Monday, July 24, 2017

VÕ PHƯỚC HIẾU-HIẾU ĐỆ * BÊN ĐỤC BÊN TRONG






                                                          Kính dâng vong linh
                             những bậc yêu nước vị quốc vong thân.

                                                                             Hiếu Đệ
                                                                 Võ Phước Hiếu








                        HƯƠNG CAU 2004

                                                               Họa sĩ
                                     Trần Quang Hiếu
            Mỹ thuật Việt Nam phát triển như một dòng sông, nước chảy đôi dòng. Một dòng nặng về mỹ thuật thuần túy. Một dòng hướng về phục vụ nhân sinh như ngành nghệ thuật cung đình và các ngành thủ công mỹ nghệ.
            Triết gia Alain trong cuốn "25 Leçons sur les Beaux Arts" có nói:
            - Muốn đi sâu vào nghệ thuật thì việc đầu tiên phải qua ngành thủ công mỹ nghệ trước đã (L'Artisanat d'abord).
            Có nghĩa là người ta đòi hỏi phải có một sự khéo tay. Từ sự khéo tay dẫn đến một bước cao hơn là sự sáng tạo.
            Trong trào lưu mỹ thuật mới vào thế kỷ XIX, họa sĩ Jean Renoir lại nói:
            - Sự lanh tay hay khéo tay không giúp ích gì cho sáng tạo hết (L'habileté de la main n'est pas servante de la pensée). Sự khéo tay đó chỉ có lợi cho thủ công mỹ nghệ thôi.
            Do đó, xảy ra những sự tranh cãi trong lịch sử mỹ thuật.
            Có người hỏi tại sao những sản phẩm mỹ thuật thời cổ có giá hơn mỹ thuật hôm nay. Nhiều người lại thích sưu tầm đồ cổ.
            Còn mấy ông họa sĩ nói, nếu vẽ như bức tranh cổ thì mình trở thành người sống lộn thế kỷ. Tốt hơn là tác giả hãy trở về kỷ nguyên đó mà sống phức cho rồi.
            Ở nước ta ngày xưa, trong thời đại nông nghiệp, người ta sống an nhàn. Cơm áo không thúc bách con người phải bươn chải như bây giờ.
            Ông thợ chạm đang cẩn xa cừ cái tủ thờ cho ông Bá Hộ chưa xong thì đã có ông Hương Cả trong làng đến thỉnh trang trí tủ thờ hay bộ tràng kỷ trong những ngày tới, khiến ông thợ chạm nọ không lo đói, có thể làm hết mình cho sản phẩm của họ mà không kể đến thời gian. Nếu tính ngày công ở một món đồ cổ dĩ nhiên nó đắt hơn sản phẩm làm bây giờ, chưa kể đến những giá trị khác.
            Chính đời sống bình yên của xã hội nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long sản sinh ra những                     nghệ nhân lỗi lạc. Cũng như cảnh đất dài sông rộng, gạo chợ nước sông sản sinh ra kịch nghệ cải lương và sáu câu vọng cổ hoài lang. Cùng biết bao nhiêu những nhân tài âm nhạc của Miền Nam hôm nay.
            Tỉnh Sa Đéc ngày xưa dưới thời Pháp thuộc, ở quận Cao Lãnh có một gia đình nghệ nhân rất nổi tiếng, đã trải qua rất nhiều đời mà ai cũng biết. Đó là nhà vẽ Thủy Tiên do ông Trần Quang Huy đứng chủ trương.
            Ông ta là người đầu tiên sáng tạo ra kỹ thuật làm chân dung bằng hình lụa đắp nổi. Sau này lên Sài Gòn, nhà Thủy Tiên ở nơi dãy phố lầu trước mặt  Viện Hóa Đạo và nhà hát thành phố ở đường Trần Quốc Toản quận X.
            Chúng tôi được biết đời trước của nhà vẽ Thủy Tiên, thân phụ của ông Trần Quang Huy là ông cụ Trần Quang Hiển, người đầu tiên ở Miền Nam sáng chế ra các loại pháo bông, pháo thăng thiên đủ màu rất tinh xảo, rất nổi tiếng ở trong nước, không thua gì các loại pháo hoa của làng Bình Đà ngoài Bắc. Pháo nổ ra hình, ra chữ để mừng Tết và chúc thọ v.v...
            Tôi có xuống Cao Lãnh được xem tận mắt quá trình sáng tạo của ông cụ. Có thể đánh giá ông cụ là một nghệ nhân số một của ngành thủ công mỹ nghệ. Ngoài ra, ông cụ còn có tài bắt bông hoa bằng sáp cho mấy cặp đèn nến đám cưới, đám lễ.
            Những kiểu mẫu của các mặt hàng thêu như liễn đối, tiền trường cẩn chạm xa cừ trên tủ thờ có thể dùng để trang trí theo thị hiếu khách hàng đòi hỏi như tích Quan Vân Trường, Đào Viên kết nghĩa... Từ            đề tài chính nằm giữa tủ thờ cho đến những đề tài phụ nằm chung quanh, ông cụ có thể sáng tác theo cùng nội dung của mỗi chủ đề. Nếu thân chủ đòi tích Lưu Thần, Nguyễn Triệu lạc Thiên Thai... cho thơ mộng hơn, ông cụ vẫn có thể vẽ trong một lúc rất dễ dàng.
            Tôi cũng có nói với mấy họa sĩ bạn cùng lứa rằng nếu ông cụ Trần Quang Hiển mất rồi, chúng ta muốn kiếm một nghệ nhân kiểu này, mình có đi tìm đến đỏ con mắt cũng không bao giờ có nữa đâu. Sở dĩ được như vậy là vì ông cụ là một nhà nho rất thuần thành.
            Ngày nay, bức tường Nho giáo đã sụp đổ từ khuya. Hơn nữa, vết tích bức tường này đang bị người đời dọn dẹp để trở thành một bộ mặt mới. Người bình dân Việt Nam có câu "cha làm thầy con bán sách" là như thế.
            Ngày tôi còn đi học ở trường vẽ, mỗi ngày tôi đạp xe đi ngang qua tòa soạn nhựt báo Tiếng Chuông ở đường Gia Long. Anh Đinh Văn Khai, chủ nhiệm, ngoắc tôi lại bảo:
            - Em Hiếu Đệ mỗi ngày rán vẽ cho anh cái thai đề ba cột chạy ở trang nhất để cho bạn hàng các chợ bàn đề 36 con. Em phải rán vẽ cho đều, không được bỏ sót ngày nào, làm mất một độc giả là anh sẽ bắt đền đó nha. Anh sẽ trả tiền cho em mỗi bức tranh ba cột như thế là 50 đồng.
            Lúc đó, tiền đồng đang còn lớn. Tô phở đặc biệt ở đường Gia Long giá chỉ mới hai đồng rưỡi.              Nhưng tôi chẳng biết phải vẽ như thế nào. Lấy ý đâu mà vẽ đây?
            Hai anh chủ bút trang trong, trang ngoài gì đó là anh Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Kiên Giang cho ý kiến:
            - Thì chú mầy cứ đọc ba cái tin xe cán chó, tin tòa án, cái nào thấy tức cười thì chú mầy vẽ. Ví dụ như thông cáo của Sở Cảnh Sát Đô Thành về vụ phạt vi cảnh các xe cộ lưu thông, chú mầy vẽ ông cảnh sát biên phạt cô nữ sinh nọ chạy xe không đèn. Cô ta chỉ bộ ngực bảo là: "Bộ thầy cảnh sát đui sao hổng thấy cặp đèn pha của em đang nẩy lửa à?". Hay vụ nhà Bảo sanh Từ Dũ thông cáo mới được trang bị hai bàn đẻ, chú mầy vẽ mấy chục bà bầu đánh lộn nhau lỗ đầu sứt trán để giành leo lên bàn nằm. Như thế đủ cười bể bụng rồi. Còn riêng bạn hàng ngoài chợ, họ xoay ngược cái tranh đó lại để kiếm xem có những nét giống con gì hiện ra trong 36 con đề để kháu nhau đánh bạc là chuyện riêng của họ.
            Vào mỗi tối lối chừng 8 giờ, xe cộ chạy lên chạy xuống trên đường Trần Hưng Đạo, dân thành phố reo ầm báo nhau kết quả của hai trung tâm xổ đề Đại Thế Giới ở Chợ Lớn và Kim Chung ở cầu Ông Lãnh, Sài Gòn. Họ rủ nhau đi mua sắm và ăn nhậu tưng bừng.
            Tôi vẽ tào lao như thế mà lại nổi tiếng khiến bà Bút Trà bên báo Sài Gòn Mới cử người đến nhờ tôi vẽ cho Sài Gòn Mới cái thai đề như thế, trả tiền hậu hỉ hơn. Tôi phải cậy anh họa sĩ Hưng Hội, bậc thầy            của tôi về nghề vẽ đồ họa trên báo lo cho bà ta cái tranh thai để tôi giữ uy tín với anh Khai.
            Đến năm 1995, tôi qua thăm anh Khai ở Montréal, Gia Nã Đại. Năm đó, anh đã 86 tuổi. Anh Khai kể lại lúc báo Tiếng Chuông bắt đầu lên, anh cố ý nuôi mấy anh em ở chiến khu bỏ Cộng sản trở về thành như Hiếu Đệ và đám văn nghệ sĩ như Trụ Vũ, Quách Thoại, Kiêu Minh, Vân Sơn ở Miền Trung bị Phan Văn Giáo đuổi vào Sài Gòn. Anh nói muốn có nhân tài, mình phải nuôi dưỡng những người trẻ tuổi để về sau họ có thể giúp mình chớ không phải tự nhiên mà có sẵn trên trời rớt xuống cho mình đâu.
            Những năm lên học sư phạm, tôi bị các giáo sư trong khoa đánh rớt tơi bời. Anh Đinh Văn Khai phải đi tìm ông khoa trưởng là thầy Đinh Căn Nguyên bênh vực cho thằng em. Anh Khai gọi ông Nguyên là anh Hai trong gia đình.
            Anh Khai phải nghe ông Nguyên than phiền Hiếu Đệ nghệ sĩ quá, chẳng có tác phong sư phạm chút nào. Nó đi làm thầy thì hư học trò hết. Thầy Đinh Căn Nguyên mất ở Pháp hơn bảy năm nay còn anh Khai mới mất hôm tháng 5/1998.
            Năm 1952, ông họa sĩ Trần Quang Huy nhà vẽ Thủy Tiên ở Sa Đéc có đến tòa soạn Tiếng Chuông tìm tôi dẫn ra nhà hàng Thanh Thế để ra mắt cùng tôi một đứa em kết nghĩa. Nó là đứa con trai lớn của ông, rất tài hoa và ái mộ họa sĩ Hiếu Đệ. Đó là Trần Quang Hiếu.
            Hiếu là con nhà giàu, rất đẹp trai, trắng trẻo, có mái tóc quăn như người Pháp. Hiếu có khiếu về nghệ thuật nhưng tôi khuyên ông nên tìm ngành khác cho Hiếu theo học, ví dụ như Khoa học hay Y học chẳng hạn, chứ làm nghệ thuật thì chẳng giàu có được, chỉ khổ tấm thân thôi.
            Sở dĩ tôi theo ngành này là vì tôi ở chiến khu về, đi đánh giày trong phố, bụi đời, không cha không            mẹ nên chui đại vô trường Mỹ Thuật. Chỉ có anh Khai nuôi cho mỗi ngày 50 đồng để đi học. Nhà in Nguyễn Văn Công ở đường Barbier làm giấy tờ đỡ đầu để tôi thi vô trường vẽ.
            Tôi xuống Chợ Lớn giúp anh Trần Văn Ân vẽ phần trang trí và minh họa báo Đời Mới, được anh Hoàng Thu Đông dạy thêm văn học Pháp, anh Nguyễn Đức Quỳnh dạy cho triết lý chính trị và đọc Tư Bản Luận, bản dịch của anh ấy. Tôi đọc bài "Matisse băng hà, ô hô Matisse" của anh Hà Việt Phương, tôi chẳng biết cóc gì, làm anh ấy chửi tôi quá cỡ.
            Những danh họa Matisse, Picasso, Van Gogh... trong ngành mỹ thuật mà tôi chẳng biết khiến các anh phải dạy tôi về lịch sử mỹ thuật và bình luận nghệ thuật, nhất là ngành thẩm mỹ học. Tôi đi học trong trường thì ít, chỉ học lóm ở ngoài đường thì nhiều.
            Ông cha của Hiếu vẫn giữ lập trường. Ông nói gia đình ông ở Sa Đéc đã trải qua ba bốn đời nổi tiếng về các ngành mỹ thuật cha truyền con nối về kỹ thuật các ngành thủ công mỹ nghệ. Bây giờ, ông nhất định khuyên Trần Quang Hiếu phải theo ngành này.
            Thời Phục Hưng ở Âu Châu, Leonard de Vinci, tác giả bức chân dung Monaliza, ông ta vừa là họa sĩ vừa là nhà khoa học. Ông ấy tìm ra cơ thể học và giải phẩu học cho ngành y khoa, tác động cơ học trong ngành vũ khí học, kể cả các môn sinh học và thiên văn địa lý.
            Vinci hồi đó lọ mọ tìm tòi cực khổ. Bây giờ sướng quá, người ta đã chia ra từng môn, từng ngành, mình chỉ chọn một ngành đi thẳng vào có phải tiện hơn không?
            Nhưng lúc này ông ấy vẫn làm hồ sơ cho Hiếu thi vào Trung học Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định và theo Hiếu Đệ làm đứa em bụi đời. Hiếu rất lãng mạn. Nó thuộc hết cả thơ tiền chiến của Nguyễn Bính và Xuân Diệu. Đôi khi còn thuộc rất nhiều bài trong Đường thi. Hiếu nói bà nội nó còn thuộc nhiều hơn nó nữa nhất là mấy bài của Lý Bạch và Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hộ, bà đọc không sai một chữ.
            Có điều rất lợi hại là Hiếu vẽ tranh rất nhanh. Nó hay nhắc lại câu của họa sĩ Van Gogh phê phán họa sĩ Cézanne. Van Gogh chê Cézanne vẽ lâu quá, cả tuần chưa xong bức tranh còn Van Gogh kết thúc trong chừng một tiếng đồng hồ.
            Van Gogh cho rằng đám họa sĩ ấn tượng phái là lũ sư tử con, bắt người cả buổi có khi còn sống nhăn và làm sẩy mất con mồi là khác, chứ gặp ông là sư tử lớn chỉ vồ một cái là con mồi chết ngay tức khắc, còn đâu nữa mà chạy thoát. Làm nghệ thuật là phải bản lĩnh như con sư tử lớn mới được.
            Trong đám bạn cùng lớp, Hiếu rất thân với Hà Cẩm Tâm. Tâm làm thơ tình rất khá. Hai đứa thân tình với nhau. Hiếu làm mai cho Cẩm Tâm cưới chị Kim Tước của nó. Báo hại Tâm có gia đình nên phải bỏ học đi làm thầy giáo để nuôi vợ con, không thể tiếp tục theo học nữa. Đến khi tôi lên Cao Đẳng Mỹ Thuật học gần ra trường mà Hiếu vẫn còn lẹt đẹt học luyện thi ở lớp dự bị.
            Ông Lê Văn Đệ, một họa sĩ lớn nhưng đối với ngành sư phạm, ông cũng rất thiếu sót. Ông Đệ vừa làm Giám Đốc trường vừa phụ trách các lớp căn bản. Ông rất nóng tánh và rất gàn. Đối với đám Đinh Cường, Trịnh Cung, Lê Tài Điển và Mai Chững, anh em này thích vẽ lối mới, vẽ con người thiếu nữ dài lều nghều. Họ bảo là cách điệu và hóa thân nó ra thành giấc mơ khiến ông Lê Văn Đệ nổi nóng, tập hợp mấy sinh viên này lên phòng Giám Đốc nói chuyện. Ông Đệ bảo:
            - Cái ngành nghệ thuật này nó nặng về tình cảm. Trong đám sinh viên trường Mỹ Thuật Sài Gòn, đứa nào đã làm cho tao ghét rồi thì nên đừng cho tao thấy mặt nữa, phải tìm cách cút ngay.
            Báo hại đám này hoảng hốt, ôm hành trang ra Huế thi vào trường Mỹ Thuật ở Cố Đô. Vả lại, trường        Huế mới thành lập. Ở đây đang thiếu sinh viên và thiếu cả giáo sư phụ trách vì nằm ở vùng hỏa tuyến.
            Riêng Trần Quang Hiếu có tật vẽ nhanh như gió. Một hôm ngồi sửa bài cho Hiếu, ông Đệ thỏ thẻ tâm sự. Ông nói:
            - Hiếu à! Thầy nói em nghe. Gia đình em đã trải qua ba đời nổi tiếng với nghề làm thợ mã ở tỉnh Sa Đéc. Em có học gì nữa cũng vẫn làm ông thợ mã. Thầy không thể nào dạy em được nữa. Dạy em cũng chỉ vô ích thôi.
            Cũng tại câu nói này khiến cho ngày hôm sau Hiếu bỏ học ngay, không ghé vào trường nữa. Thật tình mà nói, họa sĩ Lê Văn Đệ đúng ra là một nghệ sĩ đích thực chớ không phải là nhà mô phạm.
            Có hôm, ông Đệ dẫn chúng tôi đến thăm xưởng vẽ của Nguyễn Gia Trí, lúc ông Trí đang làm sơn mài. Ông Đệ ngồi tâm sự với ông Trí. Ông muốn trường Mỹ Thuật sau này tiến lên chế độ học xưởng, tức là sinh viên có thể theo học với các bậc thầy tại xưởng vẽ của họ khi lên các lớp chuyên khoa. Ông muốn ông Nguyễn Gia Trí phụ trách cho trường Khoa Sơn Mài thì tốt biết mấy. Tôi nhìn thấy ông Gia Trí đứng phắt dậy cự nự liền. Ông Trí nói:
            - Thầy trò tụi bây có muốn ở chơi thì dẹp cái chuyện này ngay. Bằng cứ nói chuyện dạy học, ông sẽ đuổi cổ cả đám ra đường hết ngay bây giờ.
            Hồi nhỏ tôi cứ tưởng ông Nguyễn Gia Trí nầy lối. Được mời làm giáo sư dạy ở trường Quốc Gia Mỹ Thuật là vinh dự lắm mà còn cự nự. Đến sau này tôi mới hiểu. Làm một người nghệ sĩ khác với vai trò của một nhà mô phạm hay một ông thầy giáo. Sự khám phá của một nhà sáng tạo không dừng lại, nó vung vút bay cao còn ông giáo sư phải giảng dạy quanh quẩn những bài căn bản để làm khuôn vàng thước ngọc cho các sinh viên của mình.
            Họa sĩ Lê Văn Đệ chịu ngồi giảng dạy cho bọn tôi là ông đã hy sinh rất nhiều. Tại sao ông Đệ không bỏ hết tất cả để làm nghệ sĩ như ông Gia Trí có phải sướng đời hơn không? Có điều là ông Đệ nghĩ đến tương lai và dân tộc ở thế hệ mai sau rất nhiều.
            Hiếu không đến trường nữa. Nó về nằm chỏng cẳng ở nhà tôi nơi xóm Chuồng Ngựa, gần nhà xác của Viện Ung Thư Nguyễn Văn Học, Gia Định. Nó cặp bồ với cô nàng me Tây trong xóm tên Nguyễn Thị Mai. Anh chồng của cô Mai đeo lon đại úy trong quân đội viễn chinh Pháp, đã rút về nước sau Hội nghị Genève. Bây giờ anh ta đang làm giấy tờ bảo lãnh cho cô vợ qua Pháp. Mai khai thêm Trần Quang Hiếu là đứa em do nàng nuôi, với điều kiện qua đến phi trường Charles de Gaulle rồi thì đường ai nấy đi. Nếu cứ theo ôm nàng nữa là anh chồng đại úy kia bắn cho chết tổ. Hiếu chịu tất cả những điều kiện của nàng đưa ra miễn sao qua được tới Pháp.
            Bẵng đi một lúc, tôi lên Bộ Quốc Gia Giáo Dục thấy có văn thư của Hiếu thông qua Tòa Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa ở Pháp, nội dung là anh ta đã thi đổ vào trường Mỹ Thuật Ba Lê với số điểm ưu, nay làm hồ sơ xin Bộ Giáo Dục cấp cho Hiếu học bổng để bắt đầu năm học mới. Xem như mọi việc đã rồi nên Bộ Giáo Dục cũng phải giúp đỡ cho Hiếu. Hiếu có tài làm tranh rất nhanh. Chỉ trong vài năm, Hiếu đã có tranh trưng bày và bán được ít tiền, sướng hơn đi rửa bát cho nhà hàng. Anh ta có vợ đầm và con hai đứa. Vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc.
            Lúc này vào thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa, chánh phủ Ngô Đình Diệm phát triển kinh tế. Việt Nam có mở những cuộc triển lãm tuyên truyền chánh sách mới của nước ta ở các nước Âu Châu. Hiếu được Tòa Đại Sứ Việt Nam ở Pháp chọn làm họa sĩ chánh thức cho các cuộc trưng bày.
            Trong khi Hiếu ở Pháp, tôi có giúp cho em của Hiếu là Trần Quang Hậu. Trong chiến tranh Việt Nam, Hậu bỏ nhà ra đi lang thang quanh Sài Gòn. Nó nghiện ma túy rất nặng. Nó nói là cha nó bán hết ruộng vườn ở Cao Lãnh và dọn lên Sài Gòn theo hai bà vợ bé làm ăn ở trước Viện Hóa Đạo nhưng nó không về nhà. Hậu chết vì bịnh nghiện và bị vất vào nhà xác bằng vô thừa nhận.
            Năm 1958, Hiếu có về Việt Nam trưng bày tranh và những thành quả của Hiếu thu thập trong thời gian đi học Ba Lê. Nó học một lớp với Trần Vạn Lộc nhưng hai đứa không chơi với nhau. Nó bảo Lộc là đoàn viên Thanh niên Cộng sản Pháp (jeune communiste français), hoạt động cho Đệ tam Quốc tế. Lúc này Lộc tỏ vẻ cách biệt với phía Việt Nam Cộng Hòa và chống lại chiến tranh Việt Nam.
            Có người gọi Trần Quang Hiếu là Hiếu Ngựa vì nó chuyên môn vẽ ngựa. Nó nói trên cõi đời này đẹp nhứt là thiếu nữ và ngựa. Thiếu nữ khỏa thân xỏa tóc có những đường cong tuyệt mỹ. Nhất là thiếu nữ Việt Nam có mái tóc dài thướt tha như đuôi ngựa. Mông ngựa cũng tròn và lung linh như mông người đẹp. Anh em muốn xem Hiếu vẽ ngựa thì phải cho nó uống say ngất ngưởng để nó ngã lên té xuống, chạy quanh bàn nhậu vài chục lần, hý lên mấy tiếng, lúc đó nó vẽ cái gì cũng ra ngựa hết vì ngựa đã nhập vào  tâm con người của nó vốn cũng chính là ngựa. Nó vẽ ngựa nhanh như gió, muốn vẽ mấy bức cũng được. Nó bảo đó là thiền học.
            Hiếu còn cởi giày chấm màu hay mực biểu diễn cước họa và chỉ họa mấy món võ thiếu lâm do nó tự biên tự diễn trước khán giả đến xem tranh khiến tôi ôm bụng cười lăn bảo:
            - Thảo nào ông Lê Văn Đệ ổng chẳng đuổi cổ mầy ra khỏi trường Mỹ Thuật Gia Định cũng phải. Dạy mầy cho lắm rồi mầy cũng biểu diễn cái kiểu này thì trường Mỹ Thuật coi như đốt bỏ thôi. Ai bảo mầy thiền họa là như vậy? Đồ điên! Mầy khéo nghe lời đứa nào bầy tầm bậy, tẩu hỏa nhập ma mà mầy            không biết. Trường Mỹ Thuật Ba Lê dạy mầy suốt năm năm như thế sao?
            Trần Quang Hiếu có tật uống rượu đến mềm môi rồi ngâm bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính:
                        Thà biết hôm nay ngồi giữa chợ
                        Đớn đau mà gọi cố nhân ơi!
                        Thế nhân mắt trắng như nhân nhủ
                        Ta với nhà ngươi cả tiếng cười.
            Có khi nó còn chuyển sang bài Hồ Trường của Dương Bá Trạc, cầm ly rượu rót về phương Bắc. Hiếu có thói quen ngậm hớp rượu cả buổi mới thấy thấm thía. Sáng sớm thức dậy nó đã súc miệng một xị rồi. Nó bảo ở bên Pháp xứ lạnh, không uống rượu thì buồn và lạnh lẽo lắm.
            Trong chiến tranh Việt Nam, họa sĩ Hà Cẩm Tâm hốt bạc. Anh ta làm giàu nhờ cho tranh xuống                 đường bán cho lính Mỹ như chị Thúy Liễu vợ của họa sĩ Huỳnh Văn Phụng. Tâm còn bắt chước theo Trần Quang Hiếu vẽ bầy ngựa hoang bán rất chạy. Hà Cẩm Tâm vẽ tới khuya. Hiếu bảo là Hà Cẩm Tâm đang vẽ giấy bạc. Anh ta là xác ướp nuôi con, là một nấm mồ biết đi. Chị Cẩm Tước của Hiếu lấy Hà Cẩm Tâm như vậy rất hạnh phúc.
            Lần sau cùng Hiếu về Việt Nam để tang cho người cha và tiếp nhận tài sản của dòng tộc nhằm lúc chế độ Miền Nam bị sụp đổ. Việt cộng ập vào cưỡng chiếm Sài Gòn. Hiếu bị kẹt lại trong nước, không về Pháp được. Tôi còn nhớ buổi sáng nọ khi Cộng sản vào tiếp thu trường Mỹ Thuật, Hiếu đến trường tìm tôi lôi về nhà ở phía sau Xóm Đình nhậu dứt điểm chai Napoléon cuối cùng mặc cho chuyện đời có ra làm sao thây kệ cuộc đời. Mấy tên Việt cộng là họa sĩ Năm Chánh, Cỗ Tấn Long Châu, Quách Phong nghe nói đến chai Napoléon bốn chữ vụt sáng mắt chạy theo tôi chui vào nhà Trần Quang Hiếu cùng nhau đốt lò nướng khô làm mồi nhậu. Đến hết chai rượu, đứa nào cũng say xỉn, Hiếu chửi cho một trận:
            - Giải phóng cái căn củ cọt tao đây chứ giải phóng. Tụi bây đồ ăn cướp ở Miền Bắc đói bỏ mẹ, bây giờ mới mò đầu vô đây. Tao đi khắp thế giới, cái gì ở Miền Nam cũng giàu đẹp. Miền Bắc chỉ bòn rút tài nguyên ở phía Nam mới sống nổi thành ra bác Hồ của tụi bây mới lớn tiếng: "Miền Bắc, Miền Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi" là như vậy. Tao là dân Tây, tụi bây để tao chửi đã đời rồi tao đi về Pháp, có phải vậy hông?
            Mấy tên Việt cộng này cũng là dân cầm cọ ở trường vẽ cả. Tụi nó giận đến tím mặt mà không dám cãi lại Hiếu, vì tụi nó mới vừa cụng ly uống rượu của Hiếu. Rượu tụi nó uống ngon lành vừa rồi là rượu của thực dân đế quốc, rượu bốn chữ V.S.O.P.
            Cuộc đời trôi nổi mãi tới sáu bảy năm sau tôi mới trở lại Sài Gòn bằng tấm giấy thả tù. Mấy đứa bạn đồng sự với tôi gọi là mảnh bằng tốt nghiệp đại học, thứ đại học này được gọi là đại học máu. Tôi gặp lại Trần Quang Hiếu lúc ấy đang làm cho Sở Ngoại Thương Thành Phố. Gặp nhau, hai đứa mừng vô cùng.
            Tôi lúc này tự nhiên trở thành một tên nhà giàu bất đắc dĩ vì chúng tôi đang sản xuất hàng sơn mài cho sở. Tôi rủ Hiếu xuống nhà hàng Cửu Long ở bờ sông tức Majestic cũ. Hai đứa kêu một chai cavia của Liên Sô có người hầu bàn khui rượu đàng hoàng theo phong cách của thực dân Pháp. Hiếu ngồi tâm sự với tôi. Nó bảo nó không ngờ Việt cộng độc còn hơn thịt vịt. Thứ vịt xiêm lai cũng không bằng. Nó không ngờ nó chửi Việt cộng bữa đó mà tụi nó trả thù rất đê tiện. Tụi nó cho người đánh cắp hết tất cả giấy tờ tùy thân của Hiếu. Sổ thông hành, giấy nhập cảnh, bằng lái xe và tất cả mọi thứ. Hiếu trở thành dân ở lậu, bất hợp pháp và không có hộ khẩu thường trú. Để sau cùng anh ta bị chánh quyền địa phương lùa đi vùng kinh tế mới.
            Sống không nổi, Hiếu bỏ Cao Lãnh Đồng Tháp trốn về Sài Gòn, may gặp được một anh chàng bác sĩ quen ở Pháp, nay hắn làm việc ở nhà Bảo sanh Từ Dũ. Hắn cho biết là hắn ta đang dạy tụi cán bộ về ngành sản khoa và các cô mụ về vấn đề săn sóc trẻ sơ sinh. Hắn đem Hiếu về làm họa sĩ cho xưởng đẻ, vẽ những bộ phận về sản khoa để hắn huấn luyện. Hắn hứa sẽ can thiệp chánh quyền xin hộ khẩu thường trú cho Hiếu. Kẹt quá, Trần Quang Hiếu đành phải làm việc cho Việt cộng. Nói đến đây, tôi thấy Hiếu khóc. Những giọt nước mắt nó nhỏ xuống mặt bàn.
            Mình đã từng ca ngợi Thượng Đế ban cho thế gian những hình thái đẹp vô cùng, trên những đường cong của thiếu nữ và ngựa. Bây giờ, ngày hai buổi vô sở làm lại lúi húi vẽ toàn những bộ phận bệnh hoạn của phụ nữ và thai nhi, ám ảnh đến cả giấc ngủ vẫn thấy còn rợn người. Vậy thì còn vẽ tranh cái cóc khô gì nữa. Mỗi đêm, nó phải uống rượu đến say quắc mới ngủ quên được. May sao, cơ sở Ngoại Thương cần đến người biết tiếng Pháp tiếng Anh và Tây Ban Nha để làm các thứ giấy tờ cần thiết. Hiếu xin Võ Văn Kiệt và Mười Phi chuyển ngành qua Ngoại Thương làm công nhân viên cho bọn này.
            Khi kiếm được chỗ làm yên ổn, Hiếu cưới một cô vợ trẻ. Cô Ái Huê người Hoa làm thợ vẽ cho cơ sở Sơn Mài Trường Mỹ ở đường Tự Đức. Ái Huê là cô gái trẻ đẹp, chưa quá 30 tuổi. Cô ta chuyên môn vẽ con cá vàng trên các sản phẩm sơn mài. Gia đình Ái Huê thuộc thành phần tư sản ở Chợ Lớn bị vùi dập trong làn sóng cải tạo công thương nghiệp và bị chỉ định đi kinh tế mới. Sau cùng, họ trở về sống lây lất ở thành phố.
            Tôi có lại tổ ấm của Hiếu uống rượu nhiều lần, thấy họ không mấy gì hạnh phúc vì cô vợ chênh lệch tuổi tác nhiều quá. Vả lại, cô ta ở trình độ quá thấp, không thể nào hiểu được Trần Quang Hiếu. Nhất là cha mẹ Ái Huê lại ở chung căn hộ của nhà nước cấp cho Hiếu. Họ xúi dại đủ thứ. Tối ngày chỉ đòi hỏi tiền và nhu yếu phẩm. Cũng may cho Hiếu, lũ con lai của nó ở Pháp đã lớn khôn và đổ đạt, chúng cũng thường gởi tiền về giúp đỡ cho cha chúng nó.
            Năm 1986, Đại hội VI kêu gọi đổi mới kinh tế, xóa bỏ bao cấp. Sở Ngoại Thương tổ chức một cuộc triển lãm kinh tế rất lớn, trưng bày trong Đại Thế Giới ở Chợ Lớn. Bữa đó, Trần Quang Hiếu được cắt cử trông nom gian hàng xuất khẩu. Nhằm lúc anh ta đang say xỉn thì Mai Chí Thọ đi vào. Hiếu câu cổ tên thượng cấp này "toa moa" một hồi rồi than phiền về những tệ nạn tham nhũng cùng những bê bối trong ngành kinh tế ngoại thương, nhất là khâu xuất cảng và nhập cảng. Tên thượng cấp này thấy sướng quá, bỗng dưng trên trời rớt xuống, có thằng cung cấp cho bộ Nội Vụ rất đầy đủ những tệ hại của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
            Đám quản lý Sở Ngoại Thương hết hồn nhưng họ không biết làm cách nào để tách rời Trần Quang Hiếu với Mai Chí Thọ ra. Để thượng cấp càng ở lâu thì Hiếu càng khui thêm nhiều chuyện ly kỳ, thâm cung bí sử của ngành Ngoại Thương cả ngày cũng chưa hết. Tên Mai Chí Thọ lại nghĩ rằng người say không bao giờ biết nói dối nên càng muốn nghe thêm. Hắn sai cận vệ chạy ra cửa hàng Thái Bạch mua về cho Hiếu một chai Hennessy cổ lùn khui ra uống tay đôi để dụ dỗ cho Hiếu nói tiếp.
            Tới hơn 12 giờ trưa, tên thượng cấp đi rồi, Hiếu bị ban Giám đốc Sở lôi về sở bắt làm tờ kiểm điểm xem nó đã nói những gì. Nhưng Hiếu bảo nó xỉn quá, đâu còn nhớ cóc khô gì mà viết. Mười Phi, Giám đốc Sở Ngoại Thương bèn ra thông cáo từ nay cấm ngặc các nhân viên trong ngành không được nói chuyện đơn phương với thược cấp. Họ tính làm giấy sa thải Hiếu vì lý do vi phạm kỷ luật. Giấy tờ chưa xuống thì có lệnh của Mai Chí Thọ bên bộ Nội Vụ gởi qua can thiệp bảo Sở Ngoại Thương từ nay không được đuổi Trần Quang Hiếu làm cho đám họa sĩ bọn tôi tức cười vỡ bụng.
            Khổ một điều là những lá bài tẩy của Bộ Ngoại Thương đã bị Bộ Nội Vụ và Sở Công An biết hết cả. Người Cộng sản nhìn đâu cũng thấy được kẻ địch. Kẻ địch ngày nay là những người đang đứng chung với họ trong hàng ngũ. Những con sói đang cùng chạy một bầy đi săn mồi, vậy mà con sói nào sơ hở sẽ bị một con sói khác trong bầy cắn một phát vào chỗ nhược ngã lăn ra chết tốt. Như vậy miếng mồi của mình được khá hơn một tý vì bớt đi được một phần ăn.
            Cũng như tên Bảy Thưởng nằm ở ngành Văn hóa Thông tin. Nhà nước bỏ tiền cho khâu tuyên          truyền rất nhiều. Nào là phát thanh, báo chí, in ấn, xuất bản, điện ảnh, kịch nghệ, sinh hoạt thanh niên đủ thứ. Tất cả các kho giấy và nhà in đều nằm trong tay Bảy Thưởng. Dĩ nhiên tên Bảy Thưởng trở thành giàu to.
            Hôm đó, Cộng sản đề nghị với UNESCO tuyên dương ông Ức Trai Nguyễn Trãi là danh nhân thế giới về văn hóa. Họ phát động rùm ben. Họa sĩ Vi Vi ở tờ báo Khăn Quàng Đỏ có vẽ bìa tập vở bức tranh ông Nguyễn Trãi viết bản Cáo Bình Ngô bị công an ập vào bắt đi tù. Họ bảo chữ "cáo" đó là chồn, là Hồ Ly Tinh. Chữ "bình" này là "Bình Định", thuộc chiến dịch Phượng Hoàng. Họa sĩ Vi Vi khai là anh nhờ một cụ đồ ngoài phố viết cho mấy chữ Hán. Nhưng họ không tin, vẫn cứ lục soát khắp nhà quyết tìm cho ra quyển Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh nhưng cuối cùng vẫn không thấy. Vậy mà Vi Vi bị nằm ấp cả sáu tháng mới được thả ra. Mai Chí Thọ bắt họa sĩ Vi Vi vì muốn đục vào mặt Bảy Thưởng. Họ cho biết là đã nắm được con bài tẩy của tên Bảy Thưởng rồi. Bảy Thưởng mà hó hé sẽ bị đòn ngay. Do đó khiến họa sĩ Vi Vi phải vượt biên cho lẹ.
            Ngày đó, tôi vừa mới ở tù ra cũng vì tội vượt biên trái phép. Mất cả vàng bạc vốn liếng mà còn phải nằm ấp hơn năm rưỡi. Nay được anh họa sĩ đàn em cho đi không tốn tiền thì mừng hết cỡ, còn gì bằng. Vi Vi có nói:
            - Anh Đệ à! Tụi em sẽ cho anh vượt biên lần này không phải đóng tiền. Với điều kiện là mỗi chiều         anh ngồi nhậu ở quán nào phải cho em biết địa điểm. Tụi em hành quân chớp nhoáng, có chiếc xe jeep đến xúc là anh phải đi liền đó nghe.
            Tôi thường ngồi uống rượu với họa sĩ Nguyễn Khắc Vinh nơi bãi đất trống của xóm Vườn Xoài. Gặp Trịnh Thanh Tùng bút hiệu Tên Lửa vốn là đặc công nằm vùng, học trò của Nguyễn Khắc Vinh. Tùng đến đề nghị đổi địa điểm đến chỗ nhậu khác. Nó sẽ khao ông thầy một chỗ có rượu ngon, gái đẹp. Đám này vừa kéo đi thì chiếc xe jeep đến không gặp, phải chạy thẳng luôn. Đến tháng sau, Vi Vi ở bên đảo Ga Lăng viết thơ về cho biết đã thuận buồm xuôi gió. Tôi bị vợ cằn nhằn quá cỡ:
            - Đó, anh thấy chưa? Đi nhậu có mập béo gì không, coi như làm mất toi mấy lạng vàng.
            Vi Vi đi rồi, Bảy Câu gặp tôi ở nhà hát thành phố nói Bảy Thưởng mừng quá cỡ. Bây giờ Bảy Thưởng đếch sợ Mai Chí Thọ. Con dê tế thần của Sở Thông Tin Thành Phố đã xổng chuồng chạy mất rồi.
            Hiếu thường nói bọn Cộng sản độc hại hơn thịt vịt, thứ thịt vịt xiêm lai. Hễ ăn vào lén phén sẽ bị nó vật liền. Ông bà ta thường bảo ăn thịt vịt phải có nước mắm gừng. Vì chỉ có gừng mới chận được hữu hiệu sự độc hại của thịt vịt. Chúng ta chớ có quên chuyện này.
            Năm tôi mới được thả về từ trại cải tạo, đặt dưới sự quản lý của địa phương. Nếu tôi không tìm được công ăn việc làm thì bị xúc đi kinh tế mới. Mỗi ngày đều gặp tên công an khu vực đến hỏi thăm sức khoẻ. Người thân trong gia đình kêu tôi đến nộp đơn ở Phòng Thương Mãi Đô Thành. Lúc bấy giờ Phòng Thương Mãi được đổi lại là Trung Tâm Quảng Cáo Ngoại Thương, phụ trách trình bày các loại bao bì cho những mặt hàng xuất khẩu.
            Sáu Quan làm Tổng Giám Đốc. Hắn là người láng giềng với gia đình tôi, tưởng đâu có thể nhờ cậy được. Thì ra hắn cho biết hồ sơ của tôi bị phòng nhân viên bác bỏ vì ở đây không nhận những người tù cải tạo về. Họ chỉ nhận anh Trần Dinh. Họa sĩ Trần Dinh là anh của nhà thơ Trần Dần. Anh ta ở Hà Nội vào chưa có chỗ ở. Sáu Quan nói nhà tôi đến bốn từng lầu xin cho anh Trần Dinh ở trọ một thời gian. Tôi dẫn anh Trần Dinh về nhà bị vợ tôi cằn nhằn quá:
            - Đã không xin được công ăn việc làm thì chớ, ai lại đi lãnh cái búa bao giờ. Anh Trần Dinh vẽ biếm họa cho tờ Nhân Văn Giai Phẩm bị cải tạo khá lâu, nay lại ở chung với anh, một cây biếm loại nổi tiếng ở trong Nam. Mặc dầu anh chẳng có vẽ cóc gì nữa nhưng người ta vẫn để ý. Tại sao các ông chỉ muốn gây chuyện với công an hoài vậy? Người ta trả hồ sơ xin việc lại cho anh. Tại sao anh không biết trả họa sĩ Trần Dinh lại cho người ta? Chuyện đó dễ thôi.
            Đám Cộng sản bảo là vợ tôi quản lý chồng con còn chặt chẽ hơn cả công an khu vực. Chỉ sợ tôi uống       rượu say rồi chửi đổng, Cộng sản bắt đi cải tạo trở lại mút mùa. Nhà nước bỏ tù một công dân coi như bỏ tù cả vợ con của công dân đó luôn. Nếu không xách giỏ đi nuôi thì tên tù phải chết đói. Con cái không được học hành và kiếm việc làm. Muôn đời bị khép vào hồ sơ chính trị loại C.
            Có một hôm họa sĩ Nghiêu Đề ngồi nhậu ở Hội Mỹ Thuật Thành Phố ở đường Nguyễn Thị Minh Khai. Anh ta kể chuyện Gia Long tẩu quốc. Ngày xưa quân Tây Sơn tấn chiếm khắp nơi, vua Gia Long chỉ bỏ chạy, chẳng có phản công lại gì cả. Vậy mà tới lúc nhà Tây Sơn hết thời, vua Gia Long trở về tiếp thu đất nước một cách rất thuận lợi. Chẳng có bị trở ngại chi cả. Đám họa sĩ đảng viên trong Hội Mỹ Thuật lên án họa sĩ Nghiêu Đề là thành phần phản động. Họ còn gán cho anh ta là Gia-Longisme (chủ nghĩa Gia Long) làm cho những ngày sau, họa sĩ Nghiêu Đề không bao giờ còn ghé lại Hội Mỹ Thuật Thành Phố nữa.
            Nghiêu Đề nói trong chữ ký của nó có hai phần ba chữ Hiếu Đệ nên tôi phải giúp anh ta, nếu để nó chết là tôi phải chết theo đó. Cũng như Trần Quang Hiếu cũng nói trong chữ ký của Hiếu Đệ cũng có Trần Quang Hiếu trong đó, chúng ta phải Đào Viên kết nghĩa mới đúng điệu.
            Ngày xưa, họa sĩ Tú Duyên có vẽ bộ tranh minh họa Truyện Kiều bằng kỹ thuật thủ ấn họa. Bữa nọ, Phòng Quản Lý Mỹ Thuật có ách lại ở phi trường Tân Sơn Nhứt một bộ tranh tứ bình do một người khách nào dó mang đi ra nước ngoài. Bốn bức ấy gồm có: bức I diễn tả lúc Thúy Kiều gặp Từ Hải, "bỗng đâu người khách biên đình tới chơi". Bức thứ II, Từ Hải đem võng lọng đến rước Kiều. Bức thứ III, Kiều ngồi xử án. Bức thứ IV, Từ Hải chết đứng. Đám Cộng sản kết tội anh Tú Duyên trù ẻo đảng và nhà nước giống kiểu Từ Hải làm ông họa sĩ phải thanh minh thanh nga quá cỡ. Anh Tú cho biết rằng bộ tranh thủ ấn họa minh họa Kiều, anh sáng tác ba bốn chục năm nay rồi, bản gỗ của bộ tranh đã chẻ chụm lửa từ lâu không còn nữa. Những bức tranh trên đây do họ sưu tập từ thời Đệ Nhất Cộng Hòa, bây giờ họ mang đi chứ tác giả không dính dấp gì trong vụ này. Nhất là bây giờ mắt anh đã mờ không còn vẽ được như xưa. Có thế, họ mới thả anh về. Đám công an của Phòng Quản Lý Mỹ Thuật là những họa sĩ hội viên có chức phận trong Hội Mỹ Thuật Tạo Hình Việt Nam chớ chẳng phải ai khác nên họ rất nhạy bén về tài chụp mũ.
            Phía sau Phòng Thương Mãi là đường Nguyễn Huệ. Nơi đây có mấy "kiostes" bán hàng thủ công mỹ nghệ cho du khách và hàng sơn mài. Hội Văn Nghệ Thành Phố cấp cho những nghệ sĩ nào có công lớn với cách mạng như nhà văn C.T.B, nữ sĩ Th.M., cô vợ thứ mười của nhà thơ Nguyễn Vỹ nay lấy ông chồng rất giàu làm cán bộ thành ủy. Xóm này sống nhờ đổi tiền đô la thôi cũng đủ làm giàu.
            Đám văn nghệ sĩ thường tụ họp nơi quán giải khát của chị Tư Mập. Trần Quang Hiếu cũng có ghi một cuốn sổ nợ nơi quán chị Tư nên bà chị biết rất rõ về Hiếu. Chị Tư Mập nói với tôi:
            - Hiếu đi nằm nhà thương vì bịnh gan đã đến thời kỳ thứ ba rồi đấy. Hôm trước, nó vừa đi khám bác sĩ. Chính ông ta hỏi nó còn uống rượu nữa không? Nó trả lời vẫn uống như thường. Ông bác sĩ đứng dậy giật cái toa trên tay nó bỏ vào ngăn tủ bảo là: "như vậy thì tôi không trị cho anh nữa, cứu anh cũng chỉ vô ích thôi".
            Chị Tư nói Hiếu nếu trở vào nhà thương Sùng Chính lần nữa thì kể như là ngũm cù đèo. Tôi hỏi chị Tư:
            - Biết vậy sao chị còn bán rượu cho nó làm gì cả cuốn sổ dầy cộm như vậy?
            Chị Tư phân trần:
            - Chứ bây giờ nó nài nĩ quá cỡ mình biết tính sao. Nó bảo là nó buồn quá.
            Chị nói thêm:
            - Con Ái Huê lấy thằng cán bộ mang về nhà trước mặt nó, còn đánh đập nó đến vỡ đầu phải đi nằm nhà thương. Bây giờ nó phải đi ở nhà Trần Quang Chiếu vẽ cho đoàn hát Kim Chung bên Khánh Hội. Người ta nói "chồng già vợ trẻ là duyên ba đời" đâu chẳng thấy mà chỉ thấy nó biến thành tai kiếp ở trước mắt. Người ta còn nói "thà ở chuồng heo còn hơn đi theo bên nhà vợ". Ở đây trái lại không phải Hiếu  đi theo nhà vợ. Căn hộ ở Chợ Lớn là do nhà nước cấp cho nó. Nó thấy cả nhà cô Ái Huê ở kinh tế mới về thành không có chỗ ở, nó kéo về tá túc ở đó luôn. Cái gia đình người Hoa này xí xô xí xào xúi con gái ham tiền lấy bậy lấy bạ còn đuổi nó ra đường, nghĩ có tức không?
            Chị Tư nói tiếp:
            - Nghĩ Trần Quang Hiếu rõ là số đen. Tự nhiên bên Tây với vợ đầm không bảnh hơn sao, hai đứa con bên ấy cũng đã lớn hết cả và đổ đạt ngon lành, tội gì về nước đúc đầu vô rọ chịu chết một cửa tứ, thiệt uổng quá. Đất nước nầy chỉ để về thăm chơi một thời gian rồi đi chớ đừng để bị mắc kẹt như Trần Quang Hiếu và Nguyễn Vạn Lộc thì hết vùng vẫy ra được. Tôi tiếc cho những ông Tây gốc Việt này quá!
            Hôm đó ngồi uống rượu với anh Văn Đen ở gốc đường Nguyễn Tri Phương được nghe họa sĩ Lê Chánh báo tin Trần Quang Hiếu đang hấp hối. Tôi tức tốc phóng xe Honda vào nhà thương Chợ Rẫy cùng với đứa con trai lớn. Thì được nghe họ cho biết đã đưa Hiếu vào nhà xác ở phía bên kia đường. Tôi và một số bạn hữu chạy qua xin nhìn mặt nó một lần cuối. Trên đường về, đứa con trai của tôi nói:
            - Con chưa từng thấy một ông nghệ sĩ nào ở trên đời lại chết thê thảm và nghèo khổ đến như vậy. Thôi đừng có làm nghệ sĩ nữa bố ơi!
            Chị Cẩm Tước tức vợ của họa sĩ Hà Cẩm Tâm đứng ra lo ma chay cho Hiếu. Tang lễ được cử hành ở       nhà quàn của Hội Triều Châu nơi phố An Đông, Chợ Lớn. Họa sĩ Trần Quang Chiếu là vai chú của Hiếu ngồi kể lại:
            - Bịnh của Hiếu người ta thường gọi là sơ gan củ chướng. Bữa đó, gan của Hiếu bị vỡ ra làm nó hôn mê đến hơn một ngày. Tới khi nó tỉnh lại thì tôi ngồi bên giường bịnh của nó.
            Anh ta nói:
            - Hiếu à! Cháu bị hôn mê hơn cả ngày nay, bây giờ mới tỉnh lại. Cháu có thấy đói bụng không? Để chú ra mua cháo về cho cháu ăn nhé!
            Nó yếu ớt quá, lắc đầu, chỉ nhấc cùi chỏ lên cao và chỉ ngón tay vào mồm. Ý muốn nói với Chiếu hãy chạy mau ra phố đong cho nó một xị đế.
            Chiếu chảy nước mắt nghĩ rằng gia đình của anh hơn ba thế hệ đều là nghệ sĩ cả, sống chết vì nghệ thuật nên Chiếu chạy ra ngoài đong cho nó một xị đế và lén lút y tá đưa vào cho Hiếu. Nó uống chưa hết một ly xây chừng thì đã xuôi tay trút hơi thở cuối cùng. Cũng như người chiến sĩ vừa nhận lãnh phát súng ân huệ.
            Con người của Hiếu như những nhân vật trong tác phẩm hiện sinh của Jean Paul Sartre, sống cuồn nhiệt, sống đam mê, nhất định không chịu yên phận để làm nấm mồ biết đi hay một xác ướp nuôi con, đi làm ngày hai buổi để trả nợ đời.
                                                                                                          Hiếu Đệ

