Saturday, October 24, 2009

CHÍNH SÁCH VĂN HÓA CỘNG SẢN

V. CHÍNH SÁCH VĂN HÓA CỘNG SẢN

===

Người dân sống dưới chế độ cộng sản thì mất hết mọi thứ tự do và về văn hóa, cộng sản ra tay kiểm soát nghiêm ngặt. Báo chí luôn luôn ở trong tay nhà nước và đảng. Đảng kiểm soát tư tưởng con người văn nghệ sĩ. Tất cả, họ theo đường lối chung của phe cộng sản quốc tế. Trước khi đi sâu vào đường lối cộng sản Việt Nam, chúng ta nên tìm hiểu chủ trương của cộng sản quốc tế.




Tuyên ngôn của đảng cộng sản đã nói về đường lối văn hóa của đảng. Marx nói đến nhiều loại chủ nghĩa xã hội: chủ nghĩa xã hội phong kiến, chủ nghĩa xã hội tư sản , chủ nghĩa xã hội Đức. Marx chỉ trích các chủ nghĩa xã hội không thuộc cộng sản là phản động mà khen chủ nghĩa xã hội Đức. Quan trọng nhất là ông đã chỉ trích chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán và chủ nghĩa cộng sản không tưởng phê phán. Ông chê họ là không tham gia hoạt động chính trị, nhất là tham gia cách mạng, họ muốn tranh đãu bằng con đường hòa bình.



Ông chê họ không tưởng nhưng thực tế họ cũng như ông là viễn vông, không tưởng. Tuy nhiên ông đã khen họ là biết tranh đãu cho vô sản, đả kích mọi trật tự , khuôn mẫu cũ đang tồn tại, ca tụng giai cấp vô sản, ca tụng việc bãi bỏ sự phân biệt thôn quê, thành thị, ủng hộ việc hủy bỏ gia đình, chống đối việc duy trì làm ăn cá thể và tư nhân. ( They attack every principle of exisflng society. Hence they are full of the most valuable materials for the enlightenment of the working class. The practical measures proposed in them - such as the abolition of the distinction between town and country, of the family, of the carrying on of industries for the account of private, individuals).




Về mục này, Marx nói rất mơ hồ, không đưa ra một phương châm , đường hướng nào cả, mà chỉ là những lời chỉ trích vu vơ. Tuy nhiên, xuyên qua những ý tưởng trên, chúng ta thấy Marx muốn những người cộng sản cần thực hiện những điểm sau:
- phải hoạt động chính trị, nghĩa là phải theo đảng.
- phải tranh đãu tích cực, bằng chủ trương sắt máu chứ không phải bằng con đường hòa bình.
- phải bênh vực giai cấp vô sản, chống lại mọi quan niệm, mọi trật tự và khuôn mẫu cũ đang tồn tại, ca tụng giai cấp vô sản, chú trọng việc bãi bỏ sự phân biệt thôn quê, thành thị, ủng hộ việc hủy bỏ gia đình, chống đối việc duy trì làm ăn cá thể và tư nhân.
Sau này, những người theo Marx đặt ra đuờng lối hiện thực xã hội chủ nghĩa. Họ bắt mọi nhà văn, nhà thơ phải ca tụng chế độ, ca tụng giai cấp vô sản và ca tụng đảng Cộng Sản, họ đã coi văn học nghệ thuật như là vũ khí của đảng, là tay sai của chính trị. Khởi đầu là Hans Robert Jauss với bài Idealist Embarrassment trên New Literary History ,và Trotsky trên Literature and Revolution (1924). Ý niệm hiện thực xã hội ( socialist realism) đánh dấu một giai đoạn phát triển học thuyết Marx về văn học và văn chương, nghệ thuật. Quan điểm hiện thực xã hội chủ nghĩa đòi hỏi văn nghệ sĩ phải theo đảng cộng sản, phải phục vụ chính nghĩa của giai cấp vô sản. Văn chương phải có tính chất tiến bộ, phải trình bày những tư tưởng tiến bộ về xã hội. Văn chương phải có hình thức hiện thực và lạc quan và được quần chúng ưa thích. Sau, một lý thuyết gia người Hung Gia Lợi, tên là Georg Lukás ( 1885-1971) đưa ra lý thuyết “ phản ánh” ( reflection), cho rằng văn chương phản ánh những hệ thống đang dần dần mở ra. Theo ông, tiểu thuyết trình bày những khuôn mẫu của nền tảng xã hội, và cung cấp cho chúng ta những ý nghĩa của toàn bộ hiện hữu đầy mâu thuẫn và căng thẳng. Giống như các phê bình gia Marxist, ông chú trọng nội dung hơn là hình thức văn chương cho nên ông chỉ trích kịch liệt những phê bình gia chú trọng về hình thức tác phẩm. Tuy nhiên, những lý thuyết gia của Tân phái ( Modernism) thuộc cộng sản như Brecht, Theodor Ardorno, Max Horkheimer, Herbert Macuss thì cho rằng Lukás đã thất bại và họ phủ nhận thuyết hiện thực.




Trường phái Frankfurt về Mỹ học Marxist đã kết hợp với viện Nghiên Cứu Xã Hội thành lập năm 1923 và viện Đại học Frankfurt. Khi Đức quốc xã tung hoành thì nhóm này chạy sang Mỹ vào năm 1933, và họ trở lại Frankfurt năm 1949-1950. Nhóm này gồm có Theodor Ardorno, Max Horkheimer, Herbert Macuss cho rằng văn chương không có liên hệ gì đến hiện thực. Kiến thức về hiện thực chỉ có tích cách cá nhân và không rõ rệt. Nghệ thuật là kiến thức âm tính đối với thế giới thực ( Art is the negative knowledge of the actual world).




Thuyết Hiện thực xã hội chủ nghĩa và thuyết phản ánh đi đôi với nhau. Trường phái Frankfurt đã phê bình thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa. Theo thiển kiến, có hai điểm về thuyết hiện thực xã hội chủ nghĩa.




Trước hết, tác phẩm ra đời là do ý thức của tác giả. Nếu tác giả nhắm vào thế giới bên ngoài, nhắm vào xã hội trưóc mắt thì tác phẩm đó phản ánh xã hội. Tuy nhiên phản ánh trung thực ít nhiều hay sai lệch lại do nhận thức và tài năng của tác giả. Thí dụ tác phẩm của Charles Dicken là phản ánh xã hội nước Anh ở giai đoạn bột phát kỹ nghệ; tác phẩm của Geoffrey Chaucer phản ánh thực trạng giáo hội ở thời trung cổ. Nhưng một khi tác giả dùng trí tưởng tượng, hoàn toàn tách rời thực tế như các chuyện phiêu lưu của Jules Verne, chuyện ma quái Frankenstein của Mary Shelley và các truyện của Alfred Hitchcock, thì ở loại này không thể kết luận là phản ánh thực tại.



Hơn nữa, một khi thực tại đã đi qua trí óc ta, chủ quan ta sẽ lựa chọn và thay đổi, cho nên thực tại không còn trung thực. Người văn nghệ sĩ không những phải thực hiện tính đảng trong tác phẩm mà ngay cả trong đời sống. Người công chức quốc gia hết việc ở sở thì về nhà với vợ con, còn người văn nghệ sĩ cộng sản phải làm nhiều việc xã hội do đảng chủ trương để tỏ ra mình tích cực như là tích cực làm đẹp thành phố, tham gia đánh nhóm Nhân Văn, Giai Phẩm, tham gia đãu tố, xung phong tòng quân, rình rập nhà ai có sơ hở thì tố cáo.. . Từ Liên Xô, Trung quốc cho đến Việt Nam, giới văn nghệ luôn bị kìm kẹp, khủng bố vì đường lối hiện thực xã hội chủ nghĩa này.. nó làm cho văn nghệ sĩ phải quỳ lụy đảng dù đảng ngu dốt, phải hoan hô đảng dù đảng sai lầm, phải ca ngợi đảng dù đảng phản dân hại nước. Sự kìm kẹp của đảng làm cho văn học, nghệ thuật thui chột, hoặc là trở thành những món hàng mạo hóa.




Vì ảnh hưởng chủ nghĩa Marx, một số nhà văn đã phổ biến tư tưởng Marx và đường lối văn học của chủ nghĩa Marx như
-Trương Tửu với Kinh Thi Việt Nam, Nguyễn Du với Truyện Kiều và Văn Chương Truyện Kiều
- Hải Triều, tên thật Nguyễn Khoa Văn, viết Duy Tâm hay Duy Vật, Chủ Nghĩa Mác Phổ Thông.
- Đặng Thái Mai với Văn Học Khái Luận.
- Trường Chinh với bản Chủ Nghĩa Mac và vấn đề văn hóa Việt Nam đọc tháng 7-1948 tại hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai .
Quan trọng nhất là Đề cương văn hóa của đảng cộng sản Đông Dương ra đời năm 1943 nêu ra những đuờng lối và chính sách văn hóa cộng sản. Đề cương này nêu ba điểm chính:
- Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.
- Không phải chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa.
- Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả.
Chữ văn hóa ở đây phải hiểu là văn hóa cộng sản, là văn hóa xã hội chủ nghĩa, là thứ văn hóa độc tài, sắt máu của Liên Xô. Cách mạng Việt Nam là cách mạng theo kiểu cộng sản ,có mục đích tiến lên thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.




Năm 1944, trung ương Đảng triệu tập một số văn nghệ sĩ cộng sản và thân cộng để thảo luận đề cương này. Những người này đã ở trong hội Văn Hóa Cứu Quốc của Cộng sản thành lập trước đó không lâu. Tham dự hội nghị này có Như Phong, Vũ Quốc Uy, Nguyễn Đình Thi, Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Trần Huyền Trân, Thép Mới, Học Phi, Nguyễn Công Mỹ, Lưu Văn Lợi. . .Tiếp theo đó, hội Văn Hóa Cứu Quốc tổ chức nhiều buổi nói chuyện để phổ biến Đề Cương Văn Hóa của đảng và văn thơ cách mạng. Nhiều diễn giả như Nguyễn Đình Thi, Đặng Ngọc Tốt, Dương Đức Hiền đã xuất hiện tại trường đại học. Năm 1944, Trường Chinh trong bài Mấy Nguyên Tắc Lớn ca Cuộc Vận Động Văn Hóa Việt Nam kết án văn học Việt Nam thời đó - văn học hợp pháp và văn học bất hợp pháp - đều mắc ba thứ bệnh: phản dân tộc, phản khoa học và phản đại chúng. Lúc này, cuộc nội chiến giữa các phe cộng sản cũng ác liệt vì cả hai đều là những kẻ vô sản và cực đoan.





Cũng trong bài trên, Trường Chinh kết tội nhóm Hàn Thuyên gồm Trương Tửu, Hồ Hữu Tường, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tế Mỹ là những tên “ tơ-rốt-kýt nguy hiểm”. Ông viết:
''Họ chẳng đem thuyết duy vật tầm thường, duy vật máy móc, thay cho thuyết duy vật biện chứng đó sao? Họ không đi lốt duy vật biện chứng để xuyên tạc thuyết duy vật biện chứng của Marx đó sao? Họ tự nhận không dám bênh vực quyền lợi văn hóa cốt yếu của đại chúng. Chúng tôi muốn nói họ không đủ tư cách và năng lực chống- dù chỉ chống một cách gián tiếp và kín đáo- những thủ đoạn tuyên truyền của viện văn hóa Nhật hay của nhà xuất bản A-lec-xăng đờ rốt (Alexandre de Rhodes). Họ coi thường khẩu hiệu dân tộc hóa đến nỗi dám gắn chiêu bài “ duy vật sử quan” để chế biến lịch sử dân tộc Việt Nam và do đó bôi nhọ thuyết duy vật sử quan ( coi cuốn Hai Bà Trưng Khởi Nghĩa của Nguyễn Tế Mỹ, Hàn Thuyên xuất bản năm 1944). Đáng lẽ phải tập trung mọi lực lượng văn hóa Việt Nam thành một mặt trận văn hóa đặng chống lại văn hóa ngu dân, văn hóa thoái bộ và trung cổ của bọn phát xít, chống thủ đoạn xâm lấn nguy hiểm của văn hóa Nhật, thì họ lại chia rẽ mặt trận văn hóa của dân tộc ta và bởi thế họ đã vô tình hay cố ý làm lợi cho lũ giặc nước. Thật thế, tại sao họ đi chỉa ngọn lửa đãu tranh văn hóa vào các nhà văn hóa dân tộc( Tri Tân, Thanh Nghị) trong khi quyền lợi sinh tử của dân tộc bắt liên minh thân thiện với các nhà văn hóa ấy đặng chỉa ngọn lửa đãu tranh văn hóa vào phát xít Nhật- Pháp? Cái chiêu bài “ Tân Văn Hóa” của nhà Hàn Thuyên, ở đãy một số Tơ-rốt-kýt đang hoành hành chẳng đáng ngờ lắm sao? ''
Trường Chinh đã lên tiếng chống đối việc Âu hóa và Nhật hóa :
''Bao nhiêu tinh hoa của nền văn hóa vốn có của đất nước, người ta không thèm tìm tòi, vun bón và phát triển, lại lấy việc Âu hóa hay Nhật hóa làm vinh, nếu không theo một cách mê muội .''




Nhiều người lúc này không hiểu cộng sản thì cho rằng Đặng Xuân Khu là kẻ yêu nước, có tinh thần bài ngoại, nhưng Trường Chinh cũng như những người cộng sản khác họ cũng là một thứ vong bản, họ tranh đãu không vì dân tộc Việt Nam mà vì quốc tế cộng sản, họ chỉ lợi dụng chính nghĩa dân tộc để phục vụ cho đường lối vô sản chuyên chính, phục vụ chủ nghĩa Mác-Lê.



Trường Chinh đã cương quyết chống chủ nghĩa lãng mạn và coi văn chương lãng mạn thuộc văn hóa đồi trụy. Ngày xưa Xuân Diệu viết:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Để tâm hồn ràng buc bởi muôn giây,
Hay chia xẻ bởi trăm tình yêu mến.. . .
Sau 1945, Sóng Hồng tức Trường Chinh chống trả lại:
Nếu thi sĩ nghĩa là ru với gió,
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây.
Để tâm hồn treo ngược trên cành cây
Hay lả lướt đìu hiu cùng ngọn liễu.
Là thi sĩ nghĩa là nhăn với mếu,
Nghĩa là van thượng đế rủ lòng thương,
Hồn bơ vơ, lưu lạc ở muôn phương,
Khóc rả rích như ve sầu tháng hạ.
Nếu thi sĩ nghĩa là dâng tất cả,
Cặp tuyết lê hồi hp trước tình yêu.
Coi linh hồn là mng ảo cao siêu,
Sống đắm đuối vì thương hoa tiếc lệ.
Không! Không đuợc hỡi các nhà văn nghệ.. .



Vẫn chưa đủ, Trường Chinh lại tấn công Xuân Diệu và chủ nghĩa lãng mạn bằng một bài thứ hai với giọng thô bỉ:
Là thi sĩ nghĩa là tru với chó,
Đói nhăn răng và dơ bẩn.. .
Sau này, Trường Chinh, Đặng Thai Mai, Tố Hữu, Trần Độ, đã trở thành những lý thuyết gia hàng đầu của cộng sản Việt Nam.
Tố Hữu cho rằng cuộc tranh đãu tư tưởng và văn hóa là một. Họ theo cộng sản và bắt buộc văn hóa Việt Nam cũng phải là văn hóa cộng sản:
''Tách rời vận động tư tưởng, vân động văn hóa mới sẽ không thế nào hiểu được thục chất của văn học mới, càng không thể nào đánh giá được những thành tựu lớn lao của cuộc vận động văn hóa mới mấy mươi năm qua của đảng ta'' (Học Tập số 1, 1960).





Từ đó về sau, trong những hội nghị của trung ương Đảng và trong những hoàn cảnh đặc biệt, đảng ra các nghị quyết về văn hóa, nghệ thuật. Tuy có nhiều đề cương nhưng thực ra nội dung vẫn giống với Tuyên ngôn của Cộng Sản Quốc Tế. Trên sách báo, đài phát thanh, hay trong các hội nghị, những lãnh tụ hay những cán bộ trung cấp vẫn luôn nói đến dường lối văn hóa của đảng như là kinh nhật tụng cho những kẻ cầm bút.
Năm 1956, nhóm Nhân Văn, Giai Phẩm hô hào tự do sáng tác đã bị Trường Chinh,Tố Hữu, Trần Độ đánh cho tơi tả. Trong đảng cộng sản Việt Nam, có nhiều tay lý luận Mac-xit đã theo đường lối xét lại của Liên Xô chủ trương cởi trói cho văn nghệ. Bắt chước Tố Hữu , những cảnh sát văn nghệ cao cấp thường lên lớp cho các văn nghệ sĩ. Tháng 1 năm 1965, Thành Duy viết trên Tạp chí Văn Học chống lại những người cộng sản khác ý kiến mà họ gọi là bọn xét lại:



''Vấn đề tính đảng có một vị trí đặc biệt quan trọng. Đó là vấn đề trung tâm của lý luận văn nghệ. Vì vậy, xét cho cùng khi đề cập đến vấn đề lý luận chúng ta đều nhắm bảo vệ nguyên tắc văn học phải có tính đảng, và phải phát triển nguyên tắc đó, thực hiện nguyên tắc đó dưới một hình thức đầy đủ và trọn vẹn như Lê nin đã đề ra; ngược lại, bọn theo chủ nghĩa xét lại, bằng nhiều chiêu bài khác nhau đã lộ rõ ý đồ của họ là nhắm công kích những nguyên tắc tính đảng vô sản trong văn học nghệ thuật. Nhưng để dễ lừa bịp truyền bá những tư tưởng xét lại thường làm ra vẻ cũng » bảo vệ » nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lê nin cũng « đề cao » tính đảng vô sản trong văn nghệ, thực chất đó chỉ là chiếc áo Mac -xit giả hiệu'' ( 27).



Đường lối văn hóa của cộng sản Việt Nam gồm những điểm sau:
- Khi chưa nắm quyền, cộng sản ve vản các văn nghệ sĩ bằng những từ tự do, dân chủ, chỉ trích văn hóa thực dân phát xít, và văn hóa nô dịch để khơi dậy lòng yêu nước. Cũng với mục đích tuyên truyền cho nước Liên Xô ,và chủ nghĩa cộng sản, và nhất là để tranh giành ảnh hưởng, họ thẳng tay trừ diệt bằng mọi cách những ai cản đường họ, trong đó có Tự Lực Văn Đoàn, Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đệ Tứ Quốc Tế.
Khi nắm quyền, cộng sản để lộ bộ mặt thật, họ tuyên bố chính sách cộng sản:



- Đường lối vô sản chuyên chính: các nghệ sĩ phải phục tùng đảng, tuân theo mọi chủ trương chính sách của đảng. Cương quyết tiêu diệt những kẻ chống đảng. Phải luôn ca tụng đảng, lãnh tụ và giai cấp công nhân.
- Đảng nắm độc quyền về chính trị, kinh tế cũng như văn hóa giáo dục. Không một cá nhân nào có quyền làm báo và phát hành sách báo.Không một ai có quyền suy nghĩ khác tư tưởng Mác Lê và hành động trái với đuờng lối của lãnh đạo vì đảng và lãnh đạo bao giờ cũng sáng suốt.
- Tích cực chống mọi ý thức hệ cũ, trong đó có khuynh hướng lãng mạn, tư tưởng Nho Phật Lão, và các tư tưởng tư sản Tây phương. Tuyệt đối không dung hòa, thỏa hiệp hoặc đãu tranh hòa bình.
- Văn học nghệ thuật phải phục vụ đảng, phục vụ giai cấp, phục vụ những yêu cầu trước mắt của thực tế như vận động toàn dân tham gia tuần lễ vàng, vận động bầu cử, ca tụng cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, ca tụng đãu tố, vận động thanh niên đi lính, vận đông tăng gia sản xuất hay vận đng nông dân vào hợp tác. Các tác phẩm của cộng sản quốc tế như Ruồi Trâu, Thép Đã Tôi Thế Đấy, và các tác phẩm Việt Nam như Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh (?) và Gió Lộng, Việt Bắc của Tố Hữu là những khuôn vàng thước ngọc cho thông tin tuyên truyền và sáng tác thi văn. Để thực hiện mục tiêu này, các văn nghệ sĩ phải tạo ra những anh hùng để kích thích dân chúng và quân đội như Lê Văn Tám, đem mình làm đuốc, Phan Đình Giót đem thân bịt lỗ châu mai. Họ lấy lãnh tụ làm gương mẫu như Hoài Thanh đã viết:
''Lời nói của Bác đơn sơ bình dị mà không khô khan vì nó là lời nói từ thực tế mà ra và gắn liền với thực tế, từ quần chúng mà ra và trở về với quần chúng theo lệ thường của những câu thành ngữ, tục ngữ ca dao ''
Cộng sản có một đường lối khắt khe nghiêm ngặt về văn hóa. Họ tước bỏ quyền tự do ngôn luận, tự do sáng tác của con người. Họ coi khinh cá nhân, tước đoạt mọi quyền lợi, mọi đời sống cá nhân, bắt cá nhân phục vụ cho tập thể cộng sản, trong đó có những tên tư bản đỏ, đã lấy tài sản quốc gia làm của riêng, sống đế vương trong khi quần chúng nghèo khổ. Chủ nghĩa cộng sản nay đã thất bại. Thành trì Sô Viết và Đông Âu đã sụp đổ, các nước cộng sản Việt Nam, Trung Hoa cầu mong từng đồng đô la Mỹ đầu tư cho nền kinh tế suy đồi của họ. Nhưng cộng sản Việt Nam, Trung quốc, Bắc Hàn còn tồn tại, họ vẫn huyênh hoang tuyên truyền chủ nghĩa Mác Lê bách chiến bách thắng và bắt dân chúng nhất là bắt giới văn nghệ sĩ phải ca tụng đảng, một đảng cộng sản đang suy thoái và tan rã.
(Trích Lịch sử văn học việt nam của Nguyễn Thiên Thụ )