Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
5. Con người Stalin
Phụ lục tác phẩm: Nói chuyện với Stalin
Tôi đã cố gắng nhớ lại xem có nhân vật lịch sử nào, ngoài Stalin, lại có một đời sống thực tế khác biệt với huyền thoại được dựng lên xung quanh ông ta đến như thế, nhưng vô ích. Vừa nghe ông ta nói những lời đầu tiên là hình ảnh một triết gia nhiệt tình và quả cảm hay một người tốt bụng đến tức cười mà các bức ảnh, các bức chân dung hay các cuốn phim tài liệu dựng lên quanh ông bấy lâu nay lập tức biến mất. Bạn sẽ thấy đấy không phải là nhân vật đã được bộ máy tuyên truyền của ông ta dựng lên bấy lâu nay mà là một người hoàn toàn khác, một Stalin hoạt động giữa đời thường, nóng nảy, thông minh, một người nhận thức được rõ sự vĩ đại của mình nhưng cũng rất giản dị trong đời sống… Stalin tiếp tôi lần đầu tiên vào năm 1941, khi ông vừa khoác lên mình bộ quân phục dành cho nguyên soái, cũng là bộ y phục ông mặc hàng ngày về sau. Tác phong năng động, hoàn toàn không kiểu cách và cứng nhắc theo lối nhà binh đã lập tức biến bộ quân phục ấy thành bộ quần áo mặc hàng ngày. Tương tự như thế, những vấn đề phức tạp nhất đều được Stalin biến thành những đề tài thường nhật, dễ hiểu khi thảo luận…
Khi tiếp xúc trực tiếp, ta bỗng quên ngay rằng đấy là một người kín đáo, nham hiểm, mặc dù, theo ông ta, đấy là những phẩm chất bắt buộc của một nhà chính trị, chính ông không hề che giấu và còn khoe khoang, đôi khi đến độ khôi hài nữa. Thí dụ, trước khi chiến tranh kết thúc, trong khi nhắc nhở những người cộng sản Nam Tư nên tìm cách thoả hiệp với hoàng đế Peter II, Stalin đã nói: "Sau này, khi có đủ lực rồi thì cho hắn ta một nhát dao vào lưng!…". Những người cộng sản nổi tiếng, kể cả của các đảng ngoại quốc đều biết "thói quen" đó của Stalin, nhưng họ lại tỏ ra khâm phục chứ không lên án vì đây là vấn đề củng cố nhà nước Liên Xô, trung tâm của phong trào cộng sản thế giới.
Sự kín đáo và nham hiểm của Stalin tạo cho người ta cảm giác đây là một người lạnh lùng và khô khan. Nhưng thực ra, ông ta lại là một người rất dễ nổi xung, mặc dù điều đó dĩ nhiên là để phục vụ cho một mục đích đã được xác định nào đó. Stalin thường phản ứng một cách cuồng nhiệt, nhưng tôi nghĩ ông ta sẽ chẳng bao giờ "nộ khí xung thiên" khi không cần thiết.
Stalin có một trí nhớ siêu đẳng: ông nắm rất chắc bản chất của các nhân vật cả trong văn học lẫn trong cuộc đời thực dù đôi khi đã quên hẳn tên thật của họ, ông nhớ rất nhiều sự kiện, không hề lầm lẫn khi bình luận về mặt mạnh và mặt yếu của các chính phủ cũng như các nhà hoạt động nhà nước. Ông thường bám vào các vấn đề tưởng như nhỏ nhặt nhưng sau đó lại hoá ra là những vấn đề quan trọng. Trong thế giới xung quanh ông, cũng như trong nhận thức của ông, không có điều gì là quan trọng cả… Theo nhận xét của tôi thì ông nhớ những việc ác nhiều hơn việc thiện vì có thể trong thâm tâm, ông hiểu rằng chế độ mà ông tạo ra chỉ có thể sống còn trong trạng thái thù nghịch…
Thực ra, kiến thức của ông là do tự học mà có, nhưng ông khác hẳn những người tài năng khác, kể cả về những kiến thức cụ thể. Stalin nắm vững các vấn đề về lịch sử, về văn học cổ điển và dĩ nhiên là các sự kiện đương thời nữa. Không bao giờ thấy ông che giấu hay tỏ xa xấu hổ vì sự ít học của mình. Nếu khi nào đó, ông không nắm được bản chất câu chuyện đang được thảo luận thì bao giờ ông cũng tỏ ra sốt ruột và thận trọng chờ cho đến khi thay đổi đề tài.
Thái độ giáo điều không khoan nhượng của Stalin chính là cách ông ta tạo ấn tượng. Hệ tư tưởng, nghĩa là chủ nghĩa Marx, một hệ thống các quan điểm khép kín, thậm chí có thể coi là hệ thống các qui định, được ông ta coi là nền tảng tinh thần của chính quyền toàn trị; hệ thống các quan điểm đó làm cho quyền lực trở thành công cụ của xã hội phi giai cấp. Tuy tuân theo một cách kiên trì và không khoan nhượng lời văn của học thuyết nhưng Stalin không phải là nô lệ của lí thuyết: hệ tư tưởng là để phục vụ quốc gia và bộ máy quan liêu của đảng, mà đảng và nhà nước là để phục vụ ông ta. Stalin cho phép mình công khai phá bỏ huyền thoại von Clausewitz, người được Lenin coi là một lí thuyết gia quân sự lỗi lạc nhất, còn khi nói chuyện với những người thân cận, (dĩ nhiên là sau khi đã chến thắng nước Đức phát xít) ông ta còn chê bai cả Marx và Engels, cho rằng các vị này quá lệ thuộc vào nền triết học cổ điển duy tâm Đức… Tuy không thú nhận công khai nhưng ông có khả năng cảm nhận được những sai lầm của mình. Thí dụ, ta có thể nghe ông nhắc đến vụ này vụ nọ "ta đã bị lừa" ; trong Lễ kỉ niệm Chiến thắng, ông đã nói đến cả các sai lầm trong thời gian chiến tranh, còn đầu năm 1948, ông từng nhắc lại rằng những người cộng sản Trung Quốc đã đánh giá khả năng của mình chính xác hơn ông.
Khi nói chuyện với Stalin, ấn tượng ban đầu rằng đây là một con người thông tuệ và quả cảm không những không mất đi, mà ngược lại, càng sâu sắc thêm. Thái độ cảnh giác thường trực, đầy vẻ đe doạ của ông ta cũng làm gia tăng cảm tưởng như thế. Trong khi nói chuyện, ông không bỏ qua bất cứ một nhận xét nhỏ nào, ngay cả sự thay đổi ánh mắt của bất kì người tham gia nào cũng được ông chú ý tức thì.
Hiện nay, giới học giả phương Tây cho rằng Stalin có biểu hiện của một kẻ tâm thần, hơn nữa, của một tội phạm. Chỉ dựa vào những buổi gặp gỡ, tôi không thể khẳng định điều đó, nhưng cho phép tôi nhận xét rằng bất cứ một kẻ phá hoại hoặc tạo dựng đế chế nào cũng cực kì năng động nhưng đồng thời cũng dễ dàng rơi vào trạng thái tuyệt vọng khôn cùng. Những cơn giận dữ và những giây phút vui vẻ đổi chỗ cho nhau như những đợt sóng. Quả vậy, một kẻ khi đã tiêu diệt mấy thế hệ các chiến hữu, không tha ngay cả họ mạc của mình, mà vẫn có thể là một người bình thường, một người điềm đạm, không hề ngờ vực thì thật là chuyện lạ… Tôi cho rằng cội nguồn của sự "điên rồ" và "tội lỗi" của Stalin nằm ngay trong hệ tư tưởng và chế độ của ông ta: tư tưởng xây dựng một xã hội bất kì, chưa nói đến một xã hội không còn xung đột, xét cho cùng, chỉ là một huyền thoại thật xa lạ với lí trí bình thường, còn một chế độ dựa trên sự vô luật pháp thì bản thân nó đã là một tội phạm rồi.
Stalin là một người nhỏ bé, đôi tay rất dài, trong khi thân hình lại quá ngắn, chắc chắn ông ta phải cảm thấy đau khổ vì chuyện đó. Chỉ có khuôn mặt ông, một khuôn mặt hiền lành, "nhà quê", có thể được coi là hấp dẫn, thậm chí đẹp nữa. Đôi mắt sáng quắc, linh lợi, chứng tỏ ông có một trí tuệ rất năng động. Sau khi đã giết hàng triệu người và đưa hàng triệu người khác đến chỗ chết mà miệng còn hô tên mình, Stalin cho rằng cả hai việc đó đều là cần thiết, họ không để lại một dấu ấn nào, mặc dù ông căm thù đến tận xương tủy nhóm thứ nhất và ca tụng hết lời nhóm thứ hai… Bộ máy quan liêu đảng trị, tuy bị chèn ép và giết chóc, vẫn công nhận ông là lãnh tụ của họ. Những khi ở cạnh ông ta, tôi chưa bao giờ, dù chỉ trong giây lát, thấy ông ta có biểu hiện của một niềm vui trong sáng, một niềm hạnh phúc tự nhiên, không vướng bận bời tính ích kỉ: đấy là những tình cảm nằm bên ngoài thế giới của ông ta, ông không cần những tình cảm như thế vì đã tự coi mình là hiện thân của tư tưởng và chế độ rồi…
Khi coi tác phẩm Nói chuyện với Stalin là đã hoàn thành, tôi, cũng như đã từng xảy ra nhiều lần trước đây, đã tự dối mình. Tôi đã từng hi vọng như thế khi viết xong tác phẩm Xã hội không hoàn hảo: từ nay trở đi, ta sẽ không còn bận tâm đến "các vấn đề tư tưởng" nữa.
Nhưng Stalin là một bóng ma đang lang thang trên thế gian và sẽ còn lang thang lâu nữa. Di sản của ông ta đã bị chối bỏ, tuy vẫn còn khá nhiều người coi đấy là cội nguồn sức mạnh của mình. Nhiều người đang bắt chước ông ta. Khrushchev lên án nhưng đồng thời lại thán phục ông ta. Hiện nay các lãnh tụ Liên Xô đã không còn thán phục ông ta nữa nhưng vẫn còn tận hưởng ánh hào quang của ông ta. Và Tito, sau mười lăm năm đoạn tuyệt với Stalin, lại cũng tỏ ra hâm mộ sự sáng suốt của ông ta. Chính tôi cũng đang dằn vặt khi tự hỏi: Stalin là ai? Phải chăng đấy là vì ông ta vẫn đang sống trong tôi?
Stalin là ai? Một nhà hoạt động nhà nước vĩ đại? "Một thiên tài mang bộ mặt quỉ"? Một nạn nhân của giáo lí? Hay một kẻ điên rồ, một tên tội phạm đã nắm được quyền lực? Hệ tư tưởng mác-xít có vai trò gì đối với ông ta, ông ta sử dụng tư tưởng cho mục đích gì? Ông ta nghĩ về mình, về những hoạt động của mình và vai trò của mình trong lịch sử như thế nào?
Đấy chỉ là một vài câu hỏi mà ông buộc ta phải trả lời. Tìm lời giải cho những câu hỏi đó, những câu hỏi liên quan đến số phận của thế giới, nhất là thế giới cộng sản, theo tôi, chính là tìm lời giải cho những vấn đề có ý nghĩa rộng lớn hơn, những vấn đề phi thời gian.
hết: 5. Con người Stalin, xem tiếp:
ưu tầm: Nguyễn Học ( Mõ Hà Nội )
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Showing posts with label MILOVAN DJILAS * NÓI CHUYỆN VỚI STALIN. Show all posts
Showing posts with label MILOVAN DJILAS * NÓI CHUYỆN VỚI STALIN. Show all posts
Thursday, June 18, 2009
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 27
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
4.
Ngay sau khi Lenin mất được ba tháng, Stalin đã đưa ra tác phẩm viết về "chủ nghĩa Lenin" (trong bài giảng "Về những nguyên lí của chủ nghĩa Lenin" vào tháng 4 năm 1924). Đây là sự thô thiển hoá nhưng đồng thời cũng là sự xác lập một giáo điều, giống như Engels đã hệ thống hoá một cách giáo điều tư tưởng của Marx trong tác phẩm Chống Dühring. Dĩ nhiên là Stalin làm việc đó một cách vội vã hay vô tình. Từ lâu, ông ta đã hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa Lenin và biến nó thành ngọn cờ của mình. Các quan điểm và hành động của ông đã giữ thế thượng phong ở Liên Xô và các phong trào cộng sản quốc tế. Đối với ông ta, một loạt chiến thắng vừa giành được chính là điều "khẳng định" tính ưu việt của các phương châm "của chúng ta", thực ra là của chính ông.
Tôi nghĩ rằng chính vì thế mà trong mắt ông ta, học thuyết của Marx đã mất dần ý nghĩa, mặc dù ông vẫn trung thành với bản chất của nó, nghĩa là vẫn trung thành với chủ nghĩa duy vật, như là "cơ sở" để nghiên cứu thế giới và xây dựng xã hội lí tưởng, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những cơn thịnh nộ bất ngờ và tàn bạo đối với địch thủ không làm cho ông mất khả năng nghiên cứu một vấn đề hay nghiên cứu đối thủ một cách thận trọng và tỉnh táo, trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Ông đã tiếp cận với các hệ tư tưởng cũng theo cách như thế: có thể ông đã nhận ra những khiếm khuyết của Marx và Engels ngay từ khi trình bày "chủ nghĩa Lenin", nghĩa là ngay sau khi Lenin mất. Cuộc chiến tranh chống phát xít có thể là giai đoạn bước ngoặt: cuộc tấn công của dân tộc đã sinh ra Marx và Engels vào đất nước duy nhất mà tư tưởng của họ đã giành được thắng lợi hoàn toàn chắc chắn phải làm Stalin choáng váng.
Stalin đã làm cho hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế phụ thuộc vào Đảng cộng sản Liên Xô. Chiến tranh và kết quả của nó dường như càng khẳng định một điều rằng chính quyền cộng sản chỉ có thể tồn tại ở những vùng ảnh hưởng của nhà nước Liên Xô mà thôi. Ông đã tạo ra bộ máy quan liêu chính trị và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc Nga và cho rằng chỉ có làm như thế mới có thể bảo tồn được cuộc cách mạng Nga và chủ nghĩa cộng sản. Ông bắt đầu phủ nhận ý nghĩa của học thuyết của von Clausewitz, một lí thuyết gia quân sự nổi tiếng, ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc, mặc dù Lenin đánh giá rất cao ông này. Stalin làm như thế không phải vì đã có một lí thuyết gia tốt hơn mà chỉ vì von Clausewitz là người Đức, đại diện của một dân tộc mà quân đội của họ vừa bị Hồng quân đánh tan trong một cuộc chiến tranh có thể là vĩ đại nhất trong lịch sử của nước Nga.
Dĩ nhiên là Stalin không bao giờ phát biểu công khai thái độ của mình về Marx và Engels. Điều đó sẽ làm cho những kẻ trung thành hoang mang, sự nghiệp và quyền lực của ông có thể bị đe doạ. Ông nhận thức rõ rằng ông đã chiến thắng vì ông là người phát triển một cách kiên định nhất các hình thức tổ chức, có thể kết hợp lí luận và hành động, nhận thức với thực tiễn.
Stalin chẳng hề bận tâm liệu ông ta có xuyên tạc một nguyên lí nào đó của chủ nghĩa Marx hay không. Chẳng phải chính những nhà mác-xít vĩ đại, mà trước hết là Lenin, từng nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Marx là "kim chỉ nam cho hành động" chứ không phải là một tập hợp các giáo lí và thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí đấy ư?
Nhưng vấn đề ở đây vừa rộng, vừa phức tạp hơn nhiều. Mọi chế độ, đặc biệt là chế độ chuyên chế, đều cố gắng đạt đến tình trạng ổn định. Học thuyết mác-xít, vốn đã mang tính giáo điều, không thể không đông cứng trong tình trạng giáo điều một khi nó được tuyên xưng là hệ tư tưởng chính thống, hệ tư tưởng của quốc gia và và của toàn xã hội. Vì nhà nước và tầng lớp cầm quyền sẽ tan rã nếu họ thay đổi diện mạo mỗi ngày, chưa nói đến thay đổi lí tưởng. Họ phải sống, trong khi tranh đấu và lao động, họ phải thích nghi với hoàn cảnh cả trong nước và quốc tế đang thay đổi từng ngày. Điều đó buộc các lãnh tụ phải "xa rời" lí tưởng, nhưng phải làm sao vẫn giữ được, và nếu có điều kiện thì thổi phồng thêm vai trò của mình trước mắt các đồ đệ và toàn thể nhân dân. Tính hoàn chỉnh, nghĩa là "tính khoa học" của chủ nghĩa Marx, việc bế quan toả cảng của xã hội và tính toàn triệt của chính quyền đã buộc Stalin phải tiêu diệt một cách không khoan nhượng tất cả những kẻ dị giáo về tư tưởng bằng những biện pháp dã man nhất, còn cuộc sống đã buộc ông ta phải "phản bội", tức là thay đổi những nguyên lí "thiêng liêng" nhất của hệ tư tưởng. Stalin luôn luôn bảo vệ hệ tư tưởng với tinh thần cảnh giác cao, nhưng đấy chỉ là phương tiện của quyền lực, phương tiện củng cố nước Nga và uy tín của mình mà thôi. Dĩ nhiên là vì vậy mà các viên chức quan liêu, những kẻ tự coi họ là nước Nga và nhân dân Nga, đến tận hôm nay, vẫn còn tiếp tục bài ca muôn thuở rằng mặc dù có những "sai lầm" nhưng Stalin đã "có nhiều công trạng đối với nước Nga". Cũng dễ hiểu là dưới thời Stalin, dối trá và bạo lực đã được đưa vào hàng những nguyên lí cao cả nhất… Có thể chính Stalin cũng cho rằng dối trá và bạo lực chính là sự phủ định mang tính biện chứng, nhờ đó, nước Nga và toàn thể loài người cuối cùng sẽ đi đến chân lí tuyệt đối, hạnh phúc tuyệt đối?
Stalin đã đưa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản đến những giới hạn cuối cùng, từ đây, tư tưởng ấy và xã hội "của nó" bắt đầu quá trình thoái hoá. Ông ta còn chưa kịp tiêu diệt hết những kẻ thù trong nước để có thể tuyên bố rằng đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, chiến tranh còn chưa chấm dứt thì ở Liên Xô, cũng như trong phong trào cộng sản quốc tế, đã bắt đầu xuất hiện những trào lưu mới. Dù sao chăng nữa, khi Stalin nói đến ý nghĩa quyết định của "tư tưởng", thì ông cũng nói như các nhà chính trị khác: nếu tư tưởng của chúng ta phản ánh được xu hướng vận động của xã hội, nếu chúng ta có thể dùng nó để tuyên truyền sao cho quần chúng biết tự tổ chức một cách phù hợp thì nghĩa là chúng ta đã đi đúng hướng và sẽ chiến thắng.
Stalin có một trí tuệ mẫn tiệp và kiên định hiếm có. Tôi vẫn nhớ là người ta không thể nào nói gì hoặc ngụ ý điều gì trước mặt ông mà ông không nhận ra ngay lập tức. Nếu nhớ thêm rằng ông đã gán cho tư tưởng ý nghĩa như thế nào, mặc dù đối với ông đấy chỉ là phương tiện, thì ta có thể rút ra kết luận rằng chính ông đã nhìn thấy sự bất toàn của chế độ xã hội được xây dựng dưới thời ông. Hiện nay, đã có thể tìm thấy nhiều bằng chứng như thế, đặc biệt là trong các tác phẩm của Svetlana, con gái của ông. Thí dụ, cô viết rằng khi biết người ta đã thành lập ở thành phố Kuibưshev một trường học đặc biệt dành riêng cho con em các cán bộ Đảng sơ tán từ Moskva tới, ông đã kêu lên:
"Ối, chà chà!.. Ối, chà chà, thật là một đẳng cấp thối tha!" .
Chính Trotsky, kẻ thù không đội trời chung với Stalin, cũng khẳng định rằng tại Liên Xô, dưới thời Stalin, đã hình thành đẳng cấp quan liêu. Những cuộc thanh trừng khủng khiếp, hàng triệu người bị bắn, bị giết chỉ khoét sâu thêm sự bất công và đòi hỏi những cuộc đàn áp, những vụ hành hạ và thanh toán mới. Những cuộc thanh trừng và trái tim sắt đá của Stalin đã phá tan chính gia đình ông ta. Cuối cùng, xung quanh ông ta, chỉ còn lại nỗi sợ hãi và sự hoang vắng lạnh lùng: trước khi chết, ông ta đã dán lên các bức tường căn buồng của mình ảnh những đứa trẻ được cắt ra từ những tạp chí, còn cháu ruột mình thì ông ta không thèm nhìn nhận… Đây có thể là một bài học quan trọng cho những kẻ đầu óc giáo điều, những kẻ đặt "tất yếu của lịch sử" lên trên cuộc sống của con người, lên trên khát vọng của con người. Vì vậy, Stalin là một trong những người chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử nhưng trên thực tế, lại là một cá nhân đã thua một trong những trận chiến tàn khốc nhất. Sau ông ta, không còn một giá trị vĩnh hằng, hiển nhiên nào có thể tồn tại được nữa. Chiến thắng của ông ta đã biến thành sự thất bại, cả trên bình diện cá nhân lẫn bình diện tư tưởng.
Stalin là người như thế nào? Tại sao lại có thể diễn ra những việc như thế?
Ở Stalin ta có thể tìm thấy những nét tính cách của tất cả những hôn quân bạo chúa trước ông như Neron, Caligula cho đến Ivan Bạo chúa, Robespierre và Hitler. Nhưng cũng như tất cả những người kia, Stalin là hiện tượng mới và độc đáo. Ông ta là người lão luyện nhất và cũng thành công nhất. Và mặc dù sự bạo ngược của ông ta mang tính toàn diện nhất và phản phúc nhất nhưng tôi cho rằng coi ông ta là một kẻ bạo ngược hoặc một tên tội phạm chẳng những là một sự đơn giản hoá mà còn là một sai lầm. Trong cuốn tiểu sử Stalin, Trotsky kể ông ta thích quan sát cảnh giết súc vật, còn Khrushchev thì nói rằng "những năm cuối đời, ông ta bị ám ảnh bởi cảm giác bị săn đuổi". Tôi không nắm được các dữ kiện để có thể khẳng định hay bác bỏ những thông tin trên. Căn cứ vào những điều đã biết, có thể nói, Stalin thích thú với việc ra lệnh tử hình những người chống đối mình. Tôi còn nhớ như in những biểu hiện bất ngờ xuất hiện trên nét mặt Stalin trong buổi thảo luận của đoàn đại biểu Bulgaria và Nam Tư với Stalin và các cộng sự của ông ta ngày 10 tháng 2 năm 1948 ở Điện Kremli: đấy là một sự khoái cảm lạnh lùng và đen tối khi nhìn thấy các nạn nhân mà số phận đã bị định đoạt rồi. Tôi cũng đã từng thấy những biểu hiện như thế ở những nhà chính trị khác vào lúc họ đã "bẻ gãy kiếm" của những người đồng chí và chiến hữu "lầm lạc". Nhưng tất cả những điều đó, dù chúng có phù hợp với thực tế, cũng chưa đủ để nói rằng Stalin là một hiện tượng đặc biệt. Các tài liệu rất đáng ngờ do tờ Life công bố mấy năm trước, cho rằng Stalin là chỉ điểm của cảnh sát Sa hoàng, cũng như lời khẳng định của một nhà sử học Mỹ rằng Stalin đã không tiết lộ danh tính của chính mình, báo cho cảnh sát Sa hoàng tên tuổi những đảng viên melshevik hoặc những nhà hoạt động chính trị không phải bolshevik khác khiến cho những nhân vật này bắt giam.,cũng không giúp làm rõ được bản chất con người Stalin.
Stalin là hiện tượng cực kì phức tạp, có quan hệ không chỉ với phong trào cộng sản mà với cả sức mạnh bên trong và bên ngoài của nhà nước Liên Xô lúc đó. Ở đây nảy sinh những vấn đề như quan hệ giữa tư tưởng và con người, quan hệ giữa lãnh tụ và phong trào, vai trò của bạo lực trong xã hội, ý nghĩa của những huyền thoại trong đời sống con người, điều kiện để con người và các dân tộc xích gần lại gần nhau. Stalin đã thuộc về quá khứ, còn việc thảo luận về những vấn đề nêu trên chỉ mới bắt đầu trong thời gian gần đây mà thôi.
Xin nói thêm, theo tôi, Stalin là một người năng động, hăng say, bồng bột nhưng cũng rất có tổ chức và tự kiềm chế. Nếu không thế, liệu ông có thể chỉ huy một nhà nước hiện đại to lớn đến như thế và có thể lãnh đạo những chiến dịch phức tạp và khủng khiếp như thế hay không?
Vì vậy, tôi nghĩ rằng những khái niệm như tên tội phạm, thằng điên và những điều tương tự khác chỉ là những khái niệm hão huyền và có ít ý nghĩa khi tranh luận về một chính khách nào đó. Cũng cần tránh sai lầm sau: trong đời sống thực tế, không thể có một nền chính trị hoàn toàn thoát khỏi được cái gọi là những dục vọng và động cơ thấp hèn. Chính trị là toàn bộ các hoài bão của con người, nó cũng không thể thoát khỏi được những phần tử tội phạm và điên rồ. Vì vậy, thật khó, nếu không nói là không thể, xác định được ranh giới giữa tội ác và bạo lực chính trị. Mỗi khi xuất hiện một hôn quân bạo chúa mới là các nhà tư tưởng lại buộc phải tiến hành những cuộc nghiên cứu, phân tích và rút ra những khái quát mới.
Nhưng nếu ta nhận rằng ranh giới này nằm giữa lí trí và tình cảm, giữa chủ quan và tất yếu thì Stalin là một trong những kẻ cưỡng bức lịch sử tàn bạo nhất, ngay cả khi ta không coi ông ta là một kẻ tội đồ và một người điên. Vì ngay cả khi cho rằng, thí dụ, tập thể hoá là cần thiết trong những điều kiện nào đó, thì rõ ràng là vẫn có thể thực hiện việc ấy mà không cần giết nhiều "địa chủ" đến như vậy. Thế mà hiện nay, vẫn có những kẻ giáo điều phản đối rằng: Stalin say sưa với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc Trotsky kết án ông ta là cơ hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng, đất nước bị đe doạ bởi hoạ phát xít xâm lăng và chúng có thể được "kẻ thù giai cấp" ủng hộ. Nhưng họ sẽ nói gì về những phiên toà bịa đặt và những vụ thanh trừng đẫm máu chống lại phong trào "đối lập" trong đảng, một phong trào không hề đe doạ gì sự tồn vong của chế độ ? Ngược lại, sự yếu đuối và tình trạng lúng túng của phong trào này lại có nguồn gốc từ chính sự trung thành một cách giáo điều đối với hệ tư tưởng của chế độ và với chính chế độ đó.
Sự đàn áp của Stalin không chỉ giới hạn trong các cuộc thanh trừng, nhưng thanh trừng là đặc điểm cơ bản của nó. Tất cả những người đối lập trong đảng đều ủng hộ, tuy mức độ có khác nhau, việc đàn áp "địa chủ" và những "kẻ thù giai cấp" khác. Tất cả bọn họ đều tự tròng lên cổ cái ách của hệ tư tưởng, mục đích của họ và của Stalin là một. Khi lên án Stalin là ông ta không làm một việc gì cụ thể cả thì chính Bukharin lại ảo tưởng rằng ông ta đang nghiên cứu kinh tế học và triết học. Tất cả bọn họ đều thiếu một tầm nhìn, một lí tưởng mới. Tất cả bọn họ đều bị bất ngờ trước các vụ thanh trừng của Stalin. Stalin đã nổi lên nhờ những vụ thanh trừng, nhờ những vụ thanh trừng mà ông ta đã trở thành người như chúng ta đã thấy, ông ta đã đặt nền móng cho sự nghiệp của mình như thế đấy.
Bằng những vụ thanh trừng rộng khắp và dã man trong những năm ba mươi, Stalin đã tạo ra sự đồng nhất giữa tư tưởng và quyền lực của chính mình, đã đồng nhất giữa nhà nước với cá nhân mình. Không thể nào khác được, đấy là kết quả của cái thế giới với những chân lí không thể tranh cãi và niềm tin vào một xã hội hoản hảo phi giai cấp. Mục đích đã biện minh cho phương tiện. Sự nghiệp của Stalin là sự nghiệp phi đạo đức và vì vậy, cũng không thể có nền tảng vững chắc. Đấy chính là bí ẩn của con người ông ta, đấy cũng là giá trị thật của sự nghiệp của ông ta.
hết: 4., xem tiếp: 5. Con người Stalin
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
4.
Ngay sau khi Lenin mất được ba tháng, Stalin đã đưa ra tác phẩm viết về "chủ nghĩa Lenin" (trong bài giảng "Về những nguyên lí của chủ nghĩa Lenin" vào tháng 4 năm 1924). Đây là sự thô thiển hoá nhưng đồng thời cũng là sự xác lập một giáo điều, giống như Engels đã hệ thống hoá một cách giáo điều tư tưởng của Marx trong tác phẩm Chống Dühring. Dĩ nhiên là Stalin làm việc đó một cách vội vã hay vô tình. Từ lâu, ông ta đã hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa Lenin và biến nó thành ngọn cờ của mình. Các quan điểm và hành động của ông đã giữ thế thượng phong ở Liên Xô và các phong trào cộng sản quốc tế. Đối với ông ta, một loạt chiến thắng vừa giành được chính là điều "khẳng định" tính ưu việt của các phương châm "của chúng ta", thực ra là của chính ông.
Tôi nghĩ rằng chính vì thế mà trong mắt ông ta, học thuyết của Marx đã mất dần ý nghĩa, mặc dù ông vẫn trung thành với bản chất của nó, nghĩa là vẫn trung thành với chủ nghĩa duy vật, như là "cơ sở" để nghiên cứu thế giới và xây dựng xã hội lí tưởng, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Những cơn thịnh nộ bất ngờ và tàn bạo đối với địch thủ không làm cho ông mất khả năng nghiên cứu một vấn đề hay nghiên cứu đối thủ một cách thận trọng và tỉnh táo, trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Ông đã tiếp cận với các hệ tư tưởng cũng theo cách như thế: có thể ông đã nhận ra những khiếm khuyết của Marx và Engels ngay từ khi trình bày "chủ nghĩa Lenin", nghĩa là ngay sau khi Lenin mất. Cuộc chiến tranh chống phát xít có thể là giai đoạn bước ngoặt: cuộc tấn công của dân tộc đã sinh ra Marx và Engels vào đất nước duy nhất mà tư tưởng của họ đã giành được thắng lợi hoàn toàn chắc chắn phải làm Stalin choáng váng.
Stalin đã làm cho hoạt động của phong trào cộng sản quốc tế phụ thuộc vào Đảng cộng sản Liên Xô. Chiến tranh và kết quả của nó dường như càng khẳng định một điều rằng chính quyền cộng sản chỉ có thể tồn tại ở những vùng ảnh hưởng của nhà nước Liên Xô mà thôi. Ông đã tạo ra bộ máy quan liêu chính trị và khuyến khích chủ nghĩa dân tộc Nga và cho rằng chỉ có làm như thế mới có thể bảo tồn được cuộc cách mạng Nga và chủ nghĩa cộng sản. Ông bắt đầu phủ nhận ý nghĩa của học thuyết của von Clausewitz, một lí thuyết gia quân sự nổi tiếng, ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc, mặc dù Lenin đánh giá rất cao ông này. Stalin làm như thế không phải vì đã có một lí thuyết gia tốt hơn mà chỉ vì von Clausewitz là người Đức, đại diện của một dân tộc mà quân đội của họ vừa bị Hồng quân đánh tan trong một cuộc chiến tranh có thể là vĩ đại nhất trong lịch sử của nước Nga.
Dĩ nhiên là Stalin không bao giờ phát biểu công khai thái độ của mình về Marx và Engels. Điều đó sẽ làm cho những kẻ trung thành hoang mang, sự nghiệp và quyền lực của ông có thể bị đe doạ. Ông nhận thức rõ rằng ông đã chiến thắng vì ông là người phát triển một cách kiên định nhất các hình thức tổ chức, có thể kết hợp lí luận và hành động, nhận thức với thực tiễn.
Stalin chẳng hề bận tâm liệu ông ta có xuyên tạc một nguyên lí nào đó của chủ nghĩa Marx hay không. Chẳng phải chính những nhà mác-xít vĩ đại, mà trước hết là Lenin, từng nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Marx là "kim chỉ nam cho hành động" chứ không phải là một tập hợp các giáo lí và thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí đấy ư?
Nhưng vấn đề ở đây vừa rộng, vừa phức tạp hơn nhiều. Mọi chế độ, đặc biệt là chế độ chuyên chế, đều cố gắng đạt đến tình trạng ổn định. Học thuyết mác-xít, vốn đã mang tính giáo điều, không thể không đông cứng trong tình trạng giáo điều một khi nó được tuyên xưng là hệ tư tưởng chính thống, hệ tư tưởng của quốc gia và và của toàn xã hội. Vì nhà nước và tầng lớp cầm quyền sẽ tan rã nếu họ thay đổi diện mạo mỗi ngày, chưa nói đến thay đổi lí tưởng. Họ phải sống, trong khi tranh đấu và lao động, họ phải thích nghi với hoàn cảnh cả trong nước và quốc tế đang thay đổi từng ngày. Điều đó buộc các lãnh tụ phải "xa rời" lí tưởng, nhưng phải làm sao vẫn giữ được, và nếu có điều kiện thì thổi phồng thêm vai trò của mình trước mắt các đồ đệ và toàn thể nhân dân. Tính hoàn chỉnh, nghĩa là "tính khoa học" của chủ nghĩa Marx, việc bế quan toả cảng của xã hội và tính toàn triệt của chính quyền đã buộc Stalin phải tiêu diệt một cách không khoan nhượng tất cả những kẻ dị giáo về tư tưởng bằng những biện pháp dã man nhất, còn cuộc sống đã buộc ông ta phải "phản bội", tức là thay đổi những nguyên lí "thiêng liêng" nhất của hệ tư tưởng. Stalin luôn luôn bảo vệ hệ tư tưởng với tinh thần cảnh giác cao, nhưng đấy chỉ là phương tiện của quyền lực, phương tiện củng cố nước Nga và uy tín của mình mà thôi. Dĩ nhiên là vì vậy mà các viên chức quan liêu, những kẻ tự coi họ là nước Nga và nhân dân Nga, đến tận hôm nay, vẫn còn tiếp tục bài ca muôn thuở rằng mặc dù có những "sai lầm" nhưng Stalin đã "có nhiều công trạng đối với nước Nga". Cũng dễ hiểu là dưới thời Stalin, dối trá và bạo lực đã được đưa vào hàng những nguyên lí cao cả nhất… Có thể chính Stalin cũng cho rằng dối trá và bạo lực chính là sự phủ định mang tính biện chứng, nhờ đó, nước Nga và toàn thể loài người cuối cùng sẽ đi đến chân lí tuyệt đối, hạnh phúc tuyệt đối?
Stalin đã đưa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản đến những giới hạn cuối cùng, từ đây, tư tưởng ấy và xã hội "của nó" bắt đầu quá trình thoái hoá. Ông ta còn chưa kịp tiêu diệt hết những kẻ thù trong nước để có thể tuyên bố rằng đã xây dựng xong chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, chiến tranh còn chưa chấm dứt thì ở Liên Xô, cũng như trong phong trào cộng sản quốc tế, đã bắt đầu xuất hiện những trào lưu mới. Dù sao chăng nữa, khi Stalin nói đến ý nghĩa quyết định của "tư tưởng", thì ông cũng nói như các nhà chính trị khác: nếu tư tưởng của chúng ta phản ánh được xu hướng vận động của xã hội, nếu chúng ta có thể dùng nó để tuyên truyền sao cho quần chúng biết tự tổ chức một cách phù hợp thì nghĩa là chúng ta đã đi đúng hướng và sẽ chiến thắng.
Stalin có một trí tuệ mẫn tiệp và kiên định hiếm có. Tôi vẫn nhớ là người ta không thể nào nói gì hoặc ngụ ý điều gì trước mặt ông mà ông không nhận ra ngay lập tức. Nếu nhớ thêm rằng ông đã gán cho tư tưởng ý nghĩa như thế nào, mặc dù đối với ông đấy chỉ là phương tiện, thì ta có thể rút ra kết luận rằng chính ông đã nhìn thấy sự bất toàn của chế độ xã hội được xây dựng dưới thời ông. Hiện nay, đã có thể tìm thấy nhiều bằng chứng như thế, đặc biệt là trong các tác phẩm của Svetlana, con gái của ông. Thí dụ, cô viết rằng khi biết người ta đã thành lập ở thành phố Kuibưshev một trường học đặc biệt dành riêng cho con em các cán bộ Đảng sơ tán từ Moskva tới, ông đã kêu lên:
"Ối, chà chà!.. Ối, chà chà, thật là một đẳng cấp thối tha!" .
Chính Trotsky, kẻ thù không đội trời chung với Stalin, cũng khẳng định rằng tại Liên Xô, dưới thời Stalin, đã hình thành đẳng cấp quan liêu. Những cuộc thanh trừng khủng khiếp, hàng triệu người bị bắn, bị giết chỉ khoét sâu thêm sự bất công và đòi hỏi những cuộc đàn áp, những vụ hành hạ và thanh toán mới. Những cuộc thanh trừng và trái tim sắt đá của Stalin đã phá tan chính gia đình ông ta. Cuối cùng, xung quanh ông ta, chỉ còn lại nỗi sợ hãi và sự hoang vắng lạnh lùng: trước khi chết, ông ta đã dán lên các bức tường căn buồng của mình ảnh những đứa trẻ được cắt ra từ những tạp chí, còn cháu ruột mình thì ông ta không thèm nhìn nhận… Đây có thể là một bài học quan trọng cho những kẻ đầu óc giáo điều, những kẻ đặt "tất yếu của lịch sử" lên trên cuộc sống của con người, lên trên khát vọng của con người. Vì vậy, Stalin là một trong những người chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử nhưng trên thực tế, lại là một cá nhân đã thua một trong những trận chiến tàn khốc nhất. Sau ông ta, không còn một giá trị vĩnh hằng, hiển nhiên nào có thể tồn tại được nữa. Chiến thắng của ông ta đã biến thành sự thất bại, cả trên bình diện cá nhân lẫn bình diện tư tưởng.
Stalin là người như thế nào? Tại sao lại có thể diễn ra những việc như thế?
Ở Stalin ta có thể tìm thấy những nét tính cách của tất cả những hôn quân bạo chúa trước ông như Neron, Caligula cho đến Ivan Bạo chúa, Robespierre và Hitler. Nhưng cũng như tất cả những người kia, Stalin là hiện tượng mới và độc đáo. Ông ta là người lão luyện nhất và cũng thành công nhất. Và mặc dù sự bạo ngược của ông ta mang tính toàn diện nhất và phản phúc nhất nhưng tôi cho rằng coi ông ta là một kẻ bạo ngược hoặc một tên tội phạm chẳng những là một sự đơn giản hoá mà còn là một sai lầm. Trong cuốn tiểu sử Stalin, Trotsky kể ông ta thích quan sát cảnh giết súc vật, còn Khrushchev thì nói rằng "những năm cuối đời, ông ta bị ám ảnh bởi cảm giác bị săn đuổi". Tôi không nắm được các dữ kiện để có thể khẳng định hay bác bỏ những thông tin trên. Căn cứ vào những điều đã biết, có thể nói, Stalin thích thú với việc ra lệnh tử hình những người chống đối mình. Tôi còn nhớ như in những biểu hiện bất ngờ xuất hiện trên nét mặt Stalin trong buổi thảo luận của đoàn đại biểu Bulgaria và Nam Tư với Stalin và các cộng sự của ông ta ngày 10 tháng 2 năm 1948 ở Điện Kremli: đấy là một sự khoái cảm lạnh lùng và đen tối khi nhìn thấy các nạn nhân mà số phận đã bị định đoạt rồi. Tôi cũng đã từng thấy những biểu hiện như thế ở những nhà chính trị khác vào lúc họ đã "bẻ gãy kiếm" của những người đồng chí và chiến hữu "lầm lạc". Nhưng tất cả những điều đó, dù chúng có phù hợp với thực tế, cũng chưa đủ để nói rằng Stalin là một hiện tượng đặc biệt. Các tài liệu rất đáng ngờ do tờ Life công bố mấy năm trước, cho rằng Stalin là chỉ điểm của cảnh sát Sa hoàng, cũng như lời khẳng định của một nhà sử học Mỹ rằng Stalin đã không tiết lộ danh tính của chính mình, báo cho cảnh sát Sa hoàng tên tuổi những đảng viên melshevik hoặc những nhà hoạt động chính trị không phải bolshevik khác khiến cho những nhân vật này bắt giam.,cũng không giúp làm rõ được bản chất con người Stalin.
Stalin là hiện tượng cực kì phức tạp, có quan hệ không chỉ với phong trào cộng sản mà với cả sức mạnh bên trong và bên ngoài của nhà nước Liên Xô lúc đó. Ở đây nảy sinh những vấn đề như quan hệ giữa tư tưởng và con người, quan hệ giữa lãnh tụ và phong trào, vai trò của bạo lực trong xã hội, ý nghĩa của những huyền thoại trong đời sống con người, điều kiện để con người và các dân tộc xích gần lại gần nhau. Stalin đã thuộc về quá khứ, còn việc thảo luận về những vấn đề nêu trên chỉ mới bắt đầu trong thời gian gần đây mà thôi.
Xin nói thêm, theo tôi, Stalin là một người năng động, hăng say, bồng bột nhưng cũng rất có tổ chức và tự kiềm chế. Nếu không thế, liệu ông có thể chỉ huy một nhà nước hiện đại to lớn đến như thế và có thể lãnh đạo những chiến dịch phức tạp và khủng khiếp như thế hay không?
Vì vậy, tôi nghĩ rằng những khái niệm như tên tội phạm, thằng điên và những điều tương tự khác chỉ là những khái niệm hão huyền và có ít ý nghĩa khi tranh luận về một chính khách nào đó. Cũng cần tránh sai lầm sau: trong đời sống thực tế, không thể có một nền chính trị hoàn toàn thoát khỏi được cái gọi là những dục vọng và động cơ thấp hèn. Chính trị là toàn bộ các hoài bão của con người, nó cũng không thể thoát khỏi được những phần tử tội phạm và điên rồ. Vì vậy, thật khó, nếu không nói là không thể, xác định được ranh giới giữa tội ác và bạo lực chính trị. Mỗi khi xuất hiện một hôn quân bạo chúa mới là các nhà tư tưởng lại buộc phải tiến hành những cuộc nghiên cứu, phân tích và rút ra những khái quát mới.
Nhưng nếu ta nhận rằng ranh giới này nằm giữa lí trí và tình cảm, giữa chủ quan và tất yếu thì Stalin là một trong những kẻ cưỡng bức lịch sử tàn bạo nhất, ngay cả khi ta không coi ông ta là một kẻ tội đồ và một người điên. Vì ngay cả khi cho rằng, thí dụ, tập thể hoá là cần thiết trong những điều kiện nào đó, thì rõ ràng là vẫn có thể thực hiện việc ấy mà không cần giết nhiều "địa chủ" đến như vậy. Thế mà hiện nay, vẫn có những kẻ giáo điều phản đối rằng: Stalin say sưa với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc Trotsky kết án ông ta là cơ hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng, đất nước bị đe doạ bởi hoạ phát xít xâm lăng và chúng có thể được "kẻ thù giai cấp" ủng hộ. Nhưng họ sẽ nói gì về những phiên toà bịa đặt và những vụ thanh trừng đẫm máu chống lại phong trào "đối lập" trong đảng, một phong trào không hề đe doạ gì sự tồn vong của chế độ ? Ngược lại, sự yếu đuối và tình trạng lúng túng của phong trào này lại có nguồn gốc từ chính sự trung thành một cách giáo điều đối với hệ tư tưởng của chế độ và với chính chế độ đó.
Sự đàn áp của Stalin không chỉ giới hạn trong các cuộc thanh trừng, nhưng thanh trừng là đặc điểm cơ bản của nó. Tất cả những người đối lập trong đảng đều ủng hộ, tuy mức độ có khác nhau, việc đàn áp "địa chủ" và những "kẻ thù giai cấp" khác. Tất cả bọn họ đều tự tròng lên cổ cái ách của hệ tư tưởng, mục đích của họ và của Stalin là một. Khi lên án Stalin là ông ta không làm một việc gì cụ thể cả thì chính Bukharin lại ảo tưởng rằng ông ta đang nghiên cứu kinh tế học và triết học. Tất cả bọn họ đều thiếu một tầm nhìn, một lí tưởng mới. Tất cả bọn họ đều bị bất ngờ trước các vụ thanh trừng của Stalin. Stalin đã nổi lên nhờ những vụ thanh trừng, nhờ những vụ thanh trừng mà ông ta đã trở thành người như chúng ta đã thấy, ông ta đã đặt nền móng cho sự nghiệp của mình như thế đấy.
Bằng những vụ thanh trừng rộng khắp và dã man trong những năm ba mươi, Stalin đã tạo ra sự đồng nhất giữa tư tưởng và quyền lực của chính mình, đã đồng nhất giữa nhà nước với cá nhân mình. Không thể nào khác được, đấy là kết quả của cái thế giới với những chân lí không thể tranh cãi và niềm tin vào một xã hội hoản hảo phi giai cấp. Mục đích đã biện minh cho phương tiện. Sự nghiệp của Stalin là sự nghiệp phi đạo đức và vì vậy, cũng không thể có nền tảng vững chắc. Đấy chính là bí ẩn của con người ông ta, đấy cũng là giá trị thật của sự nghiệp của ông ta.
hết: 4., xem tiếp: 5. Con người Stalin
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 26
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
3.
Tất cả những đảng viên đối lập với Stalin, dù ít dù nhiều, đều hoạt động một cách thiếu thực tế. Trotsky thì bị ám ảnh bởi cuộc cách mạng, mà nhất định phải là cách mạng thế giới mới nghe. Bukharin thì chỉ nghĩ đến kinh tế, cơ sở của tất cả mọi thứ trên thế gian này. Họ nuối tiếc "tình đồng chí" của một thời quá vãng và tiếp tục thiết kế tương lai "lí tưởng". Trong khi đó, Stalin, đi theo Lenin, dần dần hiểu ra rằng nếu không thay đổi ý nghĩa và vai trò của Đảng thì sẽ không thể nào bảo vệ được chế độ mới. Trong giai đoạn cách mạng, Đảng giữ thế thượng phong so với chính quyền. Sự thay đổi đã diễn ra theo đúng lí luận của Lenin, nhà nước là công cụ đàn áp của giai cấp này đối với giai cấp khác, bây giờ, chính quyền, nghĩa là cảnh sát mật và các cơ quan của nó, đã giành được thế thượng phong.
Tất nhiên, mọi sự đều diễn ra một cách chậm chạp, bề ngoài "Đảng vẫn giữ vai trò chủ đạo", nghĩa là diễn ra dưới những khẩu hiệu và nhận thức tư tưởng cũ. Nếu ta nhớ rằng chính quyền bao giờ cũng mang trong mình nó đặc quyền đặc lợi và "vai trò trong lịch sử" thì ra sẽ thấy rằng ngay từ khi Đảng vừa giành được chính quyền đã xuất hiện những kẻ tham quyền cố vị: không phải Stalin phát minh ra bộ máy quan liêu Đảng trị mà chính bộ máy này đã phát hiện ra ông, người có đủ bản lĩnh để làm lãnh tụ cho nó.
Chính vì hiểu rõ được thực tế lúc đó và triển vọng phát triển của tình hình nên Stalin đã gây được bất ngờ và đánh bại các đối thủ. Lòng trung thành của họ đối với Đảng đã trở thành sở đoản, còn đối với Stalin lại là phương tiện chủ yếu: "việc giải giáp hoàn toàn vũ khí" trước Đảng phải được khẳng định bằng những lời thú nhận tội lỗi kinh tởm nhất như phản bội, phá hoại, giết người. Hiện nay, người ta đã biết rằng các huấn luyện viên Liên Xô tại các phiên toà xét xử Slansky ở Tiệp Khắc và Rajk ở Hungaria, và có thể cả những vụ khác, đã chia sẻ kinh nghiệm cho đàn em ở các nước Đông Âu cả "kinh nghiệm tư tưởng" này. Tất nhiên, không thể làm việc này mà không có các phòng tra tấn và những tên đao phủ, giống như các phiên toà thời trung cổ xét xử những kẻ ngoại đạo và phù thuỷ, chỉ có phương tiện và lí do là mới mà thôi.
Stalin không tiêu diệt Đảng; ông ta chỉ cải tạo nó, "làm trong sạch nó" và biến nó thành công cụ của những điều kiện thực tiễn. Giống như viên đại pháp quan trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov, Stalin hiểu rằng muốn cứu thể chế, cứu chế độ Xô viết và các tổ chức cộng sản thì phải giết Chúa, nghĩa là giết tình đồng chí và làm cho Đảng không còn là tổ chức của những người bình đẳng, bình quyền nữa. Không chỉ bộ máy chính trị quan liêu mà hầu hết những người cộng sản toàn thế giới đã ngoan ngoãn đi theo ông ta vì hoàn cảnh đã buộc họ phải gắn kết sự tồn tại của mình với nhà nước Liên Xô, đồng nhất mình với nhà nước đó… Làm sao có thể giải thích khác được khi ta thấy những đầu óc thông tuệ như Toliatty hay những nhân vật anh hùng như Dimitrov không những "không nhận ra" sự lừa dối vụng về của Stalin mà còn nghiêng mình trước những vụ đàn áp tàn bạo của ông ta?
Các "chiến công" không chỉ nâng cao uy tín của Stalin mà chính ông ta cũng đã say men của nó: quyền lực, tư tưởng và Stalin đã hoà làm một… Dường như tinh thần tuyệt đối của Hegel, khi biến thành hiện thực, đã tìm được hai khuôn mặt của chính mình: duy vật - thần bí ở Stalin và thần bí - trực giác ở Hitler.
hết: 3., xem tiếp: 4.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
3.
Tất cả những đảng viên đối lập với Stalin, dù ít dù nhiều, đều hoạt động một cách thiếu thực tế. Trotsky thì bị ám ảnh bởi cuộc cách mạng, mà nhất định phải là cách mạng thế giới mới nghe. Bukharin thì chỉ nghĩ đến kinh tế, cơ sở của tất cả mọi thứ trên thế gian này. Họ nuối tiếc "tình đồng chí" của một thời quá vãng và tiếp tục thiết kế tương lai "lí tưởng". Trong khi đó, Stalin, đi theo Lenin, dần dần hiểu ra rằng nếu không thay đổi ý nghĩa và vai trò của Đảng thì sẽ không thể nào bảo vệ được chế độ mới. Trong giai đoạn cách mạng, Đảng giữ thế thượng phong so với chính quyền. Sự thay đổi đã diễn ra theo đúng lí luận của Lenin, nhà nước là công cụ đàn áp của giai cấp này đối với giai cấp khác, bây giờ, chính quyền, nghĩa là cảnh sát mật và các cơ quan của nó, đã giành được thế thượng phong.
Tất nhiên, mọi sự đều diễn ra một cách chậm chạp, bề ngoài "Đảng vẫn giữ vai trò chủ đạo", nghĩa là diễn ra dưới những khẩu hiệu và nhận thức tư tưởng cũ. Nếu ta nhớ rằng chính quyền bao giờ cũng mang trong mình nó đặc quyền đặc lợi và "vai trò trong lịch sử" thì ra sẽ thấy rằng ngay từ khi Đảng vừa giành được chính quyền đã xuất hiện những kẻ tham quyền cố vị: không phải Stalin phát minh ra bộ máy quan liêu Đảng trị mà chính bộ máy này đã phát hiện ra ông, người có đủ bản lĩnh để làm lãnh tụ cho nó.
Chính vì hiểu rõ được thực tế lúc đó và triển vọng phát triển của tình hình nên Stalin đã gây được bất ngờ và đánh bại các đối thủ. Lòng trung thành của họ đối với Đảng đã trở thành sở đoản, còn đối với Stalin lại là phương tiện chủ yếu: "việc giải giáp hoàn toàn vũ khí" trước Đảng phải được khẳng định bằng những lời thú nhận tội lỗi kinh tởm nhất như phản bội, phá hoại, giết người. Hiện nay, người ta đã biết rằng các huấn luyện viên Liên Xô tại các phiên toà xét xử Slansky ở Tiệp Khắc và Rajk ở Hungaria, và có thể cả những vụ khác, đã chia sẻ kinh nghiệm cho đàn em ở các nước Đông Âu cả "kinh nghiệm tư tưởng" này. Tất nhiên, không thể làm việc này mà không có các phòng tra tấn và những tên đao phủ, giống như các phiên toà thời trung cổ xét xử những kẻ ngoại đạo và phù thuỷ, chỉ có phương tiện và lí do là mới mà thôi.
Stalin không tiêu diệt Đảng; ông ta chỉ cải tạo nó, "làm trong sạch nó" và biến nó thành công cụ của những điều kiện thực tiễn. Giống như viên đại pháp quan trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov, Stalin hiểu rằng muốn cứu thể chế, cứu chế độ Xô viết và các tổ chức cộng sản thì phải giết Chúa, nghĩa là giết tình đồng chí và làm cho Đảng không còn là tổ chức của những người bình đẳng, bình quyền nữa. Không chỉ bộ máy chính trị quan liêu mà hầu hết những người cộng sản toàn thế giới đã ngoan ngoãn đi theo ông ta vì hoàn cảnh đã buộc họ phải gắn kết sự tồn tại của mình với nhà nước Liên Xô, đồng nhất mình với nhà nước đó… Làm sao có thể giải thích khác được khi ta thấy những đầu óc thông tuệ như Toliatty hay những nhân vật anh hùng như Dimitrov không những "không nhận ra" sự lừa dối vụng về của Stalin mà còn nghiêng mình trước những vụ đàn áp tàn bạo của ông ta?
Các "chiến công" không chỉ nâng cao uy tín của Stalin mà chính ông ta cũng đã say men của nó: quyền lực, tư tưởng và Stalin đã hoà làm một… Dường như tinh thần tuyệt đối của Hegel, khi biến thành hiện thực, đã tìm được hai khuôn mặt của chính mình: duy vật - thần bí ở Stalin và thần bí - trực giác ở Hitler.
hết: 3., xem tiếp: 4.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 25
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
2.
Trên đây, khi bàn về giá trị của Stalin, tôi đã trình bày những gì tôi cho là quan trọng nhất.
Nhưng tôi cho rằng mọi cuộc tranh luận xem ai là người kế tục của ai và kế tục đến mức độ nào đều là những cuộc tranh luận hời hợt và không có ý nghĩa. Người kế tục nhất quán và trung thành nhất chỉ có thể là kẻ không có tài quan sát và không có sức sáng tạo. Ở đây ta đang nói về chính trị, nơi mà huyền thoại là hiện tượng bình thường và luôn luôn hiện diện, trong trường hợp cụ thể này là bàn về việc bác bỏ quan điểm giáo điều, mị dân đối với di sản của Lenin. Vì chỉ căn cứ trên những lời trích dẫn thì ta có thể chứng minh tất cả những người có thể kế tục sự nghiệp của Lenin đều trung thành với ông và cũng đều không trung thành với ông. Chúng ta chỉ có thể tiệm cận với chân lí bằng cách so sánh những khát vọng của Lenin với những điều Stalin đã làm và những điều mà những người chống đối Stalin định làm.
Chúng ta cũng không thể không phân tích cái gọi là di chúc của Lenin vì nó đã và sẽ còn đóng vai trò quan trọng không chỉ trong các cuộc thảo luận mang tính giáo điều mà đặc biệt là trong các cuộc thảo luận mang tính bài Xô nữa.
"Di chúc" của Lenin thực ra là một bức thư do ông đọc sau khi bị đột quị dẫn đến liệt chân phải và tay phải vào đêm ngày 22 tháng 12 năm 1922. Ngày hôm sau, 23 tháng 12, bác sĩ cho phép ông đọc bốn phút mỗi ngày, ông tiếp tục đọc vào ngày 25 và kết thúc vào ngày 26 tháng 12 năm đó.
Một phần bức thư, trong đó, Lenin đề nghị đại hội nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người và ủng hộ Trotsky về vấn đề Kế hoạch nhà nước, đã được chuyển ngay cho Stalin vì lúc đó, Stalin là Tổng bí thư của Đảng. Có lẽ Stalin ngờ rằng Lenin đang xích gần lại với Trotsky nên đã gọi điện và mắng mỏ vợ Lenin là Krupskaya một cách thậm tệ, lấy cớ rằng bà đã không làm theo khuyến cáo của các bác sĩ, lại còn cho phép thảo luận các vấn đề chính trị, đe doạ tính mạng của đồng chí Lenin. Không biết Krupskaya có phàn nàn với Lenin không, chuyện này có thể đã xảy ra: thư ghi ngày 25 tháng 12 có đoạn: "Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn" , và sau đó 10 ngày, ngày 4 tháng giêng năm 1923 đã có thêm nhận xét sau:
"Stalin là người quá thô lỗ, nhược điểm này có thể chấp nhận được trong môi trường và giao tiếp giữa những người cộng sản chúng ta, sẽ trở thành không chấp nhận được trong chức vụ Tổng bí thư. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí nghĩ cách đưa Stalin khỏi vị trí đó và cử người khác lên thay, người này về mọi mặt chỉ cần trội hơn Stalin ở một điểm (tôi nghĩ đoạn này nên được viết như sau: "không khác gì Stalin ngoài việc trội hơn một điểm" – M. Dj.), mà cụ thể là khoan dung hơn, trung thành hơn, nhã nhặn và chu đáo hơn đối với đồng chí, ít thất thường hơn v.v. Điều này có thể được coi là nhỏ nhặt không đáng kể. Nhưng tôi nghĩ rằng để tránh việc chia rẽ và từ quan điểm tôi đã viết về quan hệ giữa Stalin và Trotsky ở trên thì đây không phải là nhỏ nhặt hay điều nhỏ nhặt này có thể có ý ngĩa quyết định"
Điều đập ngay vào mắt là "di chúc" thiếu sự sắc sảo và chính xác vốn có của Lenin: nó vừa không dứt khoát vừa nước đôi, đặc biệt là ở những chỗ cực kì quan trọng. Rõ ràng là Lenin biết vụ va chạm giữa Stalin và Trotsky và đã dự đoán được ý nghĩa của nó. Nhưng trong lần đọc đầu tiên, ông đã tránh nói thẳng như thế và chỉ đề nghị sửa chữa bằng cách tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người (lúc đó chỉ có 27 người) "… để tăng thêm uy tín cho Ban chấp hành trung ương và để cải thiện công tác của bộ máy của chúng ta và vì… tương lai của Đảng" (có lẽ nên viết: "vì vận mệnh của chính Đảng ta" – M. Dj.)
Thật không thể nào hiểu nổi một người sáng suốt và có kinh nghiệm chính trị như thế, một người đã xoay vần Đảng cho đến khi nó có diện mạo theo đúng ý mình như thế, một người đã từng dẫn dắt cuộc cách mạng vĩ đại nhất và đứng đầu một nhà nước khổng lồ như thế, một người đã nếm trải cảm giác say sưa "với lịch sử" và quyền lực, lại có thể coi việc tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương gần như một mặc khải, một thần dược có thể cứu được "tương lai của Đảng"! Chuyện gì đã xảy ra với Lenin vậy? Chẳng lẽ trí tuệ của ông lại suy giảm đến mức như thế, bởi vì trước đây, ông luôn coi nguyên tắc và lực lượng là vấn đế chủ yếu thì nay lại quay ra coi các con số là có giá trị? Chẳng lẽ ông đã quên phép biện chứng, đã quên tính tất yếu của các mâu thuẫn trong mỗi hiện tượng? Lenin có hiểu bản chất cuộc tranh luận giữa Stalin và Trotsky hay không? Có vẻ như đây là lần đầu tiên Lenin cảm thấy sợ sự tan rã của cái Đảng mà ông đã tạo ra hình thức và chỉ ra mục đích của nó.
Cũng không thể hiểu tại sao trong lần đọc vào ngày 24 tháng 12, Lenin mới nhắc đến Stalin và Trotsky cũng như khả năng xảy ra bất đồng giữa họ với nhau. Dường như đêm đó, ông đã nghĩ lại và đánh bạo thú nhận một việc quan trọng:
"Đảng ta", ông đọc ngày 24 tháng 12, "dựa vào hai giai cấp vì vậy có khả năng xảy ra bất ổn và nhất định dẫn đến suy sụp nếu giữa hai giai cấp này không có sự đồng thuận" .
Chỗ này được trình bày rất không rành mạch, bỏ qua "chuyên chính vô sản", Lenin dường như sợ rằng "liên minh" công nông sẽ tan vỡ. Nhưng điều này chẳng có liên hệ gì với phần tiếp theo:
"Tôi muốn nói đến sự ổn định như là sự đảm bảo để không rơi vào phân liệt trong thời gian trước mắt và có ý định phân tích một số ý kiến về phẩm chất cá nhân. Tôi nghĩ rằng vấn đề quan trọng nhất của sự ổn định là những ủy viên trung ương như Stalin và Trotsky. Quan hệ giữa họ với nhau, theo tôi, đóng góp đến quá nửa nguy cơ phân liệt, một sự phân liệt có thể tránh được và cách tránh, theo tôi, là nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên 50, lên 100 người (sức quyến rũ của các con số vẫn chưa rời bỏ Lenin! – M. Dj.).
Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn và tôi không tin là đồng chí ấy luôn biết sử dụng quyền này một cách thận trọng đúng mức. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống lại Ban chấp hành trung ương liên quan đến vấn đề về Dân ủy giao thông vận tải đã chứng tỏ đồng chí Trotsky là người có khả năng xuất chúng. Đồng chí là người có năng lực nhất trong Ban chấp hành trung ương hiện nay, nhưng lại quá tự tin và quá say sưa với khía cạnh hành chính của vấn đề"
Lenin, trước lúc lâm chung không hề nghĩ đến việc tìm hiểu xem tại sao lại có thể xảy ra cái chuyện là dưới chính quyền Xô viết, một chính quyền "triệu lần dân chủ hơn nước cộng hoà tư bản dân chủ nhất" , mà một người lại có thể "tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn". Rõ ràng là ông không chỉ lo cho Đảng, mà còn lo cho quyền lực của chính mình, một quyền lực còn to lớn hơn nhiều lần quyền lực của Tổng bí thư Stalin. Như vậy, ở Lenin cũng có cái "nhược điểm rất con người" mà ai cũng biết, nhược điểm này càng rõ khi "vai trò lịch sử" của người ấy càng cao, đấy là sự đánh đồng tư tưởng với quyền lực, và đánh đồng quyền lực với cá nhân mình.
Nhưng điều đó có thể đưa chúng ta đi quá xa câu hỏi: Lenin coi ai là người kế tục sự nghiệp của mình? Rõ ràng là không phải Stalin, cũng chẳng phải Trotsky; Stalin thì quá thô lỗ, còn Trotsky thì chỉ là một nhà quản lí tự cao tự đại. Không ai trong số các ủy viên lỗi lạc khác của Ban chấp hành trung ương được Lenin coi là người kế tục sự nghiệp của mình.
"Tôi sẽ không đi sâu phân tích phẩm chất cá nhân của các đồng chí khác trong Ban chấp hành trung ương nữa. Chỉ xin nhắc lại rằng sự kiện tháng mười của Dinoviev và Kamenev không phải là vô tình (đây là nói về việc họ chống lại cuộc đảo chính hay vẫn thường gọi là Cách mạng tháng Mười – M. Dj.), nhưng sự kiện này cũng khó có thể coi là lỗi của cá nhân "họ", so với tinh thần phi-bolshevik của Trotsky" . (Trotsky cho đến tận năm 1917 vẫn thuộc phái chống lại phái bolshevik của Lenin – M. Dj.)
Xin lưu ý đến cách đặt vấn đề và thái độ: Vì sao Lenin lại nói đến "sự kiện tháng Mười của Zinoviev và Kamenev", nhấn mạnh rằng đấy "không phải là vô tình", mặc dù không nên kết án họ? Tại sao ông lại nhấn mạnh "tinh thần phi-bolshevik của Trotsky"? Khi vấn đề liên quan đến quyền lực thì nhắc lại "khuyết điểm đã được tha thứ" dù sao cũng không thừa…
Lenin còn nhắc đến hai ủy viên trẻ hơn của Ban chấp hành trung ương, cũng theo cách đó, ca ngợi ở nửa câu đầu để rồi phê phán ở nửa câu sau:
"… Bukharin không chỉ là nhà lí luận có giá trị nhất và lớn nhất của Đảng, đồng chí còn được coi là người con tin yêu nhất của Đảng nữa, nhưng những quan điểm lí thuyết của đồng chí có thể được coi là không hoàn toàn mác-xít vì có cái gì đó xa rời thực tế (đồng chí không bao giờ học và tôi nghĩ không bao giờ hiểu được hoàn toàn biện chứng pháp).
… Piatakov là một người có ý chí xuất chúng và có khả năng xuất chúng nhưng cũng quá ham mê quản lí và khía cạnh quản lí nên khó có thể tin cậy trong những công việc chính trị quan trọng."
Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng đại hội XII diễn ra vào tháng 4 năm 1923 đã tăng số lượng uỷ viên trung ương lên thành 40, còn đại hội XIII vào tháng 5 năm 1924, nghĩa là sau khi Lenin chết, tăng lên thành 53. Tại đại hội XII, người ta đã mang "di chúc" của Lenin ra đọc nhưng thống nhất là không công bố. Hơn nữa, Trotsky hoàn toàn phủ nhận việc tồn tại một "di chúc" như thế, đấy là nói khi ông ta còn là đảng viên, còn Stalin không giấu giếm việc "di chúc" có nói đến ông, dĩ nhiên là cho đến khi ông ta có quyền kiểm duyệt cả Lenin nữa.
"Di chúc" của Lenin đáng được phân tích một cách toàn diện trên tất cả các khía cạnh. Nhưng từ những đoạn vừa dẫn, đã có thể thấy rằng Lenin không chuyển giao quyền lực cho ai và chỉ có Stalin là không có khuyết điểm về chính trị mà chỉ có khuyết điểm mang tính cách cá nhân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với các sự kiện lịch sử: chỉ một mình Stalin là luôn đứng về phía bolshevik, đứng về phía Lenin mà thôi. Stalin có đầy đủ lí do để khoe tại Hội nghị trung ương ngày 23 tháng 12 năm 1927: "Điều đặc biệt là trong "di chúc" không có nhận xét nào về sai lầm của Stalin cả. "Di chúc" chỉ nói đến sự thô lỗ của Stalin mà thôi. Nhưng thô lỗ không phải và không thể là khuyết điểm của đường lối chính trị hay quan điểm của Stalin."
Sự nghiệp của Lenin trên thực tế đã được tiếp tục như thế nào? Ai là người tiếp tục sự nghiệp đó?
Trong tác phẩm Cuộc đời Lenin, Luis Fisher đã đi đến kết luận rằng cuộc tranh chấp giữa Trotsky và Stalin sẽ không có kết cục đen tối như thế và Liên Xô không rơi vào một cuộc đàn áp toàn triệt như thế nếu Lenin sống thêm được chứng mười năm nữa. Có thể bênh vực quan điểm này một cách đầy thuyết phục, nó có ý nghĩa lí luận to lớn. Nhưng Lenin đã chết và sự nghiệp của Lenin phải được xem xét trên cơ sở thực tiễn, trên cơ sở cuộc xung đột giữa Stalin và Trotsky, xung đột giữa Stalin và phe đối lập, trên cơ sở cuộc đàn áp của Stalin, trên cơ sở của cơ cấu chính trị và xã hội hình thành dưới thời Stalin.
Ở đây, dĩ nhiên cũng không tránh khỏi những cách giải thích khác nhau đơn giản là vì thời Stalin của Liên Xô và của phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn là hiện tượng sống động cho đến tận hôm nay, biết bao thế lực và tư tưởng thù địch vẫn đang tranh chấp xung quanh hiện tượng đó.
Nhưng ngay cả có bỏ đi cái quan niệm rằng nước Nga lạc hậu như thế và hệ tư tưởng toàn trị như thế chỉ có thể khởi động bằng một sự ép buộc hành chính mang tính toàn trị thì tôi nghĩ rằng người kế tục sự nghiệp của Lenin nhất quán nhất vẫn là Stalin. Kết luận này không mâu thuẫn với ngay cả giả thuyết rằng Stalin có thể đã giết chính Lenin. Bản chất của học thuyết của Lenin đưa ta đến kết luận như thế: khác với tất cả những người cổ súy cho một xã hội lí tưởng, kể cả Marx, Lenin đã tranh đấu cho một chính quyền toàn trị, chính quyền này sẽ xây dựng xã hội lí tưởng đó, ông đã thiết lập được chính quyền như vậy rồi. Giống như Marx, Lenin gọi đó là chuyên chính vô sản. Nhưng Marx nghĩ rằng chuyên chính vô sản là sự kiểm soát và áp lực của quần chúng công nhân thì đối với Lenin chuyên chính vô sản lại được thực hiện thông qua "đội tiên phong của giai cấp vô sản", nghĩa là thông qua đảng.
Có thể lên án Stalin về mọi việc ông ta đã làm, trừ một việc sau đây: ông ta đã không phản bội lại chính quyền do Lenin xây dựng lên. Khrushchev đã không hiểu điều đó, ông ta không thể hiểu và không dám hiểu. Ông ta tuyên bố chính quyền của Stalin là "sai lầm", là xa rời quan điểm của Lenin, xa rời chủ nghĩa Lenin. Chính vì thế, ông không được lòng giới trí thức và nhân dân nhưng lại phá hỏng quan hệ với bộ máy quan liêu của Đảng, đối với nó, cũng như đối với mọi tổ chức xã hội, lịch sử của nó chính là một phần cuộc sống của nó. George Kennan nhận xét: sau năm 1945, chính quyền Đức không phủ nhận các tội ác của bè lũ phát xít, mặc dù các biện pháp trừng phạt không tương xứng với tội ác do chúng gây ra. Ở đấy có sự gián đoạn của quyền lực. Trong khi đó, ở Liên Xô, Khrushchev nói rằng ông ta đang tiếp tục sự nghiệp của cái Đảng ấy, viết tiếp chính cái lịch sử ấy. Chính quyền do Lenin sáng lập, với một số thay đổi không đáng kể về phương tiện, tiếp tục tồn tại dưới trào Stalin. Và không chỉ chính quyền. Nhưng cốt yếu nhất chính là chính quyền. Cái chính quyền đó, với một chút thay đổi về diện mạo, tiếp tục tồn tại cho đến tận hôm nay
hết: 2., xem tiếp: 3.
Sưu tầm Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
2.
Trên đây, khi bàn về giá trị của Stalin, tôi đã trình bày những gì tôi cho là quan trọng nhất.
Nhưng tôi cho rằng mọi cuộc tranh luận xem ai là người kế tục của ai và kế tục đến mức độ nào đều là những cuộc tranh luận hời hợt và không có ý nghĩa. Người kế tục nhất quán và trung thành nhất chỉ có thể là kẻ không có tài quan sát và không có sức sáng tạo. Ở đây ta đang nói về chính trị, nơi mà huyền thoại là hiện tượng bình thường và luôn luôn hiện diện, trong trường hợp cụ thể này là bàn về việc bác bỏ quan điểm giáo điều, mị dân đối với di sản của Lenin. Vì chỉ căn cứ trên những lời trích dẫn thì ta có thể chứng minh tất cả những người có thể kế tục sự nghiệp của Lenin đều trung thành với ông và cũng đều không trung thành với ông. Chúng ta chỉ có thể tiệm cận với chân lí bằng cách so sánh những khát vọng của Lenin với những điều Stalin đã làm và những điều mà những người chống đối Stalin định làm.
Chúng ta cũng không thể không phân tích cái gọi là di chúc của Lenin vì nó đã và sẽ còn đóng vai trò quan trọng không chỉ trong các cuộc thảo luận mang tính giáo điều mà đặc biệt là trong các cuộc thảo luận mang tính bài Xô nữa.
"Di chúc" của Lenin thực ra là một bức thư do ông đọc sau khi bị đột quị dẫn đến liệt chân phải và tay phải vào đêm ngày 22 tháng 12 năm 1922. Ngày hôm sau, 23 tháng 12, bác sĩ cho phép ông đọc bốn phút mỗi ngày, ông tiếp tục đọc vào ngày 25 và kết thúc vào ngày 26 tháng 12 năm đó.
Một phần bức thư, trong đó, Lenin đề nghị đại hội nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người và ủng hộ Trotsky về vấn đề Kế hoạch nhà nước, đã được chuyển ngay cho Stalin vì lúc đó, Stalin là Tổng bí thư của Đảng. Có lẽ Stalin ngờ rằng Lenin đang xích gần lại với Trotsky nên đã gọi điện và mắng mỏ vợ Lenin là Krupskaya một cách thậm tệ, lấy cớ rằng bà đã không làm theo khuyến cáo của các bác sĩ, lại còn cho phép thảo luận các vấn đề chính trị, đe doạ tính mạng của đồng chí Lenin. Không biết Krupskaya có phàn nàn với Lenin không, chuyện này có thể đã xảy ra: thư ghi ngày 25 tháng 12 có đoạn: "Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn" , và sau đó 10 ngày, ngày 4 tháng giêng năm 1923 đã có thêm nhận xét sau:
"Stalin là người quá thô lỗ, nhược điểm này có thể chấp nhận được trong môi trường và giao tiếp giữa những người cộng sản chúng ta, sẽ trở thành không chấp nhận được trong chức vụ Tổng bí thư. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí nghĩ cách đưa Stalin khỏi vị trí đó và cử người khác lên thay, người này về mọi mặt chỉ cần trội hơn Stalin ở một điểm (tôi nghĩ đoạn này nên được viết như sau: "không khác gì Stalin ngoài việc trội hơn một điểm" – M. Dj.), mà cụ thể là khoan dung hơn, trung thành hơn, nhã nhặn và chu đáo hơn đối với đồng chí, ít thất thường hơn v.v. Điều này có thể được coi là nhỏ nhặt không đáng kể. Nhưng tôi nghĩ rằng để tránh việc chia rẽ và từ quan điểm tôi đã viết về quan hệ giữa Stalin và Trotsky ở trên thì đây không phải là nhỏ nhặt hay điều nhỏ nhặt này có thể có ý ngĩa quyết định"
Điều đập ngay vào mắt là "di chúc" thiếu sự sắc sảo và chính xác vốn có của Lenin: nó vừa không dứt khoát vừa nước đôi, đặc biệt là ở những chỗ cực kì quan trọng. Rõ ràng là Lenin biết vụ va chạm giữa Stalin và Trotsky và đã dự đoán được ý nghĩa của nó. Nhưng trong lần đọc đầu tiên, ông đã tránh nói thẳng như thế và chỉ đề nghị sửa chữa bằng cách tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người (lúc đó chỉ có 27 người) "… để tăng thêm uy tín cho Ban chấp hành trung ương và để cải thiện công tác của bộ máy của chúng ta và vì… tương lai của Đảng" (có lẽ nên viết: "vì vận mệnh của chính Đảng ta" – M. Dj.)
Thật không thể nào hiểu nổi một người sáng suốt và có kinh nghiệm chính trị như thế, một người đã xoay vần Đảng cho đến khi nó có diện mạo theo đúng ý mình như thế, một người đã từng dẫn dắt cuộc cách mạng vĩ đại nhất và đứng đầu một nhà nước khổng lồ như thế, một người đã nếm trải cảm giác say sưa "với lịch sử" và quyền lực, lại có thể coi việc tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương gần như một mặc khải, một thần dược có thể cứu được "tương lai của Đảng"! Chuyện gì đã xảy ra với Lenin vậy? Chẳng lẽ trí tuệ của ông lại suy giảm đến mức như thế, bởi vì trước đây, ông luôn coi nguyên tắc và lực lượng là vấn đế chủ yếu thì nay lại quay ra coi các con số là có giá trị? Chẳng lẽ ông đã quên phép biện chứng, đã quên tính tất yếu của các mâu thuẫn trong mỗi hiện tượng? Lenin có hiểu bản chất cuộc tranh luận giữa Stalin và Trotsky hay không? Có vẻ như đây là lần đầu tiên Lenin cảm thấy sợ sự tan rã của cái Đảng mà ông đã tạo ra hình thức và chỉ ra mục đích của nó.
Cũng không thể hiểu tại sao trong lần đọc vào ngày 24 tháng 12, Lenin mới nhắc đến Stalin và Trotsky cũng như khả năng xảy ra bất đồng giữa họ với nhau. Dường như đêm đó, ông đã nghĩ lại và đánh bạo thú nhận một việc quan trọng:
"Đảng ta", ông đọc ngày 24 tháng 12, "dựa vào hai giai cấp vì vậy có khả năng xảy ra bất ổn và nhất định dẫn đến suy sụp nếu giữa hai giai cấp này không có sự đồng thuận" .
Chỗ này được trình bày rất không rành mạch, bỏ qua "chuyên chính vô sản", Lenin dường như sợ rằng "liên minh" công nông sẽ tan vỡ. Nhưng điều này chẳng có liên hệ gì với phần tiếp theo:
"Tôi muốn nói đến sự ổn định như là sự đảm bảo để không rơi vào phân liệt trong thời gian trước mắt và có ý định phân tích một số ý kiến về phẩm chất cá nhân. Tôi nghĩ rằng vấn đề quan trọng nhất của sự ổn định là những ủy viên trung ương như Stalin và Trotsky. Quan hệ giữa họ với nhau, theo tôi, đóng góp đến quá nửa nguy cơ phân liệt, một sự phân liệt có thể tránh được và cách tránh, theo tôi, là nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên 50, lên 100 người (sức quyến rũ của các con số vẫn chưa rời bỏ Lenin! – M. Dj.).
Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn và tôi không tin là đồng chí ấy luôn biết sử dụng quyền này một cách thận trọng đúng mức. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống lại Ban chấp hành trung ương liên quan đến vấn đề về Dân ủy giao thông vận tải đã chứng tỏ đồng chí Trotsky là người có khả năng xuất chúng. Đồng chí là người có năng lực nhất trong Ban chấp hành trung ương hiện nay, nhưng lại quá tự tin và quá say sưa với khía cạnh hành chính của vấn đề"
Lenin, trước lúc lâm chung không hề nghĩ đến việc tìm hiểu xem tại sao lại có thể xảy ra cái chuyện là dưới chính quyền Xô viết, một chính quyền "triệu lần dân chủ hơn nước cộng hoà tư bản dân chủ nhất" , mà một người lại có thể "tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn". Rõ ràng là ông không chỉ lo cho Đảng, mà còn lo cho quyền lực của chính mình, một quyền lực còn to lớn hơn nhiều lần quyền lực của Tổng bí thư Stalin. Như vậy, ở Lenin cũng có cái "nhược điểm rất con người" mà ai cũng biết, nhược điểm này càng rõ khi "vai trò lịch sử" của người ấy càng cao, đấy là sự đánh đồng tư tưởng với quyền lực, và đánh đồng quyền lực với cá nhân mình.
Nhưng điều đó có thể đưa chúng ta đi quá xa câu hỏi: Lenin coi ai là người kế tục sự nghiệp của mình? Rõ ràng là không phải Stalin, cũng chẳng phải Trotsky; Stalin thì quá thô lỗ, còn Trotsky thì chỉ là một nhà quản lí tự cao tự đại. Không ai trong số các ủy viên lỗi lạc khác của Ban chấp hành trung ương được Lenin coi là người kế tục sự nghiệp của mình.
"Tôi sẽ không đi sâu phân tích phẩm chất cá nhân của các đồng chí khác trong Ban chấp hành trung ương nữa. Chỉ xin nhắc lại rằng sự kiện tháng mười của Dinoviev và Kamenev không phải là vô tình (đây là nói về việc họ chống lại cuộc đảo chính hay vẫn thường gọi là Cách mạng tháng Mười – M. Dj.), nhưng sự kiện này cũng khó có thể coi là lỗi của cá nhân "họ", so với tinh thần phi-bolshevik của Trotsky" . (Trotsky cho đến tận năm 1917 vẫn thuộc phái chống lại phái bolshevik của Lenin – M. Dj.)
Xin lưu ý đến cách đặt vấn đề và thái độ: Vì sao Lenin lại nói đến "sự kiện tháng Mười của Zinoviev và Kamenev", nhấn mạnh rằng đấy "không phải là vô tình", mặc dù không nên kết án họ? Tại sao ông lại nhấn mạnh "tinh thần phi-bolshevik của Trotsky"? Khi vấn đề liên quan đến quyền lực thì nhắc lại "khuyết điểm đã được tha thứ" dù sao cũng không thừa…
Lenin còn nhắc đến hai ủy viên trẻ hơn của Ban chấp hành trung ương, cũng theo cách đó, ca ngợi ở nửa câu đầu để rồi phê phán ở nửa câu sau:
"… Bukharin không chỉ là nhà lí luận có giá trị nhất và lớn nhất của Đảng, đồng chí còn được coi là người con tin yêu nhất của Đảng nữa, nhưng những quan điểm lí thuyết của đồng chí có thể được coi là không hoàn toàn mác-xít vì có cái gì đó xa rời thực tế (đồng chí không bao giờ học và tôi nghĩ không bao giờ hiểu được hoàn toàn biện chứng pháp).
… Piatakov là một người có ý chí xuất chúng và có khả năng xuất chúng nhưng cũng quá ham mê quản lí và khía cạnh quản lí nên khó có thể tin cậy trong những công việc chính trị quan trọng."
Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng đại hội XII diễn ra vào tháng 4 năm 1923 đã tăng số lượng uỷ viên trung ương lên thành 40, còn đại hội XIII vào tháng 5 năm 1924, nghĩa là sau khi Lenin chết, tăng lên thành 53. Tại đại hội XII, người ta đã mang "di chúc" của Lenin ra đọc nhưng thống nhất là không công bố. Hơn nữa, Trotsky hoàn toàn phủ nhận việc tồn tại một "di chúc" như thế, đấy là nói khi ông ta còn là đảng viên, còn Stalin không giấu giếm việc "di chúc" có nói đến ông, dĩ nhiên là cho đến khi ông ta có quyền kiểm duyệt cả Lenin nữa.
"Di chúc" của Lenin đáng được phân tích một cách toàn diện trên tất cả các khía cạnh. Nhưng từ những đoạn vừa dẫn, đã có thể thấy rằng Lenin không chuyển giao quyền lực cho ai và chỉ có Stalin là không có khuyết điểm về chính trị mà chỉ có khuyết điểm mang tính cách cá nhân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với các sự kiện lịch sử: chỉ một mình Stalin là luôn đứng về phía bolshevik, đứng về phía Lenin mà thôi. Stalin có đầy đủ lí do để khoe tại Hội nghị trung ương ngày 23 tháng 12 năm 1927: "Điều đặc biệt là trong "di chúc" không có nhận xét nào về sai lầm của Stalin cả. "Di chúc" chỉ nói đến sự thô lỗ của Stalin mà thôi. Nhưng thô lỗ không phải và không thể là khuyết điểm của đường lối chính trị hay quan điểm của Stalin."
Sự nghiệp của Lenin trên thực tế đã được tiếp tục như thế nào? Ai là người tiếp tục sự nghiệp đó?
Trong tác phẩm Cuộc đời Lenin, Luis Fisher đã đi đến kết luận rằng cuộc tranh chấp giữa Trotsky và Stalin sẽ không có kết cục đen tối như thế và Liên Xô không rơi vào một cuộc đàn áp toàn triệt như thế nếu Lenin sống thêm được chứng mười năm nữa. Có thể bênh vực quan điểm này một cách đầy thuyết phục, nó có ý nghĩa lí luận to lớn. Nhưng Lenin đã chết và sự nghiệp của Lenin phải được xem xét trên cơ sở thực tiễn, trên cơ sở cuộc xung đột giữa Stalin và Trotsky, xung đột giữa Stalin và phe đối lập, trên cơ sở cuộc đàn áp của Stalin, trên cơ sở của cơ cấu chính trị và xã hội hình thành dưới thời Stalin.
Ở đây, dĩ nhiên cũng không tránh khỏi những cách giải thích khác nhau đơn giản là vì thời Stalin của Liên Xô và của phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn là hiện tượng sống động cho đến tận hôm nay, biết bao thế lực và tư tưởng thù địch vẫn đang tranh chấp xung quanh hiện tượng đó.
Nhưng ngay cả có bỏ đi cái quan niệm rằng nước Nga lạc hậu như thế và hệ tư tưởng toàn trị như thế chỉ có thể khởi động bằng một sự ép buộc hành chính mang tính toàn trị thì tôi nghĩ rằng người kế tục sự nghiệp của Lenin nhất quán nhất vẫn là Stalin. Kết luận này không mâu thuẫn với ngay cả giả thuyết rằng Stalin có thể đã giết chính Lenin. Bản chất của học thuyết của Lenin đưa ta đến kết luận như thế: khác với tất cả những người cổ súy cho một xã hội lí tưởng, kể cả Marx, Lenin đã tranh đấu cho một chính quyền toàn trị, chính quyền này sẽ xây dựng xã hội lí tưởng đó, ông đã thiết lập được chính quyền như vậy rồi. Giống như Marx, Lenin gọi đó là chuyên chính vô sản. Nhưng Marx nghĩ rằng chuyên chính vô sản là sự kiểm soát và áp lực của quần chúng công nhân thì đối với Lenin chuyên chính vô sản lại được thực hiện thông qua "đội tiên phong của giai cấp vô sản", nghĩa là thông qua đảng.
Có thể lên án Stalin về mọi việc ông ta đã làm, trừ một việc sau đây: ông ta đã không phản bội lại chính quyền do Lenin xây dựng lên. Khrushchev đã không hiểu điều đó, ông ta không thể hiểu và không dám hiểu. Ông ta tuyên bố chính quyền của Stalin là "sai lầm", là xa rời quan điểm của Lenin, xa rời chủ nghĩa Lenin. Chính vì thế, ông không được lòng giới trí thức và nhân dân nhưng lại phá hỏng quan hệ với bộ máy quan liêu của Đảng, đối với nó, cũng như đối với mọi tổ chức xã hội, lịch sử của nó chính là một phần cuộc sống của nó. George Kennan nhận xét: sau năm 1945, chính quyền Đức không phủ nhận các tội ác của bè lũ phát xít, mặc dù các biện pháp trừng phạt không tương xứng với tội ác do chúng gây ra. Ở đấy có sự gián đoạn của quyền lực. Trong khi đó, ở Liên Xô, Khrushchev nói rằng ông ta đang tiếp tục sự nghiệp của cái Đảng ấy, viết tiếp chính cái lịch sử ấy. Chính quyền do Lenin sáng lập, với một số thay đổi không đáng kể về phương tiện, tiếp tục tồn tại dưới trào Stalin. Và không chỉ chính quyền. Nhưng cốt yếu nhất chính là chính quyền. Cái chính quyền đó, với một chút thay đổi về diện mạo, tiếp tục tồn tại cho đến tận hôm nay
hết: 2., xem tiếp: 3.
Sưu tầm Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 24
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
2.
Trên đây, khi bàn về giá trị của Stalin, tôi đã trình bày những gì tôi cho là quan trọng nhất.
Nhưng tôi cho rằng mọi cuộc tranh luận xem ai là người kế tục của ai và kế tục đến mức độ nào đều là những cuộc tranh luận hời hợt và không có ý nghĩa. Người kế tục nhất quán và trung thành nhất chỉ có thể là kẻ không có tài quan sát và không có sức sáng tạo. Ở đây ta đang nói về chính trị, nơi mà huyền thoại là hiện tượng bình thường và luôn luôn hiện diện, trong trường hợp cụ thể này là bàn về việc bác bỏ quan điểm giáo điều, mị dân đối với di sản của Lenin. Vì chỉ căn cứ trên những lời trích dẫn thì ta có thể chứng minh tất cả những người có thể kế tục sự nghiệp của Lenin đều trung thành với ông và cũng đều không trung thành với ông. Chúng ta chỉ có thể tiệm cận với chân lí bằng cách so sánh những khát vọng của Lenin với những điều Stalin đã làm và những điều mà những người chống đối Stalin định làm.
Chúng ta cũng không thể không phân tích cái gọi là di chúc của Lenin vì nó đã và sẽ còn đóng vai trò quan trọng không chỉ trong các cuộc thảo luận mang tính giáo điều mà đặc biệt là trong các cuộc thảo luận mang tính bài Xô nữa.
"Di chúc" của Lenin thực ra là một bức thư do ông đọc sau khi bị đột quị dẫn đến liệt chân phải và tay phải vào đêm ngày 22 tháng 12 năm 1922. Ngày hôm sau, 23 tháng 12, bác sĩ cho phép ông đọc bốn phút mỗi ngày, ông tiếp tục đọc vào ngày 25 và kết thúc vào ngày 26 tháng 12 năm đó.
Một phần bức thư, trong đó, Lenin đề nghị đại hội nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người và ủng hộ Trotsky về vấn đề Kế hoạch nhà nước, đã được chuyển ngay cho Stalin vì lúc đó, Stalin là Tổng bí thư của Đảng. Có lẽ Stalin ngờ rằng Lenin đang xích gần lại với Trotsky nên đã gọi điện và mắng mỏ vợ Lenin là Krupskaya một cách thậm tệ, lấy cớ rằng bà đã không làm theo khuyến cáo của các bác sĩ, lại còn cho phép thảo luận các vấn đề chính trị, đe doạ tính mạng của đồng chí Lenin. Không biết Krupskaya có phàn nàn với Lenin không, chuyện này có thể đã xảy ra: thư ghi ngày 25 tháng 12 có đoạn: "Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn" , và sau đó 10 ngày, ngày 4 tháng giêng năm 1923 đã có thêm nhận xét sau:
"Stalin là người quá thô lỗ, nhược điểm này có thể chấp nhận được trong môi trường và giao tiếp giữa những người cộng sản chúng ta, sẽ trở thành không chấp nhận được trong chức vụ Tổng bí thư. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí nghĩ cách đưa Stalin khỏi vị trí đó và cử người khác lên thay, người này về mọi mặt chỉ cần trội hơn Stalin ở một điểm (tôi nghĩ đoạn này nên được viết như sau: "không khác gì Stalin ngoài việc trội hơn một điểm" – M. Dj.), mà cụ thể là khoan dung hơn, trung thành hơn, nhã nhặn và chu đáo hơn đối với đồng chí, ít thất thường hơn v.v. Điều này có thể được coi là nhỏ nhặt không đáng kể. Nhưng tôi nghĩ rằng để tránh việc chia rẽ và từ quan điểm tôi đã viết về quan hệ giữa Stalin và Trotsky ở trên thì đây không phải là nhỏ nhặt hay điều nhỏ nhặt này có thể có ý ngĩa quyết định"
Điều đập ngay vào mắt là "di chúc" thiếu sự sắc sảo và chính xác vốn có của Lenin: nó vừa không dứt khoát vừa nước đôi, đặc biệt là ở những chỗ cực kì quan trọng. Rõ ràng là Lenin biết vụ va chạm giữa Stalin và Trotsky và đã dự đoán được ý nghĩa của nó. Nhưng trong lần đọc đầu tiên, ông đã tránh nói thẳng như thế và chỉ đề nghị sửa chữa bằng cách tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người (lúc đó chỉ có 27 người) "… để tăng thêm uy tín cho Ban chấp hành trung ương và để cải thiện công tác của bộ máy của chúng ta và vì… tương lai của Đảng" (có lẽ nên viết: "vì vận mệnh của chính Đảng ta" – M. Dj.)
Thật không thể nào hiểu nổi một người sáng suốt và có kinh nghiệm chính trị như thế, một người đã xoay vần Đảng cho đến khi nó có diện mạo theo đúng ý mình như thế, một người đã từng dẫn dắt cuộc cách mạng vĩ đại nhất và đứng đầu một nhà nước khổng lồ như thế, một người đã nếm trải cảm giác say sưa "với lịch sử" và quyền lực, lại có thể coi việc tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương gần như một mặc khải, một thần dược có thể cứu được "tương lai của Đảng"! Chuyện gì đã xảy ra với Lenin vậy? Chẳng lẽ trí tuệ của ông lại suy giảm đến mức như thế, bởi vì trước đây, ông luôn coi nguyên tắc và lực lượng là vấn đế chủ yếu thì nay lại quay ra coi các con số là có giá trị? Chẳng lẽ ông đã quên phép biện chứng, đã quên tính tất yếu của các mâu thuẫn trong mỗi hiện tượng? Lenin có hiểu bản chất cuộc tranh luận giữa Stalin và Trotsky hay không? Có vẻ như đây là lần đầu tiên Lenin cảm thấy sợ sự tan rã của cái Đảng mà ông đã tạo ra hình thức và chỉ ra mục đích của nó.
Cũng không thể hiểu tại sao trong lần đọc vào ngày 24 tháng 12, Lenin mới nhắc đến Stalin và Trotsky cũng như khả năng xảy ra bất đồng giữa họ với nhau. Dường như đêm đó, ông đã nghĩ lại và đánh bạo thú nhận một việc quan trọng:
"Đảng ta", ông đọc ngày 24 tháng 12, "dựa vào hai giai cấp vì vậy có khả năng xảy ra bất ổn và nhất định dẫn đến suy sụp nếu giữa hai giai cấp này không có sự đồng thuận" .
Chỗ này được trình bày rất không rành mạch, bỏ qua "chuyên chính vô sản", Lenin dường như sợ rằng "liên minh" công nông sẽ tan vỡ. Nhưng điều này chẳng có liên hệ gì với phần tiếp theo:
"Tôi muốn nói đến sự ổn định như là sự đảm bảo để không rơi vào phân liệt trong thời gian trước mắt và có ý định phân tích một số ý kiến về phẩm chất cá nhân. Tôi nghĩ rằng vấn đề quan trọng nhất của sự ổn định là những ủy viên trung ương như Stalin và Trotsky. Quan hệ giữa họ với nhau, theo tôi, đóng góp đến quá nửa nguy cơ phân liệt, một sự phân liệt có thể tránh được và cách tránh, theo tôi, là nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên 50, lên 100 người (sức quyến rũ của các con số vẫn chưa rời bỏ Lenin! – M. Dj.).
Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn và tôi không tin là đồng chí ấy luôn biết sử dụng quyền này một cách thận trọng đúng mức. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống lại Ban chấp hành trung ương liên quan đến vấn đề về Dân ủy giao thông vận tải đã chứng tỏ đồng chí Trotsky là người có khả năng xuất chúng. Đồng chí là người có năng lực nhất trong Ban chấp hành trung ương hiện nay, nhưng lại quá tự tin và quá say sưa với khía cạnh hành chính của vấn đề"
Lenin, trước lúc lâm chung không hề nghĩ đến việc tìm hiểu xem tại sao lại có thể xảy ra cái chuyện là dưới chính quyền Xô viết, một chính quyền "triệu lần dân chủ hơn nước cộng hoà tư bản dân chủ nhất" , mà một người lại có thể "tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn". Rõ ràng là ông không chỉ lo cho Đảng, mà còn lo cho quyền lực của chính mình, một quyền lực còn to lớn hơn nhiều lần quyền lực của Tổng bí thư Stalin. Như vậy, ở Lenin cũng có cái "nhược điểm rất con người" mà ai cũng biết, nhược điểm này càng rõ khi "vai trò lịch sử" của người ấy càng cao, đấy là sự đánh đồng tư tưởng với quyền lực, và đánh đồng quyền lực với cá nhân mình.
Nhưng điều đó có thể đưa chúng ta đi quá xa câu hỏi: Lenin coi ai là người kế tục sự nghiệp của mình? Rõ ràng là không phải Stalin, cũng chẳng phải Trotsky; Stalin thì quá thô lỗ, còn Trotsky thì chỉ là một nhà quản lí tự cao tự đại. Không ai trong số các ủy viên lỗi lạc khác của Ban chấp hành trung ương được Lenin coi là người kế tục sự nghiệp của mình.
"Tôi sẽ không đi sâu phân tích phẩm chất cá nhân của các đồng chí khác trong Ban chấp hành trung ương nữa. Chỉ xin nhắc lại rằng sự kiện tháng mười của Dinoviev và Kamenev không phải là vô tình (đây là nói về việc họ chống lại cuộc đảo chính hay vẫn thường gọi là Cách mạng tháng Mười – M. Dj.), nhưng sự kiện này cũng khó có thể coi là lỗi của cá nhân "họ", so với tinh thần phi-bolshevik của Trotsky" . (Trotsky cho đến tận năm 1917 vẫn thuộc phái chống lại phái bolshevik của Lenin – M. Dj.)
Xin lưu ý đến cách đặt vấn đề và thái độ: Vì sao Lenin lại nói đến "sự kiện tháng Mười của Zinoviev và Kamenev", nhấn mạnh rằng đấy "không phải là vô tình", mặc dù không nên kết án họ? Tại sao ông lại nhấn mạnh "tinh thần phi-bolshevik của Trotsky"? Khi vấn đề liên quan đến quyền lực thì nhắc lại "khuyết điểm đã được tha thứ" dù sao cũng không thừa…
Lenin còn nhắc đến hai ủy viên trẻ hơn của Ban chấp hành trung ương, cũng theo cách đó, ca ngợi ở nửa câu đầu để rồi phê phán ở nửa câu sau:
"… Bukharin không chỉ là nhà lí luận có giá trị nhất và lớn nhất của Đảng, đồng chí còn được coi là người con tin yêu nhất của Đảng nữa, nhưng những quan điểm lí thuyết của đồng chí có thể được coi là không hoàn toàn mác-xít vì có cái gì đó xa rời thực tế (đồng chí không bao giờ học và tôi nghĩ không bao giờ hiểu được hoàn toàn biện chứng pháp).
… Piatakov là một người có ý chí xuất chúng và có khả năng xuất chúng nhưng cũng quá ham mê quản lí và khía cạnh quản lí nên khó có thể tin cậy trong những công việc chính trị quan trọng."
Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng đại hội XII diễn ra vào tháng 4 năm 1923 đã tăng số lượng uỷ viên trung ương lên thành 40, còn đại hội XIII vào tháng 5 năm 1924, nghĩa là sau khi Lenin chết, tăng lên thành 53. Tại đại hội XII, người ta đã mang "di chúc" của Lenin ra đọc nhưng thống nhất là không công bố. Hơn nữa, Trotsky hoàn toàn phủ nhận việc tồn tại một "di chúc" như thế, đấy là nói khi ông ta còn là đảng viên, còn Stalin không giấu giếm việc "di chúc" có nói đến ông, dĩ nhiên là cho đến khi ông ta có quyền kiểm duyệt cả Lenin nữa.
"Di chúc" của Lenin đáng được phân tích một cách toàn diện trên tất cả các khía cạnh. Nhưng từ những đoạn vừa dẫn, đã có thể thấy rằng Lenin không chuyển giao quyền lực cho ai và chỉ có Stalin là không có khuyết điểm về chính trị mà chỉ có khuyết điểm mang tính cách cá nhân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với các sự kiện lịch sử: chỉ một mình Stalin là luôn đứng về phía bolshevik, đứng về phía Lenin mà thôi. Stalin có đầy đủ lí do để khoe tại Hội nghị trung ương ngày 23 tháng 12 năm 1927: "Điều đặc biệt là trong "di chúc" không có nhận xét nào về sai lầm của Stalin cả. "Di chúc" chỉ nói đến sự thô lỗ của Stalin mà thôi. Nhưng thô lỗ không phải và không thể là khuyết điểm của đường lối chính trị hay quan điểm của Stalin."
Sự nghiệp của Lenin trên thực tế đã được tiếp tục như thế nào? Ai là người tiếp tục sự nghiệp đó?
Trong tác phẩm Cuộc đời Lenin, Luis Fisher đã đi đến kết luận rằng cuộc tranh chấp giữa Trotsky và Stalin sẽ không có kết cục đen tối như thế và Liên Xô không rơi vào một cuộc đàn áp toàn triệt như thế nếu Lenin sống thêm được chứng mười năm nữa. Có thể bênh vực quan điểm này một cách đầy thuyết phục, nó có ý nghĩa lí luận to lớn. Nhưng Lenin đã chết và sự nghiệp của Lenin phải được xem xét trên cơ sở thực tiễn, trên cơ sở cuộc xung đột giữa Stalin và Trotsky, xung đột giữa Stalin và phe đối lập, trên cơ sở cuộc đàn áp của Stalin, trên cơ sở của cơ cấu chính trị và xã hội hình thành dưới thời Stalin.
Ở đây, dĩ nhiên cũng không tránh khỏi những cách giải thích khác nhau đơn giản là vì thời Stalin của Liên Xô và của phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn là hiện tượng sống động cho đến tận hôm nay, biết bao thế lực và tư tưởng thù địch vẫn đang tranh chấp xung quanh hiện tượng đó.
Nhưng ngay cả có bỏ đi cái quan niệm rằng nước Nga lạc hậu như thế và hệ tư tưởng toàn trị như thế chỉ có thể khởi động bằng một sự ép buộc hành chính mang tính toàn trị thì tôi nghĩ rằng người kế tục sự nghiệp của Lenin nhất quán nhất vẫn là Stalin. Kết luận này không mâu thuẫn với ngay cả giả thuyết rằng Stalin có thể đã giết chính Lenin. Bản chất của học thuyết của Lenin đưa ta đến kết luận như thế: khác với tất cả những người cổ súy cho một xã hội lí tưởng, kể cả Marx, Lenin đã tranh đấu cho một chính quyền toàn trị, chính quyền này sẽ xây dựng xã hội lí tưởng đó, ông đã thiết lập được chính quyền như vậy rồi. Giống như Marx, Lenin gọi đó là chuyên chính vô sản. Nhưng Marx nghĩ rằng chuyên chính vô sản là sự kiểm soát và áp lực của quần chúng công nhân thì đối với Lenin chuyên chính vô sản lại được thực hiện thông qua "đội tiên phong của giai cấp vô sản", nghĩa là thông qua đảng.
Có thể lên án Stalin về mọi việc ông ta đã làm, trừ một việc sau đây: ông ta đã không phản bội lại chính quyền do Lenin xây dựng lên. Khrushchev đã không hiểu điều đó, ông ta không thể hiểu và không dám hiểu. Ông ta tuyên bố chính quyền của Stalin là "sai lầm", là xa rời quan điểm của Lenin, xa rời chủ nghĩa Lenin. Chính vì thế, ông không được lòng giới trí thức và nhân dân nhưng lại phá hỏng quan hệ với bộ máy quan liêu của Đảng, đối với nó, cũng như đối với mọi tổ chức xã hội, lịch sử của nó chính là một phần cuộc sống của nó. George Kennan nhận xét: sau năm 1945, chính quyền Đức không phủ nhận các tội ác của bè lũ phát xít, mặc dù các biện pháp trừng phạt không tương xứng với tội ác do chúng gây ra. Ở đấy có sự gián đoạn của quyền lực. Trong khi đó, ở Liên Xô, Khrushchev nói rằng ông ta đang tiếp tục sự nghiệp của cái Đảng ấy, viết tiếp chính cái lịch sử ấy. Chính quyền do Lenin sáng lập, với một số thay đổi không đáng kể về phương tiện, tiếp tục tồn tại dưới trào Stalin. Và không chỉ chính quyền. Nhưng cốt yếu nhất chính là chính quyền. Cái chính quyền đó, với một chút thay đổi về diện mạo, tiếp tục tồn tại cho đến tận hôm nay
hết: 2., xem tiếp: 3.
Sưu tầm Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
2.
Trên đây, khi bàn về giá trị của Stalin, tôi đã trình bày những gì tôi cho là quan trọng nhất.
Nhưng tôi cho rằng mọi cuộc tranh luận xem ai là người kế tục của ai và kế tục đến mức độ nào đều là những cuộc tranh luận hời hợt và không có ý nghĩa. Người kế tục nhất quán và trung thành nhất chỉ có thể là kẻ không có tài quan sát và không có sức sáng tạo. Ở đây ta đang nói về chính trị, nơi mà huyền thoại là hiện tượng bình thường và luôn luôn hiện diện, trong trường hợp cụ thể này là bàn về việc bác bỏ quan điểm giáo điều, mị dân đối với di sản của Lenin. Vì chỉ căn cứ trên những lời trích dẫn thì ta có thể chứng minh tất cả những người có thể kế tục sự nghiệp của Lenin đều trung thành với ông và cũng đều không trung thành với ông. Chúng ta chỉ có thể tiệm cận với chân lí bằng cách so sánh những khát vọng của Lenin với những điều Stalin đã làm và những điều mà những người chống đối Stalin định làm.
Chúng ta cũng không thể không phân tích cái gọi là di chúc của Lenin vì nó đã và sẽ còn đóng vai trò quan trọng không chỉ trong các cuộc thảo luận mang tính giáo điều mà đặc biệt là trong các cuộc thảo luận mang tính bài Xô nữa.
"Di chúc" của Lenin thực ra là một bức thư do ông đọc sau khi bị đột quị dẫn đến liệt chân phải và tay phải vào đêm ngày 22 tháng 12 năm 1922. Ngày hôm sau, 23 tháng 12, bác sĩ cho phép ông đọc bốn phút mỗi ngày, ông tiếp tục đọc vào ngày 25 và kết thúc vào ngày 26 tháng 12 năm đó.
Một phần bức thư, trong đó, Lenin đề nghị đại hội nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người và ủng hộ Trotsky về vấn đề Kế hoạch nhà nước, đã được chuyển ngay cho Stalin vì lúc đó, Stalin là Tổng bí thư của Đảng. Có lẽ Stalin ngờ rằng Lenin đang xích gần lại với Trotsky nên đã gọi điện và mắng mỏ vợ Lenin là Krupskaya một cách thậm tệ, lấy cớ rằng bà đã không làm theo khuyến cáo của các bác sĩ, lại còn cho phép thảo luận các vấn đề chính trị, đe doạ tính mạng của đồng chí Lenin. Không biết Krupskaya có phàn nàn với Lenin không, chuyện này có thể đã xảy ra: thư ghi ngày 25 tháng 12 có đoạn: "Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn" , và sau đó 10 ngày, ngày 4 tháng giêng năm 1923 đã có thêm nhận xét sau:
"Stalin là người quá thô lỗ, nhược điểm này có thể chấp nhận được trong môi trường và giao tiếp giữa những người cộng sản chúng ta, sẽ trở thành không chấp nhận được trong chức vụ Tổng bí thư. Vì vậy tôi đề nghị các đồng chí nghĩ cách đưa Stalin khỏi vị trí đó và cử người khác lên thay, người này về mọi mặt chỉ cần trội hơn Stalin ở một điểm (tôi nghĩ đoạn này nên được viết như sau: "không khác gì Stalin ngoài việc trội hơn một điểm" – M. Dj.), mà cụ thể là khoan dung hơn, trung thành hơn, nhã nhặn và chu đáo hơn đối với đồng chí, ít thất thường hơn v.v. Điều này có thể được coi là nhỏ nhặt không đáng kể. Nhưng tôi nghĩ rằng để tránh việc chia rẽ và từ quan điểm tôi đã viết về quan hệ giữa Stalin và Trotsky ở trên thì đây không phải là nhỏ nhặt hay điều nhỏ nhặt này có thể có ý ngĩa quyết định"
Điều đập ngay vào mắt là "di chúc" thiếu sự sắc sảo và chính xác vốn có của Lenin: nó vừa không dứt khoát vừa nước đôi, đặc biệt là ở những chỗ cực kì quan trọng. Rõ ràng là Lenin biết vụ va chạm giữa Stalin và Trotsky và đã dự đoán được ý nghĩa của nó. Nhưng trong lần đọc đầu tiên, ông đã tránh nói thẳng như thế và chỉ đề nghị sửa chữa bằng cách tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương lên từ 50 đến 100 người (lúc đó chỉ có 27 người) "… để tăng thêm uy tín cho Ban chấp hành trung ương và để cải thiện công tác của bộ máy của chúng ta và vì… tương lai của Đảng" (có lẽ nên viết: "vì vận mệnh của chính Đảng ta" – M. Dj.)
Thật không thể nào hiểu nổi một người sáng suốt và có kinh nghiệm chính trị như thế, một người đã xoay vần Đảng cho đến khi nó có diện mạo theo đúng ý mình như thế, một người đã từng dẫn dắt cuộc cách mạng vĩ đại nhất và đứng đầu một nhà nước khổng lồ như thế, một người đã nếm trải cảm giác say sưa "với lịch sử" và quyền lực, lại có thể coi việc tăng số lượng ủy viên Ban chấp hành trung ương gần như một mặc khải, một thần dược có thể cứu được "tương lai của Đảng"! Chuyện gì đã xảy ra với Lenin vậy? Chẳng lẽ trí tuệ của ông lại suy giảm đến mức như thế, bởi vì trước đây, ông luôn coi nguyên tắc và lực lượng là vấn đế chủ yếu thì nay lại quay ra coi các con số là có giá trị? Chẳng lẽ ông đã quên phép biện chứng, đã quên tính tất yếu của các mâu thuẫn trong mỗi hiện tượng? Lenin có hiểu bản chất cuộc tranh luận giữa Stalin và Trotsky hay không? Có vẻ như đây là lần đầu tiên Lenin cảm thấy sợ sự tan rã của cái Đảng mà ông đã tạo ra hình thức và chỉ ra mục đích của nó.
Cũng không thể hiểu tại sao trong lần đọc vào ngày 24 tháng 12, Lenin mới nhắc đến Stalin và Trotsky cũng như khả năng xảy ra bất đồng giữa họ với nhau. Dường như đêm đó, ông đã nghĩ lại và đánh bạo thú nhận một việc quan trọng:
"Đảng ta", ông đọc ngày 24 tháng 12, "dựa vào hai giai cấp vì vậy có khả năng xảy ra bất ổn và nhất định dẫn đến suy sụp nếu giữa hai giai cấp này không có sự đồng thuận" .
Chỗ này được trình bày rất không rành mạch, bỏ qua "chuyên chính vô sản", Lenin dường như sợ rằng "liên minh" công nông sẽ tan vỡ. Nhưng điều này chẳng có liên hệ gì với phần tiếp theo:
"Tôi muốn nói đến sự ổn định như là sự đảm bảo để không rơi vào phân liệt trong thời gian trước mắt và có ý định phân tích một số ý kiến về phẩm chất cá nhân. Tôi nghĩ rằng vấn đề quan trọng nhất của sự ổn định là những ủy viên trung ương như Stalin và Trotsky. Quan hệ giữa họ với nhau, theo tôi, đóng góp đến quá nửa nguy cơ phân liệt, một sự phân liệt có thể tránh được và cách tránh, theo tôi, là nâng số ủy viên Ban chấp hành trung ương lên 50, lên 100 người (sức quyến rũ của các con số vẫn chưa rời bỏ Lenin! – M. Dj.).
Đồng chí Stalin, sau khi trở thành Tổng bí thư, đã tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn và tôi không tin là đồng chí ấy luôn biết sử dụng quyền này một cách thận trọng đúng mức. Mặt khác, cuộc đấu tranh chống lại Ban chấp hành trung ương liên quan đến vấn đề về Dân ủy giao thông vận tải đã chứng tỏ đồng chí Trotsky là người có khả năng xuất chúng. Đồng chí là người có năng lực nhất trong Ban chấp hành trung ương hiện nay, nhưng lại quá tự tin và quá say sưa với khía cạnh hành chính của vấn đề"
Lenin, trước lúc lâm chung không hề nghĩ đến việc tìm hiểu xem tại sao lại có thể xảy ra cái chuyện là dưới chính quyền Xô viết, một chính quyền "triệu lần dân chủ hơn nước cộng hoà tư bản dân chủ nhất" , mà một người lại có thể "tập trung vào tay mình quyền lực vô cùng to lớn". Rõ ràng là ông không chỉ lo cho Đảng, mà còn lo cho quyền lực của chính mình, một quyền lực còn to lớn hơn nhiều lần quyền lực của Tổng bí thư Stalin. Như vậy, ở Lenin cũng có cái "nhược điểm rất con người" mà ai cũng biết, nhược điểm này càng rõ khi "vai trò lịch sử" của người ấy càng cao, đấy là sự đánh đồng tư tưởng với quyền lực, và đánh đồng quyền lực với cá nhân mình.
Nhưng điều đó có thể đưa chúng ta đi quá xa câu hỏi: Lenin coi ai là người kế tục sự nghiệp của mình? Rõ ràng là không phải Stalin, cũng chẳng phải Trotsky; Stalin thì quá thô lỗ, còn Trotsky thì chỉ là một nhà quản lí tự cao tự đại. Không ai trong số các ủy viên lỗi lạc khác của Ban chấp hành trung ương được Lenin coi là người kế tục sự nghiệp của mình.
"Tôi sẽ không đi sâu phân tích phẩm chất cá nhân của các đồng chí khác trong Ban chấp hành trung ương nữa. Chỉ xin nhắc lại rằng sự kiện tháng mười của Dinoviev và Kamenev không phải là vô tình (đây là nói về việc họ chống lại cuộc đảo chính hay vẫn thường gọi là Cách mạng tháng Mười – M. Dj.), nhưng sự kiện này cũng khó có thể coi là lỗi của cá nhân "họ", so với tinh thần phi-bolshevik của Trotsky" . (Trotsky cho đến tận năm 1917 vẫn thuộc phái chống lại phái bolshevik của Lenin – M. Dj.)
Xin lưu ý đến cách đặt vấn đề và thái độ: Vì sao Lenin lại nói đến "sự kiện tháng Mười của Zinoviev và Kamenev", nhấn mạnh rằng đấy "không phải là vô tình", mặc dù không nên kết án họ? Tại sao ông lại nhấn mạnh "tinh thần phi-bolshevik của Trotsky"? Khi vấn đề liên quan đến quyền lực thì nhắc lại "khuyết điểm đã được tha thứ" dù sao cũng không thừa…
Lenin còn nhắc đến hai ủy viên trẻ hơn của Ban chấp hành trung ương, cũng theo cách đó, ca ngợi ở nửa câu đầu để rồi phê phán ở nửa câu sau:
"… Bukharin không chỉ là nhà lí luận có giá trị nhất và lớn nhất của Đảng, đồng chí còn được coi là người con tin yêu nhất của Đảng nữa, nhưng những quan điểm lí thuyết của đồng chí có thể được coi là không hoàn toàn mác-xít vì có cái gì đó xa rời thực tế (đồng chí không bao giờ học và tôi nghĩ không bao giờ hiểu được hoàn toàn biện chứng pháp).
… Piatakov là một người có ý chí xuất chúng và có khả năng xuất chúng nhưng cũng quá ham mê quản lí và khía cạnh quản lí nên khó có thể tin cậy trong những công việc chính trị quan trọng."
Ngoài ra, cần phải nói thêm rằng đại hội XII diễn ra vào tháng 4 năm 1923 đã tăng số lượng uỷ viên trung ương lên thành 40, còn đại hội XIII vào tháng 5 năm 1924, nghĩa là sau khi Lenin chết, tăng lên thành 53. Tại đại hội XII, người ta đã mang "di chúc" của Lenin ra đọc nhưng thống nhất là không công bố. Hơn nữa, Trotsky hoàn toàn phủ nhận việc tồn tại một "di chúc" như thế, đấy là nói khi ông ta còn là đảng viên, còn Stalin không giấu giếm việc "di chúc" có nói đến ông, dĩ nhiên là cho đến khi ông ta có quyền kiểm duyệt cả Lenin nữa.
"Di chúc" của Lenin đáng được phân tích một cách toàn diện trên tất cả các khía cạnh. Nhưng từ những đoạn vừa dẫn, đã có thể thấy rằng Lenin không chuyển giao quyền lực cho ai và chỉ có Stalin là không có khuyết điểm về chính trị mà chỉ có khuyết điểm mang tính cách cá nhân. Điều đó hoàn toàn phù hợp với các sự kiện lịch sử: chỉ một mình Stalin là luôn đứng về phía bolshevik, đứng về phía Lenin mà thôi. Stalin có đầy đủ lí do để khoe tại Hội nghị trung ương ngày 23 tháng 12 năm 1927: "Điều đặc biệt là trong "di chúc" không có nhận xét nào về sai lầm của Stalin cả. "Di chúc" chỉ nói đến sự thô lỗ của Stalin mà thôi. Nhưng thô lỗ không phải và không thể là khuyết điểm của đường lối chính trị hay quan điểm của Stalin."
Sự nghiệp của Lenin trên thực tế đã được tiếp tục như thế nào? Ai là người tiếp tục sự nghiệp đó?
Trong tác phẩm Cuộc đời Lenin, Luis Fisher đã đi đến kết luận rằng cuộc tranh chấp giữa Trotsky và Stalin sẽ không có kết cục đen tối như thế và Liên Xô không rơi vào một cuộc đàn áp toàn triệt như thế nếu Lenin sống thêm được chứng mười năm nữa. Có thể bênh vực quan điểm này một cách đầy thuyết phục, nó có ý nghĩa lí luận to lớn. Nhưng Lenin đã chết và sự nghiệp của Lenin phải được xem xét trên cơ sở thực tiễn, trên cơ sở cuộc xung đột giữa Stalin và Trotsky, xung đột giữa Stalin và phe đối lập, trên cơ sở cuộc đàn áp của Stalin, trên cơ sở của cơ cấu chính trị và xã hội hình thành dưới thời Stalin.
Ở đây, dĩ nhiên cũng không tránh khỏi những cách giải thích khác nhau đơn giản là vì thời Stalin của Liên Xô và của phong trào cộng sản quốc tế vẫn còn là hiện tượng sống động cho đến tận hôm nay, biết bao thế lực và tư tưởng thù địch vẫn đang tranh chấp xung quanh hiện tượng đó.
Nhưng ngay cả có bỏ đi cái quan niệm rằng nước Nga lạc hậu như thế và hệ tư tưởng toàn trị như thế chỉ có thể khởi động bằng một sự ép buộc hành chính mang tính toàn trị thì tôi nghĩ rằng người kế tục sự nghiệp của Lenin nhất quán nhất vẫn là Stalin. Kết luận này không mâu thuẫn với ngay cả giả thuyết rằng Stalin có thể đã giết chính Lenin. Bản chất của học thuyết của Lenin đưa ta đến kết luận như thế: khác với tất cả những người cổ súy cho một xã hội lí tưởng, kể cả Marx, Lenin đã tranh đấu cho một chính quyền toàn trị, chính quyền này sẽ xây dựng xã hội lí tưởng đó, ông đã thiết lập được chính quyền như vậy rồi. Giống như Marx, Lenin gọi đó là chuyên chính vô sản. Nhưng Marx nghĩ rằng chuyên chính vô sản là sự kiểm soát và áp lực của quần chúng công nhân thì đối với Lenin chuyên chính vô sản lại được thực hiện thông qua "đội tiên phong của giai cấp vô sản", nghĩa là thông qua đảng.
Có thể lên án Stalin về mọi việc ông ta đã làm, trừ một việc sau đây: ông ta đã không phản bội lại chính quyền do Lenin xây dựng lên. Khrushchev đã không hiểu điều đó, ông ta không thể hiểu và không dám hiểu. Ông ta tuyên bố chính quyền của Stalin là "sai lầm", là xa rời quan điểm của Lenin, xa rời chủ nghĩa Lenin. Chính vì thế, ông không được lòng giới trí thức và nhân dân nhưng lại phá hỏng quan hệ với bộ máy quan liêu của Đảng, đối với nó, cũng như đối với mọi tổ chức xã hội, lịch sử của nó chính là một phần cuộc sống của nó. George Kennan nhận xét: sau năm 1945, chính quyền Đức không phủ nhận các tội ác của bè lũ phát xít, mặc dù các biện pháp trừng phạt không tương xứng với tội ác do chúng gây ra. Ở đấy có sự gián đoạn của quyền lực. Trong khi đó, ở Liên Xô, Khrushchev nói rằng ông ta đang tiếp tục sự nghiệp của cái Đảng ấy, viết tiếp chính cái lịch sử ấy. Chính quyền do Lenin sáng lập, với một số thay đổi không đáng kể về phương tiện, tiếp tục tồn tại dưới trào Stalin. Và không chỉ chính quyền. Nhưng cốt yếu nhất chính là chính quyền. Cái chính quyền đó, với một chút thay đổi về diện mạo, tiếp tục tồn tại cho đến tận hôm nay
hết: 2., xem tiếp: 3.
Sưu tầm Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 23
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
1.
Lại nói về Stalin, có thể là lần sau chót
Tôi cho rằng những "cuộc nói chuyện" của tôi với Stalin đã chấm dứt. Nhưng cũng như những lần trước, tôi đã lầm, cũng như tôi đã lầm khi cho rằng sau "Xã hội bất toàn" thì tôi sẽ không còn phải viết về "vấn đề tư tưởng" nữa.
Nhưng Stalin là một con quỉ hút máu người đang lởn vởn và sẽ còn phiêu du trên thế gian này một thời gian dài nữa. Mọi người đều đã chối bỏ di sản của ông ta nhưng nhiều người sẽ còn tiếp tục coi di sản đó là nguồn sinh lực của mình. Nhiều kẻ vô tình đã bắt chước ông. Khrushchev bài xích ông nhưng đồng thời lại khâm phục ông. Các lãnh tụ Liên Xô hiện nay không còn khâm phục ông nữa nhưng lại đang tìm hơi ấm trong luồng hào quang của ông. Và Tito, sau mười lăm năm đoạn tuyệt, lại tỏ lòng kính trọng ông. Và tôi thường tự hỏi, nếu tôi còn tiếp tục suy nghĩ về Stalin thì phải chăng đấy chính là chỉ dấu rằng ông vẫn sống trong tôi.
Vậy Stalin là ai? Một nhà hoạt động xã hội vĩ đại? "Một thiên tài quỉ ám"? Một nạn nhân của giáo lí? Hay một kẻ điên rồ, một tên tội phạm đã giành được quyền lực? Tư tưởng mác-xít có ý nghĩa gì đối với ông ta và ông ta đã sử dụng các tư tưởng đó như thế nào? Ông ta nghĩ như thế nào về mình, về sự nghiệp của mình và vị trí của mình trong lịch sử?
Đây chỉ là một vài câu hỏi liên quan đến nhân cách của ông ta mà thôi. Tôi đặt ra các câu hỏi đó vì chúng liên quan đến số phận của thế giới hiện đại, đặc biệt là thế giới cộng sản và vì vậy, tôi có thể nói rằng, chúng có ý nghĩa sâu sắc, phi thời gian.
Từ những câu chuyện với Stalin, tôi nhớ rõ hai điều khẳng định của ông. Điều thứ nhất, nếu tôi không nhầm, thì ông nói vào năm 1945, còn điều thứ hai, tôi nhớ chính xác, được ông nói vào đầu năm 1948.
Điều khẳng định thứ nhất có nội dung như sau: nếu những tiền đề tư tưởng của chúng ta là đúng thì mọi kết luận rút ra từ đó cũng phải đúng. Điều khẳng định thứ hai liên quan đến Marx và Engels. Trong khi nói chuyện, một người nào đó, tôi nghĩ là chính tôi, đã nhấn mạnh rằng thế giới quan của Marx và Engels vẫn sống động và có ý nghĩa thời đại thì Stalin, với dáng điệu của một người đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề đó và đi đến kết luận không thể tranh cãi, đã nhận xét:
"Không nghi ngờ gì rằng các vị là những người sáng lập. Nhưng họ vẫn có những thiếu sót. Không được quên rằng Marx và Engels chịu ảnh hưởng rất mạnh của nền triết học cổ điển Đức, đặc biệt là Kant và Hegel. Trong khi Lenin lại hoàn toàn không chịu những ảnh hưởng như thế…"
Mới nhìn thì những ý kiến như vậy cũng không có gì đặc biệt: ai cũng biết thói quen của những người cộng sản là chia các quan điểm, các hành vi thành "đúng" hay "không đúng", tùy thuộc vào sự trung thành với giáo lí và khả năng thực hiện của chúng. Lenin được người ta tìm mọi cách để biến thành người bảo vệ và kế tục duy nhất sự nghiệp của Marx thì cũng rõ rồi. Nhưng trong những điều khẳng định trên đây của Stalin, có một vài ý không chỉ độc đáo mà còn vô cùng quan trọng cho những cuộc thảo luận của chúng ta.
Khẳng định rằng tiền đề tư tưởng là cơ sở và sự bảo đảm của chiến thắng có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ quan điểm này không mâu thuẫn với luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Marx, theo đó, cơ sở của mọi tư tưởng nằm trong "cấu trúc kinh tế của xã hội"? Chẳng lẽ quan điểm như thế, dù là vô tình, không gần với chủ nghĩa duy tâm, một chủ nghĩa dạy rằng trước hết và quan trọng nhất là trí tuệ và tư tưởng? Rõ ràng là trong khi nói như thế, Stalin không có ý nhắc lại tư tưởng của Marx, theo đó, "lí thuyết sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó lôi cuốn được quần chúng", mà ông nói đến lí luận và tư tưởng trước khi chúng "lôi cuốn được quần chúng". Câu đó có liên hệ gì với ý nghĩ về chính Stalin mà Bukharin đã nói với Kamenev ngay từ tháng 6 năm 1928: "Nếu cần loại bỏ một người nào đó thì ông ta sẵn sàng thay đổi lí luận của mình ngay lập tức" và từ đâu ra cái thái độ phê phán, trước đây chưa ai thấy, đối với Marx và Engels như thế?
Mặc dù có một vài vấn đề như thế, trong các tư tưởng đã dẫn ở trên của Stalin, không có sự thiếu nhất quán. Hơn thế nữa, câu nói của Bukharin, ngay cả nếu không coi đấy là những phát biểu có tính cố chấp bè phái thì theo tôi, cũng không mâu thuẫn với tư tưởng của Stalin về ý nghĩa quyết định của lí luận.
Một trong những lí do, nếu không nói là lí do quan trọng nhất, làm cho những người chống đối Stalin trong Đảng như Trotsky, Bukharin, Zinoviev… đã thua ông ta là vì ông ta là một người mác-xít độc đáo và sáng tạo hơn tất cả bọn họ. Tất nhiên là văn phong của ông ta không bóng bẩy như Trotsky, phân tích không sâu sắc bằng Bukharin. Các trước tác của Stalin trình bày một nhận thức hợp lí về hiện trạng xã hội, là kim chỉ nam cho lực lượng mới. Đưa ra khỏi hiện thực đó, bên ngoài các điều kiện và môi trường đó, tư tưởng của ông ta sẽ trở thành nhạt nhẽo, vô nghĩa. Nhưng đấy chỉ là bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa Marx là sự gắn bó giữa lí luận và thực tiễn:
"Các nhà triết học chỉ giải thích thế giới, nhưng vấn đề là cải tạo nó."
Chủ nghĩa cộng sản và những người cộng sản đã giành được thắng lợi khi họ gắn được lí luận với thực tiễn. Stalin lại kiên trì và khéo léo liên kết học thuyết Marx-Lenin với quyền lực, với sức mạnh của nhà nước. Stalin không phải là một lí thuyết gia chính trị học theo đúng ý nghĩa của từ này: ông ta chỉ nói hay viết khi cuộc đấu tranh trong Đảng hay trong xã hội, mà nhiều khi hai cuộc đấu tranh này diễn ra đồng thời, đòi hỏi như thế. Sức mạnh và sự độc đáo của các quan điểm của Stalin thể hiện rõ trong sự kết hợp giữa tư tưởng và thực tiễn, thể hiện rõ trong chủ nghĩa thực dụng ấy.
Cần phải nói thêm rằng: bỏ qua hay đánh giá không đúng các quan điểm của ông hoặc chỉ xem xét các tác phẩm của ông một cách hính thức, những kẻ giáo điều ở phương Đông cũng như nhiều nhà nghiên cứu Stalin ở phương Tây không thể nhận chân được bản chất của ông ta cũng như các điều kiện đã đưa ông ta đến quyền lực.
Cần phải nhấn mạnh một lần nữa, chủ nghĩa cộng sản kiểu Stalin, các quan điểm của Stalin không bao giờ xuất hiện - dường như chúng hoàn toàn không tồn tại - một cách tách biệt với các nhu cầu của xã hội Liên Xô, của nhà nước Liên Xô sau cách mạng. Đấy là chủ nghĩa Marx của một đảng có nhu cầu sống còn là phải trở thành quyền lực, thành lực lượng "lãnh đạo" quốc gia. Trotsky gọi Stalin kẻ bất tài vĩ đại nhất của Đảng. Bukharin chế giễu Stalin và nói rằng ông ta bị ám ảnh bởi dục vọng viển vông là trở thành một nhà lí luận. Nhưng đấy chỉ là những câu nói bóng bẩy, những ý kiến mang tính phe phái không phù hợp với thực tế. Đúng là Stalin không tư duy lí luận theo đúng nghĩa của từ này. Đấy chỉ là những bài phân tích, không phải là những luận thuyết khoa học. Nhưng để gắn kết tư tưởng với nhu cầu của Đảng, đúng hơn là nhu cầu của bộ máy quan liêu của Đảng, thì những suy luận của Stalin lại có giá trị hơn tất cả những người chống đối ông. Không phải vô tình mà bộ máy quan liêu của Đảng đứng về phía Stalin, cũng như không phải vô tình mà những màn độc thoại tràng giang đại hải, ngày nay có thể coi là điên rồ, của Hitler lại có thể lôi cuốn và ném hàng triệu người Đức "có lí trí" vào cuộc chiến tranh, vào chỗ chết. Stalin chiến thắng không phải vì ông ta "xuyên tạc" chủ nghĩa Marx mà chính vì ông ta biến chủ nghĩa Marx thành hiện thực… Trong khi Trotsky đưa ra hết dự án này đến dự án khác về cách mạng thế giới, còn Bukharin lại đi sâu vào những tiểu tiết và khả năng mang tính giáo điều của việc tư bản hoá các nước thuộc địa, thì Stalin, trong các tài liệu giải thích những "nhiệm vụ cấp bách" lại đồng nhất sự tồn tại và đặc quyền đặc lợi của bộ máy quan liêu vừa xuất hiện và đã thoái hoá của đảng với quá trình công nghiệp hoá và tăng cường sức mạnh của nước Nga.
Trong khi làm như thế, Stalin, một chính khách bẩm sinh và một nhà quản lí khéo léo đã chiếm đoạt những tư tưởng của người khác và khoác cho chúng hình thức thực tiễn. Thí dụ, bước đột phá nổi tiếng nhất của Stalin là "xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước" (Liên Xô) được Bukharin khơi mào và phát triển từ trước, mà lại phát triển trong cuộc đấu tranh chống Trotsky… Trong văn chương, người ta gọi đấy là đạo văn, nhưng trong chính trị thì lại được coi là lợi dụng hoàn cảnh.
Khi Stalin còn sống không ai nói rằng ông ta không phải người mác-xít. Không một người có lí trí nào làm thế hôm nay. Bất đồng chỉ xảy ra khi người ta đánh giá trình độ lí luận của ông cũng như sự nhất quán của ông với tư cách là người kế tục sự nghiệp của Lenin mà thôi.
hết: 1., xem tiếp: 2.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
1.
Lại nói về Stalin, có thể là lần sau chót
Tôi cho rằng những "cuộc nói chuyện" của tôi với Stalin đã chấm dứt. Nhưng cũng như những lần trước, tôi đã lầm, cũng như tôi đã lầm khi cho rằng sau "Xã hội bất toàn" thì tôi sẽ không còn phải viết về "vấn đề tư tưởng" nữa.
Nhưng Stalin là một con quỉ hút máu người đang lởn vởn và sẽ còn phiêu du trên thế gian này một thời gian dài nữa. Mọi người đều đã chối bỏ di sản của ông ta nhưng nhiều người sẽ còn tiếp tục coi di sản đó là nguồn sinh lực của mình. Nhiều kẻ vô tình đã bắt chước ông. Khrushchev bài xích ông nhưng đồng thời lại khâm phục ông. Các lãnh tụ Liên Xô hiện nay không còn khâm phục ông nữa nhưng lại đang tìm hơi ấm trong luồng hào quang của ông. Và Tito, sau mười lăm năm đoạn tuyệt, lại tỏ lòng kính trọng ông. Và tôi thường tự hỏi, nếu tôi còn tiếp tục suy nghĩ về Stalin thì phải chăng đấy chính là chỉ dấu rằng ông vẫn sống trong tôi.
Vậy Stalin là ai? Một nhà hoạt động xã hội vĩ đại? "Một thiên tài quỉ ám"? Một nạn nhân của giáo lí? Hay một kẻ điên rồ, một tên tội phạm đã giành được quyền lực? Tư tưởng mác-xít có ý nghĩa gì đối với ông ta và ông ta đã sử dụng các tư tưởng đó như thế nào? Ông ta nghĩ như thế nào về mình, về sự nghiệp của mình và vị trí của mình trong lịch sử?
Đây chỉ là một vài câu hỏi liên quan đến nhân cách của ông ta mà thôi. Tôi đặt ra các câu hỏi đó vì chúng liên quan đến số phận của thế giới hiện đại, đặc biệt là thế giới cộng sản và vì vậy, tôi có thể nói rằng, chúng có ý nghĩa sâu sắc, phi thời gian.
Từ những câu chuyện với Stalin, tôi nhớ rõ hai điều khẳng định của ông. Điều thứ nhất, nếu tôi không nhầm, thì ông nói vào năm 1945, còn điều thứ hai, tôi nhớ chính xác, được ông nói vào đầu năm 1948.
Điều khẳng định thứ nhất có nội dung như sau: nếu những tiền đề tư tưởng của chúng ta là đúng thì mọi kết luận rút ra từ đó cũng phải đúng. Điều khẳng định thứ hai liên quan đến Marx và Engels. Trong khi nói chuyện, một người nào đó, tôi nghĩ là chính tôi, đã nhấn mạnh rằng thế giới quan của Marx và Engels vẫn sống động và có ý nghĩa thời đại thì Stalin, với dáng điệu của một người đã suy nghĩ rất nhiều về vấn đề đó và đi đến kết luận không thể tranh cãi, đã nhận xét:
"Không nghi ngờ gì rằng các vị là những người sáng lập. Nhưng họ vẫn có những thiếu sót. Không được quên rằng Marx và Engels chịu ảnh hưởng rất mạnh của nền triết học cổ điển Đức, đặc biệt là Kant và Hegel. Trong khi Lenin lại hoàn toàn không chịu những ảnh hưởng như thế…"
Mới nhìn thì những ý kiến như vậy cũng không có gì đặc biệt: ai cũng biết thói quen của những người cộng sản là chia các quan điểm, các hành vi thành "đúng" hay "không đúng", tùy thuộc vào sự trung thành với giáo lí và khả năng thực hiện của chúng. Lenin được người ta tìm mọi cách để biến thành người bảo vệ và kế tục duy nhất sự nghiệp của Marx thì cũng rõ rồi. Nhưng trong những điều khẳng định trên đây của Stalin, có một vài ý không chỉ độc đáo mà còn vô cùng quan trọng cho những cuộc thảo luận của chúng ta.
Khẳng định rằng tiền đề tư tưởng là cơ sở và sự bảo đảm của chiến thắng có ý nghĩa gì? Chẳng lẽ quan điểm này không mâu thuẫn với luận điểm chủ yếu của chủ nghĩa Marx, theo đó, cơ sở của mọi tư tưởng nằm trong "cấu trúc kinh tế của xã hội"? Chẳng lẽ quan điểm như thế, dù là vô tình, không gần với chủ nghĩa duy tâm, một chủ nghĩa dạy rằng trước hết và quan trọng nhất là trí tuệ và tư tưởng? Rõ ràng là trong khi nói như thế, Stalin không có ý nhắc lại tư tưởng của Marx, theo đó, "lí thuyết sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó lôi cuốn được quần chúng", mà ông nói đến lí luận và tư tưởng trước khi chúng "lôi cuốn được quần chúng". Câu đó có liên hệ gì với ý nghĩ về chính Stalin mà Bukharin đã nói với Kamenev ngay từ tháng 6 năm 1928: "Nếu cần loại bỏ một người nào đó thì ông ta sẵn sàng thay đổi lí luận của mình ngay lập tức" và từ đâu ra cái thái độ phê phán, trước đây chưa ai thấy, đối với Marx và Engels như thế?
Mặc dù có một vài vấn đề như thế, trong các tư tưởng đã dẫn ở trên của Stalin, không có sự thiếu nhất quán. Hơn thế nữa, câu nói của Bukharin, ngay cả nếu không coi đấy là những phát biểu có tính cố chấp bè phái thì theo tôi, cũng không mâu thuẫn với tư tưởng của Stalin về ý nghĩa quyết định của lí luận.
Một trong những lí do, nếu không nói là lí do quan trọng nhất, làm cho những người chống đối Stalin trong Đảng như Trotsky, Bukharin, Zinoviev… đã thua ông ta là vì ông ta là một người mác-xít độc đáo và sáng tạo hơn tất cả bọn họ. Tất nhiên là văn phong của ông ta không bóng bẩy như Trotsky, phân tích không sâu sắc bằng Bukharin. Các trước tác của Stalin trình bày một nhận thức hợp lí về hiện trạng xã hội, là kim chỉ nam cho lực lượng mới. Đưa ra khỏi hiện thực đó, bên ngoài các điều kiện và môi trường đó, tư tưởng của ông ta sẽ trở thành nhạt nhẽo, vô nghĩa. Nhưng đấy chỉ là bên ngoài.
Bản chất của chủ nghĩa Marx là sự gắn bó giữa lí luận và thực tiễn:
"Các nhà triết học chỉ giải thích thế giới, nhưng vấn đề là cải tạo nó."
Chủ nghĩa cộng sản và những người cộng sản đã giành được thắng lợi khi họ gắn được lí luận với thực tiễn. Stalin lại kiên trì và khéo léo liên kết học thuyết Marx-Lenin với quyền lực, với sức mạnh của nhà nước. Stalin không phải là một lí thuyết gia chính trị học theo đúng ý nghĩa của từ này: ông ta chỉ nói hay viết khi cuộc đấu tranh trong Đảng hay trong xã hội, mà nhiều khi hai cuộc đấu tranh này diễn ra đồng thời, đòi hỏi như thế. Sức mạnh và sự độc đáo của các quan điểm của Stalin thể hiện rõ trong sự kết hợp giữa tư tưởng và thực tiễn, thể hiện rõ trong chủ nghĩa thực dụng ấy.
Cần phải nói thêm rằng: bỏ qua hay đánh giá không đúng các quan điểm của ông hoặc chỉ xem xét các tác phẩm của ông một cách hính thức, những kẻ giáo điều ở phương Đông cũng như nhiều nhà nghiên cứu Stalin ở phương Tây không thể nhận chân được bản chất của ông ta cũng như các điều kiện đã đưa ông ta đến quyền lực.
Cần phải nhấn mạnh một lần nữa, chủ nghĩa cộng sản kiểu Stalin, các quan điểm của Stalin không bao giờ xuất hiện - dường như chúng hoàn toàn không tồn tại - một cách tách biệt với các nhu cầu của xã hội Liên Xô, của nhà nước Liên Xô sau cách mạng. Đấy là chủ nghĩa Marx của một đảng có nhu cầu sống còn là phải trở thành quyền lực, thành lực lượng "lãnh đạo" quốc gia. Trotsky gọi Stalin kẻ bất tài vĩ đại nhất của Đảng. Bukharin chế giễu Stalin và nói rằng ông ta bị ám ảnh bởi dục vọng viển vông là trở thành một nhà lí luận. Nhưng đấy chỉ là những câu nói bóng bẩy, những ý kiến mang tính phe phái không phù hợp với thực tế. Đúng là Stalin không tư duy lí luận theo đúng nghĩa của từ này. Đấy chỉ là những bài phân tích, không phải là những luận thuyết khoa học. Nhưng để gắn kết tư tưởng với nhu cầu của Đảng, đúng hơn là nhu cầu của bộ máy quan liêu của Đảng, thì những suy luận của Stalin lại có giá trị hơn tất cả những người chống đối ông. Không phải vô tình mà bộ máy quan liêu của Đảng đứng về phía Stalin, cũng như không phải vô tình mà những màn độc thoại tràng giang đại hải, ngày nay có thể coi là điên rồ, của Hitler lại có thể lôi cuốn và ném hàng triệu người Đức "có lí trí" vào cuộc chiến tranh, vào chỗ chết. Stalin chiến thắng không phải vì ông ta "xuyên tạc" chủ nghĩa Marx mà chính vì ông ta biến chủ nghĩa Marx thành hiện thực… Trong khi Trotsky đưa ra hết dự án này đến dự án khác về cách mạng thế giới, còn Bukharin lại đi sâu vào những tiểu tiết và khả năng mang tính giáo điều của việc tư bản hoá các nước thuộc địa, thì Stalin, trong các tài liệu giải thích những "nhiệm vụ cấp bách" lại đồng nhất sự tồn tại và đặc quyền đặc lợi của bộ máy quan liêu vừa xuất hiện và đã thoái hoá của đảng với quá trình công nghiệp hoá và tăng cường sức mạnh của nước Nga.
Trong khi làm như thế, Stalin, một chính khách bẩm sinh và một nhà quản lí khéo léo đã chiếm đoạt những tư tưởng của người khác và khoác cho chúng hình thức thực tiễn. Thí dụ, bước đột phá nổi tiếng nhất của Stalin là "xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước" (Liên Xô) được Bukharin khơi mào và phát triển từ trước, mà lại phát triển trong cuộc đấu tranh chống Trotsky… Trong văn chương, người ta gọi đấy là đạo văn, nhưng trong chính trị thì lại được coi là lợi dụng hoàn cảnh.
Khi Stalin còn sống không ai nói rằng ông ta không phải người mác-xít. Không một người có lí trí nào làm thế hôm nay. Bất đồng chỉ xảy ra khi người ta đánh giá trình độ lí luận của ông cũng như sự nhất quán của ông với tư cách là người kế tục sự nghiệp của Lenin mà thôi.
hết: 1., xem tiếp: 2.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 22
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
Kết luận
Nhiều người, trong đó dĩ nhiên là có Trotsky, đặc biệt nhấn mạnh những bản năng tội phạm, bản năng khát máu của Stalin. Tôi không muốn phủ nhận cũng như khẳng định vì không có đủ dữ kiện. Gần đây, ở Moskva, người ta đã tuyên bố rằng có thể ông ta đã giết Kirov để lấy cớ đàn áp phong trào đối lập trong Đảng. Bàn tay ông ta cũng có thể đã nhúng cả vào cái chết của Gorky. Trotsky còn nghi rằng ông ta đã cho giết Lenin dường như để ông khỏi bị đau đớn thêm. Có người khẳng định rằng ông ta đã giết vợ hoặc là đối xử một cách thô bạo quá đến nỗi bà phải tự sát. Vì cái giai thoại bà đã bị ngộ độc khi nếm món ăn mà người ta chuẩn bị cho chồng do bộ máy tuyên truyền của Stalin tạo ra nghe có vẻ vừa thơ mộng vừa ngây ngô quá.
Stalin có thể thực hiện mọi tội ác, chưa có tội ác nào mà ông ta không phạm. Dù dùng tiêu chuẩn nào thì ông ta cũng là một kẻ tội đồ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, chúng ta hãy hi vọng như thế. Vì ông ta là sự kết hợp của sự tàn ác của Caligula, sự cầu kì của Borgia và sự man rợ của Ivan Bạo chúa.
Nhưng tôi đã và vẫn suy nghĩ mãi về câu hỏi: làm sao mà một con người nham hiểm và độc ác như thế lại có thể lãnh đạo một trong những nước vĩ đại và mạnh mẽ nhất thế giới, không phải một, không phải hai năm mà những ba mươi năm chẵn? Đấy chính là điều những người phê phán, những hậu duệ của Stalin phải lí giải. Khi họ chưa làm điều đó thì có thể khẳng định rằng họ đang tiếp tục công việc của ông ta, đang sử dụng những ý tưởng, hình thức và phương tiện mà ông ta đã dùng.
Đúng là Stalin đã lợi dụng cơ hội của một nước Nga sau cách mạng đã bị kiệt sức và rơi vào tình trạng tuyệt vọng để nô dịch toàn bộ xã hội. Nhưng cũng đúng là một người như thế, một người cuồng tín, quyết đoán, trắng trợn và rất thực tế lại rất cần cho một số tầng lớp nhất định, đúng hơn là cần cho tầng lớp đảng viên quan liêu đã nắm được quyền lực. Đảng cầm quyền đã kiên trì và ngoan ngoãn đi theo ông ta. Ông ta đã dẫn Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cho đến khi ông ta say mê quyền lực đến độ phạm tội chống lại chính cái Đảng ấy. Hiện nay, Đảng mới chỉ kết án ông ta về một tội ấy mà thôi, nó chưa nói đến những tội lỗi lớn hơn, hay ít nhất cũng dã man không kém, đấy là tội ác chống lại "kẻ thù giai cấp", đúng hơn là chống lại tầng lớp nông dân và trí thức, cũng như những trào lưu tả và hữu khuynh trong Đảng. Khi cái Đảng ấy, trên lí thuyết và đặc biệt là trong thực tế, chưa đoạn tuyệt với bản chất của chủ nghĩa Stalin, mà cụ thể là sự thống nhất về tư tưởng và sự đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng, thì đấy chính là dấu hiệu tỏ ra rằng nó vẫn chưa thoát khỏi bóng ma của Stalin. Vì vậy, tôi cho rằng niềm vui vì đã loại bỏ được cái gọi là nhóm chống đảng Molotov, dù ông ta có là kẻ nhơ nhuốc và quan điểm của ông ta có tàn bạo đến đâu, cũng là những niềm vui nhỏ và quá sớm. Vấn đề không phải là nhóm này hay nhóm kia, vấn đề là khả năng tồn tại của các nhóm như vậy nói chung, vấn đề là người ta đã từ bỏ, ít nhất trong giai đoạn đầu, sự độc quyền về tư tưởng và chính trị rồi sau đó sẽ từ bỏ cả những sự độc quyền khác của một nhóm ở Liên Xô hay chưa. Bóng ma của Stalin vẫn còn đó, sợ rằng nó sẽ còn tồn tại ở Liên Xô trong một thời gian dài nữa, đấy là giả sử không xảy ra chiến tranh. Dù bị nguyền rủa, Stalin vẫn còn sống trong nền tảng tinh thần và xã hội Liên Xô.
Trở lại với Lenin trên lời nói và trong các bài diễn văn không thay đổi được bản chất của vấn đề, tố cáo một tội ác nào đó của Stalin dễ hơn là lờ đi rằng con người này "đã xây dựng chủ nghĩa xã hội", tức là đã đặt nền móng cho xã hội Xô viết và đế chế Liên Xô ngày nay. Điều đó nói lên rằng xã hội Liên Xô, dù đã đạt được những thành tựu to lớn về kĩ thuật, mà cũng có thể do những thành tựu ấy, nếu đã bắt đầu thay đổi thì cũng còn là tù binh của những luật lệ giáo điều do Stalin đặt ra.
Dù có hoài nghi như thế, ta vẫn có quyền hi vọng rằng trong một tương lai không xa có thể sẽ xuất hiện những tư tưởng mới và các hiện tượng mới nếu chưa làm lung lay "tinh thần đoàn kết nhất trí" của Khushchev thì ít nhất cũng có thể vạch ra được bản chất và những mâu thuẫn của nó. Hiện nay thì chưa có điều kiện như thế: những người cầm quyền còn nghèo đến nỗi chủ nghĩa giáo điều cũng như độc chiếm quyền lực không cản trở họ, cũng như chưa phải là thừa đối với họ, còn nền kinh tế Liên Xô thì có thể sống trong tình trạng cách li như thế trong đế chế của mình, mặc dù tách rời khỏi thị trường thế giới nghĩa là phải chịu nhiều thiệt thòi.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có kích thước và giá trị khác nhau, tùy vào cách nhìn.
Stalin cũng vậy.
Nếu nhìn từ quan điểm nhân bản và tự do thì lịch sử chưa từng biết đến một kẻ độc tài nào lại dã man và vô liêm sỉ bằng Stalin. Ông ta là một tội phạm có phương pháp hơn, toàn triệt hơn Hitler. Ông ta là một trong rất ít những kẻ giáo điều khủng khiềp có thể giết đến chín phần mười nhân loại để tạo "hạnh phúc" cho một phần mười còn lại.
Nhưng nếu phân tích vai trò thực sự của Stalin đối với lịch sử phong trào cộng sản thì bên cạnh Lenin, cho đến nay, ông ta vẫn là một nhân vật vĩ đại nhất. Đóng góp của ông vào tư tưởng cộng sản không nhiều nhưng ông đã bảo vệ và biến chúng thành xã hội, thành nhà nước. Ông không tạo ra được một xã hội lí tưởng, điều đó là bất khả vì bản chất của con người là thế, nhưng ông đã biến nước Nga lạc hậu thành một nước công nghiệp và một đế chế đang quyết tâm đòi quyền bá chủ thế giới. Nếu phân tích như thế, ta sẽ phát hiện ra rằng ông ta đã xây dựng được một xã hội bất công nhất thời nay, nếu không phải là bất công nhất trong toàn bộ lịch sử, hoặc ít nhất đấy cũng là một xã hội bất công, bất bình đẳng và không có tự do.
Song nếu nhìn từ quan điểm thành công và sự nhạy bén chính trị thì có thể nói, không một nhà hoạt động chính trị nào thời đó có thể vượt qua được Stalin.
Đương nhiên, tôi không coi thành công trong đấu tranh chính trị là giá trị tuyệt đối cao nhất. Tôi cũng hoàn toàn xa lạ với quan niệm coi chính trị là vô luân, mặc dù chính trị là cuộc đấu tranh cho sự tồn tại của những cộng đồng người nhất định nên có thể bỏ qua các tiêu chuẩn đạo đức. Một nhà hoạt động chính trị lớn, theo tôi, là người biết dung hợp tư tưởng với hiện thực, người biết và có thể kiên trì đi tới mục đích của mình, đồng thời vẫn giữ được những giá trị đạo đức chủ yếu.
Xét đến cùng, Stalin đúng là một kẻ quái đản, một người theo đuổi những tư tưởng trừu tượng, tuyệt đối và về bản chất là các tư tưởng không tưởng, việc thực hiện thành công nó trên thực tế đồng nghĩa với đàn áp, tiêu diệt cả về thể xác lẫn tinh thần của con người.
Nhưng chúng ta không được tỏ ra bất công với Stalin!
Điều ông định làm và cái ông đã làm được không thể có cách làm nào khác. Những kẻ đã ca ngợi ông và những kẻ đã được ông lãnh đạo, với những lí tưởng tuyệt đối, với những hình thức sở hữu và chính quyền biệt lập của họ, với tầm vóc phát triển các mối quan hệ quốc tế của nước Nga lúc đó, cũng không thể đưa ra một lãnh tụ nào khác, không thể áp dụng những biện pháp khác. Stalin là người tạo ra hệ thống biệt lập ấy, đồng thời là công cụ của nó và khi hoàn cảnh thay đổi thì ông trở thành nạn nhân của nó, tuy quá muộn. Stalin là người không ai có thể vượt qua, nếu xét ông như một lãnh tụ và nhà tổ chức của một hệ thống xã hội nhất định. "Các sai lầm" của ông rõ hơn của những người khác, vì vậy, hi sinh Stalin là cái giá rẻ nhất mà các lãnh tụ của hệ thống này có thể trả để cứu mình và cứu cả hệ thống với những tội lỗi còn quan trọng hơn và lớn hơn rất nhiều.
Và việc lật đổ Stalin, dù nó có khôi hài và không triệt để đến đâu đi chăng nữa, là sự khẳng định rằng sự thật đã chiến thắng, tuy rằng một số người đấu tranh cho nó có thể đã chết, nhưng lương tâm con người thì không ai có thể nào tiêu diệt được.
Nhưng đáng tiếc là, hôm nay, sau cái gọi là quá trình phi Stalin hoá, vẫn có thể nói như trước khi quá trình ấy chưa diễn ra, xã hội do Stalin xây dựng, tạo lập vẫn tồn tại hệt như trước và những ai muốn sống trong một thế giới khác cái thế giới của Stalin vẫn còn phải tiếp tục đấu tranh.
Belgrad
Tháng 9 – tháng 11 năm 1961.
hết: Kết luận, xem tiếp: 1.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
Kết luận
Nhiều người, trong đó dĩ nhiên là có Trotsky, đặc biệt nhấn mạnh những bản năng tội phạm, bản năng khát máu của Stalin. Tôi không muốn phủ nhận cũng như khẳng định vì không có đủ dữ kiện. Gần đây, ở Moskva, người ta đã tuyên bố rằng có thể ông ta đã giết Kirov để lấy cớ đàn áp phong trào đối lập trong Đảng. Bàn tay ông ta cũng có thể đã nhúng cả vào cái chết của Gorky. Trotsky còn nghi rằng ông ta đã cho giết Lenin dường như để ông khỏi bị đau đớn thêm. Có người khẳng định rằng ông ta đã giết vợ hoặc là đối xử một cách thô bạo quá đến nỗi bà phải tự sát. Vì cái giai thoại bà đã bị ngộ độc khi nếm món ăn mà người ta chuẩn bị cho chồng do bộ máy tuyên truyền của Stalin tạo ra nghe có vẻ vừa thơ mộng vừa ngây ngô quá.
Stalin có thể thực hiện mọi tội ác, chưa có tội ác nào mà ông ta không phạm. Dù dùng tiêu chuẩn nào thì ông ta cũng là một kẻ tội đồ vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, chúng ta hãy hi vọng như thế. Vì ông ta là sự kết hợp của sự tàn ác của Caligula, sự cầu kì của Borgia và sự man rợ của Ivan Bạo chúa.
Nhưng tôi đã và vẫn suy nghĩ mãi về câu hỏi: làm sao mà một con người nham hiểm và độc ác như thế lại có thể lãnh đạo một trong những nước vĩ đại và mạnh mẽ nhất thế giới, không phải một, không phải hai năm mà những ba mươi năm chẵn? Đấy chính là điều những người phê phán, những hậu duệ của Stalin phải lí giải. Khi họ chưa làm điều đó thì có thể khẳng định rằng họ đang tiếp tục công việc của ông ta, đang sử dụng những ý tưởng, hình thức và phương tiện mà ông ta đã dùng.
Đúng là Stalin đã lợi dụng cơ hội của một nước Nga sau cách mạng đã bị kiệt sức và rơi vào tình trạng tuyệt vọng để nô dịch toàn bộ xã hội. Nhưng cũng đúng là một người như thế, một người cuồng tín, quyết đoán, trắng trợn và rất thực tế lại rất cần cho một số tầng lớp nhất định, đúng hơn là cần cho tầng lớp đảng viên quan liêu đã nắm được quyền lực. Đảng cầm quyền đã kiên trì và ngoan ngoãn đi theo ông ta. Ông ta đã dẫn Đảng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cho đến khi ông ta say mê quyền lực đến độ phạm tội chống lại chính cái Đảng ấy. Hiện nay, Đảng mới chỉ kết án ông ta về một tội ấy mà thôi, nó chưa nói đến những tội lỗi lớn hơn, hay ít nhất cũng dã man không kém, đấy là tội ác chống lại "kẻ thù giai cấp", đúng hơn là chống lại tầng lớp nông dân và trí thức, cũng như những trào lưu tả và hữu khuynh trong Đảng. Khi cái Đảng ấy, trên lí thuyết và đặc biệt là trong thực tế, chưa đoạn tuyệt với bản chất của chủ nghĩa Stalin, mà cụ thể là sự thống nhất về tư tưởng và sự đoàn kết nhất trí trong toàn Đảng, thì đấy chính là dấu hiệu tỏ ra rằng nó vẫn chưa thoát khỏi bóng ma của Stalin. Vì vậy, tôi cho rằng niềm vui vì đã loại bỏ được cái gọi là nhóm chống đảng Molotov, dù ông ta có là kẻ nhơ nhuốc và quan điểm của ông ta có tàn bạo đến đâu, cũng là những niềm vui nhỏ và quá sớm. Vấn đề không phải là nhóm này hay nhóm kia, vấn đề là khả năng tồn tại của các nhóm như vậy nói chung, vấn đề là người ta đã từ bỏ, ít nhất trong giai đoạn đầu, sự độc quyền về tư tưởng và chính trị rồi sau đó sẽ từ bỏ cả những sự độc quyền khác của một nhóm ở Liên Xô hay chưa. Bóng ma của Stalin vẫn còn đó, sợ rằng nó sẽ còn tồn tại ở Liên Xô trong một thời gian dài nữa, đấy là giả sử không xảy ra chiến tranh. Dù bị nguyền rủa, Stalin vẫn còn sống trong nền tảng tinh thần và xã hội Liên Xô.
Trở lại với Lenin trên lời nói và trong các bài diễn văn không thay đổi được bản chất của vấn đề, tố cáo một tội ác nào đó của Stalin dễ hơn là lờ đi rằng con người này "đã xây dựng chủ nghĩa xã hội", tức là đã đặt nền móng cho xã hội Xô viết và đế chế Liên Xô ngày nay. Điều đó nói lên rằng xã hội Liên Xô, dù đã đạt được những thành tựu to lớn về kĩ thuật, mà cũng có thể do những thành tựu ấy, nếu đã bắt đầu thay đổi thì cũng còn là tù binh của những luật lệ giáo điều do Stalin đặt ra.
Dù có hoài nghi như thế, ta vẫn có quyền hi vọng rằng trong một tương lai không xa có thể sẽ xuất hiện những tư tưởng mới và các hiện tượng mới nếu chưa làm lung lay "tinh thần đoàn kết nhất trí" của Khushchev thì ít nhất cũng có thể vạch ra được bản chất và những mâu thuẫn của nó. Hiện nay thì chưa có điều kiện như thế: những người cầm quyền còn nghèo đến nỗi chủ nghĩa giáo điều cũng như độc chiếm quyền lực không cản trở họ, cũng như chưa phải là thừa đối với họ, còn nền kinh tế Liên Xô thì có thể sống trong tình trạng cách li như thế trong đế chế của mình, mặc dù tách rời khỏi thị trường thế giới nghĩa là phải chịu nhiều thiệt thòi.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều có kích thước và giá trị khác nhau, tùy vào cách nhìn.
Stalin cũng vậy.
Nếu nhìn từ quan điểm nhân bản và tự do thì lịch sử chưa từng biết đến một kẻ độc tài nào lại dã man và vô liêm sỉ bằng Stalin. Ông ta là một tội phạm có phương pháp hơn, toàn triệt hơn Hitler. Ông ta là một trong rất ít những kẻ giáo điều khủng khiềp có thể giết đến chín phần mười nhân loại để tạo "hạnh phúc" cho một phần mười còn lại.
Nhưng nếu phân tích vai trò thực sự của Stalin đối với lịch sử phong trào cộng sản thì bên cạnh Lenin, cho đến nay, ông ta vẫn là một nhân vật vĩ đại nhất. Đóng góp của ông vào tư tưởng cộng sản không nhiều nhưng ông đã bảo vệ và biến chúng thành xã hội, thành nhà nước. Ông không tạo ra được một xã hội lí tưởng, điều đó là bất khả vì bản chất của con người là thế, nhưng ông đã biến nước Nga lạc hậu thành một nước công nghiệp và một đế chế đang quyết tâm đòi quyền bá chủ thế giới. Nếu phân tích như thế, ta sẽ phát hiện ra rằng ông ta đã xây dựng được một xã hội bất công nhất thời nay, nếu không phải là bất công nhất trong toàn bộ lịch sử, hoặc ít nhất đấy cũng là một xã hội bất công, bất bình đẳng và không có tự do.
Song nếu nhìn từ quan điểm thành công và sự nhạy bén chính trị thì có thể nói, không một nhà hoạt động chính trị nào thời đó có thể vượt qua được Stalin.
Đương nhiên, tôi không coi thành công trong đấu tranh chính trị là giá trị tuyệt đối cao nhất. Tôi cũng hoàn toàn xa lạ với quan niệm coi chính trị là vô luân, mặc dù chính trị là cuộc đấu tranh cho sự tồn tại của những cộng đồng người nhất định nên có thể bỏ qua các tiêu chuẩn đạo đức. Một nhà hoạt động chính trị lớn, theo tôi, là người biết dung hợp tư tưởng với hiện thực, người biết và có thể kiên trì đi tới mục đích của mình, đồng thời vẫn giữ được những giá trị đạo đức chủ yếu.
Xét đến cùng, Stalin đúng là một kẻ quái đản, một người theo đuổi những tư tưởng trừu tượng, tuyệt đối và về bản chất là các tư tưởng không tưởng, việc thực hiện thành công nó trên thực tế đồng nghĩa với đàn áp, tiêu diệt cả về thể xác lẫn tinh thần của con người.
Nhưng chúng ta không được tỏ ra bất công với Stalin!
Điều ông định làm và cái ông đã làm được không thể có cách làm nào khác. Những kẻ đã ca ngợi ông và những kẻ đã được ông lãnh đạo, với những lí tưởng tuyệt đối, với những hình thức sở hữu và chính quyền biệt lập của họ, với tầm vóc phát triển các mối quan hệ quốc tế của nước Nga lúc đó, cũng không thể đưa ra một lãnh tụ nào khác, không thể áp dụng những biện pháp khác. Stalin là người tạo ra hệ thống biệt lập ấy, đồng thời là công cụ của nó và khi hoàn cảnh thay đổi thì ông trở thành nạn nhân của nó, tuy quá muộn. Stalin là người không ai có thể vượt qua, nếu xét ông như một lãnh tụ và nhà tổ chức của một hệ thống xã hội nhất định. "Các sai lầm" của ông rõ hơn của những người khác, vì vậy, hi sinh Stalin là cái giá rẻ nhất mà các lãnh tụ của hệ thống này có thể trả để cứu mình và cứu cả hệ thống với những tội lỗi còn quan trọng hơn và lớn hơn rất nhiều.
Và việc lật đổ Stalin, dù nó có khôi hài và không triệt để đến đâu đi chăng nữa, là sự khẳng định rằng sự thật đã chiến thắng, tuy rằng một số người đấu tranh cho nó có thể đã chết, nhưng lương tâm con người thì không ai có thể nào tiêu diệt được.
Nhưng đáng tiếc là, hôm nay, sau cái gọi là quá trình phi Stalin hoá, vẫn có thể nói như trước khi quá trình ấy chưa diễn ra, xã hội do Stalin xây dựng, tạo lập vẫn tồn tại hệt như trước và những ai muốn sống trong một thế giới khác cái thế giới của Stalin vẫn còn phải tiếp tục đấu tranh.
Belgrad
Tháng 9 – tháng 11 năm 1961.
hết: Kết luận, xem tiếp: 1.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 21
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
20.
"Thấy ngày tháng cứ trôi đi một cách vô ích, Koca Popovic quyết định đi về, chỉ để Todorovich ở Moskva đợi xem tình hình phát triển ra sao, đúng hơn là đợi xem khi nào thì các nhà lãnh đạo cao cấp ở đây hạ cố khởi động lại các cuộc đàm phán. Đáng lẽ tôi cũng đi về với Popovic, nếu không có thông báo từ Belgrad rằng Kardelj và Bakaric đang trên đường tới Moskva và tôi phải tham gia thảo luận với chính phủ Liên Xô để tháo gỡ "các khó khăn" .
Kardelj và Bakaric đến vào sáng chủ nhật, mồng 8 tháng 2 năm 1948. Chính phủ Liên Xô không mời hai vị này mà mời đích danh Tito, nhưng Belgrad lấy cớ rằng Tito bị mệt nên cử Kardeljj đi thay, ngay chuyện này đã chứng tỏ hai bên không còn tin nhau nữa. Cùng lúc đó, đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Bulgaria cũng được mời tới Moskva, Lesakov thông báo với chúng tôi như thế, anh ta còn nhấn mạnh rằng đoàn Bulgaria có các "nhân vật chính".
Trước đó không lâu, ngày 28 tháng 1 năm 1948, tờ Sự thật phê phán Dimitrov và đoạn tuyệt với "những liên bang bịa tạc và đáng ngờ" cũng như các liên minh hải quan của ông. Đây là một lời cảnh cáo, một lời cảnh báo những biện pháp mới và đường lối cứng rắn hơn của chính phủ Liên Xô.
Kardeljj và Bakarik được bố trí sống trong một nhà nghỉ ở ngoại ô Moskva, tôi cũng xin chuyển đến ở cùng nhà với họ. Ngay đêm đó, khi vợ Kardeljj đã ngủ, còn chính ông thì đã nằm trên giường và tôi ngồi cạnh ông thì thầm trò chuyện. Tôi nói cho ông biết cảm tưởng của mình trong thời gian ở Moskva và những cuộc tiếp xúc với các cấp lãnh đạo tối cao Liên Xô. Nói gọn lại là đừng hi vọng gì vào sự giúp đỡ, chúng ta phải dựa vào sức mình là chính vì chính phủ Liên Xô nhất định sẽ tiến hành chính sách khuất phục để đưa Nam Tư xuống ngang hàng với các nước bị họ chiếm đóng ở Đông Âu.
Lúc đó, mà cũng có thể ngay từ khi vừa mới tới, Kardeljj đã thông báo cho tôi biết nguyên nhân của sự tranh chấp với Moskva, đấy là hiệp định giữa chính phủ Nam Tư và chính phủ Albania về việc đưa hai sư đoàn Nam Tư vào Albania. Các sư đoàn còn đang được kiện toàn nhưng một đại đội máy bay đã có mặt ở Albania rồi; Moskva kịch liệt chống lại và không chấp nhận cách giải thích là các sư đoàn quân Nam Tư phải bảo vệ Albania trong trường hợp xảy ra cuộc tấn công của "bọn phát xít-quân chủ" Hi Lạp. Trong bức điện gửi Belgrad, Molotov đe doạ sẽ xảy ra xung đột công khai.
Tôi cũng không thích việc đưa các sư đoàn vào Albania, đây là lần đầu tiên tôi được nghe chuyện này và hỏi Kardeljj mục đích của việc đó. Ông ta đánh trống lảng và bảo rằng mình không tham gia…
Tôi không thể khẳng định giả thuyết được đưa ra là các sư đoàn quân Nam Tư được đưa vào Albania theo yêu cầu của Enver Hoxha, mà ông này lại được Moskva xúi giục để lấy cớ lên án chính phủ Nam Tư có ý đồ xâm lược và đế quốc chủ nghĩa. Dĩ nhiên là như thế không có nghĩa là tôi phần nào biện hộ cho sự phản trắc và cũng như sự tàn bạo kinh tởm nhất của Hoxha mà ông ta tiến hành sau đó đối với các đồng chí và chính đồng bào của mình. Vấn đề là các sự kiện chứ không phải cách giải thích, mà sự kiện thì phải được trình bày như chúng đã từng là.
Chính phủ Albania đã đồng ý đưa các sư đoàn quân Nam Tư vào, mặc dù tôi cho rằng họ không thật lòng; để đi đến cùng khi xem xét vấn đề cần phải chú ý đến quan hệ đã xấu đi giữa Nam Tư và Liên Xô và trước hết, phải phân tích quan hệ giữa Belgrad và Tirana vào thời gian diễn ra các sự kiện vừa nêu.
Ngay ngày hôm sau, trong khi cùng Kardeljj đi dạo trong công viên dưới ánh mắt theo dõi của các nhân viên tình báo Liên Xô, mặt họ có vẻ buồn vì không nghe được chúng tôi nói gì, chúng tôi, có cả Bakaric, đã thảo luận kĩ và phân tích một cách triệt để hơn.
Mặc dù còn một vài bất đồng về lí luận nhưng chúng tôi hoàn toàn thống nhất về biện pháp giải quyết, như thường lệ, tôi ủng hộ những biện pháp quyết liệt và không thể đảo ngược được.
Cho đến tận chiếu ngày hôm sau, 10 tháng giêng, phía Liên Xô vẫn chưa đưa ra ý kiến gì; khoảng 9 giờ tối hôm đó, họ bảo chúng tôi lên xe và đưa vào thẳng phòng làm việc của Stalin trong Điện Kremli. Chúng tôi ngồi đợi các đại biểu Bulgaria gồm Dimitrov, Kolarov, Kostov chừng mười lăm phút. Họ vừa đến là tất cả được đưa vào gặp Stalin ngay.
Stalin ngồi ở đầu bàn, bên phải là các đại diện Liên Xô: Molotov, Zhdanov, Malenkov, Suslov, Zorin, bên trái là đại diện Bulgaria: Kolarov, Dimitrov, Kostov rồi đến đoàn Nam Tư: Kardeljj, tôi, Bakaric.
Về cuộc gặp gỡ này, tôi đã có báo cáo bằng văn bản gửi Ban chấp hành trung ương. Nay tôi không có điều kiện xem lại bản báo cáo đó, những điều trình bày dưới đây là dựa trên trí nhớ của tôi và của những tài liệu đã được công bố về cuộc gặp gỡ nói trên.
Molotov phát biểu trước; ông ta thông báo một cách ngắn gọn rằng đã xuất hiện một sự bất đồng sâu sắc giữa một bên là chính phủ Liên Xô còn bên kia là chính phủ Nam Tư và Bulgaria, đấy là điều không thể chấp nhận được từ quan điểm của đảng cũng như quan điểm nhà nước.
Thí dụ về sự bất đồng đó là việc kí hiệp định hữu nghị giữa Nam Tư và Bulgaria, mặc dù chính phủ Liên Xô cho rằng Bulgaria không nên kí bất kì hiệp định nào trước khi có hoà bình.
Molotv muốn nói cụ thể về tuyên bố của Dimitrov ở Bucarest về việc thành lập liên bang Đông Âu, trong đó có nhắc đến cả Hi Lạp và liên minh hải quan cũng như việc phối hợp kế hoạch công nghiệp giữa Rumania và Bulgaria. Nhưng Stalin ngắt lời:
"Trong các cuộc họp báo, đồng chí Dimitrov phát biểu say sưa quá, không còn biết mình nói gì nữa. Tất cả những gì đồng chí ấy nói, cũng như tất cả những gì Tito nói, ở nước ngoài người ta đều cho rằng đã được chúng tôi cho phép rồi. Thí dụ gần đây có các đồng chí Ba Lan. Tôi hỏi: các đồng chí nghĩ thế nào về tuyên bố của Dimitrov? Họ bảo: hay quá. Còn tôi bảo: không, không hay. Thế là họ bảo rằng họ nghĩ là không hay nếu chính phủ Liên Xô cho là như thế. Họ nghĩ rằng Dimitrov tuyên bố thế là đã thoả thuận và được sự đồng ý của chính phủ Liên Xô rồi nên họ mới ủng hộ. Sau đó, Dimitrov có định thông qua hãng thông tấn Bulgaria sửa lại tuyên bố đó nhưng chẳng sửa chữa được gì. Hơn nữa, đồng chí còn đưa ra thí dụ về việc chính phủ Áo - Hung đã ngăn cản việc thiết lập liên minh hải quan giữa Bulgaria và Serbia, kết luận rõ ràng là trước đây thì người Đức còn bây giờ thì người Nga ngăn cản chứ gì? Vấn đề là gì vậy?"
Molotov tiếp tục nói rằng chính phủ Bulgaria có ý định thành lập liên bang với Rumania mà không tham khảo ý kiến Liên Xô.
Molotov cố gắng giảm nhẹ vấn đề bằng cách nhấn mạnh rằng ông không nói đến một liên bang cụ thể nào.
"Không, các đồng chí đã thoả thuận về liên minh hải quan, về phối hợp kế hoạch công nghiệp", Stalin ngắt lời.
Molotov thêm:
"Liên minh hải quan và phối hợp kinh tế không phải là thành lập một nhà nước à?"
Vào thời khắc đó, bản chất của cuộc gặp, dù không ai nói ra, đã lộ diện hoàn toàn: quan hệ giữa các nền "dân chủ nhân dân" không thể nào phát triển được nếu những quan hệ đó không phù hợp với quyền lợi và chưa được chính phủ Liên Xô đồng ý. Rõ ràng là đối với những lãnh tụ đầy tinh thần sô vanh, nước lớn Liên Xô, những người luôn coi Liên Xô là "lực lượng tiên phong của chủ nghĩa xã hội" và luôn luôn nhớ rằng Hồng quân đã giải phóng Rumania và Bulgaria, tuyên bố của Dimitrov, tình trạng vô kỉ luật và tự tiện của Nam Tư không chỉ được coi là tà đạo mà còn là sự xâm phạm những quyền "thiêng liêng" của họ nữa.
Dimitrov cố gắng giải thích, cố gắng biện hộ, nhưng bị Stalin ngắt lời suốt.
Đấy là con người thật của Stalin, sự sắc sảo của ông đã biến thành thô lỗ độc địa, thói bất dung đã trở thành không khoan nhượng. Nhưng dù sao ông cũng cố giữ để không nổi đoá thật sự. Ông luôn luôn ý thức được hoàn cảnh, ông chửi bới, trách móc người Bulgaria thậm tệ vì biết rằng họ tuân phục ông nhưng mục đích lại hướng về đoàn Nam Tư, theo kiểu "rung cây nhát khỉ’ .
Được Kardeljj ủng hộ, Dimitrov nói rằng Nam Tư và Bulgaria chỉ mới thông báo về việc đạt được thoả thuận chứ không phải là hiệp ước.
"Nhưng các đồng chí không tham khảo ý kiến chúng tôi!", Stalin gào lên. "Chúng tôi chỉ được biết qua báo chí! Các đồng chí ba hoa những ý kiến vừa mới có trong đầu như mấy mẹ già giữa chợ, còn các nhà báo thì vồ ngay lấy!"
Dimitrov vừa biện hộ cho quan điểm liên minh hải quan với Rumania vừa tiếp tục:
"Bulgaria gặp một số khó khăn về kinh tế, không thể phát triển được nếu không hợp tác với các nước khác. Còn về tuyên bố của tôi tại cuộc họp báo thì tôi có hơi quá đà".
Stalin ngắt lời:
"Đồng chí muốn nổi danh bằng những câu hay! Nhưng sai hoàn toàn, không thể tưởng tượng được liên bang kiểu đó. Bulgaria và Rumania đã từng có những liên hệ lịch sử nào? Hoàn toàn không! Chưa nói đến quan hệ giữa Bulgaria với, thí dụ, Hungaria hay là Ba Lan".
Dimitrov biện hộ:
"Thực chất thì chính sách đối ngoại của Bulgaria và Liên Xô không có gì khác nhau".
Stalin vẫn khăng khăng:
"Khác nhau rất lớn! Che giấu làm gì? Lenin dạy rằng có sai lầm thì phải nhận và sửa chữa càng nhanh càng tốt".
Dimitrov đấu dịu, gần như vâng lời:
"Đúng thế, chúng tôi có sai lầm và sẽ học hỏi thêm trong lĩnh vực đối ngoại".
Giọng Stalin vừa găy gắt vừa như chế giễu:
"Học đi! Đồng chí đã làm chính trị năm mươi năm rồi mà bây giờ còn sửa chữa sai lầm! Vấn đề không phải là sai lầm mà là quan điểm, khác với quan điểm của chúng tôi".
Tôi liếc nhìn Dimitrov: hai tai ông có màu đỏ, trên mặt có những vết đỏ to như vẩy nến. Vài sợi tóc lơ thơ trên đầu, còn búi tóc thì như đã khô vắt vẻo trên cái cần cổ đầy nếp nhăn. Tôi thấy thương ông quá. Con sói già từng tung hoành tại toà án Leipzig, ăn miếng trả miếng với H. Göring và chủ nghĩa phát xít khi chúng đang ở đỉnh cao quyền lực, nay trông vừa buồn bã vừa mệt mỏi.
Stalin tiếp tục:
"Liên minh hải quan, liên bang giữa Rumania và Bulgaria là nhảm nhí! Liên bang Nam Tư, Bulgaria và Albania lại là chuyện khác. Các nước này đã có những mối liên hệ lịch sử. Cần phải thành lập liên bang này càng nhanh càng tốt. Đúng, càng nhanh càng tốt, nếu có thể ngay ngày mai! Vâng, ngay ngày mai nếu được! Các vị bàn với nhau ngay đi!"
Có người, tôi nghĩ là Kardeljj, nói rằng việc thành lập liên bang Nam Tư – Albania đang được tiến hành.
Nhưng Stalin nói:
"Không, trước hết là liên bang giữa Bulgaria và Nam Tư, sau đó thì cả hai với Albania".
Sau đó ông nói thêm:
"Chúng tôi nghĩ nên thành lập liên bang giữa Rumania với Hungaria, còn Ba Lan với Tiệp Khắc".
Cuộc thảo luận lấy lại không khí bình tĩnh được một thời gian ngắn.
Stalin không đi sâu vào vấn đề liên bang nữa, chỉ thỉnh thoảng mới nhắc đến việc cần thành lập ngay liên bang giữa Nam Tư, Bulgaria và Albania. Trên cơ sở những điều đã được trình bày và những lời nói bóng gió của các nhà ngoại giao Liên Xô lúc đó, có thể kết luận rằng lãnh đạo Liên Xô đã nghĩ đến việc cải tổ Liên Xô, mà cụ thể là hợp nhất với "các nước dân chủ nhân dân": Ukraine với Hungaria và Rumania, còn Bạch Nga với Ba Lan và Tiệp Khắc, còn các nước vùng Ban Căng thì hợp nhất với Nga! Dù các kế hoạch này có mù mờ đến đâu thì điều rõ ràng là: Stalin đã tìm cho các nước Đông Âu các biện pháp và hình thức sao cho chúng có thể củng cố và bảo đảm trong một thời gian dài địa vị thống trị và bá quyền của Moskva.
Vấn đề liên minh hải quan và hiệp định giữa Bulgaria và Rumania tưởng như đã được giải quyết thì bất ngờ cụ Kolarov lên tiếng, dường như ông vừa nhớ được một chuyện quan trọng:
"Tôi không thấy đồng chí Dimitrov có sai lầm gì cả, chúng tôi đã gửi dự thảo hiệp định với Rumania cho chính phủ Liên Xô từ trước, chính phủ Liên Xô không phản đối liên minh hải quan mà chỉ phản đối định nghĩa khái niệm kẻ xâm lược mà thôi".
Stalin quay sang Molotov:
"Họ có gửi cho ta dự thảo hiệp định à?"
Molotov không hề lúng túng:
"Vâng, có!"
Stalin tỏ ra thất vọng và bực bội:
"Chúng ta cũng làm chuyện nhảm nhí rồi".
Dimitrov lập tức bám lấy câu chuyện:
"Đấy là lí do tôi tuyên bố như thế, dự thảo đã được gửi tới Moskva và tôi không nghĩ các đồng chí lại phản đối".
Nhưng Stalin vẫn không nao núng:
"Nhảm nhí! Đồng chí bốc đồng như đoàn viên thanh niên ấy. Đồng chí muốn làm cho toàn thế giới phải ngạc nhiên, cứ như đồng chí vẫn còn là bí thư Comintern vậy. Các đồng chí cũng như các đồng chí Nam Tư không thông báo cho chúng tôi công việc của mình, chúng tôi phải tìm hiểu mọi chuyện trên đường phố, các đồng chí đặt chúng tôi trước những sự đã rồi!"
Kostov, lúc đó lãnh đạo lĩnh vực kinh tế Bulgaria, muốn nói điều gì đó:
"Những nước nhỏ và kém phát triển gặp nhiều khó khăn… Tôi muốn đề nghị một số vấn đề về kinh tế".
Nhưng Stalin lập tức ngắt lời ông ta, bảo đến gặp các bộ và nhấn mạnh rằng cuộc họp này chỉ xem xét vấn đề bất đồng trong chính sách đối ngoại của ba đảng và ba nước mà thôi.
Cuối cùng, đến lượt Kardeljj. Mặt ông đỏ lên, đấy là dấu hiệu chứng tỏ ông đang bị xúc động, đầu rụt lại và ngắt câu ở những chỗ không đáng ngắt. Ông nhấn mạnh rằng hiệp định giữa Nam Tư và Bulgaria kí bên bờ hồ Bred đã được gửi trước cho chính phủ Liên Xô. Chính phủ Liên Xô không có nhận xét gì ngoài nhận xét về thời hạn hiệp định: "20 năm" thay vì "vĩnh viễn".
Stalin nhìn Molotov với vẻ trách móc. Molotov gật đầu, môi mím chặt, nghĩa là ông ta khẳng định lời của Kardeljj.
"Ngoài nhận xét đó, chúng tôi đã chữa rồi", Kardeljj tiếp tục, "thì không có mâu thuẫn nào cả…"
Nhưng Stalin đã ngắt lời ông ta một cách khá giận dữ, tuy không đến nỗi xúc phạm như đối với Dimitrov:
"Nhảm nhí! Có mâu thuẫn, thậm chí sâu sắc! Đồng chí nói thế nào về trường hợp Albania? Các đồng chí không tham khảo về việc đưa quân vào Albania!"
Kardeljj nói rằng chính phủ Albania đã thoả thuận rồi.
Stalin gầm lên:
"Chuyện đó có thể dẫn tới những phức tạp nghiêm trọng trên bình diện quốc tế, Albania là nước độc lập! Các đồng chí nghĩ sao? Các đồng chí cứ việc biện hộ nhưng sự thật vẫn là sự thật: các đồng chí đã không tham khảo chúng tôi khi đưa hai sư đoàn vào Albania".
Kardeljj giải thích rằng tất cả vẫn chưa kết thúc và nói thêm là ông không nhớ có vấn đề đối ngoại nào mà chính phủ Nam Tư không phối hợp hành động với chính phủ Liên Xô.
"Không đúng!", Stalin gào lên. "Các đồng chí hoàn toàn không tham khảo. Đây không phải là sai lầm, mà là nguyên tắc của các đồng chí, vâng, nguyên tắc".
Bị cắt ngang, Kardeljj đành ngồi yên, ông không thể trình bày hết ý kiến của mình.
Molotov lấy tờ giấy ra và đọc một đoạn trong hiệp định Nam Tư – Bulgaria: "… sẽ hợp tác trong tinh thần của Liên hiệp quốc và ủng hộ mọi sáng kiến nhằm gìn giữ hoà bình và chống lại tất cả các lò lửa xâm lược".
"Thế có nghĩa là gì?", Molotov hỏi.
Dimitrov giải thích ý nghĩa của nó là giao cho Liên hiệp quốc đấu tranh chống lại các lò lửa xâm lược.
Stalin xen vào:
"Không, đây là cuộc chiến tranh phòng ngừa, một kiểu công kích trẻ ranh thường thấy! Một câu hay nhưng chỉ có lợi cho kẻ thù".
Molotov lại nói về liên minh hải quan giữa Bulgaria và Rumania, ông ta khẳng định rằng đấy là sự khởi đầu của việc hợp nhất giữa hai nước.
Stalin xen vào và nói rằng liên minh hải quan là hoàn không thực tế. Sau khi cuộc thảo luận đã trở lại bình thường, Kardeljj nhận xét rằng một số liên minh hải quan tỏ ra không đến nỗi tệ.
"Thí dụ?", Stalin hỏi.
"Thì thí dụ như Benelux", Kardeljj thận trọng đáp, "trong đó có Bỉ, Hà Lan và Luxemburg".
Stalin đáp:
"Không, không có Hà Lan, chỉ có Bỉ và Luxemburg thôi, cái này là chuyện vặt, không có giá trị gì".
Kardeljj:
"Không, có cả Hà Lan".
Stalin:
"Không, Hà Lan không tham gia".
Stalin nhìn Molotov, Zorin rồi những người khác, tôi muốn giải thích cho ông ta rằng từ "Ne" trong tên Benelux là xuất phát từ Netherland, tên gọi chính thức của Hà Lan. Nhưng thấy tất cả đều ngồi im nên tôi cũng thôi không nói, vậy là không có Hà Lan trong Benelux.
Stalin quay sang vấn đề phối hợp kinh tế giữa Rumania và Bulgaria.
"Thật vô nghĩa, thay vì hợp tác sẽ là cãi vã cho mà xem. Liên kết Bulgaria và Nam Tư thì lại khác: ở đây có sự gắn bó, nguyện vọng đã có từ lâu".
Kardeljj nhấn mạnh rằng bên bờ hồ Bled, Bulgaria và Nam Tư đã đi đến quyết định hành động một cách từ từ theo hướng thành lập liên bang giữa hai nước, nhưng Stalin ngắt lời:
"Không, không từ từ, mà ngay lập tức, nếu có thể thì ngay ngày mai. Đầu tiên là Bulgaria và Nam Tư, sau đó thì đến Albania".
Stalin chuyển sang cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp:
"Phải gói ghém cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp lại", ông nói đúng như thế - "gói ghém". Rồi quay sang Kardeljj ông hỏi: "Đồng chí có tin vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp không?"
Kardeljj trả lời:
"Nếu nước ngoài không tăng cường can thiệp và nếu không có những sai lầm lớn về chính trị và quân sự…"
Nhưng Stalin tiếp tục nói, không thèm để ý đến Kardeljj:
"Nếu, nếu! Họ không có chút hi vọng nào. Các đồng chí nghĩ sao, chả lẽ Anh, Mỹ, nước giầu mạnh nhất thế giới lại để cho người ta cắt đứt đường vận tải quan trọng nhất ở Địa Trung Hải à? Nhảm nhí! Còn chúng ta thì lại không có hạm đội. Cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp phải gói ghém lại càng sớm càng tốt".
Có ai đó nhắc đến những thắng lợi gần đây của những người cộng sản Trung Quốc. Nhưng Stalin vẫn giữ ý mình:
"Đúng, các đồng chí Trung Quốc đã thành công. Nhưng ở Hi Lạp tình hình hoàn toàn khác. Hi Lạp nằm trên những tuyến đường vận tải sống còn của các nước phương Tây. Mỹ, nước mạnh nhất thế giới, sẽ trực tiếp can thiệp. Trung Quốc thì khác, Viễn Đông tình hình khác hẳn. Dĩ nhiên là chúng tôi có thể lầm! Khi chiến tranh với Nhật kết thúc, chúng tôi đề nghị các đồng chí Trung Quốc tìm biện pháp thoả hiệp với Tưởng Giới Thạch. Họ nói là đồng ý nhưng về nhà, họ lại làm theo ý mình: tập hợp lực lượng và tấn công. Hoá ra họ đúng chứ không phải chúng tôi. Nhưng Hi Lạp có hoàn cảnh khác, cần phải, không được trù trừ, gói ghém cuộc khởi nghĩa Hi Lạp lại".
Đến nay, tôi cũng không hiểu Stalin phản đối cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp vì lí do gì. Trong tính toán của ông, không thể có chuyện thành lập một nhà nước cộng sản nữa, cụ thể là Hi Lạp, trên bán đảo Ban-căng một khi ông chưa nắm được các nước kia. Sự phức tạp của các quan hệ quốc tế, mà càng ngày càng có vẻ rắc rối hơn, có thể lôi kéo ông vào một cuộc chiến tranh hoặc có nguy cơ mất ngay những vùng đã chiếm được cũng không thể không nằm trong các tính toán của ông.
Còn việc kiềm chế cách mạng Trung Quốc thì ở đây không nghi ngờ gì rằng đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội trong chính sách đối ngoại, mà cũng có thể ông ta cảm thấy mối nguy cho chính sự nghiệp cũng như đế chế của mình tại nước cộng sản có tầm vóc quốc tế này, hơn nữa, ông ta lại không thể nào khống chế được Trung Quốc từ bên trong. Dù sao mặc lòng, ông biết rằng mỗi cuộc cách mạng, nhất là những cuộc cách mạng mới, sẽ tạo ra một trung tâm độc lập, một chính quyền và một nhà nước của riêng mình. Trường hợp Trung Quốc còn đáng lo hơn vì đây sẽ là sự kiện trọng đại không khác gì Cách mạng tháng Mười.
Cuộc thảo luận đã mất khí thế, Dimitrov chuyển sang nói về phát triển các quan hệ kinh tế với Liên Xô, nhưng Stalin lại ngắt lời:
"Chúng ta sẽ thảo luận chuyện này với chính phủ liên hiệp Bulgaria - Nam Tư".
Kostov phàn nàn về sự bất công trong hiệp định trợ giúp kĩ thuật, Stalin bảo ông ta viết "tờ giấy" cho Molotov.
Kardeljj hỏi quan điểm về việc chính phủ Ý đòi chuyển cho họ quyền ủy trị Somalia. Nam Tư không muốn ủng hộ đòi hỏi đó, nhưng Stalin có quan điểm khác hẳn, ông hỏi Molotov đã trả lời như thế chưa. Stalin giải thích quan điểm của mình như sau:
"Ngày xưa, khi các vua chúa không thoả thuận được với nhau thì họ giao vùng đất tranh chấp cho kẻ yếu nhất để rồi sau đó cướp lại khi có dịp".
Stalin không quên, khi gần kết thúc buổi gặp, mang Lenin và chủ nghĩa Lenin ra làm tấm bình phong che đậy các yêu cầu và chỉ thị của mình:
"Chúng tôi, những người học trò của Lenin, cũng thường bất đồng quan điểm với chính Lenin, có khi còn cãi nhau nữa, nhưng sau khi đã thảo luận, xác định được quan điểm thì lại tiếp tục hành động".
Cuộc họp kéo dài chừng hai giờ đồng hồ.
Nhưng lần này Stalin không mời chúng tôi tới nhà ăn tối như mọi khi. Phải công nhận rằng tôi cảm thấy buồn và cay đắng vì chuyện đó; trong tôi, tình người và sự gắn bó với con người này vẫn còn mạnh lắm.
Lòng tôi buồn và trống rỗng, lạnh lùng quá. Tôi đã định nói với Kardeljj cảm tưởng của mình ngay trên ô tô, nhưng ông có vẻ chán nản và ra dấu bảo tôi im.
Không phải chúng tôi bất đồng ý kiến, mà đơn giản là chúng tôi có cách phản ứng khác nhau.
Sự bối rối của Kardeljj thể hiện rõ, khi ngày hôm sau ông được đưa vào Điện Kremli để kí hiệp định về việc tham khảo ý kiến giữa Liên Xô và Nam Tư mà không có bất kì lời giải thích hay giải thích nào; ông đã kí không đúng chỗ, phải kí lại lần thứ hai.
Ngay hôm đó, theo thoả thuận ngay trong tiền sảnh văn phòng Stalin, chúng tôi đến nhà Dimitrov ăn trưa và bàn về liên bang. Chúng tôi làm việc đó như những cái máy, kỉ luật và uy tín còn sót lại của chính phủ Liên Xô đã phát huy tác dụng. Nhưng câu chuyện rất tẻ nhạt và chẳng kéo dài được bao lâu, chúng tôi thoả thuận là sẽ liên hệ lại sau khi về đến Sophia và Belgrad.
Dĩ nhiên là mọi sự chẳng đi đến đâu vì sau đó khoảng một tháng thì Stalin và Molotov, được sự ủng hộ của Ban chấp hành trung ương Bulgaria, bắt đầu viết thư tấn công ban lãnh đạo Nam Tư. Câu chuyện về liên bang với Bulgaria hoá ra chỉ là một cái bẫy nhằm chia rẽ những người cộng sản Nam Tư mà thôi, nó là một cái thòng lọng mà không một nhà tư tưởng nào dám đút đầu vào.
Tôi nhớ nhất là thái độ thận trọng, gần như là dịu dàng, của Kotov đối với chúng tôi. Chuyện thật lạ bởi vì ban lãnh đạo Đảng cộng sản Nam Tư vẫn coi Kostov là một người chống đối Nam Tư, nghĩa là một người "thân" Liên Xô. Đồng thời vì muốn cho Bulgaria giữ được độc lập nên ông ta ghét người Nam Tư vì cho rằng Nam Tư là trợ thủ đắc lực của Liên Xô, mà cũng có thể chính họ cũng muốn khuất phục Bulgaria. Kostov sau này bị bắn vì bị gán cho là cộng tác với Nam Tư. Trong khi đó, báo chí Nam Tư lại tấn công ông ta cho đến tận ngày cuối cùng. Dưới cái bóng của Stalin, sự ngờ vực và ngộ nhận đã lớn đến mức nào!
Chính tại cuộc gặp này, Dimitrov đã kể về quả bom nguyên tử, còn trước khi chia tay, dường như vô tình, ông đã nói:
"Vấn đề không phải là việc phê bình những lời tuyên bố của tôi, mà là việc gì đó khác cơ".
Tất nhiên, Dimitrov cũng biết những chuyện mà chúng tôi đã biết. Nhưng ông không còn sức, cũng có thể ông không có uy thế như những người lãnh đạo Nam Tư.
Tôi không sợ có chuyện không hay ở Moskva, vì dù sao chúng tôi cũng là đại diện của một nhà nước độc lập. Mặc dù vậy, tôi thường tưởng tượng ra những khu rừng ở Bosnia, ở đấy, trong những cuộc tấn công điên cuồng nhất của quân Đức, chúng tôi vẫn có thể tìm được những giây phút nghỉ ngơi và thư giãn bên cạnh những dòng suối mát mẻ trong lành.
"Tôi chỉ muốn về thật nhanh, mau chóng trở lại rừng núi của chúng ta".
Ai cũng cho là tôi cường điệu.
Ba hay bốn hôm sau, chúng tôi được đưa ra sân bay Vnukovskii vào sáng sớm, rồi bị đẩy lên máy bay mà chẳng có một lời chia tay nào. Trong khi bay, càng lúc tôi càng cảm thấy một niềm vui vừa nghiêm túc vừa trẻ thơ và ít khi nghĩ tới câu chuyện của Stalin về số phận của tướng Sikorski.
Có phải chính là tôi, người trước đây chưa đến bốn năm, đã ước ao bay đến Liên Xô, với tất cả lòng trung thành và tâm hồn rộng mở?
Một ước mơ nữa đã tắt khi tiếp xúc với thực tế.
Có phải là để cho một giấc mơ mới ra đời hay không?
hết: 20., xem tiếp: Kết luận
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
20.
"Thấy ngày tháng cứ trôi đi một cách vô ích, Koca Popovic quyết định đi về, chỉ để Todorovich ở Moskva đợi xem tình hình phát triển ra sao, đúng hơn là đợi xem khi nào thì các nhà lãnh đạo cao cấp ở đây hạ cố khởi động lại các cuộc đàm phán. Đáng lẽ tôi cũng đi về với Popovic, nếu không có thông báo từ Belgrad rằng Kardelj và Bakaric đang trên đường tới Moskva và tôi phải tham gia thảo luận với chính phủ Liên Xô để tháo gỡ "các khó khăn" .
Kardelj và Bakaric đến vào sáng chủ nhật, mồng 8 tháng 2 năm 1948. Chính phủ Liên Xô không mời hai vị này mà mời đích danh Tito, nhưng Belgrad lấy cớ rằng Tito bị mệt nên cử Kardeljj đi thay, ngay chuyện này đã chứng tỏ hai bên không còn tin nhau nữa. Cùng lúc đó, đoàn đại biểu Đảng và chính phủ Bulgaria cũng được mời tới Moskva, Lesakov thông báo với chúng tôi như thế, anh ta còn nhấn mạnh rằng đoàn Bulgaria có các "nhân vật chính".
Trước đó không lâu, ngày 28 tháng 1 năm 1948, tờ Sự thật phê phán Dimitrov và đoạn tuyệt với "những liên bang bịa tạc và đáng ngờ" cũng như các liên minh hải quan của ông. Đây là một lời cảnh cáo, một lời cảnh báo những biện pháp mới và đường lối cứng rắn hơn của chính phủ Liên Xô.
Kardeljj và Bakarik được bố trí sống trong một nhà nghỉ ở ngoại ô Moskva, tôi cũng xin chuyển đến ở cùng nhà với họ. Ngay đêm đó, khi vợ Kardeljj đã ngủ, còn chính ông thì đã nằm trên giường và tôi ngồi cạnh ông thì thầm trò chuyện. Tôi nói cho ông biết cảm tưởng của mình trong thời gian ở Moskva và những cuộc tiếp xúc với các cấp lãnh đạo tối cao Liên Xô. Nói gọn lại là đừng hi vọng gì vào sự giúp đỡ, chúng ta phải dựa vào sức mình là chính vì chính phủ Liên Xô nhất định sẽ tiến hành chính sách khuất phục để đưa Nam Tư xuống ngang hàng với các nước bị họ chiếm đóng ở Đông Âu.
Lúc đó, mà cũng có thể ngay từ khi vừa mới tới, Kardeljj đã thông báo cho tôi biết nguyên nhân của sự tranh chấp với Moskva, đấy là hiệp định giữa chính phủ Nam Tư và chính phủ Albania về việc đưa hai sư đoàn Nam Tư vào Albania. Các sư đoàn còn đang được kiện toàn nhưng một đại đội máy bay đã có mặt ở Albania rồi; Moskva kịch liệt chống lại và không chấp nhận cách giải thích là các sư đoàn quân Nam Tư phải bảo vệ Albania trong trường hợp xảy ra cuộc tấn công của "bọn phát xít-quân chủ" Hi Lạp. Trong bức điện gửi Belgrad, Molotov đe doạ sẽ xảy ra xung đột công khai.
Tôi cũng không thích việc đưa các sư đoàn vào Albania, đây là lần đầu tiên tôi được nghe chuyện này và hỏi Kardeljj mục đích của việc đó. Ông ta đánh trống lảng và bảo rằng mình không tham gia…
Tôi không thể khẳng định giả thuyết được đưa ra là các sư đoàn quân Nam Tư được đưa vào Albania theo yêu cầu của Enver Hoxha, mà ông này lại được Moskva xúi giục để lấy cớ lên án chính phủ Nam Tư có ý đồ xâm lược và đế quốc chủ nghĩa. Dĩ nhiên là như thế không có nghĩa là tôi phần nào biện hộ cho sự phản trắc và cũng như sự tàn bạo kinh tởm nhất của Hoxha mà ông ta tiến hành sau đó đối với các đồng chí và chính đồng bào của mình. Vấn đề là các sự kiện chứ không phải cách giải thích, mà sự kiện thì phải được trình bày như chúng đã từng là.
Chính phủ Albania đã đồng ý đưa các sư đoàn quân Nam Tư vào, mặc dù tôi cho rằng họ không thật lòng; để đi đến cùng khi xem xét vấn đề cần phải chú ý đến quan hệ đã xấu đi giữa Nam Tư và Liên Xô và trước hết, phải phân tích quan hệ giữa Belgrad và Tirana vào thời gian diễn ra các sự kiện vừa nêu.
Ngay ngày hôm sau, trong khi cùng Kardeljj đi dạo trong công viên dưới ánh mắt theo dõi của các nhân viên tình báo Liên Xô, mặt họ có vẻ buồn vì không nghe được chúng tôi nói gì, chúng tôi, có cả Bakaric, đã thảo luận kĩ và phân tích một cách triệt để hơn.
Mặc dù còn một vài bất đồng về lí luận nhưng chúng tôi hoàn toàn thống nhất về biện pháp giải quyết, như thường lệ, tôi ủng hộ những biện pháp quyết liệt và không thể đảo ngược được.
Cho đến tận chiếu ngày hôm sau, 10 tháng giêng, phía Liên Xô vẫn chưa đưa ra ý kiến gì; khoảng 9 giờ tối hôm đó, họ bảo chúng tôi lên xe và đưa vào thẳng phòng làm việc của Stalin trong Điện Kremli. Chúng tôi ngồi đợi các đại biểu Bulgaria gồm Dimitrov, Kolarov, Kostov chừng mười lăm phút. Họ vừa đến là tất cả được đưa vào gặp Stalin ngay.
Stalin ngồi ở đầu bàn, bên phải là các đại diện Liên Xô: Molotov, Zhdanov, Malenkov, Suslov, Zorin, bên trái là đại diện Bulgaria: Kolarov, Dimitrov, Kostov rồi đến đoàn Nam Tư: Kardeljj, tôi, Bakaric.
Về cuộc gặp gỡ này, tôi đã có báo cáo bằng văn bản gửi Ban chấp hành trung ương. Nay tôi không có điều kiện xem lại bản báo cáo đó, những điều trình bày dưới đây là dựa trên trí nhớ của tôi và của những tài liệu đã được công bố về cuộc gặp gỡ nói trên.
Molotov phát biểu trước; ông ta thông báo một cách ngắn gọn rằng đã xuất hiện một sự bất đồng sâu sắc giữa một bên là chính phủ Liên Xô còn bên kia là chính phủ Nam Tư và Bulgaria, đấy là điều không thể chấp nhận được từ quan điểm của đảng cũng như quan điểm nhà nước.
Thí dụ về sự bất đồng đó là việc kí hiệp định hữu nghị giữa Nam Tư và Bulgaria, mặc dù chính phủ Liên Xô cho rằng Bulgaria không nên kí bất kì hiệp định nào trước khi có hoà bình.
Molotv muốn nói cụ thể về tuyên bố của Dimitrov ở Bucarest về việc thành lập liên bang Đông Âu, trong đó có nhắc đến cả Hi Lạp và liên minh hải quan cũng như việc phối hợp kế hoạch công nghiệp giữa Rumania và Bulgaria. Nhưng Stalin ngắt lời:
"Trong các cuộc họp báo, đồng chí Dimitrov phát biểu say sưa quá, không còn biết mình nói gì nữa. Tất cả những gì đồng chí ấy nói, cũng như tất cả những gì Tito nói, ở nước ngoài người ta đều cho rằng đã được chúng tôi cho phép rồi. Thí dụ gần đây có các đồng chí Ba Lan. Tôi hỏi: các đồng chí nghĩ thế nào về tuyên bố của Dimitrov? Họ bảo: hay quá. Còn tôi bảo: không, không hay. Thế là họ bảo rằng họ nghĩ là không hay nếu chính phủ Liên Xô cho là như thế. Họ nghĩ rằng Dimitrov tuyên bố thế là đã thoả thuận và được sự đồng ý của chính phủ Liên Xô rồi nên họ mới ủng hộ. Sau đó, Dimitrov có định thông qua hãng thông tấn Bulgaria sửa lại tuyên bố đó nhưng chẳng sửa chữa được gì. Hơn nữa, đồng chí còn đưa ra thí dụ về việc chính phủ Áo - Hung đã ngăn cản việc thiết lập liên minh hải quan giữa Bulgaria và Serbia, kết luận rõ ràng là trước đây thì người Đức còn bây giờ thì người Nga ngăn cản chứ gì? Vấn đề là gì vậy?"
Molotov tiếp tục nói rằng chính phủ Bulgaria có ý định thành lập liên bang với Rumania mà không tham khảo ý kiến Liên Xô.
Molotov cố gắng giảm nhẹ vấn đề bằng cách nhấn mạnh rằng ông không nói đến một liên bang cụ thể nào.
"Không, các đồng chí đã thoả thuận về liên minh hải quan, về phối hợp kế hoạch công nghiệp", Stalin ngắt lời.
Molotov thêm:
"Liên minh hải quan và phối hợp kinh tế không phải là thành lập một nhà nước à?"
Vào thời khắc đó, bản chất của cuộc gặp, dù không ai nói ra, đã lộ diện hoàn toàn: quan hệ giữa các nền "dân chủ nhân dân" không thể nào phát triển được nếu những quan hệ đó không phù hợp với quyền lợi và chưa được chính phủ Liên Xô đồng ý. Rõ ràng là đối với những lãnh tụ đầy tinh thần sô vanh, nước lớn Liên Xô, những người luôn coi Liên Xô là "lực lượng tiên phong của chủ nghĩa xã hội" và luôn luôn nhớ rằng Hồng quân đã giải phóng Rumania và Bulgaria, tuyên bố của Dimitrov, tình trạng vô kỉ luật và tự tiện của Nam Tư không chỉ được coi là tà đạo mà còn là sự xâm phạm những quyền "thiêng liêng" của họ nữa.
Dimitrov cố gắng giải thích, cố gắng biện hộ, nhưng bị Stalin ngắt lời suốt.
Đấy là con người thật của Stalin, sự sắc sảo của ông đã biến thành thô lỗ độc địa, thói bất dung đã trở thành không khoan nhượng. Nhưng dù sao ông cũng cố giữ để không nổi đoá thật sự. Ông luôn luôn ý thức được hoàn cảnh, ông chửi bới, trách móc người Bulgaria thậm tệ vì biết rằng họ tuân phục ông nhưng mục đích lại hướng về đoàn Nam Tư, theo kiểu "rung cây nhát khỉ’ .
Được Kardeljj ủng hộ, Dimitrov nói rằng Nam Tư và Bulgaria chỉ mới thông báo về việc đạt được thoả thuận chứ không phải là hiệp ước.
"Nhưng các đồng chí không tham khảo ý kiến chúng tôi!", Stalin gào lên. "Chúng tôi chỉ được biết qua báo chí! Các đồng chí ba hoa những ý kiến vừa mới có trong đầu như mấy mẹ già giữa chợ, còn các nhà báo thì vồ ngay lấy!"
Dimitrov vừa biện hộ cho quan điểm liên minh hải quan với Rumania vừa tiếp tục:
"Bulgaria gặp một số khó khăn về kinh tế, không thể phát triển được nếu không hợp tác với các nước khác. Còn về tuyên bố của tôi tại cuộc họp báo thì tôi có hơi quá đà".
Stalin ngắt lời:
"Đồng chí muốn nổi danh bằng những câu hay! Nhưng sai hoàn toàn, không thể tưởng tượng được liên bang kiểu đó. Bulgaria và Rumania đã từng có những liên hệ lịch sử nào? Hoàn toàn không! Chưa nói đến quan hệ giữa Bulgaria với, thí dụ, Hungaria hay là Ba Lan".
Dimitrov biện hộ:
"Thực chất thì chính sách đối ngoại của Bulgaria và Liên Xô không có gì khác nhau".
Stalin vẫn khăng khăng:
"Khác nhau rất lớn! Che giấu làm gì? Lenin dạy rằng có sai lầm thì phải nhận và sửa chữa càng nhanh càng tốt".
Dimitrov đấu dịu, gần như vâng lời:
"Đúng thế, chúng tôi có sai lầm và sẽ học hỏi thêm trong lĩnh vực đối ngoại".
Giọng Stalin vừa găy gắt vừa như chế giễu:
"Học đi! Đồng chí đã làm chính trị năm mươi năm rồi mà bây giờ còn sửa chữa sai lầm! Vấn đề không phải là sai lầm mà là quan điểm, khác với quan điểm của chúng tôi".
Tôi liếc nhìn Dimitrov: hai tai ông có màu đỏ, trên mặt có những vết đỏ to như vẩy nến. Vài sợi tóc lơ thơ trên đầu, còn búi tóc thì như đã khô vắt vẻo trên cái cần cổ đầy nếp nhăn. Tôi thấy thương ông quá. Con sói già từng tung hoành tại toà án Leipzig, ăn miếng trả miếng với H. Göring và chủ nghĩa phát xít khi chúng đang ở đỉnh cao quyền lực, nay trông vừa buồn bã vừa mệt mỏi.
Stalin tiếp tục:
"Liên minh hải quan, liên bang giữa Rumania và Bulgaria là nhảm nhí! Liên bang Nam Tư, Bulgaria và Albania lại là chuyện khác. Các nước này đã có những mối liên hệ lịch sử. Cần phải thành lập liên bang này càng nhanh càng tốt. Đúng, càng nhanh càng tốt, nếu có thể ngay ngày mai! Vâng, ngay ngày mai nếu được! Các vị bàn với nhau ngay đi!"
Có người, tôi nghĩ là Kardeljj, nói rằng việc thành lập liên bang Nam Tư – Albania đang được tiến hành.
Nhưng Stalin nói:
"Không, trước hết là liên bang giữa Bulgaria và Nam Tư, sau đó thì cả hai với Albania".
Sau đó ông nói thêm:
"Chúng tôi nghĩ nên thành lập liên bang giữa Rumania với Hungaria, còn Ba Lan với Tiệp Khắc".
Cuộc thảo luận lấy lại không khí bình tĩnh được một thời gian ngắn.
Stalin không đi sâu vào vấn đề liên bang nữa, chỉ thỉnh thoảng mới nhắc đến việc cần thành lập ngay liên bang giữa Nam Tư, Bulgaria và Albania. Trên cơ sở những điều đã được trình bày và những lời nói bóng gió của các nhà ngoại giao Liên Xô lúc đó, có thể kết luận rằng lãnh đạo Liên Xô đã nghĩ đến việc cải tổ Liên Xô, mà cụ thể là hợp nhất với "các nước dân chủ nhân dân": Ukraine với Hungaria và Rumania, còn Bạch Nga với Ba Lan và Tiệp Khắc, còn các nước vùng Ban Căng thì hợp nhất với Nga! Dù các kế hoạch này có mù mờ đến đâu thì điều rõ ràng là: Stalin đã tìm cho các nước Đông Âu các biện pháp và hình thức sao cho chúng có thể củng cố và bảo đảm trong một thời gian dài địa vị thống trị và bá quyền của Moskva.
Vấn đề liên minh hải quan và hiệp định giữa Bulgaria và Rumania tưởng như đã được giải quyết thì bất ngờ cụ Kolarov lên tiếng, dường như ông vừa nhớ được một chuyện quan trọng:
"Tôi không thấy đồng chí Dimitrov có sai lầm gì cả, chúng tôi đã gửi dự thảo hiệp định với Rumania cho chính phủ Liên Xô từ trước, chính phủ Liên Xô không phản đối liên minh hải quan mà chỉ phản đối định nghĩa khái niệm kẻ xâm lược mà thôi".
Stalin quay sang Molotov:
"Họ có gửi cho ta dự thảo hiệp định à?"
Molotov không hề lúng túng:
"Vâng, có!"
Stalin tỏ ra thất vọng và bực bội:
"Chúng ta cũng làm chuyện nhảm nhí rồi".
Dimitrov lập tức bám lấy câu chuyện:
"Đấy là lí do tôi tuyên bố như thế, dự thảo đã được gửi tới Moskva và tôi không nghĩ các đồng chí lại phản đối".
Nhưng Stalin vẫn không nao núng:
"Nhảm nhí! Đồng chí bốc đồng như đoàn viên thanh niên ấy. Đồng chí muốn làm cho toàn thế giới phải ngạc nhiên, cứ như đồng chí vẫn còn là bí thư Comintern vậy. Các đồng chí cũng như các đồng chí Nam Tư không thông báo cho chúng tôi công việc của mình, chúng tôi phải tìm hiểu mọi chuyện trên đường phố, các đồng chí đặt chúng tôi trước những sự đã rồi!"
Kostov, lúc đó lãnh đạo lĩnh vực kinh tế Bulgaria, muốn nói điều gì đó:
"Những nước nhỏ và kém phát triển gặp nhiều khó khăn… Tôi muốn đề nghị một số vấn đề về kinh tế".
Nhưng Stalin lập tức ngắt lời ông ta, bảo đến gặp các bộ và nhấn mạnh rằng cuộc họp này chỉ xem xét vấn đề bất đồng trong chính sách đối ngoại của ba đảng và ba nước mà thôi.
Cuối cùng, đến lượt Kardeljj. Mặt ông đỏ lên, đấy là dấu hiệu chứng tỏ ông đang bị xúc động, đầu rụt lại và ngắt câu ở những chỗ không đáng ngắt. Ông nhấn mạnh rằng hiệp định giữa Nam Tư và Bulgaria kí bên bờ hồ Bred đã được gửi trước cho chính phủ Liên Xô. Chính phủ Liên Xô không có nhận xét gì ngoài nhận xét về thời hạn hiệp định: "20 năm" thay vì "vĩnh viễn".
Stalin nhìn Molotov với vẻ trách móc. Molotov gật đầu, môi mím chặt, nghĩa là ông ta khẳng định lời của Kardeljj.
"Ngoài nhận xét đó, chúng tôi đã chữa rồi", Kardeljj tiếp tục, "thì không có mâu thuẫn nào cả…"
Nhưng Stalin đã ngắt lời ông ta một cách khá giận dữ, tuy không đến nỗi xúc phạm như đối với Dimitrov:
"Nhảm nhí! Có mâu thuẫn, thậm chí sâu sắc! Đồng chí nói thế nào về trường hợp Albania? Các đồng chí không tham khảo về việc đưa quân vào Albania!"
Kardeljj nói rằng chính phủ Albania đã thoả thuận rồi.
Stalin gầm lên:
"Chuyện đó có thể dẫn tới những phức tạp nghiêm trọng trên bình diện quốc tế, Albania là nước độc lập! Các đồng chí nghĩ sao? Các đồng chí cứ việc biện hộ nhưng sự thật vẫn là sự thật: các đồng chí đã không tham khảo chúng tôi khi đưa hai sư đoàn vào Albania".
Kardeljj giải thích rằng tất cả vẫn chưa kết thúc và nói thêm là ông không nhớ có vấn đề đối ngoại nào mà chính phủ Nam Tư không phối hợp hành động với chính phủ Liên Xô.
"Không đúng!", Stalin gào lên. "Các đồng chí hoàn toàn không tham khảo. Đây không phải là sai lầm, mà là nguyên tắc của các đồng chí, vâng, nguyên tắc".
Bị cắt ngang, Kardeljj đành ngồi yên, ông không thể trình bày hết ý kiến của mình.
Molotov lấy tờ giấy ra và đọc một đoạn trong hiệp định Nam Tư – Bulgaria: "… sẽ hợp tác trong tinh thần của Liên hiệp quốc và ủng hộ mọi sáng kiến nhằm gìn giữ hoà bình và chống lại tất cả các lò lửa xâm lược".
"Thế có nghĩa là gì?", Molotov hỏi.
Dimitrov giải thích ý nghĩa của nó là giao cho Liên hiệp quốc đấu tranh chống lại các lò lửa xâm lược.
Stalin xen vào:
"Không, đây là cuộc chiến tranh phòng ngừa, một kiểu công kích trẻ ranh thường thấy! Một câu hay nhưng chỉ có lợi cho kẻ thù".
Molotov lại nói về liên minh hải quan giữa Bulgaria và Rumania, ông ta khẳng định rằng đấy là sự khởi đầu của việc hợp nhất giữa hai nước.
Stalin xen vào và nói rằng liên minh hải quan là hoàn không thực tế. Sau khi cuộc thảo luận đã trở lại bình thường, Kardeljj nhận xét rằng một số liên minh hải quan tỏ ra không đến nỗi tệ.
"Thí dụ?", Stalin hỏi.
"Thì thí dụ như Benelux", Kardeljj thận trọng đáp, "trong đó có Bỉ, Hà Lan và Luxemburg".
Stalin đáp:
"Không, không có Hà Lan, chỉ có Bỉ và Luxemburg thôi, cái này là chuyện vặt, không có giá trị gì".
Kardeljj:
"Không, có cả Hà Lan".
Stalin:
"Không, Hà Lan không tham gia".
Stalin nhìn Molotov, Zorin rồi những người khác, tôi muốn giải thích cho ông ta rằng từ "Ne" trong tên Benelux là xuất phát từ Netherland, tên gọi chính thức của Hà Lan. Nhưng thấy tất cả đều ngồi im nên tôi cũng thôi không nói, vậy là không có Hà Lan trong Benelux.
Stalin quay sang vấn đề phối hợp kinh tế giữa Rumania và Bulgaria.
"Thật vô nghĩa, thay vì hợp tác sẽ là cãi vã cho mà xem. Liên kết Bulgaria và Nam Tư thì lại khác: ở đây có sự gắn bó, nguyện vọng đã có từ lâu".
Kardeljj nhấn mạnh rằng bên bờ hồ Bled, Bulgaria và Nam Tư đã đi đến quyết định hành động một cách từ từ theo hướng thành lập liên bang giữa hai nước, nhưng Stalin ngắt lời:
"Không, không từ từ, mà ngay lập tức, nếu có thể thì ngay ngày mai. Đầu tiên là Bulgaria và Nam Tư, sau đó thì đến Albania".
Stalin chuyển sang cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp:
"Phải gói ghém cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp lại", ông nói đúng như thế - "gói ghém". Rồi quay sang Kardeljj ông hỏi: "Đồng chí có tin vào thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp không?"
Kardeljj trả lời:
"Nếu nước ngoài không tăng cường can thiệp và nếu không có những sai lầm lớn về chính trị và quân sự…"
Nhưng Stalin tiếp tục nói, không thèm để ý đến Kardeljj:
"Nếu, nếu! Họ không có chút hi vọng nào. Các đồng chí nghĩ sao, chả lẽ Anh, Mỹ, nước giầu mạnh nhất thế giới lại để cho người ta cắt đứt đường vận tải quan trọng nhất ở Địa Trung Hải à? Nhảm nhí! Còn chúng ta thì lại không có hạm đội. Cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp phải gói ghém lại càng sớm càng tốt".
Có ai đó nhắc đến những thắng lợi gần đây của những người cộng sản Trung Quốc. Nhưng Stalin vẫn giữ ý mình:
"Đúng, các đồng chí Trung Quốc đã thành công. Nhưng ở Hi Lạp tình hình hoàn toàn khác. Hi Lạp nằm trên những tuyến đường vận tải sống còn của các nước phương Tây. Mỹ, nước mạnh nhất thế giới, sẽ trực tiếp can thiệp. Trung Quốc thì khác, Viễn Đông tình hình khác hẳn. Dĩ nhiên là chúng tôi có thể lầm! Khi chiến tranh với Nhật kết thúc, chúng tôi đề nghị các đồng chí Trung Quốc tìm biện pháp thoả hiệp với Tưởng Giới Thạch. Họ nói là đồng ý nhưng về nhà, họ lại làm theo ý mình: tập hợp lực lượng và tấn công. Hoá ra họ đúng chứ không phải chúng tôi. Nhưng Hi Lạp có hoàn cảnh khác, cần phải, không được trù trừ, gói ghém cuộc khởi nghĩa Hi Lạp lại".
Đến nay, tôi cũng không hiểu Stalin phản đối cuộc khởi nghĩa ở Hi Lạp vì lí do gì. Trong tính toán của ông, không thể có chuyện thành lập một nhà nước cộng sản nữa, cụ thể là Hi Lạp, trên bán đảo Ban-căng một khi ông chưa nắm được các nước kia. Sự phức tạp của các quan hệ quốc tế, mà càng ngày càng có vẻ rắc rối hơn, có thể lôi kéo ông vào một cuộc chiến tranh hoặc có nguy cơ mất ngay những vùng đã chiếm được cũng không thể không nằm trong các tính toán của ông.
Còn việc kiềm chế cách mạng Trung Quốc thì ở đây không nghi ngờ gì rằng đã xuất hiện chủ nghĩa cơ hội trong chính sách đối ngoại, mà cũng có thể ông ta cảm thấy mối nguy cho chính sự nghiệp cũng như đế chế của mình tại nước cộng sản có tầm vóc quốc tế này, hơn nữa, ông ta lại không thể nào khống chế được Trung Quốc từ bên trong. Dù sao mặc lòng, ông biết rằng mỗi cuộc cách mạng, nhất là những cuộc cách mạng mới, sẽ tạo ra một trung tâm độc lập, một chính quyền và một nhà nước của riêng mình. Trường hợp Trung Quốc còn đáng lo hơn vì đây sẽ là sự kiện trọng đại không khác gì Cách mạng tháng Mười.
Cuộc thảo luận đã mất khí thế, Dimitrov chuyển sang nói về phát triển các quan hệ kinh tế với Liên Xô, nhưng Stalin lại ngắt lời:
"Chúng ta sẽ thảo luận chuyện này với chính phủ liên hiệp Bulgaria - Nam Tư".
Kostov phàn nàn về sự bất công trong hiệp định trợ giúp kĩ thuật, Stalin bảo ông ta viết "tờ giấy" cho Molotov.
Kardeljj hỏi quan điểm về việc chính phủ Ý đòi chuyển cho họ quyền ủy trị Somalia. Nam Tư không muốn ủng hộ đòi hỏi đó, nhưng Stalin có quan điểm khác hẳn, ông hỏi Molotov đã trả lời như thế chưa. Stalin giải thích quan điểm của mình như sau:
"Ngày xưa, khi các vua chúa không thoả thuận được với nhau thì họ giao vùng đất tranh chấp cho kẻ yếu nhất để rồi sau đó cướp lại khi có dịp".
Stalin không quên, khi gần kết thúc buổi gặp, mang Lenin và chủ nghĩa Lenin ra làm tấm bình phong che đậy các yêu cầu và chỉ thị của mình:
"Chúng tôi, những người học trò của Lenin, cũng thường bất đồng quan điểm với chính Lenin, có khi còn cãi nhau nữa, nhưng sau khi đã thảo luận, xác định được quan điểm thì lại tiếp tục hành động".
Cuộc họp kéo dài chừng hai giờ đồng hồ.
Nhưng lần này Stalin không mời chúng tôi tới nhà ăn tối như mọi khi. Phải công nhận rằng tôi cảm thấy buồn và cay đắng vì chuyện đó; trong tôi, tình người và sự gắn bó với con người này vẫn còn mạnh lắm.
Lòng tôi buồn và trống rỗng, lạnh lùng quá. Tôi đã định nói với Kardeljj cảm tưởng của mình ngay trên ô tô, nhưng ông có vẻ chán nản và ra dấu bảo tôi im.
Không phải chúng tôi bất đồng ý kiến, mà đơn giản là chúng tôi có cách phản ứng khác nhau.
Sự bối rối của Kardeljj thể hiện rõ, khi ngày hôm sau ông được đưa vào Điện Kremli để kí hiệp định về việc tham khảo ý kiến giữa Liên Xô và Nam Tư mà không có bất kì lời giải thích hay giải thích nào; ông đã kí không đúng chỗ, phải kí lại lần thứ hai.
Ngay hôm đó, theo thoả thuận ngay trong tiền sảnh văn phòng Stalin, chúng tôi đến nhà Dimitrov ăn trưa và bàn về liên bang. Chúng tôi làm việc đó như những cái máy, kỉ luật và uy tín còn sót lại của chính phủ Liên Xô đã phát huy tác dụng. Nhưng câu chuyện rất tẻ nhạt và chẳng kéo dài được bao lâu, chúng tôi thoả thuận là sẽ liên hệ lại sau khi về đến Sophia và Belgrad.
Dĩ nhiên là mọi sự chẳng đi đến đâu vì sau đó khoảng một tháng thì Stalin và Molotov, được sự ủng hộ của Ban chấp hành trung ương Bulgaria, bắt đầu viết thư tấn công ban lãnh đạo Nam Tư. Câu chuyện về liên bang với Bulgaria hoá ra chỉ là một cái bẫy nhằm chia rẽ những người cộng sản Nam Tư mà thôi, nó là một cái thòng lọng mà không một nhà tư tưởng nào dám đút đầu vào.
Tôi nhớ nhất là thái độ thận trọng, gần như là dịu dàng, của Kotov đối với chúng tôi. Chuyện thật lạ bởi vì ban lãnh đạo Đảng cộng sản Nam Tư vẫn coi Kostov là một người chống đối Nam Tư, nghĩa là một người "thân" Liên Xô. Đồng thời vì muốn cho Bulgaria giữ được độc lập nên ông ta ghét người Nam Tư vì cho rằng Nam Tư là trợ thủ đắc lực của Liên Xô, mà cũng có thể chính họ cũng muốn khuất phục Bulgaria. Kostov sau này bị bắn vì bị gán cho là cộng tác với Nam Tư. Trong khi đó, báo chí Nam Tư lại tấn công ông ta cho đến tận ngày cuối cùng. Dưới cái bóng của Stalin, sự ngờ vực và ngộ nhận đã lớn đến mức nào!
Chính tại cuộc gặp này, Dimitrov đã kể về quả bom nguyên tử, còn trước khi chia tay, dường như vô tình, ông đã nói:
"Vấn đề không phải là việc phê bình những lời tuyên bố của tôi, mà là việc gì đó khác cơ".
Tất nhiên, Dimitrov cũng biết những chuyện mà chúng tôi đã biết. Nhưng ông không còn sức, cũng có thể ông không có uy thế như những người lãnh đạo Nam Tư.
Tôi không sợ có chuyện không hay ở Moskva, vì dù sao chúng tôi cũng là đại diện của một nhà nước độc lập. Mặc dù vậy, tôi thường tưởng tượng ra những khu rừng ở Bosnia, ở đấy, trong những cuộc tấn công điên cuồng nhất của quân Đức, chúng tôi vẫn có thể tìm được những giây phút nghỉ ngơi và thư giãn bên cạnh những dòng suối mát mẻ trong lành.
"Tôi chỉ muốn về thật nhanh, mau chóng trở lại rừng núi của chúng ta".
Ai cũng cho là tôi cường điệu.
Ba hay bốn hôm sau, chúng tôi được đưa ra sân bay Vnukovskii vào sáng sớm, rồi bị đẩy lên máy bay mà chẳng có một lời chia tay nào. Trong khi bay, càng lúc tôi càng cảm thấy một niềm vui vừa nghiêm túc vừa trẻ thơ và ít khi nghĩ tới câu chuyện của Stalin về số phận của tướng Sikorski.
Có phải chính là tôi, người trước đây chưa đến bốn năm, đã ước ao bay đến Liên Xô, với tất cả lòng trung thành và tâm hồn rộng mở?
Một ước mơ nữa đã tắt khi tiếp xúc với thực tế.
Có phải là để cho một giấc mơ mới ra đời hay không?
hết: 20., xem tiếp: Kết luận
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
NÓI CHUYỆN VÓI STALIN 20
Milovan Djilas
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
19.
Chưa đầy hai ngày sau, chúng tôi đã được gọi đến Bộ Tổng tham mưu để trình bày nguyện vọng của mình.
Ngay từ lúc ngồi trên tàu, tôi đã nói với Koca Popovic và M. Todorovich rằng ước mong của họ có vẻ cao vời và không thực tế. Tôi hoàn toàn không tưởng tượng được rằng người Nga có thể đồng ý khôi phục nền công nghiệp quốc phòng trong khi họ không thực sự muốn giúp khôi phục nền công nghiệp dân sự của chúng ta. Việc họ cho chúng ta hạm đội hải quân trong khi chính họ cũng không có còn khó tưởng tượng hơn. Lập luận rằng hạm đội của Liên Xô hay của Nam Tư ở biển Adriatic không phải là quan trọng vì hai nước đều là thành viên của thế giới cộng sản thống nhất, theo tôi, là không có sức thuyết phục vì trong khối này đã có rạn nứt, chưa nói đến tính đa nghi của Liên Xô, họ không tin bất cứ cái gì nằm ngoài tầm với của họ, chưa nói đến việc họ công khai bảo vệ trước hết quyền lợi của đất nước mình. Nhưng những nguyện vọng này đã được thảo luận kĩ và thông qua ở Belgrad rồi, tôi phải có trách nhiệm ủng hộ.
Bulganin điều khiển cuộc họp, xung quanh là các chuyên viên quân sự cấp cao, trong đó có cả nguyên soái Vasilevski, Tổng tham mưu trưởng.
Đầu tiên tôi trình bày những nét chính về nhu cầu của chúng tôi, rồi để Todorovich và Popovich đi vào giải thích chi tiết.
Các đại diện Liên Xô không phát biểu gì, họ hỏi kĩ và ghi chép tất.
Chúng tôi rời Bộ Tổng tham mưu, một ngôi nhà kiểu cách, rẻ tiền, được che đậy bằng những đồ nội thất xa hoa, những chiếc rèm loè loẹt và vật dụng mạ vàng, với tâm trạng hài lòng và tin rằng vấn đề đã được khởi động, công việc cụ thể sẽ thực sự bắt đầu trong một thời gian tới.
Đúng như thế, chẳng bao lâu sau, Todorovich và Popovic được mời tham gia mấy cuộc họp. Nhưng rồi mọi sự bỗng giẫm chân tại chỗ và các đại diện Liên Xô nói bóng gió với chúng tôi rằng "có một số phức tạp", cần phải chờ.
Chúng tôi hiểu là đã có chuyện giữa Moskva và Belgrad, chuyện gì thì chúng tôi không biết, nhưng không thể nói rằng chúng tôi đã bị bất ngờ. Dù thế nào thì việc kéo dài các cuộc thương lượng cũng chỉ làm cho chúng tôi càng thêm bất mãn đối với hiện thực của xã hội Liên Xô và quan điểm của Moskva đối với Belgrad mà thôi. Hơn nữa, chúng tôi coi như bị thất nghiệp và phải giết thời gian trong các bữa liên hoan và các nhà hát ở Moskva, tuy cũ nhưng phải nói khó có nơi nào vượt qua được.
Không một công dân Liên Xô nào dám đến thăm chúng tôi vì mặc dù chúng tôi đến từ một nước xã hội chủ nghĩa nhưng là người nước ngoài, công dân Liên Xô không dám tiếp xúc với những người như thế. Tất cả các tiếp xúc của chúng tôi đều qua con đường công vụ: Bộ Ngoại giao và Ban chấp hành trung ương. Chúng tôi cảm thấy khó chịu và bị xúc phạm, ở Nam Tư không có những hạn chế kiểu đó, đối với các công dân và cán bộ Liên Xô thì lại càng không. Chuyện này càng làm chúng tôi bất mãn thêm.
Sự bất mãn của chúng tôi chưa có tính chất khái quát, nhưng có rất nhiều thí dụ thực tế. Vukmanovich-Tempo nói công khai về những thiếu sót trong các nhà tập thể dành cho bộ đội. Để cho đỡ buồn, tôi và Koca Popovic xin chuyển sang một phòng chung trong khách sạn Moskva nhưng người ta nói phải đợi "thợ điện" sửa, chúng tôi hiểu là anh ta đang lắp máy nghe trộm. Mặc dù Moskva là khách sạn mới và là khách sạn lớn nhất nhưng không có một cái gì ở đây hoạt động đúng chức năng cả: phòng thì lạnh, vòi nước thì chảy suốt ngày, bồn tắm mặc dù được nhập từ Đông Đức nhưng không dùng được vì nước thải chảy ngay xuống nền nhà. Phòng tắm không có chìa khoá, Koca Popovic khẳng định rằng người kiến trúc sư đã biết là thế nào chìa khoá cũng bị mất và đã để bồn rửa mặt cạnh cửa ra vào để có thể dùng chân chặn lại. Tôi thường nhớ lại thời ở khách sạn Metropol vào năm 1944, đấy là một khách sạn cũ nhưng mọi thứ đều hoạt động rất tốt, các nhân viên phục vụ có tuổi đều nói tiếng Anh hay tiếng Pháp, rất ý tứ, lịch sự.
Một hôm, tôi nghe có tiếng thở mạnh trong nhà tắm. Hoá ra có hai công nhân, một người đứng dưới công kênh người kia để anh ta sửa ống nước phía trên trần.
"Các anh làm gì thế", tôi hỏi, "sao không mang thang đến?"
Hai người công nhân phàn nàn:
"Nói bao nhiêu lần rồi, có ăn thua gì đâu; cứ hễ có hỏng hóc là chúng tôi lại khổ thế này đấy".
Đi dạo vài vòng xung quanh, chúng tôi thấy "người đẹp Moskva" đa phần vẫn là vùng nông thôn lạc hậu, hoang vu và được xây dựng chưa đâu vào đâu. Anh lái xe tên là Panov, tôi có quan hệ rất thân mật với anh ta và đã gửi từ Nam Tư cho anh một chiếc đồng hồ đeo tay, không thể nào tin rằng New York và Paris có nhiều ô tô hơn Moskva, mặc dù anh không che giấu thái độ bất mãn với chất lượng ô tô do Liên Xô sản xuất.
Chúng tôi được dẫn đi xem quan tài của các Sa hoàng trong Điện Kremli, cô hướng dẫn viên du lịch đầy tinh thần ái quốc đã nói "các Sa hoàng của chúng ta". Ưu thế của người Nga được đem ra trưng bày một cách lộ liễu, đầy vẻ khôi hài một cách bệnh hoạn.
Như vậy là khắp mọi nơi, trên từng bước chân đều hiện rõ những khía cạnh chưa được biết tới ở đất nước Liên Xô: lạc hậu, cục mịch, sô-vanh nước lớn, và dĩ nhiên là những cố gắng đầy tinh thần anh dũng nhằm khắc phục các nhược điểm đó cũng như khuất phục dòng chảy bình thường của cuộc sống.
Biết rằng trong những hộp sọ rắn chắc của các nhà lãnh đạo và các tổ chức chính trị Liên Xô, mọi lời nhận xét có tính phê phán đều bị coi là quan điểm bài Xô cho nên chúng tôi, tuy không hẹn trước, đều co cụm lại với nhau. Vì chúng tôi đến đây với một sứ mệnh chính trị nên chúng tôi bắt đầu chỉ cho nhau thấy những cử chỉ "vụng về" hoặc những lời nói thiếu thận trọng. Sự cách li bắt đầu mang tính tổ chức. Tôi nhớ vì sợ có thiết bị nghe trộm, chúng tôi đã bắt đầu thận trọng trong việc nói năng trong khách sạn, trong phòng làm việc và khi nói chuyện thì mở radio thật to.
Các đại diện Liên Xô chắc chắn đã nhận thấy chuyện đó. Sự căng thẳng và nghi kị ngày một gia tăng.
Thi hài Lenin được đưa trở về trong thời gian này, thời chiến người ta đem ông đi giấu ở đâu đó. Chúng tôi đến viếng ông vào buổi sáng. Việc viếng cũng không có gì đặc biệt nếu nó không tạo ra trong tôi và những người khác một sự phản kháng mà đến lúc đó chúng tôi chưa hề biết tới.
Trong khi bước chậm rãi vào lăng, tôi nhận thấy những bà nông dân choàng khăn làm dấu thánh giá, như thể họ đang đến gần tượng Chúa vậy. Mà chính tôi cũng có cảm giác bí hiểm, một cảm giác đã quên từ thuở thiếu thời. Hơn thế nữa, tất cả đều được sắp đặt để tạo ra trong người ta cảm giác như thế: các khối đá cẩm thạch, hàng vệ binh im lặng, nguồn ánh sáng bí ẩn bên trên và thi hài Lenin, đã khô và trắng như vôi với vài sợi tóc như được cấy vào đầu. Dù rất kính trọng thiên tài của Lenin, tôi vẫn thấy một cái gì đó phi tự nhiên và cái chính là những cuộc tụ tập bí hiểm xung quanh thi hài ông là trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa Lenin.
Ngay cả dù rất bận, chúng tôi vẫn muốn đi thăm Leningrad, hiện thân của cái đẹp và cách mạng. Tôi đã ghé thăm Zhdanov nhờ ông giúp đỡ, ông vui vẻ nhận lời. Cuộc nói chuyện chỉ kéo dài chưa đến mười phút. Nhưng ông cũng không quên hỏi tôi nghĩ thế nào về tuyên bố của Dimitrov trên tờ Sự thật (ngày 21 tháng 1 năm 1948) khi ông ở Bucarest, trong chuyến đi, ông đã tuyên bố ủng hộ việc phối hợp kế hoạch và thành lập hải quan chung giữa giữa Bulgaria và Rumania. Tôi bảo rằng tôi không thích tuyên bố đó: quan hệ của Bulgaria - Rumania sẽ trở thành biệt lập và quá sớm. Zhdanov cũng không hài lòng dù không nói lí do, nhưng rồi chẳng bao lâu người ta cũng biết vì sao, tôi sẽ nói cụ thể hơn trong những đoạn sau.
Khoảng thời gian này, đại diện của Bộ Ngoại thương Nam Tư là Bogdan Srnobrnhia cũng có mặt ở Moskva; vì không thể giải quyết một số vấn đề quan trọng với các cơ quan Liên Xô nên ông ta nài nỉ tôi cùng đi gặp Mikoian, Bộ trưởng Ngoại thương.
Mikoian tiếp chúng tôi một cách lạnh lùng, không giấu vẻ sốt ruột. Một trong những vấn đề cần thảo luận là chúng tôi muốn người Nga trả lại những toa tầu hoả mà họ đã lấy từ các vùng chiếm đóng cũ, đằng nào họ cũng không sử dụng được vì đường ray của chúng tôi rộng hơn.
"Thế các đồng chí nghĩ thế nào, điều kiện hoàn trả ra sao, giá bao nhiêu?", Mikoian hỏi.
Tôi đáp:
"Các đồng chí tặng cho chúng tôi".
Ông ta trả lời ngắn gọn:
"Tôi không quan tâm đến tặng phẩm, tôi quan tâm đến vấn đề thương mại".
Tôi và Srnobrnhia nói đến khan họng về việc sửa lại hợp đồng mua phim của Liên Xô, vừa thiếu bình đẳng vừa bất lợi cho Nam Tư, cũng vô ích. Lấy cớ các nước Đông Âu khác sẽ coi đây là tiền lệ, Mikoian từ chối xem xét vấn đề ngay từ đầu.
Nhưng vừa bàn đến mỏ đồng của Nam Tư là lời lẽ của ông ta thay đổi ngay, ông ta đề nghị trả cho chúng tôi bằng bất cứ ngoại tệ hay hàng hoá nào, mà trả trước, số lượng không hạn chế.
Thế là chúng tôi chẳng thu được gì, chỉ kéo dài những cuộc đàm phán vô ích và vô bổ mà thôi. Sự việc đã rõ: các bánh xe hướng về nước Nam Tư của cỗ máy Liên Xô đã bị người ta phanh lại rồi.
Chuyến đi Leningrad có làm cho tâm hồn thanh thản hơn.
Trước khi thăm Leningrad, tôi tin rằng sự hi sinh và chủ nghĩa anh hùng của các tỉnh khởi nghĩa và các chiến sĩ du kích Nam Tư là cao cả nhất, không ai có thể vượt qua được. Nhưng Leningrad đã vượt Nam Tư, có thể không chỉ về mặt anh hùng mà còn về tinh thần hi sinh của cả một tập thể nữa. Trong một thành phố có một triệu dân, bị cắt rời khỏi hậu phương, không có lương thực và nhiên liệu, lại thường xuyên bị máy bay và pháo binh bắn phá, chỉ trong mùa đông 1941-1942 đã có 300 ngàn người chết vì đói và rét, người ta ăn cả thịt người, nhưng ý nghĩ đầu hàng chưa bao giờ hiện diện. Bức tranh chung là như thế.
Nhưng chỉ khi chúng tôi va chạm với thực tế, với những trường hợp hi sinh và anh hùng, với những con người bằng da bằng thịt cụ thể, những người đã thực hiện hoặc chứng kiến những hành động anh dũng đó, chúng tôi mới cảm thấy hết sự vĩ đại của bản anh hùng ca Leningrad, mới thấy hết khả năng vô cùng tận của con người, của nhân dân Nga khi nền tảng tinh thần, nền tảng nhà nước của họ bị tấn công.
Cuộc gặp gỡ với những người lãnh đạo Leningrad càng làm cho lòng cảm phục của chúng tôi thêm ấm áp tình người. Đa số họ là những người lao động động bình thường và có học vấn, họ không chỉ gánh trên vai mà mang cả trong tim sự vĩ đại bi hùng của thành phố. Nhưng cuộc sống của họ khá đơn điệu và họ rất mừng khi được gặp những người từ những vùng đất khác, những nền văn hoá khác. Chúng tôi, những người có số phận tương đối giống nhau, đã tìm được tiếng nói chung một cách nhanh chóng và dễ dàng. Và mặc dù không nghĩ đến chuyện phê phán lãnh đạo Liên Xô trước mặt họ, chúng tôi cũng nhận ra rằng những người này có quan niệm về thành phố và đời sống của các công dân ở đây một cách tự nhiên và có tình hơn là những người ở Moskva.
Tôi nghĩ rằng sẽ dễ dàng tìm được tiếng nói chung về chính trị với họ hơn vì đã tìm được lòng cảm thông ấm áp tình người nơi họ.
Thực lòng, hai năm sau đó, tôi hoàn toàn không ngạc nhiên khi biết rằng họ đã không thoát khỏi chiếc cối xay thịt người của chế độ toàn trị, đơn giản vì họ đã dám là những con người thực sự.
Trong chuyến đi Leningrad buồn vui lẫn lộn này, dù sao cũng còn một vết đen, đấy là người đồng hành của chúng tôi tên là Lesakov. Lúc đó, ở Liên Xô, có thể bắt gặp những viên chức xuất thân từ công nhân và tầng lớp cùng khổ. Nhìn vào trình độ học vấn và cách cư xử, ta có thể nghĩ rằng Lesakov xuất thân từ công nhân. Điều đó cũng không có gì là xấu nếu như anh ta không cố tình che giấu và không đòi hỏi một cách lộ liễu những cái vượt quá tầm của anh ta. Sự thật là anh ta đã leo lên không phải bằng sức lực và trí tuệ của mình mà do người ta kéo lên, người ta đưa vào bộ máy của Ban chấp hành trung ương và giao cho phụ trách các vấn đề về Nam Tư. Anh ta đóng một lúc hai vai, vừa là cán bộ đảng vừa là nhân viên tình báo; khi đóng vai cán bộ đảng anh ta lại tiến hành thu thập thông tin về Đảng cộng sản Nam Tư và những người lãnh đạo của nó, nhưng cách làm phải nói là khá vụng.
Người tầm thước, mặt chữ điền với những chiếc răng nhọn màu vàng xỉn, chiếc cà vạt vắt chéo một bên, áo sơ mi tuột ra ngoài quần, lúc nào cũng sợ bị cho là thiếu văn hoá, nếu là một người lao động bình thường, nếu không giữ chức vụ quan trọng đến thế, nếu không gọi chúng tôi, chủ yếu là tôi đến thảo luận những chuyện chán phèo thì Lesakov có thể được coi là đáng yêu. Anh ta khoe rằng "đồng chí Zhdanov đã đuổi hết bọn Do Thái khỏi Ban chấp hành trung ương!", nhưng đồng thời cũng lại ca ngợi Bộ chính trị Hungaria, lúc đó gồm toàn người Do Thái nhập cư. Tôi nghĩ rằng theo quan điểm của ban lãnh đạo Liên Xô, dù họ có che giấu thái độ bài Do Thái, thì người Do Thái nắm quyền ở Hungaria lại càng tốt, nhất là khi những người này không có nguồn gốc Hung, họ càng phụ thuộc vào Liên Xô hơn.
Tôi đã được nghe và nhận thấy rằng ở Liên Xô, khi người ta muốn loại một người mà không có lí do rõ ràng thì họ thường cho các nhân viên mật vụ rỉ tai tuyên truyền một chuyện đê mạt nào đó. Lesakov "bí mật" kể cho tôi nghe rằng nguyên soái Zhukov bị hạ bệ vì đã ăn cắp nhiều tài sản có giá trị ở Berlin. "Đồng chí Stalin không chịu nổi những kẻ vô đạo đức!", anh ta bảo thế. Còn tướng Antonov, Tổng tham mưu trưởng "thì hoá ra có nguồn gốc Do Thái!".
Rõ ràng là tuy có hạn chế về trí tuệ, Lesakov biết rất rõ quan hệ trong Ban chấp hành trung ương Nam Tư và phương pháp làm việc của nó. "Không có một đảng ở Đông Âu nào", anh ta nói, "lại có tứ nhân bang hoạt động hữu hiệu như ở Nam Tư".
Anh ta không nói tên tứ nhân bang, nhưng tôi biết đấy là Tito, Kardelj, Rankovic và tôi. Tôi chợt nghĩ: đối với những người lãnh đạo Liên Xô, tứ nhân bang này cũng là một trong những "củ lạc" chăng?
hết: 19., xem tiếp: 20.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Nói chuyện với Stalin
Dịch giả: Phạm Minh Ngọc
19.
Chưa đầy hai ngày sau, chúng tôi đã được gọi đến Bộ Tổng tham mưu để trình bày nguyện vọng của mình.
Ngay từ lúc ngồi trên tàu, tôi đã nói với Koca Popovic và M. Todorovich rằng ước mong của họ có vẻ cao vời và không thực tế. Tôi hoàn toàn không tưởng tượng được rằng người Nga có thể đồng ý khôi phục nền công nghiệp quốc phòng trong khi họ không thực sự muốn giúp khôi phục nền công nghiệp dân sự của chúng ta. Việc họ cho chúng ta hạm đội hải quân trong khi chính họ cũng không có còn khó tưởng tượng hơn. Lập luận rằng hạm đội của Liên Xô hay của Nam Tư ở biển Adriatic không phải là quan trọng vì hai nước đều là thành viên của thế giới cộng sản thống nhất, theo tôi, là không có sức thuyết phục vì trong khối này đã có rạn nứt, chưa nói đến tính đa nghi của Liên Xô, họ không tin bất cứ cái gì nằm ngoài tầm với của họ, chưa nói đến việc họ công khai bảo vệ trước hết quyền lợi của đất nước mình. Nhưng những nguyện vọng này đã được thảo luận kĩ và thông qua ở Belgrad rồi, tôi phải có trách nhiệm ủng hộ.
Bulganin điều khiển cuộc họp, xung quanh là các chuyên viên quân sự cấp cao, trong đó có cả nguyên soái Vasilevski, Tổng tham mưu trưởng.
Đầu tiên tôi trình bày những nét chính về nhu cầu của chúng tôi, rồi để Todorovich và Popovich đi vào giải thích chi tiết.
Các đại diện Liên Xô không phát biểu gì, họ hỏi kĩ và ghi chép tất.
Chúng tôi rời Bộ Tổng tham mưu, một ngôi nhà kiểu cách, rẻ tiền, được che đậy bằng những đồ nội thất xa hoa, những chiếc rèm loè loẹt và vật dụng mạ vàng, với tâm trạng hài lòng và tin rằng vấn đề đã được khởi động, công việc cụ thể sẽ thực sự bắt đầu trong một thời gian tới.
Đúng như thế, chẳng bao lâu sau, Todorovich và Popovic được mời tham gia mấy cuộc họp. Nhưng rồi mọi sự bỗng giẫm chân tại chỗ và các đại diện Liên Xô nói bóng gió với chúng tôi rằng "có một số phức tạp", cần phải chờ.
Chúng tôi hiểu là đã có chuyện giữa Moskva và Belgrad, chuyện gì thì chúng tôi không biết, nhưng không thể nói rằng chúng tôi đã bị bất ngờ. Dù thế nào thì việc kéo dài các cuộc thương lượng cũng chỉ làm cho chúng tôi càng thêm bất mãn đối với hiện thực của xã hội Liên Xô và quan điểm của Moskva đối với Belgrad mà thôi. Hơn nữa, chúng tôi coi như bị thất nghiệp và phải giết thời gian trong các bữa liên hoan và các nhà hát ở Moskva, tuy cũ nhưng phải nói khó có nơi nào vượt qua được.
Không một công dân Liên Xô nào dám đến thăm chúng tôi vì mặc dù chúng tôi đến từ một nước xã hội chủ nghĩa nhưng là người nước ngoài, công dân Liên Xô không dám tiếp xúc với những người như thế. Tất cả các tiếp xúc của chúng tôi đều qua con đường công vụ: Bộ Ngoại giao và Ban chấp hành trung ương. Chúng tôi cảm thấy khó chịu và bị xúc phạm, ở Nam Tư không có những hạn chế kiểu đó, đối với các công dân và cán bộ Liên Xô thì lại càng không. Chuyện này càng làm chúng tôi bất mãn thêm.
Sự bất mãn của chúng tôi chưa có tính chất khái quát, nhưng có rất nhiều thí dụ thực tế. Vukmanovich-Tempo nói công khai về những thiếu sót trong các nhà tập thể dành cho bộ đội. Để cho đỡ buồn, tôi và Koca Popovic xin chuyển sang một phòng chung trong khách sạn Moskva nhưng người ta nói phải đợi "thợ điện" sửa, chúng tôi hiểu là anh ta đang lắp máy nghe trộm. Mặc dù Moskva là khách sạn mới và là khách sạn lớn nhất nhưng không có một cái gì ở đây hoạt động đúng chức năng cả: phòng thì lạnh, vòi nước thì chảy suốt ngày, bồn tắm mặc dù được nhập từ Đông Đức nhưng không dùng được vì nước thải chảy ngay xuống nền nhà. Phòng tắm không có chìa khoá, Koca Popovic khẳng định rằng người kiến trúc sư đã biết là thế nào chìa khoá cũng bị mất và đã để bồn rửa mặt cạnh cửa ra vào để có thể dùng chân chặn lại. Tôi thường nhớ lại thời ở khách sạn Metropol vào năm 1944, đấy là một khách sạn cũ nhưng mọi thứ đều hoạt động rất tốt, các nhân viên phục vụ có tuổi đều nói tiếng Anh hay tiếng Pháp, rất ý tứ, lịch sự.
Một hôm, tôi nghe có tiếng thở mạnh trong nhà tắm. Hoá ra có hai công nhân, một người đứng dưới công kênh người kia để anh ta sửa ống nước phía trên trần.
"Các anh làm gì thế", tôi hỏi, "sao không mang thang đến?"
Hai người công nhân phàn nàn:
"Nói bao nhiêu lần rồi, có ăn thua gì đâu; cứ hễ có hỏng hóc là chúng tôi lại khổ thế này đấy".
Đi dạo vài vòng xung quanh, chúng tôi thấy "người đẹp Moskva" đa phần vẫn là vùng nông thôn lạc hậu, hoang vu và được xây dựng chưa đâu vào đâu. Anh lái xe tên là Panov, tôi có quan hệ rất thân mật với anh ta và đã gửi từ Nam Tư cho anh một chiếc đồng hồ đeo tay, không thể nào tin rằng New York và Paris có nhiều ô tô hơn Moskva, mặc dù anh không che giấu thái độ bất mãn với chất lượng ô tô do Liên Xô sản xuất.
Chúng tôi được dẫn đi xem quan tài của các Sa hoàng trong Điện Kremli, cô hướng dẫn viên du lịch đầy tinh thần ái quốc đã nói "các Sa hoàng của chúng ta". Ưu thế của người Nga được đem ra trưng bày một cách lộ liễu, đầy vẻ khôi hài một cách bệnh hoạn.
Như vậy là khắp mọi nơi, trên từng bước chân đều hiện rõ những khía cạnh chưa được biết tới ở đất nước Liên Xô: lạc hậu, cục mịch, sô-vanh nước lớn, và dĩ nhiên là những cố gắng đầy tinh thần anh dũng nhằm khắc phục các nhược điểm đó cũng như khuất phục dòng chảy bình thường của cuộc sống.
Biết rằng trong những hộp sọ rắn chắc của các nhà lãnh đạo và các tổ chức chính trị Liên Xô, mọi lời nhận xét có tính phê phán đều bị coi là quan điểm bài Xô cho nên chúng tôi, tuy không hẹn trước, đều co cụm lại với nhau. Vì chúng tôi đến đây với một sứ mệnh chính trị nên chúng tôi bắt đầu chỉ cho nhau thấy những cử chỉ "vụng về" hoặc những lời nói thiếu thận trọng. Sự cách li bắt đầu mang tính tổ chức. Tôi nhớ vì sợ có thiết bị nghe trộm, chúng tôi đã bắt đầu thận trọng trong việc nói năng trong khách sạn, trong phòng làm việc và khi nói chuyện thì mở radio thật to.
Các đại diện Liên Xô chắc chắn đã nhận thấy chuyện đó. Sự căng thẳng và nghi kị ngày một gia tăng.
Thi hài Lenin được đưa trở về trong thời gian này, thời chiến người ta đem ông đi giấu ở đâu đó. Chúng tôi đến viếng ông vào buổi sáng. Việc viếng cũng không có gì đặc biệt nếu nó không tạo ra trong tôi và những người khác một sự phản kháng mà đến lúc đó chúng tôi chưa hề biết tới.
Trong khi bước chậm rãi vào lăng, tôi nhận thấy những bà nông dân choàng khăn làm dấu thánh giá, như thể họ đang đến gần tượng Chúa vậy. Mà chính tôi cũng có cảm giác bí hiểm, một cảm giác đã quên từ thuở thiếu thời. Hơn thế nữa, tất cả đều được sắp đặt để tạo ra trong người ta cảm giác như thế: các khối đá cẩm thạch, hàng vệ binh im lặng, nguồn ánh sáng bí ẩn bên trên và thi hài Lenin, đã khô và trắng như vôi với vài sợi tóc như được cấy vào đầu. Dù rất kính trọng thiên tài của Lenin, tôi vẫn thấy một cái gì đó phi tự nhiên và cái chính là những cuộc tụ tập bí hiểm xung quanh thi hài ông là trái với chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa Lenin.
Ngay cả dù rất bận, chúng tôi vẫn muốn đi thăm Leningrad, hiện thân của cái đẹp và cách mạng. Tôi đã ghé thăm Zhdanov nhờ ông giúp đỡ, ông vui vẻ nhận lời. Cuộc nói chuyện chỉ kéo dài chưa đến mười phút. Nhưng ông cũng không quên hỏi tôi nghĩ thế nào về tuyên bố của Dimitrov trên tờ Sự thật (ngày 21 tháng 1 năm 1948) khi ông ở Bucarest, trong chuyến đi, ông đã tuyên bố ủng hộ việc phối hợp kế hoạch và thành lập hải quan chung giữa giữa Bulgaria và Rumania. Tôi bảo rằng tôi không thích tuyên bố đó: quan hệ của Bulgaria - Rumania sẽ trở thành biệt lập và quá sớm. Zhdanov cũng không hài lòng dù không nói lí do, nhưng rồi chẳng bao lâu người ta cũng biết vì sao, tôi sẽ nói cụ thể hơn trong những đoạn sau.
Khoảng thời gian này, đại diện của Bộ Ngoại thương Nam Tư là Bogdan Srnobrnhia cũng có mặt ở Moskva; vì không thể giải quyết một số vấn đề quan trọng với các cơ quan Liên Xô nên ông ta nài nỉ tôi cùng đi gặp Mikoian, Bộ trưởng Ngoại thương.
Mikoian tiếp chúng tôi một cách lạnh lùng, không giấu vẻ sốt ruột. Một trong những vấn đề cần thảo luận là chúng tôi muốn người Nga trả lại những toa tầu hoả mà họ đã lấy từ các vùng chiếm đóng cũ, đằng nào họ cũng không sử dụng được vì đường ray của chúng tôi rộng hơn.
"Thế các đồng chí nghĩ thế nào, điều kiện hoàn trả ra sao, giá bao nhiêu?", Mikoian hỏi.
Tôi đáp:
"Các đồng chí tặng cho chúng tôi".
Ông ta trả lời ngắn gọn:
"Tôi không quan tâm đến tặng phẩm, tôi quan tâm đến vấn đề thương mại".
Tôi và Srnobrnhia nói đến khan họng về việc sửa lại hợp đồng mua phim của Liên Xô, vừa thiếu bình đẳng vừa bất lợi cho Nam Tư, cũng vô ích. Lấy cớ các nước Đông Âu khác sẽ coi đây là tiền lệ, Mikoian từ chối xem xét vấn đề ngay từ đầu.
Nhưng vừa bàn đến mỏ đồng của Nam Tư là lời lẽ của ông ta thay đổi ngay, ông ta đề nghị trả cho chúng tôi bằng bất cứ ngoại tệ hay hàng hoá nào, mà trả trước, số lượng không hạn chế.
Thế là chúng tôi chẳng thu được gì, chỉ kéo dài những cuộc đàm phán vô ích và vô bổ mà thôi. Sự việc đã rõ: các bánh xe hướng về nước Nam Tư của cỗ máy Liên Xô đã bị người ta phanh lại rồi.
Chuyến đi Leningrad có làm cho tâm hồn thanh thản hơn.
Trước khi thăm Leningrad, tôi tin rằng sự hi sinh và chủ nghĩa anh hùng của các tỉnh khởi nghĩa và các chiến sĩ du kích Nam Tư là cao cả nhất, không ai có thể vượt qua được. Nhưng Leningrad đã vượt Nam Tư, có thể không chỉ về mặt anh hùng mà còn về tinh thần hi sinh của cả một tập thể nữa. Trong một thành phố có một triệu dân, bị cắt rời khỏi hậu phương, không có lương thực và nhiên liệu, lại thường xuyên bị máy bay và pháo binh bắn phá, chỉ trong mùa đông 1941-1942 đã có 300 ngàn người chết vì đói và rét, người ta ăn cả thịt người, nhưng ý nghĩ đầu hàng chưa bao giờ hiện diện. Bức tranh chung là như thế.
Nhưng chỉ khi chúng tôi va chạm với thực tế, với những trường hợp hi sinh và anh hùng, với những con người bằng da bằng thịt cụ thể, những người đã thực hiện hoặc chứng kiến những hành động anh dũng đó, chúng tôi mới cảm thấy hết sự vĩ đại của bản anh hùng ca Leningrad, mới thấy hết khả năng vô cùng tận của con người, của nhân dân Nga khi nền tảng tinh thần, nền tảng nhà nước của họ bị tấn công.
Cuộc gặp gỡ với những người lãnh đạo Leningrad càng làm cho lòng cảm phục của chúng tôi thêm ấm áp tình người. Đa số họ là những người lao động động bình thường và có học vấn, họ không chỉ gánh trên vai mà mang cả trong tim sự vĩ đại bi hùng của thành phố. Nhưng cuộc sống của họ khá đơn điệu và họ rất mừng khi được gặp những người từ những vùng đất khác, những nền văn hoá khác. Chúng tôi, những người có số phận tương đối giống nhau, đã tìm được tiếng nói chung một cách nhanh chóng và dễ dàng. Và mặc dù không nghĩ đến chuyện phê phán lãnh đạo Liên Xô trước mặt họ, chúng tôi cũng nhận ra rằng những người này có quan niệm về thành phố và đời sống của các công dân ở đây một cách tự nhiên và có tình hơn là những người ở Moskva.
Tôi nghĩ rằng sẽ dễ dàng tìm được tiếng nói chung về chính trị với họ hơn vì đã tìm được lòng cảm thông ấm áp tình người nơi họ.
Thực lòng, hai năm sau đó, tôi hoàn toàn không ngạc nhiên khi biết rằng họ đã không thoát khỏi chiếc cối xay thịt người của chế độ toàn trị, đơn giản vì họ đã dám là những con người thực sự.
Trong chuyến đi Leningrad buồn vui lẫn lộn này, dù sao cũng còn một vết đen, đấy là người đồng hành của chúng tôi tên là Lesakov. Lúc đó, ở Liên Xô, có thể bắt gặp những viên chức xuất thân từ công nhân và tầng lớp cùng khổ. Nhìn vào trình độ học vấn và cách cư xử, ta có thể nghĩ rằng Lesakov xuất thân từ công nhân. Điều đó cũng không có gì là xấu nếu như anh ta không cố tình che giấu và không đòi hỏi một cách lộ liễu những cái vượt quá tầm của anh ta. Sự thật là anh ta đã leo lên không phải bằng sức lực và trí tuệ của mình mà do người ta kéo lên, người ta đưa vào bộ máy của Ban chấp hành trung ương và giao cho phụ trách các vấn đề về Nam Tư. Anh ta đóng một lúc hai vai, vừa là cán bộ đảng vừa là nhân viên tình báo; khi đóng vai cán bộ đảng anh ta lại tiến hành thu thập thông tin về Đảng cộng sản Nam Tư và những người lãnh đạo của nó, nhưng cách làm phải nói là khá vụng.
Người tầm thước, mặt chữ điền với những chiếc răng nhọn màu vàng xỉn, chiếc cà vạt vắt chéo một bên, áo sơ mi tuột ra ngoài quần, lúc nào cũng sợ bị cho là thiếu văn hoá, nếu là một người lao động bình thường, nếu không giữ chức vụ quan trọng đến thế, nếu không gọi chúng tôi, chủ yếu là tôi đến thảo luận những chuyện chán phèo thì Lesakov có thể được coi là đáng yêu. Anh ta khoe rằng "đồng chí Zhdanov đã đuổi hết bọn Do Thái khỏi Ban chấp hành trung ương!", nhưng đồng thời cũng lại ca ngợi Bộ chính trị Hungaria, lúc đó gồm toàn người Do Thái nhập cư. Tôi nghĩ rằng theo quan điểm của ban lãnh đạo Liên Xô, dù họ có che giấu thái độ bài Do Thái, thì người Do Thái nắm quyền ở Hungaria lại càng tốt, nhất là khi những người này không có nguồn gốc Hung, họ càng phụ thuộc vào Liên Xô hơn.
Tôi đã được nghe và nhận thấy rằng ở Liên Xô, khi người ta muốn loại một người mà không có lí do rõ ràng thì họ thường cho các nhân viên mật vụ rỉ tai tuyên truyền một chuyện đê mạt nào đó. Lesakov "bí mật" kể cho tôi nghe rằng nguyên soái Zhukov bị hạ bệ vì đã ăn cắp nhiều tài sản có giá trị ở Berlin. "Đồng chí Stalin không chịu nổi những kẻ vô đạo đức!", anh ta bảo thế. Còn tướng Antonov, Tổng tham mưu trưởng "thì hoá ra có nguồn gốc Do Thái!".
Rõ ràng là tuy có hạn chế về trí tuệ, Lesakov biết rất rõ quan hệ trong Ban chấp hành trung ương Nam Tư và phương pháp làm việc của nó. "Không có một đảng ở Đông Âu nào", anh ta nói, "lại có tứ nhân bang hoạt động hữu hiệu như ở Nam Tư".
Anh ta không nói tên tứ nhân bang, nhưng tôi biết đấy là Tito, Kardelj, Rankovic và tôi. Tôi chợt nghĩ: đối với những người lãnh đạo Liên Xô, tứ nhân bang này cũng là một trong những "củ lạc" chăng?
hết: 19., xem tiếp: 20.
Sưu tầm: Nguyễn Học
Nguồn: Talawas
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 10 năm 2006
Subscribe to:
Posts (Atom)