Showing posts with label DANIEL GRANDCLÉMENT * BẢO ĐẠI. Show all posts
Showing posts with label DANIEL GRANDCLÉMENT * BẢO ĐẠI. Show all posts

Tuesday, February 2, 2010

VUA BẢO ĐẠI 15

*

Chương 31

Bảo Đại, Paris, 1995
Cựu hoàng Bảo Đại đợi cho cánh cửa rộng mở mới bước ra hè phố. Tất cả đều yên lặng. Con phố ông ở thấp hơn đại lộ Tổng thống Wilson, như biệt lập với phần còn lại của thành phố. Quả đồi Chaillot che chắn cho nó, tạo cho nó một vẻ yên tĩnh tỉnh lẻ, như một ngõ cụt trong khu nhà ở được ông ưa thích. Chỉ cần vượt qua hai chục mét là lại nghe thấy tiếng xe cộ tấp nập đi tới công viên Trocadéro.
Ông bắt đầu đặt chân lên dốc để đi tới vườn hoa. Ông đưa tay mò mẫm nắm lấy cánh tay quận chúa Monique. Rất ít khi ông ra ngoài không có bà đi bên cạnh. Ông không thích liều lĩnh ra phố một mình.
Trông bà trẻ hơn, rắn chắc hơn. Bây giờ bà đã là vợ chính thức của ông sau lễ thành hôn ngày 18 tháng giêng năm 1983 tại quận 16, thủ đô Paris, sau một cuộc bàn bạc tay đôi kéo dài. Tên bà là Monique Baudot, một cô gái xinh đẹp trạc tuổi ba mươi, quê ở vùng Lorraine. Sau khi cưới bà tự xưng là quận chúa Monica mà chẳng qua một lễ đăng quang nào bởi triều đình phong kiến Việt Nam đã sụp đổ từ năm 1945 và chính bản thân ông Bảo Đại cũng đã bị Hội đồng hoàng tộc, năm 1955 dưới sức ép của Diệm, chính thức tước bỏ mọi tước hiệu của ông. Bà là một người bạn hay đúng hơn, như lời đàm tiếu của những kẻ không ưa bà, là hầu phòng, là quản gia kiêm thư ký cho ông.
Bà Monique kể lại rằng: khi đang là lãnh sự danh dự của nước Cộng hoà Zaire miền Trung Phi thì bà nghe nói về cựu Hoàng đế An Nam, đang sống độc thân trong cảnh túng bấn, gần như bị bỏ rơi...


Mối quan hệ của hai người, thoạt đầu là một cuộc cứu sinh. Cuộc cứu sinh thành công vì nhờ Monique, Bảo Đại tìm lại được một chút uy thế đã qua một chút quý phái và thanh thản bên ngoài đã gây nhiều ấn tượng cho các quân nhân và các nhà chính trị Pháp.
Cuộc hôn nhân giữa ông Bảo Đại và bà Monique không được dư luận chú ý. Không có những hàng tít lớn trên báo chí nhưng cộng đồng người Việt ở Pháp không tha thứ một cuộc hôn nhân không cân xứng như đôi đũa lệch đó. Về phần ông thì từ nay ông càng xa cách những thần dân cũ của mình. Cả con trai, con gái cũng thưa dần những cuộc đến thăm miễn cưỡng người cha ở căn hộ nhỏ hẹp số 29 đường Fresnel, quận 16, (Paris) dưới cặp mắt ghẻ lạnh của bà Monique.


Ông cựu hoàng có tuổi khoác tay bà vợ trẻ bước vào công viên. Lần nào cũng qua một cửa. Không ai nhận ra họ. Tuy nhiên ông vẫn giữ được một chút gì là trịnh trọng, gần như dáng vẻ quân vương trong bước đi, trong cách thở hít không khí. Trịnh trọng và thận trọng. Ông chỉ ra đây vào ngày đẹp trời, tránh những hôm nóng nực hay đông giá. Ông dạo bước trên khu đất vươn cao giữa kè sông Seine và lâu đài Chaillot. Nơi đây là không gian quen thuộc của ông, rộng chừng vài trăm mét vuông có dông trẻ con đến chơi đùa, trượt pa-tanh. Dáng điệu quý phái, oai vệ, ông chậm rãi đi những bước ngắn của người già.
Hai người sánh vai lững thững bước lên một lối đi tráng xi măng, qúanh co giữa thảm cỏ, theo các mô đất của quả đồi bao quanh công viên. Bỗng nhiên ông già dừng lại, lục trong túi nylon trắng lấy ra một gói bọc giấy dầu, thận trọng mở ra.


Con người lúc trẻ đã từng sục sạo trong rừng đêm để săn hổ, nay trở về già tẩn mẩn lấy thức ăn mềm cho mèo vườn ăn... Thì cũng là thuộc giống mèo cả. Những con mèo khiến ông thích thú, say mê nữa. Cả một gia đình mèo sống ở đây, không có chủ, nhưng được một số người đi dạo cho ăn và che chở. Ông đã viết bài đăng báo để bênh vực chúng. Tờ Figaro cũng đã dành vài dòng viết về sự kiện nầy: "Hoàng đế và những con mèo"... "Bảo Đại và các bạn ông trong công viên Trocadéro". Kể cũng vui và ngộ nghĩnh.
Ông thong thả chờ cho lũ mèo ăn uống no nê. Bao giờ cũng vậy. Ông nhẩn nha bước tới một chiếc ghế đặt trong các công viên ở Paris. Ông đợi, đăm đăm nhìn các con vật đang ăn. Còn quận chúa Monica thì sốt ruột chỉ lo ông trúng gió lạnh.


Lúc nầy ông đã sang tuổi tám mươi hai. Những cuộc dạo chơi quanh các con mèo là những dịp ra ngoài duy nhất của ông. Ông ít xuất hiện trước đám đông, không tham dự. các buổi họp ở Câu lạc bộ Pháp quốc hải ngoại chỉ cách nơi ông ở vài trăm mét, nhưng ông vẫn trung thành chơi bài bridge ở đó vào các ngày thứ tư trong tuần. Sau cuốn hồi ký Con rồng An Nam mang tên ông là tác giả, ông bị nhiều tai tiếng vì nội dung chứa đựng nhiều bịa đặt, văn phong lủng củng và cấu trúc chắp vá, manh mún do có nhiều người viết - cả Tây lẫn ta - trong số đó có tướng Jean Julien Fonde, nguyên là thiếu tá trưởng đoàn Pháp trong Ban Liên Kiểm năm 1946 tại Hà Nội(1), nhất là sau đó ông lại thua kiện với ông nầy về quyền tác giả. Sau nầy, ông cùng ký tên Hoàng đế Bảo Đại đồng tác giả với phóng viên nhiếp ảnh Philippe Lafond trong cuốn "Huế, la cité interdite" (Tử Cấm thành Huế) do Mengès xuất bản năm 1995.


Thực ra ông chỉ viết phần giới thiệu ngắn về Huế và chú thích các ảnh chụp rất đạt về các công trình kiến trúc trong Đại nội. Ít lâu sau đó, ông còn trả lời phỏng vấn cho nhà báo kiêm điện ảnh Fédéric Mitterand trong một cuốn phim tài liệu ngắn về Việt Nam, được đánh giá là chân thực. Có lẽ sự nghiệp "trước tác" của ông chỉ có thế. Có người kể ông đã nhận lời nói chuyện về Việt Nam dưới thời quân chủ và công cuộc Pháp ngữ (Francophnie) ở Việt Nam trước một hội nghị về Pháp ngữ ở thị trấn Payrac hạt Lot vào ngày 31 tháng 8 năm 1997, nhằm hưởng ứng Hội nghị thượng đỉnh về Pháp ngữ họp năm ấy ở Hà Nội, nhưng ông đã ngã bệnh và mất trước đó một tháng (31 tháng 7 năm 1997)(2).
Ông không giàu, đúng hơn là không còn giàu. May thay chính phủ Pháp trở lại trợ cấp cho ông chắc là có sự can thiệp của bè bạn. Thời Giscard d Estaing làm Tổng thống, ông chẳng được gì cả, nhưng khi cánh tả lên nắm chính quyền thì hàng tháng ông được trợ cấp tám nghìn franc. Đến thời Jacques Chirac thì được nâng lên hai mươi nghìn franc. Ngoài ra ông chẳng có gì cả. Vĩnh biệt chuyện săn bắn ở Alsace, vĩnh biệt lâu đài Thorenc, hai con thuyền y-at, những chiếc xe Ferrari Bentley sang trọng, vĩnh biệt những ngôi nhà ở Florence và những nơi khác. Đến mức trong những năm 70, ông phải ăn trưa bằng xúc xích giá mười franc một suất trong những quán ăn nhỏ trong khu phố Huclette vì ông thấy ở đó rẻ hơn. Suýt nữa thì người chủ nhà đuổi ông ra khỏi nhà vì không trả được tiền thuê nhà. Nhờ tuổi tác mà ông thoát khỏi cảnh ấy.


Có một lần ông bị cảnh sát tạm giữ vì thấy ông đang ở nhà một gái điếm tên là Clément làm ở nhà hàng Le Moulin Rouge (Cối xay đỏ) trong khu ăn chơi ở Paris dính dáng đến buôn lậu. Nhờ Mộng Điệp, người tình cũ của ông, can thiệp, ông được thả trong tình trạng ốm yếu, mệt mỏi vì uống nhiều thuốc ngủ. Ông lưu lại nhà bà "thứ phi" vài ngày rồi lại đi. Người ta kể lại đó là thời kỳ tinh thần ông suy sụp nhất sau khi rời khỏi Alsace bỏ lại nhà cửa đồ đạc cho cô vợ "hờ" người Pháp tên là Vicky sau mấy năm chung sống và sinh hạ được một con gái đặt tên là Phương Từ.


Tài sản của ông, các tài sản đồ sộ, đã nằm lại trên các bàn đỏ đen, trong các câu lạc bộ, các sòng bạc. Trong nhiều năm ông cựu hoàng đã là ngôi sao của Palm Beach hay của câu lạc bộ Riviera sang trọng. Một phần tài sản nằm trong tay những người đàn bà đã đẩy ông vào cảnh nghèo khổ. Một phần quan trọng nữa nằm trong các công ty hàng không làm ăn thất bát. Đây là một đam mê của ông. Ông đã dễ dàng tin vào những dự án của các bạn phi công. Rất nhiều lần, mồi lần ít một, cộng lại thành nhiều tiền đã ra đi.
Nay ông hoàn toàn lui về cuộc sống ẩn dật. Trong những năm 70 ông đã có ý định xin về nước nhưng chính quyền Nam Việt Nam thời đó khước từ nên phải bỏ ý định ấy. Sau nầy vào lúc quân đội của tướng Giáp mở tung các cánh cửa vào Sài Gòn, ông đã xin đứng ra làm trung gian hoà giải cuối cùng. Từ sau chiến thắng Xuân 1975 hai miền thống nhất thì tinh thần quân chủ cũng cáo chung. Tuy nhiên một sự kiện là tro xương của Duy Tân, ông vua trẻ năm 1916 đã dám nổi dậy chống nền bảo hộ của nước Pháp thì lại được chính phủ Việt Nam xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện đưa về chôn cất trong nước.


Ông Bảo Đại không từ bỏ những chuyến đi xa. Cách đây mấy năm, ông đã sang Mỹ thăm con gái là Phương Minh, kết quả của mối tình với bà Phi Ánh khi còn ở Hà Nội năm 1946, sau nầy đã theo ông lên Đà Lạt khi ông đã có bà "thứ phi" Mộng Điệp ở bên cạnh. Chuyến viếng thăm gây được ít nhiều tiếng vang trong cộng đồng người Việt ở đây. Ông còn dự định phải phát biểu tại Quốc hội Mỹ ở Washington. Nhưng một cử chỉ vụng về, thiếu tôn trọng đối với quận chúa Monique, vừa mới kết hôn với ông, khiến ông phải rút ngắn chuyến viếng thăm và huỷ bỏ chương trình phát biểu tại Quốc hội Mỹ.
Cho mèo ăn xong, Bảo Đại tiếp tục đi dạo. Ông trở lại con đường cũ dẫn đến khu nhà của thuỷ cung Trocadéro, được cải dạng để dùng vào việc khác từ chục năm nay. Những bức tường nứt nẻ, những đống đá, nơi đó người ta cấm trẻ con không được chơi trò đi trốn sợ xảy ra tai nạn. Một bọn trẻ xuất hiện đột ngột, từ bãi trước chạy đến, một đứa đâm sầm vào ông già vừa bỏ chạy vừa nói iời xin lỗi. Nó không bao giờ biết nó vừa xô đẩy ông Hoàng đế cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, một người mà hàng triệu người dân Việt trước đây không lâu coi như một thánh nhân.


Bước vào tuổi già người ta hay nghĩ về quá khứ. Chắc ông không thoát khỏi quy luật ấy. Cuộc sống đầy thăng trầm trong một thế giới nhiều biến động của thế kỷ XX, ba lần thay thầy đổi chủ, bấy nhiêu lần phản thầy và bị công kích và lên án nơi chính giới và công luận ở Pháp, nơi đã nuôi dưỡng ông để trở về chấp chính cũng lạnh nhạt và bỏ rơi ông, đến vợ, con, và cả người tình và biết bao người chịu ân sủng của ông nay cũng xa lánh, đã làm ông day dứt không yên.
Khi còn trẻ lúc trị vì ở Huế, ông đã nghe lời mẹ là bà thái hậu Từ Cung, quy y Phật giáo, nay về già, lưu lạc xứ người, ông lại nghe bà vợ trẻ đến nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot, quận 16, Paris, làm lễ rửa tội và quy y Công giáo năm 1988. Một buổi chiều cuối tháng 8 năm 1996, trong lúc ông tha thẩn ngồi một mình trên ghế đá công viên Trocadéro, một người Việt Nam dạo chơi qua đấy tình cờ nhận ra ông, đừng lại hỏi chuyện. Trước khi chia tay, ông than thở: Hiện nay tôi chẳng còn gì ông ạ. Tôi sống cô đơn mặc dù có bà Monica chăm sóc chu đáo. Bạn bè, con cái xa lánh. Trả lời câu hỏi: ông có ý định muốn về Việt Nam thăm lại mồ mả tổ tiên không? Ông bùi ngùi đáp chậm rãi: "Tôi không bao giờ quên Huế và công lao của cha ông nhưng tôi vẫn còn mối hận trong lòng (ông dùng tiếng Pháp rancune)". Ông không nói gì thêm nữa. Không hiểu ông định ám chỉ ai khi nói lên chữ rancune? Mối hận đối với chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh và báo chí ở chiến khu đã nghiêm khắc lên án ông là phản quốc và toà án quân sự Liên khu III đã tuyên án tử hình vắng mặt đối với ông năm 1949, hay đối với chính quyền Ngô Đình Diệm, người được ông che chở, đã lật lọng một cách hèn hạ, trâng tráo phản bội lời thề trung thành với ông, phế bỏ ông, thông qua một cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu và gian lận tịch biên tài sản, nhục mạ chửi rủa ông cay độc hơn báo chí kháng chiến năm 1949, lại còn giật dây hội đồng hoàng tộc truất bỏ cương vị Quốc trựởng và mọi tước hiệu của ông?


Người đời nói ông cũng là con người thông minh, suốt đời sống xa dân nhưng ít nhiều cũng hiểu được chuyện đời. Sang Pháp du học từ lúc 7 tuổi, được ông bà Charles, nguyên khâm sứ Trung Kỳ trông nom rèn cặp được học các thầy giỏi của các trường nổi tiếng ở Paris như trường Henri IV, Condorcet, đỗ tú tài loại ưu, được vào học trường Sciences PO (Đại học Khoa học chính trị) danh tiếng, lại được cử nhân Hán học Lê Nhữ Lâm do Triều đình Huế cử sang dạy thêm chữ Hán. Phải cái ham chơi, mê gái và được nhiều gái mê, ham thích nhảy đầm, chuộng thể thao: quần vợt, đánh "gôn", cưỡi ngựa, câu cá, săn bắn, thích phóng xe ôtô và cả lái máy bay nhào lộn, và cuối cùng là giỏi bài bạc. Những tật xấu nầy đâu phải chỉ riêng ông mới có. Các vị đế vương trên thế giới nầy, Âu cũng như Á, thời nay cũng như thời xưa không hiếm người như ông.
Ông không tham quyền cố vị, vì biết mình chẳng có quyền lực gì mà chỉ muốn làm vua để được sống như vua ăn tiêu hào phóng, không phải chịu trách nhiệm gì với quốc dân, như vua ở các nước quân chủ lập hiến như Anh, Thuỵ Điển, Nhật Bản, Thái Lan... Đó là chính thể ông hằng mơ ước nhưng suốt đời ông không thực hiện được. Khi mới về nước cầm quyền bính ở tuổi 19, ông đã biết "ngẫu hứng" trả lời khi có người hỏi:
- Ngài dự định làm gì khi trở về chấp chính?
- Tôi chẳng làm gì cả!
- ??
- Vì có việc đâu mà làm. Mọi việc "người ta" làm hết!
Ông cũng biết kết thúc một cách khôn ngoan và êm đẹp chế độ vua quan phong kiến đã tồn tại hàng ngàn năm trong lịch sử Việt Nam và bị nhân dân căm ghét.


Câu nói để đời, được dư luận trong và ngoài nước hoan nghênh - cho dù được người khác viết sẵn - Thà làm dân một nuớc tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ - và việc chấp nhận thoái vị đã giúp ông bảo toàn mạng sống, mà không cần phải dựa vào sự can thiệp của quân Nhật ở Huế theo chúng đề nghị, để tránh một cuộc đổ máu vô ích. Vai trò cố vấn chính phủ cách mạng, dù chỉ là tượng trưng, đã tô đậm thêm hình ảnh đại đoàn kết dân tộc. Không đủ bản lĩnh tiếp bước con đường nhân dân và cách mạng đã mở ra, ông cam tâm bán mình cho quỷ dữ, nhận làm con bài trong giải pháp Bảo Đại để che lấp tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa. Ông để phần lớn thời gian làm Quốc trưởng vào cuộc sống ẩn mình trong thú vui săn bắn ở Buôn Ma Thuột và mê mải trong các sòng bạc ở Cannes. Nghị lực làm việc của ông thời gian nầy dành vào việc ăn chia lợi nhuận với Bảy Viễn kinh doanh Đại Thế giới ở Chợ Lớn, mua sắm ôtô đời mới, tậu biệt thự sang trọng, còn mọi việc "quốc gia" chỉ là ký các đạo dụ, các sắc lệnh, các thông điệp, đọc các bài diễn văn có người khác làm sẵn. Ông bỏ mặc lũ cận thần tha hồ đục nước béo cò, mua quan bán tước thanh toán lẫn nhau. Quan thầy chán ngán không mấy tin ông. Tên tuổi ông gắn với thất bại của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954). Lịch sử đã chuyển giai đoạn, Việt Nam trở thành tiêu điểm của cuộc chiến quyết liệt chống cộng ở Đông Nam châu Á.
Thấy ông không đủ sức đảm đương nhiệm vụ mới, cố nhiên chủ mới phải tìm tay sai mới. Chính ý định thay ngựa giữa dòng của các thế lực phản động nước ngoài đứng đằng sau hành động phản trắc của Ngô Đình Diệm, đối thủ chính trị của ông chứ chưa phải là sự trừng phạt nghiêm khắc của nhân dân đã đánh đòn chí mạng chôn vùi toàn bộ sự nghiệp chính trị của ông suốt đời làm công cụ cho các thế lực ngoại xâm.
*** Cũng vào giờ nầy, ở bên kia của thành phố Paris, Bảo Long đi ăn trưa. Dáng người thấp bé hơn bố, cử chỉ thanh lịch, ăn mặc chải chuốt pha chút phóng túng đáng ngạc nhiên của một nhân viên ngân hàng. Ông làm việc trong một chi nhánh ngân hàng có hội sở giao dịch khá to và đẹp trên đại lộ Opéra.
Ông là người có tài dù sao thì cũng là con người dày dạn biết làm cho tiền của mẹ ông sinh sôi. Ông phụ trách công việc đầu tư tiền của khách hàng ra nước ngoài, đem lại lợi ích cho họ.
Bước qua ngưỡng cửa, như mọi ngày, ông ngập ngừng giây lát như bị choáng ngợp trước ánh mặt trời, ông đi ngược đại lộ, dừng lại trước các tủ kính cửa hàng, rồi lại tiếp tục những bước chân nhẹ nhàng, đều đặn và uyển chuyển.
Đến giờ ăn trưa, phố xá đầy những nhân viên công sở muốn thưởng thức cảnh đẹp ngoài trời, ngồi lỳ ở ngoài thềm tiệm cà phê. Bảo Long dừng chân thận trọng sang đường đi trở lại vài bước. Cuối cùng ông cũng dừng lại trước một quầy hàng có mái che do dự rồi bước vào mua một bánh mì kẹp thịt để ăn trưa như tất cả mọi người.
Hoàn toàn đúng như vậy, nếu không có ánh nhìn đăm đăm, nửa thân trên thẳng cứng một cách gần như quý tộc biểu lộ một quá khứ khác thường, độc đáo. Trái với cha ông, ông giàu có. Từ văn phòng ngân hàng, ông quản lý tài sản thừa kế của mẹ, quan tâm đến việc sinh lợi, giữ được đôi chút ổn định sau bao nhiêu bão tố.
Ông sống trong một căn hộ đẹp ở đường Marais. Chưa bao giờ lập gia đình, không con cái. Luôn luôn day dứt vì cuộc sống lưu vong. Cuộc sống nhiều tai tiếng của bố, suốt từ thời trị vì đến lúc sau nầy thân bại danh liệt lúc về già ở nước ngoài, lại còn tranh chấp kiện tụng giữa hai cha con chia nhau báu vật trong đó có hai quốc bảo là ấn và kiếm nhà Nguyễn xưa(1) khiến tâm trạng ông lúc nào cũng u uất, buồn phiền.
Quá khứ hiện về qua những dự định mờ nhạt tìm cách trở về nước. Trong những tháng đầu năm 1975, khi Nam Việt Nam chờ đợi cuộc tổng công kích cuối cùng thì một sĩ quan nổi tiếng trong trận Alger trong cuộc chiến tranh Algérie là đại tá Trinquer cũng đã định mở cuộc vận động ủng hộ ông trở về nước, nhưng không thành.


***

Lý Lệ Hà, ngườỉ tình nổi tiếng một thời của Bảo Đại, người đã dốc hết tiền tiết kiệm để ông chi tiêu ở Hongkong, hiện sống ở xa, tại một làng ngoại thành của thủ đô. Nàng sống trong một khu quân nhân và ở tuổi tám mươi mốt vẫn đam mê chuyện tranh cử.
Người chồng Pháp của bà làm chính trị, đang nhăm nhe một chân trong ê-kíp lãnh đạo thành phố. Bà chưa gặp lại Cựu hoàng từ khi bà đến Paris cách đây ba mươi năm. Nhưng khi nói đến ông, bà vẫn tỏ lòng tôn kính, một điều "Ngài Ngự" hai điều "Ngài Ngự". Lối nói ấy gợi lên một kỷ niệm. Còn "thứ phi" Mộng Điệp mà vai trò gần như Hoàng hậu ở Buôn Ma Thuột, bà sống trong một căn hộ hai buồng gần quảng trường Nation, quận 12 ở Paris, và bà Nguyễn Tiến Lãng, cũng như chồng, đã đi theo bà Nam Phương đến cùng. Và còn nhiều người khác, bà con thân thuộc đến hàng ngàn người, trong hoàng tộc đã trải qua những bi kịch như nhau...


Khi các thế lực phương Tây bị quét sạch vĩnh viễn khỏi Việt Nam thì hầu hết những họ hàng xa gần với hoàng tộc, những diễn viên cuối cùng trong kịch bản về đế chế An Nam còn sống đều di tản ra nước ngoài trong những năm năm mươi hay sau đó. Chỉ một số ít đã ở lại với chế độ mới. Có một số ngoại lệ, trong đó có bà Hoàng Thái hậu Từ Cung mất năm 1980, đám tang được chính quyền thành phố Huế giúp đỡ tổ chức với đầy đủ lễ nghi theo tục lệ Phật giáo. Phần dông họ đều đã gần đất xa trời. Họ sống lặng lẽ, bị bỏ quên, chờ đợi sự may rủi của lịch sử, nhưng không hy vọng. Từ vài năm nay trước công cuộc đổi mới đang mở cửa cho đất nước lâu đời của họ, tất cả đều chăm chú theo dõi sức khỏe ngày một tàn tạ của cựu hoàng.

Chú thích: (1) Tướng hồi hưu Jean Julien Fonde, năm 1946 là thiếu tá trưởng phái đoàn Pháp trong Ban Liên Kiểm (Commission de Contrôle et de Liaison). Ban nầy có nhiệm vụ liên lạc giữa hai quân đội Việt - Pháp và kiểm soát việc thi hành hiệp định 6 tháng 3 năm 1946 về mặt quân sự. (2) Nguyễn Đắc Xuân, Hỏi chuyện tình bà "thứ phi" Bùi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại, đăng trên báo Kiến thức ngày nay số 527, ngày 1 tháng 4 năm 2005 (B.T.) (3) Đó là chiếc ấn bằng vàng và kiếm có chuỗi nạm ngọc được Hoàng đế Bảo Đại trao cho Trưởng phái đoàn Chính phủ lâm thời Trần Huy Liệu trong lễ thoái vị ngày 30 tháng 8 năm 1945 ở Huế. Khi chiếm lại Hà Nội, Pháp tìm lại được hai báu vật nầy không dám giữ đã làm lễ trao lại cho hoàng gia tại Buôn Ma Thuột. Lúc nầy Bảo Đại vẫn ở Pháp cũng chẳng mấy quan tâm đến việc nầy. Năm 1953, bà Bùi Mộng Điệp được Bảo Đại giao nhiệm vụ mang hai báu vật đó sang Pháp trao lại cho bà Nam Phương. Khi về Corrèze ở, bà Nam Phương đã đưa cho Bảo Long giữ. Sau nầy Bảo Đại kiện đòi lại được ấn còn kiếm do Bảo Long giữ. (Theo lời kể của bà Bùi Mộng Điệp cho nhà báo Nguyễn Đắc Xuân (xem bài Hỏi chuyện tình bà "thứ phi" Bùi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại đăng trên báo Kiến thức ngày nay số 530 ngày 10 tháng 6 năm 2005 - B.T.).

*

Chương 32

Trời mưa. Mưa gió mùa, nóng và nặng hạt làm ướt những khách bộ hành lẻ loi. Nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot, 35 Đại lộ Marceau gần quảng trường Étoile (Ngôi sao), quận 16, thủ đô Paris, xem ra quá lớn cho buổi lễ tang như thế nầy. Vào ngày 6 tháng 8 năm 1997, cựu hoàng Bảo Đại đã ra đi vào cõi vĩnh hằng được năm ngày rồi. Ông mất vì ứ nước màng não, xuất huyết nội tạng thận và ung thư tuỵ tại bệnh viện quân đội Val-de-Grâce. Mấy anh nhà báo đi đi lại lại trong khoảnh sân rộng trước cửa nhà thờ. Lúc đầu họ chưa được phép vào trong gian giữa nhà thờ. Bà hoàng Monique - hay còn gọi là Hoàng hậu Thái Phương - Hoàng hậu Phương Tây, tước hiệu tự đặt của bà goá Bảo Đại - lúc đầu còn cấm đám nhà báo vào. Sau đó lệnh cấm đã được hoãn thi hành, và khoảng một chục đại diện các hãng thông tấn, hai nhà quay phim truyền hình đã được phép đến gần linh cữu. Trong lúc đợi giờ cử hành tang lễ, cha xứ nói chuyện với một cựu quân nhân ngực đeo đầy huân chương. Sự có mặt của người như của hàng chục đại biểu cho một tổ chức hùng mạnh, đem lại sự ngạc nhiên cho mọi người có mặt trong buổi sáng hôm ấy. Cuối đời, ông Bảo Đại thỉnh thoảng còn ăn tối với mấy cựu quân nhân Pháp đã chiến đấu ở Đông Dương. Có lẽ họ tâm đầu ý hợp lắm. Cho nên theo di chúc, một trong số nầy đã được chọn để đọc bài điếu.


Ông vua cuối cùng của triều Nguyễn đã quy y công giáo và làm lễ rửa tội tại nhà thờ nầy năm 1988. Ông đã mang một tên mới theo lệ công giáo là Jean-Robert.
Chính Giáo hội đã dùng tên nầy mỗi khi nói về ông, về cuộc đời và về đức tin dù đã muộn của ông. Ông Bảo Đại thường xuyên đến nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot để cầu nguyện trước tượng Chúa. Ông tham dự vào các sinh hoạt của Nhà Thờ, đã lên tận quảng trường Champs - Elysées, tay vác thánh giá nặng bằng gỗ cùng với mấy bạn đồng hương khác của ông. Chính ông, con người đa nghi và lạnh lùng đã đến rạp đầu trước Đức mẹ Đồng trinh, như trước đây các thần dân đã cúi rạp mình trước ngai vàng của ông. Cha chánh xứ kể rằng từ năm 1984, ông đã viết thư cho Giáo hoàng Pie XI để giải thích vai trò mà ông muốn đóng ở châu Á. Và hôm nay một Giáo hoàng khác, Jean Paul II đã gửi điện chia buồn.


Phủ Tổng thống Pháp đã cử một đại diện đến, cũng như ông thị trưởng Paris cũng chỉ cử người thay mặt đến dự. Toàn bộ phe cánh Bảo Đại đều có mặt: các cựu quân nhân, những người đứng đầu giáo phái, cựu bộ trưởng, đại diện cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ. Cử toạ tỏ ra ngạc nhiên về tước vị Hoàng hậu mà bà Monique tự phong, thỉnh thoảng còn cười mỉm. Một thông cáo của Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố tại Hà Nội, đã nhắc lại rằng: vị Hoàng đế ham chơi đã vất bỏ cành ô-liu của chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra. Có lẽ đó là cơ hội duy nhất trong lịch sử để có thể có một cử chỉ độ lượng như thế. Tiếc rằng ông ta chỉ đáp lại một cách tích cực thái độ thiện chí ấy trong một thời gian ngắn.


Tuy nhiên một chiếc xe của Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp đã đem đến một vòng hoa trắng, trên tấm băng tang có ghi dòng chữ bằng tiếng Việt: "Mặt trận Tổ quốc kính viếng".
Lễ tang đã diễn ra tốt đẹp theo đúng nghi thức công giáo với bài Tụng Chúa của Đức mẹ theo yêu cầu của người quá cố mấy tiếng trước khi nhắm mắt. Một phần cử toạ cảm thấy ngượng nghịu khi số người Việt Nam có mặt quá ít. Không một chút gì gợi lại hình ảnh những đám đông thần dân Huế xưa kia với sự ngưỡng mộ đối với con người đang nằm ở giữa lối đi trong nhà thờ hôm nay. Cha xứ không một lời nào nói đến gia đình người quá cố. Người châu Âu có mặt trong gian chính lại đông hơn người châu Á. Hình như có một cú điện thoại cảnh báo rằng những thành viên còn sót lại của triều đình có thể sẽ không được hoan nghênh khi đến dự lễ tang. Đa số, do đó đã lựa chọn như từ 40 năm nay một thái độ kín đáo. Phu nhân người quá cố ngồi riêng một chỗ, xa những ghế dành cho gia đình có tang, ngang hàng với vị đại diện Tổng thống Pháp. Lời phát biểu của cha xứ chính là nhằm vào bà ta. Còn Bảo Long, người đã được tấn phong kế vị ngai vàng từ năm 1936 đứng ở bên linh cữu.

Nhưng khi tang lễ kết thúc, trong lúc tiếng đàn ống lớn của nhà thờ vang lên, ông không đi theo cùng đoàn tang như truyền thống đòi hỏi, mà chỉ có "Hoàng hậu Thái Phương" đi sau linh cữu. Trong nhà thờ người Việt Nam ít ỏi lặng lẽ như nín thở chờ một cử chỉ, một dấu hiệu tỏ ra đế chế An Nam không hoàn toàn mất đi, mặc dù các cuộc chiến tranh đã lùi xa về quá khứ và sự im lặng đã kéo dài bốn mươi năm qua rồi, một ông Nguyễn có thể nhóm lại ngọn đuốc. Nhưng Bảo Long, gần như không muốn mọi người nhìn thấy, kín đáo bước ra khỏi nhà thờ bằng một cửa ngách. Cộng đồng người ở Paris không biết gì mấy về một ông hoàng bí ẩn, giữ kẽ. Con người đã không thay đổi gì kể từ khi rời khỏi đơn vị thiết giáp của Quân đội lê dương Pháp.
Đám đông từ từ ra khỏi nhà thờ và lặng lẽ chia tay, mỗi người mỗi ngả. Họ chăm chú lắng nghe vài tin đồn đâu đó có thể đem lại hy vọng rằng trời xanh không nghiệt ngã và có lẽ một ngày kia những chiếc cổng đồ sộ của Đại Nội Huế sẽ lại mở cửa đón Hoàng đế.

T.P Hồ Chí Minh, tháng 8-1994 Paris, tháng 8-1997


*

33

Vua Bảo Đại

Tư liệu

1. NHỮNG TƯ LIỆU CHỦ YẾU ĐÃ THAM KHẢO CAOM - Trung tâm Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại Aix en Provence.
SHAT - Phòng Lịch sử lục quân Vincennes.
Lưu trữ bộ Ngoại giao.
Lưu trữ thành phố Hà Nội.
Lưu trữ thành phố Cannes.
Lưu trữ quốc gia Fontainebleau.
2. THƯ MỤC Bảo Đại, Le dragon d Annam - Con rồng Annam. Plon, 1980.
Lucien Bodard, La guerre d Indochine - Chiến tranh Đông Dương. Gallimard, 1973.
Tập thể tác giả: Leclerc et l Indochine 1945-1947 - Leclerc và Đông Dương 1945-1947. Quand se noua le destin d un emprie - Khi nào kết thúc vận mệnh một đế quốc Albin Michel, 1992.
David Gilbert, Chroniques secrètes d Indochine - Tin tức bí mật vềĐông Dương. L Harmanttan, 1994.
Devillers Philippe, Fiste Pierre, Lê Thành Khôi, L Asie du Sud-Est - Đông Nam Á. Sirey, 1971.
Devillers Philippe, Histoire du Vietnam de 1940 à 1942 - Lịch sử Việt Nam từ 1940 đến 1942, Le Seuil, 1952.
Durand Maurice, Huard Pierre, Connaisance du Vietnam - Tìm hiểu Việt Nam, imprimerie nationale, Ecole française d Extrême-Orient, Hanoi, 1954 Feray Pierre Richard, Le Vietnam - Nước Việt Nam, PUF, 1979.
Franchini Philippe, Les guerres d Indochine - Những cuộc chiến tranh Đông Dương, Pygmalion, 1988.
Gaultier Marcel, L étrange aventure de Ham Nghi - Những cuộc phiêu lưu kỳ lạ của uua Hàm Nghi, La Nef de Paris édition.
Gras Yves, Histoire de la guerre d Indochine - Lịch sử chiến tranh Đông Dương, Denoêl, 1992.
Isoart Paul, L Indochine française, PUF, 1982.
Meuleau Marc, Des pionniers en Extrême-Orient: Histoire de la Banque de l Indochine - Về những người đi tiên phong ở Viễn Đông: Lịch sử ngân hàng ĐôngDương, 1875-1975, Fayard, 1990.
Perrin Elula, Mousson de femmes - Gió mùa cho đàn bà, Ramsay, 1985.
Ruscio Alain, La guerre française d Indochine - Cuộc chiến tranh của Pháp ởĐông Dương, Complexe, 1992.
Nguyễn Đắc Xuân, Histoires d amour des dames dans le palais des Nguyễn - Chuyện tình của các bà trong cung nhà Nguyễn, Thế giới, 1994.
Nguyễn Tiến Lãng. Les chemins de la révolte - Đường cách mạng, Y Việt xuất bản.
Phạm Khắc Hòe, Kế chuyện vua quan nhà Nguyễn, Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế 1991 và Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987. Có gì lạ trong cung nhà Nguyễn. Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế 1991.
HẾT


*

VUA BẢO ĐẠI 14

*

Chương 29

Sau hiệp định Genève tất cả dường như đã trượt qua tay Bảo Đại. Sự chia cắt Việt Nam ở vĩ tuyến 17 trở thành hiện thực. Thủ tướng Ngô Đình Diệm vừa được ông bổ nhiệm, không tuân lệnh ông, gạt bỏ ông, xem ông như một phần tử không đáng kể.
Hiệp định Genève vừa mới ký kết được một tháng sau cựu hoàng nghĩ đến trở lại Sài Gòn hay Đà Lạt, hai nơi nầy nằm trong vùng "tự do" do Việt Minh trao lại. Ông muốn lập lại trật tự, khẳng định đường lối chính trị của ông, nhanh chóng ngăn chặn cái rất giống như một âm mưu.
Cựu hoàng Bảo Đại, như suốt thời gian đất nước trải qua các cuộc khủng hoảng suốt tám năm qua, vẫn ở Cannes, trong tư dinh của ông. Một dinh thự hơi hoang vắng kể từ khi ông không còn được may mắn về chính trị nữa.
Cuộc chiến tranh bẩn thỉu ở châu Á đã kết thúc. Một cuộc chiến tranh khác bắt đầu, gần nước Pháp hơn, ở phía bên kia Địa Trung hải, ngày càng hiện diện rõ hơn trong tâm trí người Pháp, vì có sự tham gia của một lứa quân dịch. Thế nhưng thành phố Cannes chưa bao giờ lại vui như thế. Thiên hạ đổ đến các bãi tắm ở Croisette hay La Napoule.
Ngày 23 tháng 8 năm 1955, cơ quan an ninh phân tích tình hình lần cuối cùng trước ngày ông có thể trở về. Báo cáo viết: "Lần nầy không có vấn đề nghi thức đón tiếp long trọng. Đây là cơ hội cuối cùng của cựu hoàng". Khi tham khảo ý kiến các nơi, có người đặt thẳng vấn đề: "Tại sao Quốc trưởng không phản ứng gì trước thái độ của Pháp tại hội nghị Genève. Người Pháp không thèm hỏi ý kiến phái đoàn Việt Nam". Về phía người dân thường, theo kết luận của tất cả nhân viên mật vụ, họ hoàn toàn thờ ơ trước sự đi đi về về của Bảo Đại". Tệ hơn nữa, một số người nhấn mạnh "Uy tín của ông, sau mấy năm trị vì, ngày càng sa sút, đánh dấu bằng hàng chuỗi thất bại dẫn đến hội nghị Genève, tại đó chính nghĩa quốc gia đã bị nhạo báng". Hoặc trắng trợn hơn, "cuộc sống xa hoa đồi truỵ của Cựu hoàng đã gây nên sự khinh nhờn. Hậu quả là sau hiệp định Genève người Việt Nam đã vô cùng tức giận trước sự thất bại toàn diện của đường lối chính trị của ông. Họ nói: Quốc trưởng chỉ lợi dụng cuộc trở về nầy để thu vén tài sản của mình chứ không phải để ra những quyết sách mà tình thế hiện tại đòi hỏi".
Như mọi lần, mỗi khi Bảo Đại bị công kích mạnh thì tên tuổi Bảo Long lại trỗi dậy. Một số người bình luận: "Việc phát hành những con tem mang biểu trưng của hoàng tử báo trước sự thoái vị của Bảo Đại nhường quyền cho một hội đồng nhiếp chính...".
Được cảnh báo về sự lên án của thần dân, Cựu hoàng từ bỏ ý định về nước. Ông ở lại Cannes. Bất lực, có lẽ tức phát điên, ông theo dõi từ xa những sự kiện đã xoá bỏ chế độ của ông. Lần đầu tiên, ông thấy mình cô độc Không còn là người của Pháp, không phải của Nhật, cũng không phải của Mỹ. Lần nầy ông chỉ đại diện cho chính ông và bạn hữu. Thực tế, rất ít người ủng hộ ông lúc nầy.
*** Con người thấp lùn không thò đầu ra ngoài cửa sổ. Thế nhưng không một thành viên nào của chính phủ của ông giấu được vẻ tò mò. Tất cả nhìn đám đông dòng người biểu tình cuồn cuộn chảy về trung tâm Sài Gòn.
Bây giờ đoàn biểu tình đã lên tới khoảng ba, bốn nghìn người diễu quanh nhà thờ bằng gạch hồng rồi đổ xuống phố Catinat. Họ la hét, hô khẩu hiệu trước con mắt bình thản, thờ ơ của quân đội quốc gia. Con người thấp lùn đứng một mình trong Văn phòng rộng lớn của thủ tướng. Ông không ưa sự xa hoa phô trương xung quanh. Ông thích một căn phòng mộc mạc. Một căn phòng dáng vẻ khắc khổ chỉ có một chiếc giường nhỏ, không có ghế bành, không trải thảm, không trang trí. Không có gì khác ngoài một cây thập tự, có lẽ cũng là cây thập tự đã treo trên tường trắng ở Huế năm 1933.
Bên ngoài, những người tham gia biểu tình tuần hành đã đi qua cửa khách sạn Continental. Một chiếc quan tài sơn đen được đám đông khiêng trên tay tượng trưng cho vai trò của cựu hoàng Bảo Đại đã chấm dứt hẳn. Không một ai phản đối khi đoàn người diễu qua, và cũng chẳng ai dám lên tiếng. Những bà bán cháo, không. Những chú bé bán báo, không. Những cô gái làng chơi lượn lờ quanh những tiệm nhảy từ rất sớm, cũng không một lời phản đối. Nhiều người đoán già đoán non: làn sóng tiết hạnh đang trùm lên đô thành Nam phần chắc sẽ cuốn sạch bọn đĩ điếm nầy. Ông Diệm, người được coi như thánh - Savonarole (thánh dòng tu Đôminích bị rút phép thông công và thiêu sống) của Việt Nam - sẽ giữ vững quyền lực, và họ, những người sống về đêm, không phải là bạn của ông.
Đi xa hơn nữa, cũng trong cuộc diễu hành ngày 21 tháng 10 đó trong đám diễu hành, một hình nộm đeo kính đen to tướng được dòng đi giữa đám đông huyên náo nhạo báng. Cuối cùng hình nộm được đặt vào quan tài đem chôn như thật trong sự hoan hô của dân chúng.
Nhiều người khác mang những lá cờ vẽ chàn dung Bảo Đại lố bịch và dị dạng. Ngay sáng hôm đó, dân Sài Gòn cũng thấy xuất hiện những những áp phích kỳ dị mang hình ảnh cựu hoàng. Không phải là chân dung quen thuộc, uy nghiêm, đáng kính mà là những biếm hoạ miêu tả một nhân vật kếch xù, vã mồ hôi, lê lết, nằm dài, xảo quyệt, vụng về cục mịch xấu xí hết chỗ nói. Khi đám tang giả kết thúc, đám đông đi theo họ đốt hết những biểu ngữ, áp phích khẩu hiệu vun thành một đống lớn, cháy đùng đùng giữa đường phố ngay bên bờ sông.
Dửng dưng, luôn bình tĩnh, thủ tướng mới tiếp các cố vấn của ông, nghĩa là các em trong gia đình ông. Không có họ, ông chẳng quyết định được gì. Họ có mặt đông đủ trừ một người, bị cách mạng trừng trị năm 1945 ở Huế, được thay thế bằng một tấm ảnh chân dung to tướng treo cao trên tường ngự trị phòng họp, bên cạnh một tấm ảnh nhỏ hơn, ảnh cựu Hoàng hậu Nam Phương.
Mặc dù những lời nguyền rủa và thoá mạ của chính quyền mới đối với cựu hoàng Bảo Đại, bà Nam Phương vẫn tiếp tục quan hệ với ông chủ mới của chế độ Sài Gòn. Đó là thời kỳ của một kịch bản được dựng lên không biết lần thứ mấy nhằm một lần nữa đưa Bảo Long lên đứng đầu vương quốc, với Ngô Đình Diệm làm thủ tướng chính phủ. Hoặc với sự nhiếp chính của Nam Phương... Một mớ lý lẽ hỗn tạp muôn thuở đã thất bại khi triều đại (phong kiến) đã sụp đổ. Diệm là con quan, bản thân cũng là quan lại, người triệt để tôn trọng pháp chế, rất sợ xoá bỏ nền quân chủ. Một năm trước đây, trong đại hội các đảng quốc gia họp ở Sài Gòn, chính ông đã bảo vệ một kiến nghị đưa Bảo Long lên ngôi và Nam Phương làm nhiếp chính. Cả hai đều có chung một đức tin, đều thờ Chúa và cả hai tưởng như đã có thể hiến dâng cả đời mình cho sự nghiệp ấy.
Gia đình họ không còn quan trọng như những người của Nhà thờ. Ông Diệm rất bất bình về cách cựu hoàng đối xử với vợ ông ta cảm thấy gần gũi với bà Nam Phương, tỏ ra thông cảm với tính nghiêm ngặt của bà về đạo đức và tín ngưỡng, rất xa lạ với tính dễ dãi khoan dung quá mức và khao khát lạc thú của Bảo Đại.
Trên bàn làm việc, một chiếc bàn đồ sộ của Thủ tướng, bức thư được đặt khá nổi bật trên một tấm lót tay tô hình con rồng và biểu trưng An Nam. Một tờ giấy trắng đơn giản ghi rõ biểu trưng của Cựu hoàng Bảo Đại.
Diệm đọc lại bức thư một cách chậm rãi: "Ông được tôi chọn để điều khiển một chính phủ đoàn kết dân tộc. Mặc dù đã có chỉ thị của tôi, ông đã góp phần gây phương hại đến quan hệ thân hữu với nước Pháp và đẩy nhân dân Việt Nam vào tình trạng nội chiến. Tham vọng của ông đã làm đổ máu nhân dân vô tội. Lẽ ra phải hành động như một nhà chính khách, ông đã đem lại tai hoạ cho đất nước. Vậy ông phải rời ngay Sài Gòn trong chuyến bay sắp tới, sang báo cáo với tôi về tình hình hiện tại"(1).
Như vậy Bảo Đại đã cách chức ông, chỉ bằng một vài chữ. Con người thấp lùn, thường được mô tả như một người bảo thủ cứng rắn và lạnh lùng, nước mắt rưng rưng(2). Bây giờ thời thế đã thay đổi rồi, ông ta sẽ không ra đi thất bại, gần như ô nhục như năm 1933. Không có vấn đề lại trở vào bóng tối và chịu khuất phục.
Ông cự tuyệt mệnh lệnh của Quốc trưởng nhưng, không vò nát lá thư. Ông không thuộc loại người như thế. Ông đặt nhẹ nhàng xuống bàn. Những lời quở trách của Quốc trưởng chẳng quan trọng gì đối với ông. Quyền lực trong tay ông. Bảo vệ ông và cũng giám sát ông, có tám trăm cố vấn Mỹ cùng với vũ khí và tiền bạc. Cựu hoàng không đáng đếm xỉa đến nữa. Việc cách chức ông ta vừa tuyên bố chỉ đẩy nhanh việc loại trừ ông ta khỏi cuộc chơi chính trị ở Việt Nam.
*** Trong dinh thự riêng của ông ở Cannes - trụ sở của cái chính phủ "trò hề" - Bảo Đại, ra tuyên bố không tín nhiệm thủ tướng Ngô Đình Diệm, quá gắn bó với quyền lợi của người Mỹ, kêu gọi hoà hợp với Việt Minh. Một chủ trương không ai đồng tình. Paris, nhất là Washington phản đối. Bản tuyên bố viết: "Tôi không muốn để đồng bào bị lôi kéo lâu hơn nữa vào con đường chỉ có thể dẫn đến phân liệt, đến chiến tranh, hơn nữa có thể lôi kéo các nước vào một cuộc chiến tranh toàn cầu mới. Chính phủ hai miền phải cố gắng giảm bớt đối kháng, thậm chí có thể thật thà hợp tác trong một số lĩnh vực vì lợi ích tối thượng của tổ quốc, phải được đặt lên trên lợi ích riêng của mỗi miền [...]. Nếu chính sách của ông Diệm cứ tiếp tục, chắc chắn nó sẽ làm cho Việt Nam đã chịu quá nhiều thử thách không được hưởng lợi ích của hoà hoãn quốc tê. Chính sách ấy còn có nguy cơ làm hại đến hoà bình toàn thế giới". 40 năm sau đọc lại bản tuyên bố của Bảo Đại người ta thấy những lời cảnh báo của ông có tính dự báo một cách lạ thường. Ông ít khi sai lầm. Từ thông điệp gửi tướng De Gaulle năm 1945, đến công hàm ngoại giao gửi các đại diện của các cường quốc mười năm sau, ông đã nhận định đúng. Trong thần thoại Hy Lạp, Cassandre tuy bất lực nhưng đã tiên đoán một cách sáng suốt những tai hoạ sẽ xảy ra trên đất nước.
Ông tiếp tục bị bỏ rơi. Hội đồng hoàng tộc họp ở Huế, vắng mặt bà Hoàng Thái hậu Từ Cung, tuyên bố phế truất Bảo Đại khỏi cương vị Quốc trưởng. Ông còn bị cấm không được lấy danh nghĩa hoàng gia và sử dụng tước hiệu Hoàng đế(3).
Tại Sài Gòn, Diệm phủ nhận toàn bộ giá trị của hiệp định Genève. Ngay tức khắc, vị thế của ông được đưa lên cao hơn hẳn các tiền nhiệm. Muôn thuở là đối thủ đồng thời là đồng loã của Bảo Đại, từ lúc còn trẻ, ông đã lận đận trong chốn quan trường chậm bước trên các bậc thang quyền lực. Giờ đây thời thế đã đến với ông trên tột đỉnh vinh quang. Ông phải tận dụng. Một cách hăng hái và điên cuồng dồn nén suốt hai mươi ba năm.
Trái với Bảo Đại, ông thâm thù người Pháp. Dai dẳng từ lâu, từ khi cha ông, Ngô Đình Khả, đại nội đại thần triều Thành Thái đã đứng về phía Nhà vua khi ông nầy bị người Pháp phế truất năm 1907.
Ông theo Công giáo và là một con chiên ngoan đạo. Ông đã phụng sự Chúa trong bốn năm tại một tu viện ở Hoa Kỳ trước khi về nước cầm đầu nhóm quốc gia "cứng rắn" và đứng đầu chính phủ. Ở Hoa Kỳ ông đã gặp nhiều nhân vật chính trị và nhất là đã nhận được sự ủng hộ của Hồng y giáo chủ Spellman nổi tiếng. Chính Foster Dulles, ngoại trưởng Hoa Kỳ đã áp đặt việc bổ nhiệm Diệm làm thủ tướng thay Bửu Lộc.
Ngay sau khi nhậm chức, Diệm và gia đình đã xác định lập trường chống cộng sản, nhưng trước hết là gạt bỏ tất cả những ai đã làm việc với Bảo Đại. Thoạt đầu là các giáo phái Hoà Hảo, Cao Đài rồi cuối cùng là lực lượng Bình xuyên. Các tướng lĩnh trong quân đội trung thành với Bảo Đại đều bị bãi chức. Cuộc thanh trừng diễn ra không suôn sẻ. Tướng Nguyễn Văn Hinh tổng chỉ huy quân đội không chấp nhận về vườn doạ đảo chính. Đằng sau ông ta là phần lớn quân đội bao gồm hàng trăm ngàn người. Bảo Đại phải thuyết phục ông ta nghe theo lẽ phải, từ bỏ một hành động có thể chia rẽ quân đội. Cuộc đảo chính đã không xảy ra.
Trở thành con người hùng độc nhất ở Sài Gòn, Diệm tha hồ tự do hành động.
*** Từ đây, khép mình trong lâu đài Thorenc nổi tiếng ở Cannes, gia đình Bảo Đại hàng ngày phải nghe những lời nguyền rủa đầy hận thù phát ra từ Sài Gòn dưới chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Báo chí mở chiến dịch tố cáo mạnh mẽ cựu hoàng làm giàu nhanh chóng, sống xa hoa nhiễm nhiều thói hư tật xấu.
Tại Sài Gòn những phe nhóm ủng hộ Bảo Đại bị quét sạch. Kể cả các giáo phái cũng bị người cầm đẩu chính phủ gạt bỏ. Một lần nữa, những cuộc đụng độ đẫm máu nổ ra ngay trên đường phố Sài Gòn, lần nầy là giữa những người trong cùng một phe. Ác liệt nhất là những trận giao chiến giữa lực lượng ủng hộ Diệm và phe Bảy Viễn. Tên trùm băng cướp nầy trung thành với Bảo Đại vẫn nắm lực lượng cảnh sát đô thành, vẫn kiểm soát được khu dân cư Sài Gòn - Chợ Lớn, những sòng bạc và nhà thổ. Diệm là con người trọng tiết hạnh, không thể chấp nhận mãi đám quân tự trị và hơn nữa hoàn toàn vô đạo. Bị quân Diệm tấn công, Bảy Viễn và quân Bình Xuyên cố thủ trong tổng Nha cảnh sát, cố kéo dài cuộc cầm cự. Quân Diệm phải dùng đến moóc-chi-ê và xua lũ lính dù liều chết xông vào mới chiếm lại được Tổng Nha cảnh sát và đánh bật quân Bảy Viễn ra khỏi đô thành. Tàn quân Bình Xuyên lui về căn cứ của họ ở Rừng Sác, cách thành phốvài kilômét.
Mang danh Quốc trưởng, Bảo Đại vẫn ru rú ở Cannes. Ông phái một tướng về Sài Gòn để cố chấm dứt cuộc nội chiến. Vừa về đến sân bay Tân Sơn Nhất, viên tướng sứ giả bị bắt ngay lập tức.
Rút cuộc thì Diệm thắng. Nhờ vũ khí và tiền bạc của Mỹ, ông thu phục được các giáo phái. Cuộc Tổng tuyển cử đề ra trong hiệp định Genève được hoãn vô thời hạn. Nước Việt Nam bị chia cắt làm đôi.
Vấn đề còn lại là củng cố chế độ mới. Khó mà duy trì Quốc trưởng đối đầu công khai với Thủ tướng Nội các.
Phải chấm dứt vai trò của Quốc trưởng của Bảo Đại, từ lâu đài ở Cannes vẫn ra rả những lời nguyền rủa dữ dội chủ nghĩa biệt phái của Diệm.
Diệm đề nghị một cuộc trưng cầu ý dân. Nhân dân miền Nam Việt Nam sẽ lựa chọn. Hoặc đi với Diệm tiến hành chiến tranh chống cộng, hoặc hoà hợp với Việt Minh như chủ trương của Bảo Đại. Mỗi cử tri được nhận một lá phiếu gồm hai phần. Một có hình của Diệm với ghi chú: "Tôi phế truất Bảo Đại và công nhận Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng Việt Nam với sứ mệnh thiết lập một chế độ dân chủ". Phần kia với nội dung ngược lại.
Cuộc trưng cầu dân ý trở thành một cuộc bỏ phiếu toàn dân cho Diệm. Rất quan trọng, hơn 98,1% phiếu bầu cho Diệm. Rõ ràng là có gian lận. Trong thành phố Sài Gòn Diệm được sáu trăm năm mươi nghìn phiếu ủng hộ, trong lúc trong các danh sách cử tri chỉ gồm có bốn trăm năm mươi tư nghìn người đăng ký.
Lần nầy thế là hết hẳn. Hết cuộc sống đế vương, chôn vùi mọi ảo tưởng ngai vàng. Thông qua chính quyền Diệm người Mỹ chỉ huy cuộc chiến tranh. Toàn bộ tài sản Bảo Đại vơ vét được sau khi về Việt Nam đều bị tịch thu. Chiến dịch báo chí vẫn tiếp tục. Chính Bảo Long cũng bị lên án là đã "bao" cả một bầu đoàn thê thiếp.
Màn đã hạ, không một lời cáo biệt, không để lại một bức ảnh nào. Bảo Đại lặng lẽ ra đi. Như chui xuống lỗ, như nhảy xuống vực. Dường như ông thích như vậy.
Không phỏng vấn, không bình luận lúc nầy, lúc khác như các ông vua bị hạ bệ thường làm. Không có cả những cuộc tiếp xúc hẹp với đồng bào. Hồ sơ của các báo, kho lưu trữ của các cơ quan mật vụ hay các bộ đều không để lại hồ sơ nào về phản ứng của Bảo Đại. Nhân chứng hiếm hoi. Cứ như ông ta đi trốn, tránh mặt các nhà báo, không trả lời ai, làm như chết rồi.
Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại thế là sụp đổ tan tành. Hình ảnh về đôi giai nhân tài tử lúc nào cũng cặp kè bên nhau trong những chuyến du ngoạn, những cuộc tiếp tân long trọng biến mất. Tất cả đều bị cuốn theo sự thất bại của ông. Từ nay họ không phải giả vờ sống hoà thuận với nhau, che đậy sự rạn nứt đã làm ông bà ly thân thật sự đã mười năm nay.
Ông là người thua cuộc, như nước Pháp rời bỏ châu Á trong lúc hàng nghìn người Công giáo rời bỏ miền Bắc di cư vào Sài Gòn.
Bảo Đại tiếp tục cuộc sống mờ nhạt ở Cannes. Ông đã bắt đầu chắt chiu, giảm bớt mọi chi tiêu hào phóng, hạ thấp mức sống của ông, cho thôi việc những người Việt Nam làm việc ở lâu đài Thorenc, như không muốn sáng sáng, gặp lại những bộ mặt của quá khứ. Cho thôi việc cả ông Nguyễn Tiến Lãng, người đã bị chính quyền cách mạng giam cầm một thời gian, rồi đi kháng chiến, làm việc dưới trướng tướng Nguyễn Sơn ở quân khu Bốn, rồi chạy về vùng chiếm đóng, theo ông cho đến những ngày tàn tạ. Cho thôi việc cả những tổng lý văn phòng, quan hầu cận và vài người khác. Còn lại mấy gia nhân, hầu hết là người địa phương Cannes, dĩ nhiên là có lái xe, người làm vườn và hầu phòng.
Hoàng đế bị phế truất sống phần lớn thời gian ở Alsace. Chính tại đây ông cảm thấy như được bù lại những ngày sống ở trang trại Buôn Ma Thuột. Ông không bỏ được thú đi săn bắn. Đối với ông đó là một nhu cầu thiết yếu, như thú đánh bạc. Nhu cầu đàn bà cũng vậy.
Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ của xứ thuộc địa Nam Kỳ xưa kia, con người niềm nở với ông năm 1939, sau chiến tranh về sống ở Cannes đã giúp Bảo Đại tìm hiểu địa phương.
De Beaumont lúc đó được coi là một trong những tay thợ săn xuất sắc của nước Pháp. Ông cũng có một khu đất trong một thị trấn bên cạnh.
Bảo Đại thuê một mảnh đất một nghìn năm trăm hecta cạnh làng Epshtein. Ông xua muông thú xung quanh vào đó để săn, nhưng khó hơn là săn các con bò rừng hay hươu ở Buôn Ma Thuột. Mỗi chuyến đi săn có kết quả cũng bắn được năm hay sáu con vật là bình thường. Không có hổ, không có voi nhưng có chim trĩ, thỏ rừng, sóc...
Ông thay đổi nhiều. Vóc dáng gầy hơn, tính cách kiên quyết hơn. Ông nói ông đang sống một cuộc đời ẩn dật để tự do suy nghĩ, xa lánh các cuộc giao du với giới thượng lưu.
Một số bài báo hiếm hoi thuật lại cuộc sống nông thôn của ông, mô tả một biệt thự hiện đại của ông ở Gerstheim, bên bờ sông Rhin. Một mình không đầy tớ, ông dùng bữa tại nhà một người hầu cận cũ, ở gần đó.
Đó là một hạ sĩ quan Pháp nổi tiếng ở Đông Dương tên là Rochereau(4), có vợ làm thư ký riêng. Bà nầy có dung nhan khá đẹp, được mọi người kính mến.
Bảo Đại còn cho xây dựng một ngôi nhà nhỏ khác ở giữa rừng Krafft, làm chỗ gặp gỡ bạn gái trong các cuộc săn. Đó là mấy cô diễn viên, đông đảo các cô gái trẻ, thường là người châu Âu. Họ lưu lại dăm ba ngày, một vài tuần rồi ra đi không trở lại.
Có những lần Bảo Đại vắng mặt các cô vẫn ở lại đó, dùng bữa tại gia đình Rochereau.
Ông không muốn nhắc đến Đông Dương và dường như trong những năm đó muốn xoá đi tất cả.
Ông đọc sách, đi săn và lại đi săn nữa. Thường là một mình với đàn chó săn năm con thuộc giống lông ngắn. Ông để chúng đi trước, sục sạo các bụi cây. Ông hay cưỡi ngựa chạy dọc ngang trang trại của mình. Một con ngựa đẹp mang từ Việt Nam sang. Nhưng bây giờ con vật chỉ còn được những người hàng xóm trong làng chăm sóc. Họ ngạc nhiên thấy nhiều phụ nữ trẻ, đẹp đi đi, về về với ông.
Cuối cùng cũng chẳng còn cảnh sát bám theo ông khắp nơi như ngày đầu mới đến đây. Người ta nói: ông không muốn nghe nói tới sòng bạc, hộp đêm.
Tuy nhiên thỉnh thoảng ông vẫn về Cannes. Vẫn đánh bạc, và thua đậm. Luôn có mặt tại các sòng bạc ở Palm Beach, đến mức năm 1955 sở thuế và cơ quan giám sát sòng bạc phải mở cuộc điều tra về ông. Người ta không biết thế nào mà ông có thể thua bạc nhiều như thế trong lúc chẳng có nguồn thu nhập nào.
Ông mang công mắc nợ nhiều. Thuế thổ trạch của lâu đài Thorenc từ lâu chưa có tiền nộp. Chính phủ Pháp không còn trợ cấp những món tiền kha khá như những năm 50. Không còn kiếm chác qua những vụ chuyển tiền từ Đông Dương sang Pháp như trước. Sòng bạc Đại Thế giới ở Sài Gòn đã bị ông Diệm, con người tiết hạnh đóng cửa vĩnh viễn.
Tuy nhiên cựu hoàng hãy còn giàu có. Một tài khoản đáng kể gửi ở ngân hàng Thuỵ Sĩ, một ngôi nhà ở Florence, một bất động sản ở đại lộ Villiers. Trông ông có vẻ uể oải, hay đãng trí. Tại sao ông còn ở lại Pháp, cái nước Pháp đã phản lại ông, nhạo báng ông? Chẳng bao lâu sau đó, ông phải bán lâu đài Thorenc. Một người dân ở Cannes đề xướng rồi chính hắn đã mua toà lâu đài nổi tiếng nầy và giải quyết xong xuôi mọi việc trong khi ông vắng mặt. Ông vẫn tiếp tục say mê săn bắn. Ông không đi chơi xa nữa, hình như dứt khoát muốn quên những vết thương của mình trên những luống cày ở Alsace. Ít lâu sau ông lại tiếp tục bán dần tài sản còn lại để có tiền chi tiêu. Ông ít nói, đứng ra ngoài cuộc chơi chính trị và lạc lõng chứng kiến sự suy sụp của đất nước mình.
Vào những năm 60, cuộc khủng hoảng Đông Dương bước vào giai đoạn cực kỳ sâu sắc. Ngô Đình Diệm chết hụt nhiều lần, khi thì suýt chết vì các tay súng ám sát của Việt Minh trong một chuyến đi thị sát Buôn Ma Thuột, khi thì thoát nạn khỏi vụ ném bom trúng dinh Độc Lập của hai phi công trong quân lực Việt Nam cộng hoà Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử, người ta dự cảm những biến cố lớn sắp xảy ra ở Sài Gòn. Theo nhà báo Tường Hữu, trước tình thế lúc bấy giờ, Bảo Đại lại có ảo tưởng vận may lại sắp đến để ông có thể xuất hiện trở lại trên chính trường miền Nam. Tại Paris ông Nguyễn Văn Chi tuỳ viên báo chí bán chính thức của toà Tổng đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pháp đã đến thăm dò phản ứng của Bảo Đại. Hai bên cùng thảo luận về khả năng Bảo Đại sẽ ra một bản tuyên cáo được công bố nhân dịp Tết Quý Mão (1968) kêu gọi Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam và chính phủ Diệm thương thuyết để tái lập hoà bình tại miền Nam Việt Nam. Ông Chi nhấn mạnh cho Bảo Đại hiểu rõ là không nên nuôi những ảo vọng và nếu trong tương lai Bảo Đại được mời nhận một nhiệm vụ mới, thì trách nhiệm nầy sẽ khó khăn chứ không đem lại lợi lộc. Bảo Đại đáp lại là ông nhận thức được những hy sinh lớn mà người ta chờ đợi ở ông. Tình hình đã đối thay, nên những người cộng sự của Bảo Đại lần nầy sẽ phải là những con người liêm khiết. Bảo Đại cũng cho biết là có nhiều nhân vật Mỹ đã đến gặp ông để tìm kiếm một người sẽ thay thế Ngô Đình Diệm và trong số nầy có ông Averell Harriman, và ông muốn chờ xem tình hình sẽ biến chuyển ra sao(5). Người ta nhớ lại, năm 1963, Tổng thống Pháp De Gaulle, trong dịp đi thăm Campuchia, đã long trọng đòi "nước ngoài" chấm dứt can thiệp quân sự vào miền Nam Việt Nam, mọi giải pháp phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, thống nhất và trung lập cho miền Nam Việt Nam. Pháp đã kín đáo chuẩn bị lá bài Trần Văn Hữu làm thủ tướng thay Ngô Đình Diệm và Bảo Đại có thể trở lại làm Quốc trưởng. Sau nầy mọi người đều biết chính Ngô Đình Diệm trong thời gian nầy đã tìm cách thăm dò chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hà Nội thông qua đại sứ Maneli, Trưởng đoàn Ba Lan, trong Uỷ ban quốc tế về giám sát đình chiến và thi hành hiệp nghị Genève, một việc mà cách đó tám năm (1955), Diệm cương quyết khước từ(6). Có thể vì muốn ngăn chặn mọi cuộc vận động hoà bình của Diệm, ngăn chặn xu hướng trung lập hoá miền Nam đang nảy nở ở miền Nam Việt Nam và trên thế giới mà Mỹ đã quyết định thay ngựa giữa dòng, bày trò đảo chính để thủ tiêu anh em Diệm, Nhu... Thấy tình hình không thuận lợi nên Bảo Đại cũng bỏ luôn gợi ý của ông Nguyễn Văn Chi, dứt khoát rời khỏi chính trường.
Chú thích: (1) Trịnh Đình Khải, La Décolonisation du Vietnam, Un avocat témoigne, (Công cuộc phi thực dân hoá ở Việt Nam. Một trạng sư đưa ra chứng cứ) Nhà xuất bản L Harmattan, 1994. (2) Theo lời kể lại của đại tá Mỹ Lansdale cố vấn chính trị, lúc đó có mặt trong phòng làm việc của Diệm. (3) Franc Tireur (Quân du kích), 17 tháng 6 năm 1955. (4) Paris Presse (Báo chí Paris), ngày 1 tháng 12 năm 1960. (5) Tường Hữu, Những điều ít biết về chiến tranh Việt Nam 1945-1975, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2002 (B.T.). (6) Xem hồi ký Mieczyslaw Maneli, War of the Vanquished - Chiến tranh của những kẻ bại trận, Harper&Row, New York xuất bản năm 1971 (B.T.)

*

Chương 30

Chabrignac cách Brive-la-Gaillarde ba mươi cây số, là một làng nhỏ ở Corrèze giữa những quả đồi, có bốn trăm dân với những ngôi nhà mái lợp ngói rêu phong. Bà cựu Hoàng hậu Nam Phương đã chọn nơi đây để sống ẩn dật những ngày cuối đời. Đồng quê, thật là đồng quê, khác hẳn những ngọn núi ở Cannes hoặc khung cảnh tĩnh mịch của Đà Lạt. Tuy vậy có vài cây thông là nét tương đồng duy nhất với thành phốcao nguyên ở Việt Nam.


Bà đã chán cuộc sống của giới thượng lưu. Chắc hẳn trong lòng đầy oán hận về diễn biến của thời cuộc, lẫn phiền muộn về thân phận, bà muốn được sống yên tĩnh và êm ả. Vì vậy năm 1958, bà mua một ngôi nhà dài mái ngói, tường đá trong trang trại La Perche ở làng Chabrignac. Toà nhà dựa lưng vào sườn đồi. Trước mặt là một cánh đồng bát ngát có nhiều đầm hồ. Ngược lại với chồng, bà cựu Hoàng hậu còn giữ được phần lớn tài sản. Ngoài căn nhà rộng mênh mông ở Neuilly, bà còn nhiều nhà ở Maroc, một căn nhà ở đại lộ Opéra, thêm một trang trại ở Congo và nhiều đồ vật quý. Nhưng dần dần bà chẳng thiết đến những tài sản ấy nữa mà chỉ nghĩ đến trang trại ở Corrèze.


Cơ ngơi ở Chabrignac rộng đến một trăm sáu mươi hecta đất, thêm một đàn gia súc gồm khoảng một trăm con bò sữa. Còn ngôi nhà dài bình dị xây bằng đá ở La Perche, bà cho sửa sang lại cho có vẻ hoành tráng quen thuộc với gia đình bà. Ba mươi hai buồng, bốn phòng khách v.v... Tuy nhiên có một lý do khác, tình cảm hơn, hình như đã thúc đẩy bà chọn nơi biệt lập nầy, gần như một tổ chim đại bàng.
Bà bá tước De La Besse, rất đỗi ngạc nhiên như trên trời rơi xuống khi được tin người láng giềng mới dọn đến là một cựu Hoàng hậu An Nam. Ai đã đưa tin nầy cho bà? Xóm giềng, người thân hay lời đồn đại? Dù thế nào đi nữa thì cũng không phải chính bà Nam Phương đã nói ra. Bà bá tước cảm thấy ở gần như thế là một điều không thích hợp. Ý tưởng nào đã khiến bà ta dọn đến ở cạnh nhà bà? Trang trại La Perche mà bà Nam Phương mới mua không chỉ ở cách nhà bà vài cây số hay ở bên cạnh như thế đã là quá táo bạo rồi. Đằng nầy nó lại sát hàng rào với lâu đài Chabrignac, thuộc sở hữu gia đình De La Besse từ nhiều thế kỷ nay. Bà bá tước ngạc nhiên vì bản thân bà là một công chúa An Nam. Bà là con gái của vua Hàm Nghi.


Một sự trùng hợp? Có thể, nhưng thật là đặc biệt! Gần như là huyền diệu. Vậy là hai hậu duệ của ngai vàng An Nam không cố ý mà lại thành láng giềng của nhau, một trong những vùng xa xôi cách biệt nhất của nước Pháp...
Nữ bá tước De La Besse, tên gốc Việt Nam là Công chúa Như Lý, thời thơ ấu đã sống ở Algérie. Năm 1885, Vua Cha là Hàm Nghi đã rời khỏi kinh thành Huế tham gia kháng Pháp cuối cùng bị Pháp bắt và phế truất rồi đem đày ở đây từ năm 19 tuổi. Ông sống yên bình ở nơi nầy. Nói đúng ra ông chỉ bị đày một thời gian. Ông đã về Paris và ở lại đó. Ông đã lấy vợ người Pháp, con gái một quan toà đương nhiệm trong thành phố. Trong thời gian lưu đày Hàm Nghi không vào quân đội, không chạy theo các dục vọng mà đam mê... âm nhạc, hội hoạ và điêu khắc, và chắc là có tài tạc tượng vì ông đã có tác phẩm trưng bày ở thủ đô.
Các Hoàng đế An Nam, từ Hàm Nghi đến Duy Tân đều cam chịu cuộc sống lưu đày do Pháp áp đặt, phục tùng ý muốn của Paris, tận dụng những mặt thuận lợi của hoàn cảnh nơi xa lạ. Không hề có dấu hiệu nổi loạn, bất phục tùng hay ý muốn quay về nước... Duy Tân sống trong cảnh thiếu tiện nghi và túng bấn. Trái lại Hàm Nghi được hưởng một khoản trợ cấp kha khá và có một gia nhân được đưa từ trong nước sang và được chính phủ Pháp thay thế hai năm một lần. Cả hai, không hận thù mà còn yêu nước Pháp hơn cả người Pháp. Họ muốn được phục vụ trong quân đội Pháp.


Hàm Nghi qua đời ở Alger năm 1940, được mai táng trên mảnh đất thuộc sở hữu của ông. Tướng De Gaulle đã có ý định đưa thi hài ông về nước. Hiện nay Hàm Nghi an nghỉ tại Thonac ở Dordogne, gần nơi ở của con gái và không xa trang trại La Perche của cựu Hoàng hậu Nam Phương. Kỳ lạ là trong những năm 60, mảnh đất tây-nam của nước Pháp nổi tiếng vì cảnh đẹp, vì các món ăn đặc sản ở địa phương, trở thành nơi chôn cất của nhiều thành viên trong hoàng tộc An Nam. Nhưng cựu Hoàng hậu Nam Phương và công chúa Như Lý, mà số phận thích đùa và lạ lùng đã đưa họ ở bên cạnh nhau tại một nơi biệt lập tận cùng của nước Pháp, suốt năm năm không hề gặp nhau. Mặc dù những hậu duệ của vua Hàm Nghi có thái độ ủng hộ Diệm, hai chi họ không bất hoà với nhau.
Trong lâu đài La Noche nơi lúc nầy công chúa Như Lý đang ở có pho tượng Phúc - Lộc - Thọ bằng ngọc thạch, tượng trưng cho hạnh phúc, con cháu đầy đàn, may mắn. Đó là quà cưới của Bảo Đại. Lúc còn nhỏ, Bảo Đại - đã được tấn phong Hoàng đế An Nam - đã được Hàm Nghi tiếp ở Alger.


Vậy tại sao lại có sự lạnh nhạt ngăn cách hai người đàn bà tuổi còn trẻ như vậy?
Có thể là do đối lập giữa một chi họ "chính thống" của Nhà vua yêu nước bị Pháp bị lưu đày và chi họ của Bảo Đại, ông vua do Pháp lập nên tự nguyện thoái vị và quay về với Pháp chống lại kháng chiến hoặc nữa là do cái kết cục bi thảm đầy tai ách của cuộc chiến ở Đông Dương.
Nam Phương sau khi cởi bỏ chiếc áo khoác được mọi người tôn kính khi bà đi bên cạnh chồng trong các buổi tiếp đón chính thức, không đến Corrèze một mình. Đi theo bà có người quản gia. Theo lời bình phẩm của các bà lắm điều trong làng Chabrignac thì đó là một người điển trai, dong dỏng cao, cử chỉ dễ chịu, ăn mặc trang nhã. Ông đã chữa trị bằng liệu pháp vận động cho bà khi còn ở Cannes. Nghe nói ông là đảng viên cộng sản...


Vì vậy ông quan tâm đến gia đình bà và ngược lại. Còn các gia nhân ở Corrèze phục vụ cho cựu Hoàng hậu thì họ cứ một mực cho rằng giữa hai người đã có quan hệ tình cảm với nhau...
Trong toà nhà đồ sộ có tới ba mươi hai phòng, Nam Phương sống vui vẻ. Các gia nhân còn nhớ tiếng cười, tiếng hát, lối sống yêu đời của bà. Dậy sớm, bà ăn bận giản dị đi thăm khắp trang trại, vui vẻ trò chuyện với những người nông dân đến chào bà.
Bà đi chợ mua bán, tự lái chiếc xe Dauphine, bao giờ cũng có chị hầu phòng hay người quản gia đi theo. Bà chăm sóc các cây hoa, tự tay trang hoàng nhà cửa. Tất cả sẽ là hoàn hảo, nếu không có nỗi nhớ quê hương. Nam Phương nghĩ một ngày kia bà có thể về Việt Nam, nếu không phải là phục hồi chế độ quân chủ thì ít nhất Bảo Long, con trai trưởng, là niềm hy vọng và chỗ dựa tinh thần của bà cũng có vai trò nào đó trên chính trường Việt Nam.

Bà không bị giám sát như hồi có người cán bộ chính trị Việt Minh đóng trong cung An Định ở Huế hoặc những cảnh sát đeo bám theo bà khắp nơi ở Paris hay ở Cannes. Ngay nhà thờ, các cha cố cũng ít gần bà hơn hồi bà sống ở Đà Lạt và ở Huế. Không thấy dấu tích gì về việc bà có quyên góp hay không cho nhà thờ trong làng Chabrignac. Vĩnh biệt người đàn bà lạnh lùng và cương nghị. Hình ảnh của bà giờ đây khác hẳn, có thể đó là hình ảnh của một người đang hạnh phúc.

Bốn người công nhân nông nghiệp trong trang trại cũng như các chị hầu phòng tôn sùng bà. Tất cả đều được bà chủ hơi khác thường nầy chiều chuộng. Họ có quà Noel, quà biếu...
Ông Bảo Đại đến thăm bà ba lần. Ba lần trong năm năm. Bà con nông dân trong vùng chú ý đến chiếc ôtô dài, choáng lộn đậu trước nhà đánh dấu chuyến thăm lần đầu của ông. Ông đến chủ yếu để làm đám cưới cho con gái thứ hai - Phương Liên (Hoa Sen) lấy một thanh niên quê ở Bordeaux. Báo giới nhiều năm nay tưởng như đã quên cặp vợ chồng vương giả nầy, nhân dịp nầy lại trở lại vui đùa với cảnh cựu hoàng mời ông xã trưởng làng Chabrignac, một đảng viên cộng sản, đến dự tiệc cưới.
Nam Phương sống phần lớn thời gian tại ngôi nhà đá, bà rất ít lên Paris, chủ yếu cũng là để thu dọn nốt đồ đạc còn để lại ở Neuilly rồi tìm cách chuyển nốt về Corrèze.
Các con bà cũng sống ở Chabrignac, nhất là những đứa bé nhất. Trong các dịp nghỉ hè, chúng để lại những kỷ niệm tươi sáng, dễ thương. Tất cả, trừ Bảo Long, vẫn luôn mang vẻ mặt nghiêm khắc.


Ngày 14 tháng 9 năm 1963, bà Nam Phương từ Brive về, kêu đau họng. Hôm sau bà cho gọi bác sĩ đến thăm bệnh. Ông nầy chẩn đoán chỉ là viêm họng thông thường, kê đơn rồi đi ngay, có lẽ không biết tiền sử bệnh của bà là tràng hạt (lao hạch). Vài giờ sau Nam Phương kêu khó thở. Các bà hầu phòng và ông quản gia không yên tâm lại gọi điện cho xã Jouillac ở kế bên, rồi lại gọi đến thị trấn Pompadour ở cách đó một chục cây số để yêu cầu cử một thầy thuốc khác. Nhưng chẳng có ai đến.
Mỗi phút qua đi, bà cựu hoàng càng kêu đau. Phải giữ bà trên giường vì bà cứ muốn vùng dậy cho dễ thở. Cuối cùng bà chết vì ngạt. Sen đầm, nhân viên cấp cứu chạy đến, cố tìm cách cho bà hồi lại nhưng không kết quả Bà ra đi, tuổi đời mới 49.


Thi hài bà được an táng ở Chabrignac trong một nghĩa trang nhỏ trông sang nhà thờ. Một ngôi mộ thấp lè tè, kín đáo cạnh các nhà mồ to, nặng nề của vùng Corrèze, trên tấm mộ chí ghi rõ phẩm tước và tên thời con gái của bà viết bằng tiếng Pháp: "Nơi đây an nghỉ bà Hoàng hậu nước An Nam, tên khai sinh là Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào". Phía sau chạm khắc dòng chữ Hán đọc từ trên xuống: Đại Nam Nam Phương Hoàng hậu chi mộ. Tang lễ mang tính cách gần như chính thức. Tham dự có một số nhân vật thân cận của Bảo Đại, quận trưởng, nhiều dân biểu trong vùng, và bà công chúa Như Lý, người em họ láng giềng suốt năm năm qua không một lần gặp mặt.
Người ta nói: thi hài bà cựu hoàng được chôn cùng với những nữ trang quý báu, một kiềng cổ, một xuyến nhỏ nạm ngọc lam, không biết của thật hay giả.
Ngôi mộ đã ba lần bị đào bới. Hai lần để định ăn trộm báu vật và một lần vào dịp kỷ niệm trận Điện Biên Phủ, chắc vì động cơ chính trị...


Hiện nay bia đá đã sứt cạnh, dáng vẻ tiêu điều. Một người làm vườn ở Jouillac được giao nhiệm vụ trông coi ngôi mộ, nhưng mỗi năm mỗi già yếu thêm chẳng còn đi lại thăm nom được nữa. Hàng năm vào dịp Thanh minh trong lễ Các Thánh, chỉ có công chúa Phương Liên, con gái thứ hai của bà, sống ở Bordeaux, đem hoa tươi đến trồng trên mộ. Theo dân làng Chabrignac, Bảo Đại không một lần đến nghiêng mình trước mộ.
Ngược lại, cách ngôi mộ chỉ độ mươi mét, có một nấm mộ khác của người quản gia. Ông có nguyện vọng được an táng bên cạnh người chắc là ông đã từng yêu.


*

VUA BẢO ĐẠI 13

*

27

Bảo Đại dán mắt nhìn vào con quay màu đen. Con người nhỏ thó trước mặt ông cũng không dám nhìn ông. Gã lặng lẽ trải các con bài trên thảm xanh. Không ai nói với ai một lời. Đột nhiên những chi tiết mang một tầm quan trọng hiếm có. Chiếc nhẫn mắt đá to tướng hay chiếc đồng hồ bẹt bằng bạc gần như trắng mà người Mỹ vuốt ve giữa hai lần chia bài, hay chiếc cổ áo mở rộng. Anh ta không đeo cà-vạt, bất chấp kỷ luật của nơi nầy. Anh ta giàu có và nổi tiếng nên những người phụ trách sòng bạc không bắt buộc anh ta phải tuân theo quy tắc áp đặt cho những con bạc khác. Quanh chiếu bạc những kẻ tò mò nín thở theo dõi ván bài. Phần lớn trong số họ cũng là những nhân vật tên tuổi. Điều đó cắt nghĩa sự có mặt của họ ở cái nơi gọi là đất thánh của các đất thánh Palm Beach nầy. Bên ngoài rộ lên tiếng cười của những người đang tắm hay tiếng lao xuống nước của những người nhào lộn. Bể bơi liền kề, khá rộng, nhìn ra biển. Bảo Đại không đến đấy bao giờ.
Ông đi thẳng vào phòng đánh bạc. Ra dáng lịch sự, theo thói quen ông mặc bộ đồ trắng, nhưng không đeo kính đen như mọi lần. Mặc dù mặt trời cuối buổi trưa còn hắt ánh nắng chói chang, bên trong phòng đánh bạc tuy rộng nhưng vẫn hơi tối.
Nhưng lần nầy, rủi thay cựu hoàng thua, mà thua đậm! Ba trăm năm mươi triệu franc vào túi đối thủ là Jack Warner, trùm điện ảnh Hollywood. Thua đậm khiến sáng hôm sau các báo, ít nhất là các báo vùng Cannes đều đưa tin thất thiệt nầy với những hàng tít lớn.
Tin đó không làm ai ngạc nhiên. Cựu hoàng Bảo Đại là một trong những tay cự phú mà dân chơi đều quen mặt. Trong những năm 50, thành phố đông, vui như vào hội. Đã thành mốt. Những buổi dạ hội nối tiếp nhau, y phục lấp lánh trang kim. Gái đẹp nô nức. Tiền lại chảy vào các vụ làm ăn. Kể cả việc buôn bán tiền Đông Dương.
Theo mốt thời thượng, Palm Beach trở thành sòng bạc mùa hè ở Cannes, nơi đặc biệt hấp dẫn đối với cựu hoàng. Một kiệt tác kiến trúc quái gở với những khía răng khế chạy xung quanh, khiến nó có phong cách Hồi giáo. Từ xa người ta đã nhận ra nó như một cây đèn biển trên mỏm Croisette khép lại vịnh Cannes về phía đông.
Những cái đầu từng mang vương miện chen chúc đến đây. Một tối mà có đến ba Hoàng đế và một chục hoàng tử đến góp mặt cùng nhau nốc sâm banh và lả lướt trên sàn nhảy rộng. Farouk, quốc vương Ai Cập, Hoàng đế Hailé Sélassié, quốc vương Iran, hoàng thân Umberto của Italie, các quốc vương Zogu của Albanie, Faycal của Ả-rập Xê-út và nhiều người khác. Bảo Đại chỉ là cựu quốc vương giữa những người khác. Không có gì nổi bật nhưng duy nhất có ông là Quốc trưởng một nước đang có chiến tranh.
Ông là một khách quen, một cột trụ trung thành của các dạ hội. Không phải chỉ bây giờ. Thời rất trẻ, ông đã tham gia Uỷ ban danh dự của Motor Yacht Club (Câu lạc bộ du thuyền y-at có động cơ).
Lâu đài Thorenc từ một biệt thự bình thường trở thành dinh chính phủ. Hình như không ai ngạc nhiên thấy 6 tháng một lần trụ sở thực sự của chính quyền Việt Nam một nước đang có chiến tranh, lại đặt trên Côte d Azur. Một cơ hội làm ăn béo bở của các khách sạn lớn nhờ có vũ hội của các nhân vật quan trọng, các bộ trưởng, các quan chức từ khắp nơi đến Cannes để yết kiến Quốc trưởng. Họ đông đảo và giàu có. Giáo chủ đạo Cao đài Việt Nam cũng như các đại diện chính phủ Pháp thường có mặt định kỳ tại Carlton.
Trong toà nhà bằng đá cẩm thạch, chung quanh Bảo Đại khoảng hai chục người cộng tác: tổng lý văn phòng, thư ký, cố vấn, sĩ quan hầu cận, lái xe. Cựu Hoàng hậu Nam Phương cũng có một văn phòng riêng trong đó luôn luôn có Nguyễn Tiến Lãng và vợ, kể cả Bảo Long mỗi khi đi đâu đều có thư ký riêng đi theo.
Bảo Đại vẫn ở Cannes khi phòng tuyến trên con đường số 4 sụp đổ và quân đội Việt Minh làm chủ chiến trường miền Bắc. Ông vẫn ở đó trong khi Điện Biên Phủ bị bao vây và vào lúc cuộc tiến công của tướng Giáp diễn ra trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến tranh Đông Dương...
Thất bại của quân đội Liên hiệp Pháp ngày càng dồn dập báo hiệu kết cục bi thảm của cuộc chiến khó bề tránh khỏi lan rộng nhưng ông vẫn giữ nguyên các thói quen của mình. Bao giờ ông cũng muốn có những nguồn cảm xúc mạnh. Ở Đà Lạt, trong rừng đêm ông liều lĩnh xông pha vào rừng để chạm trán với hổ. Ở Cannes ông nhảy lên môtô lao sâu vào những con đường nhỏ phía sau thành phố.
Bảo Đại vốn ưa liều lĩnh, tốc độ, vực thẳm, tiếng gẩm rú của chiếc môtô Norton. Luôn luôn phải tạo hứng thú như trước đây ông đã có lần ngồi sau tay lái bứt xa các cảnh binh bở hơi tai theo sát ông.
Vào các buổi chiều hay tối, ông chơi trò liều lĩnh trong các canh bạc. Những năm đó Cannes là thành phố đứng đầu nước Pháp về sòng bạc. Bảo Đại tự tay lái những chiếc xe limousine lộng lẫy dừng trước thềm các sới bạc. Có ai tin được không? Tin đồn đại thời đó cho biết ông là con bạc khát nước ham đánh to để rồi thua đậm như lần đánh bạc với ông trùm điện ảnh Mỹ Jack Warner. Những hồ lỳ trong Casino thành phố còn nhớ mãi về ván bạc đông người chơi mà không ồn ào.
Tối đó cựu hoàng thết đãi khoảng chục bạn bè, có những phụ nữ trẻ và vài người châu Á, trong đó có hoàng đệ Vĩnh Cẩn. Ông nầy vừa đến nơi là bước luôn vào phòng đánh bạc, rồi ở lỳ trong đó cho đến khi mọi người ra về. Họ còn nói Quốc trưởng Bảo Đại, một con bạc trầm tĩnh, uể oải dặt tiền rất thận trọng và dè sẻn. Ông uống ít, chỉ nước trà thôi, hiếm khi uống rượu. Thời gian như dài ra, những cái bóng người xúm xít bận rộn ba bốn giờ liền quanh các bàn đồ sộ để đánh bạc. Thường như thế. Nhiều buổi chiều trong tuần. Còn những ngày khác? Cũng như thế trong các sòng bạc khác, Nice, Monaco hay trong một số câu lạc bộ bài bạc khác. Họ phung phí ở đó những gì kiếm được ở một sòng bạc khác, chẳng hạn như Đại Thế giới đang làm mưa làm gió ở Sài Gòn. Rồi tiền lãi từ các vụ chuyển tiền từ đồng bạc Đông Dương sang tiền franc, chảy không ngớt vào một nhúm xun xoe nầy.
Cựu hoàng Bảo Đại sống như đế vương nhưng ông vẫn giữ nguyên phong cách quen thuộc của ông. Gặp ai ông cũng làm cho người đó hài lòng, mến phục ông bất kể địa vị xã hội như thế nào dù là hoàng thân công chúa hay nhân viên bình thường. Thời gian ông ở Sài Gòn không lâu, nhưng cũng để lại nhiều tình bạn và lòng tôn kính. Ai cũng cảm nhận ông là con người kín đáo, lịch sự, lễ độ và thông minh. Ông kết bạn cả với một anh hồ lỳ sòng bạc và mời anh ta đến ăn với ông tại lâu đài Thorenc. Paul Paccim, tay tổ chức có tài trong các buổi liên hoan dạ hội ở Cannes kể lại: một lần hắn cùng ông đi máy bay từ Nice đi Paris. Dọc đường máy bay trục trặc động cơ nên phải quay lại Nice. Paccini tổ chức một bữa ăn tạm tại quán ăn trong lúc chờ xe lửa chạy suốt đến thủ đô. Được tin báo, tất cả cộng đồng người Việt quanh vùng kéo đến hoan hô.
Nhiều phụ nữ đến với ông. Đủ loại. Thường là những gái làng chơi chuyên nghiệp, hay vợ các gia nhân đầy tớ, những người tình quen thuộc trong đó có "thứ phi" Bùi Mộng Điệp, được ông tậu cho một biệt thự ở Antibes. Ông có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Một cựu bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh đã tiết lộ: ông Bảo Đại khoe, từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người khác.
Người ta xì xào về những cuộc phiêu lưu tình ái của ông. Lucien Bodard kể lại: "Cựu hoàng mang về Việt Nam một cô nhân tình ở Cannes. Khi mọi người báo trước rằng cô ta sẽ lừa dối ông. Ông gạt đi: Tôi biết thế, nhưng anh muốn gì, cô gái ấy có nụ hôn như một thiên thần. Cô ấy hành nghề của cô ấy. Nhưng chính tôi mới là một con điếm đích thực"(1).
Một người thân thiết với ông bình phẩm chính xác hơn về nét đặc trưng của Bảo Đại là "một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet"(2).
Nếu người dân thành phố Cannes còn giữ những kỷ niệm về một ông hoàng ham thích hưởng lạc với những thú vui trần thế thì Nam Phương để lại kỷ niệm về một bà hoàng buồn bã. Đôi khi bà cũng tham dự những cuộc vui ở Palm Beach, nhưng không để lại ấn tượng gì và không bao giờ bà theo chồng vào các phòng đánh bạc. Bà ghê tởm cuộc sống ở Cannes. Bà không ưa những con người bà gặp ở đây, căm ghét những thói hư tật xấu của chồng, không chịu được lối sống buông thả của ông, không thể quen được với các thủ đoạn lừa dối trâng tráo, những hành vi bội bạc của ông. Tuy nhiên sắc đẹp của bà cũng làm xao xuyến tâm can nhiều vương công hoàng tử nhất là Giáo chủ Agha Khan, xứ Ấn Độ, đã liên tiếp mời mọc và nhiều lần được đón tiếp bà và các con trong dinh thự rộng mênh mông của ông. Nhưng tin đồn đại ở Cannes cũng không cho biết gì thêm. Chắc chắn bà Nam Phương vẫn là một người vợ chung tình.
*** Bọn trẻ rất mê thành phố Cannes. Chúng được đến thăm cả những phòng đánh bạc nữa, nhờ có phép đặc biệt của bộ trưởng Nội vụ. Mỗi ngày có những thú vui, những môn thể thao riêng cho ngày đó. Cả những chuyến đi chơi xa không dứt. Các bản tin của sở tình báo ghi nhận những chuyến đi Vitell, Paris, Evian, đảo Corse bằng chiếc Libérator, máy bay riêng của cựu hoàng.
Ông rất hài lòng và cám ơn chính quyền địa phương đã đón tiếp ông. Ông viết cho thị trưởng Maurice Cornut Gentille: "Tôi sẽ không quên sự chu đáo, kín đáo và ân cần mà các ngài đã dành cho tôi, nhờ đó không lúc nào tôi cảm thấy mình là người nước ngoài mà luôn luôn thấy mình được đùm bọc như là một đồng bào của các ngài"(3).
Một cuộc sống quả là vui vẻ, đẹp đẽ, thú vị và nhẹ nhàng, nếu ở quê hương xa xôi của ông không có chiến tranh - cuộc chiến tranh bẩn thỉu với những đau thương khôn lường: 460 nghìn người Việt Nam, 60 nghìn người Pháp chết từ năm 1949.
Một tháng sau chuyến viếng thăm Sài Gòn lần cuối cùng những cuộc thương thuyết hoà bình bắt đầu. Cuộc xung đột giữa hai bên Pháp-Việt đã trở thành vấn đề quốc tế. Các cuộc thương lượng để đem lại hoà bình cho Đông Dương đã diễn ra ở Genève, tại trụ sở của Liên hợp quốc, có năm nước tham dự: Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Pháp. Chính giữa gian phòng lớn, hai đoàn đại biểu của hai bên Việt Nam ngồi đối diện nhau: đoàn đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn đại biểu của chính quyền Bảo Đại.
Cùng thời gian đó, Thủ tướng Joseph Laniel ký tại điện Matignon - dinh thủ tướng, một hiệp ước chẳng biết thứ mấy dành cho Việt Nam quyền độc lập hoàn toàn. Rõ ràng là quá muộn.
Vào giờ hội nghị lập lại hoà bình ở Đông Dương khai mạc tại Genève, Bảo Đại đang ở Cannes. Những nhà thương thuyết đi lại như con thoi giữa lâu đài Thorenc và thành phố Thuỵ Sĩ để thông báo với Bảo Đại - Tất cả những người đứng đầu chính phủ Pháp đều trịnh trọng thề tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam - không có chuyện trở lại vấn đề thống nhất đã phải trả giá đắt mới giành được. Bảo Đại không tin. Lúc đầu chính phủ của ông từ chối không ngồi chung bàn với đại diện Việt Minh. Georges Bidault, lúc đó là bộ trưởng Ngoại giao phải bảo đảm bằng văn bản do chính ông ta viết, rằng: "Chính phủ Pháp không tìm cách lập ra hai quốc gia riêng biệt, mỗi nước có khuynh hướng quốc tế riêng, có hại đến sự thống nhất của Việt Nam", đến lúc đó chính quyền Bảo Đại mới chịu cử đại biểu đến Genève.
Đúng ngày hội nghị khai mạc, Điện Biên Phủ thất thủ, cùng với nó là sự sụp đổ tinh thần của quân đội Pháp - Việt. Sự tan rã hoàn toàn của lực lượng đồn trú trong tập đoàn cứ điểm đã gây choáng váng tai hại hơn bất kỳ một thất bại quân sự quan trọng nào dù nặng nề đến đâu. Chính là ở đây, trong cuộc đối đầu tổng lực, quân Pháp đã tin chắc là phải đánh bại quân Việt Minh. Lần đầu tiên có lẽ từ khi chiến tranh bắt đầu, công luận Pháp thể hiện sự quan tâm đến nỗi thống khổ ở xứ thuộc địa cũ châu Á. Dư luận chăm chú theo dõi những cực nhọc khốn khó, những biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng của quân đội Pháp trong năm mươi bảy ngày bị bao vây. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mang giá trị biểu tượng: hình ảnh những xác chết phủ kín chiến hào, những đoàn dài tù binh Pháp đi diễu dưới sự áp tải của những người lính Việt Minh thấp bé đã khiến dư luận ở chính quốc ngao ngán. Còn quân đội quốc gia Việt Nam, đội quân đã được Bảo Đại tô vẽ cho đẹp mỗi khi duyệt binh đang tan rã tơi tả. Chỉ vài tuần sau Điện Biên Phủ đã có hai mươi nhăm nghìn lính quốc gia bỏ ngũ(4).
Cùng với sự thất bại Điện Biên Phủ, các chính phủ Pháp và Việt theo nhau đổ. Tại Paris, Pierre Mendès France thay Joseph Laniel. Ở Sài Gòn, hoàng thân Bửu Lộc xin từ chức. Ngô Đình Diệm nhận lời mời của quốc trưởng Bảo Đại đứng ra lập chính phủ mới...
Mendès France cam kết đem lại hoà bình bằng thương lượng trong vòng một tháng. Trái với những lời bảo đảm của người tiền nhiệm, ngay lúc đầu ông đề nghị chia cắt Việt Nam thành hai miền riêng biệt.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, các nhà thương thuyết đồng ý rạch một vạch ngang trên vĩ tuyến 17 phía trên Huế một chút. Huế nằm trong vùng không Cộng sản. Các bên thoả thuận sau hai năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và quyết định chế độ chính trị của Việt Nam.
Hai bên đình chiến tại chỗ. Chiến tranh chấm dứt.
Việt Minh tuy là người thắng trận, chỉ chấp nhận chấm dứt xung đột dưới áp lực của các đồng minh Liên Xô và Trung Quốc.
Nhưng với Bảo Đại, đó là sự phá sản. Ông không được đếm xỉa tới. Không ai buồn nghe những lời phản kháng của ông. Những đại biểu của ông chỉ đóng vai phụ. Ông hạ lệnh cho họ rời khỏi hội nghị. Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết không mang chữ ký của đại biểu chính quyền Bảo Đại. Phe ông không chỉ thất bại mà Việt Nam lại bị chia cắt làm đôi.
Thống nhất của Việt Nam, đó là mục tiêu đấu tranh của ông. Độc lập, thống nhất là trên hết. Vì nền thống nhất ông đã làm điên đầu người Pháp từ nhiều năm, đã thoái thác, lần lữa mãi trước khi chấp nhận "giải pháp" của họ. Kết cục của hội nghị Genève đối với ông còn hơn là một thất bại, nó còn là một cú đá sau lưng.
Dường như định mệnh và các cường quốc lúc đó đã quét ông như quét một hạt bụi vô giá trị, không hề tôn trọng hàng chục nghìn binh lính đã bỏ xác trên chiến địa chết vì những ý tưởng của ông. Khác nào một tên đầy tớ bị người ta tống cổ đi mà không thèm cho biết là nó bị đuổi.
Chú thích: (1) Lucien Bodard. La Guerre d Indochine, L humiliation (Chiến tranh Đông Dương - Sự nhục nhã) - Nhà xuất bản Gallimard, 1973.
(2) Jean Bresson, La Fabuleuse Histoire de Cannes (Huyền thoại về thành phố Cannes) - Nhà xuất bản Le Rocher, 1981.
(3) Cannes: Hồ sơ Lưu trữ thành phố.
(4) Georges Chaffard, Carnets secrets de la Décolonisation (Tài liệu mật về phi thực dân hoá) Nhà xuất bản Calmann-Lévy, Alain Ruscio trích dẫn trong La guerre française d Indochine (Chiến tranh Đông Dương của Pháp)


*
Chương 28

Bảo Long kéo cao chiếc mũ ca-lô, cứ mỗi bước lại tụt dần xuống trán. Phân đội anh còn lại 28 người. Những người lính xung kích đi bộ, khẩu Mas 36 bên hông. Lá rừng được tô điểm thêm dưới ánh chiều tà xứ Bretagne. Họ đang ở cây số thứ 38. Không một ai trong đám lính trẻ nầy tỏ ra mệt nhọc, bước chân ngắn hơn lúc khởi hành, nhưng cũng cứng cỏi hơn. Bảo Long đi ở hàng cuối phân đội, không nói năng gì. Ngoài ra cũng rất ít ai nói chuyện từ lúc khởi hành, tiếng động cũng ít, ngoài tiếng lạo xạo chân bước trên đường. Viên sĩ quan tung tăng trên hàng đầu, gáy cạo nhẵn, người cao lớn bệ vệ. Thân hình hắn vượt trội hẳn lên so với binh sĩ trong hàng quân. Hắn bắt những người lính bé nhỏ gần như phải chạy cho kịp bước chân hắn. Mặc dù mệt nhọc và đường xa, cuộc hành quân xem như một trò chơi. Một thành tích thể lực thực hiện trong một không khí gần như vui vẻ. Họ đều còn trẻ, khỏe mạnh, rắn rỏi, gắn bó với nhau trong nỗ lực chung. Chiến tranh và những nỗi khổ cực đã lùi xa cũng như thời đi học Đại học, cũng như cuộc sống ở Việt Nam...


Từ nhiều tháng nay, Bảo Long đã tòng quân như lời khuyên của cựu hoàng, cha anh.
Từ ngày 6 tháng 10 năm 1954, không phải thi tuyển sinh, anh đặc cách được vào học trường võ bị Saint-Cyr.
Hôm đó, bà Nam Phương đi cùng con trai vào sân trường võ bị liên quân ở Coetquidan, thiếu tướng chỉ huy trưởng nhà trường đón tiếp họ, mời họ ăn trưa. Ban sáng theo lệ, bà và con trai đến thăm nghị viện Bretagne ở Rennes.
Buổi chiều bà ra về một mình. Chàng thanh niên từ nay trở thành học sinh quân, trường võ bị, thành viên của cái mà tiếng lóng ở Saint-Cyr gọi là "bazar" tức là người của baz tiếng lóng có nghĩa là trường học. Bazar c


Chẳng bao lâu, Bảo Long trở thành một học sinh gương mẫu và xuất sắc. Như những người khác, anh lặn lội trong rừng Brocéliande, lưng đeo một ba lô đầy sỏi. Như những người khác, anh thu dọn chỗ nằm vuông vức, lăn lê bò toài trong bùn lầy, hò hét các mệnh lệnh. Khi đến lượt, cũng như những người khác, anh cũng phải cọ rửa nhà xí. Anh không như một số thanh niên khác, quá mảnh mai yếu đuối, quá mệt mỏi, đã tuyên bố bỏ cuộc sau ba tháng đầu tiên của khoá tân binh. Chủ yếu trong các ngày qua là tập đi đều bước, là những buổi diễn tập linh tinh, nhằm mục đích dạy cho những thanh niên tân binh biết chỉ huy người khác. Đều đặn, một đại diện chính thức của chính phủ Việt Nam đến trường tìm hiểu một cách tôn kính những gì xảy ra với người lính mới..
Bảo Long bình thản chịu đựng cuộc sống khắc khổ trong quân ngũ, chan hoà với hai mươi bảy bạn đồng ngũ chung chạ trong một phòng. Suốt thời gian thử thách đó mỗi đêm chỉ ngủ ba hoặc bốn giờ. Trong trường không được nói chuyện chính trị. Không nói gì về Việt Nam, vào thời điểm nầy cuộc xung đột giữa các giáo phái bùng lên dữ dội ở Sài Gòn. Bảo Long không muốn biết điều gì đang xảy ra trên đất nước anh. Quá nhiều đau khổ, quá nhiều luyến tiếc khiến anh muốn xa hẳn, không muốn dính dáng gì với đất nước khiến anh nghĩ về quê hương. Anh không đọc báo, thưa dần những cuộc tiếp xúc với đồng hương. Tuy cuộc sống quân ngũ tạo thuận lợi cho tình bạn phát triển, anh không kết bạn với ai, lúc nào cũng lặng lẽ, xa lánh, giữ gìn ý tứ dù tình đoàn kết quân ngũ dễ làm cho mọi người gắn bó với nhau hơn.


Bảo Long vào học trường võ bị với tư cách sinh viên của một nước trong Liên hiệp Pháp. Anh có thể rời bỏ trường bất kỳ lúc nào anh muốn. Nhưng anh ở lại. Kiêu hãnh trong bộ quân phục áo đỏ, mũ chùm lông, đặc trưng của học sinh quân Saint-Cyr, anh tham gia cuộc diễu binh ngày Quốc khánh Pháp 14 tháng 7 năm 1955, đi qua quảng trường Champs-Elysées, anh đi ở hàng cuối của tiểu đoàn vì vóc dáng bé nhỏ. Nhưng cha và mẹ anh đều không tới xem cuộc diễu binh đó.
Tuy nhiên, dù có những biểu hiện bề ngoài đó, trong những năm đầu tập luyện, Bảo Long bắt đầu nhận ra có lẽ tốt hơn là nên chú tâm vào việc học triết học. Lòng say mê binh nghiệp giảm dần.
Cuối năm 1956, sau hai năm học anh phải chọn một trường thực hành. Gần như toàn bộ học sinh quân trong khoá của anh nhanh chóng đi thẳng sang Algérie tham gia chiến đấu. Cuộc chiến tranh thuộc địa mới của Pháp đang cần người, nhất là cán bộ khung. Chỉ còn lại "những người nước ngoài". Tất cả có sáu người: một hoàng tử Cao Miên, một thiếu uý Lào, hai người Nam Mỹ, một thiếu tá ngự lâm quân của Quốc vương Iran và anh. Anh vẫn còn chính thức thuộc biên chế quân đội quốc gia Việt Nam nên không thể đi chiến đấu được. Vị thế của anh rất kỳ lạ. Anh không có một thứ giấy tờ nào xác nhận nhân thân ngoài một hộ chiếu ngoại giao. Với người Pháp, anh là người Việt Nam, nhưng với đồng bào mình, anh không sống chung cùng họ với tư cách công dân.
Vậy làm gì đây? Ở lại quân đội Pháp chăng? Nhưng anh chán ngắt một đội quân đã tiến hành chiến tranh thuộc địa với đất nước anh, đã bại trận ở Điện Biên Phủ. May sao các cấp chỉ huy thấy anh thích cưỡi ngựa bèn đề nghị anh sang học trường kỵ binh - thiết giáp ở Saumur.


Lần nầy tại biệt thự Bentley Continental của cha, anh đi về như con thoi giữa thành phố nhỏ Touraine và thủ đô Paris. Anh được phong thiếu uý. Bạn hữu cho đây là một thắng lợi thực sự. Anh sống một mình xa doanh trại trong một gian phòng trong thành phố. Vẫn ý tứ giữ gìn, ít đàn bà, ít những cuộc phiêu lưu tình ái trong cái năm anh bị hiểu lầm là dân ăn chơi. Mỗi thứ bảy hay chủ nhật, trong căn hộ gia đình ở Neuilly, anh đóng cửa dùng phần lớn thời gian để đọc sách. Chẳng phải là binh pháp của Clausewitz, cũng chẳng phải những tiểu luận về chiến lược mà là những nhà siêu thực quý hiếm đã thu hút anh như Lise Dcharme hay Marcel Béalu. Lạ lùng là ở Saumur anh đã gặp những sĩ quan khác có cùng sở thích.


Rõ ràng Bảo Long rất ít giống cha. Trong khi vẫn nói anh quyến luyến và khâm phục cha nhưng anh hết sức cố gắng để không giống cha. Tất cả những gì là kiêu căng, hợm hĩnh và tự mãn đều xa lạ đối với anh. Tính tình Bảo Long hướng về cái bi thảm còn cha anh, ngược lại, ham chơi, thích hưởng lạc.
Năm học thực hành kết thúc, xa Saumur, xa bầy ngựa, anh nghĩ đến... cái chết. Một cái chết nhanh chóng, nếu có thể, phải là cái chết vẻ vang. Anh không vượt qua được nỗi đau mất nước và quên đi thất bại thảm hại của cha anh. Trong căn phòng nhỏ ở trường ky binh - thiết giáp Saumur, chàng thanh niên kế vị triều Nguyễn quyết định dứt khoát, tìm đến cái chết để khỏi phải đau khổ, chấm dứt chuỗi thất bại, và bơ vơ trong thời niên thiếu của mình.


Thay vì tự tử anh xin chuyển sang đội quân lê dương để đi chiến đấu ở Algérie. Anh nghĩ đó là cách chắc chắn nhất để không bao giờ phải nghĩ lại nữa và tự kết liễu đời mình nhanh nhất. Có lúc anh đã tính lái một trong những chiếc xe sang trọng của anh đâm thẳng vào gốc cây để được chết nhanh hơn nữa nhưng rồi anh lại quyết định viết một lá đơn xin thuyên chuyển.
Là người nước ngoài, nếu muốn gặp lại các bạn ở Saint-Cyr, chỉ có cách là sung vào đội quân lê dương gồm lính nước ngoài. Sau khi gửi đơn vào mùa xuân anh trở về nhà và sống trong khung cảnh của lâu đài Thorenc uy nghi để chờ đợi trả lời. Phải gần ba tháng sau anh mới nhận được công văn chấp thuận của Bộ chiến tranh, trong khi ở Sài Gòn người ta đem hình nộm và ảnh chân dung của cha anh ra đốt và làm nhục. Mẹ anh cực chẳng đã phải cố tìm mọi cách dàn xếp và cuối cùng mới tìm ra giải pháp với Ngô Đình Diệm để được yên thân.


Anh không hỏi ý kiến ai, chìm đắm trong cô đơn, trong nỗi tuyệt vọng mất nước, cũng không báo cho cha mẹ biết. Khi biết quyết định của con, Bảo Đại cũng như Nam Phương "tôn trọng ý nguyện của con" không tìm cách làm thay đổi sự lựa chọn của con, tránh không gợi vấn đề và giữ im lặng không bộc lộ cơn xúc động trước mặt con. Chắc hẳn Bảo Đại cảm thấy tổn thương vì con không nói thẳng với mình mà chỉ được vợ cho biết.
*** Hàng rào dây kẽm gai kéo dài mãi, rất xa. Đó là phòng tuyến "cái bừa" dài 320km đầy chướng ngại bằng dây kẽm và mìn. Bốn mét chiều ngang, hai mét chiều cao. Giữa các hàng rào là bức tường gồm mười một hàng dây dẫn điện cao thế từ 5 đến 7 nghìn vôn.


Phía sau xa xa là xứ Tunisie, đất khô cằn hoặc đôi khi có những cây ôliu. Phòng tuyến "La Herse (Cái bừa)" hay còn gọi là phòng tuyến Morice - lấy tên của vị bộ trưởng Chiến tranh có nhiệm kỳ ngắn ngủi, người đã đề xướng và chỉ đạo việc xây dựng nó. Phòng tuyến nầy khoá chặt Algérie theo dọc chiều dài biên giới. Phòng tuyến nầy kéo dài đến sa mạc. Nơi nầy không có chỗ ẩn nấp, những vết chân đi trên cát ngăn cản không cho quân đội bí mật đi qua. Đó là một sự khám phá, lúc đầu chỉ được coi là một vật lạ mắt, đơn giản nhưng sau nầy tỏ ra là một bộ máy đáng sợ. Nó sẽ làm thay đổi số phận của các vũ khí.

***


Những xe trinh sát bọc thép (EBR) của trung đội tiến thẳng về phía nam. Chúng chạy nhanh, tốc độ trên 60 km một giờ. Tám bánh xe nhả bụi. Từng quãng một dọc theo hàng rào thép lại có những hầm tác chiến.
Đêm qua tín hiệu báo động đã phát ra từ những hầm nầy. Lực lượng du kích fellagha của Algérie đã nhổ bức tường thép, mang đầy súng đạn trong người, bất chấp radar, mìn sát thương, nhất là dây thép mang điện thế hàng nghìn vôn, tìm cách vượt qua phòng tuyến. Lần nầy họ dùng những dụng cụ đơn giản và thô sơ nhất. Đó là kìm cắt bằng thép, những chiếc kéo cắt nặng nề sản xuất tại Đức. Họ dũng mãnh xông lên, chọc thủng phòng tuyến, hoặc phủ những nệm cao su cách điện lên trên dây thép gai có điện hoặc còn chui vào các cống ngầm luồn dưới hàng rào dây kẽm gai - công trình cổ của người La Mã xưa kia và chỉ có người dân địa phương mới biết. Lần nầy, họ đã coi thường thuốc nổ để đi qua phòng tuyến một cách cổ điển nhất vì vậy các đồn bốt Pháp đã phát tín hiệu báo động.


Bảo Long vươn nửa người ra khỏi tháp xe bọc thép. Mặt trời vừa lên. Theo một kịch bản đã hiệu chỉnh kỹ, đơn vị tuẩn tiễu lê dương đã xác định một cách chính xác vị trí cửa mở và chuyển dịch vị trí ước định của quân du kích. Sáng ra, tiểu đoàn xe bọc thép được lệnh bịt chặt những nơi nghi có địch đi qua. Bảo Long chỉ huy trung đội xe bọc thép thi hành nhiệm vụ nầy.
Động cơ gầm rú, những khối thép đồ sộ lúc lắc di chuyển trong đống đá vụn câm lặng. Anh nói: "Quanh đây 10 km người ta nghe được tiếng động cơ của chúng ta đang di chuyển". Chàng thanh niên mảnh dẻ, kế vị ngôi báu An Nam đã đi được một quãng xa. Trong đoàn quân không ai là không biết anh là ai, từ đâu đến. Đầu đội chiếc mũ sắt nặng sụp gần ngang tầm mắt, anh hô khẩu lệnh. Ngắn gọn và đanh thép. Để binh sĩ dưới quyền phải tuân lệnh, không trù trừ, do dự. Như đã thành quen. Như một công việc thông thạo. Ở Saint-Cyr trong một cuộc diễn tập người ta đã dạy anh biết cách chỉ huy một đơn vị di chuyển ở cự ly 50 hoặc 60 m. Trung đội lao lên theo anh. Bảo Long biết đọc bản đồ. Những tấm bản đồ rộng, in trên giấy kẻ millimét của Viện Địa lý quốc gia (IGN). Nhiều chỉ huy đơn vị không đọc được, nhất là các hạ sĩ quan thường bị lạc giữa sa mạc đầy sỏi đá xung quanh Batna hoặc Tebessa. Anh đọc thạo hơn những người khác, đây là chuyên môn của anh.


Như có khiếu trời ban. Anh nổi tiếng vì thế, như một thánh nhân hay thầy bói. Đi với anh thì đoàn xe bọc thép không bao giờ bị lạc. Phía trước đơn vị tiên phong đã gặp địch. Cuộc chạm súng bắt đẩu. Chỉ thấy bụi mù hất lên từng quãng, ánh chớp của đạn pháo. Trên cao, những chiếc máy bay bắn phá xối xả vào đối phương bị bao vây. Gần như một việc đã thành nếp. Từ nhiều năm nay cuộc sống của anh ở đây là như thế. Hành quân trên đường, lần theo dấu vết, săn đuổi du kích. Trong năm ngày thì bốn ngày như vậy. Một cuộc sống rượt đuổi dưới ánh nắng mặt trời và bụi bám đầy mặt. Nhưng ít ra anh cũng được tự do hít thở không khí ngoài trời. Các bạn anh cùng đi trong xe, hai người lái, một thợ máy, mình đẫm mồ hôi. Chiến tranh là như vậy. Không hề có tiếp xúc với dân chúng, ít được nghỉ ngơi, chỉ có rượt đuổi theo dấu chân, lại còn bụi bặm và xa xa là hình ảnh các cuộc giao chiến. Dễ dàng, nhanh chóng hay gay go, ác liệt như trận Aurès. Cả một đại đội của trung đoàn 4 khinh binh lê dương bị quân kháng chiến Algérie phản công và dồn xuống vực sâu.


Lần nầy quân đổ bộ đường không đã chạm súng với địch. Du kích chọc thủng phòng tuyến bao giờ cũng nhằm mục đích tiếp tế vũ khí đạn được cho lực lượng wilayas ở nội địa. Chính vì thế mà họ xuất phát từ các căn cứ đặt ở Tunisie, đương đầu với dây thép gai dẫn điện 5.000 vôn, những trái mìn, những trung đoàn lê dương, bộ binh và xe bọc thép truy đuổi họ. Được trang bị tốt và khi tập hợp lại, họ tiến hành các trận đánh ác liệt. Bao nhiêu người chết, bao nhiêu xác người bị phanh thây dưới ánh mặt trời chói chang? Hàng nghìn. Tháng 4 năm 1958, quân giải phóng dân tộc Algérie (FNL) ỷ vào quân số đông 900 người, liều lĩnh chọc thủng phòng tuyến điện qua hai điểm khác nhau. 300, chỉ có 300 người vượt qua an toàn. Và cuộc truy kích bắt đầu. Cuối cùng chỉ còn 30 người sống sót. 30 trên 900, phòng tuyến điện giết người quả là hiệu nghiệm. Hơn là một bước tường ngăn, chỉ như một vạch thẳng lạnh lùng, phòng tuyến điện đem lại hy vọng cho các nhà chiến lược Pháp. Cuộc kháng chiến Algérie thu hẹp dần, tàn lụi rồi tắt ngấm vì không có lương thực, không có chỗ dựa về các nguồn dự trữ đặt ở Tunisie. Những điều đó quân lê dương biết cả. Trong nhiều năm sau đó họ xông vào các đơn vị du kích bị bao vây và tiêu diệt hết.


Chiến xa của Bảo Long bắn đầu tiên. Chính anh đã tọng viên đạn dài vào cơ bẩm của pháo. Đó là vai trò của anh. Anh hạ lệnh khai hoả. Tuy nhiên còn xa mới đến chỗ hai bên giao chiến. Anh thoáng thấy tiền quân của quân đội Pháp đã xung trận, đồng đội của anh trong xe hét lên. Bằng tiếng Đức. Họ đều là người Đức, phần đông biết vài tiếng Pháp. Trong trận chiến họ không cần tìm hiểu tiếng của nhau.
Một hoàng tử người Việt làm gì đây trên một chiến xa do người Đức lái, một chiến xa chạy hết tốc độ để đi giết những người yêu nước Algérie?
Trong khi hành quân, Bảo Long không đặt ra câu hỏi nầy nhưng khi tiếng va chạm của vũ khí lắng xuống anh lại bị ám ảnh về điều phi lý của tình cảnh.
Mấy tháng sau, chiếc xe của Bảo Long nổ tung do đè phải quả mìn khi trung đội xe bọc thép vượt qua một "khu trắng" phân cách hàng rào dây thép gai và biên giới. Dây thép gai dẫn điện lẫn vào đất ở những chỗ thuận tiện nhất và đôi khi đi xa khỏi đường phân cách. Các chiến xa đến bờ một con sông phải vượt qua, ở đó có một trái mìn chôn dưới đất. Một trái mìn - một cỗ máy giết người cổ xưa - quân du kích đã đoạt lại của người Ai Cập trước đây do quân Anh gài xung quanh kênh đào Suez. Rất may là trái mìn nổ dưới gầm xe nên sức ép hình chữ V chỉ lật nhào chiếc xe bọc thép và hất anh ra khỏi xe. Bất tỉnh... Anh không nhớ sau đó thế nào. Mọi người kể lại họ đã tưởng anh hoá điên, loạn trí, hét lên những mệnh lệnh rời rạc, làm tê liệt mọi liên lạc vô tuyến. Những người khác đã chết trong những trường hợp tương tự.


Trong những năm anh phục vụ ở Algérie ba mươi xe bọc thép đã nổ tung như vậy, gần chiến luỹ Herse. Một chuẩn uý trong đại đội anh đã chết, xác tan từng mảnh trong hoàn cảnh tương tự. Anh ta nhảy ra khỏi xe và đã bị những mảnh sắt của chiếc xe trúng mìn phạt cụt đầu. Thế nghĩa là cái chết rút cục cũng chỉ là cái chết! Bảo Long chẳng đến đây vì thế sao? Để gặp cái chết nhanh gọn và vinh quang. Nhưng không. Anh không chết, cũng không điên. Anh tỉnh lại sau sáu tiếng đồng hồ sau, hoàn toàn không ý thức được cái gì đã xảy ra. Hai ngày nằm viện, xét nghiệm đủ thứ... Chẳng làm sao cả. Anh trở về doanh trại. Gặp lại tháp xe của mình. Lại những công việc đã thành nếp trong thời chiến. Cũng như trước đây anh quyết định đăng lính lê dương mà không hỏi ý kiến ai, lần nầy, đánh trận bị thương trở về anh không hé răng nửa lời. Khi được về phép gặp lại cha mẹ những ngày sau đó, anh cũng không nói gì về chuyện trái mìn.


Mãi sáu tháng sau, cha mẹ anh mới biết tin. Qua báo chí. Một nhóm phóng viên đến thăm tiểu đoàn của anh biết chuyện đã loan tin đó. Khi tin được công bố, trung uý Bảo Long đang nghỉ ở Cannes.
Đó là một sĩ quan lê dương kỳ quặc, trầm lặng, luôn luôn dè dặt, ý tứ. Ham thích đánh cờ, anh làm cho các bạn đồng ngũ cũng say mê không kém. Anh thắng họ dễ dàng. Để làm cho ván cờ thêm thú vị, anh làm như người khiếm thị đánh cờ. Không nhìn vào bàn cờ, anh chỉ báo trước nước đi bằng các con số. Anh đều đặn nhận được sách từ một cửa hàng sách cực tả ở Paris. Cửa hàng nầy gửi cho anh những ấn phẩm khoa học viễn tưởng hoặc những tác phẩm siêu thực bằng tiếng Anh.
Anh làm gì trong bộ quân phục nầy? Trong cuộc chiến tranh nầy? Chắc chắn là anh đã tự đặt cho mình câu hỏi nầy và chắc đã trao đổi với duy nhất một người có thể gọi là chỗ thân tình. Tên anh ta là Morillon, cũng là học sinh quân Saint-Cyr như anh, sau nầy trở thành người chỉ huy nổi tiếng của lực lượng can thiệp quốc tế làm nhiệm vụ ngăn cách hai phe đối lập ở Bosnie, thuộc Liên bang Nam Tư (cũ)...
Anh chán chường, ghê tởm mọi thứ, trong suốt cuộc chiến tranh Algérie, một cuộc chiến tranh thuộc địa, đối xứng với cuộc chiến tranh Đông Dương đã đày đoạ đất nước anh..
Trong trung đội do anh chỉ huy, phần lớn binh sĩ dưới quyền là người Đức. Đó là những con người dễ chỉ huy, biết vâng lời, biết kính trọng. Nhưng đó là những lính đánh thuê không cùng chia sẻ những lo toan của đội quân họ đang phục vụ. Nước Algérie thuộc Pháp không phải là mục đích chiến đấu của họ. Họ thường phát biểu: Đó là những vấn đề của người Pháp. Bảo Long nhất trí với họ: "Điều khủng khiếp không phải là nhìn thấy máu đổ ra hay biết có bao nhiêu người chết mà là tâm trạng thảm hại, tinh thần suy sụp của quân đội, là tính phi nghĩa của cuộc chiến, đã nhìn thấy trước là sẽ thất bại... Trường hợp của đất nước tôi trước đây cũng thế"(1).


Chung quanh anh, vầng hào quang đế chế vẫn chưa tắt. Là sĩ quan trong quân đội lê dương, vẫn được hưởng đặc quyền có một phòng riêng, có sĩ quan hầu cận người Việt nguyên là sĩ quan cũ ngự lâm quân trong khi Bảo Long mới mang quân hàm đại tá. Một hôm nhìn thấy một con bọ cạp bò lại gần Bảo Long anh ta liền thò tay chộp ngay lấy. Bảo Long hỏi tại sao phải làm như thế, anh ta đáp, tự nhiên: "Tôi làm thế vì đất nước tôi, ngài là Hoàng tử kế vị...". Một lần khác, một chiến xa sắp nổ vì chập điện, Bảo Long lao vào xe để ngắt điện. Nhưng một người lính Việt Nam lao lên trước, xô bật anh ra, đẩy anh ra xa và tự mình nhảy vào xe.
Hình ảnh đế chế còn trỗi đậy khi Bảo Long gặp người cháu của Hàm Nghi, vị Hoàng dế trẻ tuổi bị phế truất cuối thế kỷ trước vì hoạt động chống Pháp. Anh ta cũng là sĩ quan lê dương. Hai người làm quen với nhau và trò chuyện. Cũng là một việc éo le: Cả hai hậu duệ của các ông vua triều Nguyễn nay cùng chiến đấu chung dưới một bóng cờ để giữ một thuộc địa lớn, cuối cùng cho nước Pháp.
Tại phòng ăn của sĩ quan - Bảo Long ít khi tới đó - bỗng nhiên anh nhận ra bộ mặt được che giấu của cuộc chiến tranh bẩn thỉu nầy. Nhưng người của phía đối phương bị bắt đều bị tra tấn một cách hệ thống. Viên đại tá cùng ăn không hiểu tại sao anh ngồi im lặng và xin cáo biệt, viện cớ khó ở.
Sự phát hiện nầy sau ba năm trong quân ngũ, thoạt tiên là trong trận chiến Aurès, rồi trên phòng tuyến La Herse, khiến anh xin chuyển khỏi đơn vị về một lớp tu nghiệp của kỵ binh - thiết giáp.
Thời gian phục vụ ở Algérie đã để lại trong anh một dư vị cay đắng. Một cảm giác ghê tởm. Đạo quân anh đã lầm lạc phục vụ suốt mười năm, không để lại cho anh một kỷ niệm nào tốt đẹp. Anh đã mất thăng bằng về tinh thần và không tìm được chút hơi ấm tình người anh vẫn đòi hỏi một cách tuyệt vọng (2).
Chú thích: (1) Hỏi chuyện Thái tử Bảo Long, Paris, tháng 9 năm 1994. (2) Kết thúc chiến dịch, Bảo Long được tặng thưởng huân chương "Quân công (valeur militaire)" với nhiều ngôi sao: đỏ, bạc, đồng.

*


VUA BẢO ĐẠI 12

*





Thắng lợi của quân Pháp chỉ là tạm thời. Bộ đội Việt Minh tưởng như tan rã, tan biến vào vùng rừng núi, nhưng vài ngày sau lại xuất hiện. Họ chiến đấu bền bỉ, kiên quyết, không hề lay chuyển trước muôn vàn khó khăn. Không bao giờ có thể tiêu diệt được họ dù có gây cho họ những thất bại tạm thời lúc đầu. Còn quân viễn chinh Pháp, chẳng mấy chốc đã tăng quân số tới một trăm nghìn người gồm cả lính Âu, Bắc Phi, nguỵ quân người Việt được Pháp trang bị. Họ chỉ làm chủ được các thành phố, thị trấn, đường cái lớn, những địa điểm quan trọng, xây dựng hệ thống cứ điểm, boong-ke, tháp canh để bảo vệ vùng kiểm soát. Nhưng quanh họ là những vòng vây, tầng tầng lớp lớp... Họ chỉ làm chủ được ban ngày còn ban đêm bộ đội, du kích Việt Nam mặc sức tung hoành bất chấp pháo sáng, vũ khí hơn hẳn của đối phương. Lê dương Bắc Phi, lính dù hết thảy đều kinh hoàng... Một mối lo sợ âm ỉ, kéo dài, phát sinh ngay từ sau những cuộc giao chiến đầu tiên, mỗi ngày một tăng lên sau những cuộc đụng độ đẫm máu để lại những xác chết của đồng đội thu nhặt được mỗi sớm mai.


Quân Nhật, quân Anh, quân Trung Hoa, tất cả đều đã rút về nước. Từ đây chỉ còn hai địch thủ Việt và Pháp đối mặt nhau.
Chiến sự lan rộng khắp nước. Mỗi thị trấn, mỗi mảnh ruộng đều có thể là nơi diễn ra một trận phục kích, là mục tiêu của một trận pháo kích bằng súng cối. Trên mỗi đoạn đường nhỏ có thể có bẫy chông, làm bằng tre già rắn như thép sắt xuyên thủng da thịt.
Hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn được xem như những thủ đô thời chiến. Tại đây không xa mặt trận bao nhiêu, nhưng cuộc sóng khá hẳn. Tiền bạc từ Pháp rót sang để chi trả cho cuộc tái chiếm thuộc địa tràn ngập khắp các phố phường, các hiệu buôn. Các công ty vận tải, những nhà buôn, nhà ngân hàng và cả những nhà chứa là những nơi tiền vào như nước...
Trong lúc người Pháp lẫn người Việt yên vị trong cuộc sống sung túc và nguy hiểm nầy thì một sự thật đập vào mắt: không thể đè bẹp đối phương, không hy vọng một thắng lợi quyết định, dứt khoát bằng giải pháp thuần tuý quân sự. Việt Minh, được đa số dân chúng ủng hộ tự nguyện hay không tự nguyện, là một đối thủ quá vững chắc, rất khó nắm bắt.


Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã rời khỏi Bắc Bộ phủ ở trung tâm thành phố Hà Nội, phân tán các cơ quan lãnh đạo ra từng bộ phận nhỏ và di chuyển đến vùng tứ giác tây bắc thủ đô và nam đồng bằng sông Hồng để tiến hành cuộc chiến tranh du kích kinh điển hầu như không thể dập tắt được.
Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp cũng phải thú nhận không đủ lực lượng giành chiến thắng quân sự. Có nên thương lượng không? Nhất định là phải thương lượng để tìm ra một giải pháp, nhưng lập trường hai bên còn xa nhau quá. Paris không chấp nhận cho sự độc lập của Việt Nam mà chỉ nói sẽ dành cho Việt Nam quy chế một Quốc gia Liên kết dưới sự kiểm soát của họ. Trong lúc Việt Minh coi Pháp là xâm lược nên đòi trước hết phải tôn trọng chủ quyền hoàn toàn và trọn vẹn của Việt Nam.
Chiến tranh sẽ kéo dài và nhất là bộ tổng chỉ huy Pháp không nhận ra được chung cuộc sẽ như thế nào.


Ý kiến của họ thay đổi tuỳ theo những người nắm quyền hành ở Paris. Những người thuộc đảng xã hội mong muốn tìm ra một giải pháp thoả thuận với Hồ Chí Minh, dù có sự kiện đêm 19 tháng chạp năm 1946 và cuộc đụng độ quyết liệt đang diễn ra. Trái lại, những người lãnh đạo Phong trào Cộng hoà bình dân (MRP), nay mai sẽ đứng ra thành lập chính phủ từ chối không thương lượng với chính phủ "cộng sản", hy vọng "Việt Nam hoá chiến tranh - dùng người Việt đánh người Việt" và dựng lên một nhân vật có thể đối trọng với lãnh tụ cách mạng.
Người đó dĩ nhiên là Bảo Đại dù có thời kỳ hợp tác với Nhật Bản, hay đã từng làm cố vấn tối cao cho chính phủ cụ Hồ, dù tính cách chán đời và lối sống tài tử của ông. Lucien Bodard - một nhà báo chuyên viết về Việt Nam đánh giá Bảo Đại là chàng "Hamlet da vàng lẩn tránh trong tâm trạng phủ định và trác táng. Ông ta lúc nào cũng do dự giữa trách nhiệm lịch sử và hưởng thụ".


Ngày 1 tháng tư năm 1947, Emile Bollaert, mới được bổ nhiệm làm cao uỷ Đông Dương đáp máy bay của hãng Air France đến Hà Nội. Cùng đi có vợ, hai con và chánh văn phòng Pierre Messmer. Đã thành thông lệ các quan chức đi công cán bao giờ cũng có vợ con và người thân đi cùng. Trong suốt thời gian làm việc ở Đông Dương, có chiến tranh hay không, cao uỷ sẽ lợi dụng những chuyến đi về Paris để hưởng những cuộc du lịch ngắn ngày. Trên đường đi, mỗi dịp dừng chân tại các thủ đô hay thành phố, ông tranh thủ đi thăm thú các nơi, khám phá nhiều cảnh quan mới lạ, bao giờ ông cũng có vợ, con cùng đi. Ngay khi đi Vatican để yết kiến giáo hoàng cũng có con gái Jacqueline đi theo. Khi ông đặt chân xuống đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, ông đã mang sẵn trong túi áo, một tài liệu đánh máy mười một trang. Đó là mười một trang "huấn thị", như một bản điều lệnh, một bản hướng dẫn hành động để tránh được những điều dại dột, sai lầm, để chắc chắn là ông áp dụng đúng chính sách đã được Paris quyết định.


Đối với chính phủ Hồ Chí Minh thì sao? Trong tài liệu ghi rõ: kiên quyết lên án.
Thế còn vấn đề Độc lập cho Việt Nam? Được, nhưng độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, không có quân đội riêng, không có ngoại giao riêng, tất cả đều kèm theo sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị. Câu kèm theo biện pháp nầy gợi lại bóng ma của đô đốc Courbet, của tướng De Courcy và các phế đế hồi giữa thế kỷ XIX.
Trong tài liệu, ghi rõ "Một thí nghiệm cũ, cách đây một trăm năm, chứng tỏ bỏ qua một số bảo đảm nào đó là quá sớm"(1).
Cuối cùng, với Bảo Đại, bản tài liệu nói rõ: "Lập lại bộ máy cai trị cũ, nhưng không tỏ ra là chúng ta lập lại triều đại quân chủ".
Ít nhất là phải như thế. Ký tên dưới bản huấn thị có Thủ tướng Nội các Paul Ramadier, người của đảng Xã hội, còn có phó thủ tướng Maurice Thorez, tổng bí thư đảng Cộng sản.
*** Tại Hongkong, "Con Trời" Bảo Đại không làm gì hết. Ông ta nghỉ ngơi, thưởng thức lạc thú trên đời. Năm 1932, ông đã do dự khi rời Paris để về nước nắm quyền bính. Năm 1945, ông đã thoái vị hơi vội, rồi rong chơi ở Trung Hoa trong lúc đất nước lầm than vì có mặt của quân đội chiếm đóng nước ngoài và lo sợ xảy ra nội chiến. Vậy việc gì ông phải từ bỏ những thói quen cũ của mình. Trong khi ông không chính thức được giao "một chức trách rõ rệt" nào. Ông được tự do. Ông tự nhủ: còn chưa bằng những người khác.

Ông đã đổi tên. Không còn Hoàng đế Bảo Đại. Cũng không phải công dân Vĩnh Thuỵ mà là Wang Kunney tiên sinh, một người Trung Hoa. Muôn năm sự kín đáo, sự mai danh ẩn tích?
Tuy nhiên ông vẫn gặp các nhà báo, vui lòng giải thích lối sống của ông, những cung cách mới của ông. Nhiều nhà báo nhanh chóng có thói quen đến thăm ông hoàng bị phế truất kỳ dị, không buồn, cũng không phải thôi thúc hỏi thăm tin tức vợ con đang sống ở Huế dưới chính quyền Việt Minh ra sao. Ông đi dạo trên bãi tắm, phô trương người tình của mình, trước tiên là Lệ Hà, tiếp theo là Mộng Điệp, một mối tình khác của ông.


Đầu đội mũ panama, mình mặc chiếc một áo sơmi lụa bạch theo kiểu Trung Quốc, quần ống rộng thùng thình; giấu mặt bằng cặp kính râm to, Bảo Đại sống như một thường dân vô công rồi nghề. Như mọi người, ông đi xe công cộng chật lèn của Hongkong, tắm, chơi gôn, chơi quần vợt. Ông luôn luôn làm cho các chính khách bám quanh ông phải ngạc nhiên thán phục.
Dáng dấp trẻ trung, thân hình lực sĩ, tuổi mới gần ba mươi tư, nhưng phần lớn thời gian rỗi ông phân chia giữa cờ bạc và thể thao. Tối tối, ông lao đến Paramount, vũ trường lớn nhất của thành phố. Ông thường xuyên lui tới các ca lâu tửu quán. Ngay từ giữa thời kỳ cách mạng ở Hà Nội, ông đã là khách quen của những hộp đêm ở Hà Nội. Cần gì? Ông yêu thích cái không khí choáng lộn, trong những đêm bất tận, thích cái nhìn của những người đi lướt qua bên ông trên sàn nhảy hay trong các sới bạc.


Thế nhưng ông túng thiếu, gần như nghèo túng. Hoàng đế mà như thế thì nghèo cùng cực rồi. Tiền ông quăng trên các bàn bạc hoặc thanh toán tiền phòng khách sạn tồi tàn của ông là của cô nhân tình Lý Lệ Hà chi trả. Cô nầy đã phải mở két, biếu ông tất cả tiền tiết kiệm của một cô gái nhảy nửa thượng lưu, số tiền lên tới vài trăm bạc kiên trì tích cóp được nhờ tài quyến rũ của cô.
Ông có thật là một con người vô dụng như các tạp chí miêu tả ông không? Ông có đóng kịch khi tỏ ra là một nhà du lịch biếm hoạ? Ông đã làm hết sức để cho chân dung về ông có thể tin được. Ông không chỉ là chàng thanh niên rám nắng, tươi cười luôn luôn xuất hiện trên các tạp chí. Tuy nhiên báo chí đã lưu lại hình ảnh ấy và qua báo chí công chúng tin rằng cựu hoàng chỉ là một con người như thế. Tiếng tăm của ông bị vẩn đục những thành công chính trị sau nầy của ông sẽ bị phai mờ vì những chuyện bê bối trong đời tư của ông. Một số bài báo đã có dụng ý tạo nên hình ảnh về ông chỉ là một kẻ ăn chơi trác táng không thể sửa được.


Một tờ báo ở Nam Bộ, tờ Duy Tân đã đăng một tin giật gân, đầu đề chạy suốt trên tám cột báo: "Một cô gái người Hoa tên là Trần Nỷ - được biết nhiều hơn với cái tên Jenny Wong - từ Hongkong sang Sài Gòn, đi tìm những người có vai vế trong hội đồng hoàng tộc để báo cho biết cô đã có mang với Bảo Đại và đứa trẻ sau nầy ra đời sẽ được chính thức hoá như thế nào trong hội đồng hoàng tộc?". Bài báo bị Sở kiểm duyệt đục bỏ(2).
Báo chí Pháp còn khẳng định một cách quả quyết hơn. Trong tờ Paris Presse, Merry Bromberger viết: "Muốn gặp Bảo Đại ở Hongkong chỉ cần dạo mười bốn hộp đêm trong thành phố, dễ hơn là tìm ông trong một khách sạn Anh"(3)...
Thời gian qua đi, diễn biến các sự kiện, thái độ lừng chừng do dự của người Pháp làm cho Bảo Đại chán chường, mệt mỏi, chậm chạp, lười biếng, vỡ mộng nữa, hơn thời kỳ trị vì ở kinh đô Huế. Tuy nhiên, theo ghi chép của một nhân viên tình báo Pháp (SDECE) "trí tuệ của ông vẫn rất sắc sảo giống như quan hệ tầm thường không làm nhụt thú hưởng lạc và dan díu tình ái dễ dãi".


Cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh chẳng bao lâu nối lại sự tiếp xúc với người Pháp.
Ai chủ động trong việc nầy? Ông Bảo Đại: đó là Paris. Một nhân viên Ngân hàng Đông Dương bắn tin: chính phủ Pháp muốn ông trở lại ngôi báu. Thấy ông đang gặp khó khăn về tài chính, Ngân hàng Đông Dương dành ngay cho ông một ngân khoản hai nghìn đôla Hongkong. Sau đó lại thêm một món tiền của giáo hội Pháp cho vay nữa. Các giáo sĩ dòng Tên chỉ đòi hỏi món vay được đảm bảo bằng tài sản của ngai vàng.
Theo cơ quan tình báo Pháp thì chính là Bảo Đại chủ động yêu cầu được giúp đỡ, sau khi đã tiêu đến đồng đôla cuối cùng. Ông nhận được một món tiền nhỏ, năm trăm đồng sau khi có ý kiến của lãnh sự Pháp, Bộ Ngoại giao và Bộ Thuộc địa. Số tiền đó chỉ đủ dùng để tránh cho cựu hoàng khỏi bị các nhân viên nước ngoài khác lôi kéo. Trong bất kể tình huống nào thì khi đã có tiền, ông lập tức đổi sang một khách sạn mới, sang trọng hơn. Đó là khách sạn Gloueester trên đường Hoàng hậu (Queen s Road).


Thế cũng chưa đủ. Các phái viên Pháp tiếp tục dùng tiền để lung lạc cựu hoàng. Một người tên là Yole, tình báo viên gài vào lãnh sự quán Pháp tại Hongkong, cứ đều đều mỗi tháng rót cho ông năm nghìn đôla Hongkong. Tiền nầy lấy từ quỹ đen của ông Bollaert. Một món tiền lớn để chi cho các hoạt động chính trị: một phần dành cho các đại biểu của các tổ chức "quốc gia" đến thăm ông. Nguồn gốc của khoản tiền ấy được giữ kín. Các chính khách sa-lông khi nhận được trợ cấp ngoài mong đợi ấy, đinh ninh rằng Bảo Đại đã gia ân cho họ.
Một phái viên khác tên là Reynaud, một cộng tác viên thân cận của Cao uỷ Bollaert làm con thoi chạy đi chạy lại giữa Sài Gòn và Hongkong. Không chỉ đóng vai trò trung gian, Cao uỷ còn giao trách nhiệm cho ông ta "bám sát" cựu hoàng, tham dự các hội hè ban đêm của ông, trở thành một trong những người thân tín của ông. Reynaud biết Bảo Đại từ lâu vì trước chiến tranh thế giới ông ta đã là nhân viên bảo hiểm của ông.


Người bạn mới nầy còn ra sức khuyến khích ông trở lại các phi vụ làm ăn và sẽ cung cấp tiền bạc. Nhưng một người tin cẩn khác của Cao uỷ là Cousseau - nguyên công sứ Sơn La - nắm dây thắt hầu bao. Ông ta nói với nhà báo Lucien Bodard: "Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất, không có tiền tiêu, không có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn không đủ [...]. Trở lại với cuộc sống ăn chơi xả láng, Bảo Đại càng bị lôi cuốn... Ông ta hiểu rằng người ta càng gắn với ông bao nhiêu thì lại càng cần đến ông bấy nhiêu".
Nguồn gốc sự phất lên rất nhanh của Bảo Đại là một bí mật mà mọi người ai cũng biết cả. Trong một vụ khám va-li của con gái Bollaert tại phi cảng Sài Gòn, một khoản tiền ngoại tệ sáu trăm ngàn đồng bị phát hiện. Cô gái khai số tiền nầy gửi cho chánh mật thám. Ông nầy buộc phải nói rõ: đó là "tiền lương trả cho chi phí lưu trú của Bảo Đại ở Hongkong".
Nhờ chế độ chuyển tiền hay "buôn bạc" mà những món tiền nhỏ ban đầu nhanh chóng trở thành khó che mắt thiên hạ. Những trò "ảo thuật" rất hời ấy do một thanh tra tài chính tìm ra. Tất cả những đồng bạc được phép chuyển từ Sài Gòn hay Hà Nội đến Paris đổi ra đồng franc được tăng gấp hai lần giá trị ban đầu. Làm như vậy để khuyến khích những người lao động chân chính sang làm việc ở Đông Dương hoặc bù trừ cho những nhà buôn phải liều lĩnh bỏ vốn làm ăn ở cái xứ sở đang có chiến tranh. Một đồng bạc Đông Dương được phép chuyển về chính quốc ăn mười bảy franc. Nhưng nếu quá hạn mức cho phép được chuyển tiền về nước thì một đồng bạc Đông Dương chỉ ăn có tám franc. Bảo Đại nhận đổi cho người Pháp làm việc hay kinh doanh ở Đông Dương muốn chuyển tiền về nước ngoài hạn mức, từ đồng bạc Đông Dương ra đôla Hongkong với giá tám franc/đồng bạc Đông Dương. Ông gửi những đồng bạc Đông Dương đó về Sài Gòn và làm thủ tục chuyển tiền về Paris, làm như những đồng bạc đó kiếm được một cách hợp pháp tại Đông Dương chứ không phải mua lậu tại Hongkong. Tiền nầy trở về Paris đổi thành franc với giá hối đoái mười bảy franc một đồng. Như vậy chỉ cần cho tiền lộn về Hongkong và lại tiếp tục hành trình đi - về.
Phải chăng cựu hoàng đã phất to nhờ hệ thống chuyển tiền ma quái nầy?
Đúng là như thế. Dù sao tài sản của ông tăng vọt.
Sau nầy ông thú nhận: "Tiền ngoại tệ ồ ạt gửi đến cho tôi, kèm theo những móc ngoặc trong bộ máy ngân hàng - tài chính, khiến tôi có thể làm biến đổi tỷ giá hối đoái của đồng bạc Đông Dương ở Hongkong"(4).
Như vậy có phải là phi pháp, bất bình thường không? Ở Đông Dương, trong thời kỳ đầu của chiến tranh thì chuyện đó không có gì là bất bình thường.
Vòng quay của đồng tiền không ngừng tăng tốc độ, những phi vụ không có gì nguy hiểm và khó khăn... mà ai cũng có phần trong khi vẫn phải tiếp tục các cuộc giao chiến, sống chết không biết lúc nào. Không kể các vụ buôn bán khác dứt khoát là đáng ngờ, mà một số người thân cận của ông là thủ phạm. Còn ông không thể không được chia phần, một khi các vụ làm ăn phi pháp trót lọt.
Cựu hoàng cho Phan Văn Giáo, bí thư của ông, hai mươi ngàn đôla Hongkong để thưởng công cho Giáo đã làm việc tốt. Với số tiền đó, Phan Văn Giáo mua mười lăm hòm kháng sinh gửi về Sài Gòn trên một con tàu hải quân của quân đội quốc gia. Một nơi khác một xe cứu thương dỡ hàng xuống nhà bà Didelot, chị gái bà Nam Phương Hoàng hậu. Các hòm hàng được đem bán lại ở chợ đen, được bảy trăm năm mươi nghìn đồng. Ai mua? Người của Việt Minh mua hàng đem về bưng biền! Bảo Đại có biết không? Không thể nào không biết. Chính ông cũng tham gia vào các vụ áp-phe của đám cận thần. Ngoài Phan Văn Giáo còn có Nguyễn Hữu Thí, giám đốc cơ quan tình báo của ông cũng là cố vấn tài chính cho ông. Thí nắm độc quyền cung ứng và vận tải cho miền Trung Việt đồng thời cũng buôn bán kim cương, rượu vang, cao su và cùng với Pierre Reynaud trở thành nhân vật thân tín của cái "hợp tác kinh tế và quân sự ở Trung Kỳ".
Ấy thế mà chẳng có gì rõ ràng cả. Chẳng ai biết chính xác ông cựu hoàng lưu vong làm việc cho bên nào. Các vụ áp-phe lớn thu lợi cho ông và đám cận thần đã đành mà Việt Minh được một nguồn tiếp tế có đảm bảo chẳc chắn.
Quan hệ tay đôi giữa nhà cách mạng lão thành Hồ Chí Minh và cựu hoàng Bảo Đại lưu vong thế là tan vỡ chăng? Không hoàn toàn như vậy. Hãng thông tấn Anh Reuter loan tin: Bảo Đại khẳng định: "Không bao giờ tôi trở lại Huế để lập một chính phủ bù nhìn cho người Pháp. Tôi thấy ông Hồ Chí Minh là một con người tài năng, một người yêu nước chân chính".
Riêng đối với ông Hồ, không bao giờ Bảo Đại lên án. Ông tránh không tỏ ra đứng hẳn về phe nào. Có lẽ như thế là khôn ngoan. Việc tự nguyện thoái vị của ông đã được lòng dân chúng. Ai cũng biết hai người đều có chung một nguyện vọng muốn cho đất nước được độc lập dân chúng được sung sướng, nhưng con đường đạt mục đích khác nhau, lối sống khác nhau, nhưng trong thời kỳ còn hợp tác với nhau Hồ Chí Minh bao giờ cũng có thái độ tôn trọng cựu hoàng - cố vấn tối cao của chính phủ.
Chính phủ Việt Nam, một mặt duy trì Bảo Đại trong cái vị thế kỳ quặc "cố vấn tối cao", mặt khác tấn công triệt để vào các nhân vật thân cận của ông. Nhân vật thân cận chứ không phải ông.
Hồ Chí Minh kiên nhẫn chờ đợi kết cục các cuộc thương thuyết giữa cựu hoàng với Pháp rồi mới tỏ thái độ dứt khoát.
Ngày 5 tháng 7 năm 1947, Bảo Đại lên tiếng ở Hongkong trong một cuộc trả lời phỏng vấn: "Nếu toàn dân Việt Nam đặt lòng tin vào tôi [...] tôi sẽ sung sướng trở về Đông Dương. Tôi không ủng hộ cũng không chống lại Việt Minh, tôi không thuộc đảng phái nào!".
Mặc dù lên án chủ nghĩa cộng sản, ông không lớn tiếng đả kích chế độ Dân chủ Cộng hoà đối phương, không trực diện công kích cá nhân Hồ Chí Minh...


Nhưng cuộc mặc cả vẫn chưa ngã ngũ. Bảo Đại cao giọng đòi Pháp phải trao trả độc lập, công nhận nền thống nhất, Nam Bộ phải trở về lãnh thổ nước Việt Nam không cần trưng cầu ý dân. Về hình thức tưởng như cựu hoàng còn đòi hỏi cao hơn Hồ Chí Minh năm 1946. Trong dân chúng nhất là trong vùng Pháp kiểm soát, có dư luận cho rằng cựu hoàng giao thiệp với Pháp là có sự thoả thuận với Hồ Chí Minh, như năm 1945, ông đã nhận nền độc lập từ tay Nhật để rồi mấy tháng sau lại trao lại cho Việt Minh. Phải chăng, tại Hongkong, ông lại tái diễn lớp trò nầy. Ông thương thuyết với người Pháp để trở lại nắm quyền bính, rồi sau đó, ông sẽ cai quản đất nước cùng với Hồ Chí Minh? Philippe Franchini, người Pháp chuyên về chiến tranh Đông Dương viết: "Một nhóm người nhìn ông như quốc vương của một nước Việt Nam tìm lại được đạo trung dung của Khổng Tử. Nhóm khác thì xem ông là sự bổ sung cho Hồ Chí Minh, giống như âm và Dương, như Mặt trời và Mặt trăng, chụm lại thì thành vòng tròn hoàn chỉnh, hình dung về một nước Việt Nam lý tưởng"(5). Từ căn cứ kháng chiến, ông Hồ Chí Minh nói với S. Ehe Maissie phóng viên hãng thông tấn Mỹ International New Service Mỹ, như để đính chính:
"Ông Vĩnh Thuỵ là cố vấn trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tuyên thệ trung thành trước Quốc hội, trước Chính phủ và trước quốc dân. Ông ta chỉ có tư cách đứng ra điều đình khi nào được Chính phủ Cộng hoà Việt Nam uỷ quyền".(6) Người Pháp tỏ vẻ sốt ruột còn Bảo Đại vẫn tỏ ra vẻ bí hiểm. Ông không vội đáp lại năn nỉ của người Pháp. Biết mình chẳng có hậu thuẫn gì của dân chúng nhưng ông biết lợi dụng sự khó khăn của Pháp trong việc đối phó với phong trào kháng chiến của Việt Minh. Hơn nữa trong các phe phái đang ve vãn, lợi dụng vị trí ông vua cuối cùng triều Nguyễn của ông cũng chưa nhất trí với nhau trong việc tranh giành chỗ đứng - kèm theo là quyền lợi trong chính phủ bù nhìn tương lai, có phái bảo hoàng miền Trung, có phái Nam Kỳ muốn có nhiều quyền và lợi hơn trong chính phủ Việt Nam thống nhất, nói rộng hơn có ý đồ của người Mỹ muốn lợi dụng Pháp suy yếu để dần dần thay thế Pháp biến Đông Dương sớm trở thành mắt xích trọng yếu trong vành đai chống cộng của Đông Nam Á, một khi bị Trung Cộng đánh bật khỏi lục địa Trung Hoa. Là một người không kém thông minh, Bảo Đại không phải là không biết mọi sự toan tính đó. Ông bình thản chờ xem tình hình phát triển ra sao rồi mới tỏ thái độ dứt khoát.
Còn thái độ của người Pháp? Bollaert tỏ ra rất sốt ruột. Lập trường đàm phán của ông đã bị Hồ Chí Minh cự tuyệt sau chuyến công cán của đặc phái viên Paul Mus đến khu kháng chiến. Tiếp đó là thất bại quân sự trong trận tấn công quy mô Thu Đông năm 1947 vào chiến khu Việt Bắc để chụp bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến.
Các đoàn đại biểu các phe nhóm, các đảng phái lũ lượt sang Hongkong ngày càng nhiều. Có người sang thăm dò, mặc cả rồi trở về. Số người ở lại cũng không ít. Ngô Đình Diệm, sau một thời gian dài ở Mỹ cũng không chịu vắng mặt ở Hongkong với đề nghị lập một chính phủ gồm các nhà chuyên môn hơn là đại diện các đảng phái.
Tháng 11 năm 1947, Robert Schuman thay thế Paul Ramadier đứng đầu chính phủ. Là người của Mặt trận tập hợp bình dân (MRP do De Gaulle sáng lập) chính phủ Pháp ngày càng ngả sang hữu. Emile Bollaert là người của đảng cấp tiến. Dù nội các thay đổi, ông vẫn tiếp tục các cuộc mặc cả ở Hongkong. Ông sẽ ở lại chức vụ hiện nay, dù cho có thay đổi nội các thế nào đi nữa, trong 18 tháng nữa, đến 15 tháng 9 năm 1948, để nhường chỗ cho Léon Pignon.
Hồ Chí Minh cũng thay đổi tuyên bố trước các nhà báo về tình trạng của Bảo Đại.
Ngày 8 tháng 12 năm 1947, một ngày sau cuộc gặp Bollaert - Bảo Đại (ngày 6, 7 tháng 12 năm 1947), trả lời các nhà báo Hồ Chí Minh tuyên bố trước các nhà báo có tính răn đe: "… Cố vấn Vĩnh Thuỵ ở xa không khỏi bị những thám tử Pháp như bọn Cousseau bưng bít và những người vô sỉ như Nguyễn Hải Thần, Lê Văn Hoạch v.v... bao vây cho nên cố vấn có thể nghe những lời hứa hẹn suông của bọn thực dân Pháp mà đi gặp chúng. Nếu cố vấn Vĩnh Thuỵ biết rõ tình hình trong nước thì chắc cố vấn không bị chúng lừa bịp... Chính phủ và nhân dân ta rất mong cố vấn Vĩnh Thuỵ không có những hành động trái ngược với những lời thề trước Tổ quốc và trước đồng bào trái với nguyện vọng của dân tộc"(7).
Sau nhiều cái bắt tay, kèm theo là ý chí và lòng kiên nhẫn, Bollaert cố gắng thuyết phục Bảo Đại chấp nhận trở về nước và đứng đầu chính phủ, nhưng với điều kiện thống nhất và độc lập phải được bảo đảm.
Nhiều cuộc hội đàm tiếp theo đi đến thoả ước Hạ Long, một bản nghị định thư quy định những điều Pháp sẵn sàng dành cho Việt Nam và những điều Bảo Đại có thể chấp nhận. Vịnh Hạ Long, với cảnh quan hùng vĩ và trang nghiêm được tạo thành bởi những đảo nhỏ khắc hoạ trên bầu trời, trở thành địa điểm ưu ái cuộc tái hợp Pháp - Việt.
Độc lập, thống nhất bao giờ cũng là vấn đề gay cấn trong đàm phán. Bảo Đại đòi độc lập hoàn toàn, toàn diện còn Pháp chỉ nhân nhượng cho Việt Nam tự do dưới sự giám sát của Pháp còn vẫn nắm chặt một số lĩnh vực. Phạm vi và số lượng của các lĩnh vực ấy giảm dần trong quá trình thương lượng. Cuối cùng, hai bên đi đến thoả ước Hạ Long dự kiến Việt Nam độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, có hành chính riêng, cảnh sát riêng, nhưng quân đội và ngoại giao vẫn ở dưới quyền Paris. Điểm nổi bật quan trọng là chính phủ trung ương có quyền lực trên toàn bộ đất nước gồm cả Nam Kỳ, có nghĩa là chính thức hoá sự thống nhất của Việt Nam. Như vậy là những biện pháp trên gần phù hợp với chỉ thị của chính phủ Pháp trao cho cao uỷ Bollaert sáu tháng trước đây, rộng rãi hơn những điều dành cho Hồ Chí Minh hồi ký hiệp định sơ bộ tháng 3 năm 1946. Nhưng phạm vi quyền lực của chính phủ trung ương của Bảo Đại phỏng được bao nhiêu ngoài các thành phố thị trấn và dọc đường giao thông do Pháp kiểm soát và bảo vệ còn gần như toàn bộ vùng rừng núi và phần lớn nông thôn mênh mông đều đặt dưới quyền của chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Nhưng lạ lùng thay, vừa ký tắt xong Bảo Đại tuyên bố bác bỏ thoả ước, la lối rằng ông đã bị lừa.


Về phía Pháp cũng vậy. Phe bảo thủ không muốn nghe nói đến thoả ước vừa được ký kết.
Người ta bỗng nhận ra Bảo Đại hoá ra không phải là con người dễ bảo, yếu mềm, hơn nữa không phải là một tên bù nhìn đã bán mình cho quỷ. Người ta thấy ông tỏ ra cứng rắn, độc lập trong suy nghĩ và hành động hơn là những nhà chức trách Pháp đã hình dung về ông.
Các nhà thương thuyết từ Paris sang, không giấu sự bực mình trước tính thiếu thiện chí, và thái độ không khoan nhượng của ông. Ông vua bị hạ bệ nầy là ai mà phải cầu cạnh đến như thế nhỉ. Vừa mới ký thoả thuận xong bước đầu đã phủi tay ngay. Chính phủ Pháp đã nhầm chăng? Ông ta có thực sự độc lập trong hành động không hay do một số cố vấn có ảnh hưởng điều khiển ông trong bóng tối như thời kỳ ở Huế ông dễ dàng tuyên bố thoát ly quan hệ với Pháp, nhận sự bảo hộ của Nhật để rồi lại nhanh chóng thoái vị và làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh. Giờ đây, sau sự kiện Hạ Long, ai mới là người không khoan nhượng và khôn khéo? Phải chăng sau lưng ông ta, chính là người Mỹ đang mưu mô nắm con bài Bảo Đại, muốn ông độc lập với Pháp để vừa làm suy yếu thế lực Pháp ở Đông Nam Á, vừa tiến tới xây dựng một chính quyền tay sai đủ mạnh làm rào cản chủ nghĩa cộng sản ở châu Á.


Sau cuộc gặp ở Vịnh Hạ Long, giới hữu trách chính trị ở Pháp vô cùng thất vọng không tìm được ai có thể thay thế Bảo Đại mặc dù họ không ưa Bảo Đại nữa.
Tháng tám năm đó, đài phát thanh Việt Minh phát từ Huế một cái tin khá lạ lùng, thuật lại một bài đăng trên báo Continental Daily Mail ra ngày 25 tháng 7 năm 1947 tại London:
"Các nhà chức trách Pháp đến thăm cựu Hoàng hậu Nam Phương, đề nghị bà đưa con trai bà mười ba tuổi lên ngôi. Bà không trả lời. Trong lúc các vị khách Pháp giải thích thì bà đến trước đàn dương cầm thản nhiên chơi bài Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam...".
Một tháng sau, tờ Echo du Vietnam tiết lộ âm mưu: "Một kế hoạch xảo quyệt do Hội thuộc địa trình bày. Họ chủ trương khôi phục chế độ quân chủ ở An Nam. Có thể khởi đầu bằng một cuộc thoái vị trọng thể của Bảo Đại nhường ngôi cho con trai. Cựu hoàng phải thừa nhận sai lầm của bản thân, tự nguyện rút lui khỏi chính trường để mở đường cho sự hoà hợp chân thành với nước Pháp"(8).


Một nhà báo hỏi cựu Hoàng hậu Nam Phương lúc đó đang ở Đà Lạt: "Có phải con bà sắp lên ngai vàng không?". Bà không trả lời nhưng cũng không cải chính. Còn Bảo Long, mùa hè năm 1947 đang sống dưới sự chăm sóc yêu thương của bà ngoại tại Đà Lạt.
Người ta nhắc đến vua Thành Thái năm 1910 bị buộc phải rời khỏi ngai vàng và xuống tàu đi đày ở đảo Réunion, vì rối loạn tâm thần. Tại đây, ông đã chứng kiến con ông, Duy Tân, rời khỏi đảo, về đất liền phục vụ quân đội nước Pháp tự do. Sống bên ông còn có một công chúa. Chính cô nầy đã thông báo cho cao uỷ biết nguyện vọng của cha cô muốn được sống những ngày cuối đời tại quê nhà. Lời thỉnh cầu ấy và những bàn tán thêu dệt đã khiến người ta cho rằng người Pháp đang nghĩ đến việc tìm kiếm con bài thay thế Bảo Đại.
Lời đồn đại nầy sau đó đã không thành sự thật. Nhưng Vua Thành Thái đã được phép về sống ở giữa Sài Gòn, chờ ngày về Huế, thành phố của ông. Ông già tỏ ra là con người dễ thương, lịch sự, gần gũi với dân Sài Gòn.
Lúc đầu chỉ là sự tò mò, dần dần ông được cảm tình của mọi người. Nhưng vấn đề chỉ dừng lại ở đó.


Ngày 12 tháng 8 tại Huế, bốn mươi ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn yêu cầu Hoàng đế Bảo Đại trở về nước nắm quyền bính. Giải pháp Bảo Long, Thành Thái hay ai khác không còn được mấy ai nhắc đến.
Đó lại là lúc cựu Hoàng hậu Nam Phương quyết định rời khỏi Việt Nam. Cố nhiên bà và các con đáp máy bay Anh để tới Hongkong gặp chồng. Lũ trẻ ôm hôn các anh em họ và sau mấy giờ bay đã phát hiện ra thế giới hiện đại. Ánh đèn nêông choáng lộn, tàu thuỷ và tiền bạc. Cuộc sống dễ dãi, kỳ diệu bên cạnh cái nghèo nàn của Đà Lạt, ngay cả Huế. Lần đầu tiên chúng nhập vào một thành phố như thế và không thể quen được với chiều cao của những nhà chọc trời, với vô vàn ánh sáng, với sự trộn lẫn giữa sức sống và sự hỗn độn, đặc trưng của bán đảo.
Ông cựu hoàng gặp lại vợ con sau hai năm xa cách.


Một thời gian, Bảo Đại phải bớt đến tiệm nhảy Paramount và những sòng bạc khác. Cuộc sống vợ chồng mới gặp lại nhau được đặt lên hàng đầu. Lý Lệ Hà, Mộng Điệp và các cô gái trẻ khác tạm lánh mặt, ít nhất trong một thời gian. Không bao lâu sau đó bà Nam Phương và các con rời Hongkong sang Pháp. Một chuyến đi vất vả gian nan. Phải tạm dừng lại ở Bangkok chờ khắc phục những trục trặc kỹ thuật của chiếc thuỷ phi cơ. Do không đề phòng trước những hỏng hóc, nên sau nhiều ngày, mọi người đều phải chuyền sang đi tàu thuỷ cùng với hành lý. Tới Pháp, trong thời gian đầu, mẹ con bà Nam Phương về Cannes, nơi có toà lâu đài Thorenc tráng lệ được dành cho cả gia đình. Từ nay trên đất Pháp bà Nam Phương chỉ có thể biết qua loa tình hình trong nước nhờ những lá thư của bà chị ruột là bà bá tước Didelot ở lại Sài Gòn kể những chuyện lặt vặt cho bà.

***

Anh rể bà, bá tước Didelot ở lại Đà Lạt. Trong một bức thư viết cho con gái - lá thư bị Sở kiểm duyệt giữ lại - ông nói về Bảo Đại: "Cha tin vào ông chú của con - chỉ Bảo Đại - ông ta không phải là một vĩ nhân cũng không phải là một thằng ngốc nhưng nếu được biết rõ tình hình, ông ta sẽ có thể nhận định đúng đắn. Ông ta hay bị một số người có đầu óc vụ lợi phỉnh phờ và chịu ảnh hưởng của họ. Trước đây một số người ủng hộ ông thoái vị và hợp tác với Hồ Chí Minh cũng là để cứu vãn vị thế của họ. Bây giờ ở Hà Nội (... Việt Minh đã rút đi, Pháp đã trở lại) có những biểu ngữ, truyền đơn dán trên tường yêu cầu Bảo Đại trở về nước nắm quyền bính...".


Cựu hoàng khác nào một kẻ đang đánh bạc trong khi những người ngồi chầu rìa và những tay đứng ngoài cá cược với nhau về cơ may được, thua. Mọi người chung quanh từ vợ, anh rể, địch thủ, hay thẩn dân hình như ai cũng biết rõ những chủ bài cũng như những điểm yếu của ông. Ông là con người thông minh có nhận thức nhanh nhưng lại ham thích ăn chơi. Liệu ông có biết chơi canh bạc cuộc đời nầy không hay trái lại để cho người Pháp hay Việt Minh chinh phục.
Bảo Đại có vẻ như tự tin, ông đánh giá quá cao về vị thế "ông vua cuối cùng triều Nguyễn" của mình. Trong Hồi ký Con rồng An Nam ông viết:
"Riêng tôi, tôi cảm thấy rất thoải mái, thời đó người ta hay nói: trong tay tôi chẳng có gì nhiều, ngay cả tính đại diện của tôi cũng còn phải bàn cãi. Nói như thế là coi nhẹ một yếu tố chủ yếu, ở chỗ tôi là đại diện chính thông cho một triều đại, tôi là đấng Thiên tử, là Con Trời, được Trời giao sứ mệnh trị vì thần dân. Có lẽ chỉ có mình tôi nhận thấy tính đại diện chính thông nầy. Nó không thể được xem như một luận cứ trong một cuộc đàm phán ngoại giao, cũng không thể viện ra ngay từ đầu. Tuy nhiên nó vẫn hiện hữu, mạnh mẽ hơn mọi luận cứ chông lại tôi. Chắc chắn là những ai không phải là dân Việt Nam thì không cảm nhận được điều đó mà tôi cũng không thể thuyết phục được họ. Khi tôi phản ứng hay tỏ thái độ, những người đôl thoại với tôi không thể hiểu được, họ chỉ đưa lý lẽ giữa con người với nhau, ngang tầm với họ, hợp với trình độ của họ...".


Một điều chắc chắn là phải thương lượng, chấm dứt mọi mưu mô. Từ tháng 12 năm 1946, chiến tranh lan rộng khắp cả nước với mức độ ngày càng khốc liệt. Việt Minh vẫn thi hành chính sách vườn không nhà trống ở những vùng họ tạm rút đi. Thời gian ngày càng thôi thúc. Quân Pháp chỉ chiếm được các thành phố, thị trấn, còn vùng nông thôn mênh mông vùng rừng núi hiểm trở vẫn nằm trong tay Việt Minh. Người Mỹ gia tăng áp lực. William Bullit, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp ủng hộ giải pháp Bảo Đại. Nhân danh chính phủ Mỹ, ông ta vừa khuyên Pháp nhượng bộ thêm nữa trước đòi hỏi của Bảo Đại, vừa khẩn khoản yêu cầu Bảo Đại phải đương đẩu với Pháp, tóm lại là đòi cho được độc lập(9).


Tại Hongkong, Bảo Đại hình như đã thoát khỏi cảnh cùng quẫn. Ông trở lại cuộc sống xa hoa giàu có. Nơi ông ở là một toà nhà rất đẹp theo phong cách kiến trúc Anh, gần bờ biển cách Hongkong độ hai mươi cây số ông có một ban thư ký riêng giúp việc. Ông sống ở Stanley Beach nhưng thường hay tiếp các đoàn trong nước ra ở Causeway Bay, cho họ nghỉ tại Hongkong Hotel hoặc ở Paramount hay Saint-Francis. Sau khi bán tài sản riêng ở Hongkong cộng với đồ đạc và ôtô, ông được một khoản tiền tươi đến một triệu đồng Đông Dương.
Ông đi châu Âu, sau sáu năm xa cách. Đầu tiên ông đến Anh để chữa mắt rồi về Cannes nơi Nam Phương và các con đang đợi ông.


Gián tiếp và trực tiếp người Pháp đã giúp ông trở lại cuộc sống sung túc. Các phe nhóm đảng phái "quốc gia" tâng bốc ông, tạo vốn chính trị hào nhoáng bên ngoài cho ông trước hết vì quyền lợi của chính họ. Có lẽ ông cũng biết ông chẳng có hậu thuẫn gì đáng kể ở trong nước, càng không đủ sức chống lại kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo nhưng đã ngập sâu trong cuộc sống phù phiếm hưởng lạc, ông không thể lùi được nữa. Phải ký kết. Tháng 1 năm 1948, ông đi gặp cao uỷ Pháp ở Genève. Tại sao ông lại chọn Thuỵ Sĩ, một nước trung lập truyền thống, mà Genève là một địa điểm lý tưởng cho các cuộc mặc cả ngoại giao, giúp ông có được có một khoảng cách với những người đối thoại. Lần nầy ông chọn đường đến Cannes trên một chiếc xe hơi đặc biệt, đó là chiếc Gordini, từ khi trở lại giàu có, ông tài trợ cho nhãn xe nầy. Chiếc xe có tốc độ nhanh, xài xăng pha octane với tỷ lệ cao, không bán ngoài thị trường tự do, nên phải lập riêng một hệ thống kho xăng dọc đường từ Cannes đến Genève.


Mặc dù tình hình lúc nầy nghiêm trọng, nhưng trong lúc chiến tranh đang tiếp diễn ác liệt mà lại đi đàm phán để chấm dứt chiến cuộc thì đâu phải là một việc tầm thường. Ông cũng biết phải đi những nước cờ cao.
Báo chí cánh tả một lần nữa đưa ra hình ảnh về ông như một kẻ trác táng ích kỷ. Đặc phái viên của tờ Combat (Chiến đấu) viết: Những cuộc thương thuyết với ông Bollaert chẳng đi đến đâu, nhưng ông Bảo Đại cũng không bỏ lỡ dịp ở Genève để sắm thêm nhiều bộ cánh mới. Tôi đã dự một bữa điểm tâm rất sang của ông. Tóc uốn, tay đút vào túi chiếc áo choàng màu nâu nhạt, ông sải bước bên cạnh bà hoàng rất trẻ đẹp, có phong thái rất "Paris".
Những cuộc thương thuyết kéo dài bất tận, mỗi lẩn lại đánh dấu bằng những tuyên bố lạc quan nhưng không có hiệu quả gì. Bảo Đại ra vẻ một con người kỳ cục chưa từng thấy bao giờ. Phải cầu khẩn van nài, phải lấy lòng bằng những cái cười nụ, cười nhoẻn dỗ dành. Phải trải thảm đỏ để ông lên máy bay về Sài Gòn. Mỗi lần tưởng như ông chắc chắn nhận lời, thì ông lại lần khân, tránh né, im lặng. Báo chí phẫn nộ, các nhà chức trách điên đầu. Bên kia đại dương chiến tranh ngày càng dữ dội. Còn ông Hoàng đế nầy cứ làm cao, nâng giá lên mãi, mà không quyết định vào cuộc.


Thời gian thúc bách lắm rồi. Bằng mọi giá phải dựng lên một chính phủ để chiêu hồi tất cả những phần tử "quốc gia" chống cộng sản. Nhưng không. Con Trời Bảo Đại luôn muốn đứng trên mọi cuộc xung đột đảng phái, không muốn dấn thân vào thực địa. Có lẽ ông chả thèm muốn gì hơn vị thế hiện nay của ông, với ngôi biệt thự đẹp đẽ ở Hongkong, toà lâu đài xinh xắn ở Cannes. Tuy nhiên cuộc đấu tranh của ông không vô ích. Mỗi lần thương lượng lại được thêm một chút nới rộng quyền tự trị cho Việt Nam ngay cả từ "độc lập" cũng không còn là điều cấm kỵ nữa.
Đầu năm 1949, dường như Bảo Đại nghe theo lập luận của những người thân cận đang bu quanh ông, công bố một "tạm ước" (modus vivendi) theo cách của ông. Chưa giải quyết được gì cả, nhưng cả hai bên Pháp và Việt phải cố cùng sống chung với nhau, trong khi chờ đợi tình hình được cải thiện. Và thế là ra đời một chính phủ tàm tạm có quyền lực cả nước dưới quyền của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, một sĩ quan do Pháp đào tạo, leo lên cấp thiếu tướng, người của Bảo Đại.


Như một trò phù phép. Báo chí không tiếc lời ca ngợi thoả thuận đạt được công nhận Việt Nam độc lập trên giấy trắng mực đen. Nhưng là độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Đó là quy chế cuối cùng dành cho Việt Nam. Một lần nữa, cảnh quan hùng vĩ của vịnh Hạ Long được chọn làm địa điểm lễ ký kết. Nhưng lần nầy, thủ tướng Xuân là một bên ký kết dù chỉ là ký tắt hiệp ước, có sự chứng kiến của Bảo Đại. Lần nầy ông chỉ làm công việc giám sát từ xa những hành động đầu tiên của cái chính phủ do ông vừa dựng nên.
Nhưng lại một lần nữa, thoả ước mới chẳng thay đổi được bao nhiêu tình hình đang diễn ra. Việt Minh vẫn trụ vững ở các vùng nông thôn. Mặt khác quân Pháp không có ý định giữ trọn quyền lực của mình. Tại Nam Kỳ, nghị viện cũ của thuộc địa tẩy chay chính phủ Nguyễn Văn Xuân. Tóm lại là chính phủ trung ương của tướng Xuân chẳng cai trị gì hết. Người ta nhanh chóng thấy rang duy chỉ có cựu hoàng Bảo Đại là có thể khẳng định quyền lực của mình và chỉ có ông mới là lực đối trọng của Hồ Chí Minh.


Bảo Đại còn muốn người Pháp phải van nài hơn nữa. Ông đòi thêm các điều bảo đảm mới nhất là thu hồi được Nam Kỳ (10) (Nam Kỳ phải trở vè lãnh thổ Việt Nam). Bên Trung Hoa, quân cộng sản của Mao Trạch Đông đang thắng như chẻ tre, tạo một sức cổ vũ mạnh mẽ cho kháng chiến Việt Nam. Tình hình nhanh chóng chứng tỏ rằng chỉ có cựu hoàng Bảo Đại mới có thể khẳng định được quyền lực của mình và chỉ có ông mới có thể đối chọi được với Hồ Chí Minh. Người Mỹ càng sốt ruột. Cuối cùng Tổng thống Cộng hoà Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại ký thoả ước 8 tháng 3 năm 1949, Cựu hoàng sẽ trở về nước, bổ nhiệm các thủ hiến cai trị ba "kỳ". Các dân tộc miền núi được hưởng tự trị nhưng đặt dưới quyền trực tiếp của Bảo Đại, gọi là "Hoàng triều cương thổ". Nhưng không lập lại nền quân chủ. Bảo Đại sẽ không trở lại làm Vua mà là Quốc trưởng Việt Nam. Sau nầy khi hoà bình được lập lại, nhân dân sẽ bỏ phiếu lựa chọn chế độ chính trị cho mình. Nhưng trong khi chờ dợi, Bảo Đại vẫn cho phép và còn mong muốn được mọi người "tâu Hoàng thượng" hoặc "tâu Bệ Hạ". Sau nầy khi về nước, Văn phòng Quốc trưởng vẫn đóng ở Đà Lạt vì người Pháp dùng dằng không chịu giao dinh Norodom, tượng trưng cho quyền lực của Toàn quyền Đông Dương cũ cho Quốc trưởng Việt Nam.


Còn thái độ của chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh?
Ngày 25 tháng 1 năm 1949, trả lời các nhà báo, Hồ Chí Minh nói: "Ông Vĩnh Thuỵ đã thề trung thành với Tổ Quốc, với nhân dân và Chính phủ. Nếu ông ấy cam tâm buôn dân, bán nước thì ông ấy sẽ bị tội phản quốc như những kẻ phản quốc khác"(11).
Ngày 2 tháng 2 năm 1949, trả lời phóng viên hãng thông tấn Anh Reuter hỏi về ông Vĩnh Thuỵ có còn được coi là cố vấn tối cao trong chính phủ nữa không, Hồ Chí Minh khẳng định: "Ông ta đã tự cách chức ấy rồi"(12). Hai tháng sau, bình luận về bản ký kết 8 tháng 3 giữa Bảo Đại và Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố. "Bản ký kết 8 tháng 3 đối với nhân dân Việt Nam chỉ là tờ giấy lộn. Thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy chẳng lừa bịp được ai... Vĩnh Thuỵ trở về với 10.000 viễn binh Pháp để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thuỵ cam tâm bán nước. Đó là sự thật... Vĩnh Thuỵ làm tay sai cho thực dân là một tên phản quốc... Chính phủ Việt Nam sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân…" (13). Đầu tháng 10 năm 1949, trả lời nhà báo Mỹ A. Steele, báo New Herald Tribune, Hồ Chí Minh tuyên bố dứt khoát: "Chúng tôi không cần gì đến bọn bù nhìn... Chỉ có bù nhìn và phản quốc mới ủng hộ Bảo Đại"(14). Cũng vào thời gian nầy, tại căn cứ kháng chiến của Liên Khu III, hữu ngạn sông Hồng, một phiên toà đặc biệt của Toà án quân sự đã tuyên án tử hình vắng mặt Vĩnh Thuỵ về tội phản quốc. Chủ trương xử công khai tội bán nước của Bảo Đại phản ánh thái độ của chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo thể hiện qua một loạt các bài báo và tuyên bố chính thức của Hồ Chí Minh lên án Bảo Đại bán nước, hại dân và làm tay sai cho Pháp, chống lại kháng chiến.
Chú thích: (1) Hồ sơ lưu trữ bộ Ngoại giao Pháp - Vụ Á - Đông Dương, tập 15. (2) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - Sở Mật thám. SPCE 376. (3) Paris Presse, 2/4/1947. (4) Bảo Đại, Le Dragon dAnnam (Con Rồng Annam) Nhà xuất bản Plon, Paris. (5) Philippe Franchini: Les Guerres d Indochine (Các cuộc chiến tranh Đông Dương), Nhà xuất bản Pygmalion,1988. (6) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, trang 220. (7) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, trang 310. (8) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - Tập Cố vấn chính trị số 2, Nhà nước - 285. (9) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE (Service Presse Corps Expéditionnaire - Phòng báo chí quân đội viễn chinh) - Hồ sơ 376. (10) Ông đòi họp Hội đồng quản hạt Nam Kỳ biểu quyết đòi trở về với Việt Nam, sau đó Nghị viện Pháp sẽ hợp pháp hoá yêu cầu đó (11), (12) (13) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, tập 5, tr. 562. (14) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, tr. 581, 694.



*


Từ lâu đài Thorenc nhìn ra cảnh quan trải rộng dưới mắt Bảo Long giống như Nha Trang, một thắng cảnh trên bờ biển miền Trung nước Việt. Ở đó, trên đỉnh đồi chìa ra biển sừng sững một dinh cơ đồ sộ mang tên "biệt điện Bảo Đại", còn ở đây một toà biệt thự nguy nga không kém, có vị trí tương tự như trên bờ biển Nha Trang, được gọi kín đáo hơn là "lâu đài Thorenc". Khác chăng là nổi bật trên màu xanh lam của vịnh Cannes, rải rác những cánh buồm trắng, những canô máy, những chiếc du thuyền yatch mảnh mai, quý phái, được cậu bé chăm chú theo dõi. An ninh ở Cannes được bảo đảm, cổng ra vào toà biệt thự uy nghi, chắc chắn với đôi sư tử đá trang trí trên cột trụ hai bên...


Bảo Long đã sang tuổi mười ba. Lùi dần vào dĩ vãng : những kỷ niệm không mấy êm đềm về những ngày lánh nạn sống trong trường dòng chúa Cứu thế ở Huế cùng những lễ hành xác của các thầy tu, hay những đêm ngủ dưới tầng hẩm nhà băng Đông Dương, nơm nớp lo sợ trong tiếng rít của đạn trái phá vút mái nhà. Bây giờ cậu bé chỉ còn chờ ngày tựu trường. Trên đất nước thanh bình như nước Pháp năm 1948, ngày trở lại trường học không phải là một sự kiện bất ngờ, gia đình nào cũng có thể biết trước. Nhưng lựa chọn trường nào cho thích hợp không phải là chuyện đơn giản, vì ba năm qua, trong tình thế đầy biến động ở quê nhà việc học tập của mấy anh em Bảo Long cũng bị đảo lộn, dở dang. Hai năm học ở Huế hoàn toàn theo chương trình giáo dục Việt Nam lúc đầu là của chính phủ Trần Trọng Kim, sau đó là dưới chế độ dân chủ cộng hoà, và năm tiếp theo, bỏ hẳn sách vở vì chiến sự, vì di chuyển, hết Đà Lạt lại Hongkong.
Cuối cùng, Nam Phương quyết định cho con vào học trường Roches. Tại sao lại học trường Roches? Đây là một trường đứng đắn, kỷ luật rất nghiêm khắc, được Nhà thờ Công giáo bảo trợ, mặc dầu tại Masslacq, gần Pau, đó chỉ là cơ sở tản cư thời chiến của trường chính ở Verneuil-sur-Avre. Chiến tranh kết thúc được bốn năm rồi nhưng số con em các gia đình ở lại vẫn đông nên trường vẫn tồn tại. Bà Nam Phương rất hiểu tính nết bướng bỉnh khó bảo của con trai đầu lòng nên bà hy vọng học trường nầy con bà sẽ trở nên thuần thục hơn.


Đầu tháng 1 năm 1948, Bảo Long theo một người cậu, em của Nam Phương, rời toà biệt thự ở Cannes, xuyên qua miền nam nước Pháp còn đầy dấu tích chiến tranh để đến Pau nhập học.
Cũng may là nhà trường có đầu óc thoáng, áp dụng những phương pháp giảng dạy hiện đại, theo hệ thống giáo dục Anh, nghĩa là cho phép học sinh phát huy tính chủ động tự quản trong cuộc sống tập thể ở ký túc xá dành cho con cái gia đình giàu có tại miền tây-nam nước Pháp. Phương pháp giảng dạy và giáo dục của nhà trường rất được tín nhiệm đến mức sau nầy có nhiều gia đình quyền quý Việt Nam gửi con đến theo học. Bảo Long hoà nhập được ngay với các bạn tuy cùng lớp nhưng nhỏ tuổi hơn mình. Điểm nổi bật cuối cùng của nhà trường là mặc dù trường nầy không thuộc giáo hội quản lý, nhưng trong ban triết học - sau nầy Bảo Long cũng theo ban nầy - có sáu học sinh thì bốn người khi ra trường trở thành tu sĩ.


Bảo Long cố gắng khép mình vào kỷ luật học đường, song tước vị hoàng tử kế nghiệp cũng cho cậu được hưởng một số đặc quyền: Mỗi buổi sáng cậu ta được tắm nước nóng trong khi các bạn cùng lớp phải tắm nước lạnh. Khẩu phần bữa tối cũng được ưu tiên: được chia nhiều thức ăn hơn, nhiều chocolatte hơn. Cậu ta còn đem chia bớt cho các bạn. Người ta giải thích lý do những biệt đãi ấy: Bảo Long là người từ xứ nhiệt đới đến, không quen khí hậu khá khắc nghiệt của vùng núi Pyrénées, không quen tắm nước lạnh, cần được ăn nhiều của ngọt hơn.


Được cái cậu ta thông minh, sáng dạ, nhanh chóng hoà nhập với tập thể, giỏi văn chương, ngôn ngữ, cả tử ngữ như tiếng Hy Lạp cổ. Ngược lại về toán và các khoa học tự nhiên thì kết quả bình thường, tuy nhiên nhiều lần đứng hàng đầu trong bảng tổng xếp hạng.
Giống như ở Đà Lạt, quanh các đỉnh núi đồi ở vùng tây-nam nước Pháp đều ngợp bóng thông reo. Cảnh trí ở đây gần như vùng Alpes, hơi buồn, êm ả và thanh bình. Bảo Long cảm thấy cô độc. Nhớ nhà, nhớ các em đang sống ở Cannes với mẹ. Giống phần đông các thanh niên học sinh thời đó thường hay ưu thời mẫn thế như một căn bệnh thời đại, Bảo Long luôn luôn có cảm giác phiền muộn trong lòng. Các bạn thân trong lớp kể lại rằng tâm trí Bảo Long luôn bị ám ảnh xót xa mỗi khi nhớ lại những cảnh hoàng cung ở Huế ngùn ngụt cháy rụi trong khói lửa bom đạn.
Thời gian đầu các thầy cô giáo và bạn học lúng túng không biết xưng hô thế nào cho phải với tước vị cao quý của Bảo Long?

Không lẽ mỗi lần lại xưng hô Hoàng tử Bảo Long, một cách trịnh trọng, e không hợp với khung cảnh học đường dưới chế độ cộng hoà đã gần hai trăm năm tuổi ở Pháp trong khi về danh nghĩa chế độ quân chủ nhà Nguyễn ở Việt Nam cũng đã cáo chung được gần bốn năm rồi. Nên chăng chỉ gọi là Nguyễn? Ở Việt Nam các vua thuộc triều đại cuối cùng cũng như có nhiều người dân thuộc dòng họ Nguyễn. Cuối cùng ông hiệu trưởng chọn tên... Philippe để đặt cho cậu ta. Philippe có nguồn gốc Hy Lạp "hyppos", có nghĩa là ngựa. Bảo Long vốn mê cưỡi ngựa. Được hỏi ý kiến, Bảo Long về hỏi lại mẹ, cuối cùng cả hai đều đồng ý, duy chỉ băn khoăn một nỗi là cái tên Philippe có vẻ công giáo quá. Không sao.


Bảo Long rất lơ mơ về đời sống tôn giáo. Sau nầy ông kể lại: tham dự các nghi lễ tôn giáo cũng tựa như đi xem hát. Một ý nghĩ hơi kỳ quặc nhưng không có gì ác ý.
Bảo Long vốn là con người có tính lạnh lùng, lặng lẽ, ít kết giao với bạn bè, không ưa lối xưng hô mày, tao, cậu, tớ như thường thấy trong bạn học với nhau trong trường. Bảo Long chỉ có ba người thật sự gọi là thân thiết(1). Anh thích thể thao, biết chơi nhiều môn. Đây cũng là đặc thù của nhà trường. Phần lớn các buổi chiều đều dành cho hoạt động thể thao. Sinh hoạt lớp có trưởng lớp điều khiển, được gọi là "đội trưởng" - Bảo Long được lòng bạn bè nên từ lớp đệ nhị bậc trung học anh được chỉ định làm trưởng lớp.


Ngày 4 tháng 3 năm 1950, xảy ra một sự kiện khiến tên tuổi Bảo Long được nêu lên trang đầu các báo. Tất cả các tờ báo ở Pháp đều đưa tin giật gân: thái tử Bảo Long bị đe doạ bắt cóc. Thế là mọi người Pháp đều biết hoàng tử kế nghiệp của Triều đình An Nam đang tị nạn chiến tranh ở Pháp. Thị trấn nhỏ bé Masslacq sôi sục không khí cảnh giới. Cảnh binh sục sạo khắp nơi kể cả những bụi rậm để tìm dấu vết kẻ tình nghi. Tin mật báo từ một bức điện tín nặc danh cho cảnh sát biết có một nhóm người Việt cực đoan âm mưu bắt cóc con trai của cựu Hoàng đế Bảo Đại. Tên chỉ điểm nói rõ ngày giờ sẽ tiến hành vụ bắt cóc, chỉ không chỉ đích danh tổ chức nào chủ mưu nhưng ai cũng biết trên chính trường Pháp thời đó chỉ có thể là "cộng sản", lực lượng đang tích cực ủng hộ "Việt Minh" chống lại cuộc chiến tranh tái chiếm Đông Dương. Tờ Aurore (Rạng đông) ra ngày 4 tháng 3 năm 1950 viết: "... Những phần tử thân Việt Minh âm mưu bắt cóc hoàng thái tử để làm con tin. Chúng đến từ Cannes trên một chiếc xe ôtô có biển đăng ký đã bị cảnh sát phát hiện...".


Một đội cảnh binh trang bị tiểu liên được cử đến trường Roches túc trực. Các cảnh binh thay phiên nhau bám sát Bảo Long, không rời một bước. Tan học, Bảo Long theo đơn vị bảo vệ đến ở một địa điểm bí mật, qua đêm ở đó, hôm sau lại được hộ tống đến trường.
Báo chí ra sức khai thác tin giật gân nầy. Ảnh của Bảo Long trương ở khắp nơi. Một thiếu niên mới 14 tuổi nhưng chững chạc, tóc chải mượt, cổ đeo cà vạt, mặc quần soóc ngắn, cặp mắt thông minh. Báo nào cũng nói đến đặc điểm rụt rè, trầm tĩnh. Một số tờ báo còn nói Bảo Long sùng đạo, làm cho cậu ta bực mình.
Mấy ngày sau báo chí lại thay đổi giọng điệu. Một tờ báo cộng sản - tờ Le Soir (Buổi chiều) - khẳng định: tất cả chỉ là mưu toan đánh lạc hướng chú ý của quần chúng lao động đang đấu tranh đòi cải thiện đời sống xã hội. Tờ Le Soir còn điều tra và khẳng định Sở cảnh sát Cannes chẳng biết gì về chuyện nầy. Chẳng có ai chỉ điểm cũng không có sự đe doạ thật sự nào. Chỉ có người cộng sản là không tin có âm mưu bắt cóc. Các báo khác vẫn tiếp tục luận điệu của họ.


Hai ngày sau có một nhân chứng nói: một nông dân có tuổi xác nhận có những hiện tượng bất thường xung quanh trường học. Ông già kể rằng đã thấy hai người, một người cầm chiếc đèn tín hiệu màu đỏ, người kia cầm đèn tín hiệu màu xanh. Họ đã đánh tín hiệu trong đêm, trong lúc có tiếng động cơ của một chiếc xe đến gần. Tóm lại, đã xảy ra chuyện gì đó. Nhưng không khớp với thời điểm và khác với loại xe mà cảnh sát đã tiên đoán. Nhưng không ai nghi ngờ sự thật về một âm mưu bắt cóc. Được con trai hỏi ý kiến, Bảo Đại nói đến giả thuyết phổ biến nhất, về một mưu toan có sự dính líu của đảng Cộng sản Pháp. Cuộc bắt cóc sẽ gây áp lực buộc cựu hoàng phải rút lui khỏi sân khấu chính trị. Còn ngày nay, khi kể lại chuyện cũ Bảo Long vẫn cho rằng đây đơn giản chỉ là một vụ việc dân sự thông thường của bọn lưu manh nhằm đòi một món tiền chuộc.


Sự việc không có nhưng cũng có những hậu quả nặng nề về sau. Bảo Long đã trải qua một thời niên thiếu đầy biến động, thường là cô đơn, trừ một giai đoạn ngắn được mọi người kính nể khi cha anh, ông Vĩnh Thuỵ, với tư cách cố vấn tối cao trong chính phủ, sống ở Hà Nội, hàng ngày tham dự cuộc họp với các ông bộ trưởng trong chính phủ hoặc tháp tùng Cụ Hồ trong các buổi tiếp tân. Thời kỳ học trường Roches là bước đầu của một thời thơ ấu "bình thường" với các bạn học, tham dự các trò chơi trên sân trường hay trên sân vận động và cũng như chúng bạn anh bắt đầu có cuộc sống ít nhiều thoát khỏi những mưu toan chính trị tối tăm hoặc liên quan đến cuộc sống cung cấm. Vậy mà, một âm mưu bắt cóc, dù không xảy ra hay chỉ là bịa đặt, lại ném anh trở về với những quy chế kỳ quặc của con trai nối nghiệp một vị Hoàng đế có tương lai không chắc chắn.


Một chiếc xe có ôtô cảnh sát hộ tống đưa Bảo Long đi khỏi Masslacq một cách tuyệt mật. Anh được đưa đến chủng viện dòng Benoit ở Madiran thuộc Pyrénées- Hạ. Một lần nữa, lại phải sống với các thầy tu. Phản xạ của bà Nam Phương lần nầy chẳng khác gì thời ở Huế dưới bom đạn mấy năm trước. Con trai bà không tìm đâu được sự an toàn bằng giữa những nhà tu hành.
Lần nầy không kỳ cục bằng trường dòng chúa Cứu thế ở Huế năm nào. Ở vùng Pyrénées-Hạ, dĩ nhiên là không có chiến tranh, cuộc sống ở đây ít sôi động hơn, quá yên tĩnh là khác. Bảo Long buộc phải ở một mình như đi trốn. Rất ít người biết nơi ở của anh. Một cảnh binh luôn luôn đi theo để bảo vệ. Suốt ngày đêm, anh không ra khỏi phòng. Một căn buồng kín đáo chung quanh trang trí toàn màu đỏ của chính Đức giám mục nhường cho anh, ăn thông với buồng bên cạnh lúc nào cũng có mặt viên cảnh binh, súng tiểu liên trong tay, luôn ở tư thế sẵn sàng.


Anh ở đấy hai tháng, cách biệt với thế giới bên ngoài, hầu như không liên hệ gì với người xunh quanh. Ngồi trong buồng nhìn ra, thấy các tu sĩ trẻ đang chơi bóng pơ-lốt rất muốn chạy ra nhập bọn cũng không được. Anh viết hàng chục lá thư cho bố, cho mẹ van xin được trở về cuộc sống bình thường như mọi người nhưng không ai trả lời. Hàng ngày anh chơi cờ "đam" (cờ vua) hoặc nghịch ngợm tập tháo ra, lắp vào khẩu súng tiểu liên của người cảnh binh. Anh đọc sách, tất nhiên chỉ là những sách sùng đạo, chán ngắt. Một hôm, một chàng thanh niên mới đi tu lén đưa anh đọc mấy tập thơ tình của Claudel. Đây là sách hầu như bị cấm trong tu viện. Quả thật là liều?
Sau hai tháng, thời gian câu lưu kết thúc, anh được đưa về Masslacq, tìm về trường cũ, cũng vẫn là cơ sở của trường Roches, nhưng ở Normandie, miền bắc nước Pháp.
Cuộc sống đầy biến động như thế nhưng kết quả học tập vẫn xuất sắc. Mười bảy tuổi, đỗ tú tài triết học, nhưng vẫn luôn luôn có cảnh binh đi kèm.


Nếu không kể sự có mặt của người bảo vệ nầy, Bảo Long sống như cô độc. Không bạn bè, ít giải trí, chỉ có sách. Trái ngược hẳn với cha, anh ít giao thiệp với phụ nữ. Vả lại, luôn luôn có thanh tra cảnh sát bên cạnh, chàng trai mới lớn nầy muốn mơ tưởng những chuyện diễm tình cũng khó trở thành hiện thực. Tính tình anh trở nên quá điềm tĩnh, quá lặng lẽ, và quá nghiêm trang so với tuổi. Anh phải cố chịu đựng những biện pháp che chở thái quá của cha mẹ từ bé, nhưng tuồng như không ham vui chơi đàn đúm. Anh trở nên ý tứ, dè dặt, kiên nhẫn, lạnh lùng... Lắm lúc về Cannes, anh bực bội vì không thể tham gia vào cuộc sống vui vẻ, ăn chơi của bố.


Sau nầy Bảo Long kể lại: "Tôi phải sống ngăn cách với thế giới xung quanh, có cảnh binh bảo vệ, mặc dù ở Cannes là cả một thế giới ăn chơi, có ôtô sang trọng, có máy bay riêng, có gia nhân đầy tớ. Tóm lại tôi không biểu sao người ta lại bắt tôi sống trong ký túc xá trường trung học Roches, kỷ luật khắt khe, thiếu thốn mọi thứ. Sau nầy tôi mới hiểu, chính mẹ tôi muốn tránh cho tôi khỏi bị nuông chiều quá, tránh cuộc sống phóng đãng như cha tôi, một lối sống đã gây cho bà nhiều đau khổ".
Dù sao, anh cũng được bố tặng một chiếc ôtô làm quà sinh nhật tuy còn thiếu nửa năm nữa mới đến tuổi cầm tay lái. Trên chiếc thuyền y-át cha anh mới mua, neo ở Monte-Carlo, ở đó một thanh tra cảnh sát đã chuẩn bị sẵn chờ anh đến là trao anh giấy phép đặc cách, dành cho con trai Hoàng đế An Nam do nước cộng hoà Pháp bảo trợ. Dẫu vậy, anh vẫn phải qua một cuộc sát hạch. Người thanh tra cảnh sát cho anh lên xe công vụ chạy đến đầu cảng và chỉ đặt ra một câu hỏi duy nhất: "Khi hai chiếc xe chạy cùng chiều trên đường, đến một giao điểm thì chiếc xe nào được ưu tiên?" Bảo Long trả lời luôn: "chiếc đi bên phải!". Thế là xong.
Khỏi cần thử tay lái và những câu hỏi khác. Bảo Long đã có giấy phép lái xe làm sẵn, được cảnh sát trao tận tay, dưới thuyền y-át.


Đó là một chiếc xe đẹp và dài. Một chiếc xe kiểu Anh, nổi tiếng thanh lịch với công suất động cơ mang nhãn hiệu Jaguar XK 120. Tại sao lại 120? Vì đó là chiếc xe đầu tiên của xê-ri có thể vượt quá vận tốc tối đa một trăm hai mươi dặm/giờ (tức hai trăm cây số/giờ). Đó là ước mơ của Bảo Long. Không may là viên sĩ quan hầu cận được giao nhiệm vụ đi mua xe lại nhầm.
Chiếc xe đang nằm ở cửa bến to lớn, oai vệ, sang trọng nhưng chẳng phải là xe thể thao. Đúng là mác Jaguar nhưng là Mark VII. Nặng ba tấn, da và gỗ đánh vecni vô ích. Bảo Long tức giận đòi phải mang đổi ngay.
Chiếc XK 120 được đưa ngay đến, anh mở cửa xe, ngồi ngay sau tay lái quá rộng với khổ người, anh lái một chiếc xe nhỏ hơn là vừa. Anh nổ máy cho xe chạy. Vừa ra khỏi cảng, xe đã đâm vào sườn một chiếc xe đi ngược chiều. May là không thiệt hại lớn. Anh đã biết lái đâu, chưa qua một lớp học lái, chỉ trông vào thực hành.
Trong hai năm anh gây ra mười hai vụ tai nạn. May là không nghiêm trọng cho cả hai bên. Nhờ có xe, mỗi kỳ nghỉ anh đi về đều đặn từ Normandie về Cannes. Gia đình chưa có nhà ở Paris. Mỗi lần cầm tay lái chiếc xe tốc độ cao, anh phải cố kiềm chế để xe đi với vận tốc trung bình. Đám cảnh sát hò hét hết hơi để chạy theo nhiều khi phải mượn chiếc xe 203 của cha anh mới đuổi kịp. Sau vụ âm mưu bắt cóc, tuy không xảy ra, cảnh sát vẫn giám sát chặt chẽ hành trạng của Bảo Long.


Một hôm, trên quãng đường gần Aix-en-Provence, xe bị hỏng khi vượt qua một chỗ ngoặt. Như mọi lần anh bỏ xa xe cảnh sát hộ tống đến vài tiếng đồng hồ. Khi anh đang lúi húi chữa xe để đi tiếp, thì chiếc xe cảnh sát bám theo, trên xe có hai người cứ vun vút chạy miết về phía trước nên không nhận ra chiếc xe Jaguar đang hỏng máy nằm bên lề đường. Vì thế, khi cảnh sát đến Cannes trước thì được nhân viên của lâu đài Thorenc cho biết thái tử vẫn chưa về đến nơi. Thế là họ phải lái xe 100 km quay trở lại mới gặp Bảo Long đang rong ruổi trên đường về như không có chuyện gì quan trọng xảy ra.
Thường chỉ có một nhân viên được phân công luôn luôn kèm sát thái tử để bảo vệ. Đó là thanh tra Tổng nha tình báo Chabrier. Ông ngủ luôn ở phòng liền kề, thông với phòng ngủ của Bảo Long, có thể nhanh chóng can thiệp khi có chuyện. Hàng ngày ông theo Bảo Long đến trường, chiếm một chỗ ngồi cuối lớp nhưng không phải để nghe giảng bài mà chỉ chăm chăm theo dõi nhất cử nhất động của thái tử. Ban đầu, các bạn học ngạc nhiên thấy hôm nào cũng có một người lớn tuổi có mặt trong lớp nhưng cũng quen dần. Mỗi khi Bảo Long ra ngoài, dù trên máy bay hay xe lửa, Chabrier luôn luôn đi bên cạnh. Những hôm Bảo Long lái xe đi chơi xa, người ta thấy ông ghì chặt tay lái chiếc xe 203 bám theo xe của Bảo Long. Nhưng khi anh về nghỉ với gia đình ở Paris, Cannes hay Valberg, thì lập tức đã có cảnh sát địa phương thay thế.


Thanh tra Chabner đã từng làm phận sự theo Bảo Long ở miền nam, vùng núi Pyrénées, nay phải theo Bảo Long lên Normandie, ở miền bắc Pháp. Trong ngày nghỉ cuối tuần, ông thường tranh thủ đưa gia đình lên chỗ làm phận sự. Trong chiếc xe 203 của Bảo Đại, người ta thấy gia đình Chabrier ngồi bên cạnh thái tử đi thăm các khu rừng trong vùng. Vốn ham săn bắn, nhiều lần ông Chabrier rủ cả Bảo Long cùng đi săn với đám bạn bè mới làm quen được từ khi đến đây làm nhiệm vụ.
Tháng 8, tháng nghỉ hè, Bảo Long về nghỉ với gia đình ở Cannes, Chabrier cũng phải theo về. Làm công tác bảo vệ như ông thì làm gì có nghỉ hè. Cả Bảo Long cũng vậy, suốt từ khi học lớp đệ ngũ đến khi học hết đệ nhất trung học rồi đỗ tú tài triết học, cũng không có nghỉ hè. Trong năm năm qua, Bảo Long học vượt cấp, bỏ qua năm đệ tam. Sau đó lại có một đội bảo vệ khác đến thay thế cho đến khi học hết bậc trung học. Đội nầy thường dùng một chiếc ôtô tốc độ cao, đôi khi phải mượn chiếc Talbot trong số các xe của cựu hoàng để làm nhiệm vụ hộ tống. Bảo Đại cũng hay lái một chiếc Ferrari vun vút đi trước, xe cảnh sát lao theo. Những con đường từ Cannes đi ngược lên tuy nhỏ hẹp nhưng ít xe qua lại, cả xe cảnh sát đi hộ tống lẫn xe của cha con cựu hoàng đều chạy với tốc độ cao, chẳng khác nào một cuộc đua ôtô, các nhân viên Tổng nha tình báo chẳng mấy chốc cũng trở thành những tay lái xe đua cừ khôi.


Bảo Long, tính tình vẫn trầm lặng, kín đáo nhưng xem ra lại rất thích thú với cuộc sống ở Cannes. Nhất là những lúc có mặt cha anh. Anh cũng ham thích bơi thuyền và lái ôtô thể thao như cha. Mỗi khi Bảo Long ra bờ biển đổi gió, bao giờ cũng đi hai xe ôtô, xe của anh và xe của cảnh sát, còn thêm chị hầu phòng trẻ tuổi và bà quản gia. Từ xa, mọi người đã nhận ra, đám đông xì xào khi đoàn xe đi qua. Xe đi rồi có người còn ngoái cổ lại để xem hoàng tử, công chúa nào mà tuỳ tùng đông thế... Chàng thanh niên Bảo Long ưa chuộng thể thao còn khám phá những niềm vui mới như chơi lướt ván, mặc dù mới làm quen cũng đã lướt rất cừ. Nhưng cũng là những môn thể thao cá nhân chứ không phải chơi theo đội hình có đấu pháp hợp đồng, luật chơi chặt chẽ như bóng đá, bóng rổ hay bóng chuyền.


Những ngày sống ở La Riviera vui thú nhường vậy! Trên chiến trường Đông Dương xa xôi, cuộc xung đột đẫm máu diễn ra hàng ngày, hàng ngàn người mỗi bên tham chiến theo nhau bỏ mạng, nhưng hầu như chẳng mảy may ảnh hưởng đến cuộc sống vô cùng xa hoa của gia đình cựu hoàng. Bảo Long tính từng ngày phải trở lại trường học.
Một lần Bảo Đại đến thăm con tại ký túc xá vào đúng giữa quý. Như thế là một năm bốn lần, vào ngày chủ nhật, trong lúc phần lớn các bạn học cuối tuần về gia đình, còn Bảo Long ngồi một mình trong toà nhà rộng lớn chờ bố đến. Cựu hoàng một mình tự lái xe đến.
Đó là một chiếc Ferrari hay Bentley giản dị, mà không phải là những chiếc Rolls sang trọng của giới thượng lưu ăn chơi. Ông cựu hoàng bao giờ cũng đường bệ, bảnh bao, chuẩn bị đồ nghề mọi thứ để leo núi hay câu cá dưới chân các thác nước Pyrénées. Chàng thanh niên không biết rằng trong lúc đang đi chơi cùng với bố ở các vùng thôn dã như thế thì tên tuổi anh càng được các báo nói đến như để chuẩn bị thay thế vua cha nắm quyền bính. Tuy nhiên, khi gặp nhau, hai cha con không ai nhắc đến chuyện tương lai.


Đỗ tú tài xong, Bảo Long ghi tên học dự thính cả hai trường một lúc: trường Hành chính và trường Luật.
Anh vẫn đam mê ôtô như trước. Lần nầy anh lái chiếc Alfa Romeo hay chiếc Siatia, một chiếc ôtô mui trần hai chỗ ngồi lắp động cơ Fiat. Anh thường lái xe đi xuyên ngang Paris luôn luôn có chiếc xe cảnh sát hộ tống. Lúc nào cũng có hai cảnh sát hộ vệ, một người kiêm lái xe được phân công ở lại bên ngoài trông xe còn người kia theo chân Bảo Long vào giảng đường, chiếm một chỗ ngồi bên cạnh, cũng giả bộ chăm chú nghe các bài giảng về lịch sử, về kinh tế mà chắc là chẳng hiểu gì hết. Còn các giáo sư chỉ cắm đầu giảng cũng chẳng ai buồn biết đến danh tính của chàng thanh niên châu Á hay vắng mặt trong các buổi thực hành, coi thường môn luật học. Cũng không một ai chú ý đến sự có mặt của người cảnh sát mặc thường phục lúc nào cũng lẵng nhẵng bám theo anh.
Bảo Long nghe chừng thông cảm với những người đi theo anh làm nhiệm vụ bảo vệ. Anh gần gũi và tỏ thái độ thân tình với họ. Có hôm anh bỏ chiếc xe Alfa hay chiếc xe khác của mình để leo lên chiếc Citroen cổ lỗ dẫn động bánh trước của cảnh sát cùng về căn nhà rộng sáu trăm mét vuông mà bà Nam Phương vừa mới tậu ở Neuilly. Các buổi tối, mỗi lần Bảo Long ra ngoài hay đi xem phim ngoài rạp cũng vẫn có một cảnh sát kín đáo theo anh vào phòng chiếu ngồi cách xa vài mét.


Những chuyện đi theo như vậy quá bình thường đến mức trong gia đình chẳng ai buồn để ý đến những hình bóng quen thuộc và cũng chẳng ai nhớ đến tên tuổi tính tình của các chàng cảnh sát mẫn cán đó.
Thế rồi đột nhiên người ta thấy chàng hoàng tử muốn từ bỏ cuộc sống được chiều chuộng quá mức, có nhiều xe ôtô sang trọng, kể cả các thanh tra Tổng nha tình báo chăm chú bảo vệ mình để xin đứng vào hàng ngũ chiến đấu. Hình như anh cảm thấy bứt rứt trong lòng khi thấy mình vắng mặt trong đội quân quốc gia mới thành lập theo hiệp định mà cha anh mới ký kết với tổng thống Pháp Auriol, trong lúc hàng ngàn thanh niên trạc tuổi anh đang tham dự cuộc chiến. Anh cho cha anh biết ý định từ bỏ vai trò kế vị ngôi báu mà người ta giao cho anh từ khi chào đời và muốn trở về nước, theo học trường võ bị Đà Lạt mới thành lập để trở thành sĩ quan quân đội quốc gia trẻ tuổi.
Bất ngờ trước ý định của con trai, cựu hoàng Bảo Đại ban đầu chối từ, chắc hẳn ông không muốn con trai ông làm vật hy sinh. Thấy Bảo Long tha thiết theo đuổi binh nghiệp hơn là làm chính trị, ông chiều ý con nhưng cho con vào học trường võ bị Saint-Cyr, có tiếng hơn, và... an toàn hơn. Tốt nghiệp xong trường nầy chưa chắc Bảo Long đã phải ra trận ở Đông Dương.
Trong thâm tâm ông chẳng tin gì trường võ bị Đà Lạt, chẳng tin gì cuộc chiến tranh ông đang theo đuổi và cũng chẳng tin gì giải pháp mang tên ông. Ngoài ra ông thường nói: "Làm gì có giải pháp Bảo Đại mà chỉ có một giải pháp của người Pháp mà thôi!" Trong lòng bực bội nhưng Bảo Long tuân lệnh cha, không trở lại Việt Nam.
Chú thích: (1) Francois du Haut de Bérenc, hoạ sĩ trang trí ở Bangkok, Phoenix và Kim d Estainville, chết ở Algérie.

*

26

Sau hiệp định ký với Auriol, Bảo Đại chuẩn bị rời Cannes để trở về nước. Lại một lần nữa, Việt Nam chuẩn bị đón cựu hoàng Bảo Đại hồi loan. Giống như năm 1932, người Pháp phải nghĩ cách làm sao cho lần trở về nầy thật rầm rộ có đông đảo dân chúng đón tiếp với đủ cờ quạt kèn trống... Có khác tình hình năm 1932 là lần nầy đối thủ của ông mạnh mẽ hơn nhiều. Đó là cuộc kháng chiến của cả một dân tộc đi theo ngọn cờ cứu nước của Việt Minh.
Tại Sài Gòn, khi mặt trời lên cao quang canh đường Catinat mới thức giấc bắt đầu cuộc sống nhộn nhịp thường lệ. Các sân thượng còn vắng khách. Phần lớn ghế ngồi đêm trước còn ngổn ngang trên mặt đường, giờ nầy còn chất đống trong các tiệm cà phê có nhiều lớp rào thép bao quanh. Xa xa, trên sân thượng khách sạn Continental, mấy anh nhà báo đang dùng bữa điểm tâm. Còn ở đây ngay trên đường nhựa, đám ăn mày đang mơ màng ngủ gà ngủ gật.
Thoạt đầu một tờ truyền đơn từ trên cao rơi xuống bên cạnh một người ăn mày. Rồi nhiều tờ khác bay là là rơi xuống ban công các nhà hai bên đường phố.
Nhiều tờ khác màu xám như những con chim hay lá cây lướt nhẹ rơi xuống các góc phố ở trung tâm. Những người đi đường nhặt lên, bắt đầu đọc, và vứt vội đi như không muốn đọc hết.
Cách tán phát truyền đơn của Việt Minh khá tài tình. Truyền đơn được nhúng ướt rồi đặt trên nóc nhà hay mui xe ôtô vào ban đêm. Sáng ra, chúng được những tia nắng ban mai sấy khô từng tờ một, gió thổi bay khắp nơi theo từng đợt. Rải rác trong ngày, khắp thủ phủ của Nam Bộ người ta nhận được lời lên án sau đây của kháng chiến:
"Hỏi rằng: ai đã long trọng thề trước dân chúng: "Thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ". - Đó chính là Bảo Đại! Ai đã nhận nhiệm vụ làm cố vấn tối cao cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rồi trôn ra nước ngoài, ăn chơi trác táng? - Đó chính là Bảo Đại! Ai đã xin tiền của Pháp, Mỹ để sống xa hoa, đàng điếm và đế trả ơn quan thầy, đã quỳ gối ký các hiệp định Vịnh Hạ Long và hiệp ước Auriol? - Đó chính là Bảo Đại! Nối nghiệp bán nước của cha ông trong dòng họ, một tên vua chỉ biết sông truỵ lạc trong bùn nhơ, nay lại nhận tiền của kẻ thù, làm tay sai cho chúng, tàn sát đồng bào, còn tự xưng là cứu tinh của Tổ quốc. Tên vua đó phải bị toàn dân Việt Nam nghiêm trị! Đả đảo tên phản bội Bảo Đại! Đả đảo Bảo Đại bán nước! Đả đảo Bảo Đại mất gốc! Đả đảo Bảo Đại rước voi về dày mả tổ! Ngày 26 tháng 4 năm 1949, chỉ huy trưởng lực lượng kháng chiến toàn Nam Bộ ra lệnh: "Quân đội vùng duyên hải phải sẵn sàng chiến đấu, liên tục tiến công, thực hiện phá hoại, bắn máy bay...".


Cùng thời gian đó, mỗi tỉnh phải bốc thăm cử ra bốn người một tỉnh, họp thành một tổ tình nguyện gọi là "ban ám sát" vào Sài Gòn làm nhiệm vụ thủ tiêu Bảo Đại.
Một truyền đơn ký tên "Uỷ ban kháng chiến Sài Gòn - Chợ Lớn" hạ lệnh làm vườn không nhà trống tẩy chay các hoạt động đón tiếp Bảo Đại về nước làm tay sai cho Pháp: Tất cả các nhà phải đóng cửa, không được ra ngoài phố. Bãi chợ, cấm mua bán vào ngày đó...
Lạ lùng là tin Bảo Đại về nước đã dấy lên một cơn sốt cá cược: giờ nào, ngày nào, cựu hoàng sẽ về nước như thế nào. Đặt cược thì to, người được thì hiếm. Trái với mọi chờ đợi, Bảo Đại không về Sài Gòn mà về Đà Lạt. Đến Singapore ông thuê một máy bay đặc biệt bay về thành phố nhỏ miền núi để tránh một cuộc đón tiếp linh đình hay một cuộc tẩy chay hay để giữ thể diện vì Pháp không chịu để ông về ở tại dinh Norodom (tức Phủ Toàn quyền cũ tượng trưng cho quyền lực toàn quốc). Chọn Đà Lạt cũng còn có nghĩa ông không dấn thân hoàn toàn vào chiến tranh.
Chiếc Dakota hạ cánh xuống đường băng Liên Khương, cách biệt giữa rừng, cách Đà Lạt khoảng mươi cây số. Cao uỷ Léon Pignon đọc một diễn từ ngắn chào mừng. Một hàng dài quan lại, mặc quốc phục nghênh đón cựu hoàng. Cờ hiệu màu vàng Nhà vua phấp phới bay trên nóc phi trường.


Tất cả hầu như đã được biết trước. Nhưng Bảo Đại giữ vẻ mặt u buồn. Ông ta đọc một bài diễn văn nhạt nhẽo. Nhà báo Lucien Bodard kể lại: "Kết thúc bài diễn văn, cựu hoàng chui vội vào chiếc xe limousine to tướng đưa ông về biệt thự của ông nằm sâu giữa rừng. Tất cả có vẻ "giả dối, qua quýt".
Mấy tuần sau, vào tháng 6, Bảo Đại mới long trọng vào Sài Gòn.
Như đã dự kiến, không xảy ra chuyện gì khi Bảo Đại về Sài Gòn. An ninh được tăng cường nghiêm ngặt. Ba tên khủng bố sắp ném lựu đạn vào xe của Bảo Đại thì bị bắt rất kịp thời. Nhưng cờ quạt ít. Chỉ một dúm người đứng dọc đường đi qua. Một số báo giải thích sự thiếu nồng nhiệt ấy là do dân sợ Việt Minh trả thù.
Phần đông dân Nam Bộ không biết đến hoặc ác cảm với cuộc trở về đó Bảo Đại cũng như Triều đình nhà Nguyễn trước kia vốn không được dân Nam Bộ coi trọng.
Tuy nhiên sức hấp dẫn cá nhân và sức lôi cuốn tự nhiên của cựu hoàng, thái độ thoải mái, điềm đạm cố ý giản dị của ông ta và sự hiểu biết hoàn hảo tâm lý quần chúng và tâm hồn Việt Nam đã khiến ông giành được cảm tình của dân chúng miền Nam. Trong một bức điện gửi về cho bà Nam Phương ở lại Cannes, Bảo Đại viết: "Chuyến về Sài Gòn tuyệt hảo. Đón tiếp rất vui!".
Một tháng sau, ông về Huế, nhưng chỉ đơn giản là về thăm. Đế đô vẫn luôn trong tình trạng chiến tranh, kể từ 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật lật đổ chính quyền của Pháp. Mặc dù thành phố Huế vẫn bị lực lượng kháng chiến bao vây uy hiếp nhưng lệnh giới nghiêm đã được rút từ chín giờ tối xuống nửa đêm, để dân chúng đế đô mở hội mừng Bảo Đại trở về, dù ông chỉ lưu lại có vài giờ. Hoàng thành mở rộng cửa. Nhân dân tạm quên những bức tường cháy sém và hình ảnh cầu Trường Tiền chìm sâu dưới dòng nước sông Hương thơ mộng.


Bảo Đại mở một bữa tiệc lớn trong những ngôi nhà thoát khỏi bom đạn và đám cháy, trong phòng thiết triều và trong một phần cung điện ông ở trước kia. Ai có thể tin được cuộc tái ngộ giữa cựu hoàng và đế đô? Như bài tường thuật tô hồng của báo giới và của chính Bảo Đại: "Kỳ lạ là đám quần chúng cố đô có vẻ như hối hận, đã đẩy tôi tới chỗ phải bỏ ngai vàng bốn năm trước. Không phải là cái hân hoan tôi đã thấy ở Sài Gòn và sẽ thấy lại ở Hà Nội". Hàng ngàn người dân xứ Huế đã đốt những đèn màu sặc sỡ kéo đến cửa Ngọ môn, cái cửa lớn uy nghi và đồ sộ, may mắn còn lại sau cơn binh lửa. Tối đó, Huế như sống lại sau bốn năm chiến đấu và sợ hãi. Bữa tiệc kết thúc, diễn ra một "dạ hội kiểu Venise". Hội hoa đăng cổ truyền được tổ chức trên sông Hương: hàng trăm thuyền bè đèn thắp sáng trưng lướt trên nước, trên thuyền là những vũ công mang mặt nạ. Nhã nhạc tưởng như bị quên lãng nay lại tưng bừng vang lên từ những quả đồi. Lễ hội kết thúc vào nửa đêm trong niềm vui. Nhưng chỉ ba giờ sau, một loạt đạn súng cối rơi cách tường thành vài mét. Từ bốn năm nay các cuộc chiến đấu chưa bao giờ thật sự chấm dứt ở cố đô Huế.


Chữ ký trên hiệp định ở điện Elysée không chấm dứt được không khí sục sôi chính trị ở Huế. Bảo Đại không dám lập lại Triều đình. Với danh nghĩa "Quốc trưởng" ông cai trị một đất nước gồm có ba "kỳ" nhưng mỗi "kỳ" vẫn giữ bản sắc riêng, cả ba đều thường xuyên xảy ra khủng hoảng.
Cơ quan tuyên truyền tổ chức các chuyến viếng thăm, các cuộc gặp gỡ, các cuộc biểu tình hoan nghênh "quốc trưởng", cố gắng phát huy tinh thần quốc gia.
Tháng 6 năm 1951, Bảo Đại tổ chức lễ hội "thống nhất quốc gia". Các đại biểu ba miền Bắc, Trung, Nam, đại biểu các dân tộc thiểu số đổ về Sài Gòn, mang theo một nắm đất quê hương. "Quốc trưởng" trịnh trọng trộn lẫn các nắm đất ấy tượng trưng cho sự thống nhất các "miền đất" trong nước. Một trăm nghìn người dự cuộc lễ ấy hoan hô như sấm dậy khi Bảo Đại đổ đất đã trộn vào đầy các bình đặt trên "bàn thờ Tổ quốc". Tiếp đó khắp các miền trong nước, nhiều lễ nghi tôn giáo được cử hành cùng với các cuộc diễu hành quần chúng rầm rộ để biểu dương sự kiện trọng đại nầy.


Hoạt động tiếp theo là làm sao để những điều khoản trong hiệp ước Auriol - Bảo Đại được thực hiện, nếu không thế thì độc lập chỉ là một từ rỗng tuếch.
Công việc nầy không dễ dàng chút nào. Chiến tranh đang tiếp diễn. Mặt trận quân sự phải được ưu tiên. Ai cầm súng người đó nắm thực quyền. Những năm 50, trong vùng tạm chiếm, quyền hành thực sự nằm trong tay đội quân viễn chinh đông tới hai trăm năm mươi nghìn người. Đó là những quyền quản lý hành chính đối với dân chúng trong vùng chiếm đóng, quyền thu thuế, quyền trị an. Bảo Đại phải vật lộn, đấu tranh giành giật từng quyền một cho đến ba năm sau mới đạt được một hiệp định mới về chuyển giao quyền hành cho "Chính phủ quốc gia Việt Nam" và "Đức Quốc trưởng Bảo Đại", lúc đó đã quá muộn(1). Trong lúc thế trận chưa ngã ngũ dám tướng tá Pháp hành động y hệt như năm 1884, sau hiệp ước bảo hộ hay như năm 1933, ban hành những biện pháp đảm bảo quyền tự trị cho Triều đình Huế, chẳng dếm xỉa bao nhiêu đến những điều khoản chính trị trong hiệp ước vừa ký kết. Vả lại, thời gian nầy giới chóp bu trong bộ máy cầm quyền ở Pháp chưa có ý định trao trả độc lập tự do thực sự cho nhân dân các nước thuộc địa.


Không tham khảo ý kiến của ai, Bảo Đại tiếp xúc với người Xiêm, nhất là người Mỹ. Một báo cáo mật của cơ quan tình báo Pháp (DST) viết: "Ông ta - chỉ Bảo Đại - tiến hành những cuộc thương thuyết với nước ngoài mà không cho Paris biết. Mục đích là nhằm tranh thủ sự ủng hộ của hai nước lớn trong Liên hợp quốc để gây sức ép với chính phủ Pháp nhanh chóng thực hiện những điều khoản trong hiệp ước Pháp - Việt, rồi thoát ly khỏi ảnh hưởng của Pháp, gia nhập phe Mỹ". Hơn nữa bản báo cáo mật còn tiết lộ Bảo Đại có lẽ đã thoả thuận với Đài Loan, để tranh thủ sự ủng hộ của ba trăm nghìn Hoa kiều ở Đông Dương "giúp vào việc bình định Đông Dương"(2).


Cuối cùng cựu hoàng đấu tranh để thành lập cho được quân đội của riêng mình được mệnh danh quân đội quốc gia, người đương thời còn gọi là quân đội Bảo Đại gồm toàn người Việt Nam, có quân phục và quân hiệu Việt Nam, có quân số nhảy vọt từ hai mươi nhăm nghìn năm 1949 đến gần hai trăm nghìn năm 1954, có đủ các quân binh chủng lục, hải, không quân, dĩ nhiên được trang bị tốt bằng vũ khí Mỹ, do sĩ quan Pháp huấn luyện, do Bộ tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp điều động tác chiến, dưới cái tên chung mang tính lừa bịp là quân đội Liên hiệp Pháp. Mặc dù ông xuất hiện bên cạnh tướng lĩnh Pháp trong lễ diễu binh các đại đội sĩ quan mới ra lò trong lễ quốc khánh Pháp 14 tháng 7 năm 1951, lớn tiếng hô hào thanh niên vùng tạm chiếm sung vào quân ngũ coi đó như "lực lượng xung kích, đi tiên phong trong công cuộc bảo vệ nền độc lập" nhưng chắc hẳn ông không không mấy tin tưởng về khả năng chiến đấu và tiền đồ của đội quân ấy nên ông nhất định can ngăn con trai ông không cho về nước học trường võ bị Đà Lạt để ra làm sĩ quan cho "quân đội quốc gia". Sau lệnh tổng động viên của "Quốc trưởng Bảo Đại", sáu mươi ngàn người sẽ được bổ sung vào quân đội quốc gia chiến đấu bên cạnh quân đội viễn chinh Pháp chống lại lực lượng kháng chiến của ông Hồ Chí Minh.


Cựu hoàng tỏ ra "có tinh thần trách nhiệm hơn", có vẻ "dấn thân hăng hái hơn" phần lớn là do công của Jean de Lattre de Tassigny, viên tướng năm sao đầy tự tin, lần đầu tiên nắm quyền cao nhất cả quân sự lẫn chính trị ở Đông Dương: vừa là Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh vừa là Cao uỷ(3). Ông được bổ nhiệm sang Đông Dương tháng 12 năm 1950 trong lúc quân đội viễn chinh Pháp đang rơi vào tình trạng tồi tệ nhất sau thất bại ở biên giới Việt - Trung vào tháng 9 năm 1950 đến mức tướng Carpentier, người tiền nhiệm của ông, đã tính đến một cuộc rút lui khỏi Hà Nội để về cố thủ tại miền duyên hải Hải Phòng - Hòn Gai. Nhưng không đầy một tháng sau khi tới Đông Dương, vị tổng chỉ huy mới đã đánh bại tướng Giáp ở Vĩnh Yên, cách thủ đô khoảng một trăm cây số về phía bắc. Tuy phải trả giá đắt nhưng dù sao cũng là một trận thắng, giữ được phòng tuyến trung du, đẩy lùi cuộc tiến công của Việt Minh về đồng bằng và Hà Nội, khôi phục niềm tin cho đội quân viễn chinh sau nhiều tháng sa sút. Nhưng Bảo Đại lúc đầu tỏ ra không tin tưởng con người bé nhỏ luôn luôn năng động trái ngược hẳn với tính cách của ông cũng như thái độ đối với cuộc chiến. Cựu hoàng vẫn để gia đình sống an bình ở Cannes, can ngăn con trai ông không được về nước chiến đấu chống Việt Minh. Trái lại, tướng De Lattre, mệnh danh là "vua Jean" đưa vợ sang sống ở Hà Nội và con trai yêu quý của ông chết trận ở đồng bằng sông Hồng cho sự nghiệp mà ông gọi là "giải phóng Việt Nam khỏi hiểm hoạ Cộng sản".
Ngày tháng trôi qua, vị chỉ huy chiến tranh và cựu hoàng đi từ lạnh nhạt đến cảm phục nhau, kính trọng nhau, mời mọc đãi đằng nhau, không tiếc lời tâng bốc nhau, ít ra là bề ngoài.


Bảo Đại khi mới về nước sống gần như ẩn dật ở Đà Lạt hay Buôn Ma Thuột, mê mải săn bắn, đánh bạc hơn là chuyện chính trường nay đã bớt xa lánh các cuộc họp, chịu tham gia bàn bạc chuyện đại sự, bớt tránh né các cuộc liên hoan hội hè đông người, và tham dự các cuộc diễu binh, diễu hành với cương vị một Quốc trưởng không thể vắng mặt.
De Lattre không chỉ bằng lòng với việc "lên gân cốt" đám sĩ quan, binh sĩ người Pháp và Việt dang rệu rã tinh thần trên các chiến trường Đông Dương. Ông còn làm vai trò trạng sư bênh vực cho "giải pháp Bảo Đại" ở nước ngoài. Ông sang tận Hoa Kỳ để xin tiền và vũ khí.
Khi De Lattre từ Mỹ trở về, Quốc trưởng đã tổ chức một cuộc chiêu đãi long trọng tại dinh Gia Long để đón mừng kết quả chuyến công du. Hôm đó có mặt toàn bộ các thành viên chính phủ Việt Nam, Đoàn ngoại giao, và các tướng lĩnh của hai quân đội Pháp-Việt.


Trong lời chào mừng, Bảo Đại không tiếc lời ca ngợi De Lattre: "Nhân dân Việt Nam biết đã chịu nhiều ân nghĩa đối với ngài không thể kể hết. Để tỏ lòng biết ơn, nhân dân Việt Nam thấy mình phải lớn mạnh lên, ý thức được sự trong sáng của những ý định của ngài và sẽ không đế ngài phải thất vọng...". Tướng De Lattre đã đứng suốt thời gian Bảo Đại đọc diễn văn. Đến lượt ông đáp từ bằng những lời hoa mỹ không kém: "Cựu hoàng Bảo Đại là biểu tượng, là điểm tựa cần thiết cho sự thông nhất của Việt Nam. Người kế vị trẻ và hiện đại của một triều đại lâu đời, chỉ mình ông mới có thể cứu rỗi được tâm hồn An Nam. Ngài là cội nguồn của sự hữu hiệu của đất nước vì ngài đã thể hiện ý chí chiến đấu của nhân dân". Tất cả xem ra đều có thể trở thành hiện thực. Nhưng hai tháng sau bữa tiệc nầy, De Lattre phải nhập viện. Ông chết ở đó vì căn bệnh ung thư ngày 11 tháng Giêng năm 1952.


"Quân đội quốc gia" tiếp tục tồn tại sau khi cha đẻ của nó là tướng De Lattre đã bỏ biết bao công sức để sinh thành nhưng qua đời quá sớm. Tiếp đó đến lượt thủ tướng được Bảo Đại bổ nhiệm sẽ cổ vũ tuổi trẻ Việt Nam lao vào cuộc chiến.
Có thể nói rằng cuộc thử nghiệm Bảo Đại đã thành công? Không. Chính cựu hoàng cũng có cảm tưởng rằng ông chẳng tin tưởng gì vào hành động của ông.
Từ đây ông không rời cặp kính đen nữa, cứ thấy ánh nắng mặt trời gay gắt là chảy nước mắt. Dù đứng thẳng và cứng nhắc trong trang phục đại lễ hay vô cùng lịch sự trong bộ âu phục, ông không giấu nổi vẻ u sầu luôn đeo đẳng trong người. Có phải do quá nhiều cuộc săn bắn, quá nhiều lần lưu trú tại Pháp, quá nhiều tai tiếng eo xèo về cuộc sống truỵ lạc? Có thể do quá biếng nhác. Hình như ông là con người ít hoạt động. Khó mà gặp được ông, ông gần như dửng dưng với tất cả.


Tuy nhiên ông cố đóng vai trò của một nguyên thủ quốc gia. Ông chỉ định, bãi chức các thủ tướng(4), tưởng như mình là chất gắn kết ba miền đất nước. Nhưng chỉ là thân phận bù nhìn. Ông chẳng có thực quyền gì trong việc thay đổi người cầm đầu chính phủ, nhưng lúc đầu chẳng gì ông cũng gây tác hại không nhỏ đối với sự nghiệp chính nghĩa của Việt Minh.
Nhưng cũng có một vài nhân vật khiến ông như bừng tỉnh khỏi cơn mê, trở về cuộc sống đời thường. Nhân vật đáng chú ý là Bảy Viễn, được gặp ông lần đầu ở Sài Gòn năm 1949 và thường gặp lại ở Đà Lạt mùa thu năm 1950. Đó là một tướng lục lâm khét tiếng, một tay trùm anh chị, một trong những tên cầm đầu phe đảng Bình Xuyên.
Trên đất Nam kỳ, từ nhiều thập kỷ nay, có nhiều phong trào tôn giáo khác nhau hoạt động không liên quan gì với các trào lưu tư tưởng lớn. Mỗi giáo phái có hệ thống chức sắc, tăng ni riêng, về sau còn có cả lực lượng vũ trang riêng chia nhau hùng cứ một vùng đất riêng, ở đó những người cầm dầu là những lãnh chúa thật sự. Phe đảng Bình Xuyên còn đặc biệt hơn nữa. Giang sơn của bọn nầy là vùng ngoại ô Sài Gòn, khu "rừng Sác" rậm rạp hoang vu, một vài đảo nhỏ hẻo lánh giữa hàng ngàn hecta đầm lầy và nước lợ. Tại đây chúng họp thành một thứ triều đình kỳ quặc, tụ tập những bọn lưu manh côn đồ hung hãn, tù vượt ngục, những dân anh chị quen chọc trời quấy nước, tất cả đều đang bị cảnh sát truy nã. Giữa vùng đất ngoài vòng pháp luật nầy có một làng, có tên cũ là Bình Xuyên, nay được lấy làm tên chung cho cộng đồng đám du thủ du thực nầy. Sau khi chủ tướng Dương Văn Dương hy sinh trong một cuộc đụng độ với Pháp, quyền chỉ huy nằm trong tay Bảy Viễn. Một đầu sỏ lưu manh thực thụ. Hắn đã từng cầm đầu mafia Chợ Lớn. Đó là "một nhân vật đặc biệt" như Bảo Đại thổ lộ, trở thành thủ lĩnh nhờ sức mạnh võ biền, trưởng thành từ cuộc sống đường phố, đánh nhau rất liều lĩnh để xưng hùng xưng bá một vùng đồng bằng Nam Bộ trải dài từ ngoại ô Sài Gòn đến Đồng Tháp Mười. Bảy Viễn còn nổi danh ở chỗ chỉ đánh vào bọn nhà giàu. Hắn đã bị Pháp đày ra Côn Đảo rồi vượt ngục, theo Việt Minh đánh Pháp một thời gian, sau đó lại quay về hợp tác với quân đội viễn chinh. Được Pháp thâu nạp và tất nhiên được giao kiểm soát Chợ Lớn, nơi tập trung các sòng bạc lớn, các tiệm hút mà khách hàng phần lớn là người Hoa ở Sài Gòn. Bảo Đại gặp Bảy Viễn đúng lúc y rời bỏ kháng chiến về hàng Pháp.
Vấn đề lớn khiến Bảo Đại phải gặp Bảy Viễn để thương lượng xuất phát từ "Đại Thế giới", một sòng bạc kiêm nhà chứa quy mô lớn nổi tiếng "toàn châu Á", có lẽ cả thế giới, đạt kỷ lục về doanh số cũng như về số con bạc hay lui tới. "Đại Thế giới" ở Chợ Lớn có thể xem như một siêu thị đánh bạc, chỉ mới xuất hiện năm 1946, trước khi Việt Minh phát động toàn quốc kháng chiến. Chuyện lạ lùng là sòng bạc Đại Thế giới ra đời do quyết định của đô đốc Thierry d Argenlieu, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, một thầy tu mặc áo lính vì ông đã có mấy năm phụng sự Chúa ở tu viện Trappe trước khi theo tướng De Gaulle chiến đấu giải phóng nước Pháp... Tại đây có đủ cả bác quan và tài sửu, là những trò đánh bạc kiểu Tàu mà dân Sài Gòn rất mê.


Tối tối, những tay máu mê cờ bạc bình dân đến đây chơi cháy túi, hết sạch cả số tiền ít ỏi tiết kiệm được, có khi còn hơn nữa, vét cả đồng tiền cuối cùng đáng lẽ để nuôi sống gia đình họ trong trò đỏ đen "ba mươi sáu con vật". Đây còn là nơi tụ tập của bọn tứ chiếng giang hồ ở những khu nhà có tường cao vây quanh, ai đi trên đại lộ nối liền Sài Gòn và Chợ Lớn đều nhận ra ngay. Cả một mớ dây xích chằng chịt khơi luồng cho đám đông tấp nập chen chúc các lối vào,. vừa để dễ dàng lục soát cấm con bạc đem theo hung khí. Đại tá Leroy, người sau nầy phụ trách giám sát an ninh ở Chợ Lớn cho quân đội Pháp viết: "Bên trong tường rào, trên sân đất rộng, năm mươi căn nhà khung mái tôn được dựng trên nền xi măng, trong mỗi căn được kê bốn, năm bàn đánh bạc, ban đêm được hàng ngàn bóng đèn chiếu sáng. Mỗi ngày suốt từ sáng đến tối, hàng ngàn, hàng ngàn con người chen chúc nối đuôi nhau theo dây chuyền quanh các bàn bạc để sát phạt nhau, trấn lột nhau bằng các trò may rủi. Thực tế, người thua nhiều hơn người được, rất ít cơ may thắng cuộc"(5).


Bên cạnh các bàn đánh bạc, ba nhà hát và hai rạp chiếu bóng vét nốt ít tiền còn lại của khách chơi. Kỳ quặc nhất có lẽ là vũ trường. Sàn nhảy rộng đến ba trăm mét vuông bằng gỗ được thiết kế riêng làm mọi người kinh ngạc: Sàn gỗ đặt trên lò xo, với những kỹ xảo đặc biệt như những bộ hãm thuỷ lực, theo người ta nói, là để khi nhảy, dáng điệu thêm phần uyển chuyển, mềm mại, tăng thêm phần thanh lịch... Các cô vũ nữ, khá đông, mặc áo dài lụa bó sát người, càng tăng vẻ đẹp lộng lẫy. Các nhạc công, nổi bật lên giữa một số khách chơi ăn mặc lôi thôi lếch thếch, luôn luôn trang phục chỉnh tề với bộ smoking trắng bóng trên ngực gài bông hoa cẩm chướng màu đỏ. Trong Đại Thế giới bên cạnh khu ăn chơi của giới bình dân, còn có một loạt các buồng kín đáo hơn, đầy vẻ bí ẩn dành riêng cho khách chơi giàu có. Trước tiên là phòng dành cho người Pháp, có bàn cò quay đủ màu sắc. Xa hơn một chút là những buồng kín đáo hơn nữa trông như những lô-cốt với những cửa sổ kính mờ, đó là câu lạc bộ riêng của các ông chủ ngân hàng, các thương gia giàu có, chủ các hãng tàu buôn, người môi giới hối đoái, tóm lại là những "đại gia" Chợ Lớn. Người Việt Nam có vẻ như ham đánh bạc hơn người châu Âu đến nỗi đầu năm 1950, Bảo Đại phải cấm công chức và quân nhân vào đấy.


Nhưng đó không phải là nội dung bàn bạc giữa cựu hoàng Bảo Đại và tướng Bảy Viễn. Vấn đề đặt ra không phải là những hậu quả xấu của sòng bạc khổng lồ Đại Thế giới đem lại cho xã hội mà là khoản lợi nhuận thu được từ cơ sở ăn chơi nầy. Theo lệ lâu nay là hai năm một lần sẽ bỏ thầu, ai nộp nhiều tiền nhất sẽ giành được quyền khai thác. Từ 1948, những người Hoa ở Macao đã giành được quyền nầy bằng cách đều đặn mỗi ngày nộp cho chính phủ Nam Kỳ bốn trăm nghìn đồng bạc Đông Dương. Nhưng muốn ăn chắc, không bị Việt Minh quấy rầy, họ cũng phải trích thêm năm trăm nghìn đồng nữa để nộp cho Việt Minh, tổng cộng mỗi ngày Đại Thế giới phải bỏ ra gần chín trăm nghìn đồng bạc Đông Dương (tương đương mười lăm triệu ba trăm nghìn franc năm 1948) chỉ để được kinh doanh yên ốn từ hai phía. Cả một gia tài? Đúng như thế nếu lợi nhuận tại chỗ không đủ trang trải cho chiến tranh. Ai có may mắn trúng thầu khai thác còn được quyền đưa nhân viên của mình phụ trách các chân: hồ lỳ, ca sĩ, nữ tiếp viên, gái gọi, nhân viên kế toán, bảo vệ... công việc kinh doanh tiến triển tốt. Khu phố vốn đã ồn ào, nhộn nhịp lúc ban ngày cứ chiều tối đến lại càng thêm đông đúc náo nhiệt. Các ông chủ sòng bạc Đại Thế giới hầu như không gặp khó khăn gì trong việc "nộp cống" đều đều không những cho cả hai bên Pháp và Việt Minh mà còn cho cả Cao uỷ, giám đốc cảnh sát đô thành, giám đốc hải quan, cho cả bà vợ của bộ trưởng nội vụ, cho Bình Xuyên đang nắm quyền hành ở Chợ Lớn và chắc chắn cho nhiều người khác nữa nhưng... Bảo Đại đến giờ phút nầy vẫn chưa có phần(6).


Cuộc gặp gỡ giữa cựu hoàng và viên tướng cướp có thể chẳng đem lại kết quả gì nếu hai người không cảm mến nhau. Họ tâng bốc nhau theo cách riêng của mỗi người. Họ gặp lại nhau, cùng nhau đi săn, cùng nhau chia sẻ các thú ăn chơi. Thường thường, ông chủ Chợ Lớn mang theo đoàn hộ tống lăm lăm súng tiểu liên Thompson và lựu đạn. Dường như hắn muốn tỏ ra chỉ tin cậy chính mình và thủ hạ của hắn để giữ an toàn cho hắn. Cũng là cách để chứng tỏ tính ngang tàng chẳng lệ thuộc vào một thế lực nào.
Dần dần Bảy Viễn gia nhập nhóm thân cận của cựu hoàng và chẳng bao lâu kế hoạch nắm Đại Thế giới trở thành hiện thực.
Lực lượng Bình Xuyên cũng như Quốc trưởng đều cần tiền để bành trướng thế lực. Từ một nhúm người khi mới quay về hợp tác với Pháp, Bảy Viễn dần dần nắm trong tay ba nghìn lính, không kể bọn thân binh, mật vụ, tình báo, chỉ điểm... Các thứ "thuế má" thu được của các thương gia trong thành phố không đủ để nuôi đội quân ô hợp của hắn, mặc dù từ khi trở về với "chính nghĩa quốc gia" của Quốc trưởng Bảo Đại, lực lượng Bình Xuyên được trả lương nhưng là một khoản tiền ít ỏi. Về phần cựu hoàng có lẽ ông không chê nhận một phần nguồn lợi trên. Ông làm mọi cách để tạo thuận lợi cho Bảy Viễn được trúng thầu khai thác "sới bạc" Đại Thế giới, năm 1950.


Ngay lập tức, cuộc thương lượng kết thúc nhanh chóng nhờ tiếng tăm hung hãn của lực lượng Bình Xuyên. Giới kinh doanh sòng bạc dù đó là những người Hoa sừng sỏ, làm sao có thể bàn cãi dây dưa với đại diện của ba nghìn tên anh chị chỉ quen giết người, được vũ trang đầy đủ...
Bảy Viễn lại khôn ngoan khéo dàn xếp với những nhóm người Hoa khác ở Chợ Lớn cũng như với đại diện người Corse ở Nam Kỳ. Điều lạ lùng là năm 1950, người Corse còn thao túng một phần mafia ở Sài Gòn. Sau đó họ rút dần vai trò của họ trong các trò cò quay, tứ sắc và tiếp theo là bài baccara.
Bảy Viễn bằng lòng "cống nộp" hàng ngày cho chính phủ "quốc gia" năm trăm nghìn đồng Đông Dương. Thế là nhiều hơn Hoa thương Macao đến một trăm nghìn đồng rồi. Từ Đà Lạt, Bảo Đại gửi thư can thiệp với chính phủ Nam Kỳ tự trị yêu cầu để Bảy Viễn trúng thầu. Ngày 1 tháng Giêng năm 1951, mọi việc xong xuôi Từ nay lực lượng Bình Xuyên đã hoàn toàn thao túng Đại Thế giới. Về phần mình, cựu hoàng được nhận riêng một khoản tiền hàng tháng là hai trăm bốn mươi nghìn đồng (tương đương hai mươi bốn triệu franc theo tỷ giá hối đoái năm 1950). Tài sản của cựu hoàng tích cóp được trong những năm đó chủ yếu là từ các khoản đóng góp của Đại Thế giới.


Tình bạn giữa cựu hoàng và viên thủ lĩnh Bình Xuyên ngày càng thắt chặt thêm nữa. Hai người cùng đi săn, cùng câu cá, những con cá ngừ xanh nặng hàng trăm cân. Bảo Đại ban tặng cho Bảy Viễn một chiếc ôtô, chiếc Jaguar to tướng. Chiếc Jaguar Mark II của ông, chiếc xe độc nhất ở Việt Nam trước đây ông đã hứa tặng con trai để kỷ niệm ngày sinh của anh.
Bảy Viễn lúc mới quay về với Pháp chỉ được phong đại tá. Không lâu sau đó, Bảo Đại can thiệp với Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh để phong tướng cho hắn. Từ đó hắn mang một tên mới có vẻ dân sự hơn: Tướng Lê Văn Viễn. Chính Quốc trưởng Bảo Đại tự tay gắn lon tướng cho hắn trước sự chứng kiến của bộ trưởng Quốc phòng và nhiều quan khách. Vào lúc nầy tên tù vượt ngục Côn Đảo, Bảy Viễn, còn "nợ" tám năm tù phải trả theo công lý Pháp!


Vị tướng mới được vinh thăng, ra dáng con nhà võ, với thân hình lực lưỡng, nhưng tính cách tàn bạo ra mặt. Nhưng cứ nhìn bộ quân phục chững chạc, với vẻ đầy thán phục một con người siêu phàm, hàng nghìn con người đứng xung quanh chứng kiến lễ phong quân hàm dường như quên đi gốc gác không lấy gì trong sạch của hắn. Từ nay, hắn được mọi người khoản đãi, tâng bốc. Một thế lực ngang tàng, tàn nhẫn. Tướng Lê Văn Viễn luôn có mặt trong các cuộc duyệt binh, các buổi tiệc tùng. Viên tướng lục lâm gốc rừng Sác, được đề nghị một vai trò chính trị. Hắn được giao quyền thống lĩnh các đội quân Cao Đài, Hoà Hảo, cầm đầu một tập hợp các đảng phái "quốc gia". Từ nay lực lượng bảo vệ Quốc trưởng chính là phe đảng Bình Xuyên vì Quốc trưởng sống dưới sự đe doạ thường xuyên của những "ban ám sát" Việt Minh nổi tiếng.


Thành viên của các "ban ám sát" có mặt trên khắp đất nước, thủ tiêu các đối thủ chính trị, đóng vai bảo vệ đức hạnh và là những thành trì luân lý chống lại việc chạy theo lợi nhuận đang thịnh hành. Cơ quan lưu trữ còn giữ lại một bức thư vắn tắt có tiêu đề Trần Văn Ngà, trưởng ban ám sát Sài Gòn - Chợ Lớn gửi cho một chủ sòng bạc ở Chợ Lớn: "Rõ ràng là những hoạt động của ông xúc phạm đến phong hoá của dân chúng vì ông đã làm giàu một cách quá dễ dàng. Ông đã dựa vào bọn Pháp đế tổ chức một sòng bạc gây tan vỡ cho nhiều cặp vợ chồng và nhiều vụ tự tử. Vì vậy Ban ám sát cảnh cáo ông và cho ông một thời hạn là 45 ngày đế thu xếp công việc của ông. Sau đó người của chúng tôi sẽ xử ông theo hình phạt nặng nhất vì những tội lỗi của ông. Họ sẽ dùng ba vũ khí sau đây đê giết ông: 1. Dao găm, 2. Lựu đạn, 3. Súng lục. Chúng tôi rất tiếc phải trừng trị ông như thế. Chúng tôi nghiêng mình trước thi hài ông"(7).
Trong các thông báo cảnh cáo chống cựu hoàng, có một bức của cơ quan điều tra phản gián Pháp (SDECE) gửi ngày 30 tháng 5 năm 1949, cho biết có một phụ nữ tên là Lý Lệ Hà được cơ quan an ninh Việt Minh giao nhiệm vụ bắt cóc Bảo Đại.
Ngày hôm sau, cuộc điều tra kết thúc, sở Liêm phóng cho biết thêm: Lý Lệ Hà nguyên là người tình của Bảo Đại đã rời Hà Nội đi Côn Minh tháng 6 năm 1946 rồi sau đó đi Thượng Hải để gặp Bảo Đại. Một tuẩn sau, sở mật thám gửi báo cáo bổ sung: Lý Lệ Hà khai cô ta có quen Bảo Đại ở Sài Gòn, cô đã sống một thời gian với Bảo Đại ở Hà Nội năm 1945. Cô đi du lịch Trung Quốc qua Hongkong, sống với Bảo Đại được mấy tháng nhờ tiền và vàng dành dụm được trong những năm buôn phấn bán son. Cuối 1946, cô về sống ở Hà Nội. Việt Minh bắt liên lạc với cô. Năm 1949, cô bị Pháp bắt. Người ta tìm thấy trong người cô một chiếc huy hiệu mang hình Bảo Đại. Nhân chứng khẳng định cô làm việc cho Việt Minh từ 1946. Cô được Việt Minh giao nhiệm vụ quan hệ với Bảo Đại, rồi sang Hongkong tìm gặp Bảo Đại. Về Việt Nam cô mở tiệm cà phê gần Nam Định. Có nhiều cán bộ Việt Minh lui tới nhà hàng của cô. Sau đó, cô đã bị các lực lượng Pháp bắt trong một trận càn ở gần Nam Định.
Cô bị giữ lại mười lăm ngày tại sở mật thám ở Hà Nội. Sau đó được Bảo Đại bảo lãnh, cho người đem xe đến đón cô ra khỏi phòng giam. Trong cuộc thẩm vấn cô luôn luôn không nhận mình là người của Việt Minh, mà trái lại, từ bốn năm nay, cô bị Việt Minh giám sát chặt chẽ. Nhưng trong vùng kháng chiến không ai không biết mối quan hệ của cô với Bảo Đại. Cô luôn luôn bị tình nghi: Pháp, Việt Minh rồi sau nầy là cả Ngô Đình Diệm, ai cũng nghi cô, đến mức Bảo Đại khi gặp lại đã nói giọng giễu cợt: "Liệu bây giờ em còn có ý định giết anh không?".
Người phụ nữ xinh đẹp sau đó trở thành người đưa tin đều đặn cho cơ quan tình báo Pháp.
*** Còn một nhân vật nữa xuất hiện bên cạnh cựu hoàng ở Hongkong và đã được tình báo Pháp theo dõi chặt chẽ. Đó là Bùi Mộng Điệp cũng là nhân tình của Bảo Đại.
Sinh năm 1924 ở Hà Nội, cô gái gốc Kinh Bắc (Bắc Ninh) họ Bùi nổi tiếng về sắc đẹp và tài quyến rũ cánh mày râu. Đã có một đời chồng là thầy thuốc - bác sĩ Phạm Văn Phán nổi tiếng ở Hà Nội - và một đứa con riêng(8). Sau nầy dan díu với Bảo Đại bà còn sinh thêm được một con gái đặt tên là Phương Thảo (1946) (9) và hai con trai Bảo Hoàng (1954-1955) và Bảo Sơn (1955-1987).
Mộng Điệp đã quan hệ với cựu hoàng tháng 9 năm 1945, chỉ mấy ngày sau khi ông ra thủ đô nhận chức cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh. Không khí cách mạng sục sôi trong những ngày đầu của chế độ mới không gây ấn tượng gì lắm cho Bảo Đại đến mức ông phải lãng quên thú chơi quần vợt. Chính trong câu chuyện trên sân quần, các đối thủ trẻ của ông đã kể chuyện với ông về cô bạn gái tuyệt thế giai nhân của họ. Thế là ông đi gặp nàng ngay buổi tối hôm đó tại nhà nàng và ở lại đây. Cũng trong thời gian nầy, một cuộc dan díu khác với người đẹp Lý Lệ Hà cũng bắt đầu và diễn ra song song. Trong lúc đó, tại Huế, bà Nam Phương lặng lẽ sống nép mình trong căn phòng u tịch ở cung An Định tối tăm.
Khác với Lệ Hà, Mộng Điệp không đi Thanh Hoá với cựu hoàng nhưng sau đó cũng lặn lội sang Hongkong mang thêm tiền cho ông tiêu xài. Sau năm 1949, Bảo Đại về nước, bà luôn luôn được gần gũi cựu hoàng. Tại Đà Lạt, Bảo Đại tậu cho bà một toà nhà riêng gần biệt điện của Bảo Đại. Sau đó lại theo Bảo Đại lên Buôn Ma Thuột. Khi tháp tùng cựu hoàng sang Pháp về sống ở Cannes, bà cũng tậu một biệt thự riêng gần lâu đài Thorenc của hoàng gia. Thời gian ở Buôn Ma Thuột, Mộng Điệp giúp Bảo Đại trông nom văn phòng Hoàng triều cương thổ tức miền đất Tây Nguyên Pháp giao trả cho Bảo Đại trực tiếp cai trị. Ở đây Bảo Đại cũng sống thanh thản hơn giữa cảnh vật thiên nhiên của rừng núi Tây Nguyên, đỡ bị căn bệnh mất ngủ hành hạ ông như khi sống ở nơi khác. Chính Bùi Mộng Điệp cũng thấy thời gian sống ở Buôn Ma Thuột thoải mái hơn cả.
Bùi Mộng Điệp cũng hay về Huế thăm bà Từ Cung, thân mẫu Bảo Đại. Nàng khéo cư xử, tranh thủ được cảm tình của bà Hoàng thái hậu. Dường như bà già không mấy dễ tính nầy quý trọng cô con dâu tuy không phải là chính thức nhưng cũng xuất thân bình dân như bà, sùng đạo Phật, biết chăm lo thờ phụng tổ tiên, khác hẳn Nam Phương, theo công giáo, tính tình lạnh lùng, thỉnh thoảng lại hay xung khắc với bà. Bà đã nghĩ đến việc "chính thức hoá" quan hệ của người thiếu phụ với con trai bà. Tại sao lại không trở lại tập quán xưa của triều đình An Nam? Trong lúc bà Nam Phương và các con bỏ sang Pháp ở, con trai bà cũng cần có người chăm sóc. Những điều kiện cho cuộc hôn nhân chính thức của con trai bà cách đây gần hai mươi năm phỏng còn mấy giá trị? Mộng Điệp sẽ là vợ thứ hai của con trai bà, là "thứ phi", được bà Hoàng thái hậu "ban mũ áo" sau khi làm lễ trước bàn thờ tổ tiên trong Đại Nội. Cũng chẳng cần phải khai báo với hộ tịch viên hay làm phép thánh trước linh mục vì Mộng Điệp không phải là con chiên. Tuy "thiên diễm tình" được hoàng tộc và quan chức của Quốc trưởng mặc nhiên nhìn nhận, các con đều được đưa vào tôn phổ, nhưng Bùi Mộng Điệp và các con bà không được phong tước hiệu nào.
*** Hai báu vật thiêng liêng, biểu tượng của một triều đại đã đi theo một hành trình quanh co đến kỳ lạ. Sau khi được long trọng trao cho đại biểu Chính phủ lâm thời chiếc ấn vàng và thanh kiếm nạm ngọc tượng trưng cho quân quyền đã được đưa ra Hà Nội, báo cáo với Chính phủ và quốc dân trong lễ Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình. Chiến tranh nổ ra, không biết làm sao hai báu vật ấy đã được cất giấu trong một chiếc thùng dầu hoả bằng sắt tây, lại lọt vào tay quân đội viễn chinh Pháp. Theo nguồn tin của quân đội viễn chinh thì năm 1951 trong khi đào móng sửa chữa một ngôi nhà ở thị xã Hà Đông, lính Pháp đã tình cờ phát hiện được hai báu vật nầy(10). Người ta không rõ tại sao không chờ Bảo Đại về nước để làm lễ nhận lại ấn kiếm cho long trọng. Có thể chính Bảo Đại cũng không cho việc nhận lại hai báu vật đó có một ý nghĩa quan trọng nào. Theo yêu cầu của ông, hai báu vật được người Pháp trao lại cho người thay mặt ông là "thứ phi" Bùi Mộng Điệp đang có mặt ở Buôn Ma Thuột trước sự chứng kiến của bà Hoàng thái hậu Từ Cung. Năm 1953, sang Paris, Bùi Mộng Điệp không trao lại cho Bảo Đại mà lại trao cho bà Nam Phương và thái tử Bảo Long hai báu vật đó cùng một số kỷ vật khác do bà Thái hậu Từ Cung gửi.
*** Một người tình thứ ba của cựu hoàng, một thiếu nữ con nhà lành, giàu có và nguồn gốc danh giá. Lại chính là Phan Văn Giáo - sau nầy là Thủ hiến Trung phần - đã giới thiệu với Bảo Đại khi ông vừa đặt chân xuống sân bay Đà Lạt. Tên nàng là Phi Ánh, em vợ Phan Văn Giáo. Nàng cũng là một trang nhan sắc, một trong những cô gái đẹp nhất thành phố. Bảo Đại cũng rất yêu nàng, mua cho nàng một biệt thự, có với nàng hai đứa con, một trai một gái. Tên con gái đặt tên đệm là Phương còn con trai có tên đệm là Bảo coi như dòng dõi chính thức của Bảo Đại. Suốt thời gian ở Đà Lạt, Phi Ánh rất được cựu hoàng Quốc trưởng ưu ái. Nhưng khác với Bùi Mộng Điệp, Phi Ánh không dự những buổi tiếp tân, không được gần gũi với bà Thái hậu, không lên Buôn Ma Thuột để cùng đi săn thú với Bảo Đại như Mộng Điệp. Sau nầy khi chiến tranh kết thúc, Phi Ánh ở lại Việt Nam sống cô đơn và chết tại thành phố Hồ Chí Minh, còn con gái là Phương Minh sống với chồng là người Pháp lập nghiệp tại Hoa Kỳ...
Nhờ ân huệ của cựu hoàng, Đà Lạt trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung ương của chính quyền Bảo Đại. Đà Lạt có khí hậu tuyệt vời, nhiều nhà cửa dinh thự theo kiến trúc Pháp lại thuộc Hoàng triều cương thổ được Pháp giao cho Bảo Đại trực tiếp quản lý hành chính. Ông không muốn về Sài Gòn sợ bị lép vế bên cạnh các cơ quan của Cao uỷ Đông Dương còn chiếm dinh Norodom tức Dinh Toàn quyền Đông Dương cũ, tượng trưng cho quyền lực của chính quyền thuộc địa. Dĩ nhiên ông không dám đặt trụ sở Chính phủ Quốc gia tại Hà Nội quá gần khu vực chiến sự, không đảm bảo an toàn, càng không muốn về cố đô Huế bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Tại Đà Lạt, cơ quan chính phủ đặt trong một toà nhà kiểu cách và sang trọng trên đỉnh một ngọn đồi cao hơn hẳn xung quanh, được che khuất giữa hàng thông, được các đơn vị vũ trang quân phục chỉnh tề bảo vệ vòng trong vòng ngoài. Nhưng không một ai khi ngắm nhìn cánh cổng sắt nặng nề lại có thể tưởng tượng rằng bên trong lại là nơi hoạch định chính sách quan trọng nhất của chính phủ của cái gọi là "quốc gia Việt Nam". Nhưng theo các nhà biên niên sử thuộc địa thì đây là một địa điểm đẹp, khá hấp dẫn vào loại nhất nhì của thành phố cao nguyên Đà Lạt.
Toà nhà có dáng vẻ thôn dã và êm ả. Chỉ có khách khứa vào ra, các thành viên nội các đi đi về về, khuấy động bầu không khí tĩnh lặng bao quanh. Các cố vấn thân cận của Bảo Đại lúc nào cũng quây quần quanh ông như người thân trong gia đình. Họ được sử dụng một căn nhà nhỏ gần toà thị chính thành phố. Đây mới là trụ sở đích thực của chính phủ. Làm việc bên trong là ba nhân vật: Hoàng thân Bửu Lộc, luật sư; Nguyễn Đệ, một tỷ phú, con của cựu khâm sai - phó vương Bắc Kỳ và Phan Văn Giáo có lẽ là người thân cận nhất của Bảo Đại trong những ngày lận đận ở Hongkong. Ba nhà trí thức nầy vắt óc nghĩ ra các chiến lược hoặc các đề án cải cách rồi đệ trình lên Quốc trưởng. Có thể coi đây là một chính phủ thực thụ làm việc nghiêm ngặt và mẫn cán. Cả ba người từ lâu nay vẫn luôn luôn là những đệ tử trung thành với cựu hoàng.
*** Trong lúc bà Nam Phương còn ở Cannes bên Pháp thì bà Hoàng thái hậu Từ Cung vẫn còn phát huy ảnh hưởng của mình.
Khi đặt vấn đề phải lập một đội cận vệ để đảm bảo an toàn cho quốc trưởng, chính tay bà đã lựa chọn mười đội gác(11).
Mỗi năm 6 tháng hè bà về Đà Lạt giúp Quốc trưởng tổ chức các buổi tiếp tân, lựa chọn gia nhân đầy tớ, mời mọc bạn bè, nhất là bà con thân thuộc. Cố nhiên tiệc tàn là bắt đầu các ván bài mạt chược cùng những trò chơi lành mạnh khác. Ít rượu, ít ma tuý, nhưng vài điếu xì-gà hay đơn giản chỉ thuốc lá Bastos thông thường.


Nhiều hôm đêm đã về khuya cựu hoàng xách súng lên xe Jeep vào rừng săn cọp. Chỉ có hầu cận đi theo, hiếm hoi mới có một bạn gái đi cùng. Ông là một tay săn tẩm cỡ. Trong dinh thự của ông, nền nhà phủ da thú làm thảm. Đôi khi ông vào rừng chỉ để thả bộ và suy tưởng, một mình thưởng thức sự thanh vắng trong rừng khuya.
Tối nào mờ trăng hay trong người thấm mệt thì ông cáo từ trước khi khách ra về. Ông không bao giờ ngủ một mình. Nếu không Mộng Điệp thì Phi Ánh hoặc một cô gái khác nằm bên. Bản liệt kê các nhân tình của ông khá dài. Ít ai ngủ với ông quá một hay hai đêm. Người ta nói đó còn là quy tắc nữa do Thái hậu Từ Cung đặt ra(12). Các cô gái ra khỏi dinh qua một cầu thang nhỏ bên cửa ngách, tránh cửa chính.
Báo chí, nhất là của cánh tả phê phán Bảo Đại không chút nương tay: Tờ Libération (Giải phóng) số tháng 12 năm 1949 viết: "Không nên kéo dài hơn nữa cuộc thí nghiệm về giải pháp Bảo Đại. Hỏng hẳn rồi". Tờ báo còn tố cáo Bảo Đại đến Paris là để lao vào các "chuyện lẳng lơ".
Như thường lệ, tên tuổi Bảo Long lại được mọi người nhắc đến, được coi như một vai phụ, một chiếc bánh xe dự phòng sẵn sàng đưa ra làm vai chính một khi người cha thất bại hoàn toàn. Hồi đầu năm, có tin đồn Bảo Long sẽ thay thế cha anh và trong trường hợp đó Phan Văn Giáo trở thành phụ chính(13).


Còn Bảo Đại từ bây giờ trở nên sung túc, hơn thế nữa, rất giàu có. Chắc hẳn hàng tháng ông được cấp một khoản phụ cấp riêng với cương vị quốc trưởng. Ngoài ra ông còn được sử dụng một ngân khoản để chi cho hoạt động tác động tinh thần nhân dân Việt Nam, được ăn chia lợi nhuận từ sòng bạc Đại Thế giới và các bổng lộc linh tinh khác. Sở thích của ông vẫn như trước chiến tranh, đến mức không cần phải mưu mẹo với cơ quan mật vụ, ông tự mình đặt mua từ Anh một chiếc máy bay DC-3, rồi lại một chiếc máy bay Viscount 700 để dùng riêng. Theo một báo cáo gửi đại uý Pháp tên là Jullerot phụ trách việc ghi chép những phương tiện có thể dùng được sau khi Chiến tranh thế giới kết thúc thì các kiểu máy bay nói trên được lắp đặt một cabin làm phòng ngủ (như máy bay Viking của Hoàng đế Anh Georges VI), một phòng ăn có thể chiêu đãi đông người. Đoàn tuỳ tùng nhiều nhất không quá 15 người, như thế để bảo đảm một đường kính hoạt động với những bình chứa nhiên liệu cho sáu nghìn killômét. Và còn một chiếc thuỷ phi cơ nữa kiểu Sealand, chiếc đầu tiên của một loạt sản phẩm có số lượng lớn nếu chất lượng được bảo đảm. Rồi vẫn là những chiếc máy bay Sea Oters và phụ tùng thay thế và có lẽ thêm một máy bay DC-3 thứ hai, thậm chí thứ ba nữa và chắc hẳn những máy bay thể thao Tiger Moth.

Tác giả bức thư được cơ quan mật vụ giấu tên, kết thúc bản báo cáo, có vẻ sốt ruột:
"Lúc nầy có những cơ hội đặc biệt để làm việc và làm nhanh. Tôi hy vọng chúng ta sẽ được thấy chúng xuất hiện rất sớm".(14) Ít lâu sau, gia nhân của bà Hoàng thái hậu ở Đà Lạt nhẩm tính: "Cựu hoàng có tất cả bốn máy bay DC-3, một máy bay B.24 sáu chỗ, một máy bay B.29 được chính cựu hoàng cho sửa lại, và một máy bay để thi nhào lộn".
Rồi sau lại một đơn đặt hàng khác: một du thuyền y-át, đúng ra là hai chiếc y-át (ông Jullerot được yêu cầu gửi ngay bảng giá và mẫu mã). Về hai du thuyền nầy, thêm một đòi hỏi cấp bách: phải là loại thật sang trọng.


Còn thái độ của cựu hoàng ra sao trước những lời tố cáo về những món chi tiêu hoang phí của ông? Ông vẫn tỏ ra phớt lờ, không thèm để ý đến. Tháng 6 năm 1949, tờ Le Soir (Buổi chiều) tiết lộ: "Thủ tướng Queuille tặng quốc trưởng Bảo Đại một du thuyền y-át giá một trăm triệu franc. Người dân đóng thuế ở Pháp chắc sẽ sung sướng thấy rằng tình hình tài chính nước nhà không đến nỗi bi đát nên chính phủ mới ăn tiêu rộng rãi như thế. Qua trung gian của tuỳ viên hải quân của chúng ta ở London, chúng tôi được biết chúng ta vừa mua của một nhà công nghiệp Anh một du thuyền y-át Jajusy có động cơ, với sức chứa trọng tải 50 ton (1 ton = 2,83m3), để làm quà biếu".
Tháng 7 năm 1950, Cựu hoàng Bảo Đại, vốn chỉ thích những xe tốc độ cao, lại đặt mua một chiếc Mercedes lớn, nặng bốn tấn, có kính dày trên 3cm, vỏ thép chống được đạn 8 ly của tiểu liên và súng máy.


Nhưng ông cũng có những ôtô "bình thường" khá ấn tượng với khách đến thăm: Bốn chiếc limousine Mỹ to, một chiếc Citroen dẫn động bánh trước, chiếc nầy hình như ông đã được bạc ở Biarritz, năm 1939. Ngoài ra còn những xe thể thao, những chiếc Ferrari hay Bentley để ở Pháp. Như vua Louis XVI mê các ổ khoá, Bảo Đại thích hí hoáy với các động cơ ôtô. Ông mê mải chuyện nầy đến hàng giờ.
Du thuyền y-at, máy bay, ôtô. Nhưng vẫn mải mê săn bắn hơn bao giờ hết, trong khu dành riêng cho ông ở Buôn Ma Thuột rộng mênh mông. Mọi việc tưởng như suôn sẻ. Nhưng hiểm hoạ Việt Minh treo lơ lửng trên đầu ông. Thoạt đầu là những lời chửi bới, rồi những câu vè đồng dao vang trên đường phố.

Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về Nguyễn về để đóng vai hề tay sai...
Gái đẹp cùng với rượu Tây Quốc trưởng mê gái liếm giầy thực dân Khi nào súng nổ đâu đây Bù nhìn Bảo Đại tan thây có ngày.
.. (15)

Sau khi bị Toà án quân sự Liên khu III tuyên án tử hình về tội bán nước, chiếc đầu Bảo Đại được Việt Minh đặt giá một trăm nghìn đồng theo thời giá tháng 8 năm 1949, một năm sau, không biết có phải do đồng tiền mất giá hay thân phận bù nhìn lên giá mà số tiền thưởng lên tới ba trăm nghìn đồng. Tuy nhiên Bảo Đại không đối xử với địch thủ của mình như kẻ thù. Ông vẫn gọi họ là phe "kháng chiến". Dịp đi thăm chính thức Hà Nội, ông đến đặt vòng hoa trên mồ những nạn nhân trong cuộc chiến tối 19 tháng Chạp năm 1946.


Không ai không biết nơi đây chôn cất các thi thể nhặt nhạnh trên các đường phố Hà Nội sau cái đêm lịch sử đó mà phần lớn là của các tự vệ chiến đấu và bộ đội Việt Minh. Ông còn dự định dành cho Việt Minh - những người "chiêu hồi" trở về với chính nghĩa quốc gia bảy ghế trong quốc hội sẽ được thành lập theo hiệp ước Auriol, nhưng sáng kiến nầy đã bị dư luận ở Pháp la ó phản đối. Sau nầy ông chống lại việc ném bom ồ ạt những vùng do quân đội của Hồ Chí Minh kiểm soát như đề nghị của người Mỹ(16).


Chiến tranh mở rộng và có một tầm vóc mới. Đằng sau nước Pháp và Bảo Đại, là cả phương Tây tập họp trong một thập tự chinh chống cộng sản. Paris, Washington và London chống lại Bắc Kinh và Mátxcơva. Tháng 9 năm 1951, De Lattre hò hét trước đám nhà báo: "Hà Nội hôm nay là tiền đồn của cả thế giới tự do ở Đông Nam Á, giống như Bastogne tháng 12 năm 1944 và Berlin tháng 6 năm 1947".
Tiền và vũ khí Mỹ đổ vào cuộc chiến ngày một nhiều. Các chính khách bên kia Đại Tây dương sang thăm chiến trường Đông Dương ngày càng đông.
Richard Nixon khi đó là Phó Tổng thống Mỹ lúc ra khỏi biệt điện của Bảo Đại đã phát biểu một câu bênh vực Pháp đến mức ngạc nhiên: "Những gì nước Pháp ngày nay đang làm cho Việt Nam giống như xưa kia họ đã làm cho Hoa Kỳ trong buổi bình minh của lịch sử Hợp chủng quốc".
Ngày tháng trôi qua giả thuyết Hoa Kỳ dần dần trở thành có thể chấp nhận được. Nhiều nhân vật thân cận của cựu hoàng đã được Washington bí mật cho ăn bẫm.
Một báo cáo của Sở mật thám liên bang thậm chí khẳng định rằng: "Bảo Đại thân Mỹ từ tâm can. Ông ta không dám công khai tỏ rõ thái độ ấy vì sợ Pháp phát hiện".


Dưới sự thúc đẩy của De Lattre, vũ khí được tăng thêm đem lại lợi thế cho quân đội Pháp - Bảo Đại - Việt. Nhưng năm sau, Việt Minh xoay chuyển cục diện, ngăn chặn các cuộc hành quân của quân đội viễn chinh, giải phóng nhiều vùng rộng lớn ở Tây Bắc Bắc bộ, uy hiếp kinh đô Lào. Trong tình hình ấy, đại tướng Navarre, tổng chỉ huy quân đội Liên hiệp Pháp quyết định chặn đứng cuộc tiến công của Việt Minh lại bằng cách tập trung quân ở Điện Biên Phủ, một vị trí chiến lược thuộc xứ Thái. Các tướng lĩnh Pháp hy vọng thu hút quân đội của tướng Giáp vào một địa điểm thuận lợi để đánh một đòn quyết định.
Ở miền Nam, Bảy Viễn vẫn nắm Chợ Lớn và thao túng Đại Thế giới. Quan hệ giữa hắn với quốc trưởng Bảo Đại vẫn chặt chẽ. Những cuộc thăm viếng Đà Lạt của Bảy Viễn ngày càng nhiều. Nhân một lần gặp, Bảo Đại đòi năm trăm nghìn đôla bằng tiền mệnh giá lớn trong vòng bảy mươi hai giờ. Tất cả bọn tay chân ở Sài Gòn nháo nhào huy động đóng góp. Lực lượng Bình Xuyên chỉ có tiền Đông Dương. Cần phải mua đôla với giá cao. Ý của Bảo Đại là muốn cho Sài Gòn cạn sạch tiền Mỹ. Ông ta đã thắng cuộc. Trước khi thời hạn kết thúc, một tay chân thân cận với Bảy Viễn bay đi Đà Lạt với một valy đầy giấy bạc.
Phần thưởng của cựu hoàng ngang với số tiền phải nộp. Trước tiên là một lá thư Bảo Đại thông báo cho Bảy Viễn biết ông nhận hắn làm em nuôi - bào đệ. Sau nầy khi Quốc trưởng sang lưu trú ở Cannes, một bức điện báo xác nhận Lại Văn Sang, phụ tá của Bảy Viễn nay thay thế Bảy Viễn cầm đầu lực lượng Bình Xuyên, được bổ nhiệm tổng giám đốc Nha cảnh sát và an ninh toàn Việt Nam.


Việc bổ nhiệm gây xôn xao dư luận, nhưng một số biện pháp của ông chủ mới đã dẹp yên: thanh trừng những công chức quá hủ hoá, thu gom gái điếm, vây bắt những phần tử Việt Minh... rồi tin tức xấu về chiến cuộc đã che lấp việc thăng chức kỳ cục nầy.
Bảo Đại về nước được năm năm. Thời gian đủ để cho phép tổng kết những việc đã làm được, xấu tốt đến đâu. Mặc dù những đam mê săn bắn, những món lợi nhuận khổng lồ nhận được từ Đại Thế giới, những việc đã làm trong năm năm cầm quyền cũng không phải hoàn toàn tiêu cực như ghi nhận của đa số các sử gia.
Cuối năm 1953, Lucien Bodard nhà báo kiêm nhà viết sử viết:
"Bảo Đại đã thiết lập được một chế độ của riêng ông, đã tổ chức ra một hội nghị đại biểu nhân dân toàn quốc, vừa giữ được vẻ ngoài của một nền dân chủ mà không gây nguy hiểm cho mình. Khôi phục hoàn toàn đế chế Annam cũ với tư cách một nước tự do, có chủ quyền giở đây là mục đích trước mắt của ông.
Nhưng ông đã hành động đơn độc, mới thưc hiện được ở đỉnh chóp của quyền lực và cũng chỉ với một số nhân vật ông không tin những người bình thường. Chế độ của ông trụ được là nhờ những công cụ kinh điển: quân đội, cảnh sát, viên chức, nhưng ông không có "đà". Tuy nhiên nếu người ta chấp nhận những tiêu chí của chính ông ta thì phải nói Bảo Đại đã làm được nhiều việc tốt". Ngày 9 tháng 4 năm 1954, một bữa tiệc được tổ chức để tiễn Quốc trưởng trở lại Paris. Từ Đà Lạt, ông dừng chân một ngày ở Sài Gòn. Trời đẹp. Một làn gió nhẹ lướt qua đường băng Tân Sơn Nhất. Ban sáng trời vừa mới mưa trên diện rộng khắp lưu vực sông Cửu Long.
Phía dưới khoang cửa máy bay có Hoàng thân tân thủ tướng Bửu Lộc, đại tướng Henri Navarre, vài tuần tới sẽ chỉ huy trận Điện Biên Phủ đối mặt với tướng Giáp, đông đủ ngoại giao đoàn và đứng hàng đầu là đại sứ Mỹ Donald Heath.


Bảo Đại vẫn trẻ trung, dáng lực sĩ, vượt lên các quan khách, đi qua đường băng để chào quốc kỳ rồi đi duyệt đội quân danh dự, như lâu nay đã thành lệ từ khi ông trở về nước năm 1949. Chỉ là một nghi thức không giống lễ thức trong triều đình Huế, đã lùi xa về quá khứ. Cũng không phải như nghi thức ở Hà Nội, năm 1945, khi ông còn là cố vấn tối cao cho chính phủ Hồ Chí Minh. Một thói quen vương giả mới mà điện ảnh đã muốn lưu danh muôn thuở trong hàng chục cuốn phim thời sự trong đó người ta thấy ông đứng sững, dáng vẻ hơi nặng nề, gần như thô kệch. Trang phục lúc nào cũng chỉnh tề không chê vào đâu được, với cặp kính đen không rời từ chuyến du ngoạn Poole, cặp kính đen khiến ông không gây được mấy cảm tình của dân chúng ở Pháp, Mỹ hay cả ở Việt Nam.
Buổi tối, buổi chiêu đãi bắt đầu. Việc đi lại tại trung tâm Sài Gòn bị cấm. Các xe ôtô Citroen, Peugeot sẫm màu nườm mượp thay cho đoàn xe tay lộn xộn, chiếc Mercedes to tướng kềnh càng chở Quốc trưởng đỗ trước dinh Thủ tướng. Buổi chiêu đãi ngắn gọn. Quốc trưởng đã cho biết sáng sớm mai ông sẽ bay từ 5 giờ, nên cần phải đi ngủ sớm.
Hôm sau ông và đoàn tuỳ tùng đi trên một máy bay riêng, chiếc Liberator. Cùng đi với ông có hoàng đệ Vĩnh Cẩn, người em họ luôn tháp tùng ông trong các chuyến đi xa và Nguyễn Duy Quang, phụ trách lễ tân, nguyên đại nội đại thần khi còn ở Huế, từ 12 năm nay không rời ông nửa bước chân.


Máy bay lên tầng cao rồi bất ngờ quay lại, phải hạ cánh cấp tốc do trục trặc về máy liên lạc vô tuyến. Lần nầy không có ban đón tiếp, không có đội danh dự, không cờ trống. Sự cố bất trắc nầy không phải đợi lâu. Bảo Đại ra khỏi máy bay, thả bộ trên đường băng. Ông không dám đi quá xa vì lực lượng an ninh đã ra về. Mặc dù vậy ông hít không khí ẩm ướt của đất nước. Ngày vừa rạng, ông đi thêm vài bước nữa rồi quay về chỗ trên máy bay, lần nầy ra đi để không bao giờ trở về nữa.
Chú thích: (1) Báo cáo của Lãnh sự Mỹ ở Sài Gòn, ngày 5 tháng 7 năm 1949 cho biết: Việt Nam không có một chút quyền hạn gì nếu không được Pháp thoả thuận hoặc được tham khảo ý kiến trước. Trích dẫn của Jacques de Folin trong sách Indochine 1946-1954, Nhà xuất bản Perrin. (2) CAOM, Hồ sơ Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE (Vụ Báo chí quân đội viễn chinh) 376, năm 1950. (3) Theo Yves Gras, tác giả cuốn Histoire de la guerre d Indochine, Nhà xuất bản Denoel, 1992, Bộ trưởng các quốc gia liên kết (nay là Bộ Pháp quốc Hải ngoại tương đương với Bộ Thuộc địa xưa kia) đã chỉ thị cho tướng De Lattre: Phải đem lại cho các quốc gia liên kết những phương tiện và ý chí đảm nhận lấy trách nhiệm chiến đấu chống Việt Minh, đòi hỏi chính phủ của họ cầm quyền và dẫn dắt họ theo một chương trình hành động cho phép ngay tức khắc thành lập ngay những đội quân quốc gia... (4) Thời Bảo Đại trở lại cầm quyền đã năm lần thay đổi thủ tướng: Đó là Nguyễn Phan Long, Trần Văn Hữu, Nguyễn Văn Tâm, Hoàng thân Bửu Lộc và sau cùng là Ngô Đình Diệm. (5) Đại tá Leroy, Fils de la rizière (Những đứa con của đồng ruộng) Nhà xuất bản Robert Laffont, 1977. (6) Piere Darcourt, Bay Vien, le Maitre de Cho Lon, (Bảy Viễn, ông chủ Chợ Lớn), Nhà xuất bản Hachette. (7) CAOM. SPCE-376, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại Phòng báo chí quân đội viễn chinh, năm 1949. (8) Có tên là Phạm Văn Hưng tức Jean Bùi, sinh năm 1944, được Bảo Đại đỡ đầu và gần gũi, quý mến từ nhỏ. Cuối năm 1953, theo mẹ sang Pháp, đỗ tiến sĩ Luật năm 1969, được Bảo Đại gửi gắm vào học trường ENA (trường Quốc gia hành chính chuyên đào tạo công chức cao cấp về nội trị và ngoại giao Pháp). Làm việc cho Ngân hàng của Pháp hỗ trợ cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. (9) Phương Thảo lấy chồng là một người Pháp dòng dõi quý tộc giàu có. Bà thường vận động các tổ chức quốc tế giúp đỡ trùng tu Văn Thánh và nhà Minh Lâu trong quần thể lăng Minh Mạng ở Huế. Năm 1996, bà cùng với mẹ là bà Mộng Điệp về thăm Huế. (10) Jacques Massu - Jean Julien Fonde, Láventure Viet Minh, Nhà xuất bản Plon, 1980, tr.83. (11) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - SPCE (Phòng báo chí quân đội viễn chinh) 376, năm 1949. (12) Hỏi chuyện Nguyễn Đức Hoá, một gia nhân của bà Hoàng thái hậu Từ Cung còn sống ở Đà Lạt (tháng 2 năm 1995). (13) CAOM, Hồ sơ Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE 376 (Phòng báo chí Quân đội viễn chinh) 376, năm 1949. (14) CAOM, Hồ sơ Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - SPCE 376 (Phòng báo chí Quân đội viễn chinh), năm 1950, báo cáo đề ngày 7 tháng 1 năm 1950. (15) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE, (Phòng báo chí Quân đội viễn chinh), năm 1949. (16) CAOM. Hồ sơ Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại – SPCE (Phòng báo chí Quân đội viễn chinh), năm 1949.

*