--**--
                                       Hai Mối Tình
                               Của Người Tù Biệt Giam       
                       
            tù cải tạo Việt cộng, trại viên bị phạt biệt giam phải là những người vi phạm nặng nề qui chế của trại. Họ là những người mà chế độ lao tù cộng sản không dung thứ nổi. Họ là những người mà cộng sản cho là nguy hiểm bất trị. Trước khi bị biệt giam, nạn nhân cũng phải trải qua bao trận đòn "hội đồng" thừa chết thiếu sống, rồi bị quẳng vào trong Connex bỏ đói ba bốn hôm, mặc tình oằn oại rên xiết với cơn đau... Connex là một loại thùng bằng sắt do quân đội Mỹ dùng để đựng các loại quân cụ chở bằng tàu mang sang chiến trường Việt Nam trước kia.
            Bị nhốt bít bùng trong Connex, trời trưa nắng như thiêu đốt, thùng sắt kín hơi, nóng hầm như lò nướng bánh mì, chân tay mình mẩy tưởng chừng như  sưng vộp da. Về đêm thì trái ngược lại, khí lạnh của núi rừng, cái giá lạnh của chất thép, cái lạnh của cơ thể không một manh chiếu nhỏ để đắp, cộng với cái lạnh cô đơn của tâm hồn tạo thành một cơn rét tưởng chừng như khó sống nổi... Tù biệt giam như thế lấy gì làm vui thú dù trong khoảng khắc sao lại còn tình tự, có cả hai mối tình êm đềm, thơ mộng...
            Người tù biệt giam nọ là anh Thu, thường được bạn bè gọi là Thu Dù, vì trước kia anh là sĩ quan binh chủng Nhảy Dù. Thu Dù bị biệt giam vì đã đứng lên bênh vực cho một người bạn trong khi đi rừng về đã bẻ một hoa chuối rừng. Chuối rừng cũng như chuối nhà, đến kỳ trổ bắp, cũng gọi là hoa chuối. Bắp chuối ra quày, mỗi bẹ bắp có một nải chuối. Bắp chuối nhà thường trổ từ năm tới bảy nải, bắp chuối rừng thì ít hơn. Khi bắp chuối không còn trổ nữa, người ta thường bẻ xuống dùng làm được một vài món ăn như gỏi gà, gỏi lươn, canh gà, bắp chuối nấu với con mẻ nhậu cũng bắt mồi lắm và nhất là món lẩu lươn không có bắp chuối hột là không đúng điệu.
            Anh trại viên nọ bị hành phạt vì anh hái được một bắp chuối rừng hết ra nải để đem về bồi dưỡng. Bọn vệ binh trông thấy, đánh đập anh tàn nhẫn, mặt mày sưng vù, máu me tùm lùm... Anh trại viên la lên:
            - Tôi có ăn cắp gì đâu. Hoa chuối để trên cây rồi cũng khô và rụng đi. Bẻ một vật bỏ mà cũng phạm nội quy của trại sao?
            Bọn vệ binh bắt anh phải quỳ xuống đất, cạp ăn hết bắp chuối trước mặt toán làm rừng. Chúng còn sỉ vả:
            - Chuối rừng cũng là của trại, của nhà nước, của nhân dân. Ăn cắp tài sản của nhà nước, của nhân dân mà bảo là không có tội à?
            Bọn vệ binh quyết tâm hạ nhục người trại viên. Chúng dùng bá súng dộng vào người anh, bắt anh phải nuốt ngấu nghiến, nuốt nghẹn cổ họng bắp chuối nọ. Thu Dù phẫn uất cho bạn, đứng lên quát, bảo bọn tàn nhẫn kia phải ngưng tay. Chúng muốn trả thù thì cứ trả thù anh chứ đừng ăn hiếp người yếu đuối như vậy. Thế là Thu Dù bị khép vào tội chống đối, phải một trận đòn tơi bời và còn bị biệt giam trên sư đoàn. Anh em trại viên dưới tiểu đoàn không thể nào thăm nom, tiếp tế lén thực phẩm cho anh. Bọn cán bộ sư đoàn hành hạ anh đủ điều để anh phải khuất phục, phải van lơn, lạy lục chúng.
            Nhưng chúng lầm. Thu Dù vẫn cao đầu, thẳng lưng, mắt trừng trừng nhìn chúng không hề sợ hãi, không hề khiếp nhược. Anh tỏ ra gan lỳ và anh hùng hơn chúng tưởng. Anh coi nhẹ cái đau đớn của thể xác, coi nhẹ cả cái chết.
            Bọn Việt cộng đem anh bỏ vào thùng Connex, không cho ăn trong ba ngày. Thu Dù nằm trong thùng sắt, thấy đau nhức từng khớp xương, cơ hồ như không thể gượng dậy được. Nhưng anh biết, nếu mình không cố gắng, cứ nằm gục như thế thì sẽ nằm mãi mãi... để phải ra nghĩa trang ở ven rừng. Anh nhớ lại hồi còn ở trong trại, có mấy anh bạn ngồi thiền với thế ngồi kiết già hay bán già gì đó mà anh tính khí hay đùa giỡn cũng bắt chước họ. Anh có thiền thử đôi lần. Các trại viên đó có chỉ dạy anh về phương pháp hít thở, nhưng anh không mấy chú tâm. Anh bạn còn nói về sự cảm nhận khổ đau nữa. Như một cơn gió mạnh mà sức người có hạn, nếu nó kéo dài lâu quá, con người có thể chết được. Và ta cũng nên biết rằng, cái cảm xúc đó thường tới ào ạt như một cơn bão nhưng xong rồi nó cũng đi qua. Chúng ta giống như một cái cây phải bám lấy gốc cho vững. Chúng ta dời tâm xuống thân bằng những hơi thở thật nhẹ nhàng và thật sâu, đưa hơi thở xuống huyệt đan điền. Có nghĩa là ta đóng cửa tất cả các giác quan rồi ôm lấy tâm và thân của mình. Khi một em bé bị đau đớn khóc ré lên thì người mẹ chạy lại ôm chầm lấy em bé. Thế là tiếng khóc có thể yên ngay.
            Nay Thu Dù đang ở trong Connex. Anh muốn chống lại cái đau, cái buồn, cái cô đơn tịch mịch. Anh nghiêm chỉnh thiền tọa, dùng phương thức thiền  quán để trở về nơi hải đảo tự thân, cố nhớ lại những lời của anh bạn chỉ dạy. Thật là lạ lùng! Anh nhận thấy mỗi ngày anh dường như bước sang một vị trí khác... Những đau đớn về thể xác như dần dần bớt đi. Cái nóng hầm, cái giá lạnh cũng bớt làm anh khổ sở. Lòng anh yên tĩnh, không bồn chồn lo lắng, không bận bịu nội tâm. Khắc phục được ngoại cảnh, tâm hồn anh an nhiên tự tại, thơ thới hơn bao giờ cả.
            Bọn cán bộ trại muốn anh chết rũ trong lối biệt giam vô nhân đạo của chúng. Nào ngờ anh vẫn sống an lành, sống bình yên thanh thản trong vòng hắc ám của chúng! Anh thấy chữ Thiền (Méditation) với chữ Y Khoa (Médecine) gần với nhau. Một bên là tinh thần, một bên là thể xác. Khi thân xác khổ đau, ta có thể đưa tinh thần về an ủi vỗ về thân xác như bà mẹ trở về bế đứa con mình trên tay.
            Một hôm, anh nằm ngủ sát vách Connex, có lẽ lúc trời vừa hừng sáng, anh bỗng giựt mình nhìn thấy có cái gì động đậy bên má anh. Cái gì thế này? Con gì chui được vào Connex, ngo ngoe bên mặt anh? Rắn hổ? Bò cạp? Hay là nhện độc? Ở rừng, anh thường gặp những thứ ấy. Nhưng nơi đây, anh chỉ cảm giác giựt mình khoảng chốc chớ không sợ hãi. Nó phảng phất một mùi thơm của rau cải... Anh đưa tay lên rờ, à thì ra cọng lá. Anh kề mắt nhìn xem cho rõ, mới biết đó là cọng rau lang...
            Đấy quả là một cọng rau lang, không biết gốc nó từ đâu mà bò vào lỗ hổng dưới gầm Connex. Anh mừng vô cùng. Anh vừa mới có một sinh vật đến làm bạn. Đây là một trường hợp rất hi hữu. Người tù biệt giam và cọng rau lang làm bạn với nhau. Anh trân quý ngọn lang. Mỗi ngày nhí một ngụm nước phun tưới nó. Nó mau lớn, dài ra rất nhanh. Anh nhìn những chiếc lá nõn nà. Anh thấy lá xanh tức là trời xanh. Và trời xanh tức là tự do. Anh ngồi trong Connex mà thấy như ngồi giữa rừng núi đẹp lạ lùng. Anh cảm thấy mình sống rất an lành và hạnh phúc hơn lúc nào hết. Anh thấy ngọn lang lớn lên một cách rõ rệt. Nó có thêm nhiều nhánh nhỏ. Ôi! Yêu quý biết là chừng nào!... Những trưa, có tí ánh nắng lọt vào Connex, anh mê man ngắm nhìn những đọt rau, chừng như những đứa con nít bụ bẫm, càng nhìn càng ưa. Anh không nỡ ngắt hái nó, dầu chỉ một lá để ăn với phần cơm lạt lẽo của anh.
            Mỗi ngày bọn cán bộ đút vào Connex cho anh một tô cơm với vài hạt muối và một hũ nước con. Anh có thời giờ ăn thật lâu, nhai thật kỹ. Anh bảo là ăn cơm trong chánh niệm, dầu thực phẩm không có gì nhưng dinh dưỡng của nó rất cao. Anh nghĩ về cọng rau lang với cái gốc đâu đó ở bên ngoài. Chắc gốc to và rễ chi chít, lỏm ngỏm những củ to nhỏ. Nó là loại khoai gì nhỉ? Khoai Đà Lạt vỏ mỏng và dẻo nhẹo? Hay là khoai lang trắng nhiều chất bột dinh dưỡng? Cũng có thể là khoai lang tím ăn ngòn ngọt thơm thơm...
            Mỗi ngày anh tha hồ tưởng tượng một thứ củ khoai trong thùng sắt tối om để anh tưởng ra màu lục diệp của lá xanh. Gốc nó sống mạnh ở bên ngoài, dưới ánh sáng, hưởng dương khí ban ngày của mặt trời đỏ rực và cũng hấp thụ cái âm khí ban đêm của trăng sao, của sương khuya rơi đọng long lanh trên cành lá... Trong Connex, ngọn rau lang kia cũng là mặt trời, cũng là trăng sao của anh. Nó đem không gian bên ngoài vào lòng cô đơn của anh bên trong. Màu rau lang là cái màu của mầm non nẩy nở, màu của sự sống vươn lên, màu của đồng ruộng cò bay thẳng cánh, của ngàn thiêng rừng thẳm, của đồi núi bao la, trùng trùng bát ngát...
            Bọn Việt cộng muốn giết anh trong cô đơn, buồn tẻ. Chúng có ngờ đâu, nhờ ngọn rau lang, anh khám phá ra được một chân trời xán lạn của cả một vũ trụ bao la... đúng là thế nhân mắt mở vẫn say nồng. Anh nói không có cõi giải thoát, không có cõi an lạc mà chỉ có lòng mình có giải thoát, có an lạc hay không mà thôi. Anh sống trong tình yêu và hạnh phúc ấy trong ba tháng trời... Bỗng nhiên một sáng nọ, bọn cán bộ           mở tung cửa Connex để xem anh thiểu não thế nào. Chúng kinh ngạc, trố mắt ra nhìn khi thấy anh vẫn mạnh khỏe, tươi tỉnh và yêu đời hơn. Chúng nó hô toán lên:
            - Các đồng chí lại xem này. Tên tù không lo ngồi tù hối cải, lại chơi cái trò tiểu tư sản trồng hoa trong Connex.
            - Ơ hay nhỉ! Rau lang ở đâu ra thế?
            - Đánh bỏ mẹ nó đi.
            - Đánh bỏ mẹ thằng Thu Dù ngoan cố.
            - Tụi bây phải moi gốc lang ra xem củ nó bao lớn. Tại sao rau lang không lo sản xuất, lại liên hệ mật thiết với tên tù phản động.
            - Thế là thế nào?
            Thế là bọn cai tù nhảy bổ vào, chúng đánh anh ngã vào một góc. Chúng giật, bức hết tất cả rau lang vất ra ngoài rồi đóng cửa tiếp tục nhốt anh lại. Anh Thu buồn bã, nhìn vách Connex trống trơn. Bọn ác độc dã man ấy đã cướp mất niềm vui, lẽ sống của anh! Mắt anh cay xè. Đôi dòng lệ từ từ lăn xuống má. Anh đã nghiền mơn trớn, chăm nom những cọng lang, ngửi lấy chất lục diệp của nó để bồi bổ năng lực yêu đời của anh. Anh yêu thương nó như một sự sáng tạo của anh. Anh phun nước tưới nó. Nó sống nhờ anh và anh sống nhờ nó. Thế mà giờ đây nó mất đi rồi... Anh biết bọn cán bộ sẽ không bỏ qua việc này. Chúng sẽ trở lại, hành hạ, đọa đày anh. Chúng sẽ làm cho anh chết dở sống dở. Bọn chúng quyết trả thù anh.
            Xưa kia, binh chủng anh từng quạt tan những ổ kiên cố của chúng, đánh chúng thua xiểng niểng... Anh vì nghe lệnh thượng cấp mà buông súng chớ anh nào phải thua trận, nào phải đầu hàng!... Bây giờ chúng muốn trả thù. Chúng bắt anh phải cong lưng gập gối. Anh vẫn sừng sững ngay người, mắt nhìn mắt dù có bị đánh ngất gục. Trong ánh mắt đầy oán hận của chúng, anh nhận thấy vẻ căm thù lẫn ngạc nhiên và thán phục. Chúng gặp phải thứ người hơn chúng, thà gãy chớ không cong, không cúi khòm!
            Quả như anh nghĩ, một đêm nọ, trời đã khuya cỡ hai giờ sáng, có ánh trăng lưỡi liềm gác trên đầu núi, thì cánh cửa Connex bị mở toang ra. Một thứ ánh sáng dữ dội chiếu vào người anh. Mắt anh đã quen với bóng tối nên bị đau nhức vô cùng và đầu anh muốn vỡ bưng ra. Đó là hai ngọn đèn xe Jeep chiếu thẳng vào mặt anh. Anh vội bụm mắt, quay lưng lại để tránh cái ánh sáng quái ác đó. Hai tên vệ binh xông vào, dùng nùi giẻ bịt mắt anh, xốc nách và lôi anh đi. Anh Thu cả ba tháng nay chỉ có ngồi, hai chân tê cóng, không bước nổi.
            Chúng lôi anh đi đâu giữa đêm khuya thế này? Đem xử bắn ư? Cũng tốt thôi! Anh đâu còn xem sự sống chết ra gì? Sống mà bị hành hạ, đày đọa dưới tay bọn tàn ác, vô nhân đạo này thì sống khổ hơn là      chết. Nếu bọn chúng không bịt miệng anh, anh sẽ chửi cho chúng bắn, quyết không hèn nhát. Chúng có tập họp những người bạn tù của anh để đọc bản án làm gương răn đe không? Chúng vẫn ca ngợi sự bắn giết của bọn chúng đối với những người không tự vệ là bạo lực cách mạng. Chúng bảo "diệt nhất miêu cứu vạn thử". Trùm đỏ Staline từng tuyên bố:
            - Bịnh dịch hạch làm chết hàng ngàn người một cách rất vô ích. Chứ cách mạng "Bôn sê vích" hy sinh hàng triệu sinh mạng con người để tiến lên xã hội chủ nghĩa há không phải lợi ích sao?
            Nhưng bọn cán bộ không lôi anh ra sân bắn. Chúng kéo lê anh vào một căn nhà tôn, trói gò lại, rút dây lên cao. Bốn thằng lực lưỡng chia ra đứng bốn bên để đánh tứ trụ như nện vào bịch bông, ình ình... ình ình... Thu tưởng chừng như gặp phải trận mưa đá ném. Anh ngất đi. Chúng hạ dây xuống, tạt xô nước lên đầu làm anh tỉnh lại. Chúng ném anh vào xà lim nhỏ hẹp. Nơi đó, khi trước chắc chúng làm nhà vệ sinh hay nhà tắm nên còn mùi hôi hám, khai ngấy... Cửa khóa lại, tối om... Anh Thu nhớ lại bài học thiền. Anh vận dụng hơi thở bồi bổ khí lực. Khí trời hít bằng mũi thật nhẹ cho đầy phổi, đưa xuống đan điền rồi thở ra rất nhẹ nhàng bằng mũi. Đan điền là một ruộng thuốc nếu biết xử dụng. Ruộng thuốc ấy có thể chữa cả đến những bệnh mạn tính. Anh vận khí đưa máu đi điều hòa xoa bóp những nơi đau đớn, làm tan đi những bầm dập của trận đòn thù. Anh thấy tâm hồn yên tĩnh. Cái đau đớn, khổ thân vơi nhẹ.
            Mỗi ngày, từ vách xà lim bằng gỗ tạp có khoét một cái ô vuông vừa đủ để đưa vào một hũ vệ sinh, một tô cơm và một lon nước, anh ăn cơm mà nhớ đến những ngọn lang của anh ở thùng Connex. Bây giờ ăn cơm lạt với vài hạt muối, không còn tưởng tượng mùi khoai lang. Đã mất biểu tượng, còn gì để anh nghĩ ngợi nữa! Anh nhớ đến cái tuổi học trò, mỗi sáng được cha mẹ phát tiền ăn sáng trước khi đi học, dù tiền ít cũng mua nổi vài củ khoai lang đỡ lòng. Bây giờ Cộng sản làm chủ đất nước, tiền tệ lạm phát, cả nước đói khổ, người dân làm việc như trâu như bò mà có đủ tiền mua khoai lang ăn độn với khổ phần tiêu chuẩn gạo và bo bo quá kém cỏi không? Và lũ trẻ đi học, có được bao nhiêu tiền mà mua nổi củ khoai nhỏ xíu để lót lòng?
            Một bữa nọ, anh thiền xong, nhìn đến lỗ vuông, thấy có một bàn tay đưa vào tô cơm. Bàn tay trắng quá. Bàn tay thon nhỏ của phụ nữ mà đã rất lâu anh không trông thấy. Trong khoảng tối om mà anh cũng nhận ra được làn da mịn màng, tươi mát của bàn tay phiếu mẫu ấy. Anh nhận thấy tô cơm có đầy hơn. Ai thế nhỉ? Sao có bóng hồng nào ở nơi rừng rú, man rợ của sư đoàn? Anh để ý lắng nghe bên ngoài. Dần dần anh      hiểu ra, nơi chúng giam anh gần kho hậu cần và nhà bếp của sư đoàn. Thảo nào mới có đàn bà. Trưa chiều, anh nghe có tiếng nói lác đác xa gần, tiếng cười khúc khích, tiếng đùa giỡn của nữ lưu. Anh còn nghe gọi nhau ơi ới những tên Xuân, Mai, Thu... Một bữa anh ngủ quên, chợt giật mình thức giấc khi nghe có tiếng người đá vào vách và một giọng thỏ thẻ:
            - Này ông kia, thức dậy ăn cơm đi. Người ngợm gì ngủ trễ như lợn! Này phải nhớ nơi đây tôi không nuôi lợn!
            Cô bộ đội nói xong cười khúc khích. Thu giả vờ mê ngủ, đưa tay chụp tô cơm, nắm luôn cả bàn tay người thiếu nữ:
            - Ôi người nào sao da dẻ mịn màng đến thế!
            Bàn tay đẹp như có sức truyền điện, trong khoảnh chốc làm ấm áp lòng Thu. Người "chị nuôi" (danh từ của Cộng sản) bên ngoài hốt hoảng kêu lên một tiếng ớ, rồi bảo:
            - Cái ông này làm gì kỳ cục? Có buông tay tôi ra không? Đồ quỷ sứ!
            Thu đoán biết bên ngoài không có ai, nên càng trêu chọc hơn:
            - Bắc Kỳ cũ hay Bắc Kỳ mới? Nói thật, tôi sẽ buông tay.
            - Hỏi chi vậy? Tôi không nói. Thân phận tù mà còn muốn tìm hiểu như thế để làm gì? Bộ muốn chết sao?
            - Tôi đã nhiều lần tưởng chết nhưng không chết. Còn sợ gì nữa chứ?
            - Buông tay ra, tôi la lớn bây giờ.
            - Cô cứ la. La cho rõ và to. Tiếng nói cô trong trẻo chắc chẳng la to nổi, để tôi la tiếp cho nhé... La lên để cô bị kiểm điểm. Sao cô lại để cho tên tù biệt giam nắm tay?
            - Ơ hơ!... Ông đừng la... Buông tay tôi ra đi mà...
            Giọng nói có chiều ỉ ôi, năn nỉ. Thu cười:
            - Nắm tay cô một tý, chớ có gì mà cô giận. Cô có bị mất mát gì đâu, phải không?... Bàn tay cô tuyệt đẹp!...
            Anh buông tay cô nàng ra. Cô gái nũng nịu trách móc:
            - Đồ không nên nết! Hồi xưa chắc ông dê gái dữ lắm hả? Chứng nào tật nấy, đi học tập cải tạo mà không sửa đổi. Lần sau, tôi bỏ đói cho chết khô luôn, đừng có trách nhé!
            - Bị cô bỏ đói mà chết, tôi cũng không oán hận.
            - Hừ, cứ nói liều...
            Nàng bỏ đi. Thu nghe những tiếng lạt xạt dưới bước chân nàng mà mỉm cười. Cô gái hăm dọa lần sau sẽ bỏ đói. Cô không có giọng nói ngang tàng rừng rú như bọn cán bộ mà anh đã tiếp xúc. Mặt mũi nàng thế nào? Chắc không đến nổi tệ. Hình như nàng thích trò chuyện. Phải mà, qua câu chuyện vừa rồi, Thu cũng đoán được phần nào tâm sự của cô gái sống đơn côi giữa lũ nửa người nửa ngợm kia.
            Mấy lần sau, Thu chỉ trông thấy bàn tay đưa cơm vào rồi rút ra rất nhanh. Chàng ứng tiếng gọi thì không thấy trả lời. Đến mấy tuần sau... Bỗng có tiếng cô gái gọi:
            - Ông kia, bộ bị trở trời trái gió hay là đau ốm gì mà ông bỏ cơm lại nhiều như vậy?
            Ôi, thì ra nàng còn chú ý đến anh! Nàng còn lo nghĩ đến sức khỏe anh. Anh giả đò quay mặt làm lơ.
            - Ông kia, có nghe tôi nói không? Ông bị đau ốm gì thế? Sao ăn xong không trả tô lại, làm thiếu tô chén cho người khác dùng. Này, nếu tôi không nhớ lắm, đàng ấy thiếu tôi sáu, bảy tô đấy nhé... Ngày mai tôi không thèm mang cơm cho, ráng chịu đó nghe. Tôi cảnh cáo rồi đấy...
            Thu vừa cười vừa ra điều kiện:
            - Muốn lấy tô, cô phải đưa tay trái vào. Bàn tay mặt đã đẹp, bàn tay trái càng đẹp hơn, trắng ra... Uổng cho cô quá! Bàn tay quý phái này lại phục vụ cho bọn chả ra chi.
            - Tôi không nghe ông nói đâu. Trao tô ra nhanh cho tôi.
            Thu cầm tay cô ả, dùng đầu đũa châm nhẹ vào lưng bàn tay có những sợi lông tơ nõn nà. Nàng hốt hoảng giật tay ra:
            - Ơ hay, ông làm gì thế?
            - Có làm gì đâu. Chỉ điểm huyệt sơ cô một cái thôi!
            - Chết thật! Ông muốn ếm gì tôi đây?... Không chơi với ông nữa!
            Thu chợt hối hận vì cử chỉ đùa cợt của anh. Cô nàng phập phồng run sợ mà cách vách anh cũng biết. Thu từ từ đưa những tô, chén ra ngoài. Cô gái vẫn lầm bầm bảo:
            - Quỷ nà! Làm gì kỳ cục!...
            Cô gái mang thắc mắc đi hỏi mọi người. Qua hôm sau, Thu nghe có tiếng chân nhẹ nhàng bước đến bên ngoài xà lim. Tiếng cô gái bảo nhỏ:
            - Mày đưa cơm vào hộ tao đi.
            Có tiếng thỏ thẻ trả lời:
            - Sao không là mầy mà lại là tao?
            - Tao sợ... ông ấy làm như hôm qua...
            - Bộ mầy để nó hôn vào tay à?
            - Bậy nà! Không có đâu. Chỉ chấm đầu đũa thôi. Thế là thế nào nhỉ?
            - Vụ này tao đành chịu thua...
            Lại có giọng nói khác:
            - Thôi nguy rồi, Xuân ơi! Nó bùa phép gì mầy rồi đấy. Bọn này ghê gớm lắm. Chúng nó có học bùa Xiêm, bùa Lào, bùa Miên mà. Không chừng nó thư mầy đấy!
            - Thư là cái gì?
            - Tao chỉ nghe mấy ảnh nói như vậy thôi. Không rõ lắm. Nhưng biết bọn chơi bùa chú này ghê          lắm. Không chừng nó thư... cái gì vào bụng mầy rồi đấy!
            - Người ta nói bị thư như thế, vài bữa lăn ra chết thôi. Mầy có muốn trối trăn gì trước không,                           tháng sau tao đi phép về tin má mầy hay cho bà ấy bớt đau khổ.
            Lại một giọng cằn nhằn khác:
            - Con này miệng ăn mắm ăn muối chớ nói tầm bậy, tội nghiệp nó lo sợ cả đêm không ngủ!
            Nói tới đây, mấy cô bộ đội lại đùa giỡn tiếp, chạy quanh ba cái bếp. Đến sáng hôm sau, mới mờ sáng, không phải giờ nấu cơm, cô gái đã vỗ tay vào vách gọi Thu dậy:
            - Này ông kia, cái cử chỉ hôm qua của ông là nghĩa gì vậy?
            - Cử chỉ nào, hở cô nàng?
            - Ông chấm đũa vào tay tôi ấy mà...
            - Thì cô biết rồi...
            - Ô hay! Tôi có biết gì đâu. Biết như thế nào chứ?
            - Các cô bạn đã nói cho cô rồi mà...
            - Ông... ông... có thư cái gì... vào bụng tôi thật à?
            Thu ôm bụng cười quá xá! Cô bé ngây thơ thật! Anh không nỡ để nàng lo lắng:
            - Cô thông minh như thế mà nghe chi những lời xuẩn ngốc của bọn cán bộ thất học. Tôi làm thế nào mà thư cái gì được vào bụng cô khi tôi chỉ cầm được cái tay cô thôi... Chả gì quan trọng cả... Nhưng tôi chỉ trả lời cô nếu cô bằng lòng đáp lại câu hỏi đầu tiên của tôi...
            - Câu hỏi Bắc Kỳ cũ, Bắc Kỳ mới hẻo hông?
            Thu dịu giọng nói ra đầy cảm tình:
            - Cô nhớ khá dai. Danh từ "hẻo hông" cô vừa thốt ra chứng tỏ cô là Bắc Kỳ cũ. Nhưng tôi muốn cô xác nhận lại.
            - Ư, bản thân tôi là Bắc Kỳ 54 di cư vào Nam, gia đình ở Sài Gòn. Có học ở trường Nữ trung học Trưng Vương.
            - À thì ra là nữ sinh nghe lời dụ dỗ quyến rủ của Việt cộng  mà vào bưng theo cái gọi là "Giải Phóng" đó hẻo?
            Cô gái có vẻ cười cười:
            - Lần này ông đoán trật lất! Bố tôi là Tổ trưởng Công đoàn Sài Gòn Chợ Lớn nằm vùng ở Nhà đèn Chợ Quán. Ông già bắt tôi vào bộ đội để tiến thân theo ý ông ấy... Đấy, ông đã vừa lòng chưa? Đáp lại câu hỏi của tôi đi chứ...
            Thu nghiêm nghị bảo:
            - Thật ra là không có gì hết. Không bùa chú, không bùa ếm thư phù gì cả. Cô đừng tin mấy người dốt nát kia. Tôi sao nỡ làm hại cô, người ngày ngày đem cơm đến cho tôi? Cử chỉ điểm đầu đũa vào tay cô là thương đó thôi. Thương biết chừng nào bàn tay người đẹp! Thương như thương người em gái bé bỏng đó. Nhưng tôi nhận thấy dù không linh nghiệm như thứ bùa nhớ, phép yêu mà cũng linh nghiệm ghê vậy...
            - Đồ quỷ! Đồ yêu! Chết đến nơi không lo, cứ tán tỉnh vớ vẩn.
            - Cô Xuân à, tôi nói thật đấy...
            - Ơ hay! Sao ông lại biết tôi tên Xuân?
            - Làm gì không biết. Người đẹp như cô chỉ có tên Xuân là đúng. Cô cũng vừa xác nhận đấy phải           không?... Cô Xuân à, tôi nói cho cô nghe: con người sanh ra và lớn lên bằng tình thương chớ không bằng hận thù. Các cụ vẫn bảo: "Nhân chi sơ, tánh bản thiện". Người Việt chúng ta hấp thụ được cái văn minh, đạo đức của ông cha để lại. Cho nên mặc dù tôi bị đánh đập tàn nhẫn, tôi vẫn bảo tôi không có tội gì cả, chính kẻ hành hạ, đọa đày tôi mới có tội...
            - Không đúng. Có tội thì bị trừng phạt. Ông có tội, có nợ máu với nhân dân.
            - Thế nào là có nợ máu với nhân dân? Bộ đội chính qui từ Bắc tràn vào Nam, gây chiến tranh, gieo máu lửa khắp nơi. Chúng tôi là người trai thời loạn phải xung quân bảo vệ đồng bào, xóm làng. Dân Miền Nam có cần gì giải phóng bằng súng đạn của Tàu, của Nga? Anh em một nhà, sao không ngồi vào nhau bàn việc nước, việc dân. Bố mẹ cô bỏ miền Bắc chạy vào Miền Nam không phải là chạy trốn cái chủ nghĩa phi nhân của Cộng sản, sao được yên thân, ấm cật rồi lại bùi tai nghe lời dụ dỗ xảo trá của chúng...
            - Tôi không cãi với ông chuyện đó... Ông bị đánh đập mà sao không oán hận?
            - Vì tôi tin tình thương lớn hơn hận thù. Tình thương thắng cả hận thù và ganh ghét. Lúc sanh ra, chúng ta nằm trong cánh tay bà mẹ đầy tình thương yêu cho đến khi lớn lên, đi học đến trường thì nhà trường cũng đào tạo cho chúng ta có chút đỉnh văn hóa để hiểu nhân loại tiến bộ vì lấy tình thương làm căn bản. Tình thương ăn sâu vào tâm trí chúng ta như một qui luật. Cái qui luật ấy chẳng phải riêng cho loài người mà xét kỹ ra là cho cả muôn loài trong vũ trụ. Loài người có óc thông minh, óc sáng tạo mới tìm ra lẽ huyền vi ấy. Đó là sự thật. Đó là chân lý. Cô thử nghĩ xem, chúng ta sanh ra đâu có nanh có vuốt như loài ăn thịt sống hẻo hông? Chúng ta chỉ có hai cánh tay là vũ khí tình thương để thương yêu nhau, nắm chặt tay nhau để chống lại cuồng bạo của thiên nhiên từ xa xưa đến nay. Hai cánh tay ấy không cho phép chúng ta sống cô độc, hay chia bè phái kình chống nhau. Chúng mặc nhiên bảo chúng ta thương yêu, giúp đỡ nhau để trường tồn. Tình thương là chìa khóa căn bản của cuộc đời, của nhân loại.
            Thu nói đến đó vẫn thấy cô gái lặng im. Nàng đang lắng nghe. Như thế là anh thuyết phục được cô gái chạy theo ngụy thuyết thù hận giai cấp, đạp đổ tất cả những cái cũ để mong xây dựng một cái mới mà sẽ không bao giờ thực hiện được. Thu nhẹ nhàng tấn công vào lý tưởng và tà ngụy của nàng:
            - Có một số người, muốn thoát nhanh khỏi hoàn cảnh không ổn định, lấy hận thù thay thế tình thương. Họ bảo chiến thắng đem lại chính nghĩa. Họ hô hào lớp người cùng khổ vùng lên bằng sắt máu, bằng diệt tan giai cấp. Họ không ngờ chính họ tạo nên một giai cấp cuồng tín, say máu, mong chinh phục thế giới bằng hận thù. Họ cho là thù hận đem đến chiến thắng, đến hạnh phúc, đến một thiên  đàng. Cô có tin như thế là đúng không, cô Xuân? Cái đạo lý dìm nhân loại vào sự tàn phá, đổ vỡ để xây dựng một giai cấp ích kỷ, độc đoán giành quyền lợi, tranh thắng bằng giết chóc, tận diệt cho tuyệt, cho tan... Hà hà, cái gì mà là... thề phân thây uống máu quân thù, tiến lên và thét lên, chí trai là bao nhiêu ước nguyền... khà khà...
            Cô bé nghe đến đây vụt đứng lên bỏ chạy, không nói được một câu chống đối hay bào chữa. Thu ngồi suy nghĩ, tin tưởng những ý nghĩ tìm ra sự thật tồn tại và nẩy nở trong óc nàng. Rồi chẳng chóng thì chầy, nàng sẽ đến hỏi anh... Anh thung dung ngồi chờ...
            Cô bộ đội ấy hằng ngày vẫn đem cơm nước cho Thu. Cô chẳng nói một lời, một câu. Có vẻ bực bội thế nào ấy. Có cái gì dằn vặt trong con người nàng? Nàng đang mất tự tin? Đang âm thầm xét lại hướng đi? Đến một tuần sau, khoảng 9 giờ sáng, cô ả ghé miệng ngoài vách nhỏ giọng gọi.
            Thu làm khó lại:
            - Hôm ấy giận bỏ chạy. Nay lại đến quấy rầy gì tôi thế?
            Giọng nói của nàng nhẹ nhàng tha thiết:
            - Tôi có giận ông bao giờ? Ông có làm gì đụng chạm đến tôi mà tôi phải giận chứ! Này ông à, chuyện hôm trước ông nói là nói điêu hay nói thật? Trong đời tôi, tôi không nghe ai nói với tôi cái cũ rích, hủ hóa ấy cả. Chả có thật, chả có ai đem tình thương xóa bỏ hận thù...
            - Có chứ! Ngay cả hồi còn đánh nhau, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn băng bó, chạy chữa cho         các thương binh Việt cộng tại mặt trận... Tôi hỏi cô: nếu loài người lấy thù hận  đối xử với nhau, thí dụ như tên A giết tên B, bà con của tên B trở lại giết tên A, tự nhiên bà con của tên A lại tìm bà con tên B mà giết tiếp tục. Đời này qua đời khác. Thù oán giữa hai nhà chồng chất lên mãi và lôi kéo thêm những người liên hệ của hai bên vào... Thế là hai bên giòng họ, hai tập đoàn, hai thế lực cứ giết chóc nhau để trả thù. Thù kéo dài đến bao giờ mới dứt?... Cô biết không, hiện nay trên quả địa cầu, có hơn phân nửa loài người hiện đang làm cái việc lấy tình thương xóa bỏ hận thù. Vì họ nhận ra hòa bình, an sinh của kẻ khác ảnh hưởng đến họ. Đó là thế giới tự do. Thế giới của những người có nhân tính, có lương tri.
            - Thế ông bảo cộng sản thiếu lương tri, thiếu đạo đức à? Ông phủ nhận thành quả của cách mạng, của xã hội chủ nghĩa?
            - Những thành quả ấy tốt đẹp thế nào nhỉ, cô nương? Có ích lợi, có tốt đẹp thì đã chẳng có hàng nghìn người... hàng vạn người nối tiếp vượt biên... Họ bỏ nơi chôn nhao cắt rún, bỏ cả mồ mả ông bà tổ tiên, bỏ sự nghiệp tài sản để ra đi, lấy sinh mạng mình và cả gia đình làm cái bất tín nhiệm chế độ và cũng là lá phiếu chọn lựa tự do, dân chủ ở hải ngoại... Đã có biết bao nhiêu thuyền vượt biên chìm dưới biển Đông, bao thây xác làm mồi cho cá biển, bao nhiêu hồn oan ngút ngút theo những đợt sóng thần ngoài biển khơi...        Những sự ra đi không ngớt ấy đủ nói lên những kẻ dầu là chiến thắng vẫn là chiến bại, là kẻ thù của dân tộc.
            - Sao lại là kẻ thù? Cách mạng vì nhân dân mà chiến đấu. Xã hội chủ nghĩa đem đến cho mọi người ấm no hạnh phúc...
            - Cô nói đúng nhưng chỉ đúng với lý thuyết của đảng và nhà nước. Nhưng cô có nhận thấy thực tế khác xa, trái ngược hẳn không? Nhân dân có đúng là ấm no? Có đúng là hạnh phúc? Gia đình cô có hoàn toàn được thế? Cha cô hiện đang làm gì? Mẹ cô có sung sướng hơn khi cái gọi là cách mạng thành công ấy?
            Cô gái lặng thinh lúc lâu rồi khẽ thở dài:
            - Tôi lâu lắm không về nhà... Bố tôi hưu trí non. Ông ấy hình như muốn xa lánh tôi. Mỗi khi tôi đi phép về, ông gầm đầu cúi mặt, không nhìn thẳng vào tôi... khi tôi mặc bộ quân phục này... Ông ấy dường thể... không muốn nhắc đến chuyện xưa... kể cả công lao của ông đối với cách mạng, đối với đảng... Tôi không hiểu tại sao vậy? Ông có biết tại sao không?
            - Tôi biết. Bố cô bất mãn mà không dám nói. Bố cô chỉ là múi chanh bị vắt hết nước rồi ném bỏ. Không phải một mình bố cô đâu. Rất nhiều người như thế. Hàng nghìn... hàng vạn... hằng trăm nghìn người... cũng bị thế.
            Cô bé thông minh, nghe Thu nói đến đó liền hỏi lại:
            - Theo ông nói, chả lẽ bố tôi... oán thù lại những... bạn cũ?
            - Oán thù cả chế độ. Oán thù tận thâm tâm. Khi nảy tôi bảo "quân thù" là chế độ. Đó là bọn người hay lật lừa, dùng bạo lực hủy diệt sự an sinh, tự do và hạnh phúc của kẻ khác. Những kẻ gieo đói khổ, tù đày, những kẻ chối bỏ tình bằng hữu đem đến cho con người niềm tin, bình an và hạnh phúc... Cô trông thấy đấy, kẻ thù bên ngoài đã trực tiếp chiếm đoạt đất đai, tài sản, sự nghiệp và danh dự của kẻ khác nhưng không chiếm được tâm hồn họ đâu...
            - Ông nói thế thì là... ông đến đây rất vô ích sao?
            - Cô có trông thấy lối đối xử như thế này chỉ tạo căm thù, oán hận thôi. Làm thế thì cải tạo được gì.
            - Và ông đang... gặm mối căm hờn mãi mãi sao?
            - Không! Nếu tôi còn căm hờn thì tôi đã chẳng trò chuyện với cô bấy lâu... Tôi bảo lấy tình thương giải hóa oán cừu. Họ nhốt chúng tôi vào đây bảo là để cải tạo chúng tôi. Nhưng họ không làm đúng cách... Rồi một ngày, chính chúng tôi lấy tình thương cải tạo lại, khiến họ tự cởi bỏ những sai lầm... Chúng tôi sẽ chỉ cho họ trông thấy kẻ thù chính là sự căm hờn, ganh ghét nằm trong lòng họ... Cô biết không, bịnh tật và những thói hư tật xấu đều phát sinh từ cái sân, cái hận đó... Dẹp bỏ chúng, diệt tan được chúng, tức là có sự bình yên trong ta. Tâm hồn bình yên, con người mới an lạc, khoan hồng và thương yêu mọi người, vạn vật...
            Từ buổi nói chuyện ấy, Thu nhận thấy cô gái có nhiều thay đổi đối với anh. Cô có vẻ nể nang hơn, tha thiết hơn. Tô cơm nàng đưa vào hậu hỉ hơn, dưới đáy tô thỉnh thoảng có cục thịt heo kho mặn, hoặc miếng đậu hủ, hoặc rau cải v.v... Cô gái còn rủ theo một số bạn gái của cô đến nghe Thu nói chuyện. Nhưng anh thừa dịp bảo riêng cô gái:
            - Tôi thích nói chuyện một mình cô thôi. Bạn cô họ ồn quá, vả lại không tiện...
            - Ông ưa nói chuyện với tôi lắm sao?
            - Ưa chứ! Còn cô, cô có ưa tôi không?
            Nàng vùng bỏ chạy. Nhưng từ đấy nàng không dắt bạn theo nữa. Hai người trở nên đôi bạn tâm tình lúc nào không hay. Nàng hỏi Thu:
            - Đêm qua ông có ngủ khỏe không?
            - Không! Tôi chả ngủ được tí nào...
            - Ô hay! Ông đau sao thế? Tôi xin thuốc ở anh y tá cho...
            - Khỏi cần. Tôi có đau ốm gì đâu? Tôi bận đi chơi với Xuân suốt đêm đấy chứ. Đi khắp Sài Gòn. Nào đi chợ Bến Thành. Ngang qua cả trường Trưng Vương của Xuân học khi xưa... Rồi vào Tax nghe nhạc vàng, uống cà phê sữa đá... À, Xuân này, chỉ có Sài Gòn ngày nào mới có cà phê sữa đá thôi... Ngon ơi là ngon... Rồi chúng ta còn đi hồ tắm Thủ Đức, ăn nem chiên trứng, ăn gà quay... Ôi, hồi hôm tôi nằm mơ nhiều giấc mộng đẹp.                                                  
            Nàng rụt rè bảo:
            - Nhưng mà ông đâu biết mặt Xuân?
            - Cần gì phải biết? Tôi tưởng tượng Xuân là cô gái khoảng đôi mươi, yểu điệu, xinh xắn, rất ngoan, rất hiền... Còn Xuân, có khi nào mường tượng ra hình dáng tôi?
            - Xuân biết ông rồi... Cao lớn, khỏe mạnh và... đẹp trai...
            - Thế cũng hay. Chúng ta giữ mãi trong lòng hình ảnh ấy. Có thể sau này, nếu tôi không chết, chúng mình có thể gặp nhau. Nhưng chừng ấy, tôi không nhận ra Xuân, mà Xuân cũng không nhận rõ được tôi. Chúng mình là hai người lạ mà rất thân thiết nhau trong tâm tình...
            Nàng cười khúc khích:
            - Ờ nhì, lãng mạn theo kiểu tiểu tư sản thế mà thích đấy...
            Nàng để yên bàn tay trong tay Thu. Dưới làn da mịn màng, trắng bóc ấy, Thu thấy dường như mạch máu của nàng căng thẳng, dồn dập. Phải chăng tim nàng đang thổn thức? Và Thu cũng nhận thấy một cảm giác êm dịu khó tả tràn ngập trong lòng anh. Cả người anh ấm áp, dễ chịu lạ thường. Chợt Xuân vụt rút nhanh tay ra. Nàng khe khẽ bảo:
            - Coi chừng! Có người đi đến đấy...
            Giọng nói âu yếm như nũng nịu sát bên tai Thu. Anh hình dung đến đôi môi đỏ mộng kề bên vai.             Một hơi thở thơm tho, nồng ấm áp vào má anh. Hình ảnh người con gái bé nhỏ bỗng chốc biến mất bên anh... Một hôm, cô gái bảo Thu:
            - Xuân không đến thăm ông được nữa, ông có buồn không?
            Tin như sét đánh bên tai mình, Thu nhổm lên hỏi:
            - Sao vậy?
            - Xuân bị đổi đi đơn vị khác... Xuân buồn lắm. Xuân bị mất ông.
            - Tôi cũng thế. Tôi đã mất rất nhiều, nhưng mất Xuân lần này là đau hơn cả.
            Nàng nghẹn ngào:
            - Xuân chúc ông chóng được trả tự do... Ông chớ bao giờ bạo động nhé. Nhớ lời Xuân dặn. Xuân nghe mấy ảnh ở đây thường nói ông gan dạ, liều lĩnh lắm. Mấy ảnh ghét ông nhưng phải nể phục. Ông phải nhẫn nại. Nhứt là đừng bạo động... Ở đây, ngoài Xuân ra, không ai là Bắc Kỳ cũ hết, cũng như không ai có học trường Trưng Vương... ông sẽ khổ nhiều vì bọn ấy...
            Thu xúc động:
            - Cảm ơn Xuân. Tôi nhớ mãi lời Xuân căn dặn để giữ mình.
            Nàng triều mến, bịn rịn:
            - Chào ông!... Vĩnh biệt!...
            Có tiếng của anh Thu đáp lại:
            - Vĩnh biệt Xuân! Vĩnh biệt em... Em là người đàn bà kỳ lạ nhứt trong đời anh gặp gỡ. Anh không biết mặt em. Anh không biết đến hình vóc em. Trong ba tháng vừa qua, tiếng nói của em đã sưởi ấm lòng anh, và mãi mãi đó em! Từ nay về sau, cầm lấy tô cơm, anh mường tượng đến bàn tay phiếu mẫu của em. Ăn cơm với muối, anh nhớ tới miếng thịt em nhường lại cho anh. Và mỗi lần muốn bức tung xiềng xích dù gặp bất cứ hậu quả nào, anh lại nghĩ đến em, đến những lời ân cần căn dặn thiết tha... Xuân ơi, anh thương yêu em không thể thốt lên lời, em có hiểu không?
            Thu nghĩ là nàng chưa đi. Nàng hãy còn đứng bên ngoài. Tiếng nói của anh dù nhỏ đến đâu cũng âm hưởng vào lòng nàng, thẳng vào tim nàng... Bên ngoài, ngọn gió chiều vi vu bất tận... Phải chăng tiếng thổn thức của cô gái đã thông cảm với anh, đã được anh cải tạo để trở về với hồn nhiên và chân thật!
            Thu bị biệt giam sáu tháng mới được trở về trại. Sau đó mấy năm, anh được trả tự do. Thỉnh thoảng, anh bảo:
            - Tớ thích ăn khoai lang. Ăn từ từ, trịnh trọng hơn bất cứ món sơn hào hải vị nào. Ăn để nhớ đến ngọn lang trong Connex, nhớ đến người con gái tôi không hề biết mặt mà yêu thương biết bao. Mà chính nàng, có lẽ nàng cũng giống như tôi... Vì nàng đã thốt ra lời hoan nghinh trò lãng mạn tiểu tư sản tức là đã phá lý thuyết cộng sản bị nhồi nhét vào đầu... Hà hà, ai thắng ai? Cộng sản cải tạo tôi hay tôi cải tạo lại chúng...
                                                                                                           Hiếu Đệ

     --**--
                Cơn Lốc Xoáy Tim
Những năm ngắn ngủi học ở trường Tiểu học Bổ túc Gò Đen, lúc bấy giờ thuộc tỉnh Chợ Lớn, tôi có quen biết và giao du qua lại khá khắn khít, về sau rất thân tình với một thằng bạn cùng lớp. Tên nó là Nguyễn Đình Thứ. Nó được bạn bè trang lứa gọi đùa với tục danh Bảy Nổ do tánh tình hay lốp bốp khoe khoang. Việc gì nó cũng biết. Chuyện chi cũng có nó xía miệng vào, đôi khi càn lướt nhảy tót ở đốc giọng người đối thoại. Nó tỏ ra rành rọt, thông thạo hơn ai hết dù ở lãnh vực nào. Một mẫu người tà lanh điển hình, hiếm hoi ở lứa tuổi còn nhỏ hếu chúng tôi. Nhưng việc nó trúng hay sai, có lý hay không, khổ nỗi lúc ấy chẳng có đứa nào trong bọn tiểu yêu chúng tôi hội đủ trí khôn và lập luận khả dĩ để tranh cãi tay đôi với nó.
            Quê nó ở Voi Lá Long Phú, thuộc xã Long Hiệp, quận Bến Lức, tỉnh Long An ngày nay, nằm giữa hai thị trấn Gò Đen và Bến Lức, nối liền nhau hằng ngày nhờ có những chuyến xe lửa khứ hồi Sài Gòn - Mỹ Tho. Những chuyến xe lửa thường nhựt này chạy bằng than đá Hòn Gay Bắc Việt thì phải, kèm với củi khúc khai thác tận cuối mũi Cà Mau xa xôi hay ở vùng Rừng Sát ngay cạnh bên Thành phố. Xe ì ạch, khổ nhọc kéo những toa hành khách đông nghẹt và những toa lộ thiên chở hàng hóa cồng kềnh nặng nề, uốn lượn như con rắn khổng lồ trườn mình trên những cánh đồng lúa xanh um ngút mắt. Thỉnh thoảng, ở những nơi nguy hiểm hay lúc xe sắp vào ga có bản chỉ dẫn báo hiệu, đầu máy bắt đầu rút những hồi còi chát chúa bưng tay điếc óc, phun khói đen ngòm. Tàn than đá, than củi vung vẫy hai bên ruộng, về đêm trông như pháo bông hay pháo thăng thiên dịp Nhà nước tổ chức tưng bừng những ngày Tết Nguyên Đán hay lễ hội lớn.
            Tôi không biết vì lý do nào mà thoạt tiên tôi cảm thấy khớp và nể nang nó quá, mặc dầu trong lớp, nó chẳng phô trương, thi thố chút ít vốn liếng sở trường sở đoản nào khả dĩ đủ để lưu ý lũ chúng tôi. Nhiều khi nó còn bị thầy tôi la rầy, quở phạt nặng lời những khi thầy công bố kết quả hằng tuần hay lúc phát bài thi tam cá nguyệt. Tánh nó lém lỉnh, hay chơi cha, hống hách ngang ngược, xếp sòng thiên hạ. Nó lấn lướt, hiếp đáp lũ chúng tôi, vốn ốm yếu cà tong teo nhách, bản tánh cù lần lửa lại ngoan hiền quê mùa đã đành, nhưng cũng tỏ ra ngỗ nghịch kình chống ngang ngửa, chẳng bao giờ chịu lép vế phục tùng, nhường một bước trước các bậc đàn anh lớp trên, đa số có vóc dáng to lớn hơn nó nhiều. Chí tình mà nói, nó chẳng có nét gì gọi là mẫu mực, lý tưởng đáng nêu gương cho chúng tôi noi theo như học hay, ngoan ngoản, dịu hiền... Dù vậy, tôi vẫn thấy rót trước mặt nó.
            Nó gốc gác ở Voi Lá, Long Phú mà! Một vùng đất lịch sử, một cảnh thổ tiếng tăm một thời, thấm đẫm bao nhiêu kỷ niệm đau thương, bao nhiêu nỗi niềm bất hạnh đưa đến những trạng huống trầm thống khó có thể nhạt nhòa trong ký ức tập thể. Có lẽ vì vậy cho nên tôi có thái độ đặc biệt đối với nó chăng? Tôi từng nghe ông bà tôi nói: "Sợ cọp, thấy cức cọp cũng sợ". Tôi ngưỡng mộ và quý trọng địa danh Voi Lá, nên khi biết nó sinh trưởng ở đây, tự nhiên nó đã chiếm ngay một chỗ ngồi trang trọng nơi quả tim non nớt của tôi lúc bấy giờ. Đó chẳng qua cũng là một điều rất phải lẽ.
            Voi Lá - Long Phú! Làm sao tôi quên được dù năm tháng dằn vặt đi qua đời tôi như cuồng phong bão táp, dù những tàn phá của thời gian đã cướp đi một phần lớn sinh lực và trí nhớ của tôi. Lúc ấy, mẹ tôi đã là một giáo viên tỉnh lẻ đang dạy ở trường Tiểu học Bổ túc Gò Đen do một đặc cách có một không hai vì không phải xuất thân ở trường Sư Phạm Sài Gòn. Trường gồm chẵn chòi sáu lớp: đồng ấu, dự bị, lớp ba, lớp nhì một năm, lớp nhì hai năm và lớp nhứt, chuẩn bị cho học sinh thi lấy bằng Sơ đẳng Tiểu học ở trung tâm duy nhứt Phú Lâm cho toàn tỉnh Chợ Lớn.
            Tôi được sống quây quần hạnh phúc bên cạnh mẹ tôi. Tôi không còn lưu linh lang bạt, buông tha lãng tử như thuở nào nơi xóm Rạch Rít buồn tênh khổ hạnh của tôi hay khi mẹ tôi gởi tôi đi học và ăn cơm tháng nơi nhà bà Cả Bảo bên hông nhà lồng chợ làng Phước Lợi nữa. Mẹ tôi có mướn một căn nhà để ở nơi dãy phố gạch sạch sẽ khang trang của một ông Hội Đồng. Dãy phố gạch bảy tám căn này có thể nói có một không hai ở thị trấn, nằm giữa ga xe lửa Gò Đen và biệt thư nguy nga, lộng lẫy của ông công tử Có. Những chiều thứ bảy, chúa nhựt, tôi thường thấy ông Hội Đồng đến đây thăm gia đình người con gái đầu lòng, cô Hai Lan và rể ông, cũng ở một căn. Đôi vợ chồng trẻ này làm chủ cây xăng bơm tay tọa lạc bên kia đường Lục Tỉnh đối diện.
            Cây xăng Caltex (?) duy nhất này không biết hoạt động được bao nhiêu năm rồi mãi đến đời tôi, đã thấy có nó. Tuy không nhộn nhịp đông đảo khách hàng nhưng thực tế nó cũng giúp ích bà con ở những vùng thôn quê cách trở phụ cận không ít. Họ chẳng phải phí công phí sức lặn lội đi đâu xa khi có nhu cầu xăng nhớt. Nhiều lúc, khách hàng hiếm hoi thưa thớt, nhứt là vào buổi trưa, cây xăng không có người thường trực. Khách quen biết đã rành giờ giấc mở cửa sáng chiều của cây xăng. Thỉnh thoảng có xe hàng hay xe chở hành khách, đặc biệt là loại "xe thơ" chạy đường Lục Tỉnh xuôi về các tỉnh miền Nam hay những xe đò lở chạy tuyến ngắn đến các thị trấn nhỏ quen thuộc chung quanh Gò Đen Phước Lợi như Long Khê, Long Sơn, Phước Vân, Long Định... chẳng hạn, đậu lại đổ xăng. Tài xế đa số cũng là chủ xe, quý thì giờ còn hơn tiền bạc, bóp kèn kêu gọi, thúc hối inh ỏi. Tôi chơi trước sân dãy phố, thường phóng nhanh qua đập cửa ầm ầm, réo cho bằng được thầy Hai hay cô Hai cho người qua bơm xăng. Tôi cũng thích lót tót theo chân anh làm công để nhìn anh gồng tay đẩy cần bơm qua lại đều tay nghe cộc cộc, cộc cộc... Bọt xăng không ngớt quyện tròn trong bình thủy tinh.
            Ông Hội Đồng tướng mạo phốp pháp, tóc đã ngã quá màu muối tiêu. Ông mang kiếng cận thị hay viễn thị chi đó, tôi đâu rành nhưng trông dầy cọm với gọng đồi mồi óng ánh. Tôi còn nhớ dường như ông rất thích, nên mỗi dịp gặp ông, thấy ông luôn mặc quần sọt trắng, hơi rộng so với bây giờ, có vẻ thùng thình là khác. Lai quần dài gần chí gối. Áo sơ mi ủi phẳng phiu, xếp nếp, lúc nào cũng được ông trang trọng bỏ vào trong quần. Ông mang vớ trắng cao tận gần đầu gối, bó chặt hai bắp chuối.
            Dáng  người có tuổi nhưng trông ông tràn đầy nhựa sống yêu đời. Vui tánh, miệng ông tươi cười cởi mở. Ông nói năn rổn rảng to tiếng. Trông ông, người ta nhận ngay một con người ăn nói lưu loát và sắc bén. Ông đi đứng xê dịch lanh lẹ. Quả thật một nhân vật quý hiếm trong tổng tôi, vừa xốc vác vừa xã giao nhiều, hiểu biết rộng. So với thời buổi kềm kẹp ngu dân của thực dân thời cực thịnh, ông là người đếm chưa giáp năm ngón trên bàn tay, đã theo Tây học nơi quê hương tôi. Hội Đồng lúc ấy không phải ít. Nơi nào chẳng có những chức tước phẩm hàm do thực dân ban bố để trả công khó những người trung thành, tận tụy giúp nhà nước Đại Pháp hoặc mua với tiền của sản nghiệp dư thừa, tạo dựng không đổ mồ hôi công sức. Họ "có tiếng thêm có miếng".  Nhan nhản nào Hội Đồng Quản hạt, Địa hạt, Hội Đồng Thành phố... chưa kể những huyện hàm, phủ hàm, phán hàm... địa phương nào cũng có vài ba ông, hằng năm hiện diện bệ vệ ở ngày lễ kỷ niệm 14 tháng bảy của "Mẫu Quốc". Phần lớn là những ông Hội Đồng "gật", Hội Đồng "quỳ", Hội Đồng "ù ì" (oui) tình nguyện bảo vệ vô điều kiện quyền lợi của thực dân hay mù quáng chỉ lo cho lợi ích riêng tư hẹp hòi của họ và gia đình thân tộc.
            Sành sõi, hoạt bát, trái hẳn với số đông các bạn đồng liêu, ông rất được mọi người thương yêu, trọng kính. Sự trọng kính thương yêu đó chẳng qua là do sự thăng hoa tấm lòng xử sự có đạo lý, hợp luân thường và kiến thức rộng rãi của ông ở thời buổi người dân bị áp bức bốc lột mà đồng tiền bất chánh, lem luốt máu người vô tội, che mờ cả lý trí và lương tâm con người. Người ta càng mến mộ ông hơn khi ông đứng mũi chịu sào thành lập một chi hội Khuyến Học ở quận nhà nhằm tạo điều kiện thực tiển để dân trí được mở mang và ý thức chính trị sớm được vực dậy hòng tiếp thu hữu hiệu những tư tưởng tiến bộ và khoa học kỹ thuật của trào lưu mới đang sôi động trên thế giới. Cả mẹ tôi, khi đứng trước mặt ông, luôn biểu lộ sự cung kính, quý phục như đối với ông bà tôi. Mỗi lần gặp đó, tôi hay lẻo đẻo thẹn thùng đứng núp sau lưng mẹ tôi, thỉnh thoảng thò đầu ra liếc nhìn trộm ông. Nhưng không hiểu sao và quả thật lạ lùng vì những cái liếc, thập thò nhìn trộm đó lại có một ma lực khiến tôi không bao giờ và chẳng bao giờ quên được hình ảnh ngày ấy của ông. Những lúc đó, ông cũng thường xoa đầu tôi, nựng má tôi, hỏi hang mẹ tôi về sự học hành của tôi làm cho tôi vô cùng sung sướng và hãnh diện là khác.

                                                                              **
            Bẵng đi một dạo, ngày hai buổi cắp sách đến trường theo dòng đời lặng lẽ trôi nhanh, tôi chẳng hề để ý đến những gì xảy ra chung quanh mình. Bỗng một hôm, lính tráng, mã tà phối hợp với Tây đen Tây trắng "lính kín" rần rần rộ rộ kéo đến đóng ở trường tôi, nơi "căn-tin" phía ngoài, sát dãy hàng rào bông bụp. Bên trong vẫn tiếp tục giành cho học trò nhà xa dùng bữa trưa như trước nay. Tôi để ý thấy mẹ tôi cũng thường tỏ vẻ lo âu, đêm đêm phập phồng, sợ hãi. Đôi lúc, mẹ tôi biểu lộ hẳn ra ngoài sự thắc thỏm của người khiến tôi cứ chập tối, đèn đuốc lung linh mờ ảo, hay quấn quít bên gót mẹ, không rời một bước. Những lúc ấy, mẹ tôi hay vỗ đầu âu yếm bảo:
            - Con trai gì mà nhát hít. Lớn xộn rồi chớ nhỏ nhít gì đâu?!
            Nhiều khi thức giấc, tôi nghe mẹ tôi nói chuyện này, chuyện nọ với mấy bà hai bên phố, khi to tiếng, khi thầm thì thủ thỉ nhờ ngăn cách bởi vách ván bổ kho mỏng te. Tôi thêm co rút, len lén mở mắt, thấy chung quanh mình toàn một màu đen huyền bí vắng lạnh.
            Xa xa, từ những thôn ấp nghèo nàn khốn khổ, văng vẳng tiếng tù và nhặt khoan, khoan nhặt. Mấy bà bàn tán với nhau, tôi nghe tiếng được tiếng không do còn chưa tỉnh hẳn, về những ám hiệu đó, đang thúc giục lòng dân tập họp biểu tình chống chánh quyền thực dân, truy lùn làng xã, hương chức hội tề cùng cường hào ác bá địa phương. Họ động viên cổ võ nhau kéo đến đốt phá các nhà việc. Những thôn làng lân cận Gò Đen, Bến Lức như An Thạnh, Bình Ảnh, Thanh Hà, Long Hiệp, Mỹ Yên, Tân Bửu, Tân Túc, Rạch Chung, Chợ Đệm v.v... những cuộc đất và cảnh thổ quá quen thuộc với tôi, nơi tôi từng lang thang, lê gót tới lui những ngày lễ lớn hay cuối tuần cùng bạn bè trang lứa, nay đã thực sự trở mình. Bà con các thôn làng ấy rất can đảm. Họ đang giác ngộ và tự động cùng đứng lên chống bất công áp bức.
            Thỉnh thoảng trong ngày, mẹ tôi cùng mấy bà chung dãy phố thắc thỏm đưa mắt nhìn về hướng đường Lục Tỉnh đối diện. Đoạn đường duy nhứt này làm ranh giới phân chia thị xã Phước Lợi với các làng mạc ăn thông về phía bưng biền Phú Hội, Rạch Chung, Rạch Rít... Không khí trong vùng lúc này thật nặng nề, nghẹt thở. Người người dớn dác, dè dặt. Gặp nhau, họ to nhỏ trong thoáng chốc. Những chiếc xe bít bùng của giới chức trách thuộc địa chạy tới chạy lui như mắc cửi, với lính tráng võ trang súng ống cầm tay, lạnh lùng, oai vệ. Đó đây, nhiều ngôi nhà dân chúng bị thực dân đàn áp trừng trị, đốt cháy ngùn ngụt... Nhìn về phía xa hun hút tận các vạt đất chéo vườn nơi những thôn ấp hắt hiu buồn tênh vốn không có đường sá để đi lại ngoài những bờ mẫu ngoằn ngoèo đan quyện nhau như mặt nia tre thu nhỏ, cảnh vật thầm lặng đến độ rờn rợn lạnh lùng khiến cho khó có ai dám nghĩ rằng ở đó có người định cư sinh sống. Nơi đây, nhiều cụm dừa nước và lùm buội hoang vu bạt ngàn khi lính tráng đến đốt nhà cửa, đốt lều trại, bị cháy loan nám vàng rải rác. Những đốm sẫm màu ấy chen lẫn giữa màu xanh sầm uất của cây cối thiên nhiên, hắt lên nền trời cao vời vợi như những cù lao ốc đảo trơ trụi khô cằn. Có người tỏ ra biết chuyện, thập thò rĩ tai vừa đủ nghe:
            - Ông Hội Đồng Võ Công Tồn vừa bị bắt tại nhà ông ở xóm Lò Gạch Long Phú cùng với một người con trai.
            Họ còn đoan chắc:
            - Ông có tham gia quốc sự, có liên hệ với các "Hội kín". Vì trước đó một hai ngày, nhà báo lừng lẫy Nguyễn An Ninh, từng là chủ bút tờ báo tranh đấu Pháp văn Chuông Rè (La Cloche Fêlée) cũng bị mật thám vây bắt ở đây.
            Thì ra nhà ái quốc Nguyễn An Ninh, một khuôn mặt lớn của tỉnh nhà, thuộc dòng dõi gia đình Nguyễn An có truyền thống yêu nước khét tiếng, một chiến sĩ cách mạng chân chính với lập trường quốc gia dân tộc vững chắc, từng gây cho thực dân và đám tay sai khuyển mã mất gốc quên cội quên nguồn những đòn đã kích tấn công mất ăn mất ngủ, đã bị công an, "lính kín" thực dân theo dõi, truy lùn lâu nay. Chúng đã khám phá do một tay sai chỉ điểm, ông từng ẩn náo tại biệt thự của người bạn đồng hành đồng chí, cùng chung một tấm lòng, cùng chung một quyết tâm là ông Hội Đồng Võ Công Tồn ở Voi Lá, Long Phú. Ông Hội Đồng chính là người công dân yêu nước thức thời đã từng nuôi nấng, che chở, cấp dưỡng nhà cách mạng Nguyễn An Ninh trên bước đường đấu tranh vừa công khai vừa bí mật nhưng lúc nào cũng cam go, gian khổ và nguy hiểm. Nhà ông Hội Đồng thuở ấy còn là trạm liên lạc của tổ chức hoạt động bí mật của ông nữa.
            Hôm ấy, vào một ngày u ám của năm 1937, mật thám Pháp tập trung lực lượng đổ xô đến ấp Voi Lá - Long Phú. Chúng hùm hổ áp vào tư thất bắt ông Hội Đồng giải thẳng về câu lưu ở Khám Lớn Sài Gòn rồi đem xử chiếu lệ. Về sau, thực dân lại bắt đưa ông đi đày vĩnh viễn ở Côn Đảo năm 1940 đến chết hai năm sau đó. Riêng nhà báo yêu nước lừng danh Nguyễn An Ninh sau nhiều lần bị bắt và trả tự do, lúc này bị an trí ở Mỹ Tho theo án lệnh của thực dân tuyên xử ông năm năm biệt xứ. Trong cao trào đàn áp đẫm máu ở Nam Kỳ, Sở Mật thám phái một viên thanh tra Pháp đến tận nhà ông ở Mỹ Tho, trình giấy biện lý, bắt ông giải về Sài Gòn, tống giam ngay vào Khám Lớn khét tiếng, bấy giờ không còn chỗ để giam người. Nhiều "tội phạm" bị đẩy giam ở "xà lan" chật chội, nóng bức khiến không ít người phải bỏ mạng. Lúc ấy vào khoảng tháng 10 năm 1939 thì phải.
            Ông bị buộc tội phá rối trị an, xúi giục nông dân làm loạn ở nhiều tỉnh và thị xã lớn ở Nam Kỳ, nhứt là tổ chức những "hội kín", cơ quan tuyên truyền bí mật nhằm chống phá chánh quyền hiện hữu. Ông bị đem ra xử kín trong một phiên tòa dân sự và bị kết án năm năm tù và mười năm biệt xứ. Ông bị đưa đi đày ở Côn Đảo xa xôi đồng thời với bao nhiêu chí sĩ hiên ngang can trường khác để sau cùng chịu chung số phần hẫm hiu như ông Hội Đồng Võ Công Tồn vài năm sau đó.
            Bà con tôi đồn đãi như vậy... Dù là tin đồn đãi nhưng truyền đi nhanh như chớp. Lời bàn tán đó của bà con cứ lan rộng mãi khắp vùng rồi lắng dần trong sinh hoạt hằng ngày vốn có nhiều khó khăn vất vả hơn là điều kiện thuận lợi, mát mái xuôi chèo.
            Lâu lắm về sau, dưới chế độ Đệ Nhứt Cộng Hòa, tôi có giữ một chức vụ nho nhỏ trong guồng máy hành chánh và được giao phó công tác hướng dẫn một phái đoàn đi khảo sát tỉnh Côn Sơn, trong thời kỳ chánh phủ dự định xây phi trường Cỏ Ống. Lúc ấy Thiếu tá Bạch Văn Bốn làm Tỉnh trưởng. Tôi lưu lại đây trọn một tháng trường, một tháng đăng đẳng xa hẳn đất liền, bỏ lại phía sau mình ánh đèn màu quyến rủ của một Sài Gòn thanh bình thạnh mậu vào những đêm vui chơi bất tận. Lúc bấy giờ, hằng tháng chỉ có một chuyến tàu dân sự, chiếc Lạc Hồng thì phải nếu trí nhớ của tôi không phản bội lại mình để đảm trách nối liền bến Bạch Đằng và Côn Đảo. Về sau, chiếc Lạc Hồng chìm nhân một chuyến ra khơi thường lệ. Việc liên lạc với đảo được giao cho các tàu hải quân thuộc loại giang đỉnh tuần sông Cửu Long thời chiến, có nhiệm vụ tiếp tế thức ăn, thuốc men, mang thư từ và bưu kiện cùng chuyển nhận tù nhân v.v...
            Tôi mang trong lòng tâm trạng một công dân Việt Nam ở lứa tuổi đôi mươi, cái tuổi đầy ấp phiêu lưu, tưởng tưởng, rạc rào ý hướng trong sáng. Tôi đang đứng trước vùng đất quê hương xa tít mù khơi, chơi vơi giữa đại dương mênh mông vô tận. Nơi đây vẫn còn lưu dấu bao nhiêu vết tích lịch sử lẫm liệt, bao nhiêu trang sử hào hùng của những chí sĩ can cường, suốt đời không chịu nhục, không cúi lòn qui phục uy quyền bạo lực, mà trái lại hiên ngang ngẩng cao đầu liên tục đấu tranh giành độc lập quốc gia và hạnh phúc toàn dân. Tiếc thay, cũng nơi xa xôi hắt hiu đó, lại là một bãi thập giá, mồ chôn vĩ đại dập vùi thân xác từng lớp anh hùng nghĩa sĩ hữu danh và vô danh.
            Tôi không bao giờ quên một buổi chiều cuối hạ đầu thu năm ấy, tôi cùng một ít nhân viên phái đoàn chậm rãi lần theo lối mòn "Hàng Dương", tìm thăm mộ nhà ái quốc Nguyễn An Ninh, theo sự hướng dẫn của giới hữu trách địa phương. Một nghĩa cử tưởng nhớ một chí sĩ vắng số. Gió biển lành lạnh từng đợt thổi tạt vào đảo, cuốn phăng những chiếc lá bàng khô lốc, chạy lào xào vô tư trên con đường nhựa nhỏ hẹp thẳng bon, bọc dài theo bờ biển. Nơi đây có cầu tàu kiên cố nằm sóng soải trên những tảng đá xanh to lớn nhô dài ra xa phía trước dinh Tỉnh trưởng mà nhiều tù nhân sống sót ngậm ngùi khi liên tưởng đến những người bạn đồng hành bạc số của mình: "Mỗi tảng đá là một mạng tù".
            Khi hoàng hôn phụp xuống, trong cảnh tịch mịch vắng vẻ ấy, hàng dương reo vi vu rợn người. Tôi có cảm tưởng đang lạc vào nơi thâm u huyền bí của những chuyện ma quỷ quái đảng xa xưa, với âm thanh xào xạc của lá khô trên nền cát đìu hiu, với oan hồn lãng đãng đâu đây như réo gọi, như thầm thì, như nhắn gởi một chút trắc ẩn man man, một nỗi niềm thầm kín ấm ức, một uất hận câm lặng trong cay đắng triền miên hay một chút nuối tiếc dằn vặt đại sự bất thành.
            Mộ nhà ái quốc Nguyễn An Ninh nằm trong bãi cát đìu hiu đó, la liệt những bài vị đơn sơ làm bằng những thanh tre hay những khúc gỗ ô tạp, dài ngắn không đồng đều với nét chữ lưu truyền hậu thế, vừa nguệch ngoạc, vừa lóm đóm phai mờ, do hấp tấp hay thiếu phương tiện. Mà hẳn cũng do thời gian phũ phàng tàn phá. Một bãi tha ma trong những truyện liêu trai Trung Hoa cổ thời? Không. Tôi đang đứng trước một thực tế bẽ bàng, một sự thực rờn rợn gay óc, vượt quá xa trí tưởng tượng mãnh liệt và phong phú của tôi. Sự rung động đưa tôi đến mức tột cùng khi trước mắt tôi, chờn vờn trong bối cảnh mờ mờ ảo ảo một chiều hoang đảo đang hấp hối, ảnh tượng bừa bãi đổ vỡ, một kết thúc bi thương, tủi nhục của kiếp sống trần gian, thực sự trần truồng lạnh lẽo, thực sự bị lãng quên giữa hàng dương ngất nghểu, um tùm nhiệm mầu, đang vi vu bất tận. Và càng bất tận hơn, càng rõ ràng dồn dập hơn khi màn đêm xuống rất nhanh trong vắng lặng não nùng nơi vùng sóng nước mênh mông, núi rừng chập chùng của Côn Đảo huyền bí.
            Trong bối cảnh thương đau chua xót đó, chí sĩ Nguyễn An Ninh may mắn hơn những bạn đồng hội đồng thuyền, đồng hành đồng chí, còn có một ngôi mộ được nhận diện dễ dàng trong số hằng hà sa số mả lạng ngổn ngang. Bạn bè ông, những người đã từng khâm phục và ngưỡng mộ khí phách bất khuất, đã từng ca ngợi lòng yêu nước trong sáng và phong cách đứng đắng mã thượng của ông, mỗi lần có dịp đi ngang qua đây, cố tâm chồng chất lên nấm mồ hoang phế những cục đá bể, những thỏi gạch, những hòn sỏi... mà họ tình cờ bắt gặp hay cố gắng tìm kiếm đâu đó chung quanh.
            Tôi được nhà chức trách hướng dẫn tôi chiều hôm đó, chỉ cho biết mộ ông Hội Đồng Võ Công Tồn, theo lời yêu cầu của tôi. Mộ ông nằm không xa mộ chí sĩ Nguyễn An Ninh, cũng rất dễ nhận diện lúc bấy giờ, nhờ một ít chi tiết trên thỏi bài vị còn khá rõ, đọc không đến đổi khó khăn. Tôi đứng lặng yên, thờ thẩn. Tôi chợt thấy tim mình đau nhói, cái đau về một điều gì đó hay một hình ảnh nào đó, từ lâu dù đã phôi pha nhạt nhòa ít nhiều hay đã vơi đi phần nào, nay bỗng dưng lại cục cựa trở trăn, thôi thúc nhắc nhớ như muốn trào vọt ra ngoài, không cách nào ngăn chặn được.
            Tôi hồi nhớ thuở xa xưa... Lúc ấy, mẹ con tôi tá túc nơi dãy phố gạch duy nhứt và khang trang của ông ở thị trấn Gò Đen. Nhưng giờ đây, dù cố đè nén trước mặt đông đảo mọi người, nước mắt tôi sao cứ len lén chầm chậm trào ra từng chập. Trong trí tôi, hiện ra đậm đà, sinh động hình ảnh ông ngày nào. Tôi nghe như văng vẳng, thầm thì bên tai những nhận xét của mẹ tôi về ông, sau này mỗi lần có cơ hội nhắc đến ông. Những ngọn dương ngả nghiêng nghiêng ngả theo từng cơn gió biển rạc rào để sau đó buông những tiếng vi vu xé lòng người đã đưa tôi đi ngược dòng thời gian trở về với quá khứ thuở ấu thời.
            Tháng năm âm thầm và lạnh lùng đi qua... Dòng đời cứ mãi cuồn cuộn xô đẩy những cơn sóng thạnh suy hưng phế nhưng đối với tôi vốn con người đa cảm, dễ dàng xúc động, tôi không sao không xao xuyến trong lòng khi hồi nhớ những hình ảnh ẩn hiện, giờ đây luân lưu không ngừng nơi sâu thẳm của miền ký ức. Bao nhiêu kỷ niệm vốn được trân quý, tưng tiu cất giữ kín đáo, nay dường như đang phục hiện trong tôi với đầy đủ những chi tiết đáng yêu đáng mến. Tôi thực sự đang đi lạc, ngược dòng thời gian dù có muốn dừng lại ở hiện tại cũng không sao được nữa... Thuở ấy, mẹ tôi nào biết gì về chánh trị, về ý thức cách mạng, về phong trào đấu tranh chống thực dân giành độc lập quốc gia ngoài những phương trình giáo án hằng ngày. Mẹ tôi chỉ chú tâm khai thông vỡ lòng cho con em trong thôn ấp, làng tổng quê nhà để chúng được mở mang lập thân. Người chỉ mơ hồ về những tổ chức hội kín, sinh hoạt quốc sự lúc ấy và rất e dè, kín đáo nói đến những liên hệ và hoạt động của ông Hội Đồng. Chắc mẹ tôi vốn là một công chức nơi tỉnh lẻ lại góa bụa thế cô nên sợ bị liên lụy nguy hiểm chăng? Vì trên vai người hãy còn trĩu nặng một trọng trách nuôi nấng, dưỡng dục và dạy dỗ một đàn con nheo nhóc lại mồ côi. Nhưng một điều đã in sâu vào tâm trí non nớt của tôi, là mẹ tôi cứ nhắc đi nhắc lại những chuyện về ông Hội Đồng bênh vực bà con quen biết trong làng, trong tổng, mỗi khi có việc ức oan hay bị hà hiếp.
            Tôi còn nhớ mẹ tôi có kể chuyện bà Năm Phán ở ấp Bàu Lác xóm tôi. Bà có họ hàng xa bên phía ngoại của mẹ tôi, lâu lâu mới gặp mặt một lần trong những ngày giỗ lớn qui tụ đông đủ họ hàng xa gần.  Vì nghèo túng vô phương kế để vực dậy một cuộc đời lam lũ đang trên đà sa sút buổi bóng xế trăng nghiêng, bà quyết định trong dày vò ray rứt nội tâm, bán phần ruộng hương hỏa còn sót lại gồm đôi ba mẫu ruộng bưng cho ông Tổng Mạnh. Giấy tờ bị tròng tréo sao đó, phải đi đến tranh tụng. Thất kiện ở tòa dưới, bà ức lòng nhứt quyết phải chống án lên tòa trên cho bằng được, xem như một hành động chính thức kêu oan ức ở xã hội bất công. Do vậy, bà đi lên đi xuống đất Sài Gòn liên tu bất tận, đến độ mòn mấy xác dép, rã bèn bao nhiêu áo quần, khăn khứa đổi thay mấy lớp, rốt cuộc chẳng đi đến đâu. Nỗi thất vọng chán chường của những kẻ thấp cổ bé miệng! Phủ bênh phủ. Huyện bênh huyện. Thời nào cũng vậy. Chẳng có gì mới mẻ cả trên trái đất này. Nền tư pháp thực dân chẳng bao giờ bênh vực người dân bản xứ dốt nát quê mùa, thân phận hẩm hiu. Tình cảnh nhập nhầy, cà rịch cà tang, thầy đổ bóng bóng đổ thầy để nhận chìm xuồng của tòa án, khiến nhiều người oan ức trông chờ sự công bằng mòn con ngươi, đôi khi đến chết vẫn mang theo xuống tuyền đài trọn vẹn những bất công với nỗi niềm câm nín, ấm ức tột cùng.
            Nhờ ông Hội Đồng, bất bình về những hành vi sai trái lộng hành quá ư hiển hiện, bất chấp đạo lý luân thường, bất chấp mẫu mực công bằng truyền thống ngàn đời, cái hồn của ông cha ngày trước, ông nhúng tay vào nên chẳng mấy chốc, bà Năm vớt vát được chút đỉnh làm phương kế sinh sống, lây lất tuổi già đến lúc giã từ cõi đời ô trược hư hư thực thực này. Một sự kiện điển hình không thể tin nỗi vào thời buổi ấy mà ông đã làm được nhờ ở quyết tâm và tấm lòng nhân ái, thương yêu giúp đỡ người cô thế trong cảnh khốn đốn khó nghèo.
            Con người hoạt bát, phóng túng, hăng say và thương người ngày nào đó, giờ đây, nơi này, gởi nấm xương tàn tại hoang đảo xa xôi, không mồ không mả, không người sớm viếng tối thăm. Tôi bùi ngùi bàng hoàng. Tôi quá xót xa đau đớn về số phận những nhà ái quốc quyết chí hy sinh, cam nhận gian khổ, xem thường phú quý bọt bèo, danh vọng phù du, bất chấp mọi thử thách và hiểm nguy, ngay cả đến tánh mạng mình, nguyện đi trót con đường chánh nghĩa trong sáng như pha lê, yêu tổ quốc, mến đồng bào, con đường duy nhứt của người dân nô lệ mà chính mình đã dứt khoát vạch ra và chọn lựa đắn đo.
            Tôi ngập ngừng quay gót trở về phòng trọ, thời trước là tư xá của viên Bác sĩ Giám đốc Bệnh viện Côn Nôn mà nghe trong lòng đang dấy lên bao nhiêu tình cảm và ý nghĩ ngổn ngang. Trời nhá nhem, bên kia đường mặt biển xanh sẫm, sóng vỗ nhấp nhô, các nhân viên trong phái đoàn chuyện trò vui vẻ không thôi nhưng tôi vẫn thui thủi lặng im, lòng sao cứ mãi nghèn nghẹn. Những lời mẹ tôi kể về ông Hội Đồng, cùng những câu chuyện giữa mẹ tôi và bà con cùng ngụ ở dãy phố, chung quanh sanh hoạt nổi bật và phong cách hiếm hoi của ông thời đó, mà tôi nghe thoang thoảng đoạn được đoạn không, làm cho tôi thương mến và quý trọng ông vô ngần. Ông hẳn là một thần tượng của tôi, vì ở làng tổng, quanh quẩn nhỏ hẹp của tôi lúc ấy, những người như ông chắc hẳn có một không hai.
            Có lẽ do vậy nên khi biết thằng bạn của tôi gốc gác ở Voi Lá - Long Phú, thôn ấp bản làng của ông Hội Đồng, một sức mạnh vô hình nào đó, một ma lực quyến rủ nằng nặng khó tả nào đó, cứ thôi thúc tôi đến gần nó. Và tôi đến với nó trong sự nể nang, phơn phớt một chút rục rè khơm khớp, so với những thằng bạn khác cùng lớp.

                                                                            **
            Thằng bạn Nguyễn Đình Thứ của tôi, chúng tôi không hề gọi nó qua cái tên cúng cơm mà quen miệng gọi là Bảy Nổ. Nó con ông Hương Quản Nguyễn Đình Kiện trong ban Hội tề đương nhiệm, quyền uy oai vệ khét tiếng thời thực dân đang thẳng tay đàn áp phong trào nông dân tự động trở mình đứng lên chống sưu cao thuế nặng và cường hào bất công. Hằng ngày, nó lội bộ lúc tờ mờ sáng từ nhà ra ga xe lửa Bến Lức, đón chuyến xe khuya từ Mỹ Tho về Sài Gòn để đến trường Gò Đen đúng giờ nhập học. Tuyến xe lửa này xem như tuyến đường sắt đầu tiên trên lãnh thổ Đông Dương, khánh thành nghe đâu khoảng năm 1885, tức đã hơn nửa thế kỷ rồi. Đầu máy to lớn đen ngòm chạy bằng than đá và than củi, kéo theo dò dọc những toa hành khách chật nứt như nêm và hàng hóa đầy ấp, nhứt là loại hoa màu rau cỏ dễ héo úa hư hao để cung cấp các chợ ở Sài Gòn Chợ Lớn.Trông nó rất khổ nhọc nhưng thường ngày vẫn đảm bảo đúng giờ ấn định. Việc đi học của thằng bạn tôi không có gì trở ngại về giờ giấc cả. Buổi chiều, lúc tan học, cũng có chuyến Sài Gòn - Mỹ Tho nên quanh năm suốt tháng giúp nó có những bữa cơm chiều quây quần trong không khí gia đình hạnh phúc ấm cúng.
            Dù vậy, về sau, khi nó lên lớp ba hay lớp nhì một năm, ông Hương Quản sắm cho nó một chiếc xe đạp, không đến đổi cũ kỹ lắm, mang nhản hiệu "La Cigogne", màu xanh lơ da trời, có chạy những viền chỉ đỏ thẳng băng. Nó rất bằng lòng sung sướng và hãnh diện là khác vì cả trường đa số học sinh đều mạt từ đường, nghèo chí tử, ngày ngày đi học với mo cơm ép, kèm thêm có khi vài con cá lòng tong kho khô, có khi một con cá trào cửng muối xả ớt, một nhúm tép bò riêm mặn hay một gốc tư thẻ đường tán... nên chẳng mấy đứa có, dù là một chiếc xe đạp cổ lổ xỉ, xập kí nình đi nữa. Những giờ tan học chiều, trên đường về, tôi thường chạy lúp xúp sau chiếc xe đạp còn có nét đó của nó, vừa mệt lả lấy hơi lên thở hào hễn, vừa trao đổi với nó những lời trầm trồ ao ước. Đôi khi tôi đẩy yên xe nó một đoạn xa dưới cái nắng chiều tuy không toé lửa, tỏa hào quang như lúc trời trưa đứng bóng nhưng lại nghiêng nghiêng chiếu thẳng vào mắt rất khó chịu. Lắm lúc, mắt tôi đổ đom đóm chẳng thấy gì cả, cứ phải lầm lũi cúi mặt xuống đất, cấm đầu chạy phon phon theo sau nó.
            Nó không phải dùng đến sức vì khỏi đạp xe lúc ngược gió. Tay nó chỉ có việc kềm ghi-đông, cà tưng cà tưng liên hồi trên lộ đá xanh lởm chởm, con lộ ngắn ngủn duy nhứt trong khu phố, chạy ngang trước cổng trường. Thỉnh thoảng, nó ngoái lại trách móc, chê tôi yếu xiều như đám con gái con nhà lành, còn thêm lừng khừng quá đổi. Nó thúc hối, miệng không ngớt thét la cổ võ tôi chạy nhanh hơn, đẩy xe mạnh hơn. Rồi nó cười hăng hắt khoái chí. Tay nó không ngớt bóp chuông reng reng... reng reng... liên hồi. Dù vậy, tôi có cảm tưởng như nó không bao giờ bằng lòng với tiếng chuông vang dội báo hiệu đó. Từng chập, nó quay qua một bên quát tháo ùm lên để đám học trò nhỏ nép sát vào hai bên lề đường. Oai vệ biết mấy!
            Hôm nào cao hứng, nó đề nghị chở tôi về tận trước cửa nhà. Còn gì sung sướng hơn đối với tôi lúc ấy. Tôi ngồi ở bọt-ba-ga phía sau, vừa ôm chặt cặp bàng, vừa bám sát eo ếch nó, trong khi nó mất thăng bằng, đảo qua đảo lại khiến tôi đau đáu sợ té, điếng cả người. Nhưng những lúc đó lại là niềm hãnh diện lớn lao của tôi, vì bấy nay có thể nói lâu lắm rồi, tôi thầm kín ấp ủ, ước mơ một chiếc xe đạp xinh xinh nhỏ nhắn, như chiếc xe đạp "con cò" của nó, mặc dù trong thực tế, ước mơ dù đơn sơ nhỏ nhoi đi nữa cũng ít khi đến với tôi. Mà năm khi mười họa nếu nó có đến trong bất chợt thoáng qua thì cũng chỉ quanh quẩn, quẩn quanh những gì đã quá cũ kỹ, đã quá quen thuộc đối với tôi. Thì cũng chỉ những gì tôi đã hơn một lần chắt chiêu ôm ấp từ những tháng rộng năm dài đã qua để cứ tái diễn mãi mà chưa bao giờ có chút hy vọng mong manh thành tựu. Mới hay ở đời, ước mơ và hy vọng là một việc nhưng sự đạt thành lại là một việc khác hẳn. Phần tôi, hy vọng và ước mơ dù vậy cứ thỉnh thoảng lại đến trong sự hân hoan hưng phấn nhưng thực tế khốn thay cứ vẫn mù mờ, ngày càng xa xôi theo với tháng năm dài.
            Và cũng từ dạo Bảy Nổ có chiếc xe đạp làm chưn làm cẳng hiệu "La Cigogne", lũ bạn bè trang lứa chúng tôi quên dần cái tên Bảy Nổ để giờ đây gọi nó là Bảy Cò, chấm dứt hẳn không bao giờ kêu gọi nó với cái tên cúng cơm trong sổ bộ đời là Nguyễn Đình Thứ hay Bảy Thứ nữa. Cuối năm lớp nhứt, Bảy Cò rớt kỳ thi Sơ Đẳng Tiểu Học, tổ chức hằng năm tại trung tâm thi cử duy nhứt ở Phú Lâm cho toàn tỉnh Chợ Lớn, lúc ấy gồm bốn quận là Cần Đước, Cần Giuộc, Đức Hòa và quận Châu Thành. Đáng lý ra nó thừa sức ngồi lại một năm nữa, tức "đúp lê" lớp nhứt, gạo bài vở cũ, ôn lại nghiền ngẫm những thu thập trong năm qua, sang năm thi lần thứ hai. Dù sao, ông Hương Quản Kiện, con người rất có thế lực ở địa phương lúc ấy, chẳng lẽ chẳng có một chút ân huệ nào nơi ông Đốc Học hay sao?
            Ông Hương Quản lại giàu có, cơ ngơi kinh dinh, ruộng vườn tăm tắp, huê lợi dư dả, thừa sức để Bảy Cò tiếp tục học ở Sài Gòn sau này. Dầu nó không xuất sắc để đậu "buột" vào trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký, nơi tụ hội anh hùng Nam Kỳ Lục Tỉnh, nó đã không thuộc lớp học trò nghèo "khố chuối", rớt mồng tơi, ngày ngày đi học với "dưa leo chấm nước cá kèo", thì cũng không thiếu chi trường tư thục uy tín, nổi danh lúc bấy giờ như Lê Bá Cang, Huỳnh Khương Ninh, Nguyễn Xích Hồng, An Nam Học Đường v.v... để Bảy Cò đi nốt chương trình đến Thành Chung. Giả sử, Bảy Cò có bê bết trong việc học hành, lắm phen đóng vai Bùi Kiệm, có "đúp lê" mãi cũng không hề hấn gì. Ông Hương Quản vẫn trút hồ bao, ba mớ lẻ tẻ râu ria bên ngoài để nó an tâm tiếp tục học theo đúng phương châm "có công mài sắt chày ngày nên kim" của người xưa. Sự trì chí quyết tâm, cần cù nhẫn nại là mẹ của thành công.
            Thực tế, Bảy Cò không mấy có khiếu sách vở từ chương. Bản tính bung lung, nó thích chơi đùa nhiều hơn là tự ép mình gò bó trong rừng văn biển học khổ hạnh vào những mùa thi cử. Chữ nghĩa đối với nó gói ghém trong giao tế hằng ngày là nó cho đã quá đủ. Và nó tỏ ra rất thỏa mãn với sức học lớp nhứt của nó, hơn xa cả trượng nhiều vị hương chức hội tề trong làng, chỉ biết đọc vần xuôi còn nức cục rặn tới rặn lui, biết viết đại khái năm bảy câu, vài ba ý thô thiển cùng làm bốn phép toán thông thường tàm tạm vạn bất đắc dĩ những khi cần đến. Nó thôi học ngay năm thi rớt đó, rút về Voi Lá Long Phú, sống dưới sự bảo bọc của ông Hương Quản. Ngày ngày, không bao giờ thấy nó động đến móng tay. Nó phây phây lâng la đi đấu chuyện tầm xàm tào lao, xạo sự nơi này nơi nọ. Lập gia đình rất sớm, nó tàng tàng hưởng của tập ấm từ đầu ông nội đến đời cha là ông Hương Quản.
            Nó nhứt quyết khước từ không chịu mó tay vào việc canh tác hay chăn nuôi, trồng trọt như bao nhiêu người dân chơn chất khác nơi thôn quê ruộng rẫy. Đã vậy, nó còn có lối sống bung thùa, hoang chơi bạc bài quanh năm suốt tháng. Nơi nào có sòng bài bạc là có sự hiện diện xem như đương nhiên và thường xuyên của nó nên nhiều lúc khiến ông Hương Quản bực mình, cau có bất bình. Ông bèn quyết định cho Bảy Cò ra riêng, hy vọng trong hoàn cảnh mới với những nhu cầu thôi thúc bắt buộc nó phải cố gắng và phấn đấu tự lập. Ông Hương Quản còn âm thầm chạy chọt, lòn cửa hậu nói khéo với ông Cai Tổng Mạnh để Bảy Cò được đề cử vào ban Hội tề với chức vụ Hương Bộ. Ông lại ra tiền sắm cho nó một chiếc ghe chài, cột chưn cột cẳng nó trong việc thu mua lúa thóc, heo cúi, trâu bò, tôm cá, dừa khô v.v... tùy mùa chở đi cung cấp thẳng các chành của những tay xì thẩu khách trú, từng nổi tiếng cấu kết độc quyền thu mua và phân phối ở bến Bình Đông hay công xi heo Chánh Hưng bên kia cầu Chữ Y.
            Bảy Cò mướn năm, mười bạn ghe, bắt đầu vào nghề lái buôn bất đắc dĩ này, quanh năm đẩy đưa theo con nước lớn ròng. Ghe lái xuôi ngược sông rạch chằng chịt trong tỉnh, thu mua hàng hóa ở khắp thôn ấp dù xa xôi hẻo lánh, cách trở đến đâu. Mỗi chuyến đi như vậy nhiều khi kéo dài đăng đẳng, cả một hai tháng trời. Từ Vàm Cây Trôm, không xa mấy nơi chôn nhao cắt rún của Bảy Cò, ghe thương hồ chạy thẳng hướng Bến Lức, từ đó xuôi Nam Kỳ Lục Tỉnh, hoặc trở ngược về Ba Cụm theo con nước thuận lên Bến Nghé, Sài Gòn. Đoạn sông Vàm Cây Trôm - Ba Cụm luôn luôn nhộn nhịp ghe thuyền, ngày xưa là tuyến huyết mạch duy nhứt nối liền giữa Miệt Vườn và Thủ phủ Miền Nam. Ba Cụm thuộc một làng nhỏ, dân cư không đông đúc lắm, nhà cửa chẳng mấy cái đồ sộ kinh dinh, nhưng được nhiều người nhắc tới tên, nhờ vị trí địa lý của nó trên đoạn sông yết hầu của nền kinh tế Miền Nam, khi hệ thống lưu thông đường bộ còn trong thời kỳ phôi thai ấu trỉ. Ba Cụm nằm ven vùng bưng biền nhun nhúc, xa xa rừng tràm, rừng chồi ngút mắt, là nơi giáp nước khét tiếng làm cho nhiều lái buôn từng cười đau khóc hận.
            Ghe thương hồ lớn nhỏ từ Nam Kỳ Lục Tỉnh chở khẩm hàng hóa đủ loại về Chợ Lớn, khi đến Ba Cụm phải neo nơi đây chờ con nước. Ngày xưa, thời các vua khai sáng nhà Nguyễn, Ba Cụm thuộc thôn An Bình, huyện Tân Long, tỉnh Gia Định, về sau thời chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa được biết đến dưới danh xưng Chợ Đệm, thuộc xã Tân Bửu, quận Bình Chánh, tỉnh Gia Định. Chỗ giáp nước này là nơi hai luồng nước gặp nhau. Một từ Bến Lức chảy đến và một từ vùng Rạch Cát thuộc Đô thành Sài Gòn Chợ Lớn đổ lại. Ghe thương hồ cấm sào neo ở đây chờ con nước thuận tiếp tục thủy trình, đỡ phải dùng đến sức người khi bạn ghe đã tận lực chèo chống từ nhiều ngày nhiều đêm trước. Một thời Ba Cụm rất nổi tiếng. Sanh hoạt thương mại sầm uất từ tờ mờ sáng đến khuya lơ khuya lắc tối mịt. Dưới sông, trên bến lúc nào cũng tấp nập đông người.
            Ghe thương hồ lúc này chưa có gắn động cơ. Chủ ghe tức lái buôn mướn nhiều nhân công đàn ông thuộc vào hàng lực lưỡng khoẻ mạnh, loại vai u thịt bắp lực điền, chèo ghe hay chống sào. Với loại ghe chài có trọng tải lớn, sào chống bằng những cây tre dài, vừa già vàng óng, vừa đặc ruột chắc nịt. Bạn ghe đi từ đầu mũi chí tận lái, nhịp nhàng theo hai bên thành ghe. Thường thường những chiếc ghe chài to lớn nặng nề này có trang bị thêm những tấm buồm lớn nhỏ, kết bằng lá buông, vải bố hay đệm lác. Buồm căng gió đẩy ghe theo con nước lướt tới trước giúp bạn ghe khoẻ re thì không đúng lắm nhưng cũng đỡ mất sức phần nào. Ghe neo tại Ba Cụm có khi cả ngày, cả đêm tùy theo con nước lớn ròng, tùy theo ghe đến sớm hay muộn, trễ con nước. Nhờ vậy, Ba Cụm vui nhộn quanh năm. Còn nói gì vào dịp những ngày cuối năm rắp Tết, ghe thuyền chen chúc đậu nối đuôi nhau dọc dài theo hai bên bến, mí be gần như la đà mặt nước. Ghe chở khẩm, vận chuyển đủ các loại hàng hóa về bán Tết ở thủ đô.
            Một ngày ở đây bắt đầu rất sớm lúc còn tờ mờ từ trên bến, nơi hàng quán mọc lên như nấm để trở thành một cái chợ tiếng tăm một thời. Trời chưa sáng hẳn nhưng đã có bóng người chập choạng dọn hàng bày biện trước cửa quán cửa tiệm, có cái tăm tiếng đến độ không hề treo bản hiệu hoa hoè mà ai ai hầu như đều cũng biết. Họ cười nói lao xao như mừng vui được gặp lại nhau chỉ sau một đêm ngắn ngủi mà họ tưởng chừng như đã chia ly ngăn cách từ nhiều năm nhiều tháng không bằng. Còn đêm thì khép lại ngay trên dòng sông với những chiếc xuồng ba lá địa phương, loại xuồng bán hàng xáo, tới lui len lỏi giữa các ghe thương hồ đầy nhóc phẩm vật, để rao hàng. Các cô hàng xáo trẻ trung duyên dáng, có nét đẹp mộc mạc chơn quê, luôn nở nụ cười tươi. Họ tranh nhau mời mọc thức ăn thức uống không ngớt miệng, ví von đậm đà quyến rủ khách đa tình. Các cô chiêu đãi phục vụ khách buôn tại chỗ, ngay trên chiếc ghe thon dài xinh xắn của mình. Tất cả tạo thành một chợ nổi rất thạnh mậu, dày đặc ghe thuyền đủ cỡ đủ kiểu. Ghe bán bánh dừa, bánh tét, bánh ít, bánh ú... vừa lướt qua không mấy chốc đã thấy chiếc xuồng ba lá nhẹ hêu chở một nồi đất bụng ỏng đen ngòm nào là cháo gà, cháo vịt, cháo lòng heo, những đặc sản của Chợ Đệm... lúc nào cũng xông lên một mùi thơm phức hấp dẫn, níu kéo khách ngay từ bếp lò, lửa ửng riu riu.
            Lái buôn, mấy ông chủ ghe tha hồ chọn lựa. Họ thưởng thức món ăn ngon đặc thù của vùng đất tăm tiếng này đã đành, lại có dịp cầm chưn ngắm nghía người đẹp mượt mà chơn chất, thấm đẫm hương lúa tình quê. Bù lại, họ bán rẽ mạt một chục mười sáu hay mười tám hoặc thơm thảo biếu xén lấy lòng người đẹp một ít trái cây được tuyển lựa thật to lớn, ngon ngọt của miệt vườn. Cô hàng xáo nào có chút ít nhan sắc mặn mòi, nói cười duyên dáng tươi rói, thôi thì tha hồ bán buôn đắt hàng. Chỗ này hú gọi, chỗ kia kêu réo níu kéo không thôi. Những bạn ghe bảnh trai, cả mấy chú lái buôn đa tình, đầu chải tém sau ót láng mướt, lênh đênh trên sông nước cả tuần cả tháng, mặc tình neo các cô ấy bên ghe trêu ghẹo đùa cợt.
            Nhưng Ba Cụm nổi tiếng thực sự không vì thức ăn ngon nơi bối cảnh hữu tình quyến rủ khách tứ xứ với hương vị đặc biệt khó tìm nơi khác. Cũng không vì sự nũng nịu cười duyên, liếc mắt đưa tình của các cô bán hàng xáo xuôi ngược đầu sông cuối bến. Cũng không hẳn những lời ngọt bùi hứa hẹn đầu môi chót lưỡi của đôi trai gái, phút chốc tan biến khi ghe thương hồ nhổ neo theo con nước đẩy đưa để tiếp tục cuộc đời lênh đênh trên sông nước, để tiếp tục kiếp sống thoi đưa lang bạt rày đây mai đó với bao nhiêu sướng khổ, với bao nhiêu buồn vui bất chợt đến với họ trong cô đơn cô độc. Thật đúng như câu hò ngân nga đâu đó trên dòng sông muôn thuở vào những đêm trăng thanh vắng, lúc con người đang nhớ nhà nhớ quê lặng nhìn sông nước chạnh lòng suy gẫm cuộc đời của mình qua những đợt sóng dâu biển thực hư tiếp nối trùng trùng lớp lớp:
                        Ngồi buồn vọc nước giỡn trăng
                  Nước xao trăng dợn biết rằng về đâu?
            Ba Cụm nổi tiếng qua một hiện tượng xã hội vào thời đất nước còn lắm nhiễu nhương, cuộc sống khắc nghiệt. Đó là nạn bối. Phải. Bối Ba Cụm lừng danh một thuở khiến cho bao ghe thương hồ phải kinh tâm khiếp đảm khi bắt buộc neo ở bến nước này. Bối có nghĩa là trộm đạo, ăn cắp có tổ chức các ghe thương hồ. Bối di chuyển bằng xuồng nhỏ, xoay trở gọn, lướt nhanh.
            Ngày xưa, cụ Trịnh Hoài Đức trong "Gia Định Thành Thông Chí" có nhận xét rất trung thực "chợ Bình An là một ổ trộm cắp" trong khi cụ Paulus Huỳnh Tịnh Của trong "Đại Nam Quốc Âm Tự Vị" định nghĩa bối là tiếng lóng của giới thương hồ để chỉ "ăn trộm dưới sông". Có rất nhiều truyền thuyết về bối Ba Cụm. Tiếng đồn từ thời này qua thời nọ, từ cửa miệng người này qua cửa miệng người khác, thêm mắm dậm muối, thêu dệt nọ kia đôi khi quá đà tưởng tượng thường tình để tình tiết thêm lâm ly và quái đản. Bản chất cố hữu của người dân chơn quê kém học và dễ tin là như vậy. Nào bối có thuốc mê, bùa ngãi, có phép tàn hình biến thể. Chúng xông vào ghe thuyền nhẹ nhàng như đi trên thảm nhung. Ghe thuyền dù chở ít hàng hóa đi nữa cũng không bao giờ chao lắc, chòng chành. Thêm vào đó, chủ tớ mệt mỏi nằm ngủ la liệt, sải giò sải cẳng, tha hồ cho bối chom chĩa khuân vác hàng hóa xuống ghe tẩu tán.
            Ghe neo ở Ba Cụm đều nơm nớp lo sợ nạn bối. Họ cảnh giác đề phòng, thay phiên canh gác, nhưng về khuya uể oải thiếp đi. Bối theo dõi, rình rập, chờ đợi đúng giờ tý canh ba thuận tiện mới xuất hành lộ diện ăn hàng. Phần lớn ít ghe thuyền nào thoát khỏi bối Ba Cụm nếu hàng hóa chuyên chở lọt vào mắt xanh bọn chúng. Chúng có tai mắt, tay chưn đồng lỏa cùng khắp. Bọn này quan sát tường tận từng ghe thương hồ vừa cập bến. Chúng rớ vào ghe nào thì kể như trúng ổ cầm chắc. Năm khi mười họa có động tịnh vì bị phát giác bất thình lình, chúng chuồn nhanh bằng xuồng nhỏ ba lá cụt đòn trong khi ghe thương hồ chở khẩm mí be, nặng ì ì, chủ tớ tỉnh giấc chỉ còn nước la làng inh ỏi để sau đó thất vọng não nề.
            Cái nghề thương mãi nào cũng phải đắn đo tính toán lỗ lời. Không một ai khi đã nhúng tay vào thương trường lại thoát khỏi định luật bất di bất dịch muôn đời đó. Thời nào cũng thế thôi. Chú lái buôn tập tễnh trẻ măng Bảy Cò cũng dễ dàng rơi vào vòng lẩn quẩn ấy. Nhưng sự tính toán hơn thiệt, chi li chặt chẽ của Bảy Cò ít người sánh kịp. Hơn nữa, Bảy Cò còn có máu đỏ đen cha truyền con nối, thường xuyên cuồn cuộn lưu thông trong huyết quản mình. Tánh nào tật nấy khó có thể cải sửa được.  Những đêm trăng sáng vằng vặc, phong cảnh hữu tình gợi nhớ quê hương xa xôi đau đáu, gợi nhớ mái ấm gia đình cách ngăn diệu vợi. Khi ghe chài neo chờ con nước ở Ba Cụm, Bộ Thứ hay lái ghe Bảy Cò thay vì cất giọng trau chuốt cống hiến sáu câu vọng cổ hoài lang mùi mẫn và những điệu hò tình tự hoặc nghêu ngao ngâm nga những câu hát tự sự về cuộc đời "gạo chợ nước sông" lang bạt kỳ hồ của mình, lại thảy gọn hơ bộ bài cào ra mua vui qua đêm. Y mong giết thời giờ dằn vặt trong khi thức canh hàng, đợi chờ con nước. Tay em không ai khác hơn là đám bạn ghe của y. Vừa giải trí, vừa trông chừng hàng hóa luôn thể, "hai xôi nhồi chung một chỏ" tiện lợi vô cùng.
            Đầu hôm, khi còn tỉnh táo lúc mới vào sòng, họ quây quần vui cười thoải mái, đánh cắt tê cầm chừng, mỗi lần thắng, rút tượng trưng năm ba cắt với một hai đồng tiền đậu chếnh. Gọi là giải trí mua vui. Ăn thua không bao nhiêu. Bà con quen nhau, ngày ngày đối diện, ai đâu nỡ đành bôi mặt đấu đá, chém giết nhau qua canh bạc bao giờ! Về khuya, nhiều bạn ghe thua lỗ khá nhiều so với đồng lương hằng tháng của họ, vốn cố định và ít oi. Lái buôn của tiền rổn rẻng đầy túi, bóp da dầy cọm giấy bạc lớn nhỏ cả xấp, lấy thịt đè người nên bạn ghe thường cháy túi, thua đến tá hỏa tam tinh, đất trời bất biết, chẳng qua cũng không có gì là lạ. Họ có đi làm công làm mướn, lao lực hàng ngày hàng đêm tất bật không giờ giấc nhưng không bao giờ có lãnh lương, họa hoằng chỉ lãnh chắt mót chút ít tượng trưng, gối đầu lúc cuối tháng. Họ ở đợ nát lời suốt đời mãn kiếp. Vợ con ở tận quê nhà nheo nhóc phải tháo vát, bươn chải tự tìm phương kế sinh nhai đấp đổi qua ngày.
            Năm tháng dần trôi, bạn ghe thua lỗ, ký giấy nợ ngập đầu. Nợ cứ chồng lên nợ không dứt. Họ không bao giờ có chút hy vọng thoát kiếp ở đợ không công cho Bảy Cò. Trời đất bất dung. Một hôm vào dịp cuối năm, ghe chài Bảy Cò hấp tấp giao heo ở "công xi" Chánh Hưng. Mọi người làm việc bất chấp giờ giấc, quên ăn quên ngủ để mong sớm hồi cố thổ bản làng, kịp ăn Tết, rước giao thừa nơi quê nhà trong không khí đoàn tụ ấm cúng của gia đình. Trong đêm thử thời vận hên xui lúc năm tàn tháng tận dọn mình rước Xuân, Bảy Cò thay vì đánh cắt tê ăn thua dây dưa lâu lắc, ngồi hoài thêm nóng đít, đâm ra làm cái, xạt bài cào rồi gần đến sáng đề nghị kéo dà dách mau ăn mau thua. Y bị bạn ghe vật sát ván, cũng tại bến nước Ba Cụm, lúc ghe neo chờ con nước. Giấy nợ chất chồng bấy nay, đám bạn ghe kẻ trước người sau, lần lượt thu hồi xé bỏ, rải vung vẩy theo dòng nước lung linh đêm thanh vắng. Nóng mũi và tự ái, Bảy Cò thua cả phần vốn lẫn phần lời của chuyến heo cuối năm mới giao nơi mấy chành ở Chánh Hưng. Tiền bán heo, y lận lưng chưa đủ nóng da bụng. Y bán luôn chiếc ghe chài vừa trét mới toanh chưa giáp năm, còn hăng hắc mùi chai cho thằng Cu Lớn, thằng bạn ghe còn hôi sữa, ốm tong teo như con tắc kè đói phơi khô. Thằng Cu Lớn chuyên theo ghe phụ nấu ăn và để Bảy Cò sai vặt hoặc đêm đêm thức trắng dờ con mắt, ngủ gà ngủ gật ngồi đấm bóp ru ngủ khi y oải gân oải cốt.
            Cuộc đời chủ tớ bỗng nhiên thay ngôi đổi bậc một cách bất ngờ. Chỉ trong phút chốc ngắn ngủi phù du hư ảo. Từ dạo ấy, Bảy Cò nợ nần như Chúa Chởm. Chủ nợ siết hầu siết họng tới lui hằng ngày, đôi khi còn mắc mỏ, nặng lời thô tục. Y không còn một tấc đất cấm dùi, cửa nhà trống trước trống sau, tủ bàn đem cầm cố hay bán sạch sành sanh trong khi ông Hương Quản Kiện đã lớn tuổi lại sa sút vì chiến tranh, sau khi Pháp bị Nhựt đảo chánh rồi xua đoàn quân viễn chinh tái chiếm Miền Nam. Ông không còn đủ khả năng tiền của để đùm bọc, cứu vớt Bảy Cò như thuở xa xưa nữa.
            Thua buồn và để tránh sự réo nợ dồn dập ngặt nghèo không lối thoát, Bảy Cò thình lình bỏ trốn tót vào bưng... đi kháng chiến, theo Việt Minh cộng sản "làm cách mạng" ngang xương. Nhờ đó, anh ta thoát nạn, xù nợ một cách khoẻ re, chẳng ai níu kéo réo đòi, làm khó dễ gì được. Trong thời kỳ Việt Minh Cộng sản lén lút đánh phá, thường xuyên gây rối ren bất ổn ở Miền Nam, thỉnh thoảng đêm tối trời, Bảy Cò có lẻn về xóm cũ làng xưa ra mắt thị oai với dân lành dưới lốt bí mật "Chín Á Đông", ám số Q3, nhờ những thành tích đốt mấy chiếc xe đò của Công ty Á Đông chạy tuyến đường Chợ Lớn - Thủ Thừa. Bẵng đi một dạo, Bảy Cò biệt tăm biệt tích. Bà con xóm làng mất dấu quên y hẳn...

                                                                       **
            Tháng 6 năm 1979, tôi âm thầm cùng vợ và các con tôi trở về làng cũ tạ mả cha tôi cùng ông bà tổ tiên nội ngoại, chuẩn bị lên đường vượt biên bằng đường biển một ngày rất cận kề. Mọi sắp xếp tạm xem như đã hoàn tất chu đáo ngay từ mấy tháng trước. Tôi đã quyết tâm và bằng bất cứ mọi giá phải rời khỏi cái "thiên đường" cộng sản đang ngập tràn máu và nước mắt vô tội dù phải đánh đổi mạng sống chính mình. Thằng bạn nối khố của tôi đứng mũi chịu sào, bí mật tổ chức chuyến đi vượt biên nhứt chín nhì bù này. Chúng tôi thường gọi nhau tao mầy thân tình và sau tháng Tư Đen càng thêm khắng khít trong khổ ải khó khăn. Chúng tôi rất tin cậy nhau giữa lúc lòng người phân tán, nghi kỵ. Nhiều lần nó căn dặn tôi phải thường xuyên túc trực ở nhà, không được đi đâu xa. Giờ khởi hành khi được nó quyết định là tất cả phải lên đường ngay. Không thể có sự chần chờ hoặc dời ngày lại được nữa. Vì trong trường hợp vô tình kéo dài, nếu chẳng may bị "bể" sẽ mất công mất của đã đành còn bị tù đày cải tạo là cái chắc. Nó sẽ đến xớt tôi cùng gia đình bất thình lình lắm. Bao nhiêu lần nó nhắc nhở lưu ý tôi.
            Tình thế lúc ấy thật khẩn trương, ngàn cân treo sợi tóc trong sự đợi chờ dằn vặt đến độ nghẹt thở. Nhiều lúc tôi muốn phát điên lên. Mà thật vậy. Nếu trì huởn, âm mưu có thể bị công an khu vực khám phá, nguy hiểm đến tánh mạng. Cửa nhà tù cộng sản lúc nào cũng rộng mở, vào thì dễ mà ra khỏi địa ngục trần gian này thật trần thân nếu nạn nhân không biết "đường dây xã hội chủ nghĩa" chằng chịt cả một mạn lưới phức tạp thoái hóa bao trùm khắp nước. Hệ thống này gồm những cán bộ nồng cốt trụ cột của đảng, bù trơ bù trớt, không một đồng xu dính túi lúc mới tiếp quản Miền Nam, giờ đây kết cấu nhau ăn chia từ trên xuống dưới, cưa năm xẻ bảy "đổi đời" để sống. Nếu không biết các ngõ ngách ấy sẽ đi đày trại cải tạo mút mùa.
            Đó là lần cuối cùng tôi về thăm quê hương yêu dấu khổ hạnh của tôi. Đó cũng là lần cuối cùng tôi giã từ trong bùi ngùi đau đớn cái chéo đất của cha ông và tổ tiên tôi để lại, nơi tôi đã gởi gấm gần trọn tuổi thơ của mình. Tôi man mác buồn, nhìn cảnh vật điền đất ruộng vườn, thôn xóm thân yêu của ông bà tôi, của cha mẹ tôi, của bà con, bè bạn tôi, của tuổi trẻ êm đềm, thơ mộng của tôi ngày nào. Tôi cố nén xúc động ngắm nhìn con sông quê hương tĩnh lặng, lác đác vài chiếc xuồng ba lá uể oải xuôi ngược giữa những bãi bờ sầm uất lạnh tanh. Nơi đây ẩn hiện những mái lá mái tranh xơ xác khó nghèo với những đứa trẻ chân đất mình trần trùn trục có những cái tên như con Xí con Đẹt, con Lem con Rớt... Rồi thằng Sạn thằng Sỏi, thằng Tàn thằng Tèo... Ôi bao nhiêu cái tên khơi động một âm hưởng u trầm buồn tênh như phận đời hắt hiu bất hạnh của chúng nó. Ôi toàn là những cái tên đau khổ khó nghèo đầu đời, những cái tên hầu như đã được tiên tri từ lúc chúng nó mang trong người khi được các ông Chánh lục bộ trịnh trọng o bế từ nét chữ để ghi vào sổ bộ nhà việc.
            Từ dạo đó đến nay, đăng đẳng hai mười lăm năm dư tôi chưa bao giờ có ý nghĩ trở lại một lần. Dù chỉ một lần thôi khi chế độ băng hoại xã hội chủ nghĩa còn đó. Có trở lại chăng là trong trí tưởng tượng phong phú của mình hay trong những giấc chiêm bao chập chờn xoáy quặn tâm tư. Trên đường về, tôi tạt ngang Voi Lá - Long Phú, dừng chân ở một quán lá bên đường để gởi chiếc xe "honda đam" còn có nét, phương tiện làm chân của tôi để đi đây đi đó những ngày còn nán lại trong sự thắc thỏm phập phồng chờ giờ ra khơi, buông xuôi theo định mệnh. Tôi lần mò vào xóm, đánh tiếng là để thăm hỏi vài người trong họ hàng, nhưng thực sự xem như gián tiếp giã từ luôn thể những người thân cho có thủy chung, nghĩa tình. Tôi rất đổi ngạc nhiên được bà con chòm xóm cho biết thằng bạn ngày xưa của tôi, Nguyễn Đình Thứ, tục danh Bảy Nổ, Bảy Cò hay Hương bộ Thứ, còn sống nhăng sau bao nhiêu năm sóng gió dãi dầu trên vạt đất nhà. Thằng quả có số đỏ?!
            Thì ra sau thời gian dài tập kết biền biệt ở Miền Bắc, nay "giải phóng thống nhứt đất nước, Bắc Nam anh em ruột thịt sum hợp một nhà", nó trở về làng cũ thôn xưa. Hiện nó công tác trong y ban Nhân dân xã với niềm hãnh diện và tự hào về "thành quả thần thánh" của cách mạng: "ba mươi năm mới có ngày này!". Người anh họ tôi mai mỉa, chỉ cho tôi một căn nhà mới, ngói đỏ au, nửa xưa nửa nay, trên thửa ruộng đôi ba mẫu tây vừa mới lên vườn, cây trái la đà chưa qua khỏi bờ vai. Đó là nhà của Bảy Cò, trên đà "đổi đời" theo "bước nhảy vọt, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên xã hội chủ nghĩa" xây dựng nước Việt Nam "sạch bóng quân thù", tự do độc lập, giàu mạnh phú cường. Anh họ tôi lần trong thắc lưng lấy ra một gói thuốc rê chưa tròn nắm tay, vấn vội vàng một điếu nhỏ hếu. Một điếu thuốc tiết kiệm trong thời buổi khó nghèo khan hiếm.
            Đáng lý ra anh sẽ đưa nó lên vành môi khô héo rồi lấy con cúi rơm thổi lửa châm hút như thói quen ở nông thôn. Nhưng lạ làm sao! Không biết nghĩ thế nào, anh lại gắn nó gọn lỏn lên vành tai phải và bắt đầu miên man thao thao vào câu chuyện về người xưa chốn cũ. Dù vậy, anh vẫn nở nụ cười gượng gạo nhưng tôi thoáng thấy nơi gương mặt xương xương đầy nếp nhăn của anh một nét buồn, vừa thầm lặng sâu hút, vừa chua chát đắng cay, bất cần cuốc xuổng:
            - Hiếu ơi, em còn nhớ không? Bảy Cò, tức thằng Thứ hay Bộ Thứ, con ông Hương Quản Kiện nhà ở đầu xóm Long Phú mình đây. Anh nhớ hình như nó học cùng một lớp với em ở trường Gò Đen, trào ông Đốc Tình, gốc người Gò Dầu Hạ thì phải? Anh còn nhớ rõ, vì việc lôi thôi với Tây tà sao đó nên ông bị đổi xuống Hà Tiên và phải rời nhiệm sở trong vòng 24 tiếng đồng hồ nếu trí nhớ anh không đến đổi tệ. Từ ngày "giải phóng", nó trở về xã nắm chức Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.
            Ngừng đôi giây, anh lấy giọng:
            - Đó, chỉ có mấy năm mà cơ ngơi của nó kinh dinh như thế. Đám dân đen như anh đây, đầu tắt mặt tối, quần quật năm này tháng nọ, đến bây giờ chẵn chòi sáu chục tuổi, vẫn cái nhà lá ọp ẹp này, vẫn miếng vườn trước sau con chó Mực già nua của anh chạy tới chạy lui, chạy xuôi chạy ngược chưa bao giờ thấy nó thè lưỡi thở hơi lên. Nhà này, hồi kinh tế khủng hoảng, ba em rất tốt bụng cho anh mượn tiền mua cất lên. Nay đâu còn y chan đó, chẳng có nới thêm được một tấc đất!
            Rồi anh họ tôi hạ phèn xui xị nhưng không vì thế không huyên thuyên trong tiếng thở dài nằng nặng chán chường:
            - Trên cái đà "độc lập thống nhứt tiến nhanh tiến mạnh" lên "tập thể hóa nông nghiệp", "làm chủ đất nước" gần đây, lo ăn hằng ngày cũng đã ngất ngư trối chết rồi, tiền của đâu dư thừa để anh mơ ước sửa chữa đừng nói chi đến cất lại nhà cửa, dột tứ tung cùng khắp, cột kèo gần rã mục từ lâu. Mấy bữa nay tốt trời khô ráo, anh chằng khíu hết chỗ này đến chỗ nọ, chỉ có nước chờ sập chớ không còn hy vọng ở một phép lạ nhiệm mầu nào khác.
            Anh chỉ tay về phía trước nhà, sát bên bờ rào bông bụp xanh um chen lẫn đó đây vài buội ngọc nữ trổ bông trắng ngần với nhụy đỏ thắm:
            - Hôm qua, anh vừa đốn mấy cây so đũa chõi hàng cột đã mỏi mệt, xiêu một bên. Tàm tạm ngày nào hay ngày đó. Còn bên trong, như em đã thấy, ánh nắng mặt trời tha hồ chiếu xuyên mái nhà. Theo tốc độ xây dựng chế độ giàu mạnh hùng cường này, anh đoán chắc như bắp, không cần phải làm thầy bùa thầy bói, không cần phải dùng đến khoa tử vi đầu số gì cả, sau này đến ngày anh chết sẽ không có cái hòm để chôn. Bó bằng đệm, bằng chiếu cũng sẽ không có một chiếc lành lặn nữa đâu, em ạ. Nó rã bèn hết từ khuya rồi.
            Anh họ tôi còn thao thao trút bầu tâm sự vì ít khi được dịp thuận lợi như thế này. Anh chẳng phải ngó tới ngó lui, nhìn dáo dác xuôi ngược, ngược xuôi cảnh giác. Anh không cần ái ngại, dè dặt chi cả. "Tai vách mạch rừng" phiền phức! Tôi vội ngắt lời, diễu cợt:
            - Cách mạng thành công "đổi đời" để... chết phải không anh!
            Anh trợn tròng đôi mắt, vò trán nhăn nheo, thốt lên một tiếng "à..." kéo dài sự bất mãn dấu kín trong lòng rồi cười gằn:
            - "Đổi đời"? Thì đây. Em còn nhớ thằng Cu Lớn, hồi xưa theo ghe lúa của Bộ Thứ làm những việc lặt vặt, đêm đêm thức trắng dờ con mắt đấm bóp chủ nó đến khuya lơ khuya lắc ngủ gà ngủ gật, sau nó ăn bài những ngày rắp Tết, mua luôn chiếc ghe chài của chủ nó không? Dạo đó, nó phất lên như diều gặp phải gió, không ai bì kịp ở xóm mình. Ôi mà em! Ở đời bạo phát bạo tàn. Mà bạo phát với nghề cờ bạc làm sao vững bền lâu dài được. Tàn nhanh lắm! Cũng may, nhờ phước đức ông bà của nó kiếp trước ăn hiền ở lành, làm những điều thiện nên nó kịp hồi tâm, dừng chân phung phí đúng lúc, để góp nhóp vớt vát mua được mấy mẫu ruộng thuộc loại tốt, sinh sống làm ăn lương thiện, cần cù. Cả xóm ai cũng thương nó, thấy vậy rất mừng.
            Anh lộ vẻ bực tức, bỏ lửng câu chuyện một lát, nhìn đâm đâm vào cõi xa vời qua hơi thở nhẹ nhàng hắt ra những lời trách móc:   
            - Bây giờ nó kêu trời như bọng. Bảy Cò về nắm quyền sinh sát ở đây, đâu có tha nó bao giờ. Ngoài mặt cứ oang oang ngọt xớt còn hơn mía lùi, còn hơn đường phèn cục, kêu gọi đoàn kết "nối vòng tay lớn", thương yêu anh em ruột thịt một nhà, cùng chung huyết thống một bọc trứng trăm con... đề cao biện pháp nhân đạo khoan hồng v.v... nhưng bên trong, Bảy Cò đâu có quên mối hận ngày xưa. Ruộng của nó thuộc loại trũng, năng suất cao, xưa nay dân làng này ai mà không tấm tắc thèm thuồng. Ruộng đó bị Bảy Cò đưa vào "tập thể hóa" đầu tiên, kể như nó bị gỡ tay, nghèo xác xơ như thuở nó theo ghe lúa ghe heo, lúc Bảy Cò hay bạn ghe đàn anh réo gọi là lập tức dạ rân một cách máy móc, không được phép chần chờ một giây một phút.
            Anh tiếp:
            - Khổ nỗi, hồi đó nó chưa có vợ con, chưa có gì ràng buộc quấn chưn quấn cẳng nên nó bất cần đời, cam chịu cúi đầu tuân phục định mệnh. Còn bây giờ, nó rất khổ tâm với bốn năm miệng ăn nheo nhóc. Tội nghiệp, nó cũng chạy vạy làm cật lực bá nghề tối ngày nhưng rốt ráo vẫn đói dài dài. Anh đã nghèo rớt mồng tơi mà hôm qua, nó qua mượn đỡ vài lít gạo! Từ chối tội quá. Anh giàu có gì nhưng cũng đành phình cái bụng nghèo chia xẻ với nó chút đỉnh, gọi là để cùng nhau cầm hơi. Ông bà mình nói "lấy lá lành đùm lá rách" còn anh bây giờ như chiếc lá rách beng đùm lá mục nát vậy!
            - Gặp bà con từ sáng tới giờ, ai cũng kêu nghèo kêu khổ hết. Còn Bảy Cò làm gì mà giàu nhanh thế anh?
            Nghe câu hỏi vô tình của tôi, anh họ tôi tỏ ra tức nghẹn. Anh lặng đi như cố đè nén, lùa xa những ẩn ức đang dấy lên trong lòng mình. Một đổi sau, anh nhanh nhẩu đáp:
            - Em còn hỏi! Bảy Cò mà làm cách mạng con khỉ khô gì! Chữ cách mạng thiêng liêng cao đẹp biết dường nào đã bị chúng nó lạm dụng bôi bẩn. Nó có thương ai. Nó có tranh đấu cho ai đâu. Nó mà vì tổ quốc dân tộc, vì bà con nhân dân cho anh chết tức khắc không kịp trăn trối một lời với vợ con. Thối thân của nó là thằng cờ gian bạc lận, đá cá lăn dưa, thuộc phường ăn hại, quỵt nợ quỵt đời! Nó chơi bời, bạc bài khét tiếng một thời. Ai mà bì được cái tài quản lý của nó. Chi li chặt chẽ lắm, em ơi!
            Anh nhíu mày tỏ ra như đang suy nghĩ hung lắm:
            - Nhà máy xay lúa của ông Tề Thiên, nó đã kiểm kê đợt đầu và trực tiếp điều hành sản xuất. Nội đám cò ke hàng xáo, hằng ngày lén chuyển gạo về thành phố bán chui bán nhủi là nó đủ no nức trứng rồi. Bọn tay chân, bè phái của nó rậm đám lắm. Anh nghĩ mà buồn cười cho thế sự nhân tình ở thời buổi sình cặn lẫn lộn, thay ngôi đổi đời đổi vị này. Đói rồi! Sắp chết tới nơi nhứt là cái chết âm thầm dây dưa mới đau đớn. Nhiều lúc anh muốn chết tươi cho rồi, rảnh nợ nhưng nghĩ kỹ anh cố chịu đựng sống dài dài để xem đời chơi em ơi!
            Anh ngồi thừ người ra với đôi mắt lờ đờ chán nản:
            - Cái gốc của nó là thằng cờ bạc. Mà hễ bước chân vào sòng rồi là hầu như tất cả mọi người đều cờ gian bạc lận, tính toán sít sao. Anh kể em nghe một chuyện tức cười về tình đời đen bạc trở trái làm mặt. Hồi rục rịt đánh tư sản mại bản, kiểm kê công thương nghiệp chi đó, thằng anh cột chèo với nó làm chủ một cơ sở thương mại và một nhà máy làm nước đá ở tỉnh lẻ, trong lúc hốt hoảng chạy đôn chạy đáo tẩu tán gia sản mồ hôi nước mắt gây dựng từ lúc mới bước chân vào thương trường, có nhờ nó cất giữ dùm một số lớn vàng lượng, nữ trang và kim cương hột xoàn... Anh ta hy vọng nó là cán bộ nón cối dép râu, súng lục kè kè bên hông, tin chắc ở chỗ bà con thân tộc, máu mủ ruột rà, nó sẽ đảm bảo được tài sản khỏi phải lọt vào tay các ban ngành kiểm kê cải tạo. Sau này sóng gió sẽ qua, anh ta thu hồi lại và nhứt định sẽ đền ơn đáp nghĩa nó một cách xứng đáng, tương ứng với công khó của nó. Anh ta ngoéo tay hứa chắc với nó như vậy. Nào ngờ, anh ta lọt vào tay một tên điếm bạc, thấy của chóa mắt động lòng tham, để lộ nguyên bản tánh trước sau vẫn vậy.
            Anh cười bổ ngửa:
            - Nó ẵm luôn số vàng bạc tư trang gởi gấm mà chủ nhân khốn khổ trào nước mắt uất hận chẳng dám kêu ca thưa gởi vào đâu. Bằng chứng nào đây? Còn thêm mang tội tẩu tán tài sản nữa! Ngay cả ký gởi tâm sự với những người chung quanh cho vơi đi buồn khổ cũng đành ngậm câm như hến. Sẵn của tiền tự trên thinh không rơi xuống bất ngờ, thêm vào đó còn một số khác không nhỏ, nó cào cấu lúc tranh tối tranh sáng vào thời kỳ quân quản gì đó, nó lên vườn cất nhà kinh dinh như thế.
            Anh bỗng nhiên nghiến răng nhưng sau đó nở một nụ cười món xọm chua chát:
            - Những chuyện động trời tương tự như thế bà con mình nghe đầy lỗ tai, chỉ khác nhau ở mức độ đậm lợt, ít nhiều mà thôi. Riêng Bảy Cò thuộc hàng trật đời. Cái gì nó cũng quản lý hết. Mà không trực tiếp quản lý thì nó hợp tác dưới hình thức này hay phương cách nọ. Thậm chí đến đám lá dừa nước ở mé bến của anh có là bao, anh cũng phải kê khai, không được quyền đốn, dù để sóc nốc cái chòi của anh. Phải có lịnh của nó. Mà biết đến bao giờ mới có! Lá của anh trồng từ đời ông cố ông sơ anh mà nay là tài sản của nhà nước cách mạng. Còn nói gì đám mù u ở sau đình. Hồi xưa, hễ xin là ông Từ Hưởng gật đầu ngay không do dự, cho đốn vài cây về làm cột nhà. Ông còn khuyến khích ngợi khen, mừng cho lớn nhỏ trong làng trong xóm mỗi người có một mái nhà ấm cúng. Con người ta chết có nấm mồ, sống phải có mái nhà mà! Bà con mình thường nói như vậy và chính đó cũng là mục tiêu phấn đấu thường xuyên liên tục của họ. Bây giờ, nó cho đám cách mạng ba mươi "hồ hởi phấn khởi nhất loạt đứng lên làm chủ tập thể"... của cải người khác, đếm không sót một cây dù là cây đã bị đuôn cắn gãy đọt.
            Anh tiếp tục than phiền:
            - Còn vật liệu xây cất, sửa chữa, phân phối về xã trên giấy tờ hay ở cửa miệng của nó. Nếu có, thì như nước đái thằn lằn. Đám dân ngu khu đen như anh ngóng cổ kêu trời, có đâu đủ cho mo nan mà hòng thừa thải bố thí cho bù đài rách. Chỉ bao nhiêu đó cũng đủ cho Bảy Cò làm giàu rồi. Biết điều với nó, nó du di cho chút đỉnh. Nó lại kì kèo mặc cả như trong sòng bạc vậy. Chí tình mà nói, ai đến xin xỏ nó chớ riêng anh, nghèo chết chịu, nhìn mặt nó anh phát ghét thêm.
            Tôi lợi dụng anh họ tôi vừa tắt máy, hết "pile", đang chờ sạt lại, liền ngỏ ý muốn đến trụ sở xã để nhìn lại lần cuối cái nền Nhà Hội ngày xưa nơi tôi cùng mấy thằng bạn trang lứa thường hay la cà đá dế búng thun hay chùm nhum đánh cờ chó, xạc bài cào ăn thua vuốt lỗ mũi la ó rùm trời rùm đất. Luôn thể, tôi có dịp gặp lại Bảy Cò, xem mặt mũi nó tròn méo mập ốm ra sao?
            Trụ sở xã vừa được xây lại trên nền cũ của Nhà Hội, đã bị Tây đốt cháy ngay những ngày đầu mở màn kháng chiến chống xâm lăng. Nơi này bị bỏ hoang cả mấy chục năm rồi. Nay nhờ những ngày thường xuyên "lao động xã hội chủ nghĩa tự nguyện tự giác" thí công, việc phát hoang tạm xem như đã hoàn tất. Nhà nước cách mạng không phải mất một xu con xu lớn nào cả ngoài những lời cổ võ động viên, gói ghém ẩn ý hâm he và đe dọa. Nói trụ sở cho xôm chứ thực sự chỉ là một căn nhà lá, cột bằng thân cây đùng đình đủng đỉnh, vách tre, nền gạch trốc lở, lỗ hang rải rác. Cái nền đó, hồi còn nhỏ, tôi thấy sao nó cao vời vợi. Mỗi lần leo lên tuột xuống, tôi phải chăm chú bậm gan bấm tay sợ té u đầu, chảy máu trán.       Anh họ tôi xua tay lia lịa vội cản ngăn với lời lẽ thẳng thừng dứt khoát:
            - Đến đó làm chi em? Nhức đầu lắm! Thêm buồn. Mà nếu không vững tinh thần, em sẽ bịnh hoạn, tức mà chết. Anh đã dốt mà tụi nó còn ngu ngốc hơn anh gấp bội, còn Bảy Cò, em gặp chi cho mất công. Nó có nhìn ai đâu ở xóm làng này. Chẳng có bà con cô bác, chòm xóm láng giềng chi cả. Bà con mình sống có tình nghĩa, có thủy chung. Cái gì cũng phải có trước có sau. Đằng này, nó trở mặt còn hơn bánh phồng nướng lửa rơm ngày tư ngày Tết. Nó làm như là người ở dưới đất nẻ chun lên. Tự ên một mình. Nghĩ cũng ngộ về tình đời!
            Anh không vui, mặt mày buồn hiu hắt, khục khịt nói thêm:   
            - Mà thôi! Nhìn làm gì nữa em ơi? Đối với bà con Miền Nam mình bây giờ ai cũng là phản động, là "ngụy" hết. Hơn nữa, anh không biết nhiều, chớ lai rai ở xóm trên, xóm dưới thôi, ít lắm cũng còn cả chục bà con là chủ nợ của nó dạo xưa. Không nhìn để quỵt, xù nợ cho gọn. Thôi, ở đây chơi còn hơn. Anh đã bảo bọn trẻ hái vài trái ổi, nhậu với anh một xị đế quê hương nhé!
            Tôi khoác tay từ chối, viện lẽ trời đã sập tối tới nơi rồi:
            - Em ghé thăm anh giây lát còn phải lên đường trở về Sài Gòn cho kịp.
            Tuy không xa mấy, khoảng hai mươi cây số ngàn nhưng chiếc xe "honda" của tôi quá dày dạn           sương gió, nên đôi lúc cũng trận thượng với tôi, làm khó dễ dọc đường. Cái tật của nó rất thất thường, biết đâu mà đoán trước để kịp phòng ngừa. Thảng hoặc có đoán được thì cũng như đoán khí tượng thời tiết, lúc nào cũng sai cả dặm. Nó muốn nằm đường thì cứ nằm. Bực mình. Khổ lắm...  Anh họ tôi bỗng tắc lưỡi lắc đầu rồi đổi giọng lạnh tanh trầm buồn:
            - Em về thăm mả ba em và mả ông bà bên nội bên ngoại bất thình lình như thế này, không nhằm dịp tảo mộ ngày Xuân ngày Tết, sao linh tính anh nghi em tạ mả để đi xa quá!
            Tôi gượng cười không nói năn chi. Tôi có ý ngầm cho anh tôi biết, anh muốn nghĩ sao thì nghĩ, vì quả đúng như vậy rồi. Anh họ tôi tiếp lời:
            - Anh chắc sẽ không còn dịp gặp lại em nữa đâu. Điệu này chém chết chắc em sẽ vượt biên đi tìm tự do thoát ách cộng sản! Hỏng lẽ anh đoán sai? Ít khi lắm em ơi!
            Rồi anh choàng vai tôi, cúi mặt xuống đất như cố tâm đè nén xúc động. Tôi nghe những ngón tay anh ấn mạnh vào da thịt mình. Một thoáng sau, anh cầm chặt tay tôi âu yếm:
            - Thôi, anh chúc vợ chồng em và mấy cháu bình an đến bến bờ tự do hạnh phúc. Anh sẽ cầu nguyện cho gia đình em trong chuyến phiêu lưu diệu vợi như chỉ mành treo chuông này.

                                                                                 **
            Mặt trời đã phụp xuống. Chúng tôi nhìn nhau ngập ngừng im lặng, đôi mắt long lanh. Trong phút chốc bịn rịn tiễn đưa ấy, anh họ tôi bỗng vỗ nhẹ vai tôi, chỉ về hướng trụ sở xã:
            - Kìa kìa, thằng Bảy Cò chễm chệ lái chiếc xe "honda đam" cáu cạnh đang rề rề trước trụ sở xã đó. Em thấy không? Nón cối nè, dép râu nè, áo quần bảnh bao mướt mượt. Thêm cây súng lục lòng thòng bên hông. Cả cái cặp da bóng lưỡng nặng ì ì, đồ hào nhoáng của tư bản Mỹ Ngụy để lại.
            Tôi rồ máy xe. Xe nổ dòn trong khi anh họ tôi ấm ức còn muốn nói tiếp thêm nữa. Tôi chào giã biệt, lòng nghe buồn rười rượi vì biết rằng ngày gặp lại anh tôi, bà con tôi, thôn xóm quê hương tôi ắt hẳn mong manh lắm. Qua khỏi vuông tre đầu xóm, tôi nép sát vào mé lề, tránh đoàn người lem luốt uể oải, thầm lặng, đang lê bước nặng nề hướng về phía ấp xa xa, đèn đuốc đôi nhà đã bắt đầu lập loè. Họ vừa chấm dứt một ngày dài làm thủy lợi không công xây dựng xã hội chủ nghĩa và đang trên đường về nhà để quây quần cùng gia đình qua bữa cơm tối với bo bo độn khoai sắn theo tiêu chuẩn phân phối lương thực và nhu yếu phẩm hàng tháng của nhà nước.
            Tôi vừa rẽ vào quốc lộ 4 Sài Gòn - Lục Tỉnh, rất quen thuộc với tôi mấy mươi năm trước, từ thuở con lộ tráng nhựa đen đen láng o này hằng ngày vắng vẻ quạnh hiu. Lâu lắm mới có một chiếc xe hơi chạy qua, tài xế đã cẩn thận bóp kèn inh ỏi từ xa, mỗi khi thấy chúng tôi lảng vảng hai bên lề hoặc thong dong ngay giữa lộ. Một số ý tưởng và cảm xúc hổn độn liên tiếp xâm chiếm tâm hồn tôi. Buồn thương... Nuối tiếc... một cái gì chơi vơi mờ ảo! Bỗng dưng, tôi ngoái nhìn lại về phía sau, về phía Voi Lá - Long Phú của quận Bến Lức thân yêu, về cái quá khứ chập chờn, khi rõ nét rừng rực, khi mập mờ huyền ảo. Giữa bối cảnh nội tâm dồn dập đó, hình ảnh ông Hội Đồng Võ Công Tồn, mẫu người lý tưởng của tôi thuở thiếu thời lại hiện ra trong sáng, chói lòa hào quang. Nụ cười ròn rã đầy tự tin, những lời tâm huyết gói ghém nghị lực phi thường của ông văng vẳng bên tai tôi, dắt dẫn tôi về bãi cát tha ma Hàng Dương ở Côn Đảo, cứ chiều chiều rì rào từng đợt sóng oán hờn. Tôi tiếc thương, tôi ngậm ngùi về sự hy sinh cao cả của ông cho cảnh thổ Voi Lá, cho mảnh đất quê hương Việt Nam ngàn đời yêu dấu của ông. Càng tiếc thương tưởng nhớ, càng thêm ngậm ngùi, tôi thấy lòng mình se thắt về những bất công hiển hiện trong thực tế nơi quê hương tôi.
            Chiếc xe Molotova xám xịt bụi bùn bụi đất chở đầy nhóc những tên bộ đội non chèo, tuổi chưa quá hai mươi trong bộ đồ màu cứt ngựa thùng thình mới toanh, mặt còn búng ra sữa. Chiếc xe thét một hồi kèn dài. Tôi giựt mình, hướng về phía trước. Nhưng trong đáy mắt, tôi vẫn còn thấy rõ ràng hình ảnh thằng Bảy Cò đứng chống nạnh, ngước mặt vênh vênh chỉ chỏ tấm bảng đỏ chữ vàng vừa mới dựng chắc chưa được bao nhiêu ngày: "Cách mạng đại thành công!".
            Trời tối vương vương một vài áng mây mù. Chẳng bao lâu, mưa bắt đầu ray rứt. Mưa vào mùa này thường buồn lắm. Càng buồn hơn trong hoàn cảnh oái oăm ngang trái tôi vừa trải qua. Từng hạt, từng hạt thung thăng lất phất cứ tranh nhau đổ xuống mặt đường sẫm màu bóng loáng khiến nhiều lúc tôi không phân biệt được rõ ràng lề cỏ hai bên. Bầu trời chung quanh tôi thêm lung linh. Cũng may, chiếc xe "honda" của tôi vẫn nổ dòn phon phon lướt tới phía trước, trên quốc lộ 4 thân thương giờ nầy đã vắng người. Chiếc xe lại lao nhanh trầm buồn, bỏ lại phía sau thảm khói đen ngòm, xô đẩy từng cuộn tròn xô bồ, níu kéo nhau để tan loảng trong không gian hư thực, trong sự huyền bí của màn mưa hoàng hôn càng lúc càng dầy đặc làm lu mờ những cánh đồng lúa bát ngát hai bên  quốc lộ.
            Tuy nhiên, cái lạnh của trời mưa lúc nhá nhem lộng gió đó không làm cho tôi nao núng. Cái lạnh đó không làm cho tôi đau đớn nghẹn ngào bằng sự ấm ức bất bình về cơn lốc lịch sử vừa mới phũ phàng thổi tạt lên quê hương tôi.

                                                                                           Võ Phước Hiếu

     --**--
                     Chiếc Xích Lô Của Thầy
             Tôi đạp chiếc xích lô cũ rích leo dốc Cầu Bông hết muốn nổi giữa lúc cơn mưa lớn, lại còn đưa hai mẹ con mụ bán cá quẹo về Xóm Đình. Một xóm nhỏ lầy lội ở sau Trường Vẽ Gia Định có con hẻm đi sâu vào đến tận bờ sông.
            Khách xuống xe, tôi quay lại đạp hối hả vì cơn mưa mỗi lúc một lớn và sấm sét ào ào. Nhìn quanh không có chỗ nào trú mưa được. Con hẻm nhỏ nghèo nàn, hai bên nhà lá lụp xụp. Giây điện giăng chằng chịt như mạng nhện. Cột đèn ngả nghiêng như say  rượu. Tôi nép vào mái hiên một căn nhà nhỏ. Trời mưa tháng bảy như trút nước. Vài cái chớp ngoằn ngoèo và tiếng sấm như hăm dọa...
            Trong nhà lá nhỏ đang có bữa nhậu của một đám thanh niên. Tôi cố nép vô vách lá cho đỡ ướt phần nào...
            Nghe có tiếng sột soạt bên ngoài, một chàng trai bước ra trước hiên nhìn tôi rồi nói:
            - Này, ông xích lô ơi! Có đụt mưa thì cứ vô trong này. Ngoài đó lạnh lắm, không khéo đứng lâu bị cảm bây giờ. Ông này ốm yếu như vầy mà còn đạp xích lô kiếm ăn...  Thật cơ khổ quá!
            Nghe tiếng nói xem thiệt lòng, tôi bước vô thềm nhà. Bỗng trong bàn rượu có đứa nhìn tôi chằm chằm rồi la lên:
            - Trời ơi! Thầy Hiếu Đệ nè tụi bây ơi. Này, tụi bây không nhìn ra Ông Thầy sao?
            Cả đám vụt đứng lên lôi tôi đến bàn nhậu:
            - Ngồi xuống đây, Ông Thầy. Thầy đi học tập cải tạo về hồi nào vậy? Sao tụi em không hay. Sao Thầy phải đi đạp xe như vầy?
            Tôi chưa vội trả lời. Cả bọn cũng lặng im như tôi, tỏ vẻ thương xót. Thật tình, tôi cũng chưa nhìn ra được đứa nào là học trò của mình vì tôi đi dạy cũng đã nhiều năm, từ trường Mỹ Thuật Sài Gòn đến Trường Mỹ Thuật Huế, nhiều học trò quá làm sao nhớ cho xuể. Từ mấy cô nữ sinh Đồng Khánh Huế đến mấy cô học trò Đoàn Thị Điểm Cần Thơ, mấy o này cũng có cháu nội cháu ngoại cả rồi.
            Làm sao Ông Thầy nhìn được hết học trò của mình nổi?! Có chăng chỉ có học trò mới nhìn được Ông Thầy thôi. Tôi có giỏi lắm chỉ nhớ loáng thoáng. Bây giờ nhở chúng nó xưng tên, nhắc lại chuyện xưa, tôi mới nhớ ra.
            Thì ra qua bao nhiêu năm dâu bể thăng trầm, chúng nó đã có gia đình, có con cái đùm đề và hiện là chủ căn nhà lá xập xệ tôi đang đụt mưa. Tên thằng này là Nguyễn Văn Y, bạn bè chúng nó gọi là thằng Y Râu. Nó có bộ mặt y chang tên tướng "tàu bay" Nguyễn Cao Kỳ.
            Tôi chậm rãi trả lời:
            - Thầy về được bốn tháng nay rồi. Bộ Chỉ huy An ninh Thành phố có kêu lên nói là những người đi học tập cải tạo về không được làm nghề gì nữa. Cũng như người nghiện được về không còn hút ma túy, phải làm lại cuộc đời. Các em biết đó, Thầy là giáo sư dạy mỹ thuật, say mê nghệ thuật như người nghiện xì ke, nay lại bị nhà nước cấm đoán, không cho phép làm văn nghệ văn gừng gì ráo, chỉ được làm người dân lương thiện "sản xuất xây dựng xã hội chủ nghĩa" hay làm thợ thôi.
            Tôi cao hứng dong dài thêm:
            - Nghệ thuật hôm nay là tiếng nói của Đảng, phải có vị trí đảng tính, nói chung là phải được đào tạo từ Hà Nội hay Liên Sô về mới được hành nghề. Hồi đó, Thầy dạy ở Trường Mỹ Thuật Sài Gòn, bây giờ thành bất lương (không lương), mất dạy (không còn chỗ để dạy nữa). Thầy có ghé vô trường thăm bạn bè cũ thì họ cũng chẳng dám đón mình. Họ xem mình như cùi hủi, chỉ làm tổn hại đến đảng tịch của họ. Ngồi không ở nhà ăn bám vợ con, mỗi ngày đi ra đi vô lại gặp cái mặt thằng công an khu vực quản lý mình. Nó cứ đến rình rập dò xét, hỏi sao mình không đi làm ăn, sản xuất. Để tránh cái mặt hãm tài của nó, Thầy phải kiếm chiếc xích lô, đạp loanh quanh cho nó... khoẻ thân.
            Trong vài tiếng cười ròn rã của tụi trẻ có đứa hỏi:
            - Tội quá! Đã đạp xích lô mà còn khoẻ cái nỗi gì Ông Thầy?
            - Ây, mấy em không biết, đạp xích lô mình được làm chủ lấy mình. Buổi trưa đậu xe dưới gốc cây da ở công viên có bóng mát, nằm thẳng cẳng đọc "Thần Điêu Đại Hiệp" hay sách báo, có gió thổi hiu hiu đến buồn ngủ rồi ngủ hồi nào không hay. Buổi chiều, tấp xe vô Hội quán Hội Văn Nghệ Thành phố hay Hội Mỹ Thuật, kêu một lít bia hơi, ngồi tán phét với đám bạn văn nghệ văn gừng, không sướng sao? Sống theo kiểu Thầy, họ gọi là rong chơi ca múa,  chờ bảo lãnh đi Mỹ, chẳng có cái tích sự gì để "xây dựng xã hội chủ nghĩa" giàu đẹp cả. Vậy mà Diệp Minh Châu, con nuôi Bác Hồ, nó muốn đổi cái xích lô của Thầy với cái ghế Chủ tịch Hội Văn Nghệ Thành phố mà còn không được đó nghe.
            Thấy bọn học trò trố mắt nhìn, chắc không cản nổi nỗi bất mãn của Ông Thầy, tôi mới pha trò cho vui:
            - Ai bảo đạp xích lô là khổ? Đạp xích lô sướng lắm chứ! Hồi mình còn bé, có học bài "Chăn Trâu" trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của ông Nguyễn Đỗ Mục. Ông này là bố của họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, hiện là Giám đốc Viện Bão Tàng Trung ương Hà Nội. Tụi em không nhớ sao?
            Tôi lại thao thao tiếp theo:
            - Thật ra đạp xích lô cũng dễ thôi. Ai lại chẳng đạp được. Có điều cái thắng xe lại nằm giữa cặp đùi nên mình hay quên. Thuở nay, ban ngày ban mặt, chạy xe giữa đường giữa chợ, mình có rành có quen chỗ để thắng xe bao giờ đâu nên lúc đầu cũng hay ủi vào đít xe đạp mấy cô nữ sinh bên đường. Mấy cô thấy mình lớn tuổi, tay chân quờ quạng nên chỉ cười chớ chẳng mấy khi giận hờn gì.
            Tụi trẻ lại chăm chú nghe:
            - Mấy em có nhớ không? Đám cán bộ Cộng sản thường hay nói mình đạp xích lô là được làm "dân biểu" rồi đó, có nghĩa là dân họ biểu mình đạp đến đâu thì mình đưa họ đến đó. Lúc nào mình không có "dân biểu" thì mình cứ đạp xe tà tà rong chơi "tiếu ngạo giang hồ". Mình được đậu xe nằm sải cẳng ngoài đường, ở đầu ngõ, bến xe, ở ga xe lửa hay xa cảng Miền Tây, Miền Đông. Mình nghe muôn người đi qua đi lại đang sống đang nói. Nào là bà mẹ xách túi đi thăm nuôi chồng trên trại cải tạo Bù Đăng. Xong rồi còn phải xuống vùng biển nuôi con, đứa lớn đứa nhỏ ở trại chấp pháp giam tù vượt biên. Nào là bà lão xin được ít gạo về nuôi cháu lại bị tụi cán bộ tịch thu ráo trọi, bởi chánh sách ngăn sông cắt chợ của Đảng và nhà nước.
            Thấy tụi trẻ ngồi nghe im lặng, tôi không bỏ cơ hội trút bớt những ray rức trong lòng:
            - Nhà nước coi thực phẩm là vũ khí để bao vây tiêu diệt bọn phản cách mạng và quân thù. Mình được thấy lắm gia đình người dân lương thiện nghe theo tiếng gọi đi xây dựng vùng kinh tế mới, nay làm ăn thất bại trở về phố cũ. Cả gia đình nằm ngủ ở vĩa hè, ngay trước căn nhà xưa kia là của mình, giờ đã bị bọn cán bộ chiếm cứ. Một bà mẹ quê đi nuôi con ở bệnh xá quân đội than rằng: "Đã độc lập tự do rồi mà con bà còn phải đi làm nghĩa vụ ở Campuchia dẫm phải mình Trung Quốc què mất một chân... Mình được nghe những tiếng than vản đó đây như tiếng kêu than của những loài chim ở giữa khuya.
            Thấy kể chuyện mất vui khi tiệc rượu chưa tàn, tôi cũng ngại. Tôi bèn vả lả quay sang hỏi chuyện chúng nó.
            Xóm lao động làm sao mà sinh đẻ quá cỡ. Thằng Y có tới ba đứa con lao nhao còn bé. Tất cả đều là gái. Chúng nó bò qua bò lại quanh mấy vũng nước mưa còn đọng trên nền nhà. Mái nhà bị mưa dột nát như đang ngồi ngoài đường. Bàn rượu của chúng tôi chốc lát lại phải lưu động để tránh mưa dột đến nổi nước mưa chảy đúng vô ly rượu mà có đứa vẫn cười hô hố bảo đây là nước "soda" để dùng chữa lửa (có nghĩa là "soda" pha vào rượu đế để giảm bớt nồng độ của cồn - alcool).
            Thời buổi này rượu đế quốc doanh hiệu Nàng Hương và Lúa Vàng được đánh giá là ngon bậc nhất rồi. Vậy mà có đứa dám nhạy theo lời mấy tên bộ đội Miền Bắc:
            - Đế quốc nào ta cũng đánh thắng. Đế quốc Nhật, đế quốc Pháp, đế quốc Mỹ... đế quốc nào cũng phải thua ta. Nhưng nay gặp phải cái thằng đế quốc doanh, đụng phải nó một trận là chúng ta chỉ có lật gọng thôi. Thằng nào thằng nấy chỉ có từ chết tới bị thương, bởi vì độ cồn của nó cao quá xá, đốt lên để nướng mực khô còn cháy khét được.
            Uống rượu ngà ngà, tình thầy trò trở thành bình đẳng. Tôi còn nhớ họa sĩ Văn Đen, vốn rất nghệ sĩ. Anh gả con gái cho đứa học trò là Nguyễn Phát Minh. Có lần tôi uống rượu tại nhà anh, có cả Nguyễn Phát Minh. Tôi nghe nó nói với cha vợ nó:
            - Nè... Uống rượu thì phải uống cạn ly, không được bỏ dở... Rượu bất khả ép... mà ép bất khả từ... bởi vì "nam vô tửu như kỳ vô phong"...
            Tôi tức mình nói lớn:
            - Ê... Phát Minh, mầy gọi anh Văn Đen bằng Bố hay bằng Ông Thầy không được sao?
            Cả bàn rượu nhao nháo la rầy nó vô lễ. Không biết lễ "tôn sư trọng đạo". Chính cái bình đẳng mất dạy đó mà sau này thằng Phát Minh bỏ vợ con để anh Văn Đen phải nuôi đứa con gái và bầy cháu ngoại rất tội nghiệp.
            Thầy trò tôi cứ nhậu, quên cả mưa rơi, quên cả thời gian...
            Tôi nghe Văn Y kể lại nó dạy ở trường Trung học Hốc Môn cách xa thành phố hai mươi cây số, phải đi bằng xe đò nên ăn ngủ tại trường đến cuối tuần vào mỗi chiều thứ bảy mới về nhà. Nó được bổ nhiệm từ ngày ra Trường Mỹ Thuật sau ngày 30 tháng Tư 1975.
            Nó cố gắng làm ăn và lo tương lai, nhờ thế nó được cử làm bí thư chi đoàn của trường vì nó là một đoàn viên tiên tiến nhất. Vả lại trước đây, bố nó làm Chủ tịch Hội Đồng xã ở Xóm Đình, đã từng che chở cho bọn cán bộ Cộng sản nằm vùng...
            Thằng cán bộ nào đốt chợ hay ném lựu đạn rạp hát chạy tót vào xóm này coi như là yên thân. Bên kia sông thuộc Quận Nhì, địa phận khác, không ai đuổi theo bắt nữa. Cảnh sát không thể nào bố ráp nổi lũ thanh niên trốn quân dịch. Chúng nương nhờ vào xóm này là ăn chắc.
            Trong đợt bình công, báo công, bố nó được biểu dương có công lớn với cách mạng trong thời kỳ "chống Mỹ cứu nước". Nhờ vậy nên Văn Y được đề bạt vào Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh rất sớm. Và cũng vì lo giữ tròn "đạo đức cách mạng" nên nó trở nên nghèo xác nghèo xơ.
            Nghe nó kể lể sự tình, tôi nói với nó:
            - Được rồi, Ông Thầy hứa sẽ lợp lại cái mái nhà nầy cho Văn Y.
            Nó thấy tôi mới ở tù ra, đang trong thời gian bị quản thúc tại địa phương, còn đói rách, chưa được phục hồi quyền công dân, chưa xin được hộ khẩu thường trú để ăn ngủ cho yên. Trong người tôi không có lấy một tờ giấy lộn, chỉ đi lại bằng cái giấy lệnh tạm tha, thì tôi làm cóc gì có tiền để lợp nhà cho vợ con nó?
            Thấy Văn Y trố mắt nhìn tôi, tôi chỉ lên ba cái tranh sơn dầu do nó vẽ rồi nói:
            - Bây giờ Thầy ký tên trên ba cái tranh này, mai em đưa cho Quách Phong, Tổng Thơ ký Hội Mỹ Thuật Thành phố nói là tranh của Ông Thầy gởi vào tham dự cuộc trưng bày để đón tiếp phái đoàn Gia Nã Đại vào ngày thứ hai tuần tới cùng với số tranh của anh em trong hội. Em là học trò của Thầy, nét vẽ cũng hao hao giống sư phụ một đôi chút, chắc chẳng sao đâu.
            Tuần sau, Văn Y hối hả đạp xe vào nhà báo cho tôi biết là ba bức tranh đó bán được hai mươi lăm ngàn đồng. Một số tiền mà suốt một đời đi dạy học ở Hốc Môn không bao giờ và chẳng bao giờ nó dám nghĩ đến vì số tiền trị giá cao hơn cả một lạng vàng (lúc đó giá vàng chỉ có hai mươi ngàn đồng) đủ sức mua ba thiên lá lợp nhà.
            Tôi hỏi:
            - Sao hội bán được hay vậy? Rồi còn những tranh của tác giả nào được phái đoàn mua nữa không?
            Văn Y khoái chí trả lời:
            - Vì tranh của anh em hội viên vẽ theo tiếng nói của Đảng. Họ vẽ toàn súng ống, bộ đội đánh nhau với Mỹ và chân dung ông Hồ nên phái đoàn ngoại quốc chỉ chọn có ba bức của em do Thầy ký tên mà thôi. Phái đoàn còn hỏi loại tranh với chữ ký này còn nữa không? Họ thích loại tranh có mang chữ ký Hiếu Đệ làm cả Ban Quản trị Hội Mỹ Thuật đều trố mắt kinh ngạc.
            Tới đây, nó ngập ngừng hạ giọng:
            - Bây giờ em làm phiền Thầy thêm một lần nữa. Chiều mai Thầy chịu khó đạp xích lô ra Hội, đến phòng kế toán ký tên nhận dùm số tiền đó giúp em luôn. Thôi, Thầy ơi, lỡ làm ơn rồi xin Thầy làm ơn cho trót...
            Câu chuyện đó giúp tôi và Văn Y một bài học. Văn Y tự thấy nó thừa khả năng vẽ tranh được và tranh nó có thể bán hơn tranh của các hội viên Hội Mỹ Thuật. Trong khi đó nó phải dấn thân đi bán nước bọt, suốt ngày để rao giảng ba mớ lý thuyết Mác, Lê Nin và trồng cây trồng người kiểu mồ ma Hồ Chí Minh.
            Có lần lên xe buýt, người ngồi kế bên hỏi nó làm nghề gì? Nó nói là làm giáo chức. Bà lão trề môi trách:
            - Giáo chức là giứt cháo, nếu không biết giứt cháo thì lấy c... mà ăn. Thôi bỏ đi Tám! Nên kiếm nghề khác mà mần ăn.
            Ôi đau đớn thay! Nó về kể lại cho tôi nghe rồi hỏi bây giờ mình phải làm sao đây Ông Thầy trong khi ba đứa con gái của nó lớn mau như thổi. Ngày xưa, tôi ngồi trong trường Sư Phạm nghe thầy Đinh Căn Nguyên giảng lời của Đức Khổng Tử, một vị vạn thế sư biểu đã phán rằng:
            "Làm thầy thuốc lỡ tay, giết chết một mạng người. Làm chánh trị hư hỏng giết chết một nước. Làm sư phạm sai giết chết cả một thế hệ".
            Kiểu này thì còn cóc gì là thế hệ mai sau của đất nước "xã hội chủ nghĩa"! Phần tôi thì nghĩ:
            - Với chữ ký giả hiệu của mình mà vẫn bán được tranh, cái tên của Hiếu Đệ vẫn còn, đâu đến nổi phải đạp xích lô. Tôi cũng thấy đau đớn như thằng Văn Y.
            Bữa nọ, tôi đạp xe qua đường Công Lý để đưa một cô gái đi làm về. Trong khi đạp xe, tôi chợt nghe cô gái hỏi:
            - Trông mặt mũi anh sáng sủa mà thân thể ốm yếu như vầy, sao lại đạp xích lô? Trước kia anh làm nghề gì?
            Tôi trả lời cho cô ta biết, tôi là họa sĩ, đi học tập cải tạo vì là Đại úy Tâm Lý chiến. Bây giờ thất nghiệp, đổi đời rồi, tôi đâu được là hội viên Hội Mỹ Thuật Thành phố mà vẽ tranh nữa. Nay tôi đạp xích lô sinh sống. Đôi lúc nhớ anh em đồng nghiệp, tôi chỉ đến hội quán để gặp bạn bè hỏi thăm và nhậu chơi với chúng nó.
            - Vậy ông là họa sĩ ký tên gì?
            - Tôi ký tên Hiếu Đệ.
            - Ủa! Vậy ông là Hiếu Đệ? Tôi biết ông là họa sĩ có tên tuổi và bây giờ tôi xin tự giới thiệu tôi là  Thoa. Xin ông cứ gọi tôi là cô Thoa. Tôi là vai chị bà con với họa sĩ Lê Chánh đây. Lê Chánh đang đóng phim "Ván bài Lật Ngửa" trong vai tướng cướp Nguyễn Văn Bời về đầu với cách mạng và vai Thiếu tá Tâm gian ác đó. Suốt ngày nó bận quấn quít với mấy cô đóng phim nên chẳng vẽ vời gì nữa. Vả lại, tôi chẳng thích nét vẽ của nó. Tôi thích tranh của ông... Nhưng đám họa sĩ các ông tệ hại quá...
            Tôi trố mắt hỏi:
            - Sao cô nói lạ vậy?
            - Tôi bỏ công đi hỏi tung tích của ông thì đám họa sĩ ở Hội Mỹ Thuật nói ông phải đi học tập cải tạo mút mùa, không đời nào về được đâu. Lý do vì ông vẽ cái tranh vui cười chửi Cộng sản, có mười thằng Việt cộng đánh đu không rụng cọng đu đủ... thì còn trở về sao được? Tôi có gặp họa sĩ Huy Tường. Ông ấy bảo là Hiếu Đệ chết trong trại cải tạo rồi vì ông trốn trại, bị bắn ở Tam Biên, Phước Long.
            Ngừng một chút, cô tiếp:
            - Trong đám họa sĩ các ông chỉ có ông Tú Duyên là thật tình thôi. Bữa nọ, tôi đến mua tranh ở nhà ông Tú Duyên, thấy ông đang vẽ tranh đề tài những ngày lễ hội ở làng quê. Tôi chợt gợi chuyện về ông. Ông Tú Duyên cho biết ông được tha về rồi, nghe đâu ông đang đạp xe xích lô, còn cái chuyện vẽ tranh lại hay không thì ông ấy không biết. Ông Tú Duyên có cho tôi địa chỉ của ông đây nè. Nhưng tôi chưa tiện đến ông. Hôm nay thật may mắn khiến tôi được gặp ông đây...
            Cô ta suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói:
            - Tôi sắp đi nước ngoài để đoàn tụ với gia đình. Bây giờ tôi đã bán nhà rồi, chỉ chờ giấy thông hành xong là đi thôi. Tôi muốn mang hai tấm bình phong, ngăn phòng khách và phòng ăn bằng một bức sơn mài, sơn son thếp vàng vẽ cảnh hội làng Lim hay hai Bà Trưng khởi quân. Bề cao tối thiểu hai thước, bề dài năm, sáu thước... Ông có thể thực hiện cho tôi trong vòng sáu tháng với giá sáu cây vàng được không?
            Tôi nghĩ mình đang đạp xe, chưa làm cái xưởng sơn mài bao giờ nhưng tính ra bề nào cũng sướng thân khoẻ xác hơn là đạp xích lô nhiều. Vả lại, vừa mới ra tù, tôi đâu biết giá trị của đồng tiền, đồng vàng ra sao. Tôi cứ ừ đại nhưng tôi còn giữ thế. Tôi chỉ xin nhận hợp đồng với cô ấy vẽ một bức thôi. Xong bức bình phong này rồi chúng ta sẽ hợp đồng đến bức sau.
            Tuần sau, cô Thoa trở lại nhà tìm tôi. Bây giờ đến lượt tôi dò hỏi về cô ta. Thì ra cô này làm ở Sở Ngoại Thương Thành phố nên cô ta biết rất rõ về tranh tôi. Vì mấy bộ sơn mài, ngày xưa tôi làm để trang trí nhà cửa của đám thương gia, nghiệp chủ, nay họ bị nhà nước cải tạo công thương nghiệp và tịch thu của người ta rồi giao cho Ngoại Thương bán ra nước ngoài rất có giá.
            Họ còn bảo là đồ cổ, bây giờ không có nữa. Người nước ngoài, cứ bảo không tìm được tác phẩm của Nguyễn Gia Trí thì lấy tranh của Hiếu Đệ. Nhất  là khi Nguyễn Gia Trí bị xếp vào hàng quốc bảo thì Sở Văn Hóa và Phòng Mỹ Thuật tịch thu tranh của ông về Viện Bão Tàng, không cho đem ra khỏi Việt Nam. Trong khi đó, họa sĩ Gia Trí đã bảy tám mươi tuổi, bệnh hoạn nhưng không được nhà nước trợ cấp nuôi dưỡng. Quốc bảo ở Việt Nam đầy bất công do chánh sách gian ác.
            Bây giờ tôi mới nghĩ ra về giá cả của tác phẩm nằm ở Sở Ngoại Thương nên cô Thoa cũng đã rành hơn cả tôi. Cô ta mới đề nghị tôi vẽ lại. Cuộc đời đạp xích lô của tôi tự nhiên có tiền có việc. Tôi không còn thì giờ đạp xe rong chơi ngoài phố Sài Gòn nữa. Cũng tiếc thật.
            Một hôm gần giáp Tết, tôi ghé Xóm Đình gặp Văn Y. Hai thầy trò kéo nhau vào quán cà phê. Văn Y trang nghiêm hỏi tôi:
            - Bây giờ em xin hỏi Ông Thầy. Bước vào đầu năm mới, sau khi ăn Tết xong, em lên Sở Giáo Dục ném một cái đơn xin nghỉ dạy, ở nhà đóng cửa vẽ tranh. Ông Thầy nghĩ xem em có thể sống được không? Đâu Ông Thầy suy nghĩ dùm em và cho biết ý kiến về vụ này vì nó liên can đến sinh mạng của cả gia đình vợ con em.
            Nó phân giải thêm:
            -  Làm cán bộ thì vững về khẩu phần gạo và nhu yếu phẩm, con cái học hành có dốt cũng được nâng điểm, sau này dễ kiếm việc làm nhưng coi lại thì cất đầu lên không nổi. Nhưng em đã làm cán bộ công chức cả chục năm rồi, quyền lợi nhiều lắm, không lẽ bỏ sao? Nay nhảy ra biết có sống nổi không Ông Thầy?
            Tôi cười bảo nó:
            - Cái này là sanh mạng của chú mầy sao lại hỏi tao? Ông Thầy chỉ lo cho mầy cái chuyện bài vở hồi ở trường thôi. Nay chuyện làm ăn không lẽ tao khuyên chú mầy bỏ sở. Nhà nước nghe được bảo tao không hợp tác thì chớ lại khuyên mầy bỏ việc, họ sẽ tóm cổ tao cho đi học tập cải tạo đến mút mùa lệ thủy. Thứ nữa, lỡ sau này vợ con mày chết đói, tao bị xử tội nữa sao? Thôi bây giờ Ông Thầy không cho ý kiến gì hết về vụ này.
            Một đổi sau, tôi kể cho nó nghe một ví dụ sau đây:
            - Có một buổi sáng nọ, mầy đang nhìn xuống ao thấy nước sâu thăm thẳm và lạnh ngắt, không tài nào chú mầy dám lội xuống khi không biết mình có lội được không? Nhưng đột nhiên mầy nhảy xuống ao cái đùng, chẳng cần biết có đứa nào đứng sau lưng xô mầy xuống. Phản ứng của mầy vì sanh tồn, mầy phải lội qua trước cái đã. Khi đã qua được bên kia bờ, tự nhiên mầy lại thấy mình có khả năng lội được và đã lội một cách ngon lành mà không ái ngại gì nữa. Cho dầu có kẻ nào xô mầy xuống hay tự mầy ngã thì cũng vậy thôi.
            Dĩ nhiên là vào đầu tháng giêng, Văn Y đến xưởng sơn mài của tôi cho biết là nó đã xin nghỉ việc, không còn đi dạy học nữa. Cũng như tôi hết đạp xích lô vậy. Tôi nói mặc dầu tôi không còn đạp xích lô nữa  nhưng bây giờ trách nhiệm hoàn thành một tác phẩm đẹp còn mệt hơn là lúc tôi đạp xe gấp ngàn lần. Vì sao? Vì mình phải vận dụng cả tim óc và công sức của mình, chứ không phải chỉ dùng đôi chân như ngày xưa:
            - Chú mầy cũng vậy, đã nhảy vào nghệ thuật thì phải vận dụng sáng tạo và tim óc của mình, chắc chắn không bao giờ chết đuối.
            Năm sau, Văn Y xây xong cái lầu bằng gạch trên căn nhà lá dột nát năm xưa. Nó mời Ông Thầy và đám bạn bè đến mừng tân gia. Nó bùi ngùi nói:
            - Các bạn biết không? Cái nhà này là do Ông Thầy chúng ta xây cho tôi đó. Không có đám mưa lớn năm xưa để ông Hiếu Đệ đạp chiếc xích lô ghé vào đụt mưa thì tôi vẫn giữ nguyên cái nhà dột nát. Tôi vẫn còn là một cán bộ trung kiên, nương nhờ vào Đảng, một cán bộ chỉ có hồng hơn chuyên, suốt đời chỉ có nói như vẹt về cái chuyện không bao giờ có, về viễn ảnh xã hội chủ nghĩa, không chịu nhảy ra làm ăn, không chịu nhận diện ra kẻ thù trước mặt là sự nghèo đói và dốt nát.
            Nó thở dài ngao ngán:
            - Chẳng những thế lại cộng thêm cái tật thụ hưởng, quanh năm chỉ lè phè ăn nhậu và nói xấu lẫn nhau nên cuộc đời của mình không có hướng đi, không biết tôn trọng sự thật, chỉ sống bằng sự bố láo và không tưởng.
            Đám mưa to và chiếc xích lô năm xưa đã cho hai thầy trò Văn Y ra khỏi ngõ hẹp, trở về với chính mình và nghệ thuật đích thực của mình.Và cũng chính cái xích lô năm xưa đó đã đưa thầy trò chúng tôi ra khỏi nghèo đói và tủi nhục của hôm nay.

                                                                                                       Hiếu Đệ

     --**--
                                  Cay Đắng Mùi Tù
              (Từ Bài Học Ăn Miếng Thịt Heo Tết Trong Tù
                  Đến Hình Phạt Ăn Hoa Chuối Rừng)
             Vào những ngày cận Tết năm ấy, luôn ba đêm liền, anh em trại viên chúng tôi đều bị lùa lên hội trường để học tập phải ăn miếng thịt heo như thế nào! Suốt năm trời, trại viên không được ăn một miếng thịt. Cả đến mùi của thịt cũng không có mà ngửi! Thế là ai nấy nghe bảo sắp có thịt ăn đều sáng mắt ra. Họ đều ngồi im phăng phắc, lắng hết tinh thần mà nghe.
            Tên cán bộ sau khi long trọng mở đầu đến nửa tiếng đồng hồ về những giáo điều cũ kỹ mà chúng tôi đã nghe nhàm tai về cuộc cách mạng thần thánh của Nga Sô vĩ đại, về đại thắng lợi, đại thành công trong cuộc chiến thắng anh hùng của chúng do Bác và Đảng lãnh đạo, về chánh sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người của chế độ trước mà chúng gọi là ngụy quân, ngụy quyền v.v... Xong rồi hắn mới trịnh trọng bảo:
            - Các anh sẽ được ăn thịt lợn. Lợn của trại ta nuôi nấng béo tốt. Đây là đặc ân của Đảng và của lãnh đạo ban cho các anh có được những ngày Tết vui vẻ, sung sướng trong thời gian học tập cải tạo và xa vắng gia đình. Các anh phải nhớ ơn ấy để cố gắng học tập tốt mà về với gia đình...
            Trong hàng dự thính, có những tiếng xì xầm từ đâu đó:
            - Biết rồi, nói mãi!
            - Nói tới miếng thịt đi nào!
            Tên cán bộ đưa mắt nhìn quanh hội trường để mọi người phải chú ý rồi bảo tiếp:
            - Các anh phải biết làm cách nào ăn miếng thịt lợn ấy! Phải để vào mồm, lấy lưỡi đưa vào hàng răng cấm, nhai nó từ từ... Triệt để không được nhai vội vã, ăn vội nuốt vội như người chết đói chưa từng có miếng thịt ăn. Thịt càng nhai nhuyển bao nhiêu, chất béo của mỡ, của thịt thấm vào kẽ răng, càng thơm ngon bấy nhiêu...
            Hắn ngừng lời để nuốt nuớc bọt rồi lại căn dặn thêm:
            - Các anh, cả đời không ăn miếng thịt mỡ vào bụng, nên khi ăn thịt vào thì tuyệt đối không được ăn bánh kẹo hay các thức ăn ngọt. Vì sao các anh biết không? Vì chất béo của thịt mỡ và chất ngọt của bánh kẹo chống nhau trong bụng của các anh, khiến các anh sẽ bị bịnh kiết lỵ. Bịnh kiết lỵ là chết đấy! Nơi đây không có thuốc chữa nổi đâu!
            Sau đêm học tập ấy, anh em trại viên lẩm bẩm bảo nhau:
            - Sư bố nhà nó! Chúng tưởng đâu dân Miền Nam cũng như chúng nó. Suốt đời cách mạng của chúng nó, chúng chưa bao giờ biết đến miếng thịt heo! Chỉ khi vào đến Miền Nam mới có thịt ăn, chúng lại còn lên mặt dạy dân Miền Nam phải ăn miếng thịt như thế nào!
            - Miếng thịt có to không nhỉ?
            Anh em trại viên cùng nhau ước lượng miếng thịt của "cách mạng" bao to? Người độ chừng bằng nửa bàn tay. Người bảo bọn Việt cộng ti tiện, bỏn xẻn, chắc chỉ cho miếng thịt mỏng thôi. Kẻ lại nói chúng nó long trọng tuyên bố như thế, chắc sao cũng được bằng vài ngón tay. Có kẻ không tin, cho rằng xưa nay Việt cộng không nói thật bao giờ. Không khéo ba voi chẳng đầy được một bát nước xáo! Không chừng chả có miếng thịt nào cả.
            Bàn tán mãi khiến ai cũng chảy nước dãi. Có đói ăn mới biết miếng thịt là quý! Vả lại, Tết sắp đến nơi rồi. Ai lại không nghĩ đến miếng thịt mỡ dưa hành. Ai lại không tưởng nhớ miếng bánh chưng xanh, khoanh bánh tét với dĩa thịt kho nước dừa, dưa giá, dưa kiệu v.v...
            Trại viên chúng tôi nhiều đêm thao thức, cùng nhau nhắc nhớ dĩ vãng vàng son của thời tự do ngày trước. Có mang thân chim lồng cá chậu mới thiết tha với trời rộng sông dài... Năm hết, Tết đến... chúng tôi nằm trong khám tối mà nghe chừng như vũ trụ đang thay đổi, khí trời cây cỏ vạn vật đang âm thầm chuyển mới mà thân phận tù đày của mình chừng nào đổi thay?
            Ôi những buổi giao thừa có pháo đỏ rượu hồng, những lúc hái lộc nơi Lăng Ông Bà Chiểu, những đêm trừ tịch xa nhà của người lính chiến ở vạn nẻo đường đất nước... Người thì nhắc đến cái Tết ở Huế, người nhắc ở Nha Trang, Đà Lạt, ở Cà Mau, Bến Hải, ở các vùng Tây nguyên... Chỉ có người tù mất  tự do mới ăn được cái Tết tưởng tượng huy hoàng nhất!
            Nhưng ai cũng nghĩ đến miếng thịt heo hứa hẹn trong ngày Tết của bọn Việt cộng. Nó bao to? Nấu nướng thế nào? Mùi vị ra sao? Chưa trông thấy nó, chưa ngửi được mùi vị của nó mà ai nấy cũng bắt thèm, cũng nhễu dãi! Dạo ấy, tôi được xung vào toán nuôi heo. Gần đến sáng, vừa thiu thiu ngủ, chợt có người vực dậy hỏi:
            - Đệ ơi! Heo bồ nuôi có mập không  thế?
            - Ờ... ờ... Mập béo tốt.
            - Liệu chúng cho cả trại mấy con?
            Chuồng heo của trại có hai mươi con "dọc sia", cao lớn béo tốt và cũng ngần ấy heo mọi mập ú núc na. Lại còn thêm mấy nái với bầy heo con đang lớn. Hằng ngày, chúng tôi vỗ béo chúng, tắm rửa và vỗ về:
            - Chóng lớn đi con. Để anh em trại viên được nhờ.
            Chúng tôi ước độ Tết ấy, mỗi tiểu đoàn được ngã thịt một con hay tệ lắm thì cả trung đoàn cũng phải hai lợn. Đến đêm giao thừa, mọi người nghe tiếng heo bị thọc huyết kêu eng éc, đều choàng tỉnh dậy, trố mắt nhìn nhau, chắc mẻm là có thịt ăn rồi đây! Ai nấy đều chuẩn bị bụng dạ. Nghĩ đến miếng thịt ăn trong miệng, vừa nhai vừa nghe thơm ngon mùi vị, chả cần tên cán bộ chỉ dẫn mới biết!
            Rồi thì đến bữa ăn, mọi người đều tưng hửng ra khi trông thấy mỗi khẩu phần chỉ có một miếng thịt to bằng... đầu ngón tay! Có người cười hô hố, chế diễu:
            - Ây! Ây! Phải bỏ vào mồm, lấy lưỡi đưa vào hàng răng cấm, nhai nó từ từ. Cả đời chưa ăn được miếng thịt, tuyệt đối không ăn bánh kẹo nhé! Ôi! Giời ơi giời!... Buồn cười đến bể bọng đái!... Thịt thế này, bánh kẹo thế kia, đúng là cho voi ăn bù mắt!...
            Sau buổi được ân huệ của Đảng và lãnh đạo để ăn miếng thịt heo không dính kẽ răng ấy, anh em toán nuôi heo chúng tôi bí mật bàn với nhau:
            - Tụi Việt cộng chúng nó tù đày chúng mình lên đến nơi rừng sâu nước độc thế này, bảo chúng mình phải học tập tốt. Chúng mình đã học tập tốt theo lời của chúng: khẩn hoang, cất nhà, phá rẫy, làm ruộng... nuôi heo, chăn bò v.v... cho chúng nó hưởng. Cái gì chúng mình cũng làm tốt cả. Thế mà chúng nó đối xử với chúng mình không ra gì cả. Cơm không đủ ăn, bịnh không thuốc uống, thực phẩm không đủ dinh dưỡng, đến cả miếng thịt Tết một năm mới có một lần, chúng cũng cho không tốt, thế thì chúng mình phải làm sao?
            - Bố khỉ chúng nó! Chúng ăn cướp sức lao động của chúng mình, đày ải hơn tù khổ sai, mà miệng cứ hô hào nào là tình người, là nhân đạo! Nhớ đến miếng thịt Tết mà tức lộn gan, thà chúng đừng cho, đừng bắt học tập để gợi thèm...
            - Chúng nó đã ra bài học ăn miếng thịt heo, chúng mình phải... ăn cho tốt, như đã làm tốt bao nhiêu việc khổ sai bấy nay.
            - Nhưng ăn tốt thế nào với một miếng thịt tí teo vừa bỏ vào miệng nhai mấy cái đã trôi qua cửa họng! Còn đâu nữa mà ăn?
            - Thế là ăn chưa tốt, cần phải ăn lại.
            Nghe anh bạn nọ nói, chúng tôi hiểu ngay là anh có kế hoạch gì đây rồi. Chúng tôi đều sáng mắt nhìn nhau thích thú. Chống phá lại áp bức vẫn là đặc tính quật cường của người bất phục. Bọn Việt cộng càng nghiêm cấm chúng tôi làm điều gì, chúng tôi càng nghĩ ra cách thế để làm nghịch lại mà chúng không sao trách cứ được. Đôi khi rất nguy hiểm, nhưng lòng chống đối vẫn hừng lên, khó dập tắt nổi. Chúng nó có súng đạn, trại viên có mưu trí. Thử xem ai thắng ai?
            Anh em nhỏ giọng lại hỏi anh nọ:
            - Anh có cách nào?
            Anh nọ đưa mắt nhìn anh em cùng toán như dò xét phản ứng, xong rồi mới khẻ bảo:
            - Chúng ta phải thề với nhau không tiết lộ điều này ra bất cứ với ai. Chúng nó ngầm đặt "ăng ten" nhiều lắm. Màn lưới "ăng ten" dọc, màn lưới "ăng ten" ngang. Chúng nó gieo rắc nghi ngờ trong nội bộ chúng ta, gây sức mẻ tình đoàn kết, lòng tin cậy nhau giữa những người cùng khổ.
            - Chúng ta thề không tiết lộ.
            - Chúng ta thề không phản bạn.
            Anh nọ liền rĩ tai cho chúng tôi biết kế hoạch xong, rồi bảo:
            - Khi đi rừng, nhớ đem theo hộp diêm quẹt không. Cố tìm cho ra được cái giống đó!
            Ít lâu sau, anh em bắt được một con bọ cạp. Bọ cạp nằm dưới lá cây mục, trong hốc cây, nơi vùng rừng núi nầy là thứ bọ cạp chích chết người. Anh em phải khéo léo lắm mới bắt được con bọ cạp bỏ vào hộp diêm. Chiều đến, anh em bí mật trao hộp diêm cho tôi. Tôi lén đem hộp diêm ấy đến chuồng heo, mở hộp, thả con bọ cạp ra.
            Vừa thu dấu hộp diêm vào túi cũng vừa lúc có tên cán bộ đi đến, hỏi tôi:
            - Giờ nầy sao anh còn vơ vẩn ở đây?
            - Báo cáo cán bộ, tôi ra xem bầy lợn con mới đẻ, xem có con nào không chen vào bú mẹ nó được...
            - Tốt! Thế mới "nà" "nao" động tốt. "Nàm" "nợi" cho cả trại có thịt ăn, biết giữ gìn của cải của nhà nước!
            Sáng ra, có một con heo sáu mươi kí lô chết lăn trong chuồng. Toán nuôi heo chúng tôi bấm nhau đi tìm bọ cạp để thủ tiêu bằng chứng. Tìm mãi mới thấy nó nằm ẩn nơi kẹt gỗ, liền đập chết ngay và chôn biến xác lập tức. Xong xuôi mới chạy đi báo cáo.
            Tên tiểu đoàn trưởng cùng ban quản lý xuống xem, xong chúng báo cáo lên trung đoàn. Trung đoàn gởi xuống một tên y tá gà mờ và gã bác sĩ i tờ... còn cần phải đi học văn hóa bổ túc để khán nghiệm con heo.
            Có một dạo, báo Sài Gòn Giải Phóng và các loa phóng thanh nơi thành phố Hồ Chí Minh, luôn cả tuần lễ phổ biến một thông cáo kêu gọi các bác sĩ ở các cơ quan phải đến học văn hóa bổ túc nơi các tụ điểm v.v.... Có lẽ tên bác sĩ trung đoàn ở xa, chưa đi học khóa bổ túc văn hóa ấy! Nhưng hắn cũng trịnh trọng mang kính trắng, mặc áo "bờ lu" trắng, mang ống nghe bên tai, bảo chúng tôi lật con heo chết trở qua, trở lại để hắn khán nghiệm.
            Chúng tôi trông thấy con heo ấy, ngoài chiếc đùi bị đen thẫm (phải chăng do nọc bọ cạp) và cả thân mình nó cũng có màu đỏ bầm. Đây là vì con heo chết mà không bị thọc huyết.
            Tên tiểu đoàn trưởng hỏi:
            - Thế nào, đồng chí bác sĩ, có phải lợn bị bịnh dịch?
            - Dịch!
            - Thế có truyền nhiễm sang bầy?
            Tên bác sĩ hỏi toán nuôi heo về thức ăn của heo, về cách chăm sóc, cách tắm rửa v.v... Xong hắn bảo:
            - Phải vài hôm nữa mới biết có truyền nhiễm hay không. Cần nhất là mấy anh nầy phải lao động thêm, phải chăm sóc, phải tắm rửa heo cho cả chuồng nhiều hơn! Phải hốt phân và quét chuồng thường hơn.
            Con heo đáng lẽ phải được khiêng đi chôn, nhưng anh em năn nĩ ban quản lý trại giao cho nhà bếp. Bọn chúng nhứt trí và bắt chúng tôi cam kết nếu có xảy ra việc gì nguy hiểm đến sanh mạng thì không được khiếu nại (!).
            Thế là hôm ấy, anh em trại viên có thịt ăn. Riêng đội chăn nuôi chúng tôi cứ phải hốt phân, quét chuồng rồi đến tắm heo khờ cả người. Tuy thế, ai cũng thích chỉ vì đã lừa được bọn Việt cộng chuyên lừa bịp một vố thích thú.
            Anh X vẫn chép miệng bảo:
            - Phải chôn bỏ cái đùi heo tím bầm ấy thật uổng!
            - Bộ lại thèm thịt nữa sao?
            - Phải. Cả tháng nay không tìm được con bọ cạp nào độc như con hôm ấy.
            - Thong thả. Lần này, ngón đòn phép đã dùng rồi, không nên xài lại nữa để tránh sự nghi ngờ của cán bộ.
            - Thế phải làm sao?
            Chúng tôi nặn óc tìm ra mưu kế. Bọn cán bộ canh chừng chúng tôi dữ lắm. Chỉ sơ hở một tí thôi là cả toán sẽ bị phạt. Chúng tôi đã nghĩ ra một cách. Lén lấy hạt đậu xanh bỏ vào lỗ tai con heo mập nhất. Vài ngày sau, tai heo có mũ, đầu con heo ấy cứ nghiêng về một bên...
            Lại báo cáo ban quản lý trại. Bọn nầy lật đật báo cáo lên trung đoàn y như lần trước để trên ấy cử ngay gã bác sĩ mù tịt về thuốc men nọ xuống xem bịnh cho heo.
            Bọn Việt cộng là bọn nuôi heo chuyên nghiệp. Bộ đội nuôi heo. Cán bộ nuôi heo. Thủ trưởng nuôi heo. Cả đến lãnh đạo cũng nuôi heo. Hết giờ làm việc, tên nào tên nấy cởi trần trùng trục đi đến chuồng heo, tự tay cho heo ăn, tự tay tắm rửa chú heo, cố vỗ heo ăn cho mau lớn, chóng béo để ngã thịt hoặc bán đi. Chúng thân thuộc với heo còn hơn với người.
            Ngay trong ngày 30 tháng tư năm 1975, chiến xa của chúng, xe kéo pháo, tải đạn của chúng vào Sài Gòn cũng có treo lủng lẳng cái củi heo. Quân đội chúng di chuyển đến đâu, đám hậu cần, bọn "anh nuôi" cũng khiên củi heo theo. Vì chúng bảo thực phẩm là vũ khí, tạo sức mạnh. Con heo chính là sức mạnh của chúng!
            Nhưng không một tên Việt cộng nào biết được tại sao những con heo nuôi ở tiểu đoàn cải tạo viên chúng tôi đang xân xẩn hôm trước, hôm sau đã chết ngã ngay lơ. Chúng khán nghiệm heo. Xem xét thức ăn của heo, ngửi mùi nước đái heo, thử cả phân heo nhưng chúng không tìm ra bịnh chứng nào cả.
            Bóp óc suy nghĩ mãi không ra nguyên lý, chúng rình rập toán nuôi heo. Chúng cho cả "ăng ten" dò la đủ cách vẫn không vén được màn bí mật!
            Ít lâu sau, anh X. lại bảo:
            - Hôm nay là ngày kỷ niệm đám cưới của tôi đãi ở nhà hàng Soái Kình Lâm, có món da heo quay dòn chấm mật ăn với bánh bao... Chà nhớ tới mà buồn! Không biết bao giờ chúng mình mới được về gặp lại vợ con...
            - Thôi đó cha nội! Bộ thèm thịt heo nữa sao?
            - Hề... Hề... Heo lớn nhiều mỡ, heo con thích hơn!
            - Heo con thường hay chết vì bịnh gì nhỉ?
            - Heo con bỏ bú là chết ngay!
            Chúng tôi chọn một bầy heo con tốt nhất, lôi chân một con anh cả vài lần khi heo nái cho con bú. Cứ mỗi lúc nó chạy đến vú mẹ, chúng tôi lại kéo nó ra, không cho bú. Vài lần như thế, con heo không đủ sức chen lấn đàn em của nó để vào bú mẹ. Nó gầy trông thấy. Bọn cán bộ không hiểu sao "con nợn"" cứ bỏ bú, bỏ ăn. Đành phải cho trại viên giết thịt thôi.
            Có một bận, tên y tá tiểu đoàn thắc mắc vì sao trong bầy heo con vừa được hai tháng, nặng khoảng bảy kí lô bỗng dưng có con bỏ vú mẹ, chả chịu ăn cám. Ngày ngày hắn đến chuồng heo, ngắm nhìn con heo cứ ốm sút kí, suy nghĩ không ra nguyên do.
            Hắn hỏi chúng tôi:
            - Có cách nào cứu con heo?
            Chúng tôi buồn bã lắc đầu. Con heo đã được chúng tôi bí mật lên án kể như Thiên Tào giũ sổ, còn cách nào cứu nổi. Một anh đang quét chuồng heo khẻ huýt sáo miệng. Điệu sáo y hệch tiếng sáo thiến heo dạo của mấy tay thiến heo đi xe đạp qua các thôn xóm.
            Gã y tá nghe tiếng huýt sáo, bật đứng lên sung sướng bảo:
            - Tôi có cách chữa cho con "nợn" này! Sáng kiến độc đáo!
            Bọn cán bộ reo lên:
            - Thế mới là bác sĩ được chứ! (Bọn cán bộ Việt cộng cứ tưởng hễ làm y tá lâu năm thì đương nhiên được lên làm bác sĩ).
            Hắn treo ngược con heo lên, thiến dái heo ngay. Hắn còn cẩn thận bôi lọ nghẹ chảo trộn với dầu lửa vào vết thiến giống như lối thiến heo vườn cho chắc ăn.
            Con heo bị thiến đau, khi được cởi dây buộc chân ra, vừa la eng éc, vừa chạy rất nhanh. Tên y tá  đắc chí bảo với bọn đồng chí đang trố mắt, há miệng nhô hàm răng hô ra, nhìn hắn có vẻ thán phục:
            - Đây thiến cho nó có cái "nà" nó khoẻ "nại" ngay! Nhờ Đảng và lãnh đạo soi sáng tâm trí của tớ, tớ mới nghĩ ra tài tình như thế chứ! Có phải Bác đã dạy: chủ nghĩa Lê Nin bách chiến bách thắng không hở, các đồng chí?
            - Nhất trí! Đỉnh cao trí tuệ phải thế chứ!
            Nhưng dù cho có Đảng, có Bác, có chủ nghĩa Lê Nin với đỉnh cao trí tuệ, con heo cũng lăn ra chết. Vì bị nhiễm trùng nơi vết thiến. Gã y tá kinh ngạc đến ngẩng người ra. Hắn không hiểu sao đã làm đúng cách thức cổ truyền dân gian, vết thiến của heo vẫn làm độc.
            Chúng tôi bảo bọn cán bộ:
            - Đấy nhé! Anh y tá làm chết con heo, nào phải lỗi của chúng tôi. Thế mà các cán bộ nghi ngờ chúng tôi. Mấy con heo trước chết cũng vẫn thế thôi. Chúng nó bịnh thì chúng nó phải chết, việc gì đến chúng tôi? Chúng tôi vẫn chăm nom heo tốt kia mà!
            Nhờ con heo chết, chúng tôi đỡ phải bị rình rập. Nhưng dần dần, bọn cán bộ chuyển chúng tôi qua làm công tác khác. Bọn Việt cộng rất tàn ác, dã man. Bắt trại viên làm những công tác nặng nhọc mà không cho ăn đúng tiêu chuẩn. Trại viên ốm đói, mặt cứ dài ra. Ngực lộ ba sườn. Chân tay rút teo lại. Thét rồi có người trông thấp bé như con nít.
            Số chết vì bịnh tật, vì thiếu dinh dưỡng, vì bị tai nạn lao động mỗi ngày mỗi gia tăng. Đất chôn tù cứ dài ra, lớn rộng ra mênh mông với bầy que cấm cọc trên đầu mộ! Anh em trại viên đi rừng gặp phải thứ gì ăn được mà không chết là cứ ăn, cả đến những con... bọ sít!
            Dạo trước, có một anh bẻ trộm một trái bắp, bị cán bộ bắn chết tại trận và bỏ xác bên lề đường để cảnh cáo. Toàn trại chúng tôi làm reo, không đi lao động. Tiếng vang lên đến sư đoàn. Trên ấy phải cử tên chính trị viên xuống giải hòa. Chúng buộc lòng chấp nhận điều kiện của trại viên đưa ra:
            1. Chôn ngay anh trại viên xấu số kia.
            2. Không bắn giết bừa bãi. Nếu trại viên có tội, phải nhóm họp trại lại, luận xem tội ấy như thế nào, hình phạt ra sao?
            Nhưng Việt cộng xưa nay có hứa chắc bao giờ đâu!
            Vài tháng sau, xảy ra vụ một anh trại viên hái hoa chuối rừng. Anh nầy bị bọn cán bộ bắt gặp. Chúng xúm lại đánh đập anh một cách tàn nhẫn. Xong rồi, chúng bắt anh quì gối dưới đất, phải cạp ăn cái bắp chuối nọ.
            Anh la lên:
            - Tôi có ăn cắp của ai đâu? Chuối rừng đã ra quày rồi, chỉ còn lại còi búp, để trên cây cũng vô ích thôi!
            Một tên vệ binh dọng báng súng vào ngực anh, quát bảo:
            - Đừng no mồm! Chuối rừng cũng là của trại, của nhà nước! Cạp đi! Có nhanh không nào? Muốn ăn, ông cho mầy ăn còn phàn nàn gì nữa?
            Lũ vệ binh ngu dốt và hung bạo quyết tình làm nhục anh trại viên ấy. Chúng tôi ngồi chung quanh rất căm phẫn, không sao dằn lòng được. Chí quật cường nổi lên, ai cũng nghiến răng căm tức.
            Một anh ứng tiếng hỏi nhỏ:
            - Đứa nào đứng lên?
            Một cân nhắc quyết liệt thoáng qua đầu chúng tôi nhanh như chớp. Không thể để bọn cán bộ không ra gì ấy hà hiếp bạn mình đến thế. Chúng tôi đã lầm về sự giả trá của lũ chúng. Chúng tôi bị tước đoạt tất cả. Chúng tôi đã mất tất cả rồi, cho đến quyền sống của con người.
            Nhưng chúng tôi quyết không để bọn cướp nước hại dân kia chà đạp lên nhân phẩm chúng tôi. Đã đến lúc phải có một người trong bọn đứng lên cho chúng nó một bài học.
            Cả toán khẻ bảo nhỏ:
            - Bắt thăm di!
            Anh trại viên nọ vớ lấy nắm cỏ gần bên làm thăm. Ai rút nhằm cọng cỏ ngắn nhứt, người ấy sẽ đứng lên phản đối. Tất cả toán hăng hái rút thăm. Không một chút ngần ngại, do dự.
            Đây là một sự lựa chọn giữa cái sống và cái chết mà cầm bằng chết nhiều hơn. Một so sánh nẩy lửa giữa súng đạn và sĩ khí con người. Giữa sức mạnh mù quáng và tàn bạo với trí óc thông minh. Một so chạm giữa cương và nhu.
            Người bắt phải cọng cỏ ngắn nhứt là anh Thu, binh chủng nhảy dù. Anh còn giữ được cái dáng vạm vỡ, to con ngoài đời. Cả toán nhìn anh với vẻ khuyến khích. Anh sẽ là người đại diện trước quân thù tàn bạo. Anh khéo thì cả bọn được nhờ. Anh vụng về thì có thể cả bọn cùng chết cả, hay ít ra cũng mềm xương với bọn dã man kia. Anh em sẵn sàng giao phó sự an nguy cả toán cho anh.
            Anh Thu liền đứng lên, lớn tiếng bảo:
            - Không được đánh nữa!
            Bọn Việt cộng đang lấy báng súng đập anh trại viên kia, nghe bảo, vội dừng tay lại. Chúng trố mắt nhìn anh Thu. Kinh ngạc như trông thấy một quái vật. Xưa nay có ai dám phản đối chúng?
            Anh Thu lù lù tiến đến. Dáng người cao lớn dềnh dàng của anh như thể lấn áp hết bọn vệ binh đang ngơ ngác, rúm người lại. Ánh nắng chiều soi xuống. Bóng anh vương dài ra, hiên ngang, lẫm liệt. Chúng tôi có cảm tưởng anh Thu là một hung thần trước bầy yêu đói run sợ.
            Anh từ từ tiến đến bên tên bộ đội đang làm nhục bạn anh. Vài tên bộ đội khiếp sợ, đứng lùi qua bên lên cò, súng chĩa họng đen ngòm phía anh:
            - Đứng lại!
            Anh Thu vẫn tiến tới. Một tên bộ đội vội quát to lên:
            - Mầy muốn gì? Thằng kia? Mầy còn tiến lên, ông bắn mầy. Muốn chống lại chúng ông à? To gan thế?
            Anh Thu nói:
            - Tôi tay không, không làm gì được các anh. Nhưng các anh có khí giới trong tay mà xúm nhau lại đánh đập một người tay không cô thế, không còn có sức lực gì cả thì có nhục không? Các anh tự xưng là anh hùng mà làm vậy, tôi xem thấy không anh hùng chút nào cả!
            - Im! Mầy hổn láo dám chửi lại chúng ông à! Mầy ngon hả, dám ăn thua đủ với tụi tao!
            - Tôi nói sự thật.
            Bọn vệ binh thấy anh Thu chỉ phản đối chúng bằng miệng chứ không làm gì nguy hại đến chúng. Chúng lấy lại can đảm, hùng hổ xông lại, lấy dây trói thúc ké anh. Vài tên gườm súng về chúng tôi, đề phòng cả toán đứng lên. Chúng toan đánh bề hội đồng cho chí chết:
            - Đập bỏ mẹ nó. Cho chết tiệt cái giống phản động.
            Bỗng từ xa chạy đến một chiếc xe jeep. Ngồi trên xe có bốn tên thanh tra. Đây là ban thanh tra sư đoàn. Có cặp da, bao súng đeo bên hông, hách dịch và oai vệ.
            Chúng bước xuống xe, hỏi bọn vệ binh:
            - Chuyện gì lôi thôi thế?
            - Báo cáo với các đồng chí, tên nầy muốn làm phản ạ!
            Một tên mở nấp bao da, nhanh nhẹn rút khẩu súng lục ra:
            - Làm phản à? Hắn khiến chết hử?
            Một tên đưa tay ngăn lại và hất hàm hỏi bọn vệ binh:
            - Đầu đuôi tự sự thế nào? Sao lại có tên quì kia?
            Bọn vệ binh dành phần phải về mình, đổ hết tội lỗi cho anh Thu. Chúng bảo anh Thu toan xông lại giật súng bắn lại chúng. Nhưng không may cho anh là trong bọn chúng có tên giỏi vỏ hơn, đã vật ngã và trói anh lại.
            Bọn thanh tra quay sang hỏi anh Thu:
            - Có phải đúng thế không? Anh ỷ cao lớn, khoẻ mạnh hơn nên muốn giở trò khinh dễ vệ binh mà chống cự lại phải không? Anh có nhiều tội như thế, anh biết là phải thế nào không?
            Anh Thu nhảy dù cười ngạo nghễ:
            - Cán bộ cứ trông xem bao nhiêu vệ binh xúm lại đánh đập một trại viên quì gối dưới đất kia, máu me đầy mặt ra đấy, thì cán bộ biết sự thật như thế nào rồi. Mấy chú kia nói dối cả. Tôi làm gì muốn chống lại các chú ấy. Trên cõi đời nầy, có ai ngu dại mà một mình toan giật súng của bao nhiêu người đông đến thế kia. Tôi chỉ xin các chú ấy bớt đánh đập người cô thế thôi.
            - Nhưng anh kia có tội thì phải trừng trị. Anh là trại viên, anh không có quyền can thiệp. Làm thế trái nghịch với nội quy của trại, anh lại bảo không có tội à?
            Anh Thu dỏng dạc bảo:
            - Chúng ta đều là người Việt Nam cả. Cùng một tổ tiên. Cùng một giống nòi. Cùng một bà mẹ Việt Nam chịu đau khổ từ hơn nửa thế kỷ nay vì nạn tương tranh tương tàn. Đã biết bao nhiêu người nằm xuống vì oán hờn, vì thù hận vô lối cứ kéo dài dây dưa mãi. Đã đến lúc cần phải chấm dứt việc đau lòng và đáng tiếc ấy. Các cán bộ nghĩ sao? Có nên sáng suốt để đừng gây thêm thù hận nữa không?
            Anh Thu bình tĩnh nói tiếp:
            - Thử hỏi mấy cán bộ, nếu tôi không phải là người lính mà các cán bộ gán cho là tội phạm chiến tranh, tôi nhìn thấy cái cảnh người Việt Nam bị một người Việt Nam lăn nhục như cảnh trước mắt các cán bộ, khiến cho nhân phẩm con người không còn gì nữa, tôi làm sao không đau xót cho dân tộc Việt Nam? Tôi nhìn cảnh áp bức ấy bằng con mắt của một người mẹ Việt Nam trông thấy bầy con cấu xé nhau, vì tôi còn tình người. Mấy cán bộ hô hào tình người, mấy cán bộ nghĩ sao?
            - Nhưng anh đứng dậy, toan hành hung nhà chức trách...
            Anh Thu hiên ngang bảo:
            - Nếu tôi là con thú vật, tôi sẽ không biết đứng dậy. Loài thú vật, nhất là dã thú hay uống máu, ăn thịt đồng loại. Tôi là con người. Tôi không thể tọa thị điềm nhiên trông thấy máu của con người đang đổ ra. Thế nên tôi đứng dậy. Để làm gì? Không phải là để chống cự như lời mấy chú vệ binh vừa vu cáo. Tôi đứng dậy để bảo với họ: Xin mấy anh đánh đập tôi đây cho sướng tay. Thay vì đánh đập anh kia quá ốm yếu, không chịu đòn nổi, lại phiền các chú phải khiên về trại. Tôi thì còn sức để các chú hành hạ, đánh đập cho hả lòng căm tức của mấy chú. Căm tức vì người ta chỉ hái có một bông chuối rừng!
            Anh Thu nói xong, hất mặt lên nhìn bọn cán bộ, vệ binh như thể bảo chúng:
            - Cứ tha hồ! Chúng mầy cứ nhào tới đánh đi!
            Bọn thanh tra bị "quê" quá. Tất cả anh em trại viên ngồi đây đều cười ồ lên một tiếng. Bọn cán bộ càng bị nhục thêm. Chúng nhỏ to với nhau, bàn bạc mãi. Mặt cứ đờ ra. Như hốc phải xương. Như ngậm bồ hòn. Bài học của anh Thu đập vào mặt mo của chúng quá đau.
            Mãi sau một tên bảo:
            - Anh theo chúng tôi lên "sư" để giải quyết.
            Bọn thanh tra đưa anh Thu lên xe jeep, chở anh về giam trên sư đoàn hai tuần lễ. Khi trở lại trại, anh Thu gầy nhom. Tóc râu tua tủa.
            Anh cho biết trong những ngày đầu, chúng nó xúm lại đánh hội đồng anh hết hai bữa, thấy anh vẫn giữ lập trường đến cùng, chúng mới chịu thua. Chúng chuyển anh sang biệt giam và bỏ đói. Nhờ mấy anh em trại viên lén gởi thuốc đau nhức, thuốc trụ sinh và chút ít thực phẩm để anh chịu đựng.
            Đến bây giờ, anh mới nhớ lại bài học huấn nhục vào cuối khóa ở quân trường, không phải là không bổ ích. Anh nghĩ đến đêm cuối cùng trước khi đi bổ sung đơn vị, nhiều anh em trẻ túa ra đi tìm các sĩ quan dạy huấn nhục để đánh trả thù. Nay mới thấy mấy bài học chịu đau, chịu đòn khi xưa, có ích trong trại học tập cải tạo của Cộng sản bây giờ.
            Ngày anh Thu về trại, trong chuồng heo có một con heo bị bọ cạp chích chết. Phải chăng là để mừng anh sống sót trở về?
                                                                                                     Hiếu Đệ
           
     --**--
                                                             Chung Quanh
                                                Bức Chân Dung
            Hồi nghệ sĩ khả ái Thierry Le Luron còn hoạt náo xuất thần trên sân khấu và màn ảnh nhỏ của Pháp, tôi nhớ nhiều lần có xem một hoạt cảnh hi hữu mà có lẽ những nạn nhân của chế độ cộng sản như chúng ta mới càng thấm thía. Tác giả đã tài tình dàn dựng vai lãnh tụ G.M., lúc ấy là Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Phú Lang Sa, đang điện đàm với tên trùm đồ tể điện Cẩm Linh.
            Trong câu chuyện, G.M. chỉ gật đầu lia lịa, nhỏ nhẹ dạ dạ vâng vâng một cách máy móc. Một thái độ chứng tỏ ông ta hoàn toàn nhất trí với người đối thoại bên kia đầu dây, tức nhà lãnh tụ tối cao của vô sản quốc tế.
            Tác giả vốn sống nơi một xứ có quá nhiều tự do dân chủ trên mọi lãnh vực xã hội và chính trị nên rất đổi ngạc nhiên về cuộc điện đàm một chiều lạ lẫm đó. Tác giả đâm ra thắc mắc bèn vặn hỏi viên Tổng Bí Thư đảng Cộng sản Pháp sao chẳng thấy ông ta đối đáp chi cả, trái lại cứ mỗi một mực ngoan ngoản gật đầu?
            G.M. hướng thẳng về phía tác giả rồi lạnh lùng trả lời gọn hơ:
            - Tôi chỉ có việc nghe thôi, chớ tôi không có quyền nói.
            Mà nói làm sao được?!
            Vì cái điện thoại của ông ta được gắn trực tiếp với điện Cẩm Linh rất giản đơn, vỏn vẹn chỉ có một bộ phận duy nhứt để nghe mà thôi. Tuyệt nhiên không hề có ống nói. Nghe để tiếp thu chỉ thị cấp trên và sau đó nghiêm chỉnh nghiên cứu thực hiện đúng theo tinh thần nghĩa vụ quốc tế vô sản, chớ tuyệt nhiên không thể và không hề có ý kiến đóng góp lôi thôi nào cả.
            Đó là thời kỳ hưng thịnh của Sô Viết Tối Cao trong chiến tranh lạnh, dùng đường lối chém giết hận thù dã man để lãnh đạo khối cộng sản thế giới. Và đám đàn em khuyển mã khắp nơi, từ Âu sang Á, đều phải răm rắp chấp hành đứng đắn và quyết liệt, không nhân nhượng, đường lối quốc tế nhằm xích hóa nhân loại.
            Đảng Cộng sản độc tài.
            Tổ chức Đảng sắt máu.
            Đảng viên suy nghĩ một chiều, chấp hành mù quáng mệnh lệnh trên một cách quá khích. Thanh toán, tiêu diệt, khủng bố, loại trừ... những thành phần đối lập trong quần chúng nhân dân, ngay cả trong nội bộ Đảng là chủ trương tiến lên Xã hội Chủ nghĩa với chiêu bài không tưởng "thế giới đại đồng", "không người bóc lột người"...
            Trong nội bộ đảng, phát biểu lạng quạng là "đi đoong" ngay, tắt thở không kịp ngáp, không kịp giã từ vợ con. Cứ xem những trò hộc máu mồm, đứng tim, sùi bọt mồm bọt mép hoặc nghẹt mạch máu não hay thường xảy ra hơn hết là chết bất đắc kỳ tử vì những tai nạn lưu thông đâu đó... của các diễn viên múa rối trên sân khấu chánh trị của nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa từ mấy chục năm nay thì rõ.
            Chỉ thị của các Tổng bí thư Trường Chinh, Lê Duẫn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và gần đây của Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh... của các Trưởng ban Tổ chức Đảng, đặc biệt là của mồ ma Lê Đức Thọ, chẳng tên đảng viên nào dù cao cấp đến mấy, dù có giữ những vai trò then chốt và quyết định trong guồng máy Đảng và Nhà nước dám bạo phổi bạo gan phát biểu ngược lại.
            Chỉ thị là chỉ thị. Chỉ thị có nghĩa là mệnh lệnh phải chấp hành.
            Quốc hội lúc nào cũng biểu quyết nhất trí một trăm phần trăm. Đố tên dân biểu nào dù có vài mươi tuổi đảng với những "thành tích lẫy lừng đánh Tây đuổi Mỹ" xuyên suốt hai thời kỳ chống xâm lăng dám bất động, ngồi im giữa rừng cánh tay giương cao hoàn toàn nhất trí các nghị quyết?
            Vào tháng 10 năm 1997, tôi có đọc bài báo Pháp văn có tựa: "Á Châu trước khúc quanh Dân Chủ" (L'Asie devant le Virage démocratique) của Giáo sư Tiến sĩ Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng Nội vụ thời Đệ nhứt Cộng hòa Việt Nam, đăng trong Tập san Văn Hóa (France Vietnam Culture) trong đó có một đoạn xin được tóm lược đại khái như sau:
            Hôm Đại hội thứ XV của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp ở Bắc Kinh, trong hành lang Đại Hội, báo chí thế giới rĩ tai truyền nhau nghe một giai thoại hóm hỉnh trào lộng:
            Clinton, Yeltsine và Giang Trạch Dân, cả ba đều tự lái lấy chiếc xe của họ. Tất cả đều đến một ngả tư đường. Clinton đến trước, không cần báo hiệu, thung dung quẹo về phía mặt. Yeltsine trờ tới cũng quẹo theo bên mặt.
            Giang Trạch Dân lù đù đến sau cùng. Ông ta thấy ngả tư đường, đâm ra bối rối, không biết phải lái xe về phía nào. Bên mặt hay bên trái? Ông ta lật đật thỉnh thị ý kiến của Đặng Tiểu Bình, lúc ấy đang ngồi cạnh bên.
            Họ Đặng trầm tỉnh chậm rãi đưa ngón tay lên ra lệnh:
            - Để đèn báo hiệu bên trái nhưng quẹo mặt.
            Mẫu giai thoại ngắn có nhiều ý nghĩa về phát triển kinh tế lúc bấy giờ và sự ma giáo chính trị cố hữu của Bắc Kinh. Chế độ Cộng sản là như thế. Mỗi quốc gia nào theo chế độ này đều rập khuôn như vậy. Nói một đàng làm một ngả.
            Dối gạt nhân dân. Độc tài độc tôn. Quyền lực của những tên chóp bu tuy ở thế kỷ tân tiến vệ tinh nhưng còn hơn mấy tay đại đế bạo chúa thời thượng và trung cổ. Cố Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có nói một câu để đời: "Đừng nghe những gì Cộng sản nói mà hãy nhìn những gì Cộng sản làm" không ai có thể nói trái lại.
            Dối gian, lừa gạt là bản chất đích thực của Cộng sản. Chúng chủ trương chính sách ngu dân, dùng biện pháp siết hầu siết họng, thắt buột bao tử người dân trong cảnh triền miên đói khổ cơ cực để dễ dàng kềm kẹp khống chế, phỉnh lừa dối gạt, đồng thời cũng để áp đặt hữu hiệu chế độ độc tài đảng trị của chúng mà chẳng chút lo lắng về mặt phản kháng chống đối.
            Hồi Cộng sản Miền Bắc mới cưỡng chiếm Miền Nam, ngay những ngày sau 30 tháng Tư năm 1975, đồng bào Thủ đô Sài Gòn chứng kiến biết bao nhiêu trạng huống, bao nhiêu câu chuyện cười ra nước mắt. Tôi có một anh bạn vong niên hiện nay tỵ nạn chánh trị tại Pháp theo diện vượt biên bằng đường biển. Dưới chế độ tự do thời Đệ Nhị Cộng Hòa, anh làm việc nơi một xưởng sản xuất giấy ở khu Kỹ nghệ Thủ Đức - Biên Hòa.
            Trong những buổi họp mặt định kỳ nhằm thắt chặt thêm tình bằng hữu, nghĩa đồng hương lúc xa nhà xa xứ, anh có thuật nhiều mẫu chuyện vui nho nhỏ nhưng hàm súc ý nghĩa khiến chúng tôi cười muốn vỡ bụng:
            - Nhà máy lúc này đã có cán bộ Cộng sản vào tiếp thu và quản lý cũng như đối với bao nhiêu cơ sở sản xuất khác ở Miền Nam. Với nhiên liệu và vật liệu của "ngụy quyền" và "đế quốc" còn để lại, nhà máy tiếp tục sản xuất một thời gian theo chỉ thị của "cán bộ giải phóng" trong Ban Giám đốc mới. Việc sản xuất không được bao lâu thì kể như đứt phim. Đào đâu ra tiếp nhiên liệu và vật liệu? Hơn nữa, một số chuyên viên nồng cốt, lớp bị tập trung đi học tập cải tạo mút mùa vì là sĩ quan biệt phái, lớp đã chọn con đường ra biển tìm tự do, trốn lánh bằng mọi giá "thiên đường Xã hội Chủ nghĩa" đang có những triệu chứng nghiệt ngã, hắc ám.
            Anh bạn tôi bỗng dưng nghiêm nghị. Anh có vẻ bực tức lắm:
            - Đám cán bộ "phỏng da", "phỏng d..." cao cấp này ngô nghê khờ khạo đến mức độ khi trông thấy chúng, không sao nín cười được. Từ cách ăn mặc đến cử chỉ đi đứng, nói năn và phát biểu trước cử tọa đông người, họ đều rập khuôn nhau nhưng tựu trung đều thể hiện hùng hồn sự ngu dốt lâu năm của chúng do Đảng và Nhà nước Cộng sản nhồi nhét không ngừng. Ấy vậy mà tụi nó thắng mình mới chết! Thật tréo cẳng ngổng và tức hết chỗ nói!
            Như vừa trút được phần nào những ấm ức uất hận chất chứa trong lòng, đến nay vẫn còn ray rứt đeo đuổi anh hơn mười lăm năm lưu vong chưa nguôi ngoai, anh bắt đầu dịu giọng sau khi đảm bảo câu chuyện anh sắp kể dưới đây là chuyện có thật một trăm phần trăm. Anh không cương ẩu mà cũng chẳng hề khuếch đại:
            - Nguyên ở xưởng, để bảo vệ vệ sinh công cộng và sức khỏe cho toàn thể nhân viên làm việc ngày đêm ở đây, Nhà máy có trang bị nhiều điểm cung cấp nước uống trong lành qua những hệ thống phân phối hiện đại. Người cần uống nước giải khát chỉ đứng trước vòi nước vừa tầm miệng mình. Họ há miệng ra và đạp một bàn đạp dưới chân là nước sẽ vọt vào miệng. Họ có thể uống bao nhiêu lần cũng được đến khi đã khát thì thôi, miễn cứ mỗi lần phải đạp bàn đạp dưới chân mình. Như vậy, họ không hề mó tay mình vào vòi nước, nhứt là khi đôi tay không được sạch sẽ.
            Anh bạn tôi hiện đã lớn tuổi, răng rụng móm xọm, đưa cái cầm nhọn lểu ra phía trước. Giữa bữa tiệc, anh xin lỗi mọi người cho phép anh đứng lên rồi há miệng ra như để nhớ lại nhưng cử chỉ quen thuộc ngày xưa đã xa lắm rồi nhưng không bao giờ nhạt nhòa trong tâm tưởng anh. Lúc đó, mọi người trông anh rất tếu.
            Anh từ từ nói:
            - Những tên cán bộ Cộng sản quản lý và bảo thủ Nhà Máy toàn là cấp cao. Có đứa mang quân hàm cấp tá đỏ lói. Chúng tự hào là người chiến thắng, văn minh tiến bộ, là "đỉnh cao của trí tuệ loài người", đã được "Đảng và Nhà nước cách mạng" soi sáng từng bước đi hơn ba mươi năm nay. Chúng cũng thường hãnh diện, huyênh hoang Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa giàu sang phú cường vào bực nhứt thế giới. Nhứt nhứt thứ gì ngoài ấy cũng có và có đến độ dư thừa. Chúng trông thấy nhân viên Nhà Máy hằng ngày thường hay đến điểm giải khát mỗi khi cần. Một hôm, có tên cán bộ cù lần lửa cũng bệ vệ đến đứng im bất động trước vòi nước, cũng bắt chước há miệng ra với hy vọng sẽ được giải khát thoải mái và thích thú trong lúc Nhà Máy chạy ầm ầm, không khí nóng bức oi nồng. Anh ta kiên trì đứng chờ mãi vẫn không thấy nước mát vọt ra. Một đổi sau khá lâu, anh ta càu chàu cau có, mặt mày sưng híp lên, hầm hừ giận dữ:
            - Đồ phản động! Công cụ tay sai của đế quốc Mỹ Thiệu thật mà! Cả đến cái máy nước uống mà cũng biết phân biệt! 
            Cán bộ ngu dốt. Lãnh đạo ngu dốt cỡ đó lại soi đường chỉ lối cho quần chúng nhân nhân, những người thường xuyên bị kềm kẹp và thất học. Việc tuyên truyền của Đảng do vậy được dễ dàng nhờ có môi trường thuận lợi. Cán bộ từ mọi cấp học tập chánh trị liên tục, trả bài vanh vách như két. Bà con Miền Nam đã chứng kiến biết bao cảnh lố bịch ngoài sức tưởng tượng của họ.
            Anh bạn tôi kể thêm. Những lần lên lớp, học tập cải tạo tại chỗ, anh đã nghe những cán bộ quản lý i tờ bô bô những thành tích "thần thánh", "bách chiến bách thắng" của quân đội nhân dân anh hùng Miền Bắc cùng những kỳ công vĩ đại "nghiêng đồng tát nước", "biến sỏi đá thành cơm" xây dựng Xã hội Chủ nghĩa tiến nhanh dưới ánh sáng chói lòa của "tư tưởng Bác Hồ kính yêu".
            Hôm nọ, một tên cán bộ long trọng lên bụt giảng như thường lệ. Sau khi nhại đi nhại lại những bài học cũ rít nghe nhàm tai thiếu điều buồn mữa từ sau ngày "Miền Nam hoàn toàn giải phóng", "Bắc Nam sạch bóng quân thù", anh ta muốn được cụ thể hơn để học viên tin tưởng ở sự lớn mạnh tất yếu của chế độ Xã hội Chủ nghĩa "đại thành công". Anh ta bèn thao thao kể muốn nín thở một loạt những thành tích vô địch của những tên lái máy bay Mig bảo vệ vùng trời Miền Bắc:
            - Những năm đế quốc Mỹ sừng sõ đã ngoan cố dùng B52 liên tục trút ném hằng vạn tấn bom định hủy diệt hậu phương lớn mạnh vững chắc Miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh giải phóng Miền Nam. Bọn "săn đầm quốc tế" đó đã gây bao nhiêu tội ác tầy trời đối với đất nước và nhân dân ta, không thể tha thứ được. Để bảo vệ vùng trời của tổ quốc ta và cũng để trừng trị đích đáng đế quốc Mỹ hiếu chiến, các chiến sĩ anh hùng và ưu tú của quân đội nhân dân ta đã lái máy bay phóng lên đương cự, rượt đuổi theo các pháo đài bay B52. Họ đã anh dũng chiến đấu đêm ngày không ngừng nghĩ.
            Cán bộ nhà ta tỏ ra đắc ý lắm:
            - Khi Mig của ta đến sát bên B52 của địch, chiến sĩ ta dũng cảm xung phong nhảy qua khống chế và bắt sống phi công Mỹ dẫn độ về Hà Nội để Đảng và nhân dân ta xử lý tương xứng với tội ác tầy trời chúng gây ra. Ta không cần phải dùng đến những giàn tên lửa do các đồng chí Liên Xô chi viện đã được ta bố trí khắp nơi.
            Anh ta hướng về cử tọa vẫn một mực ngồi im phăng phắt:
            - Các đồng chí biết không? Nhờ những thành tích hiển hách ấy mà vùng trời của ta không còn bóng dáng một chiếc B52 nào dám phiêu lưu léo hánh tới nữa. Có lúc ta bắt giữ rất nhiều giặc lái Mỹ ở thủ đô Hà Nội, được sự biểu đồng tình và khâm phục của những lực lượng yêu chuộng hòa bình khắp năm châu bốn biển, làm rúng động lương tâm loài người cả thế giới...
            Mọi người ngồi nghe im re lạnh lùng. Chẳng một ai buồn nhếch miệng cười thầm. Tên cán bộ hứng chí tiếp tục một cách tự nhiên với giọng điệu tự hào và ánh mắt hãnh diện của kẻ chiến thắng coi trời bằng vung:
            - Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa của ta chỉ trong vòng vừa hơn hai mươi năm từ ngày tiếp thu sau Hiệp định Đình chiến "Giơ Neo Vơ" năm 1954 đã bước những bước nhảy vọt trong mọi lãnh vực kinh tế và xã hội phục vụ đời sống nhân dân. Mọi chỉ tiêu sản xuất mỗi năm đều đạt quá mức kế hoạch ngũ niên do Nhà nước ấn định. Nhờ vậy, Miền Bắc mới đủ mạnh để trực tiếp chia xẻ mọi nổ lực về nhân sự và tài nguyên chi viện cho chiến trường Miền Nam nhằm thực hiện cho bằng được lời di chúc của Bác Hồ, vị "cha già kính yêu của dân tộc":
            "Giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, Nam Bắc một nhà".
            Anh ta dưa tay vói lấy ly nước lạnh để trên bàn, hớp một ít lấy giọng:
            - Các đồng chí ta đã biết khai thác hữu hiệu những tài nguyên thiên nhiên như các mỏ quí hiếm, nhứt là mỏ dầu hỏa. Dầu hỏa ở Miền Bắc là một kho vô tận, khai thác rất dễ dàng. Các đồng chí chuyên viên tài trí của ta đã vận dụng óc sáng tạo dưới ánh sáng chỉ đạo của chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Các đồng chí ấy đã dùng những ống dầu đóng sâu vào lòng đất đúng ngay mạch dầu và dầu hỏa phún lên, chảy ào ào như nước. Dầu hỏa Miền Bắc của ta có chất lượng cao lại dư thừa, tha hồ cho nhân dân Miền Bắc xài thả giàn. Từ các thành phố chí đến những thôn làng vùng xa vùng sâu thuộc miền núi, đêm đêm nhà cửa sáng trưng, không còn cảnh leo lét hắt hiu như vào thời thực dân đế quốc.
            Anh ta thích thú lim dim đôi mắt lươn sâu hút, long lanh:
            - Loại dầu hỏa này tốt nhứt thế giới, hơn xa dầu hỏa của Mỹ nữa cơ. Lấy dưới đất lên, đổ vào xe là chạy ngay. Nhờ thế, Đảng và Nhà nước ta mới đặt những ống dầu xuyên suốt dọc dài theo đường mòn mang tên Bác để chi viện nhiên liệu cho Miền Nam. Nhứt là dùng cho mạn lưới xe tăng của ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh thần thánh, quyết định ngày tàn của Mỹ, xóa bỏ chế độ Ngụy quyền Miền Nam để nhân dân ta mới có ngày này.
            Đảng dối gạt ngay cả cán bộ đảng viên với trình độ học thức và hiểu biết thấp kém. Chúng mù quáng nghe theo giọng lưỡi tuyên truyền của Đảng. Chúng chấp nhận một chiều, không suy nghĩ, không ý kiến.
            Nhưng từ sau khi chiếm trọn Miền Nam với những thực tế tiếp cận hằng ngày, nhiều tên cán bộ đủ mọi cấp bắt đầu hoài nghi, mất dần dà niềm tin ở Đảng. Nhiều tên còn công khai phát biểu những ý kiến vượt ra khỏi những khuôn mẫu cố định của Đảng bấy nay.
            Sau 30 tháng Tư 1975, Thủ đô Sài Gòn lên những cơn sốt ác tính vì những biện pháp cải tạo nhằm trấn áp và cướp của của đồng bào Miền Nam. Kiểm kê tài sản. Đánh tư sản mại bản. Đổi tiền. Chống văn hóa đồi trụy v.v...
            Trong những biện pháp trả thù thô bạo đó còn có chánh sách giản dân, chuyển đi những vùng kinh tế mới nơi đèo heo hút gió. Mọi người dân ở Thành phố nếu không có công ăn việc làm đều là mục tiêu rúng ép của chánh sách này.
            Nhưng nạn nhân khốn khổ nhứt và đáng thương hại nhứt là vợ con của các tù nhân bị tập trung cải tạo, những "ngụy quân, ngụy quyền" bị Đảng gạt gẩm đưa đi học tập mười ngày để rồi biền biệt bao nhiêu năm dài. Có rất nhiều người gục ngã uất hờn nơi vùng Việt Bắc rừng sâu nước độc, quanh năm sương lam chướng khí. Người đi đã bị phỉnh gạt. Kẻ ở lại bị dối lừa chỉ vì một chút hy vọng hão huyền qua sự chấp hành chánh sách của Đảng để chồng mình sớm được cứu xét phóng thích trở về chung lo xây dựng gia đình đang đổ vỡ nát tan.
            Cũng như đa số đồng bào ở Thủ đô lúc ấy, hằng ngày cứ sáng sớm, sau khi bỏ bụng qua loa, tôi biệt tăm biệt dạng luôn đến tối mò mới bò về nhà. Tôi chạy đôn chạy đáo khắp nơi, tìm một chỗ ẩn thân nơi các cơ sở hợp doanh hay quốc doanh trong cao trào mọc lên như núm. Tôi hy vọng trụ mình ẩn thân chờ qua cơn sóng gió mà cũng để có đủ thì giờ nghiền ngẫm nghiên cứu, chuẩn bị ra khơi. Sau cùng, tôi cũng tìm được một việc làm lăng nhăng lích nhích không ra hồn ở một cơ sở sản xuất quốc doanh do Sở Thông Tin Văn Hóa chủ quản..
            Đối với tôi, việc làm lích nhích lăng nhăng này dù sao cũng đáp ứng bài học đầu tiên của Đảng và Nhà nước Cộng sản từng đề cao trong các buổi họp liên miên ở khu phố: "Có làm mới có ăn". Trước mắt, tôi được yên thân phần nào trong thời kỳ nghẹt thở của Thủ đô. Tôi ít bị khuấy rầy bởi những tên cán bộ vào giờ phút cuối cùng đang được Phường ủy bố trí phụ trách Ban Kinh tế mới đúng với chánh sách "lấy người mình đập dân ta"
            Nhưng theo thiển ý của tôi, việc làm lêu bêu không ra cơm cháo gì cả ấy vẫn còn hơn xa so với đám "cán bộ Rờ" (R) dốt đặc, ngu ngơ bù trơ bù trớt, nhung nhúc ăn không ngồi rồi ở các cơ sở quốc doanh. Chúng nào biết Ất Giáp Bính Đinh... cóc khô gì mà hòng mó tay vào công việc sản xuất vốn đòi hỏi sự hiểu biết tường tận về quản lý và kỹ thuật.
            Trong cơ sở sản xuất, lần hồi tôi có quen một tên "cán bộ R", "chánh cống con nai vàng" chớ không phải bọn "cán bộ ba mươi" mà mắt thiên hạ qua cái vỏ bên ngoài đúng "mốt" thời sự: nón cối, dép râu và cái quần Tây rộng thùng thình màu cức ngựa vay mượn đâu đó. Tên anh ta là Tư Ca, Nguyễn Văn Ca, trung úy giải ngũ.
            Lúc đó, anh ta công tác ở Sở Thông Tin Văn Hóa tọa lạc ở đường Tự Do (bót Catinat cũ) dưới trào của tên thành ủy viên Giám đốc Sở là Dương Đình Thảo vừa mới lên thay thế Nguyễn Văn Hiếu tức Tư Hiếu được đề bạt làm Bộ trưởng Thông tin Văn hóa ngoài Hà Nội.
            Dương Đình Thảo trước đây có mặt ở Hội nghị Ba Lê với tư cách thành viên trong phái đoàn bù nhìn Mặt trận Giải Phóng Miền Nam. Y làm Giám đốc nhưng người uy quyền trực tiếp điều khiển những ban ngành chánh yếu của Sở là tên Trung tá giải ngũ Lê Thế Thưởng, thường được đám đàn em lâu la thân mật gọi là Anh Bảy tức Bảy Thưởng, đệ nhứt Phó Giám đốc.
            Tư Ca gốc người Bến Tre, xứ "Đồng Khởi", xứ của nữ thiếu tướng Phó Tư lệnh Lực lượng Võ trang Nhân dân Miền Nam, chuyên đập thùng thiếc và đánh mõ tre làng, Nguyễn Thị Định. Anh ta tham gia kháng chiến lúc còn nhỏ tuổi theo sự thố lộ của anh. Không biết do động lực nào hoặc bị rúng ép bắt buộc anh ta phải theo cách mạng?
            Bến Tre là xứ dừa dày mịt ngút mắt, quanh năm một màu xanh mướt mượt. Nhiều nơi, người trong vườn không bao giờ trông thấy ánh nắng mặt trời. Một bối cảnh thuận lợi, đồng lỏa với những âm mưu đen tối của Cộng sản.
            Dân xứ dừa làm sao không theo Cộng sản được? Ở trong tầm tay của chúng, không theo là chết ngay! Họ sẽ bị cô lập và xử lý đích đáng như một kẻ thù.
            Do vậy sau này, người ta không ngạc nhiên mấy khi biết tỉnh ủy Bến Tre trong hai cuộc kháng chiến đã cung cấp cho Đảng Cộng sản nhiều lớp cán bộ trung kiên, tên tuổi. Đa số đều được Đảng đánh bóng, tuyên truyền lên tận mây xanh trong quần chúng nhân dân khắp cả nước.
            Tư Ca tập kết ra Bắc sau Hiệp định Đình chiến Genève chia đôi đất nước. Anh đã thấy tận mặt và thấm thía với thực trạng của "thiên đường Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa". Vì vậy, khi Cộng sản chủ trương chuyển sang chánh sách dùng võ lực để giải phóng Miền Nam và thành lập Mặt trận hữu danh vô thực Giải Phóng Miền Nam, Tư Ca là một trong số cán bộ gốc Nam đầu tiên hồ hỡi xung phong xin về Nam chiến đấu.
            Có lần anh ta tâm sự với tôi:
            - Đánh giặc ai mà không sợ. Chết ai mà vui, mà thích bao giờ đâu? Bộ mình đồng da sắt hay sao mà không biết sợ, không chết? Tôi  quyết định đi B, trở về Nam chiến dấu không phải vì được giác ngộ cao độ, cũng không phải vì tâm đắc chánh sách của Đảng lúc đó đâu. Thú thật chỉ vì tôi muốn lánh xa cho bằng được cái "thiên đàng Chủ Nghĩa Xã Hội Miền Bắc thôi.
            Anh ta lắc đầu chán nản, không nói thêm được gì nữa như để đè nén nghẹn ngào. Một đổi sau, anh mới thỏ thẻ:
            - Chú mầy biết đến đó là vừa. Không nên tìm hiểu xa hơn. Riêng tôi, tôi thú thật với chú mầy. Tôi thương Miền Nam mình quá đổi. Đất đai mênh mông một màu xanh mướt. Cá tôm đầy đồng. Con người cởi mở... Hôm đội biên phòng bố trí cho tôi vượt qua khỏi sông Bến Hải, khi được đặt chân lên bờ bên này, nước mắt tôi bỗng dưng ràng rụa vì xúc động. Mừng quá. Mừng quá đổi mừng. Bao nhiêu năm, tôi chỉ ao ước có ngày này. Nay đã là sự thật.
            Sau đôi phút im lặng, anh nói tiếp:
            - Tôi khom xuống nắm trong tay nắm đất quê hương Miền Nam mà nghe như có tiếng khóc trong lòng. Bất giác, tôi đưa tay một cách máy móc vuốt mặt vuốt mày rồi tự nhiên tôi véo bắp vế mình xem có đau hay không để biết tôi có nằm mơ hay đang sống thật. Tôi vội ngoái nhìn về phương Bắc, vẫy tay giã từ chẳng nuối tiếc, không hề có thoáng chốc suy nghĩ đắn đo. Trong thầm lặng của lòng mình, tôi hứa sẽ không bao giờ trở lại Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa một lần thứ hai.
            Giọng anh bỗng dưng toát ra những lời khẳng quyết:
            - Chết thà chết ở đất vườn ruộng đồng Miền Nam này. Chú mầy nghe để bụng. Đừng có dại dột mà xọt xẹt tầm bậy tầm bạ chết đa! Giờ đây, tôi khuyên chú mầy nên cố mua một căn nhà để ở, lớn nhỏ gì cũng được rồi chạy cho có hộ khẩu giữa lúc tranh tối tranh sáng này vì về sau, mấy ổng vô nề nếp, quản lý khó khăn giàn trời...
            Có hôm, anh ta tâm sự dông dài hơn vào những đêm canh gát bảo vệ xí nghiệp. Có lẽ anh ta không thuộc thành  phần ba bốn đời bần cố nên không được đảng ủy Sở trọng dụng, làm hoang phí cả một đời trai mấy mươi năm theo Đảng.
            Hay anh ta bị lương tâm cắn rứt dày vò chăng? Nào ai biết được những phức tạp trong mỗi con người cán bộ Cộng sản.
            Nhưng thỉnh thoảng anh ta vẫn thầm thì với tôi qua chum trà cốc rượu:
            - Chú mầy cứ thử tưởng tượng xem. Cái Mặt trận Giải Phóng Miền Nam này nó có nhiều ngoắc ngoéo bí mật lắm. Hồi tôi mới về Nam, có dạo tôi được Đảng bố trí công tác nơi Cục Hậu cần của "Rờ". Nói "Cục R" an toàn vững như bàn thạch và bất khả xâm phạm là phét cả đó. Làm gì có.
            Anh ta cười vui:
            - Bây giờ, mình đã chiến thắng rồi, mình đã hoàn toàn làm chủ đất nước rồi, mình nói sao mà chẳng được? Thực ra có lúc địch mở những chiến dịch qui mô càn vào, đánh mình tan tành xí quách. Các cán bộ cấp cao của mình chạy vắt giò lên cổ qua Miên nhờ các cánh bảo vệ cắn răng hy sinh tử chiến, đánh kềm chân địch. Khổ ơi là khổ! Cực ơi là cực! Địch rút một cái rụp rồi lớp lo chôn cất bạn bè đồng chí, lớp lo xây dựng lại kể như từ đầu, đêm ngày trần thân.
            Anh ta như muốn quên khi chợt nhắc nhớ đến tên bạn bè đã phơi xác nơi những trận đánh ác liệt này nên vội lãng qua câu chuyện khác:
            - Nhưng dù vậy, thỉnh thoảng cũng có những lúc nổi đình nổi đám tưng bừng vui nhộn lắm. Đó là khi Mặt trận làm lễ ra mắt, tổ chức tiếp đãi các phái đoàn hữu nghị anh em hay tiếp các ký giả cùng những nhân vật đấu tranh hòa bình tên tuổi quốc tế, từng đồng tình với chính nghĩa của ta. Tuy tình hình khó khăn nhưng tôi cũng ráng lo phờ cả người. Chạy thu mua heo bò ngã thịt và bao nhiêu vật dụng lỉnh kỉnh khác nhằm chiêu đãi trọng hậu lắm.
            Ngừng một chút, anh ta cười bí mật, đôi mắt chớp lia:
            - Tôi kể chú mầy nghe, chắc chú mầy sẽ tá hỏa. Cam đoan chú mầy không sao nghĩ tới. Mặt trận Giải Phóng là mặt trận giai đoạn, mặt trận chiến lược, công cụ của Đảng ta. Trong Mặt trận có đầy đủ mọi thành phần giai cấp, mọi trình độ học thức, từ một anh nông dân chữ nghĩa lớp năm lớp bốn, một chiến sĩ dân quân thành tích lẫy lừng cho đến những tay trí thức nổi danh như cồn ở Sài Gòn như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, luật sư Trịnh Đình Thảo, nhà báo Nguyễn Văn Hiếu hay nữ bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, tiếng tăm quốc tế... Các ông nhà mình sâu lắm. Các ông không quên các giáo phái ở Miền Nam nên trong Mặt trận còn có những ông "Thầy Chùa" nữa.
            Anh ta nhẹ nhàng khều vai tôi:
            - Cái này tôi nói thiệt tình chú mầy nghe nhe. Nghe để bụng. Chết đa! Các ông "Thầy Chùa" này đều là đảng viên Cộng sản cả đó. Mấy ổng được Đảng bố trí làm công tác tôn giáo vận cũng như các cán bộ đảng viên khác làm công tác binh vận, trí vận... vậy. Chẳng có gì khác nhau cả. Có khác chăng là các tay này có vẻ bệ vệ, ăn nói nhỏ nhẹ và phải học thuộc những bài bản sơ đảng về Phật sự. Gặp khách là họ cũng đưa tay gọn hơ lên ngực Mô Phật lia lịa. Trông như những ông "Thầy Chùa" thật ngoài đời được Đảng chiếu cố giác ngộ.
            Anh ta lại cười hóm hỉnh:
            - Tôi phụ trách Hậu cần. Đãi đằn khách khứa do một tay tôi lo. Tôi phải tổ chức cho các "Thầy" ăn chay lạt khổ hạnh. Nhưng cái này tôi nói chú mầy biết chớ không phải trong lúc sướng miệng nói thêm cho vui đâu. Những tô rau luộc của các "Thầy" đều được tôi chôn cẩn thận ở đáy tô những cục đùi heo hầm cục nào cục nấy to bằng cườm chưn, đùi vịt thịt bò tươm tất như dùng để đãi khách khứa hay các nhân viên cao cấp của Mặt trận. Không thiếu một món. Thiếu là chết đa! Mấy ổng kiểm điểm trù dập có nước chết thôi! Mấy ổng mà nổi cơn thịnh nộ, điều đi công tác chiến trường thì đời tôi kể như được Ngọc Hoàng Thượng Đế sớm giũ sổ, cửa nhà Phật mới thật sự mở toang thênh thang và con đường đi đến Niết Bàn hay Tây Trúc gì gì đó kể như thênh thang trước mặt!
            Tên Tư Ca về sau bị chi bộ Đảng kiểm thảo liên tu bất tận. Nhưng tánh nào tật nấy? Thỉnh thoảng, thần khẩu của anh lại hại xác phàm. Trong giới đảng viên của chi bộ xí nghiệp bảo anh ta sa đọa, mất định hướng.
            Dù vậy, mỗi lần phê bình kiểm thảo, đảng chỉ cảnh cáo anh vì chưa biết phải xử lý ra sao trong lúc tình hình vừa mới tiếp thu còn phức tạp. Nhưng tôi biết chắc anh ta không thể chịu nổi những dằn co ép uổn, những dối gian chất chứa trong lòng. Anh phải nói ra, dù chưa đúng mức, nhưng cũng xem như cơ hội "xã xú bắp" rất cần thiết để được quân bình phần nào tình cảm riêng tư.
            Có một điều làm tôi để ý trong những lần trò chuyện với tên cán bộ Tư Ca. Anh ta luôn luôn lập đi lập lại mãi như để dặn dò tôi:
            - Coi chừng chết đa!
            Một ám ảnh đã ăn sâu vào con người anh. Anh sợ sự trừng trị không nương tay của Đảng. Anh sợ chính tổ chức mà anh là một thành phần. Cho nên nhiều lần anh xác nhận với tôi cũng chính nhờ sợ Đảng, nhờ sợ tổ chức của Đảng mà anh sống sót đến ngày nay.
            Tôi có ông bạn kết nghĩa là Họa sĩ Hiếu Đệ, con người vốn có tánh Lão ngoan đồng Châu Bá Thông, ham thiền tâm lại muốn làm Lão Tử cởi trâu tiếu ngạo giang hồ. Anh thích rong chơi ta bà, lúc vui chẳng nhớ đường về. Anh hiện ở Mỹ, đến xứ Cờ Hoa mấy năm nay theo diện H.O.
            Anh có thuật tôi nghe mẫu chuyện về Diệp Minh Châu, một họa sĩ nổi danh của chế độ cộng sản. Họa sĩ nhà nước có "ba tăng", "môn bài" đàng hoàng nầy đã từng cắt tay lấy máu mình vẽ chân dung cụ Hồ nên được cụ nhận làm dưỡng tử ngay từ thời Nam Bộ kháng Pháp những mấy thập niên qua. Tên tuổi được Đảng và Nhà nước đánh bóng kỹ lắm. Cả nước Xã Hội Chủ Nghĩa ai cũng nghe danh.
            Lúc này, anh Hiếu Đệ đã đền xong "nợ máu" sau khi bị đày ở nhiều trại học tập cải tạo tập trung để sau cùng được thả về địa phương quản lý, xét xử trả quyền công dân. Chúng chỉ định cho anh đi cư trú, lao động sản xuất vùng U  Minh Thượng ở tận cuối mũi Cà Mau. Cuộc đời anh kể như xuống tận bùn đen tưởng chừng như không thể ngốc đầu lên nổi nơi xứ rừng nước mênh mông, u u tăm tăm, ngày đêm vo ve muỗi mòng đỉa vắt.
            May nhờ Trời thương. Anh thuộc diện H.O. nên lần mò quay trở về thủ đô Sài Gòn lo thủ tục xuất ngoại. Nhờ vậy nên anh có nhiều dịp quan hệ nghề nghiệp với họ Diệp trong thời gian chờ đợi vượt thoát khỏi "thiên đường Cộng sản" mà anh quá chán chê uất hờn.
            Hai người thường gặp nhau nhậu nhẹt nhưng vốn là những tay đam mê màu sắc vẽ vời nên câu chuyện vòng vo giữa nhau rốt ráo rồi cũng dẫn đến trao đổi về hội họa và nghệ thuật chẳng mấy hồi. Thứ nghệ thuật và hội họa chung chung. Tức vô thưởng vô phạt. Từ đó, họ đi đến tâm tình xem như không còn ranh giới nào ngăn cách cản trở được nhứt là khi hơi men của đế quốc doanh càng làm cho ranh giới đó thêm mù mờ hơn.
            Được biết nhờ là con nuôi của cụ Hồ nên Diệp Minh Châu sau khi tập kết ra Miền Bắc theo tinh thần Hiệp định Đình chiến Genève năm 1954, trên những chuyến tàu Ba Lan xuất phát từ Cà Mau, lúc nào cũng ở cận kề bên bố nuôi. Do vậy, ở những bữa nhậu sắp ngoắc cần câu, ông ta rất hãnh diện và tự hào chẳng có tên họa sĩ Việt Nam hay họa sĩ nào ở các xứ Xã Hội Chủ Nghĩa anh em vẽ chân dung Hồ Chí Minh bằng Diệp Minh Châu cả.
            Thậm chí đến việc kể chuyện về thần tượng Hồ Chí Minh, mấy tay cán bộ giải phóng Miền Nam, dù là đám chóp bu ở Xứ ủy Miền Nam hay ở Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đều phịa cả. Ông ta quả quyết một trăm phần trăm như vậy:
            - Chúng biết cóc khô gì mà kể. Bất quá chúng nghe thuật lếu láo đâu đó rồi lập lại như két. Tao ở sát bên ông cụ, tao có thể kiểm chứng mà không sợ sai sót.
            Nhiều lần, lúc chưa có rượu vào, ông ta tỉnh táo khẳng định như thế. Theo ông ta, chỉ có mỗi một Diệp Minh Châu kể về thần tượng Hồ Chí Minh mới trung thực, mới "chánh hiệu con nai vàng". Chung chăn mà!
            Thỉnh thoảng, ông ta rủng rỉnh vài trăm bạc đến rủ anh Hiếu Đệ của tôi đi ăn nhậu. Hỏi ra mới biết ông ta nhờ đi kể chuyện về lão Hồ "vĩ đại kính yêu", vị "cha già của dân tộc" ở các quận Gò Vấp, Hốc Môn hay Quận Năm, Quận Sáu Chợ Lớn, những quận nội, ngoại thành mà có. Tiền thù lao bồi dưỡng cho đàn anh uy thế.
            Những mẫu chuyện của mồ ma Hồ Chí Minh được ông ta vẽ rắn thành rồng, thêm nhiều tình tiết tưởng tượng như trong những truyện Ngàn Lẻ Một Đêm của Ấn Độ. Đề tài của ông ta rất phong phú và hấp dẫn vì là đề tài giúp ông gặt hái ra tiền trong thời buổi "đổi đời" để sống, thời buổi cán bộ cũng phải biết thi đua hưởng thụ và làm giàu nên phải tập trung tìm tòi, moi óc sáng tạo.
            Anh Hiếu Đệ cho biết có lúc ông ta kể về con khỉ, con chó, con két... ở nhà sàn của Bác. Anh ta còn kể đến cái quần xà lỏn của lão Hồ khi bố các lũ cán bộ cù lần ở các cấp huyện... và thành phố làm gì biết được. Chúng nó phải vui vẻ trả tiền thù lao xứng đáng cho Diệp Minh Châu thôi.
            Các phái đoàn Liên Xô và khối Đông Âu xưa kia đến viếng ông Hồ đều quý trọng đứa con nuôi của lão tức họa sĩ khét tiếng của nền hội họa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là Diệp Minh Châu nhà ta. Một hôm, nguyên cả phái đoàn các đồng chí Xã hội Chủ nghĩa anh em đến thăm Việt Nam và dĩ nhiên phải đến chào vấn an Bác Hồ. Nhân tiện, họ xin hôn cho bằng được cái tay của Diệp Minh Châu. Được vậy, họ rất sung sướng và mãn nguyện đã bỏ công lặn lội từ bao nhiêu ngàn cây số đường xa.
            Anh bạn Hiếu Đệ hỏi sao có chuyện lạ lùng như vậy? Ông ta mới kể rằng:
            - Lịch sử các đảng Cộng sản trên thế giới, ngay cả Liên Sô, "thành trì vững chắc của cách mạng vô sản", từ xưa tới nay chưa hề thấy có một đảng viên trung kiên nào thành công tôn vinh lãnh tụ của mình như tớ cả. Hiếu Đệ thử suy nghĩ xem coi có đúng như thế không? Cho dầu tên thợ thơ Tố Hữu nổi tiếng qua bao nhiêu tập thơ do Đảng và Nhà nước ưu ái xuất bản và phát không cho các Sở, các Phòng Văn Hóa phường khóm, có hết lời ca tụng Staline: "Thương cha thương một, thương ông thương mười" cũng chẳng nhằm nhò gì!.
            Ông ta nhún môi:
            - Ca tụng như thế cũng vứt đi, đếch bằng Diệp Minh Châu này. Tớ dám cắt tay lấy máu vẽ chân dung Bác kia mà. Như vậy, bàn tay của tớ là bàn tay vàng, phải được dành riêng cho đảng viên, loại đảng viên trung kiên anh hùng, ba đời bần cố, mỗi đứa hôn một cái. Tụi nó phải đi một vòng trái đất mới đến hôn được tay Diệp Minh Châu này.
            Ông ta được trớn:
            - Còn mấy tên bị đi học tập cải tạo được nhà nước khoan hồng thả ra cho đoàn tụ gia đình, hú hí với vợ con cỡ như Hiếu Đệ làm cóc gì có được vinh dự để hôn tay tao.
            Anh bạn Hiếu Đệ của tôi cũng không vừa, ăn miếng trả miếng:
            - Tôi không cần đến cái việc đó. Vị trí của thằng người tôi dù sao cũng chẳng giống các anh. Có điều tôi muốn hỏi thêm cho biết. Lúc đó cái mặt anh ra sao? Nhưng nếu tôi là nhà báo thì chắc chắn tôi lại thấy khác.
            Diệp Minh Châu thụi vô bụng Hiếu Đệ một cái rồi cười khì:
            - Tiên sư! Bộ mầy có ý muốn nói tao nâng bi chứ gì?
            Đám văn nghệ sĩ ở Hội Mỹ Thuật thành phố Hồ Chí Minh gọi thân mật họa sĩ Diệp Minh Châu là anh Tư. Lúc nầy ông ta đã quá tuổi cổ lai hy. Đám họa sĩ trong giới với nhau thường gọi nhau bằng cái tên ký trên tác phẩm của họ. Xem ra như vậy cũng bình đẳng lắm. Nhưng khi uống rượu say xỉn, nằm gác cẳng lên bụng ông già mà ngủ thì lại càng bình đẳng hơn nữa.
            Anh bạn Hiếu Đệ kể lại với tôi như thế, còn tiếp thêm như sau:
            - Anh Tư thường ra điều kiện với anh em trong Hội Mỹ Thuật: "Đứa nào uống rượu ở nhà anh Tư mà nửa khuya phóng xe bỏ chạy về nhà là coi như kẻ đó không còn đủ tư cách uống rượu với anh Tư nữa. Uống với anh Tư là phải xỉn, quỵ ngay tại chỗ chớ không được có thằng nào tỉnh queo ở bàn rượu".
            Ông ta giải thích:
            - Vì lỡ mình có phát ngôn bừa bãi, mấy thằng tỉnh táo sẽ chạy đi báo cáo thì chết sao?
            Anh bạn Hiếu Đệ bèn hỏi:
            - Như anh Tư đã là con Bác Hồ rồi mà còn sợ thằng nào nữa?
            Ông ta trợn tròn đôi mắt:
            - Hừ! Phải sợ chớ! Bộ mầy định giỡn chơi hay sao? Đừng có dại mà chết uổng mạng đó! Mầy đâu có biết. Chính Bác Hồ, ông già nuôi của tao mà cũng còn sợ bỏ mẹ, sợ lưng mật lưng tim, sợ thót dái lên cần cổ thì còn nói chi đến thằng nào. Bác Hồ mà còn vậy thì tao nhằm nhò gì! Đã gọi là tổ chức Đảng, đã nằm trong hệ thống của tổ chức Đảng mà để cho tổ chức xử lý là chết đa!
            Ông ta nghiêm giọng nhỏ nhẹ:
            - Tao nói thật mầy nghe. Bác Hồ những năm sau cùng cuối đời còn sợ Lê Đức Thọ, Lê Duẫn bỏ mẹ. Chúng nó cho gì thì ăn cái nấy, đâu dám hó hé. Tụi nó cũng tính dứt điểm ông già nhiều lần rồi. Nhưng không biết sao chưa dám ra tay.
            Sau một hồi suy nghĩ, ông ta tiếp:
            - Có lẽ vì uy tính của Bác còn lớn quá, nhứt là về mặt quốc tế vô sản. Thành ra ông già cũng mềm nhũn như sợi bún, đặt đâu ngồi đấy như hình nộm! Nay Bác đã yên thân yên phận rồi, tao mà nhúc nhích lạng quạng một cái kể như đi theo chầu Bác ngay!
            Bạn Hiếu Đệ còn kể tiếp:
            - Tôi có đi xem Đại Hội Mỹ Thuật toàn quốc của Hà Nội trưng bày tại Nhà Hát Lớn Sài Gòn và thấy được bức chân dung Ông Hồ vẽ bằng máu của Diệp Minh Châu. Lúc say rượu, tôi có hỏi anh Tư về tác phẩm lịch sử được trọng vọng này. Thường thì người say hay nói thật, nghĩ sao nói vậy vì họ đã bốc hơi men, không có và cũng không cần bốc thơm bốc láo nữa làm gì.
            Anh Tư mới trả lời!
            - Cái tranh đó bây giờ bình tâm nhìn lại tao mắc cở bỏ mẹ. Trong lịch sử mỹ thuật và hội họa làm chó gì có tác phẩm vẽ bằng máu. Mầy thử đi xem hết các viện bảo tàng khét tiếng trên khắp thế giới coi có không? Bây giờ tao thấy nó hổn láo và mất vệ sinh vô cùng.
            Ngừng một chốc như để trầm tư nghĩ ngợi, ông ta tiếp lời:
            - Nó giống như cái nùi giẻ người ta gói thây ma lượm được ở ngoài chiến trường. Sau ngày giải phóng, tao thấy mình quê quá. Đứa con tinh thần đã từng đưa tao lên tận mây xanh trên bực thang danh vọng của chế độ, trông chẳng giống ai cả. Tao muốn bảo người ta lôi đem vứt nó giùm tao nhưng đến ông nội tao cũng không dám hở môi.
            Ông ta vụt trợn tròng đôi mắt:
            - Đụng tới đó là chết liền tức khắc bây ơi! Chết không kịp trăn trối. Tổ chức Đảng mình độc lắm!!!
            Cái ám ảnh thường xuyên ở chế độ Công sản là thế!
            Đảng độc tài, độc tôn là thế!
            Bàn tay sắt máu của tổ chức Đảng là thế!
            Thành phố Sài Gòn đổi họ thay tên được đám cán bộ răng đen mã tấu Miền Bắc hồ hỡi thổi phồng sau "Đại Thắng Mùa Xuân". Nhưng những chiếc ghe gắn máy mong manh vẫn âm thầm tiếp tục ra khơi bất chấp hiểm nguy, chuyên chở những người quyết tâm đánh đổi mạng sống mình để bỏ lá phiếu bất tín nhiệm chế độ sắt máu và hận thù và cũng nhằm đánh động lương tâm nhân loại.
            Trong số đó có bạn tôi, công nhân một xưởng máy ở khu Kỹ nghệ Biên Hòa ngày trước và cả bản thân tôi nữa. Phần anh Hiếu Đệ, anh may mắn hơn chúng tôi, đã vượt thoát nhờ chiến dịch H.O.
            Số người ở lại, Tư Ca và "Anh Tư" Diệp Minh Châu ngày ngày vẫn tiếp tục lê la mượn hơi men cay nồng nóng cháy của rượu đế quốc doanh để vỗ về giấc ngủ hối hận và lỗi lầm (?) nhằm xoa dịu những ray rứt xót xa trong lòng? Và cũng để quên những "thành tích lẫy lừng" suốt một kiếp người đóng góp xây dựng chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa" tai hại cho cả nước!
                                               
    Võ Phước Hiếu

     --**--
                                          Món Quà Tết
                             Cho Thủ Trưởng Mang Về Bắc
            Vào khoảng năm 1980, sau nhiều lần chuyển trại, tôi bỗng được một tên cán bộ Việt cộng cao cấp, cỡ sư đoàn, đặc biệt rước về nhà, ân cần tiếp đãi. Quí bạn thử tưởng tượng, đang là một tù cải tạo bị trù dập đày ải, ăn uống thiếu thốn, bệnh tật không thuốc chữa, hoàn toàn mất tự do... Thế mà tự nhiên tôi được đón tiếp, rượu thịt phè phỡn thì thử hỏi có nỗi ngạc nhiên nào lớn hơn?
            Tôi với hắn không hề có liên hệ gia đình, cũng chưa hề biết mặt nhau bao giờ. Nhưng ưu đãi tôi được hưởng ấy là nhờ cái tài vẽ nhăng nhít mà bây giờ nhắc lại tôi vừa buồn cười, vừa xấu hổ. Song cũng nhờ đó, tôi hiểu rõ hơn cái mà bọn Cộng sản vẫn khoe khoang là đạo đức cách mạng.
            Nguyên do xảy ra vào năm đầu đi học tập cải tạo của tôi. Tôi vốn là một họa sĩ. Khi gia nhập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi được bổ nhiệm về Cục Chiến Tranh Tâm Lý. Do đó, khi Miền Nam mất, Việt cộng liệt chúng tôi vào thành phần nguy hiểm, phải cho đi hoc tập mút mùa. Lúc đó trong trại, mỗi tù cải tạo phải lao động với chỉ tiêu hai mươi cây lồ ồ mỗi ngày. Lồ ồ là một loại tre ruột bộng nhiều, đốt dài, vỏ mỏng hơn tre, trúc, thường mọc thành buội rậm khoảng bốn, năm thước vuông. Cũng như tre, cây lồ ồ từ dưới gốc, chân bằng bắp tay, càng cao ngọn càng nhỏ lại. Chỉ tiêu đốn hai mươi cây từ trong rừng vác về đến trại, nộp vào kho khiến tôi ngẩn ngơ ngán ngược. Với sức trói gà không chặt, làm sao tôi cáng đáng nỗi công việc nặng nhọc ấy!
            Thấy tôi lo lắng, anh em bạn trẻ bảo nhau giúp đỡ, dành làm những việc nặng nhọc thay tôi. Tính tình họ thoải mái cởi mở. Họ chấp nhận hiện tại, không chịu khuất phục đớn hèn, không nuối tiếc quá khứ, cố vượt qua đau khổ để sống còn. Tất cả vừa làm việc vừa ca hát để tạo không khí vui vẻ, yêu đời. Có anh mang huy hiệu phản chiến dù chính anh ta là tay đánh trận gan lỳ thuở trước. Có anh xâm hình quả tim tượng trưng với chữ "Love" mà chưa biết tình yêu là gì.
            Những thanh niên ấy hoặc đã lập gia đình rồi hoặc chưa, mới có vị hôn thê hay vừa mới lấy vợ. Cả thảy đều thèm yêu đương, thèm phụ nữ. Họ thường hay nói đến phụ nữ hay nói chuyện tiếu lâm cho nhau nghe... Trong trại học tập, dĩ nhiên là không có bóng dáng phụ nữ. Người trong trại quanh năm chỉ thấy núi với rừng.
            Bọn cán bộ cũng thèm khát không kém gì tù cải tạo chúng tôi. Chẳng những chúng không cấm tù nói tiếu lâm mà còn ngầm khuyến khích để rình nghe. Tôi may mắn là người có duyên kể chuyện khôi hài, được anh em hay yêu cầu kể chuyện tiếu lâm phòng the cho họ nghe. Thoạt đầu tôi theo trí nhớ, kể từng đoạn ngắn trong quyển Dục Lạc Kinh (Karma Sutra của Ấn Độ). Anh em thích lắm. Tới những đoạn cụp lạc, họ cười lên hô hố. Cả những tên cán bộ cũng há hốc mồm nghe, mặt đơ ra.
            Có tên còn bảo tôi:
            - Anh nói thế nào ấy chứ! "Nàm" sao "nại" có cái thiên đàng khác với thiên đàng của các đồng chí "Niên" Xô vĩ đại được! Bọn đế quốc, tư bản, phong kiến, thực dân toàn đồ nói láo cả!
            Tên cán bộ ấy còn trẻ, mặt bấm ra sữa nhưng lại hay lên mặt dạy đời. Hắn mở miệng ra là chê dân Miền Nam chỉ biết ăn chơi đàng điếm, bán nước làm tay sai cho ngoại bang, là lính đánh thuê cho Mỹ... Cái gì của Miền Nam cũng tồi tệ, cũng thiếu thốn, thua xa Miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa của hắn. Cán bộ Cộng sản nói chung, những tên lớn tuổi thì trầm tĩnh mà thâm độc. Bọn trẻ thì hống hách, xấc láo, hỗn xược, cứ lăm le tay súng, chỉ chực bóp cò như còn thèm thuồng bắn giết. Chúng thường rình rập tù cải tạo, xem ai lỡ có sơ hở gì là đem ra xử tội. Xong rồi, chúng tập họp chúng tôi lại để chưởi bới, rủa xả mãi.
            Năm tháng dần qua... Trong trại đã có nhiều người chết vì bệnh tật, vì bị giết chỉ vì những lỗi nhỏ không đáng kể như ăn cắp một trái bắp, hoặc vì có cái đồng hồ tốt lọt vào đôi mắt tham lam của một tên quản giáo. Anh em xuống tinh thần, không buồn nghe kể chuyện Dục Lạc Kinh nữa. Họ bảo:
            - Nghe rồi cũng chỉ tưởng tượng, chả bằng trông thấy...
            Một bạn trẻ hỏi lại:
            - Trông thấy thế nào được! Nơi đây không có bóng đàn bà, biết làm thế nào?
            - Không trông người bằng xương bằng thịt thì phải trông thấy người đẹp bằng tranh vẽ.
            Đa số anh em vỗ tay hoan nghinh:
            - À! Phải rồi đó Hiếu Đệ ơi! Anh vẽ cho anh em giải sầu với.
            Tôi ngần ngại. Nhưng anh em đeo theo năn nỉ mãi. Họ viện lý do:
            - Đây là cách để giữ vững tinh thần anh em. Ai cũng đều là con người cả, cũng có nghĩ đến, tơ tưởng việc đó. Mấy anh có gia đình, vợ con lâu rồi mà còn không tránh khỏi, huống gì bọn này còn trẻ! Bây giờ sống giữa rừng rú, sống nay chết mai, việc gì phải kiêng dè những việc không đáng đó! Trái lại, xem những cái ấy, anh em sẽ vui hơn, đỡ nhớ nhà, đỡ trốn trại.
            Nghe có lý, tôi liền vẽ cho anh em một tập vở đầy nhóc những hình trai gái yêu đương trong phòng kín, đủ cách đủ kiểu. Anh em lật xem, lăn đùng ra cười hô hố. Không khí yêu đời trở lại như cũ. Họ bảo nhau thế mà vui, được an ủi trong lúc cô đơn, buồn chán. Ai cũng muốn có một tập làm của riêng. Mạnh anh nào anh nấy hì hục theo đấy mà đồ đi đồ lại, tam sao thất bản.
            Rồi từ những tập tam sao thất bản ấy, họ đồ ra nhiều nữa. Có anh còn hứng chí viết thêm phần phụ đề rất ư là lâm ly ướt át. Nhưng vì phần đông anh em không biết vẽ nên đồ lại không chỉnh lắm, rốt cuộc những bản vẽ ấy trông như hai con khỉ đang làm... trò khỉ... Cả đến bọn cán bộ vệ binh cũng lén lút tô đồ. Nhiều tên dẫn tù ra rừng làm việc rồi lũi vô buội, giở tập hình ra xem mê mệt.
            Sau đó cũng khá lâu, một hôm tôi bị mời lên ban quản lý trại. Tôi lo sợ phập phồng, không biết mình phạm tội gì. Tên Chính ủy Tiểu đoàn ra vẻ tức tối, quát nạt:
            - Này anh Đệ, anh vào đây để làm gì anh có biết không?
            - Ơ hơ... báo cáo cán bộ, tôi đến đây theo lệnh gọi tập trung cải tạo.
            - Đúng thế, anh là thành phần xấu, tay chân của Mỹ Thiệu, được Đảng và Nhà nước khoan hồng không bắt đền nợ máu mà lại cho vào đây học tập cải tạo. Anh phải cố gắng học tập tốt, lao động tốt thì mới về được, anh có rõ không?
            - Báo cáo cán bộ, rõ ạ!
            Tôi trả lời mà bụng vẫn chưa biết gã răng hô mã tấu kia hắn sẽ buộc mình vào tội gì, định xử phạt ra sao?! Tên Chính ủy gằng giọng nói tiếp:
            - Ai cho phép anh lại vẽ những tập vẽ như thế này?
            Hắn vừa nói vừa lôi dưới bàn ra một bọc giấy to tướng, đổ trút ra những tập vẽ hình hai con khỉ đang làm trò khỉ... Biết được nguyên do bị gọi lên, tôi vội vàng chối biến:
            - Báo cáo cán bộ, không phải đích tay tôi vẽ những bản ấy.
            - Thế thì ai vẽ? Nguyên bản đâu?
            - Báo cáo, tôi không biết.
            Tên Chính ủy chọn một tập đồ khá nhất, ngắm nghía giây lâu rồi dịu giọng:
            - Anh cải tạo tôi hay tôi cải tạo anh. Anh có biết tội anh nặng lắm không? Anh đừng tưởng ỷ biết vẽ là muốn vẽ gì thì vẽ. Vẽ nhăng nhít bậy bạ thế này là phản cách mạng, anh biết chưa? Hồ Chủ tịch đã dạy là phải vẽ cái gì cho có đảng tính, có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được. Như đồng chí họa sĩ lừng danh Diệp Minh Châu đấy! Yêu Bác, yêu Chủ Nghĩa Xã Hội đến nổi lấy máu mình làm mực vẽ nên bức tranh Bác và ba cháu nhi đồng Trung Nam Bắc, khiến Bác cảm động nhận làm con nuôi, vẻ vang vinh hiển biết mấy!
            Hắn nói tiếp:
            - Bác Hồ đã bảo: "Nay ở trong thơ nên có thép, Nhà thơ cũng phải biết xung phong". Đồng chí Trường Chinh cũng thường hay nói với anh em văn nghệ sĩ: "Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Thế mới đúng là văn nghệ sĩ chân chánh, đích thực phục vụ Đảng và Nhà nước. Còn anh như thế nầy là dõm, anh có biết chưa?
            Tôi trả lời hắn:
            - Vâng, tôi biết. Tôi chỉ vẽ có một cuốn tập duy nhứt cho anh bạn đã chuyển trại ra Bắc. Tôi không hiểu làm sao nó lại đẻ ra nhiêu quá chừng chừng. Vả lại, xin cán bộ xét cho, tôi đời nào lại vẽ xấu đến thế kia...
            - Không nói lôi thôi gì cả, anh lại ngồi đàng kia làm cho tôi tờ tự kiểm trước cách mạng, xác nhận hành vi tội lỗi của mình. Tôi nhốt anh ba ngày biệt giam và tịch thu tất cả giấy bút. Sau nầy, khi cần dùng, anh phải lên văn phòng làm phiếu xin, nghe chưa?
            Tôi đi biệt giam không đến nổi cực khổ lắm nhờ anh em lén lút tiếp tế cho. Ngay đến cả bọn vệ binh cũng nhìn tôi với con mắt đầy cảm tình.

                                                                        * *
            Việc ấy trôi qua cũng đã khá lâu. Cho đến một hôm gần Tết, lá vàng rụng đổ khắp rừng, gió Tết thổi lạnh và hơi buồn. Chúng tôi đang khẩn hoang ngoài rừng thì một chiếc xe Jeep chạy đến, đổ xịch lại. Trên xe là một cán bộ lạ mặt có vẻ cao cấp, ăn mặc nghiêm chỉnh, đưa mắt nhìn chúng tôi như muốn tìm ai. Gã nhảy xuống xe đi thẳng đến chỗ chúng tôi đang lao động, lên tiếng hỏi:
            -  Các anh có biết anh nào tên là Đệ không?
            Anh em lo ngại cho tôi, cố hỏi lại:
            - Đệ nào ạ? Trong chúng tôi có nhiều người tên Đệ lắm.
            -  Tôi muốn hỏi anh họa sĩ Hiếu Đệ, có việc rất quan trọng.
            Tôi đành phải bước ra:
            - Báo cáo cán bộ, chính tôi đây.
            Gã liền đưa ra một cuốn tập 36 trang 36 kiểu đồ lem nhem của ai đó, nghiêm giọng hỏi:
            - Phải cuốn này anh vẽ không?
            Tôi lắc đầu:
            - Báo cáo cán bộ, không! Tôi không bao giờ vẽ xấu như thế!
            Gã vội bào chữa để tôi yên lòng:
            - Anh yên tâm, tôi thích hội họa, mến tài anh nên không làm điều gì có hại cho anh đâu! Tôi chỉ muốn biết có phải anh sáng tác nguyên bản của bản vẽ này không mà thôi.
            - Báo cáo cán bộ, đúng! Trước kia tôi có vẽ một bản nhưng đã bị kiểm thảo về việc ấy rồi.
            Ánh mắt tên cán bộ thoáng vẻ vui mừng. Gã dẫn tôi ra xe khẽ bảo:
            - Bây giờ tôi muốn anh vẽ cho tôi một cuốn như cuốn bản chánh trước kia. Kiểu giống thế này nhưng đẹp hơn cơ, được không?
            - Ấy chết, đâu được cán bộ! Vẽ nhăng vẽ cuội không có đảng tính là phản cách mạng, là bị biệt giam, biết bao giờ mới được về!
            - Không sao, tôi bảo đảm cho anh không sao cả.
            Tôi vẫn một mực từ chối. Gã Việt cộng nầy muốn gì? Gài bẫy tôi chăng? Tôi không tin được lũ lang sói nầy.
            - Thôi, thôi, bảo đảm tôi không dám vẽ nữa đâu! Tôi sợ lắm rồi. Người ta bảo "bút sa gà chết", còn bút của tôi mà sa là học tập cải tạo mút mùa...
            - Ai bảo anh thế? Nhà nước luôn dành nhiều biệt đãi cho những người làm công tác văn hóa nghệ thuật.
            - Nhưng tôi đã làm tự kiểm trước Tiểu đoàn rồi, hứa từ nay sẽ không tái phạm.
            Gã cán bộ liền lấy từ trong sà cọt đeo bên hông một tấm thẻ:
            - Anh có biết cái gì đây không?
            - Thưa, thẻ đảng viên Đảng Cộng sản.
            - Anh đọc xem bao nhiêu năm rồi?
            - Thẻ Đảng cấp ngày 19 tháng 5 năm 1949, như thế là đã hơn 35 năm rồi còn gì.
            Gã hếch mặt lên cười ngạo nghễ:
            - Anh đã tin lời tôi nói chưa? Tôi đủ sức bao che cho anh. Bọn cán bộ Tiểu đoàn này toàn là đàn em của tôi cả, bố bảo không đứa nào dám hiếp đáp anh đâu.
            - Giấy bút của tôi bị tịch thu cả rồi.
            - Đừng lo, thứ đó tôi cung cấp cho anh cả khối nếu cần.
            Thấy khó từ chối, tôi liền hỏi thẳng:
            -  Nhưng tại sao cán bộ cần cái của bị cấm ấy? Lỡ để lộ ra nguy hiểm lắm!
            Gã cười, rĩ tai nói thật với tôi:
            - Chả giấu gì anh, một tháng nữa là tôi được nghĩ phép về Bắc ăn Tết. Chúng tôi khi vào Miền Nam, ai cũng thích có đạp, đồng, đài... để mang về khoe với nhân dân xứ Bắc, đây là chiến lợi phẩm Miền Nam. Thú thật với anh, đạp thì chẳng những tôi có xe đạp thôi mà còn có cả chiếc xe Honda đàn bà mới toanh. Đồng, thời anh xem đây: cái đồng hồ Xi-ta-den hai cửa sổ gắn bốn hạt đá quý, không người lái, có phải thời trang bậc nhất không? Đài thì tôi cũng có cái đài Na-ti-on-lơ bốn băng rồi.
            - Ồ, thế thì cán bộ có đủ cả.
            - Nhưng thiếu một món đặc biệt để được khác hẳn với mọi người. Đạp, đồng, đài thì nhiều người đều có cả. Tôi phải có một cái gì khác hơn cơ. Thế mới là món quà Tết đặc biệt mang về Hà Nội cho bà con bạn bè ngớ ra hết. Họ phải biết thủ trưởng này chơi trội mà. Tôi đã vỡ lẽ ra vì sao hắn bỏ công ra thuyết phục tôi nảy giờ.
            - Và món quà ấy là...
            Gã ấy vỗ vào vai tôi cười tít mắt:
            - Thật hiểu ý dễ làm việc. Đúng đấy, là tập tranh vẽ của anh. Anh có nhiều nét độc đáo lắm. Bố bảo Diệp Minh Châu, Lưu Công Nhân bằng thế nào được, dù hắn đã vẽ ông cụ đúng từng cái râu, đúng từng tiếng nói của Đảng.
            Hắn nói tiếp:
            - Thôi anh ơi! Ngón nghề của anh hấp dẫn hơn nhiều. Nó chẳng những có thép mà còn có lửa nữa. Vẽ là gì? Có phải là để người ta chiêm ngưỡng tay nghề của mình chăng? Tay nghề của anh cứng lắm! Anh lại có cái mê tín nữa.
            - Mê tín là gì cán bộ?
            - Ồ! Mê tín là anh đã làm cho người ta mê mệt và có uy tín đó...
            Tôi ghê thay cho miệng lưỡi của tên cán bộ. Vì muốn tôi chiều lòng hắn, hắn không ngớt tán dương tôi như thần thánh. Biết thế, tôi không dại gì không đưa ra điều kiện:
            - Vẽ lại thì tôi vẽ được, nhưng vẽ nơi trại giam không được yên ổn và bình tĩnh để vẽ. Vẽ như thế dục tốc bất đạt, không đạt yêu cầu đâu. Cán bộ phải đưa tôi về xin phép Tiểu đoàn cho tôi đi lên Sư thì tôi mới yên chí mà vẽ.
            - Được rồi, được rồi, mình nhứt trí như thế nhé! Tôi sẽ đưa anh lên Sư, anh phải cố gắng vẽ tốt cho tôi.
            Hắn bảo tôi lên xe, hắn lái đến văn phòng Tiểu đoàn. Quả đúng như hắn nói, bọn cán bộ Tiểu đoàn tỏ vẻ khúm núm, sợ sệt hắn lắm, đồng ý để tôi theo hắn lên Sư ngay. Hắn đưa tôi về chỗ ở của hắn rồi bảo:
            - Yên chí nhé! Ở đây không ai dám quấy rầy anh nếu tôi không cho phép. Anh cứ bình tĩnh làm việc, cần gì thì cứ bảo tôi. Trong nhà có cơm, có thức ăn, có cả rượu nữa, anh tự do lấy mà dùng. Anh thích uống rượu không? Rượu Vốt-ka Ba Lan nhẹ và thơm hơn của Liên Xô. Anh ngồi vào bàn viết của tôi kia mà vẽ, giấy bút đủ cả.
            Hắn lại dặn thêm:
            - Vẽ tốt nhé!
            Hắn để tôi ở đây rồi lên xe đi... Tôi quan sát căn phòng. Phòng nhỏ nhưng tiện nghi. Bàn, ghế, giường đủ cả, bày biện tươm tất. Trong ngăn kéo bàn viết có đủ giấy bút và các dụng cụ văn phòng. Có cả gói thuốc lá hiệu Thủ Đô, tôi biết hắn dành cho tôi hút hầu tỏ ra biệt đãi tôi. Cách mạng ưu đãi những người làm văn hóa, nghệ thuật mà, nhất là cái "nghệ thuật" mà hắn muốn tôi cung ứng để làm món quà Tết đem về Bắc!  Bọn Cộng sản rặt một lũ giả nhân giả nghĩa. Và cái mà chúng gọi là "đạo đức cách mạng" có khác gì những hình vẽ tôi đã vẽ cho anh em bạn tù để giải trí trong cảnh tù đày?
            Tôi bắt đầu vẽ. Đến tối, tên cán bộ nọ bước vào phòng. Hắn cầm những bức vẽ lên ngắm nghía mãi, thỉnh thoảng gật đầu khen:
            - Tài thật! Khéo thật! Không người mẫu mà vẽ y như thật!... Nhưng ta không thiếu giấy, anh vẽ to ra, thêm nhiều chi tiết vào cho... rõ hơn.
            Tên cán bộ không quên nói thêm như để khuyến khích tôi:
            - Tôi sẽ bảo chúng nó xé bỏ tờ kiểm điểm của anh. Đồ ngu bỏ mẹ. Tôi bắt nó ghi rõ là anh học tập tốt, lao động tốt!
            - Cám ơn cán bộ.
            Tôi ở nhà hắn một tuần lễ. Vẽ xong điều hắn yêu cầu, hắn có vẽ khoái chí lắm, xem như được một báu vật vô song! Hắn hỏi tôi có muốn ở lại trên Sư thêm vài ngày nữa để cùng với hắn đánh cờ tướng và uống rượu chơi hay không? Nhưng tôi từ chối, xin về lại trại cải tạo. Mãi mấy năm sau, tôi mới được thả về và định cư ở rừng U Minh Thượng. Vợ tôi vận động cho tôi về với gia đình. Khi lên Sài Gòn để làm giấy tờ sang Mỹ theo diện H.O., tôi gặp lại một số anh em đi học tập cải tạo ngoài Bắc về. Họ cho biết:
            - Những bản vẽ của anh tụi nó tô đồ đầy nhóc ngoài ấy. Chẳng những trong trại cải tạo mà còn cả trong giới cán bộ nữa.
            Tôi bật cười:
            - À thì ra tên cán bộ Sư đoàn đã chia xẻ món quà Tết quí báu ấy cho đồng bọn trong Đảng.
            Về sau, tôi có nhiều dịp gặp Diệp Minh Châu. Khi ấy anh đã hơn bảy mươi tuổi. Anh là chú của chị họa sĩ Diệp Thị Thanh Thủy. Anh rất ham đi chơi và uống rượu với chúng tôi. Tôi hỏi anh ta:
            - Có thằng cán bộ Tiểu đoàn bảo những hình vẽ ấy của tôi không có đảng tính, nhờ anh thêm đảng tính vào cho có được không?
            Diệp Minh Châu khẻ đấm vào bụng tôi cười hô hố:
            - Tội quá! Hiếu Đệ ơi! Đừng chế nhạo bọn nầy quá thế! Thôi đi Mỹ cho rồi đi chú mầy ơi!  
                                                                                                           Hiếu Đệ
           
     --**--
                  Tác giả Nguyễn Văn Thu
                       và Pho Tượng Thương Tiếc
            Ngày xưa, chiến tranh Việt Nam càng ngày càng lan rộng và khốc liệt. Đời sống người dân ở nông thôn bị xáo trộn. Họ đổ dồn về thành phố. Có người bị tàn gia bại sản, gia đình tan nát. Có người lại gặp cơ may, phát giàu. Tại thành phố Sài Gòn mọc lên hàng trăm tờ báo. Chủ báo nào cũng giàu có. Ngành in ấn phát triển như nấm thì ngành làm bản in lúc đó cũng hốt bạc.
            Anh Hai Dậu lập ra đến hai ba cơ sở làm bản kẽm. Anh tên thật là Nguyễn Văn Dậu. Tất cả hình ảnh trên báo chí lúc bấy giờ đều do cơ sở của anh Hai Dậu làm bản kẽm cả. Anh chọn dấu hiệu là Cliché Dầu. Anh Hai Dậu xưa kia là đệ tử của ông Hai Túc làm ở cơ sở in ấn của Pháp là Imprimerie d'Extrême-Orient do những chuyên viên ngành ấn loát bên Pháp qua sáng lập để đáp ứng thị trường của thuộc địa. Thời đó, những người nổi tiếng về kỹ thuật in ấn chỉ có ông Nguyễn Văn Túc, thầy Năm Dưỡng, thầy Năm Dị... đều được người Pháp truyền rất nhiều bí quyết nghề nghiệp.
            Ông Nguyễn Văn Túc về sau tách ra dựng lên rất nhiều cơ sở in ở đường Dormay, bây giờ là đường Mạc Thị Bưởi. Để theo kịp sự phát triển thương mãi và kỹ nghệ của Hòn Ngọc Viễn Đông, tất cả các loại bao bì rượu Tây như Martel, Champagne, bánh trái như Biscuit, thuốc lá như Cotab, Bastos, Mélia v.v... đều do nhà Nguyễn Văn Túc in ấn. Dĩ nhiên, vào thời này, ông Hai Túc rất giàu ở đất Sài Gòn. Ông là con trai trưởng trong gia đình cho nên nhà cửa ruộng đất ở xóm Cây Quéo, quận Gò Vấp đều thuộc về ông. Ông Hai Túc là thân phụ của họa sĩ điêu khắc gia Nguyễn Văn Thu, tác giả pho tượng "Thương Tiếc" ở nghĩa trang Biên Hòa. Nghe đâu hiện nay điêu khắc gia Nguyễn Văn Thu đang sống ở Santa Ana, California, Hoa Kỳ.
            Thời thơ ấu, tôi cùng Thu mài đũng quần trên ghế nhà trường. Thu thường kể cho tôi nghe những biến cố xảy ra trong gia đình anh. Cũng chính vì sự giàu có của ông Hai Túc nên mới xảy ra sự ganh ghét trong gia đình. Năm 1945, thời Việt Minh nổi lên, ông Hai Túc bị dân quân du kích bắt đưa vào mật khu ở Đồng Ông Cộ. Chúng kết án tử hình ông, khép vào tội theo Tây và địa chủ. Bà mẹ của Thu bế con chạy theo lạy lục để xin tha cho chồng nhưng rốt cuộc phải tuyệt vọng.
            Nghe đâu chủ mưu giết ông Hai Túc cũng do mấy người chú của Thu. Cho nên khi thân phụ của Thu mất, ruộng đất, nhà cửa đều bị mấy người chú chiếm hữu, chẳng cần giấy tờ sang tên hay trước bạ gì hết. Họ bảo là đất nhà của người anh cả, nay anh mất là thuộc về mấy người em. Đất nước loạn ly cũng vì cái nạn đấu tranh giai cấp bậy bạ. Trong hoàn cảnh suy sụp, gia đình Thu nhờ được anh Hai Dậu tận tình giúp đỡ.
            Sau khi ban hành giải pháp Bảo Đại, đất nước tạm thời ổn định đôi phần. Người kháng chiến chống Pháp nhưng không theo Cộng sản có chỗ nương tựa. Thành phố Sài Gòn làm ăn bình thường trở lại. Lúc bấy giờ là thời của anh Hai Dậu. Anh làm ăn phất lên như diều. Bà mẹ của Thu thấy vậy cũng sang nhượng hết mấy cơ sở nhà in ở đường Mạc Thị Bưởi cho anh Hai Dậu. Anh Hai thường lui tới thăm bà thầy vì những bí quyết về pha chế hóa chất làm bản kẽm trong phòng tối, bà cụ cũng biết rất rành. Nay bà truyền lại cho anh Hai Dậu một mình một chợ, coi như số một ở Sài Gòn về chuyên môn ngành in.
            Báo chí ở Sài Gòn lúc ấy làm ăn phát đạt không hẳn là nhờ tin tức chiến trường. Mà chính là nhờ sự phát triển của đủ mọi ngành kinh tế, kỹ nghệ và kỹ thuật. Tôi còn nhớ một hôm ngồi ở tòa soạn báo Tiếng Chuông ở đường Gia Long, lúc đó vào thời cụ Ngô Đình Diệm còn làm Thủ tướng. Anh Chủ nhiệm Đinh Văn Khai ở phòng Giám đốc bước ra báo tin mừng cho toàn bộ ban biên tập được rõ:
            - Báo Tiếng Chuông từ nay được nâng cao số ấn bản lên từ hai mươi ngàn thành hai trăm ngàn để đáp ứng thị trường trong tình hình mới.
            Anh em trong ban biên tập ai nấy đều reo mừng. Từ anh chủ bút tới anh tổng thơ ký cho đến các cây bút phóng sự, ai cũng nghĩ là do công lao của mình. Anh Nguyễn Kiên Giang, anh Nguyễn Văn Hiếu, anh Phi Vân, các anh Nguyễn Duy Hinh, Trường Sơn v.v... tất cả đều nghĩ mình trở thành những cây bút sừng sõ. Một hồi, anh Khai mới nói thiệt:
            - Sở dĩ tờ báo phải nâng lên đến mười lần như vậy là do Bộ Kinh Tế không nhập cảng giấy báo cũ ở ngoại quốc nữa vì đồng ngoại tệ hơi bị kẹt. Khổ nổi, bạn hàng ở các chợ trong nước có thói quen gói hàng bằng giấy nhật trình. Lâu nay, họ không chịu gói bằng giấy trắng, chỉ trừ một số rất ít những tiệm thuốc Bắc. Do đó, chúng ta phải in báo để đáp ứng thị trường bao bì của các chợ, tức là in xong rồi cân kí lô cho mấy chú Ba Tàu.
            Mọi người trong tòa báo mới ngã người ra ồ lên một tiếng chán nản. Nhưng anh Đinh Văn Khai thì cứ phải lập thêm hai ba nhà in nữa mới kịp cung cấp đủ số phát hành. Bởi vì thời này chỉ xài máy typo chớ chưa có offset rotative.
            Dưới chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, tôi và Thu được gọi động viên vào Quân trường Thủ Đức. Khóa này chỉ toàn thầy giáo và các chuyên viên ban ngành nên sau khi mãn khóa, chúng tôi được ở loanh quanh trong thành phố. Thu được chỉ định về Sở Quân Nhu. Tôi về Tòa soạn báo Chiến Sĩ Cộng Hòa, ngồi với Thanh Nam và nhà văn Mạc Thu. Tuy là quân nhân nhưng chúng tôi vẫn còn nhảy đầm và rong chơi nhậu nhẹt như thường. Lúc này Thu được bổ nhiệm làm Đại Đội trưởng Đại Đội Chung Sự. Coi lớn chức như vậy chớ chuyên môn trông lo chôn cất người chết từ chiến trường mang về.
            Dưới thời Tổng trưởng Quốc phòng Mỹ Mac Namara qua Việt Nam nghiên cứu thiết lập hàng rào điện tử ở hỏa tuyến, người Mỹ đổ vào Đà Nẵng bốn trăm ngàn binh sĩ. Họ tính mở rộng chiến tranh và đánh lớn. Thu được tuyển đi học ngoại quốc về ngành chung sự và tổ chức nghĩa trang quân đội, nâng kỹ thuật, tiến tới chôn cất bằng máy chôn nhanh gấp mười lần nghĩa trang Gò Vấp. Lúc trở về, Thu được lên chức và trông coi nghĩa trang Biên Hòa. Có một hôm, tôi đi họp, nghe Thiếu tướng Nguyễn Bảo Trị nói chuyện về việc chọn nghĩa trang Biên Hòa:
            - Sau này, ai nằm ở nghĩa trang này, tương lai con cháu sẽ sáng lạng.
            Hỏi sao vậy thì ông nói:
            - Xa lộ Biên Hòa xe chạy hai chiều như đường điện cực âm cực dương. Nghĩa trang nằm đó như cái bóng đèn, tương lai con cháu sẽ sáng ra. Trong tương lai có đánh lớn khi đám Trung Cộng nhảy vô, lính Mỹ có chết sẽ nằm lại ở Biên Hòa. Khi đó, nước ta sẽ giàu có bậc nhất vì mỗi năm người Mỹ sẽ đi thăm chồng thăm cha của họ ở đây. Sài Gòn và Biên Hòa sẽ làm ăn phát tài, sẽ cất thêm khách sạn, những chỗ vui chơi và nhảy đầm...
            Về kỹ thuật chôn cất để chôn lính Mỹ thì dĩ nhiên phải đàng hoàng hơn đối với lính Việt Nam. Chôn lính Mỹ khó bằng năm lần chôn một anh lính Việt Nam. Như vậy thì Mỹ chết một, ta phải chết năm. Còn Việt cộng đánh thí mạng cùi, chúng nó phải chết mười lần hơn.
            Thu kể chuyện có anh lính dù ở hỏa tuyến đưa linh cửu bạn về chôn cất ở nghĩa trang Biên Hòa. Hôm lễ chôn cất có gia đình của anh lính bạn ở dưới miền Tây lên dự lệ. Họ tính an táng xong là lúc 11 giờ rồi ai về nhà nấy. Anh lính dù sẽ trở về vùng hỏa tuyến ngay. Nhưng ngặt một điều. Chiến trường thời đó quá căng thẳng. Binh sĩ bị thương và chết rất nhiều nên công việc chôn cất bị trễ nãi đến cả một hai tiếng đồng hồ. Anh lính dù nổi nóng, gây ỏm tỏi. Anh ta chửi thề:
            - Lần sau tao về tao đánh chết bố mấy thằng chung sự.
            Thế mà khoảng tuần sau đã thấy anh lính dù bữa nọ đã nằm trong túi ny-lông rồi. Chiến tranh Việt Nam rõ thật khắc nghiệt. Ngồi uống rượu với nhau, Thu than vãng:
            - Khổ quá chú mầy ơi! Làm sao tao thoát được cái vai anh Đại Đội trưởng Chung Sự đây.
            Tôi mách nước:
            - Cũng dễ thôi. Xay lúa thì khỏi bồng em. Bây giờ chú mầy nhảy qua làm nghệ thuật, làm điêu khắc.
            Thu quay lại cự nự:
            - Bộ mầy có điên không vậy? Giữa lúc người ta khổ trăm bề thì mầy lại bày chuyện trốn vô tháp ngà!  Bộ mầy muốn đi tù hay ra tiền tuyến hay sao mà lại xúi dại vậy?
            Tôi đáp:
            - Đâu phải. Tao tính là mầy trình đồ án một tượng đài kỷ niệm về các chiến sĩ đã hy sinh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa. Mầy đề nghị lên cấp trên vài ba cái phác thảo. Nếu thượng cấp chấp thuận thì sẽ thực hiện mấy hồi. Trong thời gian thực hiện tác phẩm thì mầy đâu còn phải đi làm những công tác chung sự nữa.
            Thu nghĩ tôi bàn có lý. Anh trình hơn chục bức phác thảo lên Nguyễn Tử Đóa, Đại tá Cục Trưởng Cục Quân Nhu. Đại tá Đóa không dám quyết định chọn bức phác thảo nào nên mới chuyển lên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sau cùng, ông Thiệu chọn đề tài bức tượng "Thương Tiếc". Nội dung chịu ảnh hưởng bức tượng "Người Suy Tư" (Le Penseur) của tác giả Rodin người Pháp ở vào thế kỷ XIX.
            Pho tượng đầu tiên được thực hiệc bề cao bốn thước bằng ciment cốt sắt. Từ khi dựng lên bằng đất cho đến ra khuôn đúc ciment cũng phải tốn kém bằng xây cất một căn nhà. Coi vậy Chánh phủ đâu để cho tác giả bỏ tiền túi. Dĩ nhiên, anh chàng điêu khắc này cũng bắt được số tiền khá lớn của văn phòng Tổng Thống phủ.  Pho tượng rất có tiếng vang và được đồng bào các giới ưa thích. Có người bàn ra tán vào. Sẵn đó, Thu cũng có ý muốn thực hiệc vĩnh viễn bằng đổ đồng.
            Anh đi tìm đám nhà văn nhà báo nhờ họ tán rộng ra. Năm đó, nghe đâu là mỗi bài Thu trả năm ngàn đồng. Trong số này có Kiên Giang, Sơn Nam, Nguyễn Hoàng Đoan, Diệp Lang v.v... Họ viết dong dài kể về pho tượng thành thần, thành ma, pho tượng rất linh thiêng về báo mộng nói cái gì trúng phóc cái nấy. Có khi thì kể pho tượng vào xóm xin nước uống. Có khi đang đêm pho tượng ra đầu ngõ đứng đón xe đò...
            Thời đó, các tướng tá và cả Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa có nạn hay tin dị đoan lắm. Họ nghe người ta phịa chuyện nhưng lại tưởng đâu chuyện có thật nên bỏ ra một ngân khoản rất lớn để thực hiện pho tượng bằng đồng. Cái anh chàng điêu khắc này tự nhiên được trở thành nhà triệu phú hai chục triệu chẳng mấy hồi.
            Nhưng người Việt ta thường nói: "Giàu đổi bạn, sang đổi vợ". Tiếng tăm của Văn Thu được một thời nổi như cồn giữa thời Đệ Nhị Cộng Hòa là một điêu khắc gia số một La Mã. Thu tính trong tương lai sẽ dựng pho tượng Nguyễn Văn Thiệu rất lớn giữa một công trường ở Sài Gòn. Anh ta làm rất nhiều phác thảo, dè đâu lại dứt phim thời cuộc. Nguyễn Văn Thiệu bỏ chạy, Cộng sản tấn công Miền Nam, xé Hiệp ước Paris vừa mới ký kết với chính phủ Hoa Kỳ chưa ráo mực.
            Hai chục triệu đồng Thu bỏ vào ngân hàng Tín Nghĩa chưa kịp lấy ra xài bao nhiêu thì anh chàng bị gọi đi học tập cải tạo. Bà vợ hai của Văn Thu cặp trong thời làm triệu phú ở với anh có một đứa con gái, nghe đâu trước kia là góa phụ của ông Đại úy Quận trưởng quận Nhà Bè. Cô này có vẻ thời trang hơn bà vợ cả. Có hôm, tôi đang ngồi trong xưởng vẻ thì Thu chạy tới mắng vốn:
            - Tại sao mầy không dạy vợ mầy? Ở giữa đường Nguyễn Huệ, nó cúp đầu xe Jeep bắt tao vô lề lấy guốc cao gót đòi đập vào người đẹp của tao.
            Tôi cười xin lỗi:
            - Vợ tớ nó tính làm đại biểu phụ nữ đó mà! Có gì tớ xin lỗi. Mũi dại, lái chịu đòn. Thôi chiều nay tụi mình đi uống rượu giải khuây.
            Thu vẫn còn nóng:
            - Nhưng mà bắt đầu từ nay, tao không muốn gặp mặt vợ mầy nữa.
            Tôi nói ngay với Thu:
            - Như vậy là chú mầy nhận thấy có lỗi có phải không?
            Thu trả lời dứt khoát:
            - Sức mấy! Tao có chính nghĩa mà!
            Anh chàng Văn Thu có tật rất tự hào là đệ nhất điêu khắc gia Việt Nam Cộng Hòa. Từ Tổng thống cho đến hàng Tướng lãnh ai cũng biết mặt biết tên. Nhất là ở vào thời kỳ nầy, Nguyễn Văn Thiệu lại giao cho Văn Thu vai trò Chủ tịch Hội đồng Giám khảo về bộ môn Mỹ thuật và Điêu khắc trong Giải Văn học và Nghệ thuật của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Tôi có kể cho Văn Thu nghe một câu chuyện vui:
            - Có một con khỉ nọ ngồi giữa bàn tròn. Chung quanh, người ta ăn mặc đồ lớn, com lê cà vạt rất nghiêm chỉnh. Tất cả tập trung nhìn vào nó. Khỉ ta tưởng mình là nhân vật quan trọng thời đại, cứ khọt khẹt ngó vào mặt người nầy người kia như kiểu ra mệnh lệnh. Tưởng sao, khi đám thực khách kể xong mấy câu chuyện tiếu lâm rồi quay sang mắng vào mặt khỉ:
            - Ê! Giỡn mặt khó làm việc lắm đa?.
            Nói xong, họ bèn lấy muổng nỉa cùng nhau gõ vào đầu khỉ cho vỡ đầu ra. Kế đó, họ từ từ nặn chanh thêm muối vào để bắt đầu một màn ăn óc khỉ trong không khí vui nhộn. Trong buổi kể chuyện tếu đó có sự hiện diện của Dương Hùng Cường, bút hiệu Dê Hút Càn. Cả đám ôm bụng cười làm Văn Thu tức mình ra rồ máy xe bỏ về.
            Ngày xưa, Mac Namara làm Tổng trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, người Mỹ có chủ trương ăn thua đủ với Trung cộng và định đánh lớn. Nhưng đến vài năm sau, Mac Namara lên làm Thống đốc Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế thì họ lại có xu hướng đánh với Trung cộng bằng tiền. Họ dùng tiền để ly gián khối Cộng sản, ly gián Liên Xô với Trung cộng, chứ đánh nữa thì chỉ có người dân Việt Nam phải chịu thiệt thòi và càng khốn khổ hơn. Họ giết chết Việt Nam Cộng Hòa như giết chết con khỉ trên bàn tiệc. Tượng "Thương Tiếc" cũng sụp đổ theo đất nước. Và nhà điêu khắc Nguyễn Văn Thu cũng dính liền với tên tuổi của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
            Lịch sử thường đi tới chớ không đi lui. Không nên làm tượng "Thương Tiếc" ở Hải Ngoại. Không có "thương tiếc", không có "suy tư" gì nữa! Tất cả được giải đáp cả rồi. Rõ như ban ngày. Cho dầu nội dung có giống tượng "Người Suy Tư" (Le Penseur) thì bây giờ "người suy tư" đó cũng đã rút kinh nghiệm và cũng đã khôn ra, cũng đã tìm thấy đáp số cho mình và cho dân tộc là Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền.
            Trong thời gian bị tập trung cải tạo ở trại Hốc Môn, vào đợt thăm nuôi đầu tiên, có người đã lén cho Văn Thu biết là người đẹp của anh ta đã ôm cầm sang thuyền khác (cô vợ hai). Người ta còn cho biết thêm là nàng đã lấy chồng cán bộ... Hai bà vợ nhưng bà nọ lại tưởng bà kia đi thăm nuôi chồng. Té ra "ngày lắm mối, tối nằm không!". Rốt cuộc, Văn Thu trở thành con Bà Phước, tức chẳng ai thăm nuôi chi hết! Anh ta không nén được cơn thịnh nộ, biên thư về mắng cho mụ vợ Hai một trận. Nội dung trong thơ có những đoạn trách cứ. Đại khái như sau:
            - Anh đã bị kẻ thù hành hạ trong trại cải tạo, trong khi đó em lại đi lấy nón cối. Em là người đàn bà không biết chuyện. Anh đau khổ vô cùng. Bọn Cộng sản thế này thế nọ... Chồng trước của em đã hy sinh trên chiến trường để giữ nước, nay em lại làm vợ kẻ thù. Lấy kẻ thù làm chồng!...
            Nặng nhất trong thư có một câu:
            - Từ nay, anh thề quyết không sống chung với loài quỷ đỏ. Thôi thì từ nay chúng ta đôi ngả đôi đường!
            Thật xui xẻo cho Văn Thu! Bức thư gởi cho bà con cầm tay mang về không biết thế nào lại lọt vào tay cán bộ quản giáo. Bọn chúng tống giam Văn Thu vào connex (thùng sắt lớn đựng võ khí). Báo hại đám trại viên chúng tôi cứ tối tối bị kêu lên họp để nghe cán bộ chúng nó xỉ vả. Nào là chúng tôi học tập đã ba năm rồi mà vẫn chưa tiến bộ. Đồ phản bội, chưa qua sông đã dám buồi vào sóng, dám đạp lên chánh sách khoan hồng độ lượng của Đảng và Nhà nước, phải trừng trị nó đích đáng để làm gương.
            Bọn Cộng sản hành hạ Văn Thu suốt cả năm trời, nếu yếu sức thì cũng đã chết mất rồi! Mãi đến khoảng giữa năm 1986, anh mới được ra trại. Cửa nhà sa sút. Vợ con đói khổ. Chị vợ cả phải nuôi cả bầy bảy tám miệng ăn. Vợ chồng tôi cũng thường lên thăm gia đình anh và tìm cách giúp đỡ. Khu vườn đẹp đẽ ngày xưa đã bị Ủy ban Nhân dân đập phá tất cả, chỉ còn trơ lại hòn núi đá và dòng suối cạn. Trong lúc chúng tôi đang hàn huyên tâm sự ở ngoài vườn thì có vụ đánh lộn trong nhà. Văn Thu vội vàng nói:
            - Xin lỗi hai vợ chồng Hiếu Đệ để tôi chạy vô nhà giàn xếp chuyện này!
            Đến một lúc cũng khá lâu, Văn Thu chạy ra phân trần:
            - Đó, chú mầy thấy không? Tụi mình đi cải tạo hơn cả chục năm trời mới về, con cái đã lớn hết cả rồi, mình có dạy dỗ cóc khô gì được đâu? Còn nói chi đến việc dựng vợ gả chồng cho chúng nó. Nên khi mình về đến nhà, cứ thấy sao hay vậy chứ chẳng xây dựng được gì!
            Cô vợ thằng anh hỗn với mẹ, đứa em gái bênh mẹ. Thằng nầy lại bênh vợ đánh cô em. Thằng em kế thấy vậy nổi nóng xách cây đập thằng anh. Con vợ thằng em lại xông vô... Thế là thành một trận giặc trong nhà. Mẹ chúng nó chỉ khóc thôi!
            Bà vợ cả của Thu mặc dầu không có nhan sắc, không son phấn nhưng rất đúng nghĩa một bà mẹ Việt Nam, tận tụy nuôi chồng nuôi con trong cảnh nghèo đói và nhẫn nhục. Các bà mẹ Việt Nam trong ca dao hay trong huyền thoại cũng chỉ chịu đựng đến mức nầy là cùng! Có thể nói mỗi bà mẹ Việt Nam là một bà thánh. Vợ của Thu mười mấy năm trời nuôi tám đứa con khôn lớn thế nầy là nhất rồi. Không thể đòi hỏi hơn nữa.
            Hôm nghe tin Thu được về, chị vợ Hai có cho đứa con gái mười sáu tuổi đến thăm bố và có đưa một lá thư. Trong thư nói là lâu nay cô ta buôn bán hàng hóa từ đường Nam Vang về cũng hơi khấm khá. Bây giờ cô ta đã bỏ anh chàng cán bộ đảng đó rồi. Cô ta hối hận, ngỏ lời muốn trở lại với Văn Thu để xây dựng lại gia đình như cũ. Tôi hỏi Văn Thu:
            - Bây giờ chú mầy nghĩ sao?
            Thu nói:
            - Số phận nó đã tan vỡ như vậy rồi, thôi thì mình cứ để như vậy luôn. Chẳng thế nào hàn gắn lại được.
            Tôi có nhắc lại câu chuyện Rashômôn của Giới Xuyên (Akata Gawa 1892-1927) ở Nhật Bổn diễn tả câu chuyện trong một đám rừng thưa. Tên cướp đánh bẫy trói gô anh võ sĩ đạo lại và hiếp dâm cô vợ anh ta trước mặt chồng. Sau khi thỏa mãn rồi, tên cướp bỏ đi mất. Người vợ mở trói cho chồng rồi khóc xin lỗi. Nhưng anh võ sĩ đạo nầy lại mổ bụng tự tử. Đó là chuyện quân tử kiểu võ sĩ đạo thời xưa. Nhưng bây giờ phải khác đi chứ?! Phải dân chủ, nhân quyền hơn như thế mới được.
            Vả lại, sau nầy tụi cán bộ Cộng sản cũng có công nhận Đảng bày ra chiến dịch "hoa nở về đêm". Sau khi cướp hết của cải, họ còn cướp cả vợ con của sĩ quan học tập cải tạo. Họ gọi làm như vậy là đấu tranh giai cấp. Vậy nhà điêu khắc cũng nên trở lại với cô vợ Hai đi là vừa. Nhưng Văn Thu cương quyết dứt khoát không về với cô ta nữa.
            Hồi Thu mang lon Đại úy, anh ta đem lính dù về đánh đuổi mấy người chú rút về phía sau, lấy đất vườn lại, xây hàng rào chắn ngang làm xưởng điêu khắc. Đến lúc Thu đi tù cải tạo, đám nầy lấn chiếm đất trở lại, đập phá hết tất cả những tác phẩm điêu khắc ở trong vườn. Trong đám nầy có một số được lên nắm Ủy ban Nhân dân Phường, Xã, Quận, Huyện... gì đó, rất là hống hách.
            Hôm Thu được thả về từ trại cải tạo, họ cho trẻ con ra đầu ngõ kêu ngạo rằng:
            - Hoan hô Trung tá về làng!
            Thu nói kiểu nầy chỉ có cách chuồn ra nước ngoài mới yên thân chớ chẳng còn thời gian nào để chờ đợi Chính phủ Hoa Kỳ cho phép ra đi theo diện chính thức H.O. được. Thu vượt biên chừng hai năm sau đó. Anh thành công đến miền đất hứa. Đến khi anh qua trại tỵ nạn Bataan ở Phi Luật Tân thì anh lại gặp gia đình tôi trong cuộc mết tinh ngày Quốc Hận 30 tháng Tư năm 1990. Phải chi Thu ở lại Việt Nam thêm chừng đôi ba năm nữa, có lẽ anh cũng ra đi với đông đủ mọi người trong hộ gia đình như đám H.O. tụi nầy.
            Nguyễn Văn Thu, tác giả tượng "Thương Tiếc". Anh cũng là con người của tất cả những nỗi niềm thương tiếc. Thương tiếc một thời vàng son của quá khứ.        Thương tiếc một nhà triệu phú hai mươi triệu đồng. Thương tiếc quê hương đất nước. Thương tiếc vô số những người tình. Thương tiếc mái ấm gia đình vợ con.
            Tất cả những niềm tưởng tiếc nầy gom thành một khối khổ đau không biết ngỏ cùng ai. Có người bảo rằng đó là một thứ "hội chứng Việt Nam" không thuốc chữa! Tôi có lời an ủi anh:
            - Thôi bạn ơi! Đừng có thương tiếc nữa. Có thương tiếc mãi cũng chẳng ít gì. Tất cả mọi việc đều khác hết rồi. Thương tiếc Viện Trợ Mỹ thì Quốc Hội Mỹ cũng chẳng cho đồng xu ten nào nữa. Thương tiếc đám Thiệu, Kỳ, Khiêm, chúng hứa chiến đấu bên cạnh anh em chiến sĩ nhưng thật ra chúng đem vợ con và của cải bỏ chạy ra nước ngoài còn sớm hơn ai hết. Bây giờ chú mầy có đắp lại cái tác phẩm "Thương Tiếc" chăng nữa thì chẳng có ma nào quan tâm để ý ngắm nhìn. Thôi bỏ đi Tám! Chúng ta phải làm những chuyện khác có ích lợi cho đất nước và dân tộc hơn...
            Vì tôi nghĩ rằng trong hiện tại chẳng cần phải hăm hở tuyên truyền xách súng về Việt Nam đánh đuổi Cộng sản như thời gian trước đây. Thật ra trong nước cũng đã loạn đến nơi rồi. Ngọn lửa trong nhân dân đã bùng lên từ Thái Bình, Xuân Lộc... đến người thiểu số ở sáu tỉnh Tây nguyên, khiến hàng ngũ Cộng sản trong nước rối bời. Đám đảng viên lão thành cũng đã bất mãn chế độ. Trong đám này có Nguyễn Hộ, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Phạm Quốc Dương... khiến bọn lãnh đạo Trung ương Đảng phải chạy sang Tàu lạy lục cống hiến một phần đất đai lãnh thổ và vùng biển để làm chỗ dựa. Chúng noi gương bọn Việt gian phản quốc trong lịch sử Việt Nam như Trần Ích Tắc, Mạc Đăng           Lê Chiêu Thống... đang tâm "cỏng rắn về cắn gà nhà".
            Tình thế đã cho thấy chế độ độc tài đàn áp tôn giáo và nhân quyền đã đến ngày suy sụp thấy rõ. Bây giờ chúng ta không kêu gào võ trang kháng chiến phục quốc mà vẫn thấy sự thắng lợi một cách tất nhiên. Người xưa nói đó là giai đoạn "bất chiến tự nhiên thành". Từ xưa đến nay Chủ nghĩa Cộng sản trên cơ bản là chuyên chính vô sản, đấu tranh giai cấp. Tất cả mọi tư liệu sản xuất lớn nhỏ để làm ra của cải đều nằm gọn trong tay nhà nước quản lý. Người dân bị dồn vào cảnh khố rách áo ôm. Họ phải xếp hàng đi sản xuất không công cho hợp tác xã, nông trường và nhà máy quốc doanh.
            Bây giờ Cộng sản phải công nhận thành phần tư sản và cho buôn bán làm ăn tự do sau khi ký Hiệp định Thương mãi Mỹ và Việt Nam. Bọn lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Trần Đức Lương, Phan Văn Khải... xách bị gậy ra nước ngoài xin viện trợ của các nước Tây phương và van xin các doanh thương ngoại quốc hãy trở lại hùn hạp làm ăn với Việt Nam.
            Gần đây Trung tâm Quốc tế Thương mãi ở Sài Gòn bị cháy lớn làm nhiều cơ sở kinh tế của người nước ngoài bị thiêu hủy từ của cải vật chất đến sinh mạng con người. Chúng bịt miệng giới truyền thông báo chí trong nước không cho loan báo trung thực tin này chỉ vì sợ giới đầu tư và người du lịch nước ngoài không dám đến Việt Nam nữa. Như vậy thì Cộng sản chỉ có nước húp cháo rùa.
            Hiện nay, ai cũng cộng nhận sự phát triển lớn mạnh của Cộng đồng Người Việt Hải ngoại. Nhất là đội ngũ chuyên gia tuổi trẻ đang thành công rỡ ràng trên mọi lãnh vực từ khoa học, giáo dục... đến kinh tế, chánh trị. Trong giai đoạn tiến tới toàn cầu hóa và xây dựng kinh tế nước nhà, đám con cháu của cán bộ đảng viên chỉ biết "hồng hơn chuyên". Họ sẽ chẳng làm ăn gì được vì thiếu hẳn vốn liến kỹ thuật cần thiết. Bắt buộc Cộng sản Việt Nam phải đi lạy lục chuyên gia nước ngoài.
            Ngày xưa bà con người Việt chúng ta thường gọi Quận Cam ở California là Sài Gòn Nhỏ hay Tiểu Sài Gòn. Nhưng hôm nay phải công nhận nơi đây đã trở thành Sài Gòn Lớn vì nó đã phát triển giàu mạnh hơn cả thành phố Sài Gòn mang tên mồ ma của tên Hồ Chí Minh ở bên nhà. Sở dĩ Cộng sản Việt Nam còn sống hoi hóp tới ngày hôm nay là nhờ vào đồng tiền rơi rớt của Việt kiều từ nước ngoài gởi về cứu giúp thân nhân hoặc đi du lịch về quê ăn Tết. Nếu bọn chúng bị cắt nguồn kinh tế này thì chỉ còn nước chết một cửa tứ.
           
                                                                                                         Hiếu Đệ