Tuesday, July 17, 2012

ARCHIMEDES L.A. PATTI * WHY VIETNAM VI



Chương 19
 Câu chuyện về hai thành phố 

MỘT CUỘC HỌP BÁO 



Sự mong đợi của tôi về tin tức những gì xảy ra ở Sài Gòn vẫn là điều cấp bách. Dù có sự phân chia mới đây ở vĩ tuyến 16, nhưng chúng tôi trong OSS vẫn coi Việt Nam là một dân tộc và quan tâm đến các sự kiện ở miền Bắc cũng như ở miền Nam. Thực may mắn mà tôi đã tìm được một nguồn thông tin tuyệt vời từ những cơ quan báo chí địa phương. Tôi không biết gì về việc người Sài Gòn đang tổ chức lễ mừng thắng lợi khá to vào ngày 25-8 khi chúng tôi tiếp một nhóm độ 12 người Việt Nam đại biểu cho những tờ báo lớn ở Hà Nội. Họ đã đến gặp “Phái bộ Đồng minh” để xin ý kiến về việc viết xã luận và kiểm duyệt tin tức. Chúng tôi mời họ vào phòng khách lớn và nói với họ rằng chúng tôi không phải là “Phái bộ đại diện Đồng minh” và công việc của chúng tôi chẳng có liên quan gì đến vấn đề kiểm duyệt và chỉ đạo các bài xã luận(1). 

Họ tỏ ra lúng túng khi thấy có được một nền báo chí tự do nhưng vẫn tiếp tục xúc tiến chương trình đã định. Ông Minh(2), với tư cách là người phát ngôn và phiên dịch, xin đọc một bài phát biểu đã chuẩn bị sẵn. Mở đầu bằng nhũng lời chào đón nồng nhiệt, bài nói sa vào việc kể về những sự xấu xa của Pháp, rồi quay sang nói về lòng mong muốn giành độc lập dân tộc của người Việt Nam, kết luận là yêu cầu Mỹ, Anh, Liên Xô và Trung Quốc ủng hộ sự nghiệp của họ. Tôi cám ơn họ vì sự đón tiếp thân mật và mời họ ở lại đến bất cứ lúc nào họ thấy cần. 

Nhưng trước việc họ cố coi chúng tôi như là một phái đoàn đại diện, tôi giải thích về vai trò phi chính trị của chúng tôi và đặc biệt nhắc nhở rằng mặc dù Mỹ có thiện cảm đối với nguyện vọng của họ nhưng chính sách của Mỹ vẫn là một chính sách không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Dưới ánh sáng những năm chiến tranh sau này của chúng ta ở Việt Nam, lời phát biểu đó có thể làm cho người đọc kinh ngạc, nhưng vào 1945 thì điều đó hoàn toàn xác thực và phản ảnh một cách rõ ràng chính sách đã được xác định. Họ hỏi nhiều về ý đồ của người Pháp và người Trung Quốc, về thái độ của Đồng minh đối với Việt Nam và phản ứng của tôi trước những thành công của Việt Minh ở Sài Gòn.

 Tôi trả lời hầu hết các câu hỏi, trừ những gì về Sài Gòn và nói với họ rằng tôi rất cảm ơn về bất cứ một thông tin nào mà họ có thể cho biết về tình hình Sài Gòn và cả Nam Kỳ hiện nay... Người của các báo hàng ngày thì bảo nên trích các mẩu tin từ các báo cáo của họ. Một số khác lại muốn ngồi tường thuật tỉ mỉ cho chúng tôi nghe. Tôi đồng ý và cử Robert Knapp làm việc này(3). Bắng cách đó, chúng tôi đã có thể nắm được toàn diện tình hình miền Nam vào ngày 31-8. Đó là những thông tin đầu tiên về vùng này mà Côn Minh, Trùng Khánh và Washington đã nhận được, sau khi Nhật đã đầu hàng 3 tuần lễ. Trong khi Knapp chuẩn bị cho bản báo cáo, tôi đã có điều kiện để nắm bức tranh toàn cảnh miền Nam khi chúng chưa kịp bị thời gian làm phai mờ, và điều đó đã hết sức có ích cho những cố gắng hàng ngày của chúng tôi nhằm ngăn chặn bùng ra rối loạn ở miền Bắc.

  CUỘC “CÁCH MẠNG” Ở SÀI GÒN  

Năm 1945, cũng như hiện nay, thành phố Sài Gòn, trung tâm của Nam Bộ, hoàn toàn khác với Hà Nội ở miền Bắc. Về mặt địa lý, khí hậu, không khí xã hội, và triết lý chính trị của nó đều khác biệt. Đầu 1945, khi Việt Minh nắm được quyền kiểm soát khu giải phóng Bắc Bộ thì quyền lãnh đạo của phong trào đã được củng cố và không ai có thể tranh cãi được. Và khi ủy ban địa phương nắm chính quyền ở Hà Nội ngày 19-8 thì việc đó không phải là một hành động hoàn toàn độc lập mà chính là đi theo đường lối, chủ trương lâu dài của Trung ương đã vạch ra từ trước. Đối với miền Nam lại khác hẳn. Nam Bộ là một lãnh địa trù phú riêng của thực dân Pháp, ít giống với tình trạng kém giàu có của Trung Bộ và Bắc Bộ. 

Những sự kiện tháng Tám ở Hà Nội và Huế chỉ có những tiếng vọng xa xôi đối với Sài Gòn. Không phải vì ngọn đuốc độc lập không bùng cháy ở miền Nam, cũng chẳng phải ở đó thiếu các phong trào dân tộc chủ nghĩa và thiếu các môn đồ hăng hái. Ngược lại, ở đó đã có quá nhiều phong trào, và tất cả cố gắng của họ đang hướng một cách mạnh mẽ vào việc tranh luận về tư tưởng và xã hội, nên đã dẫn đến những cuộc đấu tranh đảng phái gay gắt. Tình trạng đó vẫn còn đang tồn tại. Ngoài đảng Cộng sản ra, các nhóm quốc gia nổi bật nhất ở Nam Bộ gồm có những phần tử Troskism, nhóm thân Nhật Phục quốc và Đại Việt, các giáo phái chính trị Cao Đài và Hòa Hảo và Đoàn Thanh niên Tiền phong, cùng rất nhiều đảng phái nhỏ bé khác. 

Tất cả đều chủ trương độc lập dân tộc với nhiều hình thức khác nhau. Nhưng chỉ có đảng Cộng sản là có chương trình hành động và tổ chức tốt. Điểm đáng lưu ý nữa là đặc tính tự trị của đảng Cộng sản miền Nam(4). Sau cú 9-3, Nhật vẫn tiếp tục duy trì sự phân chia về hành chính và chính trị giữa Nam, Trung, Bắc Bộ được đặt ra từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến ngày 14-8, khi Nhật cho phép Bảo Đại cử một viên Khâm sai (Phó vương)(5) để nắm quyền cai trị Nam Kỳ.

 Do kết quả của sự phân chia độc đoán về địa lý giũữ các nước ở Đông Dương như vậy nên đảng Cộng sản miền Nam có sự cách biệt lớn đối với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở Bắc Kỳ và thiếu những sự chỉ đạo cụ thể cho đến tận sau Hội nghị Tân Trào của Đảng ngày 13-8. Ngay sau cú 9-3, người Nhật bị thúc bách phải tìm những người Việt trung thành để thay thế bộ máy quan liêu Pháp (lúc đó phần lớn đang ở trong tù) và để bảo vệ cho tuyến giao thông ở hậu phương chống lại sự đe dọa phá hoại của Đồng minh.

 Họ lấy một số người thân Nhật trong các nhóm quốc gia tập hợp trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất do Nhật đỡ đầu(6) để cung cấp cho Nhật một số người họ cần trước khi để cho Mặt trận này tàn lụi dần. Nhưng khi những người lãnh đạo cái Mặt trận đang ngủ yên này đột nhiên nhận thấy Việt Minh ở Bắc Kỳ, trong tháng 8, đã xuất hiện để chiếm lấy quyền kiểm soát của phong trào độc lập trên toàn quốc, họ liền thúc cho các hội viên hoạt động trở lại. 

Ngày 14-8, Ban chấp hành Mặt trận nhanh chóng tiến vào chiếm các vị trí mà người Nhật bỏ trống và họ tiếp quản việc kiểm soát Sài Gòn vào ngày 16-8. Điều đó đã được chào đón như là một cuộc “Cách mạng ở Sài Gòn”, tuy cũng rất khó mà được coi là một cuộc tiếp quản. Bộ máy cai trị thân Nhật vẫn còn được giữ nguyên và cũng không một ai ở Sài Gòn biết đến chuyện một cuộc “cách mạng” đã nổ ra. Người Nhật có thời vận động ngầm, đã giữ một vai trò quyết định trong cuộc “cách mạng” ở Sài Gòn này. Nguyễn Văn Sâm, Khâm sai của Bảo Đại, đến Sài Gòn ngày 19-8 (đúng vào ngày Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội). 

Hành động đầu tiên của ông ta là điều đình với Nhật, nhằm xin một số lớn vũ khí để tổ chức lực lượng bán vũ trang thuộc quyền ông ta. Và người Nhật đã cấp vũ khí cho ông(7). Mặt trận thống trị ở Sài Gòn đúng một tuần. Trong thời gian đó, tin Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội và Huế cũng như tin Hoàng đế có thể thoái vị đã lan tới Sài Gòn. Tại Huế, Bảo Đại đã được báo tin về những quyết định ở Tân Trào về việc Việt Minh nắm chính quyền ở Hà Nội. Với một quyết tâm sắt đá nhằm duy trì vị trí lung lay của mình, ngay 19-8, Bảo Đại ra lời kêu gọi dân chúng ủng hộ. Đối vớ thế giới, ông ta nói rằng nhân dân Đông Dương “có khả năng tự quản và đã tập trung toàn bộ sức lực để củng cố nền tảng độc lập của họ”.


 Với nhân dân Việt Nam, ông ta yêu cầu hợp tác và nói rằng: “Tôi đã sẵn sàng hy sinh bản thân mình cho mục đích bảo vệ nền độc lập của vương quốc và các quyền lợi của nhân dân tôi”. Ông ta đã bắt đầu dao động và đó cũng là dấu hiệu đầu tiên cho thấy ông có thể thoái vị nếu cần thiết. Bất chấp chức tước, triều đình và quyền lực của ông trên trường quốc tế, địa vị hợp pháp của Bảo Đại với tư cách là người đứng đầu Nhà nước đã được xem xét lại.

Sáu tháng trước đó, ngày 11-3, ông đã công bố nền độc lập của Việt Nam bằng cách công khai hủy bỏ Hiệp ướv bảo hộ Pháp - Việt 1884 và chấp nhận sự đỡ đầu của Nhật. Nhưng Pháp đã không biết tới lời tuyên bố độc lập của Bảo Đại và coi Nhật đã chiếm đóng thuộc địa của Pháp là một “sự kiện chiến tranh thuần túy” cần phải được sửa lại bằng việc đánh bại Nhật. Về pháp lý, đã chẳng có gì thay đổi. Đến khi Nhật thất bại, địa vị của Bảo Đại là người đứng đầu nước Việt Nam độc lập bị lâm nguy. Ngày 20-8, Bảo Đại gửi điện riêng cho Tổng thống Truman, Vua George VI, Thống chế Tưởng và tướng De Gaulle để tranh thủ sự đồng tình và công nhận chính thức của các vị này. Vào lúc đó, ở Hà Nội (hoàn toàn độc lập với các biện pháp tiến hành ở Tân Trào và không có sự hiệp đồng với Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương), các sinh viên Đại học cánh tả đã tổ chức một cuộc mít tinh quần chúng với danh nghĩa của Tổng hội Sinh viên(Cool.


 Họ đưa ra một quyết nghị mạnh mẽ kêu gọi Bảo Đại thoái vị và thành lập một Chính phủ kiểu cộng hòa dưới sự bảo trợ của Mật trận Việt Minh, yêu cầu Mặt trận Việt Minh mở các cuộc thảo luận với tất cả các đảng phái chính trị để lập ngay một Chính phủ lâm thời, và cuối cùng là kêu gọi nhân dân và các đảng phái chính trị hãy ủng hộ Chính phủ lâm thời để thực hiện sự độc lập của dân tộc. Ngay chiều hôm đó, họ đã điện quyết nghị trên tới Hoàng cung. Bảo Đại bị áp lực thúc ép phải hành động một cách có tính chất quyết định. Việt Minh đã phát động công nhân thành thị và nông dân các thôn xã tiến hành cướp chính quyền; trí thức và sinh viên đại học đấu tranh đòi hỏi những cải cách triệt để trong Chính phủ và những người Quốc gia thì yêu cầu đánh đổ tất cả bọn vua chúa ở trong cũng như ở ngoài nước. 

Trước những áp lực đó, Bảo Đại trả lời là không chịu thoái vị, mà chỉ cố đứng vững ít lâu nữa, bằng cách mời Mặt trận Việt Minh thành lập một Chính phủ mới thay cho chính phủ Trần Trọng Kim. Ông chia xẻ với đồng bào ông lòng mong muốn được độc lập, sau khi đã có quá đủ những sự bảo hộ của nước ngoài. Ông cũng không có hận thù cá nhân với Việt Minh và muốn họ tham gia vào Chính phủ của ông, sau khi họ đã xuất hiện như là một lực lượng chính trị. 

Nhưng hành động của ông đã quá muộn: Tại Huế, Sài Gòn và Hà Nội, các Bộ trưởng của ông đã từ chúc và do đó, tất nhiên ông không còn có Chính phủ nữa. Tuy thế, Bảo Đại luôn luôn là người dễ bảo, đã điện cho các nhà chức trách Việt Minh ở Hà Nội là ông sẵn sàng thoái vị và mời Mặt trận Việt Minh ra thành lập một Chính phủ quốc gia. Lời đề nghị của ông tới Hà Nội ngày 22-8.

Nhưng Việt Minh đã lập xong một Chính phủ lâm thời, đã nắm quyền kiểm soát ở nhiều thành phố lớn, và tất nhiên cũng đã yêu cầu Bảo Đại thoái vị để nhường chỗ cho một nước cộng hòa mới. Các đảng phái miền Nam, cả Mặt trận Dân tộc Thống nhất cũng như các tổ chức đại diện cho Việt Minh đều cảm thấy áp lực phải thay đổi mạnh. Việc chuyển giao vũ khí giữa người Nhật và viên Khâm sai không thoát khỏi được sự chú ý của Trần Văn Giàu, người bạn tin cậy của Hồ Chí Minh. 

Điều hiển nhiên đối với Giàu là một cuộc đối đầu với kẻ địch được vũ trang đầy đủ sẽ làm cho Việt Minh cực kỳ khó khăn, nếu không nói là không thể giành được một chỗ đứng chân ở Nam Bộ. Cố nắm lấy cơ hội mỏng manh, Giàu tìm cách được trình bày trong hội nghị Mặt trận Dân tộc Thống nhất được triệu tập vội vã vào ngày 22-8. 

Ông khôn khéo nêu ra vấn đề là Mặt trận Dân tộc Thống nhất sẽ bị Đồng minh, hiện lúc đó đã đến Hà Nội(9), coi như một phong trào do Nhật đỡ đầu, và vì thế sẽ nhanh chóng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật. Tất nhiên, dù không chỉ đích danh, Giàu cũng đã đề cập đến các nhóm thân Nhật như Phục quốc, Đại Việt, Cao Đài, Hoà Hảo, và các nhóm nhỏ bé khác với tinh thần tương tự như vậy.

 Sau đó, ông đề nghị một sự lựa chọn khả dĩ có thể chấp nhận được là Việt Minh - đã được nổi tiếng về thái độ chống Pháp của họ, “lại được Đồng minh giúp đỡ mạnh mẽ bằng vũ khí, trang bị và huấn luyện” và đã được công nhận là một lực lượng tiền phong của phong trào dân tộc. Giàu cũng nhắc cho họ hay là Việt Minh cũng là một liên minh của nhiều đảng phái khác nhau đấu tranh cho độc lập dân tộc, và ông khẳng định rằng Mặt trận Dân tộc Thống nhất chắc chắn sẽ được hoan nghênh và ủng hộ trong Mặt trận Việt Minh. 

Trong khi hội nghị đang tiến triển thì họ nhận được tin sửng sốt là Hoàng đế “đã chỉ thị cho đảng Cách mạng Việt Nam, phái Quốc gia cánh tả, thành lập Nội các mới... để thay thế cho nội các của Thủ tướng Kim đã từ chức toàn bộ...”(10). Mặc dù có sự chỉ định mờ ám đó, họ cũng vẫn tin tưởng chắc chắn rằng trọng trách đã được giao phó cho Hồ Chí Minh và Mặt trận Việt Minh của ông gánh vác. Lập luận của Giàu có thể không hoàn toàn thuyết phục được mọi người có mặt nhưng điều ông nói rằng Đồng minh thiên về phía Việt Minh, gắn liền với việc hoàng đế tỏ ý muốn giao phó số phận đất nước cho Việt Minh đã làm cho mọi người tin tưởng hơn. Lời Giàu nói đến lực lượng vũ trang của Việt Minh với ý nghĩa là được sự ủng hộ của Đồng minh, cũng như quyết định để cho đội Thanh niên Tiền phong có vũ trang(11) đứng về phía những người Cộng sản, đều là những nhân tố thuyết phục mạnh mẽ.

 Suốt đêm 22 và ngày 23, các đường dây điện thoại và điện báo giữa Sài Gòn, Huế và Hà Nội không lúc nào ngớt các điện ưu tiên. Ngày 23, kinh thành Huế yên tĩnh đã phải chịu đựng một chấn thương hết sức nặng nề là quang cảnh một cuộc biểu tình “hòa bình” vĩ đại do Ủy ban Giải phóng tiến hành với sự ủng hộ của Việt Minh. Họ đưa quần chúng đông tới hơn 10 vạn người (hơn gấp đôi số dân kinh thành) ra yêu cầu Bảo Đại chuyển giao chính phủ cho Việt Minh. Ngày 23 cũng là ngày Mặt trận Dân tộc Thống nhất họp lần cuối cùng để quyết định rút lui khỏi sự lãnh đạo cách mạng và nhường chỗ cho một ủy ban chấp hành Nam Bộ lâm thời mới được thành lập(12) do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Ủy ban đóng trụ sở ngay tại Nam Bộ phủ và Tòa thị chính, và cho phát ra một bản tuyên bố công khai tự xác định là một bộ phận phía Nam của Chính phủ Hà Nội và Huế. Ở Huế, tối hôm đó Hoàng cung cùng nhận được bức điện của Ủy ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam yêu cầu nhà vua thoái vị(13). 

