Showing posts with label ĐẨU TIẾP * TRONG 99 CHÓP NÚI. Show all posts
Showing posts with label ĐẨU TIẾP * TRONG 99 CHÓP NÚI. Show all posts

Friday, February 19, 2010

ĐẨU TIẾP * TRONG 99 CHÓP NÚI 3

*


PHỤ LỤC:

Phần phụ lục này do Nguyễn Thiên Thụ sưu tập tài liệu, có thể chia làm hai phần.
Phần thứ nhất :sưu tập các bản dịch "Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm"
Phần thứ hai : các bài viết về Đinh Nhật Thận và Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm.

Nguyễn Thiên Thụ



A.PHẦN THỨ NHẤT: CÁC BẢN DỊCH "THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM"

I. BẢN NGÔ ĐIỀN

Bản này được in trong bộ Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên.Bộ này Trần Trung Viên viết lời tựa năm ât sửu (1926), Dương Bá Trạc năm bính dần (1927), và Tản Đà đề tựa 1934. Nam Ký xuất bản 1932, Mặc Lâm Sai gon tái bản năm 1968. Theo Trần Trung Viên, dịch giả bài thu Dạ Lữ Hoài Ngâm này là Ngô Điền.Theo Trần Trung Viên, ông quê Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức. Trứơc làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi. Do vậy,lâu không được về quê nên có viết tập Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách (Tiểu sử các bậc thi hào ViệtNam).

Theo phả hệ họ Ngô làng Tả Thanh Oai, Ngô Điền , thuộc dòng Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm, người Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông , đỗ Hoàng giáp, 1841.
http://www.phahe.vn/FamilyTree/Pages/ViewFunctionContent.aspx?FamilyTreeID=772&id=391

Như vậy, Ngô Điền là người đồng thời với Đinh Nhật Thận, Nguyễn Hàm Ninh, Cao Bá Quát và Tùng Thiện vương.
Còn việc nói ông viết Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm thì e không đúng, ông chỉ dịch bản Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận mà thôi.Trong 99 Chóp Núi, ông Đẩu Tiếp có nhắc đến bản Trần Trung Viên, bản Xuân Lan và bản của Nguyễn Văn Trác, nhưng không đề cập đến Ngô Điền,. Ngoài Trần Trung Viên cũng không ai nói đến Ngô Điền và Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm.


THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa rót chén kim bôi.
Gẫm xem thời sự sụt sùi,
Cõi phù mấy thuở làm vui cho đời.

Người ngắm cảnh, trăng soi hoa nở
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm mấy kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm ngày với thu

Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên dương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông nhường như bay.

Khúc ngư thủy nhớ ngày Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Ngọn đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rỏ (1) sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn rù đất khách
Nhật quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Ba tiêu khóc lệ, hơi may ngâm trùng.

Làm chi vậy dở dang quán lữ.
Năm, sương yên kế nửa vừa rồi
Có khi ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác (2) cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mặt, nghe nằm thẹn tai

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không khách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại phiền.


Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm thẳng gióng Giang Lăng.
Lòng quê đâu đã bâng khuâng,
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bong.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế khua rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng

Lòng quanh quéo sông càng quanh quéo.
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Canh khuya những mơ mòng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi (3) ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở (4) gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn

Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bó xiêm lửng thửng bên hè,
Mày sầu khóm liễu dì dì khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.


Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế khắt khe
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Này hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu tính đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại người Tràng An.

Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,

Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường
Giang hồ dù có biết thương
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang ?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.

(Văn Đàn Bảo Giám III,107-111)

____

1. VĐBG ghi là rõ. Phải là rỏ, nhỏ giọt
2. VĐBG ghi là bác, vô nghĩa, phải là đòng mác. Mác là cây dao nhọn dài, đòng là loại giáo, mũi nhọn có cán dài
3.VĐBG ghi gác toi, chắc là lỗi ấn công, các bản khác ghi là gác thoi.
4. VDBG ghi là dở, các bản khác ghi là trở.Giở hay trở chỉ là giọng Bắc Trung khác nhau, cũng là quay.




BẢN II.G. CORDIER
"Thu dạ lữ hoài ngâm - Plainte de l’exilé par une nuit d’autume " xuất bản năm 1925.


Thu dạ lữ hoài



Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.

Khúc ngư thủy nhớ ngày đại đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Khi ta đi liễu đang xanh tốt
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió Đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rò sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn dù đất khách
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương gối phòng tây
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng

Làm chi vậy giở dương quán lữ.
Năm sương yên kể nửa vừa rồi
Có khi ngỗi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng bác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền

Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh buồm gióng thẳng Giang lăng
Lòng quê luống những bâng khuâng
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng

Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khuê đèn

Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.


Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường sá khắt khe,
Dặm ngìn hồ dễ đi về cho năng.

Nay hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Trường An.

Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy du,
Anh hùng kia mấy trượng phu ai từ.

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên hoa khôn xiết dạ sâu.
Há còn tuổi trẻ chi đâu,
Phong lưu tính cũ giang hồ thói xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm nghìn.
Giang hồ dù có biết thương,
Thiết tình lại nhớ những đường rậm khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu nhờ trời cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng hộ cho anh,
Năm nay biết có học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri kỉ,
Mùi lan chi thêm nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.


Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi chăng ?
Mới hay cùng bệnh thêm thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu Tương một giời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Cảnh li biệt lệ đầy nước mắt,
Bóng hương khuê xa cách dặm ngìn.
Rượu rồi ngồi tựa câu lơn,
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.




III.BẢN NGUYỄN TÀI CẨN


"Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận" dựa trên bản bản thảo của anh trai là Nguyễn Tài Chất, xuất bản năm 2008.Bản này có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 Chóp Núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế.



THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu

Thơ nhã ái bốn câu buông vận
Rượu ly hoài ba chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang ?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương
Thuyền ai tưởng khách Non, lại không !
.
Khúc ngư thủy nhớ ông Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Hứng thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã chồi sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn rầu đất khách
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Tiếng sương khóc lá hơi bay gọi trùng

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ.
Năm, sương yên hết nửa đi rồi
Có đêm ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn


Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm gióng thẳng về Cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng

Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuốn thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang
Xuống thềm ra đứng bên đàng
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.

Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương ?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.



Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu




NHẬN XÉT TỔNG QUÁT

+Có nhiều bản dịch nhưng sự sai biệt giữa các bản rất ít. Có thể do một dịch giả sau các người khác chỉ sửa chữa vài chữ, hoặc một hai câu.
+Theo Nguyễn Tài Cẩn, bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Đẩu Tiếp là gần với nguyên bản của Đinh Nhật Thận.


BẢN4. KỲ ĐỒNG (1875 - 1929)


Một tác giả khác là Kỳ Đồng cũng có một bài thơ Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm cũng viết bằng chữ Hán theo lối song thất lục bát nhưng nội dung là lòng yêu nước, trong khi Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là nói về nỗi nhớ nhà.

Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn Cầm, rất thông minh, mới 10 tuổi đã đi thi hạch. Quan trường thấy lạ, làm sớ về kinh, vua sắc cho 2 chữ "Kỳ Đồng" mới lấy làm tên. Mấy năm sau, họp bạn đứng ra chống Pháp, bị Pháp bắt rồi đày qua Angeria. Ở đây, ông đi học, đổ tú tài khoa học và văn chương. Sau đó Pháp cho ông về Yên Thế. Nhưng năm 1898, vì sợ ông liên lạc với Đề Thám, Pháp lại đày ông đi Tahiti và ông tạ thế ở đó vào năm 1929, hưởng dương 55 tuổi. Bài "Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm" này ông sáng tác và dịch quốc âm lúc chưa bị đày, đang mang mối hận mất nước và mong mỏi có ngày khôi phục.(Nay chưa tìm thấy bản bản Hán văn)

THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

Thiên khí nhập trung thu chi dạ
Tiêu điều kinh tứ tọa sương hàn
Tiên gia biệt chiếm thanh nhàn
Đả tàn kỳ trận, ẩm tàn cúc bôi
Cửu thiên ngoại, lâu đài ca quản
Bích khê liên mãn giản đào hoa
Phương tôn nhất cảm tuế hoa
Du nhiên bất giác thị hà càn khôn
Hào đỗ vũ thiên thôn tịch mịch
Tức trùng thanh tứ bích thê lương
Khả lân tư cổ chiến trường
Đài phong kim thốc ô nhương cô hồn.


Quần hùng trục lộc bôn chi lộc
Tứ hải chiêm chỉ ốc chi ô
Thiên tâm vị yếm Hồ sô
Thủy thâm hỏa nhiệt lai tô giả thùy
Quỳ hoắc hữu tâm nhi hướng nhật
Tàm oanh hà vật khước tri thu
Tây thiên đường bệ giao phu
Hoa cừu cạnh sắc chiên hồ đồng chương
Thiên tầm bách kinh sương bất biến
Song nam kim bách luyện di cương
Cẩu năng thiết thạch can trường
Lưu danh trúc gian lưu phương báo bì.


Y thị nhật nghĩa kỳ xướng xuất
Tương trung tâm thủ nhật ngu uyên
Tẩy thanh cựu quốc sơn xuyên
A đồng khí khái nhất thiên cao hoành
Cái trung nghĩa thanh thiên bạch nhật
Nhi vinh hoa vân bạch cẩu thương
Lập thân sở quý cương thường
Hưu tương nhất mộng hoàng lương tráng hoài
Nhân thế hãn phùng khai khẩu tiếu
Si nhi diệc vị liễu công gia
Khả liên lục đại hào hoa
Du mi Lương quán đề nha Tống đài


DỊCH:

Đêm trung thu trời mây trong trẻo,
Sương đầm đầm lạnh lẽo bốn bên.
Thanh nhàn riêng một cảnh tiên,
Mảng vui cờ thánh rượu hiền tiêu dao!
Ngoài chính cõi đài cao đàn địch,
Suối liền khe nước biếc đào hồng.
Ngày dài thưởng chén rượu nồng,
Càn khôn nào biết là trong hay ngoài !
Tiếng quyên bỗng một trời khắc khoải,
Lại bốn bề dế gọi đau thương.
Buồn thay cảnh cũ chiến trường,
Cô hồn quạ cúng, tên vàng bám rêu!



Hươu một con, ùa theo bao kẻ
Quạ một bầy, bốn bể đều trông!
Giặc Hồ trời hãy còn dong
Nước sâu lửa đỏ dễ hòng kêu ai?
Lòng quỳ hoắc, theo trời mà hướng,
Tiếng oanh già vất vưởng hồn thu.
Lầu Tây chủ khách gật gù
Hoa cừu rạng rỡ, chiên hồ nghênh ngang
Bách ngàn trượng mặc sương với gió,
Vàng trăm rèn càng tỏ thức son!
Cang trường sắt đá chẳng sờn,
Dấu thơm ghi để nước non sau này!



Ngày khởi nghĩa cờ bay rực rỡ,
Tấm lòng trung nào sợ bóng chiều !
Giang sơn cố quốc sạch màu,
Đồng vang vang tiết trời lầu lầu xanh.
Áng trung nghĩa rõ hình nhật nguyệt
Bả vinh hoa mây biếc chó mờ
Cương thường gốc cũ ngàn xưa,
Kê vàng giấc mộng buồn mơ sá gì !
Người đời ít gặp khi cười hả,
Trẻ nhọc nhằn vất vả nào vui.
Sáu đời thịnh trị ai ơi
Lương đình hươu nhởn, Tống đài quạ kêu.


VIETKIẾM FORUM
http://www.vietkiem.com/forums/index.php?showtopic=12626




B. PHẦN THỨ HAI: CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐINH NHẬT THẬN



I. ĐINH NHẬT THẬN NIÊN BIỂU (1815- 1856)
Nguyễn Thiên Thụ


-Sinh Ất Hợi 1815 tại làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Đinh Dậu (1837) thi hương, đỗ cử nhân.
-Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ . Bổ tri phủ.
bị cách chức.
Năm 1843, được hồi phục, nhưng cáo bệnh, sống ẩn dật, đi ngao du và làm thuốc.
-Năm 1854, Cao Bá Quát theo Lê Duy Cự chống triều đình, nên sau đó ông bị giam vì liên quan đến Cao Bá Quát, it lâu được thả.
-Mất 1856, hưởng dương 52 tuổi.


II. TIỂU SỬ


"Thật trời đã khéo tày vị mà dành riêng cho cụ một khối óc thông minh, một lá gan hào hùng, có lẽ chung đúc lại bởi khí thiêng của sông Lam núi Hồng là nơi cụ sinh trưởng. Lấy văn chương và phẩm hạnh, cụ đã làm Thái Sơn, Bắc Đẩu cho cả một vùng Hoan - Ái là đất tài ba văn vật có tiếng xưa nay"


Đinh Nhật Thận


Đinh Nhật Thận, tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Ông nội là Đinh Trọng Mưu mất sớm, thân phụ là Đinh Trọng Miễn con rể của quan tri huyện Thừng. Vốn trước đó Đinh Trọng Miễn là học trò của quan tri huyện sau được gả con gái lớn. Đinh Nhật Thận là con trai thứ hai.

Vốn sáng dạ và có trí nhớ tốt, ngoài việc thông làu kinh sử, Nhật Thận còn tinh thông về y học, dược tính, rất giỏi thơ Nôm, viết văn không cần thảo trước. Sách “Đăng Khoa Lục” chép rằng:

“Ông nổi tiếng có tài nhớ sách, đọc qua một lượt là nhớ … Khi ông làm quan ở Kinh kì, có người muốn thử tài ông, đưa cho ông một cuốn từ điển. Ông nhận sách đọc, ngày hôm sau trả lại mặc cho người kia muốn hỏi gì thì hỏi, ông đều nhớ hết và nói rất rành mạch”

Mặc dù tài cao nhưng không phải cứ thi ngay là đỗ. Khoa thi hương năm Đinh Dậu (1837) ông chỉ đỗ cử nhân, lại thuộc dạng lấy thêm.

Khoa thi hội năm Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, không có Bảng nhãn, không có Thám hoa, Đinh Nhật Thận đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ và là người trẻ tuổi nhất trong bạn đồng khoa. Đứng trước ông có hai Hoàng Giáp là Nguyễn Cửu Trường và Nguyễn Văn Nghị.

Sau khi đỗ đại khoa, Nhật Thận được triều đinh bổ làm tri phủ, ngoài ra còn được làng cấp cho 5 mẫu học điền ở cánh đồng Gia Hội. Tuy nhiên phần lớn ruộng này ông để cho bà con trong thôn cày mà không thu hoa lợi. Ông còn tổ chức khai khẩn thêm đất và chiêu mộ người các nơi đến lập thành làng Gia Hội. Làm quan tri phủ được một thời gian thì ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.

Năm 1843 được phục chức nhưng ông cáo bệnh không nhận. Tính tình ông phóng khoáng, thích làm thuốc, làm thơ giao du đây đó lấy việc kết thân bạn hữu gần xa làm trọng. Ông là bạn chí thân của Cao Bá Quát (Bắc Ninh) và Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Bình). Sau này Cao lãnh đạo khởi nghĩa nông dân làm loạn khiến ông cũng liên lụy và bị kiềm chế gắt gao.


Vua Tự Đức biết ông là người học rộng tài cao nên quyết giữ ông lại trong cung, trước là để kiềm tỏa giữ chân ông, sau là nhờ ông dạy cho các hoàng tôn.

Sống cuộc sống gò bó, ông đâm ra chán chường trong lòng lúc nào cũng mang nặng nỗi lòng với cố hương. Vào một đêm Thu thanh vắng, độc ẩm tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch khúc ngâm nổi tiếng “Thu dạ lữ hoài”. Tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở được ông thể hiện qua khúc ngâm này. Tuyệt phẩm này được truyền tụng và lọt đến tai vua, vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, Tự Đức đã xuống chỉ tha cho ông.

Ông trở về chốn cũ, vui thú điền viên ở Gia Hội. Ông qua đời sớm, tuổi 52. Vùng Cát Ngạn vẫn còn câu ca về ông, rằng:

Non sông Giăng
Nước sông Giăng
Trời sông Giăng
Nhớ chăng
Em
“Thu dạ lữ hoài”
Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa.

Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương

Tham khảo:

1. Đinh Nhật Thận. - Bài viết của tác giả Chu Trọng Huyến.
2. Thanh Chương đất và người. - Nhiều tác giả.
3. Trong 99 chóp núi. - Nguyễn Văn Để.
4. Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận. - Nguyễn Tài Chất, Nguyễn Tài Cẩn

http://tcnao.net/showthread.php?t=43


II.GIAI THOẠI VỀ ĐINH NHẬT THẬN



Nói láo với nhà Vua qua thi phú:


“Nói láo” là đặt điều, là bịa ra mà nói, là nói điều không đúng sự thực, và nói láo là một sự xấu.

Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng:

Đinh Nhật Thận thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.

Là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.

Khi ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông Hương, nhân dịp lúc vua và các quan đàm luận về đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu:

”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu”

(Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung, cha khiến con chết, con không chết không hiếu) và cho đó là một câu chí lý mà mọi người phải theo.

Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán:

- Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết đi, khanh có làm không ?


Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì không nhảy thì mang tội bất trung còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời tài hoa không tội lỗi...

Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:

- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây ?

Ông đáp:

- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:

Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”

(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
Còn người gặp vị vua sáng suốt sao phải chết đuối?)

Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.

Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo.

Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!

Người Thanh Chương.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương .
http://tcnao.net/showthread.php?t=43



III.PHÊ BÌNH


      VÀI SUY NGHĨ VỀ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI VỚI NGHIÊN CỨU THƠ CA và đóng góp mới của Nguyễn Tài Cẩn qua"Khảo sát về thơ Định Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm "(1) ( in trong Tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2008
      Hữu Đạt.

1. Cuộc đột phá của ngôn ngữ học vào lĩnh vực thơ ca

Từ cuối thế ký XIX về trước, việc nghiên cứu thơ ca ở hầu khắp các nước trên thế giới chủ yếu mới chỉ dừng lại ở truyền thống: nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng xã hội lịch sử . Theo phương pháp nghiên cứu của khuynh hướng này, tác phẩm văn học được coi là sự phản ánh lịch sử trong mỗi một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá tác phẩm văn học nói chung đều lấy việc phân tích nội dung trong mối tương quan của nó với xã hội- tức bối cảnh làm nên tác phẩm làm trọng.


Phương pháp nghiên cứu này, trên thực tế, đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận và nó đã ngự trị trong suốt một thời gian dài từ Aristote cho đến cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ này thì bản chất nghệ thuật của tác phẩm không được đánh giá một cách đúng mức. Đó là chưa kể việc áp đặt chủ quan của nhà nghiên cứu, một tác phẩm có thể bị xem xét lệch lạc theo cách của xã hội học dung tục. Để khắc phục tình trạng trên, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một nhóm các nhà lý luận văn học Nga và các nhà nghiên cứu thuộc nhóm các nhà ngôn ngữ học trẻ Moskva đã thành lập ra một Hội nghiên cứu riêng, gọi là Hội nghiên cứu thơ ca.

Những thành viên tích cực của Hội nghiên cứu này là các nhân vật nổi tiếng như Jakubinski, O. Brik, V. Novikov, B Tomashevski, B. Eikhenbaum, V.Shklovski, Jacovson.. Cương lĩnh của Hội nghiên cứu này chủ trương dùng phương pháp phân tích hình thức đối với tác phẩm văn học nghệ thuật thay thế cho phương pháp nghiên cứu truyền thống theo hướng xã hội lịch sử. Trong đó, lần đầu tiên, ngôn ngữ được coi là một đối tượng nghiên cứu vô cùng quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp nghiên cứu mới này, Hội nghiên cứu thơ ca Nga đã tạo nên một trường phái nổi tiếng toàn thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước và là nguyên nhân hình thành nên nhiều trường phái thi pháp học hiện đại. Những lý thuyết quan trọng của nó đã tạo nên một học thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học, trong đó có các khoa học như ngôn ngữ học, văn học...Lý thuyết của trường phái này được gọi là lý thuyết của chủ nghĩa hình thức.

Có thể nói, việc hành thành chủ nghĩa hình thức Nga là một bước tiến bộ vượt bậc trong nghiên cứu thơ ca nói riêng và nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung. Nó mở ra một chân trời mới cho việc áp dụng các thành tựu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu nghệ thuật. Bởi vậy, ngay từ những khởi động đầu tiên, các tácgiả nổi tiếng của chủ nghĩa hình thức Nga đã vận dụng các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học của Baudouin de Courtenay và Sherba, cụ thể là đã vận dụng các tri thức về ngữ âm học vào việc nghiên cứu thi pháp học. Một loạt các vấn đề như: lý thuyết về chủ âm, hệ chủ đề ( được hình thành qua thủ pháp ngôn ngữ), chức năng thi học của ngôn ngữ, hình ảnh của từ... đã được đặt ra trong các công trình thi pháp học của Jacovson, Tomashevski...Ngoài ra, những thành tựu nghiên cứu về ngôn ngữ học tâm lý của nhà ngôn ngữ nổi tiếng Potebnia cũng bắt đầu được vận dụng vào việc phân tích các yếu tố ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật.

Những đóng góp của các nhà chủ nghĩa hình thức Nga có ý nghĩa cực kỳ to lớn cả lý thuyết lẫn thực tiễn đối với việc nghiên cứu nghệ thuật nói riêng và văn học nói chung. Chính vì thế, nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp Jean Tardie đánh giá " Chủ nghĩa hình thức Nga là trường phái cách tân nhất thế kỷ" ( [13], tr12). Có thể nói, các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi hẳn một số khuynh hướng nghiên cứu văn học. Đặc biệt, sau khi lý thuyết ngôn ngữ học đại cương của F.de. Saussure ra đời thì nhiều vấn đề như: phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp so sánh loại hình, đặc điểm tín hiệu, tính hệ thống của ngôn ngữ... ngày càng được nghiên cứu sâu. Giờ đây, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngữ âm nữa.


Nó đã được mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác và thậm chí cả một số vấn đề của phương pháp luận. Chính vì thế, ở Việt Nam có một số nhà ngôn ngữ học còn dùng chính các phương pháp nghiên cứu vốn quen được dùng trong ngôn ngữ học ( như phương pháp miêu tả, phương pháp cải biến, phương pháp so sánh, đối chiếu...) để nghiên cứu thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Đó là các tác giả như Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Phan Cảnh, Hữu Đạt, Mai Ngọc Chừ.... Tính ưu việt của cách nhìn ngôn ngữ học đối với thơ ca là ở chỗ, nó đưa đến cho ta một kiểu tư duy hoàn toàn mới về cách tiếp cận tác phẩm văn học. Còn việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học này đối với văn học sẽ cho ta những luận cứ khách quan để giải thích các hiện tượng phức tạp của văn chương mà nếu phân tích theo hướng lý luận, phê bình sẽ gặp những bế tắc không giải quyết nổi.

Nhất là những trường hợp, khi một tác phẩm có nhiều dị bản thì việc truy tìm nguyên tác càng không thể dựa vào cách nghiên cứu văn học theo con đường truyền thống. Bởi, đời sống hiện thực, xét cho cùng chỉ là môi trường mà nhà nghệ sĩ thâm nhập vào đó để tái tạo lại bóng hình của nó theo con đường sáng tạo riêng của mình. Còn ngôn ngữ mới đích thị là sản phẩm của anh ta. Nó là cái bề mặt của tác phẩm, là cái để biểu thị nên tư tưởng và các giá trị hình tượng. Nếu không thông qua thao tác làm việc của ngôn ngữ học, thì việc phân tích văn chương nói chung và thơ ca nói riêng sẽ không thoát khỏi tình trạng cảm tính, thậm chí mơ hồ. Đó là chưa nói đến các tình trạng thẩm định sai dẫn đến chỗ bình tán tùy tiện làm cho hình tượng tác phẩm bị méo mó không đúng với bản chất của nó.


Trong các thể loại của văn học, thơ là một thể loại rất độc đáo trong sử dụng ngôn ngữ. Có không ít bài thơ, nếu ta chỉ tiếp cận bằng con đường nghiên cứu theo truyền thống cũ sẽ không phát hiện được ra điều gì. Nhưng nếu tiếp cận bằng con đường ngôn ngữ học, tình hình sẽ khác hẳn. Chẳng hạn, với một số bài thơ như " Chùa Đọi" của Nguyễn Khuyến, " Nhớ đồng" của Tố Hữu...việc phân tích bằng con đường ngôn ngữ học đã làm sáng tỏ những nhầm lẫn mà lý luận phê bình văn học mắc phải hàng trăm năm và nửa thế kỷ nay.

Có không ít người đã nhầm tưởng rằng, nói tới việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học vào văn học là chỉ tới nói việc thống kê hay giải thích từ ngữ trong tác phẩm. Thực ra, đó là một cách hiểu quá đơn thuần vì vai trò của ngôn ngữ học đối với nghiên cứu văn học không chỉ dừng lại ở đó. Nó có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Một mặt, nó cung cấp cho ta những cơ sở khoa học để lý giải các quá trình hình thành nên nghĩa hình tượng của tác phẩm. Mặt khác, nó còn tạo ra những khả năng đặc biệt mà bộ môn lý luận, phê bình khó có thể vươn tới được. Đó là việc vạch ra những nét đặc trưng về phong cách trong mỗi nhà văn, nhà thơ; thậm chí cao hơn, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối với văn học còn chỉ ra được những nét đặc trưng của phong cách thời đại hoặc phong cách của mỗi trào lưu văn học cụ thể.



Đặc biệt, với các tác phẩm thơ ca có sử dụng biện pháp chơi chữ ( như thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Dương Quảng Hàm...), nếu không dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ học thì không thể nào phát hiện ra được sự độc đáo trong cách dùng ngôn ngữ của nhà thơ cũng như tính độc đáo của tiếng Việt. Chẳng những thế, một số kết quả nghiên cứu thơ ca theo hướng này còn góp phần bổ sung, giải thích sâu hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, về đặc điểm loại hình ngôn ngữ cũng như về văn hóa ngôn từ của người Việt. Như thế, thực chất,dù trực tiếp hay gián tiếp nó đã làm phong phú thêm nhiều cho lý thuyết về phương pháp nghiên cứu liên ngành đối với nghiên cứu văn học.

2. Việc nghiên cứu thơ ca cổ-trung đại Việt Nam

Từ trước đến nay hầu như mới chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu truyền thống ( theo hướng xã hội lịch sử). Bởi thế, có khá nhiều hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu vấp phải tình trạng bế tắc, không có khả năng giải quyết. Chẳng hạn, với bài thơ " Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị, nếu chỉ khảo sát theo phương pháp của lý luận, phê bình văn học thì mới chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ tài năng và phong cách thơ ca của vị vua hay chữ này.


Nhưng khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học vào để khảo sát nó, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra một kết quả độc đáo khiến ai cũng phải sững sờ. Hóa ra, về hình thức đó chỉ là một bài thất ngôn bát cú, nhưng bên trong nó lại chứa đựng một chiều sâu thăm thẳm của tư duy. Một bài thơ, nhưng có tới 128 cách đọc, tức 128 bài thơ khác nhau, với rất nhiều cách gieo vần khác nhau. Sự độc đáo này có lẽ chỉ tìm thấy ở một ngôn ngữ đơn lập điển hình kiểu như tiếng Việt chứ không thể có ở các ngôn ngữ biến hình, lập khuôn hay chắp dính...

Trước tình hình như đã nói, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học để nghiên cứu văn học là một đòi hỏi cấp bách. Có thể nói, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một trong các nhà ngôn ngữ học đầu tiên đã đáp ứng được đòi hỏi này. Như ta đã biết, do bối cảnh thời gian và hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay nhiều tác phẩm văn học cổ Việt Nam ( đặc biệt là thơ chữ Hán và chữ Nôm) vẫn còn ẩn chứa rất nhiều vấn đề mà nếu nghiên cứu theo phương pháp lý luận và phê bình văn học sẽ không thể đụng chạm tới. Thứ nhất, chữ Hán và chữ Nôm vốn là loại văn tự khối vuông, có nhiều nét phức tạp.

Mỗi nét, mỗi dấu của nó đều có những ý nghĩa riêng, bởi vậy nếu chỉ mất một nét hay dấu nào, hoặc mờ một chút thì có thể gây ra những biến dạng khác nhau, dễ làm nên hiện tượng đa nghĩa hoặc mơ hồ về nghĩa. Đó chính là lý do khi sao chép lại các văn bản gốc, người viết có thể tự ý nhuận sắc lại bản thảo theo cái cách riêng của mình. Thứ hai, văn cổ Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh kỹ thuật in ấn của ta chưa hình thành hoặc hình thành rồi thì mới ở giai đoạn sơ khai ( khắc in trên gỗ). Việc sao chép văn bản được coi là phương thức chủ yếu để lưu truyền và phổ biến trong dân chúng. Việc sao chép văn bản, như đã nói, thường gây ra nhiều dị bản khác nhau đối với cùng một tác phẩm văn học.


Thời gian trôi qua, đến nay, việc xác định lại xem đâu là văn bản gốc quả không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp của lý luận và phê bình văn học thì tình hình không tránh khỏi những bế tắc không thể giải quyết. Điều này chúng ta đã gặp nhiều hiện tượng như khi khảo cứu "Truyện Kiều" của Nguyên Du, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Trung Ngạn...

Trong bức tranh phức tạp như đã nói, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca cổ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó cho ta một cách nhìn mới về các văn bản nghệ thuật vốn là một kho tàng quí báu của văn hóa truyền thống và tiếng nói dân tộc.

Mặt khác, những miêu tả và phân tích theo hướng này sẽ mở ra một con đường đáng tin cậy trong cách tiếp cận văn bản. Hiệu quả tích cực của nó là, đối với các văn bản có nhiều biến thể, việc phục nguyên lại nguyên tác sẽ có những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Đối với các trường hợp còn nghi vấn đối với văn bản về dùng từ hay cách giải thích nghĩa, việc vận dụng các thao tác và thủ pháp phân tích ngôn ngữ học sẽ cung cấp cho ta những luận cứ xác thực để chứng minh và lý giải các hiện tượng nói trên. Đây là trường hợp Nguyễn Tài Cẩn phân tích hiện tượng độc đáo trong cách đọc bài thơ "Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị [4, 340] hoặc, thơ Nguyễn Trung Ngạn {4,304], hoặc bàn lại một số câu, số chữ trong Truyện Kiều [3,37-54].... Chẳng hạn, câu 1019,1020, các bản Kiều đời Tự Đức ( 1871, 1872, 1875, 1879, 1884) đều ghi:
Kiếp này nợ giả chưa xong /Làm chi thì cũng một chồng kiếp sau

Nhưng Nguyễn Tài Cẩn sau khi phân tích những diễn biến cú pháp của nó lại cho rằng, đây là một chữ viết tắt, có thể do mờ mà người chép không nhận ra hoặc do người chép đùa nghich mà chữ "nợ" lại được đổi thành chữ "một". Bởi thế nên hiểu câu này là:

Kiếp này nợ giả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. [3,45].

Cũng bằng phương pháp so sánh và đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã đi đến giải thích đúng đắn chữ "lạt" và chữ "nhàm" trong câu 1089,1090.

Thấy nàng lạt phấn nhàm son
Mừng thầm được Thóp bán buôn có lời.

cần được hiểu là Bạc Bà thấy Kiều đẹp đến nỗi phấn son phải nhạt đi mới chính xác. Nếu hiểu theo tinh thần như vậy thì cũng không lấy làm lạ khi có một số bản Kiều khác nhau lại thay chữ "nhàm" bằng chữ "bạt" [3, 46-47].

Sử dụng các thành tựu nghiên cứu và phương pháp của ngôn ngữ học rõ ràng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn bản nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu thơ ca cổ. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng con đường này còn khắc phục được những sai sót của quá trình dịch từ chữ Hán hoặc chữ Nôm sang chữ quốc ngữ hoặc cách hiểu chưa đúng hình tượng của từ và hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Hữu Đạt trong công trình [8] đã chứng minh, chữ "nen" trong Truyện Kiều ở câu 48 không phải là động từ "nêm" hay "nen" ( chen) với nghĩa là "chen chúc" như trong cách hiểu của Từ điển Đào Duy Anh[1, 263] và như nhiều người thường nghĩ bấy lâu nay.

Theo tác giả, đây là một danh từ được dùng theo tiếng địa phương Nghệ Tĩnh là "cánh con cào cào châu chấu"[8, 144]. Còn chữ "ngài" trong câu thơ tả ThúyVân (câu 20) không phải là chữ "ngài" theo cách hiểu của Đào Duy Anh. Nó là chữ "người". Vì vậy, "nét ngài' ở đây không thể được hiểu là "lông mày" mà phải hiểu là "co người" mới đúng. Qua phân tích, ông còn chứng minh thêm, chữ "ngài" ở câu 2167 tả Từ Hải dứt khoát không phải là chữ "ngài" theo cách giải thích của cụ Đào Duy Anh với nghĩa " thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỷ dụ lông mày" [1,274] mà là chữ "đồi" ( mày của con chim đồi- một loài chim trong họ chim phượng hoàng[9, 231]. Với cách nhìn văn bản thơ từ góc độ ngôn ngữ học, tác giả Hữu Đạt đã nêu ra kết luận, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du có ba chữ "ngài" hoàn toàn khác nhau. Đó là ba chữ đồng âm, nhưng khác nghĩa [9, 227-232].


Qua một vài ví dụ vừa nêu, ta có thể thấy tính ưu việt của phương pháp phân tích ngôn ngữ học đối với văn bản nghệ thuật. Nó càng trở nên quan trọng hơn khi đi sâu vào nghiên cứu các loại văn bản có nhiều dị bản để xác minh hoặc phục nguyên lại văn bản gốc. Khi tiến hành khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm, Nguyễn Tài Cẩn có ý thực hiện mục tiêu này.

Trước hết cần nói rằng, Đinh Nhật Thận là một danh nhân của xứ Nghệ, một vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử. Ông là người đậu đầu bảng tiến sĩ thời Minh Mạng thứ 19 và là người trẻ nhất trong kỳ thi này. Với tài năng xuất chúng, nhưng sinh ra không hợp thời, Đinh Nhật Thận gặp khá nhiều trắc trở trong con đường công danh. Chỉ vì tài làm thơ mà trong thời nhiễu loạn, ông bị hiểu lầm là tay chân của Cao Bá Quát, có mưu đồ chống lại triều đình. Cuối cùng ông bị bắt giam.

"Thu dạ lữ hoài ngâm" là một tác phẩm thơ được ông sáng tác trong lúc bị giam lỏng ở kinh đô. Tác phẩm thơ này phản ánh nỗi buồn xa quê của một người có nhiều tâm sự, đồng thời cũng là bức tranh thủy mạc về cảnh đẹp của đất nước chốn Bình sơn hương thủy. Ngoài giá trị về văn học, nó còn là một cứ liệu sống động về các hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX. Vì thế, công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật thận qua thu dạ lữ hoài ngâm"(2) là một công trình có đóng góp quan trọng cả đối với nghiên cứu thơ cổ trung đại Việt Nam và cả về phương diện ngôn ngữ học trong khuôn khổ tìm hiểu một số vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt.


2.1. Đóng góp về phương diện văn bản học

Nhờ có việc công bố cuốn sách, nay bạn đọc có thể xác định được cái văn bản có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 chóp núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Trước hết cần khẳng định, đây là một đóng góp hết sức quí về mặt tư liệu của anh em Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn đối với việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ đơn thuần là một tài liệu có giá trị về mặt ngữ văn mà còn là một tài liệu quí về phương diện sử học.

2.2. Những đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn về mặt ngôn ngữ học

Trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn chủ yếu phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu để phân tích văn bản. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, ông còn dùng phương pháp thay thế, giả định để chứng minh những chữ, những từ đáng nghi vấn kết hợp với việc phẩm bình văn chương từ góc độ cảm thụ ở một chừng mức vừa đủ nhằm làm sáng rõ các luận cứ trình bày. Trên đại thể, có thể coi đây là một phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lấy góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học làm cơ sở. Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi

Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi về sự sai sót hay nhầm lẫn cũng đã là một việc hết sức công phu, đòi hỏi ngoài sự kiên trì còn phải có khả năng tinh tế trong thụ cảm ngôn ngữ. Nhờ có vốn uyên thâm về Hán học, lại thêm tri thức hiện đại về ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn đã chọn lọc và tách ra được rất nhiều hiện tượng liên quan đến sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng ngôn ngữ của ba loại văn bản hiện có.

Với một sự lao động cần mẫn, tỉ mỉ và thật sự khoa học, ông đã cung cấp cho người đọc nhiều điều vô cùng thú vị về những biến đổi trong quá trình hành chức của các đơn vị ngôn ngữ ở mỗi cấp độ khác nhau. Trong toàn bộ phần nghiên cứu cơ bản ( tập trung ở chương II phần I ), ông đã cố gắng đứng ở vị trí thật khách quan khoa học để lý giải những chỗ còn nghi vấn từng câu thơ, đoạn thơ và trong toàn bộ tác phẩm. Thao tác nghiên cứu mà ông thực hiện tập trung nhất là luôn luôn hướng vào việc so sánh ba bản chép tay và khắc in, sau đó đối chiếu từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ trong bản của Nguyễn Tài Chất và hai bản còn lại.

Chính vì thế, ông đã đưa ra những nhận xét rất đáng tin cậy. Cụ thể, sau khi khảo sát 980 chữ của toàn bộ bài thơ, ông đã tìm ra 85 trường hợp được dùng với các dị bản khác nhau ( tr 18). Đây quả là một con số không nhỏ. Nó cảnh báo cho ta những lưu ý cần thiết khi tiếp cận không chỉ với "Thu dạ lữ hoài ngâm" mà còn cả với các tác phẩm thơ cổ điển khác nữa. Còn riêng trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã tổng kết một số sai sót tạo thành qui luật. Cụ thể, với bản của Nguyễn Văn Đề, ông lưu ý một số trường hợp:

+Cách viết mâu thuẫn với cách đọc.
Ví dụ: đọc là "tiêu điều" thì lại khắc là "vạn điều"(câu 59), đọc là "thùy" lại in là "thính"( câu 83)...
+Cách đọc không nhất trí với các từ điển Hán Việt. Ví dụ: "Diệt" được đọc thành "duyệt" ( câu 63), "ngọ mị" được đọc thành "mụ mị" ( câu 65)...
+ Viết sai so với chữ Hán bình thường. Ví dụ: Chữ "di" ở câu 9, chữ "tăng" ở câu 47...

Với bản của Nguyễn Tài Chất, ông cũng cho rằng có nhiều chỗ sai do nhớ nhầm. Chẳng hạn, đổi "sơ liêm" thành "rèm thưa" (câu 2), "lưỡng tam thanh" lại chép thành"lưỡng tam chi"...

Qua đối chiếu từng câu, từng chữ trong mỗi dị bản, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện trong bản 1902 có nhiều sai sót hơn cả ( tr 16-17). Đó chính là lý do ngôn ngữ học để ông nhận định, trong ba bản nói trên thì bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Nguyễn Văn Đề gần với nguyên tác hơn.

Tất nhiên, để nêu lên được những nhận định và kết luận có tính khái quát như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải vận dụng cách tư duy ngôn ngữ học để miêu tả và phân tích các hiện tượng. Đây là phần nghiên cứu công phu nhất.

Chẳng hạn, khi phân tích câu 35 và câu 36:

An năng mộ mộ......................... hiên
Phong dao đình trúc, nguyệt huyền ốc lương"

ông cho rằng không nên dùng "tây hiên" mà phải dùng "thư hiên" như trong bản của Nguyễn Tài Chất mới hợp lý. Bởi, " rõ ràng chỉ ở trong THƯ HIÊN thì chuyện "thấy được trăng treo trên tường nhà" mới có giá trị [5, 20].

Nếu phương pháp so sánh và đối chiếu giúp ông có thể phát hiện ra được những sai sót, nhầm lẫn của từng văn bản thì biện pháp phân tích theo cách nhìn hệ thống lại giúp cho ông có được cách nhìn bao quát để đánh giá việc hợp lý trong cách sử dụng các biến thể. Nói một cách khác, đó chính là việc lựa chọn các khả năng có thể có ở cùng một vị trí kết hợp để tìm ra một từ/một chữ có nghĩa nét nhất trong việc xây dựng hình tượng đồng thời đảm bảo tính liên kết hệ thống của văn bản.

Chẳng hạn, khi phân tích câu 121, ông cho rằng, việc dùng chữ "kì huynh" như bản 1902 và bản của Nguyễn Văn Đề " Kì huynh diệc viết hạnh tai" là chưa đạt vì chữ "kỳ" mơ hồ, không rõ nghĩa. Trong khi đó, bản của Nguyễn Văn Chất lại dùng chữ "ngô" (= ta) thì lại ăn khớp với chữ "ngô" trong câu 123 sau đó [5, 20].


Nói đến hoạt động của ngôn ngữ thơ ca không thể không nói tới thao tác lựa chọn. Nhà ngôn ngữ học đồng thời là nhà nghiên cứu thi pháp học nổi tiếng Jacovson đã từng nhấn mạnh, nguyên tắc hoạt động của ngôn ngữ thơ là "chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp [14,56].

Việc lựa chọn một yếu tố nào đấy trên trục tương đương/ trục hệ hình hoàn toàn không có tính ngẫu nhiên mà nó được qui định bởi văn cảnh. Do vậy, với câu thơ 129 và 130, theo các tư liệu mà Nguyễn Tài Cẩn đưa ra so sánh có thể cho phép ta nhận định, ở câu 129 thì nên dùng từ"sau" thay cho từ "nhà" như bản Nguyễn Văn Đề và Nguyễn Tài Chất, còn ở câu 130 thì nên dùng"hồi hương" như bản Nguyễn Văn Đề chứ không dùng "hồi trang" như bản của Nguyễn Tài Chất và bản 1902. Bởi, dùng từ "sau" thì câu 129 mới liên kết chặt chẽ với câu 127 theo quan hệ tiếp nối thời gian. Còn dùng từ "hồi trang" thì câu 129 không tạo thành vần thông với câu thơ tiếp theo đó ( câu 131). Cụ thể, đoạn thơ này sẽ là như sau:

Từ phen cất chén quan hà
Vị thành lúc ấy rồi mà Dương quan
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động
Hai anh ta có chóng hồi hương
Thương ôi đồng bệnh cùng thương
Một Tần lại một Tiêu tương một thời.


Ngoài việc vận dụng các thao tác phân tích ngôn ngữ học, Nguyễn Tài Cẩn còn hết sức quan tâm đến quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa giữa tiếng Hán và tiếng Việt để bổ sung thêm một số căn cứ khoa học giúp cho việc nhận diện các hiện tượng còn tồn nghi hoặc chưa có kiến giải rõ ràng. Bởi vậy, có thể xem chương III của Phần I là chương củng cố các lập luận được trình bày trong phần khảo sát văn bản thuộc chương II. Tại chương này, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của thơ chữ Hán đối với thơ Việt làm theo thể Đường luật, nhưng cũng nhấn mạnh đến những điểm khác biệt do quá trình diễn biến lịch sử.

Cụ thể, ông nhấn mạnh đến ảnh hưởng xấu của cách gieo vần không hài hòa trong thơ Hán Việt vào thơ ngũ ngôn, thất ngôn thuần Nôm [5,109]. Ngoài ra, ông còn lưu ý độc giả quá trình diễn biến của cách đọc HánViệt đến lúc này đã xa so với tiếng Hán thời Quảng Vận, cho nên văn bản thơ đang khảo sát khó bảo lưu được 100% sự đồng vận theo qui tắc của thơ tiếng Hán. Chính vì thế, ông kết luận "hiện tượng gieo vần mất hài hòa là một hiện tượng các nhà thơ Việt bắt buộc phải chấp nhận. Và khi đã quen chấp nhận trong thơ Hán Việt thì dần dần họ cũng áp dụng sang cả thơ Nôm" [5, 120].


Những kết quả nghiên cứu rất có giá trị của công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm ", một lần nữa lại cho thấy vai trò quan trọng của việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu và các thao tác phân tích ngôn ngữ học đối với thơ ca, đặc biệt là đối với thơ cổ trung đại Việt Nam. Đó cũng là một công trình có đóng góp không nhỏ vào việc hình thành môn thi pháp ngôn ngữ học trong nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật.




____

Chú:
(1) Nxb ĐHQG Hà Nội năm 2008.
(2) Đinh Nhật Thận, tự là Từ Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh, ông là chắt nội của Hấu đốc Lĩnh Đinh Nho Côn. mất năm Bính Dần (1866) tại quê nhà.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
Đào Duy Anh.1974. Từ điển Truyện Kiều. Nxb KHXH.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2002.Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Trị 1872. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2008.Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Phan Cảnh.1988. Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH&THCN.
Mai Ngọc Chừ. 2005 . Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học. Nxb VHTT.
Hữu Đạt. 1993. Jazưk kak Vietnamskoi poezii. Rossiiskaja Akademija nauk. Institut Jazưkoznanija. Moskva
Hữu Đạt. 1996. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ và ca dao nhìn từ góc độ giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hữu Đạt. 2000. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb KHXH.
Hữu Đạt. 2007. "Đất nước"- một hình tượng đặc sắc về Tổ quốc và sự cách tân trong ngôn ngữ thơ. Tạp chí Thơ, số 6.
Hữu Đạt. 2007. Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 11. Nghệ thuật như là thủ pháp. 2001. Nxb Hội Nhà văn.
Roman Jacovson.2001. Ngôn ngữ học và thi học. Tạp chí Ngôn ngữ, số 14.


Hữu Đạt
http://huudat.net/%28A%28rER8ecj3ygEkAAAAYjllNjQzZjUtZWU5Ny00MzcwLWE3YzYtYWUyOGEzYzk3MjIxXLFrxK6mKjNQ4thM2wGQlnLcD7o1%29S%28npifypy2cwskvc55wergwnvy%29%29/ShowArticle.aspx?ID=31

***
Khởi công ngày 15 tháng 2 năm 2010
Hoàn thành ngày 20 tháng 3 năm 2010
Nguyễn Thiên Thụ



ĐẨU TIẾP * TRONG 99 CHÓP NÚI 2


*




II. THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

(T99, 53)

Bài này tìm thấy trong tủ sách của cụ Nguyễn Hàm Ninh để lại. So sánh với các bản của các học giả khác đã sao chép lại thì thấy sai thù nhiều chỗ, song vẫn đúng đắn hơn, nên ký giả cứ biên theo.
Về sự dịch nghĩa, ký giả muốn sao mỗi chữ bên trên Hán văn đều có dịch ra quốc âm (có thế mới là dịch). Song dịch một cách công phu và câu nệ như thế, tất phải có một vài câu không được êm ả trôi chảy bằng cách thoát dịch, mong độc giả suy xét mà lượng thứ cho.

(T99, 54)

THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

秋夜旅懷吟

DIỄN ÂM VÀ GIẢI NGHĨA



1.秋 夜 靜 天 光 隱 約
2.隔 疎 簾 淡 酌 金 罍
3.天 時 人 事 相 催
4.浮 生 若 夢 幾 回 爲 歡


Thu dạ tĩnh, thiên quang ẩn ước,
Cách sơ liêm đạm chước kim lôi.
Thiên thời, nhân sự tương thôi,
Phù sanh nhuợc mộng kỷ hồi vi hoan?

Dịch nghĩa:
1.Đêm thu lặng lẽ, thấp thoáng sáng giời.
2, Cách rèm thưa (1), thoảng rót chén rưọu con bằng vàng.
3. Thời, trời và việc thúc giục nhau.
4. Kiếp phù sinh ngắn như giấc mộng, được mấy hồi mà bày trò làm vui ( như thế này?)


(1).Vì có chữ rèm thưa nên trên có chữ thấp thoáng Ngồi trong rèm nên thấy ngoài rèm trời thấp thoáng sáng.


5. 人

6.景
7.
8.

Nhơn đối cảnh, hoa gian nguyệt chiếu,
Cảnh liêu nhân, thụ diếu phong xuy.
Giá ban liệu thiểu nhân tri,
Nhàn lai phong nguyệt dữ thùy vi thu?

5. Người ngắm cảnh (thấy ) trăng rọi giữa lòng hoa.
6. Cảnh trêu người ( xui) gió thổi trên ngọn cây.
7. ( Phong cảnh hữu tình dường này) liệu chừng cũng it người biết.
8.Trong lúc thong thà cùng ai trông trăng hứng gió làm cho ra vẻ thu?


9.詩 (2)
10.酒
11.燈
12.傷 (3)

Thi tứ tuyệt di du nhã ái,
Tửu tam bôi tiêu sái li hoài.
Đăng tiền độc đối thư trai,
Thương tâm khách địa hữu hoài cổ nhân.


(T99, 56)
9.Ngâm bốn câu thơ làm vui, vì tánh mình vẫn thích ngâm vịnh.
10. Mượn ba chén rưọu rửa sạch mối sầu biệt ly.
11. Trong phòng văn, một mình ngồi đối ngọn đèn.
12. Chạnh lòng đất khách sực nhớ người xưa.

____

(2).Trong 99 Chóp Núi ghi di du bộ thủy song xem các tự điển ngày nay chỉ có bộ tâm, nghĩa là vui vẻ.
(3). Sách cũ ghi bộ tâm.



13.香
14.從
15.徘 徊
16.寒


Hương thủy ngoại hốt văn ngư vận,
Tùng hà lai, trạo tấn giang biên,
Bồi hồi nguyệt dạ sương thiên,
Hàn sơn ám nhận khách thuyền cánh phi.

13. Ngoài sông Hương chợt nghe tiếng hò mái đẩy của phưòng chài.
14.Từ đâu mà kéo đến bến sông thế nhỉ?
15.Đêm trăng trời sương luống bồi hồi.
16. Đoán chứng là thuyền khách non Hàn,

(T99, 57)
té ra không phải.(1)

___

(1). Trương Kế
張繼 tự Ý Tôn (thế kỷ 8), một thi hào đời Đường, một đêm thu kia, dạo thuyền qua Phong Kiều, gần núi Hàn Sơn, đậu thuyền lại ngủ. Song vì không ngủ được, nên đêm đã khuya, trời đã gần sáng mà lão còn mơ màng tưởng là mới nửa đêm, nên có bài thơ:


月落烏 啼 霜 滿 天,
江 楓 漁 火 對 愁 眠,
姑 蘇 城 外 寒 山 寺
夜 半 鐘 聲 到 客 船

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên.
Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
(Xem tiếp trang 82)

Xem nghĩa sau bản dịch của Nguyễn Hàm Ninh:
Quạ kêu trăng lặn trời sương,
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô?
Nửa đêm nghe tiêng chuông chùa Hàn Sơn.(T99,82)



17.

18.

19.

20.
令 人

Khúc giang thủy hà thì Đại Đổ?
Nhất cô châu hệ cố viên tâm.
Thời lưu bát thủ thi ngâm,
Linh nhân lữ tứ chuyển thâm hương tình.

17.Trên sông Khúc, ngày nào nhà thơ Đỗ Phủ
18.Buộc giây lòng quê ở lá

(T99, 58) thuyền cô (1)
19.Lúc ấy để lại tám bài thu hứng. .
20.Khiến người có tứ lữ du, bỗng nặng lòng cố quận.

__

1.Thuyền cô:Nhà thơ Đỗ Phủ, danh tiếng nhất đời Đường một mùa thu làm khách ở trên sông Khúc làm ra tám bài thu hứng, trong có câu rằng:
"Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô châu nhất hệ cố viên tâm"
Nghĩa là" khóm cúc thêm tuôn hàng lệ cũ,/Con thuyền một buộc tấm lòng già.(Lời dịch của người xưa)



21.

22.
23.
24.

Tích ngã vãng thanh thanh liễu nhứ,
Lưỡng tam thanh sơ ngữ hoàng oanh.
Nhi kim cúc dĩ hàm anh,
Liễu âm đình ngoại hàn minh lưu thiền.

21.Xưa ta đi thanh thanh liễu nhứ
22.Chim hoàng oanh vừa thỏ thẻ vài tiếng.
23.Mà nay cúc đã ngậm vàng,
24.Trong bóng liễu ngoài thềm tiếng ve kêu đã lạnh.


25.昔翻 翻
26.
27.
28.

Tích ngã khứ, phiên phiên đào kiểm
Lưỡng tam chi sơ chiêm đông phong.
Nhi kim lan dĩ thàng tùng,
Đào yêu hiên ngoại lạc tòng hàn sương.

25.Xưa ta đi thì nụ đào chúm chím.
26.Gió đông mới điểm một đôi cành.
27.Mà nay lan đã thành chùm
28.Hoa đào ngoài hiên đã rụng theo sương lạnh.

(Bốn câu này giống ý với bốn câu 21,22,23,24 ở trên)

29.胡 為 乎 淒'涼 客舍
30.日優 遊 幾 個 冠 童
31. 安 能 夜 夜 書 房
32. 芭 蕉 泣 露 昆 虫 鳴 秋

Hồ vi hồ thê lương khách xá,
Nhật ưu du kỷ cá quán đồng
(T99, 60)
An năng dạ dạ thư phòng?
Ba tiêu khấp lộ, côn trùng minh thu.

29. Làm chi vậy nhĩ? buồn bã, lạnh lùng nơi nhà khách,
30. Ngày làm bạn với mấy thằng học trò vừa biết đội khăn.
31. Sao mà cứ chịu đêm đêm ngồi ở phòng sách
32.( Mà lắng tai nghe) giọt sương khóc trên tàu chuối và tiếng dế kêu giữa đêm thu?

(Khúc này sẽ đối với bốn câu kể đây)

33.
胡 為 乎
34.歲 逡 巡
35.安 能 西
36.

Hồ vi hồ di do lữ quán,
Tuế thoan tuần dĩ bán sương yên.
An năng mộ mộ tây hiên,
Phong dao đình trúc, nguyệt huyền ốc lương.

33.Làm chi vậy nhĩ?cứ lần lừa nơi quán trọ
34.Thấm thoắt sương khói đã nửa năm trời
35.Sao mà cứ đêm

(T99. 61) đêm ở hiên tây.
36
.( Ngồi nhìn) gió lay cành trúc trước thềm và mảnh trăng treo trên rường nhà.


37.
不 是 做 何 郞 投 筆
38.將 忠 肝 爲 國 從 軍
39.此 身 空 自 風 塵
40.坐 中 虛 視 寢 辰 徒 聞

Bãt thị tố hà lang đầu bút,
Tương trung can vị quốc tòng quân,
Thử thân không tự phong trần,
Tọa trung hư thị tẩm thần đồ văn


37.Nghĩ mình chẳng phải kẻ viết thuê
38.Cũng không phải là kẻ đem lá gan trung liệt vì nước
ra đầu quân ( cho đáng)
39.Cái thân này luống vì số phong trần mà xui ra như vậy.
40.Trong chỗ ngồi luống xem (mà thẹn), trong lúc nằm xuống nghe ( mà buồn)
- Bốn câu đó giống ý bốn câu sau:

(T.99,62)

41.不 是 做 何 捧 檄
42.將
43.他 盤 桓
44.

Bất thị tố hà nhân bổng hịch
Tương hiếu tâm ly thích tùng quan.
Tha hương hà sự bàn hoàn,
Bạch vân phi xứ mẫu đan khai thần.

41. Chẳng phải như ai vâng tờ hịch ( Bổng hịch :chiếu chỉ bổ nhậm)
42.Vì lòng hiếu mà phải từ giã bà con để đi làm quan.
43.(Thế thì ) việc gì mà cứ loanh quanh ở quê người.. .
44.Trong chỗ mây trắng bay và trong khi hoa mẫu đơn nở.

45.
46.
47.甑?
48.層'層 層

Kim nhật tự hải tần viễn cố,
Nhật khinh phàm trực độ quy lăng.
Hương hồn phất phất như tăng,
Trục phàm hốt dĩ phá từng từng ba.

45. Ngày nay từ nơi cửa bể trông ra đằng xa,
46.Một lá buồm nhẹ nhàng bay thẳng về cồn.
47.Lòng quê bỗng dưng sôi nổi như nổi nước nóng,
48.Theo lá buồm ấy đã vượt qua lớp lớp sóng đào.


49.
50.
51.
52.

Minh nhật tự sơn gia viễn thiếu,
Phiến cô vân đái hiểu phù không,
Hương tâm niểu niểu như bồng
Tùy vân hốt dĩ quá trùng trùng sơn.


49.Ngày mai từ cái nhà trên núi trông ra đằng xa,
50.Một làn mây cô, đeo ánh rạng đông nổi lên giữa trời.
51.Lòng quê bối rối như dây bòng bong.
52.Theo
(T99, 64) làn mây ấy chợt đã bay qua lớp lớp non xanh.
(Bốn câu đó gióng với 4 câu trên 45, 46, 47, 48)

53.
54. 盡 心
55.
56.

Hà xứ thị hương quan nhạn tín,
Du tai nan tả tận tâm tình.
Dạ văn Diệu Đế chung thanh,
Hải môn cổ hưởng ngự thành pháo thôi.

53.Tin nhạn ở quê làng nào thấy phương nào đâu?
54.Dài thay tấm tâm tình này, khó làm sao mà tả cho xiết được.
55.Đêm buồn nghe tiếng chuông chùa Diệu Đế.
56.Tiếng trống canh ngoài cửa bể, tiếng súng nổ trên mặt thành.


57.江 曲 曲 腸 廻 曲 曲
58.景 悠 悠 夜 復 悠 悠
59.蕭 條 舘 旅 亭 秋
60.鄰 家 椿 楮 江 頭 棹 聲

(T99, 65)
Giang khúc khúc, trường hồi khúc khúc,
Cảnh du du, dạ phục du du.
Tiêu (1) điều quán lữ đình thu,
Lân gia thung chữ, giang đầu trạo thanh

57.Sông từng khúc, ruột cũng từng khúc,
58.Cảnh thế mãi, đêm về lại thế mãi.
59.Buồn bã thay về thu nơi quán khách.
60.Tiếng chày giã gạo bên hàng xóm, tiếng chèo khua đầu sông.


__

1. Ấn công sắp chữ Vạn điều .nhưng phiên âm là Tiêu điều.




61.嗟 客 地 紆 萦 心 事
62.嘆 閨 人 情 緒 可 憐
63.更 深 燈 案 前
64.含 情 掩 扇 空 縣 月明

Ta khách địa hu oanh tâm sự
Thán khuê nhân tình tự khả liên
Canh thâm đăng diệt (1) án tiền,
Hàm tình yểm phiến không huyền nguyệt minh.

61.Thương mình nơi đất khách tâm sự bối rối ( như tơ vò)
62.Nghĩ đến bạn phòng khuê, mối tình mới đáng chua xót là dường nào?
63.Canh khuya ngọn đèn lu mờ trên án.
64.(Mình ai) ngậm sầu

(T.99, 66)
lấy quạt che mặt lại, luống để mặc vừng trăng sáng lạnh lùng treo (2)

____
1.Phiên âm là duyệt nhưng Hán văn ghi thích , có lẽ là diệt.
2. Thơ của Vương Xương Linh vịnh người cung phi có câu:" Khước hận hàm tình yểm thu phiến/ Không huyền minh nguyệt đãi quân vương". Ông Ngô Tất Tố dịch rằng:
"Thơ thẩn đêm thu che mảnh quạt/ Uổng treo vầng nguyệt đơi quân vương".





65.
66.
67.
68.

Cô chẩm lý tam canh ngụ mị (1)
Phiến u hoài thùy thị vi lân,
Tình đầu dạ bán vô nhân
Thụy lai báo điệp (2) tinh thần minh kê.

65.Trên gối mơ màng
66.Mảnh tình u uẩn có ai mà lấy làm thương cho mình.
67.Nửa đêm một mỉnh với một mảnh tình riêng, không có người nào chung với.
68.Hể chợp mắt ngủ, thì bướm đêm đã thoảng qua mộng, mà bừng mắt

(T99, 67) dậy thì gà đâu đã gáy bên tai.

___

1. Chữ này phiên âm là mụ mị, nhưng Thiều Chửu ghi là ngụ mị. Kinh Thi: ngụ mị cầu chi 寤寐求之 -thức ngủ cầu đấy.
Phải chăng cổ nhân dùng chữ Hán ngụ mị để đọc âm Việt là "mụ mị", hoặc chữ Hán đã biến thành nôm " mụ mị " nghĩa là mê ngủ, tối tăm, u mê, mơ màng?
2. Điệp: Trang Chu nằm mê thấy mình hóa bướm.





69.
70.
71.
72.


69.Hữu thời hoặc hương khuê tịch chiếu,
70.Hạ đường lai, dục tháo hoa lâu,
71.Hốt kinh yến tập nê sào.(1)
72.Loan tu chiếu cảnh. phượng sầu lai sơ.


69.Hoặc có lúc trong cửa buồng, ánh mặt trời tà giọi vào.
70.Bước xuống thềm lại muốn trở lên lầu hoa (để trang điểm nhan sắc)
71.Chợt thấy con én đương tha bùn làm tổ mà giật mình (rằng hạ đã sang thu)
72.Cho nên thẹn ngắm gương loan, biếng cài lược phượng
(Khúc ấy đối với khúc này.)


___
(1) Xem chú 1, tr,88.






73.
74.
75.
76.


(T99, 68)

73.Hữu thời hoặc chức cơ dạ tĩnh
74.Hô đồng lai sơ chỉnh đăng minh.
75.Hốt văn nhạn độ giang thanh,
76.Cơ dung túc đạp, thoa đình thủ phao.


73.Hoặc có lúc đương đêm thanh vắng, nàng ngồi trên máy dệt
74.Vừa gọi thằng ở tới, bảo nó khêu đèn lên ( định để gắng thức đêm mà dệt)
75.Bỗng đâu nghe tiếng nhạn bay qua sông không ngừng lại, biết là chim nhạn không đưa thư cho mình)
76.Thì chân biếng đạp máy, tay liền buông thoi.



77.
78.
79.
80.

81.悠悠
82.閨門
83.西
84.倚几


Khả lân dạ phần cao đại đán
Dạ trầm trầm bất kiến giai âm.
Trịch thoa vọng vọng đình âm,
Sương hàn tất suất xướng ngâm thanh sầu.

Vọng bất kiến du du ngã độc,
Cố khuê môn tái phục ngôn hoàn.
Thùy gia kê xướng tây lan,
Hàm tình ỷ kỷ khiêu tàn cô đăng.

77.Đáng thương thay, có đêm chong đèn đến sáng,
78.Đêm vắng vẻ chẳng thấy tin lành.
79.Nàng bèn ném thoi ( đứng dậy) ra lóng ngóng ở trước thềm.
80. Nghe sương rơi lạnh lùng, dế ngâm buồn bã!

81.Trông chẳng thấy ai, chỉ vò võ một mình ta.
82.Ngảnh lại phòng khuê, tự nhủ:thôi đi vào khỏi.
83.(Vào tới buồng chợt nghe) tiếng gà nhà ai gáy ở cái chuồng tại phía tây.?
(Ấy biết giời đã gần sáng).
84.(Nhưng hồn nàng ở đâu) nàng còn ngậm mảnh tình riêng, ngồi dựa ghế,
khêu mãi ngon đèn lẻ loi kia cho hao dầu, hết bấc.

(T99, 70)

85.
86.
87. 擥
88.

89.翻翻
90.
91.覘蝶戱蘭屏
92.悽 穿屩復行西園


Khả liên nhật đăng đình tự tảo,
Nhật tà tà bất đáo hồi thư.
Lãm y bộ bộ khang cù,
Thiền minh dương liễu đái sầu mi khan.

Vọng bất kiến phiên phiên ngã độc,
Cố cầm hiên cưỡng dục vi tình
Hốt chiêm điệp hí lan bình
Hàm thê xuyên cược phục hành tây viên.

85.Đáng thương thay, thường ngày ngủ dậy lên nhà trên thật sớm,
86.Bóng chiều đã xế vẫn chưa thấy thư về. (Bèn ra

(T99.71)
87. lủng thửng ngoài đường vừa đi vừa vày vò tà áo.
88.Tiếng ve kêu ở cành dương liễu khiến người ủ rủ mày sầu.
89.Trông chẳng thấy ai, luống trơ trọi một mình ta.
90.Bèn quay vào một cái chái mọi ngày thường đánh đàn. Cố gảy một khúc làm khuây.
91.Chợt trông thấy con bướm đùa với cành lan ở bình phong.
92.Ngậm sầu xỏ dép lại trở ra vườn tây.

93.
94.到歸
95.
96.關山

Kim tất vị thu thiên tình hảo,
Ngã lương nhân tương đáo quy kỳ.
Hoàng tri thế lộ nhiêu khê
Quan sơn thiên lý vị kỳ hạt lai.

93.Bây giờ hẳn nàng cũng nói rằng: Trời thu tươi tốt sáng sủa
94.Chồng ta có lẽ cũng tới ngày về.
95.Biết đâu đường đời éo le hiểm trở,
96.Non sông ngàn dặm đã dễ làm sao mà hẹn trước ngày về với nhau?

(T99, 72)

97.
98.抱衾裯
99.風
100.

Kim tất vị ngã ly vĩnh cửu,
Tự Trường An hoặc bảo khâm chù,
Phong tình quán tự phong lưu,
Phồn hoa thẩn hựu hoàng châu đế thành.

97.Rày hẳn nói rằng ta đi mãi không về.
98.Hoặc ở Trường An đã có người nâng khăn sửa túi rồi.
99. Cái thói phong tình cũng quen đi như cái tính phong lưu.
100. Đã là chỗ phồn hoa, lại là nơi đế khuyết ( nơi vua đóng đô) hèn chi mà chẳng. . .

101.也者
102.
103.
104.英雄 不

Cẩu phi hữu nhân tình dã giả,
Hồ nhi xuân nhi hạ nhi thu.

(T99, 73)
Do lai tử các hồng lâu,
Anh hùng bất trú, trượng phu nan trì.

101.Nếu không phải có lòng lắt léo như ai,
102.Thì sao mà cứ lần lừa hết xuân rồi qua hạ, hết hạ rồi qua thu?
103.Xưa nay những nơi lầu hồng gác tía
104.Dầu anh hùng, dầu trượng phu cũng không cầm lòng được thay.


105.
106.烟使
107.昂 藏少年
108. 風

Như thử giả, thùy tri chi giả
Yên ba trung sử ngã tâm sầu!
Ngang tàng khởi thiếu niên du,
Phong lưu cựu thái, giang hồ cố gia!

105.Nếu nàng nghĩ như vậy thì ai biết cho ta?
106.Trên sông khói sóng khiến

(T99.74) cho lòng ta thêm buồn.(1)
107.Há phải còn chơi ngang tàng như lúc còn trẻ.
108.Quen thói phong lưu ngày trước, lối giang hồ thuở xưa?

__

1.Thơ Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu:"Nhật mộ hương quan hà xứ thị?Yên ba giang thượng sử nhân sâu."Tản Đà dịch:" Quê nhà khuất bóng hoàng hôn/Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?"



109.
110.
111.
112.

Lữ cảnh mỗi tòng nga lý thống,
Hương hồn không hướng mộng trung du.
Giang sơn khách diệc tri hồ,
Tình trung cánh thiết lộ đồ gian nan.

109.Nơi đất khách thường ( mượn thú ngâm vịnh mà tiêu sầu lại thường khi) nhơn cuộc ngâm vịnh mà hóa ra đau đớn cho lòng.
110.(Trong lúc ấy), hồn quê luống vật vờ trong mộng

(T99,74)
111.Non sông ai có biết cùng chăng?
112.Trong lòng lại tha thiết nỗi đường sá gian nan.



113.
114.內 齊家
115.湟水
116.


Tuy viết dĩ tảo tần phụ sự,
Nội tề gia thượng tự tổ tiên.
Giản mao hoàng thủy vi kiền,
An tri chủ quỷ năng hiền phụ nhân.

113.Tuy nói việc đàn bà tần tảo,
114.Trong thì xem sóc việc nhà, trên thì thờ cúng tổ tiên.
115.Tuy rằng rau khe, nước suối cũng tỏ được lòng thành.
116.Nhưng đã chắc đâu làm tròn phận sự của một người đàn bà giỏi, tay hòm chìa khóa trong nhà?


117.
118.
119.
120.

Khả tri giả thập phần gia ấu,
Nhất môn trung cộng bảo vô nguy.
Biệt thời chính tại hài nhi,
Niên lai tưởng dĩ phát thùy nha sinh.

117.Duy một điều có thể biết chắc được là mười phần con trẻ nhà ta
118.trong một cửa đều được giữ gìn,đùm bọc, khỏi nguy hiểm gì
119.Lúc ta ra đi thì con ta chính lúc đương măng sữa.
120.Qua năm này, có lẽ răng đã mọc, tóc đã dài rồi.


121.
122.
123.
124.學堂


Khả ái giả kỳ huynh chi tử
Niên thập tam thập tứ trung lai.
Ngô huynh diệc viết hạnh tai,
Đẻ kim vị giác thùy khai học đường?


121.Dễ thương nhĩ! Thằng con của ông anh
122.Tuổi chừng mười ba, mười bốn trở lại.
123.Anh ta cũng nói rằng may

(T99.76) thay.
124. Chẳng biết ngày nay đã có ai mở trường(dạy cho cháu học chưa?)


125.
126.
127.
128.渭城 故人

Khả tư giả đồng song nhị khế,
Chi lan hương tế tế do văn.
Mã bôi tự áp khinh trần,
Vị thành thử hậu cố nhân diệc từ.

125.Đáng nhớ quá nhỉ! Hai ông bạn (cùng đèn cùng sách) cùng ngồi học với ta trong một cửa số năm xưa
126.Mùi chi lan thoang thoảng còn nghe!
127.Nhớ khi giã nhau, ngồi trên ngựa, cầm vội chén rượu (1) trận mưa bay

(T99,78) rưới tan bụi trần.
128.Sau khi ấy ở Vị Thành bạn bè đành cùng ta lìa.(2)

___

1. Thơ của Lương Hãn "Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi" Ông Ngô Tất Tố dịch rằng: Rượu đào, chén ngọc sáng choang/ Trên yên sắp uống đã vang tiếng tỳ" Tiệc rượu tiễn hành ta thường gọi là "thượng mã bôi" nghĩa l2 chén rượu lên ngựa".
2.Thơ Vương Duy 王維 bài Vị thành khúc:


Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân


渭城曲
渭城朝雨浥輕塵
客舍青青柳色新
勸君更盡一杯酒
西出陽關無故人

(Thành Vị mưa mai ướt bụi trần ,
Xanh xanh quán khách, liễu tươi xuân .
Ly bôi một chén , xin mời cạn .
Ra đến Dương Quan , không cố nhân ).

Trần Trọng Kim dịch


129.
130.
131.
132.

Bất tri hậu Bắc kỳ khởi phỉ
Nhị ngô huynh dĩ vị hồi thần
Ta tai đồng bịnh tương lân,
Nhứt Tiêu Tương, nhứt hướng Tần nhứt phương (1).

129.Chẳng còn biết về sau ở Bắc kỳ có giặc nổi dậy
130.(Thì khi ấy) hai anh ta đã về chưa?
131.Than ôi, cùng chung một bệnh với nhau, cùng thương xót nhau (là lẽ thường)
132.(Thế mà vì sao mỗi người một ngả) người thì tới sông Tiêu Tương( ở đất Sở)kẻ lại sang nước Tần?


___
1.Thơ Trịnh Cốc: Sổ thanh phong địch li đình vãn/Quân hướng Tiêu Tương,ngã hướng Tần. 數聲風笛離亭晚,君向瀟湘我向秦。Ông Ngô Tất Tố dịch rằng: "Đình hôm tiếng sáo não nùng/Anh đi bến Sở, tôi trông lầu Tần"


(T99, 79)



133.
134.
135.
136.


Tương hà nhật cánh tương đối ngữ
Tự khuê tình hựu tự khách trung.
Nhi kim thu nguyệt thu phong,
Thu ngâm thu hứng tình trung giả thùy?

133.Hầu ngày nào lại đối mặt nhau nói chuyện
134.Nói đến tình nhà lại nói đến lòng người.
135.- 136.Mà nay ( sao qụạnh quẽ thế này, chẳng bù với khi vui sum họp ấy),
Này trăng thu, gió thu, thơ thu, rượu thu, ấy ai chung tình với mình( cùng ta trông trăng, hứng gió, uống rượu, ngâm thơ bây giờ?



137.
138.
139.
140.淒涼


Đối ly cảnh, lệ thùy song nhãn,
Cố hương quan lộ hạn trùng san.
Tửu tàn độc ỷ lan can,
Giác lai nhãn khán dạ hoàn thê lưong.


137.Trông cảnh ly biệt, hai hàng nước mắt tuôn rơi,
138.Ngảnh lại quê nhà thì núi non từng lớp ngăn lấy đường.
139.Tiệc rượu tan rồi, một mình ngồi dựa câu lơn.
140.Bừng mắt dậy, cái đêm thê lương vẫn hoàn thê lương!




(T99, 81)
BẢN DICH THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
CỦA ĐẨU TIẾP



Đã biết rằng bản dịch xưa rât có giá trị, sao còn dịch một bài khác làm gì? Dịch một bài thơ đã khó, dịch một bài thơ đã có người dịch càng khó, vì phải làm nô lệ cho ý tưởng cho ý tưởng của hai người: người làm và người dịch trước mình. Một đằng là phải đi gần với tư tưởng của người làm, có thế mới dịch sát nghĩa của nguyên văn), một đằng phải lánh xa tư tuởng cùa người dịch trước( có thế mới khỏi trùng với bài dịch của người). Ký giả thừa hiểu như thế, song đã trót dịch thì cứ cho in ra sau đây, sự bình phẩm đành nhờ ở cac nhà thức giả bậc thầy và bậc anh.

(T99,82)

Đêm thu lặng trời thu trong suốt,
Cách rèm thưa, lặng rót chén vàng.
Cơ trời, việc thế đa đoan
Kiếp phù mấy thuở bày tuồng làm vui.

Người đối cảnh hoa cười bóng nguyệt,
Cảnh trêu người, gió nguýt ngọc cây.
Dường này dễ mấy ai hay?
Cùng ai với gió trăng này làm thân?

Thơ khiển hứng hạ vần nhã ái,
Rượu tiêu sầu lưng túi ly hoài.
Một đèn riêng một thư trai,
Nhớ thân muôn dặm thương người nghìn thu.

Ngoài bến nọ, tiếng ngư vang dội,
Thuyền đậu chèo dọc mãi sông Hương.


___

Trương Kế,một thi sĩ đời Đường có bài thơ Ban Đêm qua Phong kiều:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên/Giang phong ngư hỏa dối sầu miên/
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tư,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Cụ Nguyễn Hàm Ninh dịch:

Quạ kêu trăng lặn trời sương,
Lửa chài le lói, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn sơn.
( Chú này đáng lẽ phải đặt ở trang 57 nhưng vì thiếu chỗ sắp chữ nên ấn công đặt ở đây.)






(T99.83)
Mơ màng đêm nguyệt trời sương,
Non Hàn tưởng khách thơ Đường là ai!
Trên sông Khúc nào hồn Tử Mỹ(1),
Chiếc bè trôi, chạnh ý ly hương?
Cảm thu truyền lại tám chương
Khéo xui lòng khách dễ vương tình lòng?

Tới đây dịch giả tưởng nên dừng lại một chút, vì nhà cựu học chẳng hiểu tại sao đoạn này cụ Đinh Nhật Thận lại viết như thế? Và tính sửa đổi nguyên Hán văn lại mấy chữ rất buồn cười: Hữu hoài cổ nhân đổi ra cố nhân ( người quen ngày xưa0. Hàn sơn ám nhận đổi ra Hàn song (cái cửa sổ có gió lọt vào làm mất hết cả ý nghĩa và rối cả mạch lạc


___

1. Đỗ Phủ hiệu là Tử Mỹ là một tay thi hào đời Đường, một buổi chiều thu kia ngồi trên sông Khúc, nhân nhớ nhà mà làm ra tám bài Thu hứng trong có câu: Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,/Cô châu nhất hệ cố viên tâm". Người xưa dịch:"Khúc trúc thêm tuôn hàng lệ cũ".


(T99.84)
Dịch giả chẳng cãi làm gì duy muốn chứng chắc rằng sự hiểu biết của mình không đến nỗi sai lầm, thì cần giải cả khúc trên tức là khúc đầu bài này ra văn xuôi được chăng.
Mở đầu cụ Đin h Nhật Thận nói rằng :"Đời người vắn vỏi chả được mấy hồi nên gặp dịp tốt ta phải bày trò làm vui kẻo uổng phí ngày giờ. Nay được lúc đêm thu trăng thanh gió mát, ta tiếc lại chẳng có ai biết chơi như mình mà cùng mình chơi!


Nhưng vì chơi có một mình, một mình ngồi trước ngọn đèn trong một phòng văn, nên cái cảnh cô tịch này dễ khiến cho ta đâm ra nghĩ vẩn vơ, nghĩ cái đời ta một thân ngàn dặm, chiếc bóng năm canh, rồi trông thấy sách vở trong phòng mà nghĩ đến bao nhiêu người xưa, chuyện chép trong sách, cùng đã từng gặp bước lưu lạc giữa nơi đất khách trời thu như mình. Chơt lúc đó, nghe tiếng hò khoan ngoài bến, tiếng

(T99, 85)
đò chèo bên sông mà giữa khoảng đêm trăng trời sương lờ mờ, ta mơ màng tưởng là Trương Kế đương đi thuyền qua bến Cô Tô, gần chùa Hàn Sơn. Lại nhân thấy thuyền mà nhớ tới Đỗ Phủ ngày nào ngồi trên một ngôi lầu bên sông thấy chiếc thuyền ai trôi nổi mà thương cái thân mình phiêu linh, rồi làm ra tám bài thu hứng. Nay ta đọc lại mấy bài đó, nghe ai kể nỗi thương nước nhớ nhà, mà ta cũng sinh ra cảm lây, cũng đâm ra buồn man mác vì sự xa cách cố hương!..."

Khi ta đi liễu đang xanh tốt,
Một vài câu vừa hót chim oanh.
Mà nay cúc nở vang cành,
Liểu kia, ve khóc buồn tanh ngõ ngoài.
Xưa ta đi, đào cười nhí nhoẻn,
Một đôi cành vừa bén gió đông,
Mà nay lan rợp như rừng,
Đào theo sương rụng lung tung phía ngoài.
Làm chi vậy lẻ loi quán trọ,

(T99, 86)
Ngày ba thằng măng sữa nghêu ngao
Đêm đêm án sách gục vào,
Lá thân sương nặng, dế kêu thu buồn.
Làm chi vậy gầy mòn điếm lữ?
Chốc nửa năm sương gió lân la,
Đêm đêm hiên vắng nhìn ra,
Gió lay ngọn trúc, trăng sa mái hồi.
Nào có phải như ai vì nước,
Vứt bút mà đòng mác cho cam (1)
Khi không rước lấy cát lầm,
Hổ ngồi giương mắt, thẹn nằm nghiêng tai!
Nào có phải như ai vì hiếu,
Vâng hịch mà bôn tẩu chẳng nài!(2)
Việc gì lần lữa quê người?
Mây che núi cũ, hoa cười thôn cô (3)
Rày đứng ngóng trên bờ trên biển

___

1. Ban Siêu đời Hán làm nghề viết mướn, sau vứt bút mà rằng làm trai phải lập công ngoài nghìn dặm, há cứ ngồi cạo giấy mãi ư?
2.Mao Nghĩa đời Hán là một người hiếu hạnh làm quan úy ở phủ An Dương, được thăng quan lịnh ở phủ An Dương, được thăng quan lịnh ở phủ ấy ông cầm tờ hịch mà lấy làm vui, vui vì cha mẹ đang còn.

3. Tôn Tương tự khoe có phép tiên có thể làm nở ra hoa:" Cháu có thể cướp quyền tạo hóa mà làm nở được hao ư?" Nghe chú là Hán văn công hỏi hỏi thế, Tương đáp: Khó gì? bèn lấy đất đắp lên, lấy chân úp xuống chốc thấy nở ra hai cành mẫu đơn sắc biếc, có chữ vàng rằng:" Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại/ Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền".(Mây non Tần gác, nhà đâu tá?/Tuyết ải Lam trùm, ngựa chẳng lên.". Sau bị đày ra Triều châu mới biết.Thế nên nóihoa cười thân đơn. Cười đây là mỉa mai.

T99, 87)

Lá buồm ai về bến thẳng giong.
Lòng quê sôi nổi như nung,
Phút theo buồm vượt mấy trùng phong ba.
Mai đứng ngóng nhà kia trên núi,
Làn mây cô trôi nổi bềnh bồng
Lòng quê rối tựa bòng bong,
Phút theo mây kéo mấy trùng quan san.
Phương nào tá tin nhàn núi cũ?
Bút mực đâu tả đủ niềm đơn?
Bên chùa Diệu Đế chuông dồn,
Trên thành súng nổ, dưới đồn trống vang.
Sông quằn quặn, ruột càng quằn quặn.

(T99, 88)
Cảnh rầu rầu, dạ vẫn rầu rầu.
Lạnh lùng đất khách trời thâu.
Kìa! ai giã gạơ?Ờ! đâu khua chèo?
Ngoài nghìn dặm rối meo tâm sự,
Chốn phòng khuê vò võ thương ai!
Canh khuya che quạt lặng ngồi,
Mặc đèn lu ngọn, kệ trời sáng trăng!
Trên gối chiếc đêm tràng tráo trở
Mảnh tình riêng than thở cùng ai?
Đã khuya trông chửa thấy người,
Ngủ mơ màng bướm, dậy oi óc gà.
Hoặc có lúc trước nhà bóng đổ,
Bước xuống thềm lại trở lên lên lầu.
Phút trông én ngậm bùn đâu (1).

____

1.Đỗ Phủ trọ ở đất Thục định trở về quê, chợt trông thấy đôi én từ bắc vào nam ngậm bùn để làm ổ mà giật mình cho cảnh lữ du từ hạ để sang thu, bèn có câu thơ:"Lữ thục song phi yến/ Hàm nê nhập bắc đường" ( Đôi én hay đi ăn xa/ Ngậm bùn bay vq2o nhà làm ổ). Cổ thi lại có câu" Tích vi song phi yến/ Hàm nê sào cự thất"(Trước làm đôi én chắp cánh cùng bay tha bùn làm tổ trong nhà người).



Phượng buồn bã lược, loan rầu rĩ gương.(1)
Hoặc có lúc trong buồng đêm vắng,
Gọi khêu đèn, hòng gắng dệt khuya,
Bổng nghe nhạn vượt sông kia,(2)
Ác buông trôi máy, én lìa ngưng thoi.(3)
Thương thay có đêm ngồi suốt sáng,
Đợi cả đêm, thư chẳng thấy nao!
Vứt thoi ra ngóng trước lầu,
Dế than sương lạnh rót sầu vào tai!

_____

1. Cổ thi vịnh Tiết phụ có câu: Phượng trục thanh tiêu viễn/ Loan tùy u cảnh trầm".(Mây thẳm, chìm tăm phượng/ Gương mờ khuất bóng loan."
lại có câu: "Vị vấn thúy soa đầu thượng phượng/ Bất tri hương bịnh vị thùy hồi (Hỏi thăm phượng đậu cành trâm/ Vì ai mái tóc hương thơm ngạt ngào!)
2. Chức cẩm hồi văn của Tô Huệ:"Tam xuân hồng nhạn độ giang thanh/ Thử thị li nhân đoạn trường tình. (Mỗi lần nghe nhạn qua sông/Rầu lòng một thiếp ba đông nhớ chàng!)
3. Ác: miếng gỗ tạc hình con ác nơi máy dệt, hễ chân đạp thì con ac mấp máy. Còn cái thoi thì giống như con én. Kiều"Ngày xuân con én đưa thoi".




(T99.90)
Chẳng thấy ai, riêng càng tức tối,
Đành ôm lòng trở lại buồng thêu.
Nhà bên gà đã gáy vèo,,
Nghĩ đâu dựa ghế còn khêu hao đèn.
Thương thay cứ ngày quen dậy sớm,
Đợi tối ngày tin vẫn vắng đâu.
Day tà áo, dạo quanh lầu (1)
Liễu kia ve khóc rủ sầu ngang mi.
Chả thấy gì, lại còn lủi thủi,
Gượng ôm cầm dạo mấy đường tơ,
Bình lan bướm vội theo đùa,
Bực thôi xỏ dép bỏ ra thăm vườn.
Giờ hẳn nói:" Trăng tròn lại tỏ,
Để đến ngày " Gương vỡ lại liền"! (2)
Biết đâu đường thế trần phiền,
Người đi chưa dễ biết phen nào về!


____
1. Nguyên văn: Vày bâu, lủng thửng quanh lầu. Chữ "bâu" it dùng. Xin đổi.
2.Trần thái tử xá nhân là Từ Đức Ngôn lấy Lạc Xương công chúa , đến lúc nhà Trần suy, bảo công chúa rằng: Một mai nước mất tất mình sẽ vào tay kẻ quyền hào. Song nếu tình duyên không nỡ dứt thì còn mong có ngày hậu hội. Bèn lấy tấm gương soi đập vỡ làm hai, mỗi người cầm một nửa, hẹn về sau đến ngày rằm tháng giêng đem ra chợ Tràng An mà bán, tất lại tìm được nhau. Kịp đến lúc nhà Trần mất, Lạc Xương công chúa bị Việt công bắt ép làm vợ. Ngày rằm tháng giêng kế đó, Từ Đức Ngôn ra chợ Tràng An thấy có người bán tấm gương vỡ. Họ Từ rút nửa gương của mình trong túi ra so lại thì hai bên ăn nhập với nhau như một. Đức Ngôn bèn gủi cho người bán gương bốn câu thơ:
Cảnh dữ nhân câu khứ/Cảnh quy nhân vị quy/Vô phục Hằng Nga ảnh/Không tựu minh nguyệt huy". (Người đi, gương cũng đi/Gương về, người chửa về/ Chị Hằng đâu chẳng thấy/ Chỉ thấy bóng trăng loè".
Lạc Xương công chúa được thơ khóc rống lên. Việt công hỏi biết đầu đuôi, lấy làm thương, liền cho vời Từ Đức Ngôn đến trả vợ cho."



(T99, 91)
Thôi lại bảo mình e ở mãi,
E kinh đô đã phải lòng ai!
Làng chơi quên thói ăn chơi.
Đất phồn hoa ấy lại trời Phú Xuân!
Chẳng vì tiếc xuân nên nán ná,
Sao xuân rồi, lại hạ, rồi thu?
Mấy nơi gác tía rèm chu,
Anh hùng hào kiệt chưa từ lọ ai?"


(T99, 92)
Như thế ấy ai người biết với?
Trong yên ba riêng tủi lòng này.
Phải chăng trai trẻ những ngày,
Rằng ưa đài các? Rằng hay giang hồ?
Câu lữ cảnh mượn ru li hận,
Hồn hương quan vơ vẩn đêm trường.
Ai mà nghĩ đến mà thương.
Vì ai thêm xót nỗi đường cam gay!
Nghề nội trợ đã hay rằng thế,
Việc tổ tiên thì để trên đầu.
Rau khe, nước suối mặc dầu,
Một tay trăm việc chắc đâu lo tròn?
Duy biết chắc đàn con mạnh giỏi,
Lòng chẳng nghe ái ngại điều chi!
Ngày đi trẻ dại biết gì,
Tóc răng rày đã ra bề đã khôn!
Dễ thương nhỉ thằng con anh trưởng!
Tuổi mười ba, mười bốn chi rồi!
Anh mình hẳn lấy làm vui,
Năm này cháu đã theo ai sách đèn.
Nhớ đèn sách khôn quên hai bạn,




(T99, 93)
Mùi chi lan thoang thoảng còn hoài,(1)
Chén đưa nào lúc khuyên nài,
Vị thành lúc ấy là rồi chia tay (2)
Sau đất Bắc đường đầy binh lửa,
Hai anh ta về ở bề nào?
Bịnh chung, chung mối thương đau
Thương ôi kẻ đấy người đâu một trời?
Bao giờ lại cùng ngồi chuyện vãn,
Chuyện gần xa lòng gạn hỏi lòng?

___

1. Lời đức Khổng Tử:" Dữ thiện nhân giao như nhập chi lan chi thất, cửu nhi bất văn kỳ hương, tức dư hóa bỉ"( chơi với người lành như vào cái nhà có hoa chi lan, nếu lâu không biết mùi thơm nữa là vì đã hoá theo người ấy rồi.
2.Xem chú 2 tr,78.


(T99, 94)
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu, ai chung với nào?
Trông đất khách, lệ trào đôi mắt,
Ngóng quê nhà, đường mắc nghìn non.
Rượu rồi gục xuống câu lơn.
Chiêm bao mở mắt, đêm còn hoàn đêm!


(T99, 95)

II.THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM
BỔN DỊCH XƯA
ĐẨU TIẾP KHẢO ĐÍNH



Người xưa ai đã dịch bài này? Cứ theo lời của ông Phan Tự Thí, cháu ngoại của cụ Nguyễn Hàm Ninh, xuân thu đã ngoại tám mươi, thì dịch giả chính là một người trong hàng môn đệ của tác giả, song cũng không biết phương danh, mỹ hiệu của người ấy là gì. Chúng ta chỉ biết rằng đấy là một bài dịch rất là có giá trị phi một tay khá thông thì không thể dịch nổi. Tiếc vì tam sao thất bản, nên những ai thiếu suy xét, hay it tìm tòi thì khó lòng mà thấy được đúng đắn nét bút và câu văn của người xưa. Những

(T99, 96)
bổn mà người ta chép lại hoặc in ra đều đầy rẫy những lầm lộn và sai lạc, lầm mất cả giá trị và danh tiếng của một thi nhân quý báu. Phàm ai đã có nhiệt tâm với Quốc văn, thì khi sao lục một áng văn cổ, không phải chỉ cúi đầu biên lại những cái người ta biên như một cậu học trò tập viết, mà phải bóp trán suy nghĩ xem câu nào đúng, câu nào không, câu nào nên để y, câu nào nên sửa lại cho đúng với nguyên bản của tiền nhân. Bản mà ký giả đã khảo đính và trích lục dưới đây, không dám tự cho là hoàn toàn đúng đắn, họa chăng có đúng đắn hơn những bản khác mà chư tôn độc giả đã trônbg thấy mà thôi.


1.Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng,
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi.(1)
Thiên thời nhân sự tương thôi,
4.Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta.


____
1. Đây chép theo bản của cụ Nguyễn Hàm Ninh. Theo bản của Nguyễn Xuân Lan và Trần Trung Viên thì "rót chén kim lôi" thì nghe ra chữ quá.



(T99, 97)
Thiên thời nhân sự tương thôi,(1)
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta.(2)
Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ (3)
Cảnh trêu người, ngọn gió rung cây,
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu?
Thơ nhã aí bốn câu buông vận,(4)
Rưọu ly hoài ba chén làm khuây,
Trước đèn trong chốn thư trai (5).

____

1.Trong bản của cụ Nguyễn Hàm Ninh, câu này để y nguyên Hán văn. Thế mà còn hơn cố dịch mà dịch một cách liều lĩnh như:" Thời trời việc người cùng thôi" hay " Gẫm xem thời sự sụt sùi".
2. Có bản chép: " Kiếp phù sinh mấy thuở làm vui với đời./ Người đối cảnh trăng soi hoa nở". Dịch thế cũng được.
3. Có bản chèp:" Thưởng thu" cũng được.
4.Có bản chép "ba vận" hoặc "lỡ vận".
5. Có bản chép:" một đèn một chốn thư trai" cốt lấy chữ "một" mà dịch chữ " độc" bên Hán văn cũng hay.


(T99, 98)
Chạnh lòng đất khách nhớ người đời xưa (1)
Ngoài Hương thủy tiếng đưa văng vẳng
Thuyền từ đâu chèo thẳng bên giang?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương
Thuyền ai tưởng khách non Hàn lại không (2)
Khúc giang thủy nhớ ông Đại Đỗ,
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Hứng thu đề tám bài thơ (3)
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng.
Xưa ta đi liễu đang thanh tế,
Chim hoàng oanh mới kể ba câu.(4)
Bằng nay cúc đã hoa thâu,(5)

____

1.Có bản chép:"Não lòng hay đau lòng đất khách ngậm ngùi người xưa.
2.Có bản chép: "Trông chứng tưởng khách non Hàn lại chơi. Khúc giang thủy nhớ hồi Đại Đỗ" Hoặc"Non Hàn thuyền khách trông chứng trông chừng như bay". Khúc giang thủy nhớ ngày Đại Đỗ.
3.
Có bản chép: Mấy thu để tám bài thơ.
4.Hẳn dịch giả để chữ thanh tế để đối với chữ tiếu kiểm, chữ đối với chữ cho cân. Có bản chép:Liễu dương xanh tốt/ Chim hoàng oanh mới hỏi ba câu.
5.Có bản chép:" Ngâm thâu (thu)


(T99.99)

Liễu kia nghĩ cũng âu sầu vì ve.
Xưa ta đi, đào khoe tiếu kiểm,
Gió đông phong mới điểm ba hàng.
Bằng nay lan đã chồi sương,(1)
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu.
Làm chi vậy buồn rầu đất khách?
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây,
Có đêm nương bóng hồi tây,
Tiếng sương khóc lá, hơi may gọi trùng.(2)
Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ?
Năm sương yên hết nửa đi rồi.(3)
Có đêm ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương.
Nào có phải như chàng ném bút,
Vì vua mà đòng mác cho cam?


___

1.Dị bản: nhỏ sương, rỏ sương
2.
Dị bản: "Tiếng sương khóc", hoặc " Ba tiêu khóc lộ, hơi may ngậm trùng"
3.Các bản đều chép: "Năm sương yên kể nữa vừa rồi" song hẳn là sai, nên ký giả lạm bút sửa lại như trên.


(Tr99, 100)
Luống đem thân thế cát lầm,
Thấy ngồi hổ mặt, nghe nằm thẹn tai!

Nào có phải như ai vâng hịch,
Vì thân mà xa cách cho xong?
Bổng không khách địa bình bồng,
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn (1).
Ngày nay đứng trong miền bể rộng,
Một lá buồm thẳng gióng về cồn,
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn,
Phút theo buồm vượt mấy ngàn sông khơi.(2)
Ngày mai đứng nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đau đã bồng bồng,
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa.
Trông tin nhạn biết là đâu tá?


____

1.Dị bản:Vị thân mà xa cách cho đành.(Chữ đành đúng hơn chữ xong). Bổng không khách địa bồng bềnh/Khi trời mây bạc, khi ngành hoa đơn.
2.Dị bản:Một lá buồm thẳng gióng giang lăng/Lòng quê luống những bâng khuâng/ Phút theo buồm vượt mấy tầng sóng khơi


(T99, 101)
Tâm tình này ai tả cho nên,
Đêm chùa Diệu Đế chuông rền,
Trống vang cửa bể, súng rên thành vàng.
Sông quằn quại, ruột càng quằn quại,
Cảnh đìu hiu, dạ lại đìu hiu,
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm, tiếng chèo ngoài sông.
Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ,
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống thừa bóng trăng.


___

1. Bản của cụ Nguyễn Văn Trác (làng Vĩnh Lộc, phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, cử nhân Hán học) chép: Tâm tình này ai tả hết cho? Thường đêm chuông đánh trong chùa./Trống vang ngoài bể súng đưa trên thành. /Sông quạnh quẹo, ruột càng quặn quẹo/ Cảnh đìu hiu, đêm sánh đìu hiu). Hay ở mất chữ hiu đìu, đìu hiu,quạnh quẹo, quẹo quạng lộn lên lộn xuống nghe ra quanh queo lắm thực, song không đúng đìệu song thất lục bát. Ngoài ra các bản đều chép:"Sông quặn quặn, ruột càng quặn quặn/Cảnh đìu hiu, dạ lại đìu hiu." thì xuất vận nên ký giả chữa lại quặn quại" hẳn của người xưa là thế!
2.Dị bản:luống chờ.

(T99, 102)
Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai?
Thương thay đêm vắng không người.
Ngủ thời bướm báo, dậy thì gà kêu
Hoặc có lúc bóng chiều trong khổn,
Bước xuống thềm lại muốn lên lầu.
Phút nghe con én kêu sầu.
Lược rầu tóc chải, gương rầu mặt soi.
Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối (2)
Gọi con tì vừa tới điểm đăng,
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy lơi chân đạp, thoi ngừng tay đưa.
Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua, chẳng thấy thư về,
Gác thoi ra đứng bên hè,
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.
Trông chẳng thấy chán chường than thở
Đoái phỏng khuê muốn trở gót giày.

___

1. Dị bản: Đưa thoi trên cửi.
2.Dị bản:Gọi con đồng vừa mới





(T99. 103)

Gà ai eo óc hồi tây?
Gẫm tình dựa ghế liền tay khêu đèn.
Thương thay có ngày nhìn sáu khắc (1)
Ngày gần tàn chẳng gặp thư sang,
Xuống thềm ra đứng bên đàng,
Mày sầu khóc liễu, hàng hàng khóc ve.(2)
Trông chẳng thấy lại về đứng đợi
Đoái cầm hiên toan gợi ngón đàn,
Bướm đâu trêu cợt bình lan?
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.
Rày hẳn bảo" Giời đà mát mẻ.
Lương nhân ta có lẽ gần về.. ."



___


1.Bản của Trần Trung Viên và Nguyễn Xuân Lan chép:" Thương thay những ngóng tin sớm ấy"thì sai nhiếu quá. Bản của cụ Nguyễn Hàm Ninh và ông Nguyễn Văn Trác thì chép:" Thương thay có ngày nhìn đến kẻ" cũng được song đối với câu" Thương thay có đêm chờ nửa gối" thì đối không cân nên ký giả lạm bút sửa lại như trên.
2. Dị bản:Chẳng thấy thư về/bỏ xiêm lửng thửng bên hè/Tai nghe tiếng dế rù rì khóc ve. Khổ độc.



(T99, 104)
Biết đâu đường thế nghiêu khê,
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng?
Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hoặc đã có người?
Phong lưu tánh đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An (1)
Nếu chẳng thế bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu?
Lầu hồng cung cấm ấy ru?(2)
Anh hùng lại với trượng phu ai từ?
Như thế ấy bây giờ ai biết?
Trong yên ba khôn xiết dạ sầu,
Há còn trai trẻ chi đâu(3),
Phong lưu thói cũ, giang hồ lối xưa.
Cảnh du lữ câu thơ thổn thức.

___

1. Dị bản: Huống gì son phấn lại người Tràng An.
2.Dị bản: "Lạ gì mỗi sắc một mầu.
3.Dị bản: "Há còn tuổi trẻ chi đâu" Hoặc:" thơ trẻ chi đậu"



(Tr99, 105)
Bóng hương quan trước mắt mơ màng,(1)
Non sông khách có biết chăng?
Vẫn tình thì nhớ, nhưng đường thì khơi.
Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tông đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa nào biết ở nhà làm sao?
Duy biết trẻ đứa nào đứa nấy
Trong gia đình đều thảy yên vui,
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.
Và thằng cháu giời thương cũng khá (3)

__

1.Dị bản:Tất cả các bản đều chép: "Bóng hương quan xa khuất dặn ngàn"trùng với câu cuối bài này nên ký giả lạm bút sửa lại như trên cho được sát nghĩa với nguyên tác Hán văn hơn.
2.Dị bản: Giang hồ dầu có biết thương thiếp tin /lại nhớ những đường dặm khơi.
3.Dị bản:Có bản chép: " Nhờ ơn cũng khá " thì thiếu nghĩa.Có bản chép:" nhờ giời cũng khá thì xuất vận". Theo ngu ý thì hẳn là "giời thương cũng khá."



(T99, 106)

Bạn học hành một hai trí thức
Mùi chi lan sực nức một nhà.
Từ phen cất chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà Dương quan!
Sao chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương?
Thương ôi đồng bịnh cùng thương
Một Tần rồi lại Tiêu Tương một trời.
Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện (1)
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt, nào phong,
Nào thi, nào tửu biết cùng ai hay.


__

1.Dị bản: "Người Tần kẻ lại Tiêu Tương một trời" tuy không dịch được chữ nhậtbên Hán văn song rõ nghĩa hơn câu trên.


(T99.107)
Sầu ly biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn,
Rượu rồi ngồi dựa lan can,
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.

___

2.Dị bản:" Cảnh ly biệt lệ đầy hai mắt" thì thua "Sầu ly biệt luôn đầy hai mắt".
TB. Trừ một đôi câu do ký giả sửa lại, còn thì bài này biên đúng theo bản tìm được trong tủ sách của cụ Nguyễn Hàm Ninh.



***