Friday, March 4, 2016

LÝ CHÍ THỎA * MAO TRẠCH ĐÔNG 4

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 31

Posted: 15/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đã lâu lắm mới lại có một mùa hè tuyệt vời như mùa hè năm nay. Đêm nào trời cũng mưa còn ban ngày lại nắng dịu. Chẳng ai nghi ngờ, vụ thu hoạch mùa thu năm nay sẽ bội thu nhất trong lịch sử Trung Quốc. Cả nước Trung Quốc ngập chìm trong ngất ngây, tràn trề cảm kích và rất đỗi lạc quan.
Đầu tiên, chúng tôi tới thăm vài công xã mới thành lập ở tỉnh Hà Bắc. Tinh thần lạc quan của nông dân được thể hiện bằng cả những cái tên đặt cho tổ chức mới, những cái tên hứa hẹn một tương lai vẻ vang và tương lai của cách mạng, như “Công xã cộng sản”, Công xã Bình minh”, “Công xã Rạng đông”, “Công xã Cờ đỏ”.

Sau đó chúng tôi đến Hà Nam, nơi viên bí thư thứ nhất Vũ Chí Phú, một người thấp béo và mau miệng, đưa chúng tôi đi bằng ô tô đọc theo những con đường không trải nhựa, đầy bụi bặm đọc ngang trong khắp tỉnh của ông. Chúng tôi đi trên một đoàn xe với hàng chục người cả thảy, gồm một đơn vị lính có vũ trang dưới sự chỉ huy của Vương Kính Tiên, một đội bảo vệ tỉnh của Vũ Chí Phú, các phóng viên báo Tân Hoa và vài phóng viên của báo đảng tỉnh Hà Nam. Mao đã dặn đi dặn lại phải giữ bí mật, không ngờ cánh báo chí lại rùm beng lên.
Trời tháng Tám nóng toát mồ hôi. Chúng tôi đội những chiếc mũ cói rộng vành để che nắng. Mỗi khi nghỉ chân ở đâu đó, có người đưa đến cho chúng tôi những chiếc khăn ướt để lau cho mát. Hai chiếc xe tải chở đưa hấu tươi và ngọt lúc nào cũng đi theo. Dưa hấu là món giải khát tốt nhất trong cái nóng như thiêu như đốt này. Mao không hề bận tâm đến cái nóng. Ông chẳng đụng đến đưa hấu, trong khi nhiều người khác trong xe ông đã đổ xô vào thứ quà mọng nước này.
Mao phấn khởi vì ông được tận hưởng cái thú trở về nông thôn. Mỗi khi dẫm phải phân bò bẩn giày, nhưng ông không để cho ai lau chùi. Ông nói:
– Đây là phân, rất có ích. Tại sao lại phải lau nó đi?
Chỉ đến tối khi ông cởi giày, vệ sĩ của ông mới đem giày đi rửa. Những cánh đồng được mùa và đông nghịt nông dân đang làm việc ở phía bắc Hoàng hà, phụ nữ rất ít khi tham gia việc đồng áng. Nhưng ở đây chúng tôi thấy phụ nữ mặc quần áo màu đỏ rực và màu xanh đang cùng làm việc với đàn ông. Ở huyện Lan Tào, Mao có ý định muốn bơi ở dòng sông Hoàng có nhiều truyền thuyết. Ông cử vệ sĩ tin cẩn của ông là Tôn Vĩnh, người đã từng cổ vũ ông bơi ở sông Dương Tử, bơi thử. Nhưng sông Hoàng toàn bùn và phù sa. Mực nước lại chỉ cao đến ngực và trông như men rượu màu nâu. Tôn Vĩnh và những nhân viên an ninh khác vừa xuống nước đã bị lún xuống bùn tới đầu gối. Chỗ nào ở con sông cũng vậy cả. Mao đành huỷ bỏ dự định đi bơi của ông.
Ngày 6-8-1958, Vũ Chí Phú dẫn chúng tôi đến làng Thất Lý thuộc huyện Tân Cương. Dọc hai bên con đường dẫn đến làng này là những cánh đồng bông cao ngang ngực với những quả bông tròn, to bằng nắm tay, trắng rực lên dưới ánh nắng mặt trời. Làng Thất Lý chắc sẽ được mùa bông.
Khi ô tô đến sân làng, chúng tôi được đón chào bằng một tấm biểu ngữ lớn, màu đỏ giăng ngang lối vào trụ sở đáng bộ của làng: “Công xã nhân dân làng Thất Lý”.
Vừa xuống xe, Mao đã tươi cười. Ông nói:
– Cái tên “Công xã nhân dân” hay lắm! Công nhân Pháp đã thành lập Công xã Paris khi họ giành chính quyền. Còn nông dân ta thành lập được công xã nhân dân như một cơ sở kinh tế và chính trị trên con đường tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Công xã nhân dân nghe thật tuyệt vời.
Ba ngày sau, Mao lặp lại lời bình của ông ở Sơn Đông. Một phóng viên Tân Hoa xã đứng gần đó nghe được và lập tức những lời nói của Mao xuất hiện trên các mặt báo toàn quốc. Những lời nói này mau chóng trở thành khẩu hiệu có sức thuyết phục đến nỗi chúng đã được các bí thư đảng ở các cấp răm rắp tuân theo như chiếu chỉ của vua. Bỗng nhiên các hợp tác xã nông nghiệp ở khắp Trung Quốc được tập họp lại thành những công xã khổng lồ, thành những cơ sở mà hai lĩnh vực hành chính và sản xuất nông nghiệp gắn liền với nhau, đồng thời quyền lực của đảng cộng sản ở nông thôn cũng được củng cố.
Chuyến đi từ công xã này đến công xã khác đã cung cấp cho chúng tôi những hiểu biết lý thú. Có một cái gì đó thật to lớn, mới mẻ, trước đây chưa từng có trong lịch sử đã diễn ra ở nông thôn. Cuối cùng, Trung Quốc đã tìm ra con đường thoát khỏi nghèo đói, tiến tới sung túc. Nông dân Trung Quốc sắp được cứu thoát. Cả tôi cũng ủng hộ công xã nhân dân. Mao chủ tịch thật có lý. Công xã nhân dân thật vĩ đại. Mao rất phấn khởi. Trên đường trở về Bắc Đới Hà ông vẫn còn phấn khích và chưa bao giờ tôi thấy ông có vẻ hạnh phúc như vậy. Ông tin chắc vấn đề cung cấp lương thực ở Trung Quốc đã được giải quyết và bây giờ đất nước sẽ dư thừa lương thực.
Bốn ngày sau khi chúng tôi trở về, tức là ngày 17-8-1958, Mao triệu tập một cuộc họp mở rộng của Bộ Chính trị, kéo dài đến ngày 30-8-1958. Trong khi họp, câu trả lời của Mao đối với Khrushchev được công bố vào ngày 23-8-1958. Sau đó, Trung Quốc bắt đầu dùng tới số đạn đại bác mà Mao đã từng đề cập để bắn phá dữ dội hòn đảo Kim Môn ở ngay ngoài khơi bờ biển tỉnh Phúc Kiến đang bị Quốc dân đảng chiếm giữ. Đó là sự đáp lại của Mao đối với ý định làm làm dịu căng thẳng giữa Liên Xô và Mỹ của Khrushchev, cũng là sự khẳng định của Mao với Liên Xô và Mỹ về vai trò quan trọng của Trung Quốc trong bộ ba siêu cường. Mao hiểu những nỗ lực vì hoà bình thế giới của Khrushchev là âm mưu hòng khống chế ông và Trung Quốc. Ông tin chắc, Tưởng Giới Thạch sẽ yêu cầu Mỹ thả một quả bom nguyên tử xuống tỉnh Phúc Kiến và Mao chẳng phản đối việc này. Việc oanh tạc đảo Kim Môn là một thách thức để xem Mỹ có thể đi xa đến đâu. Mao cho bắn phá hòn đảo này hàng tuần liền. Cuối cùng, ngày 6-10, đảng cộng sản đã tuyên bố ngừng bắn một tuần, ngày 13-10, lệnh ngừng bắn được gia hạn thêm hai tuần nữa khi một hạm đội của Mỹ vào vùng bờ biển của Đài Loan để bảo vệ khu vực này trước sự tấn công của Trung Quốc. Mao lại ra lệnh tiếp tục bắn phá. Ngày 25-10, một chiến lược mới được công bố: Nếu các tàu chiến Mỹ không vào gần, thì đại bác của Trung Quốc ngừng bắn vào các ngày chẵn và chỉ pháo kích các đảo Kim Môn và Mã Tổ vào các ngày lẻ.


Mao biết, “những đồng chí” như Khrushchev và một vài đồng chí Trung Quốc ngỡ ông muốn chiếm lại Đài Loan. Nhưng chẳng bao giờ ông có ý định ấy. Các đảo Kim Môn và Mã Tổ ông cũng không muốn lấy lại. Ông nói:
– Kim Môn và Mã Tổ là cầu nối của chúng ta với Đài Loan. Nếu chiếm, chúng ta sẽ mất đi cầu nối này. Con người ai cũng có hai tay phải không? Nếu chúng ta mất cả hai tay, chúng ta sẽ không nắm được Đài Loan nữa. Hai hòn đào này là hai cái gậy chỉ huy của nhạc trưởng để buộc Khrushchev và Eisenhower phải khiêu vũ. Đồng chí đã thấy tầm quan trọng của hai hòn đảo này rồi chứ.
Đối với Mao, việc oanh tạc các đảo Kim Môn và Mã Tổ chỉ là một mánh khóe để chứng tỏ với Khrushchev và Eisenhower về tinh thần độc lập, khả năng hành động của Mao, sổ toẹt nỗ lực mới vì hoà bình của Khrushchev. Một mánh khóe khủng khiếp. Nó đã gây ra nguy cơ về một cuộc chiến tranh nguyên tử đối với thế giới, đe doạ tính mạng của hàng triệu nhân dân Trung Quốc.
Trong các hội nghị mở rộng của Bộ chính trị, có hai quyết định quan trọng. Một là, cả công xã nhân dân chính thức được coi là hình mẫu mới của cơ cấu kinh tế và chính trị của đất nước. Hai là, trong vòng một năm, bằng việc sử dụng những lò luyện kim gia đình, Trung Quốc phải tăng gấp đôi sản lượng luyện kim. Cả đất nước Trung Hoa như trong cơn say. Mao đánh giá cao về các công xã nhân dán và bỗng nhiên hàng loạt công xã nhân dân được thành lập khắp nơi trong cả nước. Mao mới vừa nửa đùa nửa thật nghĩ ra lò luyện kim gia đình mà mọi người đã vội xây ngay những chiếc lò đó. Mọi việc diễn ra đúng như mong muốn của Mao.
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 32

Posted: 17/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Mao vẫn thường đi khắp nơi. Từ ngày 10-9-1958 trở đi, ông đi khắp đất nước bằng máy bay, xe lửa và tàu thuỷ để tận mắt nhìn thấy những sự đổi thay đang diễn ra. Mỗi lần dừng lại ở đâu đó, sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với ông lại tăng thêm. Trước tiên chúng tôi bay tới Vũ Hán. Hai người trong số những người sùng bái Mao nhất, Trương Thế Trung – “đại diện phái dân chủ”, cũng là kẻ phản bội Quốc dân đảng và bí thư thứ nhất tỉnh An Huy và Tăng Huy Sinh tới thăm Mao. Mao mời Trương Thế Trung cùng tham gia chuyến đi thị sát. Trương sung sướng trả ơn Mao bằng những lời xu nịnh. Ông tấm tắc khen: “Tình hình cả nước thực sự đang ở thời kỳ thuận lợi nhất. Thời tiết tốt, nhân dân hưởng thái bình và mọi người tỏ ra rất yên tâm”. Tăng Huy Sinh cũng ra sức lấy lòng Mao. Ông tìm cách thuyết phục Mao tiếp tục đến thăm An Huy. Quê của Trương Thế Trung cũng là An Huy, nên ông đã ủng hộ nguyện vọng đó của Tăng. Cuối cùng Mao đồng ý và chúng tôi đến thành phố Hà Phi, thú phủ của tỉnh. Lúc đó, chúng tôi đã được chứng kiến một kỳ quan mới, với câu thần chú về “lò luyện kim gia đình”.

Chiếc lò đầu tiên là một vật quái dị, được ngẫu hứng xây bằng gạch và vôi vữa, cao khoảng từ 4 đến 5 mét, tôi nhìn thấy ở sân sau của cơ quan đảng bộ của tỉnh An Huy. Trong ánh lửa sáng rực, tất cả những đồ dùng bằng sắt thép của gia đình như nồi, niêu, xoong chảo, tay nắm cửa, cuốc xẻng… được nấu chảy để sản xuất ra thép như Tăng đã quả quyết với Mao. Tăng Huy Sinh nhặt một mảnh sắt nóng dưới đất được cời từ trong lò ra để cho Mao xem kết quả của công việc. Bên cạnh đó là những thành phẩm được xếp thành hàng. Chúng là sản phẩm của lò luyện kim gia đình và làm cho người ta không còn nghi ngờ về hiệu quả của nó. Mao kêu gọi cả nước, bằng những biện pháp kinh tế có hiệu quả, trong vòng 15 năm phải vượt nước Anh về sản lượng sắt thép. Tại sao người ta phải bỏ ra hàng triệu đô la để xây dựng các nhà máy luyện kim hiện đại, trong khi sắt thép có thể luyện được ngay trong những lò để trên sân hay trên những cánh đồng mà hầu như chẳng tốn kém gì?
Tôi ngạc nhiên. Lò luyện kim này biến những dụng cụ gia đình thành sắt vụn, nấu chảy những con dao, rồi làm thành những thanh thép. Sau đó những thỏi thép này lại được rèn thành dao. Tôi chẳng biết những thanh thép đó có đạt chất lượng cao hay không, nhưng thấy thật khôi hài khi người ta nấu thép để sản xuất ra thép, nấu chảy dao để rèn thành dao. Khắp nơi ở An Huy đều có những lò luyện kim gia đình và tất cả những lò này đều sản xuất ra những thỏi thép chẳng theo một tiêu chuẩn nào.
Khi chuyến viếng thăm An Huy của Mao gần kết thúc, Trương Thế Trung đề nghị Mao nên đi qua khắp các phố phường trong một chiếc xe mui trần để dân chúng thành phố có thể chiêm ngưỡng tận mắt vị lãnh đạo vĩ đại. Kể từ khi giải phóng Bắc Kinh vào mùa hè năm 1949, khi Mao đi trên một chiếc xe Jeep mui trần giữa những dãy phố đông nghịt người xếp hàng hai bên đường vẫy chào, đến nay Mao không còn xuất hiện trước công chúng mà không được bảo vệ nữa. Những chuyến đi thị sát ở địa phương của Mao luôn luôn được giữ bí mật và được đảm bảo an ninh tuyệt đối.
Khi đến thăm các nhà máy, các cuộc gặp gỡ của ông với công nhân được kiểm soát chặt chẽ. Thường thường các cuộc gặp gỡ cá nhân chỉ được giới hạn trong phạm vi những vị lãnh đạo cao cấp của đảng và giới lãnh đạo của “các đảng dân chủ”. Việc Mao xuất hiện trên khán đài ở Thiên An Môn mỗi năm hai lần xem ra chỉ là trường hợp ngoại lệ. Ngay cả những người có mặt tại quảng trường rộng lớn đó trong hai ngày ấy cũng đã được chọn lọc. Nhưng không phải chỉ có vấn đề an ninh ngăn cản Mao xuất hiện trước công chúng. Chính Chủ tịch cũng không muốn mang tiếng đã cổ vũ cho sự tôn sùng cá nhân.
Tuy vậy. Mao cũng cho rằng quần chúng mong muốn có một nhân vật lãnh đạo vĩ đại và việc để cho họ tận mắt nhìn thấy ông sẽ có một tác dụng động viên họ rất lớn. Ông cần thực hiện một chiến thuật khiến cho quần chúng đòi hỏi sự lãnh đạo của ông một cách hoàn toàn tự nhiên. Nhà dân chủ Trương Thế Trung đã cảm nhận được trạng thái khó xử của Mao và ông đã chuẩn bị chu đáo để kéo Mao ra trước quần chúng. Trương nói: “Chủ tịch có vẻ e ngại về sự tôn sùng cá nhân ngày càng tăng”.
Nhưng rồi ông ta lại viện cớ, Mao chủ tịch là Lenin của Trung Quốc chứ không phải là Stalin. Cũng giống như Lenin, Mao chủ tịch đã lãnh đạo đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc làm cách mạng thành công và hiện giờ Mao chủ tịch lại lãnh đạo công cuộc xây dụng chủ nghĩa xã hội. Khác với Lenin, người đã chết sau khi cách mạng thành công tám năm. Mao chủ tịch vẫn là người lãnh đạo và nhân dân Trung Quốc hy vọng trong vòng ba bốn chục năm tới họ sẽ vẫn được ông dìu dắt. Sự khác biệt giữa Mao chủ tịch và Stalin ở chỗ Stalin luôn luôn tìm cách để người ta tôn sùng ông. Ngược lại, Mao chủ tịch không làm như vậy. Chủ tịch duy trì một tác phong lãnh đạo dân chủ, coi trọng ý kiến của quần chúng, bác bỏ sự chuyên quyền và độc đoán. Trương hỏi: “Như thế thì làm sao ở nước ta có sự tôn sùng cá nhân được? Những tiến bộ to lớn, cuộc sống hàng ngày của nhân dân được cải thiện rõ rệt đến nỗi quần chúng muốn chân thành bày tỏ sự kính trọng đối với Chủ tịch. Nhân dân ta thực sự yêu mến người lãnh đạo vĩ đại của mình”. Mao gật gù với những lời tâng bốc của Trương. Thật là kẻ tung người hứng. Mao đồng ý ra trước công chúng Hà Phi.
Ngày 19-9-1958, hơn 300 nghìn người đứng chen chúc hai bên lề đường ở các phố phường Hà Phi để tận mắt nhìn thấy Chủ tịch. Chiếc xe mui trần của Mao chầm chậm đi khắp thành phố. Ông thản nhiên giơ tay vẫy chào và ngập mình trong sự ngưỡng mộ. Tôi ngờ rằng không phải quần chúng ở Hà Phi tự nhiên kéo đến như quần chúng đã tập hợp lại quảng trường Thiên An Môn trước đây. Những người chào đón mặc những bộ quần áo sặc sỡ, vòng hoa đeo trên cổ, tung những dây hoa khi đoàn xe đi qua. Họ hát hò, nhảy múa và hô những khẩu hiệu: “Mao chủ tịch muôn năm!” “Công xã nhân dân muôn năm!” “Đại nhảy vọt muôn năm!” Tất cả những điều đó làm cho người ta nghĩ rằng Tăng Huy Sinh đã không để cho sự việc diễn ra một cách tự nhiên. Mặc dù vậy, đám đông vẫn nhao nhao vì kích động khi nhìn thấy Chủ tịch. Mao có ý định thiết lập một cơ cấu phân phối lương thực miễn phí cho các công xã nhân dân ở nông thôn, để ai cũng có thể ăn những gì người đó muốn mà không cần trả tiền. Ông nói về việc sẽ không trả lương cho cán bộ nữa, thay vào đó là quay lại chế độ bao cấp tương tự như chế độ đã từng tồn tại cho đến năm 1954 – một chế độ đã làm lụn bại dự trữ ngoại tệ của tôi. Các khoản lương sẽ không còn. Những nhu cầu cơ bản sẽ được nhà nước đáp ứng. Thêm vào đó, một khoản trợ cấp ít ỏi cho những chi tiêu bất thường. Theo Mao, chế độ này trước hết sẽ được áp dụng cho cơ quan trung ương ở Trung Nam Hải, bắt đầu từ Nhóm Một của chúng tôi.
Ở điểm này, suy nghĩ của Mao đã chịu tác động mạnh từ một bài báo ra ngày 15-9 do trưởng Ban tuyên huấn thành phố Thượng Hải Trương Xuân Kiều viết. Mao khoái bài viết này đến nỗi, đề nghị vị trưởng Ban tuyên huấn đến gặp ông trên đoàn tàu. Đó là lần đầu tiên tôi gặp người đàn ông này. Ông nổi tiếng rất nhanh trong thời kỳ Cách mạng văn hoá và sau này cũng là người bị nhiều tai tiếng nhất, một nhân vật trong Bè lũ bốn tên. Ông trầm lặng, không cởi mở, ít thân thiện, tuýp người thâm trầm, khó bắt chuyện. Ngay khi gặp ông trên tàu, tôi đã không có thiện cảm, đề xuất áp dụng chế độ bao cấp của ông khiến tôi lạnh cả xương sống. Tất cả số tiền tích được của tôi trong vòng hai năm sau khi tôi về nước đã bị chế độ này làm cho tan tành. Việc cung cấp lương thực và trợ cấp tài chính tối thiểu không đủ đề nuôi sống gia đình tôi. Ngoài vợ và mẹ, tôi còn phải nuôi hai đứa con nhỏ, đến nay tôi còn phải giúp đỡ họ hàng như bố mẹ vợ, hai bà cô và một người em họ. Không có lương, tất cả sẽ phải sống nhờ đồng lương rất ít ỏi của vợ tôi. Như vậy, sẽ chẳng đủ để chúng tôi rau cháo qua ngày.
Chẳng ai trong Nhóm Một muốn trở lại hưởng chế độ bao cấp. Cả Diệp Tử Long cũng tỏ ra lo lắng. Ông đang có một khoản thu nhập cao, hài lòng với cuộc sống xa hoa. Khi biết sáng kiến này động chạm đến tôi như thế nào, ông xúi tôi hãy nói cho Mao biết những suy nghĩ của mình. Một cách làm rất láu lỉnh, ma lanh. Vì nếu tôi thuyết phục được Chủ tịch huỷ bỏ kế hoạch, Diệp Tử Long vẫn giữ được lương bổng. Nếu Mao vẫn cứ đem cơ chế ra áp dụng, tôi sẽ bị quy là phần tử chống đối và Diệp tuy không được lĩnh lương nhưng chẳng bị quy tội gì hết, chỗ đứng vẫn an toàn.
Mao vẫn chưa quyết định, ông thực sự muốn nghe ý kiến từ các nhân viên của ông trước khi áp dụng cơ chế này. Nhưng chẳng ai muốn chuốc lấy cho mình nguy cơ bị coi là phần tử chống đối. Còn đối với tôi việc này là sự sống còn của gia đình tôi. Tôi phải nói chuyện với Mao. Lúc tôi vào phòng Mao, ông đang nằm trên giường đọc sách.
– Có gì mới không?
– Chúng tôi đã trao đổi về cơ chế bao cấp.
– Có sáng kiến nào hay không?
Tôi trình bày với Mao những khó khăn mà tôi và gia đình đông đúc đang trông chờ vào trợ cấp của tôi sẽ gặp phải, nếu tôi không được hưởng lương.
Mao cho rằng ở thành phố người ta cũng có thể thành lập công xã nhân dân. Dân thành thị, thậm chí cả thanh niên, cụ già và những người không có việc làm cũng có thể được công xã bao cấp. Trẻ em sẽ được gửi vào các nhà trẻ công cộng. Đó là con đường dẫn tới chủ nghĩa cộng sản. Ông hỏi:
– Như vậy, tất cả những vấn đề của đồng chí đã được giải quyết rồi chứ?
Tôi đáp, thân nhân của tôi toàn những người già cả, sức khỏe hạn chế, không thể đảm đương công việc của công xã, tuy rất muốn được làm việc, cũng chẳng muốn ăn bám vào người khác. Hơn nữa, nếu công xã bao cấp tất cả những người không làm việc và con tôi, chắc chắn những chi phí nhà nước gánh chịu sẽ nhiều hơn lương của tôi.
Mao thừa nhận điều đó:
– Trước khi quyết, chúng ta phải tính kỹ xem lực lượng lao động trong một công xã ở thành thị là bao nhiêu và công xã có thể giúp đỡ những người không có khả năng lao động hay không. Nếu đúng là có nhiều người già và trẻ em, thật khó đối với chúng ta.
Ông sẵn sàng chờ đợi khi thời cơ chín mùi.
Tiểu Chương, một người trong đám vệ sĩ đã nghe lỏm được câu chuyện, khi tôi rời khỏi phòng của Mao, anh ta ra hiệu tỏ vẻ đồng tình. Tôi cũng bằng lòng với cuộc đối thoại. Hồi đó, Mao còn có tinh thần trách nhiệm, chịu lắng nghe những lời góp ý, rồi cân nhắc thiệt hơn của những lời góp ý có tính chất xây dựng. Thậm chí ông còn nghi ngờ ý nghĩa của những lò luyện kim gia đình và hoài nghi rằng liệu những cơ sở sản xuất nhỏ có phải là phương thức để vượt nước Anh về sản xuất thép trong vòng 15 năm hay không. Ông muốn biết: “Nếu thực sự những lò nhỏ này có thế nấu được nhiều thép như vậy, tại sao những nước khác lại xây dựng những nhà máy luyện kim khổng lồ rất tốn kém. Chẳng lẽ các nước khác lại ngu dốt thế sao?”.
Điền Gia Anh lên tiếng cảnh báo. Ông rùng mình về lời kêu gọi thiết lập cơ chế bao cấp của Trương Xuân Kiều và lên án ông này vô trách nhiệm, để được lòng Mao. Điền lý luận: “Chúng ta không thể thực hiện khẩu hiệu này mà không suy xét. Chúng ta không thể đơn giản lờ đi tình trạng thấp kém trong sản xuất nông nghiệp và nhu cầu cấp thiết phải cung cấp cơm ăn, áo mặc cho hàng trăm triệu người. Thật vô lý khi chúng ta kéo nhân dân đói rách đi trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Trước đây đảng ta luôn luôn đi tìm hiểu thực tế, nhưng bây giờ không làm như vậy. Nhiều người khoác lác và dối trá, họ đã mất hết liêm sỉ. Họ đã làm tổn hại đến truyền thống quí báu của đảng ta”.
Theo Điền, một vài báo cáo của các tỉnh hứa hẹn sản lượng thu hoạch ngũ cốc trung bình là 10 nghìn kg trên một mẫu Trung Quốc (mẫu Trung Quốc tương đương 660 m2, tức là khoảng 60 tấn/héc-ta – người dịch). Ông cho đó là “phi lý”, là “đáng xấu hổ”.
Điền Gia Anh cho rằng Mao đã tạo ra thủ doạn lừa đảo này. Ông Điền nói: “Khi vua Trụ muốn kiếm một người vợ có thân hình nhỏ nhắn, xinh đẹp, tất cả tì thiếp của ông cố gắng làm giảm trọng lượng cơ thể và họ đã nhịn ăn đến chết”. Điền chỉ trích: “Một khi kẻ trị vì nói ra ý muốn của mình, tôi tớ gắng hết sức để thực hiện cho được ý muốn đó”.
Kế hoạch Đại nhảy vọt của Mao thật là viễn tưởng – vượt nước Anh trong vòng 15 năm, cải tạo sản xuất nông nghiệp và dùng công xã nhân dân làm phương tiện để chuyển từ chủ nghĩa xã hội sang chủ nghĩa cộng sản, chuyển từ nghèo đói sang dư thừa. Mao đã quen với những lời tâng bốc và xu nịnh, ông đã đưa giới lãnh đạo cao cấp của đảng chính phủ đến chỗ phải chấp nhận ảo tưởng vĩ đại của ông. Những cán bộ cao cấp nhất của nhà nước phải nịnh bợ Mao, chỉ vì tương lai chính trị của họ. Thế là họ lại gây sức ép đối với những cán bộ cấp dưới. Những người này, một mặt lại hành hạ nông dân không thương tiếc, mặt khác họ báo cáo cấp trên những điều mà cấp trên của họ muốn như thế. Người ta đã tạo ra những báo cáo tưởng tượng không thể tin được. Những số liệu về sản lượng ngũ cốc tăng từ 10 nghìn lên 20 nghìn thậm chí tới 30 nghìn cân một công mẫu.
Có lẽ những chuyên gia về tâm lý quần chúng mới có thể giải thích được những gì đã xảy ra ở Trung Quốc vào cuối mùa hè năm 1958. Căn bệnh lên đồng tập thể đang ngự trị cả nước. Cả Mao, tác giả của chiến dịch cũng trở thành nạn nhân của căn bệnh này.
Chúng tôi trở về Bắc Kinh để kịp dự lễ kỷ niệm ngày 1-10-1958. Nhưng ngay sau đó, chúng tôi lại lên đường về phương Nam. Những quang cảnh chúng tôi thấy được từ trên tàu thật khó tin. Trên cánh đồng, đông nghịt nông dân làm việc. Họ là phụ nữ, các em gái mặc quần áo xanh, đỏ, những ông già tóc bạc và những thiếu niên. Tất cả những người đàn ông khỏe mạnh đã bị rút khỏi công việc đồng áng để làm việc ở những lò luyện kim gia đình. Những lò này đã làm quang cảnh nông thôn thay đổi. Chúng mọc lên ở khắp nơi và chúng tôi có thể nhìn thấy nông dân luôn vội vàng, chạy đi chạy lại để vận chuyển nguyên liệu và thổi lửa. Ban đêm, những lò luyện kim ở khắp nơi toả ra những ngọn lửa sáng cả bầu trời.
Mỗi công xã tới thăm đều cho thấy kết quả của một vụ mùa bội thu. Những thống kê về sản lượng ngũ cốc cũng như sản lượng thép đều đạt kết quả cao. “Những trạm thông tin phổ biến tin vui” được thành lập ở các nhà ăn của công xã. Cờ đỏ phất lên, chiêng trống khua vang và mỗi trạm thi dua đạt những con số cao nhất với các tổ đội và các công xã láng giềng.
Những nghi ngờ ban đầu của Mao biến mất và nhận thức lành mạnh của ông cũng biến theo luôn. Cứ theo thái độ của ông mà đánh giá, ông thực sự tin vào những con số về sản lượng nông nghiệp đã được phóng đại lên một cách đáng xấu hổ. Lòng phấn khởi của ông được tăng thêm, lây lan cả tôi. Tất nhiên tôi rất ngạc nhiên, làm sao nông nghiệp Trung Quốc lại có thể chuyển mình một cách nhanh chóng đến như vậy. Nhưng tôi vô tình nhìn thấy sự thay đổi này bằng con mắt của chính mình trong chuyến di và đã thoáng có những ý ngờ vực.
Một buổi tối trên tàu. Lâm Khắc tìm cách giải thích mọi việc cho tôi. Tôi vừa chuyện trò với Lâm Khắc và Vương Kính Tiên, vừa nhìn những ngọn lửa của những chiếc luyện kim kéo dài đến tận chân trời và bày tỏ sự kinh ngạc về việc những lò luyện kim lại có thể mọc lên nhanh chóng đến thế và sản lượng sản xuất bất ngờ tăng lên.
Lâm Khắc đáp lại rằng tất cả những thứ chúng tôi nhìn thấy qua cửa sổ đều là dàn dựng cả – một vở tuồng Trung Quốc vĩ đại có nhiều hồi được trình diễn trên khắp đất nước và chỉ dành riêng cho Mao. Các bí thư đảng đã ra lệnh khắp nơi dọc theo hai bên tuyến đường xe lửa, người ta phải dựng lên hàng chục nghìn những chiếc lò luyện kim gia đình, và phụ nữ phải mặc những bộ quần áo màu sặc sỡ. Ở Hồ Bắc, ông bí thư đảng đã ra chỉ thị mang lúa từ những cánh đồng xa đến trồng dọc theo đường tàu, tạo cho Mao cảm giác được mùa. Những cây lúa được trồng sát nhau đến nỗi người ta phải sử dụng quạt điện để tăng cường lưu thông không khí trên cánh đồng và để cho lúa khỏi úa vàng. Cả đất nước Trung Quốc là một sân khấu và toàn dân trình diễn một vở kịch cho Mao chủ tịch xem.
Lâm Khắc cho biết những con số thống kê sản xuất là giả tạo. Chẳng có loại đất trồng nào có thể thu hoạch được 20 hoặc 30 nghìn cân trên một mẫu cả. Và những thỏi thép do các lò luyện kim gia đình nấu được đều chẳng làm được gì. Thỏi thép bóng láng mà tôi nhìn thấy ở An Huy mà Tăng Huy Sinh quá quyết là sản phẩm của những chiếc lò này, thực ra là sản phẩm của một nhà máy luyện kim đồ sộ và hiện đại.
Tôi phản đối: “Nhưng báo chí đã nói khác”.
Lâm Khắc cam đoan rằng cả báo chí cũng chỉ là dối trá và chỉ in ra những gì được người ta chỉ thị. “Báo chí chẳng dám vạch cho công chúng biết những gì đang thực sự xảy ra”. Tôi kinh hoàng. Tờ Nhân dân Nhật báo là nguồn thông tin quan trọng nhất đối với chúng tôi, một tờ báo nghiêm chỉnh nhất trong nước. Nếu Nhân dân Nhật báo cũng dối trá, còn báo nào nói thật nữa. Cuộc đối thoại của chúng tôi thật nguy hiểm. Những câu hỏi tò mò và dồn dập của tôi làm cho Vương Kính Tiên lo ngại. Ông cắt ngang: “Chúng ta không nên nói chuyện này nữa. Đến giờ đi ngủ rồi”. Khi tôi tranh cãi với Lâm Khắc. Vương kéo tôi sang một toa bên và cảnh cáo tôi nói năng bừa bãi: “Đồng chí có thể sẽ gặp rắc rối đấy”. Tôi không thể tin Lâm Khắc. Tôi bị cuốn hút vào màn kịch của chiến dịch Đại nhảy vọt và đã bị lừa gạt. Tôi vẫn tin đảng, Mao và Nhân dân Nhật báo. Nhưng sự phanh phui này thật đáng lo ngại.
Nếu những lời nói của Lâm Khắc là đúng, tại sao không ai nói thật cho Mao biết? Các cố vấn của ông như Điền Gia Anh, Hồ Kiều Mục, Trần Bá Đạt, Vương Kính Tiên, Lâm Khắc hay Chu Ân Lai để làm gì? Nếu họ biết sự thật, tại sao họ không báo cáo với Mao? Nhưng chẳng ai, kể cả những nhân viên tin cẩn nhất của Mao dám mở miệng. Tôi tự hỏi, liệu Mao, mặc dù trông ông hăng hái ra mặt có hồ nghi gì không?
Tuy nhiên đến tháng 10-1958, mối quan tâm của Mao không phải là các con số thống kê hoặc sự gia tăng kỳ lạ của sản lượng ngũ cốc và thép. Có lẽ, đã có những con số phóng đại. Nhưng điều làm ông lo lắng là sự quả quyết rằng chủ nghĩa cộng sản đang ở trong tầm tay. Vấn đề của Mao, làm sao kiểm tra được độ tin cậy của sự việc này, mà vẫn không làm giảm lòng nhiệt tình gắn liền với nó. Một đêm, ông nói:
– Không ai có thể ngăn cản quyết tâm và nhiệt tình của quần chúng. Nhưng công xã nhân dân là hoàn toàn mới mẻ. Còn rất nhiều công việc khó khăn đến khi nó trở thành một cơ cấu thực sự hoạt động được. Nhiều đồng chí lãnh đạo muốn gấp rút triển khai công việc cũng chỉ với ý tốt. Họ hấp tấp muốn tiến ngay lên chủ nghĩa cộng sản. Một số người khác vẫn nghi ngờ con đường chính trị đã chọn, nghi ngờ Đại nhảy vọt và công xã nhân dân. Thậm chí, một vài kẻ bảo thủ còn ngấm ngầm gây khó khăn, bọn ấy kể cả khi gặp Chúa trời vẫn vác cái đầu bướng bỉnh, bảo thủ ấy đến.
Sự lạc quan vẫn còn khi Ban chấp hành trung ương đảng họp ở Trịnh Châu, tỉnh Hà Nam, từ ngày 2-11 đến 10-11-1958. Mao nhấn mạnh với những người tham dự, ông đã từng nói với tôi, đường lối chính trị chung – kế hoạch Đại nhảy vọt và công xã nhân dân – phải được củng cố vững chắc. Nhưng giai đoạn quá độ tiến lên chủ nghĩa cộng sản đòi hỏi chúng ta phải kiên trì. Trung Quốc không thể vội vã sa vào một tương lai vô định. Ngoài ra nông dân có thể buộc phải làm việc quá sức. Cán bộ ở tất cả các cấp phải quan tâm hơn nữa đến đời sống nhân dân. Vài tháng trước đây Mao đã gây sức ép với các cán bộ và thúc họ triển khai công việc. Bây giờ ông lại tìm cách ghìm họ lại. Ông hạn chế bớt những yêu cầu quá đáng, nhưng chẳng kêu ca về những con số thống kê sản lượng sản xuất và các lò luyện kim gia đình đã bị người ta thổi phồng.
Ở Trịnh Châu, rốt cuộc, bức màn che khiến tôi không nhận rõ Mao, đã được tháo ra. Trong khí thế sôi động của chiến dịch Đại nhảy vọt, Mao đã không giữ kín những hoạt động cá nhân. Ông sống trong con tàu hoả, nhưng tối nào cũng tham dự buổi dạ vũ mà người ta tổ chức để mời ông tại nhà khách ở Trịnh Châu. Tôi được biết rằng đêm nào Mao cũng ngủ với cô y tá Tiểu Lý – một trong những nhân viên của Mao và thường đi cùng với ông.
Mao đã đích thân đón tiếp đoàn văn công của quân đoàn 20 có mặt tại Trịnh Châu và đội chí nguyện quân Trung Quốc cuối cùng vừa từ Triều Tiên trở về. Những cô gái trẻ của đoàn vây quanh Mao. Ông ngập trong sự quan tâm của họ, còn họ thi nhau đoạt lấy vinh hạnh được nhảy cùng Mao. Cho đến nay tôi vẫn còn nhớ một phụ nữ trẻ nhảy với Mao rất đẹp, bạo dạn uốn éo, say mê quay cuồng theo tiếng nhạc. Mao cũng cảm thấy hứng thú đối với cô gái trẻ này và thường lưu lại nơi vui thú từ 9 giờ tối đến hai giờ sáng.
Sau khi họp xong ở Trịnh Châu, chúng tôi đi tàu đến Vũ Hán. Đoàn văn công của quân đoàn 20 cũng đi theo, kể cả cô y tá xinh đẹp Tiểu Lý. Mao rất phấn khỏi. Vương Nhiệm Trọng đã bố trí để từ trên tàu Mao chỉ nhìn thấy mùa màng bội thu, những lò “Mác-tanh” làm bằng tay và những phụ nữ áo quần sặc sỡ.
Một tâm trạng vui vẻ như thường trực ở mỗi người. Nhưng với tư cách là một bác sĩ, tôi làm Mao bối rối khi vạch ra rằng, phụ nữ dầm mình trong những ruộng lúa ngập nước đến ngang hông sẽ gây tiềm ẩn nguy cơ bị nhiễm trùng bộ phận sinh dục. Mao không nói gì cả, đi khỏi cửa sổ lấy thuốc ra hút và xếp lại tranh cổ. Mao chẳng hề để ý đến những phụ nữ bất hạnh kia. Trồng lúa dưới nước sâu là một sáng kiến của tư tưởng Đại nhảy vọt.
Ở Vũ Hán, Mao đã triệu tập kỳ họp thứ 6 của Uỷ ban trung ương đảng khoá VIII. Vương Nhiệm Trọng điều động những nhân viên có khả năng nhất phụ trách an ninh, tiếp vận, và như thường lệ, cả việc thu xếp chỗ ở. Những đầu bếp nổi tiếng nhất vùng được mời đến để lo những bữa ăn với các món đặc sản hiếm có và tốn kém. Trong phòng chúng tôi lúc nào cũng có nước giải khát, hoa quả tươi. Mao từng cảnh cáo ý nghĩ cho rằng chủ nghĩa cộng sản đã ở trong tầm tay. Nhưng đối với chúng tôi, những người đang hưởng một chế độ tương tự như ở thiên đường, kiểu cộng sản, thì chủ nghĩa cộng sản đúng là đã bắt đầu.
Tuy cơ quan chịu trách nhiệm về an ninh ở Hồ Bắc cố gắng che giấu những sinh hoạt cá nhân của Mao ở trên tàu, nhưng chính Mao và các tì thiếp của ông ngày càng tỏ ra lộ liễu hơn. Các buổi dạ vũ, những đêm vui thú vẫn tiếp diễn. Mao hoàn toàn công khai đi lại với Tiểu Lý.
Mao cho tôi và tất cả nhân viên thân cận của ông nghỉ mấy ngày phép để về thăm gia đình ở Bắc Kinh. Đó là kỳ nghỉ phép duy nhất của tôi trong suốt 22 năm. Vì vậy tôi không có mặt ở Vũ Hán khi kỳ họp diễn ra từ ngày 28-11 đến 10-12-1958. Nhân dân và cán bộ lại được kêu gọi hãy suy nghĩ một cách thực tế hơn. Trung Quốc chưa đứng trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa cộng sản và nhân dân phải tiếp tục hưởng lương theo hiệu quả lao động. Sự nhiệt tình bao trùm cả nước là một điều tốt, nhưng những phân tích chính trị phải hướng tới sự thật.
Mao đã biết những con số thống kê về sản xuất là phóng đại. Bởi vậy, những định mức kế hoạch trong tương lai được hạ thấp. Cuối cùng, việc Mao từ chức Chủ tịch nước đã được chính thức công bố, trung ương đảng đồng ý trong kỳ họp tiếp theo của Quốc hội, Mao sẽ không còn là Chủ tịch nước nữa.
Nhưng việc Mao rời khỏi chức chủ tịch nước là để cuối cùng ông đoạt được độc quyền lãnh đạo. Bên trong ông vẫn luôn nắm quyền lãnh đạo tối cao. Ông đang được xem là người không thể thiếu được, mọi quyền lực đều ở trong tay. Bầu không khí ở Vũ Hán vẫn bình yên. Còn vấn đề hiện tại chỉ là một hình thức Mao ưa thích. Đó là sự lạc quan và nhiệt tình quá thái, những hành động quá táo bạo, quá tích cực. Lòng nhiệt tình của Mao đối với công xã nhân dân vẫn không thay đổi. Ông chỉ trích Liên Xô, vì họ cho rằng muốn tập thể hoá nông nghiệp có hiệu quả trước tiên phải cơ giới hoá nông nghiệp. Theo ông, công xã nhân dân là phương cách đúng đắn để đất nước tới thịnh vượng. Cuối cùng, quần chúng đã là người làm nên lịch sử. Nếu không tránh khỏi sai lầm, thà phạm phải khi tiến nhanh, tiến mạnh, còn hơn cứ khư khư giữ lấy những tư tưởng lỗi thời.
Những người đại diện cho những mang tính “hữu khuynh” đã bị sa thải, bị bắt giam, bị đày đi cải tạo lao động và đã bỏ mình trong đau đớn. Ngược lại những người tả khuynh, những người hấp tấp triển khai công việc chỉ bị khiển trách qua loa. Trước khi cuộc hợp kết thúc, tôi trở lại Vũ Hán, tham dự bữa tiệc bế mạc do Mao tổ chức, chiêu đãi các nhà lãnh đạo cao cấp của đảng. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình cũng như tất cả các bí thư tỉnh uỷ cũng đều có mặt. Hầu như mọi những lời chúc tụng đều dồn cho Mao. Vương Nhiệm Trọng, vẫn với vẻ xu nịnh như mọi khi đã cất lời đầu tiên. Ông ta kêu gọi:
– Những thông tri của kỳ họp này là bản Tuyên ngôn cộng sản ngày nay. Chỉ nhờ dưới sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch, ở phương Đông mới có thể một mặt trời đỏ như vậy mọc lên.
Chu Ân Lai đứng dạy diễn tiếp màn bợ đỡ:
– Đồng chí Trần Bá Đạt nói, một ngày sống trong một xã hội cộng sản thực sự đáng giá bằng hai mươi năm sống trong một xã hội phi cộng sản. Tới hôm nay chúng ta đã có được sức sản xuất của chủ nghĩa cộng sản.
Kha Thanh Thế tiếp lời Chu:
– Người ta nói không thể vượt qua được Marx không đúng. Ngày nay, về lý thuyết và cả trong thực tế, chúng ta đã chẳng vượt ông sao?
Có cả những lời chúc tụng ngụ ý chỉ trích Liên Xô:
– Từ nhiều thập kỷ nay, Liên Xô đã tìm cách xây dựng một cơ chế tiên tiến cho một xã hội phát triển, nhưng không thành. Ngược lại, chưa đến 10 năm chúng ta đã làm được điều đó.
Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình tuy cùng uống với mọi người, nhưng hai ông chẳng chúc tụng gì Mao cả. Thông thường Mao uống rất ít. Nhưng trong lúc các cán bộ cao cấp của Trung Quốc cạn hết ly này đến ly khác để chúc tụng, mặt ông lại đỏ lựng. Sau đó Mao chuyển những lời nịnh bợ sang Chu Ân Lai, thuộc hạ tin cẩn nhất, người phụ tá trung thành nhất của ông:
– Thủ tướng Chu tửu lượng cao lắm, chúng ta hãy cụng ly với thủ tướng.
Tôi là người đầu tiên nâng ly cụng với Chu Ân Lai. Tôi nói:
– Xin chúc sức khỏe thủ tướng!
Khi những người khác đến cụng ly với Chu. Ông nói:
– Ồ! chúng ta phải ăn mừng chứ.
Tửu lượng của Chu thật đáng phục. Ông không hề đỏ mặt. Tuy vậy, trong buổi tối hôm ấy ông đã say và khi nửa đêm ông tỉnh dậy, đã bị chảy máu cam. Sáng hôm sau, La Thuỵ Khanh đổ lỗi cho tôi. Đáng lẽ tôi không được phép chúc rượu ông đầu tiên, vì tôi là bác sĩ, tôi phải biết rằng ép người khác uống rượu có hại như thế nào.
Vụ thu hoạch mùa thu năm 1958 được mùa nhất trong lịch sử Trung Quốc. Nhưng ngay đến giữa tháng 12 lại xảy ra tình trạng thiếu lương thực trầm trọng. Trong khi cán bộ cấp cao của chính phủ đang ca tụng tài lãnh đạo của Mao chủ tịch, một tai hoạ bất ngờ vốn tích tụ từ hàng tháng nay ập tới.
Ở Vũ Hán, khi được Vương Nhiệm Trọng tiếp đãi linh đình, giới lãnh đạo không thể nhận ra cuộc khủng hoảng này. Nhưng trong khi đang diễn ra kỳ họp, tôi trở về Trung Nam Hải vài ngày, nhận ra ở Trung Nam Hải không có thịt và dầu ăn. Gạo, rau và các loại thực phẩm chủ yếu khác cũng khá khan hiếm. Hẳn có điều gì đó không ổn.
Thật vậy, phần lớn nông sản vẫn nằm ngoài đường và bị hư hỏng, vì những người đàn ông cường tráng đã phải bỏ công việc đồng áng để nấu thép ở những lò luyện kim. Còn lại đàn bà và trẻ em làm sao đủ sức thu hoạch mùa màng. Đây là công việc nặng nhọc, họ không thể cáng đáng nhiều ngày được. Và thế là khá nhiều thóc lúa bị mục nát ở ngoài đồng.
Lúc bấy giờ tôi không hề biết điều đó, nhưng Trung Quốc lại đang ở bên bờ vực thẳm. Các cán bộ lãnh đạo đảng, những bí thư thứ nhất ở các tỉnh chỉ biết nịnh bợ Mao, chẳng thèm quan tâm gì đến đời sống của hàng trăm triệu nông dân. Những lời quá quyết phi lý, sản xuất tăng vọt đã được ban lãnh đạo đảng cho là nghiêm túc. Nhưng làm sao một mẫu (Trung Quốc) đất trồng có thể đem lại 50 nghìn, 100 nghìn hoặc thậm chí 200 nghìn cân thóc được.
Các vùng nông thôn phải nộp cho nhà nước một số phần trăm nhất định những hoa màu thu hoạch được của họ, những người đã nói dối bội thu, bây giờ sẽ phải chịu một khoản nộp tô khổng lồ. Một số vùng đã phải nộp toàn bộ nông phẩm thu hoạch được cho nhà nước. Còn các vùng khác, số lương thực còn lại của họ không đủ để nuôi dân chúng. Nông dân bắt đầu bị đói và rồi sẽ chết đói. Ở đâu sự dối trá càng nhiều ở đó càng lắm nông dân phải trả giá bằng chính tính mạng của mình.
Vậy mà thật là lạ đời, người ta lại xuất khẩu phần lớn những ngũ cốc nộp tô cho nhà nước sang Liên Xô để trả nợ, để khỏi mất mặt. Mao không thể thú nhận với Khrushchev – người đã kịch liệt phản đối việc thành lập công xã nhân dân, về những thất bại của công xã được.
Để giảm bớt khoản đóng góp cho nhà nước và giữ lại số lương thực để dùng, một số công xã đã báo cáo rằng họ gặp thiên tai. Vụ mùa của họ đáng lẽ đạt sản lượng cao, nhưng chỉ vì thời tiết quá xấu. Những công xã này được phép giữ lại số ngũ cốc lẽ ra họ phải nộp cho nhà nước, thậm chí một số nơi còn được nhà nước viện trợ lương thực.
Cả lò luyện kim cũng là tai hoạ. Vì không đủ than để nuôi ngọn lửa trong lò, nông dân đã phải tống vào lò cả những đồ đạc bằng gỗ của mình như bàn ghế, giường tủ. Sản phẩm của những lò luyện kim đó thật vô dụng, chẳng có gì khác ngoài những con dao, những cái nồi, cái chảo bị nấu chảy. Thế nhưng, Mao đã quả quyết rằng Trung Quốc vẫn chưa bước tới ngưỡng cửa của chủ nghĩa cộng sản, nhưng chúng ta đã vội và tiến tới chủ nghĩa cộng sản theo một phương cách không hợp lý. Sở hữu cá nhân về tài sản đã bị loại bỏ, vì những tài sản đó đã bị những chiếc lò luyện kim nuốt chửng. Nhưng Mao vẫn còn phấn khích. Có lẽ cho đến lúc đó, ông vẫn không biết tai hoạ đang đến gần. Tôi cảm thấy tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng, nhưng không dám nói cho ông biết. Trong số những nhân viên thân tín nhất của Mao, Điền Gia Anh, người am hiểu sự việc nhất, người hoài nghi nhất và cũng là người thẳng thắn nhất. Theo tôi, ông nên nói cho Mao. Nhưng Điền lại đang ở Hà Nam giám sát tình hình. Đến lúc ông trở về, mới có thể có những báo cáo trung thực được. Mao tin ông và Mao sẽ tin lời ông nói.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 33

Posted: 20/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Người ta bắt đầu phê phán Mao. Tuy nhiên, lúc đầu chỉ mang tính chất ngấm ngầm.
Chu Tiểu Châu, bí thư thứ nhất tỉnh Hồ Nam, người mà Mao vẫn nghi ngờ, vì đã nhắc nhở cần có sự thận trọng khi tăng sản lượng nông nghiệp, lại là người đầu tiên chỉ trích Chủ tịch. Giữa tháng 12, khi chúng tôi rời Vũ Hán, dừng lại nghỉ ít lâu giữa chặng đường ở Trường Sa. Chu Tiểu Châu đã mời Mao xem một vở kinh kịch Hồ Nam có tựa đề “Sinh Tử Bài”. Đó là một câu chuyện rắc rối về một người phụ nữ trẻ bị buộc tội oan giết người. Hải Thuỵ (1513-1587), vị quan ngay thẳng đời nhà Minh (1368-1644), nhân vật chính của vở kịch. Ông làm việc trong triều vua Gia Kính và vào phút cuối cùng đã can ngăn việc xử trảm người phụ nữ đó. Bành Đức Hoài, vị bộ trưởng quốc phòng nổi tiếng của Trung Quốc, người thẳng thắn nhiều lần dám chỉ trích trích Mao, đã xem vở kịch này vào tháng 11 khi đến thăm Trường Sa. Ông đã đánh giá cao vở kịch. Hải Thuỵ, nổi tiếng vì sự công bằng, đức tính liêm khiết, vì những mong muốn đổi mới, thần tượng trong nhiều vở kinh kịch dân gian ở các địa phương. Tất cả những vở kịch đó đều đề cao sự quả cảm, nhân cách cao quí của vị quan đã cống hiến cả cuộc đời cho hạnh phúc của đất nước và nhân dân, chống lại nhà vua ưa nịnh, nghe lời sàm tấu. Chu Tiểu Châu chọn vở kinh kịch này không phải ngẫu nhiên, phải có chủ ý. Chắc rằng ông tự ví mình là một quan chức trung thực, vì hạnh phúc của nhân dân và đất nước, nhưng ông bị một vị hoàng đế điên khùng triệt hại.

Hình như Mao có nhận ra ngụ ý ngầm chỉ trích này, nhưng không thấy ông phản ứng. Ông yêu kinh kịch và bị nhân vật Hải Thuỵ trong vở lôi cuốn. Ngay trong đêm đó ở Trường Sa, ông yêu cầu Lâm Khắc sưu tầm một số chuyện khác đã từng xảy ra trong triều đại nhà Minh nói về lòng dũng cảm và đức tính liêm khiết của Hải Thuỵ. Trong những tháng sau đó, ông thường khuyến khích các nhà lãnh đạo đảng hãy noi gương Hải Thuỵ.
Chúng tôi ở lại Trường Sa không lâu. Giang Thanh đang chờ ở Quảng Châu. Mao vẫn hứng thú nói về những con số số thống kê sản lượng vừa qua. Lúc này ông lại quan tâm đến tác phẩm của nhà kinh tế học Liên Xô Leontief và muốn so sánh phương pháp tổ chức về kinh tế ở Liên Xô với cơ chế mới ở Trung Quốc. Thế là ông gọi Trần Bá Đạt, Điền Gia Anh và Đặng Lý Thuấn tới Quảng Châu gặp để cùng với họ đọc cuốn sách Kinh tế chính trị của Leontief.
Tại đây, Điền Gia Anh báo cáo tình hình thị sát thực tế ở Hà Nam. Lúc đó tôi không có cơ hội nói chuyện với Điền, chỉ biết rằng tình hình ở Hà Nam rất nghiêm trọng do có nạn đói. Trong những cuộc nói chuyện ban đêm với Mao, tôi nhận ra vẻ lo lắng hoàn toàn mới có ở ông. Thỉnh thoảng ông tự hỏi có thật là có thể thu hoạch được mỗi mẫu (Trung Quốc) mười nghìn cân thóc không? Ông cũng không tin vào chất lượng thép của những lò luyện kim gia đình nữa. Nhưng cứ khi Mao băn khoăn điều gì đấy thì những băn khoăn đó lại bị chiến dịch Đại nhảy vọt lấn át. Chiến dịch đã làm cho nhân dân Trung Quốc trở nên hăng say, trong khi Mao không muốn làm giảm đi tinh thần hăng say đó. Ông đứng về phía quần chúng, đại diện cho quyền lợi của họ. Điểm mạnh trong phong cách lãnh đạo của ông là khả năng kích động mọi người, thức tỉnh sức sáng tạo của họ. Theo ông, chính sách Đại nhẩy vọt đã xoáy mạnh vào khía cạnh này. Sự tự tin vào việc lãnh đạo của mình, vào chiến dịch Đại nhảy vọt, vào quần chúng không có gì lay chuyển nổi.
Ngày 26-12-1958, ngày sinh nhật lần thứ 65 của ông. Chúng tôi nghỉ tại Quảng Châu. Đào Chú bí thư thứ nhất tỉnh Quảng Đông, đã tổ chức một bữa tiệc mừng sinh nhật Mao. Nhưng Mao từ chối:
– Hồi còn trẻ tôi cũng thích làm lễ sinh nhật. Nhưng bây giờ, mỗi lần sinh nhật lại nhắc nhở tôi đã sắp già thêm một tuổi, thời gian còn sống bớt đi một năm.
Đó là một câu nói lịch sự, vì thời gian đó vẫn là những năm tháng huy hoàng của Mao, không nghĩ bữa tiệc của Đào Chú có ý doạ ông sắp chết. Chiến dịch “đại nhảy vọt” không thu được kết quả như mong đợi, ông mất mặt và cố gắng tìm ra nguyên nhân.
Mao sử dụng đêm sinh nhật lần 65 trên giường. Ông cử tôi và các nhân viên khác của Nhóm Một đến dự tiệc của Đào Chú. Như thường lệ, Mao yêu cầu sau đó tôi báo cáo tỉ mỉ với ông về buổi lễ. Bữa tiệc thật xa xỉ, tốn kém, phung phí, nhất là các món ăn. Tất cả nâng cốc chúc sức khỏe Chủ tịch. Tôi say đến nỗi khi trở về, leo ngay lên giường, chứ không đến báo cáo với Mao như mọi khi.
Đến nửa đêm, Lý Ẩm Kiều đến đánh thức tôi dậy. Chúng tôi phải lên đường về Bắc Kinh ngay.
Giang Thanh còn dậy sớm hơn tôi. Cơn mất ngủ hành hạ, bà quyết định uống một cốc nước, uống thêm viên thuốc ngủ. Giang Thanh gọi y tá, nhưng cô này không thấy đâu. Bà tới buồng trực, y tá vẫn không có ở đó. Bà đâm nghi ngờ, lẻn vào phòng ngủ của chồng. Khuôn mặt yêu kiều của cô y tá “mất tích” đang ngon giấc trên chiếc gối kề bên Mao. Thì ra cô y tá đã để mặc mệnh phụ phu nhân trên giường và quyết định ôm ấp vị lãnh tụ kính yêu nhất.
Lý Ẩm Kiều kể cho tôi mọi chuyện xảy ra. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến Giang Thanh to tiếng với Mao. Cơn giận như giọt nước tràn ly, tất cả sự nghi ngờ về Mao bà tuôn ra hết. Nào là gần đây Mao đến thăm con gái nhân viên cũ, hai người vẫn thường xuyên liên hệ, cho 300 tệ để con gái cô ta nộp lệ phí nhập trường. Người thiếu phụ đã đến thăm Mao tại buồng riêng trong vụ nghỉ đông năm 1958. Không những thế cô ta cũng lại đến thăm Mao vào tháng 11 và tháng 12 khi Mao nghỉ ở Vũ Hán. Giang Thanh kể tuốt, không những Mao chỉ quan hệ các y tá, hầu gái trẻ đẹp của bà, mà còn quan hệ cả những người đã có chồng con như cô nhân viên cũ. Tất cả được phơi bầy rõ ràng sau cái đêm hai người to tiếng.
Mao trả đũa chuyện lôi đình của vợ bằng cách ra lệnh quay về Bắc Kinh ngay lập tức bỏ mặc Giang Thanh chìm trong cơn căm phẫn.
Chúng tôi khởi hành về thủ đô trước rạng đông. Tất cả mọi việc xảy ra bất ngờ đến nỗi tôi chỉ có vài phút chuẩn bị.
Giang Thanh nhanh chóng hối tiếc về sự nông nổi của mình. Bà đã chuyển lời xin lỗi Mao ở Bắc Kinh bằng một cách rất hài hước. Giang Thanh đưa cho chồng đọc quyển “Tây du ký”, tác phẩm của Vương Thừa Ân nổi tiếng ở Trung Quốc thế kỷ 14. Truyện này kể về Đường Tăng nhận sứ mệnh đi vào Tây Thiên thỉnh kinh phật, giúp dân chúng tìm ra chân lý và nhẫn nhục chịu đựng. Trên đường đi, Đường Tăng lôi thêm con khỉ Tôn Ngộ Không. Trong cơn giận dữ, nhà sư đã đuổi Tôn Ngô Không về Thuỷ Liêm động. Ngộ Không lâm vào nỗi cô đơn và thất vọng, liền nói với Đường Tăng: “Thân thể con ở trong Thuỷ Liêm động, nhưng tim con theo sư phụ đi khắp nơi”. Mao rất mừng khi đọc những dòng thư này của Giang Thanh. Mao là Đường Tăng ngày nay của chúng tôi, ông đang thực hiện một sứ mệnh gian nan nguy hiểm đi tìm chân lý chủ nghĩa cộng sản. Những vụ bê bối của ông tương tự như những hiểm nguy của Đường tăng trên con đường đi đến chủ nghĩa cộng sản.
Giang Thanh đã gián tiếp cho phép Mao tiếp tục những cuộc phiêu lưu tình dục của ông.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 34

Posted: 22/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Đầu năm 1959, một sự hoảng loạn bao trùm cả thành phố Bắc Kinh. Có tin đồn sắp tới các công xã cũng sẽ được thành lập ở các thành phố. Mọi người đều nghĩ tài sản cá nhân của họ sẽ sắp phải sung công, trở thành tài sản của nhà nước. Thế là thành phố Bắc Kinh biến thành một cái chợ trời khổng lồ. Ai cũng tìm cách bán những tài sản quí giá của họ để giữ lấy đồng tiền, sợ một khi những tài sản còn lại bị sung vào công xã.

Cuộc sống của gia đình tôi sa sút trông thấy kể từ khi bắt đầu chiến dịch Đại nhảy vọt và cũng vì phần lớn thời gian trong năm 1958 tôi phải đi với Mao trong các chuyến công du nên chẳng giúp được họ hàng. Tôi vui mừng vì cuối cùng đã trở về.
Mẹ tôi lo ngại bà sẽ bị cưỡng bức đi lao động trong công xã của thành phố, mặc dù già yếu, hàng ngày phải trông nom hai đứa cháu trong khi vợ tôi đi làm. Nếu công xã được thành lập, ai sẽ chăm sóc những đứa trẻ. Mao muốn bọn trẻ đến nhà trẻ của nhà nước. Trong lúc tin đồn còn chưa lắng, người ta đã đề nghị tôi, Lý Liên, cũng như mẹ tôi và các con tôi chuyển đến sống ở Trung Nam Hải. Nhưng tôi không muốn đưa gia đình vào sống trong khu dinh thự đó khi chưa thật cần thiết. Đồng thời, tôi cũng cần có một nơi để tạm lánh, mỗi khi có thể được. Đối với tôi, nơi ở cũ của gia đình luôn là nơi ở lý tưởng nhất, nơi thực sự là một gia đình, giúp chúng tôi có thể quên đi những lo âu để vui cười và tận hưởng hạnh phúc, nơi duy nhất tôi cảm thấy an toàn, vì thế, tôi muốn giữ lại cho mình nơi ẩn náu này.
Mao đã nghe thấy những lời ca thán thê lương của nhân dân thành phố, ông bỏ kế hoạch thành lập công xã ở thành phố. Tuy vậy, phần lớn tài sản của gia đình tôi đã bị tịch thu. Mấy vị cán bộ hay soi mói ở khu phố, phát giác rằng mẹ tôi và hai con trai tôi chỉ ở trong 5 căn phòng ở toà nhà đồ sộ có tới 30 phòng của gia đình. Mẹ tôi để cho mấy người họ hàng ở trong một số phòng. Những phần còn lại được cho thuê với giá tượng trưng. Mùa đông 1957-1958 khi chiến dịch tuyên truyền mang tính chất tả khuynh lên đến đỉnh cao, chính quyền địa phương nơi gia đình tôi ở, Sở nhà cửa thành phố Bắc Kinh, Sở công an đã quyết định sung công cả toà nhà của gia đình, trừ những căn phòng mà mẹ và các con tôi đang ở. Dĩ nhiên. người ta không gọi việc làm này là “sung công”. Mẹ tôi được “đền bù” vì đã “tự nguyện” bán toà nhà và bà cũng còn là đồng chủ nhà khi có người dọn đến ở. Mặc dù vậy mẹ tôi và tôi vẫn sững sờ vì toà nhà là di sản, thuộc quyền sở hữu từ nhiều thế hệ. Vợ tôi giục tôi hãy đến trình bày với cấp trên ở Ban An ninh và Ban y tế trung ương. Có thể tôi sẽ đạt được thoả thuận nào chăng.
Cả tôi cũng buồn bực, nhưng không thể đòi hỏi cách giải quyết đặc biệt được. Gia đình tôi luôn luôn được ưu đãi trong khi hầu hết những người cùng làm việc với tôi đều xuất thân từ nông dân nghèo khó. So với người khác, gia đình tôi vẫn sống sung túc. Cấp trên của tôi chẳng có lý do gì để cho tôi tiếp tục sở hữu ngôi nhà gia đình – nhất là trong giai đoạn bầu không khí “tả khuynh” đang thắng thế. Có thể những cố gắng của tôi sẽ dẫn đến kết quả, đề nghị chuyển gia đình tôi vào ở Trung Nam Hải. Đó lại là điều tôi muốn tránh. Vì vậy đành phải từ bỏ tài sản của gia đình. Chúng tôi chỉ còn lại những căn phòng mà mẹ và các con tôi đang ở. Người ta đã mua toà nhà với số tiền tượng trưng đến nỗi có thể nói, chúng tôi đã tặng không toà nhà cho nhà nước. Còn mẹ tôi cũng không thể tham gia ý kiến chọn lựa ai đó đến thuê nhà.
Tôi tìm mọi cách an ủi mẹ, cố giải thích cho bà hiểu, có thể vui mừng vì còn 5 căn phòng nữa, trong khi những cán hộ trong thành phố thường ở chật chội, đa số mọi người chỉ có hai bàn tay trắng không có nhà riêng.
Mùa đông năm 1958 – 1959, thực phẩm trở nên khan hiếm, tình hình sức khỏe của mẹ tôi ngày càng xấu đi. Lý Liên vẫn ăn ở nhà ăn trong Trung Nam Hải mỗi khi tôi tới đó. Tôi cùng ăn với Lý Liên. Bữa ăn không có thịt, món ăn ngày càng tệ hơn, nhưng vẫn đủ. Trung Nam Hải, nơi cuối cùng người ta cảm nhận được sự khủng hoảng về lưu thông phân phối phối hàng hóa. Mẹ tôi thiếu cả những thực phẩm thiết yếu. Trước các cửa hàng lương thực thực phẩm, người ta đứng xếp hàng rồng rắn chờ mua.
Hồi đó, mẹ tôi đã ngoài 70 tuổi, thường đau ốm nhiều hơn trước. Bà mắc chứng cao huyết áp. Chúng tôi nhờ hàng xóm đi chợ, xếp hàng mua thực phẩm giúp. Nhưng tình trạng kinh tế mỗi ngày một tồi hơn. Vậy mà Điền Gia Anh nói đây mới chỉ là bước đầu. Nông dân đã trở thành nạn nhân của sự thiếu thốn, trước mắt vẫn chưa thấy có gì khá hơn. Vì tình trạng khủng hoảng ngày càng trầm trọng, tôi mong Mao sẽ ở lại Bắc Kinh, nhưng tôi đã lầm.
Một buổi tối cuối tháng giêng năm 1959, tôi đến thăm Hồ Kiều Mục đang nằm trong Bệnh viện Bắc Kinh điều trị loét dạ dày tái phát. Ở đó tôi nhận được lệnh khẩn, phải trở về Nhóm Một ngay lập tức. Chắc Mao ốm đột ngột. Tôi vọt ra ngoài, thậm chí không kịp mang theo chiếc áo ấm, nhảy lên xe đạp, lao ra cổng bệnh viện đúng lúc vệ sĩ Tiểu Lý đánh xe ô tô rẽ vào. Hoá ra Mao quyết định đi thăm Mãn Châu Lý. Ông muốn khởi hành ngay.
Chủ tịch đã lên đường ra sân bay khi tôi vừa về đến Trung Nam Hải. Ông đã mang theo dụng cụ đồ lề của tôi và một chiếc ô tô đang chờ. Tôi chẳng còn thời gian để gói ghém bàn chải đánh răng, chứ chưa nói đến thu xếp quần áo. Chúng tôi đến sân bay đúng lúc máy bay của Mao vừa cất cánh. Một chiếc máy bay khác đang nổ máy chờ chúng tôi. Tôi và Tiểu Lý là hành khách duy nhất của chiếc máy bay này. Khi chúng tôi vừa lên khoang, máy bay cũng rời đường băng. Vài giờ sau tôi rời khỏi máy bay ở Tân Cương, thuộc tỉnh Liêu Ninh nơi lạnh nhất của Trung Quốc vào tháng lạnh nhất của năm mà không có áo khoác, kể cả áo ấm. Thật may, các phòng được sưởi ấm, chẳng bù cho lúc ở ngoài tôi đã bị rét cóng một cách thảm hại. Mao đùa:
– Đồng chí đã bán hết quần áo vì chiến dịch Đại nhảy vọt hay đã quyên góp cho công xã nhân dân rồi?
Thật phúc tổ, chuyến công du này chỉ kéo dài 5 ngày. Chủ tịch đến miền Bắc Trung Quốc vì ở đó có mỏ than lớn nhất và các nhà máy luyện kim. Ông muốn biết người ta luyện thép như thế nào, chất lượng thép của các lò luyện kim gia đình được đánh giá ra sao. Ông định bãi bỏ việc sản xuất thép để giải thoát nông dân khỏi tình trạng kiệt quệ về nhiên liệu và tước quyền bọn quan liêu trong nền kinh tế tập trung đang làm tê liệt các ngành. Nhưng Mao vẫn chưa tìm được câu hỏi ông thường căn vặn tôi. Tại sao các nước công nghiệp tiên tiến phương Tây lại sử dụng các cơ sở sản xuất khổng lồ, trong khi các lò luyện kim gia đình nhỏ xíu cũng có thể sản xuất được thép có chất lượng tốt? Ngoài ra, ông còn quan tâm đến việc người ta đốt nóng các lò này như thế nào. Ở nông thôn, nơi mà nhiên liệu trở nên khan hiếm sau khi cây rừng bị đốn hết, nông dân đã phải đốt cả cửa và những đồ đạc bằng gỗ của họ để nuôi ngọn lửa trong lò. Những nhà máy luyện kim lớn, hiện đại ở vùng Tây Bắc có một khoản dự trữ than khổng lồ nên Mao muốn tận mắt nhìn thấy các cơ sở luyện kim và các mỏ than.
Bài học ông thu được trong chuyến đi này chỉ có những nhà máy luyện kim lớn hiện đại với nhiệt độ nung thích hợp chẳng hạn được đốt nóng bằng than mới có thể sản xuất thép có chất lượng cao. Thế nhưng ông vẫn không ra lệnh đình chỉ việc sản xuất thép của các lò luyện kim gia đình. Sự lãng phí to lớn sức người, sức của không làm ông lo ngại, Mao chỉ lo ngại làm nguội lòng nhiệt tình của quần chúng.
Chúng tôi trở về Bắc Kinh, ít lâu Mao lại tiếp tục đi Thiên Tân. Tế Nam, Nam Kinh, Thượng Hải và Hàng Châu. Ông mời La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn cùng đi, vì muốn lợi dụng chuyến đi để “cải tạo” họ.
Cả hai đã không còn được Chủ tịch quí mến như xưa nên họ rất lấy làm vinh dự khi nhận lời mời. La Thuỵ Khanh, người lúc nào cũng trung thành, vẫn luôn tìm mọi cách lấy lòng Mao bằng cách tránh tham gia hoạt động do cơ quan an ninh sắp xếp, kể cả đi bơi. Thế nhưng vẫn chưa lấy lại được toàn bộ lòng tin của Mao.
Dương Thượng Côn, vẫn còn cay cú do bị cách chức bí thư Ban chấp hành trung ương sau vụ Những lá cờ đen vài tháng trước đây, cũng ra sức lấy lòng Mao – ông tập trung vào những công việc hành chính thay vì những công việc chính trị, cốt tỏ ra là người giúp việc tin cẩn không hề có bất kỳ mối tham vọng chính trị nào. Do bị cô lập và cảm thấy bấp bênh, Dương đã theo Đặng Tiểu Bình người sẽ che chở cho ông trước những biến cố chính trị khó lường – Dương ít có cơ hội gặp Mao, nên có vẻ rất phấn khởi khi được đi cùng với Mao.
Chuyến đi này lại là một “chuyến đi thanh tra”. Chúng tôi tới thăm các nhà máy, các trường Đại học các công xã và các trường phổ thông. Các nhà lãnh đạo đảng, quân đội nồng nhiệt bắt tay Chủ tịch với những lời ca tụng, hứa luôn trung thành với Mao. Mặc dù tình hình kinh tế ngày một xấu đi, nhưng sự tôn sùng Mao lại được tăng lên. Khi thực phẩm khan hiếm người ta không quy trách nhiệm cho Mao, lại đổ cho giới lãnh đạo ở địa phương. Ai cũng tin rằng Chủ tịch đến để uốn nắn những sai lầm. Thái độ này của dân chúng đối với Mao bắt nguồn từ truyền thống của Trung Quốc: vua không bao giờ sai, cùng lắm là do đám quan lại trong triều báo cáo láo hoặc cố vấn sai. Ở đâu cũng có những đám đông khổng lồ đón tiếp Mao với những tràng pháo tay như sấm và tiếng hô to: “Mao chủ tịch muôn năm!” Mao cho La và Dương thấy dân chúng tôn sùng đến mức nào, ông đã đạt được mục đích. La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn rất xúc động. Với lời mời của mình, Chủ tịch đã tạo được ở Dương và La sự kính trọng sâu sắc đối với ông. Hai ông đã ngập trong ánh hào quang xung quanh Chủ tịch.
Dương Thượng Côn chỉ còn tiếc mỗi một việc, trong chuyến đi, Mao đã nói nhiều đến đề tài như có thể tổ chức các mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp như thế nào, phải xây dựng các công xã nhân dân ra sao, làm thế nào để phân phối và trả lương cho công bằng, nhưng chẳng ai ghi lại những lời giáo huấn của Chủ tịch. Một đêm, khi nói với La Thuỵ Khanh và một sự cộng sự khác. Dương nói, ông luôn tìm cách ghi lại những lời của Chủ tịch trong các chuyến công du qua các tỉnh. Mao thường nói về những dự định chính trị, nhưng Ban bí thư trung ương chẳng nhận được thông tin gì về việc này – nên không thể ghi lại những lời phát biểu của ông, để trình bày những phương hướng chính trị trên giấy. Các cán bộ địa phương cũng gặp phải những vấn đề như vậy. Họ có thể gửi những bài bình luận của Mao tới các cấp cao hơn – đến Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình – nhưng nếu không có những văn bản chính thức, chẳng ai muốn truyền đạt lại chính sách với những thông tin từ các tỉnh gửi về. Dương Thượng Côn nói: “Chúng ta phải nghĩ xem làm thế nào ghi lại được lời Chủ tịch và có thể nộp tất cả các biên bản cho Ban bí thư trung ương để rồi họ đánh giá phân tích”. Đó là sáng kiến độc đáo của một cấp dưới vốn không quên ơn Chủ tịch.
Diệp Tử Long kể với tôi. Dương đã đề nghị xin Mao cho ông mang theo một người ghi tốc ký trong các chuyến công du sau này. Như vậy, trung ương sẽ có biên bản đày đủ về những lời nói của Mao – nhưng Mao không muốn có người ghi tốc ký. Ông coi những ý kiến chỉ là phụ, biết lời nói có sức mạnh. Cả đất nước Trung Hoa vội vã thành lập công xã nhân dân khi Mao vừa mới tuyên bố: “Công xã thật là tuyệt”. Ông không muốn một nhận xét tình cờ bỗng nhiên lại trở thành một chính sách cụ thể, như vậy trách nhiệm về ông sẽ quá lớn. Ngay sau đó một toán nhân viên kỹ thuật của cơ quan công an đã lên đoàn tàu của Mao để lắp máy nghe trộm trong toa ngủ của ông, trong phòng khách. Những chiếc microphon nhỏ xíu được gắn trong các chụp đèn, đèn treo tường và trong các lọ hoa để Mao không phát hiện được.
Những chiếc microphon này được nối với một máy ghi âm ở một toa khác nơi có một nhân viên kỹ thuật trẻ tên là Lưu làm việc. Anh ta thu ráp nối các cuộc nói chuyện, bảo quản hệ thống máy móc. Mao không bao giờ biết nhiệm vụ của Lưu làm gì, nhưng chàng trai trẻ này theo chúng tôi đi khắp nơi trong các chuyến công du. Sau này Diệp Tử Long cho tôi biết người ta cũng đã gắn những “con bọ” như vậy trong các nhà khách ở các tỉnh mà Mao thường hay lui tới. Những nhân viên Nhóm Một chúng tôi có nhiệm vụ phải giữ bí mật tuyệt đối. Việc nghe trộm Chủ tịch như Diệp Tử Long cho chúng tôi biết, do thượng cấp quyết định. Nếu bí mật này bị tiết lộ hậu quả sẽ rất khủng khiếp. Tất cả chúng tôi đều phải nín lặng. Đảng đã ra lệnh chúng tôi phải chấp hành. Không một ai trong chúng tôi biết quyết định này sẽ mang lại tai hoạ như thế nào.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 35

Posted: 24/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tại Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 7 khoá VIII diễn ra từ ngày 2-4 đến ngày 5-4-1959 ở Thượng Hải, Mao vẫn luôn tỏ ra lạc quan. Lòng tin của ông vào Đại nhảy vọt, vào công xã nhân dân vẫn không thay đổi. Tuy chiến dịch Đại nhảy vọt đã vấp phải một số vấn đề nhỏ nhưng có thể giải quyết được. Cơ cấu tổ chức của các công xã phải được hoàn thiện, có nghĩa phải định ra chính sách điều tiết sức lao động giữa các lò luyện kim gia đình và sản xuất nông nghiệp. Mao đã kéo quá nhiều đàn ông khỏe mạnh khỏi công việc đồng ruộng. Phương thức trả lương ở các công xã được điều chỉnh, các khoản thuế cũng phải giảm bớt sao cho hợp lý hơn. Sản lượng năm 1958 thổi phồng quá mức, chỉ tiêu đề ra 1959 nhiều triển vọng đạt được.

Lo ngại lớn nhất của Mao không phải vấn đề thiếu lương thực, những chỉ tiêu kế hoạch quá cao hay những lò luyện kim gia đình đã phung phí quá nhiều sức lao động, tạo ra vô số phế phẩm, điều ông lo ngại nhất là tính sáng tạo của quần chúng đã được phong trào Đại nhảy vọt cởi trói sẽ bị kìm lại. Nếu nhận thức được đất nước đang tới gần thảm hoạ, chắc không bao giờ ông để lộ suy nghĩ này. Tôi cũng cho những vấn đề hiện tại chỉ tạm thời. Đó là hậu quả do khó khăn trong việc liên lạc với các cấp cơ sở ở địa phương. Tôi đồng ý với Mao, bỏ ngoài tai mọi dư luận bên ngoài.
Trong thời gian Hội nghị Thượng Hải, Mao ngủ ở trên đoàn tàu. Có thể, một là ông không ưa cách bài trí trưởng giả trong nơi ở cũ của Silas Hardoon; hai là ông vẫn quan hệ với cô Tiểu Lý, y tá đi theo đoàn tàu. Tối nào ông cũng đi với Tiểu Lý đến câu lạc bộ Tân Cương, của người Pháp trước đây, bây giờ trở thành nơi đàng điếm sang trọng dành cho cán bộ cao cấp.
Biết Mao đặc biệt sủng ái giới nữ, cơ quan an ninh địa phương đã bố trí để Mao gặp các nữ diễn viên, nữ danh ca nổi tiếng nhất của Thượng Hải. Thế nhưng Mao chẳng hề để mắt đến những phụ nữ này. Đối với Mao, họ quá già, biết quá nhiều. Mao chỉ thích những cô gái trẻ, thơ ngây vì họ dễ xiêu lòng hơn. Thế là tối tối cơ quan an ninh thành phố Thượng Hải lại phải đưa các thiếu nữ trẻ, đẹp, ngây thơ từ các đoàn văn công đến trình diễn cho Mao xem.
Ngoài những buổi xem phim, Kha Thanh Thế cũng cho trình diễn một vở kinh kịch nữa về Hải Thuỵ. Năm ngoái, khi Mao ở Trường Sa, câu chuyện về nhân vật này đã từng gây ấn tượng mạnh đối với ông. Trong vở diễn, Hải Thuỵ đã phải ngồi tù vì ông phát hiện ra tên của vua Gia Tĩnh, đồng âm với chữ có nghĩa “vua sẽ đưa nhân dân đến tai hoạ”. Lúc đầu vua doạ sẽ xử trảm Hải Thuỵ nhưng sau khi đọc lá sớ giải thích của viên quan này lần thứ hai, rồi lần thứ ba cuối cùng vua nhận ra rằng, Hải Thuỵ, một người trung thực và cương trực, sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của nhân dân. Tuy Hải Thuỵ vẫn bị giam trong ngục, nhưng vua đã bãi bỏ án tử hình. Một hôm, người coi ngục mang đến cho Hải Thuỵ một bữa cơm rất thịnh soạn. Viên quan này tưởng rằng đây là bữa ăn cuối cùng của người tử tù. Nhưng khi vừa ăn xong, người cai ngục liền chúc mừng, báo cho ông biết tin vua đã băng hà. Hải Thuỵ, người thực sự trung thành với vua, buồn đến nỗi đã nôn hết những gì ông vừa ăn.
Một lần nữa Mao lại thán phục Hải Thuỵ, Mao bắt đầu quảng bá tư cách của Hải Thuỵ bằng cách cho in tiểu sử Hải Thuỵ, phân phát cho những người tham dự Hội nghị. Ông hối thúc họ noi gương Hải Thuỵ. Sau này ông đề nghị các nhà sử học phải nghiên cứu kỹ hơn nữa về Hải Thuỵ và các bài viết đã được đăng trên các báo chí cả nước. Ở Thượng Hải và Bắc Kinh người ta đã dàn dựng những vở kịch hiện đại Hải Thuỵ khiến viên quan đời nhà Minh này trở thành người anh hùng dân tộc.
Trong khi đó Mao lại không hài lòng với Ban chấp hành Trung ương, đổ lỗi cho ban lãnh đạo đã làm chệch hướng phong trào Đại nhẩy vọt. Báo cáo thống kê các con số đã thổi phồng quá mức xảy ra ở mọi nơi, mọi chỗ. Mao bảo tôi:
– Tất cả đều báo cáo láo, đã lừa trên được tất nhiên họ sẽ dối dưới.
Lòng ngưỡng mộ của Mao đối với Hải Thuỵ cũng tiềm ẩn nỗi trớ trêu. Cũng vì sau này, nhân vật Hải Thuỵ trở thành một biểu tượng chủ yếu của sự bất bình đối với chiến dịch làm trong sạch đảng, chống lại Bành Đức Hoài và đối với việc khởi đầu của Cách mạng văn hoá, tôi thường ngẫm nghĩ ý nghĩa của nhân vật này đối với Mao. Tính khí của Mao thật phức tạp, đầy mâu thuẫn. Cũng như vua, Mao tin, ông không hề làm gì sai trái. Nếu có một quyết định nào sai, lỗi không phải ở ông, mà chỉ vì ông nhận được tin tức sai. Vua không hề nhầm lẫn được, nhưng vẫn có thể bị lừa.
Mao đặc biệt thích Hải Thuỵ vì ba lý do: Hải Thuỵ chỉ nói sự thật, luôn trung thành với vua, mặc dù bị kết án oan, thà chịu chết không một lời phản kháng để giữ tiếng cho vua và giữ hạnh phúc cho nhân dân. Hải Thuỵ không đổ lỗi cho vua mỗi khi có việc gì đó không thành, mà quy tội cho bọn quan lại lừa lọc, đồi bại.
Mao cũng muốn người ta luôn nói sự thật với ông. Mặc dù đến nay tôi đã tỉnh ngộ, nhưng tôi vẫn thường cho rằng, nếu Mao biết được toàn bộ sự thật ngay từ khi chiến dịch bắt đầu, ông đã ngăn chặn ngay sự tiến triển đầy tai hoạ này từ rất sớm. Tuy nhiên, phải có một Hải Thuỵ hiện đại, với những điều kiện riêng, mới có thể nói cho Mao biết được sự thật. Nhưng Mao lại không thể chấp nhận được sự thật, nếu sự thật đó chứa đựng những lời chỉ trích, hoặc bắt nguồn từ những quan chức thâm hiểm, đang thèm khát quyền lực của ông. Cho nên, nói cho ông biết sự thật phải là những người không có tham vọng chính trị.
Nhưng rất ít người không tham vọng leo đến được chức vụ cao trong bộ máy quyền lực. Thực tế, hầu như chẳng có một cán bộ nào không ích kỷ, không vụ lợi lại dám sẵn sàng đứng ra vì hạnh phúc của đất nước. Vì Mao biết quá rõ lịch sử Trung Quốc với tất cả các cuộc phân tranh quyền lực, các thủ đoạn chính trị nên cũng đã tính đến những âm mưu trong triều đình và chính ông cũng tham gia trò chơi này.
Như vậy việc Mao khuyến khích mọi người noi gương Hải Thuỵ cũng như việc kêu gọi trí thức phê phán đảng đều nằm trong chiến lược có chủ định. Ông muốn nghe sự thật từ những người tuyệt đối trung thành, không hề có tham vọng chính trị. Tuy nhiên việc Mao đề cao Hải Thuỵ là một xảo thuật để nhử kẻ thù bò ra khỏi hang. Cũng như vua, Mao tự cho mình được độc quyền phán xét xem ai là thuộc hạ trung thành, ai là người chỉ phê phán vua để củng cố quyền lợi của chính người đó. Nhưng lập luận của Mao vẫn có những kẽ hở. Trong khi Mao đánh giá rất cao những ông vua như Tần Thuỷ Hoàng, vua Trụ, Tuỳ Dạng Đế, những ông vua mà nhân dân căm giận nhất, đa số những người đã đọc truyện về Hải Thuỵ đều coi những ông vua đó và cả vua Gia Tĩnh là những kẻ tàn bạo, bất công. Nhiều thuộc hạ thân tín của Mao tỏ ra sẽ trung thành với Mao như Hải Thuỵ trung với vua. Mao khẳng định, những cán bộ cấp dưới đã nói dối vì họ phải chịu “sức ép từ trên xuống” và do đó họ đã phê bình cả những nhân viên của chính họ. Nhưng sức ép đó lại chính do Mao gây ra. Năm 1958, ông quy cho những người đã phê phán ông là hữu khuynh, trừng phạt không thương tiếc. Sau đó, ông thường lôi kéo đảng vào những chiến dịch mới, khích động cán bộ lãnh đạo phải nâng cao chỉ tiêu sản xuất. Chính ông đã tạo ra bầu không khí khiến các nhà chính trị khác khó có thể nói lên sự thật, các cán bộ cấp cao của đảng vì trung thành hoặc vì sợ phải theo ông. Mao không nhận thấy sai lầm của chính ông, ở những cán bộ lãnh đạo khác của đảng, ở đám quan lại đồi bại trong triều đình Gia Tĩnh. Lòng hâm mộ Hải Thuỵ còn giúp ông đổ lỗi của mình cho người khác. Tuy nhiên, những người như Chu Tiểu Châu lại hiểu lịch sử một cách khác. Họ là những người như Hải Thuỵ, thuộc hạ tin cẩn của Mao, họ đã bị kết tội, bị phạt oan, khiến Mao không còn là một ông vua xứng đáng của họ nữa.
Giữa tháng 4 năm 1959, chúng tôi trở về Bắc Kinh để dự kỳ họp thứ nhất của Đại hội nhân dân toàn quốc khoá Hai, Quốc Vụ Viện ở Trung Quốc. Quốc Vụ Viện theo chỉ thị của Uỷ ban trung ương đảng, chấp thuận việc Mao xin từ chức Chủ tịch nước và bầu Lưu Thiếu Kỳ lên thay. Còn Chu Đức vẫn tiếp tục điều hành Uỷ ban Thường vụ Hội đồng nhân dân. Tống Khánh Linh và Đổng Bích Vũ được bầu làm phó Chủ tịch nước.
Việc Mao từ chức, bầu Lưu Thiếu Kỳ vào chức vụ trên đã được dự định từ lâu và sự thay đổi này cho đến lúc đó vẫn chưa được công bố. Đến lúc này, cả hai chức được gọi là “Chủ tịch” – Chủ tịch đảng cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa – đều trong tay Mao và chỉ có một mình Mao có chức danh này. Từ khi bổ nhiệm Lưu Thiếu Kỳ giữ chức Chủ tịch nước, ở Trung Quốc nơi mà chức danh được coi là quan trọng, có hai Chủ tịch. Điều này khiến Mao không chịu được.
Việc Trung Quốc có hai Chủ tịch trong khi Mao vẫn nắm quyền tối thượng đã kéo theo những hậu quả chính trị mà tôi và đa số nhân dân Trung Quốc lúc đó không thể lường hết.
Trước khi Lưu Thiếu Kỳ nhận chức và Mao từ chức năm 1959, tất cả chúng tôi gọi ông là đồng chí Thiếu Kỳ, đột nhiên bây giờ ông có tên mới, Chủ tịch Lưu. Chức vụ đi đôi với quyền lực. Chức vụ Chủ tịch mà Lưu nhận có quyền lực quan trọng, điều hành đất nước hàng ngày, uy thế mỗi ngày một tăng, nhiều vấn đề ông không cần tham khảo ý kiến Mao.
Vì thế, trận đấu của Mao để đoạt lại quyền giữ chức Chủ tịch duy nhất của Trung Quốc đã bắt đầu và sẽ được kết thúc bằng sự sụp đổ của Lưu Thiếu Kỳ với việc ông bị phế truất khỏi chức “Chủ tịch nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”.
Chúng tôi ở lại Bắc Kinh một tháng, cuối tháng 5 lại lên tàu xuôi xuống miền Nam Trung Quốc.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 36

Posted: 27/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Tất cả đều đổi thay. Lửa trong những lò luyện kim trong sân các gia đình đã lụi. Người ta cũng không còn thấy phụ nữ với những bộ quần áo sặc sỡ nữa. Trên các cánh đồng không có một bóng người. Không còn những vụ mùa bội thu. Thành phố Vũ Hán, nơi vẫn do bạn Mao, Vương Nhiệm Trọng lãnh đạo đang lâm vào tình trạng vô vọng.

Như thường lệ, chúng tôi ăn nghỉ ở nhà khách Mỹ Viên, gần Đông Hồ, nhưng lần này chẳng có nhiều món để thưởng thức. Thỉnh thoảng người ta chiêu đãi chúng tôi món cá. Còn rau xanh thật hiếm hoi. Trước kia, trong phòng chúng tôi đầy ắp trà và thuốc lá, bữa nào cũng thịt cá ê hề. Bây giờ hết sạch, gà, trâu bò đang chết đói, còn lợn còm nhom toàn da với xương. Cả tỉnh bói không ra thuốc lá và diêm, các cửa hàng rỗng tuếch, mọi thứ đều đã bán sạch. Mới vài tháng trước đây, Vương Nhiệm Trọng, người luôn luôn nịnh bợ Mao còn khoe, ở Hồ Bắc mỗi mẫu ruộng sẽ thu hoạch được từ 10 đến 20 nghìn cân lúa (1 cân = 0,454 gram). Thế mà bây giờ nạn đói đang hoành hành.
Vương Nhiệm Trọng đổ lỗi mất mùa do thiên tai, nhưng làm gì có thiên tai ở Hồ Bắc. Thời tiết nơi đây năm 1958-1959 mưa thuận gió hoà, vụ mùa bội thu nhưng chỉ vì thiếu lực lượng lao động thu hoạch.
Ở Trường Sa thuộc tỉnh Hồ Nam, quê Mao, tình hình khá hơn, ở đó lương thực tuy không còn nhiều như trước, nhưng không ai bị đói và những quán ăn nhỏ ngoài đường vẫn còn phục vụ được khách hàng. Chúng tôi ở trong nhà khách Vườn Sen tráng lệ, gồm những toà nhà hiện đại, rất đẹp và có đầm sen bao quanh. Nước trà và thuốc lá ở trong phòng chúng tôi mốc xì và hết mùi. Vì quí trọng chúng tôi, nên người ta đã xuất những thứ đó trong kho đã quá lâu ra mời. Xưa kia, các cửa hàng đầy hàng hoá, trà thuốc lá của vùng này nổi tiếng thơm ngon nhất ở Trung Quốc. Ở Hồ Nam chúng tôi còn được ăn món dăm-bông thịt lợn. Món ăn đặc sản đã từng làm tỉnh này nổi danh.
Đối với Chu Tiểu Châu sự trái ngược mỉa mai giữa Hồ Nam và Hồ Bắc chẳng có gì lạ. Viên bí thư tỉnh uỷ Hồ Nam này, người đầu tiên cho Mao biết về nhân vật Hải Thuỵ, đã bị Mao phê phán kịch liệt hồi năm 1957 vì tỉnh của ông không thu hoạch nổi hai vụ một năm. Vương Nhiệm Trọng theo Mao đến Trường Sa. Một hôm, khi La Thuỵ Khanh, Vương Nhiệm Trọng, Chu Tiểu Châu và tôi ngồi tán chuyện gẫu. Chu không thể kìm được nữa bắt đầu châm chọc Vương. Ông hỏi cay độc: “Năm ngoái Triết Giang được khen vì đã đóng góp lương thực rất nhiều cho nhà nước phải không? Còn Hồ Nam lại bị khiển trách. Nhưng bây giờ các đồng chí thử nhìn Hồ Bắc xem. Ở đó ngay cả trà và thuốc lá tồn kho cũng chẳng còn. Các đồng chí đã xài hết cả số dự trữ rồi. Tuy chúng tôi nghèo nhưng ít ra chúng tôi vẫn còn dự trữ được”.
Vương Nhiệm Trọng lặng lẽ ngoảnh mặt đi, trong khi tất cả chúng tôi lúng túng lặng thinh. Nhưng Chu đã nói đúng, ngay ở ngoài phố người ta đã đủ thấy sự khác biệt. Ở Hồ Nam vẫn còn có cái để mà ăn.
Mao quyết định tới thăm làng cũ Thiếu Sơn của ông. Từ năm 1927 tới nay nghĩa là đã 32 năm nay ông chưa về thăm làng.
Việc trở lại Thiếu Sơn sẽ giúp Mao hiểu rõ sự thật. Ở Thiếu Sơn sẽ chẳng có những màn kịch được dàn dựng khéo léo, chu đáo.
Ông chẳng tin những cán bộ lãnh đạo, ông biết nơi này quá rõ, sẽ phát hiện ra ngay bất cứ mưu đồ nào nhằm qua mặt. Vả lại dân làng sẽ cởi mở chuyện trò, họ vốn là những người chất phác, chân thật. Còn Mao cảm thấy dường như ông không có gì xa lạ đối với họ. Ông tin vào những người nông dân.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 37

Posted: 29/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 25 tháng 6, một ngày nắng chói chang, nóng như thiêu như đốt, chúng tôi rời Trường Sa. Chúng tôi đi bằng ô tô trên những con đường làng gồ ghề, bụi bặm, không lát gạch. Xe của chúng tôi không có điều hoà nhiệt độ, nên bụi luồn qua các cửa kính xe đang mở. Đã thế, mồ hôi chúng tôi tuôn ra như tắm, hai tiếng sau, chúng tôi tới trụ sở huyện Tương Đàm, nhìn chúng tôi tới, người ta cứ tưởng chúng tôi vừa ở đầm lầy chui lên. Bí thư huyện uỷ Tương Đàm, Hoa Quốc Phong đã nồng nhiệt đón tiếp chúng tôi. Đó là lần đầu tiên Mao cũng như tôi gặp người đàn ông mà 15 năm sau trở thành người kế nhiệm ông. Chúng tôi nghỉ ngơi một lúc ở Tương Đàm, trò chuyện với Hoa. Hoa Quốc Phong không đi tháp tùng, vì Mao sợ rằng dân làng Thiếu Sơn sẽ không dám nói hết sự thật khi có người lãnh đạo huyện đi cùng.

Làng Thiếu Sơn cách huyện lỵ Tương Đàm chừng 40 phút ô tô. Mao nghỉ lại ở một nhà trọ cũ nằm trên một quả đồi, trước đây của những người truyền giáo Tin Lành (mỗi một làng vùng sâu vùng xa như Thiếu Sơn đều có nhà thờ dòng Tin Lành). Tôi ngủ trong một ngôi trường nằm dưới chân quả đồi. Đêm đến không khí thật ngột ngạt. Nằm trong màn, tôi cảm thấy chiếc giường tôi đang nằm chật chội đến nỗi tôi không tài nào chợp mắt nổi.
Khoảng 5 giờ sang, Lý Ẩm Kiều gọi tôi dậy. Cả Mao cũng không ngủ được, muốn tôi đi dạo với ông. Chúng tôi gặp nhau trước cửa nhà khách của ông, đi xuống đồi với La Thuỵ Khanh, Vương Nhiệm Trọng, Chu Tiểu Châu và một đám vệ sĩ. Mao đứng lại trước một nấm mộ nằm giữa rừng thông. Đến khi ông cúi xuống có vẻ kính cẩn, tôi mới biết rằng chúng tôi đang đứng trước ngôi mộ của cha mẹ ông. Thẩm Đông, một người trong đám vệ sĩ nhanh nhẹn hái một bó hoa rừng và Mao đặt bó hoa lên trên mộ, rồi vái ba vái. Mọi người vái theo ông. Mao nói: “Ở đây có một tấm bia đá, sau bao nhiêu năm nó đã biến mất rồi”. La Thuỵ Khanh đề nghị nên cho sửa sang lại ngôi mộ nhưng Mao không đồng ý.
– Tôi đến tìm thấy chỗ này là đủ rồi. (Trong cuốn phim về Mao khi Mao thăm Thiếu Sơn lần thứ hai. Mao thấy một tấm bia đá đã được dựng lên).
Chúng tôi liếp tục đi xuống đồi, đến ngôi nhà của gia đình Mao. Mao lại dừng lại ngạc nhiên nhìn quanh và hình như ông muốn tìm kiếm một cái gì đó. Chỗ này trước kia có bệ thờ Phật mà Mao vẫn thường kể. Trước bệ thờ này, thân mẫu ông thường ra đó đốt hương rồi lấy tro để cho Mao ăn mỗi khi đau ốm vì bà tin rằng con trai bà sẽ khỏi bệnh. Cũng như tấm bia đá, chiếc bệ thờ nhỏ đó đã không còn nữa. Mấy tháng trước đây, khi các công xã được thành lập, người ta đã dỡ bệ thờ, bởi vì người ta cần gạch để xây lò luyện kim gia đình và ván gỗ để đốt lò.
Mao lặng đi. Ông rất buồn vì chiếc bệ thờ đã bị phá. Ông nói:
– Tiếc thật, đáng lẽ người ta đừng nên động đến bệ thờ. Những người nông dân đáng thương không có điều kiện đi khám bệnh sẽ có thể đến đây cầu trời và ăn tàn hương. Bệ thờ sẽ mang lại cho họ niềm hy vọng. Con người cần được giúp đỡ và an ủi.
Tôi cười, nhưng ông coi đó là việc nghiêm túc.
– Đồng chí đừng coi thường tác dụng của tàn hương.
Ông nhắc lại, theo ông thuốc chỉ dùng cho những căn bệnh có thể điều trị được.
– Ngược lại, tàn hương mang đến cho người ta sức mạnh để cưỡng lại bệnh. Đồng chí là bác sĩ, đồng chí phải hiểu tâm lý đóng một vai trò quan trọng như thế nào chứ?
Chúng tôi vào thăm ngôi nhà của gia đình Mao. Bấy giờ ngôi nhà đã trống rỗng. Sự sùng bái Mao mới chỉ manh nha, nên ngôi nhà vẫn không có gì thay đổi. Những dụng cụ làm ruộng cũ kỹ vẫn sạch sẽ, xếp thành hàng dưới hiên nhà. Người ta chỉ có thể đọc được những dòng chữ cho biết đây là ngôi nhà mà Mao đã sống thời thơ ấu trên một thanh gỗ bắc ngang ở cửa ra vào. Ngôi nhà được xây theo kiểu đặc trưng của vùng này, nhà tranh vách đất đơn sơ. Với tám căn phòng quanh một chiếc sân. Chắc hẳn ngôi nhà là của một phú nông.
Thửa ruộng đã từng thuộc của thân phụ Mao được một người làm công cày cấy trước kia, bây giờ thuộc về công xã nhân dân. Ngay sau nhà, một cái ao có cây cối bao quanh. Mao nói:
– Tôi thường bơi ở đây và cũng là nơi để cho những con bò uống nước – Mao kể về thời thơ ấu – Cha tôi rất nghiêm khắc. Ông thường nện chúng tôi. Một lần ông định vụt cho tôi mấy roi, nhưng tôi trốn được. Ông đuổi tôi quanh ao và chửi rủa tôi là thằng con bất hiếu. Tôi cũng cãi lại, cha tàn nhẫn thì con mới bất hiếu.
Mao kể thân mẫu của ông, một phụ nữ xởi lởi, tốt bụng, sẵn sàng giúp đỡ mọi người. Bà cùng với Mao và người em trai của Mao hợp thành một “mặt trận thống nhất” chống lại thân phụ của Mao.
– Cha tôi mất đã lâu. Nếu ông còn sống đến ngày nay hẳn người ta đã quy ông là phú nông và đấu tố ông rồi.
Ông đi thăm họ hàng để tận mắt thấy được kế hoạch Đại nhảy vọt tác động đến họ như thế nào. Chỉ có phụ nữ và trẻ em ở nhà. Còn đàn ông đi làm ở những lò luyện kim xa nhà hoặc ở những đập nước. Thoại nhìn, Mao đã có thể cảm nhận được cuộc sống của các gia đình ở Thiếu Sơn khó khăn như thế nào. Tất cả nồi, chảo đều bị ném vào lò luyện kim, trong làng người ta chẳng giữ lại được cái nào. Mọi người phải đến ăn ở nhà ăn công cộng, bởi vì họ lấy đâu ra nồi để nấu. Nhưng giá mà có nồi niêu, họ cũng không thể nấu ăn được, bởi vì những cái bếp bằng đất của họ cũng đã bị phá đi để làm phân bón cho đồng ruộng. Buổi chiều, Mao cùng đi tắm với mọi người tại hồ chứa nước mới xây ở Thiếu Sơn, chuyện trò với nhân dân địa phương về công trình thuỷ lợi này. Mọi người đều phê phán công trình trên. Bí thư đảng uỷ công xã đã ép mọi người phải hoàn thành hồ chứa nước này quá gấp nên trong hồ đã xuất hiện một chỗ rò rỉ nước. Ngoài ra sức chứa của hồ quá ít ỏi đến nỗi mỗi khi mưa xuống. người ta phải xả bớt để nước khỏi tràn ra ngoài.
Những người lãnh đạo công xã gọi người của họ từ nơi làm việc về, Mao đã mời họ khoảng 50 người đi ăn tối trong một quán trọ. Họ đều phàn nàn về những nhà ăn công cộng. Các cụ già không thích vào đó vì họ thường bị thanh niên chen lấn. Còn những người trẻ tuổi không thích đến đó vì họ không bao giờ được ăn uống no nê. Những trận đấm đá tranh nhau miếng ăn xảy ra liên miên và trong những cuộc ẩu đả đồ ăn thức uống vung vãi tứ tung.
Mao hỏi dò mọi người về lò luyện kim gia đình. Ông chỉ nghe thấy những lời than phiền. Ở khu vực này chẳng có quặng, mỏ gì. Người ta phải khai thác những loại than kém phẩm chất tại chỗ để đốt lò. Đã vậy vì không có quặng sắt nên chỉ còn cách duy nhất để hoàn thành chỉ thị là sung công tài sản của nông dàn. Cho nên thành phẩm ra lò chỉ là những cục sắt vô dụng. Khi Mao ngừng hỏi, căn phòng chìm trong yên lặng. Một bầu không khí ảm đạm trùm lên tất cả chúng tôi. Kế hoạch Đại nhảy vọt Thiếu Sơn đã không thành công. Mao nói:
– Nếu ở nhà ăn tập thể các đồng chí không được ăn no, tốt hơn hãy đóng cửa. Nếu không chỉ lãng phí lương thực. Còn đập nước, theo tôi, mỗi làng cũng chẳng cần có hồ dự trữ nước riêng của mình làm gì. Nếu xây những hồ chứa nước không đúng quy cách có ngày gặp hoạ. Và nếu không luyện được thép có chất lượng cao, tốt hơn các đồng chí đừng nên làm nữa.
Những lời nói của Mao đã hợp pháp hoá việc Thiếu Sơn là làng đầu tiên ở Trung Quốc giải tán các nhà ăn công cộng, đình chỉ việc xây dựng các hồ chứa nước, dỡ bỏ dần những lò luyện kim. Những lời nói của Mao tuy chưa được công bố, nhưng được mau chóng truyền miệng lan đi khắp nơi. Chẳng bao lâu, nhiều nơi những công trình trên đã bị đình chỉ.
Chuyến viếng thăm làng Thiếu Sơn đã đưa Mao trở lại với thực tế. Đến khi chúng tôi trở lại Vũ Hán, niềm cao hứng của Mao đã tiêu tan. Nhưng ông luôn luôn khẳng định, những chương trình chính trị như trên về cơ bản vẫn đúng, có điều người ta phải thực hiện chúng một cách từ từ hơn. Ngay đến lúc này ông cũng không muốn làm nguội đi lòng nhiệt tình của quần chúng. Vấn đề là ở khâu cán bộ. Làm sao người ta có thể đưa những người cán bộ trở lại với thực tế mà không làm tổn hại đến tinh thần của họ, hoặc không tạo ra một bàu không khí nặng nề trong dân chúng? Đó là vấn đề tuyên truyền. Làm sao người ta có thể động viên được cả cán bộ cũng như nông dân mà vẫn làm cho họ đứng vững được. Mao quyết định triệu tập một cuộc họp để bàn về tuyên truyên. Cuộc họp diễn ra ở Vũ Hán.
Ngày 28-6-1959 chúng tôi gặp nhau ở Vũ Hán, nơi có tiết trời nóng như thiêu như đốt. Vương Nhiệm Trọng đề nghị nên họp ở nơi có khí hậu dễ chịu hơn. Ông đề nghị họp ở Thanh Đảo, địa điểm của cuộc họp hồi mùa hè năm 1957, nhưng Mao nhớ đến lần bị cảm nặng ở đó nên đã từ chối.
Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải đề nghị địa điểm họp ở Lư Sơn, nơi nghỉ mát nổi tiếng ở vùng núi gần sông Dương Tử thuộc tỉnh Giang Tây và cũng là nơi Tưởng Giới Thạch thường triệu tập các cuộc họp của Quốc dân đảng, ở độ cao 1500 mét, tiết trời chắc sẽ mát mẻ, dễ chịu. Ngoài ra, từ Vũ Hán đến Lư Sơn cũng không xa lắm, chỉ cần đi tàu thuỷ dọc sông Dương Tử là tới. Quan trọng là nhiều cán bộ lãnh đạo đảng đã có mặt ở Vũ Hán, nên việc đưa họ đến Lư Sơn không thành vấn đề.
Mao đồng ý đề nghị này. Đảng sẽ họp ở Lư Sơn.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa



Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 38

Posted: 31/08/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Những nơi khác tình hình còn tệ hơn ở Thiếu Sơn. Nạn đói khủng khiếp lan ra khắp cả nước. Ở tỉnh An Huy, nơi lần đầu tiên bí thư tỉnh uỷ Tăng Huy Sinh đưa Mao đi xem những lò luyện kim gia đình, lại là nơi bị ảnh hưởng hết sức nặng nề, cũng giống như ở tỉnh Hà Nam nơi chúng tôi đã đến thăm vào tháng 8-1958 để thị sát những công xã nhân dân mới được thành lập. Tại một vài nơi vùng sâu vùng xa, mật độ dân số thưa thớt, như ở Cam Túc đã có người chết đói. Nông dân ở tỉnh Tứ Xuyên cũng bị chết đói. Tứ Xuyên, tỉnh đông dân, rộng hơn nhiều tỉnh khác, được coi là vựa lúa của Trung Quốc. Tại đây tháng ba năm 1958 Mao đã tuyên truyền kế hoạch của ông, trong 15 năm tới Trung Quốc sẽ vượt nước Anh về sản lượng. Như trong lịch sử đã từng xảy ra, vì nạn đói, hàng chục ngàn nông dân đã bỏ làng ra đi.

Tôi chưa từng chứng kiến nạn đói khủng khiếp bao giờ. Nhóm Một vẫn được bảo đảm an toàn không bị ảnh hưởng nạn đói. Trên đường đến Lư Sơn, tôi nghe được tất cả những điều này khi tôi cùng với Mao, những người cộng tác của ông và những cán bộ lãnh đạo các tỉnh xuôi theo dòng Dương Tử hùng vĩ. Điền Gia Anh cũng ở trên tàu, ông còn nhớ như in chuyến thanh tra kéo dài sáu tháng ở Hà Nam và Tứ Xuyên theo lệnh của Mao. Trên boong tàu, tôi đứng bên cạnh ông, Lâm Khắc và Vương Kính Tiên, người giữ chức vụ của Uông Đông Hưng, chịu trách nhiệm bảo vệ Mao. Điền Gia Anh đã mô tả nạn đói khủng khiếp ở Tứ Xuyên. Chỉ tiêu sản lượng thép hết sức lạc quan trong năm 1959 đã giảm từ 20 triệu tấn xuống 13 triệu tấn. Nhưng vẫn còn 60 triệu nông dân và những người khỏe mạnh làm việc ở những lò luyện thép, lẽ ra người ta cần họ làm việc ngoài cánh đồng. Việc phung phí lực lượng lao động này đã gây ra hậu quả thật trầm trọng. Tình hình càng trở nên bi đát hơn.
Điền Gia Anh không chỉ khổ tâm vì nhiều người bị chết đói mà trước hết ông lấy làm buồn về việc nhiều chính quyền địa phương đã tìm cách che đậy tình trạng khủng hoảng. Điền bảo, sự giả đối ngày càng trầm trọng, trắng trợn. Tờ Bản tin Nội bộ ngày càng trở nên vô nghĩa. Những kẻ dối trá vẫn còn dối trá, trong khi người ta lại công kích những người dám nói ra sự thật.
Cuộc trò chuyện lần đầu tiên chuyển hướng, chuyển dần sang đề cập trực tiếp đến Mao. Ông, một triết gia vĩ đại, một người lính vĩ đại, một nhà chính trị vĩ đại, nhưng lại là một nhà kinh tế tồi, tệ hại. Ông say mê đối với kế hoạch vĩ đại nên đánh mất sự liên hệ với nhân dân cũng như đã quên mất tác phong làm việc mà ông vẫn thường xuyên tuyên truyền. Muốn hiểu sự thật phải tìm hiểu bản chất sự việc, phải khiêm tốn, phải biết chú ý từng sự việc nhỏ nhặt hàng ngày. Đây chính là những nguyên nhân sâu xa đối với những vấn đề kinh tế của đất nước.
Vương Kính Tiên bắt đầu kể cho chúng tôi về những người tình của Mao. Vương nói, rất kinh tởm những việc làm xấu xa, đồi bại trong đời sống hàng ngày của Mao.
Mặc dù tôi biết, tình hình kinh tế rất tồi, nhưng tôi không biết nạn đói đã lan ra cả nước, hàng triệu người đã chết đói. Và tôi cũng rất ngạc nhiên khi người ta dám phê phán Mao. Anh bạn Điền Gia Anh của tôi thường ngày rất cẩn trọng, nhưng bây giờ lại dám nói thẳng, nói thật những điều tối nguy hiểm với như vậy cho nhóm người gần gũi, phe cánh của Mao. Sự phát hiện của Vương Kính Tiên đã làm cho tôi ngạc nhiên. Vương chịu trách nhiệm bảo vệ an ninh của Chủ tịch, trong số bạn bè, ông là người dè dặt. Còn tôi vẫn giữ im lặng như Lâm Khắc. Lâm Khắc vẫn còn chịu ơn Mao đã cứu trong vụ Những lá Cờ đen, biết nhiều hơn những gì mà người ta chỉ trích Mao.
Kha Thanh Thế, Vương Nhiệm Trọng và Lý Tinh Toàn, bí thư thứ nhất tỉnh uỷ tỉnh Tứ Xuyên đến nhập cuộc, tưởng chúng tôi đang tranh cãi sôi nổi về nạn đói.
Điền Gia Anh nói: “Chúng tôi nói đến những khó khăn về lương thực, thực phẩm. Mọi người sẽ bị chết đói mất”.
Lý Tinh Toàn đáp: “Trung Quốc, một đất nước rộng lớn. Dưới triều đại nào mà chẳng có người chết đói?” Ông có lý, những trận đói xảy ra thường lặp đi lặp lại là một phần của lịch sử Trung Hoa. Nhưng năm 1959, Trung Quốc đang ở giai đoạn giữa của kế hoạch Đại nhảy vọt. Thậm chí, trong khi nhiều người chết đói thì những lời tuyên truyền chính thức vẫn khẳng định thắng lợi tuyệt vời.
Vương Nhiệm Trọng nhắc lại lời Mao chủ tịch: “Mọi người vẫn tỏ ra hăng say với công việc hơn trước đây”. Cả hai vị bí thư tỉnh uỷ này đều hoàn toàn ủng hộ đường lối của Mao.
Kha Thanh Thế cũng ngả theo chính sách của Mao:
– Một số người chỉ chú ý đến những việc nhỏ, không nhìn ra những việc lớn. Họ mới chỉ nhìn sự tiêu cực nổi trên bề mặt, đã ca thán về mọi vấn đề. Chủ tịch cho rằng, những người như vậy dù có đứng trước dãy núi Đại Sơn cũng vẫn chưa nhìn ra nó.
Trước khi đến Lư Sơn trận tuyến đã rõ ràng. Vương Nhiệm Trọng, Lý Tinh Toàn và Kha Thanh Thế đã từng bị Mao ép: hoặc tăng sản lượng hoặc mất chức. Đúng ra, họ đã trở thành vật tế thần của Mao. Vì họ đã tán dương Đại nhẩy vọt, không nhìn thấy sự yếu kém tệ hại trong vấn đề kinh tế, lại còn mớm những số liệu thống kê gian lận lên trung ương, vì họ biết ở đó người ta muốn nghe điều gì. Họ được các cán bộ trung ương như La Thuỵ Khanh, Dương Thượng Côn ủng hộ, mặc dù phạm vi công việc của hai người không phải là kinh tế, nhưng họ bao giờ cũng tán đồng những chính sách Mao ưa thích. Hai người đã từng bị Mao phê bình, họ không dám chọc giận lần nữa ngoài việc ủng hộ Mao. Họ ủng hộ Mao không phải vì niềm tin mà vì quyền lợi lâu dài của bản thân, có thể họ đã tính toán kỹ lưỡng hoặc giả ngây thơ, hoặc ngu dốt không nhìn thấy thực trạng nền kinh tế suy thoái đang phát triển trên toàn quốc.
Những người chỉ trích Mao chủ yếu có hai thái độ. Một là, đại diện của những người lập kế hoạch như Bạc Nhất Ba, chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế nhà nước và Lý Phú Xuân, người được giao chức chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước. Họ có nhiệm vụ phải thực hiện bằng được những chỉ tiêu về sản lượng và lập ra những kế hoạch phù hợp. Khi bắt đầu thực hiện kế hoạch Đại nhảy vọt, Bạc Nhất Ba đã khước từ việc quy định những chỉ tiêu không thực tế về sản lượng. Nhưng sau đó dưới áp lực của Mao ông đã phải nhượng bộ. Khi Bạc nhận ra được hết mức độ của cuộc khủng hoảng, đã ra lệnh cho ban tham mưu của ông chuẩn bị sẵn một bản tường trình tỉ mỉ và trung thực. Nhưng vì cảm thấy Mao rất khó chịu với những lời chỉ trích, nên ông không dám liều trình bày bản báo cáo với Mao. Trong một trao đổi qua điện thoại, ông đã uỷ nhiệm cho những người dưới quyền trong nước phải hoàn thành vượt mức sản lượng kế hoạch. Ông tin những kế hoạch kinh tế táo bạo của Mao sẽ thất bại, nhưng không dám cả gan thách thức Chủ tịch. Chẳng khác gì Lý Phú Xuân, Bạc Nhất Ba chưa bao giờ dám công khai chỉ trích kế hoạch Đại nhảy vọt.
Nhóm người chỉ trích thứ hai là những người phụ trách các cuộc thanh tra ở các tỉnh, họ biết được cuộc thảm hoạ từ những nguồn tin đáng tin cậy. Họ không những là các nhà kinh tế – kế hoạch, mà còn chịu trách nhiệm thi hành kế hoạch đồ sộ của Mao. Nhưng họ biết cuộc khủng khoảng sẽ trầm trọng ra sao. Những bí thư chính trị của Mao – Điền Gia Anh, Hồ Kiều Mục và Trần Bá Đạt – cũng thuộc nhóm này. Nhiệm vụ của họ, thuật lại trung thực những bản báo cáo.
Khi những người chỉ trích thảo luận, như chúng tôi đã làm trên chuyến du thuyền trên sông Dương Tử, đều nhất trí với nhau, những con số vượt chỉ tiêu sản lượng đã được báo cáo là vô lý và mâu thuẫn. Thực tế, những con số đó rất thấp, họ sẵn sàng báo cáo sự thật, nhưng lại không dám. Phần lớn họ là những kẻ xu thời, gió chiều nào theo chiều ấy. Ngay cả những người như Điền Gia Anh đã từng tham gia thanh tra biết rất rõ sự thật, hoặc người đứng đầu một tỉnh như Chu Tiểu Châu, không những thấy được mức độ của cuộc khủng hoảng ở địa phương của mình và đã chỉ trích cuộc Đại nhảy vọt mà còn chỉ trích cả Mao cũng một giuộc vậy. Trên tàu, Điền Gia Anh đã sẵn sàng tranh luận với Lâm Khắc về những vấn đề của đất nước, nhưng khi những người trung thành với Mao, như Kha Thanh Thế và Lý Tinh Toàn, nhập cuộc với chúng tôi bàn luận, ông ta lại lặng im.
Ngày 1-7-1959, chúng tôi ghé vào bến Cửu Giang thuộc tỉnh Giang Tây. Uông Đông Hưng, người đã ở lại Giang Tây để “cải tạo”, được đề bạt làm phó tỉnh trưởng, lên tầu chào chúng tôi. Ông phấn khởi báo cáo với Mao rằng, nhờ có mối quan hệ mật thiết với quần chúng và từ kinh nghiệm này ông đã học được nhiều điều quan trọng. Chủ tịch rất vui. Ông nói:
– Chỉ những cán bộ cao cấp thường không chịu liên hệ với quần chúng. Chúng ta phải sửa lại, mỗi người làm việc ở trung ương, thỉnh thoảng cần phải xuống làm việc ở các cơ quan của tỉnh.
Con đường cao tốc từ Cửu Giang đến Lư Sơn được rải nhựa rất tốt. Sau hơn một giờ đồng hồ chúng tôi đã đến vùng nghỉ mát mở rộng ở triền núi núi. Dương Thượng Côn, bí thư thứ nhất Trung ương đảng, Phương Chí Xuân, Chủ tịch Hội nghị đại biểu nhân dân tỉnh Giang Tây và phó tỉnh trưởng Uông Đông Hưng đã lo việc tiếp đón chăm sóc các vị lãnh đạo đảng. Trong khi Uông thi hành những biện pháp an ninh bảo vệ Mao, ông đã va chạm với Vương Kính Tiên. Vương vờ không tuân lệnh Uông, vì đã lâu Uông Đông Hưng không ở cùng Mao, do đó không hiểu Chủ tịch. Uông Đông Hưng không bao giờ tha thứ cho sự xúc phạm này. Sau này Vương Kính Tiên đã phải trả giá.
Mao sống trong một biệt thự hai tầng cũ của Tưởng Giới Thạch. Tôi được thu xếp ở trong một ngôi nhà gần đó. Ở đây lạnh và ẩm. Chúng tôi ở trên cao, nên những đám mây có thể ùa vào phòng nếu mở cửa sổ.
Hôm 2-7-1959, một ngày sau khi chúng tôi đến, Mao triệu tập Bộ chính trị họp mở rộng. Ông đặt tên cho cuộc họp là “Hội nghị Bàn Tiên”. Chúng tôi giống như những ông tiên sống giữa những đám mây, chẳng bận tâm lo lắng gì, muốn gì được nấy. Mao không muốn nội dung cuộc họp cứng nhắc. Những người lãnh đạo đảng có thể nói ra tất cả những gì còn chất chứa trong lòng. Ông đưa ra 19 điểm để tranh luận, khuyến khích những người tham dự được tự do phát biểu thẳng thắn.
Bắt đầu cuộc họp, Chủ tịch biết, sẽ có vấn đề chưa ổn đối với kế hoạch Đại nhảy vọt, nhưng cho rằng mọi người đã sẵn sàng đưa ra những biện pháp để điều chỉnh, giải quyết, không có lý do gì để lo ngại. Trong bài diễn văn ngắn chào mừng, ông đã ca ngợi thành quả của kế hoạch Đại nhảy vọt, ám chỉ đến những khó khăn, hy vọng những người tham dự cuộc họp biết đánh giá sức mạnh và tính sáng tạo của dân tộc Trung Hoa.
Mao tự tin kế hoạch Đại nhảy vọt sẽ không đổ vỡ. Tôi không rõ ông biết tình hình thực tế ra sao mà lại phát biểu như vậy. Chuyến về thăm quê rõ ràng đã làm cho ông hiểu vấn đề. Tất nhiên ông hiểu rõ sự thất bại, thiếu thốn lương thực thực phẩm một cách trầm trọng, biết rất nhiều nơi dân không còn thóc gạo, đã sẵn sàng thảo luận tìm ra biện pháp giải quyết. Nhưng tôi nghĩ trong lời phát biểu ngày 2-7-1959, ông vẫn còn chưa rõ tình hình khủng hoảng đã tới mức độ nào, vẫn nghĩ đảng đã làm tất cả để làm chủ tình thế.
Trong “Hội nghị Bàn Tiên”, một mặt, những đề nghị giải quyết vấn đề được tranh luận. Nhưng mặt khác cũng phải tìm ra cách giữ vững sự nhiệt tình của quần chúng. Để giải quyết khó khăn này, Mao kêu gọi quần chúng thắt lưng buộc bụng hơn nữa.
Những điều tôi ghi nhận được là ông đã từng nói:
– Nhiều người hỏi tôi: Nếu sản lượng của chúng ta tăng nhanh như vậy, tại sao việc cung cấp lương thực, thực phẩm lại tồi tệ đến thế? Tại sao nhân dân không có xà phòng và diêm? Tại sao phụ nữ không mua được cái cặp cài tóc. Nếu không thể giải thích được tình hình, không nên cứ cố lý giải. Chúng ta phải kiên trì chịu đựng cuộc khủng hoảng, tiếp tục phát huy quyết tâm, phát huy sức mạnh to lớn của chúng ta. Năm tới việc cung cấp sẽ được cải thiện tốt hơn. Sau đó, chúng ta sẽ làm rõ mọi vấn đề. Tóm lại, cần khẳng định rằng, tình hình nói chung là tốt đẹp. Trong một số lĩnh vực khác còn nhiều vấn đề, nhưng tương lại xán lạn đang ở trước mặt chúng ta.
Tiếp theo bài phát biểu, các chính trị gia chia tổ, nhóm theo địa lý Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Đông, Nam và Tây Nam – để thảo luận những vấn đề của từng địa phương.
Buổi tối gặp Mao, ông bảo, cuộc họp sẽ kéo dài khoảng hai tuần. Ông tỏ ra dễ chịu, tâm trạng rất sảng khoái. Ông muốn đi thăm quan một vòng, vì Lư Son, một vùng núi non hùng vĩ có vẻ đẹp nổi tiếng.
Bác sĩ Vương Thọ Tống, giám đốc bệnh viện ở Giang Tây, tốt nghiệp Đại học y khoa tại Nhật, đã bố trí một khu vực trong bệnh viện dành cho đại biểu tham dự cuộc họp, kể cả những người tháp tùng. Vì vậy, ông đã nhận về nhiều cô hộ lý trẻ và khỏe từ các viện điều dưỡng gần đó ở vùng Lư Sơn. Ban lãnh đạo đảng của tỉnh đã tổ chức một buổi tối vui chơi giải trí. Tuân theo lệnh Mao, họ đã bố trí một buổi khiêu vũ say sưa với sự trình diễn của ban nhạc, đội văn nghệ của tỉnh Giang Tây. Những cô y tá trẻ cũng đến dự buổi khiêu vũ, chỉ vài ngày sau, Mao thường đổi đi đổi lại giữa hai y tá, Trọng và Ngọc vào phục vụ, một người trong nhóm khiêu vũ. Chủ tịch đã không cố giấu sự ve vãn, tán tỉnh đó của ông. Xung quanh khu biệt thự, an ninh được thắt chặt, bảo vệ tuyệt mật hoạt động riêng của Mao, nhưng chính ông lại kín kín hở hở chuyện vui vẻ với các cô gái trẻ trong buồng.
Cuộc họp diễn ra thuận lợi, Mao vui vẻ nói đùa, đã gọi điện cho Giang Thanh ở Bắc Đới Hà yêu cầu đừng đến. Có lẽ, ông sẽ gặp bà sau khi cuộc họp kết thúc.
Năm ngày sau khi chúng tôi có mặt ở Lư Sơn, một cuộc tranh cãi gay gắt nổ ra trong Nhóm Một. Lý Ẩm Kiều giận tôi và Lâm Khắc, vì ông ta đã phải phục vụ hai “nhà trí thức”. Ngôi nhà tôi và Lâm Khắc được thu xếp ở không có điện thoại, nếu Chủ tịch có gọi buộc Lý Ẩm Kiều phải cử một vệ sĩ đến đón. Những người bảo vệ bực mình vì phải chạy đi chạy lại, nên đã đề nghị chúng tôi dọn đến ở trong văn phòng tại tầng trệt của biệt thự dành cho Mao. Chúng tôi từ chối, vì ở đó chật chội và không mưốn chứng kiến cảnh những nữ khách của Mao ra vào thường xuyên. Ngoài ra, chúng tôi còn ngại Mao có thể nghi chúng tôi làm gián điệp. Chúng tôi khước từ, kiên quyết ở lại, điều tốt nhất cho chúng tôi.
Tuy nhiên sự bất đồng ý kiến đã gây ra mối bất hoà sâu sắc trong nội bộ Nhóm Một. Đó là một cuộc chiến của những người nông dân chống lại những người trí thức, trong đó một bên là Lý Ẩm Kiều và những người vệ sĩ, còn bên kia là Lâm Khắc và tôi.
Từ khi đến Lư Sơn. Mao cảm thấy ăn không ngon miệng. Người đầu bếp của ông, Lý Hỉ Vũ đã nấu cho ông những món ăn không ngon. Lý Ẩm Kiều đề nghị tôi giải quyết vấn đề này. Tôi trả lời, việc ăn uống không thuộc thẩm quyền của tôi. Lý đã phê phán tôi kiêu căng, quy trách nhiệm cho tôi. Chúng tôi cãi nhau mấy hôm, hoàn toàn quên chuyện đang có cuộc họp đảng quan trọng.
Điền Gia Anh đã kéo tôi trở lại với thực tế chính trị. Một hôm anh ta hỏi tôi:
– Đồng chí có biết trong cuộc họp quan trọng ở Lư Sơn không khí căng thẳng chẳng kém “tiểu đại hội” của đồng chí không?
Lúc đầu, tôi tưởng anh ta nói đùa. Bắt đầu cuộc họp, Mao thoải mái và vui vẻ như thế. Còn tôi bận tranh cãi với “tiểu đại hội” trong nội bộ Nhóm Một, nên không để ý. Tâm trạng của Mao đã thay đổi, không còn hay nói và thường tỏ ra ưu tư. Điền cố tìm hiểu mọi việc, hiểu ra đó là nguyên nhân khiến Mao ăn không ngon. Những cuộc thảo luận của các nhóm cán bộ địa phương kéo dài đã nhiều ngày. Tuy Mao không tham dự những cuộc thảo luận, nhưng được báo cáo và thông tin về kết quả của những cuộc thảo luận đầy đủ. Khi mỗi nhóm thảo luận, mọi người công khai phát biểu ý kiến, họ than phiền về sự khai gian những con số thống kê sản lượng. Họ nói, nạn đói đã lan ra khắp các vùng, trong khi rất ít người tham dự cuộc họp được đọc báo cáo.
Như một khán giả, Mao có thể phân biệt chính xác quan điểm của từng cán bộ cao cấp đối với kế hoạch “đại nhảy vọt”. Những người chỉ trích ông đã tính lầm. Họ đã phát biểu công khai, lại quên rằng Mao đã nói tình hình vẫn tốt đẹp, khó khăn chỉ tạm thời, không đáng kể. Bây giờ họ lại hiểu lầm sự im lặng của ông là tán thành, trong khi thực tế Mao đang bực tức đối với với sự chỉ trích. Ông thường nhấn mạnh, luôn hành động công khai, không hề có một âm mưu nào cả. Quan điểm của ông rõ ràng kéo cuộc họp mở đầu vào các cuộc tranh luận.
Nhưng có cái gì đó đã trở nên sai lầm nghiêm trọng. “Hội nghị Bàn Tiên” của Mao đã tan thành mây khói. Những điều chẳng lành sẽ còn xảy ra.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa

Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 39

Posted: 03/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Ngày 10-7-1959, ngày họp thứ 8 ở Lư Sơn. Mao triệu tập một cuộc gặp gỡ với những người lãnh đạo địa phương. Ông nhấn mạnh, đảng chỉ có thể giải quyết các vấn đề bằng sự đoàn kết và thống nhất về tư tưởng trong đảng. Đường lối chung – kế hoạch Đại nhảy vọt nhằm mục đích đuổi kịp nước Anh trong vòng 15 năm tới – vẫn luôn luôn đúng đắn. Trong những năm qua, chúng ta đã thu được nhiều thành quả lớn lao. Mặc dù xảy ra một số thất bại, nhưng điều đó không đáng lo ngại. Mao hỏi: “Mỗi người có 10 ngón tay phải không? Chín ngón của chúng ta đã đạt thành quả và  còn có mỗi một ngón không hoàn thành”.

Ông cảnh cáo tư tưởng cho rằng Trung Quốc đang đứng trước ngưỡng cửa của chủ nghĩa cộng sản. Dựa vào mức độ phát triển hiện nay, người ta chỉ nên coi công xã nhân dân là một loại hình hợp tác xã nông nghiệp thuần tuý, phát triển ở mức độ cao chứ chưa phải một tổ chức theo kiểu chủ nghĩa cộng sản. Tất cả mọi người, từ cán bộ cho đến người dân bình thường, đã có quá nhiều ảo vọng về công xã nhân dân. Trong khi làm cách mạng, chúng ta phải “trả giá” cho những bài học kinh nghiệm. Đất nước đã mất khoảng hai tỉ nhân dân tệ để làm các lò luyện kim. Nhưng bù lại nhân dân cả nước đã học được cách luyện thép. Số tiền tỉ này thực ra được coi như khoản chi phí để học một nghề, nghề luyện kim.
Mao không đợi người ta bình luận về lời phát biểu của mình, rời khỏi phòng họp ngay. Tôi phải đi theo ông. Nhưng sau đó Điền Gia Anh kể với tôi, bài phát biểu của Mao đã làm mọi người lặng đi. Người ta hiểu đó là lời cảnh cáo đối với những ai còn muốn lên tiếng chỉ trích kế hoạch Đại nhảy vọt.
Tuy nhiên, Bành Đức Hoài vẫn tiếp tục cuộc tranh luận một cách kín đáo, tuy không trực tiếp. Với tư cách cá nhân, ngày 14-7-1959 ông gửi cho Mao một lá thư viết tay khá dài. Mặc dù lúc đầu tôi không biết nội dung, nhưng tôi nghĩ, nó đã làm cho Mao rất bực bội. Ông trằn trọc cả đêm.
Sau này tôi được đọc lá thư đó. Đoạn đầu, Bành ca ngợi thành tựu của kế hoạch Đại nhảy vọt, sự tăng trưởng mạnh mẽ của sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Ông đề cập đến công xã nhân dân, bày tỏ những thiếu sót đã được khắc phục bởi những chính sách mới về tổ chức từ tháng 11-1958. Theo đánh giá của ông, những lò luyện kim gia đình có những mặt tích cực và cả tiêu cực. Chúng đã huy động sự tìm kiếm những khoáng sản cần thiết cho việc luyện thép trong cả nước. Nhiều người lĩnh hội được kỹ thuật mới và cán bộ được trau đồi thêm khả năng tổ chức của họ. Đó là mặt tích cực. Mặt khác, một số lượng lớn người được huy động tìm kiếm khoáng sản đã dẫn đến tình trạng phung phí quá nhiều sức lao động. Đó là mặt tiêu cực. Bành Đức Hoài còn cho rằng tiêu cực nhiều hơn tích cực.
Trong phần thứ hai của lá thư, Bành Đức Hoài nhấn mạnh đến việc cần thiết phải rút kinh nghiệm từ kế hoạch Đại nhảy vọt, ông diễn giải rằng, kế hoạch này đã khuyến khích những khuynh hướng cực tả, bóp méo ghê gớm những con số thống kê trong sản xuất và sự lạc quan tếu. Cuối thư, ông kêu gọi trong tương lai, đảng phải phân định rạch ròi đúng sai, nâng nhận thức về tư tưởng lên một mức độ cao hơn. Tuy nhiên, ông không muốn đổ lỗi cho một cá nhân nào, bởi vì điều đó có thể ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất và những chính sách sau này của đảng.
Lá thư thật chân thành, sâu sắc và đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Bành Đức Hoài không phải một chính trị gia mà là một người chất phác, trung thực, một chiến sĩ can đảm, không có âm mưu chính trị, ông chỉ nói lên sự thật, trong khi những người khác thường nói dối. Khác với đa số cán bộ lãnh đạo của đảng, ông không sợ Mao.
Ngày 16-7-1959, khoác độc chiếc áo choàng ngoài trắng, chân đi dép, không tất. Mao đã họp với Uỷ ban thường vụ Bộ chính trị tại biệt thự của ông. Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Đức và Trần Vân, những thành viên duy nhất của thường vụ đang có mặt ở Lư Sơn. Đặng Tiểu Bình đang nằm trong Bệnh viện Bắc Kinh, vì ngày 2-5-1959 ông bị trượt ngã gãy chân trong khi chơi bi-a tại Câu lạc bộ dành cho cán bộ cao cấp ở bắc Trung Nam Hải. Tôi đưa ông đến bệnh viện để người ta bó bột. Đặng nằm bệnh viện vài tuần và lúc nào cũng có một cô y tá trẻ chăm sóc. Thực ra, cô y tá này được cử đến từ Thượng Hải để phục vụ Mao. Theo lời Thạch Thụ Hán, chánh văn phòng y tế trung ương cho tôi biết, cô đã có thai trong thời gian làm việc ở đây. Người ta đã chuyển cô ta trở về Thượng Hải và ép phải phá thai.

Lâm Bưu vắng mặt trong cuộc họp. Ông vẫn mắc bệnh suy nhược thần kinh, ốm đau luôn. Sau này, tôi được biết ông rất sợ nước, sợ gió và sợ lạnh. Mây mù, những cơn mưa thường xuyên và gió lộng ở Lư Sơn làm ông rất khó chịu.
Trong cuộc họp của Uỷ ban thường vụ còn có các nhân viên của Mao tham dự. Mao tuyên bố, đã từ lâu bọn hữu khuynh ngoài đảng vẫn chỉ trích kế hoạch Đại nhảy vọt và bây giờ ngay cả trong đảng, những tiếng chỉ trích cũng ngày một nhiều hơn. Một số người cho rằng Đại nhảy vọt lợi bất cập hại. Bức thư của Bành Đức Hoài là một minh chứng.
Mao nói, sẽ đưa thư của Bành cho những người tham dự hội nghị đảng ở Lư Sơn xem, để họ có thể tự đánh giá được nội dung của nó. Ông còn doạ, nếu đảng bị chia bè kéo cánh, sẽ thành lập một đảng mới của nông dân. Nếu quân đội bị phân hoá, cũng sẽ xây dựng một đội quân khác.
Các uỷ viên của Uỷ ban thường vụ Bộ chính trị bắt đầu thảo luận về bức thư của Bành. Mao đã chỉ cho họ thấy hết ý nghĩa quan trọng của sự việc này, nên các đồng chí của ông rất dè đặt nêu ý kiến.
Sau cuộc họp, thư của Bành được sao chép gửi đến đảng bộ địa phương các cấp thảo luận. Rất ít người dám đồng tình với Bành, nhưng cũng có một vài người tỏ ra can đảm. Ngày 19-7-1959, Hoàng Khắc Thành, tổng tham mưu trưởng, bạn thân của Bành, liên kết với Chu Tiểu Châu, bí thư thứ nhất tỉnh Hồ Nam, người đã từ lâu lo ngại về cuộc khủng hoảng kinh tế, lên tiếng ủng hộ Bành Đức Hoài. Cả hai đều ca ngợi ý tốt của lá thư, tuy một số đoạn trong thư lời lẽ còn gay gắt.
Cả Lý Thuỵ, người thư ký chính trị mới của Mao, cũng cho rằng, lá thư của Bành đã vạch rõ những sai lầm chính của kế hoạch Đại nhảy vọt, phá bỏ bầu không khí tù hãm, cản trở những lời phê bình chân thành, thẳng thắn của mọi người, thậm chí ở ngay cả trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp của đảng.
Ngày 21-7-1959, thứ trưởng Bộ ngoại giao Trương Văn Điền, được đào tạo ở Liên Xô, đã công kích quyết liệt phong cách lãnh đạo của Mao và kế hoạch Đại nhảy vọt trong một bài phát biểu dài. Trong thập niên 1930, sau khi học ở Liên Xô về, Trương, thành viên trong phe của Vương Minh, chống lại sự lãnh đạo của Mao. Tuy vậy, về sau lại theo Mao và tỏ ra rất trung thành. Ông làm đại sứ ở Liên Xô trong một thời gian dài. Nhưng sau năm 1949 ông không còn được giữ chức vụ quan trọng nào nữa.
Trương Văn Điền vạch ra, một số người toan biến chủ nghĩa cộng sản thành hiện thực khi họ áp dụng cơ chế bao cấp, thành lập các nhà ăn tập thể ở các công xã. Ông phản đối chính sách này, đồng thời yêu cầu tập thể thảo luận tìm sự thật trong mọi vấn đề. Trương bảo, điều này nói dễ hơn làm, như chính Mao chủ tịch thường dạy. Trương gián tiếp làm mọi người nghĩ rằng, lời nói và việc làm của Mao không khớp nhau. Trương Văn Điền lý giải: “Mao chủ tịch thường dạy, chúng ta phải can đảm có những suy nghĩ khác với suy nghĩ của Chủ tịch. Chủ tịch kêu gọi chúng ta hãy kéo hoàng đế xuống ngựa, mặc dù vì thế chúng ta có thể bị mất đầu như chơi. Lời nói này bao hàm ý tốt, nhưng ai chẳng sợ mất đầu?”
Cuối cùng, Trương lên tiếng ủng hộ tinh thần dân chủ và tự do bày tỏ ý kiến:
– Chúng ta phải tạo ra một bầu không khí sôi nổi, lành mạnh, trong đó mọi người có thể công khai nói ra những suy nghĩ của chính mình. Chỉ có như vậy, mới phát huy được tinh thần đấu tranh. Cán bộ lãnh đạo phải có phong cách làm việc gương mẫu, trong môi trường cởi mở để các cấp có thể thể tự do phát biểu những điều họ suy nghĩ, phát huy sáng kiến. Bức thư của đồng chi Bành Đức Hoài rất quý giá, tổng hợp kinh nghiệm của chính chúng ta. Chủ đích của bức thư rất tốt đẹp.
Những thành viên khác trong nhóm của Trương Văn Điền, đặc biệt những người như Kha Thanh Thế, thị trưởng thành phố Thượng Hải, Tăng Huy Sinh, bí thư thứ nhất tỉnh An Huy và Trụ Đông, bí thư thứ nhất tỉnh Sơn Đông rất khó chịu với bài phát biểu, họ ngắt lời liên tục, bác bỏ những lập luận và trách cứ ông đã trực tiếp công kích Mao. Trương Văn Điền đáp lại, chẳng thà nói lên sự thật rồi chết còn hơn sống hèn kém, đau khổ.
Ngày 23-7-1959, Mao lại triệu tập một cuộc họp mở rộng toàn thể Bộ chính trị. Ông quả quyết, hiện nay có một số thành phần trong và ngoài đảng đang cấu kết với nhau công kích sự lãnh đạo của đảng. Một số kẻ ngoài đảng là bọn hữu khuynh và bây giờ có cả một số đảng viên cũng đứng về phe chúng. Mao còn nói:
– Tôi có một lời khuyên đối với những đồng chí này: khi phát biểu phải biết mình đang đi về hướng nào. Các đồng chí không được mềm lòng trước cuộc khủng hoảng. Một số đồng chí đã không đứng vững được trong giông tố. Họ không đứng vững, lắc qua lắc lại như nông dân trong một điệu nhảy mô tả cảnh cấy lúa. Họ tỏ ra thiếu tin tưởng và bi quan giống hệt tầng lớp tư sản vậy. Họ chưa phải là bọn hữu khuynh, nhưng họ ngày càng xích gần lại với chúng một cách đáng sợ.
Mao bác bỏ từng điểm trong lá thư của Bành Đức Hoài, nhấn mạnh đến những ý kiến của Bành về tình trạng lạc quan tếu, việc ông ta quả quyết chúng ta đã thất bại nhiều hơn thắng lợi. Bầu không khí cuộc họp ngày càng trở nên căng thẳng. Trong khi Mao phát biểu, Bành Đức Hoài ngồi im ở hàng ghế sau cùng của phòng họp. Ông đã cảm thấy nóng mặt. Trước lúc Mao lên phát biểu. Bành đã chất vấn Chủ tịch tại sao lại phân phát bức thư của Bành cho những người tham dự cuộc họp mà không được sự đồng ý, bởi vì lá thư này được gửi đến địa chỉ của Mao với tư cách cá nhân. Mao quỉ quyệt trả lời, Bành đã không cấm ông làm chuyện đó. Bành tức đến lặng người.
Sau khi Mao phát biểu xong, Bành lẻn nhanh ra ngoài cửa. Tôi cùng với đoàn tuỳ tùng của Mao rời khỏi phòng họp, chúng tôi chạm trán Bành ngoài cửa. Mao lập tức lên tiếng:
– Đồng chí Bộ trưởng Bành, chúng ta đâu có phải kẻ thù, còn phải nói chuyện với nhau nữa đấy.
Nhưng Bành mặt tái đi, mất bình tĩnh:
– Còn có gì mà nói nữa!
Mặt ông đỏ dần lên, vung cánh tay phải lên khỏi đầu, phẩy tay như chém không khí.
Mao nói:
– Quan điểm giữa chúng ta có quá nhiều khác biệt, tuy vậy vẫn cần phải thảo luận.
– Thảo luận chẳng có tác dụng gì.
Bành trả lời, rảo bước đi thẳng.
Lập tức dàn đồng ca từ những người chống Bành và chiến hữu của ông vang lên buộc tội họ là phái hữu khuynh. Chỉ huy dàn đồng ca dĩ nhiên là Mao chủ tịch. Bản án đưa ra rất nghiêm khắc: Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Chu Tiểu Châu, Trương Văn Điền bị quy hữu khuynh. Sau đó Mao quyết định triệu tập đại hội toàn thể Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản khoá VIII. Cuộc hội thảo lần này cũng tổ chức ở Lư Sơn, lịch sử đảng cộng sản gọi là Hội nghị Lư Sơn. Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản Trung Quốc là cơ quan quyền lực cao nhất, để hợp pháp hành động chống Bành Đức Hoài, Mao xiết chặt sự ủng hộ của ban lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc.
Hôm sau Giang Thanh xuất hiện ở Lư Sơn. Trước đó gọi cho chồng nói rất lo cho ông. Mao đã đổi ý, ông thực sự muốn gặp Giang Thanh.
Sáng 24-7-1959 Diệp Tử Long, Uông Đông Hưng và tôi ra sân bay đón đệ nhất phu nhân Trung Quốc. Vừa mới gặp mặt, Giang Thanh đã hỏi ngay sức khoẻ Mao. Giọng lạnh lùng, báo hiệu chẳng có điều gì tốt lành. Tôi nói, lãnh tụ ăn không ngon và mấy hôm nay phàn nàn ăn không được những món mà đầu bếp Lý Hỉ Vũ nấu. Tôi nói thêm, vấn đề đã được Uông Đông Hưng giải quyết ngay bằng cách gọi một đầu bếp cừ khôi từ Nam Xương. Mao đã ăn ngon miệng, món súp ba ba, một trong những đặc sản do đầu bếp mới, đã làm cho Chủ tịch hài lòng.
Giang Thanh tới Lư Sơn không chỉ để gần Mao. Người ta đưa bà đến vì mục đích chính trị. Điều này cũng dễ nhận ra do cử chỉ và thái độ của bà thể hiện. Giang Thanh bỗng nhiên hết bệnh tật, không còn uể oải. Thông thường, sau khi đến nơi bao giờ cũng tỏ ra mệt mỏi và đi nghỉ ngay. Nhưng lần này những sự kiện diễn ra ở đây làm bà trở nên sôi nổi khác thường.
Vì Mao vẫn còn ngủ, Giang Thanh đến gặp Lâm Bưu. Lâm Bưu cũng vừa mới tới vài tiếng đồng hồ, ông được đưa xuống khu nhà nghỉ dưới chân núi, nơi đó đỡ lạnh hơn. Giang Thanh nói chuyện với Lâm Bưu chừng hai tiếng, sau đó quay lên núi gặp các nhân vật chóp bu còn lại – vợ chồng Chu Ân Lai – Đặng Dĩnh Siêu, vợ chồng phó thủ tướng Lý Phú Xuân – Thái Sướng cuối cùng tất nhiên với thị trưởng Thượng Hải, Kha Thanh Thế.
Trước đây, Giang Thanh hiếm khi dính dáng vào chính trị. Hồi còn ở Diên An, trong thời gian lấy Mao, Bộ chính trị đã đưa ra một điều kiện khá nghiêm khắc, vợ lãnh tụ không được tham gia chính trị. Vì vậy Giang Thanh nhẩy vào sân khấu chính trị phải được sự thuận tình của Mao. Việc bà ta bất ngờ xuất hiện ở Lư Sơn và ngay sau khi rời máy bay đã gặp ngay các nhà lãnh đạo cao cấp đất nước chứng tỏ rằng Mao gặp khó khăn nghiêm trọng về chính trị. Việc Giang Thanh xuất hiện được xem, muốn bảo vệ chồng. Bà kết thúc cuộc “viếng thăm chính thức” vào buổi chiều cũng là lúc Mao vừa dậy.
Sớm hôm sau Giang Thanh mời tôi, nói:
– Tôi đến vội đây vì rất lo sức khoẻ của Chủ tịch. Nhưng hôm qua tôi vui mừng thấy Chủ tịch hoàn toàn sảng khoái đầu óc và không phàn nàn về sức khoẻ. Tôi tin trong việc này có công của đồng chí. Chiều qua Lâm Bưu cho tôi biết, mấy hôm rồi Chủ tịch không ăn được. Đồng chí đừng quên, bác sĩ riêng còn cần phải theo dõi cả thức ăn cho Chủ tịch nữa đấy. Vì thế đồng chí nên thường xuyên để mắt xem nhà bếp có thực hiện tốt nhiệm vụ của mình không.
Tôi hiểu Lý đã kịp qua bà phàn nàn về tôi. Nhưng tôi là bác sĩ điều trị, không phải bác sĩ dinh dưỡng, chẳng dính líu gì đến công việc theo dõi nồi niêu xoong chảo ở nhà bếp. Trong cuộc họp phê bình của Nhóm Một, Lý Ẩm Kiều đã từng chỉ trích tôi thuộc tầng lớp trên, trí thức kiêu căng. Tôi trả lời Giang Thanh, tôi chỉ theo dõi sức khoẻ của Chủ tịch, nếu Chủ tịch ăn không ngon miệng, nếu không do bệnh tật, lỗi đó do nhà bếp nấu không hợp khẩu vị. Trách nhiệm này thuộc về người khác, nói thẳng ra, đầu bếp Lý phải chịu trách nhiệm.
Tất nhiên tôi đã nói hết tất cả cho Mao, bây giờ trả lời sự răn đe của bà vợ ông, tôi bảo các vấn đề về ngon miệng trong ăn uống đã giải quyết tốt đẹp. Bà ấy gật đầu nhưng vẫn cảnh cáo tôi:
– Bác sĩ Lý, đồng chí là một người trí thức, thông minh, hoàn toàn khác Lý Ẩm Kiều. Đồng chí nhậy cảm về chính trị, đừng để kẻ thù lợi dụng trong ván bài chính trị. Hãy cảnh giác, thận trọng và cố gắng ít động chạm với chính trị trong khi nói chuyện với những người khác kể cả bạn thân.
Tôi nghe lời cảnh cáo như là sự nhắc nhở của bà bảo vệ tôi tránh khỏi cơn lốc chính trị đang nung nấu, âm ỉ ở Lư Sơn. Giang Thanh rõ ràng không muốn tôi tiếp xúc với các đối thủ của Mao chẳng hạn như Điền Gia Anh, bạn tôi. Giang hiểu rõ, trong trường hợp chống lại Mao, tôi, người gần gũi Mao nhất sẽ trở thành vũ khí lợi hại trong tay kẻ thù của lãnh tụ.
Ngày 2-8-1959, sau khi khai mạc phiên họp toàn thể lần thứ 8 của đảng cộng sản Trung Quốc khoá VIII, Mao ra đòn với các đối thủ của mình:
– Khi chúng ta đến Lư Sơn, tình hình tỏ ra rất ổn định. Chúng ta đã quyết định trao đổi ý kiến với nhau một cách cởi mở, thẳng thắn, thậm chí không có chương trình nghị sự. Tất cả mọi người đều phát biểu mang tính xây dựng, phiên họp của chúng ta giống như “Tiên ông phó hội”. Tuy nhiên dần dà mới dẫn đến căng thẳng, cho rằng không được tự do phát biểu, tự do bày tỏ tư tưởng của mình. Lối phát biểu tự do vô tổ chức mà chúng ta không cho phép mà họ không thích. Họ đã tìm cách bới lông tìm vết những điều đang thảo luận, gây căng thẳng. Họ chỉ trích, chờ cơ hội đánh đổ đường lối chung của đảng. Giờ đây, trong cuộc hội thảo này đã xuất hiện sự chia rẽ, rạn nứt trong đảng. Trong hơn 9 tháng vừa qua, chúng ta đã phải đấu tranh chống phái hữu khuynh. Tình hình biến chuyển đột ngột, chúng ta phải đương đầu với các phần tử tả khuynh, tấn công một cách điên cuồng vào đảng, vào những người lãnh đạo đảng, phủ màn khói lên những thành quả của nhân dân, những thành tích không ai chối cãi được trong việc tái thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Lưu ý, trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng cộng sản và những lần phát biểu sau, Mao vẫn giữ giọng căng thẳng. Ông kêu gọi những người tham gia hội nghị lên án “nhóm chống đảng”, gọi Bành Đức Hoài là kẻ thù của đảng và nhân dân. Những lời bào chữa, tranh luận của những người đứng về phía Bành Đức Hoài, đã không cứu nổi ông phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng. Thực ra thư của Bành Đức Hoài không hề chống đảng, chống Mao. Nhưng dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Mao, lá thư trở thành âm mưu thâm độc nào đấy. Ban chấp hành Trung ương đảng yêu cầu Bành Đức Hoài, những người ủng hộ ông phải giải thích “bắt đầu từ khi nào, với mục đích gì” họ đã tham gia âm mưu chống đảng.
Về sau, trong cuộc nói chuyện với Mao tôi hiểu Chủ tịch đã dùng thủ đoạn bóp méo sự thật, thổi phồng sự việc để bức hại Bành Đức Hoài. Ông nói với tôi chẳng hề dấu giếm gì:
– Lịch sử và chân lý thường là hai ngả đối lập.
Tôi tình cờ nhớ lại cuộc nói chuyện trên tàu thuỷ mà chúng tôi đi dọc sông Lư Giang hồi nọ. Khi đó, qua lời Điền Gia Anh, lần đầu tiên tôi được biết được nạn đói ở tỉnh Tứ Xuyên, còn Vương Kính Tiên lại cung cấp về các ngón làm tình của lãnh tụ. Tất cả cuộc nói chuyện ngày ấy trên boong tầu thuỷ bây giờ mới có một ý nghĩa sâu sắc. Ba thư ký của Mao, Điền Gia Anh, Trần Bá Đạt và Hồ Kiều Mục đã được đưa xuống Tứ Xuyên, Phúc Kiến và An Huy thị sát tình hình thực tế. Mao mơ ước nghe từ họ về những thành tựu xuất sắc của chính sách thiên tài của ông Đại nhảy vọt. Tuy nhiên, thay cho điều này, cả ba ông thư ký lại đem đến những tin buồn về sự tan rã của đất nước và nạn đói. Bản báo cáo của ba thư ký chứa đựng một cách thẳng thắn chi tiết đau khổ khủng khiếp của dân Trung Quốc. Các bí thư đảng của ba tỉnh, Lý Tinh Toàn, Diệp Phổ và Tăng Huy Sinh vẫn chễm chệ trên ghế quyền lực. Ba ông vua tỉnh này đến Lư Sơn đã lựa chọn phương thức bảo vệ bằng cách tấn công vô liêm sỉ và không thương tiếc vào bản báo cáo của ba thư ký lãnh tụ.
Sau lời phát biểu của Mao, người này nối người kia lên bục công kích những người bị buộc tội. Thị trưởng Thượng Hải, Kha Thanh thế, bí thư Hồ Bắc, Vương Nhiệm Trọng, bí thư tỉnh Quảng Đông, Đào Chú, cuối cùng Bộ trưởng công an La Thuỵ Khanh. Họ như những con hổ dữ, chửi bới Bành Đức Hoài, những người ủng hộ ông, trong đó người ta nghe thấy không ít lần nhắc đến tên Điền Gia Anh.
La Thuỵ Khanh chỉ tay vào Điền Gia Anh, phê phán kịch liệt:
– Người như đồng chí làm sao hiểu được chủ nghĩa Marx. Đồng chí chỉ mang đến chuyện bậy bạ. Ai cho phép đồng chí quyền đem những ý kiến ấy đến hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương.
Sau chuyến đi về quê Mao, La Thuỵ Khanh trở thành người bảo vệ ông chủ mình.
Lý Thuỵ, viên thư ký mới của Mao cũng phát biểu. Khi Lý Thuỵ nói đôi ba câu phân trần, Chu Ân Lai thô bạo cắt ngang:
– Đây là hội nghị Ban chấp hành Trung ương đảng. Đồng chí không phải là Uỷ viên trung ương vì thế không có quyền phát biểu.
Sự giận dữ được hâm nóng thêm, phê bình, chỉ trích vẫn tiếp tục. Ba vị thư ký Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục, Điền Gia Anh sự trừng phạt nghiêm khắc đang bị treo lơ lửng trên đầu. Họ bị buộc tôi vào việc nhóm “chống đảng” mới.
Cuối cùng như thường lệ, Mao phát biểu, phán quyết của ông vang lên ngày 11 tháng 8, được coi là bản phán quyết tối hậu và khắc nghiệt nhất:
– Bành Đức Hoài và đồng bọn đã không theo tư tưởng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản. Bọn họ chỉ là những người dân chủ tư sản chui vào đảng với cái vỏ mác-xít. Riêng Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục, Điền Gia Anh là những học giả trí thức trong đảng, tôi tin họ sẽ sửa chữa để xứng đáng đứng trong hàng ngũ chúng ta. Đảng cần các đồng chí ấy, tuy nhiên về Lý Thuỵ, thư ký mới, tôi không thể nói điều gì nữa. Đồng chí này vào đảng chưa lâu và thái độ của đồng chí ấy là điều đáng ngạc nhiên.
Sau lời phát biểu của Mao, Trần Bá Đạt, Hồ Kiều Mục, Điền Gia Anh được giải thoát, còn Lý Thuỵ bị liệt vào “nhóm chống đảng”.
Đến lượt các nhân viên trong Nhóm Một bị khiển trách. La Thuỵ Khanh chủ toạ phiên họp ngày 12-8, lên giọng, bồi thêm Lý Thuỵ:
– Đồng chí hoàn toàn quên rằng số phận tốt đẹp đang mở ra cho đồng chí. Đảng tin tưởng, tạo điều kiện để đồng chí phục vụ tốt cho lãnh tụ. Nhưng đồng chí không biết tự trọng. Tôi được biết thay vì bảo vệ uy tín, đồng chí a dua theo kẻ khác, vạch áo cho người xem lưng lãnh tụ. Không những thế còn định trút trách nhiệm lên đầu người khác. Cả đồng chí nữa, đồng chí Vương Kính Tiên phát biểu thiếu cẩn trọng, tiếp tay cho các phần tử chống đảng. Chúng tôi sẽ nói tỷ mỉ về điều này sau khi chúng ta trở về Bắc Kinh.
La Thuỵ Khanh đã hợp thức hoá những quy tắc ứng xử như điều luật. Những người phụ vụ lãnh tụ phải biết im lặng, dù là ai chăng nữa, không bao giờ được bàn tán, trao đổi những gì liên quan tới đời tư lãnh tụ hoặc các sự kiện xảy ra trong Nhóm Một. Có nghĩa, chúng tôi không được tâm sự, trò chuyện với nhau về Mao, về Nhóm Một. Tôi cảm thấy rằng sự việc này cũng chưa chấm dứt, một số người có thể bị đuổi, có khi tệ hơn bị buộc tội không trung thành với lãnh tụ.
Trong phiên họp bế mạc ngày 16 tháng 8, những người tham gia được phát các tài liệu trong đó Mao viết rằng hội nghị Lư Sơn đi vào lịch sử như một biểu tượng của sự đấu tranh giai cấp không khoan nhượng với phái hữu. Mao nói:
– Đây không phải là cái gì khác, đây là cuộc đấu tranh giai cấp thực sự, cuộc đấu tranh sống còn giữa hai giai cấp mạnh nhất: vô sản và tư sản. Cuộc đấu tranh này chưa hẳn đã dịu đi sau mười năm cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những lời này đã đẩy Bành Đức Hoài và những người theo ông vào vị thế giai cấp tư sản, kẻ thù của đất nước.
Hội nghị Lư Sơn đã thông qua văn bản kết án những hoạt động chống đảng của Bành Đức Hoài, bảo vệ đường lối chung, bảo vệ chính sách Đại nhảy vọt.
Đảng đã phát động trong cả nước chiến dịch chống phái hữu. Bây giờ hàng ngũ phái hữu lại được bổ xung cả những quan chức đảng và nhà nước, những người từng chia xẻ quan điểm với Bành Đức Hoài về Đại nhảy vọt. Đảng nói, họ bị nhiễm căn bệnh mới, căn bệnh “thân hữu”.
Quyết định của lãnh đạo đảng cộng sản làm tôi bối rối, lo lắng không sao hiểu được. Người ta quy tội, xếp Bành Đức Hoài – một người trung thực vào hàng ngũ đối kháng trong cuộc “đấu tranh giai cấp” – coi ông một phần tử “chống đảng”, kẻ “cơ hội hữu khuynh”, xấu xa chẳng khác gì Quốc dân Đảng. Tôi biết rõ, Bành Đức Hoài chưa bao giờ là kẻ thù của đảng, một người trung thực, nhân cách tốt.
Tôi không dính dáng lôi thôi vụ lộn xộn chính trị này, tuy anh bạn Điền Gia Anh của tôi rơi vào búa rìu báo chí, mặc dù tôi đã được nghe những lời kể trung thực của ông trên tàu thuỷ chạy dọc sông Dương tử. Mao tin tôi và tôi cũng không nghi ngờ về sự chân thật của ông. Vì thế sự phê bình lãnh tụ tôi xem như là không phải đạo. Có thể giải thích sự im lặng của tôi do sự cẩn trọng và cả sự ngây thơ.
Tuy thế những việc xảy ra ở Lư Sơn làm tôi đau lòng. Các cuộc cãi vã đấu đá nhau liên miên của các nhân vật quanh lãnh tụ trong Nhóm Một đã làm tôi mệt mỏi.
Tất cả những điều đó ảnh hưởng đến sức khoẻ của tôi. Cơn bệnh loét dạ dày bắt đầu hành. Tôi bị đau nặng, không thể ăn gì cả trừ hoa quả và nước quả ép. Một thời gian sau bắt đầu chẩy máu bên trong. Thuốc thang có trong tay không giúp gì được. Tôi yếu đi nhiều và sút cân nhanh chóng.
Giám đốc bệnh viện địa phương Vương Thâu Tiên khuyên tôi rời Lư Sơn về điều trị bệnh ở Nam Xương. Nhưng tôi lại lo, chuyện tôi bỏ đi người ta có thể đánh giá là tránh tội. Mọi người cho rằng tôi cũng dây dưa vào vụ tai tiếng chính trị ở hội nghị Lư Sơn, vì tôi là bạn của Điền Gia Anh.
Mao luôn để ý những người của ông đang ở đâu trong thời gian hội nghị, xem họ có nghe những lời phát biểu của ông và những người khác trong các buổi thảo luận hay không. Từ đó ông sẽ phán đoán được sự trung thành của chúng tôi đối với ông với đảng. Ông cần sự ủng hộ không nói bằng lời của chúng tôi. Nếu tôi kể cho ông nghe về bệnh của mình, liệu ông có tin hay không – tôi chưa hề kể hoặc phàn nàn với ông về bệnh tật. Tôi bỏ Lư Sơn, Mao sẽ nghi ngờ lòng trung thành, có một cái gì đó liên quan tới Bành Đức Hoài và có uẩn khúc về chính trị. Điều đó rất logic. Vì thế khôn ngoan nhất, tôi không nên kể với Mao về chứng bệnh chảy máu dạ dày, cố gắng tự chữa bằng cách ăn kiêng, uống thuốc.
Tuy nhiên việc chảy máu dạ dày vẫn không hết. Các cuộc họp hàng ngày 12 tiếng liền, ở đó tôi buộc phải chịu đựng cơn đau dạ dày cộng với những cơn mất ngủ, cơn đau về đêm đã dẫn đến tôi yếu hẳn và bị ngất những ngày cuối hội nghị.
Có ai đó đã nói với Hồ Kiều Mục về bệnh tật. Chúng tôi không gặp nhau gần tuần lễ. Khi nhìn thấy thân hình tôi, ông thất kinh. Hồ Kiều Mục khuyên tôi nên đi viện chữa, theo kinh nghiệm của ông, khi chảy máu dạ dày nên chữa ngay, không được chần chừ. Khi biết những băn khoăn của tôi, ông hứa sẽ nói chuyện trực tiếp với Mao để có giải quyết cho tôi rời Lư Sơn.
Hồ Kiều Mục ngay sau đó gặp Mao. Khi biết tôi bị bệnh, Mao đồng ý gửi tôi cấp tốc về Bắc Kinh điều trị. Phó cục trưởng bảo vệ sức khoẻ Diệp Tử Long được giao nhiệm vụ gửi tôi tới chỗ tốt nhất để chữa bệnh.
Từ Xương Giang về Bắc Kinh hàng ngày có máy bay chở tài liệu và người của đảng. Tôi được xếp chỗ trong một chuyến bay và Diệp Tử Long đi kèm theo.
Trước khi khởi hành, tôi đến từ biệt Giang Thanh. Cảnh đẹp ở Lư Sơn tạo cho bà thi thố khả năng chụp ảnh, khi tôi tới, bà đang thích thú với các tấm ảnh. Nhìn thấy tôi, Giang Thanh bảo, bà và Chủ tịch vài tuần nay bận tối mắt tối mũi, không biết tôi bị bệnh nặng thế. Nhưng bà lại rất mong tôi lưu lại đến khi kết thúc kỳ họp, bay về Bắc Kinh cùng vợ chồng bà.
Để củng cố niềm tin và động viên tôi, Giang Thanh không bỏ lỡ cơ hội nhắc lại rằng Mao rất tin tưởng và cả hai vợ chồng bà cư xử với tôi với một tấm lòng thành thật và quan tâm.
Rất tiếc, những lời ca tụng của bà không làm tôi bớt đau. Tôi lịch sự đáp lại:
– Tôi cảm thấy bệnh tật đã gây phiền toái cho bà và Chủ tịch, vì thế tốt nhất tôi nên quay về thủ đô.
Giang Thanh đồng ý. Tôi nói thêm rằng khi tôi vắng mặt, bác sĩ Hoàng Thụ Trạch thay tôi đảm nhiệm.
Tôi đề nghị Giang Thanh thay mặt tôi cám ơn lãnh tụ, nhưng Giang Thanh từ chối nói tôi nên tự làm việc đó.
Mao nằm trên giường và đọc sách sử đời Minh. Dường như ông thích đọc tiểu sử nhân vật Hải Thuỵ, người dám nói sự thật cho vua.
Tôi giải thích, công việc của tôi bây giờ sẽ do Hoàng Thụ Trạch đảm nhiệm. Mao không phản ứng gì, nói tôi nên chữa ở bệnh viện Bắc Kinh. Bệnh viện này dành cho cán bộ cao cấp. Những người lãnh đạo đảng, nhà nước có tiêu chuẩn được chữa trong đó thấp nhất là cấp thứ trưởng và một số “nhân vật dân chủ” có chức vụ cao, như Quách Mạt Nhược.
Bệnh viện do người Đức xây dựng từ đầu thế kỷ, nơi có đội ngũ thầy thuốc và trang thiết bị tốt nhất Trung Quốc.
Mao bày tỏ hy vọng tôi nhanh chóng bình phục, nhắc tôi không kể cho ai biết về sự kiện hội nghị Lư Sơn.
Khi biết phải thay tôi, Hoàng Thụ Trạch rất lo, nhưng ông ta không còn lối thoát. Tôi giao lại cho ông hồ sơ bệnh án của Mao, tóm tắt sức khoẻ lãnh tụ, khuyên ông nên chú ý những gì, điều cần phải làm trước. Ông cám ơn tôi về sự chân thành, gọi điện cho cục trưởng bảo vệ sức khoẻ Thạch Thụ Hán và giám đốc bệnh viện Bắc Kinh Cơ Túc Hoa đề nghị họ đón tôi ở sân bay thủ đô.
Tôi chia tay La Thuỵ Khanh và Dương Thượng Côn. La Thuỵ Khanh cũng như Mao khuyên tôi nên giữ gìn sức khoẻ, thực hiện mọi yêu cầu của bác sĩ. Ngoài ra, nhắc tôi về tình hình phức tạp trong nước, ông đe:
– Tất cả cái gì đồng chí nghe được ở đây, tạm thời phải giữ bí mật, khi nào cần, đảng sẽ cho nhân dân biết hết sự thật.
Dương Thượng Côn gắn bệnh của tôi với chứng căng thẳng, do tôi thường xuyên va chạm và cãi cọ trong thời gian gần đây với Lý Ẩm Kiều. Ông nói:
– Nhóm Một giống như một hộp thuốc vẽ lớn. Không ai ở trong đó mà không phải chọn một màu nhất định. Đồng chí đã được nghe rất nhiều ở Lư Sơn. Tôi đề nghị đồng chí, nếu có dịp, tới thăm đồng chí Đặng Tiểu Bình. Đồng chí ấy cũng vừa ra viện. Tôi rất muốn đồng chí kể cho Đặng Tiểu Bình nghe về hội nghị Lư Sơn.
Những lời này thật bất ngờ với tôi. Mao và La Thuỵ Khanh nhắc nhở tôi im lặng, Dương Thượng Côn lại muốn cho sếp của ông biết. Mao và La Thuỵ Khanh đã căn dặn tôi phải giữ bí mật tất cả những gì xảy ra ở Lư Sơn. Nhưng tôi biết, phải im lặng để tránh cho mình những rắc rối. Bệnh viện Bắc Kinh là lá chắn che chở tôi trước cơn lốc chính trị. Các nhà lãnh đạo đảng cũng thường dùng bệnh viện làm nơi điều trị những vết thương chính trị của họ. Tôi dự tính sẽ ở lại đó càng lâu càng tốt, để chuẩn bị cho việc tôi rút khỏi Nhóm Một, trở thành bác sĩ phẫu thuật cứu người.
Uông Đông Hưng và chủ tịch Hội đồng nhân dân Giang Tây, Phương Chí Xuân, tiễn tôi ra sân bay, tặng tôi khá nhiều quà, một chiếc giỏ to đựng đầy hoa quả, những hộp chè Lư Sơn và mười chai rượu vang của tỉnh Giang Tây. Vì bị viêm dạ dày, không được uống rượu, nhưng Uông bảo tôi nên đem về tặng bạn bè.
Khi chiếc ô tô lăn bánh trên con đường núi gập ghềnh, dần dần xa nơi hội nghị họp, tôi lại càng cảm thấy bớt căng thẳng. Tôi đã bỏ lại sau lưng sự phân hoá đang tiềm ẩn trong nội bộ đảng. Giấc mơ về Trung Quốc, về đảng của tôi đã biến mất. Hình ảnh của Mao trong tôi đã tan vỡ. Hy vọng duy nhất của tôi, mong sao có thể tự cứu được mình thoát khỏi tai hoạ này. Càng xa Lư Sơn bao nhiêu, chứng đau dạ dày càng đỡ hành hạ tôi bấy nhiêu. Ở Lư Sơn, tôi không tài nào chợp mắt, từ máy bay cất cánh tôi bắt đầu thiếp đi, khi máy bay hạ cánh ở Bắc Kinh, tôi vẫn còn ngủ li bì. Tôi là hành khách duy nhất trong chuyến bay.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


Đời tư Mao Trạch Đông: Phần III. 1957-1965 – Chương 40

Posted: 05/09/2012 in Hồi Ký, Lâm Hoàng Mạnh, Lý Chí Thỏa, Nguyễn Học
Tags:
Lý Chí Thỏa
Để tưởng nhớ người vợ thân yêu nhất của tôi, Ngô Lý Liên
Đã đăng: Lời nói đầu, chương [1], [2], [3], [4], [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11], [12], [13], [14], [15], [16], [17], [18], [19], [20], [21], [22], [23], [24], [25], [26], [27], [28], [29], [30], [31], [32], [33], [34], [35], [36], [37], [38], [39], [40]

Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
Lý Liên, Thạch Thụ Hán và Cơ Túc Hoa ra đón tôi ở sân bay. Trước khi vào bệnh viện trình diện, tôi và Lý Liên về nhà thăm mẹ.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đang gia tăng khiến cho hoàn cảnh gia đình tôi thật tồi tệ. Sức khỏe mẹ tôi suy giảm trông thấy. Chứng cao huyết áp vẫn không đỡ, bây giờ cụ lại mắc thêm bệnh tim mạch. Hàng ngày cụ chỉ ăn một bữa, không phải vì thiếu thốn mà cụ chẳng muốn ăn. Đã thế cụ lại phải trông nom hai cháu nội, vợ tôi đi làm từ sáng sớm, về nhà rất muộn còn tôi thường vắng nhà.

Mẹ tôi lo lắng cho bệnh tình của tôi. Là đứa con trai duy nhất nên cụ rất thương, lúc nào cũng lo cho tôi. Thấy tôi ốm đau, gầy yếu chỉ làm cụ thêm lo buồn. Không muốn cụ phải bận lòng, tôi chỉ ngồi lại vài phút rồi vào viện.
Vết loét ở dạ dày của tôi không quá nguy hiểm. Ngô Tiếp, giáo sư cũ của tôi, sau khi khám xét kỹ, khẳng định không cần phẫu thuật, thực hiện đầy đủ phác đồ điều trị, ăn kiêng, uống thuốc đều đặn, bệnh sẽ chóng bình phục. Chỉ sau ba ngày tôi đã cảm thấy những dấu hiệu tốt hơn. Dạ dày đã hết cháy máu, sức khỏe cảm thấy khá hơn. Nhưng một phu nhân ở phòng bên cạnh, vợ thứ trưởng Bộ y tế, làm tôi rất khó chịu. Khi biết tôi là bác sĩ riêng của Mao, tìm đủ mọi cách để moi bằng được những chi tiết về mối quan hệ giữa Mao và Giang Thanh. Người đàn bà này quấy rầy tôi đến nỗi cuối cùng Cơ Túc Hoa, giám đốc bệnh viện, phải chuyển tôi sang phòng khác.
Trong khi sức khỏe của tôi đang dần dần phục hồi, mẹ tôi lại phải vào bệnh viện Đồng Nhân gần đó cấp cứu vì cơn đau tim. Cơn đau không nghiêm trọng, tuy đã qua cơn nguy hiểm, nhưng cụ phải nằm hàng tuần trong bệnh viện để dưỡng sức. Một bà cô trông coi hai đứa con trai tôi, còn Lý Liên hết đạp xe đến bệnh viện thăm tôi, lại đạp xe đến thăm mẹ. Tôi cảm thấy đã khỏe, đủ sức thỉnh thoảng ra ngoài bệnh viện cùng Lý Liên đi thăm cụ.
Bệnh viện trở thành nơi an dưỡng của tôi. Chiến dịch chống bọn “cơ hội hữu khuynh” vừa được phát động, tôi chẳng muốn bị cuốn hút vào. Bành Chân, thị trưởng thành phố Bắc Kinh hăng hái hưởng ứng chiến dịch này. Ông cho treo khắp các phố phường những lá cờ đỏ to tướng, những khẩu hiệu chính trị mới: “Mao chủ tịch muôn năm!”, “Đường lối chung muôn năm!”, “Công xã nhân dân muôn năm!”, “Đại nhảy vọt muôn năm!”
Anh trai tôi, con bà cả, làm việc ở Bộ y tế đã trở thành nạn nhân của phong trào. Trong phong trào “ba chống” anh đã bị cách chức từ đầu thập niên 1950, tuy vậy vẫn giữ chức giám đốc Viện kiểm tra An toàn dược phẩm. Anh rất trung thành với đảng, nhưng hễ có chinh dịch nào được phát động, anh vẫn bị nghi ngờ. Đã lâu tôi không liên lạc với anh. Lý Liên muốn tôi dò hỏi tình hình anh ấy trong Bộ y tế xem sao. Nhưng làm thế, chỉ tổ làm người ta để ý đến tôi. Tôi không muốn dính vào chính trị một tí nào.
Tôi muốn rời khỏỉ Nhóm Một. Ở đó không chỉ có Mao, người làm cho tôi không chịu đựng nổi, còn có Diệp Tử Long và Lý Ẩm Kiều. Họ là những kẻ thô lỗ, hèn hạ. Càng làm lâu trong Nhóm Một, họ càng trở nên đồi bại. Vụ bê bối mới của Diệp Tử Long với một người bạn gái cũ ở tỉnh Vũ Hán năm 1958. Còn Lý Ẩm Kiều cũng bắt đầu lao vào một mối tình chớp nhoáng.
Tôi không ủng hộ cách đối nhân xử thế của họ, khinh bỉ cả hai, coi họ là những kẻ thấp hèn về tư cách. Nhưng họ luôn sai khiến như ông tướng, yêu cầu, bắt ép tôi không chỉ chăm sóc sức khỏe cho Mao, còn phải quan tâm đến cả khẩu vị của Mao. Tôi còn phải làm người hoà giải các cuộc cãi cọ xảy ra liên miên, vô nghĩa giữa Giang Thanh và các cô y tá. Ở tuổi tứ tuần, tôi thấy mình đang lâm vào ngõ cụt của nghề nghiệp. Từ lâu tôi vẫn muốn trở thành phẫu thuật viên.
Cơ Túc Hoa hứa dành cho tôi chỗ làm ở Bệnh viện Bắc Kinh, trưởng phòng Y vụ của bệnh viện, theo dõi hồ sơ sức khỏe các cán bộ cấp cao. Nhưng điều này có nghĩa, thay vì ở Trung Nam Hải tôi sẽ phải đương đầu với những mưu mô chính trị ở bệnh viện, vì tình hình ở bệnh viện cũng chẳng khác gì. Tôi chờ thời cơ, tìm việc ở Thượng Hải hay Nam Kinh.
Đầu tháng 9 Mao về Bắc Kinh, ít lâu sau Lý Ẩm Kiều và La Quảng Lộ, một thư ký riêng của Mao, đến thăm tôi. Họ thuyết phục tôi nên ra viện. Sắp đến lễ quốc khánh Trung Quốc lần thứ mười. Có lẽ ngày lễ lần này sẽ được tổ chức rất lớn. Trong mười tháng qua, hàng triệu người đã bỏ công sức thực hiện nhiệm vụ của Mao giao phó, phải hoàn thành mười công trình lớn đúng vào dịp kỷ niệm ngày đại lễ. Toàn dân Bắc Kinh đã phải làm phu phục dịch cho vị hoàng đế Trung Hoa ở thế kỷ XX. Cũng như Tần Thuỷ Hoàng đã cho xây Vạn lý trường thành, về sau mỗi một ông vua đều cho xây cho riêng mình một công trình vĩ đại, Mao đã buộc phải xây xong mười công trình lớn để chào mừng mười năm lên ngôi. Quảng trường Thiên An Môn với Nhân Dân Đại Lễ Đường khổng lồ và Viện bảo tàng Lịch sử Trung Quốc được mở rộng cả hai bên, đến nỗi hiện nay nó có thể chứa được nửa triệu người. Cuộc diễu binh, bắn pháo hoa sẽ được làm rầm rộ nhất trong lịch sử Trung Quốc cận đại. Lý Ẩm Kiều và La Quảng Lộ không muốn tôi bỏ lỡ sự kiện vĩ đại này, nhưng tôi lại không muốn.
Tôi không theo Mao ra quảng trường Thiên An Môn. Ngày quốc khánh lần thứ mười đã tới và trôi qua khi tôi vẫn còn ở trong viện.
Trong khi mẹ tôi nằm bệnh viện Đồng Nhân, vào một ngày cuối tháng 11 khi bà đang tắm hơi như thường ngày, bỗng nhiên cụ bị bất tỉnh nhân sự. Khi tôi đến khoa Hồi sức cấp cứu của bệnh viện, tình trạng của cụ xấu đi rất nhanh, huyết áp tụt, cực kỳ nguy hiểm. Các bác sĩ đã bó tay. Vài giờ sau cụ tôi ra đi, không kịp gặp mặt hai đứa cháu nội.
Chúng tôi không hung táng cụ. Với sự giúp đỡ của Phòng y tế trung ương sau khi cụ mất ba ngày, chúng tôi đã hoả táng. Đem bình tro về nhà, để trên bàn làm việc của tôi, vì tôi không muốn chôn bình tro ở nghĩa trang Bắc Bảo Sơn. Nếu tôi xin được việc tại một bệnh viện nào đó ở Nam Kinh hoặc ở Thượng Hải, tôi sẽ mang theo bình tro.
Sau khi mẹ tôi mất, việc giữ lại 5 căn phòng trong ngôi nhà ở trong thành phố đối với chúng tôi trở nên khó khăn hơn. Tôi muốn rời Trung Nam Hải, chuyển về ở trong ngôi nhà của mẹ tôi. Nhưng La Đạo Nhương, người phụ trách mới của Ban An ninh không đồng ý, tưởng tôi muốn bỏ Nhóm Một. Là bác sĩ riêng của Mao, tôi phải sống ở Trung Nam Hải. La đề nghị tôi chuyển cả gia đình vào ở trong Trung Nam Hải, hứa sẽ cho thêm một phòng cho hai đứa con trai tôi.
– Đồng chí nghĩ kỹ đi, bác sĩ Lý ạ. Khi đồng chí về Nhóm Một, đồng chí phải đi công tác liên miên. Cho nên nếu vợ con đồng chí ở lại ngôi nhà cũ, đồng chí sẽ chẳng còn cuộc sống gia đình nữa đâu.
La nói đúng. Tôi và Lý Liên chẳng còn cách nào khác, chuyển cả nhà vào Trung Nam Hải. Đứa con lớn có thể đạp xe đi học, đứa bé hồi đó mới ba tuổi hàng ngày sẽ gửi nó nhà trẻ nội trú ở Bắc Hải, cuối tuần đón về. Chúng tôi và đứa lớn ăn ở nhà ăn tập thể Trung Nam Hải.
Theo đề nghị của Lý Liên, tôi ra viện một thời gian ngắn để giúp gia đình chuyển nhà, rồi sau đó lại vào viện. Lý Liên thường đến thăm, đưa theo hai thằng con vào những ngày cuối tuần. Tôi sắp phải quay về Nhóm Một, vợ tôi muốn tôi hoàn toàn bình phục trước khi phải chịu đựng những căng thẳng của công việc.
Sở nhà đất Bắc Kinh phát hiện ra ngay các căn phòng của mẹ tôi bỏ không, đòi chúng tôi nhượng lại toàn bộ ngôi nhà. Không còn cách nào khác. Sau mười năm thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và sau hơn một thập kỷ, từ khi tôi còn là một thanh niên có lý tưởng trở về để phục vụ đất nước, sau khi nhà nước sung công toàn bộ tài sản gia đình, tôi đã trở thành gia cấp vô sản, không nhà đất.
Tinh thần tôi dường như bị suy sụp. Đối với một người có lý tưởng, việc phải từ bỏ ngôi nhà thừa kế từ thế hệ này sang thế hệ khác rất đỗi thân thiết của gia đình không phải dễ dàng. Sau khi Nhật xâm lược, tôi và mẹ tôi đã phải chạy đến Tô Châu, xa quê hương suốt 17 năm. Nhưng tôi đã sống thời thơ ấu trong ngôi nhà này, sau khi trở về Trung Quốc ngôi nhà này đã chứng kiến rất nhiều kỷ niệm đẹp đẽ trong đời. Pháo đài cuối cùng của sự ấm cúng, bình yên và hoà thuận, nơi duy nhất chúng tôi được tự do nói cười, đùa nghịch, đã vĩnh viễn không còn nữa.
Lý Chí Thoả
Nguyễn HọcLâm Hoàng Mạnh dịch từ bản tiếng Anh The Private Life of Chairman Mao by Li Zhisui
© Dịch giả giữ bản quyền sách dịch
Nguồn: Dịch giả gửi bản dịch và hình minh họa


No comments: