13
478.Kiết hung hung kiết xóm làng chẳng an.(1957; 20)
Triều dĩ trị dĩ loạn hiệp tan.(1)
480. Hà đắc (2) phú quí dọc ngang sao đời.
Chim có cánh bay khắp trong Trời
Người đời sao khỏi đổi dời thạnh suy.
Phú tứ hải vương đế khả vi.(3)
Bực người sánh đặng lòng khi Phật Trời.
485. Mẹ dạy con tích thiện ở đời. (1957; 21)
Lâm cơ nguy biến Phật Trời độ cho.
Chốn Tây-phương ít kẻ âu lo.
Sa đường địa ngục nằm co (4) kêu Trời.
Sách minh tâm Phật dạy hết lời.
490.Phật sai ác thú trên trời xuống răn.
Họa phước này dấp dới lăng xăng.
Chờ ngày trả quả như trăng khuyết đầy.
Nghĩ Bắc địa lòng tưởng ơn Thầy.
Phật còn mắc nạn người rày khỏi tai.
495.Tội ai làm nấy chịu hỡi ai.
Phật Trời soi xét chiều mai dân nhờ.
Trước ai cho lập tự nhà thờ.
Bắt cha chém đạo bây giờ tội đây.
Giác cuộc đời cho tỏ vạy (5) ngay.
500.Hai đường họa phước tên bay cửa thiền.
Tội về ai nấy chịu chớ phiền.
Dương gian âm phủ qui tiền thượng thiên.
Tam giải hội xử việc bất miêng (minh).
Thay hồn đổi xác cõi tiên đem về.
505.Một cõi âm sau xử phân lìa.
Dương gian thượng cảnh đem về nhứt đoan.
Cộng tồn thập bát quốc hội an.
Xử tiêu ma quỉ dị đoan tiêu điều.
Chúa xa Tề ruột thắc chín chiều.
510. Tôi còn xa Sở càng nhiều đắng cay.
Phụ bất từ tử hiếu khó thay.
Phụ từ tử hiếu thiệt nay trọn bề.
Một lời nói kết nghĩa nguyền thề.
Báo ân báo oán trọn bề quân thân.
515. Cha lập nghĩa con phải lập nhân.
Phật trời soi xét cầm cân công bình.
Nào biết sao việc thế ép tình.
Buồn thì tưởng Phật vui mình quỉ ma.
Phật trần thế Phật ở đâu xa. (1957; 22)
14
520. Tây phương vọng Phật tại gia chứng rày.
Lòng niệm Phật niệm tháng niệm ngày.
Bình thời không biết Phật rày ở đâu.
Có biển trước lặng lẽ biển sau.
Ngàn trùng nước yếu chảy âu một bề.
525. Nghĩ thân tôi như thể thằng hề.
Vui đâu chuốc đó chưa bề nào an.
Nhiều kẻ dọc cũng nhiều người (kẻ) ngang.
Dọc ngang ngang dọc tan hoang cửa nhà.
Mặc ý ai khi trẻ dối già.
530.Đường chim dấu ngựa chắc mà ở đâu.
Vàng bao đành sánh lộn với thau.
Đúc chì sắc (6 ) bạc giả thau thời nhiều.
Của bao nhiêu (7) sung sướng Ngư-Tiều.
Quán quan (8) tạm đỡ chín chiều công danh.
535.Dò kẻ dại cho biết người lanh.
Thơm tho chẳng dụng hôi tanh sắc tài.
Đua chen chi trâm giắc lược cài.
Tốt xinh chi đó (9) được ngoài mất trong.
Người tu núi kẻ lại tu sông.
540.Tu non tu thị xét trong đạo mầu.
Đạo nào chánh thời đạo làm đầu.
Đạo nào bất chánh qua cầu Diêm-vương.
Sáu ngạ quỉ tuần hội nhà Thương.
Ba đường tội phước âm dương trung trần.
545.Thánh minh Thánh Thần tự minh Thần.
Xem trong Nam-Việt họa gần phước xa (10)
Phật hữu Phật sao lại nói ma.
Ma ma cho đó mới ra nỗi nầy.(10)
Trâu Nhựt-Bổn Nam-Việt bắt cày.
550.Gay go chó sủa ban ngày sủa dai.
Thấy người ta, ta lại tưởng ai.
Ngậm ngùi sự thế phân hai Phật Trời.
Bảy việc hại ba việc lợi đời. (tr.1957, 23)
It dư nhiều thiếu kêu trời chi dân.
555. Thuận ở đời Phật lại sanh nhân.
Hà nhân sanh Phật muôn dân chớ phiền.
Tố hà nhơn vong hậu phế tiền.
Vui chi một cuộc bạc tiền khoe khoang
Chốn Nam-triều quân thánh an bang
560.Nực cười thế sự con quan không nhà
Xiết kể chi chúa trẻ tôi già
15
Lão lai tài tận ông bà xin thương
Phụ tích tài để khổ oan ương
Tử lai phá thế nhà Thương tan tành
565. Khá thôi thôi bớt dữ làm lành
Rồi đây tới đó Phật hành khổ thay
Chim không lồng mặc sức chim bay
Hẹp hòi nước cạn không cây hiệp bầy
Giáp-Tý niên Giáp-Tý định ngày
570.Trời xui ách khổ khổ rày dân ôi!
Phấn nỡ nào phấn lộn với vôi
Sắc chì ra bạc (11) Ngụy-khôi (11b) đời nầy
Đường dương gian (12) dễ dấu khó bày
Căm hờn Tàu tặc hại rày Nam bang
575. Tiểu nhơn thắng quân tử thối nan
Quân tử đức thắng tiểu nhơn an hòa
Chí tham vui thánh đạo Di-đà
Khuyên trong bá tánh trẻ già niệm kinh
Kiểng (Cảnh) nào vui Trời Phật tinh minh
580. Tiên thần lạc chí quảng thinh tổ đường.
Chớ tham chí tánh bạo tâm cường
Ngủ mê một giấc quên đường Phật Tiên
Vui say chi việc thế chẳng yên
Ham vui một thuở sầu riêng nhiều ngày
585. Khổ thấy khổ tránh khổ mới tài.
Càng cao danh vọng càng dài gian nan.
Thấy việc khổ gở khổ mới an (tr. 1957; 24)
Bực nào bằng bực giàu sang Phật Trời
Đất rực rỡ trải ngót ( 13) sáng ngời
590. Đền đài cổ tự lập đời hiển vang
Đá (14) sắt mài vàng ngọc vi nan
Quyền cao lộc cả giàu sang để dành
Chẳng tích đạo giữ việc làm lành
Phật không dạy dữ tranh hành (15) dân ôi
595.Bạc bấy bạc thôi thế thế thôi
Nghĩ đời tích ác tích vôi thời nhiều
Thấy tích thiện ruột thắt chín chiều
Thương người trung hiếu Ngư tiều hóa long
Đau lòng súng, súng nổ pháo bông
600. Khác nào buổi chợ khó trông nhóm hoài
Động lòng gỗ, gỗ nọ than dài
Trường xuân lập lại nhóm hoài ngày đêm
Phật không êm nhơn thế lòng êm
16
Phật êm nhơn thế ngày đêm thảm sầu
605. Chẳng nhớ xưa Lưu-Bị đi cầu
Quân sư Gia-Cát lập cầu Kinh-Châu (16)
Thành Giả tân (16) nay ở chẳng lâu
Qua cầu Đông độ Kinh-Châu đem về
Tân giả thành sau hiệp trước lìa
610. Mưu vương trí chúa đem về Long-Châu
Ruột ai từng cắt ruột không đau
Ngồi buồn nhớ việc trồng dâu để tằm
Người niệm Phật ngày sau ông tằm
Nhớ ơn tứ đại bữa rằm ba mươi
615. Cúng ngũ quả vật thực tốt tươi
Phật trời không dám dễ ngươi việc nào
Đời ma quỉ ăn nói hỗn hào
Phật hiền kêu bậu Phật nào nói ai (16b)
Lòng tưởng Phật có Phật Như-lai
620. Đừng đừng khi phật chiều mai bỏ mình.
Thác không chôn kẻ dữ phơi hình ( tr.1957. 25)
Kên kên quà quạ thây sình mới ăn
Ép cái lưỡi phải cắn cái răng
Ép gan ôm dạ khó khăn giữ mình
625. Thương cho kẻ chơi quán ngủ đình
Thân ai nấy độ biết mình phải không
Chớ nói ai gây oán mắc công
Ngặt tình Phật dạy ra công chỉ dùm
Đạo vợ chồng con cháu buộc chùm
630. Ngủ mê thức dậy đứt đùm không hay
Rã rời đâu không biết nỗi nầy
Ai thời cũng giỏi cũng hay xưng thầy
Phật dạy tôi trước tỏ sau bày
Bút thần ký tự để rày hậu lai
635. Mặc thế tình ai dễ ép ai
Đường huê khôn thấu ngàn mai khó tường
Ghét thời cho ăn mật ăn đường
Thương cho roi vọt mới (17) tường việc khôn.
Qua năm Mẹo tôi chết không chôn
640. Ở đời ít dại nhiều khôn não nề
Nói lắt lẽo nhiều việc vụng về
Sao bằng thanh cảnh theo bề con sang
Không dám bì kẻ phú người quan
Dân ngu thời phải lo toan phận nghèo
645. Muốn lên non xuống dốc lên đèo
17
Mắt nhìn thế sự như bèo hiệp tan
Cảnh nào vui thủy bộ cao sang
Ngàn cây muôn cụm dọc ngang muôn nhà
Tới chốn này gần nẻo Phổ-Đà
650. Ma-ha am tự cảnh bà Di De (?)
Kẻ đi bộ người lại đi ghe
Bến đò biển trước súng nghe ầm ầm
Cơn thảnh thơi no đủ ăn nằm
Thung dung trên thế ngọc cầm nở buông.
655. Lụy đầm đầm lụy nhỏ uông uông (tr. 1957. 26)
Thảm ưu chí thảm sầu tuôn đoạn sầu
Dạ chí làm sông rộng bắc cầu
Nào hay lâm cảnh (18) mất đầu văng đuôi
Việc thấy nghịch đỡ đặng thời xuôi
660. Cầu Trời vái Phật đem đuôi hiệp đầu
Ai đày con ô thước đội (19) cầu
Qua Phiên cứu chúa công hầu ơn đâu
Ôm dạ thầm ép thửa lòng đau
Càn khôn đại đạo ân sâu độ rày
665. Con có tội cha mẹ bắt đày
Dầu sanh dầu tử ăn mày phải cam
Hội Tân trào nhiều chức quan tham
Bạc ai nấy trả đừng ham dục lời
Đồng bạc hại nhơn nghĩa rã rời
670. Quanh co uốn khúc nhiều lời đắng cay
Sửa kẻ vạy đem lại người ngay
Kẻ ngay làm vạy khổ thay bạc đời
Chê cảnh Phật dụng bạc dạy lời
Đắng mà làm ngọt trải đời lòng riêng
675. Chữ tiền tải phấn thổ (19) đảo điên
Bất như tích đức Mục-Liên giáo lời
Chí cả trai mới đặng trên đời
Phép khuôn lễ nghĩa giữ lời chánh minh
Việc tu hành ai cấm tụng kinh
680.Tụng kinh lòng bất tinh minh tội rày
Đánh mặt trống động chuông hội này
Giác lui giác tới ngủ ngày mê tâm
Giác nỗi thế nhiều kẻ oán thâm
Nỗi sầu nỗi thảm binh âm dấy loàn
685.Sau ơn tổng trước cám ơn làng
Quan quân như hội nhứt tràng nhóm đông
Quan phế đức kẻ dữ phế công
18
Bạc trăm chẳng Phật người không hưởng phần
Ơn báo ơn dĩ đức tấn tần (1957, 27)
690. Tử giai ký tử gia bần tri ân
Tiên tề gia mới gọi tri thân
Hậu tề kỳ quốc chăn dân biên thùy
Tâm bất tri diện phục bất tùy
Du thân thế phu biên thùy đều chê
695. Tử trung cung bất tử thọ huê
Đường dài thăm thẳm ngựa dê luông tuồng
Xem Đông Tây ít kẻ lòng buồn
Nhìn tường Nam Bắc luông tuồng tâm nhơn
Trong hai ngàn xứ biến Thất-Sơn
700. Biến thiên biến địa biến nhơn thay đời
Biến hết thảo mộc lại biến lời
Rã rời thân thể cho đời khinh khi
Phật với Trời chẳng dám nói chi
Dễ ăn dễ nói dễ khi khổ người
705. Người hại người hại tới chín mười
Làm sao tiêu Phật tiêu Trời người ôi!
Gặp cơn khổ niệm Phật quên thôi
Tới cơn có của lấy vôi bôi mình
Trong mười năm dựng nghiệp Minh đình
710. Sông ( Biển ) hồ lai láng mặc tình cá đua
Khúc cay đắng , khúc chát, khúc chua
Kẻ lo bán Phật người mua tượng hình
Thương phận Phật nhiều kẻ lộng tình
Nhà thờ cha dạy thình lình không hay
715. Không nhà thờ cha dạy từ đây
Tranh tài đấu phép ai hay thì nhờ
Khá bủa câu thả lưới đợi chờ
Phật cho tài phép một giờ thoát mê
Cõi dương gian ba kiểng ba quê
720.Ba ngôi ba chúa châu chê nhứt điều
Thương cho người sống ít thác nhiều
Linh đơn Phật rưới mai chiều hóa tiên.
Thầy dạy đời đa bịnh bất khuyên (1957; 28)
Nói ra nhiều kẻ cười riêng chê thầm
725. Nhơn bất trung phi nghĩa mưu thầm
Ma thời lầm Phật Phật nào lầm ma
Một gánh thơm bán ế hôm qua
Nay đem bán nữa Phật ra độ đời (21)
Vật bán ế ngon ngọt nhiều lời
19
730. Bán nài bán tấn bán thời nhục vinh
Đáy biển đông ba hòn quảng thinh (22).
Mương Khai (23) án cửa tinh minh một hòn
Tiền Gia-định cải hậu Sài gòn
Đỉa đeo chơn hạt hao mòn muôn ( nhân) dân
735. Chẳng dạy người phế ác vi ân
Gập ghình trào quốc muôn (nhân ) dân bất hòa
Bất luật điều trẻ lộn với già
Ở ăn khác thể cửa nhà khoe khoang
Cửa Cần-thơ Phật khiến xuất sơn
740. Mỹ-Tho phát hiện ký an một hòn
Một lời thề biển cạn non mòn
Sắt thau mòn mỏi dạ còn phấn son
Đúc chuông đồng thích chí thon von
Núi kia muôn cụm lòng son một lời
745. Truyện Tây minh đèn đỏ sáng ngời
Đồng Nai đăng hỏa chữ ( giữ) lời Tiên-sư
Chớ bán cú đem dạ cầu trư
Muôn lời đổ bể tâm tư bất tùng
Đa phi ngôn chỉ xử anh hùng
750. Xưng vi tự chủ bất tùng thượng sư
Kiển huê tiếng đau dạ ưu tư
Non bồng chớn chở thượng sư cầm quyền
Căm hờn thay phản chúa vong tiền
Tán gia bại sản chùa chiền phiêu lưu
755. Tội khi quân hà hữu vô ưu
Sát tha lục tỉnh oán vu Nam-kỳ
Tác công nghiệp cho kẻ biên thùy (1957, 29)
Quang lầm tích hậu Bửu-kỳ Hương-sơn
Mạc đạo xà vô giác phi ơn
760. Thành ( Thiềng ) lòng chí để Bửu-sơn mưu Trời
Lời dặn dò vi thiện ở đời
Mãng lo thiếu kẻ đổi dời thay vương
Mạt nhà Trụ xử mất nhà Thương (24)
Qui lai Tâybá tứ phương phục tùng
765. Túc văn võ hội chiếm anh hùng
Tam du Hưng-thới tương phù trí tri
Vận bất tề chịu chữ ngu si
Phòng cơ tích đạo trí tri kiệt hào
Ba bực khôn để chỗ nào
770.Dại thời ba bực anh hào ba căn
Khi tối khi lại có trăng
20
Trường sanh nhựt nguyệt hiệp căn đêm ngày
Phần nhớ tớ phần lại nhớ thầy
Tớ an phận tớ nỗi thầy phương nao
775. Đường sanh tử đáy biển cù-lao
Sống đi hành khất thác bao nỗi thầy
Chốn vu long xử tử đem đày
Tớ xa đài các sao Thầy ly môn
Dại một đứa dại hết cả phồn (25)
780. Trường đồ mã lực biết khôn sức người
Bạc thời dụng phụ rãy vàng mười
Ngửa nghiêng trong dạ tức cười ngoài môi
Nữa không nữa thôi cũng không thôi
Giữa vời sóng bổ chúa tôi nhiền nhừ
785. Quỉ xử quỉ Phật chẳng thèm trừ
Tà thần cảm chánh Phật trừ ma ra
Một kiểng Tiên niệm Phật ngân nga
Sao không tưởng Phật tưởng ma vào (nhập) tình
Lòng niệm Phật bỏ dữ trong mình
790.Bỏ ngang bỏ dọc ép tình công phu.
Gắng thường hành niệm Phật rằng tu (1957, 30)
Chí tâm mài sắt rừng nhu lờ mờ
Tu nhứt kiếp ngộ Phật nhứt giờ
Tu trì giữ đạo mờ mờ đi đêm
795. Núi biển ít sau lại nổi thêm
Đồng Nai, đất Bắc (26) không êm núi nào
Nghĩ tới đâu ruột thắt tâm (gan) bào
Mắt nhìn bá tánh hỗn hào chỉn ghê
Khổ chốn kiểng sao khổ chốn quê
800.Thoát trong trần thế chỉn ghê Diêm-đình
Tiêu tứ điện bốn nước lộng tình
Qui lai nhứt thống nước mình chăn dân
Tiên xử kỷ hậu xử bỉ thần
Ở trần bất chánh bất cân tội hoài
805. Lo việc hậu mới đặng lâu dài
Ngày sau nhiều kẻ phép tài trí tri
Đứng anh hùng vàng đá nài chi
Ngay vua lòng sắt trí tri lạc lòng
Đường tử sanh như đá chập chồng
810. Cheo leo duyên thiện nặng lòng âu lo
Ăn cơm trời bữa đói bữa no
Khó lo phận khó giàu lo phận giàu
Người không phải trái bí trái bầu
21
Công danh chi nữa nỗi sầu tới đây
815. Nắng cạn nước thấy cá mới hay
Hào sâu khó lấp nổi thây chánh tà
Lời hằng nói đừng có xưng già
Thố long xuất thị nước nhà an khương
Tiền qui Châu hậu lập nhà Thương
820. Trụ vương xuất thế xử ương nhơn trần
Tố vi vương nan thị vi thần
Bơ vơ tôi chúa cõi trần chắt chiu (27)
Đấng quân tử xử người quần yêu (28)
Tiểu nhơn tranh thực phi diêu chẳng còn.
825. Dao mài đá năng liếc năng mòn. (tr.1957, 31)
Nhiều cha nhiều chú con còn góa lâu (28b)
Trước kén rể sau lại kén dâu
Hội đồng thẩm án đâu đâu hội tề
Thượng minh lý hạ thuận một bề
830. Thuận dâu thuận rể đặng về Tây phương
Đổi nhơn vật hết oan ương
Qui tề lập hậu khó thương bạo tàn
Thấy chòm ong vỡ ổ bay tràn
Cảm thương lê thứ bạo tàn bất sanh
835. Cảm thương phụ hoàng họa thể liều tranh
Cõi trần lỗi thế bia danh hành hình
Thoát sông mê cho giỏi tu hành (29)
Rửa nhơ (30) kẻ tục sạch mình mới ngoan
Phật tùng nho giả xuất an lòng
840. Văn nho bất Phật không ngoan bất Trời
Hiếu chí thiên ai dạy để lời
Minh tâm khắc cốt Phật Trời ở đâu
Chữ tích thiện phùng thiện mấy câu
Tích ác phùng ác ở đâu để lời
845. Ơn Thánh nhơn chỉ bảo mới đời
Mai chiều thấy đó coi lời dở hay
Kẻ tu mặn người lại tu chay
Có Trời có Phật vạy ngay mới tường
Khá bỏ lòng tánh bạo tâm cường
850. Noi theo Thánh đạo dò đường Phật Tiên
Đố ai trừ cho đặng giặc Phiên
Họa Trời gởi đó Thánh Tiên khử trừ
Đại hùng đại lực đại từ bi
Phép nào qua Phật dễ khi nhiều lời
855. Sức Tề-Thiên Đại-Thánh ( 30b ) khi Trời
22
Phật Bà thâu phép giỏi đời bao nhiêu
Ngày bất tri thiên địa trừ yêu
Tam nhơn xuất Thánh tùng Nghiêu trị đời.
Tam Thánh nhơn xuất hậu tri Trời (tr.1957, 32)
860. Tri nhơn tri vật tri lời bá gia
Tri hậu thế thi việc tà ma
Tri tiền trung-quốc tri ra Phật Trời
Tri người trung kẻ nịnh y lời
Tri trong thế giới tri thời càn khôn
865.Tri vạn quốc chi sĩ mưu tôn
Thương người trung hiếu tri khôn tiền đường
Nay Ha-ngươn soi xét minh tường
Kỳ lai cứu chúa Hớn đường qui châu
Nhìn tam châu sự thế chẳng lâu
870. Hậu tam tiền nhị qui Châu nhứt trào
Nhớ Tiên sanh quỉ cốc tâm bào
Tiền Đường hậu Hớn chỗ nào cũng thương
Người trung thần nhiều nỗi tai ương
Đắng cay chua xót nhà Thương hội nầy
875. Thương cha ghẻ con ghẻ mắc đầy
Chúc ngôn thọ giáo trước bày lời răn
Mình hại mình nói việc có căn
Nước nào hại nấy lăng xăng trở đời
Thương với nhau thương miệng thương lời
880. Tìm tâm giết thác trong Trời biết bao
Hậu nhứt thinh tiêu hết cù lao
Nhị niên chí khổ đề lao chen người
Nổi sầu bi thấy việc tức cười
Họa đâu chưa có thấy người đa mang
885. Kiểng Phật Trời nay chẳng đặng an
Bá gia bá quốc (30c) tiêu tan chẳng còn
Lòng than ôi mệt mỏi hao mòn
Dấu y như dấu dạ còn hồ nghi
Nhơn hữu thịnh trào quốc dỉ suy
990. Nước nào cũng vậy lượng ( huống ?) chi nước mình
Quốc hữu suy vọng cáo thiên đình
Thời thin ( thần) vị đáo hữu tình châu minh.
Lưới Thiên cơ bủa khắp quảng thinh (31) (tr.1957, 33)
Đạo lành học đặng tinh minh dễ gì
995.Hơi Kỳ-Hương thơm nức biên thùy
Ưu quân ái quốc dỉ tùy Phật (Thánh) Tiên
Lỗi Vương đạo Thánh đạo sao yên
23
Ngôi hoàng phế quốc sầu riêng một mình
Vi nhơn nan qúy thị nhơn tình
1000. Diện tuy đối diện tâm tình cách sơn
Phật ghét Phật niệm Phật phi ơn
Phật ma ma Phật sát nhơn lao tù
Trời ghét Trời mắt sáng mà mù
Đạo Trời sao nói Phật Trời phù vân
1005. Xét chỗ nào lỗi Thánh lỗi ân
Thiên tru địa lục du thân bất tồn
Kiểng Hạ-ngươn sóng bổ đầu cồn
Giữ thân cũng khó giữ hồn cũng gay
Chua với chát mặn ngọt đắng cay
1010.Cọp tu thấy cọp, cọp bay thấy rồng
Lỗi quân ân lỗi đạo vợ chồng
Lỗi nhơn lỗi vật lỗi lòng thiên san
Lỗi phụ tử huynh đệ bất an
Chuối non dú ép sau mang thúi buồng
1015. Mối chỉ tơ rối rắm trong guồng
Mực tàu nẻ thẳng lòng buồn sầu riêng
Lỡ dĩa mực cũng lỡ bút nghiên
Khổ thời thấy khổ sầu riêng trong lòng
Da trái bưởi ruột lại trái bòng
1020. Người dưng khác họ một lòng bà con
Sàng nhiều dần nhiều nỗi thon von
Lọc lựa gạo cội như son đỏ điều
Ít ai lo Canh-mục Ngư-Tiều
Phật Trời dạy bảo cũng nhiều nhiều hung
1025. Giác Thánh-Đế chí gái bất trung
Mục-Liên (32) thiểu lộc Tiên cung lãnh ( giảm) phần.
Đọa xuống trần thủ chánh xử trần (tr.1957, 34)
Hội nầy Thầy dạy các (khác) phần tu riêng
Biểt khát nước đặng tắm nước Tiên
1030.Không trau (33) việc Thánh nước đen đục ngừ
Lóng tai nghe mỏn chốn thiền từ
Ngẩn ngơ cổ vãng đục ngừ kim lai
Đường thời trống mắt mỏ chông gai
Rẻ rề mắc đắng chiều mai coi đời
1035.Người cãi Phật kẻ lại cãi Trời
Gió day mặc gió mưa thời mặc mưa
Thương Phật Trời nhiều kẻ chẳng ưa
Nhà hoang vô chủ khó thưa hưởng phần
Xét nỗi xa xét lại nỗi gần
24
1040. Từ năm Tân-Hớn định phần chưa xuôi
Việc Thầy vui đệ tử mới vui
Thầy buồn đệ tử phải xuôi lòng buồn
Có vui chi đờn địch thơ tuồng
Tôi Nam chúa Bắc như guồng rối tơ
1045.Nghĩ mà coi tôi chúa bơ vơ
Chừng nào gở được mối tơ hết sầu
Chốn Tam-Châu dạ giốc bắc cầu
Vì ai kết oán gây sầu từ đây
Chim còn sầu nhớ kiểng nhớ cây
1050. Làm người bao nỡ vỗ tay reo cười
Việc oan gia nghỉ giặc làm người
Thù thâm tích oán hại người lao xao
Nuôi con khỉ khỉ múa làm sao
Rằng người trí huệ thấp cao ở đời
1055. Việc nên hư hệ ấy ở trời
Chí tâm báo bổ để lời tinh minh
Đức chúa Trời rộng lượng thinh thinh
Phật ngài đại độ mình minh cõi trần
Trước phần thơ khanh sĩ nhà Tần (34)
1060. Tiền tồn hậu thất hiệp phần Hớn gia.
Hậu Minh-hoàng đày Phật phế cha (1957, 35)
Nhà thờ phá hết cha (35) ra yếm tài
Hậu Bắc địa tứ trấn cõi ngoài
Nam-bang đại quốc lâu dài trường sanh
1065. Tội Đại-Thanh bán tự bán tranh
Họa hình bán Phật bất sanh chín phần
Đại phú-quốc phế tự hậu bần
Chữ mà chùi đít cửu phần bất sanh
Việc Nam-bang nhiều kẻ khôn lanh
1070. Thất phần dư tứ thiểu sanh tam ( ba) phần
Thấy việc xa chẳng biết việc gần
Việc Nam còn mấy việc Tần như nhau
Đất Bắc-kỳ sau lại ruộng sâu
Mười phần thác chín khó âu cho người
1075. Cận việc thế thấy khổ ( ngó thấy) chớ cười
Tài hay sức mạnh xin người thi ân
Ai có tài bổ đức chăn dân
Phước Trời soi dấu muôn dân đặng nhờ
Chữ công danh sớm đợi tối chờ
1080. Nước xao vì gió sao lờ vì mây
Trời khiến xui ách nước từ đây.
_____
CHÚ
(1). Triều đình thì có lúc trị, lúc loạn. Ai mà được phú quý...
(2). Bản 1964: Huống người
(3). Giàu bốn bể có thể làm vua.
(4).Bản 1957 :cho
(5). vay: không ngay thẳng, gian tà.
(6).Bản 1964: thiếc
(7).Bản 1964: lâu
(8).Bản 1964: thông
(9).Bản 1964:mấy
(10).Hai chữ "phước xa" bản 1957 xếp lộn xuống câu 548. Như vậy, đoạn này bản 1964 đúng.
(11).Bản 1964: Thiếc chì ra ngọc
(11b). Ngụy Khôi: Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt chiến thành Gia Định phản triều đình.
(12).Bản 1964: gian nan
(13).Bản 1964: chang chang trải lót; bản 1957: đất rực rỡ chảy ngót sáng ngời.
(14).Bản 1964:Khối
(15).Bản 1964: dành
(16). Nói tich Lưu Ba tam cố thảo lư, mời Khổng Minh ra giúp. Lưu Bị ở thành Tân Dã, Kinh Châu là vùng đất chiến tranh giữa Ngụy Thục Ngô.
(16b). Tục ngữ có câu:" Gần chùa gọi Bụt bằng anh"
(17).Bản 1964 : sau
(18).Bản 1964 :ném gánh
(19).Bản 1964:bắc
(20).Bản 1964 ghi: làm điên. Cả hai bản ghi "phấn khổ". Thiết tưởng "tiền tài phấn thổ" mới đúng theo thành ngữ "Tiền tài như phấn thổ , nhân nghĩa tự thiên kim ".(Phấn thổ: đất bụi)
(21).Bản 1964:Nay đem bán lại Phật ra xử đời
(22).Bản 1964: Đoái biển trước ba hòn quảng thinh
(23). Ấp Mương Khai ở Trà Vinh. Ấp Mương Khai ở đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.
(24). Tam Đại bên Trung Quốc là Hạ, Thương, Chu. Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương là 2 vua bạo ngược vô đạo, hoang dâm nhất trong lịch sử Trung Quốc. ..Lúc bấy giờ Cơ Xương (1090 TCN – 1050 TCN), người đất U thuộc tỉnh Thiểm Tây, cha là Cơ Quý Lịch một vị tước bá bị vua giết hại, sau Cơ Xương được nối nghiệp bá của cha, tức Tây bá, nổi lên diệt vua Trụ, lập nhà Chu, tức Chu Văn vương.
(26).Bản 1964: Bắc địa
(27).Bản 1964: dạt xiêu.
(28).Bản 1964:Vạn quân tử xử đắc quần yêu.
(28b). Tục ngữ: " Lắm thầy thối ma, lắm cha con khó lấy chồng.
(29).Bản 1964: tình
(30).Bản 1964:Rửa thơ trần tục
(30b). Nói việc Tề THiên Đại thánh khinh trời bị Quan Âm bắt nhốt dưới Ngũ Hành sơn.
(30c). Bá gia bá quốc: trăm nhà, trăm nước: nói hết thảy quốc gia, hết thảy thế giới.
(31).Quảng thinh: khoảng không, không trung
(32).Mục Liên: Mục Kiền Liên: đệ tử của Phât Thích Ca, đã xuống địa ngục cứu mẹ.
(33).Bản 1964: chưa
(34). Phần thơ khanh sĩ nhà Tần: Tần Thủy hoàng đốt sách, chôn học trò.
(35).Bản 1964: Thầy