Tuesday, February 2, 2010

VUA BẢO ĐẠI 13

*

27

Bảo Đại dán mắt nhìn vào con quay màu đen. Con người nhỏ thó trước mặt ông cũng không dám nhìn ông. Gã lặng lẽ trải các con bài trên thảm xanh. Không ai nói với ai một lời. Đột nhiên những chi tiết mang một tầm quan trọng hiếm có. Chiếc nhẫn mắt đá to tướng hay chiếc đồng hồ bẹt bằng bạc gần như trắng mà người Mỹ vuốt ve giữa hai lần chia bài, hay chiếc cổ áo mở rộng. Anh ta không đeo cà-vạt, bất chấp kỷ luật của nơi nầy. Anh ta giàu có và nổi tiếng nên những người phụ trách sòng bạc không bắt buộc anh ta phải tuân theo quy tắc áp đặt cho những con bạc khác. Quanh chiếu bạc những kẻ tò mò nín thở theo dõi ván bài. Phần lớn trong số họ cũng là những nhân vật tên tuổi. Điều đó cắt nghĩa sự có mặt của họ ở cái nơi gọi là đất thánh của các đất thánh Palm Beach nầy. Bên ngoài rộ lên tiếng cười của những người đang tắm hay tiếng lao xuống nước của những người nhào lộn. Bể bơi liền kề, khá rộng, nhìn ra biển. Bảo Đại không đến đấy bao giờ.
Ông đi thẳng vào phòng đánh bạc. Ra dáng lịch sự, theo thói quen ông mặc bộ đồ trắng, nhưng không đeo kính đen như mọi lần. Mặc dù mặt trời cuối buổi trưa còn hắt ánh nắng chói chang, bên trong phòng đánh bạc tuy rộng nhưng vẫn hơi tối.
Nhưng lần nầy, rủi thay cựu hoàng thua, mà thua đậm! Ba trăm năm mươi triệu franc vào túi đối thủ là Jack Warner, trùm điện ảnh Hollywood. Thua đậm khiến sáng hôm sau các báo, ít nhất là các báo vùng Cannes đều đưa tin thất thiệt nầy với những hàng tít lớn.
Tin đó không làm ai ngạc nhiên. Cựu hoàng Bảo Đại là một trong những tay cự phú mà dân chơi đều quen mặt. Trong những năm 50, thành phố đông, vui như vào hội. Đã thành mốt. Những buổi dạ hội nối tiếp nhau, y phục lấp lánh trang kim. Gái đẹp nô nức. Tiền lại chảy vào các vụ làm ăn. Kể cả việc buôn bán tiền Đông Dương.
Theo mốt thời thượng, Palm Beach trở thành sòng bạc mùa hè ở Cannes, nơi đặc biệt hấp dẫn đối với cựu hoàng. Một kiệt tác kiến trúc quái gở với những khía răng khế chạy xung quanh, khiến nó có phong cách Hồi giáo. Từ xa người ta đã nhận ra nó như một cây đèn biển trên mỏm Croisette khép lại vịnh Cannes về phía đông.
Những cái đầu từng mang vương miện chen chúc đến đây. Một tối mà có đến ba Hoàng đế và một chục hoàng tử đến góp mặt cùng nhau nốc sâm banh và lả lướt trên sàn nhảy rộng. Farouk, quốc vương Ai Cập, Hoàng đế Hailé Sélassié, quốc vương Iran, hoàng thân Umberto của Italie, các quốc vương Zogu của Albanie, Faycal của Ả-rập Xê-út và nhiều người khác. Bảo Đại chỉ là cựu quốc vương giữa những người khác. Không có gì nổi bật nhưng duy nhất có ông là Quốc trưởng một nước đang có chiến tranh.
Ông là một khách quen, một cột trụ trung thành của các dạ hội. Không phải chỉ bây giờ. Thời rất trẻ, ông đã tham gia Uỷ ban danh dự của Motor Yacht Club (Câu lạc bộ du thuyền y-at có động cơ).
Lâu đài Thorenc từ một biệt thự bình thường trở thành dinh chính phủ. Hình như không ai ngạc nhiên thấy 6 tháng một lần trụ sở thực sự của chính quyền Việt Nam một nước đang có chiến tranh, lại đặt trên Côte d Azur. Một cơ hội làm ăn béo bở của các khách sạn lớn nhờ có vũ hội của các nhân vật quan trọng, các bộ trưởng, các quan chức từ khắp nơi đến Cannes để yết kiến Quốc trưởng. Họ đông đảo và giàu có. Giáo chủ đạo Cao đài Việt Nam cũng như các đại diện chính phủ Pháp thường có mặt định kỳ tại Carlton.
Trong toà nhà bằng đá cẩm thạch, chung quanh Bảo Đại khoảng hai chục người cộng tác: tổng lý văn phòng, thư ký, cố vấn, sĩ quan hầu cận, lái xe. Cựu Hoàng hậu Nam Phương cũng có một văn phòng riêng trong đó luôn luôn có Nguyễn Tiến Lãng và vợ, kể cả Bảo Long mỗi khi đi đâu đều có thư ký riêng đi theo.
Bảo Đại vẫn ở Cannes khi phòng tuyến trên con đường số 4 sụp đổ và quân đội Việt Minh làm chủ chiến trường miền Bắc. Ông vẫn ở đó trong khi Điện Biên Phủ bị bao vây và vào lúc cuộc tiến công của tướng Giáp diễn ra trong những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến tranh Đông Dương...
Thất bại của quân đội Liên hiệp Pháp ngày càng dồn dập báo hiệu kết cục bi thảm của cuộc chiến khó bề tránh khỏi lan rộng nhưng ông vẫn giữ nguyên các thói quen của mình. Bao giờ ông cũng muốn có những nguồn cảm xúc mạnh. Ở Đà Lạt, trong rừng đêm ông liều lĩnh xông pha vào rừng để chạm trán với hổ. Ở Cannes ông nhảy lên môtô lao sâu vào những con đường nhỏ phía sau thành phố.
Bảo Đại vốn ưa liều lĩnh, tốc độ, vực thẳm, tiếng gẩm rú của chiếc môtô Norton. Luôn luôn phải tạo hứng thú như trước đây ông đã có lần ngồi sau tay lái bứt xa các cảnh binh bở hơi tai theo sát ông.
Vào các buổi chiều hay tối, ông chơi trò liều lĩnh trong các canh bạc. Những năm đó Cannes là thành phố đứng đầu nước Pháp về sòng bạc. Bảo Đại tự tay lái những chiếc xe limousine lộng lẫy dừng trước thềm các sới bạc. Có ai tin được không? Tin đồn đại thời đó cho biết ông là con bạc khát nước ham đánh to để rồi thua đậm như lần đánh bạc với ông trùm điện ảnh Mỹ Jack Warner. Những hồ lỳ trong Casino thành phố còn nhớ mãi về ván bạc đông người chơi mà không ồn ào.
Tối đó cựu hoàng thết đãi khoảng chục bạn bè, có những phụ nữ trẻ và vài người châu Á, trong đó có hoàng đệ Vĩnh Cẩn. Ông nầy vừa đến nơi là bước luôn vào phòng đánh bạc, rồi ở lỳ trong đó cho đến khi mọi người ra về. Họ còn nói Quốc trưởng Bảo Đại, một con bạc trầm tĩnh, uể oải dặt tiền rất thận trọng và dè sẻn. Ông uống ít, chỉ nước trà thôi, hiếm khi uống rượu. Thời gian như dài ra, những cái bóng người xúm xít bận rộn ba bốn giờ liền quanh các bàn đồ sộ để đánh bạc. Thường như thế. Nhiều buổi chiều trong tuần. Còn những ngày khác? Cũng như thế trong các sòng bạc khác, Nice, Monaco hay trong một số câu lạc bộ bài bạc khác. Họ phung phí ở đó những gì kiếm được ở một sòng bạc khác, chẳng hạn như Đại Thế giới đang làm mưa làm gió ở Sài Gòn. Rồi tiền lãi từ các vụ chuyển tiền từ đồng bạc Đông Dương sang tiền franc, chảy không ngớt vào một nhúm xun xoe nầy.
Cựu hoàng Bảo Đại sống như đế vương nhưng ông vẫn giữ nguyên phong cách quen thuộc của ông. Gặp ai ông cũng làm cho người đó hài lòng, mến phục ông bất kể địa vị xã hội như thế nào dù là hoàng thân công chúa hay nhân viên bình thường. Thời gian ông ở Sài Gòn không lâu, nhưng cũng để lại nhiều tình bạn và lòng tôn kính. Ai cũng cảm nhận ông là con người kín đáo, lịch sự, lễ độ và thông minh. Ông kết bạn cả với một anh hồ lỳ sòng bạc và mời anh ta đến ăn với ông tại lâu đài Thorenc. Paul Paccim, tay tổ chức có tài trong các buổi liên hoan dạ hội ở Cannes kể lại: một lần hắn cùng ông đi máy bay từ Nice đi Paris. Dọc đường máy bay trục trặc động cơ nên phải quay lại Nice. Paccini tổ chức một bữa ăn tạm tại quán ăn trong lúc chờ xe lửa chạy suốt đến thủ đô. Được tin báo, tất cả cộng đồng người Việt quanh vùng kéo đến hoan hô.
Nhiều phụ nữ đến với ông. Đủ loại. Thường là những gái làng chơi chuyên nghiệp, hay vợ các gia nhân đầy tớ, những người tình quen thuộc trong đó có "thứ phi" Bùi Mộng Điệp, được ông tậu cho một biệt thự ở Antibes. Ông có nhu cầu đối với đàn bà, một thứ nhu cầu thường xuyên không thể dập tắt được như đồ ăn thức uống. Một cựu bộ trưởng trong chính phủ Hồ Chí Minh đã tiết lộ: ông Bảo Đại khoe, từ khi đến tuổi lớn, đêm nào cũng phải có một người đàn bà nằm bên, mỗi đêm một người khác.
Người ta xì xào về những cuộc phiêu lưu tình ái của ông. Lucien Bodard kể lại: "Cựu hoàng mang về Việt Nam một cô nhân tình ở Cannes. Khi mọi người báo trước rằng cô ta sẽ lừa dối ông. Ông gạt đi: Tôi biết thế, nhưng anh muốn gì, cô gái ấy có nụ hôn như một thiên thần. Cô ấy hành nghề của cô ấy. Nhưng chính tôi mới là một con điếm đích thực"(1).
Một người thân thiết với ông bình phẩm chính xác hơn về nét đặc trưng của Bảo Đại là "một phần mười của Farouk, hai phần mười của Machiavel và bảy phần mười của Hamlet"(2).
Nếu người dân thành phố Cannes còn giữ những kỷ niệm về một ông hoàng ham thích hưởng lạc với những thú vui trần thế thì Nam Phương để lại kỷ niệm về một bà hoàng buồn bã. Đôi khi bà cũng tham dự những cuộc vui ở Palm Beach, nhưng không để lại ấn tượng gì và không bao giờ bà theo chồng vào các phòng đánh bạc. Bà ghê tởm cuộc sống ở Cannes. Bà không ưa những con người bà gặp ở đây, căm ghét những thói hư tật xấu của chồng, không chịu được lối sống buông thả của ông, không thể quen được với các thủ đoạn lừa dối trâng tráo, những hành vi bội bạc của ông. Tuy nhiên sắc đẹp của bà cũng làm xao xuyến tâm can nhiều vương công hoàng tử nhất là Giáo chủ Agha Khan, xứ Ấn Độ, đã liên tiếp mời mọc và nhiều lần được đón tiếp bà và các con trong dinh thự rộng mênh mông của ông. Nhưng tin đồn đại ở Cannes cũng không cho biết gì thêm. Chắc chắn bà Nam Phương vẫn là một người vợ chung tình.
*** Bọn trẻ rất mê thành phố Cannes. Chúng được đến thăm cả những phòng đánh bạc nữa, nhờ có phép đặc biệt của bộ trưởng Nội vụ. Mỗi ngày có những thú vui, những môn thể thao riêng cho ngày đó. Cả những chuyến đi chơi xa không dứt. Các bản tin của sở tình báo ghi nhận những chuyến đi Vitell, Paris, Evian, đảo Corse bằng chiếc Libérator, máy bay riêng của cựu hoàng.
Ông rất hài lòng và cám ơn chính quyền địa phương đã đón tiếp ông. Ông viết cho thị trưởng Maurice Cornut Gentille: "Tôi sẽ không quên sự chu đáo, kín đáo và ân cần mà các ngài đã dành cho tôi, nhờ đó không lúc nào tôi cảm thấy mình là người nước ngoài mà luôn luôn thấy mình được đùm bọc như là một đồng bào của các ngài"(3).
Một cuộc sống quả là vui vẻ, đẹp đẽ, thú vị và nhẹ nhàng, nếu ở quê hương xa xôi của ông không có chiến tranh - cuộc chiến tranh bẩn thỉu với những đau thương khôn lường: 460 nghìn người Việt Nam, 60 nghìn người Pháp chết từ năm 1949.
Một tháng sau chuyến viếng thăm Sài Gòn lần cuối cùng những cuộc thương thuyết hoà bình bắt đầu. Cuộc xung đột giữa hai bên Pháp-Việt đã trở thành vấn đề quốc tế. Các cuộc thương lượng để đem lại hoà bình cho Đông Dương đã diễn ra ở Genève, tại trụ sở của Liên hợp quốc, có năm nước tham dự: Hoa Kỳ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Pháp. Chính giữa gian phòng lớn, hai đoàn đại biểu của hai bên Việt Nam ngồi đối diện nhau: đoàn đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đoàn đại biểu của chính quyền Bảo Đại.
Cùng thời gian đó, Thủ tướng Joseph Laniel ký tại điện Matignon - dinh thủ tướng, một hiệp ước chẳng biết thứ mấy dành cho Việt Nam quyền độc lập hoàn toàn. Rõ ràng là quá muộn.
Vào giờ hội nghị lập lại hoà bình ở Đông Dương khai mạc tại Genève, Bảo Đại đang ở Cannes. Những nhà thương thuyết đi lại như con thoi giữa lâu đài Thorenc và thành phố Thuỵ Sĩ để thông báo với Bảo Đại - Tất cả những người đứng đầu chính phủ Pháp đều trịnh trọng thề tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam - không có chuyện trở lại vấn đề thống nhất đã phải trả giá đắt mới giành được. Bảo Đại không tin. Lúc đầu chính phủ của ông từ chối không ngồi chung bàn với đại diện Việt Minh. Georges Bidault, lúc đó là bộ trưởng Ngoại giao phải bảo đảm bằng văn bản do chính ông ta viết, rằng: "Chính phủ Pháp không tìm cách lập ra hai quốc gia riêng biệt, mỗi nước có khuynh hướng quốc tế riêng, có hại đến sự thống nhất của Việt Nam", đến lúc đó chính quyền Bảo Đại mới chịu cử đại biểu đến Genève.
Đúng ngày hội nghị khai mạc, Điện Biên Phủ thất thủ, cùng với nó là sự sụp đổ tinh thần của quân đội Pháp - Việt. Sự tan rã hoàn toàn của lực lượng đồn trú trong tập đoàn cứ điểm đã gây choáng váng tai hại hơn bất kỳ một thất bại quân sự quan trọng nào dù nặng nề đến đâu. Chính là ở đây, trong cuộc đối đầu tổng lực, quân Pháp đã tin chắc là phải đánh bại quân Việt Minh. Lần đầu tiên có lẽ từ khi chiến tranh bắt đầu, công luận Pháp thể hiện sự quan tâm đến nỗi thống khổ ở xứ thuộc địa cũ châu Á. Dư luận chăm chú theo dõi những cực nhọc khốn khó, những biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng của quân đội Pháp trong năm mươi bảy ngày bị bao vây. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mang giá trị biểu tượng: hình ảnh những xác chết phủ kín chiến hào, những đoàn dài tù binh Pháp đi diễu dưới sự áp tải của những người lính Việt Minh thấp bé đã khiến dư luận ở chính quốc ngao ngán. Còn quân đội quốc gia Việt Nam, đội quân đã được Bảo Đại tô vẽ cho đẹp mỗi khi duyệt binh đang tan rã tơi tả. Chỉ vài tuần sau Điện Biên Phủ đã có hai mươi nhăm nghìn lính quốc gia bỏ ngũ(4).
Cùng với sự thất bại Điện Biên Phủ, các chính phủ Pháp và Việt theo nhau đổ. Tại Paris, Pierre Mendès France thay Joseph Laniel. Ở Sài Gòn, hoàng thân Bửu Lộc xin từ chức. Ngô Đình Diệm nhận lời mời của quốc trưởng Bảo Đại đứng ra lập chính phủ mới...
Mendès France cam kết đem lại hoà bình bằng thương lượng trong vòng một tháng. Trái với những lời bảo đảm của người tiền nhiệm, ngay lúc đầu ông đề nghị chia cắt Việt Nam thành hai miền riêng biệt.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, các nhà thương thuyết đồng ý rạch một vạch ngang trên vĩ tuyến 17 phía trên Huế một chút. Huế nằm trong vùng không Cộng sản. Các bên thoả thuận sau hai năm sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước và quyết định chế độ chính trị của Việt Nam.
Hai bên đình chiến tại chỗ. Chiến tranh chấm dứt.
Việt Minh tuy là người thắng trận, chỉ chấp nhận chấm dứt xung đột dưới áp lực của các đồng minh Liên Xô và Trung Quốc.
Nhưng với Bảo Đại, đó là sự phá sản. Ông không được đếm xỉa tới. Không ai buồn nghe những lời phản kháng của ông. Những đại biểu của ông chỉ đóng vai phụ. Ông hạ lệnh cho họ rời khỏi hội nghị. Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết không mang chữ ký của đại biểu chính quyền Bảo Đại. Phe ông không chỉ thất bại mà Việt Nam lại bị chia cắt làm đôi.
Thống nhất của Việt Nam, đó là mục tiêu đấu tranh của ông. Độc lập, thống nhất là trên hết. Vì nền thống nhất ông đã làm điên đầu người Pháp từ nhiều năm, đã thoái thác, lần lữa mãi trước khi chấp nhận "giải pháp" của họ. Kết cục của hội nghị Genève đối với ông còn hơn là một thất bại, nó còn là một cú đá sau lưng.
Dường như định mệnh và các cường quốc lúc đó đã quét ông như quét một hạt bụi vô giá trị, không hề tôn trọng hàng chục nghìn binh lính đã bỏ xác trên chiến địa chết vì những ý tưởng của ông. Khác nào một tên đầy tớ bị người ta tống cổ đi mà không thèm cho biết là nó bị đuổi.
Chú thích: (1) Lucien Bodard. La Guerre d Indochine, L humiliation (Chiến tranh Đông Dương - Sự nhục nhã) - Nhà xuất bản Gallimard, 1973.
(2) Jean Bresson, La Fabuleuse Histoire de Cannes (Huyền thoại về thành phố Cannes) - Nhà xuất bản Le Rocher, 1981.
(3) Cannes: Hồ sơ Lưu trữ thành phố.
(4) Georges Chaffard, Carnets secrets de la Décolonisation (Tài liệu mật về phi thực dân hoá) Nhà xuất bản Calmann-Lévy, Alain Ruscio trích dẫn trong La guerre française d Indochine (Chiến tranh Đông Dương của Pháp)


*
Chương 28

Bảo Long kéo cao chiếc mũ ca-lô, cứ mỗi bước lại tụt dần xuống trán. Phân đội anh còn lại 28 người. Những người lính xung kích đi bộ, khẩu Mas 36 bên hông. Lá rừng được tô điểm thêm dưới ánh chiều tà xứ Bretagne. Họ đang ở cây số thứ 38. Không một ai trong đám lính trẻ nầy tỏ ra mệt nhọc, bước chân ngắn hơn lúc khởi hành, nhưng cũng cứng cỏi hơn. Bảo Long đi ở hàng cuối phân đội, không nói năng gì. Ngoài ra cũng rất ít ai nói chuyện từ lúc khởi hành, tiếng động cũng ít, ngoài tiếng lạo xạo chân bước trên đường. Viên sĩ quan tung tăng trên hàng đầu, gáy cạo nhẵn, người cao lớn bệ vệ. Thân hình hắn vượt trội hẳn lên so với binh sĩ trong hàng quân. Hắn bắt những người lính bé nhỏ gần như phải chạy cho kịp bước chân hắn. Mặc dù mệt nhọc và đường xa, cuộc hành quân xem như một trò chơi. Một thành tích thể lực thực hiện trong một không khí gần như vui vẻ. Họ đều còn trẻ, khỏe mạnh, rắn rỏi, gắn bó với nhau trong nỗ lực chung. Chiến tranh và những nỗi khổ cực đã lùi xa cũng như thời đi học Đại học, cũng như cuộc sống ở Việt Nam...


Từ nhiều tháng nay, Bảo Long đã tòng quân như lời khuyên của cựu hoàng, cha anh.
Từ ngày 6 tháng 10 năm 1954, không phải thi tuyển sinh, anh đặc cách được vào học trường võ bị Saint-Cyr.
Hôm đó, bà Nam Phương đi cùng con trai vào sân trường võ bị liên quân ở Coetquidan, thiếu tướng chỉ huy trưởng nhà trường đón tiếp họ, mời họ ăn trưa. Ban sáng theo lệ, bà và con trai đến thăm nghị viện Bretagne ở Rennes.
Buổi chiều bà ra về một mình. Chàng thanh niên từ nay trở thành học sinh quân, trường võ bị, thành viên của cái mà tiếng lóng ở Saint-Cyr gọi là "bazar" tức là người của baz tiếng lóng có nghĩa là trường học. Bazar c


Chẳng bao lâu, Bảo Long trở thành một học sinh gương mẫu và xuất sắc. Như những người khác, anh lặn lội trong rừng Brocéliande, lưng đeo một ba lô đầy sỏi. Như những người khác, anh thu dọn chỗ nằm vuông vức, lăn lê bò toài trong bùn lầy, hò hét các mệnh lệnh. Khi đến lượt, cũng như những người khác, anh cũng phải cọ rửa nhà xí. Anh không như một số thanh niên khác, quá mảnh mai yếu đuối, quá mệt mỏi, đã tuyên bố bỏ cuộc sau ba tháng đầu tiên của khoá tân binh. Chủ yếu trong các ngày qua là tập đi đều bước, là những buổi diễn tập linh tinh, nhằm mục đích dạy cho những thanh niên tân binh biết chỉ huy người khác. Đều đặn, một đại diện chính thức của chính phủ Việt Nam đến trường tìm hiểu một cách tôn kính những gì xảy ra với người lính mới..
Bảo Long bình thản chịu đựng cuộc sống khắc khổ trong quân ngũ, chan hoà với hai mươi bảy bạn đồng ngũ chung chạ trong một phòng. Suốt thời gian thử thách đó mỗi đêm chỉ ngủ ba hoặc bốn giờ. Trong trường không được nói chuyện chính trị. Không nói gì về Việt Nam, vào thời điểm nầy cuộc xung đột giữa các giáo phái bùng lên dữ dội ở Sài Gòn. Bảo Long không muốn biết điều gì đang xảy ra trên đất nước anh. Quá nhiều đau khổ, quá nhiều luyến tiếc khiến anh muốn xa hẳn, không muốn dính dáng gì với đất nước khiến anh nghĩ về quê hương. Anh không đọc báo, thưa dần những cuộc tiếp xúc với đồng hương. Tuy cuộc sống quân ngũ tạo thuận lợi cho tình bạn phát triển, anh không kết bạn với ai, lúc nào cũng lặng lẽ, xa lánh, giữ gìn ý tứ dù tình đoàn kết quân ngũ dễ làm cho mọi người gắn bó với nhau hơn.


Bảo Long vào học trường võ bị với tư cách sinh viên của một nước trong Liên hiệp Pháp. Anh có thể rời bỏ trường bất kỳ lúc nào anh muốn. Nhưng anh ở lại. Kiêu hãnh trong bộ quân phục áo đỏ, mũ chùm lông, đặc trưng của học sinh quân Saint-Cyr, anh tham gia cuộc diễu binh ngày Quốc khánh Pháp 14 tháng 7 năm 1955, đi qua quảng trường Champs-Elysées, anh đi ở hàng cuối của tiểu đoàn vì vóc dáng bé nhỏ. Nhưng cha và mẹ anh đều không tới xem cuộc diễu binh đó.
Tuy nhiên, dù có những biểu hiện bề ngoài đó, trong những năm đầu tập luyện, Bảo Long bắt đầu nhận ra có lẽ tốt hơn là nên chú tâm vào việc học triết học. Lòng say mê binh nghiệp giảm dần.
Cuối năm 1956, sau hai năm học anh phải chọn một trường thực hành. Gần như toàn bộ học sinh quân trong khoá của anh nhanh chóng đi thẳng sang Algérie tham gia chiến đấu. Cuộc chiến tranh thuộc địa mới của Pháp đang cần người, nhất là cán bộ khung. Chỉ còn lại "những người nước ngoài". Tất cả có sáu người: một hoàng tử Cao Miên, một thiếu uý Lào, hai người Nam Mỹ, một thiếu tá ngự lâm quân của Quốc vương Iran và anh. Anh vẫn còn chính thức thuộc biên chế quân đội quốc gia Việt Nam nên không thể đi chiến đấu được. Vị thế của anh rất kỳ lạ. Anh không có một thứ giấy tờ nào xác nhận nhân thân ngoài một hộ chiếu ngoại giao. Với người Pháp, anh là người Việt Nam, nhưng với đồng bào mình, anh không sống chung cùng họ với tư cách công dân.
Vậy làm gì đây? Ở lại quân đội Pháp chăng? Nhưng anh chán ngắt một đội quân đã tiến hành chiến tranh thuộc địa với đất nước anh, đã bại trận ở Điện Biên Phủ. May sao các cấp chỉ huy thấy anh thích cưỡi ngựa bèn đề nghị anh sang học trường kỵ binh - thiết giáp ở Saumur.


Lần nầy tại biệt thự Bentley Continental của cha, anh đi về như con thoi giữa thành phố nhỏ Touraine và thủ đô Paris. Anh được phong thiếu uý. Bạn hữu cho đây là một thắng lợi thực sự. Anh sống một mình xa doanh trại trong một gian phòng trong thành phố. Vẫn ý tứ giữ gìn, ít đàn bà, ít những cuộc phiêu lưu tình ái trong cái năm anh bị hiểu lầm là dân ăn chơi. Mỗi thứ bảy hay chủ nhật, trong căn hộ gia đình ở Neuilly, anh đóng cửa dùng phần lớn thời gian để đọc sách. Chẳng phải là binh pháp của Clausewitz, cũng chẳng phải những tiểu luận về chiến lược mà là những nhà siêu thực quý hiếm đã thu hút anh như Lise Dcharme hay Marcel Béalu. Lạ lùng là ở Saumur anh đã gặp những sĩ quan khác có cùng sở thích.


Rõ ràng Bảo Long rất ít giống cha. Trong khi vẫn nói anh quyến luyến và khâm phục cha nhưng anh hết sức cố gắng để không giống cha. Tất cả những gì là kiêu căng, hợm hĩnh và tự mãn đều xa lạ đối với anh. Tính tình Bảo Long hướng về cái bi thảm còn cha anh, ngược lại, ham chơi, thích hưởng lạc.
Năm học thực hành kết thúc, xa Saumur, xa bầy ngựa, anh nghĩ đến... cái chết. Một cái chết nhanh chóng, nếu có thể, phải là cái chết vẻ vang. Anh không vượt qua được nỗi đau mất nước và quên đi thất bại thảm hại của cha anh. Trong căn phòng nhỏ ở trường ky binh - thiết giáp Saumur, chàng thanh niên kế vị triều Nguyễn quyết định dứt khoát, tìm đến cái chết để khỏi phải đau khổ, chấm dứt chuỗi thất bại, và bơ vơ trong thời niên thiếu của mình.


Thay vì tự tử anh xin chuyển sang đội quân lê dương để đi chiến đấu ở Algérie. Anh nghĩ đó là cách chắc chắn nhất để không bao giờ phải nghĩ lại nữa và tự kết liễu đời mình nhanh nhất. Có lúc anh đã tính lái một trong những chiếc xe sang trọng của anh đâm thẳng vào gốc cây để được chết nhanh hơn nữa nhưng rồi anh lại quyết định viết một lá đơn xin thuyên chuyển.
Là người nước ngoài, nếu muốn gặp lại các bạn ở Saint-Cyr, chỉ có cách là sung vào đội quân lê dương gồm lính nước ngoài. Sau khi gửi đơn vào mùa xuân anh trở về nhà và sống trong khung cảnh của lâu đài Thorenc uy nghi để chờ đợi trả lời. Phải gần ba tháng sau anh mới nhận được công văn chấp thuận của Bộ chiến tranh, trong khi ở Sài Gòn người ta đem hình nộm và ảnh chân dung của cha anh ra đốt và làm nhục. Mẹ anh cực chẳng đã phải cố tìm mọi cách dàn xếp và cuối cùng mới tìm ra giải pháp với Ngô Đình Diệm để được yên thân.


Anh không hỏi ý kiến ai, chìm đắm trong cô đơn, trong nỗi tuyệt vọng mất nước, cũng không báo cho cha mẹ biết. Khi biết quyết định của con, Bảo Đại cũng như Nam Phương "tôn trọng ý nguyện của con" không tìm cách làm thay đổi sự lựa chọn của con, tránh không gợi vấn đề và giữ im lặng không bộc lộ cơn xúc động trước mặt con. Chắc hẳn Bảo Đại cảm thấy tổn thương vì con không nói thẳng với mình mà chỉ được vợ cho biết.
*** Hàng rào dây kẽm gai kéo dài mãi, rất xa. Đó là phòng tuyến "cái bừa" dài 320km đầy chướng ngại bằng dây kẽm và mìn. Bốn mét chiều ngang, hai mét chiều cao. Giữa các hàng rào là bức tường gồm mười một hàng dây dẫn điện cao thế từ 5 đến 7 nghìn vôn.


Phía sau xa xa là xứ Tunisie, đất khô cằn hoặc đôi khi có những cây ôliu. Phòng tuyến "La Herse (Cái bừa)" hay còn gọi là phòng tuyến Morice - lấy tên của vị bộ trưởng Chiến tranh có nhiệm kỳ ngắn ngủi, người đã đề xướng và chỉ đạo việc xây dựng nó. Phòng tuyến nầy khoá chặt Algérie theo dọc chiều dài biên giới. Phòng tuyến nầy kéo dài đến sa mạc. Nơi nầy không có chỗ ẩn nấp, những vết chân đi trên cát ngăn cản không cho quân đội bí mật đi qua. Đó là một sự khám phá, lúc đầu chỉ được coi là một vật lạ mắt, đơn giản nhưng sau nầy tỏ ra là một bộ máy đáng sợ. Nó sẽ làm thay đổi số phận của các vũ khí.

***


Những xe trinh sát bọc thép (EBR) của trung đội tiến thẳng về phía nam. Chúng chạy nhanh, tốc độ trên 60 km một giờ. Tám bánh xe nhả bụi. Từng quãng một dọc theo hàng rào thép lại có những hầm tác chiến.
Đêm qua tín hiệu báo động đã phát ra từ những hầm nầy. Lực lượng du kích fellagha của Algérie đã nhổ bức tường thép, mang đầy súng đạn trong người, bất chấp radar, mìn sát thương, nhất là dây thép mang điện thế hàng nghìn vôn, tìm cách vượt qua phòng tuyến. Lần nầy họ dùng những dụng cụ đơn giản và thô sơ nhất. Đó là kìm cắt bằng thép, những chiếc kéo cắt nặng nề sản xuất tại Đức. Họ dũng mãnh xông lên, chọc thủng phòng tuyến, hoặc phủ những nệm cao su cách điện lên trên dây thép gai có điện hoặc còn chui vào các cống ngầm luồn dưới hàng rào dây kẽm gai - công trình cổ của người La Mã xưa kia và chỉ có người dân địa phương mới biết. Lần nầy, họ đã coi thường thuốc nổ để đi qua phòng tuyến một cách cổ điển nhất vì vậy các đồn bốt Pháp đã phát tín hiệu báo động.


Bảo Long vươn nửa người ra khỏi tháp xe bọc thép. Mặt trời vừa lên. Theo một kịch bản đã hiệu chỉnh kỹ, đơn vị tuẩn tiễu lê dương đã xác định một cách chính xác vị trí cửa mở và chuyển dịch vị trí ước định của quân du kích. Sáng ra, tiểu đoàn xe bọc thép được lệnh bịt chặt những nơi nghi có địch đi qua. Bảo Long chỉ huy trung đội xe bọc thép thi hành nhiệm vụ nầy.
Động cơ gầm rú, những khối thép đồ sộ lúc lắc di chuyển trong đống đá vụn câm lặng. Anh nói: "Quanh đây 10 km người ta nghe được tiếng động cơ của chúng ta đang di chuyển". Chàng thanh niên mảnh dẻ, kế vị ngôi báu An Nam đã đi được một quãng xa. Trong đoàn quân không ai là không biết anh là ai, từ đâu đến. Đầu đội chiếc mũ sắt nặng sụp gần ngang tầm mắt, anh hô khẩu lệnh. Ngắn gọn và đanh thép. Để binh sĩ dưới quyền phải tuân lệnh, không trù trừ, do dự. Như đã thành quen. Như một công việc thông thạo. Ở Saint-Cyr trong một cuộc diễn tập người ta đã dạy anh biết cách chỉ huy một đơn vị di chuyển ở cự ly 50 hoặc 60 m. Trung đội lao lên theo anh. Bảo Long biết đọc bản đồ. Những tấm bản đồ rộng, in trên giấy kẻ millimét của Viện Địa lý quốc gia (IGN). Nhiều chỉ huy đơn vị không đọc được, nhất là các hạ sĩ quan thường bị lạc giữa sa mạc đầy sỏi đá xung quanh Batna hoặc Tebessa. Anh đọc thạo hơn những người khác, đây là chuyên môn của anh.


Như có khiếu trời ban. Anh nổi tiếng vì thế, như một thánh nhân hay thầy bói. Đi với anh thì đoàn xe bọc thép không bao giờ bị lạc. Phía trước đơn vị tiên phong đã gặp địch. Cuộc chạm súng bắt đẩu. Chỉ thấy bụi mù hất lên từng quãng, ánh chớp của đạn pháo. Trên cao, những chiếc máy bay bắn phá xối xả vào đối phương bị bao vây. Gần như một việc đã thành nếp. Từ nhiều năm nay cuộc sống của anh ở đây là như thế. Hành quân trên đường, lần theo dấu vết, săn đuổi du kích. Trong năm ngày thì bốn ngày như vậy. Một cuộc sống rượt đuổi dưới ánh nắng mặt trời và bụi bám đầy mặt. Nhưng ít ra anh cũng được tự do hít thở không khí ngoài trời. Các bạn anh cùng đi trong xe, hai người lái, một thợ máy, mình đẫm mồ hôi. Chiến tranh là như vậy. Không hề có tiếp xúc với dân chúng, ít được nghỉ ngơi, chỉ có rượt đuổi theo dấu chân, lại còn bụi bặm và xa xa là hình ảnh các cuộc giao chiến. Dễ dàng, nhanh chóng hay gay go, ác liệt như trận Aurès. Cả một đại đội của trung đoàn 4 khinh binh lê dương bị quân kháng chiến Algérie phản công và dồn xuống vực sâu.


Lần nầy quân đổ bộ đường không đã chạm súng với địch. Du kích chọc thủng phòng tuyến bao giờ cũng nhằm mục đích tiếp tế vũ khí đạn được cho lực lượng wilayas ở nội địa. Chính vì thế mà họ xuất phát từ các căn cứ đặt ở Tunisie, đương đầu với dây thép gai dẫn điện 5.000 vôn, những trái mìn, những trung đoàn lê dương, bộ binh và xe bọc thép truy đuổi họ. Được trang bị tốt và khi tập hợp lại, họ tiến hành các trận đánh ác liệt. Bao nhiêu người chết, bao nhiêu xác người bị phanh thây dưới ánh mặt trời chói chang? Hàng nghìn. Tháng 4 năm 1958, quân giải phóng dân tộc Algérie (FNL) ỷ vào quân số đông 900 người, liều lĩnh chọc thủng phòng tuyến điện qua hai điểm khác nhau. 300, chỉ có 300 người vượt qua an toàn. Và cuộc truy kích bắt đầu. Cuối cùng chỉ còn 30 người sống sót. 30 trên 900, phòng tuyến điện giết người quả là hiệu nghiệm. Hơn là một bước tường ngăn, chỉ như một vạch thẳng lạnh lùng, phòng tuyến điện đem lại hy vọng cho các nhà chiến lược Pháp. Cuộc kháng chiến Algérie thu hẹp dần, tàn lụi rồi tắt ngấm vì không có lương thực, không có chỗ dựa về các nguồn dự trữ đặt ở Tunisie. Những điều đó quân lê dương biết cả. Trong nhiều năm sau đó họ xông vào các đơn vị du kích bị bao vây và tiêu diệt hết.


Chiến xa của Bảo Long bắn đầu tiên. Chính anh đã tọng viên đạn dài vào cơ bẩm của pháo. Đó là vai trò của anh. Anh hạ lệnh khai hoả. Tuy nhiên còn xa mới đến chỗ hai bên giao chiến. Anh thoáng thấy tiền quân của quân đội Pháp đã xung trận, đồng đội của anh trong xe hét lên. Bằng tiếng Đức. Họ đều là người Đức, phần đông biết vài tiếng Pháp. Trong trận chiến họ không cần tìm hiểu tiếng của nhau.
Một hoàng tử người Việt làm gì đây trên một chiến xa do người Đức lái, một chiến xa chạy hết tốc độ để đi giết những người yêu nước Algérie?
Trong khi hành quân, Bảo Long không đặt ra câu hỏi nầy nhưng khi tiếng va chạm của vũ khí lắng xuống anh lại bị ám ảnh về điều phi lý của tình cảnh.
Mấy tháng sau, chiếc xe của Bảo Long nổ tung do đè phải quả mìn khi trung đội xe bọc thép vượt qua một "khu trắng" phân cách hàng rào dây thép gai và biên giới. Dây thép gai dẫn điện lẫn vào đất ở những chỗ thuận tiện nhất và đôi khi đi xa khỏi đường phân cách. Các chiến xa đến bờ một con sông phải vượt qua, ở đó có một trái mìn chôn dưới đất. Một trái mìn - một cỗ máy giết người cổ xưa - quân du kích đã đoạt lại của người Ai Cập trước đây do quân Anh gài xung quanh kênh đào Suez. Rất may là trái mìn nổ dưới gầm xe nên sức ép hình chữ V chỉ lật nhào chiếc xe bọc thép và hất anh ra khỏi xe. Bất tỉnh... Anh không nhớ sau đó thế nào. Mọi người kể lại họ đã tưởng anh hoá điên, loạn trí, hét lên những mệnh lệnh rời rạc, làm tê liệt mọi liên lạc vô tuyến. Những người khác đã chết trong những trường hợp tương tự.


Trong những năm anh phục vụ ở Algérie ba mươi xe bọc thép đã nổ tung như vậy, gần chiến luỹ Herse. Một chuẩn uý trong đại đội anh đã chết, xác tan từng mảnh trong hoàn cảnh tương tự. Anh ta nhảy ra khỏi xe và đã bị những mảnh sắt của chiếc xe trúng mìn phạt cụt đầu. Thế nghĩa là cái chết rút cục cũng chỉ là cái chết! Bảo Long chẳng đến đây vì thế sao? Để gặp cái chết nhanh gọn và vinh quang. Nhưng không. Anh không chết, cũng không điên. Anh tỉnh lại sau sáu tiếng đồng hồ sau, hoàn toàn không ý thức được cái gì đã xảy ra. Hai ngày nằm viện, xét nghiệm đủ thứ... Chẳng làm sao cả. Anh trở về doanh trại. Gặp lại tháp xe của mình. Lại những công việc đã thành nếp trong thời chiến. Cũng như trước đây anh quyết định đăng lính lê dương mà không hỏi ý kiến ai, lần nầy, đánh trận bị thương trở về anh không hé răng nửa lời. Khi được về phép gặp lại cha mẹ những ngày sau đó, anh cũng không nói gì về chuyện trái mìn.


Mãi sáu tháng sau, cha mẹ anh mới biết tin. Qua báo chí. Một nhóm phóng viên đến thăm tiểu đoàn của anh biết chuyện đã loan tin đó. Khi tin được công bố, trung uý Bảo Long đang nghỉ ở Cannes.
Đó là một sĩ quan lê dương kỳ quặc, trầm lặng, luôn luôn dè dặt, ý tứ. Ham thích đánh cờ, anh làm cho các bạn đồng ngũ cũng say mê không kém. Anh thắng họ dễ dàng. Để làm cho ván cờ thêm thú vị, anh làm như người khiếm thị đánh cờ. Không nhìn vào bàn cờ, anh chỉ báo trước nước đi bằng các con số. Anh đều đặn nhận được sách từ một cửa hàng sách cực tả ở Paris. Cửa hàng nầy gửi cho anh những ấn phẩm khoa học viễn tưởng hoặc những tác phẩm siêu thực bằng tiếng Anh.
Anh làm gì trong bộ quân phục nầy? Trong cuộc chiến tranh nầy? Chắc chắn là anh đã tự đặt cho mình câu hỏi nầy và chắc đã trao đổi với duy nhất một người có thể gọi là chỗ thân tình. Tên anh ta là Morillon, cũng là học sinh quân Saint-Cyr như anh, sau nầy trở thành người chỉ huy nổi tiếng của lực lượng can thiệp quốc tế làm nhiệm vụ ngăn cách hai phe đối lập ở Bosnie, thuộc Liên bang Nam Tư (cũ)...
Anh chán chường, ghê tởm mọi thứ, trong suốt cuộc chiến tranh Algérie, một cuộc chiến tranh thuộc địa, đối xứng với cuộc chiến tranh Đông Dương đã đày đoạ đất nước anh..
Trong trung đội do anh chỉ huy, phần lớn binh sĩ dưới quyền là người Đức. Đó là những con người dễ chỉ huy, biết vâng lời, biết kính trọng. Nhưng đó là những lính đánh thuê không cùng chia sẻ những lo toan của đội quân họ đang phục vụ. Nước Algérie thuộc Pháp không phải là mục đích chiến đấu của họ. Họ thường phát biểu: Đó là những vấn đề của người Pháp. Bảo Long nhất trí với họ: "Điều khủng khiếp không phải là nhìn thấy máu đổ ra hay biết có bao nhiêu người chết mà là tâm trạng thảm hại, tinh thần suy sụp của quân đội, là tính phi nghĩa của cuộc chiến, đã nhìn thấy trước là sẽ thất bại... Trường hợp của đất nước tôi trước đây cũng thế"(1).


Chung quanh anh, vầng hào quang đế chế vẫn chưa tắt. Là sĩ quan trong quân đội lê dương, vẫn được hưởng đặc quyền có một phòng riêng, có sĩ quan hầu cận người Việt nguyên là sĩ quan cũ ngự lâm quân trong khi Bảo Long mới mang quân hàm đại tá. Một hôm nhìn thấy một con bọ cạp bò lại gần Bảo Long anh ta liền thò tay chộp ngay lấy. Bảo Long hỏi tại sao phải làm như thế, anh ta đáp, tự nhiên: "Tôi làm thế vì đất nước tôi, ngài là Hoàng tử kế vị...". Một lần khác, một chiến xa sắp nổ vì chập điện, Bảo Long lao vào xe để ngắt điện. Nhưng một người lính Việt Nam lao lên trước, xô bật anh ra, đẩy anh ra xa và tự mình nhảy vào xe.
Hình ảnh đế chế còn trỗi đậy khi Bảo Long gặp người cháu của Hàm Nghi, vị Hoàng dế trẻ tuổi bị phế truất cuối thế kỷ trước vì hoạt động chống Pháp. Anh ta cũng là sĩ quan lê dương. Hai người làm quen với nhau và trò chuyện. Cũng là một việc éo le: Cả hai hậu duệ của các ông vua triều Nguyễn nay cùng chiến đấu chung dưới một bóng cờ để giữ một thuộc địa lớn, cuối cùng cho nước Pháp.
Tại phòng ăn của sĩ quan - Bảo Long ít khi tới đó - bỗng nhiên anh nhận ra bộ mặt được che giấu của cuộc chiến tranh bẩn thỉu nầy. Nhưng người của phía đối phương bị bắt đều bị tra tấn một cách hệ thống. Viên đại tá cùng ăn không hiểu tại sao anh ngồi im lặng và xin cáo biệt, viện cớ khó ở.
Sự phát hiện nầy sau ba năm trong quân ngũ, thoạt tiên là trong trận chiến Aurès, rồi trên phòng tuyến La Herse, khiến anh xin chuyển khỏi đơn vị về một lớp tu nghiệp của kỵ binh - thiết giáp.
Thời gian phục vụ ở Algérie đã để lại trong anh một dư vị cay đắng. Một cảm giác ghê tởm. Đạo quân anh đã lầm lạc phục vụ suốt mười năm, không để lại cho anh một kỷ niệm nào tốt đẹp. Anh đã mất thăng bằng về tinh thần và không tìm được chút hơi ấm tình người anh vẫn đòi hỏi một cách tuyệt vọng (2).
Chú thích: (1) Hỏi chuyện Thái tử Bảo Long, Paris, tháng 9 năm 1994. (2) Kết thúc chiến dịch, Bảo Long được tặng thưởng huân chương "Quân công (valeur militaire)" với nhiều ngôi sao: đỏ, bạc, đồng.

*


No comments: