Showing posts with label SƠN TRUNG * RAU SAM NGOÀI VƯỜN. Show all posts
Showing posts with label SƠN TRUNG * RAU SAM NGOÀI VƯỜN. Show all posts

Wednesday, November 11, 2009

XVIII. TÔI LÀ NGƯỜI KHÁCH LẠ

***

Sau 1975, miền Nam đổi chủ và thay cảnh sắc. Ngoài đường, bọn công an mặc quần áo vàng, đi dép râu, đội nón cối, mang AK đứng đầy đường. Khắp nơi, xe vận tải Liên Xô che vải kín như những dấu tích của thời miền Tây Hoa Kỳ khai hoang. Ngân hàng , chợ búa đóng cửa để kiểm kê. Hàng triệu người miền Nam thất nghiệp, hàng trăm ngàn sĩ quan và công chức phải ngồi tù. Chợ trời và quán cà phê mọc khắp nơi. Người ta đem bàn ghế, tủ, giường bán ngoài đường. Khắp nơi treo ảnh già Hồ.

Thiếu nhi và thiếu niên đi học phải thắt khăn quàng đỏ. Ra đường ít người mang áo dài và tô son điểm phấn vì người ta sợ bị cắt quần, tuốt móng tay giữa đường. Không còn gạo Lục tỉnh chở về thành phố vì từ nay họ thực hành kinh tế tự cung tự cấp, vùng nào lo thực phẩm cho vùng đó, không có buôn bán từ làng này qua làng khác, xã này qua xã khác. Đó là chủ trương cấm chợ ngăn sông của đảng cộng sản để cho người dân muôn đời sống trong nhà giam Hợp tác xã, bãi bỏ buôn bán cá thể, và không cho dân chúng liên lạc với thế giới bên ngoài. Đi đâu là phải xin phép đi dường, khách đến nhà phải trình báo. Tất cả chúng ta như sống vào một không gian khác lạ. Trong khi bọn cộng sản và bọn ba mươi hớn hở tung hô chế độ, những người quốc gia chúng ta bị '' chấn động văn hóa'' ( cultural shock).



Người Tây phương dùng danh từ này để diễn tả tâm trạng của những người đi từ quốc gia này sang quốc gia khác, từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác, và họ cảm thấy đau khổ vì mọi thứ như phong tục, chính trị, kinh tế, ngôn ngữ, y phục, thực phẩm. . . . đều khác lạ với nếp sống quen thuộc của họ. Chúng ta không cần đi ra nước ngoài, chúng ta ở trong đất nước của chúng ta, thế mà cộng sản vào miền nam đã gây xáo trộn đời sống nhân dân ta, khiến cho ta khó chịu, buồn bực và đau khổ! Ấy là ta đã bị ''chấn động văn hóa'' ngay tại nước ta! Chúng ta đã cảm thấy mình như đang ở một quốc gia xa lạ, với những tên công an, cán bộ của một chính quyền man rợ tại một vùng hoang vu trên trái đất!



Sau 1975, những nhà giáo không thuộc diện sĩ quan và công chức cao cấp thì không phải đi ''học tập cải tạo''. Vì vậy, chúng tôi còn ở lại trường học tập chính trị, họ nói ai học tập tốt có thể được xét ở lại giảng dạy. Trước đây, tôi là dân vượt tuyến. Thủơ nhỏ tôi đã sống trong vùng cộng sản, và học tại một trường trung học tại núi rừng. Tôi đã biết ít nhiều về cộng sản. Tôi không tin tưởng ở những lời hứa hẹn của họ, vì họ không bao giờ nói thật. Cộng sản làm thì không nói, cộng sản nói thì không làm!



Tôi là một học sinh bình thường, không thuộc diện đoàn, đảng. Còn những học sinh đoàn đảng thì quá dốt và luôn lăng xăng họp hành riêng với nhau. Tôi có cảm tưởng bọn họ là một loại học sinh '' con đẻ'', còn chúng tôi là loại học sinh '' con nuôi'', hoặc một loại ''người dưng nước lã'', một loại ''khách lạ'' đến từ một nơi xa xăm!
Cảm giác ''người khách lạ'' lại xuất hiện lần nữa sau 1975. Trong trường, còn lại những bạn bè với nhau, chúng tôi vô hình trung thuộc về một loại với nhau dù không bị bôi vôi, cạo trọc đầu hoặc mang biển, mang băng đi khắp thành phố như hồi cách mạng văn hóa bên Trung quốc. Nhìn thái độ và mặt mũi, người ta thấy rõ chúng tôi thuộc bọn '' chế độ cũ'' Sài gòn. Trong khi các cán bộ quân quản mang dép râu, đội nón tai bèo, chúng tôi chỉ mang y phục bình thường quần tây, áo sơ mi. Y phục khác nhau mà tâm tư cũng khác nhau. Họ là kẻ chiến thắng còn chúng tôi ý thức chúng tôi là tù hàng binh và chợt nhớ đến câu thơ Nguyễn Du:
''Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu!
Áo xiêm buộc trói lấy nhau,
Vào luồn ra cúi công hầu mà chi!''



Họ bắt chúng tôi học tập chính trị một thời gian. Lúc đó họ phân loại chúng tôi . Các vị tiến sĩ quốc gia ( Pháp) thì ngang hàng phó tiến sĩ xã hội chủ nghĩa, còn tiến sĩ đệ tam cấp ( Pháp), Ph.D., master (Mỹ) cao học, cử nhân (Việt Nam) thì ngang hàng tốt nghiệp đại học xã hội chủ nghĩa. Tôi bắt chuớc câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc cho bạn bè nghe:
Tiến sĩ còn chẳng ra gì,
Cử nhân, cao học khác chi thằng hề!
Có lẽ mặt mũi chúng tôi không còn sáng sủa, và bước chân của chúng tôi không mạnh mẽ và nhanh nhẹn như thời trước. Trong khi đó những anh nằm vùng hoặc '' tân gia ba''( mới gia nhập vào ngày 30 tháng tư) thì lăng xăng, năng nổ. Tức cười nhất là một vị linh mục những ngày đầu tiên ông cũng đứng ngồi khép nép mất tự nhiên như chúng tôi. Vài ngày sau, không biết xin đâu một cái băng đỏ, ông cũng đeo vào cánh tay, gia nhập vào đám cán bộ quân quản, và bọn '' ba mươi''cũng lăng xăng chạy lui chạy tới như gà mắc đẻ. Ít lâu sau, ông vắng bóng, nghe đâu ban quân quản đã cho các vị tôn giáo trở về với tôn giáo!



Những ngày đó chúng tôi không tích cực như bọn ba mươi nhưng cũng không tỏ rõ thái độ chống đối, tuy nhiên đôi khi thấy họ nói ngang ngược quá thì cũng phải góp ý kiến vì nếu im lặng, người ta sẽ cho là trí thức miền Nam ngu! Vì thế mà tên tổ trưởng vốn là một tên cơ hội chủ nghĩa, báo cáo cuối khóa học tập rằng chúng tôi có thái độ đối kháng. Mà đối kháng đồng nghĩa với phản kháng, với phản động!


Mà phản động có nghĩa là sẽ bị đảng và nhà nước trừng trị, cho vào trại giam! Nghe ông ''triết gia tổ trưởng'' dùng chữ trong bản báo cáo, chúng tôi ớn xương sống và biết số phận của chúng tôi đã được quyết định. Lúc này, lớp học chính trị của chúng tôi thỉnh thoảng vắng bóng một vài người. Tôi nghe bạn bè kháo nhau họ đã vượt biên. Trong trường, các cán bộ quân quản luôn họp hành với các sinh viên đoàn đảng và các tên tổ trưỡng, tổ phó và các tên ba mươi! Rõ ràng chúng tôi là một lũ tội nhân đang chờ ngày phán xử. Trong những buổi học tập, phải nghe những tên cán bộ i tờ lên lớp về sáng kiến xăng khô của Liên Xô ( Liên Xô chế ra xăng bột rất tiện lợi, khi dùng thì lấy ra một ít bột, đổ nước lạnh vào quậy lên mà dùng), nhờ cố vấn quân sự của đảng ta mà '' Một Răng''( Iran), '' Một Rắc''( Iraq) chiến thắng đế quốc Mỹ; và sự giàu sang của miền Bắc xã hội chủ nghĩa như là đã sản xuất xe ô-tô xuất khẩu, chỗ nào cũng có dầu lửa, nhân dân ta chỉ cần cắm cuống đu đủ là dầu bốc lên tha hồ nấu bánh chưng!



Chán nản quá, vào lớp học tôi không sao chống nổi con ma ngủ xâm nhập cơ thể! Dẫu biết đó là một hành động kém khôn ngoan nhưng biết làm thế nào được! Tôi có cảm giác rằng chúng tôi là một thứ ngoại quốc ngay trên đất nước tôi. Y phục của họ khác chúng tôi, cách nói năng và suy tưởng khác chúng tôi. Tôi và họ tuy là cùng giống Việt Nam nhưng có hai nền văn hóa khác nhau! Và điều quan trọng nhất họ là người chiến thắng còn chúng tôi là kẻ chiến bại! Xúc cảnh sinh tình, tôi đọc cho các bạn tôi nghe mấy câu thơ của tôi:
Nước này nào phải nước ta,
Mình là ngoại quốc lo mà hồi hương!
Mình là khách lạ ở trường,
Mau về mà vượt đại dương cho rồi!

It lâu sau thì đa số chúng tôi ra khỏi trường, chỉ trừ các anh em ban sinh ngữ hoặc những người có khả năng sinh ngữ là được ở lại. Một ông bạn già của tôi có việc cần tra cứu sách vở cho nên đã trở lại thư viện trường xin đọc sách. Họ vẫn lịch sự cho ông vào vì người thủ thư là người cũ. Khi về, ông cho biết nhân viên trường đã thay đổi gần hết, sinh viên và nhân viên đều nhìn ông như một người xa lạ. Riêng tôi, từ khi ra khỏi trường thì không bao giờ trở lại trường nữa. Tôi hiểu được nỗi cô đơn lạc loài của ông bạn già. Thật ra chúng ta bao giờ cũng chỉ là người khách lạ trong cuộc đời này!


Thời trước chúng tôi còn dạy học, thì chỉ những sinh viên nào học với chúng tôi thì mới biết chúng tôi. Ngoài ra, các sinh viên khác chỉ biết đại khái chúng tôi là thầy giáo của nhà trường, thế thôi! Có kẻ lâu lâu mới tới trường một lần, tất nhiên chẳng biết ai là ai! Sinh viên cũ lớp thì bị ngồi tù hoặc chết trong lửa đạn ' Mùa Hè Đỏ Lửa'' hay ''Mùa Xuân Đại Thắng'', kẻ thì vượt biên, người thì không được tiếp tục học vì lý lịch xấu hoặc vì gia cảnh sa sút không đủ tiền ăn học! Nay đổi thay tình thế, thầy mới, trò mới, làm sao ai còn biết ai ! Khi ra khỏi môi trường hoạt động, chúng ta chỉ là những con người lẻ loi, cô độc, là những khách la! Ông bác sĩ, bà dược sĩ, cô vũ nữ, chàng họa sĩ. . . ra đường cũng chỉ là những con người vô danh trong đám đông!

Khoảng 1985, nhạc phụ tôi mất, nhạc mẫu và mấy đứa em ra ngoại quốc, căn nhà trước kia đông đúc khoảng mười người ở, nay vắng tanh, chỉ còn lại một đứa cháu thường vắng nhà. Hai bên và đàng sau, người ta đã lên lầu cho nên căn nhà cũ bị che ánh mặt trời, trở thành tối om. Những ngày có điện thì có thể bật đèn sáng khi vào nhà, còn những ngày cúp điện thì tối om và nóng không thể tả! Những ngày giỗ chạp, chúng tôi đến cúng vái mà lòng tôi ngậm ngùi vì cảnh cũ người xưa không còn nữa!



Mười năm sau ngày Sài gòn thất thủ, tôi đã trở ra miền Trung thăm mái nhà xưa. Anh em, họ hàng đối với tôi rất chân tình. Người làng có vài kẻ nhận ra tôi, còn đa số nhìn tôi bằng con mắt xa lạ. Những kẻ biết tôi chút chút thì gọi tôi là '' ông Sài gòn''!Tại thôn xóm của mình, tôi thấy phong cảnh đổi khác, và tôi đã trở thành người khách lạ đối với nơi quê hương tôi sinh trưởng. Tôi là người khách lạ vì tôi có cảm giác khác xưa, không thân thiết như xưa. Tôi xa lạ với một số người trong làng vì họ mới lớn lên hay họ từ một nơi nào khác đến hoặc trở về. Và tôi cũng chỉ là một du khách, về đây một thời gian rất ngắn rồi lại lên đường, không biết bao giờ có thể trở lại! Không những tôi xa lạ mà tôi còn mang cảm giác bất an như có một ai đang rình rập tôi! Lúc nói năng, tôi phải gìn giữ từng lời, vì sợ báo cáo và xuyên tạc. Trong một không khí như thế, làm sao mà thân mật!



Ngôi nhà của tôi vẫn còn đó nhưng ngày xưa ông bà, cha mẹ, anh em chú bác quây quần, nay vào ra quạnh hiu chỉ còn mẹ tôi và tôi. Một vài anh chị bà con thỉnh thoảng ghé vào thăm viếng nhưng đêm khuya, một mình dưới bóng trăng lạnh lẽo, tôi cảm thấy cô đơn vô hạn, dường như mọi người đã bỏ đi thật xa, chỉ còn lại mình tôi. Những người thân yêu đã chết, những bạn bè vào bộ đội, đi làm ăn xa hoặc đi kinh tế mới hoặc đã chết. Những cô gái ngày xưa đã đi lấy chồng xa. Tôi mang tâm trạng lạc loài của Lưu Thần, Nguyễn Triệu trở lại quê nhà thì cha mẹ, ông bà, họ hàng, bạn bè đã thất lộc từ lâu, mà những lớp người hiện tại không ai biết chút gì về mình. Trước và sau tôi là sương mù, là sa mạc hoang vu . . .


Năm 1995, tôi và gia đình sang Canada theo chương trình đoàn tụ gia đình. Tôi cảm thấy thích thú vì người dân Canada rất hiền lành và lịch sự. Phong cảnh rất đẹp. Ở trong thành phố mà như nơi núi rừng vì chỗ nào cũng có công viên rậm rạp và cây cối um tùm. Các giống se sẻ, quạ, bồ câu, hải âu bay khắp nơi. Những con sóc leo lên leo xuống những hàng cây bên vệ đường, thỉnh thoảng chạy băng qua đường. Chúng tôi càng thích thú hơn khi thành phố im lặng, không ồn ào, bụi bặm như Sài gòn. Nhất là ngày đêm không có tiếng súng và hình ảnh những công an, bộ đội trong thành phố như tại Việt Nam!



Tôi rất vui vì ngày đêm không còn lo công an ập tới xét nhà và bắt đi. Nhưng tôi vẫn có nỗi buồn của tôi. Tôi nhớ quê hương, bà con và bạn bè tại Việt Nam. Trong tôi, những kỷ niệm xưa sống lại. Ngày xưa, tôi ra khỏi nhà thỉnh thoảng gặp bạn bè quen rủ đi uống cà phê. Cuối tuần, thỉnh thoảng chúng tôi còn nhậu nhẹt với nhau. Nhưng bây giờ xung quanh là người xa lạ. Tôi thường ở nhà đọc và viết. Muốn đi đâu phải dầm tuyết lạnh đợi xe bus. Công việc làm ăn xứ người khó khăn vì khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Những chuyên môn, những bằng cấp quá khứ trở thành vô dụng sau 1975 và sau khi chúng ta ra ngoại quốc!



Một hôm, tôi ngồi trên ghế một thương xá ngắm người qua lại. Một ông lão Canada đến ngồi bên cạnh và thân mật hỏi tôi:
-Phải chăng ông là du khách Nhật Bản?
Tôi trả lời:
-Vâng, tôi là một du khách, là một người khách lạ trong thành phố này!





***

XVII. TÔI ĐI XE BUS

***


Tôi sinh trưởng tại Sài gòn, lớn lên học trường trung học Chu Văn An. Sau khi đỗ tú tài toàn phần, tôi vào Đại Học Bách Khoa. Sau bốn năm học hành, tôi đỗ bằng kỹ sư công chánh, và đuợc bổ nhiệm làm việc tại bộ Công Chánh, Sài gòn. Tôi làm việc đưọc mấy tháng thì ngày 30-4-75 xảy đến. Hai người anh của tôi vượt biên, tôi cũng muốn theo hai anh tôi vượt biên nhưng ba má tôi không cho, vì không muốn cả ba đứa con trai phải liều thân trên biển cả. Hai anh tôi vượt biên thành công và đã đến Mỹ. Tôi nán ná ít tháng rồi cũng theo bạn bè vượt biên, đã thành công và đến Canada.



Ở Canada một mình, tôi xin học tiếng Anh tại các trường dành cho những người mới đến để thi vào đại học. Trong thời gian này, tôi xin đi làm và được một công việc cuối tuần. Lúc này, tôi chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi được hai anh bên Mỹ giúp đỡ một it tiền. Tôi chưa học lái xe, và chưa có xe, phải đi học, đi làm và đi chơi bằng xe bus. Nghe nói trung tâm Saint Laurent rất lớn, tôi bèn đi xe bus 111. Tôi đã đi thăm khắp nơi và nhận thấy Canada quả thật lớn lao và văn minh. Tôi không thấy một bóng dáng quân nhân cầm súng hay một ông công an đứng giơ tay giơ chân ở ngoài đường hoặc sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm như ở Việt Nam. Tôi thích thú thấy những con sóc đuôi dài chạy băng qua đường xe chạy rồi leo lên cây ngồi ngó khách qua lại. Đường phố Canada rât êm, không có bụi, không có tiếng còi, không có tiêng chưởi thề, không có ruồi muỗi và không có ăn cắp. Lần thứ hai, tôi đi thăm Saint Laurent.Tôi thấy xe số 5 đề bảng Saint Laurent nên nhảy lên ngồi. Tôi nghĩ rằng xe này đi Saint Laurent thì mình lên là đúng tuyến. Tôi nghĩ xe bus Canada chăc cũng giống xe bus Saigòn.



Nếu tôi muốn đi Bà Chiểu từ ông Ông Tạ, tôi đi xe Bảy Hiền - Bà Chiểu, xe nào cũng thế thôi. Chuyến trước tôi đi xe 111 thì chỉ 15 phút là đến nơi, nay đã hơn 20 phút mà trông sao quang cảnh khác lạ. Tôi hỏi mấy bà già ngồi cạnh, họ cho biêt đi xe số 5 là xe đi quanh, lâu lắm mới tới Saint Laurent. Thấy tôi sốt ruột, sợ lạc đường, họ vui vẻ an ủi tôi hãy kiên nhẫn chờ. Hơn nửa giờ, tôi cũng đến Saint Laurent mà tâm hồn thì mệt mỏi, chán chường. Qua kinh nghiệm này tôi mới biêt tổ chức xe bus Canada khác xe bus Sài gòn vì họ có những chuyến đi với những lộ trình khác nhau. Có lộ trình đi cong queo dài dòng đó là những xe số 5, số 85 . . Một năm qua, tôi vẫn đi học và đi làm bằng xe bus. Có một lần mùa đông, tuyết phủ kín trời. Tôi đi làm đến 9 giờ thì ra đón xe bus về nhà. Khách lên xe rất đông, tôi không có chỗ ngồi và bị đẩy xuống tận cuối xe. Phần thì trời đất mù mịt, phần thì ở cuối xe không thấy đuợc hai bên, và có lẽ cũng vì đương mơ màng hay thiếp ngủ cho nên khi đến trạm Billings Bridge, đáng lẽ phải xuống xe, tôi vẫn đứng yên. Xe chạy mãi, đến khi chỉ còn vài người, tôi hỏi ông tài xế, mới biết xe đã đi qua Billings Bridge từ lâu. Ông bảo tôi cứ chờ đợi, ông sẽ giúp đỡ tôi. Đến khi mọi người đã xuống xe hết, còn tôi tớI trạm chót ở Air Port. Tôi nói với ông tài xế, đưọc ông thông cảm, ông bèn dẫn tôi đến một tài xế xe khác, đưa tôi trở lại Billings Bridge. Chuyến đó ngồi lâu, trời lại lạnh, cả người tôi gần đông đá. Đó là một kỷ niệm không quên trong những ngày đầu tiên tôi đến xứ tuyết.


Tôi được nhận vào đại học và học bốn năm chương trình computer science. Trong khi đi học, tôi vẫn đi làm. Tốt nghiệp đại học, tôi xin vào làm ở hãng Corel, lương khởi đâu là 50 ngàn một năm. Năm sau, tôi mua nhà và cưới vợ, bảo lãnh ba má tôi qua và chúng tôi sống một cuộc đời rất hạnh phúc.


Tôi chọn vợ rất kỹ càng mặc dầu tại ngoại quốc rât hiếm con gái Việt Nam. Tôi không có óc môn đăng hộ đối, không có óc kỳ thị giàu nghèo. Theo tôi giàu nghèo chỉ là tương đối. Hôm nay giàu mà mai nghèo, hoặc nay nghèo mà mai giàu, sự đời không chắc ai hơn ai. Biến cố lịch sử 1975 đã dạy ta lẽ vô thường của Phật giáo và Lão giáo.Nguời phụ nữ nhà nghèo nhưng biết làm việc, biết tính toán và biết quản trị gia đình cũng sẽ đem lại một số lợi tức còn nhiều hơn là của hồi môn của con nhà giàu mà không biết tính toán chi tiêu.

Tôi chủ trương bình đẳng, chủ trương một chữ đồng. Đó là đồng tâm, đồng tôn giáo, đồng học vấn, đồng gia thế, đồng tư tưởng và đồng nghề nghiệp. Nhiều người cho rằng con gái nhà giàu thì lười biếng, còn con gái nhà nghèo thì siêng năng. Thiên hạ lầm to. Con nhà nghèo một số rât lười, không biêt làm việc gì ngay cả nấu cơm . Còn nhà giàu it nhât phải biết tính toán tiền nong, biêt nấu nướng món này món kia đãi khách. Nếu chồng vợ chênh lệch tuổI tác, khác biệt tôn giáo, chính trị, gia thế thì dễ xung đột. Người con gái có học, ít nhât là trung học cũng hơn dân i tờ. Sự thành công về việc học chứng tỏ là họ có óc thông minh, chăm học, và chăm làm.



Tôi không thích lấy vợ các ban kinh tế tài chánh, văn khoa, luật khoa. Tôi thấy cao giá nhất lúc này là con gái học computer. Vì quan niệm này mà trong khi theo học, tôi đã theo đuổi một nàng học computer dưới tôi một lớp. Tôi thường giúp đỡ nàng làm bài. Khi nàng tốt nghiệp, tôi ngõ lời yêu nàng thì nàng trả lời nàng chỉ xem tôi là bạn. Bây giờ nàng tốt nghiệp hẳn có giá ghê lắm. Tôi chỉ có giá trị lợi dụng nhất thời. Đa số con gái hải ngoại là thế! Vài năm sau thì tôi cũng tìm ra ý trung nhân. Vợ tôi là một kỹ sư computer, sang đây đã lâu, đã tốt nghiệp và đi làm trước tôi vài năm, đã trả xong tiền mượn học và đã dành dụm được một số tiền khá lớn mặc dầu nàng không đẹp. Lúc này thì tôi mua một chiếc xe Toyata mới giá 30 ngàn. Tôi đi làm bằng xe hơi. Vợ tôi cũng là một kỹ sư computer làm ở Nortel, mua một chiếc Camry giá 35 ngàn. Lương hai chúng tôi cọng lại gần 100 ngàn nhưng trừ thuế cho nên còn khoảng 70 ngàn. Trên thế giới, Canada là xứ đánh thuế nặng nhất.


Tôi nghe nói người đi làm bị khấu trừ gần 1/4 tiền lương để bỏ vào quỹ hưu bổng, quỹ thât nghiệp, và nhất là bỏ vào quỹ an sinh. Tôi ghét nhât là quỹ an sinh vì nhà nước chi tiền một cách lãng phí cho những người ăn không ngồi rồi, những kẻ lười biếng, nhât là những kẻ gian giảo. Ở bên Mỹ cũng như ở Canada, một số đi làm móng tay mỗi tháng cả năm sáu ngàn , hoặc làm chủ tiệm giặt ủi, tiệm phở, hoặc làm hai ba job vẫn dược cấp tiền xã hội. Tôi thù ghét loại người gian dối nàyvà ghét luôn những kẻ ăn tiền xã hội.Vì họ mà tiền lương của tôi phải cắt giảm nặng nề!


Sau mười năm, tôi trả xong tiền xe, tiền nhà và tiền mượn học thì một biến cố quan trọng xảy đến cho chúng tôi. Cả hai vợ chồng chúng tôi lần lượt bị sa thải vì kinh tế khủng hoảng. Hai hãng Nortel và Catel đều là hãng lớn cũng phải đóng cửa theo tình hình chung của kinh tế thế giới. Tôi mớI thấy mình sai lầm hoặc ông tạo trớ trêu. Nếu tôi lấy một ngườI vợ làm một ngành nghề khác thì chắc nàng không thât nghiệp và vợ chồng tôi đã không đến nỗi lâm cảnh bần bách. Chúng tôi bây giờ phải nuôi ba đứa con. Sau một năm ăn thất nghiệp, cạn hêt tiền, cho đến năm thất nghiệp thứ hai, chúng tôi không kiếm ra việc làm, đành phải ra cơ quan an sinh xã hội để xin cứu trợ. Ngày đầu tiên ra nơi đây chúng tôi rất xấu hổ vì thấy mình làm lương tiền tuy không cao nhất nước như các nhà đại tư bản và các vị thủ tướng, bộ trưởng nhưng cũng thuộc loại khá, thế mà bây giờ phải ngữa tay ăn xin nhà nước.


Trước đây, chúng tôi là kỹ sư, tốt nghiệp đại học, bây giờ xếp hàng chung với những kẻ hạ đẳng trong xã hội, là những kẻ mà tôi vốn có it nhiều khinh bỉ vì việc ăn bám của họ. Ra đây, tôi mới biết, không phải riêng người châu Á, châu Phi, mà rât nhiều người Canada cũng xin cứu trợ. Có những cô giáo, bà giám đốc, ông y tá vì việc căt giảm của ngài tỉnh trưởng mà trở thành thât nghiệp phải đi xin tiền xã hội. Và rất nhiều bạn bè của tôi nay cũng gặp mặt nơi đây. Chúng tôi sượng sùng nhìn nhau không nói nên lời. Hai vợ chồng tôi chỉ được cấp phát mỗi tháng khoảng vài trăm bặc, cộng với tiền trợ cấp của ba má tôi, cả nhà tôi bảy người cũng chỉ được một ngàn bạc mỗi tháng. Vì tôi có nhà, họ buộc chúng tôi khi bán nhà phải hoàn tiền lại cho chính phủ. Tôi mới biêt ăn tiền xã hội không phải là dễ, là sung sướng.Tôi cảm thấy hối hận vì tôi đã kết tội oan cho những người ăn tiền xã hội. Lẽ tất nhiên trong xã hội, ở trong chùa, trong nhà thờ, trong y đoàn, trong giáo giới,trong khoa học, trong chính phủ vẫn có những con sâu mọt nếu không nói là những kẻ đại gian đại ác.

Trong khi ăn tiền xã hội, tôi bắt buộc phải đi xin việc làm và phải học tu nghiệp. Nhà tôi vì bận con dại nên miễn việc kiếm việc làm và học tu nghiệp. Tôi đã bán một chiếc xe, còn lại một chiếc để dùng đem con đi học. Hằng ngày tôi lại đi xe bus đến trường. Đã lâu tôi không đi xe bus, nay trở lại đi xe bus, tôi cảm thây khó chịu vì xe đi quá lâu và phải chờ đợi mất nhiều thì giờ. Nhiều khi không có chỗ ngồi, tôi phải đứng rất mệt mỏi. Thỉnh thoảng tại trạm xe bus, tôi gặp những cô cậu rất trẻ khoảng 16, 17 tuổi xin tiền lẻ. Tôi rất ghét hạng này và không bao giờ cho họ tiền dù chỉ là 25 cent. Tôi ăn tiền xã hội là thuộc loại thấp nhất trong bậc thang xã hội, tại sao tôi phải cho những người khá hơn tôi! Nếu họ cũng ăn tiền xã hội, tức là họ cũng ngang tôi, tại sao tôi phải cho họ?



Một buổi kia trời đông lạnh giá đầu tháng, tôi đi học nhưng quên mua thẻ xe bus cho tháng mới. Hàng ngày tôi đi ba chuyến xe để tới trường. Khi lên xe thứ nhất, người tài xế không chú ý nhìn vào thẻ xe bus của tôi. Sang xe thứ hai thì người tài xế phát giác thẻ xe của tôi quá hạn. Tôi lúng túng tìm cái ví tiền cắc của tôi nhưng tôi đã bỏ quên ở nhà. Tôi móc khắp nơi để tìm xem có đồng lẻ nào còn sót trong túi không, nhưng tôi không tìm được xu nào. Xe vẫn tiếp tục chạy. Tôi đành rút ví ra chỉ còn một tờ 20 đô la. Người tài xế nói ông không đổi được; và không có tiền lẻ, tôi phải xuống xe. Tôi ngần ngừ hết sức vì trường còn xa, giữa đường tuyết rơi đầy, tôi không thể đi tiếp tới trường hoặc đi bộ trở về , nhất là phải đi bộ dưới tuyết ít nhât cũng 45 phút. Bổng một nữ học sinh Canada tuổi 14, 15 đứng lên dúi cho tôi một vé xe bus. Tôi quay lại nói cảm ơn và nhét vé vào hộp đựng vé xe và tìền cạnh tài xế, và hết sức bối rối nhìn mọi người trên xe đang chăm chú xem một màn kịch do tôi thủ vai chánh. Tôi đến trường ngồi học một giờ, giờ sau tôi phải ra về kẻo vé hết hạn để tới trung tâm thương mại mua thẻ xe mới.



***

XVI. CHÙM KHẾ NGỌT

***


Trương Thế Phát là một thương gia trẻ ở kinh đô Thăng Long. Ông có tàu bè chở hàng đi buôn bán ờ trong và ngoài nước. Khi quân Pháp tiến đánh thành Hà Nội, và chiếm Bắc Ninh, Thái Nguyên, ông lên tàu đem gia đình ra ngoại quốc. Sau bao ngày lênh đênh trên biển cả, gia đình ông đến Xiêm La, rồi định cư tại đây. Nhờ có tàu bè, ông mang theo một mớ gia sản nên khi qua Xiêm ông đã có sẵn một gia tài. Với tài kinh doanh, ông đã gây dựng một sự nghiệp khá lớn, gồm các cửa tiệm kim hoàn, cửa tiệm vải vóc lụa là, và trà thất Mây Tần.

Là một nhà kinh doanh, công việc bận rộn, nhưng òng luôn thương nhớ quê hương . Ông nhớ Hà Nội ba mươi sáu phố phường, với năm cửa Ô xưa. Ôi! Những cô gái hàng Đào, hàng Bạc . .. má đỏ, môi hồng, quần điều, áo lụa trắng, đeo xà tích bạc. Ông nhớ cốm Vòng, nhớ phở , nhớ xôi và bánh cuốn Hà Nội. Ông nhớ Hồ Gươm, hồ Tây, chùa Trấn Quốc, chùa Một Cột. . . Xiêm La có nhiều chùa lớn và nhiều lễ hội nhưng không đâu bằng hội chùa Hương.. . Ông nhớ những bài hát ru, những điệu quan họ. Xiêm La có nhiều trái cây nhưng không bằng nhãn, vải, cam, quít. . . Hà Nội. Ở Xiêm La ông có nhiều bạn mới, nhưng lòng ông vẫn nhớ nhung các bạn Hà Nội và những kỷ niệm thời ấu thơ. Nhất là buổi đầu, ngôn ngữ bất đồng, phong tục khác biệt làm cho ông chao đảo như con thuyền không lái.
Lúc bấy giờ nhiều người trong nước cũng bỏ nước ra đi. Họ ra đi mang theo một bầu nhiệt huyết , một lý tưởng cao siêu là khôi phục đất nước, giải phóng dân tộc. Có nhiều nhóm hoạt động. Họ từ trong nước ra. Họ cũng từ Trung Quốc, Nhật Bản sang Xiêm hoạt động. Họ ở lại Xiêm mà cũng có người đi qua , đi lại. Tuy là nhiều tổ chức khác nhau, tựu trong có hai nhóm. Một nhóm thuộc phe quốc gia, một phái thuộc phe quốc tế .

Trà thất Mây Tần do con trai của ông là Trương Thế Đạt trông coi, còn các tiệm khác thì do phu nhân, con trai thứ và các con gái ông quản lý. It lâu sau, Trương Thế Phát mất, cơ nghiệp truyền lại cho phu nhân và các con. Trương Thế Đạt tiếp tục kinh doanh trà thất Mây Tần .
Trà thất Mây Tần ở thủ đô Bangkok là một nơi trai thanh gái lịch lui tới tấp nập. Không những người Xiêm La mà người Cao Miên, Lào, Trung Quốc, Ấn Độ đều thường xuyên tới uống trà, và thưởng thức ca vũ nhạc. Một hôm, có mấy người khách Á Đông tới trà thất Mây Tần uống trà, uống rưọu , Trương Thế Đạt nhận ra có một số khách là người Việt Nam. Ông bèn tới chào hỏi, mới biết họ quả là người Việt Nam. Nghe giọng nói của họ, ông nhận ra họ là người Bắc, người Trung, và người Nam. Ông hỏi thăm họ thì họ cho biết họ qua đây lập nghiệp. Trương Thế Đạt rất vui mừng khi gặp lại đồng bào Việt Nam. Tâm trạng hai bên thật vui vẻ như câu thơ “ Thiên lý tha hương ngộ cố tri ”. Họ hỏi ông tại sao đặt tên trà thất là Mây Tần. Ông nói ông rất yêu quê hương, lòng luôn nhớ băm sáu phố phường Hà Nội. “Hồn quê theo ngọn Mây Tần xa xa” Dần dần, hai bên quen nhau, Trương Thế Đạt mời họ về nhà chơi. Kể từ đó hai bên liên lạc thân mật. Sau một thời gian, khách hiểu rõ gia đình Trương là một gia đình yêu nước, vì không cam tâm làm tôi tớ bọn ngoại xâm mà bỏ nước ra đi. Vì quen thân, họ cũng cho biết họ thuộc đảng cách mạng tiến bộ Việt Nam, được thế lực quốc tế như Liên Xô, Trung Quốc yểm trợ, thế lực rất mạnh, bám rễ trong và ngoài nước, có mục đích bài phong đả thực, xây dựng một xã hội công bằng tự do, người không bóc lột người. Đảng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Hùynh Thúc Kháng tham gia, và có khoảng mười triệu đảng viên. Lực lượng đảng trong nước đã vùng lên như Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám đã chiếm được nhiều tỉnh trong nước, giết vô số thực dân Pháp. Trương Thế Đạt nghe họ nói vậy cũng tin tưởng, ủng hộ cho họ một số vàng để làm quỹ hoạt động cứu quốc. Trương Thế Đạt mất, con trai là Trương Thế Vinh nối nghiệp cha kinh doanh trong ngoài, và ông cũng giữ mối liên lạc với tổ chức quốc tế, và cũng đóng góp vàng bạc cho họ. Trà thất Mây Tần và nhà của Trương Thế Vinh trở thành nơi ẩn náu và hoạt động của đảng cách mệnh. Ông được chi bộ đảng khen ngợi là “ nhân sĩ yêu nước”, và những Việt kiều ở Thái Lan theo cộng sản được gọi là “ Việt kiều yêu nước”. Gia đình Trương Thế Vinh đã được chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa gửi giấy ban khen là gia đình yêu nước, đã có công với cách mạng.
Sau 1945, đệ nhị thế chiến chấm dứt, Việt Minh cướp chính quyền. Một số dân chúng vì nạn đói, vì sợ cộng sản và thực dân Pháp nên đã bỏ nước sang Lào, Miên, Xiêm La, hoặc Pháp. Những người Việt Nam sinh sống tại Xiêm La ngày càng đông, và những người theo phe cộng sản càng mạnh. Năm 1954, hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam. Nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa giao thương với Xiêm La tức Thái Lan, và đặt tòa đại sứ tại Bangkok. Những đảng viên cộng sản Việt Nam ra mặt công khai hoạt động. Họ ra sức vận động Việt kiều tại Thái Lan về xây dựng đất nước. Chính sách này cũng được phát triển nhiều nơi như Pháp, Lào, Miên. . .Họ bảo đất nước ngày nay cần nhiều bàn tay đóng góp. Việt Nam nay đã tiến lên xã hội chủ nghĩa, nông dân có ruộng cày, thoát khỏi cảnh làm nô lệ cho bọn phú nông địa chủ; xã hội bây giờ không còn nạn người bóc lột người. Sinh viên học sinh được tự do học hành, không phài đóng học phí mà còn được chính phủ nuôi ăn học, cấp sách vở cho đến khi thành tài. Trong nước ai cũng có công ăn việc làm, không ai thất nghiệp. Họ gửi tặng ông nhiều sách báo, có nhiều thơ ca, âm nhạc và tiểu thuyết ca ngợi sự lãnh đạo tài ba của đảng và chính phủ. Trần Thế Vinh tuy sinh tại Thái Lan, nhưng được nghe cha ông ca tụng về con người và đất nước Việt Nam, nay lại được nghe thêm những lời tuyên truyền của cộng sản nên càng thêm yêu nước, và càng nhớ quê hương. Ông luôn luôn mở đài Hà Nội, và và những bài thơ, bản nhạc đã gieo vào lòng ông tình yêu quê hương, tổ quốc.
Quê hương là chùm khế ngọt. ..
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học,
Con về rợp bướm vàng bay
. . . . . . . .
Quê hương là cầu tre nhỏ,
Mẹ về nón lá nghiêng che.
Là hương hoa đồng cỏ nội,
Bay trong giấc ngủ đêm hè. . .

Lúc bấy giờ công việc buôn bán ngày càng khó khăn khiến Trương Thế Vinh chán nản. Nay được cán bộ cộng sản kêu gọi và khuyến khích, vì vậy ông quyết định trở về góp sức xây dựng quê hương. Ông nay được ban khen là gia đình có công với cách mạng. Nếu về Việt Nam chắc ông sẽ được đảng và nhà nước quý trọng. Con đường tương lai rộng mở trước mắt ông.
Ta về ta tắm ao ta!
Ông muốn trở về tắm ao ta, về làm người hùng cứu nước, còn hơn là sống ở quê người, dù là triệu phú cũng có mặc cảm là kẻ tha phương cầu thực, kẻ lưu đày, là công dân bậc hai !

Ôi! Nước ta nay đã độc lập, không còn bọn thực dân Pháp xâm chiếm quê hương. Vì thực dân Pháp mà nhân dân ta khốn khổ điêu tàn . Vì thực dân Pháp mà tổ phụ ông phải bỏ quê hương mà đi. Nay là một dịp để ông trở về quê hương, về 36 phố phường Hà Nội và năm cửa Ô xưa! Tình yêu quê hương không còn là một mớ tình cảm bâng khuâng mà đã biến thảnh sự thực. Ông lo bán nhà cửa, hàng hóa và các cơ sở kinh doanh thu được năm trăm lượng vàng và mười ngàn đô la Mỹ. Sau khi đã thanh toán mọi thứ, ông đã đăng ký mua máy bay trở về Hà Nội thân yêu. Nhưng toà đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đã lo mọi sự. Tất cả Việt kiều tại Thái Lan sẽ cùng nhau về Việt Nam bằng đường hàng không sang Cambodge rồi từ đó sẽ đi xe ô tô hay máy bay về Việt Nam.


Sau khi đoàn Việt kiều Thái Lan về đến Cambodge, họ được chuyển ngay lên xe ô tô Liên Xô là loại xe bốn bề kín mít chở ngay về Quảng Bình Việt Nam. Khi về đến biên giới Việt Nam, cả đám được cán bộ cộng sản đeo súng yêu cầu xuống xe để vào một trung tâm, bốn bề rào kín và có lính gác. Họ bảo các Việt kiều tạm ở lại đây một thời gian để học tập đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước. Họ ra lệnh các Việt kiều tập họp lại, gia đình nào theo gia đình đó.Họ bảo mọi người không được ra khỏi trung tâm nếu không được trung tâm cho phép. Họ đưa mọi người vào hội trường. Viên thủ trưởng tỏ ra rất lịch sự. Ông nói:
Chào các đồng bào và các đ ồng chí,
Hôm nay tôi xin thay mặt mặt đảng và chính phủ chào mừng những người con yêu t ở về tổ quốc.
Ông vừa dứt lời, mọi người vui vẻ hoan hô, tiếng vỗ tay nghe vang như tiếng pháo.
Tiếp theo, ông nói:
Thưa các đồng chí và đồng bào,
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, những người ngoại quốc đã ước mơ trong một đêm được trở thành người Việt Nam. Các đồng bào và đồng chí nay đã thành người nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.Trước tiên, yêu cầu mọi người giao nộp thẻ căn cước, thẻ quốc tịch và khai sinh ngoại quốc để Nhà nước làm thủ tục hành chánh.
Ông nói xong thì lui bước, để cho một đại biểu khác lên tiếng yêu cầu đồng bào làm bản tự khai hồ sơ, lý lịch, nhất là phải kê khai vàng bạc, kim cương, hạt xoàn và đô la. Trong khi mọi người tập trung ở hội trường, cán bộ cộng sản đã vào khám xét hành lý của Việt kiều. Những ai có chìa khóa va ly hay khóa các hộp kín, họ đến bảo nhỏ giao nộp chìa khóa cho họ làm thủ tục kiểm tra. Ngay hôm đó, họ bắt mọi người giao nộp vàng, kim cương, nữ trang và đô la.
Ông cán bộ nói:
Đảng sẽ giữ tài sản cho họ vì sợ bọn biệt kích Mỹ ngụy cướp của giết người.. Cứ yên tâm đưa chính phủ giữ dùm, rồi chính phủ sẽ trả lại cho các gia đình sau khi tình hình đã được ổn định.
Tiếp theo, mọi người làm thủ tục y tế. Mọi người phải vào phòng kín, cởi hết áo quần để y sĩ khám xét. Không thử máu, không nghe tim mạch, mà chỉ khám tổng quát. Thủ tục này thì cũng nhanh thôi, ngoại trừ những ai còn cất giấu tài sản trong người là bị tịch thu và bị phê bình, kiểm thảo. Các gia đình Việt kiều được cán bộ rút sổ tay, xé giấy viết biên nhận bằng những tờ giấy vàng úa xấu xí với những giòng chữ nghệch ngoạc, không rõ chữ viết và con số, và cũng không ghi ngày tháng, chữ ký và tên người nhận:
Đã nhận 300 miếng kim loại bề ngoài màu vàng. . . Đã nhận một ngàn tiền nước ngoài. . . Đã nhận hai mươi viên đá nhỏ óng ánh. . .

Đến đây thì các Việt kiều đã biết mình đã lầm, đã mắc gian kế. Họ cũng như Thúy Kiều trong ngày đầu gặp Mã giám sinh đã kêu lên:
Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!.

Vài ngày sau, các Việt kiều được phân phối về các thôn xóm ở miền Bắc. Gia đình Trương Thế Minh được phân phối về một làng ở Quảng Bình. Ông chất vấn cán bộ :
-Chúng tôi xin về Hà Nội là quê hương của tôi và đã được tòa đại sứ Việt Nam ở Bangkok chấp thuận. Nay sao các ông lại bắt tôi về Quảng Bình?
Tên cán bộ trong ban Việt kiều yêu nước nói:
- Nay chúng ta đang xây dựng Hà Nội thành một thủ đô to lớn và văn minh hơn mười lần xưa. Hà Nội tương lai sẽ có những tòa cao 40-50 tầng, vĩ đại hơn Mỹ. Vi là xây cất chưa xong, nên chưa có nhà cho đồng bào ở. Vậy ông tạm ở lại Quảng Bình một thời gian, rồi sẽ đưa gia đình về Hà N ội sau.

Biết rằng phản đối cũng vô ích cho nên gia đình ông phải lên xe về Quảng Bình. Gia đình ông được đổ xuống quốc lộ I, rồi được công an dẫn bộ tới một làng nhỏ, cách quốc lộ vài cây số. Làng này cho ông một miếng đất ven sông để ở và canh tác. Nơi ông ở là bãi sông vắng, cách xa xóm làng vài cây số. Ông là một kẻ ngụ cư. Hơn nữa, ông là một kẻ nguy hiểm. Dân làng không ai dám giao thiệp cùng gia đình ông vì họ coi gia đình ông như một những kẻ gián điệp từ ngoại quốc về để phá hoại xã hội chủ nghĩa. Tiền của mất sạch, gia đình ông trở thành kẻ bần cùng nhất nước, cô đơn nhất nước. Thư ông gửi đi không có hồi âm. Ông không nhận được lá thư nào từ Thái Lan hay Hà Nội. Ở Thái Lan, ông có tài sản, bạn bè, nhưng về đây, quê hương Việt Nam,Trương Thế Vinh và gia đình bị lưu đày và cấm cố. Gia đình ông vì yêu nước mà trở về nay lại bị coi là kẻ thù của dân tộc. Sống ở Thái Lan, ông tự coi là người xa lạ, nay về Việt Nam, ông lại trở thành người xa lạ trên chính quê hương mình. Ông suy nghĩ xa gần mà lòng đau như cắt. Ông trách ông ngu dại. Nước Thái Lan đã cho ông nương tựa, giúp ông làm giàu, con cái ông học hành thành tựu, thế mà ông bỏ Thái Lan mà về Việt Nam, về quê mẹ, nhưng quê mẹ đã giết gia đình ông, cướp đoạt tài sản và hy vọng của ông! Kẻ sát nhân cướp bóc chính là những kẻ mà ông đã nuôi nấng, kẻ đã rao giảng tự do, nhân đạo và bình đẳng! Ông đã bỏ mồi bắt bóng! Ông là người ngu xuẩn nghe theo những lời phỉnh nịnh để rồi làm hại mình và con cháu!


Vài năm sau, chiến tranh Việt Mỹ bùng nổ, miền Bắc bắt thanh niên nam nữ “sinh bắc tử nam”. Trương Thế Minh có một trai, một gái. Con trai ông phải vào bộ đội rồi tử thương tại chiến trường miền Nam. Con gái ông phải đi thanh niên xung phong, lâm bệnh rồi chết trên Trường Sơn. Hai vợ chồng cắng đắng nhau. Bà trách ông nhẹ dạ tin lời kẻ cướp. Bà không chịu nổi đời sống kham khổ và nỗi uất hận về bị lường gạt nên mắc bệnh, không thuốc men mà chết. Còn ông, trong cơn đau khổ, uống rượu say rồi chửi cộng sản. Kết cuộc ông bị công an bắt bỏ tù rồi chết trong trại tù Thái Nguyên.

***

XV. THƯ GỬI BẠN

***




Bạn thân mến,

Từ đó đến nay, chúng ta đã xa cach nhau gần hai mưoi năm. Khoảng 1980, chúng tôi nghe tin bạn và gia đình vượt biên. Và từ đó, chúng ta không có tin tức gì nữa. Từ 1995, gia đình tôi ra đi theo diện đoàn tụ gia đình. Ở đây, thỉnh thoảng tôi nhờ đến bạn và những ngày tháng ở Mỹ Tho. Hỏi thăm bạn bè các nơi, tôi mới biết địa chỉ bạn. Do đó tôi đã viếät thư cho bạn.
Trong thư trả lời, bạn đã hỏi tôi trong thời gian ở tại Việt Nam, tôi đã làm gì để sinh sống. Thư này tôi sẽ trả lời bạn về câu hỏi trên.


Bạn ạ, sau 1975, sự nghiệp gõ đầu trẻ của tôi chấm dứt. Sau một thời học tập chính trị, họ cho chúng tôi nghỉ việc vì họ không cần chuyên môn của chúng tôi. Hơn nữa có lẽ họ cho rằng chúng tôi không thành khẩn học tập và không thành thực khai báo. Cán bộ quân quản nhiều lần nhắc nhở, khuyến khich chúng tôi phải báo cáo các sự bí mật của chính quyền cũ, nhưng chúng tôi không biết gì để tố cáo, và chúng tôi không thể nào vu cáo đồng nghiệp để giữ nồi cơm như một số người trước đây thường tỏ ra rất anh hùng, rất quân tử. Tục ngữ, ca dao ta thật thâm thúy và gợi hình gợi cảm hết sức khi nói Cháy nhà ra mặt chuột !


Bạn bè chúng tôi có người đã ra đi trước 30 tháng tư, một số cứ lần lượt ra đi vượt biên. Một số ngồi tù không biết bao giờ mãn hạn. Ngồi trong lớp học tập chính trị cải tạo tư tưởng là một cực hình. Chúng tôi phải nghe những tên cán bộ trung ương ngu xuẩn khoe khoang miền Bắc chỗ nào cũng có dầu lửa, chỉ cần cắm ồng đu đủ xuống đất là dầu lửa tràn lên, tha hồ nấu bánh chưng, bánh tét! Chúng tôi cảm thấy cô đơn vô cùng trước những khuôn mặt xa lạ và cuộc đời dâu bể. Tôi nói nhỏ với một ông bạn thân:
- Nước này nào phải nước ta,
Mình là ngoại quốc lo mà hồi hương!
-Trường này nào phải trường ta,
Nên về chuẩn bị để ra nước ngoài!


Sau đó nhiều bạn đồng nghiệp đẵ vượt biên, riêng tôi không đủ phương tiện nên đành ở lại. Có nhiều người hứa hẹn nếu tôi kêu gọi được mười người thì tôi dược miễn phí. Nhưng tôi không làm nghề quảng cáo được. Tôi đâu dám bảo đảm an toàn cho khách đi trong khi tôi không biết tàu dài mấy thuơc, người lái tàu là chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp. Và chính tôi cũng không biết ngưởi tổ chức đich thực là ai, là tốt hay xấu! Tôi thấy tôi kém tài, và rất phục những người tổ chức vượt biên.


Được một số bạn bè cho biêt Thư Viện Khoa Hoc Xã Hội cần một số cộng tác viên để làm thư tịch Thành Phố Hồ Chí Minh, tôi và một số bạn bè đến xin việc và đươc thâu nhận. Hàng ngày chúng tôi đọc sách báo và ghi tóm tắt vào những tấm phiếu. Làm được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu. Làm đuợc một thời gian thì hết việc. Giám đốc thư viện cho biết những ai muốn làm tiếp tục thi đăng ký, nếu đươc nhà nước chấp nhận sẽ được xếp lương hợp đồng 60 đồng mỗi tháng nhưng không được trợ cấp gạo, thịt, cá mắm như những ngưòi cán bộ được vào biên chế. Lúc bấy giò nhà nước quy định rằng những ai tốt nghiệp tiến sĩ quốc gia Pháp thì xếùp ngang hàng phó tiến sĩ, còn tốt nghiệp tiến sĩ các loại khác trở xuống cử nhân thì tương đương tốt nghiệp đaị học miền bắc xã hội chủ nghĩa. Bắt chước Nguyễn Khuyến, tôi có câu thơ xúc cảnh :
Tiến sĩ còn chẳng ra gì,
Cử nhân, cao học khác chi thằng hề !


Lúc bấy giờ các giáo sư trung học đệ nhị cấp, tốt nghiệp đại học sư phạm hoăc cử nhân văn khoa, khoa học? đươc xếp bậc lương 60 đồng có phụ cấp cá thịt gạo muối. Lúc bấy giờ không ai mong muốn gì hơn duợc ở yên Sài gòn, có việc làm và có gạo hàng tháng vài ký. Vì nhu cầu đó, một số người xin làm bất cứ việc gì, miễn là có việc làm để có hộ khẩu tại Sài gòn, nếu không sẽ bi dồn đi kinh tế mới. Đó là một viễn tượng hãi hùng đến đỗi nhiều cán hộ hồi kết bí mậât khuyên bà con dù chết đừng bỏ nhà mà đi kinh tế mới! Không ai sống được ở vùng kinh tế mới. Đi rồi cũng sẽ trở về nằm đầu đường xó chợ vì nhà đã bán hoặc bị kẻ khác chiếm mất. Tôi đã mách nuớc cho một vài bạn đến xin việc ở Thu Viện và họ đã được chấp nhận. Riêng tôi hết việc thì nghỉ luôn, không xin làm hợp đồng nữa vì tôi đã có sự tính toán của tôi. Tôi thấy rằng không có gạo cấp hàng tháng, với số lương 60 đồng mỗi tháng, mỗi ngày tôi chỉ ăn đuợc hai đồng , lúc bấy giờ quốc doanh bán giá chính thức giá hai đồng một cái bánh mì không cá thịt, nhỏ bằng cổ tay trẻ con và dài bằng gang tay người lớn.Làm việc mà không đủ ăn thì làm gì cho hèn con người! Thật là làm đĩ không đủ tiền son phấn!Nếu người ta thương mến mình, việc hy sinh là tất yếu, nhưng đây chúng ta chỉ là một lũ hàng thần, ngồi với họ chỉ thấy tủi nhục, đớn đau. Rồi con mắt của người khác nữa. Một lão tiên sinh được lưu dụng và tín nhiệm, khi đi vào cổng trường, thoáng nghe một bác gác dan, nhân viên cũ, nói một mình trong ngậm ngùi và mai mỉa:
Tụi trẻ nó nghỉ hết rồi, ông còn đến trường làm gì nữa?.



Nhiều cán bộ ngoài bắc trong chỗ thân tình góp ý rằng hai vợ chồng chỉ một người làm việc cho nhà nước là đủ, còn một người phải chạy ngoài thì gia đình mới sống nổi. Nhà tôi lúc bấy giờ dạy học cho nên đuợc lưu dụng. Hơn nữa, tính tôi thẳng thắn, vốn là dân di cư, đã từng sống dưới chế độ cộng sản, cho nên tôi không thích họ, thấy họ là tôi không happy chút nào! Vì vậy tôi quyết định ở nhà ẩn dật, lánh xa xã hội lúc bấy giờ. Còn việc ẩm thực, tôi nghĩ trời sinh voi, trời sinh cỏ.



Sau 1975, chúng tôi nương náu tại nhà nhạc gia vì chúng tôi những tính đi xa. Sau mấy lần mưu sự bất thành, chúng tôi đành phải tính việc mưu sinh trong hoàn cảnh mới. Trước 1975, chúng tôi chưa có nhà, phải đi ở trọ, hết Mỹ Tho lại về Sàigòn. Sau 1975, nhà rẻ vì người ta bỏ nhà ra đi vượt biên hay đi kinh tế mới. Được một người bạn mách bảo có một ngôi nhà rất rộng, mặt tiền ở Ngảõ Năm Bình Hòa Gia Định, cần bán gấp vì họ phải đi kinh tế mới. Chúng tôi đến xem và chúng tôi rất vừa ý. Ngôi nhà rách nát nhưng rộng rãi. Nhà tôi đông người nên tôi chọn nhà này. Chúng tôi vay mượn tiền bạc mua ngay.
Một hôm nhà tôi đi chơ Bà Chiểu bị móc túi mất một số tiền lớn. Nhà tôi buồn bực, bèn nghĩ cách buôn bán để nuôi sống gia đình. Lúc bấy giờ trong chế độ cộng sản, gạo là vật quý giá nhất, cần thiết nhất. Cán bộ thì đuợc cấp khoảng 16 ký hay 13 ký, còn dân chúng Sài gon ban đầu 12 ký, sau rút còn 6 ký. Nhiều lúc không có gạo, dân chúng phải mua khoai lang, sắn hay mì hột mà dân chúng thời đó gọi là bo-bo. Thực trạng xã hội đã đươc trẻ con khắp hang cùng ngõ hẽm hát thành lời:
Tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá!
Nhà nước cấm buôn bán gạo nhưng trong dân chúng việc mua bán ,trao đổi lại là cần thiết. Có những anh công nhân độâc thân không ăn hết 16 ký gạo, họ phải bán lấy tiền xài. Và cũng có nhiều người không đủ gạo ăn phải mua. Cũng có nhiều người không ăn được gạo tổ mục nát, hội hám phải bán tống bán tháo đi cho heo ăn! Và chúng tôi nghĩ rằng bán phở, bán hủ tiếu thì sợ ế, còn gạo không ai mua thì ta ăn. Chẳng sợ thua thiệt, mât mát! Vì vậy chúng tôi bèn thu mua gạo và bán gạo tại nhà! Nhà tôi ở mặt tiền có thể buôn bán nhưng lại không ở nơi thuân tiện vì vắng người. Mẹ vợ tôi an ủi Mình có duyên thì ở đâu cũng có khánh tới mua bán. Sau này tôi nhận thấy quả đúng như vậy.


Công việc mua bán thuận lợi. Lúc đó nhiều nhà giáo muốn bắt chước chúng tôi buôn bán nhưng họ không thể xoay xở vì không có địa điểm thuận lợi, không có vốn, nhất là không đủ can đảm ngồi bán hàng. Nhà tôi đi dạy buổi sáng, buổi chiều ở nhà lo việc buôn bán. Các con tôi đi học về thì thay nhau ra trông cửa hàng. Tôi phụ trách việc chở hàng từ xa cảng hay tại chợ gạo Trần Chánh Chiếu Chơ Lớn. Lúc bấy giờ gạo là đồ quốc cấm, chính phủ cấm vận chuyển lương thưc từ tỉnh này qua tỉnh khác. Địa phương chỉ cấp giấy cho phép một người mang đi đường vàiø ba ký gạo ăn đường mà thôi. Còn trong địa phương, mỗi người chỉ mua đuợc mười lăm hay hai chục ký thôi. Chính vậy, một nghề mới ra đời. Người ta đa số là phụ nữ, mỗi ngày đi Mỹ Tho, Long An mua lén vài chục ký gạo về bỏ mối tại Sài gòn thì cũng đủ ăn! Mỗi ngày tôi đi mua hai, hay ba chuyến. Lúc đầu, nhà nước tính đưa dân Miền Nam tiến lên nghèo đói bằng miền Bắc, nghĩa là cũng tính bắt dân bỏ sản xuật cá thể tiến lên Hợp tác xã.


Dân miền Nam phản ứng lại bằng cách bỏ ruộng hoang, chỉ trồng mỗi nhà vài công đủ ăn.Nhà nước khuyến khích trồng lúa, đánh thuế nặng các loại cây ăn trái thì họ chặt hết dừa,mãng cầu, ổi, sầu riêng. Trước sức phản ứng của dân, đảng đành rút lui. Người ta lại đua nhau cằy cấy tự do, do đó lúa gạo nhiều. Trong khi đó ngoài bắc tiếàn lên XHCN nên đói nhăn răng.Đảng đành kêu gọi đưa gạo ra bắc bán. Đây là dịp để các tay tư sản đỏ làm giàu. Tuy nhiên cá nhân đi đường đem nhiều gạo thì không đuợc.Aáy là việc đời con kiến đi không lọt nhưng con voi đi lọt ! Dẫu sao thì gạo về Sài gon vẫn dễ hơn trước.Lúc này, các con tôi đã lớn, thay tôi mua gạo. Tình hình đã thay đổi. Nhu cầu mua gạo nhiều hơn vì người ta bải bỏ việc bán gạo tổ. Chúng tôi không cần chở bằng xe đạp nữa. Bây giờ chúng tôi mua mỗi lần năm sáu tạ gạo, một tuần đi mua vài lần, và giao việc chở hàng cho các tay xich lô đạp hay xich lô máy.


Tôi bán đủ thứ thực phẩm cho người và gia súc. Ngoài gạo, tôi bán cám, tấm, thóc. Thứ nào cũng có ngưới mua, vì trong xã hội chủ nghĩa, thiếu gạo và thiếu thịt cho nên người ta phải trở lại cái thời Gia Long lập quốc, mỗi nhà phải nuôi vài con gà để tự túc. Công việc buôn bán thực phẩm dù sao cũng đủ cho gia đình tôi có gạo ăn.


Ngoài buôn bán thực phẩm, chúng tôi còn có một nguồn lợi khác. Chúng tôi bán nước đá. Chúng tôi có một cái tủ lạnh của Ý đã cũ, nhưng rất tốt. Đó là tủ lạnh thuộc lô cuối cùng của chị họ tôi, một nhà xuất nhập cảng ở Sàigon, bán rẻ cho tôi khoảng 1972 khi tôi về Sàigon. Sài gòn trời nóng quanh năm. Dân ta thường có thói quen uống đá lạnh. MoÃi bữa ăn đều phải có trà đá, hay nuớc lạnh có đá, mỗi người làm một ly. Trước buổi ăn, trẻ con chạy đi mua nuớc đá khắp nơi.Chúng mua nước đá tại các quán cà phê, hay tại các tư gia có bán đá. Trong xã hội chủ nghĩa nước đá trở thành xa xỉ phẩm. Thành thử bán đá rất được giá. Ngoài bán nuớc đá, chúng tôi còn làm kem chuối, tức là ép trái chuốài, thêm nhân đậu phụng rang, dừa bào, bỏ vào tủ lạnh cho cứng như đá là đã có một món quà ngon cho trẻ con. Riêng cái tủ lạnh bán đá và bán kem chuối, chúng tôi thu nhập bằng sáu luơng giáo viên cấp ba. Nếu chúng tôi quen biết nhà máy nước đá, mỗi ngày mua một cây thôi,chúng tôi có thể lời hơn nữa!Tôi nói đùa với nhà tôi rằng tôi có đến bảy cô vợ giáo viên cấp ba!


Ở trong chế độ cộng sản, công an theo dõi mọi người, mọi việc. Mỗi công an khu vực phụ trách trông coi 15 hay 25 nhà (hộ).Những ngườiø thuộc quân đội và viên chức chế độ cũ thì bị chú ý đặc biệt. Những người sửa xe đạp, thợ cắt tóc, bán thuốc lá trước cửa nhà ta chính là những chỉ điểm viên, có nhiệm vụ báo cáo hàng ngày cho công an ai đến nhà ta, mấy người, hình dáng, tên tuổi, số xe, thời gian. Họ còn phải báo cáo mỗi ngày ta làm gì, đi đâu, mấy giờ trở về. Họ bắt buộc phải làm việc này nếu họ muốn hành nghề, nếu từ chối họ phải đi kinh tế mới.Lúc này, cộng sản bắt bớ nhiều quân nhân và viên chức cũ, gán cho họ nhiều tội.Tôi đi đâu cũng có người theo dõi vì họ nghi ngờ tôi viện cớ đi mua gạo để liên lạc với phản động.


Như đã trình bày, tôi mua lúa để bán cho dân chúng vì vùng tôi ở là ngoại ô, nhiều người chăn nuôi. Hơn nữa, ở chế độ xhcn, thiếu cơm, thiếu thịt, người ta phải trở lại cái thời Gia Long phục quốc để tự túc kinh tế. Chợ bán lúa này mở rất sớm, sáư bảy giờ sáng đã đông người mua bán, bảy tám giờ đã tan,thành thử tôi phải đi thật sớm. Các bà này ở Mỹ Tho, Long An lên bán lúa tuơi hay lúa uớt cho nên tôi phải đem về phơi hai ba ngày kẻõo lúa mọc mầm. Nhiều cán bộ ngoài bắc đi qua cho là một điều xúc phạm chế độ, vì họ thấy tôi ngày nào cũng phơi lúa và họ cho rằng tôi là cự phú, có nhiều lúa gạo.Họ báo cáo với công an, kết cuộc một sáng tôi đi mua lúa về thì thấy người đầy nhà. Ho hỏi tôi còn bao nhiều gịạ lúa để họ mua. Tôi nói còn 6 giạ, cọng với hai dạ tôi mua về là tám giạ.Lời tôi nói đúng với lời nói của nhà tôi. Họ thấy luá tôi mua về còn ưót và họ hiểu tại sao tôi phải phơi lúa. Vả lại sáu gịa lúa (mỗi giạ là một thùng săùt tây đựng dầøu hôi 20 lít) lúa xấu không phải là nhiều cho nên họ nói rằng họ đi uống cà phê rồi sẽ trở lại mua, nhưng sự thực thì họ rút lui.


Tôi thường ngày ngồi ở nhà ngoài, vừa trông hàng, vừa đọc hay viết. Tôi muốn tíếp tục công việc viết lách của tôi cho dù lúc này những việc làm đó đã trở thành vô ích mà còn có hại. Nhưng tôi nghĩ rằng ngày xưa Nguyễn Du, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú cũng viết trong thời loạn và không nghĩ rằng tác phẩm của họ được in ra và phổ biến trong quần chúng.
Trước kia ở đường Lê Văn Duyệt ( Cách Mạng Tháng Tám) tôi thỉnh thoảng đến tham dự hội Trí Thức Yêu Nước tại đường Nguyễn Thông, nhưng sau này, tôi ở nhà luôn, nhất là sau khi dời về Gia Định tôi không bao giờ lui tới nữa vì chán những bộ mặt của Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, và tôi nghĩ tôi là trí thức nhưng không là trí thức xã hội chủ nghĩa, tôi yêu nước, nhưng không yêu chủ nghĩa xã hội, tôi và họ khác nhau.



Khoảng 1980, tôi đươc mời tham dự hội nghị Nguyễn Trãi. Tôi viết bàì Nguyễn Trãi Thống Nhất Ngôn Và Hành . Cán bộ Khoa Học Xã Hội đến nhà tôi bảo: Bài của tôi là nói bóng nói gió về chế độ như Thiệu đã nói : Đừng nghe những gì cộng sản nói, hãy nhìn kỹ những gì cộng sản làm. Ho lại nói: Nguyễn Đình Thi là một nhà văn nổi tiếng, đã viết bài Nguyễn Trãi ở Đông Đô. Trong bài, Nguyễn Đình Thi nói rằng trong tim con người Việt Nam đềùu có hình bóng một chú ba. Lời nói này động đến chế độ, nhất là tại triều đình bấy giờ chia ra hai phe, một phe thân Tàu, một phe thân Nga. Phe thân Tàu cho đó là một lời nhục mạ cho nên ho đánh Nguyễn Đình Thi không nương tay!Từ đó tôi thật sự rút lui, không tham gia bất cứ hội nghị nào, tổ chức văn hóa nào của nhà nước vì tôi biết tôi với họ như nước với lửa.Tuy nhiên tôi vẫn say mê công việc viết lách cho riêng tôi vì đó là điều tôi ưa thích. Hơn nữa đó là một công việc luyện tập để cho tinh thần mình và thể xác mình không chết dần chết mòn trong cái nhà tù vĩ đại này.


Việc tôi ngày nào cũng ngồi đánh máy khiến cho công an chú ý bởi vì ngoài bắc chỉ có cán bộ khoa học mới làm công tác nghiên cứu và được phép dùng máy chữ. Nay tôi ngày nào cũng đánh máy, ho nghi tôi đánh máy tài liệu chống đảng và chính phủ như Đoàn Viết Hoạt và các tổ chức khác. Họ đi hỏi thăm các người hàng xóm của tôi. Họ giả vào mua hàng, vào bàn tôi chuyện trò, xem tôi đọc sách gì, viết gì. Lẽ dĩ nhiên trước mặt tôi là tài liệu Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông? do Hà Nội xuât bản mà tôi đã mượn ở thư viện về. Tôi nói với họ là trước đây tôi đã xuât bản một cuốn sách về Nguyễn Trãi, nay tôi thấy cần viết lại cho hợp với thời đại mới, nhất là cho đúng đuờng lối Mác Lê. Tôi cho họ coi bản thảo. Họ còn cho những người đi mua giấy báo cũ vào nhà tôi thu mua giấy vụn. Tất nhiên tôi cố ý bỏ vào đống giấy vụn của tôi những trang tôi đã viết về Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Thánh Tông mà tôi đã xem xét cẩn thận để cho họ mang về công an thành phố.



Công việc buôn bán này khiến cho tôi suy nghĩ. Nếu con người không cần vinh hoa phú quý, chỉ sống an bần lạc đạo thì đâu cần phải quỳ gối khom lưng!
Và đừng coi khinh những nghề tầm thường. Đừng nghĩ rằng tất cả những ông giám đốc đi ô tô, ở nhà lầu trong thời tư bản trước đây là giàu sang. Một số có thực chất, thực thể, nhưng mộït số chỉ là cái vỏ bề ngoài.Nhà lầu đấy nhưng là nhà thuê, xe ô tô đấy nhưng là ô tô mượn, cái công ty, cái cửa hàng ấy sắp sửa khánh tận. Thu nhập của các giám đốc thuộc loại này thua xa thu nhập liệu của các cô ngồi bán thuốc lá lẻ trước rạp ciné.
Tôi nghĩ đến quá khứ, chúng ta cũng có nhiều khuyết điểm.Nhiều công chức, nhiều nhà giáo ganh nhau từng chỉ số lương, từng ngạch trật, từng giờ phụ trội ở trường công, từng giờ dạy thêm ở trường tư. Những thứ đó có ăn thua gì đâu, nó chỉ đáng một buổi bán hàng của một cô bán thuốc lá, hay một vài chai bia, một vài tô cháo lòng của một quán nhỏ ở ngoại ô trong một buổi chiều tà. Ở Việt Nam có đứa giết người chỉ vì vài chục bạc, nhưng ở đây có nhiều kẻ đâm chém nhau, luờng gạt nhau, cướp bóc nhau để tranh một cái không phải là tiền bạc, hay danh giá!



Bây giờ đây, sự thật đáng buồn, người ta tranh nhau, chưởi nhau năm này qua năm khác, bày trò lắm trò khỉ chỉ vì một cái hư danh, như là chủ tịch hội Văn Chưởi Thề Quốc Tế, là một hội đã có tiếng tăm từ hồi ở Việt Nam. Trước 1975, hội quy tụ nhiều anh tài mà chủ tịch hội là một nhân vật rất đáng sơ, là một ông nhà văn, nhà giáo, nhà báo, nhà tu,ông làm việc tích cực khiến cho bộ hạ ông cứ ép ông ngồi hàng mấy nhiệm kỳ, và ông cũng nghĩ rằng ngoài ông ra không ai có thể đảm đương được chức vụ nặng nề và cao quý này, và đó là một sự hy sinh trọn đời giống như Hồ Chủ tịch vĩ đại và Ngô Tổng thống anh minh. Việc trường kỳ giữ chức chủ tịch của ông khiến cho một hội viên là một kỳ nữ rất đáng kính, cũng là nhà văn, nhà thơ,nhà giáo, nhà họa, đăng báo Văn học dài mấy chục trang, chửi mặt cha láng bóng như váy lĩnh đàn bà! Chẳng trách người ta ngồi lỳ, bàu bán gian lận hoặc dùng tiền bạc mua chuộc chức chủ tịch nước, tổng bí thư đảng, tổng thống, hoặc thủ tướng vì danh và lợi của nó rất lớn.Và như vậy, ăn một mình thì nhiều hơn là chia cho người khác, do đó độc tài, độc đảng làm sao chịu đa đảng, đa nguyên!



Và việc buôn bán này cũng cho tôi thấy một vài điều khác. Có lẽ con người có số mệnh. Mẹ vợ tôi là một thương gia từ nhỏ. Nhưng nhà tôi là một người ghét buôn bán. Trong thời gian cư ngụ tại nhà nhạc gia, một ông lão quen biết đã xem số tử vi nhà tôi và quả quyết rằng nhà tôi có tay thương mãi,và chúng tôi sẽ ở nhà vào nơi buôn bán thuận lợi nhất cận thị, nhị cận giang. Lúc đó chúng tôi không tin, nhưng sau này quả đúng như vậy. Chính nhà tôi đứng ra tổ chức việc buôn bán và đã thành công tốt đẹp. Và sau khi tôi mở cửa buôn bán, con đường tôi ở trở thành một cái chợ.



Tôi nghiệm thấy rằng con người có định số. Thu nhập của chúng tôi dường như thuộc về tiền định. Mỗi ngày chúng tôi thu nhập giống nhau, chỉ xê xích con số nhỏ.Nếu chúng tôi bán ế, thì vài hôm sau, chúng tôi sẽ có món lợi khác như là quà tặng của các em tôi ở ngoại quốc gửi về. Nếu tôi có nhiều tiền hơn định số, số tiền sẽ bị tiêu đi vì bệnh tật hay sửa nhà cửa?Tôi có một anh bạn họ Lê, tiến sĩ kinh tế học ở Anh quốc về, hàng ngày đạp xe đạp làm nghề bỏ mối bánh trái sản xuất tại Chơ Lớn cho các cửa hàng tạp hóa và bánh kẹo khắp Sàigon. Anh cho biết anh cũng có nhận định giống tôi về điểm này.



Như đã nói ở trên, mẹ vợ của tôi là một tay buôn bán từ thuở nhỏ, lúc nào cũng bán đắt hàng. Không bữa ăn nào được ngồi yên chỗ. Hễ bưng bát lên là đã có người gọi cửa kêu mua thứ này,thứ kia. Trước khi ra đi nước ngoài theo diện bảo lãnh, bà đã không còn bán hàng được nữa. Và gia đình tôi cũng vậy. Khi các con tôi đi làm có lương tiền, thì thu hoạch đã giảm sút. Đến khi chúng tôi sắùp sửa ra đi thì công việc buôn bán hoàn toàn đình trệ.
Ngoài ra, những điều mà người ta gọi là mê tín, dị đoan lại là những thực thểå. Hồi tôi còn trẻ, đi chơi chợ Bến Thành, thấy những bà bán hàng ế thường chửi bới và lấy giấy đốt vía phong long. Tôi nghĩ rằng mấy bà này mê tín. Nhưng sau này khi buôn bán, tôi nhận thấy con người ta có kẻ nhẹ vía, người nặng vía. Người nhẹ vía là người may mắn, có ảnh hưởng tốt cho môi trường buôn bán. Khi buôn bán, nếu người chồng nhẹ vía thì nên mở cửa hàng thì công việc buôn bán suốt ngày sẽ thuận lợi. Còn khi đã mở cửa hàng rồi, công việc buôn bán lại cũng tùy thuộc vào người tới mua đầu tiên. Nếu người mở hàng là người nặng vía, suốt ngày chắc là ế dài. Nhà tôi là người nhẹ vía, cho nên khi đi chợ, thường bị các bà bán hàng lôi kéo, năn nỉ mua dùm để đươc hên. Thật vậy, hàng nào nhà tôi đến mua, thì lập tức người ta ở đâu bảy tám người ùa đến mua, chẳng mấy chốc mà hết sạch.



Ngoài ra chúng ta cũng có nhiều điều kiêng cử khác. Ngưòi Trung quốc nói hoà khí sinh tài là đúng lắm. Nếu trong nhà, hay trong cửa hàng mà to tiếng nặng lời thì không thể nào mua may bán đắt được. Việc cúng thần tài cũng là một điều hữu ích đúng như cổ nhân nói có thờ có thiêng, có kiêng có lành . Nay ở Việt Nam,ngay cả ở Liên Xô, việc thờ cúng, bói toán đã trở thành công khai. Ở Việt Nam, các công ty quốc doanh đã thờ thần tài, cúng rằm thì không phải là không từng trải kinh nghiệm thực tế! MộÄt anh bạn là giáo sư đại học, có nhà in riêng,đã nói với tôi khi nào thiếu tiền, cầu khẩn thần tài là có ngay!Và tôi nghiệm thấy cúng thần tài đồ mặn như vịt quay, heo quay thi tốt hơn là cúng trái cây.

Bạn thân mến,
Tôi đã trình bày khá đấy đủ những nét sinh hoạt của tôi trong thời gian sống dưới chế độ cộng sản tại Sàigon.Tôi là người thành thực, thẳng thắn, trình bày sự thực, không chút e dè, ngại ngùng. Hơn nữa, tôi là môt người ưa tìm hiểu sự vật, dù là tầm thường hay quan trọng, dù là hữu hình hay vô hình, những suy nghĩ của tôi đã được thực tế kiểm nghiệm, một thực tế hai muơi năm trường, đi sâu trong quần chúng nhân dân, lăn lộn với người lao động, chứ không phải là không tưởng, là lý thuyết suông của những người sống trong tháp ngà.Thực ra những điều tôi suy nghĩ, chỉ là lập lại và xác minh những điều mà người xưa đã nói, và đã kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngàn năm



***

XIV. EM CHỢT ĐẾN

***



Tôi đang thong thả dạo bước trong Laurent Center thì tôi bỗng đứng sững lại trước một bích chương quảng cáo rất lớn dán trước cửa hàng The Bay. Tấm hình quảng cáo này chụp hình một thiếu nữ rất đẹp, rất sống động, nửa Á, nửa Âu. Trông nàng rất giống Thanh Hương, người bạn năm xưa của tôi. Tôi đứng ngắm nàng gần nửa giờ đồng hồ, mà lòng bỗng dâng lên bao cảm xúc mạnh mẽ như những đợt sóng cuồn cuộn ngoài biển khơi lúc bão tố.


Năm ấy, tôi là sinh viên Đại học năm thứ nhất, mùa hè tôi thường đi chơi khắp nơi với bạn bè, la cà suốt ngày, từ nhà nọ đến nhà kia. Trong cuộc giang hồ vặt đó, một hôm anh bạn sinh viên vốn là anh họ của nàng đã dẫn tôi đến chơi nhà nàng tại khu Chí Hòa, và nói rằng nàng có rất nhiều bạn trai. Từ đó tôi quen nàng, thỉnh thoảng tôi đến thăm nàng, và hai chúng tôi nói chuyện trên trời dưới đất rất vui vẻ và nghiêm chỉnh. Nàng hơi thấp, dáng mập mạp, mạnh khỏe, da trắng, mũi hơi cao, đôi mắt nửa nâu nửa đen. Sau này ra ngoại quốc, tôi mới thấy dáng dấp và thân hình của nàng rất giống với các thiếu nữ xứ Bắc Mỹ. Không biết mấy đời trước, gia đình nàng có ai kết hôn với người châu Âu hay không mà nàng lại có cái đẹp tây phương. Nàng người Huế, cha mẹ có nhà tận Nhà Bè, Gia Định.


Một lần, anh bạn sinh viên của tôi đã dẫn tôi về Nhà Bè thăm nơi ẩn cư của thân phụ nàng, một vị cử nhân Hán học, đã làm viêc cho Nam triều, sau về hưu, lui về Nhà Bè ẩn dật. Nhà rất rộng rãi, không khí miền quê thoáng đảng, trồng nhiều loại rau và cây ăn trái. Trước sân và sau vườn có nhiều cây kiểng, uốn hình long, lân, quy, phượng rất tinh xảo. Lại có những hòn giả sơn, có đủ ngư, tiều, canh, mục, hươu, nai với những cây cầu nho nhỏ bắc qua khe,suối? Thân phụ của nàng tiếp tôi rất nồng hậu. Các chị em nàng cũng vui vẻ, họ làm bánh bèo, bánh nậm Huế đãi chúng tôi. Nàng lên ở nhà người anh vốn là một luật sư ở Sài gòn để đi học. Nàng học trường Marie Curie, thường mang đồ đầm rất lịch sự, quý phái, trẻ trung. Nghe nói nàng có nhiều bạn trai cho nên tôi cũng có chút úy kị. Tôi không biết nàng đã có người yêu chưa cho nên dù thích nàng tôi cũng không dám đường đột.



Trong năm học, tôi bận học thi lại bận việc dạy học tư cho nên không có nhiều thì giờ vào việc du hí. Vài tháng tôi đến thăm nàng một lần, và tôi cũng không hề rủ nàng đi chơi. Những lúc tôi đến thăm nàng thì thường là chỉ có chúng tôi, anh nàng đi vắng thường xuyên. Dù nhà vắng, chúng tôi vẫn chuyện trò trong nếp gia phong nho giáo.


Một buổi trưa, tôi đang ngồi học thì nàng chợt đến. Đây là lần đầu tiên nàng chủ động đến thăm tôi. Nàng nói nàng được nghỉ học nên rủ tôi đi xem ciné. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi xem ciné với nhau. Chúng tôi ngồi bên nhau vui vẻ, thích thú. Đối với tôi nàng vẫn nghiêm nghị như các cô gái Huế. Nhưng dẫu sao buổi đi ciné hôm đó là một điềm tốt chứng tỏ nàng có cảm tình sâu đậm với tôi. Tôi lấy can đảm cầm tay nàng. Nàng vẫn yên lặng. Tôi ôm nàng, nàng cũng không phản đối. Nhưng khi tôi hôn lên môi nàng thì nàng từ chối mãnh liệt. Nàng ngồi một lát rồi bảo tôi nàng phải về kẻo ông anh rầy la. Tôi buồn bực cho nên không nói năng gì, mặc nàng ra về một mình. Từ đó, tôi không đến thăm nàng nữa. Sau này, tôi đi làm việc ở tỉnh xa, ít khi về Sàigon. Và từ ngày đó cho đến nay, tôi chưa hề gặp lại nàng một lần. Tôi không biếât một chút tin tức gì về nàng.


Tôi không biết sau tết mậu thân (1968) cũng như sau cơn quốc biến, nàng và gia đình nàng đi về đâu.Tôi không biêt nàng đã lấy chồng hay chưa, nàng ở lại Việt Nam hay đã đi ra nước ngoài. Tấm hình trước cửa hàng The Bay dã đưa tôi trở về quá khứ. Tôi cảm thấy nổi lên một chút ân hận. Sau buổi đi ciné đó, nàng còn có cảm tình với tôi hay ghét tôi? Nếu sau đó, tôi trở lại thăm nàng thì việc gì sẽ xãy ra ? Nàng cự tuyệt tôi hay nàng chấp nhận tôi? Tôi nghĩ dẫu sao tôi cũng đã có lỗi với nàng, tôi đã làm nàng buồn, nàng giận. Nhất là hôm đó, vì tự ái, tôi đã không lịch sự đưa nàng về tận nhà.

Hình ảnh nàng luôn luôn xuất hiện trước mắt tôi, và câu hỏi về nàng luôn luôn ám ảnh trong đầu óc tôi. Cho đến hôm tháng ba năm này, tôi sang tiểu bang California để dự một đám cưới trong gia đình thì trong đám cưới tôi bỗng nhiên gặp lại Hằng, và được xếp ngồi cạnh Hằng, người bạn của Thanh Hương mà năm xưa khi tôi đến thăm nàng và gặp Hằøng tại đó vài lần. Bọn sinh viên Sài gon chúng tôi ai cũng biết Hằøng vì nàng là một người đẹp của nhà sách Khai Trí thuở bấy giờ. Sau này nhà sách Khai Trí bị nhà nuớc tịch thu, một hôm dạo chơi đường Tự Do, lúc này đổi là Đồng Khởi, tôi thấy Hằng đứng bán hàng cho một cửa hàng quốc doanh. Thấy nàng, tôi không dám chào hỏi vì mới giải phóng ai cũng thận trọng, gặp người quen không dám chào hỏi. Lúc đó, phần đông dân ngụy đều thất nghiệp, không hiểu sao nàng lại được đứng bán hàng với các nữ đồng chí Bắc kỳ 75.


Gần ba mươi năm cách biệt, Hằng bây giò dã là một lão bà ngũ tuần, nhưng nhờ mỹ viện và biết cách giữ gìn thân thể cho nên dù lớn tuổi, khuôn mặt và thân hình của nàng vẫn không thay đổi mấy. Gặp nàng, tôi hỏi thăm sức khoẻ và hỏi luôn về Thanh Hương. Hằng cho biết Thanh Hương vốn là cán bộâ nội thành, nằm trong tổ chức vận động thanh thiếu niên. Anh nàng là một luật sư trẻ, hăng hái, là đệ tử thân thiết của Nguyễn Hữu Thọ. Nhà nàng là điểm liên lạc của mặt trận. Cả hai anh em nàng đã tham gia hoạt động từ lâu. Nàng thường tổ chức party, mừng sinh nhật cùng đám bạn trai nhảy múa là để che mắt cảnh sát, mật vụ những khi tổ chức này hội họp bí mật trên căn gác nhà nàng.


Sau tết mậu thân, tổ chức bị lộ, hai anh em nàng vào mật khu hoạt động. Anh nàng cũng như giáo sư Nguyễn Văn Kiết, Lữ Phương trở thành cánh tay mặt của Nguyễn Hữu Thọ, và đuợc nằm trong chính phủ của Mặt Trận Giải phóng miền Nam. Còn nàng khi trở về, trở thành cán bộ nòng cốt của thành phố Hồ Chí Minh. Nàng rất tốt với bạn bè. Nhờ Thanh Hương cấp gíấy chứng nhận là người có công với Mặtï Trận, đã cộng tác với Mặït Trận trong thời kỳ hoạt động bí mật, Hằng đuợc đảng và ban công quản thành phố cho đứng bán hàng tại một của hàng quốc doanh đường Đồng Khởi. Trước 1975, cộng sản miền Bắc hứa hẹn với đám Mặt Trận là họ sẽ tôn trọng quy chế miền Nam độc lập, trung lập với năm thành phần kinh tế. Nhưng sau khi chiếm Miền Nam hai năm, cộng sản lập tức trở mặt, giải tán Mặt Trận, quyết tâm thống nhất cả nước và đưa miền Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa.


Đa số thành viên Mặt Trận bất mãn và phản đối trong đó có anh em Thanh Hương. Hai anh em nàng biết mình bị lường gạt cho nên cùng một số thành viên Mặt Trận tìm cách bỏ nước ra đi. Hai anh em nàng kín đáo tổ chức việc chôn dầu, mua bến bãi. Nhưng mọi hành động của anh em nàng đều không lọt cặp mắt theo dõi của công an thành. Họ không muốn bắt sống vì sợ mất uy tín đảng, họ muốn mượn biển cả giết hai anh em nàng một cách kín đáo. Họ chờ cho tàu của anh em nàng ra khơi một đoạn, rồi cho công an đuổi theo, xã súng bắn xối xả. Kết cuộc, con tàu chìm xuống biển sâu. Vài ngày sau, người ta tìm thấy xác của Thanh Hương và một vài người khác dạt vào Bãi sau Vũng Tàu, còn xác của anh nàng thì không biết trôi dạt nơi đâu hay đã được đảng thu vén gọn gàng và kín đáo để khỏi gây dư luận xôn xao trong quần chúng


**

XIII. SINH VIÊN VÕ BA

***


Hồi bấy giờ tôi dạy học tại Đại học Văn khoa Sàigon. Tôi và các bạn đồng nghiệp trẻ rất thân vì chúng tôi hiểu nhau . Những lần đi dạy tại các đại học Cần Thơ, Hòa Hảo,Cao Đài.. .là những lần chúng tôi có dịp gần gũi nhau.



Những ngày tháng tại Đại học Văn khoa Saigon cũng là những ngày rất vui trong đời tôi mặc dù ở bên ngoài bom vẫn rơi, đạn vẫn nỗ, cộng quân mỗi ngày một xâm chiếm. Tôi lúc bấy giờ bận rộn việc nghiên cứu, giảng dạy .Đến trường, ngoài việc dạy học, tôi không chú ý đến việc nào khác. Hết giờ dạy là về nhà đọc sách, viết sách. Tuy nhiên, có một điều khiến tôi chú ý là trong só nhân viên văn phòng, lại có một nhân viên mới. Anh này còn trẻ, dáng điệu quâ mùa, thường mặc quần kaki, áo cháo lòng, hay đứng trước cửa văn phòng kế toán. Tôi không rõ anh phụ trách công việc gì, vì tôi chỉ xuống văn phòng tài chánh,tháng một lần để lãnh lương.


Sau 1975, tôi và các đồng nghiệp ở đại học Khoa học phải học chính trị tại Đại học Văn khoa. Tôi lúc đó mới biết rằng bên cạnh các cán bộ quân quản, còn có anh chàng thanh niên làm văn phòng nay trở thành cán bộ cách mạng. Hỏi ra mới biết anh này tên là Võ Ba, vốn là sinh viên ban sử địa, là cán bộ nằm vùng, người Củ Chi, bị quốc gia bắt giam, sau được Sơn Hồng Đức , giảng sư ban sử địa, lúc này làm phụ tá khoa trưởng Bùi Xuân Bào , bảo lãnh, đưa về làm văn phòng nhà trường. Anh là người hiền lành, ít nói .
Trong trường tôi có nhiều điều kỳ quái. Giáo sư Châu Long nằm vùng nhưng các sinh viên cao học của ông đếu là người quốc gia, còn Sơn Hồng Đức, người quôc gia, làm việc cho tổng thống phủ, lại giúp đỡ các ông cộng sản nằm vùng.



Khi tôi ra khỏi đại học thì Võ Ba trở thành cán bộ giảng dạy ban sử địa. Những lúc rảnh rang, tôi đến thư viện đọc sách.Tại đây , tôi gặp Võ Ba. Anh tỏ vẻ thân thiện với tôi. Anh nói chưong trình địa lý cấp ba không bằng chương trình cấp một thời quốc gia. Chương trình quá sơ lược , chương trình năm châu mà chỉ dạy vài giờ theo kiểu lái phản lực xem hoa ! ( Chương trình văn học thế giới cũng thế !) Anh nói rằng các giáo sư sử địa rất tốt. Giáo sư Lâm Thanh Liêm, bà Quách Thanh Tâm đã nói với anh rằng :
Chúng tôi biết anh là cộng sản nhưng chúng tôi không lấy đó làm điều. Nếu anh thích học, chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ.



Anh ca tụng tinh thần bác ái của các giáo sư trên. Riêng đối với Sơn Hồng Đức anh kính trọng đặc biệt mặc dù Sơn Hồng Đức bị kết tội là CIA. Anh vẫn gọi Sơn Hồng Đức bằng thầy, và thường thăm viếng Sơn Hồng Đức khi anh được trả tự do. Nghe anh nói ,tôi nghĩ ngợi gần xa. Quả thật, chính phủ ta ,đồng bào ta rất nhân ái. Con Nguyễn Hữu Thọ và nhiều người khác nữa theo cộng sản nhưng chúng ta không truy kích gia đình họ, trả thù,trừng phạt gia đình họ. Con cái của họ vẫn theo học đại học, cụ thể như sinh viên Võ Ba tại trường Đại học Văn khoa Sàigon. Trái lại, cộng sản rất dã man. Những ngườI có tổ tiên là phong kiến, những người có thân nhân đi nam. Những người có cha mẹ,anh em làm việc cho chế độ cũ, hoạc chống lại họ, thì con cháu, anh em đều bị họa lây. Ở giữa thế kỷ 20, cộng sản vẫn áp dụng chính sách tru di tam tộc của phong kiến !


Sau này, tôi nghe tin Võ Ba bỏ dạy học, đi làm bí thư cho huyện ủy Nhà Bè. Một huyện ủy mà có được một bí thư như Võ Ba kể ra cũng biết dùng người ! Nhưng chỗ ngồi của Võ Ba không bền vì ít lâu sau huyện ủy Nhà Bè bị mất chức ,Võ Ba lui về nhà. Nay không biết con đường công danh sự nghiệp của Võ Ba như thế nào.

***

XII. VỊ KHÁCH QUÝ

***



Không khí trường Đại Học Sư Phạm vui nhộn, ồn ào khác hẳn ngày thường. Đồng chí Tân, hiệu trưởng trường Đại Học Sư Phạm chạy vô chạy ra, vẻ mặt vô cùng nghiêm trọng. Xung quanh đồng chí Tân, một số cán bộ thân tín cũng vẻ mặt quan trọng, chạy vô chạy ra như gà mắc đẻ. Từ ngoài cổng trường, người ta đã treo cờ đở sao vàng và cờ búa liềm. Những bức ảnh Mac, Lenin cũng được treo khắp giảng đường. Sinh viên các lớp được lệnh phải tề tựu tại giảng đường từ 6 giờ sáng.


Sau ngày 30-4-1975, đồng chí Tân được lệnh cử vào Sài gòn làm phó ban quân quản trường Đại Học Văn Khoa. Ít lâu sau đồng chí Tân được điều sang làm hiệu trưởng trường Đại Học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh. Trường này, trước kia là một phần của trường Pétrus Ký, đường Cộng Hòa. Sau 1975, bộ giáo dục ngoài bắc vào tiếp thu các viện đại học trong Nam. Đồng chí Văn, hiệu trưởng tiền nhiệm vốn là người khôn lanh đã xin lấy viện đại học Vạn Hạnh làm cơ sở hai của trường đại học Sư Phạm. Đồng chí đã trao đổi cùng ban tổ chức bộ theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.


Trường Đại Học sẽ có lấy viện đại học Vạn Hạnh, và chịu thu nhận một số người của ban tổ chức bộ vào làm sinh viên, làm thầy giáo, làm cán bộ và làm công tác lặt vặt trong trường. Lúc này ngoài bắc thất nghiệp đông, kìếm được một chỗ làm rất khó. Nay giải phóng miền Nam là một cơ hội bằng vàng để đưa những người xã hội chủ nghĩa vào nam xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nghe nói trong nam rất tự do sung sướng, hàng hóa ê hề, gái nam rất đẹp cho nên nhiều chàng đành tốn tiền xin vào nam công tác, hoặc sinh sống, và điều kiện duy nhất là có giấy thu nhận công tác để đăng ký hộ khẩu. Một số được móc nối vào nam theo con đường bộ giáo dục. Sau khi vào Nam nhận công tác, muốn được bố trí chỗ ở, các đồng chí này cũng phải biết điều. Lãy cớ rằng đa số cán bộ giảng dạy từ băc vào không có chỗ ở, trường đã lấy cơ sở 2 làm cư xá cho giáo viên trường đại học sư phạm. Vì vậy, viện đại học Vạn Hạnh ở đường Trương Minh Giảng đã trở thành một cư xá hỗn tạp, chỉ một hai năm sau là xuống cấp, sân trường ngập nước, đầy rác, vỏ chai và giấy loại.Các hành lang thì treo đầy aó thun và quần bộ đội.



Thanh thế đồng chí Văn càng ngày càng lớn, uy danh càng ngày càng cao đồn ra đến ngoài bắc. Nhưng thói đời 'trâu cột ghét trâu ăn', có người tố cáo, đồng chí Văn mất chức, ngồi tù, cho nên đồng chí Tân được đổi về thế chỗ. Đồng chí Tân là người Huế, đẹp trai, nghe nói anh của đồng chí cũng là một nhà văn, sau vụ tích cực đấu tố Nhân Văn Giai Phẩm đã được vinh thăng làm giáo viên cấp ba! Đồng chí Tân hơn người ở chỗ là hay cười nói vui vẻ. Có người đã gọi Tân là thằng cộng sản biết cười! Nhưng xuất sắc nhất là đồng chí Tân là thuộc thơ Tố Hữu. Bất cứ lúc nào, ngồi ở đâu, có dịp là đồng chí đọc thơ Tố Hữu! Có lẽ các ông Mohamet cũng chưa thuộc kinh Coran bằng đồng chí Tân thuộc thơ Tố Hữu. Tân thường khoe rằng anh là đồ đệ thân tín của giáo sư Hoàng Xuân Nhị. Có lẽ nhờ tả phù hữu bật, nhất là nhờ tài học thuộc thơ Tố Hữu mà đường công danh của Tân lên như diều.



Chả là hai tuần trước, hiệu trưởng Tân được một cú điện thoại của đại diện bộ giáo dục tại Sài gòn báo rằng toà lãnh sự Liên Xô tại Sài gòn cho biết sẽ có một vị khách quý viếng thăm trường đại học sư phạm. Vị đại diện bộ căn dặn Tân phải đón tiếp chu đáo vị khách này. Nghĩ rằng cuộc thăm viếng này rất quan trọng, tương lai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, và đại học Sư Phạm đều nhờ vào cuộc thăm viếng này, Tân liền hội các cán bộ nòng cốt của trường để chuẩn bị đón tiếp. Tất cả đều nhất trí đón tiếp vị quý khách tại cơ sở I, và lấy giảng đường A của ban Khoa Học làm nơi tụ họp. Sau cuộc họp, việc phân chia công tác được tiến hành. Hai ba đồng chí phụ trách treo cờ, treo ảnh, dán khẩu hiệu, chưng hoa, và quét dọn. Một số được giao việc bài trí micro, và sân khấu. Một số được giao công tác văn nghệ. Các sinh viên được lệnh gấp rút tổ chức ban nhạc để chào mừng quý khách. Họ sợ ban nhạc nhà trường non yếu cho nên đã mượn theo một vài ca sĩ, nhạc sĩ ngoài. Và nhà trường đã hứa sẽ trả thù lao trọng hậu cho họ.Để vui liên hoan, theo thông lệ, nhà trường đã mua la de đãi đàng khách quý và các cán bộ nhà trường.



Trong hơn một tuần, mọi việc chuẩn bị đã gần như hoàn tất. Nhưng còn một việc quan trọng nhất, là ai sẽ đứng ra nói chuyện với vị khách người Nga? Đồng chí Tân không biết tiếng Nga. Những giáo sư đã du học Nga cũng không nói được tiếng Nga vì hồi sang Nga, các ông chỉ học qua thông dịch viên, học xong trả sách lại cho nhà trường , trở về Việt Nam với hai bàn tay trắng. ( Việt Nam cũng bắt chước Liên Xô, phát sách cho học sinh, hết niên khóa, trường thu sách lại). Một số giáo sư học cấp tốc tiếng Nga tại Hà Nội vài tháng rồi vào Nam dạy. Dạy xong, lại ra Hà Nội học khóa tiếp, rồi lại vào dạy tiếp. Cứ như thế cho nên rất ít người thông thạo tiếng Nga. Vậy thì làm sao? Trường tìm kiếm khắp nơi thì trên bộ đã có người hứa sẽ đến gíúp việc thông dịch.Trong chế độ ta ai cũng phải tỏ ra đỏ hơn trước và đỏ hơn người khác. Trong việc này,từ hiệu trưởng cho đến sinh viên đều phải nhiệt tình nếu không thì sẽ bị những con mắt theo dõi báo cáo, và cuộc đời sẽ đen tối như đêm ba mươi! Và đây là một công tác vô cùng quan trọng, liên quan đến tương lai đất nước và tương lai của trường, của cán bộ và sinh viên. Liên Xô đã viện trợ ta kháng chiến thành công và sẽ viện trợ ta tái thiết. Biết đâu, Liên Xô sẽ chú ý đến sinh viên Sư Phạm, xây trường sở, sẽ cho học bổng du học Liên Xô. Ai cũng tính toán và hy vọng. Nếu đón tiếp không chu đáo,Liên Xô sẽ bất bình và viện bộ sẽ trừng phạt trường. Trường sẽ bị đóng cửa, hiệu trưởng và sinh viên sẽ bị gậy ra đường. Để tăng phần long trọng, Tân gửi giấy mời đến một số bạn bè, và cơ quan liên hệ như đại diện ban quân quản trường Văn Khoa, trường Khoa học.



May quá, công việc đã chín phần mỹ mãn, đồng chí Tân vô cùng sung sướng. Mãy mươi năm chống Mỹ cứu nước, dù là đồng chí anh em, chưa bao giờ người Nga đặt chân đến các trường học Việt Nam. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một đồng chí Sô Viết lại hạ cố đến một ngôi trường Việt Nam. Tân rất cảm động. Cái vinh dự lịch sử này lại rơi vào Tân! Có lẽ thần tài đã gõ cửa Tân. Tân mơ màng thấy đồng chí Sô Viết tiến tới bắt tay Tân, ca tụng trường đại học Sư Phạm, ban huy chương Sô Viết cho Tân, mời Tân sang tham quan Liên Bang Xô Viết! Ôi sung sướng biết bao! Trước đây, Tân hằng mơ ước đi học Liên Xô nhưng sức cô thế yếu, Tân không thể đương cự với con cháu của các quan lớn trong triều. Nay nếu được đi Nga thì cũng vớt vát được ít nhiều! Có còn hơn không! Tân có thể đi thăm mộ Lênin, và khi về mang rất nhiều hàng hóa, nào TV, tủ lạnh, xe đạp, xe gắn máy, nào quần bò, áo phong, lớp cho vợ con, lớp đem bán sẽ được khối tiền! Ôi hạnh phúc biết bao ! Và trong bộ giáo dục, khối thằng ghen tức mà chết! Biết đâu sau việc này, Tân chẳng trở thành ngôi sao sáng trong đảng bộ nhà trường, và trở thành lãnh tụ văn giáo thay thế Tố Hữu!



Ngày X đã đến . Trường Đại Học Sư Phạm vui như ngày hội. Tất cả sinh viên đều có mặt tại hội trường từ 6 giờ sáng. Người lo treo cờ, treo ảnh, kẻ lo trang trí hội trường. Tận ngoài cổng, người ta đã chưng bông kết tụ như đám cưới . Trong hội trường, khẩu hiệu lớn nhất được kẻ tiếng Việt lẫn tiếng Nga: Chào Mừng Quý Khách. Ban nhạc dã đứng sẵn trên bục, đang tập dượt sôi động. Không khí thật vui vẻ chưa từng thấy. Mười giờ thì quan khách lục tục đến.
Mười một giờ, quý khách vẫn chưa đến.
Mười hai giờ, quý khách vẫn chưa đến. Gọi điện lên đại diện bộ thì người ta bảo cứ chờ. Một giờ, vị thượng khách vẫn vắng bóng.



Kìa! Một chiếc xe chạy từ ngoài cổng vào. Một chiếc xe mui trần treo cờ búa liềm tiến thẳng vào trường đại học sư phạm. Quan khách và sinh viên trong hội trường A reo hò mừng rỡ. Sân trường hẹp, lối vào ngắn. Xe chạy vào một đoạn khoảng nửa đường rồi lui ra đi thẳng. Trên xe, một cô bé người Âu mắt xanh tóc vàng khoảng 10 tuổi nhưng to lớn bằng con gái Việt Nam mười lăm tuổi. ngồi chễm chệ ở băng sau. Đằng trước một tài xế Việt Nam bé nhỏ, khúm núm. Chỉ có vậy. Mọi người chưng hửng. Quan to, quan nhỏ đứng lặng một hồi, không ai bảo nhau đồng lủi thủi ra về. Mấy ngày hôm sau có người thông thạo kể rằng ái nữ của viên lãnh sự Nga không biết tại sao lại nổi hứng muốn đi thăm trường đại học Sư Phạm. Có thể cô đọc báo Nga thấy khen ngợi ngành sư phạm Việt Nam; có thể trí tưởng tượng của cô cho rằng trường đại học ở đây do Mỹ xây cất rất lớn , hoặc là trường đại học sư phạm Sàigon cũng giống như bên Phi Châu có thể thấy hưou, khỉ, ngựa vằn, sư tử., hoặc nghe ai nói gì đó nên đòi bố cho tài xế lái xe đi thăm một vòng cho biết. Có lẽ khi đến cổng trường nhìn vào thấy trường cổ lổ, nhỏ bé, cũ kỹ , không thấy ngựa vằn, hưou cao cổ và khỉ đột như trong tưởng tượng nên chán nản mà ra lệnh cho tài xế quay về. Câu chuyện đơn giản là vậy, không có gì phải ầm ĩ!



***

XI. PHIÊN TÒA CHUỘT

***



Mùa hè năm nay cả miền Nam nắng hạn. Các giếng nước khô cạn, ruộng đất nứt nẻ, cây cối khô trụi. Trâu bò không có nước uống, chim chóc cũng không chút nước thấm giọng. Sông Nhà Bè gần cạn, chỉ còn là một giòng nước nho nhỏ, trên bờ bùn sình cùng bao nylon, giấy, lon, chai hiện lên dơ bẩn vô cùng. Nước cạn nhưng cũng đủ cho tụi trẻ bơi lội tung tăng. Tắm xong, chúng lội qua bên kia bờ chơi đùa thoải mái. Chơi chán chúng bơi trở về bên này. Sau mấy giờ bơi lội, chúng mặc quần áo lên bờ. Thằng Trung không quên mang theo khẩu súng bắn chim mà một ông bạn bố nó đã mua tặng làm quà sinh nhật cho Trung. Đây là một khẩu súng bắn chim do Trung quôc chế tạo.Nghe nói súng này đuợc Trung quốc chế tạo để xuât khẩu riêng sang Việt Nam.


Mục đích của họ là muốn nhờ bọn trẻ Việt Nam tiêu diệt chim chóc, cũng như họ đã dùng mưu mua chân bò, rễ quế, mèo, và rắn để phá hoại kinh tế và môi trường Việt Nam. Súng rất nhẹ, bắn chim rất chính xác. Tháng đầu, chim ở Nhà Bè còn nhiều, nhưng sau vài tháng săn bắn, một số chim bị bắn chết, một số sợ hãi bay đi nơi khác. Thành thử đi hàng giờ, bọn chúng cũng chẳng tìm thấy một con chim sẻ. Bọn chúng phải đi thật xa mới thấy có bóng chim. Chúng vào tận chùa, các vị sư ra đuổi chúng, chúng chửi lại, bảo sư là phản động, CIA, tay sai đế quôc Mỹ. Chúng ngứa tay, bắn cả gà, chó, và bồ câu của đồng bào. Chúng nó là những đứa bé khoảng 12 tuổi, học trường tiểu học quận Nhà Bè. Cha mẹ chúng là công an, cán bộ ngoài bắc mới vào.


Thằng Trung là con của ông trưởng chi công an Nhà Bè. Ông tên là Bình, năm nay 40 tuổi. Ở ngoài bắc ông là thương binh được trở về làng, lương mỗi tháng vài chục bạc không đủ sống. Ông phải tham gia vào đám thương binh buôn lậu bằng đường xe lửa. Nhờ thế lực này, ông kiếm ăn đủ sống. Hằng tuần, ông mang hàng hóa từ Hà Nội vào Nghệ An, hoặc từ Nghệ An ra Lạng Sơn, buôn đồ Trung quốc về Hà Nội theo lệnh của anh Sáu. Mặc dầu đi xe lửa hay xe đò, công an kiểm soát rất gắt gao, riêng bọn ông, công an không dám làm khó dễ. Đoàn của ông tự do vô ra bến xe, nhà ga, và lên tàu. Trước giờ tàu chạy, đồng bào chưa được phép vào nhà ga, thì đoàn ông đã vào trước, đem hàng vào ga, lên tàu, nhét chặt cứng chỗ để hành lý và dưới gậm ghế, khiến khách không chỗ để hành lý và không chỗ gác chân. Bọn ông còn chiếm cả phòng vệ sinh. Một toa tàu thường có hai phòng vệ sinh, nay chỉ còn một, trong ngoài đầy phân và nước tiểu. Sau 1975, đoàn thương binh của ông vào nam buôn bán.


Lúc này thế lực của thương binh rất mạnh. Miền nam là miếng mồi rất ngon. Khắp nước, công an làm chủ ở thành thị, bao lợi lộc như thuế má, thương cảng, xí nghiệp, rạp hát, khách sạn, nhà hàng đêu do công an nắm. Bộ đội đổ xương máu, cuối cùng chỉ còn nấm mồ và chân tay cụt. Tình trạng phục viên của bộ đội đã được dân chúng mô tả rât bi thảm:
Đầu đường đại tá vá xe,
Cuối đường trung tá bán chè, bán xôi.
Bộ đội đổ xương máu cho đám công an hưởng lợi cho nên bộ đội rất căm thù công an, và bây giờ họ phải làm mọi cách để đền bù cho những năm gian khổ trước kia. Ngoài bắc, thời trước, nhiều trận xô xát đã xảy ra giữa công an và bộ đội khiến trung ương phải can thiệp. Khoảng cuối 1975, một thằng cháu họ của ông ở Kampuchia về thăm nhà, mang theo mấy thước vải về cho cha mẹ. Khi về đến Phú Lâm, bị bọn công an tịch thu. Nó hêt lời năn nỉ nhưng bị bọn công an chửi bới nó.


Nó nổi máu anh hùng, rút súng bắn chết mấy thằng công an. Bọn công an chống cự lại nhưng bị bọn bộ đội đông người nổ súng phản công. Bọn công an sợ hãi bỏ chạy về đồn. Sau chúng kéo hàng trăm tên tới cứu viện và tầm thù. Thằng cháu ông may có bạn cứu vào Tân Sơn Nhất, sau theo xe bộ đội mà ra bắc. Sau vụ đó, hai bên công an và bộ đội thêm hận thù nhau, nhưng cũng từ đó, bọn công an bớt hống hách, bớt băt nạt mấy anh bộ đội đi phép lẻ tẻ.


Vì công an chiếm hết tiện nghi và quyền lợi cho nên bên bộ đội phải giành quyền sống bằng cách chiếm núi rừng, lấy gỗ đem bán ra ngoại quốc , và buôn hàng lậu từ các biên giới về phân phối toàn quốc để lấy tiền chia cho bộ đội từ ông cao cấp cho đến thương binh. Nhưng thương binh mang tiếng mà chẳng được miếng nào vì phần to và béo vẫn là ở các tướng tá cao cấp. Bọn thương binh như ông phải đem phần thân xác còn lại kinh doanh cho các ông lớn. Người ta tưởng rằng thương binh là một nhóm khủng bố. Cái đó cũng có. Chẳng qua đó là những anh thương binh hạng nặng, không làm được việc gì, hoặc lười biếng, tụ năm tụ ba nhậu nhẹt, hết tiền thì vác lựu đạn vào các nhà hàng nặc tiền, hoạc chận xe đò xin chút đỉnh. Còn bọn thương binh như ông Bình là loại thương binh tích cực, đã tham gia vào tổ chức kinh tài của quân đội. Họ là mặt nổi của quân đội, mà huy hiệu của binh chủng này là gậy gộc và chân tay cụt.



Chính nhờ chân cụt, tay què mà họ được thong dong hành động trong những lãnh vực đặc biệt. Quân đội Nhân dân có nhiều việc phải làm. Những thương binh hạng khá được vào làm trong các công trường, như xây các đập thủy điện, kiến thiết các thành phố, ăn khối tiền, và lập các nông trường quôc doanh như trồng cà phê, tiêu, trà xuât khẩu, thu khối lợi. Bọn thương binh của ông hàng ngày chở hàng từ Kampuchia về Sài gòn. Ông là người can đảm lại lanh lợi, được cử làm trưởng đoàn. Mỗi tuần ông ba lần chở hàng Thái Lan từ Kampuchia về Sài gòn bằng hàng đoàn quân xa, trí đại liên trên mui xe, đi nghênh ngang giữa thành phố, công an chẳng dám lục soát vì không tên công an nào dám mó dái ngựa. Bọn công an rât khôn. Chúng chỉ chận bắt những anh bộ đội đi lẻ tẻ, xét giây tờ và tịch thu hàng hóa để bỏ túi.


Chúng bây giờ giàu rồi, cần sống lâu để hưởng thụ, dại gì chọc tụi bộ đội dể ăn đạn, bỏ vàng bạc ai hưởng, và bỏ vợ con ai nuôi. Và bọn công an cao cấp, cũng biết rằng dĩ hòa vi quý, và hòa khí sinh tài. Họ đã hưởng quá nhiều, nước ao hồ không nên chạm nước sông, nên nhắm mắt bỏ qua cho bên quân đội kiếm chút cháo. Cuộc làm ăn của đám thương binh có cơ sở vững chăc vì họ có giây tờ di chuyển của quân đội, hàng hóa dù là buôn lậu cũng có kho tàng chắc chắn tại Tân Sơn Nhất. Cả một vùng Tân Sơn Nhất và phụ cận đều thuộc quyền kiểm soát của quân khu IV. Nhà cửa của bọn ngụy quân để lại rât nhiều, to và đẹp, anh em ta tha hồ ở. Những cán bộ cao cấp của quân khu đã đưa hàng vạn bà con thân thuộc ngoài bắc vào lập căn cứ nơi đây.Tân Sơn Nhất nay là giang sơn của quân khu IV, là giang sơn của quân đội, của thương binh và bọn Băc Kỳ 75 chúng ta, cho nên bọn công an không dám đụng tới.



Tân Sơn Nhât cũng là kho hàng công khai, nhà chứa công khai, vì nơi đây chúng ta đã kinh doanh lớn bằng mở các cửa hàng bia ôm, rạp chiếu phim con heo, và nhà ngủ loại bình dân, khách có thể thuê ngày hay thuê giờ, đủ hạng gái đẹp cho khách lựa chọn. Bọn công an đã nhiều lần muốn vào khám xét nhưng lệnh trên cho phép nổ súng nếu có kẻ dám xâm nhập vùng cấm địa. Bọn công an chịu thua, không lẽ im lặng, bất đắc dĩ họ phải kiện lên trung ương, nhưng trung ương cũng không muốn mât lòng phe quân đội, bởi vì các tướng tá trung ương đều được anh em thương binh 'chi' rất bảnh cho nên luôn ủng hộ phe ta.



Ông Bình có người cháu họ làm công an ở quận ba Sài gòn. Thỉnh thoảng ông đên thăm anh ta, đươc anh ta cho biêt miền nam cần rât nhiều công an vào phục vụ. Nhà nước cần tới ba trăm ngàn công an đặc biệt để theo dõi tín tức tình báo. Anh ta khuyên ông nên nạp đơn xin gia nhập công an, vì làm công an ngồi một chỗ có máy lạnh mà thu tiền còn hơn xông xáo nơi biên cương lửa đạn. Vì ông là một thiếu úy thương binh cho nên đơn của ông đuợc chấp thuận. Và cũng vì ông đã tốn gần hai lượng vàng để lo thủ tục đầu tiên. Đàn bà và ông già thì đuợc bố trí vào loại công an chìm, hàng ngày đạp xe hoặc đi bộ khắp nơi nghe ngóng. Còn như ông là chiến sĩ Trường Sơn có thành tích nên được đảng cho vào công an thực thụ tại Nhà Bè, và được cấp nhà.



Nhà này vốn là nhà của một gia đình vượt biên, nhà nươc tịch thu và giao cho ông. Lúc đầu mới vào, ông đi xe đạp. Sau ba tháng ông đi vespa, và sáu tháng nữa, ông đã mua thêm một xe Dream. Sau một năm, ông làm phó trưởng chi công an Nhà Bè. Và sau hai năm, ông được thăng trưởng chi công an Nhà Bè. Vợ ông ở ngoài bắc làm nhân viên cửa hàng ăn của huyện. Nay vào nam làm trưởng chi thương nghiệp huyện Nhà Bè. Vợ ông cũng đuợc cấp phát một ngôi nhà của dân ngụy quân bỏ chạy ra nước ngoài. Và sau vài tháng, chính phủ thực thi chính sách hữu sản hóa cho cán bộ cao cấp, ngôi nhà được hóa giá ( bán rẻ), bà vợ ông cũng bán ngôi nhà cũ, lấy tiền bỏ vào ngân hàng một ít Lúc này ông cũng đã bán ngôi nhà cũ và lấy một ngôi nhà của một gia đình vượt biên khác, to lớn và đẹp đẽ hơn. Nhà này có vườn tược trồng đủ loại cây ăn trái, lại có hồ tắm rộng rãi.


Ngôi nhà vốn do một kiến trúc sư xây cất. Ông kiến trúc sư này là trước kia cùng sang Pháp và quen thân với Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm. Ông đã che dấu và giúp đỡ hai ông khi hai ông hoạt động chống Pháp. Năm 1945, cộng sản giết hai ông, và họ cũng thủ tiêu luôn ông. Ít lâu sau, bà vợ ông bèn bán nhà cửa, lui về miền Hậu giang ẩn náu ở quê chồng. Lúc bấy giờ, ông giáo Bảo là người Phan Thiết, vào dạy học tại trường tiểu học Bàn Cờ Sài gòn và đã đến tuổi hưu trí. Ông đã nhiều lần về Nhà Bè thăm bạn bè nơi đây, thấy cảnh trí ở đây hữu tình, có sông rộng, có ruộng đồng, không khí trong lành, cảnh vật yên tĩnh cho nên đã bỏ tiền mua nhà của ông kiến trức sư cùng ít ruộng đất làm gia sản. Từ khi về hưu trí, ông giáo sống rất thanh nhàn và vui vẻ. Sáng dậy, ông dậy sớm uống trà hay cà phê, và coi báo, đọc sách. Chiều ông ra vườn chăm sóc vườn tược.


Ông trồng cây mới, tưới bón cho rau và hoa quả. Ông bỏ rât nhiều thì giờ để uốn các cây thành con lân, con phượng. Bà giáo khi còn ở Sài gòn làm nghề buôn bán. Bà có một gian hàng bán vải tại chợ Tân Định. Sau khi dời nhà về Nhà Bè, bà lại tiếp tục buôn vải tại đây. Ông bà giáo sinh đưọc ba trai hai gái. Hai gái đã lấy chồng buôn bán và làm việc ở Sàigòn. Người con trai lớn làm đại úy, người con trai thứ làm quận trưởng và người con út làm thiếu úy. Ông đại úy và ông quận trưởng đã có vợ con, riêng ông thiếu úy còn độc thân. Ông đại úy và thiếu úy sống chung với bố mẹ. Khoảng 1970, ông giáo từ trần, bà giáo vẫn tiếp tục buôn bán. Sau ngày 30-4-1975, ông quận trưởng theo anh em bỏ ra nươc ngoài. Còn ông đại úy và thiếu úy vẫn ở với mẹ.


Khắp nơi, người ta vượt biên. Ông đại úy đem vợ con đi vượt biên, ông thiếu úy cũng muốn đi nhưng bà mẹ không cho. Thương mẹ ở một mình đơn chiếc, ông thiếu úy cũng dẹp chuyện đi xa. Sau khi ông đại úy ra đi, công an vào nhà làm biên bản tịch thu cửa nhà vì dây là nhà ngụy quân vượt biên. Lúc này ông Bình đã làm chi phó cảnh sát. Công an đuổi bà giáo ra khỏi nhà, tịch thu tài sản . Bà giáo uất ức, không chịu ra đi. Năm sáu công an xông vào kéo bà, bà tức giận đập đầu vào tường mà chết. Ông thiếu úy thương mẹ, lớn tiếng chửi mắng công an. Chúng xông lại đánh ông gần chết. Chúng giam ông và đưa ra tòa xử bắn về tộI phản động. Lúc này căn nhà này hoàn toàn vô chủ, công an tịch thu, và ông Bình được ở căn nhà này.



Lúc này, ông Bình lên tột đỉnh vinh hoa. Trong nhà ông đuợc trang bị đầy đủ, có TV màu , radio kiểu mới, điện thoại, computeur , đủ các loại đồ chơi đắt tiền và các máy chơi games mặc dầu lương tháng chỉ vài chục đồng, không đủ hút thuốc lá.


Ông trưởng chi công an làm ăn càng ngày càng khá. Hằng ngày ông cho bộ hạ mang đến mỗi cửa hàng ăn uống, mỗi chỗ nhậu năm muơi gói đậu phụng da cá, năm mươi gói kẹo cao su, bắt buộc phải tiêu thụ hết. Chủ nhà hàng thấy khách đến thì đưa ra, khách không ăn thì bọn chiêu đãi viên ăn hết, hoặc bỏ túi và khách phải trả một số tiền rất đắt. Ngoài ra, ông còn biết bao mối lợi khác to lớn vô cùng. Năm tháng qua, bố thằng Trung đã trở thành một nhà tư sản.



Sau khi tắm sông và đi bắn chim, bọn thằng Phước về nhà thằng Trung để bơi hồ tắm và chơi games. Thằng Trung được bạn bè yêu thích vì nó có nhiều đồ chơi hiện đại cho dù nó là đứa học lười, học kém nhất trong lớp. Tuy học kém, hàng tháng nó vẫn được điểm cao, duợc cả bảng danh dự bởi vì ông hiệu trưởng vốn là đồng hương với bố thằng Trung. Chơi chán, cả bọn tụ lại dưới gốc dừa hóng mát. Bỗng con chó cât tiếng sủa mấy tiếng rồi chạy ào vào nhà. Cả bọn nhìn theo thì thấy con chó đuổi theo mấy con chuột cống thiệt bự. Cả bọn vội đuổi theo . Chúng nó la hét rầm trời và hào hứng mở cuộc săn chuột. Đứa cầm gậy, cầm chổi chặn các ngõ ngách trong nhà thằng Trung. Một con chuột nhảy qua chân thằng Trung rồi chui vào dưới gậm giường. Thằng Tư vội chui vào gầm giường xua đuổi. Hai con chuột nhảy vọt ra. Cả bọn reo hò. Chúng đập lung tung và tiếp tục la hét khiến cho mấy con chuột sợ hãi chạy quýnh quáng. Con chó sủa om sòm và sục sạo khắp nơi. Thằng Năm suýt đập trúng con chuột.


Thằng Sáu chạy tới dánh một gậy. Con chuột nằm lăn ra. Chuột kêu eng ech như heo kêu. Thằng Trung nhảy tới chụp trúng đuôi chuột, chuột quay lại cắn tay thằng Trung một miếng. Thằng Trung không chịu buông, lấy chân đè con chuột. Thằng Thành xông tới bắt con chuột trói lại. Cả bọn thắng lợi hoàn toàn, vui vẻ ca hát vang trời. Thằng Trung bèn đề nghị lập tòa án xử chuột. Cả bọn vui vẻ nhảy cà tửng.Thằng Trung đem chuột treo lên cây ổi cách nhà tắm chưa đầy một thước. Cả bọn vây xung quanh gốc cây. Thằng Trung được cả đám bầu làm chánh án. Thằng Trung sửa lại bộ tịch, bắt chước bố nó trong vai chánh án xử tử ông thiếu úy và mấy tên phản động, bước ra dõng dạc tuyên bố:
Thay mặt chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chánh án Lê Văn Trung tuyên bố xử tử phản động Đinh Văn Chuột đã phạm tội chống đối cách mạng.
Cả bọn ngồi dưới hô to: Xử tử, xử tử! Đả đảo Đinh Văn Chuột! Đả đảo Đinh Văn Chuột!


Thằng Thành em thằng Trung chạy vào nhà tắm rót một chai xăng nhỏ rưới vào mình chuột. Thằng Phước lấy bật lửa Trung quốc châm lửa. Lửa cháy rần rần bốc lên cao làm cháy dây cột chuột. Con chuột vùng chạy thoát, mang theo một dòng lửa đỏ rực. Cả bọn chạy theo. Con chuột cuống cuồng chạy vào nhà tắm, bỗng từ nhà tắm xăng bốc lên cháy ầm ầm và phát sanh những tiếng nổ rất lớn. Lửa đỏ bốc cao và tỏa rộng làm bay nhà tắm và đốt cháy cả bọn thằng Trung trong nháy mắt. Lửa cháy lên cao, từ nhà tắm cháy sang nhà bếp và nhà lớn. Khi xe chửa lửa đến thì căn nhà rộng rãi của thằng Trung đã hóa thành đống tro tàn, thêm vào đó xác bảy đứa trẻ, và xác của ngưòi mẹ già của ông Bính, nay 60 tuổi lại mù lòa không chạy thoát được.



Bố thằng Trung là trưởng chi công an, mẹ nó là trưởng chi thương nghiệp, hai người là cán bộ cao cấp của huyện nên được tiêu chuẩn xăng dầu rất cao, mỗi tháng hơn 100 lít xăng và khoảng 100 lít dầu hôi. Số xăng dầu thừa thải quá nhiều, mỗi tháng ông đem bán cho tụi con buôn xăng lẻ ngồi đầu đường cũng bộn tiền. Ông Bình vốn là người cẩn thận, ông đã đem mấy thùng xăng để trong nhà tắm, còn dầu hôi bỏ trong bếp nhưng thằng Thành khi lấy xăng đã quên đậy nắp cho nên con chuột mang lửa chạy vào đã đốt cháy cả gia sản ông. Nghe nói cuộc hỏa tai này đã làm cho ông cháy mất hơn mấy trăm ngàn đô la là số tiền tích trử trong bao năm làm ăn tại đất Sàigòn của hai vợ chồng ông. Nhưng đau đớn nhất là ông Bình đã mất hai đứa con và một mẹ già!


***

X. XUÂN NÀY KHÔNG VỀ

***
X. XUÂN NÀY KHÔNG VỀ

Chiều thứ bảy, đường phố Sài gòn đông đúc người qua lại. Con đường Sài gòn ra ngoại ô hơi vắng vì phần lớn cán bộ và nhân viên trong thành phố đã nghỉ cuối tuần, không phải bịt mặt mũi đi xe từ Sài gòn lên Thủ Đức, Biên Hòa làm việc. Khoảng ba giờ chiều, bỗng một đoàn xe gắn máy chạy từ Sài gòn về Thủ Đức vòng qua xa lộ trở về Sài gòn. Đoàn xe rât đông độ vài chục chiếc, chạy nhanh như bay khiến khách đi dường gồm người đi xe đạp và gắn máy sợ hãi phải ép vào bên đường. Đoàn này qua đi, lát sau lại có đoàn khác tiếp tục đuổi theo đoàn trước. Trên xe, gồm những thiếu niên khoảng 16, 18 tuổi. Tất cả cắm cúi cho xe chạy thật nhanh dường như không chú ý đến khách đi đường. Một lát sau có xe công an đuổi theo, nhưng họ đã đi xa hoặc biến mất rồi. Đằng sau họ, môt làn bụi dày bốc lên mỏng dần rồi tan biến vào buổi chiều ngoại ô. Mãy ông công an đậu xe lại bên đường một hồi rồi quay về Sài gòn.


Bê ở với bà ngoại. Bê không biết mặt má và ba của Bê. Bà ngoại nuôi Bê từ nhỏ,và bà không bao giờ nói đến ba má của Bê. Có lẽ Bê là đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ từ nhỏ. Có thể Bê là đứa con hoang, vô thừa nhận. Có thể má của Bê đang ở một phương trời nào đó và đã quên đứa con lạc loài của mình. Cũng có thể ngoại dã nhặt Bê ngoài đường đem về nuôi. Nhiều lần Bê hỏi ba má em là ai nhưng ngoại im lặng rất lâu rồi đáp: ' Tía má mày chết rồi!'' Trong nhà chỉ có hai bà cháu. Hai bà cháu ở trong một túp lều tranh tận Xóm Củi. Bà ngoại của Bê làm nghề bán trứng vịt tại chợ Xóm Củi. Bà bán hàng từ sáng đến chiều mới về. Buổi sáng, trước khi đi chợ, ngoại đã nấu sẵn cơm cá mang ra chợ ăn và để phần cơm cho Bê ăn sáng và ăn trưa. Chiều về ngoại nấu cơm canh tươm tất hơn để cho hai bà cháu cùng ăn. Bà cho Bê đến trường nhưng Bê bỏ học, theo bọn trẻ vô gia cư đi đá banh hay đi tắm sông. Chơi chán, cả đám tổ chức đánh lộn với đám trẻ bên Chợ Quán. Mãy tháng trước, ngoại ngât xỉu nên mây bà ngoài chợ chở bà vào nhà thương Chợ Quán. Lần đó, Bê vào bệnh viện ở với ngoại một tuần. Hai bà cháu cùng ăn phần ăn do nhà thương cung cấp, thiếu thì Bê chạy ra ngoài cổng bệnh viện mua bánh mì hay cơm cháo mà ăn thêm. Tối trải báo nằm dưới sàn nhà bệnh viện. Buổi chiều, Bê rảo chơi ngoài bệnh viện. Mãy đứa bé cùng tuổi với Bê, thấy Bê ở xa đến, tìm cách bắt nạt. Bê chống cự lại, đánh cho bọn chúng chạy dài. Hôm sau bọn chúng tăng viện, Bê thua phải rút vào bệnh viện cố thủ. Sau khi ra bệnh viện, Bê rủ bọn trẻ sang Chợ Quán tầm thù. Cả bọn đánh nhau mãi, trận thắng trận thua, không bên nào nhịn bên nào. Vì có lòng can đảm, Bê được bọn trẻ tôn làm anh Hai. Danh tiếng của Bê lẫy lừng, được anh Tám, một tay anh chị kết nạp Bê làm bộ hạ. Từ đó Bê theo anh Tám canh gác sòng bạc, hay giao hàng lậu. Từ đó Bê có tiền rủng rỉnh. Bê mua một chiếc xe đạp để đi chơi. Sau Bê mua một chiếc Honda cũ . Nhưng tính ăn chơi xa xỉ, được bao nhiêu tiền, Bê đem nướng vào sòng bài hay ăn nhậu cùng bạn bè. Bê chưa bao giờ biếu ngoại được món tiền nhỏ cho ngoại vui lòng. Cuộc đời vui vẻ cứ tiếp tục như thế thì ngày 30-4-75 xảy đến. Lúc bấy giờ Bê đã 16 tuổi. Bê chơi thân với mấy cậu con cán bộ ngoài bắc vào. Cả bọn rủ nhau đua xe gắn máy. Trong vài trận đua thân hữu, Bê đã tỏ ra xuât săc, được cả bọn giơi thiệu với các công tử ngoài quận Nhất, Sài gòn. Đây là những tay đua chuyên nghiệp đã nổi tiếng ngoài Hà Nội. Họ đã tổ chức đánh cá với nhau tới hàng chục cây vàng trong mỗi trận đua. Tay đua hạng nhất được giải thưởng năm hay muời cây vàng. Và đó là một quyến rũ đối với những thiếu niên thành phố say tốc độ.
Hàng ngày Bê luyện tập một mình. Cũng uốn éo, bay lượn đủ kiểu trình diễn mà bọn chúng thấy trên TV ngoại quốc.Hàng tuần, Bê theo bọn trẻ Xóm Củi luyện tập. Cuối tuần cả bọn ra Sài gòn tập dượt chung. Bọn trẻ ở Sai gòn trước đây đã từng làm mưa làm gió tại Hà Nội. Chúng là con các bộ trưởng, giám đốc, công an bắt chúng rồi cũng phải thả ra vì không muốn mất lòng cấp trên. Nay chúng vào Sài gòn cùng bố mẹ, và tiếp tục trò chơi hấp dẫn này. Không những là một trò chơi mà còn là một mối lợi. Hàng tháng chúng thu tiền cá độ cũng đuợc mỗi đứa vài cây vàng. Đây là một sòng bạc lưu động, nguời ngoài không ai biết người tổ chức là ai, ngoại trừ mấy đứa thân cận ban tổ chức.

Sài gòn cuối tuần, không khí ngoại ô tương đối yên tĩnh. Thỉnh thoảng mới có một vài chiếc xe đò , xe đạp hay xe gắn máy chạy trên xa lộ Thủ Đức. Bỗng từ Sài gòn, khói bụi bốc cao, tiếng xe gắn máy nổ ầm ầm và bóng dáng các tử thần xuất hiện trên xa lộ. Mọi người hốt hoảng dạt vào lề. Khi đoàn xe lướt qua, người ta nghe một tiếng va chạm rùng rợn và tiêng thét hãi hùng, và trong đám xe cộ, hai thân hình ngã xuống. Đoàn xe đua thản nhiên đi qua không dừng lại, và biến mất. Khách đi đường dừng lại, kêu xe xích lô mang hai người bị thương vào bệnh viện. Nghe đâu khi đưa họ vào bệnh viện hai người đã tăt thở. Hai người này là Lan và Minh là hai sinh viên trường Đại Học Nông Nghiệp Thủ Đức. Hàng ngày hai người đi Honda từ Sài gòn lên Thủ Đức học. Hai người yêu nhau và ước định sau khi ra trường sẽ làm lễ thành hôn. Hôm nay, xe Honda của Lan bị hỏng máy, Minh phải đến chở Lan đi học. Vì tuần tới là ngày thi, hai cô cậu sinh viên phải ở lại trường ôn tập. Khi ra về đến xa lộ thì đã 7 giờ chiều. Họ gặp tai nạn và vĩnh viễn đi vào hư không.

Ngoại rất bực mình vì suốt ngày Bê chỉ đi chơi và đua xe. It lâu sau, nhà nước cấm buôn bán cá thể. Các cửa hàng vàng, kim cưong, mỹ phẩm, các sạp vải bị đóng cửa, tài sản bị tịch thu, và chủ nhân bị tù về tội tư sản. Và nghề buôn thúng bán mẹt ngoài chợ cũng bị khó khăn. Bà ngoại của Bê cũng cùng chung số phận. Bà phải ở nhà, không được ra chợ buôn bán. Muốn buôn bán, phải đăng ký, nộp một số tiền lớn, và phải đưọc ủy ban duyệt xét và chứng nhận là gia dình thương binh liệt sĩ, gia dình có công với cách mạng, gia đình cán bộ. Tiền bạc và những tước vị như vậy thì bà không có cho nên bà phải ở nhà nhịn đói. Còn được bao nhiêu tiền bạc lấy ra ăn dần. Nếu hết tiền thì đi ăn xin. Bà chẳng lo cho bà mà chỉ lo cho Bê, song Bê quen thói rong chơi từ nhỏ, chẳng lo gì đến tương lai. Ngoại đã cho tiền Bê mua xe tốt để đi học nghề điện với hy vọng là sau một thời gian học, Bê có thể đi làm và nuôi thân. Sau này bà già yếu thì Bê có thể tự lập, bà không phải lo lắng cho nó. Thế mà nó đem tiền học phí đi nạp cho bọn đua xe, và suôt ngày đua xe, chẳng học gì cả. Bà đã la mắng nó, nó bỏ đi ít bữa lại trở về. Bà nghĩ rằng có lẽ nghề điện khó học, hoặc người ta hành hạ nó, mắng chửi nó cho nên nó bỏ học. Bà lại bỏ tiền ra cho nó theo ông Sáu vào hợp tác xã gỗ, học đóng bàn đóng ghế. Nhưng đuợc vài ba ngày, nó không chịu mùi gỗ, không muốn cầm cái búa, cái cưa, mà chỉ muốn bay lưọn trên xa lộ. Nó không thích làm thầy giáo, làm thư ký, làm công nhân mà chỉ thích làm anh hùng xa lộ. Nó tâm đắc hết sức với bọn trẻ Bắc Kỳ 75 nhất là việc đua xe. Hồi trươc nó đã học thói chửi thề, nay theo bọn Bắc kỳ 75, nó càng chửi thề, văng tục luôn miệng. Bà răn dạy nó, nó chửi thề rồi bỏ đi. Sau khi ngoại bị Nhà nước cấm buôn bán, nên ngày nào bà cũng có nhà, và phải thường xuyên đối diện với Bê và lũ bạn bè hư hỏng của nó. Bà đã bực mình vì nhà nước cấm bà buôn bán, nay lại bực mình về việc thằng Bê rong chơi, không học ăn học làm với người ta. Bà la mắng nó, nó nói: ''Ngoại dừng lo, tết này đời con sẽ thay đổi. Con sẽ không thèm ở căn nhà tồi tệ này nữa đâu.''
Thằng Bê mơ ước cao xa. Nó có tâm hồn bay bổng. Nó là con chim phượng hoàng bay lượn trên không trung, chứ không là con ngựa kéo xe, con bò kéo cày hoặc con gà ăn quẩn cối xay. Nó là tay đua hạng nhất trong thành phố. Không đứa trẻ nào lanh lợi, can trường và táo bạo như nó. Nó tính năm nay nó sẽ chiếm giải nhất trong dịp tết sắp tới. Không nhất thì nhì. Nghe thằng Bảy nói tiền cá độ lên đến mấy trăm cây vàng, và giải thưởng hạng nhât là hai mươi cây vàng, hạng nhì mười lăm cây và hạng ba là mười cây. Đó là một mục tiêu hấp dẫn. Vừa nghe nói là đã mê tơi! Nó càng ra sức tập luyện. Hể mở măt ra là nó đã xách xe đi cho đến tối mịt mới về. Bà ngoại rầy la, nó nói:
''Ngoại đừng lo. Thằng này không phải là đứa tầm thường. Rồi ngoại coi, con sẽ có rât nhiêu tiền. Con làm một buổi bằng thiên hạ làm cả đời. Ngoại yên chí, dừng lo lắng gì. Sau Têt là con không còn ở về căn nhà lụp xụp này nữa đâu!''
Không riêng Bê tính toán, mà rất nhiều người tính toán. Ban tổ chức hy vọng tết này sẽ thu khoảng trăm cây vàng tiền lời. Còn bọn đàn em, đứa nào cũng hy vọng thắng hạng nhât, nhì ba. Chúng lo ngại thằng Bê nhất. Nhóm thằng Tám có sáu thằng, và thằng Tám làm quân sư tuyên bố : ''Mạnh dùng sức, yếu dùng mưu.'' Còn thằng Bê độc lập, một mình một xe, không cần cấu kêt với thằng nào.
Ngày thứ bảy 26 tháng chạp đã đến. Cả bọn náo nức chờ đợi. Xe tập trung tại cầu Phan Thanh Giản, nghe hiệu lệnh ba phát súng là cả bọn nổ máy, xả ga. Xe chạy qua xa lộ Thủ Đức, đến Biên Hòa, qua rừng cao su. Xe thằng Bê dẫn đầu . Nöi đây vắng vẻ. Bọn thằng Tám bám sát thằng Bê. Trong lúc gay cấn thì đàng sau tụi nó, một chiếc xe du lịch màu xanh chạy tới. Xe bóp còi liên tục đòi vượt. Thằng Bê kiên trì giữ tốc độ và không nhường đường. Xe sau bóp còi liên tục. Thằng Bê cáu tiết xả ga thêm, và chặn đầu không cho xe du lịch vượt. Xe du lịch tăng tốc độ, chạy song song với xe của Bê. Hai xe chạy ngang nhau chẳng xe nào chịu nhường xe nào. Cuộc đua xe gắn máy trở thành cuộc đua xe du lịch và xe gắn máy. Không biết thằng Bê loạng quạng hay xe du lịch cố ý chèn ép, khiến xe du lịch đụng mạnh vào xe gắn máy của thằng Bê, khiến thằng Bê mất thăng bằng, té lăn nhào, gẫy cổ bể đầu mà chết. Cả bọn vẫn tiếp tục hướng về trước. Hai ba giờ sau, một chuyến xe Sài gòn, Vũng Tàu chạy qua, phát giác một tử thi giữa đường, và báo cho cảnh sát. Công việc của cảnh sát là lập bản báo cáo, tịch thu xe, và đưa xác vào nhà thương. Chuyến đó, phe thằng Tám đại thắng chiếm giải nhất và giải nhì.
Bà ngoại của Bê chết ngất khi nghe tin thằng Bê gặp tai nạn xe cộ. Có người xui bà đi kiện nhưng bà biết thân phận mình nhỏ nhoi, chẳng làm gì đuợc các công tử của các đại thần trong triều. Công an Xóm Củi và công an thành phố đến điều tra và bảo đó là một tai nạn giao thông bình thường, cháu bà lái xe quá tốc độ, bị xe tải đụng chêt rồi bỏ chạy. Hiện nay công an đang điều tra thủ phạm. Lúc nào tìm ra thủ phạm, họ sẽ tin cho bà hay. Bà vừa khóc vừa cám ơn họ.
Tết đó, bà ngoại ăn Tết một mình, thằng Bê không trở về căn nhà lụp xụp của bà nữa.