thì đất nước mình đi đến đâu ?". Câu hỏi này có cả trong những người già và cả trong những người trẻ tuổi. Có những lúc tôi đã trả lời : "Ði đến xã hội chủ nghĩa rồi cộng sản chủ nghĩa chứ còn đi đến đâu nữa !" Tôi trả lời như vậy là để biến cuộc đối thoại thành sự đùa cợt, để cho xong chuyện, với ngụ ý là câu hỏi đó chưa có câu trả lời.


(10)

Nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn thấy những ý tưởng "chuyên chính vô sản", "lãnh đạo toàn diện, triệt để", "chính trị là thống soái"...tất yếu dẫn đến một xã hội không dân chủ, không có tự do, luôn luôn tụt hậu, đầy sự bít bùng và ngu dốt, không có tiền đồ hoặc tiền đồ rất nguy hiểm.

Vấn đề không phải ở chỗ phủ nhận hay khẳng định cái này hoặc cái kia, mà là ở chỗ nhận định cho đúng tình hình thế giới và trong nước, để phân tích một cách sâu sắc cho thấy được những đặc điểm rõ ràng của tình thế mà định ra đường lối chính sách nhằm đưa đất nước đi lên.

Cũng như vậy, vấn đề không quan trọng ở chỗ vai trò lãnh đạo của Ðảng thấp hay cao ? Và cũng chẳng phải cứ "nêu cao" nó lên thì nó sẽ cao, không "nêu cao" thì nó sẽ thấp. Mà là phải xem xét xem Ðảng nên lãnh đạo thế nào ? Việc này một ban chấp hành trung ương hoặc toàn Ðảng cũng không thể giải quyết được. Ðảng ta căn cứ vào lịch sử lãnh đạo cách mạng và chiến tranh rồi tự hào Ðảng là trung tâm trí tuệ của toàn dân tộc, điều đó đã đúng, nhưng không thể vĩnh viễn đúng được. Ðảng dù có lớn bao nhiêu thì cũng chỉ là một bộ phận của dân tộc. Dù có hơn 3 triệu đảng viên thì cũng chưa đủ 1/20 của dân tộc. Con tôi nó mới nhắc và khen ông Võ Văn Kiệt nói một câu hay : "Trong Ðảng thiếu nhân tài, chứ ở ngoài Ðảng thì không thiếu". Ðó là một sự thật.

Trong lịch sử hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã có nhiều vua giỏi. Vua giỏi phần lớn là vua hiền. Vua hiền là vua biết dùng người tài. Những người tài thường được nhắc đến là những thái sư, tể tướng, quân sư, giám nghị, ngự sử. Những người này được nhắc đến nhiều hơn các nhà vua.

Những nhà dự báo cho rằng sang thế kỷ 21 vai trò của các chuyên gia cố vấn, các cơ quan tư vấn sẽ ngày càng quan trọng. Tôi chưa thấy có ai làm dự báo về vai trò của các Ðảng Cộng sản. Ðảng Cộng sản Việt Nam muốn tiếp tục có vai trò đối với dân tộc, thì điều chủ yếu là phải có chính sách khoan dung rộng rãi, thu hút và khuyến khích được nhiều người tài cống hiến cho đất nước. Nếu làm được như vậy, sẽ là một sự cống hiến lớn của Ðảng Cộng sản cho dân tộc, giống như trước đây Ðảng đã làm được việc giành thắng lợi cho dân tộc.

Tôi không muốn bàn đến khái niệm "thế nào là tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng". Tôi là người biết rõ vai trò của Ðảng từ 1940-1975, và tôi cũng thấy rõ sự vẻ vang của Ðảng, và chính tôi cũng được hưởng sự vẻ vang đó. Nhưng ngày nay tôi đã tận mắt thấy rõ rằng tình hình thế giới và trong nước khác đã xưa nhiều, vì kể từ 1975 đến nay thì cũng đã hơn 20 năm rồi, lý tưởng và nhiệm vụ của đất nước, của dân tộc cũng đã khác xưa nhiều lắm. Do vậy, sự lãnh đạo của Ðảng cứ giữ nguyên như xưa thì không được nữa. Và từ đó tôi tưởng tượng ra sự lãnh đạo của Ðảng phải như sau :

