Friday, July 20, 2012

HỒ CHÍ MINH NHẬN ĐỊNH TỔNG HỢP, V * XLIII -XLVII


 


PHẦN III
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH



CHƯƠNG XLIII
BỐI CẢNH CHIẾN TRANH Ý THỨC HỆ CỦA TÌNH HÌNH VIỆT NAM



Qua ý kiến và nhận định của gần 70 tác giả, Hồ chí Minh luôn luôn hiện ra
dưới hai khuôn vóc hoàn toàn trái ngược và trở thành trung tâm của hàng loạt nghi
vấn.
Hồ chí Minh là người yêu nước đã mang hạnh phúc về cho nhân dân hay chỉ
là kẻ đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam dựng nên một chế độ chuyên chính biến
toàn dân thành nô lệ sống dưới trăm ngàn mối áp bức đe dọa ?
Hồ chí Minh là đại anh hùng cứu quốc có công giải phóng dân tộc khỏi ách
thực dân bảo vệ nền độc lập quốc gia hay chỉ là kẻ gây cảnh núi xương sông máu
kéo dài suốt một nửa thế kỷ, tàn sát hàng chục triệu nạn nhân ?
Hồ chí Minh là vị cha già dân tộc đã chấp nhận hy sinh trọn đời để phụng sự
đồng bào hay chỉ là kẻ mê hoặc cưỡng bức đồng bào đóng vai những công cụ
phụng sự cho tham vọng bá chủ thế giới của Liên Xô ?
Hồ chí Minh là con người giản dị, ngay thẳng có cuộc sống thanh khiết cao cả
thánh thiện như một thiên thần hay chỉ là kẻ xảo trá, lường gạt với trăm ngàn thủ
đoạn che giấu chân tướng đầy những vết nhơ ?…
Hồ chí Minh là con người ôn nhu, hiếu hòa bị đàn em hiếu chiến khống chế
trong chủ trương đánh chiếm miền Nam bằng võ lực hay là một lãnh tụ gian hùng bề
ngoài đóng vai ông Thiện để điều khiển thủ hạ làm ác ?….
Đó là một vài nghi vấn tiêu biểu.
Để giải đáp thỏa đáng những nghi vấn này, không thể dựa vào số lượng lời
khen tiếng chê, cũng không thể giới hạn theo một số sự kiện nào đó thuộc phạm vi
đời sống cá nhân.
Hồ chí Minh có thể rất đắc nhân tâm do luôn biểu hiện phong thái chân thành
đơn giản, tự nhiên thân mật.
Hồ chí Minh có thể từng ôm ấp những ước mong phù hợp với ước mong của
hết thẩy mọi người.
Hồ chí Minh có thể chỉ có một thói xấu duy nhất như chính ông đã từng tự
đánh giá là ‘’nghiền thuốc lá’’.
Hồ chí Minh có thể bị thù ghét nhiều hơn yêu thương hoặc ngược lại, được
toàn dân kính mến v.v…
Bản thân những sự kiện trên rất quan trọng để hiểu về bất kỳ con người nào
nhưng không đóng góp được bao nhiêu trong việc đánh giá con người Hồ chí Minh.
Dù muốn dù không, Hồ chí Minh đã là một nhân vật lịch sử và là nhân vật lịch
sử ghi lại dấu ấn đậm đà trong một giai đoạn đầy sóng gió của Việt Nam. Cho nên,
những nghi vấn về con người Hồ chí Minh chỉ có thể giải đáp bằng chính thực tế lịch
sử Việt Nam gắn bó với mọi hành vi của ông.
221 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Thực tế lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 lại không thể tách rời khỏi ảnh
hưởng của nhiều biến cố thế giới, trong đó có cuộc Cách Mạng Tân Hợi xóa bỏ chế
độ phong kiến tại Trung Hoa và đặc biệt là cuộc Cách Mạng Vô Sản Nga.
Cả hai cuộc cách mạng trên đều trực tiếp ảnh hưởng vào tình hình Việt Nam
với những dấu ấn rõ rệt.
Cuộc Cách Mạng Tân Hợi thúc đẩy những nỗ lực đấu tranh nhắm mục tiêu
tiến tới Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do, Dân Sinh Hạnh Phúc trong đó, kẻ địch
cần lật đổ được xác định cụ thể là thế lực ngoại bang thống trị.
Cuộc Cách Mạng Vô Sản chọn chủ nghĩa Marx làm lý tưởng thúc đẩy một
cuộc đấu tranh không hướng về quyền lợi dân tộc mà nhắm phụng sự quyền lợi giai
cấp vô sản trên toàn thế giới nên bao trùm nhiều mặt phức tạp hơn, trong đó quan
niệm bạn và thù thay đổi tùy theo thực tế của từng giai đoạn đã dẫn tới không ít ngộ
nhận về mọi biến cố.
Để tránh tình trạng này, cần nhìn lại chủ thuyết cộng sản cùng các phương
thức đấu tranh mà cộng sản áp dụng, nhất là vì trên thực tế, Hồ chí Minh và đảng
cộng sản đã giành được vai trò chủ động trên chính trường Việt Nam từ tháng
8.1945.
Ngày nay, chủ thuyết cộng sản đã lỗi thời, nhưng không thể phủ nhận tác
động của nó trong tình hình Việt Nam kể từ thời điểm trên. Cho nên, dù muốn dù
không vẫn cần ghi lại một số nét chủ yếu trong mấy tiêu điểm đã trở thành nền tảng
của mọi biến cố từng xẩy ra tại Việt Nam (1):
Chủ thuyết cộng sản và mục tiêu cuối cùng.
Chiến lược và sách lược đấu tranh.
Vai trò lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế.
Võ khí chính trong tiến hành đấu tranh.
1. Chủ thuyết và mục tiêu cuối cùng.
Chủ thuyết cộng sản minh thị mục tiêu cuối cùng là phụng sự giai cấp vô sản
nên chủ trương phải phát động đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp phát xuất từ
định luật mâu thuẫn trong duy vật biện chứng và từ quan niệm duy vật lịch sử cho
rằng đã đến lúc giai cấp bị bóc lột là vô sản vùng lên đấu tranh lật đổ giai cấp bóc lột
là tư bản để thiết lập chuyên chính vô sản.
Duy vật biện chứng gồm 4 định luật chính: Vạn vật tương quan, vạn vật biến
chuyển, lượng biến chất biến và mâu thuẫn nội tại.
Vạn vật tương quan: Theo duy vật biện chứng, thiên nhiên là một toàn bộ
trong đó các sự vật và hiện tượng liên hệ hữu cơ với nhau, lệ thuộc vào nhau, quyết
định lẫn nhau. Không có hiện tượng nào trong thiên nhiên có thể hiểu được, nếu
tách rời khỏi những hiện tượng khác ở xung quanh.
Vạn vật biến chuyển: Thiên nhiên luôn luôn chuyển biến, luôn luôn đổi mới và
phát triển theo hướng một cái gì đó đang hình thành, lớn dần lên trong khi một cái gì
đó đang tan rã, tự hủy. Engels viết trong Biện Chứng của thiên nhiên: ‘’Tất cả thiên
nhiên, từ cái nhỏ nhất tới cái lớn nhất, từ hạt cát tới mặt trời, từ một sinh vật nguyên
sinh (gồm chỉ một đơn bào sống) tới con người, luôn luôn ở trong trạng thái đang
phát sinh và đang tiêu diệt, trong một dòng chảy đổi thay liên tục, trong một trạng
thái chuyển động và đổi thay không ngừng.’’
Lượng biến chất biến: Engels dùng khoa học tự nhiên với những ví dụ đơn sơ
như nước đun sôi biến thành hơi nước và sự tiến hóa nhảy vọt từ loại này sang loại
khác, như từ vượn lên người (thuyết tiến hóa của Darwin) v.v…để chứng minh nếu
lượng (quantity) tăng, tăng mãi sẽ đến lúc biến thành chất (quality). Sự biến đổi này
là một đột biến, không phải ngẫu nhiên mà theo quy luật thiên nhiên, do tích lũy kết
quả nhiều đổi thay từ từ không cảm thấy được chất chứa lại mà thành.
222 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Mâu thuẫn nội tại: Là định luật quan trọng nhất. Lênin nói: ‘’Biện chứng, có
nghĩa là sự nghiên cứu mâu thuẫn trong chính bản chất tinh túy của sự vật.’’ Người
ta thường nói nhìn sự vật bằng con mắt biện chứng tức là nhìn cái gì cũng thấy hai
khía cạnh tương phản của nó, mặt tích cực và mặt tiêu cực.
Stalin viết: ‘’Biện chứng pháp cho rằng tiến trình phát triển từ cái thấp hơn tới
cái cao hơn xảy ra không phải như một diễn biến hài hòa của các hiện tượng mà
như sự bộc lộ của những mâu thuẫn nằm sẵn trong các sự vật và hiện tượng, như là
‘’sự đấu tranh’’ giữa những xu hướng đối nghịch đang hoạt động trên nền tảng của
những mâu thuẫn đó.’’
Chủ nghĩa Marx cho rằng trong sự vật và hiện tượng luôn luôn sẵn có mâu
thuẫn như thế nên đấu tranh là luật tự nhiên không thể tránh và từ đó phát xuất cuộc
đấu tranh giai cấp.
Duy vật lịch sử chia lịch sử nhân loại làm 5 thời kỳ: Cộng sản nguyên thủy, nô
lệ, phong kiến, tư bản và cuối cùng là cộng sản (chuyên chính vô sản).
Chế độ cộng sản nguyên thủy phát triển đã mang sẵn trong mình cái mầm
mâu thuẫn và một chế độ khác tốt đẹp hơn từ cái mầm đó mà phát sinh là chế độ nô
lệ.
Stalin viết: ‘’Ngày nay trong những điều kiện xã hội hiện tại, nhìn lại ta thấy
chế độ nô lệ là phi lý, nhưng trong hoàn cảnh lịch sử lúc ấy, nó là hiện tượng tự
nhiên của thiên nhiên có thể hiểu được, vì nó tượng trưng cho một bước tiến hơn so
với chế độ cộng sản nguyên thủy.’’
Stalin tiếp tục nói về các chế độ kế tiếp cũng tương tự như vậy với chủ ý diễn
tả định luật mâu thuẫn và định luật biến chuyển luôn theo đà tiến về phía trước của
phép biện chứng duy vật. Áp dụng các định luật này vào việc tìm hiểu mọi biến
chuyển của xã hội loài người sẽ nhận thức chính xác hơn về các hiện tượng lịch sử.
Điều quan trọng là trong mỗi biến chuyển bao giờ cũng có tình trạng nhảy vọt từ
lượng lên chất. Do đó cần phải làm cách mạng, chứ không chấp nhận cải lương (cải
cách từ từ). Stalin viết: ‘’Do đó, sự quá độ (sự chuyển tiếp) từ tư bản chủ nghĩa đến
xã hội chủ nghĩa và giải phóng giai cấp công nhân khỏi ách tư bản chủ nghĩa không
thể thực hiện bằng những thay đổi từ từ chầm chậm, bằng những cải cách, mà chỉ
có thể thực hiện bằng một thay đổi về chất của chế độ tư bản, nghĩa là bằng cách
mạng. Vì vậy, để khỏi lạc đường trong chính sách, cần phải làm cách mạng, chứ
không phải cải cách.”
Trong Tuyên Ngôn cộng sản, Marx viết: ‘’Bạo lực là bà đỡ của cách mạng’’ và
sau này Mao trạch Đông phỏng theo: ‘’Quyền lực phát xuất từ họng súng.’’ Engels
cũng nói: ‘’Không có vũ khí phê phán nào thay thế được sự phê phán bằng vũ khí.’’
Đó là dòng tư duy xuyên suốt từ mâu thuẫn nội tại tới đấu tranh giai cấp, đấu
tranh cách mạng theo luật lượng biến chất biến nhảy vọt và cách mạng bạo lực.
Stalin giải thích rõ hơn về tính chất và nhu cầu của đấu tranh giai cấp: ‘’Nếu
sự phát triển xuất phát bằng cách bộc lộ những mâu thuẫn nội tại, bằng cách va
chạm, xung đột giữa những lực đối kháng trên căn bản của những mâu thuẫn đó, và
như thế, để lướt thắng những mâu thuẫn, thì đã rõ cuộc đấu tranh giai cấp của giai
cấp vô sản là một hiện tượng hoàn toàn tự nhiên và không thể tránh.’’
Tóm lại, theo các nhà duy vật, đấu tranh giai cấp bằng cách mạng bạo lực là
lẽ tất yếu. Đấu tranh giai cấp là cuộc chiến giữa hai giai cấp tư bản và vô sản nên
bắt buộc là cuộc chiến mang tính toàn cầu vì giai cấp hiện diện ở mọi quốc gia. Đấu
tranh giai cấp cũng là cuộc chiến trường kỳ vì chỉ chấm dứt khi chế độ Tư Bản hoàn
toàn bị thủ tiêu để hình thành chế độ cộng sản trên toàn thế giới. (2) Đó là cuộc
chiến ý thức hệ, bắt nguồn từ bản chất ý hệ Mác Xít.
2- Chiến lược và sách lược đấu tranh.
223 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Xác định đấu tranh giai cấp là tất yếu, nhưng Marx cho rằng cách mạng vô
sản chỉ có thể bùng nổ ở những nước tư bản công nghiệp cực thịnh, trong đó giai
cấp vô sản chiếm đại đa số. Tại những nước này, giai cấp vô sản trở thành lực
lượng áp đảo sẽ đánh bại và tiêu diệt giai cấp tư sản để nắm quyền độc tôn gọi là
‘’chuyên chính vô sản’’. (3) Giai cấp vô sản- proletariat, theo Mác, là giới công nhân
không có tài sản, nhất là không có phương tiện sản xuất và chuyên chính vô sản là
nền thống trị độc tôn của giai cấp đó.
Nhưng Lênin lại muốn thực hiện cách mạng vô sản tại Nga là một nước chưa
đạt tới mức phát triển cao về công nghiệp.
Như thế, nếu chỉ dựa vào riêng giai cấp công nhân để tiến hành cách mạng
chắc chắn sẽ thất bại. Nhìn vào thực tế xã hội Nga đầu thế kỷ 20, Lênin giải thích
chữ proletariat theo nghĩa rộng hơn gồm cả giới Quân Nhân phần đông là nông dân
cho nên trước tháng 4.1917, Lênin từng chủ trương liên minh công nông chống tư
sản.
Sau đó, trong những văn kiện đưa ra vào các tháng 4, 7, 8.1917 được Stalin
trưng dẫn trong Stalin tuyển tập, Lênin đã thu hẹp từ nông dân thành bần cố nông.
Tuy nhiên, theo trích dẫn của Stalin, định nghĩa về ‘’chuyên chính vô sản’’ của
Lênin vẫn không rời xa định nghĩa của Marx: ‘’Nếu chúng ta dịch từ Latinh có tính
khoa học-triết lý- sử học ‘’dictature du proletariat’’ sang ngôn ngữ đơn giản thì nó chỉ
có nghĩa như sau: Chỉ có một giai cấp nhất định, là giai cấp của công nhân thành thị,
và công nhân công nghiệp nói chung, có khả năng lãnh đạo nhân dân lao động và
những người bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh nhằm giải phóng họ khỏi ách
thống trị của tư bản, trong tiến trình lật đổ này, trong cuộc đấu tranh để duy trì và
củng cố chiến thắng, trong công cuộc tạo lập một hệ thống xã hội mới, hệ thống xã
hội xã hội chủ nghĩa, trong cuộc đấu tranh toàn bộ nhắm xóa bỏ hoàn toàn các giai
cấp.’’ (4)
Trên thực tế, Lênin từng đưa ra một định nghĩa về ‘’chuyên chính vô sản’’ hơi
khác:
‘’Chuyên chính vô sản là một hình thức liên minh đặc biệt giữa giai cấp vô sản
(proletariat ) là đội tiền phong của nhân dân lao động và nhiều giai tầng nhân dân lao
động khác không phải vô sản (như tiểu tư sản, các tiểu chủ, nông dân và trí thức,
vân vân...), hoặc đa số những tầng lớp này. Đó là một sự liên minh chống tư bản,
một liên minh nhắm đánh đổ hoàn toàn tư bản, nhắm dẹp bỏ hoàn toàn sự chống đối
của giới tư sản và bất cứ cố gắng nào của giai cấp này nhằm tự khôi phục, một liên
minh nhắm thiết lập và củng cố chủ nghĩa xã hội.’’ (5)
Định nghĩa được gia giảm này có thể hiểu là do yêu cầu của chiến lược và
sách lược đấu tranh nhắm thích ứng với hoàn cảnh thực tế của từng giai đoạn. Tuy
nhiên, ngay trong gia giảm đã có sự xác định rõ vai trò lãnh đạo không hề thay đổi.
Thực tế đòi hỏi phải liên minh với những phần tử hay giai cấp khác, vì giai cấp
vô sản không thể tự mình làm nổi cuộc cách mạng, đặc biệt tại một nước nông
nghiệp như nước Nga, nhưng giai cấp vô sản (proletariat) vẫn là đội tiền phong tức ở
vị thế nắm quyền lãnh đạo các lực lượng đồng minh. Mọi phần tử không chịu đặt
mình dưới sự lãnh đạo đó phải gạt bỏ, thậm chí thủ tiêu và khi đã toàn thắng, không
cần sự hỗ trợ của các thành phần khác thì các thành phần này cũng nằm trong thế bị
loại trừ không do dự.
Vai trò nông dân trong xã hội Nga lúc ấy rất quan trọng nên tại đại hội kỳ 2 Đệ
Tam Quốc Tế, Lênin đã cho thành lập tổ chức Quốc Tế Nông Dân (Krestintern).
Nhưng khai thác thành phần nông dân vẫn chưa đủ tạo sức mạnh cho phong
trào cách mạng vô sản nên Lênin lại đưa ra đề cương về chủ nghĩa dân tộc và
224 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
chủ nghĩa thực dân nhắm thu phục những dân tộc bị áp bức tại các quốc gia bị trị
biến thành lực lượng đồng minh của phong trào.
Stalin đã viết về quyết định này của Lênin như sau: ‘’Lênin luôn luôn nhắc đi
nhắc lại, không có sự liên minh với quần chúng của các dân tộc khác, thì vô sản Nga
đã không chiến thắng. Trong những bài ông viết về vấn đề dân tộc và trong các đại
hội Quốc Tế Cộng Sản, Lênin đã nói đi nói lại rằng thắng lợi của cách mạng thế giới
sẽ không thể có, nếu không có liên minh cách mạng giữa vô sản của các nước tiên
tiến với các dân tộc bị áp bức của các thuộc địa bị nô dịch.’’ (6)
Như vậy, từ căn bản, vấn đề liên minh không hề đặt trên nền tảng tinh thần
đoàn kết giữa các thành phần khác nhau mà chỉ là hành vi cần thiết để giành chiến
thắng cho phong trào cách mạng vô sản trong một giai đoạn nào đó. Nói một cách
khác, liên minh chỉ là vấn đề sách lược trong đó, giai cấp vô sản luôn nắm quyền
lãnh đạo và đấu tranh vì mục đích tiến tới chuyên chính vô sản chứ không vì lợi ích
của các dân tộc bị trị cũng như lợi ích của các thành phần giai cấp khác.
Lênin liên minh với nông dân Nga chỉ vì mục đích giành quyền lãnh đạo cho
đảng Bolchevick nên sau khi thành công đã lập tức cho dựng những nông trường
tập thể và thẳng tay tiêu diệt các thành phần địa chủ, phú nông.
Đây cũng là thực tế diễn ra tại Việt Nam qua trường hợp các Mặt Trận Việt
Minh, Mặt Trận Liên Việt, Mặt Trận Tổ Quốc…Hồ chí Minh kêu gọi tinh thần đoàn kết
của các tầng lớp yêu nước để phát triển lực lượng đấu tranh và khi nắm được quyền
hành thì lập tức ban bố chính sách cải cách ruộng đất để tiêu diệt địa chủ, phú nông
và tất cả những ai dám chống lại đường lối lãnh đạo của đảng, đồng thời cho tổ
chức các cấp hợp tác xã theo mẫu mực Liên Xô.
Hồ chí Minh đã thực hiện đúng sách lược của Lênin về liên minh và chủ nghĩa
dân tộc theo hướng tiến tới thiết lập nền chuyên chính vô sản gom trọn quyền hành
trong tay đảng.
Thực ra tại Việt Nam cũng như tại Liên Xô và các quốc gia cộng sản khác,
đảng chỉ là một danh nghĩa được vận dụng bởi một thiểu số lãnh đạo. Do đó, phía
sau những tấm bình phong đảng tiên phong, đảng của giai cấp công nhân…chỉ là
một nhóm cá nhân thi hành những chính sách cai trị bất chấp quyền lợi của nhân
dân, kể cả quyền lợi của chính giai cấp được đề cao trong mục tiêu phụng sự.
Dù vậy, phong trào cách mạng vô sản luôn gắn bó với quan niệm đấu tranh
giai cấp phát xuất từ duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Marx, đồng thời luôn
trung thành với quan điểm chiến lược sách lược đấu tranh của Lênin và Stalin (7) để
triển khai theo chiều hướng mâu thuẫn nội tại thường trực trong vạn vật là nguồn cỗi
đấu tranh bất tận nên mâu thuẫn xã hội giữa giai cấp Tư Bản bóc lột và giai cấp Vô
Sản bị bóc lột là nguồn cỗi đấu tranh trường kỳ cho đến khi giai cấp tư bản bị tiêu
diệt.
Phát xuất từ định đề này, mọi khái niệm về chiến tranh hay hòa bình, về
phương lược vận động, về đối tượng bạn hay thù v.v…của cộng sản hoàn toàn khác
biệt so với những khái niệm thông thường.
Trước hết, đấu tranh giai cấp được hình dung như một cuộc chiến toàn diện,
thường trực và trường kỳ nên không nhất thiết phải xác định bằng những cảnh súng
nổ bom rơi hay đâm chém chết chóc.
‘’Chiến tranh là kế tục của chính trị bằng những phương tiện khác’’ và ‘’Hòa
bình là kế tục của chiến tranh bằng những phương tiện khác.’’
Định nghĩa ấy của Von Clausewitz, thày của Frederick Engels, trong khái niệm
toàn bộ chiến đã được cộng sản áp dụng triệt để trong việc theo đuổi mục tiêu cuối
cùng và tối cao của đấu tranh giai cấp là ‘’tiêu diệt hoàn toàn giai cấp tư sản’’. Đó là
chiến lược tổng quát soi sáng và giữ vững tính chất nhất quán cho mọi chiến lược
225 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
giai đoạn cùng các sách lược cần thiết chiếu theo hoàn cảnh thực tế khác biệt trong
từng thời kỳ.
Trong tác phẩm Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin, Stalin phân biệt
chiến lược tổng quát là chiến lược chung cho toàn bộ cuộc đấu tranh giai cấp còn
chiến lược giai đoạn là những chiến lược cụ thể hơn cho các giai đoạn tương đối dài
và lớn. Trong chiến lược cụ thể lại gồm nhiều sách lược giai đoạn, tùy thuộc những
điều kiện thực tế của từng thời kỳ tương đối ngắn hơn. Chiến lược giai đoạn hay
sách lược đấu tranh giai cấp luôn được hình dung như một cuộc chiến nên luôn đòi
hỏi sự xác định mục tiêu, sứ mạng, địa hình địa vật, kế hoạch bố trí lực lượng...và
nhất là 3 yếu tố ta, thù, bạn.
Trong chiến lược tổng quát, mục tiêu cuối cùng và sứ mạng bất di bất dịch
của cuộc chiến là tiêu diệt tư bản nên khái niệm về ta, thù và bạn đã hoàn toàn sáng
tỏ. Ta là giai cấp vô sản, thù là giai cấp tư sản và tất cả những ai ủng hộ nó, còn bạn
là những ai thuộc các giai cấp khác chịu đứng chung và ủng hộ giai cấp vô sản.
Nhưng trong các chiến lược giai đoạn và sách lược vắn hạn, khái niệm này
trở nên bất định và vô cùng phức tạp. Tùy theo tình hình thế giới và tình hình địa
phương, tùy theo ‘’cao trào hay thoái trào cách mạng’’, khái niệm về bạn và thù sẽ
thay đổi, kẻ thù chính có thể trở thành kẻ thù phụ, thậm chí có khi tạm trở thành bạn.
Trên thực tế, đối với Liên Xô, có lúc Đức là kẻ thù chính khi Liên Xô cần liên
minh với Anh-Pháp, có lúc Đức lại trở thành bạn khi do tình hình biến chuyển Liên
Xô cần liên minh với Đức chống Anh-Pháp.
Qua sách lược vận động cách mạng Nga tháng 10.1917, theo trưng dẫn của
Stalin trong Thư gửi đồng chí S. Pokrovsky, ban đầu đảng Bolshevik nêu khẩu
hiệu ‘’chuyên chính của giai cấp vô sản và giai cấp nông dân-the peasantry’’, nhưng
sau đó lại đổi thành ‘’chuyên chính của giai cấp vô sản và giai cấp bần cố nông-the
poorest strata of peasantry’’. Như vậy, chỉ riêng trong giai đoạn đó thôi, một bộ phận
nông dân đã bị gạt ra ngoài cái ‘’ta’’ tức vừa là bạn đã trở thành thù..
3. Vai trò lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế.
Do tính toàn cầu của đấu tranh giai cấp, năm 1864 Marx và Engels lập nên
một tổ chức chung cho mọi quốc gia, khởi sự từ các nước công nghiệp Châu Âu, với
tên gọi là Liên Minh Công Nhân Quốc Tế tức Đệ Nhất Quốc Tế. Danh từ Quốc Tế
bắt nguồn từ đó.
Năm 1889, sáu năm sau khi Marx mất, tổ chức Đệ Nhị Quốc Tế tức Liên Minh
Quốc Tế Các Đảng Xã Hội ra đời với đường lối xã hội chủ nghĩa ôn hòa, áp dụng
những phương pháp đấu tranh hợp pháp.
Lênin chê Đệ Nhị Quốc Tế đi lạc hướng cách mạng bạo lực do Marx chủ
trương nên sau khi thành công trong việc cướp chính quyền ở Nga năm 1917 đã
thành lập Đệ Tam Quốc Tế vào tháng 3.1919, thường gọi là Quốc Tế Cộng Sản-
Komintern hay Comintern, Communist International.
Từ đó, cùng với chính quyền Liên Bang Xô Viết, Đệ Tam Quốc Tế đặt trụ sở ở
Moscow trở thành tổng hành dinh của phong trào cộng sản thế giới.
Dựa vào những thành quả đạt được ở Nga, Lênin đẩy mạnh việc lãnh đạo,
điều hành tổ chức này theo đường lối riêng tuy vẫn khẳng định theo đúng chủ nghĩa
Marx và luôn trưng dẫn luận điểm của Marx về cách mạng bạo lực và chuyên chính
vô sản.
Trong tác phẩm Nhà Nước và Cách Mạng, Lênin viết: ‘’Thuyết đấu tranh của
Mác về nhà nước và cách mạng xã hội chủ nghĩa đương nhiên đưa đến thừa nhận
sự thống trị của giai cấp vô sản và sự chuyên chính vô sản....Chỉ những ai thừa
nhận chuyên chính vô sản và sau khi đã thừa nhận đấu tranh giai cấp mới thực sự là
226 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
người Mác-xít.’’ (8) Cũng từ đây, chủ nghĩa cộng sản được gọi bằng cái tên Mác xít-
Lêninít.
Đệ Nhất Quốc Tế và Đệ Nhị Quốc Tế gần như chỉ có ảnh hưởng hạn chế
trong phạm vi Âu Châu và không dành được quyền lực ở bất kỳ quốc gia nào trên
thế giới nên chỉ còn là những dấu tích mờ nhạt trong quá trình vận động phát triển
của chủ nghĩa cộng sản.
Đệ Tam Quốc Tế được chính quyền Liên Xô yểm trợ tối đa về mọi phương
diện và chào đời giữa lúc Cách Mạng Vô Sản Nga đang đặc biệt cuốn hút sự lưu tâm
của những người đấu tranh ở khắp nơi nên mau chóng phát triển ảnh hưởng tới
nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia bị trị tại Đông Nam Á.
Năm 1935, khi tổ chức đại hội kỳ 7 tại Mạc Tư Khoa, Đệ Tam Quốc Tế đã
quy tụ 76 (9) đảng cộng sản trên 5 lục địa, trong đó có những đảng chưa nắm được
chính quyền cũng có cả triệu đảng viên như Nam Dương ở Á Châu và Ý ở Âu Châu.
Theo nội quy Đệ Tam Quốc Tế, đảng cộng sản của bất kỳ quốc gia nào đều
chỉ là một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế, phải triệt để tuân thủ mọi điều lệ của tổ chức
này (10) trong đó, điều 14 đòi các đảng thành viên phải đặt dưới sự kiểm soát của
đảng cộng sản Nga, phải triệt để ủng hộ các Cộng Hòa Xô Viết mà sau năm 1922 đã
trở thành Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Xô Viết, và điều 16 quy định mọi đảng cộng
sản chỉ là chi nhánh của một đảng toàn cầu duy nhất là Quốc Tế Cộng Sản hay
Quốc Tế 3.
Trên thực tế, Đệ Tam Quốc Tế hay Quốc Tế Cộng Sản do Lênin thành lập và
hoạt động với phương tiện của Liên Xô nên ngay từ ban đầu đã mặc nhiên đồng hóa
với Liên Xô. Liên Xô không những được coi là thành trì Cách Mạng Vô Sản mà còn
giữ vai trò đầu não quyết định mọi phương hướng tiến lui cho tất cả các đảng cộng
sản trên thế giới. Vì thế, ảnh hưởng và quyền lực của Đệ Tam Quốc Tế đối với tất cả
các đảng cộng sản trên thế giới chính là ảnh hưởng và quyền lực của giới lãnh đạo
Liên Xô, cụ thể là Lênin và người kế vị, Stalin, từng được mệnh danh là nhà độc tài
áo đỏ, để phân biệt với nhà độc tài áo đen Mussolini và nhà độc tài áo nâu Hitler.
Nói một cách khác, trong khi hết thẩy các đảng cộng sản trên thế giới phải
tuân thủ mọi điều lệ của Đệ Tam Quốc Tế, phải chấp hành mọi chỉ thị của Đệ Tam
Quốc Tế thì người đề ra các điều lệ và ban bố mọi chỉ thị chính là Lênin và sau đó là
Staline. Trong tình huống này, mọi điều lệ và chỉ thị đương nhiên phải đặt quyền lợi
của Liên Xô lên hàng đầu và phải phản ảnh trung thực mọi quan điểm của Lênin và
Staline.
Cụ thể là bản Luận cương về chủ nghĩa dân tộc và các vấn đề thuộc địa
của Lênin đã trở thành nền tảng định hướng cho mọi hoạt động của Đệ Tam Quốc
Tế từ khi xuất hiện và kể từ đại hội kỳ 7 năm 1935, Đệ Tam Quốc Tế đã coi tất cả
những người tán thành đường lối của Trotski là kẻ địch phải tận diệt, chỉ vì Trotski
chống lại Stalin.
Cụ thể hơn nữa là việc Stalin đơn phương quyết định giải tán tổ chức này vào
tháng 6.1943 khi Liên Xô cần được Đồng Minh viện trợ để chống lại sức tấn công
của Đức. Trước thái độ nghi ngại của Mỹ về hiểm họa cộng sản, việc giải tán Đệ
Tam Quốc Tế đã được đặt ra và quyết định tức khắc bởi Stalin, dù ban lãnh đạo của
tổ chức gồm nhiều thành viên mang các quốc tịch khác trên khắp thế giới.
Thực ra, việc giải tán chỉ là một thủ đoạn thay hình đổi dạng nhưng điều quan
trọng là các thành viên khác chỉ có thể tham gia bằng cách tuân thủ quyết định của
Stalin nhắm bảo vệ trước hết quyền lợi của riêng Liên Xô.
Với Liên Xô, Đệ Tam Quốc Tế đơn thuần là một tổ chức công cụ trực thuộc
quyền điều động của Stalin, nhưng với tất cả các đảng cộng sản hoặc các quốc gia
227 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
cộng sản khác, Đệ Tam Quốc Tế luôn luôn là một cơ quan chỉ đạo tối cao, ngoại trừ
Nam Tư tách khỏi tổ chức này từ năm 1948.
Cho nên, ngoại trừ Nam Tư, mọi đảng cộng sản hoặc các quốc gia cộng sản
trên thế giới đều phải trung thành với bản nội quy của Đệ Tam Quốc Tế, tự đặt mình
dưới quyển kiểm soát của đảng cộng sản Nga và trung thành với tư cách một chi
nhánh của Đệ Tam Quốc Tế.
Đảng cộng sản Việt Nam không thể vượt khỏi tình trạng này nên mới có lời
dẫn giải của Hồ chí Minh về cách mạng Việt Nam được Trần văn Giàu ghi lại như
sau: ‘’Cách mạng này là một phần của cách mạng thế giới. Mà cách mạng thế giới là
gì thì không phải là đã hiểu rõ, đã nhất trí. Chánh thức được Nguyễn Ái Quốc trình
giảng thì đó là cách mạng vô sản, cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ tư bản chủ
nghĩa, chế độ tư bản đế quốc là chế độ sinh ra chế độ thực dân. Chúng ta làm cách
mạng đánh đế quốc thực dân tức là đánh tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách mạng đó có
qui mô thế giới mà cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam là một bộ phận. Cách
mạng Việt Nam được sự ủng hộ của cách mạng thế giới, và cách mạng Việt Nam
góp phần vào cuộc cách mạng thế giới đó.’’
4. Võ khí chính trong chiến tranh ý hệ: Tuyên truyền.
Ý hệ Mác Xít là một hệ thống ý tưởng vừa mang tính xã hội, vừa mang tính
chính trị thời đại. Chủ trương chiến tranh hay đấu tranh giai cấp nằm trong nội dung
ý hệ này.
Trái lại không có một ý hệ tư bản. Tư bản chỉ có một hệ thống các biện pháp
kinh tế. Vì vậy cuộc chiến ý hệ đúng ra chỉ là cuộc chiến do cộng sản chủ xướng và
phía tư bản chỉ tiến hành chiến tranh tự vệ khi bị tấn công dù thường được hiểu sai
theo cộng sản tuyên truyền, là cuộc chiến giữa ý hệ tư bản và ý hệ cộng sản.
Cao nhất trong ý hệ Mác Xít là Niềm Tin giai cấp vô sản sẽ toàn thắng và lên
nắm quyền chuyên chính khởi từ xác quyết đây là quy luật tất yếu của lịch sử. Niềm
Tin không gì lay chuyển này đương nhiên phải tràn lan khắp nơi theo tiến trình
chuyển hóa lịch sử như đã được thể hiện bằng sự tràn lan của ý niệm nô lệ thay cho
cộng sản nguyên thủy, ý niệm tư bản thay cho phong kiến v.v…Nhưng thay vì chờ
đợi sự chuyển hóa tiệm tiến theo thời gian, cộng sản chủ trương thúc đẩy diễn trình
chuyển hóa bằng đấu tranh cách mạng tức tiến hành đấu tranh truyền bá tràn lan ý
niệm và niềm tin đặt vào nền chuyên chính vô sản. Vì đấu tranh cách mạng là cuộc
chiến ý hệ hay đấu tranh truyền bá tràn lan ý niệm và niềm tin nên võ khí và phương
pháp tiến hành chiến tranh không thể sở cậy riêng vào súng đạn mà phải vận dụng
nhiều hình thức hoạt động khác theo một cách thế hòa nhịp tuyệt hảo để đạt hiệu
quả truyền bá sâu rộng khắp nơi ý niệm và niềm tin trên. Do đó mới nói ‘’tuyên
truyền phát xuất từ bản chất chiến tranh ý thức hệ của cộng sản’’.
Vì võ khí chính để dùng ý tưởng đối chọi ý tưởng là tuyên truyền. Ý tưởng nào
chinh phục được đối tượng sẽ giành phần thắng nên cần tranh đua tạo nên những ý
mạnh đủ sức chinh phục đối tượng. Ý mạnh có thể vì bản chất nó mạnh, nhưng cũng
thường chỉ vì được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức khác nhau, dĩ
nhiên, với một sự hòa nhịp có kỹ thuật, nghệ thuật. Đó là nghệ thuật tuyên truyền
tuyệt diệu trong cái gọi là Orchestration của những nhà tuyên truyền trứ danh. (11)
Tuyên Ngôn cộng sản lần đầu tiên xuất hiện như một kiệt tác tuyên truyền,
làm rúng động thế giới một thời. Đây là tiếng pháo lệnh mở đầu cho hàng hàng lớp
lớp những ý tưởng xông lên tiến công vào thành quách Tư Bản chủ nghĩa, là nguồn
cảm hứng, là động lực cho mọi hoạt động tuyên truyền từ đó tới khi bức tường Bá
Linh sụp đổ.
Cách mạng tháng 10 ở Nga, cách mạng tháng 8 ở Việt Nam, hay những trận
Điện Biên, trận tổng công kích Tết Mậu Thân...đều mang dấu ấn của nó. Có thể nói
228 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
tuyên ngôn cộng sản là khởi điểm cho một chiến dịch tuyên truyền bất tận được tiếp
nối bằng toàn bộ công trình bao gồm nhiều mặt hoạt động của các lãnh tụ cộng sản
sau này từ Lênin, Stalin, đến Mao trạch Đông....
Trong hồi ký Khrutshchev Remembers, lãnh tụ Liên Xô Khrutshchev khen
Hồ chí Minh là ‘’tông đồ’’ nhiệt thành của chủ nghĩa cộng sản. (12)
Sứ mạng của tông đồ là truyền bá đức tin như hết thẩy đã biết qua việc Chúa
Giêsu chọn 12 Tông Đồ rao giảng về Ơn Cứu Độ để truyền bá Đạo Chúa ra khắp thế
giới. Truyền bá đức tin theo tiếng Latin là De Propagande Fide. Hai chữ tuyên truyền
có nguồn gốc là chữ Propagande này.
Tuyên truyền không cần tới bom đạn mà chỉ cần ý niệm biểu lộ qua lời nói,
hay bất cứ hình thức chuyển ý nào khác.
Vận dụng võ khí tuyên truyền không đòi hỏi điều kiện tốn kém về trang bị,
không đòi hỏi hình thành những mặt trận rõ ràng, không đòi hỏi phải có những đạo
quân võ trang hùng hậu…đặc biệt là không cần chém giết nhưng lại thâu hoạch
thành quả có thể vượt xa mọi tầm mức của những trận đánh bằng bom đạn.
Vận dụng võ khí tuyên truyền chỉ đơn giản là chuyển đạt ý mình sang đối
phương để ảnh hưởng tới ý tưởng, tâm tư, tình cảm và quyết định của đối phương
hầu trực tiếp hoặc gián tiếp buộc đối phương làm theo ý mình như khái niệm về
giành đoạt mục tiêu trong chiến tranh của Clausewitz.
Vận dụng võ khí tuyên truyền không chỉ tiêu hao binh lực đối phương mà phá
vỡ toàn bộ hoạt động của đối phương bằng lũng đoạn, khuynh đảo, thao túng, xách
động ngay trong nội bộ đối phương theo chiều hướng dồn ép tới thế tự sụp đổ.
Vận dụng võ khí tuyên truyền còn mở ra những trận đánh trường kỳ liên tục
biến hóa khôn lường tùy hoàn cảnh thực tế và vô cùng đa dạng vì có thể khai thác
mọi lãnh vực sinh hoạt xã hội, học đường, thông tin, nghệ thuật…
Ba yếu tố chủ yếu trong vận dụng võ khí tuyên truyền là lý tưởng hay chính
nghĩa, biểu tượng và thần tượng.
Về lý tưởng, tuyên truyền nhắm truyền bá và củng cố nơi các đối tượng một
niềm tin tuyệt đối vào chính nghĩa Cách Mạng Vô Sản hay đấu tranh giai cấp với
mục tiêu cuối cùng bất di bất dịch là tiêu diệt tư bản để tiến tới vô sản chuyên chính
trên toàn thế giới. Nhưng vì cuộc chiến gồm nhiều giai đoạn chiến lược nên tùy thời
điểm, tùy cao trào hay thoái trào, có những lúc cần che giấu lý tưởng Cách Mạng Vô
Sản bằng cách trưng ra những chiêu bài thích ứng với thực tế giai đoạn như Đoàn
Kết Dân Tộc, Bảo Vệ Tự Do, Tranh Thủ Độc Lập v.v… theo đúng sách lược Lênin
đường đi tới Paris phải qua ngả Bắc Kinh. Cụ thể là trước những đám đông quần
chúng đang khao khát dành chủ quyền độc lập hãy khoan nói đến tiêu diệt tư bản,
khoan nói đến chuyên chính vô sản mà chỉ nói chống thực dân, đế quốc, giải phóng
dân tộc. Giải phóng dân tộc rồi thì lực lượng vô sản lớn thêm lên trong khi thực dân
đế quốc yếu đi và lúc đó sẽ nhắm tới tư bản.
Nói cách khác, tuy lý tưởng là bất di bất dịch, nhưng cần linh hoạt thu hút
quần chúng đi theo đảng để tạo sức mạnh tranh thủ quyền lực cho đảng, rồi sau đó
sẽ củng cố quyền lực của đảng để tiến tới chuyên chính độc tôn.
Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng cho chính nghĩa đồng thời cũng là một lời
nhắc nhở để vừa nhìn thấy là nhớ ngay mục tiêu phải nhắm, công tác phải làm và
thái độ phải có. Biểu tượng của đấu tranh giai cấp là hình ảnh búa, liềm và màu đỏ
theo quốc kỳ Liên Xô cũng là đảng kỳ của các đảng cộng sản. Tương tự như lý
tưởng luôn được viện dẫn, cổ võ với mọi đảng viên, biểu tượng luôn luôn xuất hiện
trong mọi dịp sinh hoạt nội bộ.
Nhưng cũng như lý tưởng, đối với các đám đông quần chúng chưa sẵn sàng
chấp nhận Cách Mạng Vô Sản hoặc trong những trường hợp hướng nhắm của quần
229 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
chúng hoàn toàn khác biệt với mục tiêu của Cách Mạng Vô Sản, biểu tượng có thể
cần phải che lấp bằng những hình ảnh biểu tượng khác.
Chính vì thế tại Việt Nam cho đến năm 1975, biểu tượng búa liềm gần như chỉ
xuất hiện trong các sinh hoạt nội bộ đảng cộng sản.
Yếu tố thứ ba không kém phần quan trọng là thần tượng. Trong mọi tôn giáo,
thần tượng chiếm ví trí hàng đầu. Cộng sản là một chủ nghĩa độc tôn, một thứ tôn
giáo vô thần nên cũng phải có thần tượng.
Thần tượng số một của cộng sản là Marx với vị thế của đấng sáng tạo chỉ
đường vạch hướng cho nhân loại. Nhưng để mỗi bước đi của mọi người luôn theo
đúng đường hướng đã được chỉ vạch lại cần có những vị thần dắt dẫn.
Những vị thần này chính là lãnh tụ của các đảng cộng sản như Lênin, Stalin,
Mao trạch Đông, Titô, Hồ chí Minh. Tuy những vị thần này không thể sánh ngang với
Marx, nhưng cũng là những thần tượng được tuyệt đối tôn sùng.
Trên thực tế, những thần tượng này còn được nhắc nhở nhiều hơn so với
Marx vì tương quan gắn bó với mọi hoạt động đấu tranh diễn ra trước mắt. Marx chỉ
tượng trưng cho chủ nghĩa cộng sản nên dù được đặt ở vị thế tối cao vẫn không thể
quan trọng bằng những thần tượng có vai trò trực tiếp quyết định sự thành bại cho
các phong trào đấu tranh.
Thần tượng không chỉ là hình ảnh tượng trưng để những thành viên của
phong trào bày tỏ thái độ kính ngưỡng mà còn là lợi khí thu phục nhân tâm đối với
các đám đông quần chúng.
Trong thực tiễn đấu tranh, sức hút của lý tưởng nhiều khi không thể sánh
ngang sức hút của người lãnh đạo đấu tranh nên với vai trò tượng trưng cho phong
trào, các thần tượng loại này không những trở thành bất khả xâm phạm mà còn
được tô vẽ bằng mọi màu sắc, hình ảnh tuyệt vời.
Với cuốn sách mỏng Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chỉ
Tịch dưới bút danh Trần zân Tiên, điêu khắc gia họ Hồ đã phác họa những nét chính
và khởi công tạo nên một bức tượng làm lợi khí sắc bén cho mặt trận tuyên truyền
của cộng sản Việt Nam.
Theo luật lượng biến chất biến và đột biến của duy vật biện chứng, hiệu quả
tuyên truyền sẽ là tất yếu sau quá trình lập lại liên tục những lời lẽ diễn tả một điều
nào đó, dù là không có thật nhiều lời trở thành lời hay, lập lại nhiều lần thì không sẽ
thành có. Quy luật biện chứng duy vật này cũng phù hợp với quy luật tâm lý thực
nghiệm ‘’phản ứng điều kiện’’ của thuyết Pavlov và được áp dụng triệt để vào tuyên
truyền.
Tuyên truyền được coi là võ khí chủ yếu trong tiến hành đấu tranh nên cũng là
vấn đề được đặc biệt quan tâm trong hoạt động của mọi đảng cộng sản.
Đệ Tam Quốc Tế lập hẳn một bộ phận chuyên trách về tuyên truyền là Ủy Ban
Tuyên Truyền Quốc Tế trong khi tổ chức chính quyền của mọi quốc gia cộng sản
đều có Bộ Tuyên Truyền và tuyên truyền trở thành một bộ môn nghiên cứu, huấn
luyện để tiếp tục nâng cao hiệu quả.
Trong tác phẩm Il est moins cinq, nữ sĩ Suzanne Labin đã cho thấy mức tập
trung nỗ lực của khối cộng sản vào tuyên truyền qua nhiều sự việc và những con số
cụ thể.
Theo Suzanne Labin, trong thập niên 1950, kinh phí hàng năm dành cho
tuyên truyền của Liên Xô là 2 tỷ mỹ kim và số nhân viên chuyên trách về tuyên
truyền là nửa triệu.
Tại Mexico, một xứ 30 triệu dân trong đó chỉ có khoảng 10 ngàn người tham
gia đảng cộng sản và tại Quốc Hội chỉ vỏn vẹn có một dân biểu, một nghị sĩ cộng
sản, nhưng cộng sản Mexico đã cho xuất bản 7 tờ nhật báo bên cạnh một số tuần
230 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
báo và báo định kỳ khác. Đó là chưa kể nỗ lực xâm nhập 2 tờ nhật báo lớn
Novedales và Excelsior.
Về phát thanh, Hoa Kỳ nổi tiếng có nhiều đài phát thanh nhất thế giới, nhưng
theo Suzane Labin, thời lượng thông tin của Hoa Kỳ cuối thập niên 1950 không bằng
một phần tư thời lượng phát thanh tuyên truyền của Liên Xô.
Các đài Liên Xô còn đồng loạt thực hiện các chương trình phát thanh bằng
tiếng Pháp nhắm vào các xứ thuộc địa của Pháp ở Bắc Phi liên tục tấn công chế độ
thực dân trong khi Pháp không có một chương trình nào để đối phó.
Theo Leland Stowe, ‘’năm 1956, Trung Cộng đã bịt miệng một tờ nhật báo
chống cộng ở Miến Điện bằng cách dúi cho ông chủ báo một mối lợi lớn: Cho ông
gia nhập công ty thương mại béo bở của họ ở Đông Phương. Họ cũng làm như thế
với nhiều chủ báo khác và đến cuối năm Miến Điện đã có 5 tờ báo thân cộng’’. (13)
Douglas Pike cho biết năm 1935, cộng sản Việt Nam ấn hành đều đặn 30 tờ
báo.
Võ khí tuyên truyền trở thành võ khí chiến lược hàng đầu của đấu tranh giai
cấp trước hết vì giai cấp vô sản không thể có võ khí tối tân như giai cấp tư bản.
Do đó, để đương đầu với kẻ địch được trang bị đầy đủ chỉ có thể sở cậy vào
lời nói là thứ võ khí luôn có sẵn. Sử dụng võ khí này lại luôn luôn ở vị thế tấn công
tức là nắm vững quyền chủ động, đồng thời có thể mở những trận đánh kéo dài vô
tận ở bất kỳ nơi nào, nhắm vào bất kỳ mục tiêu nào được bảo vệ nghiêm mật nhất
của địch.
Bom đạn có thể đương đầu với bom đạn nhưng không thể ngăn chặn được
dư luận trong khi lời nói có thể tạo những dư luận biến thành áp lực buộc bom đạn
phải ngưng tiếng hoặc thúc đẩy một tình trạng phân hóa dẫn đến tan rã trong hàng
ngũ địch.
Trong cuộc chiến Việt Nam trước năm 1975, võ khí tuyên truyền được khối
cộng sản triệt để vận dụng đã thúc đẩy tâm trạng phản chiến ngay trên đất nước Mỹ,
tạo thành áp lực dư luận khiến chính giới Mỹ phải từ bỏ cuộc chiến dẫn tới cái kỳ tích
là châu chấu đá nghiêng xe.
Riêng trong khuôn khổ cuộc hội đàm Paris, võ khí tuyên truyền được vận
dụng dưới nhiều hình thức đã khiến nhiều thành phần dân chúng, nhiều nhân vật tên
tuổi trên thế giới tin rằng cộng sản Việt Nam là những người yêu nước, yêu tự do
đang đấu tranh bênh vực cho nguyện vọng chính đáng của nhân dân Việt Nam.
Kết quả thực tế mà võ khí tuyên truyền mang lại là Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam, một công cụ của chính quyền cộng sản Hà Nội, đã được ngồi ngang với Mỹ
trong bàn hội nghị và đại diện của tổ chức công cụ này là Nguyễn văn Hiếu được
Đức Giáo Hoàng đích thân tiếp kiến tại Thư Viện Vatican.
Trong khi đó, một cán bộ nhân viên ngoại giao tầm thường của Hà Nội là
Nguyễn thị Bình được báo chí thế giới coi như một yếu nhân chính trị Việt Nam và
Lê đức Thọ đã đạt vinh dự nhận lãnh giải Nobel Hòa Bình…
Đây là những kết quả không thu hoạch từ bom đạn mà từ lời nói với tư cách
võ khí tuyên truyền.
Lời nói với tư cách võ khí tuyên truyền không chỉ đơn thuần là ngôn ngữ mà

sự truyền đạt ý tưởng (cụ thể là truyền đạt một dụng ý) bằng vô hạn hình thức từ
ngôn ngữ, cử chỉ, hành vi, thủ đoạn, trang phục, phong thái…
Lời nói với tư cách võ khí tuyên truyền là hành vi cắt tóc của Tào Tháo, hành
vi ném con của Lưu Bị trong truyện Tam Quốc (14)…và cách chọn y phục của Hồ
chí Minh khi đi gặp Tướng Tiêu Văn tại Hà Nội năm 1945 qua lời thuật lại của Võ
nguyên Giáp: ‘’Bác chỉ định mấy đồng chí cùng đi. Thấy một đồng chí mang dép, Bác
231 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
bảo về nhà thay giày. Bác nói: ‘’Khi nào gặp ‘’người ta’’, tôi ăn mặc thế nào cứ mặc
tôi, nhưng các chú thì phải cho tề chỉnh’’. (15)
Từ cuối thập kỷ 1920, mục tiêu của chủ thuyết cộng sản, chiến lược sách lược
đấu tranh giai cấp, vai trò lãnh đạo của Đệ Tam Quốc Tế và võ khí tuyên truyền đã
trở thành những tác nhân chủ yếu đối với mọi phong trào cách mạng Việt Nam.
Những tác nhân này đã chia lực lượng cách mạng Việt Nam thành hai dòng
đối nghịch khơi nguồn cho một cuộc chiến tới nay còn tiếp tục là đề tài tranh cãi về
thực chất.
Với một số người, cuộc chiến Việt Nam từ 1945 là cuộc chiến của nhân dân
Việt Nam do Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo chống lại các lực
lượng ngoại xâm, cụ thể là hai cường quốc Pháp-Mỹ.
Hướng nhìn này xác định mục tiêu rõ rệt của cuộc chiến là giải phóng dân tộc,
bảo vệ chủ quyền quốc gia nên Hồ chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam được tuyên
dương là anh hùng yêu nước, cha già dân tộc do có công đánh đuổi thực dân đế
quốc, thống nhất đất nước.
Nhưng cũng không ít người bác bỏ với nhiều lý do, đặc biệt là sự kiện nhiều
triệu người dân Việt Nam đã chấp nhận đương đầu với cả cái chết để thoát khỏi
cảnh sống tại quê hương sau khi được giải phóng.
Một chuyên gia về Việt Nam là Duncanson còn quả quyết đảng cộng sản Việt
Nam không bao giờ là một lực lượng đấu tranh yêu nước mà ngược lại, gần như là
một lực lượng chống lại những người yêu nước đấu tranh chống thực dân-almost
anti-anti-colonial.
Tính phức tạp của cuộc chiến Việt Nam xuất phát từ sự bác bỏ hoặc lượng
định khác biệt về dấu ấn Cách Mạng Vô Sản Nga dẫn tới những gắn kết được gán
ghép trái ngược với cục diện thế giới đương thời.
Trên thực tế, không thể chối bỏ Cách Mạng Vô Sản Nga đã đặt toàn thế giới
vào thế đối đầu do mục tiêu thanh toán giai cấp tư bản để thiết lập chuyên chính vô
sản nên từ đó đã khởi diễn cuộc chiến tranh ý thức hệ mang tính toàn cầu giữa các
quốc gia Tây Phương với khối cộng sản do Liên Xô lãnh đạo.
Bất kể các quốc gia Tây Phương có theo đuổi một ý thức hệ nào hay không,
chiến tranh ý thức hệ vẫn hiện hữu do mục tiêu cuối cùng của chủ thuyết cộng sản
đòi hỏi phải tiến hành mọi nỗ lực chiến tranh từng ngày từng giờ cho tới khi toàn bộ
giai cấp tư bản bị tiêu diệt.
Chiến tranh không chỉ tiến hành bằng súng đạn mà bằng mọi phương tiện,
không chỉ nhắm triệt hạ binh lực địch mà nhắm tiêu diệt toàn bộ địch, không chỉ đối
đầu với địch ở một lãnh vực nào mà tấn công trên khắp các lãnh vực sinh hoạt...
Chiến tranh không cần lý do, không cần tuyên chiến, bất chấp mọi thái độ kể
cả thiện chí hòa bình của kẻ địch vì nằm trong quy luật tất yếu của tiến trình sinh hóa
với tính chất thường trực và trường kỳ.
Trong cuộc chiến tranh tất yếu này, hết thẩy các phong trào cộng sản trên thế
giới đều phải tuân thủ sự chỉ đạo của tổ chức Đệ Tam Quốc Tế, liên kết và hỗ trợ lẫn
nhau bằng mọi cách tùy theo vị thế tương quan.
Cho nên Hồ chí Minh mới xác định ‘’cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
là một bộ phận. Cách mạng Việt Nam được sự ủng hộ của cách mạng thế giới và
cách mạng Việt Nam góp phần vào cuộc cách mạng thế giới đó-cách mạng vô sản,
cách mạng xã hội chủ nghĩa, đánh đổ tư bản chủ nghĩa’’.
Do đó, dù muốn dù không vẫn phải đặt cuộc chiến Việt Nam vào bối cảnh
chiến tranh ý thức hệ toàn cầu giữa một bên là cộng sản và một bên là Tư Bản, theo
quan niệm của cộng sản, kể cả khi phủ nhận sự hiện diện của một ý thức hệ Tư
Bản.
232 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Trong bối cảnh này, mọi cuộc chiến do cộng sản chi phối diễn ra ở bất kỳ nơi
nào cũng đều không thoát khỏi tính cục bộ của chiến tranh ý thức hệ với mục tiêu
giành quyền chuyên chính cho giai cấp Vô Sản (được đại diện bởi đảng cộng sản
Nga hoặc chính quyền Liên Xô) dù mang bất kỳ chiêu bài nào.
Bác bỏ tính cục bộ của cuộc chiến Việt Nam trong bối cảnh chiến tranh ý thức
hệ toàn cầu là điều bất khả. Vì Hồ chí Minh đã gia nhập Đệ Tam Quốc Tế từ tháng
12.1920, trở thành ủy viên Hội Đồng Quốc Tế Nông Dân từ tháng 10.1923, công tác
tại Bộ Phương Đông Đệ Tam Quốc Tế từ ngày 14.4.1924 và cộng sản Việt Nam đã
được chính thức nhìn nhận là một chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế từ tháng 3.1931.
Vấn đề còn lại chỉ là thẩm định mức độ dấu ấn của Cách Mạng Vô Sản Nga
trong cuộc chiến Việt Nam qua những tiêu điểm về chủ thuyết cộng sản, về chiến
lược sách lược, về vai trò chỉ đạo của Đệ Tam Quốc Tế và về sự vận dụng võ khí
tuyên truyền.
Mức độ dấu ấn này chính là những tiêu chuẩn định giá vững chắc về con
người Hồ chí Minh đồng thời cũng là lời giải đáp cho hàng loạt nghi vấn đang có.
CHÚ THÍCH
01.- Trong tác phẩm Sách Lược Xâm Lăng của Cộng Sản của Minh Võ, Sài
Gòn, 1963, tác giả đã dành 200 trang tóm tắt những khái niệm này. Ở đây chỉ xin
nêu một số điểm hết sức đại cương.
02.- Cả Marx, Engels lẫn Lênin, Stalin đều không nói đến một chế độ nào tốt
hơn sau chế độ cộng sản, giống như lịch sử loài người đến đó là chấm dứt. Vì nếu
theo đúng luật biện chứng thì chế độ cộng sản không thể không chứa sẵn trong
mình cái mầm mâu thuẫn để tự hủy diệt hầu phát sinh cái mới tiến bộ hơn.
03.- Cụ thể là ‘’độc tài đảng trị’’ (đảng của giai cấp vô sản). Marx dùng tiếng
Đức được dịch ra tiếng Anh là ‘’dictatorship of the proletariat’’. Bình thường chữ
dictator được hiểu là độc tài. Nhưng cộng sản Việt Nam và Trung Cộng muốn gán
cho từ đó một ý nghĩa ‘’cao cả’’ nên đổi thành ‘’chuyên chính’’.
04.- Lênin toàn tập, tập IX, trang 432, ghi theo Stalin.
05.- Lênin toàn tập, tập XXIV, bản Nga ngữ, trang 311, cước chú của Stalin
06.- Stalin tuyển tập, bản Anh Ngữ-International Publishers, New York 1942,
trang 14.
07.- Theo ngôn ngữ Tây Phương như tiếng Nga, Anh, Pháp…thì đó là chiến
thuật- tactics. Trung Cộng và cộng sản Việt Nam không dùng từ chiến thuật mà thay
bằng từ sách lược có phần chính xác và đầy đủ hơn với khái niệm chiến tranh giai
cấp của Marx là cuộc chiến toàn bộ, toàn diện và trường kỳ. Từ chiến thuật chỉ dùng
để nói về những phương pháp chiến tranh thuần túy quân sự.
08.- Theo Di Sản Mác-xít tại Việt Nam của Đỗ Mạnh Tri, Cali, 2002, trang
88.
09.- Tại đại hội các đảng cộng sản và công nhân thế giới năm 1960, khi không
còn Đệ Tam Quốc Tế nữa, có sự hiện diện của 81 trên tổng số 87 đảng.
10.- Do điều lệ này nên trong biên bản hội nghị thứ 11 của ban chấp hành Đệ
Tam Quốc Tế, cuối tháng 3 năm 1931, ghi rõ ‘’Hội nghị nhất trí thông qua nghị quyết
công nhận đảng cộng sản Đông Dương là một chi bộ độc lập của quốc tế cộng sản’’.
Về chi tiết, xin đọc Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin của Hồng Hà.
11.- Xin xem 2 chương 6-7, Tâm Sự Nước Non của Minh Võ, Tiếng Quê
Hương, Virginia, 2002.
12.- Xem chương 42 phần II.
13.- Về chi tiết khác, xin đọc Sách Lược Xâm Lăng của Cộng Sản của Minh
Võ xb tại SàiGòn 1963, 1970, hiện có lưu trữ trong Thư Viện Quốc Hội Mỹ và các
Trường Đại Học Seattle, WA, Cornell, NY, Wisconsin...từ trang 92- 98.
233 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
14.-Trong Tam Quốc Chí, Tào Tháo hạ lệnh xử chém bất kỳ binh sĩ nào trên
đường hành quân mà có hành vi nhiễu hại dân chúng. Sau khi quân lệnh được ban
ra, chính Tào Tháo lại vô tình phóng ngựa làm hư hại một khu ruộng lúa. Tào Tháo
gọi hình quan tới luận tội mình. Hình quan không dám luận tội chủ soái nên Tào
Tháo dùng gươm cắt đứt mái tóc coi như chính mình đã chịu hình phạt chém đầu.
Phần Lưu Bị thua chạy trong trận Đương Dương, con trai là A Đẩu được Triệu
Tử Long cứu thoát. Khi Tử Long bồng A Đẩu đưa cho Lưu Bị, Lưu Bị lập tức quăng
con xuống đất và la lớn: ‘’Chỉ vì mi mà ta suýt mất một viên Đại Tướng’’.
15.- Những năm tháng không thể nào quên của Võ nguyên Giáp, Nxb Quân
Đội Nhân Dân, Hà Nội 2001, trang 87



CHƯƠNG XLIV


HỒ CHÍ MINH
VÀ SỰ DU NHẬP CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN VÀO VIỆT NAM



Trong tháng 10 và 11 năm 2002 xuất hiện hai tác phẩm của hai nhà khoa
bảng cùng đề cập tới chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam. Đó là cuốn cộng sản trên đất
Việt của Giáo Sư Tiến Sĩ Luật Khoa Nguyễn Văn Canh và cuốn Di sản Mác-xít tại
Việt Nam của Giáo Sư Tiến Sĩ Triết Học Đỗ Mạnh Tri.
Nội dung cả hai tác phẩm chú trọng tới những tác hại mà chủ nghĩa cộng sản
gây ra cho xã hội Việt Nam nhưng cũng khơi gợi người đọc liên tưởng tới những
người tiên phong du nhập chủ nghĩa này.
Cho tới nay, khi nhắc về chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam, hầu hết đều nghĩ
ngay tới Hồ chí Minh, nhưng Hồ chí Minh là người đến sau so với rất nhiều người
trong hàng ngũ tiên phong truyền bá tư tưởng cộng sản tại Việt Nam.
Trên thực tế, từ những năm đầu thập kỷ 1920, chủ nghĩa cộng sản đã vào
Việt Nam gần như tự do qua sách báo bằng tiếng Pháp, tiếng Hoa giống như các
triết thuyết hay học thuyết xã hội khác.
Truyền thống tự do tư tưởng Pháp đã góp phần tạo nên thực tế này, mặc dù
chính quyền thực dân thuộc địa không tán thành. Qua nguồn sách báo, một số trí
thức Việt Nam thông hiểu ngoại ngữ tiếp xúc với luồng tư tưởng mới này đã tỏ ra
ngưỡng mộ tán thành tương tự nhiều nhà trí thức nổi tiếng đương thời trên thế giới.
Chủ nghĩa cộng sản xâm nhập lúc đó là chủ nghĩa Marx thuần túy nặng về tư
tưởng triết học, cải cách xã hội qua sách báo tiếng Pháp hoặc qua những tác phẩm
có tính nghiên cứu như Mã Khắc Tư chủ nghĩa, Liệt Ninh chủ nghĩa của các học
giả Trung Hoa Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi...
Xu hướng vận động chuyển hóa theo chủ nghĩa cộng sản lúc đó là xu hướng
ôn hòa và hợp pháp của phong trào Đệ Nhị Quốc Tế. Vì vậy, những người tiên
phong tán thành và truyền bá chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam tập trung nỗ lực vào
các hình thức đấu tranh tư tưởng trong phạm vi văn hóa xã hội với các hoạt động
như viết báo, diễn thuyết, hội thảo…
Những nhân vật đấu tranh nổi tiếng trong thời điểm này như Nguyễn An Ninh,
Phan Văn Trường...đều tỏ ra tin tưởng ở hiệu năng xây dựng xã hội của chủ nghĩa
cộng sản. Những nhân vật trên đã được phép xuất bản báo để công khai cổ võ cho
nguyện vọng cải cách xã hội và truyền bá chủ nghĩa cộng sản qua sự hiện diện của
các tờ La Cloche Fêlée, L’Annam từ 1923 và La Ressurection, Đuốc Vô Sản, La
Lutte, Tranh Đấu...từ 1928…
Nhưng kể từ 1926, tiếng vang lớn của Cách Mạng Vô Sản Nga và sự thắng
thế của Đệ Tam Quốc Tế với chủ trương đấu tranh bằng bạo lực bắt đầu giới thiệu
một bộ mặt khác hơn của chủ nghĩa cộng sản tại Việt Nam.
234 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Lấy tuyên truyền làm võ khí chủ yếu nên Đệ Tam Quốc Tế không coi nhẹ các
phương thức vận động đang được mọi người theo đuổi. Tuy nhiên, hướng nhắm của
phương thức này không còn đơn thuần là thay đổi quan điểm chính trị của quần
chúng mà trực tiếp vận động quần chúng bạo động chống chính quyền.
Do đó, hoạt động xuất bản sách báo, diễn thuyết, hội thảo…có đích nhắm rõ
rệt hơn: Vận động tổ chức các hội đoàn bí mật, lôi cuốn quần chúng tham gia đình
công, bãi thị, mít tinh, biểu tình đồng thời thúc đẩy nổi dậy và tiến hành khủng bố khi
gặp điều kiện thuận lợi.
Chủ nghĩa cộng sản không còn thuần túy là một học thuyết xã hội mà là một
chủ thuyết đấu tranh. Vì đây là chủ nghĩa cộng sản được diễn giải theo quan điểm
Đệ Tam Quốc Tế do Lênin thành lập và mang thêm màu sắc tư tưởng Lênin. Nói
cách khác, chủ nghĩa cộng sản với tính cách chủ nghĩa Marx thuần túy du nhập Việt
Nam trước đó đã được thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản theo quan điểm Lênin với
tên gọi chủ nghĩa Mác-Lê. Sự kiện này từng được Trần văn Giàu nhấn mạnh trong
tác phẩm Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam, qua lời phát biểu: ‘’Tạ Thu Thâu chỉ
là một phần tử Mác-xít, chứ không phải người cộng sản’’.
Đệ Tam Quốc Tế được Lênin thành lập năm 1919 và một năm sau đó đã gây
được ảnh hưởng tại Pháp với tác động đầu tiên là phân tán đảng Xã Hội Pháp thành
hai phe. Cho tới thời điểm trên, đảng Xã Hội Pháp vẫn theo đường lối vận động cải
cách xã hội của Đệ Nhị Quốc Tế và Hồ chí Minh là một trong số 80 người Việt Nam
gia nhập đảng này từ đầu năm 1919, sau hai năm định cư tại Pháp.
Trong đại hội thứ 18 của đảng Xã Hội Pháp vào tháng 12.1920 ở Thành Phố
Tours, một số đảng viên tán thành quan điểm của Lênin phê phán Đệ Nhị Quốc Tế đi
sai hướng chỉ đạo của Marx nên nêu vấn đề gia nhập Đệ Tam Quốc Tế.
Hồ chí Minh lúc đó mang tên Nguyễn ái Quốc có mặt tại đại hội này đã theo
nhóm đảng viên xã hội ly khai, bỏ phiếu tán thành gia nhập Đệ Tam Quốc Tế.
Cuối năm 1921, nhóm đảng viên Xã Hội ly khai thành lập đảng cộng sản Pháp
đặt mình trong phong trào quốc tế cộng sản dưới sự chỉ đạo của Đệ Tam Quốc Tế.
Do sự việc này Hồ chí Minh được kể là một trong số những đảng viên sáng lập đảng
cộng sản Pháp.
Trên lý thuyết, chủ nghĩa cộng sản Mác-Lênin vẫn tuyệt đối trung thành với
chủ nghĩa cộng sản của Marx là phát động đấu tranh giai cấp bằng cách mạng bạo
lực để tiêu diệt giai cấp tư bản, tiến tới thiết lập chuyên chính vô sản trên toàn thế
giới.
Sự khác biệt chỉ nằm trong phương pháp hành động. Theo Marx, điều kiện để
phát động đấu tranh giai cấp chỉ có tại các quốc gia công nghiệp phát triển, vì công
nghiệp là nguyên nhân chủ yếu hình thành giai cấp vô sản. Công nghiệp càng phát
triển, giai cấp vô sản càng đông đảo sẽ tạo thành lực lượng đấu tranh hùng mạnh.
Lênin theo đuổi đấu tranh giai cấp nhưng chủ trương không dựa riêng vào giai
cấp vô sản mà dựa vào mọi tầng lớp quần chúng để gây lực lượng. Theo Lênin,
cách mạng vô sản chỉ thành công khi có sự hỗ trợ của các giai cấp khác tức là cần
tạm thời thỏa hiệp với mọi giai cấp để tạo ra những lực lượng liên minh trong đấu
tranh.
Điều kiện thứ nhất để lôi cuốn đối tượng chấp nhận liên minh là nắm vững
nguyện vọng của đối tượng.
Điều kiện thứ hai quan trọng hơn là phải luôn giữ quyền chủ động trong liên
minh để duy trì tính đấu tranh liên tục trường kỳ dẫn tới mục tiêu cuối cùng là thiết
lập chuyên chính vô sản.
235 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Điều kiện thứ hai tương đối đơn giản vì thu gọn trong phạm vi kỹ thuật tổ chức
và điều hành. Điều kiện thứ nhất phải bám theo thực tế nên vô cùng phức tạp vì diễn
biến tình hình tại mỗi địa phương, mỗi thời điểm luôn luôn khác biệt.
Lênin đã tìm thế liên minh với giới nông dân để giành quyền lực tại Nga,
nhưng cho rằng muốn giành quyền lực trên toàn thế giới, bắt buộc phải liên minh với
phong trào đấu tranh chống thực dân tại các quốc gia bị trị.
Vì thế, Lênin mới nêu quan điểm chiến lược là muốn đi tới Paris phải qua Bắc
Kinh. Quan điểm chiến lược này khiến khẩu hiệu do Marx và Engels nêu trong tuyên
ngôn cộng sản thay đổi từ ‘’Vô sản toàn thế giới đoàn kết lại’’ biến thành ‘’Vô sản
toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại’’.
Theo Stalin nhắc lại, Lênin đã nói đi nói lại nhiều lần rằng thắng lợi của cách
mạng thế giới sẽ không thể có, nếu không có liên minh cách mạng giữa vô sản của
các nước tiên tiến với các dân tộc bị áp bức của các thuộc địa bị nô dịch. Cho nên,
cùng với khẩu hiệu nêu trên, Lênin còn đưa ra bản luận cương về chủ nghĩa dân
tộc và các vấn đề thuộc địa tương tự một hình thức tuyên ngôn về hành động của
Đệ Tam Quốc Tế. Đây là những thứ đã thực sự lôi cuốn Hồ chí Minh lúc đó và là
bước mở đầu cho sự xâm nhập Việt Nam của chủ nghĩa cộng sản Mác-Lê.
Cho tới lúc đó, Hồ chí Minh cũng như hầu hết người Việt Nam lưu vong vì mọi
lý do đều không thể quên cảnh ngộ bị trị của dân tộc. Nhưng cũng như hầu hết
những người Việt Nam đang sống lưu vong trên đất Pháp, Hồ chí Minh chỉ là một
phần tử xoay quanh Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường là hai nhân vật sáng lập và
lãnh đạo Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước từ 1914 tại Pháp.
Khi nói về thời kỳ này của Hồ chí Minh, Lacouture viết Hồ chí Minh tập họp
xung quanh mình những nhân vật nổi tiếng như Phan Văn Trường, Phan Chu
Trinh… Lacouture cố diễn tả Hồ chí Minh như một nhân vật đấu tranh vượt trội so
với mọi người nhưng dụng ý trên không gạt nổi người đọc, khi chính Lacouture đã
ghi nhận Nguyễn Ái Quốc chỉ là một bút hiệu của Phan Chu Trinh và bản thỉnh
nguyện thư 8 điểm ký tên Nguyễn ái Quốc đệ trình tại Hội Nghị Hòa Bình Versailles
ngày 18.6.1919 là do Phan Chu Trinh hướng dẫn và Phan Văn Trường soạn với sự
góp phần của Hồ chí Minh.
Lúc đó, Hồ chí Minh với cái tên thực Nguyễn tất Thành hoàn toàn là một kẻ vô
danh giữa đám đông gần 90 ngàn người Việt Nam lưu vong tại Pháp. Rời Việt Nam
năm 1911, Nguyễn tất Thành đã có 8 năm sống tại hải ngoại nhưng qua gần hết 6
năm lênh đênh theo những con tàu buôn với nhiều loại công việc mưu sinh.
Cuối năm 1917, Nguyễn tất Thành mới thực sự sống tại Pháp bằng nghề thợ
ảnh và không hề tương quan với một phong trào chính trị nào. Cho nên, muốn dùng
từ tập họp xung quanh như Lacouture và dùng chính xác thì chỉ có thể nói Nguyễn
tất Thành là một trong số những người Việt Nam lưu vong thường tập họp xung
quanh Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường.
So với những người khác, Nguyễn tất Thành có hai lợi điểm là nghèo túng và
tuổi trẻ đơn độc khiến Phan Văn Trường đã nẩy ý giúp đỡ cho về sống chung tại nhà
và sau đó tham gia một số hoạt động của Hội Những Người Việt Nam Yêu Nước.
Đây là nguyên nhân khiến Nguyễn tất Thành có tên Nguyễn Ái Quốc vốn là một bút
hiệu của Phan Chu Trinh rồi trở thành tên chung cho nhóm người đấu tranh do hai
nhân vật Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường chỉ đạo trực tiếp.
Có thể hình dung chàng trai Nguyễn Tất Thành được Luật Sư Phan Văn
Trường giao cho đem những bài do Phan Chu Trinh hoặc Phan Văn Trường viết với
bút hiệu Nguyễn Ái Quốc tới các tòa báo hoặc các nhóm người nào đó đồng thời
dưới sự hướng dẫn của hai nhân vật này, chàng trai cũng bắt đầu viết một vài bài và
được đồng ý cho ký tên Nguyễn ái Quốc hoặc Nguyễn Le Patriote. Vì thế, khi gia
236 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
nhập đảng xã hội Pháp vào đầu năm 1919, Nguyễn tất Thành đã ghi tên là Nguyễn
ái Quốc. Bài viết ký tên Nguyễn ái Quốc mà cộng sản Việt Nam coi như tài liệu lịch
sử gây chấn động trong đời tranh đấu sôi nổi của Hồ chí Minh là bản thỉnh nguyện
thư 8 điểm bằng 3 ngôn ngữ Việt-Pháp-Hán gửi Hội Nghị Hòa Bình Versailles đã
được Lacouture ghi là soạn chung với Phan Văn Trường. Nguyên văn phần chính
trong bản thỉnh nguyện thư 8 điểm bằng Việt ngữ mang tựa đề Việt Nam yêu cầu ca
như sau:
………………………………..
Việt Nam xưa cũng oai thiêng
Mà nay đứng dưới thuộc quyền Lang Sa
Lòng thành tỏ nỗi sót sa
Dám xin đại quốc soi qua chút nào:
Một xin tha kẻ đồng bào
Vì chung chính trị mắc vào tù giam.
Hai xin pháp luật sửa sang
Người Tây, người Việt hai phương cùng đồng
Những tòa đặc biệt bất công
Dám xin bỏ dứt rộng dung dân lành.
Ba xin rộng phép học hành
Mở mang kỹ nghệ, tập tành công thương.
Bốn xin được phép hội hàng,
Năm xin nghĩ ngợi, nói bàn tự do,
Sáu xin được phép lịch du
Bốn phương mặc sức, năm châu mặc tình.
Bảy xin hiến pháp ban hành
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền.
Tám xin được cử nghị viên
Qua Tây thay mặt gửi quyền thế dân.
Tám điều cạn tỏ xa gần,
Chứng nhờ Vạn Quốc công dân xét tình,
Riêng nhờ dân Pháp công bình,
Đem lòng đoái lại của mình trong tay.
Pháp dân nức tiếng xưa nay,
Đồng bào, bác ái sánh tầy không ai!
Nỡ nào ngoảnh mặt ngơ tai,
Để cho mấy ức triệu người bỏ cơ.
Dân Nam một dạ ước mơ,
Lâu nay tiếng núp bóng cờ tự do.
Rộng xin dân Pháp xét cho,
Trong phò tiếng nước, sau phò lẽ công. (1)
……………………………………………
Thời điểm này, Nguyễn tất Thành đã gia nhập đảng xã hội Pháp nhưng
phương thức hành động và quan điểm đấu tranh phản ảnh qua tài liệu trên cho thấy
chưa vượt khỏi chiếc bóng của Phan Chu Trinh và ý chí đấu tranh chưa vượt khỏi
mức độ thông thường của bất kỳ người Việt Nam lưu vong nào lúc đó. Nhìn chung,
chàng trai Nguyễn tất Thành ở tuổi 28 hoặc 29 do gần gũi với những nhân vật đấu
tranh yêu nước như Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường nên không thể không ưu tư
về cuộc sống nô lệ của đồng bào và chia xẻ nguyện vọng giành độc lập với mọi
người bằng hành động tham gia đảng Xã Hội Pháp là một tổ chức chính trị thường
phản đối các chính sách thực dân đối với các quốc gia thuộc địa.
237 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Trong tình cảnh đó, sự thắng lợi của cách mạng vô sản Nga và lời kêu gọi của
Lênin đề cao cuộc liên minh giữa giai cấp vô sản với dân chúng các quốc gia bị trị
trên toàn thế giới thành một lực lượng đấu tranh xô đổ ách thực dân thống trị đã có
hấp lực đặc biệt như chính Hồ chí Minh từng diễn tả.
Hồ chí Minh đã hoan hỉ tiếp nhận cương lĩnh này như kẻ sắp chết đuối vớ
được chiếc phao đến nỗi đang ngồi một mình trong phòng riêng cũng hô lớn lên một
cách vui mừng như chính ông đã ghi lại. Khẩu hiệu ‘’Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức đoàn kết lại’’ trở thành ánh sáng mới mở ra một hướng đường cho nỗ
lực đấu tranh giải phóng dân tộc trước mắt Hồ chí Minh.
Vấn đề giải phóng dân tộc luôn là mối quan tâm của mọi người Việt lưu vong
tại Pháp lúc đó và là mối quan tâm hết sức lớn với những người đấu tranh như Phan
Chu Trinh, Phan Văn Trường…
Chàng trai Nguyễn tất Thành sống gần gũi và còn có dịp chia xẻ công việc với
hai nhân vật này nên chắc chắn phải nghĩ đến giải phóng dân tộc.
Cho nên, có thể cho rằng Nguyễn tất Thành đã thành thực khi trả lời câu hỏi
của nữ đồng chí Rose về lý do tán thành gia nhập Đệ Tam Quốc Tế: ‘’…Tôi không
hiểu thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản…Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Đệ Tam
Quốc Tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng dân tộc’’.
Trong Danh Nhân Hồ Chí Minh, Trần đình Huỳnh đã ghi lại sự kiện này như
sau:
‘’Đây có thể coi là cái mốc quan trọng đầu tiên phản ảnh sự chuyển biến cả
trong tư tưởng lẫn hành động của Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa xã hội khoa học…Sau đó Người đã viết thư bằng tiếng Pháp gửi Quốc Tế
Cộng Sản cho biết Luận Cương này đã ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thế giới
quan của Người và giúp Người dứt khoát đi theo Quốc Tế III’’. (2)
Một số tác giả như Bernard Fall, Halberstam đều ghi nhận bước ngoặt quan
trọng nhất trong đời Hồ chí Minh đã mở ra từ bản luận cương của Lênin.
Trên thực tế, bản luận cương không chỉ chuyển biến tinh thần quốc gia sang
tinh thần quốc tế hình thành thế giới quan chính trị mới của Hồ chí Minh mà đã đưa
lại cho Hồ chí Minh cơ hội hóa thân từ một chàng trai vô danh thành một nhân vật
đấu tranh có tầm vóc.
Từ 1917 tới 1920, Hồ chí Minh mới mon men bước vào đấu tranh với tư cách
một phần tử nhỏ nhoi tham gia vài sự việc bình thường trong Hội Những Người Việt
Nam Yêu Nước của các lãnh tụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường.
Năm 1921, Hồ chí Minh trở thành đảng viên cộng sản Pháp và không lâu sau
trở thành một nhân tố được lưu ý. Lý do quan trọng nhất của chuyển biến này chỉ
đơn giản là Hồ chí Minh có nguồn gốc từ một quốc gia nông nghiệp đang sống dưới
ách thực dân ở phương Đông.
Quan điểm chiến lược Lênin đặt nặng vai trò nông dân và vai trò các dân tộc
bị trị Á Châu nên Hồ chí Minh lập tức lọt tầm mắt xanh của các lãnh tụ Đệ Tam Quốc
Tế. Năm 1923, Hồ chí Minh trở thành một trong 52 ủy viên của Hội Đồng Quốc Tế
Nông Dân, được bầu vào ban lãnh đạo gồm 11 ủy viên, được chọn vào Trường Đại
Học Cộng Sản Mạc Tư Khoa dành cho giới lao động phương Đông và ngày
14.4.1924 chính thức nhận quyết định bổ nhiệm làm cán bộ của Bộ Phương Đông,
Đệ Tam Quốc Tế. (3)
Ngày 25.9.1924, Đệ Tam Quốc Tế cử Hồ chí Minh đi công tác tại Quảng
Châu, Trung Quốc với tư cách phụ tá cho Borodin. Theo Hồng Hà qua tác phẩm Bác
Hồ trên đất nước Lê Nin, trang 135, thì ‘’quyết định của Ban Chấp Hành Quốc Tế
Cộng Sản ngày 25.9.1924 trao tay cho anh Nguyễn Ái Quốc ghi rất vắn tắt: ‘’Đồng
Chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do ban Phương Đông chịu.’’
238 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Sách của Hồng Hà xuất bản năm 1980. 21 năm sau Trần Đình Huỳnh, trong
cuốn Danh Nhân Hồ Chí Minh ghi thêm về nhiệm vụ mà Hồ chí Minh được giao phó
gồm:
Thiết lập quan hệ giữa các quốc gia tại Đông Dương và Quốc Tế Cộng Sản.
Thông báo cho Quốc Tế Cộng Sản về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của
các thuộc địa này.
Bắt liên lạc với các tổ chức chính trị ở các xứ đó.
Cố gắng tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền. (4)
Có lẽ sẽ còn nhiều chi tiết khác về nhiệm vụ của Hồ chí Minh lúc ấy được bổ
túc thêm. Nhưng có một điều chắc chắn là những nhiệm vụ thực sự quan trọng và
các chi tiết về việc thi hành thường được trao qua khẩu lệnh, như Sophie Quinn-
Judge đã ghi trong tác phẩm Ho Chi Minh, the missing years và như chính Hồng
Hà đã viết: Nhiệm vụ đích thực của anh Nguyễn chỉ có vợ chồng đồng chí Borodin
biết.
Thực ra, nhiệm vụ của Hồ chí Minh lúc ấy không chỉ giới hạn ở Đông Dương
mà là toàn vùng Đông Nam Á. Hồ chí Minh nhận chỉ thị, báo cáo công tác và nhận
ngân sách điều hành từ ban Phương Đông có trụ sở tại Thượng Hải, do Hilaire
Noulens, bí danh của Jakov Rudnik điều khiển. Chính Hồ chí Minh trong một cuộc
gặp gỡ Manuilski, trước khi khởi hành đi Quảng Châu cũng đã xác nhận: ‘’...Ngoài ra
tôi còn chịu trách nhiệm trước Quốc Tế Nông Dân, và tham gia chỉ đạo phong trào
nông dân Á Châu.’’ Ngay lúc đó Manuislki đã nói rõ: ‘’Quốc Tế Cộng Sản cử đồng
chí làm ủy viên ban Phương Đông phụ trách cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào
cách mạng các nước Đông Nam Á Châu.’’ (5)
Sophie Quinn-Judge, qua cuốn Ho Chi Minh, the missing years, dựa theo
các tài liệu mới được giải mật tại Văn Khố Liên Bang Nga cho biết: ‘’Tháng 8.1925,
Quốc Tế Đông Phương đã gửi cho Hồ 5000 rúp (trị giá 2.500 MK vào lúc ấy) qua
trương mục của Borodin trong ngân hàng Viễn Đông...’’ để thi hành 4 việc, trong đó
có ‘’(điều 4) cung cấp đều hòa cho Mạc Tư Khoa những tin tức và tài liệu về phong
trào nông dân ở Trung Quốc.’’ (6)
Nhiệm vụ của Hồ chí Minh không hạn chế ở địa bàn Đông Dương mà còn mở
rộng hơn theo diễn tả của Hồng Hà (7): ‘’Ban Đông Phương Quốc Tế Cộng Sản giới
thiệu anh với Trung Ương Quốc Dân Đảng Trung Quốc để làm việc ở đấy....Anh
Nguyễn sẽ ở đó với tư cách cá nhân, chứ không phải với tư cách là cán bộ của
Quốc Tế Cộng Sản’’.
Lúc ấy đang có sự liên minh giữa Liên Xô-Trung Hoa Dân Quốc theo sách
lược ‘’mặt trận thống nhất’’ của Lênin, nhưng quốc tế cộng sản không giới thiệu Hồ
chí Minh với tư cách cán bộ cộng sản hầu giấu kín âm mưu thao túng lũng đoạn để
dễ hoạt động trong hàng ngũ người Quốc Gia Trung Hoa cũng như Việt Nam. Chính
vì thế, ngoài việc bí mật liên hệ với các tổ chức Quốc Tế Cộng Sản và đảng cộng
sản Trung Hoa, Hồ chí Minh còn được bà Tống Khánh Linh là phu nhân lãnh tụ Tôn
Dật Tiên bao bọc, giúp đỡ và công việc lập những hạt nhân cho đảng cộng sản Việt
Nam sau này đã tiến hành dễ dàng.
So với mấy năm trước, khi đặt chân tới Quảng Châu ngày 11.11.1924, Hồ chí
Minh đã trở thành một người hoàn toàn khác từ suy nghĩ đến khả năng và tư thế cá
nhân.
Cho đến khi đã trở thành đảng viên xã hội Pháp, Hồ chí Minh vẫn chỉ là một
trong số nhiều chiếc bóng mờ giữa những người Việt Nam lưu vong tại Pháp. Nhà ở
không có phải dựa vào Luật Sư Phan Văn Trường để được dành cho một căn phòng
trong ngôi biệt thự số 6 Đường Gobelins. Nghề nghiệp không có nên được Phan
Chu Trinh cho giúp việc trong tiệm ảnh của mình để học nghề thợ ảnh. Khó khăn
239 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
hơn nữa là trình độ hiểu biết Pháp Ngữ. Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ Tịch, Hồ chí Minh dưới bút hiệu Trần dân Tiên đã ghi về mình
trong thời điểm đó như sau: ‘’Ông Nguyễn lúc đó rất ít hiểu về chính trị, không biết
thế nào là công hội, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng…Ông Nguyễn
không đủ tiếng Pháp để viết…Ông Trường viết giỏi, nhưng không muốn ký tên. Mà
chính ông Nguyễn phải ký tên những bài báo.’’ (8) Đó là những bài ký tên Nguyễn ái
Quốc (đúng ra là Nguyễn Le Patriote) viết cho tờ Le Peuple của đảng xã hội Pháp và
là những hoạt động đấu tranh tích cực nhất mà Hồ chí Minh tham dự cho tới năm
1921.
Nói một cách khác, tới giữa năm 1921, Hồ chí Minh chỉ là người được Phan
Chu Trinh, Phan Văn Trường tin cậy giao cho vai trò giao dịch, được phép mang cái
tên Nguyễn Ái Quốc gia nhập đảng xã hội Pháp để phát biểu quan điểm của người
Việt Nam tại Pháp.
Tình trạng trên thay đổi vào tháng 7.1921 tức 7 tháng sau khi Hồ chí Minh
biểu quyết gia nhập Đệ Tam Quốc Tế. Suốt thời gian này, tại ngôi nhà số 6 Gobelins
thường có tranh luận lớn tiếng giữa Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường với Hồ chí
Minh và ngày 14.7.1921, Hồ chí Minh rời khỏi ngôi nhà.
Không ai biết nội dung những cuộc tranh luận nhưng có thể hiểu Phan Chu
Trinh, Phan Văn Trường không tán thành việc gia nhập Đệ Tam Quốc Tế. (9)
Hồ chí Minh bỏ ngôi nhà số 6 Đường Gobelins nhưng giữ tên Nguyễn Ái Quốc
vốn là cái tên chung của một số người trong ngôi nhà đó từ trước khi Hồ chí Minh
tới. Tuy nhiên, cái tên này cũng như tâm tư của những con người đấu tranh trong
ngôi nhà số 6 Đường Gobelins không còn gắn bó với tư tưởng và tâm tư của Hồ chí
Minh nữa.
Kể từ tháng 7.1921, Hồ chí Minh hoàn toàn gắn kết với chủ nghĩa cộng sản.
Ngày 29.12.1921, tại đại hội kỳ 1 của đảng cộng sản Pháp, Hồ chí Minh đã phát
biểu: ‘’…Tôi vui sướng biết chừng nào khi được dự đại hội đầu tiên của những người
cộng sản. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chủ nghĩa xã hội Pháp, một đồng chí
người bản xứ thực sự tham gia vào công việc của Đại Hội. Tôi cũng phải nói đó là
dấu hiệu tốt, bởi vì điều đó xác nhận rằng chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản, người ta
mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó, chúng ta mới có
thể thực hiện sự hòa hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa’’. (10)
Do đó, Hồ chí Minh tích cực tham gia các hoạt động tuyên truyền phát triển
đảng cộng sản Pháp và đầu năm 1923 đã ghi lại trong tờ truyền đơn cổ động cho
báo Le Paria những dòng sau: ‘’Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem
lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc nguồn gốc, sự tự do, bình đẳng, bác ái,
đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên
giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dày ngăn cản những
người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau. Tất cả mọi người hãy
đứng lên quanh lá cờ đỏ để chinh phục thế giới. Lao động tất cả các nước, đoàn kết
lại!’’ (11)
Không còn gì để ngờ vực về quan điểm chính trị mới của Hồ chí Minh trong đó
nguyện vọng độc lập dân tộc đã được thay thế bằng nguyện vọng chung sống hạnh
phúc hòa bình trong nền cộng hòa thế giới của những người lao động chấp nhận
đứng dưới lá cờ đỏ cộng sản.
Cho nên, trong bản báo cáo đầu tiên của Hồ chí Minh ghi ngày 18.12.1924,
sau một tháng có mặt tại Quảng Châu, đã có dòng cuối cùng nhấn mạnh: ‘’Trong lúc
này, tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người Việt Nam và tên tôi là
Lý Thụy chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc’’. (12)
240 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Trong 4 công tác được giao phó, hai công tác cụ thể thuộc về vận động phát
triển tổ chức là bắt liên lạc với các đoàn thể chính trị địa phương và tạo dựng một cơ
sở thông tin, tuyên truyền. Hơn hai tuần lễ trước khi viết bản báo cáo, qua hướng
dẫn và sắp đặt của phái bộ Borodin, Hồ chí Minh đã bắt tay ngay vào việc thực hiện
hai công tác trên bằng cách tìm tới nhà Nguyễn Công Viễn làm quen với một nhóm
thanh niên trong tổ chức Tâm Tâm Xã của Phan Bội Châu. Cuộc gặp gỡ đầu tiên
diễn ra vào một buổi tối đầu tháng 12.1924. Hồ chí Minh tự xưng là Vương sơn Nhị
phóng viên của tờ Quảng Châu báo tới để tỏ lòng ngưỡng mộ những người cùng chí
hướng với liệt sĩ Phạm Hồng Thái. Trong câu chuyện, Hồ chí Minh vẫn giữ tên
Vương sơn Nhị nhưng cho hai người bạn của Nguyễn Công Viễn cùng có mặt lúc đó
là Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu biết mình là người Nghệ An, đồng hương với họ.
‘’Những cuộc tiếp xúc ngày càng nhiều. Và, càng ngày nhóm thanh niên Lê
Hồng Sơn càng bị cuốn hút vào nội dung các vấn đề do ông Vương đặt ra. Chủ
nghĩa cộng sản, cách mạng vô sản, tổ chức Đảng, quần chúng công nông v.v…bắt
đầu được các anh quan tâm tìm hiểu. Ông Vương chỉ cho các anh những sách báo
cần đọc, giảng giải cho các anh rõ thêm những điều sách báo nói đến. Cứ như vậy,
dần từng bước, với lòng khát khao hiểu biết cái mới, được sự dìu dắt của ông
Vương, nhóm thanh niên Lê Hồng Sơn đã tìm được đường sáng. Nỗi băn khoăn của
các anh về con đường và cách thức cứu nước đã được giải đáp. Đó là con đường
cách mạng vô sản. Trước mắt, các anh cùng ông Vương lựa người tâm đắc, chỉ ra
đường đi nước bước cho anh em để cùng chung sức lập ra tổ chức’’ (13)
Kết quả, vừa đúng 2 tháng sau, ngày 19.2.1925, Hồ chí Minh đã gửi báo cáo
về Mạc Tư Khoa, báo tin vui cho Chủ Tịch Đoàn Đệ Tam Quốc Tế: ‘’Chúng tôi đã lập
được một nhóm bí mật gồm 9 hội viên. Trong đó, 2 người đã được phái về nước.
Trong số hội viên đó, 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng Sản. Chúng tôi
còn có 2 đoàn viên dự bị Đoàn thanh niên cộng sản Lênin’’ (14)
Nhóm bí mật 9 hội viên này gồm Hồ chí Minh và 8 người thuộc Tâm Tâm Xã
là Lê hồng Sơn, Hồ tùng Mậu, Lê hồng Phong, Lê quảng Đạt, Lâm đức Thụ tức
Nguyễn công Viễn, Vương thúc Oánh, Lưu quốc Long và Trương vân Lĩnh.
Vương thúc Oánh, Lưu quốc Long, Trương vân Lĩnh là những thanh niên hoạt
động tại Thái Lan được Hồ tùng Mậu tới thuyết phục chuyển về Quảng Châu. Nhóm
này được gọi là ‘’cộng sản Đoàn’’ và trở thành hạt nhân để tới tháng 6.1925 biến tổ
chức Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội với một
tổng bộ lãnh đạo do Hồ chí Minh cầm đầu. Việc làm đầu tiên của tổ chức này là xuất
bản tuần báo Thanh Niên, số ra mắt đề ngày 21.6.1925 tức trong thời gian xẩy ra
biến cố Phan Bội Châu bị mật thám Pháp bắt tại Thượng Hải.
Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội xác định mục đích là ‘’hy sinh
tính mệnh, quyền lợi, tư tưởng để làm cuộc cách mệnh dân tộc (đập tan bọn Pháp và
giành lại độc lập cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc
và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)’’. Bản điều lệ của Hội nêu chương trình hoạt động
là ‘’thành lập chính phủ nhân dân, áp dụng nguyên tắc tân kinh tế chính sách, đoàn
kết với giai cấp vô sản các nước, thành lập xã hội cộng sản’’. (15)
Bên cạnh hình Tôn Dật Tiên, Phạm Hồng Thái lúc này xuất hiện thêm hình
Karl Marx và Lênin tại trụ sở Hội. Một lớp huấn luyện chính trị đặc biệt được tổ chức
thường trực để đào tạo cán bộ và mọi học viên đều thuộc lòng bản Quốc Tế Ca
được Hồ chí Minh dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát như sau:
Hỡi ai nô lệ trên đời
Hỡi ai cực khổ đồng thời đứng lên
Bất bình này, chịu sao yên
Phá cho tan nát một phen cho rồi
241 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Bao nhiêu áp bức trên đời
Sạch sành sanh phá cho rồi mới tha
Cuộc đời nay đã đổi ra
Ta xưa con ở, nay là chủ ông
Trận này là trận cuối cùng
Ầm ầm Đoàn lực, đùng đùng Đảng cơ
Lanh-te-rô-na-xi-on-na-lơ
Ấy là nhân đạo, ấy là tự do. (16)
Đồng thời với việc củng cố tăng cường cơ sở tại Quảng Châu, Hội bắt đầu cử
người về nước và đi Thái Lan tuyên truyền thu hút thanh niên qua tham gia các lớp
huấn luyện chính trị để trở về hoạt động quảng bá tư tưởng cộng sản. Trong năm
1926, Lê duy Điếm được cử về Nghệ An đã thu phục được nhóm Phục Việt của Trần
Phú, Tôn quang Phiệt đồng ý gia nhập Hội và cử người đi Quảng Châu dự các lớp
huấn luyện.
Kết quả tương tự cũng gặt hái được với Lê hữu Lập được cử về vận động các
nhóm học sinh trung học tại Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, và với Hồ tùng Mậu
được cử đi vận động Việt kiều tại Đông Bắc Thái Lan…
Con đường xâm nhập Việt Nam của chủ nghĩa cộng sản kể từ sau 1926
không còn qua sách báo từ Pháp mà trực tiếp với những cán bộ tuyên truyền từ
Quảng Châu, Thái Lan.
Chủ nghĩa cộng sản được truyền bá lúc này là chủ nghĩa Mác-Lênin tức chủ
nghĩa cộng sản cộng với phương thức đấu tranh Lênin vì điều lệ Đệ Tam Quốc Tế
đã qui định chỉ được coi là người cộng sản khi vừa tin theo Marx vừa tán thành
đường lối Lênin.
Trên căn bản này, từ năm1926, Hồ chí Minh đã viết nhiều bài báo xỉ vả nhóm
Đệ Nhị Quốc Tế là tổ chức tiểu tư sản gồm những tên xã hội chủ nghĩa gian xảo, làm
lợi khí cho bọn bóc lột và lừa đảo và từ sau 1930 đã không ngừng kết án nhóm Đệ
Tứ Quốc Tế là bọn chó săn, tay sai Phát Xít cần phải tiêu diệt.
Quan điểm bạn và thù với chính những người cùng chung tư tưởng cộng sản
đã được xác định như thế nên không thể có sự dễ dàng chấp nhận những người
theo đuổi tư tưởng quốc gia dân tộc.
Tuy nhiên, trọng tâm quan điểm chiến lược Lênin là hiệu quả của sự liên minh
với các thành phần tùy theo giai đoạn nên mọi hoạt động tuyên truyền đều khoác
những chiêu bài thích nghi với thực tế của từng thời điểm, từng địa phương và việc
xâm nhập các đoàn thể khác để chi phối lũng đoạn là việc cần thiết. Xâm nhập là cơ
hội bớt thù thêm bạn, vì có thể đạt điều kiện biến các đoàn thể đó thành tổ chức của
chính mình.
Hồ chí Minh đã hoàn tất việc này khi xâm nhập nhóm Tâm Tâm Xã vốn là một
tổ chức do những người theo Phan Bội Châu thành lập năm 1923 với mục tiêu giải
phóng đất nước.
Hồ chí Minh khởi sự làm quen với nhóm Tâm Tâm Xã vào tháng 12.1924, tới
tháng 6.1925 đã lôi cuốn những thành viên chủ chốt đồng ý biến nhóm thành Thanh
Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đặt dưới sự điều động của Hồ chí Minh.
Tuy nắm tổ chức này trong tay, Hồ chí Minh chỉ cho bày thêm tại trụ sở Hội 2
tấm hình Marx, Lênin bên cạnh hình Tôn Trung Sơn, Phạm Hồng Thái là những biểu
tượng đấu tranh của Tâm Tâm Xã và vẫn luôn cổ võ lòng yêu nước. Vì luận cương
chính trị Lênin đã phân tích rõ nguyện vọng tha thiết nhất của quần chúng tại các
thuộc địa chỉ là lật đổ ách thực dân, giành lại độc lập nên phải đặt chủ nghĩa dân tộc
trong khuôn khổ đấu tranh giai cấp như một võ khí vận động quần chúng tham gia
cách mạng vô sản toàn thế giới. Tất nhiên, khi thành công trong việc giành quyền
242 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
chính để tiến tới thiết lập chế độ vô sản thì chủ nghĩa dân tộc sẽ không còn lý do tồn
tại, nhưng đây là điều không thể công khai tuyên bố và cũng không cần thiết công bố
khi chưa giành được quyền chính.
Chính vì thế, trong lúc hết lời công kích các nhóm Đệ Nhị, Đệ Tứ Quốc Tế, Hồ
chí Minh đã không ngừng đề cao lòng yêu nước và tinh thần cách mạng dân tộc.
Động cơ của nỗ lực này không khởi từ sự theo đuổi nguyện vọng yêu nước
của dân tộc mà khởi từ yêu cầu phát triển ảnh hưởng Đệ Tam Quốc Tế để tiến tới
tranh thủ mục tiêu cuối cùng là tiêu diệt chế độ Tư Bản giành quyền chuyên chính
trên toàn thế giới cho giai cấp Vô Sản đại diện bởi tổ chức Đệ Tam Quốc Tế, cụ thể
là chính quyền Liên Xô.
Nói một cách khác, chủ nghĩa cộng sản Mác-Lênin từ sau 1925 đã xâm nhập
Việt Nam qua trung gian của nhiều phong trào tổ chức đấu tranh yêu nước và đây là
một trong những lý do khiến không ít người nghiên cứu về vấn đề Việt Nam đã đồng
hóa cộng sản Việt Nam với các lực lượng đấu tranh yêu nước.
Cái hạt nhân đỏ mà Hồ chí Minh gieo vào Đông Dương là Thanh Niên Cách
Mạng Đồng Chí Hội từ 1926 đến 1929 đã nẩy mầm bén rễ thành nhiều tổ chức như
các Hội Việt Kiều Thân Ái tại một số địa phương Thái Lan, Tân Việt Cách Mạng
Đảng tại Huế, đảng cộng sản Đông Dương tại Hà Nội rồi An Nam cộng sản đảng,
Đông Dương cộng sản liên đoàn tại mấy Tỉnh miền Bắc Trung Phần…tạo thành một
tình trạng theo Đặng Hòa là rất khẩn trương. Đặng Hòa đã diễn tả: ‘’Năm 1929 quá
trình hình thành các nhóm cộng sản đang diễn ra rất khẩn trương. Mấy năm qua,
hoạt động của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đã phổ biến ngày
càng rộng những tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong quần chúng yêu nước,
phong trào công nhân phát triển mạnh, ý thức giác ngộ chính trị của công nhân ngày
càng cao. Những nhóm cộng sản bí mật đã xuất hiện ở cả Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam
Kỳ. Mỗi nhóm đều có ý muốn tổ chức của mình là Đảng Cộng Sản duy nhất ở trong
nước. Quan hệ giữa các nhóm với nhau không bình thường’’. (17)
Lúc này Hồ chí Minh đang có mặt tại Thái Lan sau khi theo phái bộ Borodin rời
Trung Quốc năm 1927 trở về Nga qua công tác tại Pháp-Đức.
Tháng 7.1928, Hồ chí Minh tới Thái Lan và tháng 12.1929 được lệnh của Đệ
Tam Quốc Tế xuống tàu trở lại Trung Quốc lo hợp nhất các tổ chức cộng sản tại Việt
Nam.
Ngày 3.2.1930, tại Hong Kong, các đại diện đảng cộng sản Đông Dương, An
Nam cộng sản đảng đồng ý hợp nhất thành đảng cộng sản Việt Nam trước sự chứng
kiến của Hồ chí Minh với tư cách đại diện Đệ Tam Quốc Tế.
Kể từ đây, tại Việt Nam bắt đầu hiện diện một tổ chức cộng sản thực sự nắm
quyền chỉ đạo hoạt động của mọi nhóm cộng sản địa phương. Tổ chức mang tên
đảng cộng sản Việt Nam vào lúc thành lập tới tháng 10.1930 đổi tên thành đảng
cộng sản Đông Dương theo chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế và được nhìn nhận là một
chi bộ độc lập của Đệ Tam Quốc Tế theo nghị quyết ghi ngày 11.4.1931 nguyên văn
như sau: ‘’Đảng Cộng Sản Đông Dương trước đây là một chi bộ của Đảng Cộng Sản
Pháp, từ nay được công nhận là một chi bộ độc lập thuộc Quốc Tế Cộng Sản’’.
Nghị quyết này đặt cộng sản Việt Nam vào vị thế cao hơn trong hệ thống quốc
tế cộng sản đồng thời cũng là vị thế bị chi phối trực tiếp chặt chẽ hơn bởi Đệ Tam
Quốc Tế.
Trong tình thế mới mẻ này, những hoạt động phản đối như mít tinh, bãi công
lẻ tẻ tại vài nơi trong nước vào thời điểm 1928-1929 đã được nhìn lại để biến thành
phong trào quy mô hơn là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh thúc đẩy một loạt các cuộc
nổi dậy tại nhiều xã ở Nghệ An trong tháng 9.1930, tại Phổ Đức, Quảng Ngãi và Tiền
Hải, Thái Bình tháng 10.1930 …
243 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, Trần Trọng Kim đã ghi lại tổng quát về 20
năm chủ nghĩa cộng sản xâm nhập Việt Nam, từ 1925 tới 1945, như sau: ‘’Nguyên
từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có người nói đến chủ nghĩa cộng sản.
Lúc ấy có một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi lễ, quê
Làng Kim Liên Huyện Nam Đàn thuộc Tỉnh Nghệ An. Trước học Trường Trung Học
ở Huế rồi bỏ sang Pháp theo Xã Hội Đảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc. Sau lại sang
Nga vào đảng cộng sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong trào cộng sản
cách mệnh ở vùng Nghệ Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp
một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy phải im hơi lặng tiếng, nhưng
vẫn ngấm ngầm tuyên truyền trong đám dân gian và thợ thuyền, theo đúng phương
pháp đã định ở Mạc Tư Khoa bên Nga …
Bọn ông Hồ chí Minh…lợi dụng danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh
Hội để che đậy công việc làmTrong khi ông Hồ chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời
cơ, ở trong nước đâu đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền
rất khôn khéo. Họ lợi dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh
không phải là đảng cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc
lập cho nước nhà, vậy nên từ Bắc chí Nam đâu cũng có người theo.
Cách hành động của họ thì bất cứ công sở hay tư sở, hễ đâu có một tổ chức
làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để tuyên truyền, hoặc để hoạt động
theo chủ nghĩa họ. Đảng viên cộng sản lại biết giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó
làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay
những người cộng sản vào hội rồi, và những người nhận việc đi dạy học rất chăm,
không quản công lao gì cả. Một tổ chức có kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm
gì mà không mạnh.
Sự tổ chức của đảng cộng sản đã mạnh và nhất là từ khi quân Nhật Bản vào
đóng ở Đông Dương, rồi xem hình như người Pháp lại ngấm ngầm dung túng họ, có
ý để họ quấy nhiễu quân Nhật may ra có xảy biến đổi gì chăng. Cho nên người ta
thấy lúc ấy chính phủ bảo hộ vẫn bắt bớ những người làm thuyền thợ theo cộng sản,
song người cộng sản nào có chút thế lực thì bắt rồi lại thả ra, hoặc dùng để làm việc
với mình…
Trong khi ấy ông Hồ chí Minh ở bên Tàu vẫn cộng tác với Việt Nam Cách
Mệnh Đồng Minh Hội, không có tranh dành địa vị như những người khác, cứ làm
việc của một đảng viên có kỷ luật. Cái khôn khéo của ông lúc ấy không để lộ cho ai
biết ông là lãnh tụ đảng cộng sản Đông Dương …
Về khoảng cuối năm 1944, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội lại dời về
Tỉnh Quảng Tây và cho ông Hồ chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập Việt.
Sau đó hội cho ông Hồ chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng
Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng
viên tên là Đỗ Thị Lạc là người sau có đứa con gái với Hồ chí Minh. Về sau thấy
người ta nói khi về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết
vì không chịu theo cộng sản.
…Việc ấy xảy ra vào khoảng tháng hai năm 1945. Từ đó bọn ông Hồ chí Minh
bỏ danh hiệu Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội mà dùng danh hiệu cũ là Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh, tức Việt Minh, và dùng cờ đỏ sao vàng của cộng sản.’’
Nhìn chung, chủ nghĩa cộng sản ban đầu xâm nhập Việt Nam qua sách báo
Pháp-Hoa với tác động của một học thuyết xã hội đối với giới trí thức nhưng chỉ mấy
năm sau đã đổi thành chủ nghĩa Mác-Lênin xâm nhập qua hoạt động tuyên truyền
của một cán bộ Đệ Tam Quốc Tế là Hồ chí Minh mượn tay nhiều tổ chức và các
phần tử quốc gia yêu nước để truyền bá tới mọi tầng lớp quần chúng trên khắp
nước.
244 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã đem về cho Việt Nam những thành quả nào ?
Đã có không ít lời giải đáp cho câu hỏi trên theo nhiều lối nhìn khác nhau.
Chủ điểm của chương sách này không nhắm tìm thêm một lời giải đáp mà chỉ
nhìn lại những đoạn đường xâm nhập của chủ nghĩa cộng sản cùng những người đã
đưa chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam. Hiển nhiên, Hồ chí Minh chỉ là một người đi
sau nhiều người khác trong công việc này. Nhưng cũng hiển nhiên, Hồ chí Minh là
người duy nhất thành công trong việc nhuộm đỏ toàn bộ đất nước Việt Nam nhờ đức
tin tuyệt đối ở chủ nghĩa Mác-Lênin cộng với nhiệt tình phụng sự Đệ Tam Quốc Tế,
sự trung thành với quan điểm chiến lược sách lược Lênin và khả năng vận dụng linh
hoạt mọi yếu tố thực tế trong nhiều thời kỳ khác nhau.
CHÚ THÍCH
01.- Bác Hồ, những năm tháng ở nước ngoài. Đặng Hòa, Trung Tâm
UNESCO bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc VIỆT NAM, Hà Nội 2001, trang 37-
38. Nguyên văn bản thỉnh nguyện ngoài đoạn trích dẫn trên còn 6 câu mở đầu và 18
câu kết.
02.- Trong tác phẩm Ho Chi Minh The missing years, bà Quinn-Judge, có lẽ
vì không tìm thấy văn kiện nào bằng Nga Ngữ trong văn khố Liên Bang Nga, nên
quả quyết Hồ chí Minh không được quốc tế cộng sản trọng dụng, và còn bị ngược
đãi. Nhưng việc Hồ chí Minh được cử vào ban Phương Đông thuộc quốc tế cộng sản
là đích xác, vì trong cuốn Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin, nơi các trang 62 và 106,
Hồng Hà đã trưng văn kiện chính thức của ban chấp hành quốc tế cộng sản ghi rõ
ngày 14.4.1924 chứng nhận: ‘’Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là cán bộ của Ban Phương
Đông quốc tế cộng sản’’, mang chữ ký của ‘’tổng thư ký ban Phương Đông thuộc
ban chấp hành quốc tế cộng sản, PÊ-TƠ-RỐP’’, và ở một chỗ khác còn ghi thêm:
‘’với khoản tiền trợ cấp hàng tháng là 6 tréc-vô-nhét, tương đương với 60 rúp.’’
03.- Danh Nhân Hồ Chí Minh. Trần đình Huỳnh, Nxb Văn Học, HàNội 2001,
trang 14-15.
04.- Các chi tiết về giấy chứng nhận ký tên Pê-tơ-rốp, công tác tại Quảng
Châu, phí khoản trợ cấp cho Hồ chí Minh được ghi rõ trong Danh Nhân Hồ Chí
Minh các trang 33, 35 và ghi rõ trong Hồ Chí Minh Biên Niên Tiểu Sử, Tập I, các
trang 231, 237)
05-07.- Bác Hồ Trên Đất Nước Lênin, Hồng Hà, trang 133-134, 130
06.- Ho Chi Minh The missing years. Sophie Quinn-Judge, trang 88
08.- Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Văn Học,
Hà Nội 2001, trang 34-35
09.- Bác Hồ, những năm tháng ở nước ngoài, trang51-53. Tác giả trích một
đoạn thư ngày 18.2.1922 của Phan Chu Trinh từ Marseille gửi Hồ chí Minh ở Paris,
có câu: …tôi không thích cái phương pháp ‘’ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội’’
của anh…
10-11.- Danh Nhân Hồ Chí Minh, trang 21 & 27
12.- Biên niên tiểu sử, Tập I, trang239.
13-14-15-16-17.- Bác Hồ, những năm..., trang 99-101, 102-107 & 115-116



CHƯƠNG XLV

HỒ CHÍ MINH
VÀ VỤ BÁN PHAN BỘI CHÂU CHO PHÁP


Trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc, Phan Bội Châu (1867-1940) thường
được nhắc đến như một Chí Sĩ, một nhà cách mạng nổi bật. Là một Nhà Nho ưu thời
mẫn thế, Phan Bội Châu đã chọn cho mình con đường cứu nước, cứu dân mà kẻ sĩ
245 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
xứng danh nào cũng không thể từ chối khi đất nước lâm nguy theo câu nói đã thành
châm ngôn: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Mới 17 tuổi, Phan Bội Châu đã thảo hịch Bình Tây Thu Bắc và tích cực vận
động thành lập Thí Sinh Quân để góp sức vào phong trào kháng Pháp đương thời.
Nhưng phong trào Cần Vương cũng như lực lượng triều đình Huế lúc đó
không đủ sức đương cự với quân Pháp nên tất cả đều tan rã. Trong khi người Pháp
tiếp tục tiến hành bình định để củng cố chính quyền thực dân, Phan Bội Châu không
từ bỏ chí hướng đã có. Vừa dùng ngòi bút sáng tác thơ văn để nung nóng nhiệt tình
cứu nước, ông vừa bôn ba tìm gặp các phần tử đấu tranh để gây dựng lực lượng
chống Pháp.
Phan Bội Châu đã tiếp xúc với nhiều người từng chiến đấu trong hàng ngũ
Cần Vương của Phan Đình Phùng, từng tới Yên Thế gặp Đề Thám, bàn tính việc
đấu tranh với nhiều nhân vật trí thức yêu nước như Nguyễn Hàm, Đặng Thái
Thân…và đặc biệt đưa ra chủ trương ‘’giao kết giáo đồ’’ vận động tín đồ Thiên Chúa
Giáo. Đây là một chủ trương hết sức mới mẻ vì vào thuở đó vẫn có định kiến là tín
đồ Thiên Chúa Giáo ủng hộ thực dân Pháp.
Phan Bội Châu cho rằng cuộc đấu tranh chỉ thành công khi đạt được sự hợp
quần dân tộc và tin tưởng tuyệt đối ở lòng yêu nước của giáo dân.
Thực tế chứng minh Phan Bội Châu hoàn toàn nghĩ đúng vì sau đó phong
trào nhận được sự đóng góp rất lớn của tín đồ Thiên Chúa Giáo, gồm cả các vị Linh
Mục ở nhiều Giáo Xứ như Linh Mục Thông Xứ Mộ Vinh, Linh Mục Truyền Xứ Mỹ Dụ,
Linh Mục Thông Xứ Quỳnh Lưu, Nghệ An và Linh Mục Ngọc Xứ Ba Đồn, Quảng
Bình…Phan Bội Châu đã ghi lại trong Phan Bội Châu niên biểu rằng ‘’công ơn các
người giáo dân phù giúp rất nhiều’’ và ghi lại một kết quả rất đáng kể của chủ trương
là ‘’các đám mây mù nghi ngờ giữa Lương Giáo, quét một trận sạch bong’’. (1)
Năm 1905, Phan Bội Châu cùng Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ xuất dương qua
Trung Hoa rồi Nhật Bản, bắt đầu phát động phong trào Đông Du cứu nước. Trong số
giáo đồ Thiên Chúa Giáo hưởng ứng phong trào có Tu Sĩ Mai Lão Bạng với biệt
danh Già Châu đã đích thân đưa một nhóm thanh niên tới tận Hong Kong gặp Phan
Bội Châu năm 1908 và sau đó trở thành cộng sự viên đắc lực của Phan Bội Châu.
Suốt 20 năm lưu vong ở Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Phan Bội Châu kết
giao với nhiều nhân vật tên tuổi trong chính giới Trung Hoa, Nhật Bản như Khang
Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên, Bá Tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma
Shigenobu), Tử Tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki)…thành lập Việt Nam Quang
Phục Hội cùng nhiều hội đoàn khác thúc đẩy, hỗ trợ các phong trào đấu tranh ở
trong nước bằng sách báo tuyên truyền và giúp đỡ võ khí… (2)
Phan Bội Châu trở thành tiêu biểu của lòng yêu nước, động cơ kích động thu
hút mọi người tham gia hoạt động lật đổ ách thực dân, trở thành kẻ đại quốc phạm
đối với chính quyền bảo hộ Pháp nên đã bị kết án tử hình khiếm diện vào năm 1913
cùng với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nguyễn Hải Thần.
Sau khi Lênin cướp chính quyền thành công tại Nga, Phan Bội Châu đã nghĩ
tới việc kết giao với người Nga để tìm thêm sự yểm trợ cho lực lượng đấu tranh Việt
Nam. Trong Phan Bội Châu niên biểu (3), Phan Bội Châu khen Lênin có tài về
chiến lược đấu tranh cách mạng nên có ý muốn gửi một số du học sinh nhờ Liên Xô
giúp đỡ cho việc huấn luyện. Vì thế năm 1920, Phan Bội Châu đã đi Bắc Kinh gặp
hai người Nga và ghi lại cuộc gặp gỡ đó như sau:
‘’Năm Canh Thân (1920), tháng 11, tôi nghe được người của đảng xã hội
cộng sản của nước Hồng Nga nhóm họp ở Bắc Kinh khá nhiều mà đại bản doanh
của họ chính là nhà Bắc Kinh Đại Học. Tôi vì tính sẵn ham lạ mà nghiên cứu chân lý
của đảng cộng sản…
246 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Tôi đi Bắc Kinh…tới thăm Thái Nguyên Bồi tiên sinh…Thái mới giới thiệu tôi
với hai người Nga, một người lao nông Nga La Tư du Hoa Đoàn Trưởng (tên chữ
Nga tôi không nhớ được), một người là Hán Văn Tham Tán Lạp Tiên Sinh là thuộc
viên của Đại Sứ Gia-Lạp-Hãn.
Lần này là lần thứ nhất mà tôi trực tiếp kết giao với người Nga. Tôi có hỏi Lạp
tiên sinh rằng: ‘’Người nước tôi muốn đi du học quý quốc, nhờ tiên sinh chỉ vẽ đường
lối cho’’.
Lạp nói rằng: ‘’Chính phủ Lao Nông đối với đồng bào thế giới ở nước Nga rất
là hoan nghênh, người Việt Nam nay du học lại tiện lợi lắm. Do Bắc Kinh đến Hải
Sâm Uy, đường thủy, đường bộ thông được cả. Do Hải Sâm Uy đến Xích Tháp có
đường sắt vào Tây Bá Lợi Á, đi thấu được vào Mạc Tư Khoa, kể hành trình chỉ có 10
ngày thôi. Học sinh tới Nga tất trước phải đến Bắc Kinh, có Đại Sứ nước Lao Nông ở
đó, vào xin lĩnh chứng thư và giấy giới thiệu. Được chứng thư của Đại Sứ thì từ Xích
Tháp đến Mạc Tư Khoa, các tổn phí tiền xe và thực dụng thảy có chính phủ Lao
Nông ưu đãi cho. Kể từ Việt Nam đến đất Nga, nhu phí chỉ trong 200 đồng chắc dễ
biện lắm. Nhưng du học sinh trước khi vào học tất phải quyết tâm thừa nhận những
điều kiện như dưới này:
1.- Tín ngưỡng chủ nghĩa cộng sản.
2.- Học thành rồi, về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ
nghĩa Lao Nông.
3.- Học thành rồi, về trong nước mình phải ra sức làm những sự nghiệp cách
mệnh.
Còn như phí tổn chi dụng trong khi tại học và khi về nước, nhất thiết do chính
phủ Lao Nông đảm nhiệm.
Bấy nhiêu lời như trên là những lời mà lúc ấy tôi hội thoại với ông Lạp. Ông
Hoàng Đình Tuân dùng tiếng Anh thông dịch cho tôi…Người Nga khi nói chuyện với
tôi biểu hiện một cách hòa ái thành thực, tư sắc rành thấy là không đạm không nồng.
Tôi còn nhớ một câu rằng: ‘’Chúng tôi được thấy người Việt Nam là bắt đầu từ ông.
Ông nếu dùng được chữ Anh làm một bản sách kể cho hết chân tướng người Pháp
ở Việt Nam đem cho chúng tôi, chúng tôi cảm tạ mà không dám quên’’. (4)
Sau lần tiếp xúc này, Phan Bội Châu trở về Quảng Châu không gặp gỡ người
Nga nữa mà chỉ lo trung hưng Quang Phục Hội theo tình hình mới, nhất là sau khi
xẩy ra vụ Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Merlin tại Sa Điện.
Phan Bội Châu gặp Tưởng Giới Thạch, Lý Tế Thâm đề nghị giúp đưa du học
sinh Việt Nam vào Trường Hoàng Phố và bàn với các đồng chí cải tổ Việt Nam
Quang Phục Hội đổi thành Việt Nam Quốc Dân Đảng dựa theo khuôn mẫu Trung
Hoa Quốc Dân Đảng.
Phan Bội Châu hoàn tất việc soạn thảo các văn kiện căn bản như đảng
cương, chương trình vào tháng 9 năm Giáp Tý tức khoảng tháng 10.1924 giao cho
Hồ tùng Mậu đưa về trong nước lấy thêm ý kiến, rồi rời Quảng Châu về Hàng Châu.
Theo hồi ức Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu không rõ Hồ tùng
Mậu có chuyển tài liệu về nước không nhưng từ khoảng đầu năm 1925, Phan Bội
Châu nhiều lần nhận được thư góp ý của Hồ chí Minh.
Đây là thời gian Hồ chí Minh báo cáo với Đệ Tam Quốc Tế về việc vừa lập
xong nhóm bí mật cộng sản đoàn với 8 người thuộc Tâm Tâm Xã trong đó có con rể
Phan Bội Châu là Vương thúc Oánh đang hoạt động ở Thái Lan được Hồ tùng Mậu
đích thân qua gặp đưa về Quảng Châu.
Hồ chí Minh đang cùng nhóm này sắp xếp biến Tâm Tâm Xã thành Việt Nam
Thanh Niên Đồng Chí Hội vào tháng 6.1925 là thời gian mà người Việt Nam tranh
247 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
đấu tại Trung Hoa dự trù tổ chức lễ tưởng niệm liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh ngày
19.6.1924 (tức ngày 15.5 Giáp Tý).
Sự có mặt của Phan Bội Châu trong dịp này là điều mong đợi của mọi người
và cũng hoàn toàn hợp ý Phan Bội Châu đang muốn nhân dư vang tiếng bom Phạm
Hồng Thái hun nóng nhiệt tình tranh đấu. Do đó, Phan Bội Châu rời Hàng Châu ghé
Thượng Hải theo dự trù xuống thuyền tại đây về Quảng Châu.
Phan Bội Châu thuật lại: ‘’Mười hai giờ đồng hồ chính trưa ngày 11 tháng 5
âm lịch (5) , xe lửa Hàng Châu đi đến Bắc trạm, tôi vì cớ nóng gởi bạc cho ông Trần
nên gởi đồ hành lý ở nhà chứa đồ mà tay tôi xách một cái kha-băng nhỏ. Vừa ra cửa
trạm thì thấy có một cái cỗ xe hơi, xe khá lịch sự, đứng xung quanh có 4 người Tây,
tôi không nhận được ra người Pháp. Bởi vì xứ Thượng Hải người Tây nước nào
cũng có, khách sang trọng biết chừng nào mà kể, đem xe hơi rước khách cũng là
thông lệ của các lữ quán to.
Tôi có biết đâu chiếc xe hơi này là đồ gian của kẻ cướp bắt cóc người. Tôi
mới ra khỏi cửa trạm vài ba bước thì thấy có một người Tây hung dữ lại trước mặt
tôi dùng tiếng quan thoại mà nói với tôi rằng:
- Trứa cơ xe hấn hảo, xính xin xang xàng xe ! Xe này rất tốt, mời tiên sinh lên
xe !
Tôi đương cự rằng:
- Ngộ bú giảo ! Tôi không cần !
Thình lình người Tây nữa ở sau xe ra, hết sức đẩy tôi lên xe. Máy xe tức khắc
vặn, tôi đã vào tô giới Pháp rồi. Xe chạy đến bờ bể thì binh thuyền nước Pháp đã
chực sẵn. Tôi từ đó thành ra người tù phạm ở trong tàu binh’’. (6)
Tin Phan Bội Châu bị bắt trở thành làn sóng thúc đẩy bùng nổ một phong trào
đấu tranh lan rộng khắp các miền đất nước và ngay tại chính quốc Pháp.
Gần như mọi thành phần, mọi giới đều lên tiếng đòi tha Phan Bội Châu, xóa
bỏ bản án tử hình khiếm diện năm 1913. Nhiều phần tử trí thức, sinh viên học sinh,
đại diện các nghiệp đoàn…nối nhau gửi thư bênh vực Phan Bội Châu tới Hội Quốc
Liên, Tòa Án Quốc Tế La Haye, Quốc Hội và chính phủ Pháp. Những nhân vật nổi
tiếng thân Pháp như Học Giả Phạm Quỳnh cũng công khai yêu cầu ân xá cho Phan
Bội Châu.
Dư luận sôi nổi kéo dài nhiều ngày trước và sau ngày 23.11.1925 là ngày khai
diễn phiên tòa tại Hà Nội. Ngay giữa phòng xử luôn rộ lên những tiếng phản đối và
đã có một người đứng ra xưng rõ họ tên quê quán là Nguyễn Khắc Doanh, người xã
Trình Xuyên, Huyện Nam Trực, Tỉnh Nam Định đệ đơn xin Tòa cho được chết thay
Phan Bội Châu.
Trong Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn đã ghi lại cảnh hàng trăm bà già
buôn thúng bán bưng quỳ dọc theo Phố Hàng Đường, Hà Nội dâng thỉnh nguyện thư
xin ân xá cho Phan Bội Châu vào lúc Toàn Quyền Alexandre Varenne vừa nhậm
chức đi thị sát qua khu phố này. (7)
Đây là lần đầu chính quyền thuộc địa Pháp đứng trước một phong trào đấu
tranh quyết liệt và có quy mô bao trùm toàn cõi Việt Nam. Kết quả, Tòa chỉ đưa ra
một án tù treo và Toàn Quyền Varenne phải cử Khâm Sứ Trung Kỳ Pierre Pasquier
đích thân tới phòng giam Hỏa Lò gặp Phan Bội Châu, sắp xếp việc đưa đi an trí tại
Huế.
Phan Bội Châu bị bắt khiến hàng ngũ dân tộc yêu nước mất một điểm tựa
mang tính chỉ đạo nhưng đã củng cố thêm niềm tin đặt vào các phong trào đấu tranh
và hun nóng nhiệt tình của mọi giới ở trong nước.
Riêng Phan Bội Châu cho tới khoảng 1928-1929 khi ngồi viết Phan Bội Châu
niên biểu vẫn không hiểu vì sao mật thám Pháp lại biết rõ hành trình của mình để
248 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
chờ sẵn tại Bắc trạm Thượng Hải, ngoài một mối nghi ngờ: ‘’Ai dè lúc tôi ra đi, thì cái
thời giờ hành động của tôi đã có kẻ nhất nhất mật báo với người Pháp mà cái người
mật báo đó lại chính là người ở chung với tôi, từng nhờ tôi nuôi nấng…Người ấy
nghe nói tên là Nguyễn Thượng Huyền…gọi Cụ Thượng Hiền bằng ông chú, thông
chữ Hán, đã từng đậu Cử Nhân, chữ Pháp, chữ Quốc Ngữ cũng đủ xài. Tôi nhân
yêu tài nó, lưu nó làm Thư Ký còn như nó làm ma cho Pháp thì tôi có nghĩ tới đâu!’’
(8)
Phan Bội Châu không cho biết đã được nghe ai nói Nguyễn Thượng Huyền
làm ma (tức mật thám) cho Pháp và báo rõ hành trình của ông, tuy nhiên có vẻ tin
theo.
Vào lúc Phan Bội Châu được nghe nói như thế thì tại Hà Nội, năm 1928, nhà
xuất bản Nam Đồng Thư Xã cho phát hành tập tài liệu Ai bán đứng cụ Phan Bội
Châu ? của tác giả Nhượng Tống nêu đích danh người báo cho mật thám Pháp bắt
Phan Bội Châu là nhóm Lý Thụy, Lâm đức Thụ.
Nhượng Tống phát giác sự việc trên dựa theo nhiều nguồn tin từ những người
xung quanh Phan Bội Châu tại Trung Hoa.
Vào thời điểm đó, Lý Thụy cũng như Lâm đức Thụ không phải những nhân
vật tên tuổi trong hàng ngũ đấu tranh và cũng chưa tiêu biểu nổi cho một xu hướng
chính trị rõ rệt nào ngoài tư cách người của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách
Mạng Đồng Chí Hội vừa được thành hình.
Điều mọi người biết về Lâm đức Thụ chỉ là còn có tên Trương Béo hoặc
Hoàng chấn Đông, tên thật là Nguyễn công Viễn, từng tham gia Tâm Tâm Xã của
Phan Bội Châu và có tương quan với Tòa Lãnh Sự Pháp tại Hong Kong.
Như vậy, những nguồn tin mà Nhượng Tống nhận được chắc chắn không do
dụng ý chống cộng nhắm xuyên tạc về lãnh tụ Hồ chí Minh như các tác giả cộng sản
Việt Nam sau này nêu ra. Trên thực tế, cái tên Hồ chí Minh chỉ xuất hiện từ tháng
8.1945 và năm 1928 không ai biết Lý Thụy là Nguyễn ái Quốc.
Hơn nữa, dù năm 1949 Nhượng Tống bị cộng sản ám sát tại Hà Nội, nhưng
vào năm 1928, Nhượng Tống chưa hề đặt cộng sản vào thế thù địch.
Nhượng Tống bước vào làng báo năm 1924 chuyên hoạt động về văn hóa
cho đến cuối tháng 12.1927 mới gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn
Thái Học. Tập tài liệu Ai bán đứng cụ Phan Bội Châu ? có thể được viết từ trước
thời điểm này để ấn hành kịp vào năm 1928 và như thế Nhượng Tống không những
chưa biết Lý Thụy là cán bộ Đệ Tam Quốc Tế mà thậm chí còn không biết Lý Thụy là
ai nữa. Người ta đã biết tới cuối năm 1929, Việt Nam Quốc Dân Đảng còn cử người
qua Thái Lan liên lạc với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đề nghị
giúp đỡ võ khí để khởi nghĩa.
Thực ra, không chỉ riêng Nhượng Tống nhận được các tin tức cho biết Lý
Thụy và Lâm Đức Thụ chủ mưu bán đứng Phan Bội Châu. Năm 1948, trên tạp chí
Cải Tạo tại Hà Nội số tháng 10.1948 được Joseph Buttinger trích lại (9), Đào Trinh
Nhất đã viết bài Một bí mật chưa ai nói ra nêu tên Hồ chí Minh là kẻ chủ mưu bán
đứng Phan Bội Châu cho mật thám Pháp.
Đặc biệt hơn, chính Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là người từng có Lâm đức Thụ
bên cạnh nhiều năm ở Trung Hoa cũng ghi lại sự việc này như sau: ‘’Cuối tháng 5
năm 1925, Lâm đức Thụ viết thư và gửi tiền lên Hàng Châu cho ông Phan Bội Châu,
mời về Quảng Châu nhân dịp kỷ niệm Phạm Hồng Thái ngày 19 tháng 6, làm một
cuộc tuyên truyền lừng lẫy cho cách mệnh Việt Nam. Ông Phan nhận được thư và
tiền, liền đi Thượng Hải để đáp tàu thủy về Quảng Châu. Ông Phan đi rồi, mãi không
thấy có thư từ gì về, bọn Hồ Học Lãm ở Hàng Châu lấy làm lạ, viết thư hỏi các đồng
chí ở Quảng Châu. Thư trả lời nói không thấy ông Phan xuống đó, ai cũng lo.
249 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Hơn một tháng sau, Lâm Chi Hạ, Chủ Nhiệm Quân Sự Biên Tập Xứ, tiếp
được một phong thư từ Sán Đầu gửi tới, có kèm theo một mảnh thư do ông Phan
viết, mới biết là ông bị bắt rồi.
Gửi thư ấy đến Lâm Chi Hạ là một học sinh Tàu.
Người này cho biết rằng nhân dịp nghỉ Hè, từ Thượng Hải về Sán Đầu thăm
nhà, gặp ông Phan ở trên tàu thủy, ông Phan thừa lúc người đi kèm không ở cạnh,
nói chuyện với y và viết mảnh giấy ấy, nhờ y gửi đi Hàng Châu cho Lâm Chi Hạ.
Cứ như lời ông Phan nói trong mảnh giấy ấy thì khi ông đi xe lửa từ Hàng
Châu đến Thượng Hải, vừa ra khỏi cửa Ga, liền bị mấy người Cảnh Sát tô giới Anh
núm lấy, điệu lên xe hơi đưa đến tô giới Pháp giao cho người Pháp. Ông bị giam ở
đó ít lâu, rồi bị giải về nước bằng tàu thủy.
Lâm đức Thụ ở Quảng Châu, lúc đầu cố phao vu cho người này người khác
để che lấp tội ác của mình nhưng về sau thấy ông Phan bị bắt về đến trong nước,
thành ra một cuộc tuyên truyền có hiệu lực cho cách mệnh, Lâm Đức Thụ mới khoe
với mọi người đó là công hắn, vì chính hắn bắt ông Phan.
Hắn lại nói sở dĩ bắt ông Phan là vì hắn nghĩ ông đã trở nên già hủ, không
thích hợp với thời đại mới nữa, ở ngoài bất quá biết làm mấy câu văn tuyên truyền
hão bằng chữ Nho, chẳng được chuyện gì, không bằng đưa ông về nước lấy bản
thân ra làm lợi khí tuyên truyền, lại có ích hơn’’ (10)
Những ý kiến mà Cường Để ghi là của Lâm đức Thụ đã được Hoàng Văn Chí
dựa theo tài liệu của nhạc phụ là Sở Cuồng Lê Dư xác nhận là ý kiến của Hồ chí
Minh.
Lúc đó, nhóm Lâm đức Thụ rất tin theo Hồ chí Minh và đang tính toán biến
Tâm Tâm Xã thành tổ chức riêng.
Một vấn đề khiến cả nhóm ưu tư là có thể gặp trở ngại khi Phan Bội Châu
không đồng ý, vì Phan Bội Châu đang tiến hành việc cải tổ Việt Nam Quang Phục
Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
Lê Dư theo Phan Bội Châu hoạt động trong Tâm Tâm Xã nhưng gần gũi với
Lâm đức Thụ. Vì thế, Lê Dư đã được nghe nhắc tới ý kiến của Hồ chí Minh, lúc đó
mang tên Lý Thụy và biệt danh Vương sơn Nhị. Theo Lê Dư, Hồ chí Minh đã nói:
‘’Cụ đã gần đất xa trời mà chẳng nên công việc gì, chi bằng bán cụ cho Pháp lấy tiền
cho Đảng ta’’.
Một người trực tiếp nghe Hồ chí Minh phát biểu như trên là Vương thúc Oánh.
Vương thúc Oánh là người thứ 7 trong 9 hội viên bí mật của cộng sản đoàn thành
lập vào tháng 2.1925. Lúc đó, Vương thúc Oánh rời Thái Lan theo Hồ tùng Mậu về
Quảng Châu và luôn có mặt trong mọi phiên họp bàn bạc về hoạt động của nhóm.
‘’Trong cuốn sách tự thuật in vào năm 1962, Vương thúc Oánh cho biết trong
phiên họp khoảng đầu năm 1925 của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí
Hội, một hội vừa mới được Lý Thụy móc nối và thành lập, và Vương thúc Oánh có
hiện diện trong buổi họp đó, Lý Thụy nói: ‘’Cụ Phan ái quốc thật, nhưng cụ đã quá
già, đầu óc rất khó hấp thụ những trào lưu tư tưởng mới. Cụ lại quá thành thực, dễ
tin người…’’
Lý Thụy đã lý luận hãy để cho cụ Phan trở thành biểu tượng đấu tranh bằng
cách để người Pháp bắt giam cụ Phan xong rồi Hội tổ chức các cuộc đấu tranh cho
cụ. Song song, khi bán tin cho người Pháp bắt cụ, người Pháp phải gởi lại cho Hội
một số tiền và Hội dùng số tiền này để phát triển lực lượng. Lý luận ‘’nhất cử lưỡng
tiện’’ này đã được các thành viên trong Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí
Hội biểu quyết chấp thuận’’. (11)
250 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Vương thúc Oánh là con rể Phan Bội Châu cũng không thể phản đối và số
tiền nhận được từ người Pháp trong vụ này, theo Vương thúc Oánh, là 10 vạn quan,
tức 100 ngàn quan.
Vụ ‘’bán người’’ này được hầu hết các tác giả khác nhắc tới trong số có Đào
Văn Hội, tác giả Ba nhà chí sĩ họ Phan, cho biết thêm một chi tiết khác: ‘’Sau khi
Phan Bội Châu đi Hàng Châu, Lý Thụy và Lâm đức Thụ đã triệu tập các nhà cách
mạng tại Quảng Châu lại, trừ Nguyễn Hải Thần, để bàn về vấn đề tài chánh. Không
ai đưa ra được giải pháp nào về vấn đề này. Lâm đức Thụ đã đề nghị hy sinh cụ
Phan Bội Châu…Và hội nghị đã ủy cho Lâm đức Thụ và Phan Vị đến tiếp xúc với
Tòa Tổng Lãnh Sự Pháp ở Hương Cảng để thương lượng’’. (12)
Về phía các tác giả ngoại quốc, David Halberstam và J. P. Honey là những
người rất có thiện cảm với Hồ chí Minh cũng xác nhận việc ‘’bán người’’ trên.
Honey viết: ‘’Việc Hồ chí Minh bán đứng nhà ái quốc nổi tiếng Phan Bội Châu
cho Pháp lúc ấy đang sống lưu vong ở Trung Hoa minh họa chân dung (cá tính) đích
thực của con người đó (tức HCM). Sau này ông ta đã chứng minh cho đồng chí thấy
việc làm đó là chính đáng bằng cách nêu lên 3 lý do thúc đẩy ông ta làm:
- Một, Phan Bội Châu không phải cộng sản mà là người ‘’quốc gia’’ và có thể
sẽ là đối địch với cộng sản trong kế hoạch kiểm soát phong trào kháng chiến chống
Pháp. Phản Phan Bội Châu là loại bỏ được một đối thủ tương lai.
- Hai, món tiền thưởng nhận được của Pháp có thể được dùng một cách tối
ưu để phát triển phong trào cộng sản Việt Nam.
- Ba, việc Pháp xử tử Phan Bội Châu sẽ tạo nên một không khí phẫn nộ mạnh
trong nước lúc ấy đang cần có.
Biện luận kiểu đó chứng tỏ không còn nghi ngờ rằng Hồ cực đoan, tàn nhẫn
và có óc tính toán.’’ (13)
Khác với J. P. Honey, David Halberstam không nhìn sự việc như một biểu
hiện tính chất cực đoan, tàn nhẫn của con người Hồ chí Minh mà đặt trên căn bản
những cái lợi thu được cho hoạt động của Hồ chí Minh: ‘’Nhà ái quốc già Phan Bội
Châu, bạn của thân phụ Hồ, lúc ấy đang ở Quảng Đông. Tại đây ông đã thu hút một
số đông thanh niên Việt đang sống lưu vong. Còn Hồ chí Minh thì nay là một chiến sĩ
cách mạng chuyên nghiệp được rèn luyện tại Mạc Tư Khoa. Ông ta coi Châu chẳng
có chút hy vọng nào và còn là một vấn đề trở ngại. Châu đối với Hồ chỉ còn là thứ di
tích của quá khứ để tôn thờ. Xem ra Châu không phải một nhà cách mạng mà chỉ là
một kẻ chống đối trong một địa phương hạn hẹp muốn có chút thay đổi. Đối với
nhóm của Hồ, cụ Phan là con người chỉ biết an phận ngồi bàn chuyện đâu đâu trong
khi thế giới đang biến chuyển và thời cuộc đang hối thúc phải hành động.
Một phụ tá của Hồ (14) bỗng nảy ra ý kiến có thể cho đoàn thể có một tài
khoản lớn đồng thời làm phấn chấn lòng yêu nước trong nước. Anh ta đề nghị với
Hồ nên hy sinh Châu cho đại nghĩa quốc gia. Lúc ấy Châu là lãnh tụ quốc gia nổi
tiếng nhất tại Quảng Đông. Bán Châu cho Pháp, bọn họ sẽ được thưởng, trong khi
đó, việc bắt giữ và xử án Châu sẽ dấy động lòng dân và kéo chú ý của quốc tế. Phản
ứng của quốc tế sẽ rất mãnh liệt nên Pháp sẽ không thể xử tử Phan Bội Châu.
Ông Hồ đồng ý và vào tháng 6 năm 1925, Châu nhận được giấy mời dự buổi
họp đặc biệt của những nhà cách mạng Việt Nam. Khi ông tới Thượng Hải thì bị mấy
người lạ mặt bắt cóc đưa về Sở của người Pháp rồi từ đó về Hà Nội.
Người ta tin rằng kẻ trung gian của Hồ đã nhận được 150 ngàn đồng của
người Pháp trao cho. Châu bị xử khổ sai chung thân, nhưng mấy tuần sau được ân
xá. Toàn Quyền Pháp lúc ấy mời Châu đến tư dinh nghỉ đêm, nhưng vị ái quốc lão
thành ngay cả lúc ấy cũng còn khước từ không chịu hợp tác với thực dân.
251 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Tuy nhiên, ông đã bị loại khỏi sân khấu chính trị, và tại Quảng Đông, Hồ chí
Minh nhanh chóng thâu dụng một số những thanh niên Việt lưu vong từng quây
quần xung quanh Phan Bội Châu. Từ đó Hồ chí Minh bắt đầu thành lập nhóm riêng
của ông ta.’’ (15)
Theo Halberstam, Hồ chí Minh quyết định theo gợi ý của một phụ tá và số tiền
nhận được là 150 ngàn. Đây là hai chi tiết tương đối dị biệt so với các tác giả khác.
Ngoài ra, mọi chi tiết đều phù hợp, đặc biệt về lý do chủ yếu thúc đẩy hành động bán
người là thanh toán trở ngại trên đường phát triển ảnh hưởng cộng sản. Halberstam
ngưỡng mộ Hồ chí Minh như một thần tượng nên không thể có dụng ý xuyên tạc để
bôi xấu thần tượng. Ngược lại, Halberstam còn coi hành động này phản ảnh tài trí
hơn người của Hồ chí Minh vì vừa loại trừ được một trở ngại vừa có thêm tài chính,
có thêm điều kiện nhân tâm thuận lợi và có động cơ cụ thể thúc đẩy việc đấu tranh.
Tuy nhiên có thể chính Halberstam vẫn không tin lý lẽ của mình đủ thuyết
phục mọi người nhìn sự việc theo hướng đã mở, vì nhiệt tình yêu nước của Phan
Bội Châu và cái án tử hình khiếm diện đã có từ 1913. Bởi lẽ, bất kỳ lý do nào cũng
không cho phép đặt một người nhiệt tình yêu nước dưới máy chém của kẻ thù.
Cho nên, Halberstam đã nhấn mạnh về tuổi già vô dụng của Phan Bội Châu
và sự tin tưởng Pháp không dám ra tay sát hại ông. Gần như Halberstam chỉ lập lại
những biện bạch do chính Hồ chí Minh (hoặc một phụ tá) nêu ra trong các buổi họp
cho rằng Phan Bội Châu già yếu không còn thích hợp với việc đấu tranh và cho rằng
người Pháp không dám xử tử Phan Bội Châu.
Lúc đó Phan Bội Châu mới 58 tuổi và là nhân vật nổi bật đối với cả quần
chúng trong nước lẫn chính giới Nhật Bản-Trung Hoa nên biện bạch trên không phản
ảnh thực tế mà chỉ xuất phát từ dụng tâm cố tình triệt hạ.
Về sự tin tưởng người Pháp không dám xử tử Phan Bội Châu thì có thể coi
như cách trấn an để ai còn nghi ngại sẽ xuôi theo chứ không dựa trên cơ sở nào.
Thực ra, theo các tác giả khác, Hồ chí Minh đã đặt vấn đề hy sinh Phan Bội
Châu để tạo một biểu tượng đấu tranh và đã nói hành vi xử tử Phan Bội Châu sẽ gây
căm phẫn trong quần chúng tức là không che giấu ý định đẩy Phan Bội Châu vào cái
chết để khai thác.
Dù nhìn sự việc theo cách nào, việc Phan Bội Châu rơi vào tay mật thám
Pháp đã đem lại cho Hồ chí Minh nhiều lợi điểm trong bước đầu phát triển ảnh
hưởng.
Trước hết là cảnh huống đột ngột mất ngọn đuốc chỉ đạo của những người
đang hoạt động chống Pháp tại Trung Hoa-Thái Lan, vì hầu hết những người này
đều hưởng ứng Phong Trào Đông Du hoặc hưởng ứng các hội đoàn chịu ảnh hưởng
Phan Bội Châu. Mất Phan Bội Châu, tất cả trở thành mất phương hướng nên dễ
dàng ngả theo tuyên truyền cộng sản hoặc dễ dàng liên kết với cộng sản để sẽ trở
thành công cụ. Chứng cớ cụ thể là ngay những người từng có nhiều năm tranh đấu
như Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần…cũng trở thành con cờ bị vận dụng từ thập
niên 1930.
Kế tiếp, sự vắng mặt của Phan Bội Châu đã mở ra khung cửa lớn cho những
nỗ lực tiếp cận với chính quyền Trung Hoa Dân Quốc. Cánh cửa đó từ trước gần
như bị che khuất bởi uy danh Phan Bội Châu thì lúc này luôn bỏ ngỏ cho bất kỳ kẻ
nào khôn khéo. Hồ chí Minh có lợi thế hơn bất kỳ ai hết vì có quốc tế cộng sản yểm
trợ sau lưng trong lúc chính quyền Trung Hoa đang thi hành chính sách Liên Nga
Dung Cộng. Tình hình này giúp Hồ chí Minh dễ dàng tranh thủ sự ủng hộ của nhiều
nhân vật chính quyền Trung Hoa, thậm chí nhận được cả sự ủng hộ của phu nhân
lãnh tụ Tôn Dật Tiên, bà Tống Khánh Linh,
252 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Thuận lợi hơn nữa là khung cảnh đấu tranh gần như hoàn toàn mới ở trong
nước, nhất là quyết định thủ tiêu Việt Nam Quang Phục Hội do chính Phan Bội Châu
đưa ra chưa kịp có bước tiếp nối.
Biến cố Phan Bội Châu bị bắt khiến nhiều tầng lớp quần chúng thức tỉnh,
đồng thời khó tránh gây hoang mang cho các hội đoàn đấu tranh dưới ảnh hưởng
của Phan Bội Châu đang chưa biết tiến lui ra sao. Có thể hình dung địa bàn quốc nội
gần như bỏ ngỏ cho những ai đã có định hướng khai thác.
Điều này đã giải thích về sự phát triển tương đối mau chóng của Việt Nam
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội là tổ chức do một Tổng Bộ lãnh đạo gồm
người cộng sản nhưng vẫn tuyên truyền đường lối Tam Dân Chủ Nghĩa, vẫn trưng
hình Tôn Dật Tiên, Phạm Hồng Thái và nhất là vẫn không rời danh nghĩa Phan Bội
Châu.
Thuận lợi đáng kể hơn hết đối với bản thân Hồ chí Minh là dẹp xong một trở
ngại lớn. Từ tháng 6.1923, Hồ chí Minh đã có mặt tại Liên Xô, được chọn là ủy viên
Quốc Tế Nông Dân, được huấn luyện tại Đại Học Cộng Sản Mạc Tư Khoa, được kết
nạp vào Đệ Tam Quốc Tế công tác tại Cục Phương Đông và nhất là đặt trọn niềm tin
vào lãnh tụ Lênin như đã viết trên báo Pravda ngày 27.1.1924: ‘’Khi còn sống, Người
là cha, là thầy, là đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao
sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cách mạng xã hội. Lênin bất diệt sẽ sống mãi
trong sự nghiệp của chúng ta’’. (16)
Với niềm tin này, Hồ chí Minh nhìn thấy Phan Bội Châu vốn nhiệt thành yêu
nước theo chủ nghĩa dân tộc chắc chắn không bao giờ tôn thờ Lênin. Như thế, dù
muốn dù không, Phan Bội Châu đã trở thành kẻ đại địch, nhất là với vị thế và uy tín
mà Phan Bội Châu đang có.
Nhiệm vụ của Hồ chí Minh tại Cục Phương Đông sẽ hết sức nặng nề trong
trường hợp Phan Bội Châu tiếp tục tồn tại để lãnh đạo các phần tử đấu tranh. Trong
quan điểm chiến lược sách lược do Lênin vạch ra, vấn đề liên minh là trọng yếu
nhưng chỉ có thể liên minh trong tư thế nắm vững quyền chỉ đạo. Phương sách đối
phó duy nhất trong trường hợp gặp những kẻ cản trở thế liên minh này là loại trừ.
Việc Phan Bội Châu bị vĩnh viễn loại khỏi chính trường hoàn toàn phù hợp với quan
điểm chiến lược sách lược mà Lênin đã vạch ra.
Tuy vậy, vẫn có những tác giả tránh né đề cập hoặc bác bỏ việc Hồ chí Minh
bán đứng Phan Bội Châu.
Trước hết, hết thẩy các tác giả cộng sản Việt Nam đều không bao giờ nhắc
đến việc này. Một câu viết gần như trở thành khuôn đối với các tác giả này là gán
cho người nhắc đến vấn đề những từ xuyên tạc, vu cáo và cũng không nói rõ xuyên
tạc, vu cáo điều gì. Chẳng hạn, trong Phan Bội Châu niên biểu, nơi bài mở đầu,
Chương Thâu viết: ‘’Về nguyên văn chữ Hán, Phan Bội Châu niên biểu có khá
nhiều bản, trong số này, may mắn còn bảo tồn được hai bản gốc có thủ bút của Cụ
Phan (bản của Huỳnh Thúc Kháng và bản của Anh Minh)… Ông Nguyễn Văn
Xuân…đã chỉ trích sai lầm đối với giới học thuật miền Nam lúc đó là vì sao lại không
tin, không dựa vào Anh Minh ? Theo chúng tôi, sở dĩ người ta không thể tin Anh
Minh vì chính Anh Minh đã có nhiều việc làm khuất tất, mờ ám, nhất là y đã cố tình
xuyên tạc tài liệu Phan Bội Châu để nhắm mục đích chống cộng một cách khá lộ
liễu’’ (17).
Cũng trong Phan Bội Châu niên biểu, đoạn Phan Bội Châu nhắc đến việc
giao dịch với Hồ chí Minh, Chương Thâu đã nhấn mạnh mấy chữ ‘’ông đã nhiều lần
viết giấy cho tôi’’ và ghi thêm trong chú thích như sau: Ở đây ta chú ý là: Đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã trao đổi với Cụ Phan bằng thư từ chứ không phải trực tiếp bàn
253 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
bạc, vì khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu thì Cụ Phan đã đi Hàng
Châu từ trên dưới một tháng rồi. (18)
Có thể Phan Bội Châu không gặp Hồ chí Minh tại Quảng Đông, nhưng ở đây
dụng ý của Chương Thâu chỉ muốn đẩy xa Hồ chí Minh khỏi vụ án Phan Bội Châu.
Trong khi đó, một tài liệu khác của cộng sản Việt Nam giao cho UNESCO là
tập Bác Hồ những năm tháng ở nước ngoài của Đặng Hòa lại dành nhiều trang tả
cuộc gặp gỡ rất thân thiết giữa 2 người như sau: ‘’Với địa chỉ do cơ quan Borodin
cung cấp, ông Nguyễn lên Hàng Châu tìm gặp Cụ Phan Bội Châu. Sau hai mươi
năm trời mới gặp lại, ông thấy Cụ vẫn quắc thước và tràn đầy nhiệt huyết như xưa.
Còn Cụ Phan, Cụ rất mừng khi gặp lại ông Nguyễn, con trai cụ Phó Bảng làng Sen
thân thiết. Những năm đầu thế kỷ, khi cụ khởi xướng Phong Trào Đông Du, đã có lần
Cụ ngỏ ý với cụ Phó Bảng để anh Nguyễn lúc đó mới 14 tuổi đi theo con đường của
Cụ. Nhưng người thiếu niên của dòng họ Nguyễn Sinh đó đã đi con đường của riêng
anh, con đường khác với các bậc cha chú đương thời.
Gặp lại nhau, hai bác cháu hàn huyên trò chuyện. Những kỷ niệm của quá
khứ được nhắc đến. Ông Nguyễn còn đọc lại cho Cụ Phan nghe hai câu thơ trong
cuốn Túy Viên mà 23 năm trước, năm 1901 trong bữa rượu say với cụ Phó Bảng tại
nhà ông Nguyễn, Cụ Phan đã đọc:
Mỗi phận bất vong ghi trúc bạch
Lập thân tối hạ thị văn chương
(Mỗi bữa không quên ghi sử sách
Lập thân hèn nhất là văn chương)
……
Trong cuộc đàm luận, Cụ Phan đã giới thiệu với ông Nguyễn danh sách 14
người yêu nước đã cùng cụ hoạt động bấy lâu. Trong danh sách đó, có một số thanh
niên mà cơ quan Borodin đã cung cấp cho ông hôm trước.
Vài năm sau cuộc hội kiến lịch sử này, khi Phan Bội Châu đã trở thành Ông
Già Bến Ngự để quãng đời cuối cùng trôi qua trên đất Huế, đã có đôi lần khi các
thanh niên yêu nước hỏi Cụ:
- Bây giờ Cụ về nước thì ở nước ngoài còn có người Việt Nam nào thay Cụ
dẫn dắt đồng bào được nữa ?
Cụ đã không ngần ngại mà trả lời rằng:
- Vẫn còn, còn có Nguyễn Ái Quốc, ông Nguyễn giỏi hơn tôi, ông sẽ làm được
việc đó!’’ (19)
Tuy viết dài về cuộc gặp gỡ, Đặng Hòa không nhắc một chữ đến việc Phan
Bội Châu bị mật thám Pháp bắt mà còn vẽ ra sự ngưỡng mộ cảm phục của Phan Bội
Châu đối với Hồ chí Minh bằng một chứng liệu vu vơ, nhất là nhắc đến cái tên
Nguyễn ái Quốc mà Hồ chí Minh giấu kín vào lúc đó.
Một tài liệu khác của cộng sản Việt Nam đề cập tới vụ này cũng không với một
tình tiết nào ngoài việc đặt Phan Bội Châu dưới sự dắt dẫn của lãnh tụ Hồ chí Minh
một điều không thể nào có chiếu theo hoàn cảnh thực tế lúc đó tại Hoa lục: ‘’Trên
đường đi từ Hàng Châu tới Quảng Đông dự kỷ niệm một năm ngày Liệt Sĩ Phạm
Hồng Thái hy sinh trong vụ nổ bom mưu sát Toàn Quyền Đông Dương Meclanh ở
Sa Điện, cũng nhân đó để gặp gỡ các đồng chí của mình tiến hành cải tổ Việt Nam
Quốc Dân Đảng theo gợi ý của Nguyễn Ái Quốc, Phan Bội Châu bị mật thám Pháp
bắt cóc ở Nhà Ga Thượng Hải và đưa về Việt Nam. Sự kiện này đã cắt đứt những
khả năng tốt đẹp của Phan có thể vươn tới trong sự nghiệp cứu nước của mình dưới
tác động của tình hình cách mạng thế giới và của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc’’ (20)
Riêng Hồ chí Minh gần như tuyệt đối không nhắc đến vụ Phan Bội Châu bị
bắt. Trong các bài viết, Hồ chí Minh luôn kể lại những ngày thành lập Việt Nam
254 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, nhưng chỉ một lần nói tới tên Phan Bội Châu
khi dùng bút hiệu Trần dân Tiên và gần như còn đặt nội vụ vào một thời gian khác
hẳn: ‘’Vừa nghiên cứu làm việc để sống, ông Nguyễn vẫn ra sức làm việc cho tổ
quốc mình. Ông bắt đầu tổ chức đồng bào Việt kiều ở Trung Quốc. Tổ chức này gọi
là Hội Việt Nam Thanh Niên Cách mạng Đồng Chí…
Hoạt động của Hội Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí bắt đầu lan
vào trong nước. Thực dân Pháp gián tiếp giúp đỡ rất nhiều.
Vì sao vậy ?
Trong khi tài liệu và báo chí của ông Nguyễn bí mật lọt vào nước rất khó khăn
thì bọn thực dân làm to chuyện để yêu cầu đàn áp. Đó là một quảng cáo rất tốt cho
công việc của ông, làm cho đồng bào chú ý, làm cho họ càng thích được nghe tuyên
truyền cách mạng.
Hơn nữa, thực dân Pháp đã phạm một sai lầm là bắt nhà lão sĩ yêu nước
Phan Bội Châu, lúc bấy giờ ở Trung Quốc và muốn kết án tử hình Cụ Phan. Tất cả
nhân dân Việt Nam nổi dậy chống lại vụ án này và yêu cầu thả Cụ Phan. Chưa bao
giờ có một phong trào quần chúng rộng rãi như vậy. Đây là một dịp tốt cho ông
Nguyễn tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước’’. (21)
Trong lúc các tác giả cộng sản Việt Nam tránh né vấn đề thì William J. Duiker
dựa vào mối nghi ngờ của Phan Bội Châu để bác bỏ việc Hồ chí Minh dính vào việc
bán người.
Duiker viết chính Phan Bội Châu đã cho biết kẻ chỉ điểm cho Pháp bắt mình là
Nguyễn Thượng Huyền.
Thực ra, qua những dòng trong Phan Bội Châu niên biểu, Phan Bội Châu
chỉ cho biết được nghe nói như thế và tin theo chứ không hề xác định với bằng
chứng nào. Sự việc này đã được Sử Gia Phạm Văn Sơn đề cập và cho rằng Phan
Bội Châu nghi oan cho Nguyễn Thượng Huyền.
Chính Nguyễn Thượng Huyền đã lên tiếng khi biết nội vụ vào dịp về Việt Nam
‘’khoảng năm 1965, Cụ Nguyễn Thượng Huyền có về Việt Nam và đăng một bài cải
chính nói rõ vụ việc trên tờ ‘’Bách Khoa’’ số 73’’. (22)
Như vậy, trong ba người được nêu tên liên hệ đến vụ bán người thì hai người
đã lên tiếng. Nguyễn Thượng Huyền đối diện thẳng với vấn đề để chứng minh sự vô
can của mình còn Lâm đức Thụ, theo ghi nhận của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, đã
khoe đó là thành tích do chính mình đạt được.
Vào năm 1925, Lâm đức Thụ là người thân tín của Hồ chí Minh được dành
cho vai trò lãnh đạo cao nhất của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng
Chí Hội nên không thể không bàn bạc với Hồ chí Minh về mọi công việc.
Ngoài ra, những người từng có mặt trong tổ chức trên như Lê Dư, hoặc quan
trọng hơn nữa như Vương thúc Oánh đều cho biết sự việc đã diễn tiến ra sao.
Cho nên chỉ dựa vào việc Phan Bội Châu nghi ngờ Nguyễn Thượng Huyền
thay vì Hồ chí Minh chưa thể đủ lý do để kết luận. Đối với Phan Bội Châu, cả Nguyễn
Thượng Huyền lẫn Hồ chí Minh đều như con cháu nên đều được tin cậy. Phan Bội
Châu nghi Nguyễn Thượng Huyền chỉ vì Nguyễn Thượng Huyền đang ở kề cận biết
rõ hành trình của mình và đã có người tới nói rằng Nguyễn Thượng Huyền làm việc
đó.
Dù biện minh của Duiker được đánh giá ra sao thì vẫn cho thấy Duiker không
nhìn vấn đề như Halberstam mà coi hành vi bán người là điều không thể chấp nhận.
Duiker vốn ngưỡng mộ Hồ chí Minh nên cố đẩy hành vi này cho kẻ khác. Tuy
nhiên, Duiker không thể phủ nhận một sự việc hiển nhiên là lời cáo buộc của Hà huy
Tập về trách nhiệm của Hồ chí Minh trong việc đẩy hàng trăm người vào tay mật
thám Pháp.
255 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Trong tác phẩm của mình, Duiker đã ghi: ‘’...Hà Huy Tập nhân dịp báo cáo gửi
Mạc Tư Khoa về kết quả của đại hội đảng, đã tấn công thêm mấy đòn vào Nguyễn Ái
Quốc. Trong thư ngày 31.3. (1932) gửi cho Dalburo, ông đã ghi là các đảng viên ở
Đông Dương và Xiêm đang công khai đấu tranh chống di sản của ý thức hệ ‘’cách
mạng dân tộc’’ của Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội và lãnh tụ của tổ chức này
là Nguyễn Ái Quốc. Tập đề xuất buộc Quốc phải tự kiểm điểm để nhìn nhận đã
phạm sai lầm trong quá khứ...
Mấy tuần sau Tập trở lại tấn công Quốc, bảo nhiều đại biểu của đại hội Macao
đã quy trách, ít nhất một phần, cho Quốc về vụ hơn 100 đảng viên của Đảng Cộng
Sản Đông Dương, và của Thanh Niên Đồng Chí Hội bị Pháp bắt. Vì Quốc đã biết
Lâm Đức Thụ là gián điệp mà vẫn dùng. Tập cũng cáo buộc Quốc đã bất cẩn bắt
mỗi học viên ở học viện Quảng Đông phải nộp cho Quốc một tấm ảnh, cũng như tên,
họ, địa chỉ của thân nhân. Những tài liệu này sau rơi vào tay Pháp. Vì vậy ‘’Quốc
không bao giờ có thể cho là mình không có trách nhiệm về những hành động đó’’.
(23)
Về việc này, Việt Thường cẩn thận hơn William J. Duiker, đã ghi nguyên văn
một đoạn trong báo cáo của Hà huy Tập gửi Quốc Tế 3 đề ngày 20.4.1935 như sau:
‘’Trước và sau đại hội của đảng, một số đồng chí khi nói chuyện với nhau
thường bàn về đồng chí Nguyễn ái Quốc (tức Hồ). Họ cho rằng Quốc chịu trách
nhiệm về việc mật thám bắt hơn 100 hội viên đoàn thanh niên, bởi vì:
a) Quốc biết rõ Lâm đức Thụ là một tên khiêu khích nhưng vẫn làm việc với
hắn.
b) Quốc đã phạm sai lầm khi yêu cầu mỗi thanh niên nộp hai bức ảnh, ghi rõ
tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà, cụ kỵ cùng với tên của từ 2 đến 10 người bạn.
c) Ở trong nước, ở Xiêm (Thái Lan) và ở trong tù, người ta vẫn còn bàn tán
đến trách nhiệm của Quốc, trách nhiệm mà anh ta không dám chối.’’ (24)
Theo Hà huy Tập, Hồ chí Minh đã sai lầm khi đòi hỏi những người gia nhập tổ
chức phải khai rõ lý lịch, nộp hình ảnh và tin cậy Lâm đức Thụ nên những tài liệu này
rơi vào tay mật thám Pháp khiến hàng trăm người đã bị bắt.
Hà huy Tập cũng cho rằng Hồ chí Minh thiếu trung thành với tinh thần quốc tế
vì tỏ ra nghiêng theo chủ nghĩa dân tộc.
So nguyên văn báo cáo của Hà huy Tập với lời tường thuật của Duiker có một
khác biệt là Hà huy Tập không nói đảng cộng sản Đông Dương mà chỉ nói hội viên
đoàn thanh niên trước đó tức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội do Hồ
chí Minh giao cho Lâm đức Thụ lãnh đạo một thời gian.
Về việc này, Duiker viết: ‘’Có lẽ Nguyễn Ái Quốc đã được đọc những báo cáo
như thế (của Hà huy Tập) khi chúng đã tới Mạc Tư Khoa. Ông ta nghĩ gì về lời phê
bình của Tập đối với hành động của ông thì không biết. Nhưng thái độ chung của
ông được bộc lộ trong một lá thư gửi cho ai đó ở Bộ Phương Đông vào tháng
1.1935: Ông than phiền rằng trình độ hiểu biết về chủ nghĩa lý thuyết của các học
viên Đông Nam Á từng theo học ở Mạc Tư Khoa rất thấp. Nhiều người không hiểu
thế nào là cách mạng dân chủ tư sản, hay thế nào là sự liên hệ của cách mạng
ruộng đất với chính nghĩa chống đế quốc...’’ (25)
Hồ chí Minh chê những sinh viên Đông Nam Á, trong đó có Trần Phú, Hà huy
Tập đã phê bình ông là đúng vì quả tình họ không hiểu cách hành động của Hồ chí
Minh và cũng chưa nắm vững quan điểm chiến lược sách lược liên minh giai đoạn
của Lênin.
Vận dụng chiêu bài chủ nghĩa dân tộc trong thời điểm đó là một bước đi sách
lược cần thiết. Vì chỉ bằng bước đi này mới có thể xâm nhập các tổ chức và cuốn
hút quần chúng để gây dựng lực lượng.
256 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Bước đi cần thiết thứ hai là không nương tay với những phần tử cản đường
và Hồ chí Minh đã trù liệu đối phó bằng sự mượn tay mật thám Pháp nên kết thân
với Lâm đức Thụ là người đang cộng tác với Pháp.
Dù đã nắm được tổ chức Tâm Tâm Xã xoay chuyển thành Việt Nam Thanh
Niên Đồng Chí Hội, Hồ chí Minh vẫn hiểu hầu hết hội viên của tổ chức này thuộc
hàng ngũ quốc gia yêu nước. Do đó, yêu cầu khai rõ lý lịch với các chi tiết về nơi ở,
người thân khi có việc cần và nộp hình không phải khuyết điểm như Hà huy Tập đã
nghĩ mà là một việc được tính kỹ để thanh toán các phần tử sẽ biến thành trở ngại
như phản đối chủ nghĩa cộng sản hoặc thiếu trung thành với Đệ Tam Quốc Tế.
Khi xẩy ra các sự việc này, Hồ chí Minh chỉ cần nhắc Lâm đức Thụ cung cấp
tài liệu cho mật thám Pháp.
Cho nên, mặc dầu có những báo cáo trên, Hồ chí Minh vẫn được tin cậy ở vai
trò cán bộ đại diện Đệ Tam Quốc Tế tại Đông Nam Á, còn những người như Trần
Phú, Hà huy Tập dù nối tiếp nhau giữ chức Tổng bí thư đảng cộng sản Đông Dương
vẫn chỉ là cán bộ thuộc một chi bộ địa phương.
Những báo cáo của Hà huy Tập không tác hại tới vị thế của Hồ chí Minh
nhưng là chứng liệu cụ thể về tương quan giữa Hồ chí Minh với mật thám Pháp vào
những năm cuối thập niên 1920 đầu thập niên 1930. Mối tương quan này đã khiến
hàng trăm người yêu nước rơi vào vòng tù tội do bàn tay của Hồ chí Minh.
Vì thế, việc bán Phan Bội Châu cho mật thám Pháp có thể coi là sự việc khơi
gợi cho một phương pháp hành xử của Hồ chí Minh và cũng có thể coi là hành vi mở
đầu cho một phương pháp đã được trù tính trước.
Trong sự biện bạch, Duiker cố loại Hồ chí Minh khỏi vụ bán Phan Bội Châu và
có những lời lẽ lấp lửng để người đọc thấy hàng trăm người bị bắt về sau chỉ do Hồ
chí Minh lầm tin Lâm đức Thụ. Nhưng cũng chính Duiker đã quả quyết Hồ chí Minh
luôn nắm vững đường lối đấu tranh Lênin tức là tín đồ cuồng nhiệt của chủ thuyết bá
đạo Sergey Nechayev. Mọi lời biện bạch trở nên không cần thiết vì với một người
như thế, việc gì cũng có thể xảy ra.
Riêng với Phan Bội Châu dù tên tuổi luôn được các tác giả cộng sản Việt Nam
nhắc đến như một vết son tô điểm thêm cho huyền thoại Hồ chí Minh, nhưng chính
Hồ chí Minh từng nêu rõ ý mình như sau: ‘’Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ
để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì ‘’đưa hổ cửa trước, rước beo
cửa sau’’. (26)
Đẩy một kẻ ‘’rước beo cửa sau’’ vào tù ngục hoặc vào cõi chết đâu có phải
điều khó khăn với một người đã chọn bá đạo làm phương châm hành động.
Vả lại, từ sau khi qua các lớp huấn luyện tại Mạc Tư Khoa, Hồ chí Minh đã
chọn con đường không chấp nhận tinh thần yêu nước là yêu dân tộc. Từ giữa năm
1923, đối với Hồ chí Minh, yêu nước là phải yêu xã hội chủ nghĩa.
Phan Bội Châu đã quay lưng lại với xã hội chủ nghĩa ngay từ cuộc gặp gỡ đại
diện Nga tại Bắc Kinh năm 1920 do tinh thần yêu dân tộc.
Vì thế, nếu Phan Bội Châu bị đối xử như cách đối xử dành cho những phần tử
thuộc Tâm Tâm Xã không chấp nhận cộng sản sau năm 1925 cũng là chuyện bình
thường.
CHÚ THÍCH
01.- Phan Bội Châu Niên Biểu hay Tự Phán là tác phẩm được biên soạn
trong thời gian Phan Bội Châu bị quản thúc tại Huế từ 1925 đến 1940. Tác phẩm viết
bằng Hán Văn do chính Phan Bội Châu tự dịch ra Việt Văn, mang tính hồi ức về
nhiều nhân vật, sự việc đã qua từ thời thiếu niên tới lúc bị bắt đưa về Huế và được in
thành tập 6 của bộ Phan Bội Châu Toàn Tập do Chương Thâu biên soạn, Nxb
Thuận Hóa, Huế 1990. Phan Bội Châu Niên Biểu đã được Nguyễn Khắc Ngữ chú
257 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
giải, Nhóm Nghiên Cứu Sử Địa ấn hành tại Sài Gòn 1973 và được Huy Phong-Yến
Anh sưu tầm trích lại trong Exploring the Hồ Myth, Thằng Mõ, Cali xb 1998.
02.- Ngoài Phong Trào Duy Tân và Đông Du, Phan Bội Châu còn sáng lập
Việt Nam Quang Phục Hội, Việt Nam Cống Hiến Hội, Tâm Tâm Xã, và ba tổ chức có
tính liên quốc gia Chấn Hoa Hưng Á Hội, Đông Á Đồng Minh Hội, Điền Quế Việt Liên
Minh Hội. Ông cũng là người có sáng kiến phát hành Việt Nam Quang Phục Quân
Quân Dụng Phiếu để gây quỹ hoạt động cách mạng...Ông đã có những trước tác
khá quan trọng như Liên Á Sơ Ngôn, Tân Việt Nam Toàn Thư, Ngục Trung
Thư…
03.- Phan Bội Châu Toàn Tập. Nxb Thuận Hóa, Huế 1990. Tập 6, trang 271-
273. Theo chú thích thì tên người Nga Trưởng Đoàn Du Hoa Đoàn có thể là Iurine
Voitinski, tên Nga của Viên Tham Tán (được gọi là Lạp tiên sinh) là Khodorov và tên
Đại Sứ Nga lúc đó là Karakhan.
04.- Nguyên văn trong Phan Bội Châu niên biểu, bản do Chương Thâu biên
tập: ‘’Nguyễn Ái Quốc tiên sinh từ Mạc Tư Khoa kinh thành nước Nga về đến Quảng
Đông, ý ông chưa lấy chương trình, đảng cương này làm hoàn thiện, ông đã nhiều
lần viết giấy cho tôi, bảo phải sửa sang nhuận sắc lần nữa, nhưng chưa được bao
lâu thì tôi bị bắt về Hà Nội’’.
Phan Bội Châu niên biểu, bản do Phạm Trọng Điềm và Tôn Quang Phiệt
chép là: ‘’…thường thường bàn với tôi nên sửa đổi lại…’’
Phan Bội Châu niên biểu, bản do Nguyễn Khắc Ngữ chú giải chép là: ‘’…ông
đã nhiều lần nhắc tôi thay đổi…’’
05.- Tức ngày 30.6.1925.
06-08.- Phan Bội Châu Toàn Tập, Nxb Thuận Hóa, Huế 1990. Tập 6, trang
290-291, 289-290
07-22.- Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn, Sài Gòn 1972. Quyển 7, trang
254, 229
09.- Vietnam, a dragon embattled, Joseph Buttinger, Tome I, trang 153
10.- Cuộc đời Cách Mạng, Cường Để, Sài Gòn 1968, trang 121
11.- Huyền thoại Cộng Sản, Hoàng Duy Hùng, Hưng Việt, Cali 1999, trang
139-140
12.- Theo Những bí ẩn lịch sử đàng sau cuộc chiến Việt Nam. Lữ Giang,
Cali, 1998, trang 69-72.
13.- North Việt Nam Today, J.P Honey, trang 4.
14.- Ám chỉ Lâm đức Thụ.
15.- Ho, David Halberstam, trang 44- 45.
16.- Biên niên tiểu sử, Tập I, trang 210
17-18.- Phan Bội Châu Toàn Tập, Nxb Thuận Hóa, Huế 1990. Tập 6, trang
23 & trang 288
19.- Bác Hồ những năm tháng ở nước ngoài, UNESCO…Hà Nội
1999, trang 96-98
20.- Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945, Nxb Giáo Dục, Hà Nội
2001, trang 90-91
21-26.- Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Văn
Học 2001, trang 71-72.
23-25.- Ho Chi Minh, a life, Duiker, trang 222.
24.- Sự tích con yêu râu xanh, trang 271

 

CHƯƠNG XLVI

HỒ CHÍ MINH
258 HỒ CHÍ MINH N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
TỪ XÔ VIỆT NGHỆ TĨNH 1930 TỚI CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT 1953



Hai dấu ấn đậm đà mà chủ nghĩa cộng sản ghi lại trên đời sống Việt Nam, đặc
biệt tại nông thôn, là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh và cuộc Cải Cách Ruộng Đất.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào nổi dậy đầu thập niên 1930 chống
chính quyền đương thời lúc đảng cộng sản Việt Nam vừa thành lập và phát động
đấu tranh với danh nghĩa cộng sản.
Cuộc Cải Cách Ruộng Đất được thực hiện vào hai thập kỷ sau, đầu thập niên
1950, khi cộng sản thực sự nắm quyền trên một phần đất nước.
Cả hai biến cố đều do đảng cộng sản Việt Nam chủ trương nhưng đều có dư
luận biện giải là Hồ chí Minh không chịu trách nhiệm.
Từ giữa thập niên 1930 tới cuối thập niên 1940, gần như các tài liệu cộng sản
Việt Nam thường coi Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự phát nằm ngoài ý định của
Hồ chí Minh và cách biện giải này đã ảnh hưởng tới nhiều tác giả nghiên cứu về Việt
Nam và con người Hồ chí Minh.
Từ thập niên 1950 trở về sau, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh được nhìn theo
chiều hướng khác hơn không còn được coi là một cuộc nổi dậy mang tính tự phát
nữa.
Sở dĩ có tên Xô Viết Nghệ Tĩnh vì ‘’...khi được tin nông dân nổi dậy ở Nghệ
Tĩnh, Nguyễn Ái Quốc đã vội vã báo cáo hồi tháng 11 năm đó (1930) cho Quốc Tế
Cộng Sản và Quốc Tế Nông Dân là: ‘’Hiện nay ở một số làng Đỏ, Xô Viết Nông Dân
đã được thành lập’’. Từ đó cái tên Xô Viết Nghệ Tĩnh được tung ra và trở thành lịch
sử.’’ (1)
Phong trào đã được xác định không khuôn hạn trong hai Tỉnh Nghệ-Tĩnh mà
phát động trên toàn quốc. Trần văn Giàu so sánh với cuộc khởi nghĩa Yên Bái của
Việt Nam Quốc Dân Đảng như sau: ‘’Nếu Yên Bái nổi lên ở một vài địa phương lẻ tẻ
trên chỉ một xứ Bắc Kỳ, thì cao trào 1930-1931 phát triển trên toàn quốc, khắp Trung,
Nam, Bắc.’’ (2)
Hồng Hà phổ biến nội dung báo cáo ngày 29.9.1930 của Hồ chí Minh gửi Đệ
Tam Quốc Tế ghi rõ ‘’nông dân Gia Định, Chợ Lớn và Tân An ở Nam Kỳ cũng biểu
tình ngày 12.9 (và) ngày 17 nông dân Gia Định lại biểu tình’’. (3)
Dương trung Quốc viết: ‘’Phối hợp với Xô Viết Nghệ Tĩnh, phong trào cách
mạng Việt Nam ở các Tỉnh Nam Trung Kỳ cũng phát triển mạnh…Các cuộc đấu
tranh này đều có vũ trang và uy hiếp các cơ quan chính quyền của địch. Tiêu biểu
trong cao trào này là cuộc biểu tình vũ trang thị uy của 3000 nông dân huyện Đức
Phổ (Quảng Ngãi) ngày 7.10.1930…’’ (4)
Sử Gia Pháp Daniel Hémery ghi là trong ít tháng từ tháng 5.1930 đến mùa Hè
1931, cộng sản đã tổ chức 124 cuộc biểu tình bạo động khắp nơi.
Tài liệu Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam được giảng dạy tại các Trường
Đại Học Việt Nam hiện nay đưa ra con số gấp mười lần con số của Sử Gia Hémery
‘’Từ tháng 2 năm 1930 đến tháng 4 năm 1931 trong cả nước đã có 1236 cuộc đấu
tranh của công nhân và nông dân…Chỉ trong tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả
nước có 362 cuộc đấu tranh, 29 cuộc ở miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc
ở miền Nam...Đấu tranh của quần chúng đã bùng nổ khắp nơi, tập trung ở các nhà
máy, xí nghiệp, vùng mỏ như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Cẩm Phả,
Vinh-Bến Thủy, Sài Gòn, Chợ Lớn vân vân..., ở các vùng nông thôn như Gia Định,
Vĩnh Long, Sa Đéc, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho,
Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nam, Kiến An...’’ (5)
Phong trào được phát động với khẩu hiệu ‘’Trí-Phú-Địa-Hào, đào tận gốc, trốc
tận rễ’’, biểu hiện tính triệt để của giai cấp đấu tranh đã dẫn đến thảm cảnh đẫm máu
259 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
tại nhiều địa phương. Để đào tận gốc, trốc tận rễ bốn thành phần thù địch là trí thức,
phú nông, địa chủ, kỳ hào, đấu tranh bạo động trở thành phương tiện chủ yếu.
Nông dân được tuyên truyền kích động nổi dậy trừng trị kẻ thù của giai cấp
bằng mọi biện pháp kể cả tàn sát và tàn sát bất phân già trẻ lớn bé. Vì, dù là trí, phú,
địa, hào thì kẻ nào cũng có gia đình, con cháu trong khi khẩu hiệu nêu rõ phải đào
tận gốc, trốc tận rễ nên không thể nương tay.
Nhưng không chỉ riêng máu của những thành phần trên phải đổ mà máu của
nông dân cũng chan hòa vì sự đàn áp dữ dội của chính quyền thực dân Pháp.
Để đối phó với cuộc bạo động ngày 12.9.1930 của nông dân phủ Hưng
Nguyên, Nghệ An, người Pháp đã đưa máy bay tới thả bom vào giữa các đám đông
sát hại 217 người. (6) Bạo động kéo dài cho tới mùa Hè 1931 và trải rộng trên nhiều
địa phương nên thảm cảnh chém giết đã tạo một ấn tượng kinh hoàng đối với quần
chúng khắp nước. Hai tiếng cộng sản trở thành mối đe dọa khủng khiếp vì là ám ảnh
chết chóc từ cả hai phía, Pháp và những người đấu tranh cách mạng.
Trong Lời kêu gọi được thông qua vào dịp thành lập đảng cộng sản Việt Nam
vào đầu tháng 2.1930 tại Hong Kong, Hồ chí Minh đã viết: ‘’Việc thành lập Đảng là
một bước ngoặt lịch sử vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó
chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng’’ (7)
Đi vào bước ngoặt lịch sử này, đảng đưa ra công việc đầu tiên cho giai cấp vô
sản được đánh giá đã trưởng thành là nổi dậy triệt hạ 4 kẻ thù trí-phú-địa-hào. Đảng
đã theo đúng quan điểm chiến lược Lênin chọn giai cấp bần nông làm nòng cốt với
mục tiêu cụ thể là tịch thu tài sản ruộng đất của các thành phần thù địch chia lại cho
dân, tức giai cấp vô sản. Cảnh sống khó khăn và trình độ dân trí thấp kém đã giúp
các cán bộ tuyên truyền nhanh chóng lôi cuốn được những đám đông.
Phong trào được hưởng ứng và kết quả những ngày đầu có vẻ thuận lợi nên
lập tức các kiểu mẫu chính quyền Xô Viết được thành lập gây hứng khởi cho nhóm
lãnh đạo khiến Hồ chí Minh vội vã báo cáo ngay với Đệ Tam Quốc Tế về việc đã có
những làng Đỏ tại Việt Nam với các Xô Viết Nông Dân.
Nhưng, hành động đấu tranh mang tính thúc đẩy những cuộc cướp của giết
người đã gây ác cảm trong dư luận.
Nhà báo Nguyễn Phan Long trên tờ Đuốc Nhà Nam trong số ra ngày 8.8.1930
đã có một bài viết về những cuộc nổi dậy này được Trần văn Giàu trích lại như sau:
‘’Tôi dám chắc rằng trong đám dân biểu tình, ngoài mấy anh đầu đảng ra không nói,
còn mấy người sau đều là đám dân ngu khờ khạo bị chúng cám dỗ hết thảy. Thiệt
vậy, theo người ở Hốc Môn nói với tôi, có nhiều người ở trong làng xưa nay là dân
nghèo khù khờ ngu dại thế mà bị cộng sản đến diễn thuyết, nói những lời dưới đất
trên trời, làm cho những người ấy hóa ra những người biểu tình rất hăng hái!’’
Trần văn Giàu cũng trích lại lời phát biểu của nhà báo Dương Bá Trạc trên tờ
Lục Tỉnh Tân Văn: ‘’Làm cộng sản là những thằng dốt, theo cộng sản là những đứa
ngu.’’
Như thế, ngay trong lần đầu công khai xuất hiện tại Việt Nam, cộng sản đã
không thu phục nổi nhân tâm.
Đây là lý do khiến đảng cộng sản phải ẩn mình dưới chiêu bài Việt Nam Độc
Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm và cũng là lý do khiến một thời gian dài về sau
cán bộ cộng sản các cấp thường xuyên coi Xô Viết Nghệ Tĩnh là phong trào tự phát.
Những luận điệu này cho tới năm 2000 còn được nhiều tác giả tiếp tục vận
dụng để chứng minh sở kiến của mình như Douglas Pike, William J. Duiker…cho
rằng Hồ chí Minh không chủ trương bạo động nên không chịu trách nhiệm về những
thảm cảnh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.
260 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Douglas Pike còn thu hẹp phong trào vào phạm vi vài huyện của 2 Tỉnh Nghệ
Tĩnh để cho đó là những biến cố địa phương nhỏ hẹp.
Thực ra, chính Hồ chí Minh vẫn coi phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là một
thành tích lớn của đảng cộng sản Việt Nam với sự đánh giá: ‘’Tuy đế quốc đã dập tắt
phong trào đó trong bể máu, nhưng Xô Viết Nghệ Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh
liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam’’ (8)
Dưới bút hiệu Trần dân Tiên, Hồ chí Minh xác nhận chỉ 2 tháng sau khi thành
lập, đảng cộng sản Việt Nam đã phát động những cuộc tranh đấu lan rộng khắp
nước kéo dài suốt 13 tháng, từ tháng 4.1930 đến tháng 5.1931 và viết: ‘’Trong
những Tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, nhân dân Việt Nam đã lật đổ chế độ cai trị của
Pháp và phong kiến, và lập chính quyền Xô Viết.’’ (9)
Những người như Douglas Pike, William J. Duiker…có vẻ muốn thu hẹp cái
bể máu Xô Viết Nghệ Tĩnh vào phạm vi một địa phương và cố đẩy thần tượng của
mình ra xa bằng các màu sắc hiếu hòa ghét bạo lực, nhưng Hồ chí Minh lại không
che đậy nổi sự hứng khởi trước những cuộc nổi dậy.
Thêm nữa, riêng việc Hồ chí Minh thường xuyên báo cáo cho Đệ Tam Quốc
Tế ngay lúc vừa bắt đầu có các cuộc bạo động đã đủ để không thể bảo rằng Hồ chí
Minh không chịu trách nhiệm về những thảm cảnh đã xẩy ra.
Trong bản báo cáo ngày 29.9.1930, Hồ chí Minh còn nêu rõ số người bị chết
và cho biết đã chỉ thị cho đảng viên, đồng thời xin chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế về
những bước đi tiếp: ‘’Hơn 200 người đã bị Pháp giết...Chúng tôi đã chỉ thị ngay cho
các đảng viên Nam Kỳ ở trong nước cố gắng hết sức mình thu xếp một cuộc họp
của trung ương để quyết định mọi việc....Đề nghị cho biết ngay chúng tôi phải làm gì
và các đồng chí có thể làm gì giúp họ.’’ (10)
Báo cáo này chỉ có thể giúp Hồ chí Minh trút trách nhiệm cho Đệ Tam Quốc
Tế với lập luận không thể làm trái chỉ thị thượng cấp. Nhưng trút tội theo cách này thì
khác gì kẻ cầm dao giết người trút tội cho kẻ trả tiền mướn.
Tuy vậy, cách trút tội này đã được vận dụng khá nhiều vào hai thập kỷ sau,
khi cộng sản Việt Nam tiến hành cải cách ruộng đất tại miền Bắc.
Cải Cách Ruộng Đất là việc bắt buộc phải làm tại các nước nặng về nông
nghiệp với nhiệm vụ phá bỏ quyền tư hữu tiến tới hợp tác hóa nông nghiệp để xây
dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô, Trung Quốc đều thực hiện cải cách ruộng
đất sau khi cộng sản giành được chính quyền.Việt Nam cũng bước vào diễn trình
này sau khi cộng sản kiểm soát một phần lãnh thổ và tái xuất hiện dưới tên gọi mới
đảng lao động Việt Nam.
Nhưng, Cải Cách Ruộng Đất không chỉ nhắm riêng về kinh tế mà đặc biệt chú
trọng về chính trị với mục tiêu củng cố quyền lực cho đảng. Được hướng dẫn trực
tiếp bởi các đặc phái viên thổ địa Trung Cộng, giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam đã
thuộc lòng bài học kinh nghiệm Hoa Lục sau khi Quốc Dân Đảng Trung Hoa thất bại
như sau: ‘’…Quốc Dân Đảng là đảng vốn có thế lực cực lớn ở Hoa Nam, bắt rễ khá
sâu trong xã hội Trung Quốc…Số người của Quốc Dân Đảng bỏ chạy sang Đài Loan
hoặc ra nước ngoài rất ít so với số dân khổng lồ. Có một số người chỉ trốn loanh
quanh, tạm lánh rồi trở lại quê hương. Cho nên cải cách ruộng đất là biện pháp cơ
bản để phát hiện rồi triệt hạ hết mọi tổ chức Quốc Dân Đảng và vô vàn tổ chức thanh
niên, phụ nữ, xã hội, tôn giáo, từ thiện, thể thao, nghệ thuật có dính đến Quốc Dân
Đảng…Tay chân của Quốc Dân Đảng hoặc liên quan đến Quốc Dân Đảng thâm
nhập rất sâu, leo lên rất cao, cần cảnh giác phát hiện và nếu cần, giải thể hết bộ máy
cũ, tạo nên bộ máy hoàn toàn mới gồm những trung kiên, cốt cán, phát hiện và được
rèn luyện trong cuộc đấu tranh ‘’long trời lở đất’’ này…’’ (11)
261 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Kinh nghiệm nêu trên dẫn đến ý kiến khắp các địa bàn, cơ cấu chính quyền
cộng sản Việt Nam khó tránh tình trạng bị phản động mai phục và Cải Cách Ruộng
Đất chính là biện pháp cơ bản để phát hiện, tiêu diệt những phần tử này, Hoàng văn
Hoan gọi là ‘’mở rộng thành vấn đề chỉnh đốn tổ chức’’.
Ngay sau đại hội đảng kỳ 2 tháng 12-1951 tại Việt Bắc, vấn đề Cải Cách
Ruộng Đất được chuẩn bị và chuẩn bị khá kỹ từ thực tế đến pháp lý.
Trường Chinh trở thành Trưởng Ban Cải Cách Ruộng Đất gồm Hoàng Quốc
Việt, Lê Văn Lương, Hồ Viết Thắng, Chu Văn Biên. Một số địa phương thuộc Thanh-
Nghệ-Tĩnh và Thái Nguyên được chọn làm thí điểm phát động trong thời gian chuẩn
bị các văn kiện pháp lý.
Ngay trong thời gian mở đầu này, một chuyện chấn động đã xẩy ra: ‘’Khi đội phát
động đến vùng đồn điền Đồng Bẩm sát ngoại ô Thành Phố Thái Nguyên làm thí điểm
phát động nông dân, chủ đồn điền là bà Nguyễn Thị Năm. Bà từng ủng hộ các chiến
sĩ cộng sản từ thời bí mật, từ những năm 1937-1938…Chính các ông Trường Chinh,
Hoàng Quốc Việt đã được bà che chở nuôi dưỡng. Hai con trai của bà hoạt động
Việt Minh từ thời bí mật, đi bộ đội giải phóng…Cố Vấn Trung Quốc nhận định bừa
rằng đây là mụ địa chủ ác bá, có nghĩa là cần lấy đầu. Một số nông dân chất phác
ngây thơ kể rằng bà Năm rất tốt, nhân từ, hay đi chùa, làm việc thiện, có nhiều cán
bộ chiến sĩ là con nuôi của bà. Những người này bị Cố Vấn Tàu và ông Đội Trưởng
quê ở Nghệ An kết tội là tay sai, định bênh che, chạy tội cho địa chủ. Không khí ngột
ngạt bắt đầu, sau bắt rễ xâu chuỗi, đến bước đấu tranh trực diện của nông dân, kể
tội và luận tội về kinh tế và chính trị, chuẩn bị cho tòa án nhân dân với màn xử bắn’’.
(12)
Hoàng Quốc Việt là người từng được bà Nguyễn Thị Năm che chở, nuôi
dưỡng đã tới báo cáo với Hồ chí Minh và thuật lại: ‘’Ông Hồ chăm chú nghe rồi phát
biểu: ‘’Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng vào một phụ nữ
và lại là người từng nuôi cán bộ cộng sản và mẹ một chính ủy trung đoàn Quân Đội
Nhân Dân đang tại chức’’. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói ông Trường Chinh về
chuyện hệ trọng và cấp bách này! Thế nhưng không có gì động đậy theo hướng đó
cả’’. (13)
‘’Sau đó nạn nhân đã bị đưa ra xử bắn và ‘’khắp đồng quê miền Bắc’’ diễn ra
‘’những cuộc đấu tố kinh hoàng giai cấp ‘’địa chủ’’ (mà phần lớn chỉ là phú nông hoặc
trung nông lớp trên), vợ tố chồng, con tố cha, con dâu tố bố mẹ chồng, anh chị em
đấu tố nhau…Họ đều được biểu dương là lập trường giai cấp vững chắc và dứt
khoát, giác ngộ giai cấp sâu sắc, là những đảng viên trung kiên của đảng, thấm
nhuần tận xương tủy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông, được nêu
gương để toàn đảng học tập!…Hơn 10 ngàn người đã bị bắn trong các tòa án nhân
dân vừa hừng hực khí thế kích động căm thù, vừa mù quáng kỳ quặc, một chiều
theo kiểu a dua của đám đông, những cơn động kinh của đám đông cuồng tín ít
học.’’ (14)
Hoàng Văn Chí là người từng đứng trong hàng ngũ Việt Minh chống Pháp
trước 1954 chia Cải Cách Ruộng Đất làm 2 đợt, đợt đầu gọi là ‘’Giảm Tô’’, mỗi xã
trong khoảng 10 ngàn xã tại Bắc Việt phải chọn ra một địa chủ để hành quyết. Như
vậy 10 ngàn chỉ là số nạn nhân của đợt đầu. Sang đợt 2, con số phải chết ở mỗi xã
theo tiêu chuẩn đề ra tăng lên 5. Nếu cộng cả 2 đợt ít nhất phải có 60 ngàn người bị
hành quyết tại chỗ. Nhưng theo Hoàng Văn Chí, ‘’chính sách cô lập nổi tiếng từng
phải chịu trách nhiệm về số người chết có lẽ 10 lần nhiều hơn số đã bị xử bởi các
‘’tòa án nhân dân đặc biệt’’. (15)
Sắc lệnh 149-SL qui định về chính sách ruộng đất và sắc lệnh 151-SL qui định
về trừng trị địa chủ do Hồ chí Minh ký ngày 12.4.1953 là thời gian đang tiến hành
262 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
chiến dịch giảm tô mà ý nghĩa đã được diễn tả như sau: ‘’Nhà Nước Việt Nam đã
quyết định đưa đấu tranh phản phong tiến lên một bước mới, tiếp thu kinh nghiệm
của Trung Quốc đã sử dụng bạo lực chính trị của quần chúng đấu tranh đòi địa chủ
phải giảm tô, giảm tức.’’ (16) Đây cũng là đợt thí điểm của Cải Cách Ruộng Đất.
Ngày 4.12.1953 các sắc lệnh trên được quốc hội thông qua và Hồ chí Minh
chính thức ban hành ngày 19.12.1953 nhân kỷ niệm Ngày Toàn Quốc Kháng Chiến
mở đầu cho các đợt chính thức của Cải Cách Ruộng Đất trên khắp miền Bắc.
Thực tế của việc sử dụng bạo lực chính trị quần chúng và con số nạn nhân tại
một số địa phương từ ngày chính thức ban hành chính sách tới khi có quyết định
sửa sai theo ghi nhận của tạp chí Nghiêu Cứu Lịch Sử số 267 tháng 4.1993 và nội
san Cải Cách Ruộng Đất các số 10,11,14 xuất bản tại Hà Nội đầu năm 1956 như
sau: ‘’Ở đồng bằng Bắc Bộ trong số 2033 xã đã có 63.111 hộ bị qui là địa chủ nay
sửa lại 31.844 không còn là địa chủ. Con số địa chủ chỉ có 31.269 hộ tức chiếm
2.2% trong tổng số hộ ở nông thôn. Ở một xã như xã Trường Vân Thanh Hóa chỉ có
11 địa chủ bị qui lên 65 tức 54 người bị tố oan, bị đấu tố, tù đầy và kể cả bị đánh
chết. Trong số 2033 xã, số người bị qui kết là địa chủ lên tới 14.908 người sau đợt
sửa sai chỉ còn 3.932 người tức tố sai 10.976 người…
Trong đấu tranh thoái tô, rất nhiều cán bộ dùng nhục hình: Treo, đánh, bắt cởi
quần áo đứng ngoài đêm rét…Đồng chí L. ở xã đảng Cương bắt con địa chủ ra truy
tố không được, bực quá ra lệnh cho anh em du kích trói chặt cánh khuỷu nó lại và
treo lủng lẳng lên cành cây…
Ở xã Hồng Phong, T. bắt con địa chủ Thị Công truy tố. Đồng chí gọi đứa con
nó mới 13 tuổi đến giải thích để phản hóa rồi cho nó về với mẹ nó không được. Đồng
chí T. nổi giận cho trói đứa bé lại treo ngược lên xà nhà, kéo lên kéo xuống. Một mặt
bắt mẹ nó quỳ xuống, dang hai tay ra, mỗi bên đeo một hòn đá nặng rồi đổ nước
mắm vào mũi. Đồng chí tưởng nhục hình như thế là moi được tô nhưng rút cục
chẳng ăn thua gì (17)
Theo Thành Tín tức cựu Đại Tá cộng sản Bùi Tín, Cải Cách Ruộng Đất gồm
đợt thí điểm và 5 đợt tiếp nối, nhưng bắt đầu bước sang đợt 5 vào khoảng đầu năm
1956 thì phải ngưng, vì hậu quả có thể dẫn tới một tình thế bi đát khó lường đoán.
Nguyễn quang Ngọc trong Tiến trình lịch sử Việt Nam cũng cho biết Cải Cách
Ruộng Đất gồm 5 đợt tiến hành trong 3653 xã, đã chia khoảng 334,100 ha ruộng đất
cho khoảng 2 triệu hộ nông dân không có hoặc thiếu ruộng (18)
Một nhân chứng cũng là nạn nhân và thoát chết, Phạm Văn Trì, người gốc
Hưng Nguyên, Nghệ An từng qua các cuộc đấu tố trong Cải Cách Ruộng Đất cho
biết: ‘’…Ở miền Bắc có khoảng 5000 xã. Không phải xã nào cũng đấu cả. Không
phải người nào cũng đấu cả. Ví dụ, ông Hồ chí Minh và Trường Chinh đưa ra một tỉ
lệ một xã 1000 dân thì phải có 50 người bị đấu tức 5%. Cứ theo tỉ lệ mà đấu cho đủ
số. Ví dụ xã này nghèo quá không đủ số thì tìm sao những người hống hách chút ít
đôn lên cho đủ số. Phải đúng tỉ lệ đưa ra không có cũng phải tìm cho đủ. Miền Bắc
coi như có 5000 xã thì số đấu tố chết là 250 ngàn người.
- Ông có đích thân chứng kiến những vụ đấu tố không ?
- Có! Tôi xin kể cho ông một vài việc tôi chứng kiến tận mắt. Có một vụ đấu tố
trong đó nạn nhân bị lột hết cả quần áo ra. Người ta lấy than và dầu hôi bôi vào
những chỗ có lông trên thân mình người đó, treo lên và đốt, cháy như nướng trui.
Đứa con của nạn nhân mới 3 tuổi, không biết gì, đứng nhìn thấy cha mình bị đốt
tưởng đang làm trò nên té lên cười. Có một anh nông dân đứng gần đó thấy vậy, lấy
mã tấu chặt đầu đứa nhỏ. Đầu nó rơi xuống đất mà miệng vẫn còn cười.
- Trong các vụ đấu tố đó, nghe nói có một số địa chủ và phú nông bị chôn,
chừa cái đầu lên để cho xe cày. Ông có chứng kiến việc đó không ?
263 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
- Tôi có chứng kiến thế này: Bắt địa chủ ăn cứt, uống nước đái, 3, 4 thằng
cầm tay kéo đứt ra, lấy kim chích ngón tay bắt khai, treo người lên đốt cháy như con
cá lóc .’’ (19)
Một chứng nhân khác, Nguyễn Đình Khuê, cũng người Huyện Hưng Nguyên,
Nghệ An, từng là nạn nhân của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh từ lúc 3, 4 tuổi và là
nạn nhân của Cải Cách Ruộng Đất vào hơn hai thập kỷ sau đã kể lại về cách thức
chuẩn bị cho các vụ đấu tố:
- Cha con tôi là nạn nhân. Trước khi tiến hành việc cải cách ruộng đất, họ cho
cán bộ về làng, thi hành chính sách ‘’tam cùng’’ với nông dân: Cùng ăn, cùng ở,
cùng làm. Họ luyện tập cho nông dân có tinh thần chống địa chủ, bắt cán bộ ngủ
cùng giường với nông dân…
- Cách thức tố khổ địa chủ thế nào ?
- Họ bắt nông dân học tập và thường bịa ra…Anh nông dân bịa ra và nói cho
hắn xem có đủ hay chưa. Tập luyện công phu như vậy cả năm rồi mới bắt đầu…Tôi
không hiểu tình trạng trong làng của ông bạn tôi (tức Phạm Văn Trì) như thế nào,
nhưng trong năm đó trong làng tôi, trong xóm tôi, nông dân họp đêm, họp tới 2, 3 giờ
sáng. Học tập xong rồi mới bắt đầu thực hành…
- Số người bị đấu tố bị giết là bao nhiêu ?
- Số người trong làng tôi, có mình cụ tôi. Ông cụ tôi bị giam trên núi mấy tháng
thì chết. Tôi không được phép đi đâu hết nên không biết rõ số người bị đấu tố chết là
bao nhiêu’’. (20)
Trong Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ thư Hiên kể lại:
‘’Tại xã Ngô Xá, làng Ngò, Thanh Hóa...người ta trói chặt hai tay rồi dong mẹ
bạn tôi đi khắp làng...
Ở một xã khác, một người đàn bà bị trói vào hai cây nứa bắt chéo, bên dưới
là một đống lửa. ‘’Con mẹ ni là phú nông phản động, ngoan cố lắm’’, những người
bâu quanh nhao nhao nói thế. Người đàn bà quằn quại mãi cho đến khi ngất đi rồi
mới được người ta hạ xuống. (....)
Người ta cắm gai vào đầu ngón tay một cô gái, có trời biết cô ta bị tội gì, có
thể cô ta chỉ có tội là con địa chủ, cứ mỗi câu hỏi lại cắm cái gai thêm một chút, làm
cho cô ta rú lên vì đau, quằn quại trong giây trói.
Một cụ già tóc bạc phơ bị tròng dây vào cổ, bị lôi xềnh xệch trên đường như
một con chó. Lũ trẻ làng rùng rùng chạy theo sau. Chúng vỗ tay, chúng reo hò,
chúng cười ngặt nghẽo. Tôi nhìn chúng rùng mình, những đứa trẻ này chắc chắn lớn
lên với trái tim không phải của giống người...’’ (21)
Nhà văn nữ Dương thu Hương cũng không quên cảnh tượng đã xẩy ra khi
mới sáu, bảy tuổi và ghi lại trong tác phẩm Những Thiên Đường Mù (22) dưới hình
thức tự thuật của nhân vật trong tác phẩm:
‘’Bà nội tôi và cô Tâm chịu quỳ trước sân đình, đầu gục xuống, hai tay vòng
trước ngực. Trước mặt hai người là dân làng đốt đuốc ngồi. Họ có nhiệm vụ lắng
nghe những lời đấu tố. Và mỗi khi có tiếng hét bật lên: “Đả đảo địa chủ”, họ có nhiệm
vụ giơ tay lên hô thật to: ‘’Đả đảo! Đả đảo!’’....
...Bên tay trái bà nội tôi và cô tôi, những người khác quỳ gối chờ tới lượt họ.
Cứ mỗi lần tiếng hô ‘’Đả đảo’’ cất lên họ lại run bần bật. Chỉ có cô Tâm không hề run
rẩy...
... Cậu nói xong, tiếng trống cà rùng nổi lên, đinh tai nhức óc. Rồi tiếng hô uy
hiếp vọng vào:
- Kiên quyết đánh đổ địa chủ Nguyễn Thị Tâm
- Kiên quyết đánh đổ...
Cậu Chính nhìn bố tôi hất hàm:
264 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
- Nghe rõ chưa ?
Bố tôi không trả lời. Cậu quát:
- Đội hỏi có trả lời không ?
Mặt bố tôi tái xanh, mồ hôi vã đầy hai thái dương nhưng vẫn im lặng. Lúc ấy
cô Tâm bước lên:
- Bẩm thưa đội, bây giờ chúng con biết thân biết phận, dù đội không ra lệnh
chúng con cũng không dám chơi trèo.
Cậu Chính là đội trưởng đội cải cách. Lúc ấy đội cải cách là Thượng Đế, là
Trời....”
Tài liệu giáo dục chính thức Tiến trình lịch sử Việt Nam cho biết Cải Cách
Ruộng Đất đã giúp 2 triệu hộ nông dân nghèo có ruộng tức liên can tới trên 2 triệu
hộ. Nếu chỉ tính mỗi hộ trung bình có 4 người thì Cải Cách Ruộng Đất trong 3 năm
liên can tới 8 triệu người và theo chỉ thị đảng và nhà nước, chỉ tiêu số người bắt
buộc phải đưa ra đấu tố là 5% tức đã lên tới 400 ngàn người. Con số này gần ngang
với con số ước lượng mà Tổng Thống Mỹ Nixon nêu ra là khoảng nửa triệu.
Cũng theo con số chính thức do báo chí cộng sản Việt Nam công bố thì trong
14.908 nạn nhân đã có 10.976 người bị tố oan, thậm chí bị đánh chết tức là số nạn
nhân bị hại oan lên tới hơn 70 phần trăm.
Ngay với vấn đề thế nào là oan, thế nào là ưng đã cần phải nhìn lại, trong khi
ngoài số nạn nhân bị trực tiếp đưa ra đấu tố, chính sách cô lập còn hành hạ hàng
triệu thân nhân của những kẻ này bằng cách bao vây, xua đuổi, tước đoạt mọi
phương tiện cư trú, sinh sống, thậm chí chặn hết mọi nguồn tiếp tế thực phẩm để
phải chết đói rét nơi bờ bụi…Số nạn nhân này không ai kê khai nổi và chắc chắn
không thu hẹp trong giới hạn vài ba chục ngàn như một số tác giả ngoại quốc đã
ước đoán.
Nhưng số lượng nạn nhân bị ngược đãi và tàn sát man rợ trong Cải Cách
Ruộng Đất là bao nhiêu không nghiêm trọng bằng sự tiêu diệt mọi tình cảm thiêng
liêng cao cả nơi con tim của người dân Việt Nam.
Để củng cố uy quyền của mình, đảng đã cố thực hiện qua Cải Cách Ruộng
Đất cái khẩu hiệu ‘’thà giết lầm mười người còn hơn để cho một kẻ địch sống sót’’
bằng cách biến người dân thành một bày dã thú sẵn sàng dày xéo lên tương quan
vợ chồng, cha con, mẹ con, huyết mạch, xóm giềng…Nỗ lực này của đảng đã dẫn
đến cái cảnh mà Dương thu Hương ghi lại trong một bài viết vào năm 2002 ‘’trong
lịch sử ‘’bốn ngàn năm’’...triều đình cộng sản là triều đình duy nhất cho tới nay, dậy
con gái, con dâu vu khống bố hiếp dâm, dậy con trai chỉ vào mặt bố ‘’đả đảo thằng
bóc lột’’, dậy cho láng giềng tố cáo điêu chác, đâm chém, dầy xéo mồ mả của
nhau...vào những năm 53-55 (trong CCRĐ). Tất cả những ai chưa hoàn toàn quên
lãng, hẳn hiểu rõ điều đó. Khi con người đã đủ can đảm vu khống, nhục mạ ngay bố
mẹ đẻ của mình thì họ thừa sự nhẫn tâm để làm những điều ác gấp ngàn lần như
thế với tha nhân...’’
Trong Đêm Giữa Ban Ngày, trang 221, Vũ thư Hiên đã ghi rõ ‘’Cha tôi khẳng
định người chịu trách nhiệm chính là ông Hồ chí Minh, chứ không phải Trường
Chinh. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ.’’ Mặc dù cả Vũ thư
Hiên lẫn thân phụ ông đều cố nghĩ tốt cho Hồ chí Minh, vì những liên hệ cũ từng có.
Đầu năm 1956, khi tâm trạng phẫn uất tràn lan ở nhiều nơi thậm chí đã có
những cuộc nổi dậy của dân chúng như ở Quỳnh Lưu, Ba Làng và thái độ chống đối
của nhiều phần tử từng nhiệt tình theo đảng trong kháng chiến chống Pháp, nhất là
ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa chống cộng sản tại Hungary, đảng và nhà nước ra
lệnh ngưng tiến hành đợt 5 Cải Cách Ruộng Đất với lý do phát hiện nhiều khuyết
điểm.
265 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Có thể nói tới lúc này cái biện pháp cơ bản để củng cố uy quyền của đảng là
Cải Cách Ruộng Đất đã đạt trọn mục tiêu đề ra trong khi mô thức hợp tác hóa nông
nghiệp đã được tiến hành tại 3653 xã trong tổng số 5000 xã tức gần khắp miền Bắc.
Hơn nữa, sửa sai không phải là từ bỏ chính sách Cải Cách Ruộng Đất mà là
bước tiếp nối cần thiết để củng cố thành quả đã thu hoạch suốt ba năm tiến hành
Cải Cách Ruộng Đất, vì chỉ sửa sai những cách thức thi hành đã được thực hiện
trong quá khứ tức là chỉ cần bằng những lời lẽ ngọt ngào tỏ ý tiếc về những việc đã
rồi.
Cách thức sửa sai được Thành Tín ghi lại như sau:
‘’Sau nghị quyết sửa sai, lại thành lập những đoàn cán bộ sửa sai, công bố cả
một loạt tài liệu quy định các bước sửa sai, phát hành rộng rãi những văn kiện có
tính pháp luật về sửa sai…Cuộc sửa sai được tiến hành ráo riết, mỗi nơi là chừng 4
tháng, có nơi hơn 6 tháng.
Các bước sửa sai đi cùng với củng cố tổ chức đảng và chính quyền cơ sở.
Những người bị giam giữ oan ức được trả lại tự do, sau những buổi học thanh minh
và xin lỗi theo nội dung: Đảng không cố tình mà vô tình làm sai do không kiểm tra
cấp dưới, đảng rất đau xót nhận sai lầm, đảng xin lỗi mỗi đồng chí, đồng bào khôi
phục danh dự và quyền lợi của các đồng chí, đồng bào.
Trong cơn khó khăn này, đảng mong mỗi đồng chí sát cánh cùng đảng sửa
sai đến nơi đến chốn mà đóng góp lớn nhất của đồng chí là thông cảm với đảng,
cùng đảng sửa sai và ổn định tình hình, không gây thêm bất kỳ khó khăn nào cho
đảng…
Còn số người chết oan ?
Những gia đình này được cán bộ cấp huyện và chủ tịch xã đến thăm viếng,
nhận lỗi và an ủi. Giấy minh oan được mang đến tận nơi, với những chứng nhận
phục hồi đảng tịch (nếu là đảng viên), trả lại huân chương, bằng khen, còn được
tặng thêm ảnh Chủ tịch Hồ chí Minh có đóng dấu của tỉnh…
Ngày 29.10.1956 tại sân vận động Hàng Đẫy, Đại Tướng Võ nguyên Giáp
thay mặt Chủ Tịch Hồ chí Minh và Bộ Chính Trị đứng ra nhận tội, xin lỗi, đưa ra
phương án sửa sai khẩn cấp…Tại cuộc họp lớn này, người ta đẩy cụ Bùi Kỷ, một
nhân sĩ trong Mặt Trận Tổ Quốc ra đọc lời khai mạc.
Sau đó, Đại Tướng Võ Nguyên Giáp lên tiếng thuyết phục. Cái lý sự để thuyết
phục là ở mặt trận, nhất là mặt trận Điện Biên Phủ, chiến sĩ ta còn lấy thân chèn
pháo bất kể sinh mạng, hàng ngàn chiến sĩ bỏ mình thì việc tổn thất trong Cải Cách
Ruộng Đất tuy là đáng tiếc nhưng cũng là đóng góp cho cách mạng tiến lên. Ít lâu
sau, báo Quân Đội Nhân Dân đưa ra trong xã luận, chỉ rõ ‘’chính trong sai lầm mà
nhân dân ta càng thêm vĩ đại, đảng ta càng thêm vĩ đại’’. (23)
Để tỏ ra muốn thực sự sửa sai, Trường Chinh không còn giữ chức Tổng Bí
Thư đảng tuy nhiên được chuyển qua làm Chủ Tịch Quốc Hội và Hoàng quốc Việt bị
loại khỏi bộ chính trị, Hồ viết Thắng, Nguyễn đức Tâm bị đưa ra khỏi ủy ban trung
ương trong khi cán bộ cải cách ruộng đất vẫn tiếp tục là cán bộ sau một thời gian
họp hành kiểm điểm những việc đã qua.
Sửa sai đã kết thúc tốt đẹp vì tình hình miền Bắc hoàn toàn thuận lợi cho việc
cai trị của đảng, nhất là khi dẹp xong các phần tử văn nghệ bất mãn thuộc các nhóm
Nhân Văn-Giai Phẩm.
Tuy vậy, không phải những lời chê trách hoàn toàn tắt lịm. Theo ghi nhận của
Sử Gia Pháp Gerard Tongas (24) có mặt tại Hà Nội lúc đó thì trong thời gian Cải
Cách Ruộng Đất, nhất là sau các vụ đàn áp ở Ba Làng, Quỳnh Lưu và nhân dân
Budapest, giới trẻ Hà Nội hết sức xôn xao, đã có mưu tính biểu tình chống đối. Tuy
việc không thành, nhưng sự ngưỡng mộ đối với Hồ chí Minh sút giảm rõ rệt vì nhiều
266 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
người cho rằng trách nhiệm lớn nhất trong Cải Cách Ruộng Đất do Hồ chí Minh phải
gánh chịu. Do đó, việc trút lỗi cho thuộc cấp làm sai đã được bổ sung thêm bằng một
lập luận khác: Hồ chí Minh đã bị cả Liên Xô lẫn Trung Quốc tạo áp lực nặng nề, bắt
buộc phải Cải Cách Ruộng Đất.
Những người đã rời bỏ hàng ngũ cộng sản như Nguyễn minh Cần, Bùi Tín
đều chưa rũ hết ảnh hưởng của luận điệu này, dù cả hai đều cho rằng Hồ chí Minh
phải gánh chịu phần lớn trách nhiệm. Về áp lực của Staline, Thành Tín thuật lại:
‘’Đầu năm 1950…theo kể, Staline trong cuộc gặp riêng ông Hồ chí Minh trong
điện Kremlin…đi thẳng vào vấn đề, chất vấn ông Hồ 2 điểm: Vì sao giải tán Đảng
Cộng Sản Đông Dương ? Vì sao chưa tiến hành cải cách ruộng đất ?
Ông Hồ đã trình bày với Staline là việc giải tán Đảng Cộng Sản Đông Dương
cuối năm 1945 chỉ là giải tán giả, trên thực tế là đảng lùi vào bí mật, với một bộ mặt
giả công khai là Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác. Hai là cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp rất gay gắt nên cải cách ruộng đất phải chậm lại và đã làm cuộc vận
động giảm tô, giảm tức. Staline nghe, và, với bản chất thô bạo vốn có, chắc chắn đã
cao giọng ra chỉ thị phải sớm đưa đảng cộng sản ra công khai…, chính trong kháng
chiến gay gắt lại cần làm cải cách ruộng đất để huy động tinh thần và lực lượng vật
chất của nông dân vào cuộc chiến đấu, cần nhớ đấu tranh giai cấp và liên minh công
nông là hai nguyên lý cơ bản của cách mạng vô sản…
Ông Hồ trở về. Thế là Đảng Cộng Sản Việt Nam mở đại hội đảng lần thứ 2
vào tháng 12.1951 ở Việt Bắc, đảng ra công khai với tên Đảng Lao Động Việt Nam

Còn cải cách ruộng đất ? Cần thấy rõ là ông Hồ vẫn cố trì hoãn cải cách ruộng
đất sau khi ở Moscou về. Cuộc kháng chiến rất khẩn trương, quyết liệt. Staline ở
xa… (25)
Tháng 3.1950, Hồ chí Minh rời Mạc Tư Khoa trở về lo ngay việc đưa đảng lao
động Việt Nam ra công khai vào tháng 12.1951 và mấy tháng sau, năm 1952, đã
khởi sự các đợt công tác thí nghiệm cải cách ruộng đất thì không thể có chuyện cố
tình trì hoãn.
Nguyễn minh Cần cũng nêu áp lực của Staline nhưng không theo cách nhìn
của Bùi Tín mà nhìn qua hệ thống tương quan trong khối cộng sản đặt đảng cộng
sản tại các nước vào thế phải tuyệt đối vâng lệnh Đệ Tam Quốc Tế.
Ngoài ra, theo Nguyễn minh Cần, chính Hồ chí Minh cũng luôn tín phục các
lãnh tụ Staline, Mao trạch Đông. Nguyễn minh Cần kể lại trường hợp đích thân nghe
rõ lời của Hồ chí Minh vào dịp dự hội nghị trung ương ở chiến khu Việt Bắc. Lúc đó
Hồ chí Minh đã nhắc đến Staline, Mao trạch Đông và nhấn mạnh với các đại biểu
trong hội nghị: ‘’Các cô, các chú nên biết rằng việc đổi tên đảng ta, Bác đã xin ý kiến
các đồng chí Stalin và Mao trạch Đông rồi (chúng tôi được biết hồi ấy ông vừa đi
Moskva về), các đồng chí đã đồng ý. Các cô, các chú nên biết rằng: ‘’ai đó thì có thể
sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao trạch Đông thì không thể nào sai được.’’
(26)
Dù muốn hay không, Hồ chí Minh vẫn là người ký các sắc lệnh 149-SL, 151-
SL vào tháng 4.1953 và sau đó ký sắc lệnh ban hành luật Cải Cách Ruộng Đất.
Cũng thế, Hồ chí Minh đã trực tiếp bổ nhiệm Trường Chinh và nhóm Hoàng quốc
Việt cầm đầu ban chỉ đạo Cải Cách Ruộng Đất.
Các qui định về luật lệ cũng như người thi hành đều do Hồ chí Minh sắp đặt
và đây là những thứ đã đưa đến cái chết tàn khốc của cả nửa triệu người dân vô tội,
đã phá hủy toàn bộ khuôn thước tinh thần truyền thống dân tộc.
Trước sự việc Hồ chí Minh im lặng bỏ mặc cho bà Nguyễn Thị Năm bị đàn em
theo lệnh Cố Vấn Trung Cộng lôi ra xử bắn, Thành Tín đã viết: ‘’Tôi nghĩ việc này có
267 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
rất nhiều ý nghĩa. Trước hết, ông Hồ chí Minh có lỗi lớn. Thà rằng không biết gì về
chuyện này, và dù không biết, là Chủ Tịch Nước, Chủ Tịch Đảng, ông vẫn phải chịu
phần trách nhiệm. Huống gì ông đã biết rõ cụ thể, ông nhận định là bà Năm bị xử trí
oan, thế mà ông giữ im lặng, ông không can thiệp. Đây là thái độ vô trách nhiệm.
Ông không can thiệp thì còn ai có thể can thiệp ? Ông đã để mặc cho nước của ông,
đảng của ông bị một số kẻ nước ngoài lũng đoạn, lộng hành. Trên thực tế, ông đã từ
nhiệm vị trí, trách nhiệm của mình’’. (27)
Ý kiến của Thành Tín có thể dành chung cho toàn bộ chính sách Cải Cách
Ruộng Đất. Dù cán bộ, đảng viên biện giải cách nào thì Hồ chí Minh cũng không thể
chối bỏ trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, cần xét lại ý nghĩ cho rằng Hồ chí Minh đã
chịu sự chi phối bởi các áp lực bên ngoài hoặc một số người ngoại quốc kể cả do sự
tín ngưỡng Staline, Mao trạch Đông như Nguyễn minh Cần đã nhắc.
Trên thực tế, Cải Cách Ruộng Đất là một bước đi bắt buộc trong cách mạng
vô sản mà Hồ chí Minh đã trở thành tín đồ thuần thành. Như thế, Hồ chí Minh chỉ thi
hành nhiệm vụ của một tín đồ nên không thể đặt vào cảnh ngộ bị ép buộc bởi bất kỳ
cá nhân nào.
Tháo gỡ trách nhiệm không còn cần thiết và cũng là vấn đề bất khả, bởi tất cả
đã được quyết định từ khi chọn đường. Hồ chí Minh đã chọn con đường chủ nghĩa
cộng sản với cuộc cách mạng giai cấp diễn tiến trường kỳ cho tới khi tận diệt giai
cấp tư bản. Cải cách ruộng đất chỉ là một bước đi giai đoạn trên con đường dài thăm
thẳm đó và là một bước đi không thể tránh.
Cho nên, tìm hiểu xem Hồ chí Minh có biết các thảm cảnh đang diễn ra hay
không để định mức trách nhiệm là việc làm ngây thơ không khác việc Vũ đình Huỳnh
già yếu bệnh hoạn vẫn cố chống gậy tới gặp Hồ chí Minh để than: ‘’Máu đồng bào đã
đổ mà Bác ngồi yên được à’’.
Có phải chăng lời than này đã là một lý do để không lâu sau đó tới lượt Vũ
đình Huỳnh sau bao năm kề cận Hồ chí Minh bị tống vào nhà tù để trở thành một
trường hợp Nguyễn Thị Năm thứ hai ?
Nhìn lại những sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh và Cải Cách Ruộng Đất, vì thế,
không phải để cố phân tích xem Hồ chí Minh đã dính dấp ở mức độ nào.
Nghi vấn duy nhất nổi lên từ các sự kiện này là chúng có xẩy ra không, nếu
không có Hồ chí Minh ?
CHÚ THÍCH
01.- Đảng cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào
cộng sản quốc tế, Nguyễn minh Cần. Xin xem chương liên hệ ở phần I.
02.- Sự phát triển tư tưởng tại Việt Nam, Trần Văn Giàu, Tập III, Nxb
TPHCM 1993.
03-10.- Bác Hồ trên đất nước Lênin, Hồng Hà, Thanh Niên 2000, trang
258. Xin xem chương liên hệ.
04-06.- Việt Nam những sự kiện lịch sử, Dương trung Quốc, Nxb Giáo Dục,
Hà Nội 2001, trang 192
05.- Lịch Sử Đảng cộng sản Việt Nam (Bài giảng) Nxb Đại Học Quốc Gia,
Hà Nội 1999. trang 32-36.
07-08.- Hồ Chí Minh tuyển tập, Tập 2, Sự Thật, Hà Nội 1980, trang152 &
154.
09.- Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Văn Học
2001, trang 88
11-12-13-14.- Mặt Thật, Thành Tín, Cali 1993, trang 57, 37-38 & 36
15.- Từ Thực Dân đến Cộng Sản, Hoàng Văn Chí, trang 189
16.- Tạp chí Nghiên Cứu Lịch Sử số 267, Hà Nội 30.4.1993, trang 1-2
268 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
17.- Việt Nam huyết lệ sử, Cao Thế Dung, Nxb Đồng Hương, Louisiana
1996, trang 747-748
18.- Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nguyễn quang Ngọc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội
2001, trang 327
19-20.- Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, Bản tiếng Việt của Hồ Văn Đồng,
Hội Phát triển văn hóa Mỹ-Việt, Seattle 2002, Tập II, trang 1129-1130. Phần phụ lục
của người dịch.
21.- Đêm giữa ban ngày, Vũ Thư Hiên, Nxb Văn Nghệ, Cali 1997, trang 32.
22.- Những thiên đường mù, Dương Thu Hương, Hà Nội 1990, trang 17-29.
23-25-27.- Mặt Thật, Thành Tín, Cali 1993, trang 59-60, 67-68, 39
24.- Tác giả chương 7 trong North Việt Nam Today, Xin xem chương 25
26.- Xin xem chương Nguyễn minh Cần.





CHƯƠNG XLVII

HỒ CHÍ MINH
VÀ MẶT TRẬN VIỆT MINH


Trước hết, cần minh xác về khái niệm mặt trận. Thông thường 2 chữ này có
nghĩa tiền tuyến, nơi đang xảy ra giao tranh bằng quân sự. Đó là nghĩa đen. Nhưng
mặt trận cũng có nghĩa bóng, chẳng hạn khi nói mặt trận văn hóa, mặt trận ngoại
giao...Ngoài ra, mặt trận còn có thể là một tổ chức đấu tranh tập hợp nhiều đoàn thể
đảng phái nhằm tranh thủ một mục tiêu chính trị nào đó, không nhất thiết bằng võ
lực.
Đó là những khái niệm thông thường, trước khi có cuộc chiến ý thức hệ do
chủ trương đấu tranh giai cấp mang tính toàn cầu, toàn diện. Từ khi có cuộc chiến
này với thuộc tính ‘’toàn cầu, toàn diện’’, mặt trận chỉ có một nghĩa, nghĩa đen.
Mặt trận ở đây chính là tiền tuyến, tại đó người cộng sản dùng những võ khí
tinh thần hơn là vật chất. Trong chiến tranh toàn diện, mọi thứ đều có thể là võ khí thì
mọi nơi đều có thể là tiền tuyến hay mặt trận.
Theo chiến lược sách lược liên minh Lênin, đặc biệt sách lược ‘’mặt trận
thống nhất’’ được Stalin áp dụng tại Trung Quốc giữa thập niên 20, mặt trận còn là
một hình thức sách lược đấu tranh. Nó thay đổi tùy nơi, tùy lúc, tùy theo cao trào hay
thoái trào cách mạng, (chữ của Stalin).
Trong trường hợp này, nó như chiếc áo mà đảng cộng sản chọn mặc cho phù
hợp với hoàn cảnh thực tế. Cũng theo sách lược liên minh Lênin, mặt trận còn mang
ý nghĩa của bộ mặt ngoài che giấu thực chất phía trong. Mặt trận luôn được điều
khiển bởi đảng cộng sản nằm làm nòng cốt ở bên trong nên cũng có thể bảo là một
thứ mặt nạ của đảng cộng sản.
Những tính chất này đều được thể hiện với Mặt trận Việt Minh.
Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931 và cuộc Cải Cách Ruộng Đất 1953-
1955 đánh dấu hai thời điểm quan trọng trong quá trình hoạt động của Hồ chí Minh
thì Mặt Trận Việt Minh và Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam là những tổ chức
gắn liền với sự nghiệp của Hồ chí Minh, nhất là Mặt Trận Việt Minh do Hồ chí Minh
khai sinh ngày 19 tháng 5 mà sau này ông nói là ngày sinh của ông.
Có thể coi hai tổ chức này như hai con thuyền đã giúp Hồ chí Minh vượt qua
sóng gió. Và, cũng như mọi con thuyền, cả hai tổ chức đều mang chung số phận bị
dẹp bỏ sau khi đi tới bến bờ mong muốn để chỉ còn được sống lại vào những lúc cần
xác định lý tưởng của Hồ chí Minh.
Với rất nhiều người, Mặt Trận Việt Minh cũng như Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam là những lực lượng qui tụ các phần tử yêu nước hình thành do yêu
cầu giành độc lập hoặc chống ngoại xâm. Hồ chí Minh là người sáng lập và trực tiếp
269 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
lãnh đạo Mặt Trận Việt Minh, là người hỗ trợ tích cực cho Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam.
Cả hai tổ chức đều nhờ Hồ chí Minh để thâu đoạt thắng lợi, hoàn thành nhiệm
vụ lịch sử đối với đất nước. Lý tưởng mà Hồ chí Minh theo đuổi đã được kể là dựa
trên nền tảng hình thành từ tính chất đáp ứng nguyện vọng dân tộc chính đáng của
hai tổ chức trên.
Tương đồng và dị biệt giữa thực tế với nhận định được nêu trên ra sao ?
Theo tài liệu của cộng sản Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh ra đời tại hang Pac
Bó Tỉnh Cao Bằng ngày 19.5.1941 theo sáng kiến của Hồ chí Minh trong một phiên
họp được gọi là hội Nghị kỳ 8 trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Hồ chí Minh chủ
tọa hội nghị với tư cách đại diện Đệ Tam Quốc Tế. Số người có mặt gồm Trường
Chinh, Hoàng văn Thụ, Hoàng quốc Việt, Phùng chí Kiên và một đại biểu Bắc Kỳ,
một đại biểu Trung Kỳ. (1) ‘’Hội nghị khẳng định: Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của
cách mạng là giải phóng dân tộc…Trong lúc này, khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết
phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc
Pháp-Nhật…nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu
mãn kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi
lại được.
Theo sáng kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, hội nghị đã quyết định thành
lập mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (gọi
tắt là Việt Minh) nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt
giàu nghèo, già trẻ trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị…’’ (2)
Việt Nam những sự kiện lịch sử 1919-1945 ghi lại chi tiết hơn: ‘’Phân tích
tình hình thế giới, nghị quyết của hội nghị nhận định: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc
lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc
lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước
thành công…Hội nghị tán thành nghị quyết của hai hội nghị Trung Ương trước đó về
việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược nhằm nêu cao nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, ngày 19.5.1941, Hội
Nghị quyết định thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội (gọi tắt là Việt Minh)
thay cho Mặt Trận Dân Tộc Thống Nhất Phản Đế Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ
giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành lập mặt trận của mình. Các tổ chức
của Việt Minh sẽ là các Hội Cứu Quốc. Hội Nghị quyết định tiếp tục chủ trương tạm
gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng mặt trận dân tộc’’. (3)
Những dòng ghi vắn gọn trên cho thấy rõ Mặt Trận Việt Minh không hề theo
đuổi mục tiêu đấu tranh cho nguyện vọng dân tộc.
Sự ra đời của tổ chức chỉ nhắm khai thác tâm lý quần chúng để gây dựng lực
lượng và củng cố vị thế của Đảng cộng sản tùy theo từng giai đoạn.
Những ngày trước đó, đảng cộng sản nấp dưới chiêu bài Mặt Trận Dân Tộc
Thống Nhất Phản Đế Đông Dương thành lập tháng 11.1939, vì không thể công khai
đấu tranh sau biến cố Xô Viết Nghệ Tĩnh.
Trước nữa, đảng cộng sản đã lập Mặt Trận Phản Đế vào tháng 11.1930 và
Mặt Trận Dân Chủ vào năm 1936.
Hình thức mặt trận nẩy sinh từ quan điểm chiến lược sách lược Lênin nhắm
tập họp, liên minh với các lực lượng, kể cả thành phần thù địch nhưng cần khai thác
trong thời gian trước mắt hay một thời khoảng nào đó. Vì thế, mặc dù coi mọi giai
cấp đều là kẻ thù của giai cấp Vô Sản, Mặt Trận Việt Minh vẫn chuyển hướng chỉ
đạo để hô hào liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu
nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị và nêu chủ
270 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng mặt trận dân
tộc.
Chuyển hướng và tạm gác chắc chắn chỉ là những việc mang tính giai đoạn
chứ không phải hướng nhắm thực sự cuối cùng. Cho nên, Douglas Pike đã hết lời ca
ngợi Hồ chí Minh: ‘’Thiên tài số một của Hồ là tổ chức…Hầu hết những thắng lợi
chính trị của Hồ trong thời kỳ tiền Việt Minh là kết quả của tài tổ chức: Tạo dựng, sử
dụng và đưa ra ánh sáng một cách thuận lợi một chuỗi những tổ chức mặt trận thống
nhất, cái sau bao giờ cũng cao hơn cái trước, mỗi cái đều tăng cường quyền lực của
đảng, mở rộng thêm sự ủng hộ của cơ sở quần chúng và loại trừ đối lập (rivals). Kỹ
thuật (loại trừ) này gồm có việc bao lấy tổ chức đối lập đưa nó vào trong một cộng
đồng xã hội rộng lớn hơn như một phương cách làm lu mờ căn cước riêng của nó và
như một màn mở đầu để chặt mất đầu, không còn lãnh tụ nên phải tan rã...” (4)
Không chỉ trong thời kỳ tiền Việt Minh mà các thời kỳ sau cũng mang cùng
tính chất. Thực tế xã hội Việt Nam giai đoạn này cho thấy đảng cộng sản Việt Nam
không thể thành công nếu cứ tiếp tục hô hào đấu tranh giai cấp và cải cách ruộng
đất như những năm 1929-1930. Chính sách thực dân và thái độ tàn nhẫn của người
Pháp đối với dân chúng đã tạo sự căm phẫn ngay nơi nhiều người Pháp. Andrée
Viollis đã ghi lại không biết bao nhiêu cảnh sống uất nghẹn của người dân Việt Nam:
‘’Từ khi tôi đến Huế, vào mỗi sáng tôi thường bị đánh thức bởi giọng khàn gắt
của những người còn say rượu, mắng bồi bếp ‘’Đồ súc vật, mày có đến không
?...Phải mất bao nhiêu thời giờ mới gọi được mày ? Đến mau…sà-lù…Đôi khi tôi
nghe thấy tiếng ghế đổ loảng xoảng, tiếng giầy dép quăng ném loạn xạ…
Một bà Pháp, Đốc Học Trường Nữ ở Huế lái xe hơi, đụng té hai người nhà
quê gánh rau vào Thành Phố. Họ bị thương nhẹ. Bà nọ đang tính bồi thường thì một
viên chức nổi giận vì đám nhà quê dám hỗn xược đòi tiền một bà đầm. Y vừa đánh
hai người kia vừa la lối: ‘’Nếu tao mang súng theo thì tao giết tụi bay rồi. Cút đi!
Đừng vác mặt đến đây nữa, nếu không sẽ biết tay tao’’. Hai người đàn bà tội nghiệp
mất cả gánh rau, mặt đầy máu, lấm lét bỏ trốn mà vẫn mừng đã thoát nạn’’. (5)
Cảnh ngoài đường phố đó không đáng gì so với cảnh một nhà giam năm
1929-1930 mà Andrée Viollis chứng kiến: ‘’Tôi nhận ra hai hàng tù nhân, chân bị
cùm, ngồi hay nằm sát chặt lấy nhau. Mỗi căn có 200 người. Tất cả đều nhìn chúng
tôi bằng con mắt tuyệt vọng và sốt nóng vừa dơ bàn tay ra van nài…Mặt của họ nám
đen, khô đét, má hóp, môi chảy ra nứt nẻ, cánh tay thì đầy mụn nhọt và vết thương.
Hầu hết đều ghẻ hoặc bị chấy rận dày vò…Cả ngày người ta chỉ tháo cùm cho họ
hai lần, mỗi lần mười phút để lo việc cần. Họ chỉ có quyền rửa mặt mỗi tuần một
lần…Họ tiều tụy đến nỗi nhiều người không chống lại nổi bệnh kiết lỵ mà hầu hết đều
bị. Mỗi sáng, người ta đến lấy những xác chết đem đi. Trung bình có hai hoặc ba
người chết mỗi ngày trong một căn.’’ (6)
Andrée Viollis ghi lại một sự việc xảy ra tại nhà tù ngày 29.5.1931: ‘’Hai tên Lê
Dương Van Bargen và Layon lấy cưa xén tóc một phạm nhân để giỡn. Nghịch chán,
Van Bargen rút súng lục bắn vào đùi phạm nhân rồi hất vào phòng giam. Một lúc
sau, Van Bargen lại chĩa súng bắn xối xả vào các phạm nhân. Tất cả đều bị thương.
Chúng chất các phạm nhân bị thương lên xe đưa đến một nơi vắng vẻ dùng súng lục
bắn chết từng người, quăng xác vào bụi. Ra tòa, Van Bargen khai là chỉ bắt chước
cấp trên thường chém đầu phạm nhân để giỡn chơi. Tên Quan Ba Doucin khai do
nhà giam chật hẹp, số phạm nhân lại quá nhiều nên phải giết bớt đi’’. (7)
Đó là cách đối phó với các đảng viên Việt Nam Quốc Dân Đảng trước và sau
thời gian xẩy ra cuộc khởi nghĩa Yên Báy.
271 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Những tên cai tù giết người được tòa tuyên bố trắng án trong khi một số tù
nhân bị tử hình. Một chứng nhân người Pháp khác là Louis Roubaud (8) đã ghi lại
phản ứng của nhiều người tù trước tòa.
Trong phiên xử ngày 26.5.1930 tại Phú Thọ, Nguyễn Văn Toại không chờ Tòa
lên tiếng đã nói: ‘’Tôi nhận hết!’’ Tòa hỏi: ‘’Anh có phải đảng viên Việt Nam Quốc Dân
Đảng không ?’’ Toại đáp: ‘’Tôi chỉ là một người Việt Nam. Tôi thương xót đồng bào
tôi bị cực khổ nên tôi tham gia tấn công đồn binh Pháp’’.
Nguyễn Văn Toại mới 33 tuổi và là một trong 5 người bị chém đầu tại Phú Thọ
ngày 22.11.1930.
Cùng trong phiên xử đó, một người khác dõng dạc nói trước Tòa: ‘’Tôi không
có chân trong hội kín hội hở nào hết. Tôi là người Việt Nam, tôi có bổn phận phải
đánh đuổi người Pháp ra khỏi đất nước tôi để khôi phục nền độc lập cho Tổ Quốc’’.
Ngày 23.6.1931, trước khi bị đưa ra hành quyết tại Hỏa Lò, Lê Hữu Cảnh đã
tươi cười nói với Linh Mục Dromet: ‘’Chết vì tổ quốc, lên Thiên Đường nhanh lắm’’.
Nhượng Tống ghi lại hình ảnh cuối cùng của Lê Hữu Cảnh: ‘’Người ta trông
thấy anh hớn hở khi hô xong câu ‘’Việt Nam vạn tuế!’’ rồi đâm đầu vào máy chém’’
(9)
Cuộc sống tủi nhục đọa đày dưới ách thống trị tàn khốc đã khiến toàn cõi Việt
Nam là một lò lửa hận thù ngùn ngụt đối với thực dân Pháp đúng như L. Bonnafont
đã viết trong Trente ans de Tonkin: ‘’Hòn Gay không đem lại gì cho chúng ta, ngoại
trừ mối căm thù của hàng ngàn cu-li’’ (10).
Nguyện vọng giành độc lập cho Tổ Quốc là nguyện vọng chung của hết thẩy
mọi người vì đó là lối thoát duy nhất cho cảnh sống đói rét dưới roi vọt. Đó cũng là lý
do khiến đảng cộng sản thấy cần vận dụng chiêu bài giải phóng dân tộc và tạm thời
che kín chủ trương đấu tranh giai cấp.
Ngay Đào Duy Anh khi mới tham gia đấu tranh trong đảng Tân Việt cũng phát
biểu: ‘’Không thể căn cứ vào một giai cấp nào để lấy đảng viên được, tầng lớp thợ
thuyền còn quá ít ỏi và chưa có đường lối rõ rệt, trong khi tầng lớp nông dân cũng
chưa thuần nhất và ít giác ngộ về đường lối’’ (11)
Trên thực tế từ ngày 18.11.1930 Trung ương đảng cộng sản Đông Dương đã
gửi chỉ thị tới các cấp ủy đảng ‘’khẳng định lại đường lối chiến lược và sách lược của
Đảng trình bày trong Luận Cương, nhấn mạnh tới tầm quan trọng của công tác xây
dựng mặt trận dân tộc thống nhất mà trong giai đoạn lịch sử này việc tổ chức Hội
Phản Đế Đồng Minh là chủ trương đúng đắn và cấp thiết’’. (12)
Như thế, 11 năm trước khi Mặt Trận Việt Minh ra đời, công tác xây dựng mặt
trận dân tộc thống nhất đã được minh thị là một công tác mang tầm chiến lược và
sách lược của Đệ Tam Quốc Tế tức không phải sáng kiến của một cá nhân nào, kể
cả Hồ chí Minh.
Năm 1930, theo thẩm định tình hình, đảng cần chiêu bài Phản Đế nên Mặt
Trận Phản Đế Đồng Minh xuất hiện.
Sáu năm sau, sự thắng thế của Mặt Trận Bình Dân trên chính trường Pháp
khiến chiêu bài Dân Chủ thích hợp hơn nên Phản Đế Đồng Minh được thay thế bằng
Mặt Trận Dân Chủ. Rồi tình hình lại xoay chuyển khiến xuất hiện Mặt Trận Thống
Nhất Dân Tộc Phản Đế Đông Dương ngày 18.11.1939.
Sau đó, chiêu bài Phản Đế tỏ ra không cuốn hút bằng chiêu bài Độc Lập nên
Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh ra đời.
Ưu điểm của sách lược vận dụng mặt trận không chỉ là tính hấp dẫn của
những chiêu bài đối với quần chúng mà nằm ngay trong thái độ khác biệt về ý thức
giữa những người đấu tranh không cộng sản và thuộc hàng ngũ cộng sản.
272 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Người cộng sản được rèn giũa, nhắc nhở thường xuyên về bạn và thù, không
lúc nào quên vấn đề chủ yếu trong liên minh là phải nắm vững thế chỉ đạo bằng mọi
giá, kể cả vu cáo triệt hạ, ám toán tiêu diệt những kẻ gây trở ngại.
Trong khi đó, người không cộng sản bước vào mọi cuộc liên minh với sự tin
cậy thiện chí hợp tác của bất kỳ ai, sẵn sàng chấp nhận bất kỳ vai trò nào miễn là có
người cùng chia xẻ nhiệm vụ đấu tranh.
Cho nên, người cộng sản gần như không gặp khó khăn trong sự thực hiện
các mưu đồ mà Douglas Pike đã mô tả là bao lấy tổ chức đối lập đưa vào một cộng
đồng rộng lớn hơn làm lu mờ căn cước riêng của nó và chặt mất đầu, không còn
lãnh tụ nên phải tan rã...
Với những người sôi sục nhiệt tâm chống thực dân để giành độc lập nhưng
chưa từng tham gia tổ chức đấu tranh nào, mức thuận lợi càng lớn hơn cho cộng
sản, nhất là sự hoàn toàn mờ mịt về chủ thuyết cộng sản.
Cho tới thập niên 1970, đại đa số dân chúng Việt Nam vẫn nghĩ về cộng sản
như một tập thể chủ trương bạo động để bênh vực người nghèo khó, chống lại
cường quyền áp chế và những kẻ giàu sang độc ác.
Khi đã vượt qua tâm trạng e dè với phương pháp bạo động, không mấy ai còn
băn khoăn tìm hiểu tổ chức mình sẽ tham gia là cộng sản hay không cộng sản. Ngay
trong giới trí thức, thậm chí giữa những người đang hoạt động đảng phái, vẫn có
luận điệu ‘’Danh xưng tổ chức là gì không quan trọng, chỉ cần chung sức đánh Tây
thôi. cộng sản hay không cộng sản cũng là người Việt Nam đang sống trong nô lệ và
mong mỏi độc lập như mình.’’
Ý kiến về đảng phái của nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng được
Võ nguyên Giáp ghi lại chính là bằng chứng cụ thể cho cách suy nghĩ về quốc gia và
cộng sản đương thời: ‘’Tới Hà Nội gặp chúng tôi, cụ Huỳnh tỏ ý lo lắng về cái mà cụ
gọi là tình hình ‘’đảng tranh’’ hiện thời. Theo ý cụ thì Việt Minh, Việt Nam Cách Mệnh
Đồng Minh đều tranh đấu cho dân, các vị lãnh đạo đều là những người yêu nước đã
bôn ba hải ngọai, giờ phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên, phải đoàn kết lại, không
nên xung đột vì chuyện đảng phái’’. (13)
Hơn nữa, người trong nước đã có thói quen trông chờ sự tiếp sức từ bên
ngoài kể từ khi phong trào Đông Du được Phan Bội Châu phát động. Tin tức đấu
tranh từ Trung Hoa, Thái Lan luôn là nguồn hứng khởi và đề tài bàn thảo.
Sau Cách Mạng Tân Hợi 1911 Trung Hoa, chính Phan Bội Châu đã ngả theo
xu hướng canh tân, chủ trương dân chủ hóa, hô hào làm cách mạng xã hội để hình
thành tổ chức Việt Nam Quang Phục Hội. Lớp trí thức trẻ trong nước cũng choáng
ngợp trước nhiều nguồn ánh sáng tư tưởng Tây Phương và Việt Nam Quốc Dân
Đảng của Nguyễn Thái Học đã tiếp nối Phan Bội Châu không ngừng hô hào làm
cách mạng xã hội. Điểm quan trọng là không có sự phân biệt rạch ròi về cách mạng
xã hội theo tinh thần Tam Dân Chủ Nghĩa của Cách Mạng Tân Hợi Trung Hoa mà
Phan Bội Châu đề xướng với cách mạng xã hội theo tinh thần giai cấp đấu tranh của
Đệ Tam Quốc Tế.
Toàn bộ khung cảnh thực tế đấu tranh chính trị tại Việt Nam giữa người cộng
sản với người không cộng sản là một thiểu số kín đáo kiên trì theo đuổi mưu đồ thâu
tóm trọn quyền lực và một tập thể ngay tình, chân thực luôn sẵn sàng chấp nhận bất
kỳ ai tuyên bố đòi đập lập đều là bạn.
Kết quả, sách lược dân tộc thống nhất đã làm tan rã các tổ chức không cộng
sản, thu hút thêm người về cho đảng cộng sản.
Trên thực tế, qua các cửa ngõ không cộng sản như Tâm Tâm Xã, Phục Việt,
Tân Việt, Tổng Hội Sinh Viên…những người trẻ như Vương thúc Oánh, Hồ tùng
Mậu, Lê hồng Sơn, Trần Phú, Lê hồng Phong, Nguyễn thị Minh Khai, Đào Duy
273 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Anh…đã bị cuốn hút để trở thành đảng viên nòng cốt của cộng sản. Sau một quá
trình huấn luyện, nhất là sau khi được chọn lọc gửi đi thụ huấn tại Mạc Tư Khoa,
những người trên đều thay đổi ý niệm về đường hướng đấu tranh.
Lúc này, họ đã thuộc về một lực lượng mới với một sứ mạng mới là giải
phóng nhân dân lao động toàn thế giới. Cuộc chiến mà họ bước vào do lòng yêu
nước thúc đẩy chỉ còn là một bộ phận nhỏ trong cuộc chiến mà họ vừa giác ngộ. Họ
ý thức rõ rệt điều đó và còn được chỉ dẫn kỹ lưỡng để khai thác những cuộc chiến
cục bộ như thế nào để hoàn thành sứ mạng mới mà họ đã chọn lựa.
Những người không cộng sản chỉ nhìn thấy Mặt Trận là một hình thức kết hợp
mọi người tạo thành lực lượng đấu tranh đánh đuổi kẻ thù thực dân Pháp giành lại
nền độc lập dân tộc và những người cùng tham gia Mặt Trận đều là đồng chí.
Khi bước vào Mặt Trận, những phần tử hoặc tổ chức không cộng sản đều tự
đồng hóa với Mặt Trận theo tinh thần hòa nhập để chung lo công việc. Mọi nhiệm vụ
do Mặt Trận đề ra là nhiệm vụ của mình và mục tiêu Mặt Trận nhắm tới là mục tiêu
phụng sự của mình.
Nhưng người cộng sản đã được chỉ thị rõ ràng để không quên rằng họ chỉ tạm
thời gác lại chủ trương giai cấp đấu tranh và Mặt Trận là một vỏ bọc cần thiết trong
giai đoạn. Họ là người thuộc về đảng, tức cái nhân của Mặt Trận. Nhiệm vụ chủ yếu
của họ là phát triển và củng cố cái nhân chứ không xả thân cho mục tiêu của cái vỏ.
Chính vì thế, họ phải nắm quyền chủ động trong Mặt Trận để giữ vững các
điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và củng cố đảng. Mặt Trận chỉ là vỏ bọc nên
cũng như chiếc áo. Mỗi trường hợp, mỗi hoàn cảnh cần có những chiếc áo khác
nhau nên nắm vững quyền chủ động có nghĩa là tránh bị lệ thuộc chiếc áo để luôn
luôn ứng phó kịp thời với mọi tình huống hầu bảo vệ hữu hiệu cho cái nhân.
Cộng sản không đồng hóa với Mặt Trận mà vận dụng Mặt Trận như một công
cụ phục vụ cho mục đích của mình. Tương quan giữa đảng cộng sản với Mặt Trận là
tương quan giữa người chỉ huy với kẻ thừa hành.
Thêm nữa, Mặt Trận không đơn thuần là một danh xưng hay một hình thức tổ
chức mà chính là một trận tuyến.
Đối với cộng sản, những người cùng tham gia Mặt Trận chưa hề là đồng chí
mà còn có thể là kẻ thù. cộng sản mời gọi những người này tham dự liên minh để lợi
dụng, chinh phục hoặc giăng bẫy thanh toán. Liên minh trong quan điểm chiến lược
sách lược cộng sản là một cuộc chiến dưới hình thức sống chung hòa bình trong lúc
kẻ thù bị ru ngủ bởi hình thức đó.
Đấu tranh giai cấp là cuộc chiến liên tục và trường kỳ dưới mọi hình thức để
giành mục tiêu thiết lập nền chuyên chính vô sản trên toàn thế giới nên không thể
ngưng diễn tiến một ngày một giờ nào và ở bất kỳ nơi đâu. Mặt Trận là trận tuyến
trên đó cuộc chiến liên tục diễn ra với những kẻ thù tuy đang là đồng minh nhưng
không theo cộng sản.
Ý nghĩa chứa đựng trong danh từ Mặt Trận đối với cộng sản là ý nghĩa này
chứ không phải ý nghĩa theo cách hiểu của người không cộng sản vẫn được trưng
dẫn để thuyết phục các đối tượng quần chúng.
Hơn 40 năm trước đây, trong cuốn Sách lược xâm lăng của cộng sản,
chúng tôi đã có dịp phân tích 4 loại sách lược thường được cộng sản dùng để thôn
tính các nước là mặt trận, liên hiệp, trung lập, hòa bình.
Hòa bình là một vũ khí, một chiến lược, một mặt trận đánh vào đối phương,
để chia rẽ, phân hóa, làm cho đối phương mất hết ý chí chiến đấu, trong khi cộng
sản tiếp tục tấn công.
Tác động của các phong trào phản chiến tại miền Nam Việt Nam và tại Mỹ
trước đây là minh chứng cụ thể về sự vận dụng vũ khí hòa bình.
274 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
Tưởng cũng nên nhắc lại, ngay trong lúc nêu chủ trương sống chung hòa
bình, lãnh tụ Liên Xô Nikita Khrutshchev vẫn tuyên bố ‘’muốn sống đến ngày được
thấy ngọn cờ đỏ bay phất phới khắp năm châu’’.
Cũng chính Khrutshchev đã ra lệnh đàn áp phong trào đấu tranh tách khỏi
vòng kiềm chế Liên Xô của nhân dân Ba Lan (vụ Poznan) và nhân dân Hung Gia Lợi
(vụ Budapest). Lãnh tụ cộng sản Trung Cộng Chu ân Lai nêu năm nguyên tắc sống
chung hòa bình tại hội nghị Băng Dung 1955 không ngoài mục đích ru ngủ và bó tay
các quốc gia Ai Cập, Nam Dương, Ấn Độ…đồng thời phân hóa đối thủ, giảm thiểu
lực lượng chống cộng trên thế giới trong khi phe cộng sản không lơi tay súng.
Liên hiệp là mượn danh nghĩa sống chung để xâm nhập, lũng đoạn, xuyên
tạc, ám toán nhắm đánh phá, tiêu diệt người bất đồng chính kiến.
Các đoàn thể từng tham gia chính phủ liên hiệp Việt Minh trong năm 1946 sẽ
không bao giờ quên nổi bài học đắng cay, thấm thía về liên hiệp. Hồ chí Minh nhân
danh ‘’đoàn kết’’ lập chính phủ liên hiệp để triệt tiêu lý do chống đối của các phe đối
lập đồng thời trình diễn bộ mặt ‘’hòa hợp dân tộc’’ trước các cường quốc Tây
Phương. Nhưng cùng lúc đó, các đoàn thể chấp nhận liên hiệp với cộng sản Việt
Nam đã lập tức trở thành những miếng mồi ngon vì lâm cảnh ngộ ngồi chung với bầy
sói.
Trung lập là cô lập đối phương. Bài học về hiệp ước Genève 1962 trung lập
hóa Ai Lao là bài học tiêu biểu về trung lập. Ai Lao trung lập có nghĩa là Ai Lao bị cô
lập, và miền Nam Việt Nam bị cô lập theo. Bởi, các nước không được quyền giúp
phe quốc gia Ai Lao trong khi cộng sản Việt Nam không ngừng hỗ trợ cộng sản Ai
Lao tấn công phe quốc gia.
Cộng sản còn dùng Ai Lao làm bàn đạp xâm nhập đánh phá miền Nam Việt
Nam. Đường mòn Hồ chí Minh xuyên qua lãnh thổ Ai Lao ‘’trung lập’’ trở thành con
đường bất khả xâm phạm của cộng sản. Các nước ký kết bắt buộc phải tôn trọng
chữ ký của mình trong khi cộng sản coi mọi phương tiện đều tốt. Nói dối, vi phạm
hiệp ước…là điều cần làm vì lợi ích của đấu tranh giai cấp, cứu cánh biện minh cho
phương tiện.
Mặt trận nhằm tập họp vào hàng ngũ do cộng sản lãnh đạo những thành phần
yêu nước đang đấu tranh giành độc lập dân tộc để lợi dụng, khai thác cho mục tiêu
tận diệt mọi giai cấp chống lại giai cấp vô sản mà đảng cộng sản tự ban cho mình vai
trò đại diện với tư cách đội tiền phong.
Với quan niệm chiến tranh thường trực trong giai cấp đấu tranh và chiến lược
toàn cầu của cộng sản nhắm đánh đổ tư bản, mặt trận dù xưng danh là Độc Lập
Đồng Minh cũng không bao giờ thực sự đấu tranh vì Độc Lập dân tộc mà chỉ là sách
lược giai đoạn vận dụng chiêu bài Độc Lập dân tộc để giành quyền chuyên chính vô
sản.
Danh nghĩa mặt trận sẽ giúp cộng sản thu hút đông đảo quần chúng vào vòng
chi phối đồng thời có thể buộc hết thẩy khép mình dưới kỷ luật sắt như binh sĩ trong
một trại quân.
Ý đồ vận dụng Mặt Trận Việt Minh để tập họp mọi thành phần quần chúng,
biến thành lực lượng đấu tranh lâu dài cho mục tiêu chuyên chính vô sản còn biểu
hiện qua các nghị quyết và chỉ thị đưa ra trong hội nghị kỳ 8 trung ương đảng. Các
chỉ thị này đã nêu rõ nhiệm vụ của Đoàn Thanh Niên Cứu Quốc là tổ chức và phụ
trách Đội Thiếu Niên Tiền Phong và Hội Nhi Đồng Cứu Vong để tập họp thế hệ nhỏ
vào mục đích dự bị cho cuộc đấu tranh. Chỉ thị này còn được biến thành một điều
khoản trong điều lệ của Hội Nhi Đồng Cứu Vong (14).
Tóm lại, nhìn từ khía cạnh chiến lược sách lược Lênin và qua các Nghị Quyết
của Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, dù Mặt Trận Việt Minh qui tụ rộng rãi các
275 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
thành phần dân chúng và có mặt nhiều phần tử yêu nước vẫn không thể xác định là
một lực lượng đấu tranh yêu nước hình thành do yêu cầu giành độc lập của dân tộc
Việt Nam.
Do ngưỡng mộ Hồ chí Minh, Douglas Pike coi sách lược mặt trận dân tộc là
biểu hiện một thiên tài về tổ chức đấu tranh. Chỉ giới hạn trong phạm vi hành động
thì lời khen của Douglas có thể có cơ sở, ngoài ra, sẽ là một lời ca tụng mù quáng.
Vì sách lược này không phải phát kiến của Hồ chí Minh mà được đề ra bởi
Lênin. Hồ chí Minh chỉ là người thi hành chỉ thị của Đệ Tam Quốc Tế và tính chất này
đã là nền tảng để Duncanson đánh giá ‘’phong trào cộng sản ở Việt Nam khác với
các phong trào chính trị về một phương diện quan trọng: Nó là một phong trào
khuynh đảo phát động từ bên ngoài do chính phủ Liên Xô dùng làm khí cụ quấy phá
Pháp’’.
Do đó, Duncanson cho rằng đảng cộng sản Đông Dương không bao giờ là
một lực lượng đấu tranh yêu nước mà trái lại, còn gần như một lực lượng chống lại
những người yêu nước chống thực dân-almost anti-anti-colonial.
Mặt Trận Việt Minh do đảng cộng sản Đông Dương thành lập và nắm quyền
chỉ đạo nên kết luận của Duncanson cũng là lời bác bỏ sự xác định lý tưởng dân tộc
của Hồ chí Minh dựa trên chủ trương được quảng bá của Mặt Trận này.
Đặt vấn đề vào thực tế, chỉ có thể coi Mặt Trận Việt Minh là phát kiến của Hồ
chí Minh trong giới hạn ý đồ vận dụng danh xưng Việt Minh.
Vì từ 1935, Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội với tên gọi tắt Việt Minh đã
được Hồ Học Lãm thành lập tại Nam Kinh. Trong hồi ký Giọt nước trong biển cả,
Hoàng văn Hoan ghi rõ nhiều chi tiết về tổ chức này của những người quốc gia yêu
nước tại Hoa Nam.
Theo Hoàng văn Hoan, chính Hồ chí Minh cùng nhiều đồng chí trong số có
Hoàng văn Hoan đã tham gia Việt Minh để hoạt động.
Hoàng văn Hoan viết: ‘’Vấn đề đầu tiên là vấn đề lấy danh nghĩa gì để hoạt
động ? Bác chủ trương lấy danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, và mời
ông Hồ Học Lãm đứng ra chủ trì để chúng ta dựa vào đó mà hoạt động. Chủ trương
đó phát xuất từ chỗ Việt Minh là một tổ chức mà trước kia đã cùng với ông Hồ Học
Lãm lập ra và đăng ký ở Nam Kinh, xuất phát từ chỗ ông Hồ Học Lãm không phải là
cộng sản mà lại thực lòng ủng hộ chúng ta...’’ (15)
Trong Danh nhân Hồ Chí Minh (16), Trần đình Huỳnh cũng cho biết từ tháng
9.1940, Hồ chí Minh bắt liên lạc với Hồ Học Lãm và được Hồ Học Lãm cho biết thời
cơ về nước đã tới. Vì thế, ngày 6.1.1941, Hồ chí Minh mới cùng Phạm văn Đồng, Võ
nguyên Giáp, Phùng chí Kiên, Đặng văn Cáp là những người có mặt trong Việt Nam
Độc Lập Đồng Minh Hội chuẩn bị về nước bằng việc tổ chức tại làng Nậm Quang
thuộc Quảng Tây, Trung Quốc, một khóa huấn luyện chính trị cho 43 cán bộ, dẫn
giải về việc thành lập mặt trận dân tộc rộng rãi ở trong nước.
Tháng 2.1941, Hồ chí Minh về Pac Bó thuộc Tỉnh Cao Bằng và công việc đầu
tiên là giao cho Vũ Anh, Hoàng văn Thụ tiến hành tổ chức thí điểm Mặt Trận Việt
Minh tại Cao Bằng.
Như vậy tới tháng 2.1941, trên danh nghĩa, Hồ chí Minh vẫn thuộc tổ chức
Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội của Hồ Học Lãm với tên gọi tắt là Việt Minh.
Ngày 19.5.1941, Hồ chí Minh chỉ có phát kiến tách khỏi tổ chức trên bằng
cách thay chữ Hội bằng 2 chữ Mặt Trận và vẫn giữ cái tên tắt Việt Minh quen thuộc
trong hoạt động.
Lập Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh để không còn chịu sự chi phối
của Hồ Học Lãm, dù chỉ là sự chi phối không đáng kể về ý kiến do cung cách hoạt
động lỏng lẻo sẵn có của tổ chức này. Tuy thế, vẫn giữ tên Việt Minh để tiếp tục khai
276 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
thác mọi thành quả mà tổ chức này dành được từ trước, nhất là để vận động các thế
lực quốc tế như Quốc Dân Đảng Trung Hoa và các quốc gia Đồng Minh kháng Nhật
do mối tương quan mà Hồ Học Lãm đã có.
Với tên Việt Minh, đảng cộng sản đã có chiếc áo quốc gia yêu nước từng
được quần chúng và ngay cả các giới chức Trung Hoa biết tới từ năm 1935.
Ưu điểm này không những giúp cộng sản dễ dàng lôi cuốn nhiều phần tử
nhiệt huyết trong nước chẳng hạn như lớp trí thức trẻ Dương đức Hiền, Nguyễn
Xiển, Nghiêm xuân Yêm…mà còn thuyết phục cả tư lệnh Đệ Tứ Chiến Khu Trung
Hoa Dân Quốc là Trương Phát Khuê cùng các sĩ quan Mỹ hoạt động tại Hoa Nam.
Tưởng Vĩnh Kính trong Hồ Chí Minh tại Trung Quốc đã viết: ‘’…Tại sao ông
Hồ và trung ương đảng cộng sản Việt Nam muốn lợi dụng lá cờ Việt Nam Độc Lập
Đồng Minh (chỉ bỏ chữ ‘’hội’’ mà thôi) ? Cách thức đó chính là lặp lại một cách khéo
léo điều mà người cộng sản gọi là ‘’chiếm lĩnh cơ quan, làm phe tả của họ’’ . Ý đồ
của họ, xét ra không ngoài việc lợi dụng danh nghĩa Độc Lập Đồng Minh Hội…nhằm
chiêu dụ tổ chức quần chúng của hội này…Căn cứ vào các tư liệu tại Quảng Tây
thời đó, ‘’Việt Nam Độc Lập Đồng Minh được thành lập tháng 7 năm 1935, là sự hợp
thành của Việt Nam Quốc Dân Đảng, Độc Lập Đảng, Tân Việt Đảng…Các tổ chức
quần chúng của nó cũng được ông Hồ đổi thành các hội ‘’Cứu Quốc’’…Ý đồ lớn nhất
của ông Hồ khi lợi dụng cơ cấu Việt Minh là che giấu cái bộ mặt cộng sản, lợi dụng
tình thế cùng tâm lý quần chúng Việt Nam, ngụy trang bằng chủ nghĩa dân tộc, nhằm
phát triển thực lực của bản thân’’.
Chủ ý lợi dụng danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội không còn là
nghi vấn vì chính Hoàng văn Hoan đã ghi rõ.
Nhưng trong thời điểm 1940-1945, Hồ chí Minh không chỉ vận dụng riêng
danh nghĩa Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Cũng theo Hoàng văn Hoan, vào năm
1943, khi có cơ hội gặp gỡ và nhận đứng ra tổ chức mạng lưới tình báo tại Việt Nam
cho Trương Phát Khuê, Hồ chí Minh đã yêu cầu Trương Phát Khuê can thiệp với
Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần để ‘’có một ủy nhiệm thư
của Trung Ương Việt Cách phái Hồ chủ tịch về nước công tác’’. Trương Phát Khuê
chấp thuận nên Hồ chí Minh đã ‘’đến Côn Minh với danh nghĩa là ủy viên Trung
ương của hội Việt Cách, có trách nhiệm xem xét tình hình phân hội Việt Cách ở Vân
Nam....’’ (17)
Theo Sử Gia Trần Trọng Kim trong hồi ký Một Cơn Gió Bụi, khoảng 1942,
chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đã ra lệnh giải tán Việt Nam Độc Lập Đồng Minh
Hội của Hồ Học Lãm vì thấy trong đó có nhiều người hành động theo chủ nghĩa cộng
sản. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc lúc đó cũng muốn người Việt Nam lưu vong
họp thành một lực lượng duy nhất.
Ngày 1.10.1942 tại Liễu Châu, Hoàng Lương vốn thuộc lực lượng võ trang
Phục Quốc Quân của Trần Trung Lập triệu tập một hội nghị thành lập Việt Nam Cách
Mạng Đồng Minh Hội gọi tắt là Việt Cách bao gồm các tổ chức Việt Nam Độc Lập
Đồng Minh Hội vừa có lệnh giải tán, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Phục Quốc
Đồng Minh Hội cùng một số người không đảng phái. Hội nghị lập ra một Ủy Ban Trừ
Bị gồm Nguyễn Hải Thần, Hoàng Lương, Hồ Học Lãm, Vũ Hồng Khanh, Nghiêm Kế
Tổ, Trương Bội Công, Trương Trung Phụng, Trần Báo.
Ủy Ban Trừ Bị Việt Cách đã đề nghị Trương Phát Khuê trả tự do cho Hồ chí
Minh bị bắt ngày 29.2.1942, khi từ Pac Bó trở qua Quảng Tây. Hồ chí Minh được trả
tự do ngày 13.9.1943 tại Liễu Châu, tuyên thệ hết lòng trung thành với Việt Cách
đồng thời trở thành một nhân viên tình báo của Tướng Trương Phát Khuê.
Lúc này Ủy Ban Trừ Bị Việt Cách đã đổi thành Ủy Ban Chấp Hành với thành
phần chính thức gồm Trương Bội Công, Trần Đình Xuyên, Nguyễn Hải Thần thuộc
277 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
chủ tọa đoàn và các ủy viên Vũ Hồng Khanh, Bồ Xuân Luật, Trương Trung Phụng,
Nông Kính Du và Trần Báo.
Vì Hoàng Lương có chuyện bất đồng với các giới chức Trung Hoa nên bị bắt
đưa về Trùng Khánh và Trương Phát Khuê đề nghị Việt Cách nhận thêm Hồ chí
Minh vào nhóm ủy viên. Suốt thời gian hoạt động tại Hoa Nam sau đó, Hồ chí Minh
luôn nhận là đại biểu của Việt Minh tức Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội trong tổ
chức Việt Cách.
Trần Trọng Kim viết: ‘’Khoảng tháng 9.1944, Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh
Hội dời về Quảng Tây và cho Hồ chí Minh về Bách Sắc để trù liệu kế hoạch nhập
Việt. Sau đó Hội cho Hồ chí Minh cùng 22 đảng viên phần nhiều là người trong đảng
Phục Quốc về nước để khởi sự hành động. Trong số 22 người ấy có một nữ đảng
viên tên Đỗ Thị Lạc là người về sau có đứa con gái với Hồ chí Minh. Người ta nói khi
về đến địa hạt Bắc Giang, có ba đảng viên trong 22 người ấy bị giết vì không chịu
theo cộng sản’’. (18)
Cho tới tháng 6.1945, Hồ chí Minh vừa nhân danh Việt Minh, Việt Cách vừa
sử dụng giấy tờ chứng nhận của Tướng Trương Phát Khuê trong mọi hoạt động để
tuyên truyền lôi cuốn những phần tử còn e dè với cộng sản và bắt liên lạc với các
toán hoạt động đặc biệt của Mỹ tại Hoa Nam.
Nhưng Hồ chí Minh không đem lại thành quả tốt đẹp nào cho các tổ chức kia
cũng như cho Tướng Trương Phát Khuê trong khi Mặt Trận Việt Minh tiếp tục phát
triển theo hướng gia tăng uy thế của cộng sản Việt Nam.
Những lời nói của Hồ chí Minh trong thời gian này với người ngoài và với
đồng chí phản ảnh rất cụ thể nhận định của Tưởng Vĩnh Kính về hướng nhắm chủ
yếu của Hồ chí Minh
Nỗi thao thức chính yếu của ông Hồ vào lúc đó không phải là vấn đề có thể
sớm đạt được một nền độc lập hay không, mà chính là vấn đề ‘’bản thân Việt Minh
có thể đoạt thủ được chính quyền hay không...’’
Suốt thời gian này với người ngoài, Hồ chí Minh luôn che giấu nguồn gốc
cộng sản, trong khi với nội bộ, Hồ chí Minh luôn nhắc nhở phải củng cố và phát triển
đảng.
Trong một đoạn nhật ký ghi lại những câu chuyện với Hồ chí Minh vào khoảng
tháng 2.1945, Charles Fenn, Trung Úy OSS Mỹ ghi: ‘’Tôi đã nghe phong phanh
người này là cộng sản và tôi hỏi về điều đó. Hồ nói rằng người Pháp gọi tất cả
những người Việt Nam mong muốn độc lập đều là cộng sản…Giọng nói của ông rõ
ràng, dứt khoát, gây cho tôi một ấn tượng mạnh mẽ’’.
Ngày 17.7.1945, Hồ chí Minh nói với Thomas, Thiếu Tá Mỹ chỉ huy toán Deer
vừa nhảy dù xuống Tân Trào: ‘’Mặt Trận Việt Minh là tập hợp các đảng phái chính trị
được tổ chức với mục đích duy nhất là đấu tranh cho tự do và độc lập’’.
Với người như Trương Phát Khuê, Hồ chí Minh không thể chối quanh nhưng
cũng có cách nói: ‘’Tôi là một người cộng sản, nhưng điều tôi quan tâm hiện nay là
độc lập và tự do cho nước Việt Nam. Tôi có một lời bảo đảm đặc biệt với ông rằng
chủ nghĩa cộng sản sẽ chưa được thực hiện ở Việt Nam trong vòng 50 năm tới’’.
Trương Phát Khuê nghe Hồ chí Minh nói những lời này ngày 9.8.1944 và đã
thâu nhận Hồ chí Minh làm một nhân viên tình báo.
Trong thời gian đó, tháng 12.1944, khi gặp Võ nguyên Giáp để quyết định
thành lập đơn vị vũ trang đầu tiên, Hồ chí Minh đã thêm hai chữ ‘’tuyên truyền’’ vào
tên đơn vị này và dặn Võ nguyên Giáp: ‘’Nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng ta ở
Tây’’. Lời dặn này không chỉ nhắm về mưu lược quân sự, bởi dưới quyền Võ nguyên
Giáp lúc đó chỉ là một trung đội nhỏ nhoi. Võ nguyên Giáp từng biết rõ Hồ chí Minh
chỉ có 3 ngày vui lớn. ‘’Đó là ngày Bác tìm thấy con đường giải phóng dân tộc khi
278 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
đọc Luận Cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa. Đó là ngày thành lập
đảng cộng sản Pháp năm 1920 mà Bác là một thành viên. Và ngày lịch sử mồng 3
tháng Hai năm 1930, ngày thành lập đảng cộng sản Đông Dương’’. (19)
Cho nên nghe lời dặn của Hồ chí Minh, nhất là khi Hồ chí Minh thêm hai chữ
‘’tuyên truyền’’ vào tên gọi của đội vũ trang đầu tiên, Võ nguyên Giáp đã nhớ ngay
tới con đường phải đi và công việc phải làm của mình.
Đó là công việc kín đáo tuyên truyền cho con đường mà Hồ chí Minh đã chọn.
‘’Giữa lúc vàng thau lẫn lộn, giả thật khó phân, Bác đã nhanh chóng nhìn thấy ánh
sáng của chân lý. Bác đã đến với chủ nghĩa Lênin. Bác đã thấy học thuyết Lênin
chính là mặt trời đưa lại nguồn tươi vui. Bác đã thấy ngọn cờ Lênin là tượng trưng
cho lòng tin và đuốc sáng của hy vọng’’. (20)
Tháng 7.1945, Hồ chí Minh lại nhắc Võ nguyên Giáp: ‘’Lúc nào cũng phải chú
ý xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và các phần tử trung kiên’’.
Võ nguyên Giáp ghi lại không khí sôi sục nhiệt tình hưởng ứng của dân chúng
đối với mọi lời hô hào đấu tranh yêu nước. ‘’Phong trào tìm kiếm, chế tạo, mua sắm
vũ khí rất sôi nổi. Những lò rèn ở nông thôn trở thành nơi sản xuất dáo mác, mã tấu
cho các đội tự vệ, dân quân. Các em nhỏ đua nhau đi lượm nhặt sắt thép vụn. Người
lớn đem tới góp những đồ dùng hàng ngày trong nhà như mâm thau, nồi đồng…cả
những đồ thờ cúng như lư hương, đỉnh đồng để đúc thành vũ khí…Với thanh mã
tấu, ngọn dáo dài trong tay, tinh thần khí phách thượng võ của dân tộc đã trỗi dậy
mạnh mẽ hơn bao giờ hết trong anh tự vệ đứng bên trống canh tại trạm gác đầu
làng. Các tổ chức tự vệ, du kích phát triển rất nhanh…Hầu hết các thôn xã, đường
phố, nhà máy đều có lực lượng tự vệ’’. (21)
Năng lực và nhiệt tình đó không hề được vận dụng vào mục tiêu phụng sự
dân tộc mà được tính toán để trở thành công cụ riêng của đảng cộng sản Đông
Dương.
Võ nguyên Giáp cho biết: ‘’Lực lượng tư vệ được sự lãnh đạo chặt chẽ của
Đảng… nhưng hoàn toàn tự cấp và tự túc về sinh hoạt và trang bị, vũ khí…Đó là một
công cụ chuyên chính đắc lực của chính quyền cách mạng để bảo vệ các cơ quan
Đảng, Nhà Nước, Mặt Trận…giữ gìn trật tự, trị an, trấn áp bọn phản động…Đi đôi
với công tác bảo vệ chính quyền cách mạng, trấn áp bọn phản động, các chiến sĩ tự
vệ chiến đấu còn làm công tác tuyên truyền chủ trương, chính sách của Mặt Trận,
Nhà Nước…’’
Khi các lực lượng tự vệ được biến thành Vệ Quốc Đoàn, ‘’tất cả các đơn vị Vệ
Quốc Đoàn đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, thông qua tổ chức của Đảng trong
quân đội, thông qua các chi bộ và những cán bộ là đảng viên giữ những vai trò quan
trọng’’. (22)
Nhiệm vụ quan trọng của các lực lượng vũ trang đầu tiên hình thành do mọi
tầng lớp nhân dân hưởng ứng chiêu bài giành độc lập đã được Võ nguyên Giáp nêu
rõ là trấn áp phản động tức là trấn áp những người yêu nước không chấp nhận cộng
sản đang nấp dưới danh nghĩa Việt Minh.
Rõ ràng hơn là lời xác nhận của Hồ chí Minh trong báo cáo chính trị trước đại
hội đảng về thành tích của Mặt Trận Việt Minh: ‘’Từ năm 1941,…một số có tinh thần
dân tộc đã tham gia những hoạt động tiến bộ của các tổ chức như Tổng Hội Sinh
Viên, Hướng Đạo, Phong Trào Truyền Bá Quốc Ngữ hoặc các nhóm tiến bộ tập hợp
quanh một số tờ báo tiến bộ như Tri Tân, Thanh Nghị, Thanh Niên…tổ chức một số
hình thức sinh hoạt tập thể để qua đó giác ngộ lòng yêu nước…Tuy nhiên, những
nhóm này vẫn chưa hình thành tổ chức và chưa tìm thấy hướng đi chính trị của
mình. Thực hiện chủ trương mở rộng khối đoàn kết dân tộc của mình, Đảng cộng
279 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
sản Đông Dương đã giúp những anh em trí thức tiến bộ thành lập Đảng Dân Chủ
Việt Nam làm mau tan rã hàng ngũ bọn Đại Việt…’’ (23)
Mấy tiếng ‘’bọn Đại Việt’’ trong bản báo cáo của Hồ chí Minh ám chỉ các Đảng
Đại Việt Duy Dân, Đại Việt Dân Chính, Đại Việt Quốc Xã, Đại Việt Quốc Dân
Đảng…trong tổ chức Đại Việt Quốc Gia Liên Minh phản ảnh rõ thái độ thù địch đối
với những người khác chính kiến và Mặt Trận Việt Minh luôn chú trọng đánh phá các
tổ chức quốc gia để phát triển Đảng cộng sản hơn là chung sức xây dựng một lực
lượng dân tộc.
Với Mặt Trận Việt Minh, Hồ chí Minh và đảng cộng sản đã cướp được chính
quyền vào tháng 8.1945 và động viên toàn dân hưởng ứng cuộc kháng chiến chống
Pháp bùng nổ sau đó. Những thành quả này được nhiều người coi như thắng lợi
của nhân dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giành độc lập.
Trên thực tế, nền độc lập Việt Nam vẫn tiếp tục là chiếc bánh vẽ do tính chất
lệ thuộc của đảng cộng sản Đông Dương đối với Đệ Tam Quốc Tế. Thành công lớn
nhất mà Mặt Trận Việt Minh mang lại chỉ là sự phát triển và củng cố quyền lực của
đảng cộng sản bằng cái giá mà dân tộc phải trả là xương máu của hàng triệu con
dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự tan rã của nhiều hội đoàn yêu nước
do bị vu cáo, trấn áp, ám toán với kết quả hàng trăm ngàn chiến sĩ quốc gia bị sát hại
man rợ đồng thời dân tộc bị phân rẽ thành những tập đoàn thù địch đẩy lui đất nước
vào tình trạng thoái hóa, nghèo đói…
Bernard Fall so sánh việc Hồ chí Minh nhân danh Mặt Trận Việt Minh lập ra
Ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng để cướp chính quyền tại Việt Nam với việc Ủy Ban
Quốc Gia Ba Lan do Mạc Tư Khoa điều khiển để cướp chính quyền tại Ba Lan năm
1944 và nhận định là có sự trùng hợp kỳ lạ tới mức gần như giống nhau về mọi chi
tiết. (24)
Thực ra, sự trùng hợp này hoàn toàn không kỳ lạ vì cả Ba Lan lẫn Việt Nam
đều chỉ là những chi bộ của Đệ Tam Quốc Tế và tình hình diễn tiến ở hai quốc gia
lúc đó không hề khác biệt nếu được đặt vào bối cảnh chung của cuộc chiến ý thức
hệ.
Sứ mạng lịch sử của Mặt Trận Việt Minh là đưa Hồ chí Minh và đảng cộng
sản tới vị thế nắm độc quyền lãnh đạo tại Việt Nam và tạo được một lực lượng trấn
áp để thiết lập chế độ cai trị theo đúng kiểu mẫu Liên Xô, bất chấp nguyện vọng của
mọi tầng lớp dân chúng Việt Nam.
Nhìn chung, từ nguyên tắc chiến lược cộng sản tới hành động thực tiễn của
Hồ chí Minh và cộng sản Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh không tượng trưng cho một ý
nghĩa nào khác tính chất công cụ của Đệ Tam Quốc Tế trong việc mở rộng ảnh
hưởng tại Đông Dương. Qua Mặt Trận Việt Minh, Hồ chí Minh là một cán bộ cộng
sản xuất sắc nhưng không bao giờ có thể biến hình thành một người yêu nước.
Mặt Trận Việt Minh chính là cái bẫy khổng lồ tinh xảo do cộng sản dựng lên
để qua đó cả dân tộc rơi vào vòng chi phối khai thác của cộng sản cho mục tiêu
tranh thủ quyền chuyên chính vô sản. Đây cũng là trường hợp ra đời sau này của
nhiều mặt trận khác trong số có Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.
CHÚ THÍCH
01.- Theo Jean Lacouture thì nó ra đời trong một túp lều lá, với một cái bàn
duy nhất. Hiện diện chỉ có mấy người thân tín của ông Hồ từ khi còn ở Hoa Nam như
Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp, Phùng chí Kiên, Vũ Anh và Hoàng văn Thụ,
Trường Chinh.
02.- Danh nhân Hồ Chí Minh, Trần đình Huỳnh, Nxb Văn Học, Hà Nội 2001,
trang 68-69
280 HỒ CHÍ MIN H N HẬN ĐNN H TỔN G HỢP
03.- Việt Nam những sự kiện lịch sử, Dương trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà
Nội 2001, trang 330
04.- Douglas Pike, Xin xem chương 22
05-06-07.- Indochine S.O.S, Andrée Viollis, Gallimard, Paris 1955, trang112 &
148
08.- Vietnam, la tragédie Indochinoise, Louis Roubaud, Paris 1931, trang
126
09.- Hoa cành Nam, Nhượng Tống, Khai Trí, Sài Gòn 1973, trang180
10.- Trente ans de Tonkin, L. Bonnafant, Paris 1924, trang 214
11.- Lịch trình diễn tiến phong trào quốc gia Việt Nam, Nghiêm Xuân
Hồng, Ngày Về, Cali. 1973 trang 43-44
12-14.- Việt nam những sự kiện lịch sử, trang 196 & 330-331. Hội Nhi Đồng
Cứu Vong được đổi thành Hội Nhi Đồng Cứu Quốc vào tháng 8.1945, Hội Thiếu Nhi
Tháng Tám vào tháng 3.1951, Đội Thiếu Niên Tiền Phong vào tháng 1.1956, phát
triển thêm Đội Nhi Đồng Tháng Tám vào tháng 3.1960 và từ 1970 tới nay biến thành
Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi Đồng Hồ Chí Minh.
13-19-20-21-22.- Những năm tháng không thể nào quên, Võ nguyên Giáp,
Nxb Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội 2001, trang 137, 9, 13, 77-78 & 80.
15-17.- Giọt nước trong biển cả, Hoàng Văn Hoan. Xin xem chương 35.
16.- Danh nhân Hồ Chí Minh, Trần đình Huỳnh, Nxb Văn Học, Hà Nội 2001,
trang 65-67
18.- Theo Trần đình Huỳnh trong Danh Nhân Hồ Chí Minh thì ngày 9.8.1944,
Hồ chí Minh được Tướng Trương Phát Khuê trả tự do và cho phép về nước cùng
với 18 thanh niên do Hồ chí Minh chọn lựa. Đối chiếu con số này với con số do Trần
Trọng Kim ghi thì có thể các tài liệu của đảng đã cố tình bỏ quên Đỗ Thị Lạc và 3
người bị giết.
23.- Việt nam những sự kiện lịch sử, Dương trung Quốc, trang377
24.- Theo Bernard Fall, trong số 14 ủy vủy viên của mặt trận, 11 người đã là đảng
viên đảng cộng sản Đông Dương.

CHƯƠNG XLVIII





No comments: