Showing posts with label SƠN TRUNG VĂN TẬP * VĂN HÓA GIÁO DỤC. Show all posts
Showing posts with label SƠN TRUNG VĂN TẬP * VĂN HÓA GIÁO DỤC. Show all posts

Saturday, January 30, 2010

SƠN TRUNG VĂN TẬP * VĂN HÓA XÃ HỘI

*

NƯỚC UỐNG TẠI VIỆT

Tại Việt nam, trước 1962, cuộc sống tương đối đầy đủ và vui vẻ. Nước ở Sàigòn và các thành phố chảy rất mạnh. Trừ ra một vài nơi bị mặn và thiếu nước. Một phần tỉnh Long An, nhất là thành phố Tân An bị nước mặn. Một phần Thủ Đức, gần Sài gòn đến mùa hè là khô nuớc, hoặc bị nước mặn. Nhưng từ khi cộng sản phát động chiến tranh trở lại dưới danh nghĩa Mặt Trận Giải Phóng Miền nam thì tình hình ngày càng xấu xa. Việt cộng phá nhà máy điện, nhà máy nuớc khiến cho thành thị và nông thôn không có diện thắp sáng và có nước để tắm rửa. Trước 1975, nhiều nhà đã phải đào sâu ở đồng hồ nước để múc nước ban đêm như ở vùng Phú Thọ.

Sau 1975, tình hình nước uống càng khó khăn hơn, nhiều nơi nuớc không còn chảy nữa. Tại một vài nơi, không còn muỗi nữa và người ta ngủ không cần mùng. Sự kiện này một điều buồn báo động nước ở Việt Nam đã cạn, nhất là Sàigòn. Trước đây, Sàigòn cứ khoảng 6, 7 giờ chiều là muỗi bay vo ve từng đàn, nhất là muỗi ở dưới cống rãnh bay lên đen nghịt vì trước đây nước nhiều, nhất là cống rãnh chứa nhiều nước thải. Trước tình trạng nước uống khan hiếm, người ta phải thay ống nước mới vì ống nước cũ đã bị bùn đóng nghẹt. Nhà có tiền trong thành phố thì mua máy bơm, xây hồ nước. Nhà khá giả ở ngoại ô thì đào giếng. Nhà nghèo thì người ta phải chịu khó thức khuya hay dậy sớm múc nước tại đồng hồ nước. Nhà ở vùng quê thì phải bỏ tiền mua nước hoặc đi gánh nước sông, nước giếng. Khoảng năm 2000 thì phần lớn các nhà ở Sài gòn phải đào giếng, đào giếng rất sâu mà vẫn không có nước. Nếu có thì nước cũng không có mùi vị thơm ngon. Marx nói rằng mục tiêu chính của cách mạng là xóa bỏ sự phân biêt giữa nông thôn và thành thị, và tiến lên điện khí hóa nông thôn. Nay thì thành thị thiếu nước cho nên thiếu điện, nhất là mùa nắng.




Thiếu điện thì thiếu nước.Thiếu nước thì trong bệnh viện bác sĩ không có nước rửa tay trước khi mổ và sau khi mổ. Trong bệnh viện và cơ quan không có nước di cầu tiêu, nhất là bệnh viên, mùi hôi thối không thể chịu nổi. Vì thiếu nước, người ta lấy nước dơ làm nước đá. Các hàng quán chật chội, thiếu vệ sinh, thiếu nước thì khó lòng bảo đảm thức ăn ngon và sạch. Nhất là các hàng rong suốt ngày chỉ có một thau nước, làm sao họ rửa bát, đĩa? Trong nhiều năm, dân chúng và cán bộ đã điên đàu vì thiếu điện, thiếu nước. Ở nhà, mọi người, già trẻ, lớn bé đều xôn xao về nước. Cả nhà phải thức đêm để múc nước, vì ban đêm mới có nước chảy chút đỉnh. Có nơi phải đi xa mới có nước, và cũng phải canh giữ thật sớm mói có chỗ hứng nước từng giọt. Trong cơ quan, các cán b cũng lo lắng về nước, không ai có thể an tâm làm việc trừ các cán bô gộc. Vì vậy khoảng 1990, Sài gòn có tục ngữ:

" Cả nhà lo việc nước, cả nước lo việc nhà""



Nay thì miền Bắc, miền Nam và miền Trung đã lên tiếng báo động về nạn hạn hán. Đất đai khô cằn, nứt nẻ. Tại Lộc Ninh, Bình Long, khoảng 3.500 gia đình thiếu nước sinh hoạt, và dự đoán cuối tháng tư năm 2002 sẽ hết nước. Tại các vùng Cà Mâu, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, nước mặn tràn ngập đất liền khoảng 30-35 km. Hai huyện Ba Tri, Giồng Trôm ( Bến Tre) có trên 14 ngàn gia đình thiéu nước. Tại Gò công đông và Gò Công tây các trạm cấp nước đã loan báo chỉ vài ngày nữa thì hết nước, người ta phải chở nước từ thành phố Mỹ tho về cung cấp. Sự thiệt hại rất lớn. Gần 28.000 ha lúa bị hạn, 14.000 ha càphê, tiêu, bắp, đậu, bông bị khô héo, một số đã chết, một số ngắc ngoải. Nhiều nơi sông, kênh đào chỉ còn là một vệt nước nhỏ nhoi trên mặt đất. Hàng trăm ngàn khu rừng tràm ở U minh đã khô héo, nạn cháy rừng lan khắp nơi nhưng không có cách cứu vãn vì không có nước, không có phương tiên tối tân, và cũng không có đủ người để giữ rừng và cứu rừng. Nhiều nơi, nhất là tại Bình Thuận, có 85.000 con bò và 9.000 con dê thiếu nước uống. 6.500 ha ruộng lúa héo hon. Các giếng đều khô cạn. Nay thì khằp nước người đua nhau đào giếng, dù đào sâu bao nhiêu cũng không có nước. Hồ thủy lợi, đập thủy điện cũng cạn nước.



Khi tiếp thu Sài gòn, cộng sản tiếp thu nhà máy nước Biên Hòa là một nhà máy nuớc tân tiến nhất Đông Nam Á thời đó, chính nhà máy nước này đã cho chúng ta nước uống tại Biên Hoà, Sài gon thơm ngon và bảo đảm vệ sinh. Nhưng tên giám đốc cộng sản láo khoét bảo rằng nhà máy này thua nhà máy nước Hà Nội, một nhà máy nước cũ thời Pháp đô hộ!( Dĩ nhiên ngoài bắc cái gì cũng tốt, xã hội chủ nghĩa là nhất rồi!). Chính vì cộng sản nghèo và ngu cho nên đã phạm nhiều sai lầm khiến cho nước ở Sàigon ngày càng thảm hại.




Chúng ta thấy những nguyên nhân sau :

1. Cộng sản cho rằng không cần bỏ hóa chất như eau de javel vào nước, và cũng vì không có tiền mua hóa chất, hoặc vì ăn cắp hóa chất cho nên lượng hóa chất không đủ khiến cho nước có nhiều phèn, nhiều bùn. Hậu quả bùn đóng nghẹt ống nước.

2. Cộng sản tiết kiệm điện. Trước kia máy bơm chạy 24/24 giờ, nay mỗi ngày chỉ mở nước vài giờ gọi là tiết kiệm nước và điện. Nước không chảy thường xuyên nên bùn đọng lại nhiều, gây bế tắc dòng nước.

3. Cộng sản không biết bảo quản các ống nước, để nằm lăn lóc ngoài trời trong nhiều năm cho nên các ống kim loại cũng không tránh được mục nát, hư hại..

4. Cộng sản không thay thế các ống cũ, hư. Nếu có thay thế thì chúng không mua ống kim loại , chúng dùng ống cống bê tông đúc sơ sài qua loa để thế các ống kim loại thời VNCH. Lẽ dĩ nhiên, những ống này it lâu lại hư, và không chiụ nổi áp suất của nước.

5.Dân ngoài bắc vào trong nam quá nhiều. Trước 1975, dân Saigòn khoảng ba triệu, sau 1975 lên đến 5 triệu, trong đó có cán bộ vào ở và dân chúng trốn vào .


6.Cán bộ ở nhà tập thể, xài nước tự do.

7.Cán bộ nuôi heo, dùng nước tắm rửa cho heo mặc sức.

8.Các công ty thay nhau đào xới mặt đừơng, sau này tư bản đỏ xây nhà ngang dọc, đào đường, đào đất làm bể ống nước.

Đấy thực ra là những nguyên nhân phụ. Nguyên nhân chính thì cũng có rât nhiều:

1.Phá rừng:

Việc phá rừng có hai nguyên nhân. Nguyên nhân thứ nhất là do chính sách tăng gia sản xuất và kinh tế mới. Từ khi kháng chiến chống Pháp, cộng sản đã hô hào tăng gia sản xuất, bắt tù nhân, dân chúng, bộ đội và cán bộ phá rừng để lấy đất trồng sắn, trồng khoai. Sau này, khi đã nắm chính quyền, từ 1954, cộng sản bắt nhữngtư sản, địa chủ và những nguời có gia đình đông con phải đi kinh tế mới, bắt lên rừng làm rẫy. Những tỉnh nào tích cực phá rừng, nâng cao diện tích trồng trọt thì đuợc lĩnh cờ tiên tiến, còn cán bộ tĩnh, huyện thì đuợc thăng chức, thành thử những tên nào có thành thích phá hoại đất nước đều trở thành cán bộ cấp tỉnh ủy và trung ương.


Nguyên do thứ hai của việc phá rừng là lấy gỗ để xây dinh thự cho cán bộ cao cấp và xuất cảng gỗ lấy tiền. Ngay sau khi chiếm miền Nam, cộng sản đã chặt sạch những hàng thông của trường Quốc Học Huế để lấy gỗ xuât khẩu.Việc làm đường mòn Hồ Chí Minh, xây đập Hòa Bình, đập Trị An đều là cơ hội tốt cho chúng phá rừng lấy gỗ. Nguyễn Văn Trấn đã thuật lại lời của Bùi Công Trừng nói về bọn cộng sản gộc :
Chúng nó cũng mấy thằng ấy, cũng những chính sách ấy, cai trị 17 triệu dân
thì dân đã nghèo sát đất, không đãy 15 năm, hai cái rừng Việt Bắc và Tây Bắc bị cạo trọc lóc. Bây giờ ở miền Nam, cũng đào kép ấy( memes acteurs),
hài kịch ấy ( comedie), chưa chi chúng đã gíành đất Ban Mê Thut, của Đà Lạt và sông Bé,thì chúng nó sẽ đua với miền bắc 15 năm, miền Nam chỉ cần ba năm thì cũng sẽ 'Trơn lu như mu bà bóng" cho mày coi.(1)

2.Phá hoại môi sinh.

Vũ trụ có âm dương, có cao thấp, có sâu, cạn, mỗi thứ đều có công năng, công dụng của chúng. Núi cao thì cây mọc, che gióvà cho thú rừng, sông sâu thi chứa nước, cho chúng ta cá tôm. Tại sao lại phá núi, lấp sông làm những việc trái thiên nhiên?Đầu óc cộng sản bao giờ cũng chỉ nghĩ đến lúa gạo ,và đất đai. Cộng sản Cao Miên sau khi chiếm Cao Miên, giết hại dân chúng, đã ra lệnh đào đường quốc lộ và các xa lộ , phá hủy cao su, cà phê để trồng lúa. Mười tám thôn vườn trầu gần Sài gon là căn cứ của cộng sản, nhưng sau 30-4-75, chúng đã có kế hoạch bãi bỏ trồng cau trầu vì chúng cho là vô ích. Dân chúng nơi này đã phản ứng mạnh mẽ nên chúng đã phải ngưng tay.

Khi Cộng sản cầm quyền, chúng phá hủy các đồng hoang có cỏ mọc, chặt cây cối, vườn tược, lấp sông rạch, ao hồ. Chúng cũng không cho người chết đuợc yên ổn, chúng bắt dân phá hủy các nghĩa trang, và các ngôi mộ, bắt cải táng và chôn cất người chết ở những những nơi đất xấu , bãi sông hay ruộng sâu, đọng nuóc, hay chôn trên núi. Có nhiều nơi chúng bát dân chúng phải dời nhà lên núi trọc. Chính sách này đã làm cho hết ao hồ, hết cây, hết cỏ là những thứ giữ nước cho đất và cho con người. Nay vì cộng sản công khai xây biệt thự, chúng không còn e ngại dư luận chỉ trích ( tham nhũng, hối lộ, trộm của công) và lương tâm cắn rứt (sống vinh hoa trong khi dân chúng nghèo khổ). Tại Hà Nội, chúng đã ngang nhiên làm nhà trên đê sông Hồng, và tại nhiều nơi, đặc biệt là tại Sài gòn, vì chính sách mở cửa, giá nhà, giá đất nâng cao, chúng lợI dụng chính sách cải tạo đô thị, lấp hồ mương để chiếm đất công làm của riêng. Trên giòng sông nước đang chảy, bọn công an khu vực đã cắm mốc đề tên chúng, chờ một ngày lấp sông là chúng xây nhà bán cho Việt kiều và ngoại quốc.

3. Làm thủy lợi.

Khi lên cầm quyền, bọn cộng sản bắt dân chúng làm thủy lợi. Chúng rất kiêu căng, phách lối, cho rằng chỉ đào mương thuỷ lợi là chúng đã chế ngự thiên nhiên:

Thằng trời đứng lại một bên,

Để cho thủy lợi tiến lên thay trời !

Nhiều nơi chúng xây đập nhưng xây đi xây lại vài lần mà vẫn hỏng. Việc làm thủy lợi, đáng lẽ phải do các kỹ sư lo liệu, nhưng đây lại là những ông lý, ông xã i tờ nay nhảy ra chỉ huy hàng ngàn dân chúng, bắt đào xới ngang dọc tùy ý chúng. Hậu quả là những mương thủy lợi làm cho nước nơi cao cạn nước trong khi noi thấp lại úng nước. Dân chúng đã gọi thủy lợi là thủy hại chính là vì tác dụng tai hại của bọn ngu dốt quậy phá môi trường! Nếu những hồ ao không bị lấp, cây cối không bị chặt thì tai hại còn ít, nay những nơi cao không còn chỗ chứa nước, tất cả nước đều chảy tuốt ra biển. Để mùa hạn hán, tất cả đều không còn gì để giữ lại nước cho đất, cho trờI và cho dân.
Với tình hình quả đất ngày càng nóng thêm, và nạn nhân mãn gia tăng , làm sao giải quyết vấn đề nước uống, một vấn đề rất đơn giản nhưng rất cần thiết cho cuộc sống? Nếu chính quyền sáng suốt thì dân chúng ít bị tai hại nhưng than ôi, trong khi quả đất ngày càng nóng thêm, mà cộng sản vì ngu dốt và vì lòng tham không đáy đã phá hoại rừng núi, phá hoại môi trường đẩy đất nước Việt
Nam mau trở thành sa mạc.
====


Chú thích


1.Nguyễn Văn Trấn, Viết Cho Mẹ và Quốc Hội. Văn Nghê, California 1995.tr.231


Saturday, October 24, 2009

XÃ HÔI CỘNG SẢN

. CON NGƯờI TRONG XÃ HÔI CỘNG SẢN

(ĐọC " ĐÊM GIữA BAN NGÀY "
của Vũ Thư Hiên )


Sơn Trung

====

1.Tác giả;
Nhà xuất bản Văn Nghệ ở Californiavừa ấn hành quyển Đêm Giữa Ban Ngày của Vũ Thư Hiên. Đây là một thiên hồi ký dày 767 trang. Vũ Thư Hiên sinh ngày 18 tháng 10 năm 1933 tại Hà Nội .Thân phụ ông là Vũ Đình Huỳnh, đã làm bí thư cho ông Hồ Chí Minh trong khoảng 1956. Vũ Thư Hiên đã đi bộ đội 1949, và đã du học tại Liên Xô trong khoảng 1955 về môn điện ảnh.




Năm 1955, Khrushov đã phê phánnặng nề Staline trong đại hộiXX của đảng cộng sản Liên Xô. Mao Trạch Đông lên tiếng chống đối đường lối xét lại của Khrusov. Việt Namtuy không lên tiếng chỉ trích Liên Xô vì lúc này họ đang nhận viện trợ của Liên Xô nhưng họ âm thầm trừ diệt những ai có khả năng đi theo đường lối xét lại của Liên Xô. Vũ Đình Huỳnh, Đặng Giang Kim, Hoàng Minh Chánh,Trần Minh Việt, Phạm Kỳ Vân, Nguyễn Kiến Giang, Nguyễn Văn Thẩm .. là những người cộng sản đang làm việc trong bộ máy đảng và nhà nước cộng sản đã bị bắt giam trong năm 1967. Vũ Thư Hiên cũng bị bắt trong dịp này. Ông bị nhốt tại Hỏa Lò và các nơi khác . Ông không biết ông bị bắt về tội gì, và phải bị giam giữ trong bao lâu. Tháng 9 năm 1976,ông mới được phóng thích. Từ đó, ông làm việc trong lãnh vực tư doanh để sinh sống. Năm 1993, ông sang Nga thông dịch cho một công ty thương mại. Tại Nga,ông bắt đầu viết Đêm Giữa Ban Ngày. Ông bị cộng sản Việt Nam giả dạng cướp đột nhập nơi ông ở cướp bản thảo,và đâm ông bị thương. Ông bỏ sang Ba Lan,rồi qua tị nạn ở Pháp.




Đêm Giữa Ban Ngày là máu và nước mắt của tác giả. Thân phụ của tác giả cũng kỳ vọng vào tác giả, kỳ vọng vào tập hồi ký này để thông báo cho đồng bào Việt Nam những dã man,tàn bạo của chủ nghĩa cộng sản.
Ông viết :
Trong chín năm tù tôi đã làm một việc có ích, cho bản thân và những ngườimà tôithương yêu, là giã từ được ảo ảnh về một chủ nghĩa cộng sản được tô vẽ như là thiên đường dưới thế.. . . .. Xin hãy coi cuốn sách này là lời sám hối trước đồng bào của cha tôi nay đã không còn. Nó được thực hiện theo lời trăn trối của người. ( tr.12-14).



2.Chính sách cộng sản:
Trước tiên, quyển Đêm Giữa Ban Ngày cho chúng tahiểu đường lối cộng sản đàn áp nhân dân. Đường lối vô sản chuyên chínhlà một đường lối độc tài, khát máu. Để giữ vững ngai vàng, các vị vua chúa mới ở Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Hà Nội đã giết hại và giam cầm hàng vạn, hàng triệu nạn nhân trong đó có các đồng chí của họ. Họ thực hiệnchính sách bắt lầm,giết lầm hơn là bỏ sót. (tr.596)




Vũ Thư Hiên đã chỉ trích chính sách này :
Bắt nhầm còn hơn bỏ sót là sự biện minh cho những hành động tùy tiện của nền độc tài. Nó cực kỳ giản tiện và vô cùng dễ chịu cho tên độc tài củng cố địa vị thống trị. Nó cho phép tên độc tài thoát ra khỏi mọi ràng buộc, vô trách nhiệm trước sinh mệnh đồng loại. Cán bộ thực hành chuyên chính vô sản tha hồ bắt oan, tha hồ giết oan đồng bào của họ. (tr. 596)



Cộng sản không có pháp luật, hoặc không tôn trọng pháp luật. Do đó, ngườI dân không được pháp luật bảo vệ. Ai cũng có thể bị nghi ngờ và bị ngồi tù. Vũ Thư Hiên đã nêu lên ý kiến của một bạn tù :
Trong xã hội ta,mỗi công dân chỉ là một người tù dự khuyết. (tr. 202)
Nhà cầm quyền muốn bắt ai thì bắt.,không cần chứng cớ,không cần xét xử, muốn thả ai thì thả,không cần thời hạn. Chính Trường Chinh đã ký nghị quyết số 49 NQ/ TVQH, ngày 20-6-1961, cho phép công an giam người không cần thủ tục tố tụng, mỗi hạn3 năm, hết hạn này đến hạn khác. (tr. 67)



Vũ Thư Hiên đã viết :
Việc nhà nước đối xử với công dân không cầncó luật pháp, hoặc dùng luật pháp lờ mờ để giải thích theo ngụy biện là đặc điểm chung của các nước xã hội chủ nghĩa.(tr. 298)
Ông Vũ Đình Huỳnh trước khi nhắm mắt đã căn dặn con phải nói cho nhân dân ta biết nước ta là một nước không có dân chủ, không có pháp luật hoặc pháp luật chỉ là xảo ngôn ,là mảnh đất màu mỡ cho thể chế độc tài .(tr.305)
Không riêng dân chúng bị tù đày mà các đảng viên cũng bị đảng khủng bố,tàn hại. Chính Vũ Thư Hiên cùng các cha chú của anh đã bị đảng bắt giam bởi vì Lê Duẫn, Lê Đức Thọ muốn chụp mũ họ, muốn hại Võ Nguyên Giáp (tr.349-363)
Vũ Thư Hiên cho rằng chủ nghĩa cộng sản không hơn phong kiến:
Nhà cầm quyền xử sự với dân chẳng khác gì xã hội trước nó nếu không tồi tệ hơn, (tr. 42)



Thân mẫu tác giả,một đảng viên cộng sản kỳ cựu,từng đối đầu với mật thám Pháp đã nhận định :
Chúng nó còn tệ hơn cả mật thám Pháp nữa kia ! (tr. 28)
Bọn thực dân Pháp tiếng thế chứ không đến nỗi ác như bọn này. (tr.139)



3. Người dân trong xã hôi cộng sản.
Cộng sản đã gây bao tội ác.Theo Bernard Fall và Wesley Fishel, các vụ giảm tô giảm tức, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức đã giết khoảng 50 ngàn ngưòi.(tr.457)
Sự tàn bạo này đã khiến dân chúng sợ hãi. Khắp nơi, những kẻ hèn nhát đã cam tâm làm tay sai cộng sản. Một số bán rẻ lương tâm, bán rẻ cha mẹ,anh em,bạn bè. Vũ Thư Hiên viết :
Vào thời gian này, chỉ điểm nhan nhản khắp nơi, từ thôn xã cho tới cơ quan đầu não. (tr. 256)


Tiêu biểu nhất là giới văn nghệ, người ta tung hô lãnh tụ như Tố Hữu đã ca tụng Staline. Ca tụng lãnh tụ bao nhiêu thì người ta lại tố cáo, chửi bới bạn bè bấy nhiêu. Nguyễn Đình Thi đã lên xỉ vả Văn Cao vì câu thơ " Trong giọt nước có cả trời xanh ", nhưng chửi xong, Nguyễn Đình Thi bước xuống, ôm Văn Cao nói : Văn hiểu cho mình. Cái thế mình phải thế. (tr. 416)
Vũ Thư Hiên đã nhớ lại:
Có lần Nguyễn Tuân rủ rỉ chúng tôi phải thuộc lòng cách chia vec bờ sợ ở mọi ngôi thứ : tôi sợ anh, anh sợ tôi, chúng ta sợ nó, chúng tôi sợ các anh.. .thuộc hết thì sống dễ.. . (tr.245)



Và Vũ Thư Hiên đã nói một câu chí lý :
Chúng tôi trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí. (tr.118)
Và cũng vì cộng sảncó tai mắt khắp mọi nơi, người dân bao giờ cũng phải kín đáo. Vũ Thư Hiên viết :
Người biết sống phải đạo muốn ăn thịt gà phải đi chợ xa để mua, lén lút mang về, lén lút vặt lông, lén lút ăn, rồi lại lén lút đem lông đi đổ . Lòng ghen tị hiện hình thành những lá đơn tố cáo đầy những câu hỏi nồng nặc mùi cảnh giác cách mạng. (tr.444)



Người dân sợ hãi bởi vì bất cứ lúc nào họ cũng có thể bị bắt giam. Cộng sản coi dân chúng như súc vật:
Con người chẳng khác súc vật. Chúng tôi đều là chim trong lồng, gà trong chuồng, người ta muốn lôi ra cắt tiết lúc nào được lúc ấy. (tr. 41)




4. Người tù trong chế độ cộng sản.
Trong nhà tù, cộng sản dùng mọi thủ đoạn thâm độc đối xử với tù nhân như là cho ăn đói, mặc rét,bắt sống thiếu tiện nghi, khủng bố tinh thần. Ở trong tù cũng như ngoài xã hội, cộng sản khống chế, hành hạ con người bằng cái dạ dày.
Vũ Thư Hiên đã thuật lại như sau :
Cái sự giam người vô thời hạn lại giam trong xà lim là một cách hành hạ tàn nhẫn.. .Nhưng cái khổ nhất là đói. Đói lắm. Đói cồn cào. Đói mờ mắt. Đói run người. (tr.566)
Một hình thức tra tấn,khủng bố của cộng sản là bắt tù nhân khai lý lịch,viết kiểm điểm, cung khai các tội trạng đến hàng trăm lần. Chúng bắt tù nhânkết tội mình và kết tội cha mẹ,anh em,họ hàng,bè bạn. Trong tù, họ còn bắt người này dò xét ngưòi kia, mục đích là tạo ra thù hận,nghi kị giữa tù và tù. Thành thử trong tù, tù nhân luôn luôn buồn khổ, cô độc và căng thẳng.


Tác giả đã viết :
Chúng tôi không bị đánh đập, không bị giết. Chúng tôi chỉ bị chôn sống mà thôi. (tr.536)
Tù nhânchính trị có nhiều loại.
Loại thứ nhất là những người dân yêu nứớc,lên tiếng chống đối công sản. Tôn Thất Tần in truyền đơn phản đối Hồ Chí Minh ký hiệp ước 6-3 -1946 cho Pháp trở lại Đông Dương (tr.673-676).Phong là một nông dân đã gủi thư cho Đảng và nhà nước chỉ trích đường lối thân Trung quốc " cõng rắn cắn gà nhà" .(tr.741-742)




Một số lớn thì bị vu khống hoặc bị tình nghi mà phải ngồi tù dài hạn.Nguyễn Thái Bát đã làm xã đội hồi kháng Pháp , bọn công an xã, chi uỷ viên phá hoại đời con gái của con ông,nên ông giận mắng chửi bọn chúng,chúng bèncho ông ngồi tù với cái tội " tuyên truyền phản động, chống đảng,chống chế độ "(tr.746-747). Vũ Đình Huỳnh, Đặng Giang Kim, Hoàng Minh Chánh , Vũ Thư Hiên.. .bị tình nghi theo đuờng lối xét lại chống Đảng.




Đặc biệt, trong tù còn có loại ngồitù vì quá yêu thích cộng sản ! Kim là một thanh niên Triều Tiêndu học tại Bắc Kinh,yêu Việt Nam, trốn qua Việt Nam xin chiến đãu chống Mỹ.Anh bị bắt giam vì bị nghi làm gián điệp.(tr.738-741)
Và rất nhiều loại khác nữa như anh Cao, đặc công(tr.682), và một số nông dân người Hoa ở biên giới. (tr.677-678)



Trong nhà tù,nhiều người đã sợ hãi mà bán rẻ bạn bè.Vũ Thư Hiên đã viết:
Ngừơi ta sợ, cái sợ cố hữu bám theo họ từ bên ngoài xã hộI vào,cộng thêm cái sợ hãi có sãn trong tù sinh ra bỡi hệ thống ăng ten dày đặc và thói quen bẫm báo để kiếm chác trong cảnh thiếu thốn, (tr.730)



Trong nhà tù, nhiều người đã đầu hàng,trong đó có Vũ Đình Huỳnh (tr.213). Tuy nhiên,có những con người bất khuất như Nguyễn Chí Thiện, Tôn Thất Tần, Nguyễn Thái Bát, Vũ Thư Hiên.. .



Trước khi vào tù, trong khi ngồi tù, và sau khi ra tù, con ngừơi cũng bị đau khổ. Họ bị người ta lánh xa vì sợ liên hệ.
Vì nhiều người đã biết Vũ Thư Hiên bị công an theo dõi và biết thân phụ ông bị bắt cho nên nhiều kẻ xa lánh ông. Ông đã kể cho chúng ta một chuyện buồn:
Trên đường Nguyễn Du rẽ sang Trần Bình Trọng, tôi gặp Nguyên Hồng đi ngược chiều. Đang tư lự trên hè, nhác thấy tôi, anh giật mình đứng lại.Tôi xuống xe định đến bắt tay anh thì Nguyên Hồng hấp tấp lùi lại, bước tránh sang vệ cỏ. Đôi mắt anh bùi ngùi nhìn tôi. Rồi rất trịnh trọng, anh chắp tay xá tôi, xá dài theo kiểu người xưa,môi mấp máy nói gì không rõ. Tôi đứng lặng. Nguyên Hồng đùa hay thật ? Không,anh không đùa. Đành cúi đầu xá anh đáp lễ. Nguyên Hồng lẵng lặng đi cúi đầu.
Tôi nhìn theo tác giả Bỉ Vỏ. Anh đi không ngoảnh lại. Cuộc gặp gõ Nguyên Hồng để lại trong tôi cảm giác xót xa. Tôi không giận Nguyên Hồng. Tôi chỉ buồn thôi. Buồn lắm. Trong những ngày ấy, mọi người đều xử sự như thế, và xử sự như thế mới là khôn ngoan. (tr.46)



Ông viết tâm trạng ông sau khi ra tù :
Sau khi ra khỏi tù, chúng tôi không bao giờ chủ động đến với ai.Trong sự xa lánh này có cả nỗi hờn mát lẫn lòng tự ái. Tôi không căm ghét, không thù hận những ngườI quay lưng lại nỗi đau khổ của gia đình tôi nhưng tôi không chơi với họ nữa. (tr. 412)



5.Con người cộng sản:
Đêm Giữa Ban Ngày còn cho chúng ta biết vài nét về các lãnh tụ cộng sản.
Một số là lưu manh xuất thân như Trần quốc Hoàn,bộ trưỏng công an, lúc nhỏ tên là Cảnh con,là một tên ăn cắp vặt ở Nghệ An, sau đi phuđãi vàng ở Thái Lan, liên hệ với cộng sản,sau trốn về ăn cắp ở các chợ Hà Nội.(tr.598-604).
Bọn họ không nhiều thì ít có vấy máu nhân dân Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã bí mật lấy cô Xuân, Trần quốc Hoàn hãm hiếp cô Xuân,rồi giết hai chị em cô Xuân để bịt miệng (tr.602-609) bởi vì họmuốn giữ mãi thần tượng Hồ Chí Minh không gia đỉnh,không tài sản,suốt đời hy sinh cho lý tửơng!
Trần quốc Hoàn giết rất nhiều người trong khởi nghĩa tháng 8. Cũng như Giang Thanh, khi làm lớn, y giết tất cả những ai biết quá khứ của y.(tr.598-604)
Vũ Thư Hiên viết :
Từ ngày Trần quốc Hoàn lên làm bộ trưởng thì trên miền bắc không có mấy gia đình không có ngừơi thân trong gia tộc ở tù. (tr.595)
Sự thực, mọi tội ác là do Lê Đức Thọ ,có biệt danh Sáu Búa,chỉ đạo .Y cầm đầu ban tổ chức trung ương đảng,bị cả nước nguyền rủa. Lê Đức Thọ, Lê Duẫn, Lê Đức Anh đã hạ lênh chiếm đóng Cambodia, khiến cho nhân dân Cambodge đau khổ,và nhân dân Việt Nam có 52 ngàn tử trận,200 ngàn bị thương.(tr.547-563)


Vũ Thư Hiên viết ;
Tại sao cho tới nay đảng cộng sản Việt Nam không dám nói tới, không có can đảm nhận lỗi trước những người láng giềng đau khổ để xóa đi một trang sử nhơ nhớp ? Thọ chết đi trước khi phải ra trước vành móng ngựa một phiên tòa lịên tịch hai nước với tư cách tội phạm chiến tranh . (tr.563)
Nếu không gian ác công khai, thì họ cũng là những con người bất nhân,bất nghĩa , hèn hạ khom lưng trước bạo quyền. Phạm Văm Đồng, Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Lương Bằng đã không giúp đỡ các anh em đồng chí.
Võ Nguyên Giáp để mặc Thọ, Duẫn tàn sát các đồng chí,đồng đội của ông. Ông không có dũng khí của một đại tướng, cũng không có tiết tháo của một sĩ phu. Vũ Thư Hiên nhận xét:
Chẳng ai đặt hy vọng vào tướng Giáp cả .. . Ông đã phụ lòng tin của trí thức.Thậm chí khi những đòn chuyên chính vô sản giáng xuống những người thân cận của ông, những chiến hữu của ông. Ông đã không dám hé răng nói một lời, mà chỉ ngoan ngoản né qua một bên. mặc cho Lê Duẫn và Lê Đức Thọ muốn làm gì thì làm. Như một kẻ vô can, ông hiền lành khoanh tay nhìn cuộc khủng bố trắng xảy ra trước mắt. (tr.334-362)



Ông Nguyễn Lương Bằng đã không gíúp gì cho ngừơi đồng chí cũng là ân nhân Vũ Đình Huỳnh.Ông bị Duẫn Thọ theo dõi,nhưng ít lâu sau ông chạy sang hàng ngũ Lê Đức Thọ, đưọc Duẫn Thọ cho tham gia ban chuyên án.
Vũ Thư Hiên đã cay đắng viết về Ông, một ông bác mà tác giả kính yêu từ thủa nhỏ:
Tôi có thể thông cảm với Nguyễn Lương Bằng Ông tham gia chỉ đạo ban chuyên án của Lê Đức Thọ do sợ hãi. Nhờ biết sợ mà ông chẳng những thoát nạn mà còn lên chức phó chủ tịch nước vào năm 1969. Ông có mất mát chút ít, nhưng là những thứ không quan trọng : tình bạn, tình đồng chí, tình yêu của những đứa cháu không ruột thịt, lòng kính trọng của những người cách mạng chân chính. (tr.545)
Con người cộng sản hung ác, họ là kẻ thù của dân chúng, nhưng mặt khác, họ cũng là nạn nhân của chính họ. Một số rất lớn đảng viên cộng sản đã lập được nhiều công trạng, đã chiếm địa vị cao nhưng rồi bị chết do các đồng chí của họ. Trotsky, Beria, Lâm Bưu, Luu Thiếu Kỳđã chết trong tủi nhục. Nguyễn Bình, Dương Bạch Mai, Lê Trọng Tấn,Đinh Đức Thiện, Trường Chinh.. . đã chết trong bí mật và nghi vấn. Võ Nguyên Giáp bịbạc đãi, Hồ Chí Minh bị Duẫn,Thọ lấn át.. . Chính tên cai ngục hống hách Huỳnh Ngự sau này cũng trở thành nạn nhân của chế độ mà y phụng sự (tr.755).Họ đã xây dựng và sống trong một xã hội không có tình người.




Nhờ ngồi tù cộng sản mà Vũ Thư Hiên hiểu về cộng sản, và hết hẵn cơn bệnh sùng báiHồ chí Minh, tôn thờ cộng sản. Ông viết :
Nhờ đảng gỡ hộ cho tôi cái màn ảo tưởng,lần đầu tiên trong đờithấy mắt mình nhìn sự vật sáng rõ đến thế. Tất cả như tuột hết vẽ hào nhoáng bề ngoài vỏ mạ bong ra, phơi hình thù thật của chúng,trần trụi,lõa lồ dứơi ánh mặt trời.Cũng nhờ Đảng tôi trút bỏ được niềm sùng kính đối với ông Hồ Chí Minh. Tại sao tôi lại có thể mê muội đến thế nhĩ ! (tr.456)
Tuy nhiên, Vũ Thư Hiên vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của quá khứ. Trong các trang sách, ông vẫn gọi những người cộng sản là " nhà cách mạng ".-Ông vẫn còn ảo tưởng về một chủ nghĩa Mác nhân bản. Ông viết:
Phần nhân bản của nó,đãy là tất cả những gì còn lại trong tôi.Tôi thích mục đích cái xã hộimà Mác tưởng tượng ra : Đưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do. (tr.676).-




-Ông vẫn binh vực cho Hồ Chí Minh : Ông Hồ là người nhân đức đã thả ông Diệm (tr.226-227),ông Hồ không thích chiến tranh(tr.227-229), ông Hồ ký hiệp ước 6-3-1946 với Pháp là đúng (tr.347), cộng sản có công trong khởinghĩa tháng 8 (tr.461).
-Ông đã chỉ trích Nguyễn Chí Thiện chống cộng vung vít. (tr.746)
Có lẽ chúng ta không nên đòi hỏi Vũ Thư Hiên qúá nhiều. Ông gủi đến chúng ta một tác phẩm như Đêm Giữa Ban Ngày cũngđã là quý..


NẠN LỤT TẠI VIỆT NAM

II. NẠN LỤT TẠI VIỆT NAM

===
Cuối năm 1999, một trận lụt lớn nhất thế kỷ đã xảy đến cho nhân dân Việt Nam.Đầu tháng 11-1999, cơn mưa lũ đã tràn ngập bảy tỉnh miền Trung Việt Nam từ Bình Định cho đến nam Quảng Bình.Trận lụt này đã gây thiệt hại về nhân mạng và tài sản dân chúng mà nặng nhất là tỉnh Thừa Thiên.


Lượng nước mưa đã lên 2.000mm so với lượng trung bình hằng năm là 1.700mm.Tại Huế nhiều nơi nước lên đến 2m, làm cho 600 người chết, hư hại nhà cửa, trường học,sách vở. Trận lụt này một phần là do thiên tai nhưng cũng một phần do cộng sản gây ra.
Trong kháng chiến,cộng sản đã phá hoại Trường sơn để làm đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập miền Nam:
“Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước “

Trước và sau 1975, cộng sản đã phá hoại rừng để tăng diện tích sản xuất. Thực ra Cộng sản phá rừng lấy gỗ bán cho ngoại quốc để lấy tiền bỏ túi như Nguyễn Văn Trấn đã tố cáo trong “ Viết Cho Mẹ và Quốc Hội”.Chính việc phá rừng đốn gỗ khiến cho bao nhiêu nuớc cứ chảy thẳng về miền xuôi, gây nên lụt lội.




Nguyên nhân thứ hai chính là nạn lấp sông. Nay cộng sản công khai bán đất và nhượng biển cho Trung Quốc, và các nước khác. Tại Sài gòn, trên một vài bờ sông tại Sài Gòn, người ta đã thấy có những tấm bảng đề tên chủ nhân, chắc là các lãnh đạo đảng. Tại Hà Nội, người ta đã đổ rác xuống sông, lấn sống, lấp sông. Họ chỉ chờ một ngày sông cạn là nhảy ra chiếm đất rồi bán cho ngoại quốc lấy tiền. Ngảy nào đây, họ giết địa chủ, tư sản nay từ quan trên cho đến tay công an hạng bét thì họ đã trở thành địa chủ đỏ, tư sản đỏ và băng cướp đỏ.



Cổ nhân đã nói:
Làm thầy thuốc sai lầm thì hại một mạng người. Làm chính trị sai lầm thì gây họa bao thế hệ.
Nay thì cộng sản đã gây tai họa cho nhân dân ta!
Chinh vì chủ trương vô sản chuyên chính, vì dụng mưu mánh gian ác mà không dùng đạo đức, dùng súng đạn, mã tấu mà không dùng đạo đức cho nên cuối cùng nên cơ sự như thế này!



Trước nạn lụt, cộng sản bèn ra quyết định sửa chửa cống thoát nước. Nhưng mục đícxh lũ chúng là làm cạn s6ng để lấy đất chứ không phải là xây dựng thành đô, tạo an ninh hạnh phúc cho nhân dân, cho nên dù bỏ ra hàng tỷ thì cũng vào tay tham nhũng, mà nạn lụt lội ngày càng thêm tốc độ và cường độ.




Trước nạn lụt, đồng bào trong nước, xót tình ruột thịt, đã quyên tiền bạc cứu trợ. Vì biết cộng sản tham nhũng, không bao giờ thực tâm yêu dân cho nên mỗi khi có nạn lụt, đồng bào nhất là các chị em các chợ, đã tự động quyên góp và đem về tận nơi xảy ra lụt để cứu dân.Họ không bao giờ để tiền bạc lọt vào tay cộng sản. Tuy nhiên, cộng sản có trăm mưu ngàn kế để cướp đoạt hàng cứu trợ và tiền bạc của đồng bào..Hàng hóa di chuyển đã bị mất mát.Hàng gủi vào kho cũng bị lấy sạch. Và bằng nhiều thủ đoạn khác, cộng sản đã cườp miếng cơm, manh áo của dồng bào nạn nhân.Cộng sản đã làm nhiều tội ác.Quần chúng nhân dân đã biết rõ tội ác của chúng và một ngày không xa, nhân dân sẽ bắt chúng đền tội.

.

Trước đây, cộng sản nắm độc quyền cứu trợ để ăn cướp, ăn chận tiền bạc quốc tế và đồng bào hải ngoại. Sau nhờ sự tranh đấu của quốc tế và các cộng đồng Việt Nam hải ngoại, cộng sản đã lui bước, cho các tổ chức tư nhân nhận tiền cứu trợ. Tuy nhiên, nay cộng sản lại ra thông cáo việc cứu trợ là độc quyền nhà nước cộng sản. Tiền bạc quốc tế và các hội đoàn phải vào tay cộng sản. Nạn lụt cũng là lúc các tay sai cộng sản và bọn lưu manh ở hải ngoại lại giở thủ đoạn lường gạt, kêu gọi cứu trợ để nộp tiền cho công sản và vào túi tham của chúng. Chúng ta nên sáng suốt, dừng mắc mưu cộng sản và bọn gian manh.



Chúng ta phải vạch trần tội ác cộng sản trong việc phá rừng, lấp ao hồ phá hoại đất nước và bán nước. Đó là công việc c hính bên cạnh việc đấu tranh cho tự do và dân chủ tại Việt Nam.

===

GIÁO DỤC VIỆT NAM

III.THỰC TRẠNG GIÁO DỤC VIỆT NAM

====




===



Người cộng sản luôn luôn bí mật, không công khai hóa các tài liệu cho nên không ai có thể có đầy đủ tài liệu về bất cứ vấn đề gì. Nếu có tài liệu thì cũng là tài liệu không đầy đủ hoặc là tài liệu giả. Khi nghiên cứu giáo dục Việt Nam, chúng ta cũng gặp khó khăn này. Nếu người nghiên cứu là đảng viên, cũng không dám nói thật, nói thẳng vì điều này chỉ cò hại cho bản thân và gia đình họ. Tuy nhiên “giấy không gói được lửa”, và “cái kim để lâu trontg túi cũng lòi ra”. Qua một vài tài liệu, hoặc tin tức trong báo chí vô tình tiết lộ, và qua những kinh qua trong cuộc sống tại Việt Nam, người nghiên cứu cũng có thể nhận thấy một số vấn đề.

I. MỤC TIÊU GIÁO DỤC
Giáo dục là đào tạo, rèn luyện. Người đi trước dạy bảo người đi sau, người trẻ tuổi học tập người trưởng thành và người già cả. Nền văn minh nào cũng cần có giáo dục và quốc gia nào cũng cần có giáo dục. Khi chưa có chữ viết thì nội dung giáo dục là dạy săn bắn, chăn nuôi, cưỡi ngựa, múa gươm đao hoặc ca hát. Khi có văn tự thì giáo duc là dạy viết, dạy đọc, dạy văn chương, triết học, nghệ thuật. Tuy nhiên, việc huấn nghệ vẫn tiến hành. Mục đích của giáo dục xưa nay là huấn luyện và sử dụng nhân tài. Ngày xưa, tư nhân kinh doanh chưa phát triển, phần lớn là công việc triều đình. Do đó, chỉ có triều đình là cần đào tạo nhân tài và sử dụng nhân tài. Nhiều người chỉ trích nho gia học chỉ để làm quan, phục vụ chế độ phong kiến. Nhưng xã hội cộng sản cũng có bệnh quan liêu và tham nhũng. Cán bộ cộng sản cũng là một thứ quan lớn nhỏ; tổng bí thư đảng cũng là một ông vua; và bộ chính tri cũng là một triều đình.Nhiều người chỉ trích Nho học là học từ chương, không thực dụng, bởi vi khoa học chưa phát triển. Dẫu sao, Nho giáo đã tạo nên cuộc sống đạo hạnh, và một nền văn học phong phú. Còn cộng sản sau khi nắm chính quyền, cộng sản có xây dựng được nền khoa học tiến bộ không? Chắc chắn là không vì họ chẳng sản xuất được gì ngoài nông sản đã có từ thời thực dân Pháp. Họ không xây dựng được kỹ nghệ nặng, kỹ nghệ nhẹ. Trước đây họ chỉ trích kinh tế miền Nam là phồn vinh giả tạo, chỉ là một nền kinh tế tiêu thụ, kinh tế thị trường, nay thì họ cũng không vươn lên hơn được. Giáo dục cộng sản chỉ sản xuất một thứ văn chương tuyên truyền dối trá. Những thơ và tiểu thuyết của Tố Hữu, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, những bản báo cáo, những chương trình năm mười năm, những kế hoạch xây dựng không những là không thực dụng, không từ chương mà còn là phỉnh phờ, lường gạt, là ca tụng những việc không thật, người không thật như Nguyễn Văn Trấn đã tố cáo trong Viết cho Mẹ và Quốc Hội.




Tại các nước quân chủ và tư bản, mục tiêu giáo dục là toàn diện, nhưng tại một số quốc gia như Liên Xô, Trung Cộng, mục tiêu giáo dục hạn chế trong phạm vi khoa học chiến tranh để xâm chiếm các nước mà bỏ quên khoa học phục vụ đời sống nhân dân.
Như đã nói, mục tiêu giáo dục các đời là đào tạo và sử dụng nhân tài. Cộng sản cũng chú trọng giáo dục nhưng là giáo dục tranh đấu, chia rẽ, gây hận thù. Cộng sản cũng sử dụng người nhưng dùng đảng viên cộng sản, dùng kẻ tay sai thân tín, không dùng người ngoài , hoặc it dùng người ngoài. Tư tưởng cộng sản và kinh tế cộng sản cũng hạn chế việc dùng người. Đường lối cộng sản cộng với óc cục bộ, địa phương chỉ cho ph ép họ dùng người phe cánh. Chỉ có Đặng Tiểu Bình là dùng mèo không phân biệt mèo trắng, mèo đen. Dù là tiến sĩ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường cũng chỉ làm nghề giáo, hoặc dịch thuật vớ vẩn phục vụ Truờng Chinh, và đảng cộng sản, không có một địa vị xứng đáng trong chính quyền Hà Nội. Trong thời chiến 1954-1975, một số tướng tá Việt Nam cộng hòa cho con cái sang Pháp du học, kết quả, trước 1975, số lớn về Hà Nội phục vụ cộng sản với đồng lương chết đói và địa vị thấp kém. Dù là tiến sĩ, họ cũng chỉ làm việc trong ban Việt kiều với nhiệm vụ cao quý là đón tiếp, hầu hạ và theo dõi Việt kiều về nước. Sau 1975, nhiều trí thức bị sa thải bởi vì sau chiến thắng là giai đoạn người cộng sản hưởng thụ. Họ khinh ghét người quốc gia, họ không muốn dùng kỹ sư, giáo sư, bác sĩ Cộng Hòa.Họ muốn giành chức giám đốc, hiệu trưởng, hiệu phó, trưởng ty cho những người đã theo họ. Hơn nữa, trong chế độ cộng sản, thời chiến tranh và thời bao cấp, thiếu cơm gạo, thiếu thuốc men, đâu cần đầu bếp, đâu cần bác sĩ. Ngày nay, ngoại quốc đầu tư tại Việt Nam, các địa vị béo bở là thuộc cộng sản. Đừng ai hòng chia xẽ. Lại nữa con cái cộng sản bỏ nước ra đi mong trở thành người ngoại quốc để làm cơ sở cho gia đình sau này chạy ra sinh sống và tị nạn nếu dân chúng nổi lên tiêu diệt cộng sản. Nói chung, cộng sản không cần người giỏi, và không cần giáo dục, nhất là không cần giáo dục thật, giáo dục cao, Họ chỉ cần một nhãn hiệu để tô điểm cho chế độ và cho bản thân họ. Cộng sản Việt Nam nay cần tiền, cần địa vị, cần công an, và binh lính bảo vệ chế độ hơn là cần giáo dục..




II. NHỮNG KHUYẾT ĐIỂM
Trong chế độ cộng sản, nền giáo dục có nhiều khuyết điểm, chúng ta phải viết hàng trăm, hàng ngàn trang mới đủ. Ở đây, người nghiên cứu chỉ trình bày một số tiêu biểu.
1. Nạn bằng cấp giả và mua bán bằng cấp.
Ngày nay, ai cũng nhận thấy tại Việt Nam nở rộ những việc mua bán bằng cấp, việc dùng bằng cấp giả mạo trong hàng ngũ cán bộ trung và cao cấp.
2. Năng lực thấp kém:
Các cấp học đều có những mục tiêu đào tạo. Nay tại Việt Nam sau bao năm giáo dục, kể là thất bại lớn. Đa số học sinh cấp tiểu và trung học không viết nổi bài luận văn, không hiểu rõ lịch sử và địa lý Việt Nam. Đại học khoa học thiếu dụng cụ, chỉ là theo cách mô tả, thiếu thực nghiệm. Kết quả thấp: Một số bác sĩ không viết nổi toa thuốc, chỉ cho toa asprin, Vitamin B, C.
3. Đạo đức thấp kém:
Một số có lương tâm, có khả năng nhưng một số giáo viên bán kẹo trong lớp, giáo viên công khai đòi hối lộ trong ngày nhà giáo, có một vài giáo viên ăn cắp xe đạp học sinh, có một vài nhà giáo cưỡng hiếp nữ học sinh như hiện nay. .

Xã hội nào cũng có những khuyết điểm nhưng xã hội cộng sản, và nền giáo dục cộng sản có nhiều khuyết điểm nhất và tồi tệ nhất. Từ ngày xưa, thỉnh thoảng có có nạn thi cử gian lận nhưng trong chế độ cộng sản việc ném bài thi vào phòng thi, việc thi thế, việc mua bán bằng cấp, việc giả mạo bằng cấp là những hiện tượng mạnh mẽ nhất và phổ biến nhất hiện nay.





III. NGUYÊN NHÂN
Tại sao trong chủ nghĩa cộng sản, nền giáo dục lại thấp kém như thế? Có nhiều nguyên nhân, nhưng ở đây, người nghiên cứu chỉ trình bày một số tiêu biểu. Nguyên nhân chủ yếu là chủ nghĩa cộng sản, chính sách cộng sản và con người cộng sản. Nói rõ hơn, chính bản thân chủ nghĩa Marx đã là một sự phá hoại giáo dục.
1. Chủ nghĩa cộng sản chủ trương đấu tranh giai cấp, nghĩa là chủ trương chiến tranh và bạo lực. Một chủ trương như vậy chỉ đưa đến hận thù trong các tầng lớp nhân dân, đưa đến chiến tranh thế giới, không ích lợi cho việc xây dựng giáo dục.
2. Chủ nghĩa Marx đề cao công nhân, coi trí thức là kẻ thù. Chủ nghĩa cộng sản đưa đến các chính sách phá hoại giáo dục:
3. Đảng cộng sản đưa ra khẩu hiệu “hồng hơn chuyên” nghĩa là coi trọng người ngu dốt mà coi khinh người có kỹ thuật, có chuyên môn và kiến thức. Chủ trương, đường lối này chỉ sát hại giáo dục, không còn ai thích học vì học là vô ích trong chế độ cộng sản. Không những vô ích mà còn có hại vì trí thức bị coi là kẻ thù hoặc có thể là kẻ thù của giai cấp ( trí thức bị coi là thành phần lưng chừng).
4. Sát hại, bỏ tù, sa thải các trí thức nếu họ không theo cộng sản, hoặc họ có lý lịch gia đình không thuộc giai cấp vô sản.

5-Cộng sản cho con em cán bộ, đảng viên vào đại học dù điểm thi 5, 6 điểm. Cộng sản ngăn cấm con em tư sản, địa chủ, con em chế độ cũ vào trung và đại học. Chính sách này chỉ đưa đến việc đào tạo những cán bộ, nhân viên, bác sĩ, kỷ sư thiếu khả năng.
6-Cộng sản đề cao khoa học, coi khinh nghề giáo. Hay nói đúng hơn, cộng sản coi trọng tiền tài, danh vọng, ngành nghề nào, địa vị nào kiếm ra tiền thì tôn trọng. Chính phủ cộng sản đã coi khinh ngành ngiáo dục khi học sinh giỏi thì cho vào y dược, học sinh kém thì đẩy qua giáo dục. Trong khi đó tại Pháp cũng như Việt Nam cộng hòa, y dược học tự do, trong khi sư phạm, hành chánh phải thi tuyển. Chỉ những học sinh giỏi mới vào trường Sư Phạm của Pháp và Việt Nam cộng hòa.
7. Chủ nghĩa cộng sản độc tài. Marx đề cao chủ nghĩa của ông là khoa học nhất và tiến bộ nhất. Ông kiêu căng cho rằng chủ nghĩa cộng sản tiến gấp mườI chế đô tư bản, và giai cấp vô sản sẽ chôn sống giai cấp tư bản. Ông cho rằng chủ thuyết Marx có thể làm định lý, định đề cho khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Marx khuyên các đệ tử triệt để đả phá các học thuyết khác. Vì vậy mà các đệ tử Marx ra sức công kích tôn giáo và các triết thuyết Nho, Lão, Phật và Thiên Chúa giáo. Đường lối này đưa đến việc xem Marx là một tôn giáo. Người cộng sản Trung quốc đã xem Quyển Sách Đỏ của Mao Trạch Đông là một thánh kinh chứa đầy thần chú mầu nhiệm.
Tư tưởng Marx và Mao chỉ là ảo tưởng, là những dối trá không tiền khoáng hậu, rất tai hại cho viêc xây dựng kinh tế, chính trị, văn học và giáo dục. Thất bại của giáo dục cộng sản chỉ là một phần trong toàn bộ thất bại của chủ nghĩa Marx.



8.Chủ nghĩa Marx nay đã thất bại trên toàn thế giới, mà chỉ còn chủ nghĩa Marx trá hình. Chủ nghĩa này vẫn dùng lá cờ cộng sản nhưng nội dung là một chủ nghĩa Mafia cộng với quân phiệt. Bọn cộng sản ngày nay không cón nói đến quyền lợi giai cấp vô sản và công bình xã hội. Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam nay tăng cường cảnh sát, đản áp và khủng bố nhận dân để giữ mãi quyền thống trị. Chúng ra sức bán nước, cướp tài sản nhân dân để làm giàu. Những lãnh tụ cộng sản nay đã trở thành những nhà tư bản đỏ. Họ chạy theo đồng tiền và cuộc sống huy hoắc, trong khi đời sống nhân dân khốn khổ. Cộng sản không thật tâm xây dựng đất nước, xây dựng giáo dục. Lãnh tụ cộng sản lo làm giàu thì bọn đàn em cũng ra sức chụp dựt trong cảnh chợ chiều. Dùng mánh mung mà kiếm tiền bạc thì tốt hơn là đem sức ra học hành như thời quân chủ và tư bản. Do đó nạn mua bán bằng cấp, nạn bằng cấp giả tràn đầy. Một Việt Nam đã có hàng ngàn tiến sĩ, thạc sĩ giả.



Đường lối cộng sản trái ngược với chế độ quân chủ và tư bản vì hai chế độ này dẫu sao trên nguyên tắc là tôn trọng quốc gia, tôn trọng nhân quyền. Họ coi quốc gia là của các tầng lớp nhân dân, và họ dùng con người theo tiêu chuẩn tài đức chứ không theo thành phần công nông như cộng sản. Vì vậy, trong chế độ quân chủ nước ta, những học sinh nghèo đã đỗ cử nhân, tiến sĩ và họ đã đem tài ra giúp nước như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan Đình Phùng, Phan Thanh Giản, Trương Đăng Quế, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. .. Và tại nước ta, thời thực dân Pháp cai trị, nhân dân ta dù là gia đình bình thường mà cũng cho con sang Pháp học và đỗ tiến sĩ như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường. Rõ ràng là hai chế độ quân chủ và tư bản có đường lối sáng suốt hơn chủ nghĩa cộng sản.



IV. ĐẶC TÍNH GIÁO DỤC CỘNG SẢN
Chúng ta có thể thấy rõ những tính chất đặc thù của nền giáo dục Việt Nam.
1. Giáo dục ngu dân:
-Việc chọn lựa thành phần và phe đảng làm cho giáo dục ngày càng thấp kém. Thầy ngu, dạy trò ngu tạo thành một sự xuống thang trong nền giáo dục ViệNam.
-Việc đóng cửa và thù hận tư bản đã ngăn cản việc tiếp xúc với thế giới bên ngoài, do đó Việt Nam không bắt kịp văn minh quốc tế.
-Việc giáo dục nhằm tuyên truyền. Cộng sản xuyên tạc lịch sử, chỉ dạy thời cộng sản, văn chương của Tố Hữu và Hồ Chí Minh. Như vậy là làm sai lạc sự thực, hạn chế kiến thức.
-Cộng sản biến toán học, khoa học, văn chương, sử học thành chính trị tuyên truyền làm cho học sinh mất hứng học tập, nhất là môn văn, sử.
-Cộng sản nhằm nhồi sọ, tuyên truyền. Trẻ con chỉ ca hát ca tụng lãnh tụ. Từ Liên Xô, Trung Quốc Việt Nam, cộng sản đều mắc bệnh tôn sùng cá nhân lãnh tụ. Cấp hai, cấp ba và đai học phải học Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Tố HỮu và Marx Lenin toàn là những điều vô ích cho việc xây dựng đất nước và xây dựng bản thân.
-Việc cấm đoán các nguồn tư tưởng làm cho sinh viên học sinh như con ngựa đã che mắt, không có khả năng lý luận và óc sáng tạo. Giáo dục cộng sản nhắm biến con người thành con vẹt, thành nô lệ của cộng sản.




2. Giáo dục vô đạo lý:
Cộng sản phá bỏ truyền thống tốt đẹp của cha ông. Cộng sản bắt nhân dân coi lãnh tụ như thánh thần, đảng cộng sản như cha mẹ (Trung với đảng, hiếu với dân). Cộng sản bài trừ thần thánh mà tạo nên những thần linh mới là Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Lê Văn Tám, Kim Đồng, NGuyễn Văn Trỗi. . .Nặng hơn hết, cộng sản bắt con tố cha, vợ tố chồng , học trò giết thầy đảo ngược cương thường, Và trong chế độ cộng sản, học trò làm mật thám theo dõi thầy, báo cáo thầy giáo, trẻ con và người lớn chửi thề ,nói tục thành phổ biến.
Cộng sản dùng người ngu dốt và bọn trộm cướp trong các cơ quan, chúng lại không có pháp luật công chính cho nên bọn lãnh đạo mặc sức bán nước, buôn dân và ăn cắp của công. Về giáo dục, vì tình trạng pháp luật bất công, chính quyền thối nát đã gây ra việc bằng giả, mua bán bằng cấp công khai. Đồng tiền đã trở thành ngôi vị chủ tể. Các thực tài và đạo đức đã bị xóa sổ trong chế độ cộng sản.




Chế độ quân chủ Việt Nam theo triết lý Nho, Lão Phật bị cộng sản chỉ trích là mê tín, lạc hậu. Nhưng so với cộng sản, Nho, Lão, Phật tốt hơn nhiều. Các tôn giáo đều tin có linh hồn tồn tại, tin có quả báo thiện ác và chủ trương từ bi bác ái. Dẫu sao , các tôn gíáo và triết học trên không gây ra cuộc chiến tranh và giết hàng triệu đồng bào như cộng sản Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam và Khmer. Nho Lão Phật đã tạo ra những Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm là những tấm gương sáng trong khi cộng sản tạo ra những quỷ sa tăng như Stalin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Pon Pot. . .Dù Nho Lão Phật cũng có kẻ gian tham nhưng sự gian tham tương đối ít hơn chế độ cộng sản là nơi ăn cắp, ăn cướp công khai mà không bị trừng trị . Việc xử lý nội bộ. là một hành vi bao che kẻ phạm pháp và khuyến khích việc tham ô, trộm cướp. Người Âu Mỹ không theo Nho, Lão Phật thì theo Thiên chúa giáo, Tin Lành giáo và các tôn giáo khác. Họ có tinh thần tự giác cao , có pháp luật công minh và có nền dân chủ thật sự cho nên người dân được hưởng mọi thứ tự do, không bị bóc lột và lừa đảo như trong chế độ cộng sản. Do đó mà giáo dục tiến bộ, khoa học, kỹ thuật phát triển.



3. Giáo dục hình thức
Chủ nghĩa cộng sản là một chủ nghĩa hình thức, hay nói đúng hơn là một chủ nghĩa gian xảo, bịp bợm. Đó là trò dân chủ giả hiệu, độc lập, và tự do giả hiệu. Có thể ban đầu họ có lý tưởng tự do, dân chủ và công bằng xã hội, nhưng đi vào thực tế khó khăn thất bại nên họ phải thay đổi tư duy. Có thể ngay tự đầu, cộng sản chỉ là trò gian xảo. Vì mục đích cướp của mà cộng sản phải giết người. Dù thế nào đi nữa, nay cộng sản đã hiện nguyên hình bán nước hại dân, giết người cướp của. Trước đây, chúng hô hào bãi bỏ tư sản nay chúng bán nước, cướp tài sản nhân dân mà thành tư bản đỏ. Trước đây chúng khinh miệt trí thức đề cao vô sản nay chúng lại ham chuộng bằng cấp. Quân chủ và tư bản chuộng bằng thật còn cộng sản chuộng bằng giả. Đó là kết quả một nền giáo dục ngu dân và xảo quyệt của cộng sản. Ta cũng có thể nói giáo dục cộng sản đã thất bại. Càng chủ trương xoá bỏ tư hữu thì óc tư hữu lên cao; càng hô hào dân chủ thì đàn áp dân chúng công khai; càng tuyên bố đạo đức thì đạo đức băng hoại, càng khoe khoang khoa học thì mê tín dị đoan bùng nổ. Quan trọng nhất là Marx hứa hẹn chủ nghĩa cộng sản sung sướng, tiến bộ gấp năm gấp mười tư bản thì kết cuộc nơi nào có cộng sản là nơi đó nghèo đói. Nay cộng sản lại phải ngửa tay xin đồng tiền tư bản . Rõ ràng chủ nghĩa cộng sản thất bại, giáo dục cộng sản suy sụp.
Không những người quốc gia đã chống đối cộng sản mà người văn nghệ sĩ sống trong nôi cộng sản cũng đã phát biểu rất nhiều về chế độ, con người và nền giáo dục Cộng sản Việt Nam. Cậu Luân, một nhân vật trong Cam tâm của Phạm Thị Hoài phát biểu:
Bọn trí thức thích văn hóa đặc tuyển thì sống đời hạ lưu bần tiện. Bọn trưởng giả thích phong lưu thì ô trọc. Bọn cung đình thích quý tộc thì tỉnh lẻ ngơ ngáo. Bọn thanh niên thích tân tiến thì trốn ra nước ngoài




Dương Thu Hương trong Bên Kia Bờ Ảo Vọng có đoạn viết về một nhân vật lãnh đạo tiêu biểu cho tầng lớp lãnh đạo ngu dốt :
Với ảo vọng trở thành ngọn cờ đầu cho cả nước, ông ta bắt tay vào thực hiện một loạt các công trình sản xuất, xây dựng lại hệ thống thủy lợi, quy hoạch lại ruộng đồng và các công trình kiến thiết cơ bản. Việc cấu trúc nền kinh tế bao giờ cũng là việc hệ trọng nhất của một xứ sở hay một quốc gia. Lẽ ra nó phải đuợc giao cho những bộ óc vĩ đại, đầy đủ kiến thức khoa học và kinh nghiệm xã hội. Nhưng ông bí thư huyện ủy kia chỉ mới học qua bậc tiểu học. Với một kiến thức như thế, lẽ ra ông ấy chỉ nên làm thủ lĩnh một gia đình gồm một bà vợ và bảy tám đứa con, thiết lập nền kinh tế trên hai mẫu ruộng với vài sào vườn chứ không thể tổ chức đời sống cho hàng triệu con người trên một địa dư phức tạp. Tham vọng lớn, quyền hành trong tay, đương nhiên ông ta sẽ đưa ra những công trình phiêu lưu, những kế hoạch cảm tính không có cơ sở khoa học bảo đảm. Ông ta bắt dân chặt rừng thông để trồng lúa. Nơi xưa kia trồng lúa, ông buộc họ trồng mầu. Năm vạn người được huy động làm một công trình thủy lợi mà sau đó, những cánh đồng đã thuần hóa trở nên khô cạn, đất nứt lọt chân trâu. Những cánh đồng khác lại chìm trong nước úng. Thật là khủng khiếp khi tham vọng và quyền lực được đặt vào một bộ óc tối tăm. Lúc đó sự tàn phá sẽ xảy ra, trên một bề rộng và trong một chiều sâu mà sự hủy diệt của đạn bom cũng không sánh nổi (41-42).
Và bà Dương Thu Hương đã trả lời Little Saigon Radio năm 2001 như sau:
Tất cả những lời lẽ của giới lãnh đạo vừa ngu xuẩn vừa dối trá. Bản thân họ biết sự dối trá đó. Tất cả những kẻ mở mồm nói Xã hội chủ nghĩa thì con cái chúng đều buôn bán, đều làm mọi cách tận thu, tận dụng, ăn cắp thật là nhiều tiền, và trở thành những thằng tư bản. Chúng nó phát huy tối đa khả năng ăn cắp, ăn cướp, biến tất cả tiền tài, của cải của nhân dân trở thành vốn liếng riêng của chúng nó, hoặc là gửi tiền ra nước ngoài để sau này họ chuồn . . Còn về Xã hội chủ nghĩa thì những người nào không ngu lắm thì họ cũng điều biết rằng chủ nghĩa này chỉ là câu nói đầu lưỡi.
Nguyễn Huy Thiệp cũng phê bình một số trí thức qua lời nhân vật Triệu trong Những bài học nông thôn:
Tôi hiểu sâu sắc sự ngu dốt của bọn có
học tai hại thế nào; nó vừa phản động vừa nguy
hiểm, lại vừa mất dạy. Sự ngu dốt của bọn có
học tởm gấp vạn lần so với người bình dân.
Trong Tuổi hai mươi yêu dấu, nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp viết về nhà trường xã hội chủ nghĩa như sau:
Tôi ngạc nhiên vì tại sao người ta lại đi nhồi nhét hàng mớ kiến thức chữ nghĩa như thế vào đầu bọn trẻ bao nhiêu năm trời? Tôi công nhận những kiến thức tiểu học là có lý. Những thày cô giáo thật ra thày cô giáo! Họ đúng là những bậc thánh, mặc dầu các thày cô giáo tiểu học ở đâu cũng vậy, họ đều có vẻ nghèo nàn, nhếch nhác và bẩn thỉu. Lên bậc trung học và đại học thì toàn bộ nền giáo dục đều đáng vứt đi cả. Kiến thức thì rối rắm, rỗng tuếch, vô bổ, chẳng ai hiểu cóc khô gì. Bọn giáo sư đại học ăn diện và vô đạo đức nói nhăng nói cuội ở trên bục giảng. Chính họ cũng chẳng hiểu họ nói cái gì. Nền giáo dục trung học và đại học theo tôi là một nền giáo dục ngục tù, khủng bố. Nó làm cho toàn bộ thanh niên chúng tôi trở nên kiệt sức, ấm ớ, dở hơi hoặc đểu cáng theo một cách nào đấy. Nó là một nền giáo dục đào tạo lưu manh. Tất cả những thanh niên thành đạt của nền giáo dục đó đểu là những tên lưu manh một trăm phần trăm, tôi xin thề như vậy!



IV. BIỆN PHÁP CHẤN HƯNG GIÁO DỤC VIỆT NAM
Muốn xây dựng một nền giáo dục, chúng ta cần có những điều kiện sau:
-Một lý thuyết căn bản
-Những lãnh đạo tài đức
-Những môi trường thuận lợi




1. -Một lý thuyết căn bản
Những điều trình bày ở trên cho thấy tư tưởng Marx đã gieo tai họa cho giáo dục. Ta có thể nói chủ nghĩa Marx là một chủ nghĩa tiêu diệt giáo dục, do đó cần phải triệt tiêu chủ nghĩa cộng sản, diệt trừ đấu tranh giai cấp, diệt trừ thù hận. Việc này cũng như một bác sĩ thấy có mầm ung thư thì phải cắt bỏ ung thư Không thể để ung bướu tồn tại trong khi dùng thuốc trị bệnh. Cũng vậy, muốn ngô khoai tốt thì phải nhổ cỏ dại. Không thể cho cỏ dại tồn tại với hoa màu.
Qua những điều trình bày ở trên, quan điểm của quân chủ và tư bản có thể làm căn bản cho giáo dục. Trong lý thuyết căn bản, có thể có nhiều điểm, nhưng tựu trung, ta có thể chấp nhận những tư tưởng sau:
-Dân tộc : đề cao ý thức dân tộc, tinh thần quốc gia, triệt tiêu tư tưởng đấu tranh giai cấp.
-Khoa học: học tập và phát huy khoa học, đem khoa học áp dụng vào đời sống nhân dân để nâng cao đời sống nhân dân..
-Khai phóng: thâu nhận tinh hoa thế giới, đón nhận các luồng tư tưởng và trào lưu mới có giá trị và ích lợi cho quốc gia, dân tộc.



2. Những lãnh đạo tài đức
Chủ nghĩa cộng sản đã tạo cơ hội cho cỏ mọc rậm rạp trong vườn hoang. Những cán bộ cộng sản từ trên xuống dưới phần lớn vô tài vô đức. Do đó, những lãnh đạo và bè lũ này phải bị triệt tiêu như là quét sạch những đống rác trước khi xây dựng một cơ sở mới. Không thể xây dựng một nền giáo dục tốt khi còn có đảng cộng sản và những bọn tham ô, nhũng lạm cầm đầu hoặc ở trong chính quyền.




3. Những môi trường thuận lợi
Giáo dục không phải chỉ ở đại học, không phải chỉ ở trường học mà gia đình và xã hội là những môi trường cần thiết cho giáo dục phát triển. Trong gia đình, cha vô học, tàn ác, tham nhũng mà có địa vị cao thì con cái của họ cũng trờ thành những kẻ tham quan nhũng lại hoặc kẻ lạm dùng quyền thế, cướp bóc dân chúng, hãm hiếp phụ nữ như con các quan lớn trong chế độ cộng sàn. Trong xã hội nếu có nhiều kẻ không học mà được bằng cấp, được địa vị cao, và những kẻ cướp đất nhân dân hay bằng nhiều cách làm giàu phi pháp mà không bị trừng trị thì có ảnh hưởng đến tinh thần học tập của thanh thiếu niên. Do đó môi trường rất quan trọng trong việc giáo dục.Do đó, chúng ta phải tạo dựng những môi trường thuận lợi cho giáo dục phát triển.
-Phải có tự do, trong đó có tự do giáo dục: tư nhhân có quyền mở trường tư, giáo viên, giáo sư được tự do giảng dạy, tự do in sách giáo khoa . Hiện nay tại Việt Nam có nhiều đại học tư nhưng vẫn là do bàn tay cộng sản nắm quyền, và hiện nay giáo sư, giáo viên chỉ được dạy theo giáo án nhà nước dù cho giáo khoa sai lầm.
-Phải có một chế độ dân chủ thực sự. Chế độ cộng sản là dân chủ giả mạo. Bầu cử Việt Nam là xảo trá, quốc hội là bù nhìn. Khi còn độc tài thì giáo dục không phát triển.
-Phải có tự do đảng phái, tư do tôn giáo và tự do ngôn luận. Những thứ tự do này rất cần cho sinh hoạt nhân dân đồng thời là những nguồn bổ túc, bảo đảm cho việc xây dựng giáo dục,
-Phải có một nền pháp luật công minh., bảo đảm quyền lợi nhân dân, trừng trị bọn tham quan ô lại và bọn làm ăn phi pháp. Có như vậy mới bảo đảm quyền lợI quốc gia và con người, trong đó nền giáo dục mới được trong sạch và phát triển.



-Phải có một chính thể tốt đẹp để có một nền giáo dục tốt đẹp. Một chính thể tham nhũng, độc tài như chính thể cộng sản thì không có ngườI tài đức vì trong mọi ngành, bọn Mafia thống trị. Ông hiệu trưởng không thể từ chối nâng điểm cho con ông tỉnh ủy, ông giám đốc khó lòng phủ nhận việc thâu nhận viên kỹ sư ngu dốt con ông bộ trưởng. Dưới chính thể quân chủ và tư bản, ai học chăm, thi đỗ là có địa vụ, có đủ y thực, do đó việc học trở thành sự đầu tư chính đáng của con người. Việc tham ô, nhũng lạm của cộng sản đã đưa bè cánh vào trong chánh quyền, do đó việc học trở thành vô mục đich.

Chế độ quân chủ đặt ra mục tiêu giáo dục là tài tài và đức. Chính thể tư bản đặt ra tiêu chuẩn đức dục, trí dục và thể dục. Điểm chung của hai thể chế là tài đức trong khi cộng sản chủ trương “hồng hơn chuyên” nghĩa là phủ nhận tài và đức. Đây là ý thức hệ tiêu diệt giáo dục, đối kháng giáo dục.




Ngày nay, người cộng sản ngõ ý nhờ Mỹ đào tạo các tiến sĩ. Người Mỹ đã chấp nhận. Trước đây, thời đệ nhị thế chiến và thời chiến tranh lạnh, Mỹ đã đào tạo hàng trăm, hàng ngàn tiến sĩ sau này trở thành những bác học nguyên tử của Trung Quốc. Cộng sản Việt Nam cũng đề nghị Mỹ mở viện Đại Học tại Việt Nam. Cộng sản Việt Nam muốn vòi tiền Mỹ hay muốn chơi trò đu dây giữa Trung Quốc và Mỹ? Dù Mỹ chấp nhận điều này, dù Mỹ đào tạo các tiến sĩ thì cũng chỉ nhắm đào tạo kỹ thuật gia chiến tranh nhằm tăng cường sức mạnh cho chế độ, để kìm kẹp, khủng bố nhân dân. Khoa học Mỹ không cải tạo được cái tâm tàn bạo và gian tham của con người cộng sản. Khoa học Mỹ không trừ được nạn bằng cấp giả, nạn cướp đất của nhân dân và bán giang sơn cho Trung Quốc. Trung Quốc đã nhờ đồng tiền Mỹ mà lớn mạnh, họ quay sang cướp thị trường của Mỹ, và đe dọa nền hòa bình thế giới. Trung Quốc thu lợI về đất đai và kinh tế của Việt Nam trong khi Mỹ xuất tiền làm giàu cho cộng sản Việt Nam ư ? Lẽ nào kẻ ăn ốc, ngườI đổ vỏ ?

IV. KẾT LUẬN
Muốn cải tạo giáo dục Việt Nam thì phải cải tạo triệt để, trọng tâm là loại trừ chủ nghĩa cộng sản. Nếu không, tất cả chỉ là vá víu, vô hiệu quả.
Tháng 8-2008

ĐAI HOC TAI VIET NAM

IV. THỰC TRẠNG ĐAI HOC TAI VIET NAM

====



Sau 1945, giới trí thức bị cộng sản lợi dụng và cũng bị cộng sản nghi ngờ. Họ lợi dụng vì muốn giới trí thức phục vụ cho họ, và họ nghi ngờ vì trí thức phần lớn là con nhà giàu, hoặc con quan, tức là thuộc thành phần thù nghịch với họ. Cái mà họ trân trọng là giai cấp vô sản tức là nhửng người nghèo khổ .


Chiến tranh Pháp Việt là một cơ hội cho người cộng sản tiêu diệt giơi trí thức, họ đã nhờ tay người Pháp giết trí thức. Than ôi,bao tinh hoa của Hà thành hoa lệ trong trung đoàn thủ đô đã bị Võ Nguyên Giáp đem nướng không tiếc thương!Staline đã mượn bàn tay Đức quốc xã giết hàng trăm tướng lãnh, nhưng vẫn không hết, cho nên sau đó đích thân Staline phải thanh trừng. Cọng sản Nga còn vụng về hơn cộng sản Việt Nam! Trí thức đứng đầu danh sách kẻ thù của cọng sản :"Trí, phú, địa, hào , phải đào tận gôc,trôc tận rễ".


Ngoại trừ nhửng kẻ thật dạ đàu hàng,còn nhửng kẻ thiếu tài nịnh hót, thiếu khôn ngoan che dấu,ít nhiều đều bị khó khăn, nguy hiểm, không bị bỏ tù thỉ cũng bị giáng chức, sa thải hoạc bị hành hạ đủ điều. Nhiều người phải giấu biệt cái thành phần trí thức của mình, dù đỗ tiểu học hay tú tài,họ đều khai khả nảng văn hoá là biết đọc, biết viết. Nếu ai thực thà khai là sinh viên đại học, đi du học Pháp thì cuộc đời coi như bỏ đi !



Đã hơn nửa thế kỷ và cũng đã qua rồi cái thời mà người ta coi hai chử ‘vô sản’ là một bằng cấp cao quý, là con đường tiến thân. Dường như bây giờ người ta cảm thấy xấu hổ khi có ngưới nói rằng mình là một kẻ thất học. Lê Đức Thọ khi qua Paris, bị báo chí phỏng vấn :” Ông đã tốt nghiệp đai học ở đâu “ thì y nổ i cáu trả lời : “ Tôi là bố tiến sĩ! “



Tội nghiệp thay cho các nhà báo ngoại quốc !Họ sinh trưởng trong nhửng quốc gia giàu mạnh, có chính sách cưởng bách giáo dục, và các lãnh tụ của họ hầu hết tốt nghiệp đại học, cho nên họ lầm tưởng Nguyển Văn Linh, Đỗ Mười, Võ chí Công... đều xuất thân từ đại học. Mà cũng khổ cho các cán bộ cộng sản khi ra xứ người,không lẽ nói lãnh tụ của họ chưa bao giờ cắp sách đến trường,hoặc học vấn chỉ tới lớp một,lớp hai..Bởi vậy mà bọn cộng sản Việt Nam sang Pháp nói rằng Nguyễn Văn Linh đỗ tiến sĩ....Và cũng vì vậy mà truyện dân gian tân thời được kể như sau:
Có một người đến văn phòng trung ương Đảng xin gặp đòng chí tổ ng bí thư. Giam đốc Công an hỏi tên tuổ i, quê quán khách, và xin khách cho biết lý do đến thăm. Khách trả lời: “Tôi là bạn học của tổ ng bí thư lúc còn nhỏ.”Viên công an hô : “Gián điệp ! Gián điệp ! Bắt trói lại!”



Sau có người hỏi viên công an : Đòng chí tài gỉỏi thật ! Tặi sao đòng chí biết ngay nó là một tên gián điệp ?
Viên công an trả lời : “ Đồng chí tổ ng bí thư của ta có đi học ngày nào đâu mà có bạn học !”
Dẫu sao thì người cộng sản cũng thấy làm lón mà không có bằng cấp cũng là một điều thiếu sót tai hại, cho nên họ đề ra chính sách “ trí thức hóa vô sản”. Từ đó,nhửng cán bộ con ông cháu cha, hoặc cán bộ có thành tích được cử đi học ở nhửng lớp công nông, bổ túc văn hoá. Và lối học như thé gọi là chuyên tu, là học tại chức. Sau vài tháng là hết cấp một, sau vài tháng nửa là hết cấp hai. Trong một hay hai năm, nhửng người này trở thành kỹ sư,bác sĩ... Chúng ta cũng phải thông cảm cho các ông giáo, tuổ i đời cũng như tuổ i đảng đều thấp hơn học sinh giám đóc, trưởng ty, cho nên cuối cùng phải cho họ lên lớp đều đều.Và chúng ta cũng phải thông cảm cho các học sinh giám đóc,trưởng ty,huyện ủy,xã ủy cả đời không hề động não,năm sáu chục tuổi đàu ,hét ra lửa,mà phải học lớp một,lớp hai,phải làm toán trừ, toán cộng, phải học bài, phải thi cử... Vì vậy.mà chúng ta thấy rất nhiều phó tiến sĩ , bác sĩ loại này. Có nhửng ông,bà xuất thân là y công,y tá, sau một thời gian phục vụ, có thành tích được nâng lên hàng bác sĩ, hoặc kinh qua các lớp bổ túc, công nông mà trở thành bác sĩ, nhửng bác sĩ này không đọc, không viết được tên thuốc...Và có nhửng cán bộ giảng dạy đại học, hoạc ở tuyên giáo đã tuyên bố ở đại học Sàigon rằng ngoài băc chỗ nào cũng có dầu lửa, dân ta cám ống đu đủ xuống đãt nấu bánh chưng.. Nhân dân ta đã khinh thường nhửng ông bác sĩ,phó tiến sĩ, kỹ sư loại này cho nên tục ngử tân thời có câu : " Dôt như chuyên tu, ngu như tặi chức "!Tuy nhiên chương trình này cũng có sự biến dạng, nó trở thành nơi lưu đày cho nhửng kẻ thất thế.



Người ta muốn đẩy khéo một ông nào đó, người tă khen ngợi công lao,tài năng của ông,rôi đề cử ông đi học văn hóa, chuyên môn. Ông ra đi học,tưởng rằng khi về có bằng cấp cao,dịa vị lớn, chính lúc đó người ta đưă người mới vào thé đîa vị của ông,và thế là ông ra đi vĩnh viễn,và khi trở về sẽ nhận lệnh phục viên.
*
* *



Từ 1980 trở về trước, đại học là một ân huệ lớn dành riêng cho con cháu cán bộ cao cấp
và là một nơi đào tạo cán bộ cao cấp vừa hồng lại vưà chuyên để phục vụ đảng và nhà nước. Thi cử chỉ là một hình thức, mà vấn đề quyết định là thành phần giai cấp. Ở đây,bộ giáo dục đã có quy định về nhửng ân huệ cho từng loại cán bộ. Người ta gọi là thi lý lịch. Sau 1975, có bốn thành phần thí sinh :
-Chién sĩ thi đua, thương phế binh, chiên sĩ phục viên ( bản thân thí sinh )
-Gia đình có công với cách mạng( con cán bộ, loặi này cũng chia ra nhiều hạng )
-Gia đinh viên chức chế độ cũ dược tiêp tục làm việc ( giăó sư, bác sĩ chính quyền cũ) và giă dinh thường dân.
-Giă đình ngụy quân,ngụy quyền đi học tập cải tặo.
Thí sinh thi ba môn,điểm tối đa là 30 điẻm. Số điẻm lây đỗ tùy loặi và tùy năm :
Loại 1: từ 3 điểm là vào thảng, còn dứơi 3 là vào dự bị,để sang năm vào thảng
Loặi 2: từ 6 điểm
Loăi 3 : từ 22 điểm
Loại 4 : từ 26 điêm



Vãn đề ưu tiên các loại thường thay đổ i hàng năm. Từ 1975 đến 1985, sự cách biẹt giửa các loặi rất cao, nhất là giửa loại 2 và 3.Thí dụ cùng là con giáo viên,con bác sĩ cùng phục vụ tại một trường học,một bệnh viện, nhưng con giáo viên,bác sĩ cộng sản chỉ cần 8 hoạc 6 diểm thì đỗ đại học còn con giáo viên,bác sĩ chế độ cũ phải 22 diểm,nghĩa là phải hơn 16 diẻm để vào đại học.Đó là chúng ta chưa nói đến tình trạng tham nhũng,hối lộ, bè cánh. Vì sự chênh lệch đó mà chất lượng sinh viên kém,và mâu thuẫn giửa các giai cấp,nhất là mâu thuẩn giửa cọng sản và quốc gia càng tăng thêm .Sau 1985, chênh lệch được rút ngắn lại,nhưng dẫu sao,con viên chức cộng hòa phải hơn con cộng sản 10 điểm thì mới vào đại học.Thật là khó khăn cho nhửng trẻ sinh trong nhửng gia đình chế độ cũ !




Trong khoảng từ 1985 trở về trước, sinh viên đại hoc phải cắt hộ khẩu (1), được nhà nước cung cấp tiền bạc, sách vở, nơi cư trú. Nhưng thực tế não lòng! Dòng tièn Việt Nam sụt giá thường xuyên, lại nạn chị nuôi, anh nuôi(2) ăn xén ăn chận cho nên sinh viên thường xuyên bị đói. Các sinh viên phải cầu cứu gia đình. Nhửng nử sinh viên có gia đình khó khăn lại xa cách, đành phải gia nhập hàng ngũ chị em ta ở Hà nội,. Còn nam sinh viên thì đi buôn lậu,hoặc làm nghề không vốn ! Tình trạng đói khát này đưa đến cảnh trâu cột ghét trâu ăn, sinh viên Sàigon được gia đình tiếp tế đày đủ cho nên bị sinh viên cac nơi ghen ghét thù hằn. Sách vở thì cũ, thiếu,hai ba người chung một sách, học xong niên khoá thì phải trả lại để đàn em sau có sách mà học.




Có nhửng ngành như đại học sư phạm không thâu nhận sinh viên Thiên chúa giáo. Ngành vi tính còn gọi là tin học ( computer ) là ngành thuộc bí mật quốc gia, chỉ con cái cán bộ cao cấp mới được học . Sau 1975, tại một số tỉnh, cũng như khoảng 1960 tặi miền Bắc, con cái đîa chủ, tư sản, ngụy quân ngụy quyền không được học cấp ba. Phải một thời gian lâu mới có sự nơi thay đổ i để cho con em nhủng gia dình trên được học cấp ba và său được dự thi đại học. Tuy được dự thi đại học dù giỏi chưa chắc đã đỗ nếu đîa phương phê lý lịch quá nặng tay.Và nếu đỗ,trường gửi giấy báo về nhà, đîa phuơng ỉm đi và bắt đi quân dịch hoặc thanh niên xung phong thì tàn mộng dại học ! Thành thử trước 1975,ở ngoài Bác nếu con em được vào đại học là cả một vinh dự lớn lao như ngày xưa đỗ cử nhân,tiến sĩ !




Trước 1975, thí sinh học xong lớp 10 (3) thì ghi tên thi đại học.Tất cả thí sinh toàn quốc đều thi một ngày,và thi nhửng môn giống nhau. Chúng tă nên biết rằng lúc này uy quyền đảng rất mạnh, đảng quyết đînh tất cả, chủ nghỉa cá nhân bị đánh bẹp,cá nhân không có một chút quyền gì về tương lai,về số phận,về ước vọng của riệng mình. Trong trường thi,giáo sư chấm bài nhưng đảng ,cụ thể là băn tổ chức có quyền quyết định số phận các thí sinh.Ban tổ chức sẽ lấy từ trên xuống dưới. Ai dỗ cao, lý lịch tốt thì vào y dược, xuống nửa là bách khoa, cuối cùng là ngành sư pham.Néu thời Pháp thuộc,nươc ta chỉ mở đến trường cao đảng (4), cho nên các tiểu thư lấy chồng chỉ nhám lấy sinh viên cao đẳng : ‘Phi cao đảng bất thành phu phụ’, thì tại Bắc Việt, con gái lấy chồng cũng theo nhửng thứ tự ưu tiên: " Nhất y nhì dược, tặm được bách khoa , bỏ qua sư phạm ".



Khoảng 1980,thí sinh mới có quyền chọn ngành nghề theo sở thích,nhưng tất cả thí sinh đều thi một ngày,vài năm sau nửa, thí sinh mới được nới tay, cho thi nhửng ngành với nhửng ngày khác nhau.


Khoảng 1985, vì kinh tế suy sụp, ngân sách đại học thiếu thốn, cho nên người ta phải nhượng bộ mà mở rộng cửa để lấy tiền. Nền giáo dục cộng sản trên nguyên tắc là một nền giáo dục công,được miễn phí, nhưng vì thiếu tiền, họ phải nghỉ cách vơ vét.Vì vậy,trong thời gian này,mọi trường đại, trung, tiểu học đều phải đóng tiền. Thí dụ một trường đại học trước kia thu nhận 500 sinh viên, thì nay thu một ngàn hoạc hai ngàn.Ở đây, chúng ta thấy có nhiều loại sinh viên:

-Loại được hưởng học bổ ng toàn phần : học giỏi, con cán bộ cao cấp.
-Loại bán học bổ ng
-Loặi đóng tièn : đa số là con em thường dân.




Tổ chức dại học cộng sản khác với tư bản.Các trường đại học trực thuộc các bộ như trường đại học giao thông thuộc bộ giao thông,trường kinh tế thuộc bô kinh tế,trường sư phạm thuộc bộ giáo dục, còn trường đại học tổ ng hợp thuộc bộ đại học. Họ không tổ chức viện đại học,mà mỗi trường đại học tự quyết định, cho nên việc quyết đînh sĩ số, học phí...mỗi trường mỗi khác nhau. Dẫu săo, sự thay đổ i trên cũng được hoan nghênh vì con cháu thường dân có chỗ để học còn hơn là thất học, mặc dù tốt nghiệp rồi thất nghiệp. Trung bình mỗi trường chỉ có khoảng 1/2 hoạc 1/3 hưởng học bổ ng, và mỗi sinh viên tốn học phí khoảng 1 triệu rưởi, hoạc hai triệu đồngViệt Nam, nghĩa là gần băng một năm lương của một ông bà giáo (5)




Sau 1975, dân tă vẫn thích học Anh van, nhất là nhửng gia đình chuẩn bị ra đi bằng đừơng biển hoặc đường hàng không.Khắp nuớc không đâu dạy Anh văn,ngoại trừ Sài thành hoă lệ. Người ta đã tính dẹp trường Đại học Văn Khoa sau khi đã đóng cửa đại học luật khoa, sau sát nhập đại học Văn khoa với đại học Khoa học thành đại học tổ ng hợp. Người ta lại muốn dẹp đại học tổ ng hợp Saigon nhưng rôt cuộc đi đến chủ trương trung dung : vẫn duy trì đặi học tổ ng hợp nhưng giảm sĩ số mỗi lớp, ban Văn lấy khoảng 15 người,ban Anh van khoảng 5 người, ban Nga văn là mở lớn cho chương trình Nga hoá,thay Anh văn. Nhưng không ai thích Nga văn,kể cả gia đình cộng sản. Sự ngan chận càng mạnh, nhu cầu Anh văn lại càng cao. Người ta nhờ thầy đến nhà dạy kèm,và các thầy cũng mở lớp dạy tại nhà,năm muời người một lớp cho công an khỏi để ý. Đến khoảng 1985, nhà nước bát chước Trung quốc mở cửa đầu tư cho nên phong trào học Anh văn bùng nổ kháp nơi. Người ta mở trung tâm dạy Anh Văn, Trung tâm vi tính (computer),cho nên các trường đại học đều mở nhửng trung tâm này đủ mọi trình độ vào ban đêm để kinh doanh. Các kỹ sư muốn kiếm dược việc làm phải học thêm Anh văn và vi tính để cầu mong được làm việc với các công ty Anh, Mỹ.Và thời này,bậc thang giá trị được thay đổ i như sau : “ Nhất Anh, nhì Tin (học),tam Kinh (tế),Tứ Luật “



Đây cũng là lúc cho nhửng người nhìn xa thấy rộng chụp thời cơ. Họ xin mở đại học tư. Điệu kiện rất khó khăn như là phải có đoàn thể giới thiệu, phải nộp cho nhà nuớc hàng trăm ngàn,hay hàng triệu đô la. mới được cấp giấy phép....Nếu không là cộng sản hoặc thân cộng sản làm sao được đoàn thể giới thiệu? Giáo dục là một công cuộc đàu tư vô vị lợi, nêu có triệu đô la,không ai dại gì mà quăng tiền qua cửa sổ .Đó chỉ là nhửng cách từ chối khéo mà thôi, bởi vì cộng sản rất sợ sinh viên biểu tình chống đối chế độ ! Có mấy chục danh sách được chấp nhận cho cái ban sáng lập của trường trong đó có trường của Nguyễn Cơ Thạch .Trí thức cũ thì có tiến sĩ Nguyễn văn Ngôn, bác sĩ Ngô Gia Hy(em của Ngô Gia Tự)...cũng ra xin lập trường, nhưng được công nhận hôị đòng sáng lập với việc cấp giấy phép là hai việc khác nhau. Nhửng người này đã tốn tiền,tốn công sức,tốn thì giờ nhưng không biết bao giờ thì họ đạt được ước mong ?



Trong khoảng 1993,tại Hà nội có đại học Thăng Long và tại Sài gon có đại học mở rộng là đụợc giấy phép hoạt động bởi vì họ có thế lớn và có nhửng xão kế . Nhiều người thấy khó qúa, đành mượn tên đại học Tòng Hợp Sàigon, đại học sinh ngử Hà Nội để làm ăn và chia chác cùng nhau.




Một sự bùng nổ khác đó là việc mở rộng cánh cửa đại học tại chức.Học tại chức nghĩa là vưà làm việc vừa đi học,nhưng nhửng sinh viên xa trường thì làm thế nào ? Do đó,ngày nay, các trung tâm đào tạo tại chức ở các tỉnh đến các trường đại học ký kết giao kèo, trường đại học lãnh thầu rồi gửi cán bộ tới địa phương dặy học. Giá biểu xê dịch từ 15 đến 30 ngàn một tiết(45 phút).


Cuối học kỳ hoặc cuối niên khoá,trung tâm thanh toán tiên thù lao cho trường, thí dụ trung tâm trả mỗi giờ 20 ngàn nhưng cán bộ giảng dạy chỉ được khoảng 10 hay 15 ngàn, số còn lại do trung gian ngồi không hưởng lợi. Mỗi giáo sư đến các tỉnh một tuần hay vài ngày thì về Sàigon hoặc Hà Nội, tuân sau hoặc tháng sau có giáo sư đến, các viên chức đîa phương lại cáp sách đến trường...Trước 1975, Viện Đại học Sàigon phải chi viện cho các viện đại học Huế, Càn thơ, Đà lạt,Vạn Hạnh,Cao Đài,Hoà Hảo. Minh Đức... đã thấy mệt, huống hồ nay mỗi tỉnh đều có mở trung tâm tại chức!Dẫu sao nhửng đại học cũ cũng có một số giáo sư tại chỗ, còn đây hầu hết là nhân viên điều hành . Giáo sư mệt mỏi,học viên học ôm đòm , chớp nhoáng,học cẩu thả và lại lón tuổ i,bận công vụ cho nên thành quả chảng được là bao! Tãt cả chỉ là hình thức chủ nghĩa, chẳng ích lợi cho đãt nước, trước sau vẫn là cái học chuyên tu,cái học tại chức, chẳng có giá trị. Lại nửa, ở đây vẩn là dạy sinh ngử, vi tính, dạy về văn hoá cho cán bộ văn hoá thông tin, dạy kế toán, thương mại cho cán bộ kinh tế... Còn nhửng môn như hoá học,kỹ nghệ....thì không chú trọng.
*
* *
Tuổ i trè Việt Nam rất chăm học. Mỗi đêm đi qua sân trường đai học, hoặc đứng trên sân thượng nhìn xuồng các trung tâm sinh ngử, thấy học sinh vào ra tấp nập,thấy xe đạp, xe gắn máy để hàng hàng, lòng tôi cảm thấy bâng khuâng và xót xa ! Phải có một chế độ dân chủ,phải có nhửng con người thông minh,tài gỉỏi ,yêu nước, thương dân thì mói đem lại tự do,dân chủ và hạnh phúc thực sự cho nhân dân Việt Nam. Khi đó,mái gia đình cũng như mái học đường mới trở thành thiên đường của tuổ i trẻ.Và có như vậy mới nói đến việc xây đãt nứơc giàu mạnh.





_

Chú thích:
(1) Hộ khẩu; mỗi gia đình cư ngụ hợp pháp,được công an cấp cho bản hộ khẩu,ghi tên tuổ i và số người trong gia đình.Mua gạo,lãnh tiền,làm giá thú, xin sao lục giấy tờ,..phải mang theo hộ khầu.Đi học xa, đi làm xa, đi tù... thì bị xóa tên trong hộ khẩu,đến nơi mới lại xin vào hộ khẩu.
(2) Anh chị nuôi ; người lo việc cơm nước ( cán bộ cấp dưởng )
(3) Tại miền Bắc,trước 1954,tiểu và trung học có 9 cấp lớp, sau 1954 có 10 cấp lớp , đến 1985 mới theo hệ 12 năm như ở miền Nam.
(4) Cao đẳng : Thời Pháp thuộc, nước ta chỉ có cấp cao đảng ở Hà Nội, ai muốn học đại học phải sang Pháp du học. Khoảng 1945, một vài trường ở Hà nội đã mở đến cấp đại học.
(5) Hiện nay lương giáo viên trung học khoảng 250 ngàn đến 300 ngàn một tháng, tương đương 25 đến 30 dô la Canada.

CHÍNH SÁCH VĂN HÓA CỘNG SẢN

V. CHÍNH SÁCH VĂN HÓA CỘNG SẢN

===

Người dân sống dưới chế độ cộng sản thì mất hết mọi thứ tự do và về văn hóa, cộng sản ra tay kiểm soát nghiêm ngặt. Báo chí luôn luôn ở trong tay nhà nước và đảng. Đảng kiểm soát tư tưởng con người văn nghệ sĩ. Tất cả, họ theo đường lối chung của phe cộng sản quốc tế. Trước khi đi sâu vào đường lối cộng sản Việt Nam, chúng ta nên tìm hiểu chủ trương của cộng sản quốc tế.




Tuyên ngôn của đảng cộng sản đã nói về đường lối văn hóa của đảng. Marx nói đến nhiều loại chủ nghĩa xã hội: chủ nghĩa xã hội phong kiến, chủ nghĩa xã hội tư sản , chủ nghĩa xã hội Đức. Marx chỉ trích các chủ nghĩa xã hội không thuộc cộng sản là phản động mà khen chủ nghĩa xã hội Đức. Quan trọng nhất là ông đã chỉ trích chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán và chủ nghĩa cộng sản không tưởng phê phán. Ông chê họ là không tham gia hoạt động chính trị, nhất là tham gia cách mạng, họ muốn tranh đãu bằng con đường hòa bình.



Ông chê họ không tưởng nhưng thực tế họ cũng như ông là viễn vông, không tưởng. Tuy nhiên ông đã khen họ là biết tranh đãu cho vô sản, đả kích mọi trật tự , khuôn mẫu cũ đang tồn tại, ca tụng giai cấp vô sản, ca tụng việc bãi bỏ sự phân biệt thôn quê, thành thị, ủng hộ việc hủy bỏ gia đình, chống đối việc duy trì làm ăn cá thể và tư nhân. ( They attack every principle of exisflng society. Hence they are full of the most valuable materials for the enlightenment of the working class. The practical measures proposed in them - such as the abolition of the distinction between town and country, of the family, of the carrying on of industries for the account of private, individuals).




Về mục này, Marx nói rất mơ hồ, không đưa ra một phương châm , đường hướng nào cả, mà chỉ là những lời chỉ trích vu vơ. Tuy nhiên, xuyên qua những ý tưởng trên, chúng ta thấy Marx muốn những người cộng sản cần thực hiện những điểm sau:
- phải hoạt động chính trị, nghĩa là phải theo đảng.
- phải tranh đãu tích cực, bằng chủ trương sắt máu chứ không phải bằng con đường hòa bình.
- phải bênh vực giai cấp vô sản, chống lại mọi quan niệm, mọi trật tự và khuôn mẫu cũ đang tồn tại, ca tụng giai cấp vô sản, chú trọng việc bãi bỏ sự phân biệt thôn quê, thành thị, ủng hộ việc hủy bỏ gia đình, chống đối việc duy trì làm ăn cá thể và tư nhân.
Sau này, những người theo Marx đặt ra đuờng lối hiện thực xã hội chủ nghĩa. Họ bắt mọi nhà văn, nhà thơ phải ca tụng chế độ, ca tụng giai cấp vô sản và ca tụng đảng Cộng Sản, họ đã coi văn học nghệ thuật như là vũ khí của đảng, là tay sai của chính trị. Khởi đầu là Hans Robert Jauss với bài Idealist Embarrassment trên New Literary History ,và Trotsky trên Literature and Revolution (1924). Ý niệm hiện thực xã hội ( socialist realism) đánh dấu một giai đoạn phát triển học thuyết Marx về văn học và văn chương, nghệ thuật. Quan điểm hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi văn nghệ sĩ phải theo đảng cộng sản, phải phục vụ chính nghĩa của giai cấp vô sản. Văn chương phải có tính chất tiến bộ, phải trình bày những tư tưởng tiến bộ về xã hội. Văn chương phải có hình thức hiện thực và lạc quan và được quần chúng ưa thích. Sau, một lý thuyết gia người Hung Gia Lợi, tên là Georg Lukás ( 1885-1971) đưa ra lý thuyết “ phản ánh” ( reflection), cho rằng văn chương phản ánh những hệ thống đang dần dần mở ra. Theo ông, tiểu thuyết trình bày những khuôn mẫu của nền tảng xã hội, và cung cấp cho chúng ta những ý nghĩa của toàn bộ hiện hữu đầy mâu thuẫn và căng thẳng. Giống như các phê bình gia Marxist, ông chú trọng nội dung hơn là hình thức văn chương cho nên ông chỉ trích kịch liệt những phê bình gia chú trọng về hình thức tác phẩm. Tuy nhiên, những lý thuyết gia của Tân phái ( Modernism) thuộc cộng sản như Brecht, Theodor Ardorno, Max Horkheimer, Herbert Macuss thì cho rằng Lukás đã thất bại và họ phủ nhận thuyết hiện thực.




Trường phái Frankfurt về Mỹ học Marxist đã kết hợp với viện Nghiên Cứu Xã Hội thành lập năm 1923 và viện Đại học Frankfurt. Khi Đức quốc xã tung hoành thì nhóm này chạy sang Mỹ vào năm 1933, và họ trở lại Frankfurt năm 1949-1950. Nhóm này gồm có Theodor Ardorno, Max Horkheimer, Herbert Macuss cho rằng văn chương không có liên hệ gì đến hiện thực. Kiến thức về hiện thực chỉ có tích cách cá nhân và không rõ rệt. Nghệ thuật là kiến thức âm tính đối với thế giới thực ( Art is the negative knowledge of the actual world).




Thuyết Hiện thực xã hội chủ nghĩa và thuyết phản ánh đi đôi với nhau. Trường phái Frankfurt đã phê bình thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa. Theo thiển kiến, có hai điểm về thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa.




Trước hết, tác phẩm ra đời là do ý thức của tác giả. Nếu tác giả nhắm vào thế giới bên ngoài, nhắm vào xã hội trưóc mắt thì tác phẩm đó phản ánh xã hội. Tuy nhiên phản ánh trung thực ít nhiều hay sai lệch lại do nhận thức và tài năng của tác giả. Thí dụ tác phẩm của Charles Dicken là phản ánh xã hội nước Anh ở giai đoạn bột phát kỹ nghệ; tác phẩm của Geoffrey Chaucer phản ánh thực trạng giáo hội ở thời trung cổ. Nhưng một khi tác giả dùng trí tưởng tượng, hoàn toàn tách rời thực tế như các chuyện phiêu lưu của Jules Verne, chuyện ma quái Frankenstein của Mary Shelley và các truyện của Alfred Hitchcock, thì ở loại này không thể kết luận là phản ánh thực tại.



Hơn nữa, một khi thực tại đã đi qua trí óc ta, chủ quan ta sẽ lựa chọn và thay đổi, cho nên thực tại không còn trung thực. Người văn nghệ sĩ không những phải thực hiện tính đảng trong tác phẩm mà ngay cả trong đời sống. Người công chức quốc gia hết việc ở sở thì về nhà với vợ con, còn người văn nghệ sĩ cộng sản phải làm nhiều việc xã hội do đảng chủ trương để tỏ ra mình tích cực như là tích cực làm đẹp thành phố, tham gia đánh nhóm Nhân Văn, Giai Phẩm, tham gia đãu tố, xung phong tòng quân, rình rập nhà ai có sơ hở thì tố cáo.. . Từ Liên Xô, Trung quốc cho đến Việt Nam, giới văn nghệ luôn bị kìm kẹp, khủng bố vì đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa này.. nó làm cho văn nghệ sĩ phải quỳ lụy đảng dù đảng ngu dốt, phải hoan hô đảng dù đảng sai lầm, phải ca ngợi đảng dù đảng phản dân hại nước. Sự kìm kẹp của đảng làm cho văn học, nghệ thuật thui chột, hoặc là trở thành những món hàng mạo hóa.




Vì ảnh hưởng chủ nghĩa Marx, một số nhà văn đã phổ biến tư tưởng Marx và đường lối văn học của chủ nghĩa Marx như
-Trương Tửu với Kinh Thi Việt Nam, Nguyễn Du với Truyện Kiều và Văn Chương Truyện Kiều
- Hải Triều, tên thật Nguyễn Khoa Văn, viết Duy Tâm hay Duy Vật, Chủ Nghĩa Mác Phổ Thông.
- Đặng Thái Mai với Văn Học Khái Luận.
- Trường Chinh với bản Chủ Nghĩa Mac và vấn đề văn hóa Việt Nam đọc tháng 7-1948 tại hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai .
Quan trọng nhất là Đề cương văn hóa của đảng cộng sản Đông Dương ra đời năm 1943 nêu ra những đuờng lối và chính sách văn hóa cộng sản. Đề cương này nêu ba điểm chính:
- Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
- Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa.
- Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Chữ văn hóa ở đây phải hiểu là văn hóa cộng sản, là văn hóa xã hội chủ nghĩa, là thứ văn hóa độc tài, sắt máu của Liên Xô. Cách mạng Việt Nam là cách mạng theo kiểu cộng sản ,có mục đích tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.




Năm 1944, trung ương Đảng triệu tập một số văn nghệ sĩ cộng sản và thân cộng để thảo luận đề cương này. Những người này đã ở trong hội Văn Hóa Cứu Quốc của Cộng sản thành lập trước đó không lâu. Tham dự hội nghị này có Như Phong, Vũ Quốc Uy, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Trần Huyền Trân, Thép Mới, Học Phi, Nguyễn Công Mỹ, Lưu Văn Lợi. . .Tiếp theo đó, hội Văn Hóa Cứu Quốc tổ chức nhiều buổi nói chuyện để phổ biến Đề Cương Văn Hóa của đảng và văn thơ cách mạng. Nhiều diễn giả như Nguyễn Đình Thi, Đặng Ngọc Tốt, Dương Đức Hiền đã xuất hiện tại trường đại học. Năm 1944, Trường Chinh trong bài Mấy Nguyên Tắc Lớn ca Cuộc Vận Động Văn Hóa Việt Nam kết án văn học Việt Nam thời đó - văn học hợp pháp và văn học bất hợp pháp - đều mắc ba thứ bệnh: phản dân tộc, phản khoa học và phản đại chúng. Lúc này, cuộc nội chiến giữa các phe cộng sản cũng ác liệt vì cả hai đều là những kẻ vô sản và cực đoan.





Cũng trong bài trên, Trường Chinh kết tội nhóm Hàn Thuyên gồm Trương Tửu, Hồ Hữu Tường, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tế Mỹ là những tên “ tơ-rốt-kýt nguy hiểm”. Ông viết:
''Họ chẳng đem thuyết duy vật tầm thường, duy vật máy móc, thay cho thuyết duy vật biện chứng đó sao? Họ không đi lốt duy vật biện chứng để xuyên tạc thuyết duy vật biện chứng của Marx đó sao? Họ tự nhận không dám bênh vực quyền lợi văn hóa cốt yếu của đại chúng. Chúng tôi muốn nói họ không đủ tư cách và năng lực chống- dù chỉ chống một cách gián tiếp và kín đáo- những thủ đoạn tuyên truyền của viện văn hóa Nhật hay của nhà xuất bản A-lec-xăng đờ rốt (Alexandre de Rhodes). Họ coi thường khẩu hiệu dân tộc hóa đến nỗi dám gắn chiêu bài “ duy vật sử quan” để chế biến lịch sử dân tộc Việt Nam và do đó bôi nhọ thuyết duy vật sử quan ( coi cuốn Hai Bà Trưng Khởi Nghĩa của Nguyễn Tế Mỹ, Hàn Thuyên xuất bản năm 1944). Đáng lẽ phải tập trung mọi lực lượng văn hóa Việt Nam thành một mặt trận văn hóa đặng chống lại văn hóa ngu dân, văn hóa thoái bộ và trung cổ của bọn phát xít, chống thủ đoạn xâm lấn nguy hiểm của văn hóa Nhật, thì họ lại chia rẽ mặt trận văn hóa của dân tộc ta và bởi thế họ đã vô tình hay cố ý làm lợi cho lũ giặc nước. Thật thế, tại sao họ đi chỉa ngọn lửa đãu tranh văn hóa vào các nhà văn hóa dân tộc( Tri Tân, Thanh Nghị) trong khi quyền lợi sinh tử của dân tộc bắt liên minh thân thiện với các nhà văn hóa ấy đặng chỉa ngọn lửa đãu tranh văn hóa vào phát xít Nhật- Pháp? Cái chiêu bài “ Tân Văn Hóa” của nhà Hàn Thuyên, ở đãy một số Tơ-rốt-kýt đang hoành hành chẳng đáng ngờ lắm sao? ''
Trường Chinh đã lên tiếng chống đối việc Âu hóa và Nhật hóa :
''Bao nhiêu tinh hoa của nền văn hóa vốn có của đất nước, người ta không thèm tìm tòi, vun bón và phát triển, lại lấy việc Âu hóa hay Nhật hóa làm vinh, nếu không theo một cách mê muội .''




Nhiều người lúc này không hiểu cộng sản thì cho rằng Đặng Xuân Khu là kẻ yêu nước, có tinh thần bài ngoại, nhưng Trường Chinh cũng như những người cộng sản khác họ cũng là một thứ vong bản, họ tranh đãu không vì dân tộc Việt Nam mà vì quốc tế cộng sản, họ chỉ lợi dụng chính nghĩa dân tộc để phục vụ cho đường lối vô sản chuyên chính, phục vụ chủ nghĩa Mác-Lê.



Trường Chinh đã cương quyết chống chủ nghĩa lãng mạn và coi văn chương lãng mạn thuộc văn hóa đồi trụy. Ngày xưa Xuân Diệu viết:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Để tâm hồn ràng buc bởi muôn giây,
Hay chia xẻ bởi trăm tình yêu mến.. . .
Sau 1945, Sóng Hồng tức Trường Chinh chống trả lại:
Nếu thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Để tâm hồn treo ngược trên cành cây
Hay lả lướt đìu hiu cùng ngọn liễu.
Là thi sĩ nghĩa là nhăn với mếu,
Nghĩa là van thượng đế rủ lòng thương,
Hồn bơ vơ, lưu lạc ở muôn phương,
Khóc rả rích như ve sầu tháng hạ.
Nếu thi sĩ nghĩa là dâng tất cả,
Cặp tuyết lê hồi hp trước tình yêu.
Coi linh hồn là mng ảo cao siêu,
Sống đắm đuối vì thương hoa tiếc lệ.
Không! Không đuợc hỡi các nhà văn nghệ.. .



Vẫn chưa đủ, Trường Chinh lại tấn công Xuân Diệu và chủ nghĩa lãng mạn bằng một bài thứ hai với giọng thô bỉ:
Là thi sĩ nghĩa là tru với chó,
Đói nhăn răng và dơ bẩn.. .
Sau này, Trường Chinh, Đặng Thai Mai, Tố Hữu, Trần Độ, đã trở thành những lý thuyết gia hàng đầu của cộng sản Việt Nam.
Tố Hữu cho rằng cuộc tranh đãu tư tưởng và văn hóa là một. Họ theo cộng sản và bắt buộc văn hóa Việt Nam cũng phải là văn hóa cộng sản:
''Tách rời vận động tư tưởng, vân động văn hóa mới sẽ không thế nào hiểu được thục chất của văn học mới, càng không thể nào đánh giá được những thành tựu lớn lao của cuộc vận động văn hóa mới mấy mươi năm qua của đảng ta'' (Học Tập số 1, 1960).





Từ đó về sau, trong những hội nghị của trung ương Đảng và trong những hoàn cảnh đặc biệt, đảng ra các nghị quyết về văn hóa, nghệ thuật. Tuy có nhiều đề cương nhưng thực ra nội dung vẫn giống với Tuyên ngôn của Cộng Sản Quốc Tế. Trên sách báo, đài phát thanh, hay trong các hội nghị, những lãnh tụ hay những cán bộ trung cấp vẫn luôn nói đến dường lối văn hóa của đảng như là kinh nhật tụng cho những kẻ cầm bút.
Năm 1956, nhóm Nhân Văn, Giai Phẩm hô hào tự do sáng tác đã bị Trường Chinh,Tố Hữu, Trần Độ đánh cho tơi tả. Trong đảng cộng sản Việt Nam, có nhiều tay lý luận Mac-xit đã theo đường lối xét lại của Liên Xô chủ trương cởi trói cho văn nghệ. Bắt chước Tố Hữu , những cảnh sát văn nghệ cao cấp thường lên lớp cho các văn nghệ sĩ. Tháng 1 năm 1965, Thành Duy viết trên Tạp chí Văn Học chống lại những người cộng sản khác ý kiến mà họ gọi là bọn xét lại:



''Vấn đề tính đảng có một vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là vấn đề trung tâm của lý luận văn nghệ. Vì vậy, xét cho cùng khi đề cập đến vấn đề lý luận chúng ta đều nhắm bảo vệ nguyên tắc văn học phải có tính đảng, và phải phát triển nguyên tắc đó, thực hiện nguyên tắc đó dưới một hình thức đầy đủ và trọn vẹn như Lê nin đã đề ra; ngược lại, bọn theo chủ nghĩa xét lại, bằng nhiều chiêu bài khác nhau đã lộ rõ ý đồ của họ là nhắm công kích những nguyên tắc tính đảng vô sản trong văn học nghệ thuật. Nhưng để dễ lừa bịp truyền bá những tư tưởng xét lại thường làm ra vẻ cũng » bảo vệ » nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lê nin cũng « đề cao » tính đảng vô sản trong văn nghệ, thực chất đó chỉ là chiếc áo Mac -xit giả hiệu'' ( 27).



Đường lối văn hóa của cộng sản Việt Nam gồm những điểm sau:
- Khi chưa nắm quyền, cộng sản ve vản các văn nghệ sĩ bằng những từ tự do, dân chủ, chỉ trích văn hóa thực dân phát xít, và văn hóa nô dịch để khơi dậy lòng yêu nước. Cũng với mục đích tuyên truyền cho nước Liên Xô ,và chủ nghĩa cộng sản, và nhất là để tranh giành ảnh hưởng, họ thẳng tay trừ diệt bằng mọi cách những ai cản đường họ, trong đó có Tự Lực Văn Đoàn, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đệ Tứ Quốc Tế.
Khi nắm quyền, cộng sản để lộ bộ mặt thật, họ tuyên bố chính sách cộng sản:



- Đường lối vô sản chuyên chính: các nghệ sĩ phải phục tùng đảng, tuân theo mọi chủ trương chính sách của đảng. Cương quyết tiêu diệt những kẻ chống đảng. Phải luôn ca tụng đảng, lãnh tụ và giai cấp công nhân.
- Đảng nắm độc quyền về chính trị, kinh tế cũng như văn hóa giáo dục. Không một cá nhân nào có quyền làm báo và phát hành sách báo.Không một ai có quyền suy nghĩ khác tư tưởng Mác Lê và hành động trái với đuờng lối của lãnh đạo vì đảng và lãnh đạo bao giờ cũng sáng suốt.
- Tích cực chống mọi ý thức hệ cũ, trong đó có khuynh hướng lãng mạn, tư tưởng Nho Phật Lão, và các tư tưởng tư sản Tây phương. Tuyệt đối không dung hòa, thỏa hiệp hoặc đãu tranh hòa bình.
- Văn học nghệ thuật phải phục vụ đảng, phục vụ giai cấp, phục vụ những yêu cầu trước mắt của thực tế như vận động toàn dân tham gia tuần lễ vàng, vận động bầu cử, ca tụng cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ca tụng đãu tố, vận động thanh niên đi lính, vận đông tăng gia sản xuất hay vận đng nông dân vào hợp tác. Các tác phẩm của cộng sản quốc tế như Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy, và các tác phẩm Việt Nam như Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh (?) và Gió Lộng, Việt Bắc của Tố Hữu là những khuôn vàng thước ngọc cho thông tin tuyên truyền và sáng tác thi văn. Để thực hiện mục tiêu này, các văn nghệ sĩ phải tạo ra những anh hùng để kích thích dân chúng và quân đội như Lê Văn Tám, đem mình làm đuốc, Phan Đình Giót đem thân bịt lỗ châu mai. Họ lấy lãnh tụ làm gương mẫu như Hoài Thanh đã viết:
''Lời nói của Bác đơn sơ bình dị mà không khô khan vì nó là lời nói từ thực tế mà ra và gắn liền với thực tế, từ quần chúng mà ra và trở về với quần chúng theo lệ thường của những câu thành ngữ, tục ngữ ca dao ''
Cộng sản có một đường lối khắt khe nghiêm ngặt về văn hóa. Họ tước bỏ quyền tự do ngôn luận, tự do sáng tác của con người. Họ coi khinh cá nhân, tước đoạt mọi quyền lợi, mọi đời sống cá nhân, bắt cá nhân phục vụ cho tập thể cộng sản, trong đó có những tên tư bản đỏ, đã lấy tài sản quốc gia làm của riêng, sống đế vương trong khi quần chúng nghèo khổ. Chủ nghĩa cộng sản nay đã thất bại. Thành trì Sô Viết và Đông Âu đã sụp đổ, các nước cộng sản Việt Nam, Trung Hoa cầu mong từng đồng đô la Mỹ đầu tư cho nền kinh tế suy đồi của họ. Nhưng cộng sản Việt Nam, Trung quốc, Bắc Hàn còn tồn tại, họ vẫn huyênh hoang tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng và bắt dân chúng nhất là bắt giới văn nghệ sĩ phải ca tụng đảng, một đảng cộng sản đang suy thoái và tan rã.
(Trích Lịch sử văn học việt nam của Nguyễn Thiên Thụ )

VĂN HÓA GIÁO DỤC

V. VỀ VĂN HÓA GIÁO DỤC

====



Trong bao nhiêu năm thống trị độc tài, tàn bạo, Cng sản đã theo đường lối Marx Lenine , phá hủy văn hóa dân tộc, thi hành chánh sách ngu dân, bóp chẹt tự do, dân chủ và phát triển. Nay chúng ta phải xây dựng lại một nền văn hóa giáo dục mới, thủ tiêu mọi tàn tích của chủ nghĩa cộng sản hại dân hại nước. như là chủ trương đảng và nhà nước nắm độc quyền văn hóa, giáo dục, chủ trương vô sản chuyên chính, và quan niệm hồng hơn chuyên. Mục tiêu của chúng ta là tự do, dân chủ và phát triển. Chúng ta phát huy văn hóa dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại để làm giàu cho văn hóa,giáo dục của chúng ta.




I. VĂN HÓA :
1.Cộng sản đã phá hủy đền đài, lăng miếu và các di tích lịch sử, chúng ta phải bảo vệ , trùng tu những công trình có giá trị của tiền nhân.
2.Cộng sản đã đốt phá sách, tài liệu văn hóa cũ, chúng gọi văn hoá không cộng sản là văn hóa đồi trụy, nô dịch, nay chúng ta phải sưu tập, bảo quản và phục hồi các tác phẩm có giá trị của tiền nhân .
3. Cộng sản đã xuyên tạc các giá trị cổ truyền, chúng ta phải đề cao, bảo vệ các tư tưởng, phong tục và truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta.
4.Cộng sản đã kìm kẹp nhân dân ta, không cho nhân dân được tự do phát triển. Chúng khủng bố các giáo sư, các văn nghệ sĩ, các thành phần trí thức. Chúng bắt văn học, nghệ thuật, giáo dục làm nô lệ, làm công cụ tuyên truyền, Chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa tốt đẹp, trong đó nhân dân dược mọi thứ tư do, dân chủ và bình đẳng như là tư do ngôn luận, tư do báo chí, tư do tín ngưỡng.. ., như các nhân dân tiến bộ trên thế giới.




II. GIÁO DUC
1. Thủ tiêu đường lối giáo dục độc tài, ngu dốt và thiển cận của cộng sản. Cộng sản nắm độc quyền giáo dục, Chúng ta chủ trương giáo dục toàn dân, trong đó tư nhân cùng nhà nước góp sức xây dựng một nền giáo dục tự do, dân chủ,.

2. Cộng sản chủ trương vô sản chuyên chính, chúng ta chủ trương giáo dục tự do, dân chủ, và bình đẳng khiến cho mọi người, mọi thành phần không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, sắc tộc..đều có thể học tập để tiến bộ, đóng góp vào nền dân chủ và thịnh vượng của quốc gia.


3.Cộng sản chủ trương giáo dục ngu dân. Chúng xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thực, lấy những lời hô hào của lãnh tụ làm giáo khoa, lấy học sinh, sinh viên dốt theo chủ trưong hồng hơn chuyên và vô sản chuyên chính đã làm cho giáo dục ngày càng sa sút kéo theo sự lụn bại về khoa học,kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.. .Chúng ta chủ trương giáo dục toàn diện, mục đích đào tạo những con dân tài đức song toàn, đầy đủ đức dục, trí dục, thể dục dể phục vụ đất nước hữu hiệu.

VI. NHI ĐỒNG CA

VI. NHI ĐỒNG CA

===




Nhi đồng ca là loại âm nhạc dành cho trẻ con ,ngày xưa người ta gọi là đồng dao.Nhưng chúng tôi không nói đến thứ nhi đồng ca chính thức như các bài ' Nếu hỏi rằng em yêu ai ..' Bóng trăng trăng ngà'...


Ở đây, chúng tôi muốn nói đến thứ âm nhạc do trẻ con ' đổi lời các bản nhạc thành một thứ nhi đồng ca đã đưọc đông đảo thiếu nhi và người lớn ưa thích.
Trước và sau 1975, đã có một số nhi đồng ca theo loại này phát triển khắp đãt nước Việt Nam.
Đặc tính của loại này là hài hước, nó thể hiện tinh thần trào phúng cao độ của trẻ con Việt Nam, đồng thời nó cũng phản chiếu hoàn cảnh lịch sử và xã hội Việt Nam.



Có lẽ Đăng Đàn cung là bản nhạc đàu tiên có lời.Đây là bản quốc ca Việt Nam dưới triều Nguyễn, được phổ theo cổ nhạc.Thường thì người ta tấu nhạc mà chẳng bao giờ hát lời.Thủa nhỏ, chúng tôi đã được dạy hát ở lớp tiểu học :
Kìa non nước đẹp thắm muôn màu...
Chúc thánh thượng vô cương...
Bởi vì đây là bản cổ nhạc, thường được tấu bàng bát âm cho nên nghe rất buồn, người không thích cổ nhạc thì nghe như kèn đám ma, cho nên trẻ con đã chế tác lời mới :
Chè, xôi, chuối để cúng ông bà...



Khoảng 1945, bài Tiến quân ca của Văn Cao ra đời, khởi đàu bằng câu
Đoàn quân Việt Nam đi chung lòng cứu quốc
đã được nhiều người biết đến. Lúc này,quân Tuởng Giới Thạch sang Việt Nam giải giói quân đội Nhật đã đem lại một hình ảnh xấu. Họ kéo từng đàn rách rưới, mang theo cả thê nhi. Họ mang từng bao tiền quan kim vào ăn phở, ăn một lần 8, 9 bát phở rồi lăn đùng ra chết.Vì vậy, thiếu nhi Việt Nam đã hát như sau :
Đoàn quân Tàu Ô đi sao mà ốm đói ?



Sau quân Tàu về nước, Việt Minh lên, quân đội Việt Minh lại cũng là một thứ ốm đói. Trong khi các quan cọng sản được ăn riêng, tiêu chuẩn cao ,đại đa số binh sĩ thiếu thốn,mặt xanh nanh vàng,phải nhờ gia đình tiếp tế . Do vậy, thiếu nhi đã hát :
Đoàn quân Việt Minh đi sao mà ốm thế ?



Tại Sàigon, khoảng 1960, bài Gạo trắng trăng thanh đuợc nhiều nngừơi ưa thích.Và lúc này tại Sài gòn nhiều phụ nử yêu thích loại y phục bằng nylon vì rẻ,nhẹ tuy hơi mỏng. Do đó, trẻ con khắp nơi đã hát :
Ai đi trên cầu Bông,
Rớt xuống sông
Ướt cái quần ny - lông ?
Vô đây em
Chờ quần khô
Anh sẽ đưa em về...



Và cũng lúc này,tại Sàigon,nhiều cô cậu thất tình đã uống thuốc chuột quyên sinh, trẻ con Sàigon đã đổi bài Duyên kiếp :
Em ơi nếu mộng không thành thì sao ?
Non cao đãt rộng biết đâu mà tìm ?
thành lời ca mới :
Anh ơi,néu mộng không thành thì sao ?
Mua chai thuốc chuột uống vô rồi đời !
Cũng trong thời gian này, trẻ con Việt Nam say mê phim cô-bồi,phim Tarzan cho nên chúng đã đổi lời bài Au Revoir :
Ò e ! Ma le đánh đu, tarzan nhảy dù,
Zoro bắn súng ! Chết cha, con ma nào đây,
Tarzan nhảy dù, thằn lằn cụt đuôi !




Sau 1975,phong trào đồng dao càng lên cao . Nhửng bất mãn về chế độ chính trị đã làm cho thiếu nhi Miền Nam căm thù cộng sàn. Tuy còn nhỏ, nhưng thiếu nhi Việt Nam đã hiểu được cộng sản. Vì cộng sản mà cha mẹ thiếu nhi bị ở tù, vì cộng sản mà các em không có cơm ăm,áo mặc,không được cắp sách đến trường .Trong khi cha mẹ các em phải' bán đồ ăn '(1) thì các em phải đi moi thùng rác, phải đi đào rác Mỹ (2),và sau này thì đi bán vé xổ số (3).Các em đã nhìn chế độ và các ông cán bộ nón cối dép râu bằng đôi mắt không thiện cảm.



Bái ca của Giải phóng Miền Nam khởi đàu bằng câu :
Giải phóng Miền Nam,chúng ta cùng quyết tiến bước
đã biến thể thành một bài ca Thức ăn miền Nam :
Hủ tiếu bò kho, Bánh canh ,Phở tái . cháo huyết
Một dĩa bánh cuốn,Bún riêu,và chén bún ốc.
Tôm cua chiên.Tiết canh.Lòng bò xào.Cháo gà.
Cãm tấm hay ba tê Bánh mì.
Đây chuối chiên,Bì bún,đây thịt heo chiên bơ,
Măng cụt, sầu riêng ,chôm chôm hay chuối chà.
Ăn trái cây xong rồi thì uống nưóc trà...
Cà phê, cô ca, cùng,chanh, đá đường. Cà rem,soda, trà thơm, mát lòng. Sửa nóng uống với trứng gà.
Mình đã uống hết rồi, giờ đây đem thuốc ra hút.
Dùng thuốc có thuốc lào,bình dân hút Basto, cỏn sang hơn nửa Capstan, Con Mèo...




Trong khi cộng sản ca tụng Hồ chí Minh, các em thiếu nhi lại nhìn Hồ chí Minh bằng một cặp mắt khác.
Cộng sản bắt các em luôn Ca tụng Hô chí Minh như các bài Ai Yêu Bác Hồ Chí Minh ( Ai yêu bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đòng ) , thì trẻ con hát :
Ai yêu bún bò, bún riêu, hơn chúng em nhi đồng...



Ai yêu bánh bò, bánh tiêu hơn chúng em nhi đồng !
Cọng sản bắt các em hát bài Em Mơ Gặp Bác H- ( Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ )
Nhưng các em lại chế tác một lời ca khác theo trí tưởng tượng của các em :
Đêm qua em mơ gặp bác Hồ
Chân bác dài,bác đạp xich lô.
Em thấy bác, em đi xe khác.
Bác bảo rằng : Đừng chê xe bác nghe con !

Đêm qua em mơ gặp bác Hồ,
Chân bác dài bác đạp xich lô
Em kêu bác,em hỏi giá bác,
Bác mỉm cười, bác nói năm trăm !



Phạm Quỳnh bị cộng sản giết nhưng Phạm Tuyên,con Phạm Quỳnh lại cúc cung tận tuỵ phục vụ đảng. Y đã đüa hết tài nghệ để viết bài Như có bác H- trong ngày vui đại thắng


Và trẻ con Việt Nam lại chế riểu thần tượng với lời ca mới :
Như có bác Hồ trong nhà thương Chợ Quán,
Vừa bước ra bị xe cán u đàu
Bài Tình Đất Đỏ Miền Đông là một bài thường đưọc ca hát trên đài.
Tổ quốc ơi ,ta yêu người mãi mãi,
Từ trận thắng hôm nay, ta xây dựng bằng mười !




Lúc này, lần đàu tiên trong lịch sử Miền Nam, dân chúng bị ép phải ăn khoai sắn thay cơm. Miền Nam là vựa lúa .Nếu thời chiến tranh, cọng sản không phá hoại thì dân Miền Nam vẫn tiếp tục xuất cảng gạo. Thế mà cộng sản lại bắt dân ăn khoai sắn thay cơm. Trẻ con đã lấy bài Tình đãt đỏ miền đông mà diễn tả tâm tư, tình cảm của mình
Tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá,
Từ Giải phóng vô đây, ăn khoai mì dài dài.



Dân chúng miền Nam có lẽ trăm năm về sau cũng không quên được hình ảnh người lính cụ H- đội nón cối, đi dép râu,đi nghêng ngang khắp phố phường, chợ búa,vai mang nặng đủ thứ hàng hóa.Anh nào cũng kè kè cái radio bên nách, mà trên vai là đồ phụ tùng xe đạp.Bởi thế, các em nhi đồng Sàigon đã nhại theo bài Giải Phóng quân
Đoàn giải phóng quân một lần ra di,
Lòng có mong chi mong ngày trở về !


Mà đặt một lới ca thứ hai rất hợp tình ,hợp cảnh :
Đoàn Giải phóng quân mặc quần kaki,
Mặc áo hippy đi chợ Sàigòn.
Mua chi,mua chi, mua quần xi líp,
Mua chi,mua chi,mua áo hippy.
Mày mua cái đó để mày làm gì ?
Mày mua cái đó để mày làm gì ?
Mày bán cho ai ?




Xã hội Việt Nam trong chế độ cộng sản đã suy đồi về tinh thần lẫn vật chất. Tuyệt đại đa số cán bộ đều tham nhũng . Chế độ nào cũng có người tham nhũng nhưng ở các chế độ khác là thiểu số, là hiếm hoi,còn ở chế độ cộng sản Việt Nam tham nhũng là trường kỳ và phổ biến.Ở đâu cũng có hiện tượng lừa đảo,mánh mung. Thiếu nhi Việt Nam đã đổi lời ca Việt Nam bài Love Story (Chuyên tình )
Biết dùng lời rất khó
để mà nói rõ.
Ôi biết nói gì!
chuyện tình lớn quá



thành lời mới, phản ánh tình trạng xã hội hiện nay
Ngày nào trúng mánh, ngày đó huy hoàng.
Ngày nào bể mánh, ngày đó điêu tàn.
Tình trạng lừa đảo như úp hụi,quịt nợ... xảy ra thuờng xuyên. Thiếu nhi đã đặt lời mới cho bản Kiếp đam mê :
Tôi xin người cứ gian dôi,
nhưng xin người đừng rời xa tôi!
như sau :
Tôi xin người cứ gian dối
Nhưng xin người hãy trả tiền tôi.
Năm ba ngàn,người đã nợ tôi,
Sao bao lâu người không nhắc tới.
Tôi xin người cứ gian dối,
Nhưng xin ngừi trả tiền cho tôi !



Tệ nạn gái ôm xảy ra khắp nơi. Khởi đàu ở quán cà phê. Các cô gái ăn mặc khêu gợi,hai,hoạc ba, bốn cô ngồi chung với hai ba anh cán . Họ ngồi bên cạnh hay sà vào lòng khách, để yên cho khách tự do thám hiểm không gian rồi hưởng tiền thủ lao. Thường là sau khi đã thỏa thuận giá cả, các đôi lên xe đến một địa điểm khác, hoặc ngay tại chỗ. Sau cà phê ôm là bia ôm, rồi karaoké ôm...Các em thiếu nhi bây giờ đổi lời bài Người yêu Cô Đơn của Phương Trọng :
Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn
thành lời ca mới :
Đời ta cô đơn nên hai tay bế hai em...

W

Trước tình trạng đồng dao phát triển mãnh liệt như thế, cộng sản đàu nậu ra lệnh cho công an đến từng nhà khủng bố cha mẹ. Từ đó phong trào đòng dao hạ xuống,trẻ con chỉ còn hát nho nhỏ với nhau chứ không hát toáng lên khắp phố phường như trước nửa.
Lớp trẻ con thời 1945 nay đã 60 tuổi,còn lớp trẻ con thời 1975 nay đã 30 tuổi đầu.
Đồng dao ở miền tự do mang tính cách hài hước,vui vẻ, còn đồng dao dưới chế độ cộng sản mang tính chất chính trị cao,nhắm chỉ trich,chống đối chế độ.




________
Chú thích :
(1) Sau 1975,dân ta sạt nghiệp, phải bàn đồ đac trong nhà như bàn,ghế, tủ.. đề mà ăn.
(2) Sau 1975, một nghề mới xuất hiện là đào rác Mỹ để lấy bao nylong,quần áo cũ, chai lọ... đem về bán cho hãng ve chai
(3) Lúc đàu cộng sản chỉ trích chính phủ ta xổ số,họ nói lao động là vinh quang, không chấp nhận tình trạng không lao động mà có tiền .Nhưng khoảng 1980,cộng sản mở xổ số,tỉnh nào củng xổ số,mỗi tuần 1, 2 lần.


***