- Ðảng không nên và không thể đi sâu giải quyết các vấn đề cụ thể của tất cả các lãnh vực như kinh tế, văn hóa, giáo dục...Mỗi lĩnh vực đã có nhiều cơ quan khoa học chuyên nghành chăm lo. Các cơ quan ấy là nơi tập trung thông tin và kiến thức để làm cơ sở giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực ấy. Các cấp ủy của Ðảng (kể cả Trung ương) chỉ nên tập trung tinh lực để bàn và quyết định những vấn đề đường lối và chủ trương chính sách, sao cho những chủ trương chính sách làm chuyển động được tình hình xã hội nói chung và từng lĩnh vực nói riêng. Rồi cấp ủy Ðảng giám sát xem các cơ quan chính phủ, các tổ chức xã hội có thực hiện đúng chủ trương ấy không. Những chủ trương chính sách được quyết định phải thiết thực và tạo hiệu quả rõ rệt, chứ không nên chỉ có những phương châm và thành ngữ cho hay, cho kêu để chứng tỏ sự quan tâm của Ðảng và chứng tỏ "Ðảng đã có ý kiến".

Ví dụ về giáo dục : Ðảng chỉ nên quyết định những chính sách có tính mục tiêu như :

- Xóa nạn mù chữ.

- Phổ cập tiểu học.

- Bảo đảm đời sống giáo viên.

- Bảo đảm chất lượng học tập.

- Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục nhằm huy động nhiều sức lực cả tiền của và trí tuệ của các tầng lớp nhân dân.

Còn chương trình học tập, tổ chức thi cử, soạn sách giáo khoa, đào tạo bồi dưỡng cán bộ ra sao... thì do các cơ quan chuyên môn bàn bạc và quyết định.

Ví dụ về văn hóa. Có những vấn đề chuyên môn về văn hóa như vấn đề bản sắc dân tộc, vấn đề văn nghệ truyền thống,...thì nên để cho các cơ quan có các học giả bàn và giải quyết về lý thuyết cũng như về thực tiễn. Những vấn đề đó Ban chấp hành Trung ương có bàn cũng không bàn được, mà cái cần phải bàn là những chủ trương chính sách về tự do sáng tác và tự do phê bình, chính sách tôn trọng nhân cách các văn nghệ sĩ. Còn không nên bàn chuyện sáng tác thế nào, phê bình thế nào. Việc chuyên môn đó các văn nghệ sĩ đủ sức giải quyết, và họ giải quyết tốt hơn bất cứ cấp ủy nào, chỉ cần họ được tự do, được độc lập chịu trách nhiệm về công việc của mình. Không nên để cho các thứ tổ chức của Ðảng tầng tầng lớp lớp kiểm tra, kiểm soát, bịt hết mọi đường tự do.

Văn hóa mà không có tự do là văn hóa chết.

Văn hóa mà chỉ còn có một thứ văn hóa tuyên truyền cũng là văn hóa chết.

Như thế, càng tăng cường lãnh đạo bao nhiêu, càng bóp chết văn hóa bấy nhiêu, càng hiếm có những giá trị văn hóa và những nhà văn hóa cao đẹp, nếu không nói là không thể có được.

Về tổ chức Ðảng, tôi cũng lưu ý tới tổ chức các Ðảng đoàn và Ðảng ủy khối. Tổ chức này cũng dựa vào lý thuyết : "Ðảng phải lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối" ở các cơ quan chuyên môn, cho nên ở các cơ quan này nhất thiết phải có Ðảng đoàn. Ðảng đoàn thì lại do các cơ quan giúp việc của Ðảng chỉ đạo và chi phối. Tình hình này đẻ ra nghịch lý : những người không làm được thủ trưởng cơ quan thì làm bí thư Ðảng đoàn và bí thư Ðảng ủy khối. Kết quả là người kém lãnh đạo người giỏi. Lại nữa, khi có điều tranh luận về chủ trương công tác hoặc nhân sự thì ý kiến của cơ quan Ðảng bao giờ cũng là ý kiến mà mọi người phải tôn trọng. Kết quả là những người kém hiểu biết về chuyên môn và về những con người làm việc trong chuyên môn thì lại quyết định những vấn đề chuyên môn và số phận của con người chuyên môn. Ở nhiều cơ quan có chuyện nhân sự kèn cựa, tranh chấp nhau, và nhiều trường hợp người thắng thế chiếm ghế lãnh đạo là những người trình độ thấp nhưng được lòng các cấp ủy Ðảng. Các cấp ủy Ðảng trở thành nơi tiếp nhận các tranh chấp, vô tình khuyến khích các sự xu nịnh ton hót, chạy chọt. Thế là khó thực hiện việc xếp người đúng việc, đúng chỗ, khó từ bỏ được tình trạng mất đoàn kết, bất công... Phải nói rằng nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng tiêu cực trong Ðảng và phần nào trong xã hội là ở cơ chế "lãnh đạo toàn diện tuyệt đối" của Ðảng.

Tôi càng ngẫm nghĩ và suy ra, càng thấy đúng là như thế !

Có thể còn rất nhiều điều phải quan tâm. Bây giờ bất cứ nhìn vào đâu, nghe nói chuyện gì... đều có thể từ cái nhìn và cái nghe ấy đặt ra rất nhiều câu hỏi để tìm hiểu, phân tích, và không dễ gì tìm ngay được câu giải đáp.

Chuyện này không liên quan gì đến chủ nghĩ Mác-Lênin. Chủ nghĩa đó vẫn còn là một học thuyết có giá trị trong thế kỷ 20 và thế kỷ 21. Bây giờ sắp sang thế kỷ 21, ta vẫn còn phải tìm hiểu Khổng tử, Lão tử..., là vì những học thuyết có giá trị bao giờ cũng tồn tại lâu dài, dù cho chúng có những mặt không còn thích hợp. Chỉ có điều không thể lấy học thuyết Mác-Lênin làm học thuyết duy nhất để xem xét sự việc, không thể không cho ai nhận xét, phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin, lại tự cho mình có quyền lên án và xóa bỏ những ai có ý kiến khác với Mác-Lênin.

Kể ra những điều cần nói về cuộc sống hiện nay rất dài và rất nhiều. Ở đây tôi chỉ "nhìn lại" những gì đã trải nghiệm, và cũng chỉ là tự mình nói với mình mà thôi. Không thể nói hết được, tôi chỉ tóm tắt ở ba điểm :

- Vấn đề ý thức giai cấp.

- Vấn đề vô sản chuyên chính.

- Ði liền đó là vấn đề tập trung dân chủ.

Về phương thức "lãnh đạo toàn diện tuyệt đối, triệt để", kèm theo đó là phương châm "chính trị là thống soái".

Những điểm này trong lịch sử đã có thời phát huy tính tích cực của nó. Nhưng mỗi sự vật - có mặt tích cực thì cũng có mặt tiêu cực của nó. Khi tình hình đã thay đổi, mà không nhìn lại thực tế để thay đổi, cứ giữ nguyên thì nó lại trở thành sự trở ngại ngày càng lớn cho sự phát triển của đất nước và xã hội.

Dòng suy ngẫm cứ chảy quanh những vấn đề về tình hình xã hội thì bất tận. Ví dụ như đối với câu trả lời các câu hỏi :

  • Có chống được tham nhũng hay không ?

  • Có chống được tình trạng mất đoàn kết nội bộ hay không ?

  • Có chấm dứt được tình trạng kém chất lượng sinh hoạt Ðảng hay không ?

  • Có chấm dứt được tình trạng mất lòng tin vào Ðảng hay không ?

  • Có chấm dứt được các tệ nạn buôn lậu, ma túy trộm cướp hay không ?

vv...và vv...

Tôi có thể tự trả lời một cách thẳng thắn rằng : Nếu cứ dùng những hình thức và phương pháp cũ thì dứt khoát là không chống được, không chấm dứt được các tệ nạn xã hội, còn ngược lại nữa là khác. Tôi cho rằng phải có sự phân tích và nhận định ở tầm triết học, ở tầm học thuyết mới có thể tìm ra bản chất của các vấn đề. Có tìm ra đúng bản chất của vấn đề mới có cách giải quyết đúng. Nó giống sự chuẩn đoán bệnh. Tôi được biết rất nhiều trường hợp bệnh nhân chỉ mắc bệnh đơn giản, nhưng thầy thuốc chuẩn đoán sai làm bệnh nhân khuynh gia bại sản, thậm chí tử vong. Muốn khỏi bệnh phải "gặp thầy gặp thuốc", nghĩa là được chuẩn đoán chính xác.

Hiện nay nếu cứ loay hoay với các bài bản cũ thì chúng ta vẫn loay hoay trong đường hầm không ánh sáng.

Trình độ nhận thức của loài người ngày nay đã cao và càng ngày càng cao, không thể dùng bất cứ một hay hai học thuyết nào thay thế được. Nhìn vào thực trạng đất nước ta hiện nay tôi thấy Ðảng Cộng sản không phải là nơi tập trung và thu hút được tinh hoa trí tuệ của dân tộc và cũng không có một cá nhân kiệt xuất nào có thể đủ hiểu biết và sáng suốt để giải quyết vấn đề vận mệnh của dân tộc. Ðáng lẽ Ðảng Cộng sản có thể làm được một sự nghiệp vẻ vang là quy tụ, tập hợp và phát huy được hết trí tuệ và tài năng của cả dân tộc. Làm được việc đó thì mới thật xứng đáng với vai trò và lịch sử của Ðảng. Còn nếu cứ loay hoay hô hào và dùng mọi thủ đoạn "kể cả dối trá và lừa bịp" để tăng cường và củng cố hoặc giữ vững vai trò của mình thì đều là không được.

Muốn vậy, Ðảng Cộng sản có thể làm được một việc rất vĩ đại là xây dựng một đất nước, một xã hội dân chủ mà Ðảng là một thành viên trong đó. Ðảng có thể làm được điều đó và Ðảng sẽ vẻ vang.

Dân chủ, dân chủ và dân chủ !!!

Mỗi người trong xã hội đều có quyền tự do ngôn luận và tự do mưu cầu hạnh phúc.

Ðảng cần phải khắc phục những nhận thức máy móc và sai lầm như : "dân chủ phải có lãnh đạo". Câu nói đó có nghĩa là dân chủ phải "không dân chủ". Lãnh đạo giỏi nhất là đảm bảo được dân chủ cho mọi người. Không phải Ðảng là người có sẵn cái dân chủ trong túi rồi thì nay Ðảng ban phát cho mọi người. Cũng không phải là dân thì phải quỳ lụy xin xỏ từng tí dân chủ một ở Ðảng.

Ðảng chỉ là một bộ phận nhỏ của nhân dân, của dân tộc. Ðảng tự nguyện lãnh đạo để đảm bảo và mang đến lợi ích cho nhân dân và dân tộc, Ðảng là công bộc của nhân dân, như Hồ Chí Minh đã nói. Vì vậy không thể bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Ðảng cũng tự nhận là người thay mặt nhân dân. Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu Ðảng cũng không được nhân danh nhân dân mà cai trị nhân dân. Như thế mới là phát huy truyền thống anh hùng của Ðảng và của dân tộc.

Cho đến nay Ðảng đã có những lời nói hết sức tốt đẹp về dân chủ :

  • Nhà nước của dân, do dân, vì dân.

  • Dân biết dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

  • Dân làm chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

  • Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước.

vân vân ...và vân vân...

Nhưng nhìn vào trong thực tiễn thì thực tiễn diễn ra luôn ngược lại với những lời nói hay, đẹp đó. Rất nhiều việc làm dối trá, tàn bạo, ngang ngược, ngu dốt của một số cán bộ Ðảng viên mà không thể được coi là thuộc về bản chất của Ðảng. Nhưng Ðảng có lỗi là không có những cơ chế giám sát và bó buộc các hành vi ứng xử của tổ chức Ðảng đối với dân phải tuân thủ chủ trương của Ðảng, để đến nỗi Ðảng mất dần lòng tin của dân và dân càng ngày càng xa Ðảng. Ðảng đã để cho những kẻ có quyền lực nhân danh Ðảng làm bậy. Bây giờ Ðảng đang kêu gọi "tự phê bình". Tôi rất tán thành. Nhưng trước hết phải tiến hành tự phê bình chung đã. Nội dung của tự phê bình đó là : Ðảng đã làm những gì để thực hiện những khẩu hiệu tốt đẹp đã được Ðảng đề ra. Ðảng đã phạm khuyết điểm thế nào để đến nỗi những lời đẹp đẽ đó không được thực hiện. Cuộc tự phê bình này không những phát động trong Ðảng mà còn phải yêu cầu toàn dân phát biểu ý kiến rộng rãi và công khai. Ðảng vẫn tự thấy mình là của nhân dân, của dân tộc kia mà. Việc mỗi Ðảng viên tự phê bình ít có ý nghĩa lắm. Nhiều người bạn tôi nói họ chẳng có khuyết điểm gì cả nên không biết tự phê bình thế nào và để làm gì. Hãy thực hiện một cuộc tự phê bình chung hết sức nghiêm túc, sâu sắc và nhất là hết sức dân chủ.

Dân chủ, dân chủ và dân chủ !

Tiếng thét của lương tri cộng sản và lương tri dân tộc là như vậy đó. Nếu có cuộc tự phê bình chung thì thiên bút ký này của tôi là ý kiến phát biểu trong cuộc tự phê bình đó.

Càng nghĩ đến thế kỷ 21 sắp tới và đến thực trạng Ðảng ta, tôi càng lo lắng bồn chồn, đến nỗi nhiều lúc phải chống bút mà ứa nước mắt, không cầm được. Hình như có tờ báo nào đó ở nước ngoài có viết rằng : "Trần Ðộ chẳng qua là một con ngựa già đang ra sức đem sức tàn ra bảo vệ Ðảng của mình". Té ra người ngoài Ðảng, lại ở ngoài nước mà lại có những nhận xét thông minh hơn những kẻ gọi là người trong Ðảng.

Sắp sang thế kỷ 21, các học giả và các nhà khoa học thế giới đang nói đến tư duy của thế kỷ 21, đang nói đến phương thức tư duy, đổi mới tư duy vv... Ở Việt Nam ta, trong đại hội VI (1986) Ðảng ta đã nói là đổi mới thì trước hết và thực chất là đổi mới tư duy. Tôi cho đó là một tư tưởng rất đúng. Thế mà đầu năm 1997, trong một cuộc "học nghị quyết", tôi lại được nghe "lên lớp" về hai phe, bốn mâu thuẫn. Tôi buồn quá và nghĩ rằng cái "tư duy hai phe" đó không sửa đổi thì nói đổi mới cũng như không ! Cho đến bây giờ cái "tư duy hai phe" vẫn còn ngự trị trong những người "gọi là đảng viên cộng sản" và đang nắm quyền quản lý xã hội trong tay.

Ðài phát thanh của ta hàng ngày đang ra rả đọc lên khẩu hiệu : "Xây dựng và đổi mới Ðảng cho ngang tầm nhiệm vụ". Tôi nghe nhiều lần và mỗi lần nghe thì trong lòng le lói một niềm vui, nhưng lại tràn ngập những nỗi lo âu. Tôi lại tự hỏi người đọc khẩu hiệu đó một cách rất đĩnh đạc có hiểu "tầm nhiệm vụ" hiện nay là cái gì không ? Kể cả người chỉ đạo cái khẩu hiệu đó nữa, có hiểu không ? Nếu không hiểu thì làm sao hiểu được nội dung của "đổi mới Ðảng". Quả thật là cần phải "đổi mới Ðảng". Ðó là cấp thiết và cơ bản. Nhưng tại sao lại phải đổi mới và đổi mới thế nào, đổi mới những gì ? Nếu cứ còn tư duy "hai phe, bốn mâu thuẫn" thì không có gì đổi mới được cả.

Thế giới bây giờ không có hai phe mà là có nhiều phương, nhiều cực, nhiều khu vực, và tất cả phải nhìn vào xu thế toàn cầu hoá của kinh tế. Kinh tế toàn cầu hóa kéo theo toàn cầu hóa chính trị, văn hóa... Ðến nỗi toàn trái đất bây giờ gần gũi nhau và thu nhỏ lại như một cái làng."Làng trái đất". Việt Nam đứng trước xu thế đó đã phải nói rằng "muốn làm bạn với tất cả các nước". Nói thế, nhưng trong ý thức một số người trong Ðảng lại muốn Việt Nam như một phe trên thế giới, một phe có tất cả độc đáo về tư tởng, về chính trị, về văn hóa... chơi với một phe khác là phần còn lại của trái đất. Thật là tự cao một cách điên rồ và vô cùng dốt nát.

Tôi rất tán thành và hoan nghênh phải đổi mới Ðảng. Nhưng đổi mới Ðảng không phải chỉ là cải tiến vài cái sinh hoạt, từ sinh hoạt chi bộ đến đại hội. Thông thường mỗi lần ta hô "cải tiến" thì lại xuất hiện tình thế "cải lùi".

Phải đổi mới !

Và đổi mới phải tính đến những chuyện :

  • Tính chất chính trị của đảng.

  • Nền tảng tư tưởng của đảng.

  • Nguyên tắc tổ chức của đảng

  • Phương thức lãnh đạo của đảng.

  • Phong cách công tác của Ðảng.

Có thực hiện được như vậy thì sự đổi mới mới nghiêm túc và có thực chất của nó.

Càng ngày càng rõ rằng Ðảng không thể có trí tuệ của cả dân tộc, nhưng Ðảng có vai trò thu hút tập hợp và phát huy mọi trí tuệ của dân tộc. Ðảng phải là một ông vua hiền mà tôn trọng và sử dụng tốt trí tuệ, tài năng của dân tộc. Như thế Ðảng mới bảo tồn và phát huy được truyền thống của mình.

Cần phải thấy rõ nguy cơ tụt hậu.

Ðất nước thì tụt hậu với thế giới, còn Ðảng thì tụt hậu với xã hội và dân tộc.

Phải vượt qua nguy cơ đó bằng quan niệm : đổi mới là dân chủ hóa trong Ðảng cũng như dân chủ hóa toàn xã hội.

Phải quan niệm như vậy và hành động đúng như vậy.

Viết xong trong ngày kỷ niệm sinh nhật lần thứ 76.
23-9-1998

Trần Ðộ


[Tài Liệu][Tiểu Sử][Trở lại Web Page LMVNTD]

No comments: