Tuesday, July 17, 2012

ARCHIMEDES L.A. PATTI * WHY VIETNAM, X

LẠI ĐẤU ĐÁ NHAU -
 LƯ HÁN CHỐNG LẠI QUỐC DÂN ĐẢNG 

Chiều tối 26-9, Gallagher báo cho tôi biết là tình hình đã có những bước phát triển hoàn toàn mới. Ông nhận được chỉ thị của hành dinh Chiến trường phải tìm hiểu việc Lư Hán và cơ quan tham mưu Trung Quốc giúp người Pháp thiết lập một chính quyền Pháp ở Hà Nội. Chỉ thị không nêu rõ khi nào và bằng cách gì công việc đó phải được hoàn thành. Gallagher đã cho thảo luận với Lư Hán nhưng ông này kêu là không nhận được chỉ thị nào như vậy mà cũng chẳng dự kiến sẽ có việc như vậy. Ý kiến của Gallagher cho rằng Lư Hán sẽ không chấp hành, dù đích thân Tưởng ra lệnh. Trong trường hợp đó, Tưởng sẽ phải đối phó với sự chống đối của Thống dốc Long Vân ở Vân Nam và cả của Lư Hán ở Hà Nội. Gallagher yêu cầu tôi xác minh tình hình qua các nguồn tin của tôi ở OSS và Đại sứ quán. 

Tôi đã điện cho Helliwell và Heppner, nhưng không được trả lời. Sau này, ở Côn Minh, tôi được biết Lư Hán cũng có nhận được chỉ thị phải giúp cho người Pháp đặt bộ máy cai trị dân sự. Và ông cũng đã gửi một phái đoàn(15) đến Trùng Khánh để thuyết phục Quốc dân Đảng chuyển chính sách từ thân Pháp sang thân Việt Minh. Nhưng trước khi phái đoàn của Lư Hán trở về Hà Nội thì chính tướng Hà Ứng Khâm cũng bay đến Gia Lâm, tình cờ đúng ngay vào ngày máy bay của tôi đi Côn Minh, 1-10. Tướng Hà đến Hà Nội là để trực tiếp “khép quân đội Trung Quốc vào kỷ luật”, và đối với người Pháp và người Việt, thì điều dó lại có nghĩa là “để thuyết phục Lư Hán giúp đỡ người Pháp”. 

Với phong cách đặc biệt Á Đông, Lư Hán đã đóng vai trò của một chủ nhân ông thành thạo. Ngay chiều hôm tướng Hà tới, ông ta đã tổ chức một bữa tiệc lớn để chào mừng tướng Hà, cả Hồ Chí Minh và tướng Alessandri đều đã được mời như những vị khách đặc biệt. Đây cũng là lần đầu tiên ông Hồ và tướng Alessandri đã ở trong cùng một phòng. Tướng Hà lưu lại Hà Nội vài ngày và đã gặp riêng người Trung Quốc, người Pháp và người Việt. Lư Hán vẫn tỏ ra không lay chuyển đối với vấn đề có mặt của người Pháp, doạ sẽ rút quân của ông về Vân Nam. Nhưng cuối cùng, ngày 4-10, giữa 2 viên tướng đã đạt được một sự thoả hiệp; trong đó Lư Hán đã đồng ý: - 

Hoàn thành việc giải giáp quân Nhật vào ngày 31-10. - Tập trung tất cả quân Nhật để hồi hương vào các địa điểm đã quy định vào ngày 10- 11. - Tiếp tục những cuộc điều đình không chính thức với Hồ Chí Minh nhưng tránh đặt mọi quan hệ chính thức với Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời, đừng để xem đó là một sự công nhận chính thúc. Lư Hán tỏ ra không hài lòng với cái cách mà Quốc dân Đảng đối xử với người Việt Nam. Rõ ràng ông thích có một nước Việt Nam độc lập dưới sự bảo trợ của Trung Quốc. Nhưng đúng ngày hôm sau (5-10), Tưởng đã cho bung ra “sự cố Côn Minh” và cử Lư Hán làm Thống đốc Vân Nam thay cho Long Vân, còn Long Vân thì lại được “đề bạt lên” làm Viện trưởng Viện Cố vấn Quân sự, một chức vụ gần như không có quyền hành và bị Tưởng kiểm soát chặt chẽ ở Trùng Khánh.

 Từ đó, sự quan tâm của Lư Hán đối cới Việt Nam đã giảm sút đi rõ rệt vì ông ta phải tập trung vào các vấn đề của Vân Nam, nên đã uỷ nhiệm cho thuộc cấp giải quyết các công tác chiếm đóng ở Việt Nam. Ngày 8-10, Long Chi’i Han, một trong những phái viên của Lư Hán gửi đi Trùng Khánh, đã trở về Hà Nội, mang theo một chỉ thị mới. Nội dung chỉ yếu của nó là: không được can thiệp vào cơ cấu chính trị và quản lý của Việt Minh, nhưng phải nắm chắc con đường xe lửa Vân Nam phủ và các thiết bị hải cảng; cho rút tất cả quân đội Trung Quốc về Trung Quốc ngay sau khi đã cho hồi hương quân Nhật; không được chiếm đóng (tiếp quản) bất kỳ cơ quan dân sự nào của Việt Nam; không được tiếp quản nhà Ngân hàng Đông Dương. Tôi nhận xét là những quyền lợi của Trung Quốc ở Việt Nam vẫn là vấn đề quan trọng hơn hết và Ngân hàng Đông Dương vẫn là bất khả xâm phạm. 

Nhưng tất cả các chi tiết đó là dành cho về sau. Đêm ấy tôi nghĩ gì về buổi lễ tiếp nhận đầu hàng ở Hà Nội sắp được tổ chức, sau khi Tokyo đầu hàng đã 8 tuần. Thật khó mà thông cảm và chấp nhận được rằng kẻ thù trước kia của chúng ta lại được người Anh ở miền Nam thúc giục đi tấn công và giết hại người Việt Nam ngay trên đất nước họ. Đêm đó Sài Gòn đang bị phong toả. Tôi nhó lại lúc chúng tôi tới Hà Nội với những mong ước cao xa của một thời đại hoà bình sau chiến tranh. 


Tôi đã hân hoan vì lúc đó chưa biết tin Peter Dewey đã chết trong một cái mương nước ngay sáng hôm sau ở Nam Kỳ. Chú thích (1) Con của Nông Kinh Du, một lãnh tụ của Đồng minh Hội, bạn thân của Nguyễn Hải Thần (2) Đơn vị Anh đầu tiên do đại tá Cass chỉ huy, chưa tới Sài Gòn ngày 6-9-1945 nên thực tế không có việc có hành động của người Pháp chống lại người Việt được Anh cho phép cho tới ngày 22-9-1945. (3) Quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc phần lớn được trang bị bằng vũ khí Mỹ trong thời kỳ chiến tranh nên rất thuận lợi cho việc “buôn bán đổi chác”. (4) Hồ Chí Minh Tuyển tập (5) Võ Nguyên Giáp, “Những năm tháng không bao giờ quên” (6) B. Fall, “Con đường không vui” (7) Sainteny, “Lịch sử” ( 8 ) 

B. Fall, “Con đường không vui” (9) Quan chức thực dân, cố vấn chính trị của tướng Alessandri (10) Đô đốc G.L.M. Thierry D'Argenlieu (1889-1964). Gia nhập hải quân từ 1909; từ 1912 đến 1914, tham gia chiến dịch ở Maloc dưới quyền Thống chế Lyautey; năm 1919 thuyền trưởng tàu tuần tiễu Tourterelle; sau Thế chiến thứ nhất, giải ngũ, chuyển sang ngạch dự bị, rồi đi tu, thuộc dòng Carmelite Thiên Chúa giáo. Tháng 8-1939, tái ngũ, làm sĩ quan hải quân tham mưu ở Cherbourg. Bị quân Đức bắt làm tù binh tháng 6-1940; vượt ngục sang Anh tham gia Hải quân Pháp tự do của De Gaulle làm sĩ quan tuyên uý. D'Argenlieu đã tham gia thắng lợi chiến dịch chống lại Gabon và giành lại châu Phi xích đạo thuộc Pháp cho phe De Gaulle, được thưởng công và được thăng cấp rất nhanh, có chân trong Uỷ ban Quốc gia Phòng thủ Đế quốc Pháp. Năm 1941, được đưa về London làm nhiệm vụ.

 Ngày 5-8-1941, được cử làm Cao uỷ nước Pháp tự do ở Thái Bình Dương, đóng ở Nouméa, Tahiti, với hàm Hạm trưởng. Ở đây, ông đã xung đột với Bộ tư lệnh Hải quân và Lục quân Mỹ ở New Calédonia vì muốn duy trì chủ quyền Pháp chống lại nỗ lực của Đồng minh chống Nhật - ông cũng gây rắc rối cho người Anh nhưng đã bị dân Calédonia cầm giữ. Bị gọi về London, nhưng được đề bạt Phó Đô dốc tháng 6-1942. Tháng 5-1943, ông được cử chỉ huy Lực lượng Hải quân chiến đấu Pháp, đóng ở London trong khi hạm đội Pháp lại do Bộ chỉ huy của tướng Giraud cai quản ở Alger, do đó có sự rạn nứt trong Hải quân Pháp. Khi nước Pháp giải phóng (1944), D'Argenlieu được cử làm Phó Tổng Tham mưu trưởng Hải quân và theo De Gaulle vào Paris, dưới quyền đô đốc Lemonnier. Đầu năm 1945, De Gaulle cử D'Argenlieu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Cao cấp Hải quân Pháp. 

Ngày 17-8-1945, được cử làm Cao uỷ Pháp tại Đông Dương, “đại diện ở Đông Dương cho Chính phú Cộng hoà Lâm thời; có quyền hành như Toàn quyền Đông Dương và Tổng tư lệnh các lực lượng trên đất, biển và trên không có căn cứ ở Đông Dương”. Ông được mô tả là một người lạnh lùng, thô bạo, kiêu kỳ và cũng rất độc đoán. Có người cho ông là “một nhà ngoại giao tuyệt vời, xuất sắc”, nhưng cũng có người cho là “con gấu đáng tởm và là một người quỷ quyệt nhất” - Nguồn ALUSNA, Paris. (11) Bộ trưởng Quốc phòng (12) tức Giám mục Jean Baptiste Nguyễn Bá Tòng, giám mục tiên khởi Việt Nam (13) Đại tá Daron Bank lúc đó đang ở trong vùng này để điều tra về tội phạm chiến tranh và đã báo cáo về các hoạt động của đội 136 (SOI) của Anh - Pháp. (14) tức Hoàng Quốc Việt (15) gồm Shao Pai Chang (Quân quản) và Ling Ch’i Han (Ngoại vụ) Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #91 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:00:40 PM » Chương 34 Kết thúc nhiệm vụ  

DẬP TẮT CÁC CUỘC XUNG ĐỘT 

Tin tức từ miền Nam làm cho mọi người ở Bắc Kỳ lo ngại, trừ người Pháp. Họ hy vọng ở cú của Cédile, ở sự ủng hộ “sáng suốt” chính sách thực dân Pháp của Gracey, và ở các tin đồn đại về việc Leclerc sắp tới. Báo chí bí mật(1) của Sainteny thôi thúc người Pháp về triển vọng một cuộc giải phóng tức thì. Nó thổi phồng những tin tức về việc nắm chính quyền của Cédile, chuyện người Pháp anh dũng lật đổ “bọn cướp Việt Nam”, báo cáo về các cuộc hành quân thắng lợi “càn quét các ổ cướp Việt Minh”, và những tin thất thiệt về “lực lượng quân đội lớn” đang đổ bộ vào Phnom Penh, Cambodia với ý ngầm là quân Pháp đã lên đường qua phía cửa sau để giải phóng Bắc Kỳ. Mặc dù chẳng có lấy một chút sự thật nào trong đợt tuyên truyền này, nhưng dân Pháp ở Hà Nội và Hải Phòng lại rất tin tưởng và phản ứng bằng cách tỏ ra hết sức tự tin và kiêu ngạo một cách trắng trợn, nên đã gây ra nhiều vụ xung đột nhỏ và một số vụ bắt bớ. Trước những hành vi thái quá của người Pháp, Chính phủ Hà Nội vẫn muốn tìm mọi cách tránh không để nổ ra một cuộc đụng độ. 

Ông Hồ đã chỉ thị cho Giáp ra lệnh cảnh cáo dân chúng Pháp. Sáng ngày 26-9, nhiều biểu ngữ lớn đã xuất hiện trên các tường trong thành phố, với đầu đề “Tuyên cáo với dân chúng Pháp”. Nhiều truyền đơn mang nội dung lời tuyên cáo này cũng được phân phát cho cộng đồng người Pháp qua các hòm thư, đưa tay hoặc thông qua các cửa hiệu Việt Nam. Đó là lời tuyên cáo chính thức do Giáp ký với tư cách là Bộ trưởng Nội vụ, thay mặt Chính phủ Lâm thời. Với những lời lẽ kiên quyết, tờ tuyên cáo nhắc lại các sự kiện đã xảy ra ở miền Nam, việc Pháp và Anh ngược đãi người Việt Nam, quyết tâm của dân chúng chống lại mọi sự đô hộ của nước ngoài để bảo vệ nền độc lập của mình và nêu lên nhũng điểm chủ yếu: “Một số người Pháp đã lên tiếng tỏ ra lo ngại cho sự an ninh… của đồng bào họ đang sống ở Bắc Kỳ.

Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không tiến hành những biện pháp trả thù đối với người Pháp ở đây, và đã nhiều lần ra lệnh cho dân chúng Việt Nam phải bình tĩnh. Nhưng Chính phủ sẽ không dung thứ bất cứ hành động khiêu khích nào, bất cứ mưu toan nào nhằm làm hại đến nền an ninh và độc lập của đất nước, và sẽ không chịu trách nhiệm về những phản ứn sau này của nhân dân Việt Nam chống lại các hành động xâm lược của người Pháp ở Bắc Kỳ.


 Vì vậy, tôi (Giáp) khuyên những người này phái hết sức thận trọng trong lời nói cũng như trong hành vi của họ, và phải nghiêm ngặt tuân thủ các biện pháp được đưa ra để bảo đảm an ninh cho chính họ”. Người Pháp đã coi khinh lời cảnh cáo này.Một số tù binh Pháp “từ Thành ra” đã xé các biểu ngữ ở phố Gambetta Jauré Guibéry, Paul Bert, và đã đánh những người Việt Minh đi phân phát truyền đơn. Thường dân Pháp đã ùa theo bắt chước họ và tình hình có nguy cơ bùng nổ. Tôi đã được Tạ Quang Bửu báo ngay cho biết tình hình rối ren đó. Ông phản đối việc người Mỹ thả tù binh Pháp và cho tôi hay rằng Giáp rất lo lắng và bất bình. Bửu nói rằng việc phá rối trật tự rất có thể buộc Chính phủ phải có những biện pháp cứng rắn, có thể dẫn đến đổ máu - một việc vô cùng đáng tiếc. 


Tôi trả lời Bửu là theo chỗ tôi biết thì không có lệnh nào của Mỹ cho thả tù binh, và yêu cầu báo cho Giáp biết là trong vòng một tiếng sau tôi sẽ đến gặp ông ta. Ngay lúc đó, tôi điện cho đại tá Nordlinger và yêu cầu ông cho tôi gặp ở cơ quan của Gallagher để thảo luận về tình hình đang xảy ra. Đề nghị của tôi hình như có làm phiền ít nhiều cho Nordlinger nhưng ông ta cũng nhận lời gặp tôi 10 phút sau. Tôi liền báo cho Gallagher biết là chúng tôi đến gặp. Trong khi đó, tổ phản gián X2 của chúng tôi cũng đã nhanh chóng xác định được nhiều tù binh nói trên là những lãnh tụ của phong trào kháng chiến Mordant. Tôi đến nơi thì đã thấy Gallagher và Nordlinger đang chờ. Gallagher cũng đã thu xếp để sẽ gặp và nói chuyện với Lư Hán. Trên đường đến hành dinh của Lư Hán, tôi ngạc nhiên được biết trong tuần lễ này, Nordlingher đã ra lệnh cho các giám ngục Nhật ở trong Thành cho phép các tù binh được “về một ngày” với gia đình ở Hà Nội. 

Tôi hỏi ông cho biết đã có bao nhiêu lần phép cho tù binh Pháp, ông ta không biết đích xác nhưng ước lượng có khoảng chừng từ 200 đến 300 lần phép mỗi ngày. Cả Gallagher và tôi đều kinh ngạc nhưng Nordlinger thì cho đó chỉ là một biện pháp thông thường trong việc đối xử với các tù binh Đồng minh. Lư Hán tiếp chúng tôi ngay. Ông ta cũng đã được báo cáo về tình hình hỗn loạn trên đường phố và đã ra lệnh cho các đội tuần tra vây bắt đám tù binh và đưa họ trở về Thành. Lư Hán yêu cầu Gallagher phải rút hết “phép cho về nhà” cho đến khi tình hình trở lại yên tĩnh và từ nay về sau các lệnh nghỉ phép phải do một sĩ quan Mỹ do tướng Gallagher chỉ định ký mới có giá trị. Từ hành dinh của Lư Hán, tôi điện báo cho Bửu và yêu cầu ông ta nói cho Giáp yên tâm là chúng tôi sẽ “nắm lại” tất cả tù binh Pháp, còn cảnh sát địa phương sẽ đối phó với các thường dân ngoan cố. Tiếp sau đó, không còn có nguy cơ bùng nổ nào khác. 

Nordlinger đã thực hiện nhiệm vụ nhân đạo của mình một cách chân thực và ông không hình dung được là ông thường bị người Pháp lợi dụng để nhằm đạt các mục đích chính trị của họ. Nhưng cũng không thể xếp ông vào loại “thân Pháp” như nhiều người Pháp trong thời kỳ đó đã làm. Ông là một trong nhiều người Mỹ biết tiếng Pháp ở Hà Nội, có nhiệm vụ chăm lo đến đời sống của các tù binh Đồng minh và dân thường trong khu vực này. Do đó, ông được người Pháp xem như là một cha tuyên uý, người che chở và phân phối các bổng lộc của Mỹ. Khi ông rời Hà Nội vào tháng 10, ông cũng tỏ ra quan tâm đến số phận của người Việt, và đã cho tiến hành phân phối một số lương thực cho họ cũng như cho người Pháp. Ông trở về Mỹ vào tháng 12, mang theo một bức thư của Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ Lâm thời, gửi Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, nêu lên những khó nhăn ở Đông Dương và yêu cầu công nhận nền độc lập của Việt Nam. Bộ Ngoại giao đã có một thái độ lạnh nhạt, cho là Nordlinger hoạt động như là một đường dây liên lạc với một “Chính phủ” không được công nhận và bức thư đã được xếp vào loại “không có hành động tiếp theo” 

ÔNG HỒ NẮM LẠI TÌNH HÌNH

  Trong khi chúng tôi dập tắt những vụ xung đột nhỏ ở Hà Nội thì ông Hồ cũng làm ngọn lửa đề kháng ở Nam Kỳ dịu bớt đi. Trong một bài phát thanh cho toàn quốc, qua Đài Tiếng nói Việt Nam ở Hà Nội, ông đã khôn khéo trực tiếp kêu gọi người Việt Nam cung như người Pháp. Ông nói “Đồng bào miền Nam thân mến!”, nhưng thực ra bài diễn văn của ông bao trùm tất cả. Trước hết, ông chỉ trích Pháp về thái độ phản phúc, hèn nhát trước đây và những cố gắng hiện nay của Pháp để “thống trị nhân dân chúng tôi một lần nữa”. Về vấn đề người Pháp có ý cho rằng người Nam Bộ muốn quay trở lại nguyên trạng trước kia, ông nói “tôi tin tưởng và đồng bào chúng tôi trong cả nước cùng tin tưởng ở tinh thần yêu nước mạnh mẽ của đồng bào miền Nam”. Và, một cách rất thông minh, ông lái chuyển sang tấn công người Pháp. “Chúng tôi còn nhớ lời nói hùng hồn của một nhà cách mạng vĩ đại Pháp, “thà chết như một người tự do còn hơn sống như một kẻ nô lệ”. Ca tụng sự ủng hộ của đất nước đối với “các chiến sĩ và đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh để giữ gìn nền độc lập của dân tộc”, ông Hồ đảm bảo với các thính giả rằng toàn thế giới có thiện cảm với sự nghiệp của nhân dân Việt Nam(2). Tiếp đó, ông nói thẳng với các nhà lãnh đạo Pháp và Việt Nam ở miền Nam, 

“Tôi muốn nhắc nhở, đồng bào chúng ta ở miền Nam chỉ có một điều: ngay đối với những người Pháp bị bắt trong chiến tranh, chúng ta phải canh giữ họ một cách hết sức cẩn mật, nhưng chúng ta cũng phải đối xử với họ một cách rộng lượng. Chúng ta phải tỏ cho thế giới, và đặc biệt là cho người Pháp, biết là chúng ta chỉ muốn được độc lập và tự do, chúng ta không đấu tranh vì hận thù và chống đối cá nhân. Chúng ta phải tỏ cho thế giới biết chúng ta là một dân tộc thông minh, văn minh hơn hẳn bọn xâm lược giết người”(3). 

Đây chắc chắn là những lời lẽ nhằm để hé cửa cho nối lại những cuộc thương lượng. Lúc đó chúng tôi không nắm được dấu hiệu gì chứng tỏ rằng ông Hồ muốn nói với những người Việt Nam ở miền Nam đang bị bao vây và bài diễn văn đã đến như một tín hiệu bất ngờ. Đó cũng là lời tuyên bố công khai chính thức đầu tiên của ông Hồ với đồng bào Nam Bộ từ 26-8. Dưới ánh sáng của các sự kiện mới xảy ra, người ta có thể coi bài diễn văn như là một lực ép mạnh mẽ về chính trị trong Đảng. Giàu và ông Hồ, cả hai đều là sản phẩm của một trường đào tạo lãnh tụ cách mạng Nga, nhưng họ đã khác nhau khá xa trong các quan điểm về sách lược và phương pháp lãnh đạo. 

Ông Hồ nghĩ đến thương lượng, thuyết phục, thậm chí cả thoả hiệp trước khi phải sử dụng đến bạo lực. Giàu là một người Stalinism thâm căn cố đế, một người Cộng sản chính thống và giữ quan điểm là chỉ có thông qua sự lãnh đạo chính trị duy nhất, kỷ luật đảng và sự phục tùng mù quáng đối với sự lãnh đạo của Việt Minh thì nhân dân mới có thể giành thắng lời trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Sau vụ rối loạn ngày 2-9, ông Hồ và Uỷ ban Trung ương ở Hà Nội đã chỉ thị cho Giàu phải hoạt động có chừng mực, phải tiến hành đối thoại với người Pháp, những người Troskism, những đảng phải không Cộng sản và phải mở rộng cơ sở chính trị của Lâm uỷ. 

Nhưng Giàu đã không tự mình chia sẻ lãnh đạo với những người Troskism và chống Cộng. Ông đã nhường lại ghế của mình cho Phạm Văn Bạch, nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát về quân sự(4). Ông Hồ thấy không có khả năng tác động được đến Giàu và đưa các nhà lãnh đạo miền Nam đi theo đúng đường lối, nên bằng bài diễn văn, ông đã vòng qua Lâm uỷ để nói trực tiếp với nhân dân miền Nam. Trong khi dứt khoát ủng hộ cuộc đề kháng của nhân dân chống lại việc chiếm quyền của Pháp và Anh, ông Hồ cũng khuyên phải có mức độ và kiềm chế, mở rộng cửa cho việc điều đình với những người Pháp có thiện chí. Bài diễn văn đã đạt được kết quả mong muốn. Ông Hồ đã khẳng định lại được quyền lãnh đạo toàn quốc của mình và thiết lập lại được mối quan hệ giữa miền Nam và Hà Nội. Trong những ngày tiếp theo, người ta thấy Bạch đã cố gắng tìm cách thương lượng với Cédile. 

CUỘC ĐẦU HÀNG CỦA NHẬT 

 Ngày thứ Năm 28-9. Khi tôi chuẩn bị đi dự buổi lễ đầu hàng của Nhật thì nhận được lời chia buồn của cá nhân Hồ Chủ tịch về “cái chết không may của trung tá Dewey”. Giấy chia buồn do Nguyễn Văn Lưu(5) đưa tới. Tôi cảm ơn và nói sẽ gặp Chủ tịch ở dinh Toàn quyền. Lưu báo ngay cho tôi biết là ông Hồ không được khỏe và sẽ không dđến dự buổi lễ. Tôi ngạc nhiên và cũng không biết nên hiểu sự vắng mặt này như thế nào. Chiều hôm trước tôi có gặp ông Hồ và thấy ông khỏe, tuy vẫn ho như thường lệ. Tôi biết rằng ông cũng được mời dự lễ và chắc rằng ông đã nhận lời, nhưng thực ra tôi chẳng biết rõ gì cả. Mọi công tác chuẩn bị đã xong, và Sư đoàn danh dự Vân Nam số 2(6) triển khai canh gác chung quanh dinh Toàn quyền. Đó là những đội quân Trung Quốc khá cao lớn, mặc áo chiến, mũ sắt, súng M.1 Mỹ có cắm lê được dàn ra dọc đường đá đến tận cổng ra vào dinh Toàn quyền. 


Ở phía ngoài, trên sân có nhiều toán sĩ quan Trung Quốc đứng, chờ tướng Lư Hán tới. Họ cũng lặng lẽ trong các bộ quân phục sặc sỡ, thắt lưng Mỹ mang kiếm đại lễ cán ngà bên lưng. Đúng 10 giờ, tôi đến cổng dinh. Trong những trường hợp như lúc này, các quân cảnh Trung Quốc đã được thay thế bằng binh lính Sư đoàn Danh dự số 2, an ninh nghiêm ngặt. Sĩ quan kiểm tra giấy một cách cẩn thận, chào và mời tôi vào. Khi xe tôi tới đỗ ở thềm cửa, người ta mở cửa và một sĩ quan trẻ khác lại xem giấy tờ. Với vẻ hài lòng, anh ta vời một sĩ quan khác đưa tôi vào phòng khách chính và tới chỗ dành riêng cạnh các bàn dùng cho buổi lễ. Trong phòng có hàng trăm đại diện các nhà chức trách quân sự và dân sự Trung Quốc và một số ít người Mỹ. Tôi đã giúp cho sĩ quan của Lư Hán về các thể thức lễ nghi được ghi tên trong danh sách các vị khách đặc biệt. Trong danh sách này có tên tướng Gallagher cùng với các sĩ quan cao cấp bộ tham mưu của ông, có Hồ Chủ tịch và nội các của ông, tướng Alessandri và một đại biểu, tôi và 5 sĩ quan OSS khác, và các vị khách quý của cộng đồng người Hoa ở đây. Nhưng trong số nói trên, người Pháp và người Việt đã cố tình vắng mặt. 

Trong phòng đã được xếp khoảng 200 ghế ngồi đối diện với một cái bàn phủ vải xanh lớn, đằng sau có 3 ghế đệm cao cho người Trung Quốc tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật. Trên tường phía sau có treo bức ảnh lớn của Tôn Dật Tiên. Trước bàn của người Trung Quốc là một bàn khác phủ vài trắng với 5 ghế thấp hơn dành cho người Nhật. Trên tường treo 4 lá cờ lớn, Mỹ và Liên Xô bên phải, Trung Quốc và Anh bên trái. Trên cửa và các cột trong phòng cũng có những chùm 4 cờ nhưng nhỏ hơn. Không có cờ Pháp cũng như cờ Việt Nam ở trong và ngoài dinh. 

Đến 10 giờ 30, tướng Tsuchihashi và 4 sĩ quan cao cấp Nhật (không mang vũ khí) vào phòng và tới trước bàn phủ vải trắng. Họ coi như không thấy ghế dành cho họ và vẫn đứng. Tsuchihashi ở giữa. Với một điệu bộ trịnh trọng, ông đặt mũ lên trên bàn và chú ý sửa lại cho ngay ngắn với cả hai tay. Các sĩ quan khác cầm mũ của mình trong tay phải. Từ một cửa vào khác cạnh chiếc bàn xanh, tướng Lư Hán, tướng Linh(7) và tướng Mã lần lượt vào phòng và ngồi vào bàn trước mặt người Nhật. Những người này khẽ cúi đầu chào. Logged ngao5 Cựu chiến binh *

Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #92 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:01:06 PM » Người phiên dịch Trung Quốc đọc cho viên tư lệnh Nhật nghe các điều khoản đầu hàng của Đồng minh. Tsuchihashi và các sĩ quan đứng nghiêm lắng nghe. Người phiên dịch đưa bản tài liệu để người Nhật ký. Tướng Tsuchihashi không đọc, ký rồi trả lại bàn tài liệu và nghiêng mình cúi sâu mình hướng về phía Lư Hán. 

Người Trung Quốc tiếp nhận cái chào một cách sơ sài và thản nhiên cho người Nhật rút lui không một lời bình luận. Người Nhật ra thẳng, không hề liếc nhìn ra các phía. Sau khi người Nhật đi khỏi, Lư Hán đọc Bản tuyên bố nói về các điều khoản đầu hàng và trách nhiệm của Trung Quốc ở Việt Nam

. Người phiên dịch Trung Quốc liền dịch Bản tuyên bố đó sang cả tiếng Pháp và tiếng Việt, mặc dù người Pháp và người Việt đều không có mặt ở đó, và buổi lễ kết thúc. Buổi lễ rất quan trọng này của Lư Hán cũng đã không mang lại được thay đổi gì lớn cho Hà Nội. Tsuchihasshi vẫn tiếp tục làm vai trò của người sĩ quan cao cấp Nhật để xúc tiến nhiệm vụ giải giáp và tập trung đội quân bại trận của ông về các địa điểm chở lên tàu. Lính Nhật vẫn tiếp tục giúp đỡ cho quân Trung Quốc gác tù binh Pháp trong Thành và các nhân viên kiểm soát của Nhật vẫn ở lại vị trí cũ của họ trong Ngân hàng Đông Dương. Sau buổi lễ, có tổ chức chiêu đãi ngắn trong phòng bên cạnh và tôi cũng có dịp để thảo luận với tướng Gallagher về sự vắng mặt của người Pháp. 

Ông cho biết Alessandri đã yêu cầu Lư Hán cho treo cờ Pháp cùng với các cờ của Đồng minh, nhưng Lư Hán từ chối với lý do việc treo cờ Pháp chắc chắn sẽ gây rắc rối. Alessandri đã yêu cầu Gallagher can thiệp giúp và nêu ra với Lư Hán là cờ Pháp đã được treo trong buổi lễ ở Tokyo và Manila. Nhưng Lư Hán cương quyết không chịu, nói là ở các nơi đó không có phong trào chống Pháp, và nhấn mạnh rằng ở Sài Gòn chỉ việc trương cờ Pháp ra cũng đã đủ là tín hiệu cho quần chúng nổi dậy và gây ra đổ máu. Hơn nữa, việc Alessandri là đại diện chính thức của Pháp cũng “chưa rõ ràng”. Tôi lại nhìn sự bất đồng như là biểu hiện của việc cá nhân Lư Hán ác cảm với người Pháp, và ở đây ông chỉ muốn làm nhục Alessandri.


 Ông đã từ chối không để cho Alessandri được ngồi trong khu vực các quan khách chính thức, mà đã dành cho ông ta ghế số 115 trong khu vực của các vị khách không chính thức. Theo tôi, đó là một điều xúc phạm đến uy tín của Pháp nói chung và của Alessandri nói riêng. Lại còn một vấn đề rắc rối khác nữa. Tại sao ông Hồ lại không đến? Trong buổi chiêu đãi, tôi thấy có nhiều người Việt nhưng hình như họ đến dự với tư cách là người không chính thức. Họ đi cùng với những Hoa kiều có thế lực ở địa phượng được xác nhận là thuộc Đồng minh Hội của Nguyễn Hải Thần. Tôi bình luận việc ông Hồ vắng mặt với đại tá Hsei Chun Yie( 8 ) và ông ta cho biết ông Hồ được chính cá nhân Lư Hán mời như là một vị khách đặc biệt. Nhưng đến phút cuối cùng, ông Hồ đã chối từ vì “lý do sức khỏe”. Hsei giải thích là ông Hồ và Chính phủ của ông không có quy chế chính thức ở Trùng Khánh nên không thể nào xếp ông ta trong hàng ngũ đại diện các nước Đồng minh. 

CUỘC HỢP NHẤT ĐANG HÌNH THÀNH  

Sau này tôi mới biết Lư Hán không thể công khai thừa nhận ông Hồ và không biết tới các lãnh tụ của các nhóm Quốc gia khác, chính vì lúc đó đang diễn ra các cuộc thương lượng bí mật để hợp nhất Việt Minh và Đồng minh Hội. Tiêu Văn, theo chỉ thị của Trùng Khánh, ủng hộ Nguyễn Hải Thần; nhưng Lư Hán lại không muốn cắt đứt với ông Hồ, nên đã ép Tiêu phải cho xúc tiến một cuộc hợp nhất. Bước đầu tiên để đi tới cuộc hợp nhất được tiến hành vào buổi sáng sau ngày lễ đầu hàng, qua cuộc gặp giữa ông Hồ và Thần do Tiêu tổ chức, tại trụ sở(9) của Đồng minh Hội. Ở đó, lần đầu tiên cờ của Đồng minh Hội được trưng ra ở Hà Nội. 

Một số đông quần chúng đã tụ tập chung quanh để hoan hô hai người. Cũng đã xảy ra cuộc ẩu đả giữa người của hai phe. Cảnh sát địa phương và quân đội Trung Quốc phải can thiệp, nhưng đã không có xô xát nghiêm trọng. Cuộc gặp kéo dài khoảng 30 phút và cả hai người ra về đều mỉm cười vui vẻ. Không có tuyên bố công khai, nhưng chỉ một giờ sau đó, trên dường phố đã thấy lan ra hai luồng dư luận khác nhau. Những người theo Thần vui vẻ cho biết ông Hồ sẽ “xuống nước” để nhường chỗ cho Thần và chỉ giữ chức “cố vấn quốc gia”.


 Những quan hệ Việt Minh của tôi cho tôi biết là không đạt được quyết định nào trừ việc ông Hồ mời Đồng minh Hội tham gia với Việt Minh vào trong một chính phủ mới sẽ do nhân dân bầu trong cuộc tổng tuyển cử dự định tiến hành vào ngày 23-12(10). Tin đồn còn được tăng thêm hương vị qua một câu chuyện được truyền đi rộng rãi, chắc là do người của Thần, rằng Quốc dân Đảng (Trung Quốc) đã chi cho Thần về vấn đề này 7 triệu đồng, nhưng một nửa số tiền đã bị Tiêu Văn chiếm lấy để tiêu riêng. Điều này chỉ làm suy yếu vị trí của Thần ở chỗ như thể là ông đã được chuẩn bị để cộng tác với Việt Minh trong việc thành lập một Chính phủ liên hiệp. Câu chuyện này thật hư như thế nào, tôi không rõ. 

Nhưng biết rằng vào tháng 10, sau khi tôi rời Hà Nội, giữa các tướng Lư Hán và Tiêu Văn đã có một sự bất hoà nghiêm trọng về hoạt động của Đồng minh Hội và Tiêu Văn nhất thời đã bị rút bớt các nhiệm vụ chính trị của ông ta. Vào mùa thu 1945, có tin đồn Lư Hán đã cho bắt giữ Tiêu và đưa ông ta về Trùng Khánh nghỉ; nhưng theo các bản tin tức của Mỹ từ Việt Nam và Trung Quốc gửi đi thì từ tháng 10-1945 đến tháng 10- 1946 Tiêu Văn vẫn còn làm việc. 

 TIN TỨC LỘN XỘN 

Buổi lễ đầu hàng đến thật không đúng lúc và chỉ được báo chí địa phương thuật lại một cách bình thường. Điều mọi người chú ý nhiều nhất là các sự kiện ở miền Nam sau cái chết của “đại tá”(11) 

Dewey. Trong 2 ngày, đài phát thanh và báo chí Sài Gòn, Huế, Singapore, New Delhi, và Trùng Khánh đưa tin tức rộng rãi về vụ ám sát Dewey và nhữn tin tức này đã gây ra một sự lộn xộn lớn ở Hà Nội. Người Pháp công khai lên tiếng chia buồn và tỏ thiện cảm đối với một người “bạn Đồng minh”, trong khi trong thâm tâm họ có vẻ hài lòng về cái chết. Điều đó có thể lung lạc được tình cảm của công chúng Mỹ đối với “dân An na mít phản bội”. Người Việt Nam lại công khai lên án Anh và Pháp âm mưu kích động tình cảm của người Mỹ chống lại Việt Minh. Một số người Trung Quốc đứng đắn đồng ý với luận điểm của người Việt Nam, nhưng cũng rất nghi ngờ, cho đây là một mưu mô của Anh để gạt người Mỹ ra khỏi khu vực hoạt động của họ. Điều làm cho câu chuyện của Dewey trở nên hấp dẫn đối với dư luận quần chúng chính là tiềm năng ảnh hưởng quốc tế của nó. Ở Hà Nội, người ta đặc biệt chú ý đến một bài phỏng vấn nói là của phóng viên Phale Thorpe ở Huế. 


Ngay trong ngày Dewey bị giết, có tin ông đã lên án “hành động của Anh ở Nam Kỳ là trái với luật pháp quốc tế (sic) và Việt Nam xứng đáng được độc lập”. Ông ta nói, ông ta sẽ trở về ngay Hà Nội để báo cho phái đoàn Mỹ ở đây những gì đã xảy ra ở miền Nam để tránh gây ra đổ máu ở Bắc Kỳ “…(và) cuộc xung dột Pháp - Việt cần phải được hoặc Mỹ hoặc Trung Quốc ngăn chặn lại”. Như người ta đã biết, nhận định của Thorpe đã không bỏ qua vai trò của Pháp trong các sự kiện xảy ra ở Sài Gòn và bộ máy tuyên truyền của Việt Nam đã không bỏ lỡ cơ hội để tận dụng khai thác những tin tức này. 


Người Pháp còn đang bị nhức nhối về việc bị chính thức gạt khỏi buổi lễ đầu hàng, đã phản tuyên truyền lại: “Pháp không còn được coi như là một nước Đồng minh trong Liên hợp quốc nữa và người Mỹ đã góp phần làm nhục người Pháp ở phương Đông cũng như họ đã từng làm ở phương Tây”. Họ đã khôn ngoan tăng cường luận điệu tuyên truyền này bằng cách xuyên tạc các nhận xét của Thorpe làm cho nó giống như là một lời tuyên bố chính thức của Mỹ. Đài Singapore đã tường thuật một cách tỉ mỉ việc Mounbauen bao che cho Gracey trước mặt Tổng trưởng 

Chiến tranh Anh, ngài Lawson. Báo chí Việt Nam và Trung Quốc đã nhắc lại tin của đài Singapore và đã nhấn mạnh vào lời tuyên bố của Lawson về chính sách của Anh, “trách nhiệm của Anh đối với đồng minh của mình sẽ không dẫn đến cuộc đấu tranh cho người Pháp chống lại nhân dân Đông Dương”. Rõ ràng lời tuyên bố này đã được đưa ra do có sự chống đối mạnh mẽ trong nội bộ chính phủ Công đảng về việc ủng hộ về quân sự cho người Pháp đàn áp phong trào dân tộc Việt Nam, đi đôi với sự phản kháng dữ dội của Đảng Quốc đại Ấn Độ chống lại việc sử dụng binh lính Ấn phục vụ cho chính sách thực dân của De Gaulle. 

Ngoài ra, sau bản tin của đài Singapore, đài Delhi lại thông báo Anh đã tung ra 2 sư đoàn Ấn Độ tấn công du kích Việt Nam ở Nam Bộ. Phản ứng tức khắc, Lâm uỷ Nam Bộ ra lệnh cho các đơn vị bộ đội của họ “phải cô lập các lực lượng Anh và Pháp bằng cách phá hoại cầu và đường”. VỀ NHÀ Trong mớ tin tức hỗn độn này, thật khó mà biết dược chính xác việc gì đã xảy ra, ngoài việc nổi bật lên khá rõ là cuộc chiến tranh Thái Bình Dương ác liệt và lâu dài kết thúc không có nghĩa là đã mang lại hoà bình cho Việt Nam. Đối với họ, một cuộc chiến tranh mới đã bắt đầu. Nhưng nó đã không lôi cuốn chúng tôi vào đó. Chúng tôi đang trên đường trở về nước. Chiều ngày 29-9, tôi nhận được lệnh mà tôi đang chờ đợi. Cục tình báo OSS được “chuyển thuộc Bộ Chiến tranh và Ngoại giao kể từ 1-10” và ngày đó tôi cũng phải trở về Côn Minh. Đại uý Bernique và trung uý Swif sẽ cho đóng cửa cơ quan. 


Vào giữa tháng 10, tôi sẽ lên đường về nước. Helliwell về sau mấy ngày, còn Heppner thì về Mỹ vào giữa tháng 11. Bộ chỉ huy Chiến trường Trung Quốc (CCC) cũng giải thể và tướng Gallagher và Bộ tham mưu của ông cũng chuyển đi nơi khác. OSS Trung Quốc chỉ còn lại một số ít cán bộ giao thời. Hoạt động tình báo của chúng ta tại Chiến trường Trung Quốc đã cáo chung một cách nhanh chóng, mà công chúng Mỹ cũng chẳng hay biết gì, nhưng họ đã phải trả một giá đắt cho sự lãng quên này. Tôi dùng ngày cuối cùng ở Hà Nội, 30-9, để chuẩn bị túi bụi cho cuộc ra đi. Tôi quyết định việc xử lý các tài liệu và đặt kế hoạch an ninh, đề phòng phải sơ tán trong tình huống khẩn cấp. Sau đó là những cuộc hội họp tiễn biệt với tướng Gallagher, tướng Lư Hán, tướng Mã… 

Tướng Gallagher mời cơm và chia tay với tôi một cách vui vẻ, trước khi tôi trở về nhà Gauthier. Ông Hồ mời tôi dự bữa cơm chiều hôm đó và tôi đã chia sẻ buổi tối cuối cùng của tôi ở Hà Nội với ông Hồ. Chú thích: (1) Báo Entente, lúc đầu do nhóm Sainteny in bí mật, sau được phép xuất bản công khai vào năm 1945 do Việt Minh kiểm duyệt. (2) Hồ Chí Minh Tuyển tập (3) Hồ Chí Minh Tuyển tập (4) Cuối cùng, ông bị gọi về Hà Nội tháng 11-1945 (5) 


Chánh văn phòng Bộ Ngoại giao, một cộng sự của Hoàng Minh Giám, Thứ trưởng (Hồ Chí Minh là Bộ trưởng) (6) Một đơn vị của quân Long Vân, dưới quyền của thiếu tướng Chao Yao Ming, tư lệnh Tập đoàn quân 52. Sư đoàn Danh dự số 2 là đơn vị Trung Quốc cuối cùng rời khỏi Việt Nam tháng 10-1945. (7) Tư lệnh Tập đoàn quân 60 Trung Quốc ( 8 ) Bí thư và phụ trách lễ tân của Lư Hán (9) tại số 23, phố Quan Thánh (10) Tổng tuyển cử đã được tổ chức vào ngày 6-1-1946 (11) Dewey được truy phong Trung tá (Lieutenant Colonel). Tuy nhiên, trong giao tiếp quân đội Mỹ, cấp bậc Trung tá (Lieutenant Colonel) và Đại tá (Colonel) thường được gọi chung là Colonel. Giống như các cấp tướng đều được gọi chung là General. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #93 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:04:09 PM » Chương 35 Buổi từ biệt cuối cùng Đúng 7 giờ tối, tôi có mặt ở buồng đợi phòng khách Bắc Bộ phủ. Võ Nguyên Giáp chào tôi và cùng đi vào phòng khách, nơi Hồ Chủ tịch đang chờ cùng với Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà và Trần Huy Liệu. Chúng tôi đã biết nhau nên không cần có nghi thức gì.

 Ông Hồ chìa bàn tay mảnh khảnh đón tôi và nói: “Đây quả là một dịp không hay. Mong rằng ông chỉ xa chúng tôi một thời gian”. Sau khi tôi đã thăm hỏi những người khác, ông Hồ dẫn tôi và cả đoàn tới bàn tiệc. Câu chuyện vẫn chung chung, vừa nói bằng tiếng Pháp vừa bằng tiếng Anh. Tôi cảm thấy mọi người đều cố gắng tránh những lời có thể làm cho tôi lúng túng hoặc đặt tôi vào địa vị phải bảo vệ lập trường của Đồng minh (Anh, Trung Quốc). Sau bữa cơm, chúng tôi ngồi lại chung quanh bàn 10, 15 phút. Trừ ông Hồ và Giáp, mọi người xin rút lui sau khi đã chúc tôi một cuộc hành trình thú vị và tỏ ý mong rằng tôi sẽ sớm trở lại để thăm hoặc công tác ở Việt Nam. Ba người chúng tôi chuyển sang một buồng nhỏ hơn để dùng cà phê. Mấy phút sau, Giáp có việc phải đi ra ngoài và đã bắt tay tôi một cách nồng nhiệt. Bằng một tiếng Pháp hoàn hảo, ông nói nếu ông không trở lại gặp được nữa thì ông chỉ muốn tôi hiểu cho rằng ông rất cảm tạ sự thông cảm của tôi đối với sự nghiệp của nhân dân Việt Nam. 

Ông bày tỏ sự đánh giá cao của cá nhân ông và của các “chiến hữu” của ông về sự giúp đỡ “to lớn” của “người Mỹ ở Côn Minh” đối với ông “trong nhũng ngày trước cách mạng”. Giáp hết lời và chúc tôi “bon voyage”(1) và tỏ ý mong rằng Việt Nam sẽ sớm có một người bạn ở Washington. Tôi ngạc nhiên và cũng xúc động vì đây là một dịp hiếm có Giáp đã tự cho phép bộc lộ những tình cảm sâu kín của mình. Suốt trong những tuần lễ tôi làm việc cùng ông, bao giờ ông cũng tỏ ra lịch sự, thẳng thắn và say mê công việc, nhưng không bao giờ để lộ ra bất cứ một tình cảm nào đối với Mỹ hoặc cá nhân tôi. Trừ dịp này và trong dịp lễ tiếp đón khi cờ của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tung bay cùng với cờ Mỹ, tôi đã xếp Giáp vào hàng ngũ những người Cộng sản cứng rắn, và cũng có nghĩa là những người này coi Mỹ là một nước đế quốc không thể mang lại được một cái gì tốt đẹp cho sự nghiệp của người Việt Nam và tất nhiên là phải có một thái độ đối xử với người đại diện của Mỹ (tôi) một cách thận trọng(2). 

Nhưng lúc đó, tôi tin chắc là ông đã hoàn toàn thành thật. Khi Giáp đi ra, tôi cảm thấy có một ánh mắt hài lòng và đồng tình trên mặt ông Hồ. Tôi cho lời từ biệt của Giáp sẽ được ông Hồ khuyến khích, nhưng cũng rất có thể là một cử chỉ thật lòng của ông ta. Tôi khó mà rõ được thực hư như thế nào. Khi chỉ còn ông Hồ và tôi, ông hỏi ngay có phải Mỹ đang cho phép Pháp trở lại Việt Nam không? Ông không bàn luận mà lo lắng và chỉ muốn qua tôi để biết một cách không chính thức điều mà tôi nghĩ hoặc biết về chính sách Mỹ đối với những ý đồ quá hiển nhiên của Pháp. Tôi nói cho ông biết chính sách Mỹ khi tôi mới nhận nhiệm vụ là một chính sách “tránh khỏi” Đông Dương, ngoại trừ các hoạt động tình báo nhằm vào đối tượng người Nhật. Tôi cũng nhắc lại là Roosevelt đã nhiều lần tuyên bố về chính sách Mỹ không ủng hộ các tham vọng thuộc địa của Pháp và không can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. 

Chính sách đó hiện vẫn được thi hành. Tôi đi xa hơn một bước và nói với ông Hồ rằng từ khi Roosevelt mất, nước Mỹ đã không hề có một bản tuyên bố chính thức nào có nói đến vấn đề chủ quyền Pháp đối với Việt Nam, cũng như Mỹ đã không ủng hộ các kế hoạch của Pháp về Đông Dương. Sự thật là tôi biết chắc chắn rằng không có một sự thay đổi nào trong chính sách đòi hỏi Mỹ phải ủng hộ Pháp dùng vũ lực để khôi phục địa vị trước 1940 của Pháp ở Việt Nam. Tôi cho rằng lập trường của Mỹ cần phải thay đổi nếu như nhân dân Việt Nam muốn cho những người Pháp quay trở lại với một điều kiện nào đó.

 Nhưng đó thực ra chỉ là những điều phỏng đoán. Tôi cũng nêu ra vấn đề là trước khi đi nhận nhiệm vụ ở Hà Nội cũng như nhiều lần sau này, tôi đã nhận được chỉ thị nhắc nhở là đại diện của Mỹ ở Việt Nam phải tuyệt đối trung lập. Tôi báo cho ông Hồ biết rằng dù xu hướng cá nhân của tôi có chống lại hay thiên về một nhóm nào hay một lý tưởng nào đi nữa thì tôi vẫn phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các chỉ thị đã nhận được và có thể nhiều lần hành động của tôi đã bị nhiều thế lực khác nhau hiểu lầm. Đối với tướng Gallagher, với AGAS, và các người Mỹ khác ở Việt Nam, tôi đảm bảo với ông Hồ rằng nhiệm vụ của họ được hạn chế trong việc giúp đỡ người Trung Quốc, về công tác chính thức mà các nước Đồng minh đã giao cho Tưởng - đó là việc giải giáp quân Nhật bại trận. Chúng tôi đã nhiều lần trao đổi về vấn đề này.

Nhưng trong lần cuối cùng này, tôi cảm thấy tôi đã không để cho ông Hồ có một ảo tưởng hoặc hy vọng giả tạo về sự viện trợ quân sự của Mỹ cho Việt Nam. Ông Hồ lắng nghe một cách chăm chú, rồi lắc đầu; ông nói với tôi ông không thể hoà giải được lập trường của Mỹ ở Washington, Québec, Téhéran và Postdam với thái độ thụ động của nước này trước tình hình khẩn cấp đang xảy ra ở Sài Gòn. Ông không thể nào hiểu được rằng Mỹ, một nước nổi tiếng chống chủ nghĩa thực dân mà lại làm ngơ và cho phép Anh và thậm chí cả Trung Quốc giúp Pháp trong mưu đồ nhằm áp đặt lại chế độ thuộc địa ở Việt Nam. Ông nói không ai mù để mà không thấy được sự thật hiển nhiên là quân đội Pháp được Mỹ trang bị và tiếp tế, sớm muộn sẽ xâm chiếm Lào, Cambodia, Trung Kỳ và cả Bắc Kỳ nữa. Ông nói thêm một cách u uẩn: “Điều đó, họ sẽ phải trả bằng một giá đắt”(3).

 Nhưng một lần nữa, ông vẫn hy vọng Mỹ sẽ kìm chế được ý đồ thực dân ngoan cố của Pháp. Ông lập luận rằng nếu Mỹ chỉ dùng ảnh hưởng của mình để tác động đến De Gaulle thôi thì cũng có thể đạt tới được một cuộc ngừng bắn ở Việt Nam, trong đó không chỉ riêng Pháp, mà tất cả các nước bạn bè, đều có lợi vì nền độc lập của Việt Nam. Buông người trên ghế một cách thoải mái, ông Hồ tiếp tục nói. Còn tôi thì bị thu hút khá mạnh bởi cái triết lý của cá nhân ông nên không hề ngắt lời ông dù chỉ với một câu hỏi. Ông nói một cách chậm rãi dịu dàng nhưng say sưa và cẩn thận chọn lọc từng chữ một. Ông đã nghĩ tới vấn đề của một cộng đồng Liên Á gồm có ít nhất là Việt Nam, Cambodia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Miến Điện (gồm cả Bengale), một Ấn Độ độc lập, một Indonesia tự do và Philippin. Các nước này và cũng có thể thêm các nước khác nữa cùng làm việc với Mỹ, Anh, Pháp, sẽ góp phần xây dựng một cuộc chung sống hoà bình để phát triển các chương trình mở mang về chính trị và kinh tế vì lợi ích chung.


Tôi thoáng như nghe thấy một cái gì đây rất giống vối khái niệm Khối thịnh vượng chung Đại Đông Á của Nhật. Nhưng ông Hồ đã nhấn mạnh vấn đề tương hỗ giữa các nước bình đẳng với nhau và coi đó là một điều căn bản khác với một tổ hợp khu vực đặt dưới quyền thống trị của Nhật. Ông Hồ coi Mỹ là nước đi đầu trong phong trào nói trên. Ông hỏi, “Phải chăng chính Mỹ đã khai phá ra con đường này ở Philippin?”. Và ông thấy “mây mù bão táp” đã bao trùm Nghị viện Anh trong vấn đề trao trả đất đai của Ấn Độ và Malaysia cho nhân dân, những người chủ có đầy đủ thẩm quyền chính đáng của Ấn Độ và Malaysia.

 Ông Hồ cho rằng chủ nghĩa thực dân là một thứ đã thuộc về quá khứ. Đã gần một thế kỷ nay, chế độ thực dân của bất cứ nước nào, ngay cả các cường quốc hào phóng nhất, cũng đã thể hiện là một chế độ áp bức và lạc hậu. Nhân phẩm con người đã bị huỷ hoại, nền thịnh vượng quốc gia bị tước đoạt ngoài sức tưởng tượng. Nay đã đến lúc phải thay đổi. Để hỗ trợ cho quan điểm của mình, ông Hồ lại đưa ra những nguyên tắc chung mà Roosevelt và Churchill đã nêu lên trong Hiến chương Đại Tây Dương, Mỹ và Anh đã đảm bảo với thế giới rằng họ không tìm kiếm những lợi ích về đất đai; và cũng không khuyến khích những sự cưỡng bách thay đổi đường biên giới ngược lại ý nguyện của nhân dân, mặc dù Anh đã giúp đõ cho Pháp ở Việt Nam và Thái Lan; cả Mỹ và Anh dã nhiều lần tuyên bố công nhận quyền của các dân tộc tự chọn lấy hình thức chính quyền mà họ muốn và người Việt Nam muốn được hưởng đặc quyền đó.

Cả hai nước Mỹ và Anh đều tuyên bố họ thấy cần thiết phải khôi phục lại chủ quyền và quyền tự trị cho các dân tộc đã bị người ta cưỡng đoạt mất. “Tại sao điều đó lại không được áp dụng cho Việt Nam?”, ông Hồ hỏi. Ông đã nhấn mạnh vào sự cần thiết phát triển kinh tế của Việt Nam không phải thuộc Pháp, Nhật và Trung Quốc, hoặc thậm chí cả Mỹ; mà là độc lập đối với mọi sự thống trị của nước ngoài. Như Mỹ và Anh trước đây, Việt Nam chủ trương một sự tự do thông thương trên thế giới, chứ không phải như trước đây chỉ hạn chế vào nước Pháp hoặc Trung Quốc. Không có tự do thông thương, Việt Nam sẽ không bao giờ phồn vinh về kinh tế, và nhân dân Việt Nam như trước đây, sẽ bị chặn lại để chỉ làm những công việc thủ công tầm thường và buôn bán vụn vặt. Nếu đó thực sự là những nguyên tắc cao siêu mà Mỹ và Anh đã phấn đấu trong Thế chiến thứ hai, thì tại sao trong bước khởi đầu thời kỳ hậu chiến, họ đã từ bỏ những nguyên tắc đó và đặc biệt là đã chối từ không áp dụng chúng cho Việt Nam? Đúng là Mỹ đã giúp đỡ cho cuộc đấu tranh của Việt Nam trước đây, và đã tỏ ra có mục đích thành thật ở Philippin.


Tại sao nay Mỹ lại tỏ ra nhu nhược trong khi Pháp vi phạm các nguyên tắc Hiến chương Đại Tây Dương và của Liên hợp quốc? Tôi đã không đáp lại và ông Hồ cũng chẳng chờ đợi câu trả lởi. Đột nhiên ông Hồ ngừng mơ mộng, mỉm cười và nói mong tôi sẽ bỏ qua sự suy tưởng đầy cảm tính của ông. Ông Hồ cho biết, đối với ông, việc bộc lộ những tình cảm thầm kín với người ngoại quốc là một điều khó khăn; nhưng ông coi tôi như là một người bạn rất đặc biệt mà ông có thể thổ lộ tâm tình được. Lần thứ hai trong chiều nay, tôi cảm thấy xúc động trước những thái độ cư xử đối với cá nhân tôi. Cả Giáp và ông Hồ đều biết rằng họ chỉ có thể chờ đợi ở tôi nhiều nhất là một sự thông cảm và mối cảm tình.

 Nhưng đồng thời tôi cũng thấy được họ đã nhân cơ hội thuận lợi của buổi gặp gỡ cuối cùng này để làm sáng tỏ chính bản thân họ và sự nghiệp chính nghĩa của họ một cách tốt nhất. Cho đến lúc đó, họ còn bị cô lập khỏi thế giới Cộng sản, bị các cường quốc ích kỷ bao vây chung quanh, và họ chỉ thấy được số ít người Mỹ mà họ đã có quan hệ giao tiếp. Người Mỹ lại chính là những người đã thấy được các khó khăn trong việc hoàn thành và duy trì nền độc lập của dân tộc cũng do đó mà đối với mối quan hệ không thể hiểu được này, người Pháp ở Đông Dương đã khinh miệt, căm thù và ra sức đả phá bằng mọi cách. Tôi hướng câu chuyện vào đề nghị mới đây của Pháp về một sự thoả hiệp giữa người Việt Nam và chính phủ Paris. Ông Hồ nhắc tôi nhớ lại đề nghị khó hiểu của Alessandri để ông gặp với D'Argenlieu. Với mục đích gì? Ông Hồ đã làm theo lởi khuyên của tôi, nhưng ngay trước khi thu xếp được cuộc gặp gỡ, người Pháp đã bộc lộ sự dối trá của họ và thái độ coi thường hoàn toàn đối với nền độc lập dân tộc Việt Nam. Họ đã đi theo “những con đường mòn cũ” của những tên thực dân Pháp. Logged ngao5 Cựu chiến binh


 * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #94 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:04:29 PM » Ông Hồ nhận xét một cách châm biếm rằng Sainteny, con rể của cựu Toàn quyền Albert Sarraut không những đã chối từ không chịu nói chuyện với ông trong tháng 7, mà cả đến tháng sau, ở Hà Nội, Sainteny đã tỏ ra hoàn toàn không có thiện cảm đối với sự nghiệp chính nghĩa của người Việt Nam trong khi hội đàm với Giáp. Còn về Alessandri? Người Pháp đã dựng ông lên thành một “anh hùng kháng chiến”. Nhưng chống ai? Chống Nhật ư? Hay chống chính ngay người Việt Nam yêu nước? Nhưng chắc chắn là không phải chống lại chính quyền Decoux hợp tác với bè lũ Vichy và bọn phát xít Nhật.


Lịch sử mới đây còn ghi nhận vai trò của Alessaildri là một người lãnh đạo đã tích cực tham gia vào chương trình Mordant. Chính những người Pháp không được cải tạo này lại muốn nhân danh “nước Pháp mới” để nói về tương lai của Việt Nam. Cái tương lai duy nhất mà họ muốn và sẽ thảo luận chỉ là sự tiếp tục của một “xứ Đông Dương thuộc Pháp” cũ, một vấn đề không còn có giá trị nữa. Tôi hỏi xem có phải ông Hồ đóng kín cửa cho mọi cuộc đàm phán sau này với nước Pháp không. Không, ông nói, ông sẵn sàng thảo luận về các vấn đề Việt Nam, nhưng những cuộc thảo luận như vậy phải được xúc tiến trên cơ sở của lòng tin cậy lẫn nhau như những người bình đẳng, và đó cũng không phải là như trường hợp hiện nay. “Còn xung quanh vấn đề người Trung Quốc thì sao?”, tôi hỏi tiếp. Ông đứng dậy, quay lưng lại và đi về phía cửa sổ. “Có thể thấy trước được.”.

 Trở lại ghế ngồi, ông nói thêm, “một khi họ đã cuỗm được tất cả cái gì họ có thể mang đi được, thì họ sẽ rời Việt Nam trở về Trung Quốc”. Nhưng, trước khi rút lui, họ còn phải gây ra tai hoạ cực kỳ to lớn cho đất nước này, không những về phương diện kinh tế mà còn cả về chính trị. Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội sẽ gây chia rẽ giữa người Việt Nam với nhau, còn các viên tướng Trung Quốc chắc chắn sẽ giao dịch với người Pháp để gây ra những sự thù nghịch đối với lợi ích tối cao của Việt Nam. Ông Hồ lấy Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Đồng minh Hội làm ví dụ. Ngày hôm trước, Thần đã đề nghị với ông Hồ cụ thể “về một Hiệp định thống nhất” - một chính phủ có cơ sở mở rộng gồm Đồng minh Hội, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Minh cùng một ít đại diện các đảng Quốc gia khác.

Theo đó, ông Hồ sẽ nhường chức Chủ tịch cho Thần, còn ông Hồ sẽ đảm nhiệm chức Phó Chủ tịch và Cố vấn cao cấp. Sẽ giao cho mỗi đảng nói trên ¼ các Bộ trong Chính phủ, phần còn lại sẽ chia cho các đảng phái nhỏ khác. Ngược lại, ông Hồ, Việt Minh và Chính phủ mới sẽ nhận được sự ủng hộ đầy đủ nhất của Quốc dân Đảng (Trung Quốc) để chống lại mọi cố gắng của Pháp nhằm chiếm lại Bắc Kỳ. Ông Hồ đã tiếp nhận đề nghị trên với nhiều sự dè dặt và cũng không bác bỏ nó một cách hoàn toàn. Thần đã không hay biết gì việc ông Hồ đã biết rõ về cuộc điều đình của Pháp với Thần trong tuần lễ có liên quan đến sự hợp tác Pháp - Hoa - Việt.

Người Pháp đã cho biết là ngay sau khi người Tmng Quốc rút về, họ sẽ thực hiện bản Tuyên bố 24-3, và công nhận một Chính phủ liên bang cho Đông Dương, được đặt dưới hình thức này hay hình thức khác, trong Liên hiệp Pháp và “theo những điều khoản thuận lợi nhất cho người Việt Nam”. Nếu lúc đó tồn tại một Chính phủ không Cộng sản thì chắc chắn là nước Pháp sẽ công nhận ngay. Tất nhiên Đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng đều là chống Cộng, vì thế mà điều trở ngại chủ yếu sẽ được khắc phục. Ý đồ của người Pháp là muốn thấy Việt Minh bị vô hiệu hoá, và họ dựa vào những người Quốc gia thân Trung Quốc để làm việc này. Người Pháp cho rằng Thần có thể thực hiện được điều nói trên và họ đã điều đình với Thần mà họ đã lầm cho là một con người “mềm mỏng” chứ không phải là một lãnh tụ nhu nhược ngoại hạng. Cuộc điều đình đã không phải không làm cho tướng Tiêu Văn và Quốc dân Đảng (Trung Quốc) hài lòng, vì cái mà họ sợ nhất chính là Hồ Chi Minh do “Moskva đào tạo” và “Việt Minh có xu hướng Cộng sản ghê gớm”.

Khi tôi hỏi ý kiến ông Hồ về đề nghị của Thần, ông đáp lại dó là điều cũng có thể nhưng không có khả năng tiếp nhận được. Nó có thể làm trì hoãn cuộc đụng đầu không thể tránh khỏi với người Trung Quốc và hoặc với người Pháp. Nhưng ông tỏ ra hoài nghi đối với sự hợp nhất đã được đề ra và gần như tin chắc rằng nếu không có sự lãnh dạo của Việt Minh thì sự nghiệp đấu tranh cho độc lập sẽ bị thất bại. Đồng minh Hội hoặc Việt Nam Quốc dân Đảng có thể duy trì cái vỏ bên ngoài một chính phủ độc lập khi nào họ còn được người Trung Quốc nâng đỡ. Nhưng bất kỳ họ được dựng lên bằng cách nào đi nữa thì họ vẫn được đặt dưới quyền kiểm soát của người Pháp, người Trung Quốc sẽ chỉ tiếp tục ủng hộ họ trong điều kiện phù hợp với kế hoạch bóc lột về kinh tế của Trung Quốc.


Người Trung Quốc chỉ ngăn chặn người Pháp cho tới khi cuộc điều đình của họ giữa Paris và Trùng Khánh đạt được thắng lợi. Lúc đó họ sẽ rút lui và cái chính phủ bù nhìn thân Trung Quốc sẽ bị bỏ rơi và bất lực trong việc đụng đầu với đội quân Leclerc của Pháp; và nước Việt Nam một lần nữa trở thành thuộc địa Pháp. Lương tâm không cho phép ông Hồ để xảy ra tình trạng đó. Ông sẽ tìm ra phương pháp để làm chủ được tình hình dù có phải ra bưng biền chiến đấu, như ông dã từng gợi ý trước đó vài hôm. Đêm đã khuya, tôi chuẩn bị xin rút lui; nhưng ông Hồ nói tôi nán ngồi lại. Tôi lại ngồi xuống, ông cảm ơn tôi vì đã tỏ ra thận trọng, đã không bao giờ giục giã, kèo nài tin tức, đã tôn trọng và giữ kín đáo các ý kiến của ông. Ông cũng cảm tạ điều tôi đã không bao giờ hỏi ông về bối cảnh hoạt động của ông, mặc dù, ông biết rằng tôi cũng thông thạo nhiều giai đoạn trong cuộc đời của ông. Ông mô tả vắn tắt cuộc viễn du “khắp thế giới” của ông cho tôi hay là ông đã ra đi từ lúc lên 10, hoặc ít tuổi hơn nữa.


Ông nói có một anh và một chị, tỏ ra thương yêu sâu sắc bà mẹ già và người chị gái, và cho rằng những người đó đã có ảnh hưởng rất lớn đến xu hướng chính trị của ông. Trước đây tôi tưởng quê ông ở miền bắc Bắc Kỳ, nhưng ông nói ông sinh trưởng ở một làng nhỏ Trung Kỳ, Hoàng Trù, và lớn lên tại làng Kim Liên, quê bố. Cha ông đã trở thành một công chức nhỏ tại triều đình Huế. Khi ông Hồ chưa đầy 8 tuổi, cha ông đưa cả gia đình vào sồng ở Huế vài năm, sau lại chuyển về Kim Liên. Ông Hồ cũng nói một vài nét về sự nghèo nàn của nông dân các thôn xóm nhỏ dưới cái mà ông Hồ gọi là “chế độ cũ” và cả về đời sống vô tích sự của giới quan lại ở Huế. Khi ông Hồ 15 tuổi, cha ông lại trở về Huế.

Ông Hồ đi học ở đó và đã rất bực bội vì kiểu cách theo phương Tây của người hiệu trưởng và một số thầy giáo. Ông cho là họ kiêu căng, nghiệt ngã và khinh miệt nông dân, công nhân và dân buôn bán. Ông Hồ tả cho tôi biết nhà trường lúc đó chỉ là “một cái vũng nước chứa đầy tư tưởng của phương Tây đang tuôn ra một nền triết lý thực dân để vun trồng một mớ những tên đầy tớ ngoan ngoãn có lợi cho nước Pháp”. Trong những năm sau khi mẹ ông mất vào khoảng 1900, ông Hồ không chịu đựng nổi sự kiêu ngạo của người Pháp cũng như thái độ thụ động của người Việt, nên đã quyết định sang Pháp, đất nước của tự do, bình đẳng và bác ái.


Mùa đông 1911 - 1912, ông đã xin làm nhân viên trên một tàu buôn Pháp ở bến Sài Gòn. Ông cho tôi hay là đã lên dường như một thuỷ thủ và đã xuống cảng Marseille. Những cảnh phạm tội, cướp đoạt, giết chóc, đĩ thoã thường xuyên của bến cảng đã làm ông vỡ mộng; ông buồn rầu tự hỏi tại sao người Pháp lại không tẩy trừ những giống quỷ quái đó của chính họ trước khi họ muốn dạy dỗ và “văn minh hoá” người Việt Nam. Nhưng đồng thời ông cũng lại thấy được rằng nhân dân Marseille đối xử với ông một cách lịch sự, trong khi người Pháp ở Việt Nam đã rất trịch thượng đối với người Việt Nam. Ông Hồ cũng kể lại những chuyến đi sau này tới Bồ Đào Nha, Italia và Tây Ban Nha, nhưng ở đấy ông không bao giờ vượt quá khư vực các hải cảng.

Ông đã đến nhiều cảng Đông và Bắc Phi, và đã có một lần thăm Congo và Madagassca. Ở đâu ông cũng quan sát thái độ của người da trắng đối với người châu Á và dân đa đen Phí Châu. Đâu cũng giống như ở Việt Nam. Ông nói với tôi: “Thực là tồi tệ!”. Tôi tò mò biết điều gì đã làm cho ông quyết tâm lựa chọn con đường chủ nghĩa Cộng sản. Ông Hồ cho biết ông đã không đi thẳng ngay vào chủ nghĩa Cộng sản, mà đã tới với triết lý Cộng sản thông qua chủ nghĩa xã hội. Trong thực tế, ông vẫn chưa coi ông là một người Cộng sản thật sự mà chỉ là một người “dân tộc - xã hội”. Ở Anh vào năm 1913, ông đã gặp một nhóm người châu Á, phần lớn là người Trung Quốc và người Mã Lai đang chống lại chủ nghĩa thực dân (chủ yếu là Anh) và đã để nhiều thì giờ trao đổi những vấn đề giúp đỡ nhau tại câu lạc bộ “Các công nhân hải ngoại”. Họ đã thảo luận về các cuộc đàn áp chính trị của thực dân trong các thuộc địa Anh, Pháp, Hà Lan và Bồ Đào Nha.

Ông Hồ nói rằng, lần đầu tiên, ông đã thấy có thể làm được gì đó để cải thiện số phận của nhân dân ở trong nước ông và cũng chỉ bằng các hoạt động chính trị phối hợp mới có thể làm cho nhân dân Việt Nam được đối xử như một cái gì cao hơn là những đầy tớ của Pháp. Ông quyết định trở lại Pháp vì được tin ở đó có một số trí thức Việt Nam đã đề xuất ra những chương trình cải cách chính trị xã hội cho Việt Nam. Sau Thế chiến thứ nhất, ông lao vào hoạt động chính trị và gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Ông viết bài cho tờ báo xã hội, Le Populaire, về các vấn đề Việt Nam và các vấn đề thuộc địa nói chung khác. Qua những buổi tiếp xúc ban đầu với giới chính trị, ông đã gặp Jean Longuet, người cháu của Karl Marx, Uỷ viên Nghị viện lập pháp. Longuet đã khuyến khích ông tiếp tục cộng tác, và với sự giúp đỡ của các nhà báo tự do có cảm tình, ông Hồ đã viết cho báo chí Xã hội và Cộng sản những bài chống chế độ và thân Việt Nam. Với một nụ cười như để cáo lỗi, ông Hồ công nhận với tôi là mặc dù ông đã tham gia vào tất cả các hoạt động chính trị nhưng thực ra ông chỉ theo đuổi một mục đích duy nhất nhằm cải thiện số phận của chính nhân dân ông. 

Bấy giờ, ông không thể hiểu được, mà cũng không quan tâm đến phong trào và chính cuộc quốc tế. Ông không hiểu rõ chủ nghĩa Xã hội, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Lao công, và cả đến cái mà một đảng chính trị phải làm. Theo ông Hồ, lúc đó trong đảng, người ta thảo luận sôi nổi các vấn đề như tham gia Đệ nhi Quốc tế, Đệ tam Quốc tế, Công nhân và Phong trào thế giới, Đảng Xã hội với cuộc Cách mạng Bolshevik tháng 10 và vấn đề đi theo Đệ tam Quốc tế của Lénin. Trong một thời gian dài, ông nói ông lấy làm lạ về những gì đã diễn ra trong Đệ tam Quốc tế, và chúng tôi đều cười. Người ta chỉ phát biểu về các phong trào thế giới, các cuộc cách mạng vô sản v.v… và ông không hề thấy ai nói tới vấn đề của thế giới thuộc địa. Ông cảm thấy thất vọng và mất tin tưởng. Ai cũng có thiện cảm với ông, họ đối xử với ông như một người bình đẳng và gọi ông là “đồng chí” hay là “ông Quốc”. 

Nhưng những người bạn mới này vẫn coi vấn đề thuộc địa là không quan trọng, một vấn đề nhỏ hẹp chỉ sẽ được giải quyết ở mức thứ yếu. Một hôm, ông Hồ nêu lên câu hỏi giản đơn xem Quốc tế nào đã đứng về phía các dân tộc thuộc địa và được một tâm hồn tốt lành nhủ cho biết là: “Đệ tam” và người ta đã mang tới cho ông bản Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lénin. Ông Hồ nói, “Đó là một bước ngoặt lớn trong đời tôi!”. Rốt cuộc ông đã tìm được một điểm tựa. Ông vô chung xúc động bởi phong cách và sự hiểu biết sâu sắc của Lénin. Ông trở thành một người đi đầu theo chủ nghĩa Lénin, tích cực tham gia các cuộc hội thảo chính trị của đảng và mạnh mẽ lên tiếng ủng hộ Đệ tam Quốc tế. Ông đọc và nghiên cứu mọi tài liệu về vấn đề thuộc địa và dân tộc mà ông gặp. Ông được nhiều đảng viên thông thái giúp đỡ và ông đã vận động Đảng Xã hội gia nhập Đệ tam Quốc tế. Đến Đại hội VIII Đảng Xã hội Pháp ở Tours tháng 12-1920, ông Hồ cùng với các phần tử cánh tả trong đảng bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp và xin gia nhập vào Đệ tam Quốc tế (Comintern).

 Ông Hồ bình luận với tôi là thực tế cũng có rất ít người trong các giới chính trị quan tâm đến vấn đề thuộc địa, nên ông thấy không có sự lựa chọn nào khác. Ông Hồ cũng đã lớn tiếng bày tỏ ông dã sai lầm như thế nào khi nghĩ rằng người Pháp, Anh và người Cộng sản Nga sẽ quan tâm đến vấn đề Việt Nam. “Trong tất cả những năm tiếp theo, không một trong những phần tử gọi là tự do này đã đi tới giúp đỡ cho các dân tộc thuộc địa. Tôi đặt nhiều tin tưởng vào Mỹ trong việc ủng hộ cho nền độc lập của Việt Nam, trước khi tôi có thể hy vọng vào sự giúp đỡ của Liên Xô”. Ông Hồ nói rằng người Mỹ coi ông như là “bù nhìn của Moskva”, “một người Quốc tế Cộng sản”, chỉ vì ông đã ở Moskva và nhiều năm ở nước ngoài. 

Nhưng ông nói, ông không phải là một người Cộng sản theo nghĩa của Mỹ hiểu. Ông không có một sự cam kết nào khác. Ông tự coi mình là một nhà hoạt động cách mạng độc lập. Nhưng nếu tình thế biến chuyển tới một điểm cao, ông nói ông sẽ bắt buộc phải tìm kiếm cho được đồng minh, nếu như đã chẳng tìm được ai, nếu không thế thì người Việt Nam sẽ phải đi tới một mình. Đến lúc đó đã là quá muộn và một lần nữa tôi lại đứng dậy xin cáo lui. Ông Hồ kéo chiếc đồng hồ cũ ra xem giờ và hỏi tôi ngồi thêm một phút nữa được không? Và tôi lại ngồi xuống. Ông Hồ yêu cầu tôi mang về Mỹ một bức thư đầy tình hữu nghị và ca tụng nồng nhiệt nhân dân Mỹ. Ông mong rằng người Mỹ phải biết là nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ quên Mỹ là bạn và đồng minh. Họ mãi sẽ biết ơn về sự giúp đỡ vật chất mà Việt Nam đã nhận được, nhưng điều quan trọng hơn cả là vấn đề tấm gương lịch sử của nước Mỹ đã nêu cho Việt Nam, trong cuộc đấu tranh của họ để giành độc lập. Ông Hồ tiễn tôi ra tận cửa ngoài, cám ơn tôi đã tới và đã chịu nghe ông “diễn thuyết”. 

Ông đặt hai tay lên vai tôi và chúc “Bon voyage! Mong sớm quay trở lại. Lúc nào ông cũng được chúng tôi hoan nghênh!”. Khi xe nổ máy, tôi nhìn lại vẫn thấy bóng nhỏ nhắn của ông ở cửa, vẫy chào tạm biệt. Tôi sực nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi trong một tiệm trà ở Chiu Chou Chieh. Ông hiện ra mong manh đấy nhưng thực tế thật là bất khuất. Chú thích () Chúc lên đường may mắn () Ba mươi năm sau, hình như Giáp vẫn còn phân vân đối với mối thiện cảm và sự ủng hộ của tôi với cuộc đấu tranh vì độc lập của nhân dân Việt Nam. Xem “Những năm tháng không bao giờ quên”, Võ Nguyên Giáp. () Trong năm 1945, vấn đề Lào và Cambodia không bao giờ được coi như là những vấn đề của các thực thể chính trị riêng biệt. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh vì độc lập của nân dân Việt Nam, tổ hợp 3 nước Đông Dương đã được chuyển qua khái niệm Pháp thành “Liên bang Đông Dương thuộc Pháp”.

Trong những lần khác nhau, tôi có hỏi Trường Chinh và Hoàng Minh Giám để biết rõ vấn đề gõi Việt Nam là một quốc gia mà lại dùng danh từ Đông Dương để đặt cho Đảng Cộng sản Đông Dương. Cả hai đã giải thích là ở đây không có gì mâu thuẫn vì từ khi 3 nước bị đặt dưới sự cai trị của Pháp đã phát triển những đặt điểm chung về địa lý, chính trị và quyền lợi kinh tế. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #95 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:06:42 PM »





 Phần IV
 HẬU QUẢ


 Chương 36 
Chim hải âu của nước Mỹ

 I. Ở Washington tôi đã thấy có những thay đổi khá mạnh mẽ trong cảnh tượng sau chiến tranh. Phần lớn những người cộng tác cũ với tôi đã quay trở lại cuộc sống dân thường, và trong cơ quan của OSS ở cuối đại lộ Hiến Pháp chỉ có một số ít văn phòng còn tiếp tục mở cửa. Rõ ràng có thể thấy ở đây đang diễn ra một sự chuyển biến nổi bật sang một thời kỳ nhàn nhã thảnh thơi. Khi tôi tới là vào giữa tháng 11 và được vào làm việc trong một cơ quan quan trọng, ở đó tôi có nhiệm vụ khởi thảo kế hoạch về Đông Dương và giữ liền lạc với Bộ Ngoại giao và Bộ Chiến tranh. Trước một đống báo cáo và điện tín dồn dập từ khắp nơi: Sài Gòn, Hà Nội, Côn Minh, Thượng Hải và Kandy gửi về, tôi cảm thấy mình trở thành lạc lõng và vô tích sự. Tất cả đều báo hiệu trước một sự trở lại nguyên trạng cũ ở Đông Dương.

Việc chúng tôi rời khỏi sân khấu khu vực này đã được người ta coi như một sự chấp nhận chính thức của Mỹ cho việc Pháp quay trở lại. Trong giới chính quyền ở Washington, những lời tuyên bố cao thượng trong thời kỳ chiến tranh về tự do, công bằng và tự quyết đã nhanh chóng bị chìm ngập trong cuộc xô đẩy vội vàng để đưa nước Mỹ trở lại thời kỳ trước chiến tranh. Dĩ nhiên, chúng tôi đã có một Tổng thống mới và một Bộ trưởng Ngoại giao mới, nhưng cả hai đều có thể bị khuất phục trước những áp lực to lớn về chính trị - kinh tế từ trong và ngoài nước. Ê kíp mới ở Nhà Trắng đã không có gì gắn bó và phần lớn cũng đã không tham gia vào cái viễn vọng của Roosevelt về một thế giới hoà bình, thoát khỏi mọi sợ hãi và thiếu thốn.

Nền chính trị đối nội và đối ngoại của chúng tôi đang ở trong tình trạng hỗn loạn, đầy rẫy những nghi ngờ, xung đột, đấu tranh và ngập ngừng. Sản xuất chiến tranh đã đột ngột dừng lại và luồng nhân lực mới được giải ngũ ào tới đã gây nên vấn đề không có công ăn việc làm cực kỳ to lớn; sự bất lực của công nghiệp nhằm nhanh chóng chuyển các xí nghiệp sang sản xuất vật dụng thời bình, đã làm cho giới lãnh đạo nhà nước hoảng sợ. Thị trường thế giới bị tan vỡ và khủng hoảng làm tăng thêm các khó khăn trong nước.


Các nước châu Âu và châu Á đúng trước nhiệm vụ phải phục hưng đất nước, đang trông cậy vào nước Mỹ vẫn còn được nguyên vẹn để cứu trợ và lãnh đạo họ trong việc khôi phục lại nền kinh tế. Từ trước Thế chiến thứ hai, chính sách đối ngoại của Mỹ đã phản ảnh một thứ chủ nghĩa bành trướng áp đảo trong lãnh vực tài chính và thương mại Chính sách tiềm tàng này đã dẫn đến việc thiết lập một cách không tự giác trên toàn thế giói, một mạng lưới các khu vực ảnh hưởng kinh tế, phục vụ quyền lợi các tập đoàn kinh doanh và các giới kinh tài có đặc quyền đặc lợi.


Việc bảo vệ quyền lợi của các tập đoàn đó đòi hỏi phải có những người đại diện trung thành của họ tham gia vào việc ấn định và thi hành mọi chính sách và luật lệ của đất nước. Ngay trước Thế chiến thứ nhất, Washington đã trở thành nơi đất thánh của các thế lực muốn gây ảnh hưởng trong Nghị viện, và của các nhóm có đặc quyền đặc lợi. Tình hình đúng như điều Bộ trưởng Quốc phòng C.E. Wilson đã nêu ra sau Thế chiến thứ hai, “Cái gì tốt cho hãng Général Motor, đều là tốt cho đất nước”. Và cũng từ đó, các nhà kinh tế học đã đề xuất ra cái học thuyết là tư bản ngự trị trên tất cả và phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào.


Những năm tháng trong Thế chiến thứ hai đã khẳng định học thuyết này; các nhà học giả đã rút ra được và suy tôn ý kiến là nền an ninh quốc gia của Mỹ đã được gắn chặt không thể gỡ ra được với sự kiểm soát thị trường và tài nguyên bên ngoài bằng liên kết trong nền thống trị về chính trị và quân sự. Vì thế cho nên, ngay trước khi danh từ “tổ hợp quân sự - công nghiệp” ra đời, các cấp chóp bu trong chính quyền chúng ta cùng với các phần tử thống trị của tập đoàn kinh doanh và ngân hàng, mang quân phục hay thường phục, đã lớn tiếng kêu gọi phải bảo vệ quyền lợi kinh tế Mỹ trên khắp thế giới chống lại sự xâm lược của các nước Xã hội chủ nghĩa.

Sau thất bại của các nước trong phe Trục, chỉ có hai nước Liên Xô và Mỹ nổi lên như là các siêu cường quốc, một tình thế mà Tổng thống Roosevelt đã dự kiến, nhưng Tổng thống Truman đã không muốn và cũng không chấp nhận. Sự hợp tác trong thời kỳ chiến tranh giữa hai nước đã chấm dút và Liên Xô đã trở lại thành nước thù địch đối với các nước không Cộng sản, đặc biệt là Mỹ, như thời kỳ trước chiến tranh. Các lãnh tụ Liên Xô tuyên bố “bọn con buôn chiến tranh” ở Mỹ (giới trùm kinh tài) đang âm mưu chống lại Liên Xô, việc khuếch trương chủ nghĩa Cộng sản là cần thiết cho nền an ninh Xô viết, và chủ nghĩa Cộng sản nhất định sẽ chiến thắng chủ nghĩa Tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Chính quyền mới theo dõi một cách lo ngại sự bành trướng thế lực, tư tưởng và kinh tế của Liên Xô vào Trung Âu và châu Á.


Và trong một mưu đồ tuyệt vọng nhằm ngăn chặn “làn sóng đỏ”, không cho nuốt chửng các đất đai phụ thuộc, Tổng thống Truman đã không công bố chính sách ngăn chặn và thi đua kinh tế, đặc biệt bằng cách thông qua sự viện trợ cho các nước kém phát triển. Điều này đã đặt các siêu cường và các nước có quan hệ gắn bó với họ vào một cuộc xung đột giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa Tư bản. * Trong những công văn đầu tiên chuyển qua cơ quan của tôi, có một bức điện đề ngày 5-10 của Bộ trưởng Ngoại giao Acheson gửi cho Roberton, đại biện Đại sứ quán chúng ta ở Trung Quốc, báo cho ông ta biết rằng Mỹ “không phản đối mà cũng không ủng hộ việc thiết lập lại nền cai trị của người Pháp ở Đông Dương”.

Nhưng Mỹ tỏ ra “hài lòng” khi thấy quyền cai trị của Pháp “được thiết lập trên cơ sở của một kết luận trong tương lai về sự ủng hộ của dân chúng đối với các yêu sách của Pháp”. Đây chẳng qua chỉ là nhũng lời quanh co, giả nhân nghĩa để nhằm làm dịu bớt nỗi lo lắng của Pháp đối với việc không tán thành của Mỹ. Nhưng đã đến lúc Pháp phải giữ một vai trò then chốt trong kế hoạch Mỹ nhằm thực hiện một sự tập hợp đội ngũ chính trị và kinh tế mạnh mẽ với Anh ở hàng đầu ở châu Âu và châu Á.


Trở ngại chủ yếu vẫn là Charles De Gaulle. Sự thù địch của Truman đối với ông này đã vượt xa những sự bực bội của Roosevelt, và đã phản ánh đúng thái độ chính thức của Mỹ đối với nước Pháp. Tổng thống cho De Gaulle là người nóng nảy, kiêu kỳ và không dáng tin cậy về mặt chính trị. Ông nghi ngờ những sự cố gắng của De Gaulle vì trong mùa đông 1944, đã có hành động chập chờn giữa Đông và Tây qua việc De Gaulle bay tới Mátxcơva để điều đình về một Hiệp ước hữu nghị với người Nga mà một năm sau điều đó đã được coi như là một thất bại hoàn toàn.


Tổng thống cũng được biết việc Stalin tỏ ra khinh miệt ra mặt đối với “người Pháp suy đồi” và Stalin đã phản đối việc mời người Pháp tham dự hội nghị Yalta cũng như hội nghị Postdam, việc cho đến cuối năm 1945, De Gaulle vẫn tiếp tục theo đuổi sự ủng hộ của Cộng sản ở trong và ngoài nước. Tổng thống Truman cũng không lạ gì các luận điểm được nhắc di nhắc lại của De Gaulle nhằm cô lập nước Mỹ khỏi thế giới qua chủ trương của ông cho rằng chỉ có thể xây dựng sự thống nhất của châu Âu dựa trên ba cực: London, Paris và Mátxcơva. Truman tin chắc rằng De Gaulle sẽ ngả theo Liên Xô nếu điều đó trùng hợp với lợi ích của Pháp.


 Ở đây cũng còn vấn đề De Gaulle luôn luôn nhấn mạnh việc ông phải được đối xử như đối với Mỹ, Anh và Nga trong một châu Âu sau chiến tranh. Tháng 8-1945, ở Washington, De Gaulle đã không hề giấu giếm cái viễn cảnh một nước Pháp đảm nhận vai trò lãnh đạo khối Tây Âu chống lại cả Liên Xô và Mỹ - mà chủ yếu là Mỹ. Trong các cuộc đàm thoại về vấn đề này, De Gaulle đã không che giấu mối bất bình của mình đối với ảnh hưởng của Mỹ, đã gạt bỏ các nguyện vọng của Pháp trong kế hoạch sau chiến tranh muốn được tái kiến thiết lại đất nước trên sự hoang tàn của Đức, và trở thành một trung tâm kinh tế và công nghiệp ở châu Âu. Truman đã đặc biệt phiền lòng với cái tính tự cao tự đại của De Gaulle trong việc đòi cho nước Pháp quyền kiểm soát vùng tả ngạn sông Rhin và quốc tế hoá vùng Ruhr, để Pháp có phần trong sản xuất và phân phối các tài nguyên vùng đó. Sau hết, khi vấn đề các căn cứ quân sự Mỹ trong kế hoạch phòng thủ toàn cầu được nêu lên,


 De Gaulle đã tỏ ra không tha thiết với việc cho nhường lại hoặc hợp tác với Mỹ trong vấn đề có liên quan đến đất đai của Pháp - một điều mà Truman không quên một cách dễ dàng. Trong bầu không khí chống đối và không tin cậy đó, Truman không có ý muốn viện trợ tài chính đặc biệt hoặc ủng hộ chính trị cho Pháp, và thay vào đó, đã gợi ý là tốt nhất Pháp phải loại những người Cộng sản ra ngoài chính phủ và đánh giá lại phương hướng hoạt động của mình trong tương lai. Sau các cuộc hội đàm, De Gaulle có cảm giác là Mỹ đã không đối xử với Pháp như là một cường quốc hạng nhất, còn Truman lại bị ám ảnh bởi những nghi ngờ nghiêm trọng xung quanh xu hướng ngả về Liên Xô và chủ nghĩa Cộng sản của Pháp. Đó thực là một khởi điểm đáng buồn trong mối quan hệ của Pháp - Mỹ sau chiến tranh.


Và, với những vấn đề quan trọng đó ở tuyến đầu, trong quan điểm của Mỹ, tương lai Việt Nam chỉ là một vấn đề hết sức ngoài lề. * Dưới chủ trương của phương châm chỉ đạo lúc đó, tôi thấy các báo cáo của các Đại sứ quán chúng ta từ Paris và Trùng Khánh gửi về đầy những mâu thuẫn. Chúng không chỉ chống lại cái mà chúng tôi đã làm ở Đông Dương, mà còn gây thiệt hại cho quyền lợi quốc gia của chúng ta; nhưng qua đó chúng tôi cũng thấy được rằng Nhà Trắng đã biết được đến đâu, chẳng rõ có ai chú ý đến vấn đề này không. Đại sứ Caffery ở Paris báo cáo là ngày 22-9 ông đã có một cuộc hội đàm với Philippe Baudet ở Bộ Ngoại giao Pháp. Baudet đã mô tả Việt Minh “đã được tổ chức ít nhiều theo chủ trương đường lối Cộng sản” và “có liên lạc mật thiết với Phái đoàn Xô viết tại Trùng Khánh”, nhưng lúc đó ông cũng có ý kiến là “Việt Minh không phải là một tổ chức Cộng sản”. Baudet nói rằng ở miền Bắc Đông Dương, đảng Cộng sản “đã ít nhiều biến mất, không còn là đảng Cộng sản nữa và đã thể hiện ra như là đã bị thu hút vào trong Việt Minh”.


Tôi rất ngạc nhiên khi thấy bức điện từ Paris gửi về chỉ nhắc lại những tin tức thất thiệt của Pháp, trong khi mà qua suốt 6 tháng trước đây, đã có rất nhiều báo cáo và điện tín liên quan tới Đông Dương được gửi tới cho Caffery ở Paris. Để kết luận, Baudet đã bày tỏ với Caffery “sự đánh giá sâu sắc của Pháp đối với việc chuyên chở mà Mỹ đã giúp đỡ ở Thái Bình Dương” và nhấn mạnh vào tầm quan trọng có được tàu bè “của người Anh cấp để đưa sang Đông Dương số quân Pháp cần thiết cho việc lập lại trật tự ở đây”. Rõ ràng đó là những tàu bè mà tướng Leclerc đã sử dụng để đưa quân đội của ông ta tới Sài Gòn. Và sau đó, vào tháng 10 và tháng 12, các tàu này đã chuyển quân Pháp tới Hải Phòng. Ngày 15-1-1946, Bộ trưởng Chiến tranh đã được Bộ Ngoại giao báo cho biết “việc sử dụng các tàu chiến và máy bay mang cờ Mỹ để chuyên chở quân đội của bất cứ nước nào đến hoặc đi khỏi Nam Dương quần đảo hay Đông Dương thuộc Pháp, cũng như việc cho Pháp dùng các tàu bè trên để chở vũ khí, đạn dược, và các thiết bị quân sự tới các vùng này”, đều trái với chính sách của Mỹ.


Nhưng chỉ 3 ngày sau, khi H.F. Mathews, thủ trưởng vụ châu Âu, xin chỉ thị Acheson về việc Anh đề nghị chuyển giao cho Pháp khoảng 800 xe jeep và ô tô vận tải, lúc đó ở Sài Gòn và trước đây Anh đã nhận được từ viện trợ vay mượn. Acheson đã trả lời “Tổng thống cũng nghĩ rằng chúng ta sẽ đồng ý cho chuyển giao số xe” với lý do là việc điều động các thiết bị này sẽ “không thể thực hiện được”. Việc chuyển giao các khí tài quân sự nói trên đã thể hiện rõ ràng là các chỉ thị hiện hành đã được uốn nắn lại. Từ giữa tháng 11-1945 đến tháng 3-1946, cơ quan tôi đã nhận được các bản sao của nhiều bức điện và thư của Hồ Chí Minh gửi cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, và Liên hợp quốc. Đó là những lời khẩn thiết kêu gọi can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc đã hình thành trong Hiến chương Đại Tây Dương và vì lý do nhân đạo. Các văn kiện trên chủ yếu yêu cầu một sự ủng hộ chính trị trong việc giành độc lập của người Việt Nam, nêu ra ví dụ của Mỹ ở Philippin và bày tỏ hy vọng là người Pháp sẽ noi gương người Mỹ.


 Tôi hỏi Bộ Ngoại giao xem các thư từ và điện tín này đã được trình bày chưa hoặc ít ra thì cũng đã được ai đó có thẩm quyền xem xét một cách nghiêm chỉnh không; và tôi đã được nói cho biết rằng “Chính phủ” Việt Nam Dân chủ Cộng hoà không được Mỹ công nhận và sẽ là một điều không thích đáng “nếu như Tổng thống hoặc một người có chức quyền nào khác xem xét tới các tài liệu đó”. Hơn nữa, Mỹ “đã cam kết” dựa vào người Pháp hơn là dựa vào những người Việt Nam Quốc gia để nhằm thực hiện những bước đi xây dựng tiến tới nền độc lập của Việt Nam. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #96 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:08:43 PM » Cuộc tuyển cử ngày 6-1-1946 đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, A.B. Moffat, đứng đầu Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ Ngoại giao có đến gặp tôi.


Ông hỏi những tin tức mật về Hồ Chí Minh và tôi đã cung cấp cho ông những gì mà tôi có. Rất nhiều, đặc biệt là công việc ông Hồ làm ở Quốc tế Cộng sản (Comintern) và sự tham gia của ông với Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng, trước hết, tôi nhấn mạnh đến tính chất dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ - cái điều trước tiên phải là một người Việt Nam yêu nước rồi thứ đến mới là người Cộng sản. Ông Hồ cố gắng một cách tuyệt vọng muốn “đóng hàng” đất nước mới ra đời của ông với các nước phương Tây và muốn xoá bỏ những lời lên án của Pháp cho ông và Việt Minh của ông là tay sai của Mátxcơva, nhưng chúng ta đã không ghi nhận tín hiệu đó của ông. Khi tôi đang theo dõi kết cấu tình hình ở Đông Dương thì lại đúng là lúc tôi phải tiếp tục những công việc khác không có liên quan gì tới Viễn Đông. Nhưng cũng chính vì thế mà sự quan sát của tôi tỏ ra đúng mức, và tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng rằng không có một sự chống đối nào lại có thể làm cho Việt Nam chuyển hướng khỏi cuộc đấu tranh vì độc lập của họ, dù cho họ phải trả bằng giá nào và điều dó phải kéo dài đến đâu.


Thật đáng tiếc là chính đất nước chúng ta đã không chịu nhìn nhận cho hết thực tế này và đã không vạch ra được một phương hướng có thể đáp ứng lại những quyền lợi tối cao của chúng ta. Có thể nghĩa là hoàn toàn đứng ngoài sự việc trên và giữ vững một thái độ thực sự trung lập, một cách cụ thể và theo quan điểm đã được vạch ra của chúng ta. Tình hình Đông Dương diễn biến theo chiều hướng đã được dự đoán. Người Trung Quốc đã kéo dài thời gian đủ để “bóp nặn” người Pháp được ở mức tối đa: từ 28-2 tới 14-3 năm 1946, Pháp đã phải ký một loạt các Hiệp định nhượng lại các đặc quyền đặc lợi trước chiến tranh của họ ở Trung Quốc. Theo hiệp định 14-3, việc rút lui của quân chiếm đóng Trung Quốc sẽ bắt đầu vào ngày 15-3 và kết thúc vào ngày 31, nhưng trong thực tế thì mãi tới tháng 10-1946, đơn vị cuối cùng của Trung Quốc mới rời khỏi Hải Phòng.

Trong khi đó bọn tay sai thương mại và tài chính của Tưởng đã triển khai được một cách chắc chắn một cơ sở kinh tế khá vững vàng để tiến hành bóc lột Đông Dương trong một thời gian kéo dài hơn 30 năm sau, như hiện nay chúng ta đã thấy qua câu chuyện “thuyền nhân”. Bị Mỹ bỏ rơi, không được thế giới Cộng sản biết tới, lại bị người Tnmg Quốc tham lam vô độ o ép, Hồ Chí Minh đã phải đi tới chấp nhận một “Hiệp định” khá mong manh, ngày 6-3-1946, không phải với chính phủ Pháp, mà với một quan chức cấp thấp hơn, đại diện cho giới quân sự ở Đông Dương. Nhưng ông Hồ cũng đã sớm thấy ngay là bản Hiệp định không có sự phê chuẩn của Bộ Ngoại giao Pháp và các điều khoản buộc Pháp phải công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một “quốc gia tự do”, có “Nghị viện riêng, quân đội riêng, và nền tài chính riêng của mình”, nên bản Hiệp định đó đã không bao giờ được thi hành. Thay vào đó, quân đội Pháp đã nhanh chóng vào chiếm đóng Hà Nội ngày 18-3.


 Và đúng một tháng sau khi chính thúc kết thúc việc chiếm đóng của Đồng minh, quân đội Leclerc (phần lớn do Mỹ viện trợ vận chuyển, trang bị vũ khí và khí tài) đã chiếm đóng các thành phố chủ yếu của Việt Nam. Chính sách của Mỹ đối với Đông Dương lúc đó đã ngả từ phương hướng chiến lược thời chiến sang lãnh vực kinh tế chính trị của mối quan hệ giữa Mỹ và Pháp. Hiệp định 6-3 đã nhanh chóng dẫn đến Hội nghị Đà Lạt (từ tháng 4 đến tháng 5). Ở đó “bè lũ Sài Gòn” do D'Argenlieu, “một Raesputin(1) người Pháp” cầm đầu, đã tạm thời cắt rời Nam Kỳ khỏi Việt Nam. Tiếp sau đó là Hội nghị Fontainebleau (tháng 7 đến tháng 9) tai hại. Ở đó, ông Hồ đã ký kết một cuộc ngừng bắn nhưng nó đã sớm chết yểu.

Quyết tâm của ông Hồ cộng tác với người Pháp ít nhất cũng trong một thời gian, đã làm cho cả những người Quốc gia thân Trung Quốc cũng như các thế lực thực dân Pháp hoảng sợ. Việc tiếp tục tồn tại của ông Hồ và Việt Minh của ông có nghĩa là họ sẽ chết, và đó là điều họ muốn tránh bằng bất cứ giá nào. Qua những con đường có thế lực ở Trùng Khánh và Paris, một chiến dịch chống ông Hồ và Việt Minh lại được bung ra với những thủ đoạn cũ, cho họ là những tay sai trung thành của Mátxcơva.


Mùa hè 1946, những luận điệu tuyên truyền này lan tới Washington, và trong tất cả những gì chính thức nói đến ông Hồ đều được gắn thêm chữ “Cộng sản”. Ngày 5-12-1946, khi Moffat tới thăm Đông Dương, Bộ trưởng Acheson đã có điện chỉ dẫn trong trường hợp có thể gặp ông Hồ, Moffat “phải luôn luôn nhớ rằng ông Hồ đã được xác định là một tay sai của Quốc tế Cộng sản…”, mặc dù vẫn tồn tại một điều thực tế là dấu vết âm mưu do Kremlin điều khiển đều có thể tìm thấy được ở mọi nơi, trừ Việt Nam ra. Chúng ta không có chứng cớ gì về mối liên lạc Việt Nam - Mátxcơva. Liên Xô không những đã không ủng hộ ông Hồ trong cuộc đấu tranh giành độc lập trước đây, mà còn không công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong nhiều năm sau nữa.


Từ Fontainebleu “tay không” trở về, ông Hồ lại phải đương đầu với sự phản đối kịch liệt của các phần tử chống lại ông trong Việt Nam Quốc dân Đảng và Đồng minh Hội. Chúng hò hét kết tội ông là “phản bội” và “hợp tác” yêu cầu ông từ chức. Để tránh đổ máu và tranh thủ thông qua được Hiệp định Fontainebleu, ông Hồ cho triệu tập phiên họp thứ hai Quốc hội để phê chuẩn bản Hiệp định đình chiến và do đó gạt bỏ trước được sự chống đối của Pháp. Quốc hội đã biểu quyết tín nhiệm ông Hồ và yêu cầu ông đứng ra lập nội các mới.

Ngày 8-11, nội các mới được thành lập gồm có 7 Cộng sản, 2 Dân chủ, 1 Xã hội, 1 Việt Nam Quốc dân Đảng, và 1 độc lập. Như vậy là Việt Minh vẫn nắm trọn quyền kiểm soát lúc đó, những cuộc ngừng chiến thì chỉ kéo dài vừa vặn 70 ngày. Kết thúc của cuộc ngừng bắn bắt đầu từ hôm 20-11, khi nổ ra một cuộc xô xát vũ trang ở Hải Phòng giữa Hải quân Pháp với bộ đội Việt Minh xung quanh vấn đề thuế quan. Hai bên bắn nhau trong 2 ngày trước khi đi tới một cuộc dàn xếp ở địa phương. Nhưng đô đốc D'Argenglieu, lúc đó đang ở Paris, tức giận về cái ông ta cho là một sự xúc phạm của người Việt Nam, đã điện cho thiếu tướng J. Valluy, người phó của ông ta ở Sài Gòn, phải “dạy cho bọn An Nam một hỗn láo này một bài học”.


Ba ngày sau, Pháp gửi một tối hậu thư cho các nhà chức trách Việt Minh, bắt trong vòng 2 tiếng đồng hồ phải rút hết quân đội ra khỏi khu vực Hải Phòng. Khi điều đó bị bác bỏ, quân Pháp được pháo từ chiếm hạm Suffren ngoài khơi bắn yểm hộ, đã tấn công vào khu vực Hoa kiều trên bến cảng, gây thương vong khoảng 25.000 người trong đó có 6.000 người chết. Bị bất ngờ trước cuộc tấn công tàn bạo của Pháp, nhưng ông Hồ vốn là người muốn thương lượng điều đình, nên đã cố gắng tìm cách tránh một cuộc đụng độ toàn diện và kêu gọi người Pháp ngừng bắn. Giới quân sự Pháp, được khích lệ bởi việc D'Argrenglieu khinh thường ông Hồ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của ông, đã tìm được một cái cớ để phá vỡ hiệp định Fontainebleau nên dã không đếm xỉa tới lời kêu gọi hoà hoãn của ông Hồ, lại cho tăng thêm các cuộc đánh phá. Vì vậy ngày 19-12, đội Tự vệ địa phương đã phá huỷ nhà máy diện Hà Nội, báo hiệu mở đầu cuộc tổng tiến công vào người Pháp; ông Hồ và


Chính phủ ông chuyển vào rừng sâu. Thế là từ đó, cuộc chiến tranh Đông Dương, được phát động từ ban đầu bằng cú của Cédile ở Sài Gòn, nhưng ít nhiều đã bị kìm lại không mở rộng ra ngay được vì thực lực quân Pháp lúc đó và chủ trương thương lượng của ông Hồ, đã bắt đầu trở thành một thực tế có quy mô toàn diện. * Trong khi người Việt và người Pháp phải đương đầu với cuộc chiến tranh kéo dài của họ, thì quyết định của chúng ta giúp đỡ người Pháp dưới hình thức viện trợ quân sự, một sự viện trợ bắt nguồn từ các yêu cầu kinh tế và các vấn đề chính trị châu Âu, đã được trưng ra như một quyết định về đấu tranh tư tưởng bình thường - đó là vấn đề chống Cộng. Năm 1947, Hy Lạp đang bị rối loạn về kinh tế và bị du kích Cộng sản tấn công. Nước Thổ bị Nga làm áp lực bắt nhượng lại eo biển Dardanelles. Những cố gắng này của Cộng sản, nếu thành công sẽ mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô tới tận miền Đông Địa Trung Hải.


Vì thế, Tổng thống Truman đã phải tuyên bố, trong cái mà sau này được kêu là học thuyết Truman, “chính sách của Mỹ là phải ủng hộ các dân tộc tự do” chống lại sự xâm lược trực tiếp và gián tiếp của Cộng sản. Kết quả là nhờ viện trợ kinh tế Mỹ, Hy Lạp đã phục hồi lại dược nền kinh tế, và nhờ viện trợ quân sự Mỹ, đã đánh bại được các cuộc tấn công của Cộng sản. Được viện trợ kinh tế và quân sự của Mỹ hỗ trợ một cách mạnh mẽ, Thổ đã chống lại được các yêu sách kiểm soát Dardanelles của Nga.

Yêu cầu của nền kinh tế trong nước đòi hỏi phải không ngừng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm Mỹ dưới hình thức thương mại hay viện trợ. Do đó, đến năm 1947, Bộ trưởng Ngoại giao Marshall đã đề nghị cấp viện trợ kinh tế cho tất cả các nước châu Âu, bao gồm cả Nga và các nước phụ thuộc Nga. Ông nói “Chính sách của chúng ta không nhằm chống lại bất cứ nước nào hay học thuyết nào, mà chống lại đói khát, nghèo nàn, thất vọng và rối loạn”. Thực tế Mỹ chỉ muốn giúp cho châu Âu thôi không phải xin các quỹ cứu trợ tràn lan và ít hiệu quả của Mỹ nữa, để khuyến khích phát triển một nền mậu dịch hai bên cùng có lợi giữa Mỹ và châu Âu, và cũng là để giảm nhẹ nguy cơ đe doạ của Cộng sản ở Tây Âu, nhất là ở Pháp và Ý.


Những người nắm chính sách đối ngoại của Mỹ sợ rằng nếu Tây Âu rơi vào vòng thống trị của Liên Xô thì cùng với nhau, họ sẽ thành một khối quân sự, kinh tế cực kỳ mạnh, và sẽ gây nguy hại một cách không thể tránh khỏi cho quyền lợi quốc gia Mỹ trên toàn thế giới. Trong 4 năm (1948-1951), Kế hoạch Marshall, còn được gọi là Kế hoạch Phục hưng châu Âu (ERP), đã cung cấp cho Tây Âu 12,5 tỷ dollar, phần lớn cho việc chi phí ở đây về thực phẩm, nguyên liệu và thiết bị máy móc. Nhưng điều đó cũng đã giúp giữ vững dược nền kinh tế của chúng ta và đồng thời tăng cường được sự ổn định chính trị ở các nước ngoài và làm giảm được ảnh hưởng của Cộng sản. Nga đã kết tội


Kế hoạch Marshall là một mưu mô của Mỹ nhằm giành quyền kiểm soát kinh tế và chính trị châu Âu, và điều đó chúng có phần đúng. Họ đã từ chối không nhận một sự viện trợ nào cho họ, cũng như cho các nước phụ thuộc họ, và đã đưa ra một chương trình viện trợ kinh tế riêng tức là Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON). Cuộc thi đua này lại càng khiến cho Mỹ gia tăng nỗ lực mạnh hơn nữa trong việc thống trị toàn cầu. Trong bài diễn văn nhận chức năm 1949, Tổng thống Truman khẳng định sự chống đối của Mỹ với sự bành trướng của Liên Xô bằng cách mở rộng ngoại viện Mỹ qua việc cung cấp kỹ thuật, kiến thức và trang bị cho các nước nghèo.


Chương trình mới, gọi là Chương trình Điểm Bốn(2), cũng khuyến khích sự đầu tư mạnh mẽ của tư bản tư nhân vào các nước kém phát triển với mục tiêu cuối cùng là giành được sự ủng hộ của họ. Cuộc đấu tranh để giành lãnh đạo về tư tưởng và kinh tế giữa hai siêu cường đã tràn sang lĩnh vực chiến lược vào năm 1948, khi thế giới tự do bị chấn động bởi ba cuộc tấn công do Liên Xô sắp đặt - đảo chính ở Tiệp Khắc, áp lực đối với Phần Lan để nhập vào quỹ đạo Xô viết, và cuộc khủng hoảng Berlin. Trong năm 1949, Mỹ đã cùng 12 nước trong thế giới tự do lập thành Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), một hiệp ước phòng thủ chung, bảo đảm an ninh tập thể của các nước, nhưng đồng thời cũng là một thị trường tiêu thụ các khí tài chiến lược mới do các nước chủ chốt trong hiệp ước - Mỹ, Anh, Pháp và sau này có thêm Đức, sản xuất. Đến đó, một quy trình đã được khép kín - từ tư tưởng tới kỉnh tế (ERF, Điểm Bốn), rồi chiến lược (NATO, sau đó là ANZUS và SEATO).


Và giống như trong cuộc xung đột tư tưởng và kinh tế, Liên Xô đã trả đũa bằng các liên minh chiến lược - Hiệp ước Trung - Xô (1950) và Hiệp ước Varsaw (1955). Cũng phải đến tháng giêng 1953 mới có một nhà lãnh đạo Mỹ xác định một cách trung thực quyền lợi quốc gia của chúng ta như chúng đã và vẫn còn được ấn định như hiện nay. Trong bài diễn văn nhận chức của ông, Tổng thống Eisenhower tuyên bố: “Chúng ta biết rằng chúng ta gắn bó với tất cả các dân tộc tự do không phải chỉ đơn thuần bằng một lý tưởng cao thượng mà bởi một nhu cầu khá giản đơn.


Không một nước tự do nào lại có thể bám giữ mãi lấy một đặc quyền hay được hưởng an toàn trong sự cô lập về kinh tế. Nguyên vật liệu của chúng ta có thể đáp ứng đầy đủ cho mọi người, nhưng chúng ta cần thị trường trên thế giới để tiêu thụ vật phẩm dư thừa của các đồn điền và nhà máy của chúng ta. Trái lại, chứng ta cần đến những vật liệu và sản phẩm sống còn của các vùng đất khác do chính ngay các đồn điền và nhà máy đó. Quy luật cơ bản về sự tương hỗ này, đã thể hiện quá rõ rệt trong nền thương mại thời bình, sẽ được áp dụng ở mức độ cực kỳ mạnh mẽ hơn nữa trong thời chiến”. Eisenhower đã nói rõ ra điều mà nhiều người chúng ta đã biết nhưng cũng ít khi chịu chấp nhận, đó là vấn đề quyền lợi quốc gia chúng ta sẽ được phục vụ tốt hơn hết bằng sự trao đổi thương mại, đặc biệt là khi việc buôn bán này cung cấp cho chúng ta những nguyên liệu (tài nguyên nước ngoài) cần thiết để sản xuất các vật phẩm có thể xuất cảng, làm ra từ nước Mỹ và đem bán trên thị trường thế giới.




Chú thích (1) Một quan chức quan liêu lộng quyền ở Nga (2) Fourth Point Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #97 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:09:28 PM » Sự lo lắng về an ninh quốc gia của Mỹ đã thể hiện qua việc Mỹ chống đối tích cực với địch thủ chủ yếu của mình là Liên Xô trong việc tranh giành các vùng ảnh hưởng trên thế giới. Thoạt đầu, điều đó chỉ thể hiện một cách duy nhất trong quần chúng như là một cuộc chống đối với một khối Cộng sản thống nhất. Nhưng thực tế đã không phải như vậy, vì những rạn nứt đã thỉnh thoảng xuất hiện trong khối thống nhất này; chẳng hạn như việc chính phủ Cộng sản Nam Tư của Tito ly khai hoàn toàn với Liên Xô năm 1948; và sau đó Tito đã đình chỉ viện trợ cho du kích Cộng sản ở Hy Lạp.


Người Pháp đã thấy rất sớm họ cần phải lợi dụng một cách tốt nhất những sự lo sợ về tư tưởng lúc đó đang tồn tại ở Mỹ như thế nào. Mối đe doạ Pháp có thể “thành Cộng sản” đã mang lại những hậu quả nhanh chóng. Việc phong trào quốc gia Việt Nam bị gán cho nhãn hiệu là “đỏ” hay “do Mátxcơva điều khiển” đã hoàn toàn gạt bỏ mọi hành động của Chính phủ Mỹ trong việc thăm dò các khả năng mở được đường tới chính phủ Hồ Chi Minh. Đó cũng là một hình thức doạ nạt đã được thực hiện khá tốt trong một thời kỳ căng thẳng. Ngay sau khi nổ ra cuộc xung đột Pháp - Việt, ngày 8-1-1947, Bộ Ngoại giao đã điện cho Đại sứ Caffery ở Paris báo cho Pháp biết rằng chúng ta có thiện cảm với người Pháp, và sẵn sàng sử dụng “thiện chí” của chúng ta để giúp thanh toán cuộc tranh chấp.

Ông cũng được phép báo cho Pháp biết là Mỹ sẽ đồng ý bán vũ khí cho Pháp “trừ các trường hợp tỏ ra có liên quan tới Đông Dương”. Người Pháp đã không để phải đợi trả lời. Ngay ngày hôm đó, Đại sứ quán Pháp ở Washington đã thông báo cho biết đánh giá của Pháp về việc ông Achenson “đã có thái độ hiểu biết trong khi thảo luận về vấn đề Đông Dương”, và đã lịch sự gạt bỏ “thiện chí” của chúng ta với một lời nói cạnh rằng Pháp sẽ cố gắng giải quyết vấn đề của mình mà không cần tới sự giúp đỡ từ bên ngoài “một khi Pháp được xác nhận lại quyền lực của mình”. Nhắc lại luận điệu cũ về sự liên can của Mỹ trong việc Pháp gặp rối ren ở Đông Nam Á, người đại diện Pháp cho rằng Mỹ phải gánh phần trách nhiệm về việc chậm trễ xác định lại quyền lực của Pháp ở Đông Dương, vì chúng ta “đã không đáp ứng những yêu cầu viện trợ vật chất của Pháp vào mùa thu 1945”.

Về vấn đề Pháp hiểu lầm lập trường của chúng ta ở Đông Dương và việc Pháp có thể rút lui ở châu Âu, đầu tháng 2-1947, Đại sứ Caffery đã nhận được chỉ thị phải bảo đảm với Thủ tướng Ramadier về “những tình cảm hữu nghị” của Mỹ đối với Pháp và lợi ích của Mỹ trong việc giúp Pháp khôi phục lại lực lượng kinh tế, chính trị và quân sự. Sau khi đảm bảo với Ramadier là Mỹ công nhận chủ quyền Pháp tại Đông Dương, chúng ta đã đưa ra lý lẽ là vấn đề thuộc địa này đã “lỗi thời” rồi. Còn đối với Hồ Chí Minh, Caffery đã nhận được chỉ thị phải nói rằng chúng ta không bỏ qua thực tế là ông Hồ “có những mối liên quan trực tiếp với Cộng sản” và hiển nhiên là “chúng ta không thấy có lợi ích gì trong việc nền cai trị đế quốc thực dân lại được thay thế bởi nền triết lý và các tổ chức chính trị bắt nguồn từ Kremlin và do Kremlin kiểm soát”. Do đó, Mỹ đã lựa chọn lập trường đứng ngoài cuộc xung đột và càng không ngăn chặn Pháp trong vai trò xâm lược của Pháp tại Việt Nam. Nhưng chỉ vài tuần sau, chính sách Mỹ đã được định hình.


Ngày 13-5-1947, các nhà ngoại giao của chúng ta ở Paris, Sài Gòn và Hà Nội đã nhận được chỉ thị chính thức sau đây: “Lập trường chủ yếu trong nhận thức của chúng ta là, ở Đông Nam Á, chúng ta nhất thiết phải cùng thuyền cùng hội với người Pháp, cũng như với người Anh và Hà Lan… Chúng ta phải thấy rằng sự liên kết chặt chẽ giữa Pháp và các thành viên trong Liên hiệp Pháp không phải chỉ có lợi cho các nước liên quân, mà còn có lợi cho chúng ta một cách gián tiếp… Đông Nam Á đang trải qua một giai đoạn nghiêm trọng… với 7 nước mới đang trong quá trình đấu tranh hoặc thực hiện nền độc lập hoặc nền tự trị.

 Các nước này bao gồm 1/4 dân số thế giới và sự phát triển tương lai của họ… sẽ là một nhân tố hết sức quan trọng cho sự ấn định toàn cầu. Đi theo với việc nền cai trị của người châu Âu được nới ra… các nước mới này có thể bị chìm sâu vào những cuộc bất hoà dữ dội… các xu hướng Liên Á chống phương Tây có thể trở thành lực lượng chính trị quan trọng nhất, hoặc Cộng sản cũng có thể nắm lấy chính quyển. Chúng ta cho rằng điều đảm bảo nhất cho sự an toàn đối với các tình huống có thể xảy ra nói trên phải là một sự liên kết chặt chẽ được tiếp tục giữa các dân tộc mới được tự trị với các cường quốc đã từ lâu trước đây chịu trách nhiệm về sự thịnh vượng của họ.

 Đặc biệt chúng ta công nhận (rằng) người Việt Nam trong một thời gian nhất định vẫn còn cần tới sự giúp đỡ về vật chất và kỹ thuật của Pháp cùng với một sự chỉ dẫn sáng suốt về chính trị mà chỉ một nước có truyền thống dân chủ lâu đời đã được công nhận là biết tôn trọng nhân quyền và giá trị cá nhân con người như nước Pháp mới có thể đáp ứng được”. Những người làm chính sách của chúng ta ở Washington cảm thấy sẽ phải chịu một sự tổn thất không thể tránh khỏi và cũng không thể sửa lại được về các tài nguyên quan trọng cho các nước phương Tây, nên đã ra sức củng cố các cường quốc thực dân. Và với một sự trắng trợn điển hình gần như hốt hoảng, bản chỉ thị chính thức tiếp tục viết:


“… Có chứng cớ là những người Cộng sản Pháp đã được chỉ dạo phải tăng cường hoạt động ở các thuộc địa Pháp dù cho đến mức họ có thể mất sự ủng hộ của dân chúng ngay trên đất Pháp; đó cũng là dấu hiệu cho thấy Kremlin sẵn sàng hy sinh những thắng lợi tạm thời với 40 triệu người Pháp cho đường lối chiến lược lâu dài về thuộc địa với 600 triệu dân chúng các nước phụ thuộc; điều đó góp phần đòi hỏi một cách hết sức cấp bách phải có những sự nhìn nhận đi trước… Bộ rất lo ngại, sợ rằng Pháp cho các cố gắng của Pháp để tìm “những đại diện thực sự” của Việt Nam rồi điều đình với họ để thành lập một chính phủ bất lực theo kiểu chế độ Nam Kỳ, hoặc có thể có mưu đồ phục hồi lại Bảo Đại (sic), với những quyền dân chủ hạn chế để hỗ trợ cho nền quân chủ, được coi là vũ khí để chống lại chủ nghĩa Cộng sản”.

 Cái bóng ma Cộng sản đang xâm nhập vào các vùng đất từ trước đến nay vẫn được coi là lãnh địa của các nước dân chủ phương Tây đã thúc đẩy Bộ Ngoại giao chúng ta phải xem xét lại lập trường của mình. Mặc dù Mỹ vẫn chính thức coi cuộc chiến tranh Đông Dương căn bản là một vấn đề của Pháp, nhưng cuộc đấu tranh lâu dài này lại tỏ ra có lợi cho những người quốc gia Việt Nam - mà đó lại là những người Cộng sản, nên Mỹ đã gợi ý cho Pháp để họ có những nhân nhượng có ý nghĩa đối với những người quốc gia Việt Nam, đã chấm dứt sự ủng hộ đối với người lãnh tụ duy nhất hợp lý và có năng lực là Hồ Chí Minh. Do đó, chính sách Mỹ đã quay theo chính sách dùng biện pháp Bảo Đại của Pháp chẳng phải vì ông này là một người Quốc gia có cỡ, mà chỉ vì ông này không phải là Cộng sản. Đến đây, rõ ràng Mỹ đã ít quan tâm đến phong trào dân tộc Việt Nam hơn là việc ngăn chặn “làn sóng đỏ”. Chính sách không can thiệp của Mỹ đã bắt đầu chấm dứt từ năm 1949.

 Cũng vào tháng giêng năm đó, Bắc Kinh rơi vào tay Cộng sản Trung Quốc và Mỹ đã phản ứng một cách gay gắt trước việc người Pháp thiếu khẩn trương trong việc hứa cho Việt Nam tự trị. Tiếp theo thoả hiệp Élysée (ký tháng 3-1949), ngày 10-5, Bộ Ngoại giao đã chỉ thị cho lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn phải làm cho mọi người thấy là Mỹ mong muốn “cuộc thí nghiệm Bảo Đại phải được xúc tiến ngay sau khi ở đây đã thể hiện rõ không còn có biện pháp thay thế nào khác”. Mỹ còn tỏ ý sẵn sàng muốn đóng góp bằng cách công nhận chính phủ Bảo Đại, cung cấp vũ khí và viện trợ kinh tế vào lúc thích đáng. Đó chỉ là cái mồi để nhử Pháp khẩn trương hoạt động. Acheson đã nhấn mạnh với lãnh sự của chúng ta về “sự cấp bách và cần thiết phải nhanh chóng giải quyết cuộc xung đột giữa Pháp - Việt trong khoảng thời gian ngắn ngủi có thể còn lại trước khi Đông Dương bị xáo động bởi những thắng lợi của Cộng sản ở Trung Quốc”.


Cái kiểu đối phó hàng ngày gặp đâu hay đấy này của Mỹ, phản ánh một nỗi lo sợ bẩm sinh đối với chủ nghĩa Cộng sản, đã làm khổ nước này suốt trong 1/4 thế kỷ tiếp sau đó trong những mối quan hệ của chúng ta với Việt Nam, và đó cũng là đặc tính chính sách đối ngoại Mỹ trong sự giao dịch với Liên Xô và thế giới Cộng sản. ***

Các sự kiện năm 1948 và 1949 ở Trung Quốc đã mang lại cho Mỹ một sự cảnh giác mới về sức sống mãnh liệt của Cộng sản châu Á; và Mỹ cảm thấy cấp bách phải ngăn chặn họ lại. Các công cụ chính trị Mỹ đã triển khai để đương đầu với những thử thách quyết định của Cộng sản châu Âu đã được áp dụng mà không có mấy thay đổi với các vấn đề hoàn toàn khác biệt ở Viễn Đông. Đồng thời với việc phát triển khối NATO, Mỹ bắt đầu nghiên cứu xây dựng khối an ninh tập thể châu Á. Các chương trình viện trợ kinh tế và quân sự mới được ấn định và học thuyết Truman đã hoàn toàn đạt tới những quy mô mới qua việc được mở rộng sang các vùng mà các đế quốc thực dân châu Âu đã bị tan rã. Do đó vào những tháng cuối năm 1949, phương hướng chính sách Mỹ là nhằm chặn đứng sự bành trướng mới của Cộng sản ở châu Á bằng tổ chức an ninh tập thể nếu như người châu Á đã sẵn sàng, và bằng sự cộng tác với các nước đồng minh châu Âu chủ yếu và nếu có thể với các nước trong khối Liên hiệp Anh, hoặc chỉ hợp tác tay đôi nếu như cần thiết.


 Phương hướng đường lối chính sách đó đã dẫn đến cuộc Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), đến việc thành lập Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) năm 1954, và việc can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào Việt Nam. Ngày 30-12-1949, Pháp đã ký một loạt các hiệp ước về việc chuyển giao nền cai trị trong nước cho Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại tiếp theo Hiệp định Élysée ký trong tháng 3 trước. Vào tháng 1-1950, các đạo quân của Mao tiến tới sát biên giới Bắc Việt Nam, và Bắc Việt Nam cũng chuyển vào quỹ đạo Trung - Xô. Ngày 18-1, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và hai nước đã ký một thoả hiệp thương mại ở Bắc Kinh về viện trợ quân sự. 

Mười hai ngày sau, Liên Xô cũng công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Báo chí Mátxcơva đã giải thích một cách hài hước là Nga chỉ công nhận một Chính phủ mà Pháp đã công nhận từ năm 1946 mà thôi. Tại sao ông Hồ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của ông lại không được công nhận từ trước thì không được giải thích. Ngày hôm sau (1-2), tiếp tục phản ứng, Bộ trưởng Acheson công khai tỏ ra “ngạc nhiên” về việc Kremlin công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và công khai nói rằng hành động của Liên Xô “sẽ gạt bỏ mọi ảo tưởng về cái gọi là thực chất “Quốc gia” trong các mục tiêu Hồ Chí Minh đang theo đuổi và tố giác ông Hồ như là một kẻ tử thù của nền độc lập của người bản xứ Đông Dương”. Hiển nhiên là ông Acheson đã không thấy được rằng đã hơn 1/4 thế kỷ nay, chỉ có Hồ Chí Minh mới giữ cho ngọn đuốc độc lập bừng cháy trong trái tim và khối óc những người Việt Nam, Cộng sản cũng như không Cộng sản; và duy nhất chỉ có ông đã trở thành hiện thân của chủ nghĩa Quốc gia Việt Nam - một George Washington Việt Nam. 


Trong khi coi ông Hồ như một Washington khác thì cũng phải nói thêm rằng không còn nghi ngờ gì việc ông là người lãnh tụ phong trào kháng chiến Việt Nam duy nhất đã được quảng đại quần chúng tôn sùng và cũng là người đứng đầu của phong trào độc lập mạnh mẽ nhất và duy nhất có quy mô toàn quốc. Ông đã từ lâu trở thành “Bác Hồ” của người nghèo và bình dân, với một ánh hào quang trên đầu là tất cả các chế độ bù nhìn liên tiếp đã không bao giờ có khả năng đánh đổ được. Nhưng những sự thực đó đã tuột khỏi Bộ trưởng Ngoại giao của chúng ta, ông ta chỉ có kinh nghiệm cộng tác chặt chẽ với các cường quốc thực dân châu Âu trong việc miệt thị các dân tộc bản xứ thuộc địa. Người ta đã thôi không gọi họ là “dân bản xứ”, nhưng trong suy nghĩ thì vẫn còn.


 Việc nước Pháp chính thức thông qua vấn đề cho Việt Nam “độc lập” được công bố vào ngày 2-2. Xem xét kỹ thì cái “độc lập” này chỉ là một kiểu trưng bày mới trong tủ kính mà đằng sau đó cơ cấu thực dân cũ vẫn còn nguyên vẹn. Song le, cũng vào ngày Pháp thông qua vấn đề này, trong một bản giác thư gửi Tổng thống, Acheson đã đề nghị chính thức công nhận “ba chính phủ Việt Nam, Lào và Cambodia được thành lập một cách hợp pháp”. Ông mô tả ông Hồ là “một tay sai Cộng sản… từ 1925”, là một người “đã quấy rối Pháp từ đó đến nay” và ghi chú thêm là Trung Cộng (ngày 18-1) và Nga Xô (ngày 30-1) đã công nhận Hồ Chi Minh là người đứng đầu Chính phủ hợp pháp ở Việt Nam… Ở đây, một lần nữa đã phản ánh căn bệnh chống Cộng cố hữu của chính quyền (Mỹ) và một phản ứng tức thì đối với các hoạt động Trung - Xô. Người ta có thể suy ra nhiều điều từ lập luận của Acheson trong việc đề nghị Tổng thống công nhận ngay các chính phủ bù nhìn của Pháp.


Trong chương IV bản giác thư, ông nói rằng việc công nhận “tỏ ra là được mọi người mong muốn và phù hợp với chính sách đối ngoại Mỹ vì nhiều lý do. Trong đó có: khuyến khích các xu hướng dân tộc không chịu sự lãnh đạo Cộng sản của các dân tộc các vùng thuộc địa ở Đông Nam Á; thành lập những chính phủ không Cộng sản ổn định trong các vùng tiếp giáp với Trung Cộng; ủng hộ một nước bạn, thành viên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương; và một biểu thị không bằng lòng đối với các chiến thuật Cộng sản…”. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #98 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:10:08 PM »


 Trong các lý lẽ này của ông ta, chẳng ai có thể tìm thấy bất cứ một sự liên tưởng nào tới các nguyên tắc dân chủ, tự do, độc lập hay quyền tự quyết của Mỹ. Trái lại, đây là một ủng hộ mạnh mẽ đối với sự thống trị tiếp tục của chủ nghĩa thực dân của một hội đồng minh châu Âu, do dollar Mỹ tài trợ, và phục vụ cho lợi ích tập đoàn đầu sỏ kinh tế. Nguyên nhân cơ bản của cuộc xung đột, vấn đề độc lập đối với sự thống trị của nước ngoài, đã ngang nhiên được gạt sang một bên để thích ứng với “một nước bạn” và cũng là để đảm bảo cho ngay chúng ta một vành đai chiến lược ở Đông Nam Á. Quả thực đó cũng là một hình ảnh khá lạ lùng của nền dân chủ Mỹ mà chúng ta phô bày trước các dân tộc phụ thuộc. Tuy vậy, ngày hôm sau Tổng thống Truman cũng ưng thuận việc Mỹ công nhận Bảo Đại và các quốc gia liên kết Đông Dương và ngày 4-2, Tổng Lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn đã nhận được chỉ thị chuyển đến Cựu hoàng một bản thông điệp chúc mừng của Tổng thông, đồng thời với sự công nhận về ngoại giao chính phủ Quốc gia Việt Nam. 

Người Pháp đã không để phí thời giờ trong việc yêu cầu Mỹ viện trợ. Bực vì Mỹ làm áp lực phải xúc tiến “giải pháp Bảo Đại” và cho Việt Nam được quyền tự trị lớn hơn, Pháp lại giở trò “bóp nặn” của phương Đông. Ngày 16-2, Bộ Ngoại giao Pháp gặp Đại sứ của chúng ta ở Paris và nói toạc ra rằng “do kết quả của tình hình phát triển mới đây (ở Trung Quốc) và triển vọng ít ra thì Trung Cộng cũng sẽ tăng cường viện trợ quân sự cho Hồ Chí Mình” nên tình hình của Pháp đã trở nên cực kỳ nghiêm trọng. Hơn nữa, “… cố gắng của Pháp ở Đông Dương giống như một dòng nước cuốn ở Pháp, đòi hỏi cần phải có một chương trình giúp đỡ dài hạn mà chỉ có Mỹ mới có thể cung cấp được. 


Nếu không… rất có khả năng Pháp có thể bị buộc phải (xem xét) chấm dứt các sự tổn thất của mình và rút lui khỏi Đông Dương”. Vấn đề đã được đưa ra trước Hội đồng An ninh Quốc gia và ngày 27-2 Hội đồng đã đi tới kết luận “phải thi hành mọi biện pháp có thể được để ngăn chặn sự phát điển sau này của Cộng sản ở Đông Nam Á… Thái Lan và Miến Điện có thể bị rơi vào ách thống trị của Cộng sản nếu như Đông Dương bị một chính phủ do Cộng sản khống chế cai trị. Lúc đó sự cân bằng lực lượng ở Đông Nam Á sẽ ở trong một tình thế cực kỳ nguy hiểm”. Đây cũng có thể là mầm mống của “thuyết domino”. Vấn đề lại được chuyển cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân; các Tham mưu trưởng tán thành kết luận của Hội đồng An ninh Quốc gia và đã kiến nghị với Bộ trưởng Quốc phòng cung cấp viện trợ cho Pháp ở Đông Dương. Ngày 1-5, Tổng thống đã nhanh chóng duyệt cấp một khoản tiền 10 triệu dollar khí cụ chiến tranh, lần đầu tiên đánh dấu cái quyết định quan trọng việc Mỹ tham gia về quân sự. 

Từ đó, chẳng có thảo luận gì thêm, nhưng một cách không thể nào thay đổi được, Mỹ đã cam kết, ủng hộ chế độ bù nhìn của Pháp trong cuộc chiến tranh chống lại những người quốc gia Việt Nam và bảo vệ quyền lợi thực dân của Pháp ở Đông Nam Á trong tấn thảm kịch đang diễn ra, đó là Việt Nam. Viện trợ Mỹ, bắt đầu một cách khiêm tốn với 10 triệu dollar năm 1950, đã vượt quá 1 tỷ dollar chỉ riêng trong năm tài chính 1954, và lúc này đã chiếm tới 78% chi phí về gánh nặng chiến tranh của Pháp. Mặc dù Bộ Ngoại giao chúng ta có một nhóm khá mạnh thân Pháp, nhưng trong các quan chức cơ quan đối ngoại cũng còn có nhiều đầu óc thực tế, biết trước hết chú trọng đến quyền lợi của nước Mỹ. Họ quan niệm việc chúng ta tham gia vào đó, dù đúng hay sai, chỉ như là biện pháp cần thiết để ngăn ngừa Đông Dương không bị rơi vào phe Cộng sản, chứ không phải để giúp đỡ Pháp, một cường quốc thực dân hay một đồng minh thành viên khối NATO.

 Tuy vẫn theo đuổi mục đích cũ, nhưng các phần tử này vẫn cùng với các nhà làm chính trị khác trong chính quyền khuyến khích Pháp trao hoàn toàn độc lập cho các nước trong Liên hiệp. Nhưng thực không may mà các mục tiêu Pháp theo đuổi lại không trùng hợp với mục đích của Mỹ nhằm phi thực dân hoá Đông Dương và dựng lên một nước đệm chống Cộng giữa Trung Cộng và các nước Đông Nam Á. Suốt trong thời kỳ chúng ta giúp đỡ cho nỗ lực quân sự Pháp (1950-1954) người ta vẫn có thể nghe thấy rõ những tiếng vang vọng của năm 1945 trong các mối quan hệ Mỹ - Pháp. Như trong kinh nghiệm 1945, Mỹ đã lúng túng không biết phải làm gì cho đúng. Phái đoàn quân sự của chúng ta (MAAG) ở Sài Gòn thì nhỏ bé và bị người Pháp hạn chế trong nhiệm vụ của một nhóm hỗ trợ tiếp tế hậu cần. Tất cả các khoản viện trợ Mỹ cho các quốc gia Liên hiệp chỉ được cấp, với sự đồng ý và nhất thiết phải qua tay Pháp. Sĩ quan MAAG không được tự do phát triển công tác tình báo thu tin trong quá trình diễn biến cuộc chiến tranh; tin tức tình báo do Pháp cung cấp bị hạn chế, thường không xác thực, có khi được cố tình làm sai lạc đi. 

Người Pháp cưỡng lại với sự nhắc nhở thường xuyên của Mỹ đòi phải xây dựng các quân đội bản xứ các quốc gia Liên hiệp và cả ngay khi những đội quân này đã tồn tại thì chúng cũng không thành được một quân đội quốc gia Việt Nam thực sự - đó cũng là một bài học mà chúng ta đã không thuộc khi chúng ta trực tiếp nắm vấn đề này. Có một sự thực lịch sử là mỗi khi chúng ta liều lĩnh tìm cách đi ngược lại sự bành trướng của học thuyết Marxism, chúng ta đều trở nên lúng túng và thực tế phải đi tới chỗ phủ nhận cái nguyên nhân đầu tiên của sự bất mãn đã dẫn dắt các dân tộc phụ thuộc tới việc tim kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Mặc dù chúng ta có thiện chí và cho rằng chỉ có hình thức dân chủ của chúng ta mới là lời giải đáp duy nhất đúng, chúng ta lại không chịu chấp nhận cho các dân tộc khác cái nguyên lý cơ bản của một nền dân chủ - quyền dân tộc tự quyết. Xu hướng các nhà lãnh đạo Mỹ là dùng các đòn bẩy kinh tế và quân sự để chống lại “mối đe doạ” của chủ nghĩa Cộng sản, nhưng trong mọi trường hợp cái đòn bẩy này đã bị nổ tung ra.

 Và ở đâu chúng ta thành công một thời gian trong việc áp đặt được lối sống của chúng ta, thì thông thường ở đó có bội bạc, phải trả giá đắt mà vẫn khổ sở. Khi những tiếng vọng của 1945 hãy còn vang dội, chúng ta không thể không tự hỏi: Đông Nam Á có thực là quan trọng đối với quyền lợi an ninh của Mỹ năm 1950 không? Thuyết domino có đúng không? Không có sự ủng hộ của dân chúng Việt Nam, chúng ta có thể thắng trận được không? Và khi chúng ta chiến đấu bên cạnh nước Pháp, chúng ta có thể tránh được vết nhơ của chủ nghĩa thực dân không? Tuy các vấn đề này đang được bàn cãi, nhưng thực tế lúc đó và hiện nay cũng đủ sức để trả lời “không” với mỗi câu hỏi trên. Dưới ánh sáng kinh nghiệm của chúng ta trong những năm 1940, cuộc liên minh của chúng ta với Pháp trong những năm 1950 và sự trực tiếp thiết thực tham gia với Ngô Đình Diệm và Nguyễn Văn Thiệu đều là thuần tuý điên rồ.

Chúng ta chưa khi nào chịu tìm hiểu tiếng nói của nhân dân. Mặc dù chúng ta đã có một truyền thống huy hoàng chống chủ nghĩa thực dân, có nguyên tắc tự quyết của Wilson, và những lời tuyên bố độc lập cho các dân tộc phụ thuộc của Roosevelt, chúng ta đã bỏ ngoài tai những lời kêu gọi của Việt Nam đòi giải phóng khỏi ách thống trị của bên ngoài và chế độ thực dân. Sẽ quá dễ dàng khi nói rằng chính phủ của chúng ta đã không được hiểu thực chất của vấn đề Đông Dương; hoặc ở đó đã không có được một lãnh tụ quần chúng; hoặc người Việt Nam không có năng lực tự quản. Còn Hồ Chí Minh, ngay với các bí danh khác nhau của ông, ông đã được thế giới phương Tây biết tới từ năm 1919. Các quan chức Mỹ, cũng biết ông và việc ông đã làm để thống nhất dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập từ 1942, và đã theo dõi các thành tựu của ông cho tới khi ông chết năm 1969. Những người biện hộ cho Bộ Ngoại giao chúng ta đã khó mà thanh minh được rằng họ không biết tới tính cách dân tộc chủ nghĩa của ông Hồ và sự ngay thật trong phong trào giành độc lập dân tộc của ông. Nhưng chính ngay những tập hồ sơ trong Bộ của họ từ năm 1942 đã tiết lộ rằng ông Hồ và Việt Minh là đặc biệt có tinh thần Quốc gia và không có những cam kết dính líu về chính trị với bên ngoài cho đến năm 1950.

Cho đến tận tháng 2-1950, những lời ám chỉ thưởng quyên và thô lỗ nói ông Hồ là một “tên Quốc tế” hay “phái viên của Quốc tế Cộng sản” một cách không có chứng cớ rõ ràng, đã tác động một cách ngây thơ đến chính sách đối ngoại của chúng ta và một lần nữa đã làm chúng ta mất cơ hội để đi đến một cuộc hoà giải với nhân dân Đông Dương. Tháng 5-1949, Bộ trưởng Acheson, mặc dù chẳng có lấy được một mẩu chứng cớ nào về các mối liên lạc giữa ông Hồ với Kremlin, đã chỉ thị cho đại diện Mỹ tại Hà Nội cảnh cáo những người quốc gia Việt Nam để ngăn chặn việc chấp nhận một sự liên minh với ông Hồ, bằng những lời lẽ sau đây: “Qua hiểu biết về quá trình đào tạo của ông Hồ, không thể có nhận định nào khác hơn ông Hồ là “một tên” Cộng sản quốc tế thực thụ vì: 1) rõ ràng ông Hồ đã không thể chối cãi được các mối liên hệ với Mátxcơva và chủ nghĩa Cộng sản quốc tế; và 2) là một cá nhân được đề cao trong báo chí Quốc tế Cộng sản và dược họ ủng hộ. Hơn nữa, Mỹ đã không hề bị xúc động bởi tính chất dân tộc chủ nghĩa của lá cờ đỏ với ngôi sao vàng (sic)”. Đây chỉ là bước đầu để sau này ông ta công khai tuyên bố ông Hồ “với bộ mặt thật là một kẻ tử thù của nền độc lập ở Đông Dương”. Mà điều này một lần nữa đã khoá trước mọi quan hệ với ông Hồ vào tháng 2-1950. Dù cho ông Hồ là một người Quốc gia hay một người Cộng sản đi nữa thì vấn đề cũng không phải ở đó. Sự việc là ở chỗ trước hết ông là một người Quốc gia, và thứ hai mới là Cộng sản. Ông quan tâm đến độc lập và chủ quyền của Việt Nam hơn là làm theo lợi ích và mệnh lệnh của Mátxcơva và Bắc Kinh.

 Nếu có sự ủng hộ của Mỹ, ông Hồ có thể đã chấp nhận một hình thức trung lập nào đó trong cuộc xung đột Đông - Tây và giữ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một chướng ngại trung lập và lâu dài chống lại sự bành trướng của Trung Quốc về phía Nam.. Người Việt Nam đã chứng minh họ có một mối lo sợ đối với sự đô hộ của Trung Quốc. Họ sẽ còn tiếp tục như vậy. Và họ có đầy đủ lý do riêng để hành động trong khả năng làm một vật đệm. Ông Hồ có thể phục vụ tốt cho mục tiêu rộng lớn hơn trong chính sách của Mỹ ở châu Á, không phải như những “con rối Cộng sản” dùng để che mắt chúng ta. Cuối thập niên 1940, nhiều tài liệu đã được đưa ra để chứng minh về đường lối lãnh đạo của ông Hồ. Cũng có những tài liệu cho rằng một chính sách khác của Mỹ có thể khiến cho ông Hồ có đường lối không đi theo và chống lại với Bắc Kinh; nhưng một số người khác; trong đó có tác giả lại nhấn mạnh và một kết quả tất yếu là ông Hồ đã bị buộc phải phụ thuộc vào Bắc Kinh và Mátxcơva chỉ vì có sự chống đối hoặc bàng quang của Mỹ.

 Ông Hồ là một người Cộng sản; tự ông đã nói với tôi như vậy và ông không hề chối bỏ điều đó mỗi khi các nhà báo ngoại quốc hỏi. Nhưng một người Cộng sản không có nghĩa là ông bị cưỡng ép phải đặt các mục tiêu, hình thức, và kỷ luật tổ chức Quốc tế Cộng sản lệ thuộc vào việc giành độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Đã nhiều lần ông Hồ và các nhà lãnh đạo khác của Việt Minh đã cho tôi hay họ có nhiều nghi ngại xung quanh vấn đề coi chủ nghĩa Cộng sản là một hình thức chính trị thích hợp với Việt Nam.

Ông Hồ đặc biệt không tin là người Việt Nam đã đủ trưởng thành về mặt chính trị để có thể chấp nhận chủ nghĩa Cộng sản - nhưng có thể một hình thức dân chủ xã hội chủ nghĩa có cải biên sẽ là lời giải đáp đúng đắn. Song dù cho về cuối những năm 1940, ông Hồ đã tỏ ra muốn xem xét tới chủ nghĩa trung lập, việc gắn bó với phương Tây, chủ nghĩa xã hội hay các hình thức không Cộng sản khác, thì ở đây ông Hồ cũng chỉ đưa ra những sự lựa chọn có mức độ. Ông đã không có liên lạc trực tiếp với Mỹ từ 1946, và những tín hiệu ông nhận được từ Washington có thể rất không đáng phấn khởi. Vào năm 1947, các trang bị quân sự Mỹ đã được quân đội Pháp và Anh sử dụng để chống lại người Việt Nam và Mỹ đã đồng ý cấp cho Pháp một khoản tiền 160 triệu dollar để mua xe cộ và các thiết bị máy móc sử dụng trong cuộc chiến tranh Đông Dương.

 Tháng 1-1947, Marshall chỉ công khai tuyên bố mong muốn “cần phải tìm được một cơ sở hoà bình cho việc hoà giải cuộc xung đột”, nhưng kế hoạch Marshall cho châu Âu đã tuồn các tài nguyên của Mỹ vào nước Pháp một cách có tính chất quyết định. Còn sự chi viện của người Nga về mặt vật chất thì không nhiều hơn. Trong khi người Xô viết chỉ trích kịch liệt các cường quốc thực dân khác mà không đả động gì tới nước Pháp, thì khả năng trước mắt của một chính phủ Cộng sản Pháp cũng sẽ chỉ là giữ không lên tiếng ủng hộ ông Hồ, huống chi là nói đến công nhận và viện trợ. Một người có đầu óc thực dụng như ông Hồ thấy ngay được rằng Việt Nam chỉ đứng hàng thứ hai trong chính sách đối ngoại Mỹ và Việt Nam cũng không thể tranh thủ được sự biệt đãi của mẫu quốc Nga khi nước này còn đang phải đấu tranh giành ưu thế khá rõ nét: “Chúng ta rõ rệt là hoàn toàn đơn độc; chúng ta đấu tranh quân sự ở Việt Nam tiếp tục và vị trí của Pháp thường tỏ ra có vẻ mạnh, thì vùng nông thôn rộng lớn vẫn không bị chinh phục. Ưu thế của Pháp đã bị hạn chế chặt chẽ chỉ có ở các thành phố và đường giao thông”. Sau năm 1947, tình hình chuyển biến ít nhiều có lợi cho ông Hồ. Việc tìm kiếm viện trợ Mỹ từ 1947 đến 1949 đã chẳng mang lại được gì tốt đẹp và đến 1950 thì hoàn toàn hết hy vọng. 

Nhưng ở Trung Quốc, Mao Trạch Đông tiến những bước nhảy vọt trong việc chống lại Tưởng Giới Thạch và đến 1950, Mao đã ở trong thế có thể giúp đỡ ông Hồ qua đường biên giới phía Bắc Việt Nam. Ông Hồ không còn bị cô lập như trước, ông đã có nhiều đồng minh, trước hết là Trung Quốc và sau đó Liên Xô. Một cuộc đấu bóng mới đã bắt đầu. Logged ngao5 Cựu chiến binh * Bài viết: 756 Re: Tại sao Việt Nam? (Why Vietnam?) - Archimedes Patti « Trả lời #99 vào lúc: 13 Tháng Tám, 2008, 02:13:54 PM » Chuyện gì đã xảy ra cho Pháp ở Đông Dương từ khi cuộc ngừng bắn đổ vỡ năm 1946? Vào năm 1947-1948, “bè lũ Sài Gòn” bắt đầu thừa nhận khả năng cho một số ít hạn chế người Việt Nam tham gia Chính phủ Đông Dương nhưng không phải là cho Việt Minh. D'Argenlieu hống hách chủ trương không điều đình với ông Hồ và những người đi theo ông Hồ, và đưa ra ý kiến chỉ có thể chấp nhận biện pháp duy nhất là quay trở lại “chế độ quân chủ cổ truyền”. Ông ta cho một phái viên tới Hongkong để móc nối với cựu hoàng Bảo Đại. Phản ứng đầu tiên của ông này là ngờ vực và không muốn tiếp xúc với D'Argenlieu, con người mà Việt Nam kinh tởm.

 Nhưng Bảo Đại cũng chẳng muốn bác bỏ Hồ Chí Minh, người mà ông ta ca tụng là một nhà yêu nước chân chính, và trên lý thuyết ông ta còn phục vụ với danh nghĩa “cố vấn chính trị tối cao”. Bảo Đại không phải hoàn toàn chỉ là một “tay chơi đế vương”, một “Farouk Viễn Đông”, hay là một “ông vua các hộp đêm” như người Pháp thường thích gọi, mà ông cũng còn là một nhà chính trị thận trọng và có tính toán. Ông cũng không phải chỉ là một tên bù nhìn sẵn sàng làm vừa lòng người Pháp chỉ vì tiền tài và bổng lộc, như người Pháp đã thấy vì họ cũng phải để mất hơn 2 năm mới thuyết phục được Bảo Đại đồng ý làm theo mưu mô của Pháp.

 Bây giờ mới rõ đó cũng là một cách để Bảo Đại giũ sạch sự đô hộ của Pháp để ông ta nổi lên, theo kiểu của ông, như là một người dân tộc chủ nghĩa. Vào đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu hồi về nước và nhiều sự kiện mới xảy ra đã làm cho Bảo Đại phải xem xét lại tình hình. D’Argenlieu bị gọi về chính là do bị người Việt Nam ở Đông Dương và những người Xã hội - Cộng sản Pháp căm ghét sâu sắc. Trong năm 1947, Chính phủ Ramadier giữ lập trường là Pháp có ý định thương lượng một cuộc hoà giải với “những đại diện chân chính ở Việt Nam”. Điều đó có vẻ thành thật, nhưng thực ra chỉ là một sự thoả hiệp không hay ho gì giữa những người Cộng sản cùng với một số ít người Xã hội đòi phải mở lại một cuộc điều đình với ông Hồ; và cánh tả đảng Cộng hoà Bình dân Pháp không muốn có quan hệ với ông Hồ. 

Trong lúc đó thì sự việc diễn ra một cách không thuận lợi cho ông Hồ lắm vì ông đã không tranh thủ được một sự đảm bảo về chiến lược và chính trị nào. Ông đã phải vào ẩn náu trong vùng rừng núi, còn người Pháp kiểm soát các đô thị và thành phố. Ngày 21-3, ông đưa ra một bản thông báo, trong đó ông “trịnh trọng tuyên bố” là nhân dân Việt Nam chỉ mong muốn được thống nhất và độc lập “trong Liên hiệp Pháp” và đảm bảo “tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp ở Việt Nam”. Chưa bao giờ lại có điều kiện thuận lợi cho một cuộc hoà giải hơn như trong mùa xuân 1947 này. Nhưng vào lúc đó, lại nổi lên một sự kiện mới, Việt Nam Quốc dân Đảng thân Trung Quốc, Đại Việt và Đồng minh Hội, được Quốc dân Đảng của Tưởng, bọn quân phiệt Trung Quốc và cả Mỹ khuyến khích đã đi đến thành lập một tập đoàn chính trị mới gọi là Mặt trận Liên hiệp Quốc gia. Tổ chức này được mô tả như là một liên minh lỏng lẻo của những phần tử hợp tác cũ đã mất uy tín, những tên mưu mô đầy tham vọng, bọn bè phái bất lực và một số lãnh tụ thành thật nhưng nông cạn và không có quần chúng.

 Trong số sau này phải kể đến Ngô Đình Diệm, lần đầu tiên và cũng là lần độc nhất tham gia vào một đảng phái không phải do ông tự lập ra. Mặt trận Liên hiệp Quốc gia đã bắt liên lạc với một số phần tử bảo thủ và, “ly khai” ở Nam Kỳ như Cao Đài, Hoà Hảo và đảng Xã hội Dân chủ Nam Kỳ. Họ hội họp ở Quảng Châu và thống nhất ý kiến thôi không ủng hộ Bảo Đại. Mặc dù các phần tử này gần như hoàn toàn mất uy tín trong nhân dân Việt Nam nhưng người Pháp lại cho việc khuyến khích họ là điều thích đáng đối với quyền lợi của nước Pháp. Người thay D'Argenlieu là E. Bollaert, một nghị sĩ thuộc đảng Xã hội cấp tiến và đã đến Sài Gòn ngày 1-4 để phải đối phó với hai phe đối địch nhau, Chính phủ “hợp pháp” Việt Nam đang hoạt động từ vùng rừng núi, và các nhóm khác nhau đã họp thành Mặt trận Liên hiệp Quốc gia. Bảo Đại lánh mặt ở hậu trường, Hoàng Minh Giám, Bộ trưởng Ngoại giao của ông Hồ gặp Bollaert ngày 19-4 và đã đưa ra một đề nghị hoà giải chính thức; nhưng một lần nữa thời cơ thuận lợi cho một cuộc thương lượng hoà bình lại tan biến vì các điều khoản cua Pháp chẳng khác gì một đòi hỏi Việt Minh phải đầu hàng. Giữa lúc đó, 

Mặt trận Liên hiệp Quốc gia mới được các người Công giáo Việt Nam ủng hộ đề xuất ra “giải pháp Bảo Đại”. Người Pháp lúc bấy giờ, tuy hoàn toàn biết rõ về “tên tay chơi” này nhưng lại nghĩ rằng họ có thể sai khiến được ông ta, cũng giống như thời 1933, khi ông ta còn là một thanh niên rất trẻ. Theo quan điểm của Pháp lúc đó, một Việt Nam thống nhất và có “bộ mặt độc lập” do Bảo Đại đứng đầu, sẽ là một trong hai điều ít hại nhất và cũng là một giải pháp duy nhất thiết thực. Họ lập luận rằng những người đi theo Bảo Đại bao gồm những người bảo thủ và những người Quốc gia cánh hữu, cũng như những người thuộc giai cấp quan lại sẽ tăng cường cho chủ nghĩa tư bản Pháp và nhà băng Đông Dương. Còn ở Mỹ, điều đó sẽ giúp xoa dịu các phần tử chống Cộng và đồng thời nó cũng có thể xoá nhoà các thành kiến chống thực dân bằng những lời hứa hẹn của Pháp cho Đông Dương tự trị dần từng bước.

Nhưng có một điều thường đã không được biết tới, ngay cả đối với người Mỹ năm 1965, là về mặt quân sự không thể “bình định” được Việt Nam nếu không có sự tăng cường quân đội Pháp ở Đông Dương bằng hàng trăm ngàn người. Ở Pháp, đảng Cộng hoà Bình dân đã nhầm lẫn khi cho rằng đưa được Bảo Đại lên ngôi vua thì cuộc kháng chiến của Việt Minh sẽ nhanh chóng bị tàn lụi, trong khi nhưng người đảng viên Xã hội lại hy vọng rằng Bảo Đại có thể hoạt động gần giống như mọi người trung gian và sẽ lôi cuốn được Việt Minh đi theo Mặt trận Liên hiệp Quốc gia. Để chấm dứt cuộc xung đột kéo dài, người Pháp đã làm áp lực với Mặt trận Liên hiệp Quốc gia, kêu gọi Bảo Đại thành lập một chính phủ trung ương. Họ đã cử phái đoàn đến gặp cựu hoàng ở Hongkong vào tháng 5-1947, nhưng Bảo Đại vẫn còn lưỡng lự.


Nhà “ái quốc” Bảo Đại đã không coi Mặt trận Liên hiệp Quốc gia là đại diện cho nhân dân và ông ta cũng không muốn tán thành một chính phủ do Pháp đỡ đầu. Có thể ông ta cũng muốn có một sự hoà giải nào đó với Việt Minh mà ông cho là một lực lượng thiết yếu nhất ở Việt Nam. Nhà “chính trị” Bảo Đại, lại nhận thức được rằng Đảng Cộng hoà Bình dân ở Paris, trong mùa hè 1947 đã kêu gọi nổ súng, sẽ không bao giờ bắt tay với ông Hồ.

Vì vậy, ông ta quyết định đóng một vai trò tích cực và tuyên bố ông ta chống lại Việt Minh. Lúc đó, đã có dư luận cho rằng Bảo Đại đã nghĩ rằng qua hành động trên, ông ta đã tranh thủ được sự ủng hộ của Mỹ để chống lại người Pháp, như là Mỹ đã dùng ảnh hưởng của mình ở Indonesia để chống lại người Hà Lan. Cuối cùng, Bảo Đại trong thâm tâm vẫn hy vọng vào sự ủng hộ của Mỹ, đã gặp Bollaert trên một tàu chiến Pháp tại vịnh Hạ Long. 


Hai người đã ký tắt một bản hiệp định sơ bộ, hứa hẹn độc lập bằng những lời lẽ mơ hồ; nhưng sau đó Bảo Đại đã được báo cho biết là bản tài liệu nói trên chỉ đơn thuần là một bản “ghi chép” các cuộc thương lượng và không ràng buộc ông ta vào bất cứ vấn đề gì(1). Bản tài liệu đã buộc Pháp phải trao cho Việt Nam quyền tự trị tối thiểu ở mức mà Diệm cũng như phần lớn số cơ hội chủ nghĩa trong Mặt trận Liên hiệp Quốc gia đã phản đối ngay tức khắc. Việc Bảo Đại cảm thấy Mỹ có thể nhìn ông bằng một con mắt thiện cảm không phải là không có căn cứ. Ba tuần lễ sau khi ông ta ký bản hiệp định sơ bộ, tuần báo Life của Mỹ đã đăng một bài của W.C. Bullit, cựu đại sứ chúng ta ở Pháp, trong đó Bullit bênh vực một chính sách nhằm kết thúc cuộc “chiến tranh buồn thảm nhất” bằng cách giành lại đa số những người quốc gia Việt Nam từ phía Hồ Chí Minh để chuyển sang một phong trào được xây dựng chung quanh Bảo Đại. Ở Pháp, quan điểm của Bullit được dư luận rộng rãi coi như một lời công bố chính sách Mỹ và cũng là một sự tán thành và hứa hẹn trực tiếp Mỹ viện trợ cho Bảo Đại. 

Mặc dù hình như đã có được một sự đồng ý của Mỹ, Bảo Đại cũng vẫn lo ngại vì Mặt trận Liên hiệp Quốc gia lên án hiệp định ông đã ký là không có giá trị. Ông liền tự tách mình khỏi những mưu toan đang hình thành và bay sang châu Âu ngao du trong 4 tháng. Ở đây, dù cho ông ta có ăn phải cái bả mà Bullit đã đưa ra hay không, hình như Bảo Đại cũng cảm thấy Mỹ trước sau cũng sẽ không tránh khỏi bị lôi cuốn vào Đông Nam Á, và ông ta hy vọng một cách mạnh mẽ rằng việc Mỹ can thiệp sẽ dẫn theo việc Mỹ sẽ dựa vào phong trào quốc gia chủ nghĩa Việt Nam để làm áp lực với Pháp. Người Pháp, mặc dù đối tượng vẫn lẩn tránh, đã phái các nhà ngoại giao đuổi theo “ông vua” đang du hành và công bố quyết định chung của họ “cho xúc tiến, ngoài Chính phủ Hồ Chí Minh, mọi hoạt động và điều đình cần thiết để khôi phục lại hoà bình và tự do trên đất nước Việt Nam”, có nghĩa là dĩ nhiên họ đã tự ràng buộc mình với một chiến thắng quân sự và Bảo Đại. Bollaert đã tìm gặp được Bảo Đại ở Genève (tháng 1-1948) và hai bên đã hội họp với nhau nhiều lần, qua đó Bảo Đại phát biểu là nếu như Hiệp định Hạ Long không được bổ sung thêm thì ông ta sẽ không trở về Việt Nam. Sau đó, ông ta đã đi Cannes rồi về Paris để xem xét tình hình. 

Ở Paris, ông ta thấy được Đông Dương đã trở thành một vấn đề tranh cãi quan trọng giữa các Bộ khác nhau, các đảng phái đối lập, các nhóm tài phiệt và các nhà chính trị. Những người cực hữu theo De Gaulle phản đối kịch liệt nhất cho rằng bản hiệp định sơ bộ đã đi quá xa. Bảo Đại bèn trở lại Hongkong vào tháng 3, không để cho mình bị ràng buộc một lần nữa. Trong khi đó, Pháp vẫn nài ép và Mặt trận Liên hiệp Quốc gia làm áp lực bắt Bảo Đại phải tiếp tục điều đình với Bollaert nên họ lại gặp nhau tại vịnh Hạ Long ngày 5-6-1948. Lần này, bản hiệp đình đã được “bổ sung” và nước Pháp “trịnh trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam”, nhưng đặc biệt họ chỉ giữ lại quyền kiểm soát công tác đối ngoại và quân đội, còn việc chuyển giao các chức năng khác của chính phủ thì sẽ được giải quyết ở các cuộc thương lượng sau

. Thực tế người Việt Nam chẳng được trao cho quyền hành gì. Ở Đông Dương, phản ứng nổ ra dữ dội. Việt Minh la lối cho là xấu xa tội lỗi vì Bảo Đại đã nài xin được người Pháp chữ “độc lập” thần kỳ mà Hồ Chí Minh đã cố gắng giành giật ở Fontainebleu không được và bây giờ thì điều đó có thể đào phá sự ủng hộ của quần chúng đối với Việt Minh. Đối với “bè lũ Sài Gòn” và đám thực dân, họ cũng cho là đã chẳng mang lại điều gì có ý nghĩa cho những người “A nam mít”,nhưng báo chí của họ vẫn lớn tiếng chống lại việc “đầu hàng” của Bollaert, yêu cầu cắt Nam Kỳ ra khỏi miền Bắc và cho trở lại chế độ của một xứ bảo hộ.


Các chính trị gia ở Paris ra sức trấn an đám thực dân và đảm bảo với họ rằng sẽ không có gì thay đổi - cuộc chiến tranh cũng không chấm dứt. Các lãnh tụ Cộng hoà Bình dân và nhiều người thân cận với Cộng hoà Bình dân lại cho rằng kéo dài chiến tranh sẽ hết sức có lợi và đã đi đến quyết định không để cho cuộc chiến tranh kết thúc sớm. Bảo Đại một lần nữa lại rút lui khỏi sân khấu và sang châu Âu, trong khi ở Hà Nội, Pháp chuẩn bị để đưa ra một chính phủ người bản xứ thể hiện rõ ràng là bất lực. Từ Saint Germain, ngày 25-8, Bảo Đại báo cho Bollaret biết ông ta sẽ không trở về Việt Nam nếu như chế độ thuộc địa ở Nam Kỳ không bị huỷ bỏ, và ông ta không nhận được sự đảm bảo cho Việt Nam độc lập. 

Ngày hôm sau đã thấy các Bộ trưởng ở Paris phát biểu “thực sự hắn đã bắt đầu bất chấp cả chúng ta” (tiếng Pháp). Ở đây đã có khá nhiều điều cho thấy Bảo Đại không phải chỉ là một tên bù nhìn và “vua hộp đêm” như mọi người vẫn tưởng. Nhưng cuối cùng (ngày 8-3-1949), Bảo Đại đã nhân nhượng và ký bản Hiệp định Auriol - Bảo Đại, rất-được-hoan-nghênh, hiệp định mà người ta còn gọi là Thoả hiệp Élysée, trong đó các bộ phận chủ chốt trong chính phủ vẫn do Pháp nắm giữ và cơ cấu thuộc địa cũ vẫn còn nguyên vẹn. Tại sao Bảo Đại phải nhượng bộ cho người Pháp? 

Hình như là nếu ông ta kéo dài thêm sự chống đối thì Pháp sẽ tìm một biện pháp thay thế khác, và Đông Dương sẽ mãi mãi vẫn còn là một thuộc địa của Pháp. Ảnh hưởng của Việt Minh sẽ không suy giảm và cơ hội cuối cùng để đi đến một hoà bình không có Cộng sản đã sớm tiêu tan. Cuộc viếng thăm Paris của Bảo Đại năm trước đã cho ông ta thấy rõ đường lối cứng rắn của cánh hữu Pháp quyết tâm theo đuổi cuộc chiến tranh lâu dài khi nào mà điều đó vẫn có lợi. Để tránh được điều đó, Bảo Đại đã liều ký thoả hiệp Élysée để nhằm một khi nắm được chính quyền, ông ta có thể sẽ chơi một ván bài quốc tế theo kiểu cách của chính ông. Ông ta đã ký gửi rất nhiều lòng tin vào sự ủng hộ của Mỹ mà ông hy vọng sẽ kìm giữ được Pháp và cung cấp cho Việt Nam một sự viện trợ tối cần thiết về kinh tế. Một lần nữa, chúng ta lại thấy Bảo Đại vừa là một nhà chính trị, vừa là một người dân tộc chủ nghĩa. Sau khi đã ký thoả hiệp Élysée, Bảo Đại cố gắng tìm cách thanh toán với ông Hồ. Vào tháng 5, có tin tung ra nói ông Hồ có thể cũng không bị mất quyền ưu tiên trong một chính phủ mới của Bảo Đại.

 Trong điệu nhảy rất chi là tưởng tượng vừa với người Pháp vừa với người Mỹ của mình, Bảo Đại vẫn nghĩ rằng sẽ không thể có một chính phủ thực sự đại diện nếu như không có được sự tham gia, hay ít ra cũng phải là một sự tán thành ngầm của Việt Minh mà dù sao đi nữa thì ông ta cũng vẫn còn ngưỡng mộ. Vì vậy, một khi trở về Việt Nam, ông ta đã từ chối không tuyên bố mình chống đối lại với cái gọi là “kháng chiến”. Công việc đầu tiên đặt ra trước mắt cựu hoàng (ông tự phong cho mình nhiệm vụ phải giành được địa vị quốc tế) là thành lập một chính phủ, một việc đầy những khó khăn: sự ngoan cố của Pháp, sự thờ ơ của quần chúng và sự chống đối về chính trị. Nhưng người Pháp đã tính toán và cho hoãn việc thi hành thoả hiệp Élysée. Quân đội của họ đóng lại, nhân viên hành chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền; người Việt Nam chẳng được trao cho một chút quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị của Pháp. Chú thích (1) Bản Hiệp định sơ bộ ký ngày 7-12-1947

No comments: