Showing posts with label SƠN TRUNG * NHÀ TÙ CỘNG SẢN. Show all posts
Showing posts with label SƠN TRUNG * NHÀ TÙ CỘNG SẢN. Show all posts

Tuesday, August 3, 2010

SƠN TRUNG * NHÀ TÙ CỘNG SẢN


SƠN TRUNG


TÀI LIỆU VỀ NHÀ TÙ CỘNG SẢN


GIA HỘI
Canada 2009


Copyright © 2010 by GIA HOI Publisher


Thursday, March 26, 2009

VIETNAMICA

Tuân Nguyễn, số phận trớ trêu của một trí thức
June 4, 2008 by Vietnamica

Nhớ Tuân Nguyễn [NXB Hội Nhà Văn, in năm 2008] là một cuốn sách đáng tìm đọc của năm. Ông là một nhà báo của Đài tiếng nói Việt Nam, với một sự nghiệp văn chương – báo chí thực ra không có gì đáng kể, nhưng suốt 40 năm qua, từ cái ngày phải đi tù vô duyên cớ (1964), Tuân Nguyễn là một cái tên quen thuộc vơi nhiều gia đình trí thức Hà Nội (và với nhiều văn nghệ sĩ gốc Bắc vào sống trong Nam sau 1975). Nhắc đến Tuân Nguyễn, cố giáo sư Cao Xuân Hạo nói: “Khi có ai đó muốn kêu lên ‘Trời ơi sao mà tôi khổ thế?’, thì nhìn vào Tuân Nguyễn sẽ thấy mình chưa phải là người khổ”. Tuân Nguyễn cũng là một trong những người mà Phùng Quán, người có số phận cũng trầm luân không kém, yêu quý nhất (Cuốn sách lần này ra đời cũng có sự góp sức của bà Bội Trâm, vợ ông Phùng Quán).


Vào tháng 10 năm 1964, một năm sau Nghị quyết 9 “chống chủ nghĩa xét lại hiện đại”, Tuân Nguyễn, 31 tuổi, bị bắt sau khi cuốn nhật ký của ông bị ai đó lấy trộm và đem báo cho tổ chức. Từ ngày đó, ông sống trong các trại cải tạo suốt chín năm bảy tháng. Năm 1974, được tha, ông trở về Hà Nội sống lây lất, chủ yếu nhờ vào bạn bè và nhiều việc qua ngày, trong đó có việc đi dọn vệ sinh ở ga Hàng Cỏ. Sau 1975, ông cùng vợ, người kết hôn với ông sau khi ông ra khỏi tù bất chấp phản đối của gia đình, chuyển vào sống ở Sài Gòn cho đến lúc qua đời năm 1983, sau một tai nạn giao thông.


Sự nghiệp viết lách của Tuân Nguyễn không có gì đặc biệt. Nhưng đọc về cuộc đời ông, tôi có rất nhiều cảm giác, xúc động và lạnh người. Hỏi một số bác là bạn hay biết Tuân Nguyễn, tất cả đều nói ông là người quá tốt. Và có thể một lý do khiến nhiều người còn nhớ đến Tuân Nguyễn là vì sự mong manh giữa sống và chết, giữa thành công và hoạn nạn của người dân trong chế độ XHCN, tất cả nằm gọn trong cuộc đời Tuân Nguyễn. Với nhiều trí thức XHCN ở Hà Nội, cụm từ “tai nạn nghề nghiệp” tưởng như được nặn ra từ chính số phận của Tuân Nguyễn.
Posted in review Tagged , , , 11 Comments
11 Responses to “Tuân Nguyễn, số phận trớ trêu của một trí thức”

WIKIPEDIA

Tuan Nguyen. http://en.wikipedia.org/wiki/Tuan_Nguyen

From Wikipedia, the free encyclopedia

Jump to: navigation, search

Tuan Nguyen was born in Saigon, South Vietnam in 1963. Tuan tried to escape Vietnam in 1988, but failed, and witnessed the death of a close friend in the same escape attempt. As a result of his escape attempt, Tuan was put in a reeducation camp by the communist regime. After one year, he managed to escape the camp and fled to the United States.

Tuan received his fine art degree from the Art Institute of Southern California in Laguna Beach, CA.[[Category:[[Category:]]]]

Tuan Nguyen received th Gloria Medal from the National Sculpture Society (New York), a medal designed by Paul Jennewein, awarded to an artist with a meritorious body of work.

Links:

VŨ TỪ TRANG

VŨ TỪ TRANG
vietbao.vn/Van-hoa/Tuan-Nguyen-

Tuân Nguyễn - Phận mỏng...cánh cò Chủ nhật, 14 Tháng mười 2007, 16:55 GMT+7





Tags: Tuân Nguyễn, Phương Thúy, Mỹ Anh, không quan tâm, chắc chắn là, chúng tôi, cải tạo, phận mỏng, nhà thờ, một chút, không có, thơ, biết, cánh, làm

Tôi biết anh khi anh vừa đi cải tạo về. Tôi không quan tâm lắm vì lý do gì anh phải đi cải tạo. Chỉ biết chắc chắn là không phải côn đồ trộm cướp, mà loáng thoáng nghe anh có dính líu một chút về quan điểm nhận thức gì đó.
Tuan Nguyen Phan mong canh co
Nó là dấu tích của căn bệnh giáo điều và ấu trĩ một thời.

Khi gặp anh, tôi thấy anh gầy đến mức tội nghiệp. Dĩ nhiên thời đó xã hội còn khó khăn về miếng ăn miếng uống, nên ít người đỏ da thắm thịt và không nhiều những người đàn ông bụng khệ nệ như ngày nay. Nhưng quả thật gặp anh, ấn tượng mạnh với tôi là anh gầy yếu, xanh xao quá.

Khi ấy Phương Thúy đang chăm bẵm anh. Chăm bẵm cả về vật chất và tinh thần. Vốn là nhà thơ dạy đàn tam thập lục ở Nhạc viện Hà Nội, số phận làm sao run rủi chị đến với anh một cách nồng nhiệt thế? Phải chăng chị đồng cảm và cảm phục được phần nào về phận anh khi đó?

Tôi và mấy người bạn thơ lách người qua một gian nhà nhỏ, rồi qua một ngõ hẹp, vào căn phòng mấy mét vuông nơi trú ngụ của hai con người. Không tủ không giường phản, một cái giát giường trải bệt xuống nền nhà, một tấm vỏ chăn cũ màu cỏ úa đã bạc phủ lên làm ga thay chiếu. Một bếp dầu cháy lụp bụp. Trên bếp dầu là xoong mì sợi đang chín dở cùng mấy miếng cà chua đỏ ối. Đấy là bữa ăn bồi dưỡng quá tốt đối với chúng tôi hồi đó.

Phương Thúy và Tuân Nguyễn vồn vã mời chúng tôi ngồi xuống giường và nhất quyết giữ chúng tôi thưởng thức một chút mỳ sợi nấu cà chua. Không khách sáo, chúng tôi ăn ồn ào và nói chuyện ồn ào. Phương Thúy vừa loay hoay dọn bếp và góp chuyện. Chỉ có Tuân Nguyễn rất ít lời. Sau cặp kính dày cộp, là cặp mắt chăm chú nhìn các bạn. Anh lắng nghe anh em cười nói và đọc thơ.

Chúng tôi ồn ào đọc thơ. Những vần thơ ùng oàng súng đạn, lỉnh kỉnh xà – beng cuốc thuổng và chấp chới mấy vành mũ rơm vàng ươm… Cuộc chiến tranh chống Mỹ căng thăng vừa kết thúc, những vần thơ hầm hập nhiệt tình và thật lòng.

Tuân Nguyễn nhìn say mê và ngơ ngác. Đến khi mọi người yêu cầu đọc thơ, anh cười xòa xin lỗi. Anh chưa có thơ mới để đọc ư? Hay anh đang âm thầm nghĩ suy và trăn trở?

Căn phòng xép ngăn tạm vách cót nho nhỏ ở gần ga Hàng Cỏ mà Tuân Nguyễn và Phương Thúy ở, đêm đêm có thể nghe được tiếng còi tàu hỏa hú thổn thức ngoài sân ga. Đấy là tổ ấm đầu tiên sau bao năm trời anh chịu giá lạnh.

Trong căn phòng nghèo đó, ở bên đống chăn chiếu cũ nát, luôn có cuốn truyện của Đốtx bằng tiếng Nga. Lúc buồn vui nhất, anh vẫn có những câu chữ, những số phận nhân vật của Đốtx trò chuyện và an ủi.

Rồi một thời gian không lâu, đất nước thống nhất. Phương Thúy và Tuân Nguyễn rủ nhau vào Nam trú ngụ. Thành phố Sài Gòn sôi động, rộng lớn và choáng ngợp vẫn dành một chỗ bình yên cho họ. Đấy là căn hộ nghèo ở khu cư xá Thanh Đa xa trung tâm thành phố.

Ngày đó, Thanh Đa là nơi tá túc cho đám văn nghệ sỹ nghèo ngoài Bắc kéo vào. Nào Trần Nguyên Vấn, Thái Vũ, Phan Trác Hiệu, Bùi Quang Ngọc, Huy Lam…

Để tồn tại, Phương Thúy xin đi dạy nhạc và lo chạy chợ xoay xỏa thêm tiền mua rau thịt. “Để anh Tuân yên tâm ngồi dịch sách”, Phương Thúy nói thế. Nhưng Tuân Nguyễn làm sao yên tâm ngồi dịch, khi Thúy còn phải tất tả vậy? Anh đi làm gia sư, mở lớp học nho nhỏ dạy kèm các em học sinh cấp 1, cấp 2. Thầy giáo nghèo, học trò nghèo, nhưng ấm áp tình người.

Đời sống xem ra đã có phần dễ chịu hơn hồi ở ngoài Bắc. Phương Thúy thì hả hê, Tuân Nguyễn thì thấp thoáng cười sau cặp kính dày cộp. Nô-en năm ấy là kỷ niệm không dễ quên.

Chúng tôi gặp nhau ở nhà Tuân Nguyễn và Phương Thúy ăn uống qua loa và đọc thơ. Dạo ấy vẫn còn giữ thói quen hễ gặp nhau là đọc thơ. Rồi chúng tôi kéo nhau về nhà thờ Đức Bà để chứng kiến giờ phút thiêng liêng của Chúa ra đời.

Đi cùng bữa đó, có cô giáo Mỹ Anh người mảnh mai là cháu gọi Tuân Nguyễn bằng cậu. Tôi không rõ theo ngôi thứ họ hàng, hay là gọi theo sự tôn kính cậu giáo? Mỹ Anh ở mãi ngoài Hàm Tân (Phan Thiết) vào, vẫn còn giữ nguyên vẻ trong trẻo rất đáng yêu. Cả lũ lốc nhốc kéo nhau trên mấy cái xe máy nát, mấy cái xe đạp tòng tọc.

Mỹ Anh rất tiểu thư, xin phép cậu mợ Tuân Thúy cho vận áo dài trắng đi nhà thờ. Dù không phải người theo đạo, vậy mà bữa ấy tôi thấy Mỹ Anh như một con chiên trắng trong ngoan đạo vô cùng. Tuân Nguyễn vốn kiệm lời, nhưng bữa ấy niềm vui hiện ra mặt.

Trong lúc chờ giờ Chúa ra đời, cả bọn kéo vào uống cà phê ở một quán nhỏ bên đường cạnh nhà thờ. Tiếng người cười nói, tiếng cầu kinh và tiếng chuông nhà thờ thong thả điểm nhịp vọng tới, làm không khí cuộc gặp gỡ vô cùng ấm áp.

Tuân Nguyễn chợt thốt lên thèm viết một cuốn sách mà anh từng ấp ủ. Mọi người hỏi anh bao giờ thì viết? Anh khiêm nhường trả lời: Mình sẽ viết! Thế rồi anh nhỏ nhẹ đọc thơ, bài thơ “Cánh cò” mà anh đã từng một lần đọc riêng cho tôi nghe.

Cánh cò cánh cò bay
Trắng mờ ven rặng núi
Sông Mã nặng nề trôi
Em bay sao mà vội
Em bay về phía đó
Sông chảy ngoặt nẻo này
Riêng anh buồn đứng ngó
Phủi bụi trên bàn tay.



Em bay em chẳng đỗ
Như vỗ cánh lòng anh
Đường ổ gà lỗ chỗ
Điệp bài ca viễn hành.

Khi Tuân Nguyễn đọc xong bài thơ, cả bọn chúng tôi sững người lại. Một nỗi buồn mênh mang và trong trẻo.

… Tôi không có nhân duyên được gặp anh nhiều. Lại trong thời gian không được dài lắm. Nhưng mỗi khi nghĩ về anh, tôi lại xốn xang bồi hồi. Thời trai trẻ của anh, tôi không được biết kỹ. Chỉ biết anh đã từng đi bộ đội thời kháng chiến chống Pháp, chiến đấu ở chiến trường Trị Thiên Huế. Từng là người bạn lính cùng tiểu đội với nhà thơ Phùng Quán.

Rồi hòa bình, học đại học ngoài Hà Nội. Ra trường anh được phân về làm việc ở Ban Văn nghệ Đài tiếng nói Việt Nam. Rồi anh bị liên lụy cũng trong thời điểm làm ở Đài.

Tôi không quan tâm sự liên lụy của anh ra sao. Chỉ biết khi gặp anh, thấy anh là người quá yếu đuối. Thể lực quá gày gò. Chỉ có cặp mắt kính cận quá dày. Ấy mà khát khao sống. Tôi thêm ngạc nhiên, con người ốm yếu ấy tại sao lại mê văn ông Đôt-xtôi-ep-ki đến thế? Văn của ông Đốtx là chỗ anh bám víu, hay là văn ông Đốtx đã hành hạ anh?

Ở đời không có gì buồn tẻ hơn là sống không có mẫu người mình tôn thờ, ngưỡng mộ. Nhưng lại không có gì vất vả hơn là để theo đuổi tôn thờ một mẫu người. Số phận đã bắt Tuân Nguyễn vất vả và lận đận đi theo những mẫu nhân vật của ông Đốtx? Hay nhân vật của Đốtx đã ám ảnh anh, hành hạ anh và đem hạnh phúc đến cho anh?

Hay nói theo một cách khác, ở đời, cái đẹp có thể đem hạnh phúc và bi thương đến với mỗi phận người. Tôi có thể tự chất vấn mình, rằng nếu mình chịu sóng gió, chìm nổi như anh Tuân Nguyễn, liệu có còn giữ được con mắt nhìn đời trong sáng và đắm đuối như anh không?

Có thể tôi và nhiều người như tôi sẽ gục ngã. Gục ngã vì chán chường, thất vọng. Có lẽ Tuân Nguyễn đã có những phút giây thất vọng. Bạn bè kể về anh, khi ở trại cải tạo về, loanh quanh mấy tháng trời anh không biết đi đâu, về đâu, làm gì? Cảnh và lòng người đã thay đổi. Anh buồn chán lại khoác ba-lô quay về trại.

Người quản lý trại và anh em trong trại đã khuyên anh hãy trở về với cuộc sống. Rồi anh dấn lên trở về để sống. Để làm một con người bình thường. Để biết yêu, biết trọng cái đẹp. Biết làm ra cái đẹp.

Giá như anh không va vấp, không gục ngã, thì anh đã thành đạt như bao bạn bè trang lứa mê văn chương chữ nghĩa một thời. Nhưng ngược lại, anh đã tránh xa được sự nhàm chán, tẻ nhạt và lắm khôn ngoan tới mức thủ đoạn của bao mẫu người vẫn đang sống sờ sờ quanh ta. Sự sống tẻ nhạt, giả đối, thủ đoạn còn tồi tệ hơn cả cái chết.

Cái chết của anh như một định mệnh. Một tai nạn giao thông với một con người lầm lũi sống và yêu cuộc sống. Một cái chết của một cánh cò trắng đang bay…

Ngày 23/2/2007

Nhà thơ Vũ Từ Trang
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
=

WIKIPEDIA

Bùi Ngọc Tấn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm
Bùi Ngọc Tấn

Sinh năm 1934
Hợp Thành, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
Nghề nghiệp nhà văn
Tác phẩm chính Những người rách việc

Bùi Ngọc Tấn (1934–) là một nhà văn đương đại có nhiều tác phẩm gây chú ý rộng rãi trong dư luận xã hội.

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Vài nét tiểu sử

Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934. Quê ông ở làng Câu Tử Ngoại, xã Hợp Thành, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ông bắt đầu viết văn, viết báo từ 1954. Bùi Ngọc Tấn có sáng tác in ở các nhà xuất bản: Văn học, Lao động, Thanh niên, Phổ thông… khi mới ngoài hai mươi tuổi[1].

Trước khi viết văn, ông là phóng viên báo Tiền Phong ở Hà Nội, viết với bút danh Tân Sắc.

Sau đó, năm 1959, ông trở về quê và thành biên tập viên báo Hải Phòng Kiến thiết.

Có tư liệu cho rằng ông từng bị tập trung cải tạo 5 năm (1968-1973)[2].

Những năm 1974 đến năm 1994, ông trở thành một công chức ở Quốc doanh Đánh cá Hạ Long và trở thành "người ẩn dật" với văn chương[3].

Trở lại với bạn đọc qua bài "Nguyên Hồng, thời đã mất" đăng trên tạp chí Cửa biển tại Hải Phòng năm 1993.

[sửa] Tác phẩm

[sửa] Giải thưởng văn chương

[sửa] Các tham luận của Bùi Ngọc Tấn

Bùi Ngọc Tấn không có nhiều tuyên bố và diễn văn. Một số phát biểu của ông được lưu lại có thể là những tham khảo để biết thêm về quan điểm sống và làm việc của ông[5][6].

[sửa] Chú thích

  1. ^ http://vietbao.vn/Van-hoa/Tan-sac-Bui-Ngoc-Tan-mot-nha-van-dac-sac/70034589/181/
  2. ^ http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=2332
  3. ^ http://www.vnexpress.net/GL/Van-hoa/Guong-mat-Nghe-sy/2005/10/3B9E2B85/
  4. ^ http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/Index.aspx?ArticleID=64522&ChannelID=61
  5. ^ http://72.14.235.104/search?q=cache:Q57JGOCYwyoJ:www.talawas.org/talaDB/showFile.php%3Fres%3D5944%26rb%3D0102+%22Tham+lu%E1%BA%ADn+c%E1%BB%A7a+nh%C3%A0+v%C4%83n+B%C3%B9i+Ng%E1%BB%8Dc+T%E1%BA%A5n%22&hl=vi&ct=clnk&cd=5&gl=vn
  6. ^ http://www.nhohue.org/cacyeutonhavan.htm

NGUYỄN HUY


http://ngothelinh.tripod.com/ThepDen_DangChiBinh.html


Đặng Chí Bình ra mắt hồi ký "Thép Đen" tập IV

Monday, July 04, 2005

Nguyên Huy

Westminster (NV- 07/02) - Hồi ký “Thép Ðen” của người chiến sĩ gián điệp VNCH Ðặng Chí Bình vừa được tác giả và nhà xuất bản Ðại Nam cho ra mắt vào trưa hôm thứ Bảy cuối tuần qua tại phòng sinh hoạt của nhật báo Viễn Ðông. Trên hai trăm đồng hương phần lớn là cựu chiến sĩ VNCH đã đến tham dự. Trong hàng quan khách còn có cụ Cao Xuân Vỹ, dân biểu Trần Thái Văn và một số những nhân vật đấu tranh trong cộng đồng người Việt ở Nam California.

Hồi ký “Thép Ðen” tập I và tập II được phát hành từ năm 1987. Năm năm sau tập III mới ra đời và đến nay tác giả mới hoàn tất được cuốn hồi ký này.

Trong buổi ra mắt “Thép Ðen” tập IV này, tác giả và nhà xuất bản cũng cho tái bản ba tập trước. Theo tác giả Ðặng Chí Bình cho biết thì ông khởi đầu cuốn hồi ký này từ năm 1985 và mãi đến nay mới hoàn tất được vì nhiều lý do. Ông nói: “Từ khi Thép Ðen I và II được in tính đến nay đã 15 năm. Sở dĩ cho đến nay mới hoàn tất được vì trong thời gian 15 năm qua, tôi, phần vì sức khỏe, phần vì gánh nặng gia đình, nên không thể viết lách gì được, cũng không cả sinh hoạt báo chí nữa. Nhưng vì độc giả ở nhiều nơi thúc bách quá nên tôi đã hết sức cố gắng để hoàn tất cho bằng được, trả cái ơn tri ngộ với bạn đọc.”

Hồi ký “Thép Ðen” tuy chưa hẳn là một “best seller“trong thị trường chữ nghĩa ở hải ngoại nhưng đa số những cựu tù nhân chính trị, những người từng ở tù Cộng Sản đều có đọc và truyền tay nhau đọc. Do đó mà “Thép Ðen” tập I và II đã phải tái bản đến lần thứ ba.

Nhà thơ lừng danh tả về cái ác của chế độ lao tù CS, Nguyễn Chí Thiện, có mặt trong buổi ra mắt sách này bầy tỏ: “Chúng ta đã được đọc khá nhiều hồi ký của những người cựu tù trong chế độ lao tù Cộng Sản. Mỗi cuốn hồi ký là một mặt của vấn đề, nhưng theo tôi, “Thép Ðen” là cuốn hồi ký trung thực nhất về những điều mà người tù mấy chục năm Ðặng Chí Bình đã phải trải qua. Những sự việc được tả chân, những tâm tư được diễn tả chân thực mà mỗi người cựu tù khi đọc đều thấy có mình trong đó.”

Nhà văn nhà báo Ðỗ Tiến Ðức, trong phần phát biểu cảm tưởng đề cập đến giá trị văn chương của tác phẩm. Ông nói: “Tác giả cuốn hồi ký “Thép Ðen”Ðặng Chí Bình không nhận mình là nhà văn, nhưng ông đã là nhà văn thực sự qua những tập hồi ký này.”

Ông Ðỗ Tiến Ðức còn nhắc lại cái thời tác giả Ðặng Chí Bình chưa là một gián điệp viên của miền Nam, thì người học sinh tên Châu, tên đời thường của Ðặng Chí Bình, từng là một học sinh di cư sống cùng anh chị em học sinh di cư ở trại Phú Thọ, Saigon sau khi đất nước bị chia đôi. Mặc dầu chỉ mới ở tuổi đôi mươi nhưng lớp thanh niên di cư lúc đó đã ý thức được trách nhiệm của người dân Việt trước sự bành trướng của Cộng Sản Quốc Tế được nấp sau những phong trào Giải Phóng Dân Tộc. Mộng tang bồng hồ thỉ tuổi thanh xuân đã khiến học sinh tên Châu gia nhập vào ngành gián điệp mà chúng ta đều hiểu rằng đó là một công việc đầy hiểm nguy, mạng sống lúc nào cũng như chỉ mành treo chuông mà bất cứ một sơ sẩy nhỏ nào cũng có thể đưa đến cái chết âm thầm không ai biết đến. Nhưng với tuổi trẻ đầy nhiệt huyết và say mê lý tưởng, những người thanh niên ấy đã không tiếc rẻ gì cuộc sống bắt đầu có tương lai tươi đẹp ở miền Nam dưới một chế độ Cộng Hòa vừa hình thành. Ðặng Chí Bình đã ra đi và còn sống sót trở về được để vẫn còn cảm thấy trách nhiệm chứng nhân cho hậu thế về sự Ác được đội lốt Giải phóng Dân tộc.

Một cựu tù nhân chính trị có mặt trong buổi này nhận định: “Dân tộc Nga có Solzhenitsyn, tôi nghĩ Việt Nam chúng ta có Ðặng Chí Bình. Tôi không khoa trương đâu bởi nếu cuốn hồi ký bốn tập này mà được dịch ra các thứ tiếng, tôi cam đoan giá trị của nó sẽ không kém gì cuốn “Quần Ðảo Goulag” của Solzhenitsyn. Nói thật buồn chứ mình thuộc dân nhược tiểu nên tiếng nói của mình cũng nhược tiểu.”

Sau buổi ra mắt sách, tác giả Ðặng Chí Bình đã phải ngồi ký sách đến cả giờ đồng hồ để ký sách kỷ niệm cho độc giả và sau đó còn lưu lại chụp hình kỷ niệm với bạn bè thân hữu gần xa cũng như độc giả khiến cuộc Ra Mắt Sách trở thành một sinh hoạt văn học, chính trị đầy tính đặc thù hiếm khi xẩy ra.


WIKIPEDIA

Phùng Quán

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%B9ng_Qu%C3%A1n

Phùng Quán (19321995) là một nhà văn, nhà thơ Việt nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Ông là cháu gọi Tố Hữu bằng cậu, nhưng trong tác phẩm "Ba phút sự thật", thì ông nói rằng gọi "cậu" là do thói quen, thực ra Tố Hữu là bác của Phùng Quán theo cách nói của người miền Bắc.

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Tiểu sử

Phùng Quán, sinh tháng 1 năm 1932, tại quê xã Thuỷ dương, huyện Hương thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.

Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam (tiền thân của tạp chí Văn nghệ quân đội). Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác.

Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...

Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà nội.

Năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

[sửa] Tác phẩm

  1. Vượt Côn Đảo (tiểu thuyết, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  2. Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (thơ, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  3. Tuổi thơ dữ dội (tiểu thuyết, 1988) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  4. Trăng hoàng cung (tiểu thuyết thơ, 1993)
  5. Thơ Phùng Quán (thơ, 1995)
  6. Ba phút sự thật (ký, 2006)

[sửa] Một vài bài thơ

Lời mẹ dặn

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
- Con ơi! trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vờị
In lên vết son đỏ chóị
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
Hôn

Trời đã sinh ra em
Ðể mà xinh mà đẹp
Trời đã sinh ra anh
Ðể yêu em tha thiết

Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải ra mặt trận

Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu

Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Ðôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn

Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ.
(1956)

[sửa] Liên kết ngoài

WIKIPEDIA

Trần Văn Tuyên

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_Tuy%C3%AAn

Bước tới: menu, tìm kiếm

Luật sư Trần Văn Tuyên (1913-1976) là một cựu dân biểu Hạ viện, cựu Phó thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, một trong các trưởng thuộc thế hệ sáng lập Hướng đạo Việt Nam và là một trong các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Ông đã bị chính quyền mới bắt ngay sau khi Sài Gòn thất thủ và đã chết trong trại tù.

[sửa] Tiểu sử

  • Ông sinh năm 1913
  • Gia nhập đoàn thiếu nhi Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1929
  • Thập niên 1940, ông tham gia phát động phong trào truyền bá chữ Quốc Ngữ và bình dân giáo dục
  • Là phụ tá cho Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam trong Chính phủ Liên hiệp năm 1946.
  • Năm 1948, ông ủng hộ giải pháp Bảo Ðại làm Quốc trưởng, và làm tổng trưởng Thông tin trong chính phủ Quốc gia Việt Nam.
  • Năm 1954 là thành viên của phái đoàn Quốc gia Việt Nam đi dự Hội nghị Genève
  • Tháng 6 năm 1960, ông sinh hoạt trong tổ chức Tự do Tiến bộ (nhóm Caravelle) cùng với Phan Khắc Sửu, Trần Văn Văn, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát, Lê Ngọc Chấn và một số chiến hữu. Ông là đồng tác giả bản tuyên ngôn của nhóm.
  • Ông bị giam giữ 3 năm tại trại mật vụ Võ Tánh. Tháng 7 năm 1963 tòa án quân sự Sài Gòn thụ lý truy tố ông nhưng sau khi Nguyễn Tường Tam tuẫn tiết, tòa tha bổng cho tất cả 19 bị cáo.
  • Năm 1965 Trần Văn Tuyên được mời làm Phó thủ tướng Đặc trách Kế hoạch trong chính phủ Phan Huy Quát; Phan Khắc Sửu là Quốc trưởng.
  • Năm 1971 đắc cử vào Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa, được bầu làm trưởng Khối Đối lập Dân tộc Xã hội tại Hạ nghị viện.
  • Năm 1975 sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, ông bị bắt, đưa vào trại cải tạo. Ông mất trong trại giam [1].

[sửa] Tham khảo

  1. ^ Luật sư Trần Văn Tuyên, Cựu Dân biểu Hạ viện VNCH, cựu Phó Thủ tướng và là một trong số Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng đã bị bắt sau khi Sài Gòn thất thủ. Ông đã chết trong tù khoảng giữa hai năm 1977 và 1978

WIKIPEDIA

Phùng Quán

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Phùng Quán (19321995) là một nhà văn, nhà thơ Việt nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Ông là cháu gọi Tố Hữu bằng cậu, nhưng trong tác phẩm "Ba phút sự thật", thì ông nói rằng gọi "cậu" là do thói quen, thực ra Tố Hữu là bác của Phùng Quán theo cách nói của người miền Bắc.

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Tiểu sử

Phùng Quán, sinh tháng 1 năm 1932, tại quê xã Thuỷ dương, huyện Hương thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.

Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam (tiền thân của tạp chí Văn nghệ quân đội). Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác.

Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...

Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà nội.

Năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

[sửa] Tác phẩm

  1. Vượt Côn Đảo (tiểu thuyết, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  2. Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (thơ, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  3. Tuổi thơ dữ dội (tiểu thuyết, 1988) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  4. Trăng hoàng cung (tiểu thuyết thơ, 1993)
  5. Thơ Phùng Quán (thơ, 1995)
  6. Ba phút sự thật (ký, 2006)

[sửa] Một vài bài thơ

Lời mẹ dặn

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
- Con ơi! trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vờị
In lên vết son đỏ chóị
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
Hôn

Trời đã sinh ra em
Ðể mà xinh mà đẹp
Trời đã sinh ra anh
Ðể yêu em tha thiết

Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải ra mặt trận

Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu

Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Ðôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn

Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ.
(1956)

[sửa] Liên kết ngoài

WIKIPEDIA

Phùng Quán

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Phùng Quán (19321995) là một nhà văn, nhà thơ Việt nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Ông là cháu gọi Tố Hữu bằng cậu, nhưng trong tác phẩm "Ba phút sự thật", thì ông nói rằng gọi "cậu" là do thói quen, thực ra Tố Hữu là bác của Phùng Quán theo cách nói của người miền Bắc.

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Tiểu sử

Phùng Quán, sinh tháng 1 năm 1932, tại quê xã Thuỷ dương, huyện Hương thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.

Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam (tiền thân của tạp chí Văn nghệ quân đội). Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác.

Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...

Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà nội.

Năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

[sửa] Tác phẩm

  1. Vượt Côn Đảo (tiểu thuyết, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  2. Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (thơ, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  3. Tuổi thơ dữ dội (tiểu thuyết, 1988) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  4. Trăng hoàng cung (tiểu thuyết thơ, 1993)
  5. Thơ Phùng Quán (thơ, 1995)
  6. Ba phút sự thật (ký, 2006)

[sửa] Một vài bài thơ

Lời mẹ dặn

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
- Con ơi! trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vờị
In lên vết son đỏ chóị
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
Hôn

Trời đã sinh ra em
Ðể mà xinh mà đẹp
Trời đã sinh ra anh
Ðể yêu em tha thiết

Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải ra mặt trận

Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu

Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Ðôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn

Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ.
(1956)

[sửa] Liên kết ngoài

WIKIPEDIA

Phùng Quán

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bước tới: menu, tìm kiếm

Phùng Quán (19321995) là một nhà văn, nhà thơ Việt nam, bắt đầu viết trong khoảng thời gian của cuộc kháng chiến chống Pháp và khẳng định được văn tài với Vượt Côn Đảo nhưng ông được biết đến nhiều hơn sau Đổi mới. Ông là cháu gọi Tố Hữu bằng cậu, nhưng trong tác phẩm "Ba phút sự thật", thì ông nói rằng gọi "cậu" là do thói quen, thực ra Tố Hữu là bác của Phùng Quán theo cách nói của người miền Bắc.

Mục lục

[ẩn]

[sửa] Tiểu sử

Phùng Quán, sinh tháng 1 năm 1932, tại quê xã Thuỷ dương, huyện Hương thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

Năm 1945, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101 (tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV.

Đầu năm 1954, ông làm việc tại Cơ quan sinh hoạt Văn nghệ quân đội thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt nam (tiền thân của tạp chí Văn nghệ quân đội). Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955. Không lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm. Khi phong trào này chấm dứt dưới tác động của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Phùng Quán bị kỷ luật, mất đi tư cách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và phải đi lao động cải tạo ở nhiều nơi. Từ đó đến khi được nhìn nhận lại vào thời kỳ Đổi mới, Phùng Quán hầu như không có một tác phẩm nào được xuất bản, ông phải tìm cách xuất bản một số tác phẩm của mình dưới bút danh khác.

Năm 1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán được xuất bản và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó. Ngoài văn xuôi, Phùng Quán còn sáng tác thơ và có nhiều bài thơ nổi tiếng như: Lời mẹ dặn, Hôn, Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe...

Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà nội.

Năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.

[sửa] Tác phẩm

  1. Vượt Côn Đảo (tiểu thuyết, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  2. Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo (thơ, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  3. Tuổi thơ dữ dội (tiểu thuyết, 1988) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  4. Trăng hoàng cung (tiểu thuyết thơ, 1993)
  5. Thơ Phùng Quán (thơ, 1995)
  6. Ba phút sự thật (ký, 2006)

[sửa] Một vài bài thơ

Lời mẹ dặn
Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc:
- Con ơi! trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.
- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Từ đấy người lớn hỏi tôi:
- Bé ơi, Bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ
Nhưng không! những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vờị
In lên vết son đỏ chóị
Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêụ
Tôi muốn làm nhà văn chân thật, chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.
(1957)
Hôn
Trời đã sinh ra em
Ðể mà xinh mà đẹp
Trời đã sinh ra anh
Ðể yêu em tha thiết
Khi người ta yêu nhau
Hôn nhau trong say đắm
Còn anh, anh yêu em
Anh phải ra mặt trận
Yêu nhau ai không muốn
Gần nhau và hôn nhau
Nhưng anh, anh không muốn
Hôn em trong tủi sầu
Em ơi rất có thể
Anh chết giữa chiến trường
Ðôi môi tươi đạn xé
Chưa bao giờ được hôn
Nhưng dù chết em ơi
Yêu em anh không thể
Hôn em bằng đôi môi
Của một người nô lệ.
(1956)

[sửa] Liên kết ngoài