Nếu Bảo Đại còn bất cứ sự dè dặt nào đối với Việt Minh thì các sự kiện ở Hà Nội, Huế và Sài Gòn cũng đã gạt tan hết. Nhà vua, cũng như phần lớn nhân dân Việt Nam lúc đó, tin chắc rằng Việt Minh đã may mắn được sự ủng hộ của Đồng minh nên cũng chẳng còn có lý do gì để chống lại với phong trào “dân chủ” đang lên nữa. Ngày hôm sau, 24-8, theo lời khuyên của người bí thư riêng trong triều(14), Bảo Đại trả lời Ủy ban Giải phóng Dân tộc ở Hà Nộ; rằng ông ta quyết định thoái vị “để không làm trở ngại cho công cuộc giải phóng đất nước và giành độc lập của nhân dân tôi”. Đồng thời, ông ta đề nghị Ủy ban cử người đại diện được chỉ định tới Huế để hợp pháp hóa sự chuyển giao quyền lực và trách nhiệm(15). Logged (ak47)

Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #51 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:34:15 PM »


THIÊN MỆNH 


 Một sự ngược đời lớn luôn luôn ám ảnh tôi là hình như chính người Pháp, trong những tháng sắp kết thúc Thế chiến thứ hai, với những lo toan của họ nhằm phá vỡ chính sách Mỹ không ủng hộ sự đô hộ của Pháp ở Đông Dương dẫn đến sự sụp đổ của chính họ, một cách vô ý thức. Rất nhiều lần họ đã làm thất vọng mọi cố gắng chân thành của các nhà quân sự Đồng minh yêu cầu họ cộng tác chống Nhật. Nếu họ thật lòng muốn hoạt động để đánh bại Nhật trong khuôn khổ của Đồng minh, thì không thể nghi ngờ gì là họ phải cần đến bất cứ mọi hoạt động quân sự phối hợp nào với Việt Minh

. Việc toán “Con Nai” chỉ là một thể nghiệm, một thử thách mạo hiểm, đẻ ra từ những thất vọng về việc người Pháp đình công, lãn công rút lui không tham gia hợp tác. Còn ông Hồ đã thành công một cách cực kỳ khéo léo trước nhân dân của ông, trong việc đề cao nhiệm vụ nhỏ bé của toán “Con Nai” lên thành một nhân tố tâm lý kỳ diệu. Trước hết, bằng một chứng cứ mong manh, ông đã thuyết phục được các lãnh tụ các đảng phái cạnh tranh ở Tân Trào rằng ông được người Mỹ nâng đỡ và rằng ông ta là một con người cùng với Đảng của ông, được nhằm để thành lập một Chính phủ lâm thời... Hơn nữa, trước lập luận của ông Giàu là Mỹ ủng hộ Việt Minh về mặt quân sự, và việc Bảo Đại phải mời Việt Minh thành lập Chính phủ, thì còn có đảng chính trị quốc gia nào ở miền Nam lại không chấp nhận sự lãnh đạo của Việt Minh “được Mỹ nâng đỡ” nữa?(16)


 Khi đám quần chúng chất phác thấy hành động thoái vị, Việt Minh tiếp nhận quyền lực của Bảo Đại từ chính tay Nhà vua trao, trật tự hoàn hảo và sự điều hành tốt trong việc Việt Minh tiếp quản thì đối với họ, đó rõ ràng là một vấn đề thuộc về “Thiên mệnh”. Trong khi thế giói có thể bỏ qua tư tưởng can thiệp siêu phàm như là một sự mê tín, thì đó lại là một mục quan trọng của lòng trung thành với người nông dân Việt Nam... Người ta có thể hiểu được tình hình trong binh lính và dân chúng các xã ở miền Nam trong những năm chiến tranh gần đây đối với chế độ Hà Nội, nếu coi đó như là do có “thiên mệnh” và điều đó đã mang lại niềm tin vào “Bác Hồ”.

 Trong điều kiện của tháng 8-1945, ông Hồ đã biến được những tiềm năng hạn chế của mình thành thắng lợi trong một câu chuyện thật giống như thần thoại. Nhưng chắc chắn ông Hồ sẽ không thể thành công nếu như Đảng Cộng sản Đông Dương của ông đã không được tổ chức và chuẩn bị tốt cho việc giành chính quyền. Nhiều năm chuẩn bị không phải là vô bổ. Tuy nhiên, nếu không có cái hào quang giả tạo về sự ủng hộ của người Mỹ, thì Việt Minh cũng rất có thể không đạt được việc giành quyền lãnh đạo dân tộc trong bước đường tiến từ hoạt động bí mật sang nắm quyền thống trị công khai. Như thế Việt Minh đã phát triển thành một lực lượng thống nhất vĩ đại và cũng là một sự báo oán cho người Pháp. Trong khi mà Sainteny ngồi để cố mà hình dung ra sự non yếu của người Việt Nam và chờ đợi cho các nhà chính trị của họ lần lượt ngã gục trong sự chia rẽ, thì cũng chính ông ta và các bạn cộng sự trong DGER của ông, bằng một cách gián tiếp kỳ lạ, đang làm động cơ thúc đẩy sự nổi dậy phi thường của Việt Nam...

  “THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ở Sài Gòn, ngày 25-8 là một ngày hội mở đầu một kỷ nguyên mới đối với người dân Nam Bộ. Hầu như tất cả mọi người đều muốn mình có dính phần trong đó. Cờ Việt Minh tung bay khắp nơi. Xứ ủy Nam Bộ đã tổ chức một cuộc biểu tình quần chúng chưa từng có với trên 50 vạn người, để chào mừng việc ra mắt của những người lãnh đạo mới. Với một sự cố gắng hơn hẳn đồng bào của họ ở Hà Nội và Huế, người Sài Gòn đã diễu qua các nhà lãnh đạo của mình trong 9 giờ liền. Chỉ trong vòng 6 ngày mà Việt Minh đã thành công trong việc nắm chính quyền ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Ít ra là về bề ngoài thì cuối cùng Việt Nam cũng đã thống nhất và độc lập. Đó là một sự thống nhất ngắn ngủi, như các sự kiện sau này chứng tỏ, nhưng đó là một sự bắt đầu và người Việt Nam đã rất phấn chấn.

 Trong ngày tiếp theo, người Sài Gòn và dân các tỉnh lân cận ở phía Nam, lần đầu tiên đã được nghe giọng nói của Hồ Chí Minh qua đài phát thanh, điều đó đã khuấy động mạnh mẽ tinh thần độc lập tiềm tàng của họ. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, họ có ý thức về chủ quyền, ý thức về một dân tộc lớn và mạnh hơn trước. Để nói lên ảnh hưởng về mặt tâm lý lời nói của ông Hồ đối với người Sài Gòn, bộ máy tuyên truyền của Huỳnh Văn Tiểng đã đặt một tên mới cho Sài Gòn: “Thành phố Hồ Chí Minh”. Hai ngày sau khi nắm quyền, Giàu bị thất vọng nghiêm trọng lần đầu tiên khi gặp J. Cedile(17) để thảo luận về vai trò của Pháp. Giàu đã sớm thấy người Pháp chỉ thảo luận về tương lai của Đông Dương với điều kiện trước hết là chủ quyền người Pháp phải được khôi phục. Người Việt Nam lại giữ lập trường là chỉ giải quyết mối quan hệ với nước Pháp khi Pháp công nhận Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền. Tình hình đã nhanh chóng dần đến chỗ bế tắc.

  ÔNG HỒ Ở HÀ NỘI

 Lê Xuân, người Việt Nam trẻ nói là thay mặt Hồ Chủ tịch, đang đợi tôi sau cuộc gặp gỡ với các nhà báo Hà Nội. Xuân nói “Chí sĩ Hồ” đang cùng với bạn bè ở Hà Nội và mong rằng tôi thu xếp thời gian gặp gỡ với ông. Tôi nói tôi sẽ đến, nhưng bao giờ và ở đâu? Xuân giải thích là “Chí sĩ Hồ” mong rằng chưa để lộ cho công chúng thấy rõ trước khi ông đã sẵn sàng đảm nhiệm việc nắm quyền, và ông có thể phái một người bạn đến đón tôi tới gặp ông. Tôi cho anh ta biết là tôi có một người Nhật thường xuyên đi theo bảo vệ và chắc chắn là có hiến binh Nhật theo dõi. Xuân cho điều đó không có gì trở ngại. Vấn đề quan trọng là đừng để người Pháp, bất cứ người Pháp nào, biết tin ông Hồ đã ở trong thành phố và tôi sẽ gặp ông. Tôi đảm bảo với anh ta sẽ giữ kín đáo, và khi ra đi, anh nói sẽ vẫn giữ liên lạc.

 IMAI LÀ AI?

 Sau khi đi kiểm tra Thành và Gia Lâm về, viên đại úy bảo vệ người Nhật đã hỏi xin đến gặp tôi vào tối hôm đó. Vào lúc đã khuya, anh đến biệt thự tôi ở, mang theo một chai Johnnie Walker đỏ. Tôi rất khoái về thái độ lịch duyệt không bình thường này vì Imai là một viên sĩ quan thận trọng, không tỏ ra tò mò nhưng cái gì cũng biết, đeo quân hàm dại úy nhưng luôn luôn được đối xử một cách tôn kính bởi người Nhật ở một chức vụ cao hơn thế nhiều. …Trước ly rượu, đối diện với tôi, với một giọng hối hận, anh ta nói rằng anh ta lấy làm tiếc vì người Nhật đã chọn con đường chiến tranh năm 1941, thay cho việc làm theo lời khuyên của Hoàng thân Konoyé(18)... Anh nói tiếp là có quen biết nhiều người Mỹ ở Tokyo và hy vọng có một cơ hội nào đó để gặp lại người quen cũ...

Để chuyển hướng câu chuyện, tôi hỏi nhiệm vụ của anh ta là gì? Không một chút do dự, anh trả lời: “Để tạo thuận lợi cho sứ mệnh người Mỹ ở Hà Nội”. Chắc anh ta nhận thấy sự hoài nghi trên nét mặt của tôi nên giải thích rằng Bộ Tổng Tham mưu đã đồng ý với tướng Tsuchihashi là sẽ chẳng có lợi gì trong việc chối từ không chịu chấp nhận ý nguyện đầu hàng Đồng minh của Nhật Hoàng, nước Nhật đã bị đánh bại trong chiến tranh và người Nhật sẽ cần phải được tôn trọng trong sự giao tiếp của họ với kẻ chiến thắng. Tôi không thể tin được những lời tôi đã nghe và có ý ngờ rằng đây là một trò gì chăng... Imai rót thêm rượu và nói rằng anh ta có biết về OSS. Mặc dù không hay biết gì về cấp bậc của tôi nhưng anh ta biết tôi là một sĩ quan OSS trong Cục tình báo của tướng Wedemeyer.

Và dĩ nhiên, trước mắt anh ta, nhiệm vụ của tôi không chỉ giới hạn trong các vấn đề tù binh chiến tranh và vấn đề đầu hàng sắp tới, mà còn bao trùm nhiều vấn đề có lợi ích rộng lớn khác. Tôi vẫn thản nhiên, nhưng cũng thấy trong thông báo của anh ta không có biểu hiện gì của sự thù địch. Khi tôi rót rượu tiếp, anh ta nhắc lại là được cấp trên chỉ thị cho anh phải “tạo thuận lợi” cho công tác của tôi, “bất kể công tác đó là gì”.

Tiếp đó anh ta trao cho tôi tấm danh thiếp có in “Ichio Imai” cùng với địa chỉ cá nhân ở số 7 đường P. Jabouille, Hà Nội và số điện thoại. … Tôi hỏi thẳng anh ta muốn gì đây. Imai vui vẻ trả lời trong một hay hai ngày nữa Việt Minh sẽ được các nhà đương cục Nhật trao lại cho toàn bộ chính quyền và tôi, chắc chắn là sẽ muốn có những quan hệ chặt chẽ hơn nữa với họ. Vì vậy Imai đã được phép phải giúp đỡ tôi. Anh ta quan tâm đến việc Lê Xuân đã gặp tôi và báo cho tôi biết tin Xuân là người của Việt Minh. Xuân được giao làm công tác tuyên truyền trong quân đội Etsumei (Việt Nam), một nhóm cách mạng trong Mặt trận Việt Minh cộng tác với Nguyễn Ái Quốc, còn được gọi là Chí sĩ Hồ hay là Hồ Chí Minh.

Tôi cảm ơn Imai và nhờ chuyển đến tướng Tsuchihashi sự cảm kích của tôi trước mối quan tâm và sự cộng tác của ông, đồng thời cũng tranh thủ nhắc lại nhiệm vụ của tôi đã được nêu lên trước đây, vấn đề tù binh và việc đầu hàng. Tuy nhiên, thấy tình hình Pháp - Việt ở địa phương căng thẳng, tôi rất muốn thấy không ai được châm lửa vào tình hình chính trị và gây ra một cuộc tàn sát người Pháp. Nếu tôi cần giải quyết một việc gì đó với Việt Minh, tôi sẽ làm việc đó thận trọng và không để lộ cho bên ngoài biết. Imai đồng ý và nói với tôi được tự do làm bất cứ việc gì tôi thích và anh ta lúc nào cũng sẵn sàng để phục vụ. Ít phít sau, anh ta ra về…

Lúc đó đã 11 giờ đêm, tôi trao danh thiếp của Imai cho người phụ trách X2 và yêu cầu cho tôi biết tất cả những gì anh ta có thể tìm được về Imai. Ngày hôm sau, trước khi tôi đến gặp ông Hồ, X2 báo cáo. Tóm tắ: Imai, đại úy hải quân Hoàng gia Nhật, trước cầm đầu phái đoàn hải quân Nhật tại Hà Nội, phụ trách nhóm tình báo. Hiện nay đang làm nhiệm vụ đặc biệt đóng vai phiên dịch cho một số tướng Nhật ở Đông Dương, hình như đang được giao nhiệm vụ rất quan trọng và được tham gia vào tất cả các cuộc họp bí mật của Bộ Tổng tham mưu. Tôi cười, khi nhận ra “cái bóng” của mình lại là con chó đầu đàn trong cái trò này. Dù thế nào đi nữa thì bọn hiến binh cũng phải bị loại bỏ. Họ không có gì đáng phải sợ khi tôi đến thăm ông Hồ và các cố vấn của ông ta. Người Nhật, họ đã tin vào những đồn đại về việc người Mỹ đã nâng đỡ Việt Minh. ________________________________________

(1) Trước năm 1945, các tin tức bất kỳ dưới dang nào đều phải chịu kiểm duyệt và được hướng dẫn ở một mức độ nhất định, đặc biệt trong giai đoạn Toàn quyền Decoux và Nhật chiếm đóng. (2) tức Vũ Văn Minh, thuộc Thành ủy Hà Nội, phụ trách cơ quan thông tin của Chính phủ Lâm thời. (3) Chuyên viên dân sự, phụ trách chiến tranh chính trị thuộc MO (4) chỉ Xứ ủy Nam Bộ (5) tức Nguyễn Văn Sâm, một trong các sáng lập viên Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng, có xu hướng thân Nhật (6) Mặt trận Dân tộc Thống nhất thành lập ngày 14-8-1945 gồm các tổ chức Việt Nam Quốc gia Độc lập Đảng, Thanh niên Tiền phong, Nhóm trí thức, Liên đoàn Công chức, Tịnh độ Cư sĩ, Phật giáo Hòa Hảo, Nhóm Tranh đấu La Lutte, Cao Đài; chịu ảnh hưởng chủ nghĩa Troskism và tẩy chay những người Việt Minh Cộng sản.

(7) Phần lớn số vũ khí này lại chuyển về tay các lực lượng vũ trang của Cào Đài, Hòa Hảo và sau này đã được dùng để chống Anh, Pháp, Việt Minh và cũng có thể đối với Ngô Đình Diệm. (Cool trụ sở ở Việt Nam học xá Hà Nội, do Phan Anh và Tạ Quang Bửu, hai cựu thủ lĩnh phong trào thanh niên thời Toàn quyền Decoux trước 9-3, lãnh đạo.


(9) Nguyễn Khang ở Hà Nội đã điện thoại báo cho Giàu biết có “Ủy ban đình chiến Đồng minh” đang trên đường đến Hà Nội. Cái được gọi là “Ủy ban” đó thực sự chỉ là toán Mercy của chúng tôi. (10) mãi đến khi Bảo Đại tuyên bố ở cuộc mít tinh, Giàu và người cộng tác thân cận của ông mới biết tin về hành động của Bảo Đại, vì Nhật đã cấm báo chí và tin tức trong 6 ngày, đến 28-8 mới dỡ bỏ. (11) Thanh niên Tiền phong là lực lượng vũ trang quan trọng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, cùng với Cao Đài. (12) còn gọi là Ủy ban Hành chính Lâm thời miền Nam Cộng hòa Việt Nam, hay Lâm ủy Nam Bộ. Thành phần Lâm ủy gòm Trần Văn Giàu (Cộng sản) - Chủ tịch, bác sĩ Phạm Ngọc Thạch (Việt Minh) - Ủy viên Ngoại giao, Nguyễn Văn Tạo (Cộng sản) - Ủy viên Nội vụ, Huỳnh Văn Tiểng (Dân chủ) - phụ trách Tuyên truyền, Dương Bạch Mai (Cộng sản) - Ủy viên hành chính và chính trị miền Đông, Nguyễn Văn Tây (Cộng sản) - Ủy viên hành chính và chính trị miền Tây, Hoàng Đôn Văn (Việt Minh) - Ủy viên Lao công, Phạm Văn Bạch (độc lập) - Ủy viên, Ngô Tấn Nhơn (đảng Độc lập Dân tộc) - Ủy viên và Huỳnh Thị Oanh (độc lập)- Ủy viên Phụ nữ. (13)


 Điện của Việt Minh yêu cầu Bảo Đại thoái vị gửi đi ngày 23-8 từ Hà Nội. Công văn Bảo Đại gửi mời Việt Minh thành lập Chính phủ mới gửi đi ngày 22-8 từ Huế. Tuy cùng thời gian chuyển đi nhưng không có sự phối hợp gì giữa 2 văn kiện. (14) tức Phạm Khắc Hòe, Đổng lý Văn phòng của Bảo Đại (15) Ngày 25-8, Ủy ban cử Trần Huy Liệu (Phó chủ tịch) cầm đầu phái đoàn vào tiếp nhận việc thoái vị của hoàng đế. Trong đoàn còn có Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận. Cùng ngày, tại Hội nghị Hội đồng tư vấn hoàng gia tại điện Kiến Trung, Bảo Đại cho thảo bản tuyên bố thoái vị. Phái đoàn đến Huế ngày 28-8 và được Bảo Đại tiếp kiến riêng – và có lẽ lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một hoàng đế An Nam đã bắt tay với một thường dân của ông. Ngày hôm sau, tại Hoàng cung, Bảo Đại đã trao bản tuyên bố thoái vị cho Trần Huy Liệu.


 Chiều 30-8, Bảo Đại mặc lễ phục, đọc bản tuyên bố thoái vị trước cửa Ngọ Môn, dưới sự chứng kiến của rất đông công chúng. Cờ Hoàng đế hạ xuống và cờ đỏ sao vàng của nước Việt Nam mới được kéo lên. Buổi lễ kết thúc với việc trao lại ấn kiếm Hoàng đế trong khi quần chúng hô to hoan nghênh công dân Vĩnh Thụy. (16) Trả lời phỏng vấn của đài BBC, tháng 9-1977, tướng Trần Văn Đôn, người trong nhóm tướng lĩnh chỉ huy lật đổ chế độ Diệm tháng 11-1963, đã nói: “Chúng tôi biết lúc đó, tổ chức này (Việt Minh) được người Mỹ nâng đỡ…”, “ngay cả Bảo Đại lúc đó cũng cho là nhóm Hồ CHí Minh lãnh đạo, được người Mỹ hỗ trợ”…


Cũng trong một bài phỏng vấn khác của BBC vào năm 1977, tướng E.G. Lansdale, phụ trách CIA ở Bắc Việt Nam một thời gian năm 1954, đã nói về ảnh hưởng của các hoạt động của Mỹ năm 1945 ở Việt Nam như sau: “Dân chúng mà tôi đã gặp nói chuyện ở miền Bắc, đều khẳng định là nhóm Hồ Chí Minh là hoàn hảo nhất vì được Mỹ ùng hộ và do đó, có thể được tín nhiệm hoàn toàn…” (17) Ủy viên Cộng hòa Pháp ở Nam kỳ, được bí mật thả dù xuống vùng lân cận Sài Gòn đêm 22 rạng 23-8. (18) Hoàng thân Konoyé (1891-1945), 3 lần làm Thủ tướng Nhật và được nhiều người xem như là ông phản đối việc Nhật tham gia chiến tranh chống Mỹ. Logged (ak47) Thành viên *


Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #52 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:35:07 PM »


Chương 20 

Một ngày chủ nhật bận rộn  

CUỘC ĐÓN TIẾP CHÍNH THỨC

Vào ngày chủ nhật đầu tiên ở Hà Nội, chúng tôi đang chờ đợi một ngày yên tĩnh và kéo dài bữa ăn sáng thì nghe thấy ngoài cửa có tiếng ồn ào, tiếng kèn trống. “Đây là một cuộc biểu tình nữa”, Grélecki vừa nói vừa cùng với Bernique chạy ra cửa quan sát. Ngay ở thềm cửa trước nhà đã có bốn quý ông Việt Nam chờ hỏi trưởng phái bộ Mỹ. Họ là đoàn đại biểu của Ủy ban Giải phóng Dân tộc, tức Chính phủ lâm thời mới, đến để chào mừng Đồng minh. Bernique mời họ vào phòng khách lớn. Tôi nhận ra ngay Vũ Văn Minh và ông ta giới thiệu người cầm đầu phái đoàn là Võ Nguyên Giáp, đại diện cho Hồ Chủ tịch.


 Tiếp đó Giáp giới thiệu Dương Đức Hiền(1) và Khuất Duy Tiến(2). Họ đều mặc đồ trắng, thắt cà vạt, trừ Giáp mang một áo khoác cũ và mũ cát trắng. Bằng tiếng Pháp hoàn hảo, Giáp chuyển lời hoan nghênh của cá nhân Hồ Chủ tịch và của bản thân ông. Chúng tôi có được dễ chịu không? Có cần gì không? Chúng tôi hãy cứ tự coi mình như là khách quý của Chính phủ Việt Nam(3). Người ta mong rằng chúng tôi sẽ ở lại đây lâu và sẽ thấy thú vị. Tôi nhờ Giáp cảm ơn Chủ tịch Hồ và mong rằng sẽ sớm được gặp ông. Hai người giúp việc Việt Nam bưng cà phê vào mời khách và Hiền đã thân mật chuyện trò với một trong hai người. Chúng tôi ít nhiều ngạc nhiên khi biết Phát, một người giúp việc, trước đây là một sinh viên trong phong trào thanh niên của Hiền và phong trào này đã đi theo đội quân Giải phóng của Giáp. Sau, Phát đã được chỉ thị gia nhập vào đơn vị Bảo an thân Nhật để hoạt động cho Việt Minh(4). Tuy ngạc nhiên nhưng chúng tôi cũng chẳng có gì phải lo ngại vì đã thường xuyên duy trì được một chế độ bảo mật chặt chẽ trong sinh hoạt...


Sau những lời hoan nghênh và xã giao chính thức, Giáp thưởng thức ly cà phê và đi vào câu chuyện nghiêm chỉnh. Theo ông, Hồ Chủ tịch rất mừng khi biết chúng tôi tới Hà Nội, nhưng lại lo việc về các sĩ quan Pháp đi theo cùng phái đoàn chúng tôi. Ông muốn cho biết thế nào mà người Pháp lại có thể tới Hà Nội trước được người Trung Quốc? Hay là Đồng minh đã thay đổi kế hoạch? Hoặc người Pháp đã được phép chiếm lại Việt Nam? Tôi bảo đảm với Giáp rằng kế hoạch của Đồng minh không có gì thay đổi. Ở Potsdam, người Trung Quốc đã được chỉ định tạm thời chiếm đóng Đông Dương từ bắc vĩ tuyến 16 để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và hồi hương quân Nhật bại trận. Quân đội Pháp ở Trung Quốc sẽ chỉ được phép di chuyển dần từng bộ phận về phía nam sau khi Đồng minh đã tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật.

Theo chỗ tôi hiểu thì cả người Trung Quốc và người Mỹ đều không có kế hoạch giúp Pháp quay trở lại Đông Dương bằng vũ lực. Thế còn nhóm đi cùng trên máy bay với tôi? Tại sao tôi lại đưa họ đi theo? Giáp không hiểu nổi như thế là thế nào. Tôi cũng thấy được sự bối rối của họ. Người đứng đầu cơ quan Tình báo Pháp ở Trung Quốc hiện đã có mặt ở tại Hà Nội nhờ có sự giúp đỡ của Đồng minh, và họ lại còn được người Nhật cho trú ở Dinh Toàn quyền Pháp... Người Mỹ là những người đầu tiên vào Đông Dương, nhưng họ lại tuyên bố họ chỉ có nhiệm vụ quan sát việc giải giáp quân Nhật và giao cho người Trung Quốc gánh vác mọi trách nhiệm. Trong con mắt những người khách của chúng ta thì tình hình thực là rối rắm.

Tôi nói rõ với họ là theo chỗ tôi biết, cho đến nay Mỹ không có ý định giúp người Pháp quay trở lại Đông Dương chống lại nguyện vọng của nhân dân Việt Nam, và sau này chắc cũng sẽ như vậy. Nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu rằng Pháp đã là một nước đồng minh, đã bị thiệt hại nặng nề trong cuộc chiến tranh chống Đức, giống như Anh và Liên Xô, Pháp không thể bị khước từ về tình hữu nghị của chúng tôi, mặc dù chúng tôi có thể không đồng tình với các chính sách thực dân của Pháp. 

Trong vấn đề này chúng tôi không hoàn toàn nhất trí với cách làm của người Anh. Phái đoàn chúng tôi đã để cho toán nhỏ 5 người Pháp đi theo, trên cơ sở thống nhất với nhau rằng họ sẽ chỉ hạn chế vào việc làm công tác nhân đạo đối với tù binh và thường dân Pháp. Hơn nữa, ngay cả việc đó họ cũng chưa được phép làm. Khi tôi nói tới Liên Xô, Giáp và Tiến đã tỏ ra chú ý đặc biệt. Cả hai đều muốn phát biểu, nhưng Giáp đã nói muốn biết tại sao Liên Xô lại không có đại diện ở Đông Nam Á. Tôi đáp lại một cách dễ dàng; Nguyên soái Xtalin ở Potsdam đã đồng ý để cho Tổng tư lệnh tối cao các nước Đồng minh được cử các đại diện Đồng minh để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật và chỉ định nơi tổ chức cuộc đầu hàng. 

Thống chế Tưởng đã được chỉ định cho miền Bắc Đông Dương, trong khi mà Liên Xô tỏ ra không muốn giành quyền ưu đãi đối với vùng này. Hiển nhiên là Giáp và Tiến chẳng khi nào nghĩ tới khả năng có thể Nguyên soái Xtalin lại không muốn để cho mình bị dính líu trực tiếp vào vấn đề Việt Nam đang rối rắm. Họ ngừng hỏi và cũng có thể ngại hỏi để rồi lại phải nghe thêm những điều chẳng thích thú lắm. Giáp lên tiếng cừời, một điều ít khi thấy, và nói “Công chúng đang mong được đón chào ông và các bạn Mỹ của chúng ta. Vì vậy, xin mời ông và cả đoàn hãy vui lòng ra phía cổng trước”. 

Qua những tiếng ồn ào, chúng tôi biết ngay đây là một buổi lễ ở ngoài trời. Bernique tập hợp cả toán lại trước cái sân nhỏ, còn chúng tôi cũng thu xếp, Giáp và tôi dẫn đầu, theo sau là các vị đại biểu Việt Nam rồi đến những người còn lại trong toán OSS. Chúng tôi tiến đến các bệ ở cạnh cổng ra vào, giữa một cảnh tượng đẹp mắt xúc động. Một dàn quân nhạc khoảng 50 người đã đứng dàn ngang trên đường, phía trước mặt. Phất phới trong gió 5 lá cờ lớn của Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bên trái là một đơn vị bộ đội 100 người đứng ở tư thế “nghiêm chào”. Họ trông thật giống đội quân mà Thomas trong toán “Con Nai” đã tả, với mũ cát, có áo cộc tay, quần soóc kaki, mang vũ khí Mỹ và Anh. Bên phải là các toán thanh niên của Hiền, mặc đồ trắng. Chung quanh bên trong là các vòm cây điểm hoa của khu phố Beauchamp... 

Giáp chỉ và nói một cách tự hào: “Bộ đội của chúng tôi vừa mới từ rừng núi về”. Thoáng một cái, các cờ được kéo xuống, trừ cờ Mỹ, quốc thiều Mỹ nổi lên, rồi các cờ lại được kéo lên. Sau đó, cứ tiếp tục như vậy cho cờ mỗi nước, lần lượt đến Liên Xô, rồi Trung Quốc và cuối cùng là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau khi tôi tỏ lời cảm ơn đoàn đại biểu, viên chỉ huy bộ đội, đội quân nhạc, các đơn vị bắt đầu diễu hành... Có cả một hàng dài thường dân, có nhiều cờ và biển dẫn đầu ghi lời chào mừng phái đoàn chúng tôi và các khẩu hiệu chính trị. Nhiều thiếu nữ và thiếu niên vừa đi vừa hát bài quốc ca mới.

Khi qua chỗ chúng tôi, họ đều “nhìn thẳng” và giơ cao tay phải lên chào. Đến tận gần trưa cuộc diễu hành mới kết thúc và đoàn đại biểu cũng ra về. Trong lúc chia tay, Giáp, với một vẻ xúc động, đã quay lại nói với tôi: “Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà cờ nước chúng tôi được trương lên trong một buổi lễ quốc tế và quốc ca chúng tôi được cử hành để chào mừng một vị khách nước ngoài. Tôi sẽ mãi mãi không quên cơ hội này”. Logged (ak47)


Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #53 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:35:52 PM »  

GẶP LẠI ÔNG HỒ

Ở trong nhà, Lê Xuân đứng nóng lòng chờ tôi. Anh ta chuyển lời ông Hồ mời tôi tới ăn cơm và đã có sẵn một xe và lái xe để đưa tôi đi. Tôi xem nhanh các điện từ Côn Minh mới gửi tới, nhưng cũng chẳng thấy được điều gì nói về việc đầu hàng, mà chỉ thấy có điện của Helliwell ra lệnh cho các đại úy Conein và Spaulding đang chỉ huy hai toán ở biên giới Đông Dương phải về Côn Minh để đáp máy bay đi Hà Nội và không được đưa người Pháp đi cùng. Lê Xuân và tôi ngồi vào một chiếc xe Citroën cũ và lên đường. Đã gần một giờ nên Xuân rối lên vì tôi được hẹn vào giữa trưa. Tôi thì vui và đảm bảo có thể giải thích được sự chậm trễ này vì dù sao thì Chủ tịch chắc cũng đã biết việc gì đã xảy ra.


Người lái Việt Nam đã điều khiển cái xe cũ kỹ một cách khá thông thạo, vừa tránh người tản bộ ngày chủ nhật, vừa tránh các luồng xe đạp và lách trong dòng đủ các xe cộ. Chúng tôi đi hết đường này đến đường khác, cứ như là đi vòng tròn. Gần 10 phút đi quanh và tôi cho rằng người lái xe đã cố để cho không bị theo dõi. Cuối cùng, chúng tôi đã dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng bình thường trong khu thành phố cũ(5).


Không có bóng một người Âu hoặc người Nhật. Một thanh niên đứng đón chúng tôi ở cửa, trao đổi một vài câu với Xuân, rồi dẫn chúng tôi vào nhà và bật đèn. Khi tôi lên đến buồng gác, một bóng nhỏ nhắn tiến lại gần và giang rộng hai tay đón chào thân mật. Tôi rất vui được gặp lại ông nhưng cũng rất sửng sốt. Ông Hồ chỉ còn là một cái bóng của con người mà 4 tháng trước đây tôi đã gặp ở Chiu Chou Chich. Tôi cầm lấy tay ông nhưng hình như tay ông hơi run. Trên đôi chân đi dép, thân hình xương xẩu trái ngược với cái trán khá rộng với nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt.


 Trang phục của ông, một tấm áo nâu sẫm và quần rộng, lại càng làm đậm thêm một vẻ hoang tàn. Tôi bắt đầu xin lỗi vì đến chậm, nhưng ông Hồ không chú ý và nói đó không phải lỗi tại tôi và nhìn về phía Giáp mỉm cười. Còn tôi cũng vui khi thấy Giáp ở đây, mặc dù trước đó ông vẫn lặng thinh chẳng nói gì với tôi về bữa cơm. Đưa tôi về phía những người còn đứng yên ở một góc, ông Hồ giới thiệu, “người bạn Mỹ từ Washington của chúng ta”. Tôi hơi lúng túng và không muốn để bị hiểu lầm về quy chế chính thức của tôi, tôi sửa lại “xin lỗi, từ Côn Minh tới”, mọi người cười xòa, và ông Hồ cũng nhắc lại “từ Côn Minh tới”. Tôi đã cố nhớ lại những người có mặt buổi hôm đó, nhưng chắc chắn chỉ có ông Hồ, Giáp, Trường Chinh và có thể cả Nguyễn Khang. Tôi hỏi thăm về tình hình sức khỏe, ông Hồ cho biết có bị sốt nhẹ và đau bụng, nhưng bằng một cử chỉ khoáng đạt, ông gạt chuyện đó sang bên và hỏi tôi về những tin tức ở Côn Minh và Washington.


Trước khi tôi trả lời, người thanh niên đón chúng tôi đã bưng vào một cái khay với 6 cốc và một chai Vermouth. Người thanh niên rót rượu và ông Hồ mời tôi đầu tiên. Tôi đã nghĩ ngay đến một lời chúc từ chính trị phiền hà, nhưng ông Hồ đã chẳng làm tôi phải lúng túng và chỉ nói “à votre santé”(6). Tôi cũng đáp lại “à la vôtre”(7). Tôi không ngạc nhiên khi thấy ông chỉ chạm môi vào ly cốc vì đã nghe nói ông là một người ăn uống thanh đạm. Ông Hồ mời chúng tôi sang phòng bên, ở đó đã có bày bàn cơm cho 6 người, món ăn thanh đạm nhưng rất ngon...


Tôi ngồi chỗ bên phải ông Hồ và là chỗ duy nhất bày đồ dùng theo kiểu Âu Châu, đồ Trung Quốc và bằng bạc. Đó là một sự chiếu cố, nhưng tôi sử dụng khá thành thạo bát đũa nên đã hỏi xem có thể có bát đĩa được không. Mọi người thích thú và bát đũa được đưa tới ngay. Không khí chan hòa. Ai cũng thoải mái. Câu chuyện diễn ra bằng tiếng Pháp, thỉnh thoảng có xen lẫn tiếng Anh. Tôi thấy chỉ mình ông Hồ biết tiếng Anh, nhưng còn ít sử dụng để giữ cho mọi người đều có thể tham gia câu chuyện. Và một cách nhẹ nhàng, ông nhắc sơ lại việc nhân dân ông đã cộng tác với AGAS, GBT, OWI và tất nhiên là cả OSS khi ông nói tới việc người Mỹ đã có ý định tuyển mộ ông làm việc cho OWI ở San Francisco năm 1944-1945.


 Theo ông nói thì ông đã hy vọng là nếu như người Mỹ thực hiện điều đó thì ông đã có thể gặp được đại diện Liên Hợp Quốc để trình bày nguyện vọng độc lập của nhân dân ông. Nhìn lại, ông nói, chắc cũng không thể thành công hơn việc đã làm ở Versailles vào 1919. Cơm xong, chúng tôi chuyển ra ban công để dùng cà phê, bốn người kia rút lui và chỉ còn lại ông Hồ và tôi. Mở đầu câu chuyện, ông cảm ơn tôi đã có nhã ý nhận lời mời và mong rằng sẽ được cùng nhau nhận định về tình hình hiện tại. Tôi cho rằng điều đó thực là bổ ích nhưng phải xác nhận rằng địa vị của tôi rất bị hạn chế bởi các chỉ thị của cấp trên và tôi không được phép để cho mình dính líu vào các vấn đề chính trị Việt - Pháp. Ông Hồ lắc đầu nhiều lần, giơ tay và cười nói: “Tôi hiểu! Có thể sau này, chứ bây giờ tôi không yêu cầu gì cả. Còn hôm nay chúng ta có thể nói chuyện với nhau như những người bạn, chứ không phải là những nhà ngoại giao”. Tôi cũng cười đáp lại: “Đúng!


Và như thế là ông không nghĩ rằng tôi sẽ báo cáo nội dung câu chuyện của chúng ta cho Côn Minh?”. “Không!”, ông Hồ nói, “cho tới khi cả người Pháp lẫn người Trung Quốc cũng không hay biết gì về tôi”. Trong hai giờ liền sau đó, chúng tôi đã soát lại một số sự kiện và các vấn đề đặt ra từ khi có cuộc gặp gỡ với toán “Con Nai” cho tới các “Cuộc khởi nghĩa” ở Sài Gòn và Hà Nội. Ông Hồ rất nóng lòng muốn cho tôi biết hết những tình hình mới nhất và tôi cũng rất muốn nắm trọn được mọi tinh huống. Khi nhắc lại một cách buồn cười sự việc của Montfort, ông Hồ hỏi tôi tại sao người Pháp lại bỏ qua những đề nghị gặp gỡ của ông Hồ dạo tháng 7. Đặc biệt trong lúc bấy giờ, ông rất chú ý không những đến việc làm sáng tỏ bản tuyên bố mơ hồ ngày 23-4 của Pháp(Cool mà còn việc mở ra các cuộc thương lượng với các nhà chức trách Pháp tại Trung Quốc.


Tôi thú thực không biết gì về ý đồ của Pháp, ngoài việc OSS đã nhờ AGAS chuyển những bức điện của ông cho họ. Ông Hồ thất vọng và cảm thấy bị xúc phạm bởi sự kiêu căng của Pháp khi ông phê phán cuộc vận động chống Việt Nam của Pháp tại Trung Quốc. Ông đặc biệt tức giận đối với Sainteny và nhấn mạnh là chẳng ai còn lạ gì “Sainteny, trưởng đoàn M.5, là người đại diện của De Gaulle”. Theo ông thì phái đoàn Sainteny chống đối với người Việt Nam và do đó sẽ gây ra nhiều vấn đề cho Chính phủ Lâm thời. Về “kíp người” ở dinh Toàn quyền, ông Hồ hỏi “Họ hy vọng làm được gì nhỉ? Không biết có lúc nào họ nghĩ rằng họ lại có thể ngăn chặn được sự tiến triển của lịch sử Việt Nam không?”. Tôi không thể trả lời thay cho người Pháp và chỉ có thể giải thích rằng chúng tôi đã để họ đi theo là nhằm để giúp đỡ chúng tôi trông nom số khá lớn tù binh Pháp và do đó chúng tôi đã hạn chế chỉ để cho họ có 5 người.


Ông Hồ rất mực không tin. “Đó có thể là mục đích của các ông nhưng chắc chắn không phải mục đích của họ”. Để ông bớt lo ngại, tôi gợi ý xem có thể lợi dụng nhóm Sainteny làm cái cầu để sớm bắt liên lạc với người Pháp được không, thậm chí cũng có thể thử dẫn dắt họ tới việc phải công nhận trên thực tế việc Việt Minh đã nắm chính quyền. Ông Hồ không nghĩ như vậy. Trong lúc này, ông không sẵn sàng thương lượng. Tình hình sau này cũng có thể sẽ thay đổi khi người Pháp nhận thức được họ không thể giữ mãi được những tham vọng của họ trước. Nhưng cho đến lúc đó thì họ vẫn cứ phải ở tại Dinh và cần phải được canh giữ. Tôi gợi ý một lần nữa về một cuộc đối thoại với Sainteny nhưng ông Hồ vẫn khăng khăng không chịu và cho rằng không được kết quả gì tích cực. Song, vì nhã ý đối với tôi, ông nói về vấn đề này, tôi có thể tùy ý quyết định. Nhưng ông Hồ không phải chỉ lo lắng về người Pháp không thôi, ông còn gặp khó khăn đối với những mưu toan của người Anh và Trung Quốc.


Ông nói một cách thông thạo về sự hợp tác Pháp - Anh ở Lào, Kampuchia và Nam Bộ. Trong các khu vực này, rõ ràng quyền lợi của Anh trùng hợp với các mục tiêu của Pháp với mục đích lâu dài nhằm khôi phục lại khu vực thuộc địa trước chiến tranh của họ ở Đông Nam Á. Còn đối với người Trung Quốc, ông Hồ xác định lợi ích của họ chính là những vụ “trấn lột về chính trị”. Có tin từ Trùng Khánh cho biết, Quốc dân Đảng (Trung Quốc) đang xúc tiến thương lượng với Chính phủ Paris về nhiều vấn đề đặc quyền ở Đông Dương và ông Hồ tin chắc rằng hoạt động của các cường quốc Pháp, Anh, Trung Quốc sẽ gây nguy hại cho sự toàn vẹn của phong trào giải phóng dân tộc. Câu chuyện trở nên chán ngán. Tôi chuyển sang hỏi về mối quan hệ giữa Nhật và Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ khẳng định là Nhật không can thiệp và đã có thái độ hợp tác tốt từ sau cuộc “khởi nghĩa” ở Hà Nội, đã có một sự thông cảm ngầm không qua những mối quan hệ chính thức hoạt động thương lượng.


Người Nhật đã rút lui một cách có trật tự và Việt Minh tiếp quản dần từng ngành chính quyền. Nhưng ông không biết phải chờ đợi gì ở Đồng minh sau khi Nhật rút đi và ông cũng chẳng rõ ai thay thế họ. Tôi nói có thể là người Trung Quốc như đã thỏa thuận ở Potsdam. Ông Hồ không ngạc nhiên vì ông cũng đã nghĩ là tình hình cũng có thể sẽ như thế nhưng chưa chắc chắn lắm. Tôi ngầm tự hỏi không rõ ông có hy vọng gì vào việc Mỹ chiếm đóng không.


 Ông rất khó chịu về việc người Việt Nam phải tiếp đón quân đội Trung Quốc và cho rằng việc một số lớn người Trung Quốc tràn vào Việt Nam, cộng với số quân Nhật ở đây sẽ làm cho tài nguyên đất nước khánh kiệt một cách ghê gớm. Một cách tinh vi, ông đã liên tưởng đến những rối loạn mà quân đội chiếm đóng Tưởng có thể gây ra nếu họ cướp bóc lan tràn và lộng hành đối với dân chúng. Ông yêu cầu tôi báo trước cho Đồng minh về những khả năng này, và tôi đã hứa sẽ làm đầy đủ. Đó là một số vấn đề đã ám ảnh ông Hồ, đều là những vấn đề giải quyết không dễ dàng và chúng tôi cũng chỉ có thể tác động tới được rất ít. Không kể đối với một số ít người thân cận và một số người Trung Quốc, tên tuổi và con người Hồ Chí Minh còn được ít người Việt Nam biết đến, và đối với các lãnh tụ thế giới đang chia cắt Đông Nam Á thì lại càng không biết tới.


 Những cố gắng trước đây của ông để tranh thủ sự công nhận của Mỹ đã không đi tới đâu. Ông Hồ cảm thấy khẩn thiết phải tìm được cách làm cho Đồng minh chú ý đến chính phủ của ông trước khi quân đội chiếm đóng của họ tới. Ông đã xem bản kêu gọi công nhận nền độc lập Việt Nam của Bảo Đại gửi cho những người cầm đầu các nước Đồng minh mấy ngày trước. Điều đó làm cho ông lo lắng vì lời kêu gọi đã tăng cường địa vị hợp pháp là người đứng đầu quốc gia của Bảo Đại và không nói gì đến sự tồn tại của Chính phủ Lâm thời.


Ông phải nhanh chóng hành động để sửa lại điều sai trái này. Theo ông Hồ thì Bảo Đại đã không cầm quyền từ lâu. Chính phủ duy nhất hợp pháp lúc bấy giờ là Chính phủ Lâm thời của ông. Tôi không thảo luận ý kiến của ông có liên quan tới Hà Nội và ngay cả Bắc Bộ nhưng nêu vấn đề là đối với cả nước thì Bảo Đại vẫn là người đứng đầu quốc gia. Với nụ cười quen thuộc, ông báo cho tôi biết rằng đúng vào lúc đó, một phái đoàn Chính phủ đã lên đường đi Huế để tiếp nhận sự thoái vị của Bảo Đại. Và khi việc thoái vị xong, ông dự định sẽ công bố một bản Tuyên ngôn độc lập, thành lập một nội các, đưa ra một chính phủ hoàn chỉnh, và tranh thủ cho được sự công nhận của quốc tế. Với một giọng tự nhiên, ông hỏi: “Mỹ sẽ làm gì nhỉ?”. Tôi không thể phát biểu thay cho chính phủ nhưng đưa ra ý kiến riêng là Mỹ sẽ xem xét lại tình hình dưới ánh sáng các sự kiện mơi.


Ông Hồ tỏ vẻ thất vọng nhưng cũng không nài ép gì tôi thêm. Điều quan trọng đối với ông Hồ là Mỹ tiếp tục chính sách chống thực dân của Mỹ đối với Đông Dương. Ông cũng tìm cách để xua tan điều “hiểu lầm” cho ông là “một phái viên của Quốc tế Cộng sản” hay là một người Cộng sản. Mối quan tâm sốt sắng của tôi đã tạo cho ông con đường duy nhất có giá trị để đặt quan hệ với Washington. Và ông đã cố tận dụng điều thuận lợi đó.

Ông công nhận một cách thẳng thắn ông là một người Xã hội, ông đã cộng tác và làm việc với những người Cộng sản Pháp, Trung Quốc và Việt Nam, nhưng nói thêm “Các ông ở đây nữa cũng thế phải không?”. Ông tự gán cho mình nhãn hiệu là một người “Quốc gia - Xã hội - Cấp tiến”, có một sự mong muốn mãnh liệt muốn giải thoát đất nước khỏi ách đô hộ của nước ngoài. Ông nói một cách lưu loát không điệu bộ, nhưng với một vẻ thành thật, quyết tâm và lạc quan. Vào khoảng 3 giờ 30, có người tới và nói với ông Hồ điều gì. Ông xoa tay vui vẻ và quay lại phía tôi, với nụ cười rạng rỡ, ông báo cho biết: “Viên Khâm sai ở Nam Kỳ vừa điện cho Triều đình xin từ chức.


Ông ta đã chính thức đặt chính quyền miền Nam vào trong tay Ủy ban Hành chính Nam Bộ”. Tôi không ngạc nhiên lắm vì hôm trước đã được nghe nói Việt Minh do Trần Văn Giàu lãnh đạo đã nắm quyền kiểm soát ở đó. Ông Hồ giải thích là Bảo Đại chỉ mới tuyên bố có “ý định” thoái vị. Nhưng người cuối cùng trong số 3 viên Khâm sai cũng đã rút lui thì không còn có trở ngại chính thức gì cho việc thoái vị hiện nay của ông ta nữa. Rõ ràng đó là một điều hân hoan đối với ông Hồ… Tôi cho rằng các bạn ông đang chờ để gặp ông, nên xin rút lui. Ông Hồ tiễn tôi ra tận cửa và nói ông sẽ không bao giờ quên buổi chiều vui vẻ này của chúng ta và tỏ ý mong rằng tôi sẽ vui lòng giữ quan hệ mật thiết với ông. Tôi đáp lại xin sẵn sàng gặp ông sớm. Người lái xe đã đợi sẵn và 5 phút sau tôi đã trở lại nhà Gauthier. Logged (ak47) Thành viên * Bài viết: 123 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #54 vào lúc: 04 Tháng Tám, 2008, 02:36:57 PM

 » NHỮNG TRÀO LƯU NGẦM

Tôi hy vọng còn lại được một đêm của ngày chủ nhật “yên tĩnh”, nhưng lại rơi vào một tình hình khá căng thẳng. Người trong toán chúng tôi đang chờ để báo cáo về cuộc phiến động mới nhất. Họ đã bắt được nhiều tên khiêu khích (người Việt và Nhật) đi rải những truyền đơn tiếng Việt, nói Pháp sẽ đổ bộ để chiếm lại “An Nam”, hay Việt Nam sẽ thay Nhát để giải phóng châu Á khỏi ách “đế quốc da trắng”... Nhiều người cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền của Nhật, muốn gây hoang mang và hiềm khích dân tộc. Qua Imai, tôi đã báo và xác định trách nhiệm ngay với Bộ Tổng Tham mưu Nhật...


Tôi nhận được một bức điện có ý nghĩa đặc biệt từ Côn Minh, do thủ trưởng cơ quan R&A gửi riêng cho tôi để nghiên cứu. Đó là tóm tắt bản tin của Vụ Hoa kiều Hải ngoại (Quốc dân Đảng Trung Quốc) trong đó có nói: “Đông Dương không phải chỉ không còn giữ được vai trò của một nước trung lập, mà đã trở thành một căn cứ chủ yếu cho Nhật xâm chiếm Trung Quốc từ phía nam, do đó đã gây thiệt hại nặng nề cho Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc không hề có mưu đồ gì về đất dai đối với Đông Dương, trừ việc đến đó để nhận sự đầu hàng của quân đội Nhật ở miền bắc xứ này”.


Kết tội về những sai lầm đã qua vốn là một thủ đoạn cổ truyền của Trung Quốc để nhằm làm thay đổi chiều hướng phát triển của tình hình mà họ không thích... Vào 1945, lời tuyên bố trên báo lên án Đông Dương đã đi theo phục vụ Nhật chỉ là một phương pháp thể hiện ý đồ người Trung Quốc muốn làm áp lực để người Pháp phải chấp nhận những yêu sách của họ về các vấn đề khác như vấn đề tô giói ở Thượng Hải, trong lĩnh vục đặc quyền về buôn bán, bến cảng v.v... OSS Côn Minh báo cho tôi biết có tin phong thanh về một sự thỏa thuận giữa Pháp và Trung Quốc, việc chiếm đóng của Trung Quốc đã chỉ được sử dụng như là một phương sách để đưa người Pháp đến chỗ đồng ý với nhiều vấn đề quốc tế hiện nay.

Nếu đạt được sự thỏa thuận thì người Trung Quốc sẽ rút lui nhường chỗ cho người Pháp chiếm lại Đông Dương. Do đó, tôi không còn phải quá nhấn mạnh tới chính sách trước đây của Mỹ về “quyền tự quyết và quyền tự do của các dân tộc phụ thuộc”. Bức điện làm cho tôi lúng túng. Đây chưa phải là một sự thay đổi chính thức trong chính sách của Trung Quốc nhưng cũng báo hiệu là một chính sách mới đang hình thành. Tôi không có lý do gì để hỏi lại Côn Minh nên chỉ biết thế và sau này hãy hay. Điều này đã xảy ra vừa đúng một giờ sau khi ông Hồ đã bực bội tỏ rõ sự lo ngại của ông đối với các hoạt động của các nước lớn Pháp, Trung Quốc. Ông lo là đúng, ấy là chưa nói đến những tin tức về người Anh.  

SAINTENY MUỐN GẶP ÔNG HỒ

 Chiều hôm đó tôi nhận được điện của Sainteny yêu cầu tôi đến gặp ở dinh Toàn quyền. Tôi đến vào khoảng 6 giờ và thấy Sainteny đang ở trong một trạng thái ủ rũ, không phải đối với tôi, mà chán nản vì cách cư xử của người Nhật và sự bất lực của ông. Qua đài truyền thanh, ông nghe tin Huế, Sài Gòn đã “rơi vào tay Việt Minh” và thất vọng vì người Pháp ở Paris vẫn chưa thức tỉnh. Nhưng hình như ông vẫn chưa từ bỏ ý định là không thể không làm gì được trong lúc này. Một trong những điều ông lo lắng nhất, và cũng là lý do ông muốn gặp tôi là vấn đề an ninh của thường dân Pháp, mà theo ông nói, ông sẽ cảm thấy được yên tâm hơn, nếu như ở đây có quân đội người Âu. 

Ông hỏi xem có cách nào để tổ chức được “một phân đội nhỏ” lính Pháp từ trong Thành để tuần tiễu các khu vực tập trung nguời Pháp. Tôi nói khi mà người Nhật còn nhiệm vụ ở đây họ sẽ không thể đồng ý. Tôi có hỏi Sainteny xem cần độ bao nhiêu người, ông đáp “Phải đến một nghìn”. Tôi nghĩ như thế không phải là một phân đội nhỏ nữa. “Thế còn vũ khí và nơi đóng quân?”. Sainteny cho rằng sẽ nhờ Nhật thu xếp. Tôi khẳng định người Nhật sẽ không bao giờ đồng ý. Tôi thử gợi ý Sainteny nên tìm gặp tướng Tsuchihashi. Sainteny chộp ngay lấy ý đó, “Tuyệt, tại sao hai chúng ta lại không cùng gặp ông ta nhỉ?”.

 Tôi cười, nhưng cũng nghiêm chỉnh nhắc lại rằng theo mệnh lệnh chung số 1 thì việc duy trì trật tự và pháp luật thuộc trách nhiệm người Nhật. Sainteny trở lại ủ rũ và chỉ còn biết nói là chưa được xem bản mệnh lệnh. Vấn đề dừng lại ở đây nhưng cũng lại được nêu lên trong những tuần sau đó. Tôi kể cho Sainteny về chuyến đi thăm Thành và trại Gia Lâm của tôi, việc tôi đã chính thức phản đối Bộ chỉ huy Tối cao Nhật về tình hình tù binh, đã báo cáo với Côn Minh và nghe tin sẽ có một nhân viên có thẩm quyền của Chiến trường đến để giải quyết vấn đề này. Sainteny nói ông thông cảm hoàn toàn với địa vị của tôi và ông ở đây, ông đánh giá cao sự quan tâm của tôi, nhưng người Mỹ ở Trung Quốc đã không hiểu hết được cảnh ngộ của Pháp; nếu như người Pháp được tự do hoạt động thì tình hình ở trong Thành chắc đã được cải tiến một cách chóng vách.

 Với thái độ ít nhiều chua chát, ông ngỏ ý muốn biết chung quanh “câu chuyện om sòm” buổi sáng nay trước nhà phái đoàn Mỹ. Tôi giải thích đó là một cuộc gặp gỡ xã giao với đoàn đại biểu của Chính phủ Lâm thời đến chào. Sainteny bình luận “Ít ra thì họ cũng đã không quên kiểu cách lịch sự của người Pháp”. Nhưng điều đó đã đưa ông ta quay trở lại vấn đề bảo vệ dân chúng Pháp. Ông cũng có chút ca ngợi sự kiềm chế và thiện ý muốn tránh bạo lực của Việt Minh, nhưng lại thêm “dĩ nhiên là người Nhật còn ở đây, vì vậy nhận xét gì trong lúc này thực vẫn còn quá sớm”.


Tôi kể lại cho Sainteny hay là một số các nhà lãnh đạo Việt Minh đã đảm bảo với tôi rằng Hồ Chí Minh sẽ không dung túng cho bất kỳ một sự quấy rối không vì bị khiêu khích nào đối với cộng đồng người Pháp. Tôi nhấn mạnh vào chữ “không vì bị khiêu khích”, và nói với Sainteny rằng tôi đã được Chính phủ Lâm thời cho biết là “nhóm đại úy Blanchard” đã hợp tác chặt chẽ với Nhật trong việc gây ra một số vụ rắc rối. Sainteny chỉ nhún vai mà không bình luận gì. 

Tôi không để lộ cho Sainteny biết là tôi đã gặp ông Hồ, nhưng hình như ông ta cũng cho rằng tôi đã có liên lạc với ông Hồ nên đã hỏi tôi xem có thể thu xếp một cuộc gặp gỡ giữa hai người không. Tôi đảm bảo với ông ta là tôi sẽ vui lòng làm và nhắc cho ông ta biết là ông Hồ đã không hài lòng về việc những cố gắng trong tháng 7 của ông đã không mang lại kết quả gì tích cực. Sainteny đã chống chế lại là ông đã chuẩn bị đến gặp ông Hồ dạo đó, nhưng vì “mưa to và đường ngập” nên đã bị ngăn không tới được căn cứ của ông Hồ.

 Tôi nhận xét là các điện tín lúc đó có ghi ông Hồ có thể tới Côn Minh hoặc Trùng Khánh, nhưng Sainteny trả lời rằng điều quan trọng là phải làm việc với ông Hồ ngay trên “đất Pháp”, nghĩa là Đông Dương, chứ không phải “trước mũi của người Trung Quốc”. Ông ta và cả tôi, không ai nhắc đến việc đề nghị của ông Hồ đã không được phúc đáp lại. Về sau, tôi hỏi lại Sainteny một lần nữa xem ông ta có muốn tiếp tục thu xếp việc gặp gỡ giữa hai người không. Sainteny đã đáp lại là điều đó rất có ích và ông đánh giá cao việc tôi có thể thu xếp được. Tối hôm đó, tôi bắt liên lạc với Xuân qua Imai. Khoảng 9 giờ Xuân tới và tôi đã nhờ chuyển lời của Sainteny cho ông Hồ. Lời phúc đáp tới liền ngay: ông Hồ sẽ phái Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ của ông, tới gặp Sainteny nếu có tôi đi cùng. Cuộc gặp gỡ được ấn định vào sáng ngày hôm sau.

 ________________________________________

 (1) Dương Đức Hiền (1916-1963), lúc đầu hoạt động cho Việt Nam Quốc dân Đảng. Sau khi Đại Việt được thành lập năm 1941, Hiền với Nguyễn Tường Tam và em là Nguyễn Tường Long cùng tham gia lãnh đạo. Là một trí thức, lãnh tụ sinh viên, Hiền được bầu làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Việt Nam tại Hà Nội. Tháng 6-1944, Hiền tập hợp một số lớn sinh viên lập ra Việt Nam Dân chủ Đảng và trở thành Tổng bí thư đầu tiên. Chịu ảnh hưởng của bạn thân là Võ Nguyên Giáp, Hiền sát nhập đảng Dân chủ vào Mặt trận Việt Minh, vừa là chỗ ngụy trang cho các đảng viên Công sản trong những lúc bị khủ bố, vừa đóng vai trò một thiểu số trung thành trong Việt Minh. Tại Đại hội Tân Trào, Hiền được cử vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc và sau đó làm Bộ trường Thanh niên trong nội các đầu tiên của ông Hồ. (2) Bí thư Thành ủy Đảng Cộng sản Đông Dương Hà Nội (3) Tôi giữ phép lịch sự, mặc dù chúng tôi không có một địa vì gì đối với người Việt Nam.

 Chúng tôi đã được trú ở một nơi thích đáng do các nhà chức trách quân sự Nhật bố trí không kể gì đến tình hình chính trị của người Việt hay người Pháp. (4) Khi người Nhật giao nhà Gauthier cho toán OSS chúng tôi, họ đã chọn Phát trong hàng ngũ Bảo an để làm chỉ điểm cho Hiến binh Nhật sau khi đã rút khỏi tổ Đảng ở Hà Nội. Phát nhận nhiệm vụ của Nhật, nhưng về sau Hiến binh cũng thôi không tiếp xúc hoặc chỉ thị gì cho Phát. (5) sau này tôi mới biết ngôi nhà đó ở phố Hàng Ngang. (6) Chúc sức khỏe! (tiếng Pháp) (7) Chúc Ngài sức khỏe! (tiếng Pháp) (Cool tức bản tuyên bố của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #55 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 09:18:11 AM »



Chương 21
 Đường lối ngoại giao kém cỏi của Pháp  

HAI ĐỊCH THỦ GẶP NHAU 

Hai đối thủ có trọng trách Pháp và Việt, cả hai đều không có quy chế chính thức, sẽ gặp nhau lần đầu tiên vào lúc 10 giờ. Tôi đã báo cho Sainteny biết là Giáp sẽ đại diện cho ông Hồ; tôi cũng sẽ đến trước tại Dinh… Sainteny đã cho bố trí một trong những phòng rộng nhất, lịch sự nhất trong Dinh, rất phù hợp với một sự phô trương thích đáng của chủ quyền nước Pháp. Sự lựa chọn của ông cũng có thể được coi như phù hợp với sự tôn trọng đối với một vị khách quan trọng và được biệt đãi là biểu hiện của một ý đồ tinh vi muốn uy hiếp tinh thần người Việt Nam. 

Điều này tôi cũng không rõ lắm. Sainteny hở cho tôi biết là tôi sẽ phải ngạc nhiên khi được nghe thấy những quan điểm tự do của Pháp trong dịp này. Nhưng tôi không cho điều đó lại là lạ, vì như tôi biết, nước Pháp trong lúc này, chẳng còn có con đường nào khác ngoài việc chấp nhận Chính phủ Lâm thời. Chúng tôi từ cửa sổ thấy Giáp và Dương Đức Hiền tới trong một xe mui kín đen bóng, hai bên đằng trước có cắm cờ Việt Minh… Họ có một vệ sĩ người Việt mang tiểu liên Sten đi theo, còn một vệ sĩ khác thì mở cửa cho Giáp. 

Ông vẫn mặc bộ đồ trắng thường ngày, cà vạt thẫm, mang áo khoác “có vết tích chiến đấu” đã trở thành biểu tượng cho quyền lực của một lãnh tụ du kích Việt Minh và Giải phóng quân. Đường hoàng, trang nghiêm và tự tin, Giáp tiến vào cửa chính, ở đó đã có một sĩ quan Pháp đang chờ. Ngay sau khi vào phòng, Giáp tiến thẳng về phía Sainteny. Người Pháp đợi cho Giáp đi được quá nửa đường rồi mới bước tới. Tôi tiến lên trước và chào Giáp, rồi giới thiệu ông và Hiền với Sainteny. Chúng tôi đi xuyên qua gian phòng rộng một cách lặng lẽ tới chỗ đã bố trí đi-văng và nhiều ghế ngồi. Tôi phá vỡ im lặng bằng cách bình luận về tình hình sôi sục tôi đã thấy ở ngoài phố buổi sáng. Giáp gượng cười giải thích là dân chúng xuống đường đến mừng bộ đội của ông “mới từ rừng núi về” sau nhiều trận đánh với quân Nhật. 

Họ sẽ tới vào buổi trưa hôm đó và khi ở đây xong, bản thân Giáp cũng sẽ đi đón mừng họ. Tài ngoại giao của Sainteny chắc chắn đang ở trong chiều hướng suy tàn tầm thường nhất. Mặc dù đã cố gắng nhiều để tỏ ra lịch sự, ông đã lên giọng chặn Giáp bằng một bài diễn văn gia trưởng về cách xử sự của người “A na mít”. Không đếm xỉa gì tới mối ác cảm của người Việt Nam đối với tính gia trưởng của người Pháp, với một giọng trầm bổng và bằng những danh từ nhẹ nhàng, Sainteny hỏi tại sao Việt Minh đã liều lĩnh “làm cho thế giới biết rằng sự có mặt của Pháp ở Đông Dương đã từ lâu không được mọi người hoan nghênh nữa”. 

Không ngừng để chờ giải đáp, Sainteny tiếp tục phát biểu là tuyên bố như thế chỉ làm cho các nước Đồng minh thêm lo lắng về sự an ninh của dân chúng Pháp tại Đông Dương và đưa họ đến kết luận là phải thận trọng giữ các nhà chức trách Pháp không cho vào Đông Dương trong lúc này. Để nhấn vào sự không hài lòng, chứ không phải là sự thất vọng, đối với cách xử sự của Việt Minh; Sainteny báo cho các vị khách của ông ta biết ông “sẽ theo dõi một cách cảnh giác” các hoạt động của cái gọi là Chính phủ Lâm thời và sẽ tự mình đánh giá công sức các nhân viên Chính phủ đó trong việc cai trị Đông Dương sau chiến tranh. Tôi e rằng Giáp có thể hiên ngang bước ra khỏi phòng bất cứ lúc nào, nhưng ông đã không làm như vậy. Bằng một thứ tiếng Pháp hoàn hảo, với một sự tự kiềm chế tuyệt đối, Giáp nói ông đến đây không phải để nghe diễn thuyết, cũng chẳng phải để biện minh cho các hoạt động của nhân dân Việt Nam và ông đến là theo lời mời của người mà ông cho là đại diện của “Chính phủ Pháp mới”, do đó ông sẵn sàng tham gia một “cuộc trao đổi quan điểm” thân mật. 

Lần đầu tiên trong đời mình, Sainteny đã gặp mặt đối mặt với một người Việt Nam đã dám dũng cảm đương đầu với một người Pháp. Thái độ Sainteny nhụt hẳn đi. Với một nụ cười hoà giải, ông tuyên bố ông là đại diện cá nhân của tướng De Gaulle. Trước hết ông muốn báo cho dân chúng Việt Nam biết Pháp hiện nay là “một nước độc lập và tự do”, các “lề thói cũ” sẽ được loại bỏ, tất cả những người Pháp xấu sẽ bị cho về nước và người “An Nam” sẽ được ban nhận nhiều yêu sách của mình. Trong thâm tâm, tôi nhớ lại là Sainteny đã thú nhận với tôi ở Côn Minh rằng ông chẳng nhận được chỉ thị gì của Chính phủ cả, nhưng ông vẫn hy vọng đạt được một tạm ước Pháp - Việt trong lúc giao thời. Một cái gì đó trong lời phát biểu của Sainteny chắc đã gãi đúng chỗ ngứa. Giáp đã không hoàn toàn bỏ qua thái độ hoà giải của đối phương. 

Những những tiếng mơ hồ về tự do cho “người An Nam”, một danh từ đáng ghét của thực dân Pháp hình như đã làm ông bối rối. Giáp yêu cầu phải nói chính xác, như trước đây ông Hồ đã từng đòi hỏi Pháp vào tháng 7, nhưng Sainteny đã trả lời là họ sẽ “vạch ra chi tiết cụ thể, ngay sau khi Nhật và Trung Quốc rút đi”. Giáp không thoả mãn và vẫn yêu cầu là phải cụ thể. Nhưng Sainteny một lần nữa lại vẫn lao vào những lời chung chung. Giáp ngồi phớt lạnh. Ông không hề xúc động trước những lời hứa mơ hồ. Trước thái độ không lay chuyển được của Giáp, Sainteny cũng quay lại đường lối cứng rắn của mình. Tôi đã cảm thấy khó xử trong không khí căng thẳng nặng nề, thiếu tin cậy và chống đối nhau.


Cả Giáp và Hiền đều tỏ ra không muốn nhân nhượng để cho Pháp có tiếng nói về tương lai của Việt Nam. Để nhằm thuyết phục họ rằng đường nào rồi Đông Dương cũng phải chịu chấp nhận sự đô hộ của nước ngoài, Sainteny đã phịa ra rằng chính những hành động không khôn ngoan của Việt Minh đã đưa tới tình hình không thể chịu đựng nổi hiện tại. Các nước Đồng minh thấy Việt Minh chống đối với Pháp, nên ở Postdam đã quyết định để cho Trung Quốc tước vũ khí quân Nhật; điều đó sẽ mang lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người Đông Dương mà Giáp chắc đã biết quá rõ kinh nghiệm lịch sử, là một khi người Trung Quốc đã vào Đông Dương thì cũng phải còn rất lâu họ mới lui về. Cái kiểu lập luận này hình như có tác dụng nên Sainteny càng đi tới. Việc chiếm đóng của Trung Quốc chỉ có nghĩa là kiệt quệ về kinh tế, rối loạn xã hội và một sự hoàn toàn mất tự do. Giáp và Hiền nhìn tôi chờ một sự xác nhận; với một vẻ thoả mãn, Sainteny cũng yêu cầu tôi chứng nhận cho lời phát biểu của ông.


 Tôi nhắc lại điều mà tôi đã nói với họ từ hôm trước, Trung Quốc sẽ tiếp nhận sự đầu hàng Nhật ở phía bắc vĩ tuyến 16, còn Anh ở phía nam, và nhấn mạnh vào điều mà tôi hiểu là người Trung Quốc không có ý định ở lại Đông Dương lâu quá thời gian cần thiết để hồi hương quân Nhật. “Thế là bao lâu?”, Sainteny hỏi sâu vào vấn đề. Giáp tỏ ra lúng túng một lúc nhưng trở lại điềm tĩnh ngay, nói đây không phải là lần đầu tiên người Trung Quốc đến Đông Dương và họ sẽ không ở lại lâu. Không thấy cái lạc quan còn chập chờn của Giáp, Sainteny tiếp tục bằng một giọng chắc nịch rằng trong khi chờ đợi thì tính mệnh của mọi người Pháp phải được bảo toàn “bằng bất cứ giá nào” và “Chính phủ Lâm thời An Nam phải chịu trách nhiệm về vấn đề này”. Ông nói, Chính phủ Pháp mong muốn Chính phủ Lâm thời yêu cầu các nhà chức trách Đồng minh có biện pháp ngăn chặn không cho quân dội Trung Quốc tiến vào các thành phố có đông người Âu sống như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Huế, và các nơi đó sẽ được các nhân viên Pháp - Việt trông nom.

Chẳng ai có thể nói được đây là một thủ đoạn có tính toán của Sainteny hay là một lỗi lầm thô thiển, nhưng con người sắc xảo của Giáp đã ghi nhận được ngay. Như thế là người đại diện của De Gaulle đã công nhận “Chính phủ Lâm thời An Nam” là một cơ cấu có trách nhiệm, Sainteny đã yêu cầu Chính phủ Lâm thời thay Pháp nói chuyện với các nhà chức trách Đồng minh. Giáp đáp lại ngay là không cần quấy rầy đến Đồng minh về các vấn đề này làm gì; Chính phủ ông sẽ xem xét tới việc không để cho người Pháp sẽ bị quấy nhiễu. Bị thua điểm, Sainteny buồn ra mặt nhưng tự trấn tĩnh được và liền thay đổi ngón chơi bằng cách gợi ý cho đây chỉ là một câu chuyện nội bộ trong gia đình, họ có thể giải quyết được mọi sự xung đột nếu họ cùng làm việc với nhau, như họ đã từng làm trước đây vì lợi ích chung của cả hai bên; một sự liên minh Pháp - Việt có thể sẽ là một giải pháp cho mọi vấn đề. Giáp đã quyết định chấm dứt cái trò chơi đố chữ này. Cười một cách hết sức nhạt nhẽo, ông nói “mọi việc đều có thể”. Sau một vài nhận xét không đâu vào đâu, Giáp nói ông còn phải đi duyệt các đơn vị bộ đội mới tới, rồi qua những câu vui đùa hời hợt, những cái bắt tay và nụ cười giả tạo, Giáp và Hiền rời dinh Toàn quyền. Sau khi họ đi khỏi, Sainteny tỏ ra hài lòng với mình: Điều nhận xét lúc đó ông nói với tôi là ông đã thuyết phục được các vị khách của ông bỏ cái “tính tự phụ trẻ con” định xoay xở sống mà không có Pháp. Ông đã không thấy được chút nào là ông đã đụng đầu ngay với một người mà sau này đã được ghi nhận trong lịch sử bằng việc làm tan rã một cách cơ bản đế quốc thuộc địa Pháp ở Viễn Đông.

MỘT VIỆC MUA CHUỘC NGƯỜI MỸ CỦA PHÁP

Tôi nán ở lại một lúc, nhưng cũng chỉ là để nhận được một điều bất ngờ đáng tởm. Người phục vụ mang cà phê và bánh tới, chúng tôi chuyện trò về bộ đội Việt Nam mới tới và phán đoán về ảnh hưởng về sự có mặt của họ trong thành phố. Sainteny tỏ vẻ bực tức. Nhưng, hoàn toàn bất ngờ, với một giọng nói rất tin cậy cứ như là chúng tôi âm mưu với nhau, ông báo cho tôi biết: “Chính phủ Pháp đã chuẩn bị mở một ngân sách 5 tỷ đồng quan Pháp để chỉ dành riêng cho người Mỹ đầu tư vào Đông Dương, và tôi(1) muốn biết nên tiếp xúc với ai về vấn đề này để có thể xúc tiến việc thương lượng”. Ông còn nói cần phải giữ hết sức bí mật. Tôi nổi điên lên và cứng miệng không sao trả lời được…Cuối cùng, tôi nói là sẽ chuyển vấn đề này cho Trùng Khánh, và tôi đã điện ngay tối hôm đó. Như tôi biết thì sau đó tôi nhận được trả lời của Heppner bảo cho tôi phải tránh xa mọi hoạt động nhằm hối lộ các quan chức Mỹ.

Và cũng chẳng ai đã dính đến vụ mua chuộc này của Pháp. Đó cũng chỉ là một thủ đoạn vô liêm sỉ và trắng trợn của Pháp, nhưng chỉ vài tuần sau, Pháp lại tố cáo Hồ Chí Minh đã mưu tính mua chuộc tôi và những người Mỹ khác ở Đông Dương. Trước khi tôi rời khỏi Dinh, Sainteny vẫn sảng khoái nói với tôi về việc thiết lập một “Ban tâm lý chiến có quy mô toàn quốc”. Ông dự định cộng tác với người Việt Nam ở đài Bạch Mai để tuyên truyền… Tôi cho đó là một điều không thể được, nhưng không nói gì. Sainteny còn có một yêu cầu. Ông muốn tôi báo cho “Uỷ ban Đình chiến” (tôi cho ông muốn nói đến các nhà chức trách Đồng minh) là Chính phủ Pháp (có nghĩa là cả bản thân ông) mong muốn cho chuyên chở các phụ nữ và trẻ em Pháp tới các địa điểm ở nam vĩ tuyến 16 để tránh các sự không may trong khi Trung Quốc chiếm đóng và yêu cầu cho tổ chức một lực lượng cảnh sát Pháp để duy trì trật tự và luật pháp ở Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Huế. Đã có nhiều lần ông đã nói riêng với tôi rằng các toán trước đây do OSS trang bị cần tạm thời được sử dụng làm lực lượng cảnh sát. Về việc ông ta lại gợi ý muốn tổ chức một lực lượng cảnh sát Pháp, tôi thừa hiểu mục đích của ông ta chỉ là muốn sử dụng họ làm một lực lượng đi trước cho đội quân của Leclerc đang có tin đồn là đã lên đường sang Đông Dương, những tin đồn được đài phát thanh Delhi tung ra một cách rộng rãi làm cho người Việt Nam và đặc biệt là Việt Minh lo ngại. Với điều thất vọng quá rõ ràng này về Sainteny, tôi cáo lỗi và trở về nhà Gauthier, trong một tâm trạng khó chịu. Chú thích: (1) tức Sainteny Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #56 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 09:31:27 AM »


 Chương 22
 Gấp rút tiến hành tổ chức cuộc đầu hàng  

NGƯỜI NHẬT ĐƯỢC GỌI ĐẾN TRUNG QUỐC

  Việc chậm không nhận được chỉ thị cho xúc tiến cuộc đầu hàng đã gây ra nhiều vấn đề không dự kiến trước được. Người Nhật thì lo lắng, nhất là đối với tin quân Trung Quốc sẽ tới và nắm quyền kiểm soát. Đã qua 2 tuần, sau khi có tin đầu hàng từ Tokyo, nhiều quân nhân Nhật đã tự do bỏ đi, trà trộn vào quần chúng, gây rối ren thêm cho trật tự xã hội… Sự vắng mặt kéo dài của quân đội Đồng minh đã không nâng cao được uy tín của Đồng minh trước con mắt những phần tử không có thiện cảm. Bọn tay sai của Hiến binh ra sức tuyên truyền chống lại người da trắng, đặc biệt trong những người Cao Đài và Hoà Hảo… Nhưng đến ngày 27-8 tôi nhận được tin của người Trung Quốc ở Khai Viễn(1) yêu cầu cho họ đặt đường dây liên lạc vô tuyến với Nhật ở Hà Nội. Đoán trước về cuộc hành quân sắp tới của Trung Quốc, Tsuchihashi lo ngại có khả năng xảy ra xung đột giữa quân đội của ông với Trung Quốc.


 Ông điện báo cho Bộ chỉ huy Trung Quốc ở Khai Viễn và yêu cầu được cho biết về những đường mà quân Trung Quốc sẽ đi để ông cho rút quân Nhật về gần Hà Nội và ra ngoài các đường tiến quân của Trung Quốc. Ngày hôm sau chúng tôi nhận được chỉ thị tiến hành thương lượng sơ bộ. Chỉ thị gửi cho Tư lệnh Nhật ở Hà Nội, nhưng điều đáng ngạc nhiên nhất là chỉ thị lại do Lư Hán ký. Viên tướng Vân Nam này sẽ tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật thay vì viên tướng thân tín của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) là Trương Phát Khuê.


Việc chỉ định Lư Hán đã báo trước một cách rõ ràng là sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cho người Pháp và Việt Nam. Điều đó cũng giải thích được những ý trong bức điện tôi nhận ngày hôm trước về các vấn đề tù binh, giao thông liên lạc… Côn Minh muốn cho tôi hay là sẽ có dấu hiệu về một sự thay đổi, nên trong điện viết “Tạm thời ít nhất người Trung Quốc không muốn, nhắc lại “không”, cho người Pháp tiến vào Đông Dương. Một số phân đội Trung Quốc ngày 28-8 đã tiến vào Hà Giang và Bắc Quang”.

Sự nghi ngờ của tôi về mưu mô của người Trung Quốc đã được khẳng định. Qua việc Lư Hán đảm nhiệm các chiến dịch ở Đông Dương, Tưởng Giới Thạch muốn nắm chắc được việc Pháp phải nhân nhượng trong cuộc điều đình về quyền lợi của Pháp ở Trung Quốc: Như đã biết, từ cú 9-3, Tưởng chủ trương một chính sách không tuyên bố nhằm gạt Pháp ra ngoài các vấn đề Đông Dương. Ông đã từ chối không cung cấp vũ khí và không để họ trở lại thuộc địa cũ của họ. Bây giờ đội quân của Alessandri bị cầm chân lại ở phía nam Trung Quốc, chính vì Tưởng có ý định sử dụng việc chiếm đóng làm một phương tiện ép Pháp phải chấp nhận các điều kiện của ông. Cái nhiệm vụ không hay ho đó đã được giao cho con người nổi tiếng chống Pháp là Lư Hán. Sự lựa chọn đã làm cho người Pháp phát khiếp, nhưng Trung Quốc lại cho đó là một thủ đoạn có tính toán khôn ngoan. Lư Hán đã hoan nghênh vì có được dịp may để kiếm chác, đồng thời lại thanh toán được một vấn đề lưu cữu từ trước.

 Mối thù cá nhân của ông đối với người Pháp nói chung và với Alessandri nói riêng, bắt nguồn từ một sự việc xảy ra trong năm 1940, sau khi Nhật chiếm Đông Dương. Với sự cộng tác của Pháp, Nhật đã chặn những con đường thương mại buôn lậu cổ truyền của Trung Quốc với Đông Nam Á. Thống đốc Long Vân và tướng Lư Hán có lợi lớn trong việc giữ cho các con đường này được thông suốt, nên họ đã tìm gặp tướng Martin, chỉ huy quân Pháp ở đây, để thu xếp một sự thoả thuận sao cho các bên đều có lợi. Lư Hán là người đứng ra điều đình trong vụ này; ông đã đến Hà Nội để gặp Alessandri, lúc đó là tham mưu trưởng của Martin, nhưng đã được tiếp đón một cách khá lạnh nhạt. Do đó người Trung Quốc cho Alessandri là người chống đối chủ yếu với đề nghị của Lư Hán và Lư Hán đã không bao giò quên Alessandrỉ cũng như người Pháp. …

 Trên đầu bảng chì thị có ghi rõ: “Theo lệnh Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tư lệnh tối cao Chiến trường Trung Quốc, qua tướng Hà Ứng Khâm; Tư lệnh dã chiến Trung Quốc, Lư Hán, Tổng chỉ huy Đệ nhất chiến khu Lục quân Trung Quốc, được chỉ định làm đại diện cho Thống chế để tiến hành thương lượng và tiếp nhận việc đầu hàng sắp tới”.


Bản chỉ thị còn báo cho Nhật gửi một phái đoàn nhỏ gồm một đại diện, hai trợ lý và một phiên dịch đến Mông Tự, một thành phố cổ ở sâu trong miền đông nam Vân Nam, vào ngày 31-8. Hiển nhiên là Tưởng không muốn bị áp đảo bởi số đông và cấp bậc người Nhật. Họ cũng chẳng muốn đề cao sự việc bằng cách tiếp đón phái đoàn ở thủ đô Côn Minh để Long Vân có thể tham dự, hoặc ở Trùng Khánh mà ở đó Nhật có thể có bề thế hơn. Phi cơ chở phái đoàn phải được sơn một chữ thập xám ở cánh và thân máy bay. Khi tôi báo cho Tsuchihashi, ông tỏ vẻ ngạc nhiên vì địa điểm được lựa chọn lại không phải là Trùng Khánh. Tôi giải thích đây chỉ là một cuộc gặp gỡ sơ bộ, chưa ai biết là địa điểm tổ chức cuộc đầu hàng sẽ ở đâu.

Tsuchihashi yên tâm, nói sẽ thành lập đoàn và trả lời tôi vào ngày hôm sau. Tôi nêu lại vấn đề tù binh, nhu cầu tiếp tế thuốc men và dịch vụ cho họ. Tsuchihashi đã có lệnh cho cải tiến công tác và tăng thêm một số y bác sĩ nhưng lại lúng túng thú nhận rằng các nhà chức trách Nhật đã không có tiền để chi cho các nhu cầu mới này. Thực tế là tôi đã nhận được nhiều kiến nghị của quan chức Ngân hàng Đông Dương báo cho biết 18 ngày trước đó, Nhật đã rút ra một khoản 60 triệu đồng Đông Dương(2) nên họ đã yêu cầu các nhà chức trách Đồng minh hướng dẫn cho biết phải làm gì nếu như người Nhật lại đòi hỏi nũa.

Nhưng Côn Minh đã chỉ thị cho tôi: “Không làm gì cả. Việc đó do ngân hàng giải quyết”. Ấy thế mà Tsuchihashi lại kêu không có tiền mua thuốc nên tôi đã nói thẳng là khoản tiền thuốc không thấm vào đâu so với số tiền lớn mà Nhật đã rút ra 18 ngày trước đây. Ông tỏ vẻ sửng sốt thực sự. Nhưng tôi cũng chẳng cần biết là bộ chỉ huy của ông hay một ngành dân sự nào khác của Chính phủ Nhật đã nhúng tay vào những vụ này nên đã báo cho ông hay là Ngân hàng Yokohama Species ở Hà Nội mà Nhật có tài khoản, vẫn còn tiếp tục hoạt động(3).

Tsuchihashi đã trấn tĩnh lại và hứa sẽ giải quyết các nhu cầu của tù binh. Tsuchihashi lại nhấn mạnh là thuốc tốt và đặc hiệu không có ở Đông Dương, gợi ý để người Trung Quốc cung cấp rồi Nhật trả tiền. Tôi đồng ý sẽ xem xét vấn đề này… Sau đó, Tsuchihashi nêu lên việc người Pháp ở dinh Toàn quyền. Ông cho biết họ thường xuyên liên lạc với những phần tử khiên khích để gây rối loạn trong thành phố. Ông yêu cầu tôi sử dụng quyền hành của mình để giữ số này lại cho tới khi “Uỷ ban Đình chiến” tới. Tôi đòi hỏi có chứng cứ, và Tsuchihashi nói là Imai có thể cung cấp đủ. Nhưng tôi đã bỏ rơi vấn đề này, vì không thể đặt Mỹ vào địa vị cảnh sát đối với người Pháp và cũng không muốn dính vào việc duy trì trật tự công cộng. Đó vẫn thuộc trách nhiệm người Nhật.

 Chiều tối hôm đó, Imai mang lại cho tôi một bức điện do Sài Gòn thu được, coi như điện của người Pháp ở Hà Nội gửi cho SLFEO/Calcutta nói về việc Đồng minh đã làm thất bại các mục tiêu của Pháp ở Đông Dương và yêu cầu Paris phải có hành động ở cấp ngoại giao. Đó hoàn toàn có thể là một bức điện bình thường của Sainteny gửi khi ông không giành được thắng lợi trong nhiệm vụ của mình(4). Nhưng mặt khác, cũng có khả năng bức điện đó do Nhật gửi đi với ý đồ tạo ra một vết rạn nứt giữa Pháp và Mỹ. Nếu đúng như vậy thì thực họ chẳng biết gì về việc Sainteny đã nhiều lần điên đầu với Đồng minh vì họ đã từ chối không cung cấp vũ khí cho Pháp và để Pháp chiếm lại Đông Dương. Chẳng ai có thể biết được là thế nào.


 Nhưng tôi cũng đã cảm ơn Imai và không bình luận gì thêm. Sáng hôm sau, Imai báo cho tôi danh sách phái đoàn Nhật(5). Tôi ngạc nhiên thấy đại uý hải quân Imai, mới đây được gọi là đại uý Imai, rồi ông Imai, đã được ghi trong danh sách đoàn là “phiên dịch”. Tôi cho rằng Imai có thể là một đoàn viên. Imai yêu cầu tôi chuyển cho người Trung Quốc biết tướng Tsuchihashi không có sẵn phi cơ, trong hai ngày còn lại trước hội nghị thì không đủ để kiếm được một chiếc và chuẩn bị sơn ký hiệu như đã yêu cầu. Do đó, tướng Tsuchihashi “trịnh trọng yêu cầu” gửi một phi cơ Mỹ sang Hà Nội cho phái đoàn sử dụng, và như thế mới kịp thời gian. Imai cũng mang tới bảng kê khai nhu cầu thuốc thang cho tù binh. Tôi báo cho Khai Viễn và được trả lời là Nhật phải tự giải quyết lấy vấn đề máy bay(6). Cuối cùng thì Tsuchihashi cũng kiếm được một chiếc phi cơ ở Sài Gòn. Nhưng đến phút chót, người Trung Quốc lại hoãn cuộc họp tới ngày 2-9. Khi máy bay Nhật bay tới không phận Lào Cai, có bốn phi cơ chiến đấu Mỹ đón và hộ tống tới Mông Tự. Từ Mông Tự, phái đoàn được một phi cơ L-5 của Mỹ chở tới Khai Viễn để dự hội nghị. Ngày 31-8 tôi cũng nhận được thông báo là địa điểm chính thức tổ chức lễ đầu hàng sẽ là Hà Nội, còn thời gian sẽ định sau khi phái đoàn ở Khai Viễn về.



Chú thích: (1) Thị trấn ở phía nam Côn Minh khoảng 100 dặm, nơi đóng Bộ tư lệnh Đệ nhất chiến khu của tướng Lư Hán. (2) Lần thứ nhất, ngày 10-8, 21 triệu; lần thức hai, vài ngày sau, 29 triệu; lần thứ ba, mấy ngày trước khi tôi thảo luận với Tsuchihashi, định rút 30 triệu, nhưng chỉ thực hiện được 10 triệu. (3) ở phố Paul Bert (4) Đó chính là bức điện của Sainteny gửi cho SLFEO/Calcutta mà mấy năm sau Sainteny đã nhắc lại nguyên văn trong hồi ký. (5) Phái đoàn gồm trung tá Sakai, các sĩ quan tham mưu, thiếu tá Miyoshi, đại uý Takahashi và ông Imai, phiên dịch. (6) Điều khó khăn thêm là phải có chiếc phi cơ có sơn ký hiệu màu này. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #57 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 09:34:36 AM »

 TRÙNG KHÁNH CHUẨN BỊ THANH TOÁN 

 Ngày 28-8, những bộ phận đầu tiên của quân đội Vân Nam của “Long Vân”(7) nhung nhúc kéo qua biên giới Đông Dương như một bầy châu chấu lớn. Chúng đi riêng, không có người Pháp và bộ đội tinh nhuệ của Trương Phát Khuê đi cùng, và thành phần của đội quân chiếm đóng này thật đáng nghi ngờ. Đó là một mớ lẫn lộn các đơn vị Vân Nam và Quảng Tây(Cool. Điều cũng làm cho người ta ngạc nhiên là việc chỉ định một tướng Quảng Tây, Tiêu Văn(9), đóng hai vai phó tư lệnh và cố vấn chính trị cho Lư Hán. Toàn bộ cơ cấu chiếm đóng rất kỳ quặc.


Rõ ràng là Lư Hán không được Quốc dân Đảng (Trung Quốc) tín nhiệm hoàn toàn và Tiêu Văn đã được trao nhiệm vụ phải cảnh giác đối với Lư Hán để bảo đảm giữ quyền lợi cho Trùng Khánh. Tin tức quân Trung Quốc đi qua biên giới đã gây cho người Việt cũng như người Pháp lo lắng và tức giận. Sainteny, Giáp và cả Mai đều tìm hỏi tin tức và xác định thực sự. Tôi cung cấp được rất ít. Không phải cho đến khi nhận được bản thông báo của OSS tôi mới ý thức tất cả những sự rối rắm về chính trị trong các quyết định đã được đưa ra ở Trùng Khánh. Không còn Nhật để làm vật cản đường, nên mối đe doạ của Cộng sản từ Diên An tiến ra đã trở thành điều quan tâm chủ yếu phải đối phó của Quốc dân Đảng (Trung Quốc).


Nhiều vùng rộng lớn trước đây do Nhật chiếm đóng, nay đã trở thành miếng mồi ngon cho Xô viết và Cộng sản Trung Quốc xâm nhập. Tưởng phải đảm bảo nhanh chóng và thực sự kiểm soát được các vùng này bằng cách cho triển khai lực những đội quân thiện chiến và trung thành nhất của họ ở các trung tâm then chốt: Quảng Châu, Áo Môn, Hán Khẩu, Thượng Hải, Thiên Tân và các nơi khác. Tưởng cũng còn muốn duy trì vị trí thứ tư của họ trong “năm cường quốc” sau chiến tranh, như Tổng thống Roosevelt đã đề ra. Pháp phải ở thứ năm. Hơn nữa, vị trí đứng trên Pháp của họ, đã được khẳng định ở Postdam, khi họ được cử là người duy nhất đứng ra tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật trên Chiến trường Trung Quốc, bao gồm cả miền bắc Đông Dương.


Tưởng cũng nhanh chóng nhận thức được thuận lợi do vai trò cường quốc quốc tế của ông sẽ mang lại cho Trung Quốc trong việc chiếm đóng Đông Dương; đó chính là việc ép Pháp phải chấp nhận các điều kiện của ông để giải quyết cuộc xung đột của họ trước khi Pháp muốn quay trở lại thuộc địa cũ của mình. Ở phía Nam Trung Quốc, Tưởng chỉ có lực lượng là các đơn vị của Đệ nhất Chiến khu ở Vân Nam thuộc quyền Lư Hán và các đơn vị của Đệ tứ Chiến khu ở Quảng Tây và Quảng Đông, dưới quyền của Trương Phát Khuê.

Trong hai đội quân thì Đệ tứ Chiến khu được trang bị và huấn luyện tốt hơn và trung thành hơn hết đối với Chính phủ Quốc dân Đảng. Nhưng Tưởng đã sử dụng lực lượng Đệ tứ Chiến khu vào nhiệm vụ chiếm đóng Quảng Châu và cử Trương tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở đấy. Lực lượng Đệ nhất Chiến khu sẽ được dùng tốt hơn ở Đông Dương và Lư Hán phải đại diện cho Tưởng trong công việc đối với Pháp và Nhật. Nhưng bên cạnh ông ta sẽ có Tiêu Văn để thực hiện một cách đầy đủ các chính sách chính trị đối với người Việt Nam. Trong những năm chiến tranh ở Trung Quốc (1935-1945), có hai lần, viên Thống đốc độc nhãn quân phiệt Vân Nam, Long Vân, đã giữ một thái độ nước đôi đối với những người Cộng sản; lần đầu vào tháng 3-1935 trên sông Trường Sa, khi Mao Trạch Đông dứ đánh vào Côn Minh; và trong những năm gần đây, khi Long Vân cho người Việt, Ấn Độ, Triều Tiên và những người Quốc gia khác hệ với Cộng sản được cư trú. 

Tham lam, xảo quyệt, tàn nhẫn, Long Vân đã thống trị Vân Nam một cách hà khắc từ năm 1927 và đã thu nhặt được một tài sản khá lớn trong việc buôn bán các hàng viện trợ Mỹ, thuốc phiện và các vật liệu chiến lược hiếm từ các nguồn của Pháp và Nhật. Ông cho phát hành giấy bạc riêng, duy trì một đội quân riêng để bảo vệ các khu vực rộng lớn trồng cây thuốc phiện của ông, dọc theo hành lang biên giói ở tây bắc các tỉnh Vân Nam và Tứ Xuyên, và cho các con ông chặn đường cướp liên tục các đồ hàng viện trợ Vay-Mượn của Mỹ như vũ khí, trang bị, khẩu phần thức ăn trên đường vận chuyển từ Miến Điện tới Côn Minh(10).

 Có lúc, vào đầu năm 1945 ông đã có đủ quyền lực để doạ bắt Quốc dân Đảng phải chia thêm “phần” cho ông trong số hàng tiếp tế viện trợ của Mỹ được chuyển qua tỉnh của ông. Ông còn đi xa hơn nữa bằng cách đe doạ Trùng Khánh, sẽ tịch thu tất cả của cải và đồ tiếp tế của Quốc dân Đảng và Mỹ ở Vân Nam, nếu như các yêu sách của ông không được thoả mãn. Để điều được viên thống đốc quấy nhiễu này ra khỏi khu căn cứ của ông ta ở Côn Minh, Quốc dân Đảng đã mưu mô dử vào lòng tham của Long Vân. 

Ngay trước khi Nhật đầu hàng, Tưởng đã hứa cho ông được có “đặc quyền chiếm đóng Đông Dương” một khi quân Nhật bại trận, nhưng với điều kiện phải thôi không được yêu sách về các đồ tiếp tế viện trợ. Vào giữa tháng 8, Long Vân chấp nhận đề nghị trên, cử cháu và là người cộng tác tin cẩn của ông ta, tướng Lư Hán, thay mặt làm đại diện cho Thống chế để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật ở Đông Dương, nhưng với điều khoản là thời gian chiếm đóng “không có hạn định”. Cuộc dàn xếp cũng đáp ứng được quyền lợi của Lư Hán; ông này trong những năm chiến tranh, đã hợp tác với ông chú thống dốc trong một vụ buôn lậu có lãi với tập đoàn quân thứ 6 của Nhật(11). Quốc dân Đảng đã thấy trước là cơ hội để có thể chiếm đoạt lớn ở Đông Dương sẽ làm cho tướng Long Vân không thể cưỡng lại được và do đó sẽ làm cho ông ta không còn dựa được vào sự bảo vệ của những đội quân trung thành với ông vì họ đã hành quân tiến vào Đông Dương. 

Như thế là việc bố trí để trừ khử Long Vân đã được dàn dựng xong. Đến đó, qua một loạt các hành động khá sâu sắc, thấy được Quốc dân Đảng đã đạt mục tiêu số một cho việc chống lại các lực lượng của Mao, thứ hai là ép buộc Pháp phải chấp nhận các điều khoản về kinh tế của họ, thứ ba là việc thủ tiêu Long Vân, và ưu tiên thứ tư là bòn rút Đông Dương được càng nhiều càng tốt. Trong khi tướng Tsuchihashi và tôi bực dọc về việc hoãn chưa xúc tiến việc thương lượng đầu hàng, thì các tướng Hà Ứng Khâm, Tu Yu Minh(12),


Tiêu Văn và Bác sĩ K.C. Wu(13) còn đang bận để chuẩn bị giáng cho Thống đốc Vân Nam và chính phủ Pháp một đòn chí tử. Cũng trong ngày quân của Lư Hán vượt qua biên giới, Hà Ứng Khâm ra lệnh cho quân Pháp ở Trung Quốc tập trung về Mông Tự và “chờ lệnh mới”. Ở Trùng Khánh, bắt đầu tiến hành việc thương lượng giữa Bộ ngoại giao Trung Quốc và đại diện ngoại giao Pháp về những yêu sách của Pháp ở Trung Quốc. Cũng trong thời gian đó, tướng Tu Yu Minh ở Côn Minh, chuẩn bị cú đảo chính chống Long Vân. Ở Hà Nội, tin quân Trung Quốc vượt qua biên giới đã được báo cho Hồ Chí Minh ngay, và Giáp đã đến gặp tôi, xúc động, với nhiều tin tức nóng hổi hơn tôi có lúc đó. Những cửa khẩu biên giới đã điện báo cho ông về việc quân đội “Vân Nam” tới( ), nhưng điều làm cho người Việt lo ngại không phải là bản thân việc vượt qua biên giới. Giáp đã nói với tôi rằng theo chỗ ông biết thì đội quân này là “một đội quân tham nhũng và vô kỷ luật nhất trong tất cả các đội quân của Trung Quốc”. 

Ông tỏ ra lo ngại rằng những người Trung Quốc này sẽ tìm cách lật đổ Chính phủ Lâm thời và dựng lên một chế độ thân Trung Quốc. Không biết rõ tình hình ở Trung Quốc, Giáp đã chê trách Hà Ứng Khâm về việc lựa chọn những người Vân Nam. Ông cho tướng Hà là “một người chống Cộng khét tiếng và tay sai của Tưởng Giới Thạch,” nhất quyết tiêu diệt phong trào Việt Minh và sát nhập bắc Việt NamNam” (Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và một số khác) để hòng nắm chính quyền ở Việt Nam sau thời kỳ chiến tranh. Ông mô tả họ như những tên đã bỏ xứ sở mà đi và không có liên hệ gì với phong trào cách mạng trong nước; họ tự kêu mình là những người yêu nước phụng sự cho Chủ nghĩa Quốc gia, nhưng thực tế chỉ là “một nhóm phản động đang ra sức thu vén làm giàu cho bản thân”, nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc. vào Trung Quốc. 

Để cho tôi tin, Giáp nói là Quốc dân Đảng đã tô vẽ cho nhiều “tên phản bội Việt Giáp rất lo lắng muốn qua tôi để biết xem người Mỹ có hay bọn chúng đang làm gì không. Vấn đề này, với những lý do khác, cũng đã được Sainteny nhiều lần đặt ra để hỏi tôi. Tôi giải thích cho Giáp là Mỹ không có trách nhiệm trong việc lựa chọn người cũng như việc kiểm soát quân đội Trung Quốc; thực tế là toàn bộ việc đầu hàng và chiếm đóng đều thuộc thẩm quyền duy nhất của Tưởng Giới Thạch. Nhìn thẳng vào tôi, Giáp hỏi thế tôi không tham dự vào việc thu xếp cho việc đầu hàng. Ông muốn rõ tại sao đối với tôi, một đại diện Mỹ đang thu xếp các vấn đề này mà lại không có trách nhiệm gì trước những việc đang xảy ra. 

Một lần nữa, tôi lại phải nêu lên là tôi không tham gia vào trong quá trình làm ra các quyết định, vạch ra các điều khoản thương lượng, đặt các thể thức đầu hàng, mà tôi chỉ hoạt động trong nhiệm vụ truyền đạt. Giáp lắc đầu, không tin và bực mình, ông nói ông hy vọng mọi việc sẽ chuyển thành tốt. Trở lại câu chuyện quân Trung Quốc “nam tiến”, Giáp tỏ ra chú ý đến việc Lư Hán có thể kéo theo một số phần tử Việt Nam đáng tởm đi cùng. Ông gợi ý tôi nhắc lại cho các nước Đồng minh biết Chính phủ Lâm thời đang tồn tại ở Việt Nam và đang trông chờ sự công nhận của các nước đó. Tôi chỉ có thể đáp lại được rằng các nhà chức trách ở Côn Minh và Trùng Khánh đã được biết về sự tồn tại của Chính phủ Lâm thời, còn vấn đề công nhận chính thức thì phải chờ tình hình sau khi đầu hàng. 

Sau khi Giáp về, tôi không thể không nghĩ rằng trong khi việc quân Trung Quốc và bọn bù nhìn Việt Nam đi theo chúng vào nước, thể hiện là mối đe doạ gần nhất và dễ thấy nhất đối với Chính phủ Lâm thời, thì mối đe doạ nguy hiểm nhất đối với họ chính là ở Trùng Khánh. Ở đó Quốc dân Đảng và đại diện Pháp đang mặc cả chia nhau chiến lợi phẩm. Ở đó, người Việt Nam, cùng như Pháp trước đây ở Postdam, đã không có tiếng nói nào. 

Cả Pháp và Trung Quốc đều đã không bị làm nhụt chí vì một việc không chắc là có các nước khác lên tiếng công nhận chính phủ Việt Nam non trẻ Hà Nội. Chú thích (7) Dân chúng gọi là “Thống đốc Long Vân” (Cool Quân đội của Lư Hán gồm các Tập đoàn quân Vân Nam số 60 và 93, các Tập đoàn quân Quốc dân Đảng Quảng Tây 53 và 62, các Sư đoàn độc lập tăng cường là 23, 39 và 93, Sư đoàn danh dự số 2 (thuộc Tập đoàn quân 52, Phương diện quân IX) (9) Sinh năm 1890, quê ở Quảng Đông, phụ trách chính trị của Quốc dân Đảng Trung Quốc tai Đệ tứ chiến khu, Phó tư lệnh, phụ trách Ban Ngoại vụ (1943), cánh tay phải của tướng Trương Phát Khuê, được xem là một chuyên gia về vấn đề Việt Nam. Tháng 1-1944, Trương giao cho Tiêu việc theo dõi các hoạt động của Đồng minh Hội và gây dựng tinh thần Quốc dân Đảng trong người Việt Nam.

 Khi chiến tranh kết thúc, Tiêu được điều sang Hành di của Lư Hán (9-1945) ở Hà Nội, được trao cho nhiệm vụ trong coi quyền lợi của Trung Quốc ở Đông Dương, phụ trách Ban Hoa kiều Hải ngoại. Tiêu chống lại chính sách của ông Hồ và của Lư Hán về vấn đề vai trò của những người Quốc gia chống Việt Minh trong chính phủ của ông Hồ. Những năn sau đó, Tiêu có mắt liên lạc với Trung Cộng, trong đó có tướng Diệp Kiếm Anh (Yet Chien Ying), bạn của ông Hồ từ khi ở Diên An và tỏ ra có xu hướng trung tả. Do đó, năm 1950, được giao giữ chức cố vấn cấp thấp trong tỉnh Quảng Đông, dưới quyền tỉnh trưởng Diệp Kiếm Anh. (10) Ai cũng biết khi tôi còn ở Trung Quốc trong những năm 1944-1945, Long Vân đã cho cướp đoạt hàng ngàn xe Jeep Mỹ và rất nhiều lốp xe, để bán lại cho các chủ xe bò nhỏ, mà theo kinh nghiệm của tôi thì loại xe này đi rất êm. (11) 

Sau này, tướng Y. Okamura, Tư lệnh “Tập đoàn quân viễn chinh Trung Quốc” của Nhật đã xác nhận ông và Thống đốc Long Vân đã liên lạc với nhau trong thời kỳ chiến tranh. (12) Trước đây là chỉ huy Phương diện quân V (dự bị) dưới quyền tướng Stilwell trong chiến dịch Ấn Độ - Miến Điện, cuối năm 1946 được bổ nhiệim cầm đầu Bộ tư lệnh quân trù bị Trung Quốc ở Côn Minh (13) Thứ trưởng Bộ Ngoại giao của chính phủ Quốc dân Đảng Trung Quốc Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #58 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 09:41:16 AM »



Chương 23 
Những cuộc đàm luận 


ÔNG HỒ DỰ LIỆU TRƯỚC

Trên tờ danh thiếp cá nhân, ông Hồ ghi nguệch ngoạc mấy chữ ngắn gọn nhưng có vẻ thúc ép: “Nếu có thể được, cần đến gặp chúng tôi trước 12 giờ hôm nay. Hồ”.


 Tôi không nghĩ ra được ông muốn gặp tôi về vấn đề gì. Từ cuộc viếng thăm đầu tiên của chúng tôi đến ba ngày trước đó, có dư luận rất xôn xao chung quanh việc thành lập Chính phủ mới. Bản công bố chính thức chỉ nói giản đơn là ông Hồ sẽ đảm nhiệm chức vụ Thủ tướng(1) và Bộ trưởng Ngoại giao. Hồ Chí Minh? Ai vậy? Một số dân kỳ cựu nghi ông là “Nhà Cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc” nhưng cũng không chắc chắn. Các nhà báo có trực tiếp hỏi ông, nhưng ông Hồ chỉ làm tăng thêm điều bí ẩn khi ông trả lòi ông là một “nhà cách mạng” yêu nước và mong muốn cho nước nhà được tự do độc lập, thoát khỏi ách đô hộ của nước ngoài. Các nhân viên khác trong Chính phủ cũng được công chúng rất chú ý. Một số người đã được nghe nói về Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ và Phạm Văn Đồng, Bộ trưởng Tài chính(2). Trước khi cử hành lễ thoái vị của nhà vua, dự định vào ngày hôm sau 30-8, đài phát thanh Hà Nội đã đề cao vai trò của Bảo Đại là “Cố vấn tối cao” cho Chính phủ mới và tả ông là “người công dân bình thường Vĩnh Thuỵ” hoặc là ông Nguyễn Vĩnh Thuỵ. Người dân trung lưu Việt Nam thường có quan niệm Hoàng đế là “biểu tượng siêu phàm của sự hợp pháp” đối với Chính phủ mà họ ủng hộ. 

Ông Hồ nắm được đặc điểm này và khai thác nó một cách rất khéo. Do đó, ông đã hướng dẫn cho Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu trong công tác chính trị tâm lý phức tạp nhằm đáp ứng những yêu cầu tình cảm của mỗi giới xã hội, chính trị và tôn giáo trong xã hội Việt Nam. Điều đó lại càng thể hiện rõ trong việc Chính phủ Lâm thời bao gồm những người Công giáo, Xã hội, ôn hoà, và chỉ có một thiểu số đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Rõ ràng là Chính phủ mới đại diện cho một mặt trận dân chúng thực sự và lúc đó họ được nhân dân ủng hộ hoàn toàn. Hơn nữa, sự lãnh đạo cũng đã tự khẳng định được qua việc trật tự công cộng và các công cụ đều được duy trì tốt. Không có gián đoạn trong các ngành phục vụ công cộng và giao thông vận tải, buôn bán vẫn tiếp tục như thường lệ. Những cuộc biểu tình xảy ra gần như hàng ngày, không có bạo lực và cũng không trở ngại cho đời sống thành phố. Mọi người đều tỏ rất sung sướng trước sự chuyển biến của thời cuộc, cả nhiều người Pháp và đặc biệt là các nhà chức trách Nhật cũng thế. 

Nhưng tin tức lan truyền nói người Trung Quốc vượt qua biên giới đã gây ra lo sợ. Có lẽ chính vì thế mà ông Hồ có ý định muốn trao đổi với tôi. Ông Hồ đã cho một xe đón tôi đến ngôi nhà Hàng Ngang vào lúc 10 giờ 30. Trường Chinh dẫn tôi đến chỗ ông Hồ, ở đó thấy có nhiều người ra vào với một vẻ rất hân hoan và bận rộn tấp nập. Ông Hồ vào, vẫn ung dung và mỉm cười, ông giơ bàn tay gầy gò ra bắt chặt tay tôi và nói: “Tôi sợ có khi ông không nhận được thư của tôi. Tôi rất muốn trao đổi với ông về một số chủ trương và các kế hoạch tương lai của chúng tôi”. Trường Chinh kéo mấy cái ghế lại gần bàn và chúng tôi ngồi xuống đó. 

Ngoài cái dáng mảnh khảnh, ông Hồ có vẻ hoàn toàn mạnh khỏe, sôi nổi và thích nói nên đã kể ngay cho tôi nghe những tin tức mới về Huế. Ông đã nghe Trần Huy Liệu báo cáo về việc ông được Bảo Đại tiếp và đưa ra bản Tuyên bố thoái vị. Ngày hôm sau, Bảo Đại đã dọc bản Tuyên bố trước công chúng và trao ấn kiếm nhà vua cho phái đoàn của Chính phủ Lâm thời. Ông Hồ rất phấn khởi. Ông coi hành động cuối cùng này của nhà vua cũng là tàn dư cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và sụ mở đầu của một thời đại mới. 

Nhưng ông nói thêm, như tự nói với mình, có thể cuộc đấu tranh chưa phải đã hoàn toàn kết thúc, người Trung Quốc đang tới và người Pháp đã ở sẵn đây. “Ô, đúng, người Trung Quốc”, ông nhắc lại. Đã có báo cáo nói có xung đột nhỏ giữa người Trung Quốc và dân chúng ở Lào Cai và Hà Giang. Điều đó có thể cho ông biết được con đường mà người Trung Quốc sẽ đi chăng? Ông sẽ phái các đại diện của Chính phủ đến đón trước các đoàn quân Trung Quốc đang tiến để kiềm chế dân chúng địa phương nếu người Trung Quốc “ngỗ ngược” hay “quá hăm hở” để thu vét chiến lợi phẩm. Tôi nói với ông là người Nhật đã được báo tin và tôi đã chất vấn các nhà chức trách Trung Quốc nhưng họ chưa trả lời

Nết tôi nhận được tin gì mới, tôi sẽ vui lòng chuyển cho ông ngay. “Thế bao giờ thì Trương Phát Khuê tới?”, ông Hồ hỏi. “Tôi không rõ”, tôi đáp, “Trương đã phái tướng Tiêu Văn đi cùng với quân đội Quốc dân Đảng, nhưng người chỉ huy cao cấp nhất lại là tướng Lư Hán và ông này sẽ tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật”. Ông Hồ không tỏ vẻ gì là ngạc nhiên, và sau một lúc trầm ngâm, ông cười nói, “Đây chỉ là một thủ đoạn của Tưởng Giới Thạch muốn điệu hổ ly sơn thôi. Không có quân đội của Lư Hán ở Vân Nam thì Long Vân sẽ dễ dàng bị quật đổ”. Với một vẻ suy tư sâu sắc, ông tỏ ra lo lắng về việc quân Vân Nam kéo vào sẽ gây ra nhiều vấn đề không thể khắc phục được. Chúng không phải là một đội quân có kỷ luật như của Trương và ông Hồ phán đoán là sẽ có rối loạn. Ông Hồ cũng có nói về những Việt kiều sẽ được Quốc dân Đảng kéo theo. 

Ông cho họ là bọn “quốc gia giả hiệu”, “đầy tớ Quốc dân Đảng”, không mảy may có liên hệ với nhân dân Việt Nam. Bàn về ảnh hưởng của những người này có thể có đối với Chính phủ Lâm thời, ông tả họ như là những người không có tổ chức, một nhóm cơ hội tranh giành nhau, tàn dư của các đảng quốc gia cũ, không có chương trình hành động cơ bản nhưng lại có quá nhiều lãnh tụ. Theo ý ông thì điều nguy hiểm là ở cho họ có thể gây ra một sự hỗn loạn nếu như người Trung Quốc áp đặt họ lên đầu người Việt Nam như là một chính phủ bù nhìn, một khả năng mà ông không thể gạt bỏ một cách nhẹ nhàng.

 Ông Hồ nhắc cho tôi hay động cơ của Trung Quốc đối với nền độc lập của Việt Nam chẳng có gì thật thà và mang tính chất vị tha. Tuy có lời tuyên bố “cao thượng” của Tưởng(3) “không có yêu sách về đất đai ở Đông Dương”, và sự ủng hộ “rộng rãi” của ông ta đối với các phong trào quốc gia Việt Nam ở Trung Quốc; ý đồ của họ rõ ràng không phải là tốt nhất cho người Việt Nam. Theo quan niệm của ông Hồ thì Quốc dân Đảng muốn làm thất bại ý đồ của Pháp định khôi phục lại địa vị ở Đông Dương và muốn ngăn chặn sự liên minh của người Việt Nam với các lực lượng Cộng sản Trung Quốc trong phạm vi quyền lợi của Trung Quốc. Để nói rõ ý mình, ông Hồ nhận xét Quốc dân Đảng đã chọn Lư Hán và Tiêu Văn thay mặt cho Long Vân và Trương Phát Khuê.

 Những người này rất có ý nghĩa đối với ông Hồ. Trong 15 năm qua, tuy Thống đốc Long Vân và Lư Hán, cháu ông ta, đã chứa chấp những người Việt Nam Quốc gia thân Nhật và thân Trung Quốc trong tỉnh của họ, nhưng ông Hồ coi cả hai như là những tên tướng cướp, đã bỏ tù và giết hại nhiều người Việt Nam vô tội để che đậy cho việc buôn bán bất chính của họ ở biên giới Đông Dương. Đối với Trương Phát Khuê và Tiêu Văn, ông Hồ tỏ ra có độ lượng hơn. Họ không thô bỉ bằng người Vân Nam nhưng cũng rất ích kỷ.

Trương tiêu biểu cho tinh thần chống Cộng của Quốc dân Đảng và ông Hồ còn nhớ sâu sắc những đau khổ, nhục nhã đã phải chịu đựng suốt 15 tháng trong nhà tù Quảng Tây của Trương. Nhưng ông Hồ cũng nhớ đến thế lực của Tiêu Văn trong việc giải thoát cho ông khỏi tù đày và đã mang lại cho ông một địa vị quan trọng trong mặt trận quốc gia những người Quốc dân Đảng chống Pháp ở Trung Quốc. Sự cộng tác nhất thời này không phải do vì Trương và Tiêu có cảm tình đối với ông Hồ hay phong trào của ông, mà chính là họ hy vọng có thể lợi dụng và kiểm soát được ông và tổ chức của ông. Song lại chính ông Hồ và Việt Minh đã tận dụng được sự cộng tác ngắn ngủi đó. 

Nhưng ông Hồ cho biết ông mời tôi đến không phải để bàn luận chuyện người Trung Quốc, ông muốn cho tôi hay về những kế hoạch hoạt động trong những ngày sắp tới của ông. Ông muốn tôi là người đầu tiên được biết. Lúc đầu tôi hơi nghi ngại nên cứ nghe và không bình luận. Ông kể nội các của ông đã họp phiên đầu tiên ngày 27-8 ở Bắc Bộ phủ, đã có quyết định chính thức hoá Chính phủ Lâm thời và lấy ngày 2-9 là Ngày Độc lập. 

Trong dịp này, ông sẽ công bố nền độc lập của dân tộc, sẽ giới thiệu các thành viên trong Chính phủ Lâm thời với nhân dân và sẽ vạch ra chương trình hoạt động của Chính phủ cho mọi người dều biết. Sự hoàn hảo của ông đã làm tôi phải ngạc nhiên và xúc động. Tôi khen ngợi và chúc ông thành công. Ông khiêm tốn đáp lại là đã phải làm quá nhiều việc trong một thời gian rất ngắn. Đã có một uỷ ban để soạn thảo lời tuyên thệ nhận chức của ông và các bộ trưởng, nhưng bản thảo bản Tuyên ngôn Độc lập còn cần phải được làm xong gấp. 

Theo ông, chính đó là một trong những lý do ông muốn gặp tôi. Ông gọi một người ở buồng bên mang bản thảo tới và đưa cho tôi với một dáng thoả mãn. Rõ ràng trong việc khởi thảo bản này đã có bàn tay già dặn của ông. Bản tài liệu đánh máy bằng tiếng Việt Nam, có nhiều chữ bị xoá đi và được viết đè lên bằng bút mực, với nhiều ghi chú bên lề. Tôi ngay ra, và ông Hồ thấy ngay là tôi không thể đọc được. Ông Hồ cho gọi một người trẻ tuổi vào để dịch và tôi chăm chú nghe.

 Trong mấy câu đầu, người phiên dịch đã nói lên một số danh từ rất đỗi quen thuộc và giống lạ lùng như bản Tuyên ngôn của chúng ta. Câu tiếp sau là “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ”. Tôi chặn người phiên dịch lại, kinh ngạc quay sang hỏi ông Hồ có thực ông có ý định sử dụng câu đó trong bản Tuyên ngôn của ông không. Tôi không hiểu sao điều đó lại đập mạnh vào tôi, cứ như là có cảm giác khi quyền sở hữu bị đụng chạm, hay là khi làm một việc ngớ ngẩn nào đó. Tuy vậy tôi cứ hỏi. Ông Hồ ngồi dựa vào ghế, hai tay úp vào nhau, ngón tay sát vào môi một cách nhẹ nhàng và đang như suy tưởng. Với một nụ cười nhã nhặn, ông hỏi lại tôi một cách dịu dàng, “Tôi không thể dùng được câu ấy à?”. Tôi cảm thấy ngượng ngập và lúng túng. “Tất nhiên”, tôi trả lời, “tại sao lại không?”. Bình tĩnh lại, tôi nói người phiên dịch đọc lại đoạn đó từ đầu một lần nữa. Anh ta đọc, “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Họ đã được Tạo hoá trao cho những quyền không thể chuyển nhượng lại được; trong đó có quyền tự do, quyền sống và được hưởng hạnh phúc”. 

Cố sức nhớ lại, tôi mới thấy các danh từ đã được chuyển vị và nhận xét là trật tự các chữ “quyền tự do” (Liberty) và “quyền sống” (Life) đã bị thay đổi(4). Ông Hồ nắm ngay lấy và nói: “Đúng! Không thể có tự do mà không có quyền sống, cũng như không thể có hạnh phúc mà không có tự do”. Ông muốn nài tôi phát biểu thêm. Tôi đã phải trình bày là không biết gì hơn và đúng là như vậy. Tôi không thể dễ nhớ được lời lẽ trong bản Tuyên ngôn của chúng tôi. 

Và tôi cũng cảm thấy bất tiện khi nhận thấy mình đã tham gia - dù rằng rất ít - vào việc đưa ra công thúc cho một thực thể chính trị và tôi cũng không muốn tạo ra một cái cảm giác là có mình tham gia vào đó. Khi người phiên dịch tiếp tục, tôi nhận thấy, ông Trường Chinh ra khỏi phòng và tôi tưởng là lúc đó tôi đã phát hiện được, nhưng có lẽ nhầm, có sự khác biệt ý kiến giữa những người Việt Nam. Tôi đặc biệt chú ý đến “chương trình quốc hữu hoá” của ông Hồ. Giáp viện vào “tình hình của đất nước”, nói bắt buộc phải “quốc hữu hoá” một số dịch vụ công cộng và công nghiệp. 

Với tư cách là “Bộ trưởng Nội vụ mới được đề cử”, Giáp thấy tuyệt đối cần thiết không để công việc gián đoạn trong các lĩnh vực cung cấp điện, nước, lương thực, giao thông, vận tải, đường xá và cảnh sát… Khi nhận chức, ông có ý định đặt tất cả các dịch vụ nói trên thuộc quyền kiểm soát trực tiếp của Chính phủ và phục vụ cho dân chúng với một giá tối thiểu.

Tôi nói với Giáp rằng muốn thế thì phải có kỹ thuật và tiền. Ông đồng ý nhưng cũng không tìm được cách nào để giải quyết vấn đề trong khi các nguồn tài nguyên của Pháp và Nhật đã cạn. Theo ý kiến ông, người Việt Nam sẽ phải tự làm lấy một mình một cách tốt nhất. Trong khi bàn luận về chương trình với ông Hồ, tôi nêu lại ý đây không phải chỉ đơn thuần là vấn đề nhân công, mà ở đây đã có dồi dào, mà còn là việc phải có trong những thứ chủ yếu cho máy phát điện, dây cáp, máy móc, thiết bị nặng, xe cộ, ống thép… 

Phần lớn những thứ này, trước đây, phải nhập của Pháp và Nhật. Do đó đòi hỏi phải có ngoại tệ và ngân sách quốc gia để buôn bán với nhà sản xuất trên thế giới. Ông Hồ đồng ý, đó cũng là điều ông quan tâm lo lắng nhất. Ông tỏ vẻ tiếc và nhận xét là cuộc chiến tranh đã kết thúc quá sớm và cuộc cách mạng đã nổ ra quá nhanh. Nếu như ông đã thực hiện được một điều cơ bản của chủ nghĩa Marxism - nắm được trung tâm thần kinh của chủ nghĩa tư bản, tức là cơ cấu tài chính, và ở đây là Ngân hàng Đông Dương - thì có lẽ những khó khăn về kinh tế ban đầu đã có thể tránh được. Nhưng nhà Ngân hàng vẫn còn thuộc quyền người Pháp, lại có Nhật vũ trang bảo vệ. Ở trong tay Pháp, Nhật, rồi Trung Quốc, 

Nhà băng nhất định sẽ bị tước đoạt hết mọi tài sản. Còn như việc đặt ra thuế khoá để tăng thu nhập thì Chính phủ Lâm thời cũng không có ý định làm và nhân dân cũng không có tiền. Họ cũng không thể rút các tài khoản của họ ở nhà băng. Nhưng, ông Hồ cho rằng lúc này cũng chưa phải là lúc phải chú ý quá đến vấn đề kinh tế. Sau khi Chính phủ được thành lập và hoạt động, ông tin rằng mọi việc sẽ có thể giải quyết được. Khi tôi sắp rút lui ông Hồ hỏi tôi có muốn mang lại cho ông một cái vinh dự có tôi cùng dự với ông trong buổi lễ ngắn gọn Ngày Độc lập. Tôi ướm nhận lời nhưng ông nói ông hiểu rằng tôi sẽ không đến tham dự. Chúng tôi từ biệt nhau theo cách đó. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #59 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 09:42:35 AM » 

 PARIS KHÔNG BIẾT ĐẾN SAINTENY 

Chiều hôm đó tôi đến gặp Sainteny. Vượt qua khoảng cách nhỏ giữa ngôi nhà phố Hàng Ngang và dinh Toàn quyền chẳng khác nào như đi từ đầu này đến bên kia quả đất. Cảnh trái ngược ngày hôm đó thực quá rõ rệt. Đi từ những hân hoan của việc khai trương một nước tự do đến những mối lo âu nhằm duy trì một đế quốc không ai cần đến và đang hấp hối là cả một chặng đường dài. Tôi nghe Bernique báo cáo là người Pháp trong Dinh gặp khá nhiều khó khăn. 

Người Nhật vẫn từ chối, không công nhận một “sự có mặt của Pháp” và giữ Sainteny cùng nhóm ông ta trong cái lồng vàng có lính canh gác. Trong khi đại diện của De Gaulle hội đàm với người Trung Quốc ở Paris và Trùng Khánh thì trưởng đoàn M.5 ở Hà Nội, không có quy chế chính thúc, đã chẳng có quyền nói chuyện với bất cứ ai. Ngay đến “người An-nam-mít”(ông Hồ) cũng đã cả gan chỉ cho một người dưới quyền đến làm việc với vị “đại diện nước Pháp”, mà cũng chỉ là để vứt bỏ lời mời chào hào hiệp của ông về những “quyền tự do vĩ đại”. Hai ngày trôi qua và tính lạc quan trước đây của Sainteny đã biến dần trước sự yên lặng đáng ngại của Hồ Chí Minh. Sainteny tiếp tôi một cách niềm nở. Sự tiếp khách cũng như phong thái của ông là một điều khó đoán. Nó tuỳ thuộc vào sự biến chuyển của tình hình, cũng như sự mong muốn tôi làm một cái gì đó cho ông. Chiều hôm đó đã trở thành một cuộc viếng thăm vui vẻ… 

Đài phát thanh và báo chí địa phương đã đưa tin về việc thành lập chính phủ mới. Sainteny và ban tham mưu của ông đặc biệt chú ý theo dõi thành phần của Chính phủ. Sainteny chẳng biết ai, ngoài Giáp và Hiền mà ông đã gặp lần đầu tiên hai hôm trước. Vừa rót cà phê từ một cái ấm bạc rất đẹp, ông hỏi xem tôi có biết ai trong số những người đó không. Có, tôi biết ông Hồ mà tôi đã gặp lần đầu tiên vào tháng 4 và từ đó đến nay vẫn giữ liên lạc đều. Chu Văn Tấn đã làm việc với Thomas và toán “Con Nai”. Phạm Văn Đồng thì đã cộng tác với dân AGAS của chúng tôi. Và, tất nhiên tôi biết Dương Đức Hiền, bạn của Giáp. Sainteny nhận định một cách bi quan về ảnh hưởng của Chính phủ mới đối với mối quan hệ “Pháp - An Nam” sau này. 

Theo ý kiến ông, đó là Cộng sản, trong cấu tạo cũng như trong lý thuyết. Sự lãnh đạo của họ đặc sệt theo Mátxcơva và sẽ không có khả năng đối phó với nhiệm vụ quản lý đất nước. Hơn nữa, nếu như Pháp rút cơ sở kinh tế của họ đi, thì ai sẽ đến để thay thế? Dù có muốn Liên Xô trong lúc này cũng không có khả năng cáng đáng được. Cũng như Trung Quốc, họ chỉ sẽ bòn rút cho khánh kiệt. Ý kiến của Sainteny là sớm hay muộn thì rồi Pháp cũng phải tiếp quản lại Đông Dương, nếu như Mỹ không có ý định muốn thay thế Pháp. Tôi đã tránh để không bị rơi vào bẫy khiêu khích. 

Thẳng thắn một cách khác thường, Sainteny chiều đó công nhận với tôi là ông không nhận được một sự khuyến khích nào từ Paris hoặc Calcutta. Ông cho biết đã gửi một bức điện lời lẽ mạnh mẽ về vho Chính phủ Paris của ông để nói về việc nước Pháp có thể để mất Đông Dương nếu như không chịu xúc tiến những bước vận động ngoại giao tích cực ở cấp quốc tế. Tôi hỏi Paris có thể làm được gì. “Phải bắt người Trung Quốc thực hiện lời cam kết của họ và giải toả cho quân đội Pháp ở Vân Nam”. Sainteny đã biết tin Trung Quốc vượt biên giới mà không có người Pháp đi cùng; ông coi đó là một sự “phản bội của Trung Quốc”. Nếu như ông ta có 1.000 lính có đầy dủ vũ khí khi ở Hà Nội thì tình hình sẽ khác. Tôi nhận xét là điều đó có thể làm nổ ra một cuộc chiến tranh đẫm máu. Câu trả lời của ông là tôi không biết gì về dân “An nam mít”

. Họ sẽ không bao giờ tấn công vào một người Pháp mặc quân phục; họ rất kính phục nhà chức trách Pháp. Tôi không bình luận gì thêm. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ được lúc đó là quyết tâm cao của Giáp và những người đi theo ông nhằm chống lại mọi tàn tích còn lại của nền cai trị Pháp, và lời thách thức luôn luôn được nhắc đi nhắc lại của ông Hồ là ông sẽ chiến đấu đến cùng cho Việt Nam độc lập. Sainteny thấy khó mà chấp nhận được sự hờ hững bề ngoài của Paris trong việc giúp đỡ ông.

Trong điện gửi về Paris, ông yêu cầu phái đoàn của ông phải chính thức được thừa nhận, thông qua con đường ngoại giao ở Tokyo và có như thế ông mới có thể làm việc trực tiếp với Nhật ở Hà Nội. Nhưng ông chờ mãi mà vẫn không nhận được tin tức gì về bức điện của ông. Giống như hồi tháng 7 ở Paris, khi Sainteny cố gắng làm cho De Gaulle chú ý đến tương lai của Đông Dương mà không có kết quả, thì nay tình hình cũng giống như vậy. “Họ vẫn chưa hiểu được tình hình”. Ông nói riêng với tôi: nếu như Paris muốn cử một người nào đó đến thay thì ông sẵn sàng nhường bước. Đó cũng là lần đầu tiên tôi nghi hoặc cho rằng có thể Sainteny không được các nhà chức trách Paris tín nhiệm hoàn toàn.

 Song Sainteny đã không bị thay thế mà cũng chẳng nhận được quy chế chính thức cho tới tháng 10-1945. Trước khi tôi ra về, Sainteny đề cập đến hai yêu cầu khác. Ông muốn biết, theo tôi thì Hồ Chí Minh có muốn xúc tiến một cuộc đối thoại với người Pháp không. Tôi suy nghĩ một lát rồi đưa ra ý kiến là, theo tôi, ông Hồ không phải là một nhà cách mạng cuồng nhiệt. Trái lại, tôi thấy ông là một người ôn hoà và là một trong số ít người có đầu óc thực dụng trong các lãnh tụ quốc gia. Qua nhiều cuộc nói chuyện với ông, tôi suy ra rằng ông hoàn toàn ý thúc được những điều hạn chế và các khả năng của ông. Tỷ dụ như ông công nhận là sẽ phải tiếp quản một đất nước đang bị phá sản, ông không được đảm bảo có sự hỗ trợ của nước ngoài, nhân dân của ông thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc quản lý đất nước và xây dựng cơ sở nền kinh tế. 

Về mặt khác, ông Hồ cũng có ý thức về những ưu thế của ông. Những người đi theo ông có kỷ luật; ông có một tổ chức chính trị vững vàng trong giai cấp nông dân, công nhân và trí thức, có động có đấu tranh cho mục đích chung; và phong trào giải phóng bao gồm tới 90% dân chúng mà đa số đều sợ, không muốn có việc quay trở lại nguyên trạng cũ. 

Sau khi đã giành được một thắng lợi cực kỳ to lớn về tâm lý và chính trị một cách tương đối dễ dàng, mới 10 ngày trước đây và có được một kho vũ khí khá quan trọng, chắc chắn là ông Hồ sẽ ra sức đẩy mạnh phong trào cách mạng tiến lên. Nhưng tôi cũng thấy ở ông Hồ một con người yêu hoà bình, sẽ mong muốn thượng lượng hơn là đánh nhau, mặc dù tôi vẫn tin rằng nếu không có lối thoát, ông sẽ chiến đấu. Sainteny lắng nghe những nhận xét của tôi, và với một vẻ suy nghĩ, ông gợi ý muốn được nói chuyện trực tiếp thẳng với ông Hồ.

 Có thể một cuộc tiếp xúc cá nhân cũng có khả năng đưa đến một sự đồng ý cụ thể nào đó cho một cuộc ngừng bắn. Tuy vậy, tôi cũng rất hoài nghi về kết quả của một cuộc gặp gỡ giữa hai người, vì Sainteny không những không có quy chế chính thức mà cũng chẳng có quyền lực gì để có thể làm thay đổi được chính sách cứng rắn của Paris về “chủ quyền tuyệt đối của Pháp”. Tôi đồng ý là một cuộc gặp gỡ như thế cũng chẳng có hại gì. Sainteny hỏi tôi có muốn giúp thu xếp không. Tôi hứa sẽ cố thử, nhưng nêu lên ý kiến là cuộc gặp của ông ta với Giáp và Hiền trước đây đã chẳng đạt được gì. Sainteny ngạc nhiên hỏi tại sao? Tôi nói thẳng là vì không những ông ta đã có thái độ gia trưởng mà còn rất mập mờ trong đề nghị hợp tác của ông. Sainteny không đồng ý nên tôi cũng thôi không tiếp tục vấn đề. …

 Đề nghị khác của Sainteny có liên quan đến một số bạn đồng sự của ông thuộc SLFEO ở Calcutta, mà theo ông thì đã được thả dù ngày 23-8 xuống khu vực phía bắc Hà Nội. Ông báo tin cho tôi và sợ rằng nhiều người trong số đó đã bị giết hoặc bị Nhật hay Việt Minh bắt. Hai ngày trước đó, ông đã được nhận tin từ Calcutta cho hay P. Messmer và cả toán của ông đã bị Việt Minh bắt giữ. Như vậy ông ta còn sống, nhưng ở đâu? Tôi có thể tìm được họ không? Tôi trả lời ông là tất nhiên có thể làm được nhưng phải có thời gian. Ông kể tiếp là SLFEO đã phái nhiều toán sĩ quan chính trị, mà Messmer là một, cũng nhiều tình báo viên của DGER đến bắt liên lạc với du kích ở Đông Dương. Nhiều toán đã không tới được mục tiêu. Và chỉ mới biết tin tức của một số ít. Như đối với toán Messmer, Sainteny cho biết Messmer đã được cử làm Uỷ viên Cộng hoà Pháp tại Bắc Kỳ, trong toán có một nhân viên y tế và một cơ công điện đài. Phải mất nhiều ngày sau tôi mới nắm được manh mối của toán Messmer.

 Trong khi đó thì Sainteny vẫn còn là người cầm đầu M.5 phụ trách việc liên lạc của Pháp cho SLFEO, nhưng hình như ông đã bỏ nhiệm vụ chính của ông, công tác tình báo, để lao vào những cuộc đấu tranh chính trị mù mờ. Ông không nhận thức được những công tác cần ưu tiên và say sưa với những vụ khiêu khích vô tích sự. Chú thích (1) Khi ấy gọi là Chủ tịch Chính phủ (2) Những thành viên khác trong Chính phủ Lâm thời Bộ trưởng Tuyên truyền: Trần Huy Liệu (Cộng sản) Bộ trưởng Quân chính: Chu Văn Tấn (Việt Minh) Bộ trưởng Thanh niên: Dương Đức Hiền (Dân chủ) Bộ trưởng Kinh tế: Nguyễn Mạnh Hà (Dân chủ) Bộ trưởng Cứu tế: Nguyễn Văn Tố (nhân sĩ) Bộ trưởng Tư pháp: Vũ Trọng Khánh (Dân chủ) Bộ trưởng Y tế: Phạm Ngọc Thạch (Việt Minh) Bộ trưởng Giao thông: Đào Trọng Kim (nhân sĩ) Bộ trưởng Lao động: Lê Văn Hiến (Việt Minh) Bộ trưởng Giáo dục: Vũ Đình Hòe (Dân chủ) Bộ trưởng Canh nông: Cù Huy Cận (Dân chủ) Bộ trưởng không bộ: Nguyễn Văn Xuân (Việt Minh) (thiếu Bộ trưởng Quân huấn Trương Trung Phụng) (3) 


Ông Hồ trích dẫn diễn văn của Tưởng Giới Thạch ngày 24-8 trước hội nghị liên tịch Hội đồng Quốc phòng Tối cao và Uỷ ban Thường vụ Quốc dân Đảng. (4) Nguyên văn của đoạn đó như sau: “All men are created equal that they are endowed by the Creator with certain inalienable Rights, among these are Life, Liberty and the persuit of Happiness” (Tuyên ngôn Độc lập nước Mỹ 1776). Tuy nhiên, sau này, Hồ Chủ tịch đã trích lại nguyên văn này: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. (Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam 1945).

No comments: