Showing posts with label ALAIN BESANCON * TAI HỌA CỦA THẾ KỶ. Show all posts
Showing posts with label ALAIN BESANCON * TAI HỌA CỦA THẾ KỶ. Show all posts

Thursday, July 23, 2009

TAI HỌA CỦA THẾ KỶ 3

Alain Besançon
Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ
Phạm Minh Ngọc dịch
1 2 3
Chương III
Phá hoại về mặt chính trị

Tôi đã xem xét việc thủ tiêu về mặt thể xác, đã xem xét việc phá hoại môi trường đạo đức của con người, phá hoại cái môi trường của những sinh thể có lý trí biết phân biệt thiện ác. Cần phải xem xét việc phá hoại môi trường chính trị, nghĩa là năng lực xây dựng các quan hệ gia đình và xã hội, khả năng tạo dựng các mối quan hệ giữa người cai trị và kẻ bị trị và bằng cách đó tạo ra nhà nước.


Chính sách phá hoại chính trị

Trước khi cướp được chính quyền và để cướp được chính quyền, các đảng Quốc xã và cộng sản đã sử dụng tất cả các phương tiện chính trị hiện có lúc đó. Họ tham gia vào trò chơi chính trị nhưng chính họ thì lại đứng ngoài cuộc, họ chỉ tuân thủ các tiêu chí do chính mình đặt ra và kỷ luật đảng mà thôi. Thí dụ, khi đảng Bolshevik đòi chia ruộng cho nông dân và ký ngay hiệp ước hoà bình thì không có nghĩa là họ sẽ hài lòng khi các đòi hỏi đó được đáp ứng. Đấy là lúc những người Bolshevik cần lôi kéo nông dân và binh lính để bắt đầu tiến trình cách mạng. Nhưng khi cách mạng thành công thì ruộng đất của nông dân lại bị thu hồi và việc chuẩn bị chiến tranh lại được tăng cường. Đảng không nhận thấy một chút mâu thuẫn nào ở đây cả. Công việc không dừng lại khi đã đạt được mục đích đặt ra, nó lại tiếp tục vận động và mục tiêu kia chỉ tồn tại như là vật hy sinh cho một công việc khác nằm đằng sau cái mục đích đã được tuyên bố trước đây.

Sau khi nắm được chính quyền, đảng thực hiện một chính sách phá hoại chính trị chưa hề có tiền lệ trong lịch sử. Tất cả các quan hệ vốn có của xã hội đều bị loại bỏ: gia đình (nếu đảng có đủ sức làm điều đó; gia đình ở đâu cũng chống lại, nhưng dù sao vẫn bị xói mòn và thoái hoá), giai cấp, các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước. Con người bị tước mọi quyền tự tổ chức, tự tập hợp, quyền có đại diện, con người bị hạ xuống thành các đinh ốc và bị lùa vào các hình thức tổ chức mới. Các hình thức này được xây dựng theo khuôn mẫu của những tổ chức đáng lẽ phải tồn tại nếu chủ nghĩa xã hội tồn tại và được khoác cho những cái tên như: xô viết, liên hiệp, công xã. Vì chủ nghĩa xã hội chỉ tồn tại trong tưởng tưởng cho nên các tổ chức trên chỉ sống được nhờ bộ máy đàn áp. Quyết định để cho các tổ chức và cơ quan này mang tên mới phản ánh cái chủ nghĩa xã hội tưởng tượng hay giữ nguyên tên cũ để có vẻ như thế giới cũ ít nhiều vẫn còn tồn tại, tất cả phụ thuộc vào nhu cầu chính trị tại thời điểm đó: trong trường hợp giữ như cũ thì chúng được gọi là công đoàn, viện hàn lâm, quốc hội, hợp tác xã – các từ đồng âm dị nghĩa như thế có thể “sử dụng được về mặt chính trị”. Biết bao đoàn đại biểu quốc hội hay hội đồng thành phố các nước phương Tây đã bị xỏ mũi khi họ tin rằng đã được các đại biểu quốc hội hay hội đồng thành phố tiếp chứ không phải là các cán bộ đảng tự nhận các danh hiệu như thế!

Về đại thể, đảng Quốc xã đã bắt chước chính sách phá hoại chính trị của cộng sản. Họ cũng cố tình che giấu mục đích thật sự khi cướp chính quyền, cũng lừa bịp các đồng minh tạm thời (có cả những người bảo thủ cánh hữu) để sau đó đàn áp họ. Họ cũng thành lập các tổ chức mới, chiêu nạp thanh niên và “quần chúng” vào các tổ chức này. Tư tưởng Quốc xã không đòi hỏi phải tiêu diệt ngay lập tức các hình thức quan hệ xã hội cũ, trung lập hoá và buộc các tổ chức này phục tùng là họ đã thoả mãn rồi. Vì vậy, dưới thời Quốc xã, các doanh nhân, thị trường, quan toà, công chức cũ, những người đã làm những việc ấy trước khi Quốc xã nắm quyền đã không bị bãi chức và vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc làm việc cũ. Chiến tranh đã đẩy nhanh quá trình thiết lập và củng cố chính quyền toàn trị. Chúng ta không thể biết nếu chủ nghĩa Quốc xã chiến thắng thì chính quyền ấy sẽ phát triển theo hướng nào.


Các hoạt động chính trị còn sót lại

Führerprinzip (Tôn sùng lãnh tụ) là một chi tiết quan trọng của cái lý luận trở về với tự nhiên của chủ nghĩa Quốc xã. Cốt lõi của toàn bộ xã hội là phải giống như một kim tự tháp gồm các cấp lãnh đạo hứa hẹn trung thành, tận tâm với đế chế, đỉnh tháp là lãnh tụ, sùng bái lãnh tụ là một phần không thể tách rời của toàn bộ hệ thống.

Đảng cộng sản cũng tổ chức theo thang bậc nhưng về nguyên tắc, tổ chức này được xây dựng trên cở sở bầu cử và dân chủ. Tính đặc thù của đảng do Lenin sáng lập là ngay từ khi mới hình thành, trung ương đã chỉ đạo cho các tổ chức đảng “bên dưới” cần bầu cho ai. Như vậy, những cuộc bầu cử dân chủ chỉ tạo điều kiện cho trung ương thấy được sức mạnh toàn năng của chính mình. Vấn đề ở đây là về mặt lý thuyết thì ý thức giác ngộ và nhận thức khoa học mà đảng dựa vào là tài sản độc quyền của lãnh đạo đảng, các kiến thức được đưa từ đây xuống “dưới”. Sau khi đã giao quyền cho “trung ương”, cấp “dưới” thể hiện thành tích của mình bằng cách tiếp thu học thuyết và “đường lối” của đảng. Kết quả là ngay từ thời Lenin, đã có hiện tượng sùng bái lãnh tụ và đỉnh cao của nó là dưới trào Stalin. Sự sùng bái vẫn còn ngay cả sau khi Stalin chết, nhưng dưới thời Brezhnev, mọi người đều hiểu rõ rằng bức tượng hoá ra chỉ là một khúc gỗ rỗng. Sùng bái lãnh tụ mâu thuẫn với học thuyết Mác-xít, những người đòi bảo vệ sự trong sáng của học thuyết theo phái Trotsky đã kiên quyết bác bỏ hiện tượng này. Nhưng thực tế đã tự thể hiện mình trong hệ thống được xây dựng trên hiện-thực-bịa-tạc: con người dễ dàng tôn thờ một kẻ giống mình hơn là tôn thờ cái học thuyết trừu tượng và rõ ràng là giả dối kia.

Như vậy, vì chính quyền cộng sản và chính quyền Quốc xã hiện diện trong những con người cụ thể nên các hoạt động chính trị chỉ còn là các hoạt động trong nội bộ đảng, một tổ chức hiện thực duy nhất còn tồn tại mà thôi. Hoạt động chính trị chỉ còn là, như Montesquieu mô tả về triều đình đế chế Ottoman và Ba Tư, hỗn hợp của lòng hận thù và âm mưu giữa những cá nhân và phe nhóm để tạo ra những liên minh tạm thời nhằm tranh giành quyền lực cá nhân, mà những vụ móc ngoặc như thế có thể dựa hoặc không cần dựa vào sự thay đổi đường lối của đảng. Trotky, Bukharin, Zinoviev, Stalin đều có chung mục đích là chủ nghĩa xã hội nhưng phải có một người nào đó làm lãnh tụ tối cao. Trong cái hộp chứa đầy nhện độc như thế đã diễn ra vô số những vụ giết người và phản bội.


Không tưởng

Những hoạt động không ngừng, đầy mưu mô và đôi khi rất sôi động của ban lãnh đạo trung ương không thể được coi là hoạt động chính trị vì đấy là những hoạt động nhằm thực hiện một ảo tưởng.

Cả hai chế độ mà ta đang khảo sát đều vin vào quá khứ huyền thoại, họ đã dựa vào những huyền thoại đó để phác hoạ tương lai trong trí tưởng tượng. Đã có một thời của người thượng đẳng, những người về bản chất là ưu việt hơn tất cả, ngày mai những người thượng đẳng này sẽ lại lên ngôi và đứng đầu là những người trong sạch nhất. Chủ nghĩa cộng sản không ước mong phục hồi quá khứ, tức là chế độ công xã nguyên thủy, mà muốn tái lập nó “trên bình diện cao hơn”. Như vậy, khái niệm về sự tiến bộ, thừa kế từ thời Khai sáng và được các nhà văn trường phái lãng mạn ca tụng hết lời, chiếm vị trí quan trọng trong học thuyết này. Tư tưởng của Marx, theo cách nói rất hay của Raymond Aron, là sự di chuyển từ Rousseau đến Rousseau thông qua Saint-Simon, nghĩa là thông qua tiến bộ kỹ thuật và công nghiệp. Chủ nghĩa Hitler là chủ nghĩa duy ý chí: đây là sự sáng tạo của ý chí, cái ý chí chỉ có thể tạo ra những khu rừng rậm trong trạng thái quân bình sinh học của chúng mà thôi. Chủ nghĩa Lenin lại dựa vào tiến trình lịch sử để tạo ra vùng Arcady [1] (với đèn điện và sự dư thừa), Aufhebung (chữ dùng của Hegel - cải tạo) cái vùng Arcady nguyên thủy ấy. Nhưng đảng, đóng vai trò bà đỡ, lại điều khiển chính tiến trình lịch sử này, vì vậy, chủ nghĩa duy ý chí cũng cần thiết cả ở đây nữa, nhưng nó vừa được người ta ca ngợi lại vừa bị bác bỏ vì rằng đảng chỉ thể hiện cái tất yếu được nhận thức, được người ta coi ngang (Lenin còn viện dẫn cả Spinoza) với tự do!

Hiện thực nằm giữa cái quá khứ huyền thoại và tương lai lý tưởng như thế đã chẳng còn chút giá trị gì. Nghệ thuật làm chính trị, nghĩa là việc sắp xếp hiện tại dựa vào việc quản lý những di sản có giá trị và sống động của quá khứ và những dự báo ngắn hạn về tương lai, cái nghệ thuật đó đã không còn ý nghĩa gì đối với lãnh đạo của cả chế độ Quốc xã lẫn chế độ cộng sản. Quá khứ vừa qua là địch thủ, hiện tại không có giá trị gì, tất cả là để phục vụ cho tương lai, cho mục đích cuối cùng.


Mục tiêu vô giới hạn của chủ nghĩa Quốc xã

Cần phải nghĩ xem liệu môi trường hoạt động và bành trướng của chủ nghĩa Quốc xã có giới hạn nào không hay về bản chất, môi trường của chúng là vô bờ bến. Chính sách hoà hoãn của Chamberlan và trong một chừng mực nào đó, chính sách phân chia mà Stalin theo đuổi vào năm 1940 là dựa trên giả thiết rằng Hitler sẽ thoả mãn với cái mà hắn nhận được. Hắn xoá bỏ hiệp ước Versailles, hắn chiếm các “vùng đất phía đông” liệu đã đủ chưa? Hắn tổ chức lại nước Đức, hắn tiêu diệt những người không có khả năng lao động, hắn giết người Do Thái, người bất thành nhân nhưng hắn cần đi tiếp. Để chiếm Ba Lan, hắn sẵn sàng chấp nhận chiến tranh với phương Tây. Sau đó, hắn sẵn sàng chấp nhận chiến tranh thế giới. Có thể hắn không biết các kế hoạch đó sẽ đưa đến đâu nhưng hắn chấp nhận hậu quả, cứ như là một người bị số mệnh đưa đẩy phải liên tục khởi sự những cuộc chơi mới vậy. Stalin là người duy nhất có thể cùng hắn phân chia thế giới một cách ổn định, ông ta cho rằng hắn cũng khôn ngoan như mình và là người nhận thức được mối liên hệ tự nhiên giữa hai chế độ đã lấy làm tự hào về liên minh mới được thành lập. Nhưng Hitler đã phản bội và Stalin không thể nào hiểu được vì sao lại như thế. Sau đó, người ta cũng không thể nào hiểu nổi vì sao hắn lại dễ dàng tuyên chiến với Mỹ như thế. Từ giờ phút đó, hắn đã chơi một ván cờ mà thắng thì sẽ được cả thế giới, thua thì nước Đức sẽ tan hoang.

Chủ nghĩa Quốc xã đã bộc lộ sứ mệnh của mình trong cuộc chiến tranh này, đấy là tiêu diệt dần toàn bộ loài người theo từng lớp lang. Đối với họ, thế giới càng kháng cự mạnh bao nhiêu thì sự đối kháng giữa chủng tộc thượng đẳng và người Do Thái càng quyết liệt thêm bấy nhiêu. Người Do Thái được coi là chỉ dấu của sự cản trở việc thực thi kế hoạch vĩ đại của họ. Họ chiến đấu chống lại chủ nghĩa Bolshevik, lúc này đã thành “Bolshevik-Do Thái”, họ chiến đấu chống lại chủ nghĩa tư bản, lúc này đã thành “tư bản – Do Thái”. Nghĩa là người Do Thái đã làm băng hoại toàn thế giới, đã vấy bẩn lên tất cả, đã “Do Thái hoá” tất cả. Toàn thể nhân loại cần phải trong sạch hoá, nghĩa là cần phải giết hết. Theo Sebastien Haffner (Sebastien Haffner, Un certain Adolf Hitler, Gasset, Paris., 1979, trang 242) thì những cố gắng cuối cùng của Hitler chính là để điều khiển sao cho sự thất bại không thể tránh khỏi sẽ dẫn đến việc phá hủy toàn bộ nước Đức. Theo lý giải của Haffner, cuộc tấn công ở Ardenne là nhằm kìm chân quân Mỹ để toàn bộ đất nước rơi vào tay quân đội Liên Xô. “Những mệnh lệnh tiến hành chiến tranh hủy diệt do Hitler đưa ra vào các ngày 18 và 19 tháng 3 năm 1945 không phải là nhằm đánh một trận anh hùng cuối cùng như hồi mùa xuân năm 1944 nữa. Việc đưa hàng ngàn người Đức vào chỗ chết ở ngay trong lòng nước Đức cũng như việc hạ lệnh phá hoại một cách có hệ thống tất cả những thứ có thể giúp cho sự tồn tại khiêm nhường nhất là việc làm vô nghĩa. Vụ diệt chủng cuối cùng này của Hitler chỉ có một mục đích duy nhất: trừng phạt người Đức vì họ đã không tự nguyện lên đường đánh một trận cuối cùng, vì họ đã từ chối đóng vai trò mà Hitler đã phân cho họ. Trong mắt của Hitler thì đây là tội tử hình. Một dân tộc không thực hiện được vai trò đã được phân công sẽ phải chết.”

Nhưng cơ cấu chỉ huy Quốc xã với quyền quyết định hoàn toàn thuộc về lãnh tụ đã tạo cho lịch sử của nó một bước ngoặt không ai dự đoán trước được. Về lý thuyết, có thể cho rằng Hitler có khả năng đạt được thoả thuận với nước Anh sau khi đã thoả mãn với những điều khoản nhượng bộ của Stalin. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra, Hitler không chấp nhận xây dựng chế độ Quốc xã trong “một nước riêng lẻ”. Tương tự như thế, đảng Quốc xã và đế chế SS không cần phải làm thay vai trò của các trung tâm chỉ huy nền công nghiệp Đức, bản thân các trung tâm này đã rất ngoan ngoãn và rất có kỷ luật rồi. Thế nhưng họ vẫn giành lấy các vị trí chỉ huy và bằng cách đó, họ đã nhập khẩu hình mẫu kinh tế thiếu hiệu năng của Liên Xô vào nước Đức, tạo ra nhiều hậu quả tai hại trong những cố gắng duy trì chiến tranh của đế chế.

Việc cải tạo thế giới có thể được thực hiện lần lượt theo từng giai đoạn, còn việc phá hoại và giết người cũng được thực hiện theo một trình tự nhất định. Đúng là Quốc xã đã sử dụng “chiến thuật ngoạm từng miếng” (theo cách nói mà người ta gán cho là của Rákosi) vì những chủng tộc “sống sót” qua giai đoạn đầu sau đó mới nhận ra rằng đến lượt họ. Nhưng rồi ngay lập tức, phong trào này đã biến thành một cuộc tắm máu mang tầm nhân loại. Tuy nhiên, người Quốc xã không thể làm như Stalin, thí dụ hứa cho Ukraine độc lập để rồi sẽ “giải quyết” sau chiến thắng. Không, họ cần giết ngay lập tức và như thế là kích động người Ukraine đứng lên chống lại. Nguyên nhân của việc “giải quyết tất một lúc” để cuối cùng dẫn đến thất bại có lẽ có bắt nguồn từ tính duy mỹ của học thuyết. Hitler coi mình là một nghệ sĩ, tức là người có nhận thức thẩm mỹ lãng mạn của một thiên tài. “Thiên tài”, Kant viết, “không thể mô tả hay chứng minh một cách khoa học ông ta đã viết tác phẩm của mình như thế nào (…), và vì thế, tác giả của tác phẩm mà ông ta tạo ra nhờ thiên tài của mình không biết tư tưởng của ông ta đã được thực hiện như thế nào, ông ta không đủ sức nghĩ ra hay truyền đạt các tư tưởng đó cho người khác một cách tùy tiện hay theo kế hoạch trong những bản hướng dẫn mà theo đó những người khác có thể tạo ra những tác phẩm tương tự.” (Kant, Phê bình lý tính thuần túy, Chương 46, trích theo I. Kant, Toàn tập, gồm 6 tập, M. 1966, tập 5, trang 323-324). Theo đó, chính Hitler cũng không biết rõ hắn đang làm gì và cảm hứng cũng như các quyết định của hắn đến từ đâu. Hắn tự coi mình là thần linh như kiểu Promete và một phần sự say sưa đó đã được truyền xuống cho dân chúng. Hắn tin rằng hắn là người cổ động thiên tài tinh thần dân tộc, tin rằng các mệnh lệnh của hắn, lúc đầu còn thận trọng, sau này là những mệnh lệnh điên rồ, đều được ban từ trên xuống. Đấy là lý do vì sao có những sự vội vàng, hấp tấp mà Stalin không thể hiểu nổi. Đấy cũng là lý do của quyết định phi lý trong việc tiến hành cuộc chiến. Một số quyết định, do những viên tướng tài giỏi của hắn đề nghị đã có thể, nếu không thắng thì chí ít cũng có thể dẫn đến hoà, với điều kiện không thể nào có được là cuộc chiến chỉ theo đuổi những mục tiêu giới hạn. Nhưng do lỗi của Hitler mà cuộc chiến đã thất bại.



Mục tiêu vô giới hạn của chủ nghĩa cộng sản

Dự án cộng sản ngay từ đầu đã mang tính toàn trị. Nó nhắm đến một cuộc cách mạng trên toàn thế giới, còn về nội dung thì đấy là một sự cải tạo triệt để xã hội, văn hoá và cả con người. Nhưng để thực hiện những mục tiêu xa lạ với lý trí của con người như thế, nó lại cho phép sử dụng những phương tiện hợp lý. Lenin, một người mơ tưởng viển vông, trong giai đoạn chiến tranh, đã đưa những khái niệm trừu tượng như chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa cơ hội cùng đủ thứ “ism” khác để giải thích thế giới và theo ông ta, có thể giải thích được tất cả mọi thứ. Ông ta áp dụng các khái niệm này cho Thụy Sĩ, cho Đức và cho cả nước Nga nữa. Nhưng khi ông ta trở về nước Nga thì việc cướp chính quyền của ông ta lại hoàn toàn mang tính “chính trị”, theo nghĩa mà Machiaveli vẫn dùng.

Đảng cộng sản đã giành được chính quyền bằng con đường đấu tranh chính trị trong một xã hội bình thường về mặt chính trị. Ở đây, đảng đã tập dượt những chiến thuật khác nhau, những chiến thuật này sẽ được đem ra áp dụng sau khi đảng giành được chiến thắng. Thí dụ, “chiến thuật…” nghĩa là liên kết với những lực lượng không cộng sản, buộc họ tham gia vào việc tiêu diệt kẻ thù: đầu tiên là dựa vào những người cánh tả để tiêu diệt “bọn cực hữu”; sau đó là cánh tả ôn hoà, v.v… cho đến khi những người còn lại bị buộc phải thần phục và “kết hợp” nếu không muốn bị tiêu diệt hoàn toàn. Ưu việt của chủ nghĩa Lenin là tính chuyên nghiệp bao gồm sự khôn khéo, tính kiên trì và sự hợp lý nhằm đạt cho bằng được mục tiêu đã đặt ra. Nhưng đấy là nói về sự phá hoại, còn xây dựng thì không thể, vì mục tiêu của nó là phi lý.

Sau khi đã trở thành một nhà độc tài mà chính ông ta không nhận thức được, Lenin tiếp tục áp dụng những tiêu chí viển vông của mình vào những tình huống đầy biến động của nước Nga và dùng các tiêu chí đó để ra quyết định. Hoạt động cộng sản không phải được cổ vũ bởi chủ nghĩa duy mỹ mà xuất phát từ thảo luận “khoa học”. Cái giả khoa học này đã vay mượn của khoa học chân chính thuyết tam đoạn luận và tính trực quan giả tạo. Chính vì thế mà việc họ làm càng trở thành điên rồ, các quyết định càng tàn nhẫn, việc sửa chữa càng khó khăn thêm vì giả khoa học không phải là khoa học thực nghiệm, không thể xác nhận kết quả của thí nghiệm.

Dần dần, sự tàn phá lan sang mọi lĩnh vực và trở thành toàn triệt, nói theo Bakunin, là tương đương với ý chí sáng tạo. Ở nước Nga, sự tàn phá đã diễn ra theo những giai đoạn sau đây:

  • Đầu tiên là tiêu diệt kẻ thù về chính trị tức là các cơ quan của chính phủ và cơ quan hành chính. Việc này được thực hiện ngay sau đảo chính.

  • Sau đó, tiêu diệt các ổ đề kháng thực sự hoặc tiềm năng: các đảng phái, quân đội, công đoàn, hợp tác xã, trường đại học, trường học, viện hàn lâm khoa học, nhà in, báo giới.

Nhưng sau đó, đảng mới phát hiện ra rằng chủ nghĩa xã hội, như một xã hội tự do và tự quản, vẫn chưa hình thành và để xây dựng nó thì phải áp dụng các biện pháp cưỡng bức chưa từng có trước đây. Trong khi đó, theo lý thuyết thì chỉ có hai hiện thực: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là, hiện thực là tư bản chủ nghĩa, vì vậy, sang bước thứ ba, sẽ phải phá hủy tất cả những gì đang hiện hữu: làng xóm, gia đình, tàn dư của nền giáo dục tư sản và cả tiếng Nga nữa. Cần phải kiểm soát từng người, những con người cô đơn và không còn phương tiện tự vệ vì tất cả các mối liên hệ xã hội đã bị phá hoại rồi, buộc người đó vào một nếp sống mới, trong đó, anh ta sẽ được cải tạo và sẽ hình thành những phản ứng có điều kiện mới. Và cuối cùng là tiêu diệt những kẻ thù bí mật.

Nhưng thất bại trong xây dựng chủ nghĩa ở trong nước còn do môi trường thù địch ở bên ngoài tạo ra nữa. Dù có mang màu sắc nào: dân chủ tư sản, xã hội-dân chủ, chủ nghĩa Quốc xã thì chính sự tồn tại của nó đã là nguy hiểm rồi. Nghĩa là, trong bước thư tư, phải thành lập tại mỗi nước các tổ chức theo kiểu Bolshevik, phải thành lập các đảng cộng sản và một cơ quan trung ương, Comintern, để phối hợp hành động và bảo đảm sao cho các tổ chức địa phương hành động theo đúng mô hình do trung ương đưa xuống. Khi hoàn cảnh cho phép, chủ nghĩa cộng sản lan truyền sang các khu vực mới, liên kết với “khối xã hội chủ nghĩa” thì các khu vực này cũng sẽ trải qua các giai đoạn phá hoại tương tự.

Mặc dù vậy, ngay trong khối xã hội chủ nghĩa, đảng lại tuyên bố (bằng tiếng nói của Stalin) rằng chủ nghĩa tư bản vững chắc chưa từng có. Nó đã thâm nhập vào và mở rộng ảnh hưởng ở trong đảng, đảng đã đánh mất tính chính danh của mình. Như vậy là lãnh tụ của đảng và chỉ một mình ông ta có trách nhiệm giải tán đảng (giai đoạn 5) để rồi tạo dựng nên một đảng mới. Để thực hiện ca phẫu thuật nguy hiểm này, phải sùng bái lãnh tụ hơn nữa, lãnh tụ lúc này đã chẳng khác gì Führer của đảng Quốc xã nữa rồi. Khi đã là người đại diện cho tinh thần của thời đại, cũng như lãnh tụ Quốc xã là đại diện của tinh thần dân tộc, ông ta, trong hoàn cảnh cách ly với môi trường xung quanh nhưng lại “liên hệ trực tiếp” với đám đông, có thể tiêu diệt ngay đảng, tức là trở thành tên đao phủ tập thể của quần chúng. Stalin đã làm như thế một lần, chắc chắn là có xem xét kinh nghiệm của Hitler và “đêm của những con dao dài” của hắn ta. Ông ta chuẩn bị làm điều đó một lần nữa (đồng thời đưa tất cả người Do Thái đi đầy) nhưng chưa kịp thì đã chết. Mao Trạch Đông thì làm những hai lần: một lần là trong giai đoạn “Đại nhảy vọt”, sau đó thì quyết liệt hơn, trong “Đại cách mạng văn hoá vô sản”.


Suy nhược và tự tan rã

Logic của cả hai hệ thống, nếu được đưa đến cùng, là sự tiêu diệt toàn bộ loài người. Nhưng cái logic này không được và không thể được vận dụng đến thắng lợi cuối cùng.

Nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản là tất cả phải phục tùng cho việc giành và giữ chính quyền vì chính quyền có trách nhiệm thực thi đề án. Để bảo vệ chính quyền thì buộc lòng phải tha những gì cần thiết cho chính sự sống còn của nó.

Đã có lúc sự phá hoại đã gây ra những thiệt hại mà quyền lực của đảng gặp nguy hiểm – nhưng đây không phải là nguy cơ khởi nghĩa toàn dân, đảng đủ sức ngăn chặn chuyện đó, mà là nguy cơ biến mất ngay chính vật liệu mà đảng tiến hành thí nghiệm, tức là con người. Điều đó đã xảy ra vào giai đoạn cuối của “chủ nghĩa cộng sản thời chiến”: Nước Nga đang tan rã và sắp biến mất, Lenin buộc phải đưa ra chính sách kinh tế mới, thực chất là một cách giải lao.

Khi cách mạng chưa thu được thắng lợi trên toàn thế giới thì thế giới bên ngoài, dù chỉ còn là một hòn đảo nhỏ, vẫn là một mối đe doạ chết người. Nó có tư tưởng thù địch như đã từng thù địch dưới thời Hitler hay chỉ muốn được yên và giữ nguyên trạng thái như phương Tây sau Thế chiến thứ hai - đó không phải là vấn đề quan trọng, chỉ cần có sự hiện diện của nó là bong bóng xà phòng xã hội chủ nghĩa có nguy cơ nổ tung bất cứ lúc nào. Để giữ cho cái thế giới hiện thực đó đứng ở khoảng cách nhất định và trong trường hợp cần thiết thì có thể tiêu diệt được nó, đảng phải có lực lượng, mà lực lượng này lại chỉ có thể được lấy từ cái hiện thực nằm dưới sự kiểm soát của đảng. Đảng cần có một nền kinh tế tối thiểu để nuôi dân và một nền công nghiệp, công nghệ tối thiểu để trang bị cho quân đội. Chính vì vậy mà những người sản xuất, các kỹ thuật viên, các nhà bác học được tha mạng. Đảng không thể đưa tất cả về “thế giới bên kia” vì nếu làm như vậy thì chính đảng cũng bị cuốn vào dây chuyền tự hủy đó của mình.

Cuối cùng, giai đoạn chót, sự phá hoại đảng va chạm với bản năng tự bảo vệ. Sau những vụ thanh trừng vĩ đại của Stalin và Mao Trạch Đông, đảng đã tự đặt ra các biện pháp bảo đảm và bảo vệ cho sự tồn tại của chính mình. Cộng sản không còn giết cộng sản nữa, nạn nhân chỉ bị thất sủng mà thôi.

Ở nước Nga, giai đoạn suy thoái bắt đầu từ đấy. Đảng ngày một già đi vì nói cho cùng, bảo vệ chính quyền đồng nghĩa với việc bảo vệ các vị trí và chức vụ. Chiến thuật hình thành trong những thời kỳ gian khó bây giờ được dùng để làm mỗi việc đó mà thôi. Trên đỉnh cao quyền lực, Brezhnev đang rữa ra một cách chậm chạp. Đảng rơi vào tình trạng tha hoá: nó không còn tuyệt đối trung thành với các mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản nữa, nó chỉ muốn hưởng thụ quyền lực và tài sản. Nó đã thoát khỏi thế giới siêu thực và trở về với hiện thực, cái hiện thực đã bị nó làm cho tan hoang, nơi chỉ có những thú vui sơ đẳng: rượu, nhà nghỉ và xe ô tô con. Còn quần chúng thì vẫn sống qua ngày đoạn tháng trong thân phận vẫn dành cho họ, cố gắng sắp xếp cuộc sống được thế nào hay thế ấy; họ không còn quan tâm đến chế độ nữa, chế độ cũng không còn tổ chức cho họ xem cảnh lên voi xuống chó của những kẻ quyền thế mà cũng chẳng dành cho họ một chút hi vọng nào trong việc thay thế những kẻ kia. Sự xuống cấp của toàn xã hội đạt đến đỉnh điểm. Khi một tiếng động nhỏ làm sụp đổ ngôi nhà xếp bằng những quân bài, cái ngôi nhà có thể sụp bất cứ lúc nào thì trước mắt chúng ta bỗng hiện lên quang cảnh hậu cộng sản: những tên mafia và những người sống gần mức nghèo khổ, những người chẳng còn đủ sức lực để nhớ về quá khứ nữa.

Ở Trung Quốc, những người thoát được những cuộc thanh trừng của Mao đã đi theo con đường khác. Để giữ quyền lực, người ta buộc phải đưa ra nhiệm vụ xây dựng nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa hùng mạnh và chủ nghĩa dân tộc đầy sức sống đã thâm nhập vào cái xác không hồn của chủ nghĩa cộng sản. Là người chứng kiến cảnh điêu tàn của nhà nước Liên Xô, họ cảm thấy hối tiếc vì đã đi theo một hình mẫu phát triển sai lầm trong khi những người Trung Hoa khác hay các dân tộc gần gũi với người Trung Hoa đã đi theo mô hình hay hơn. Từ đây, xuất hiện tính chất hai mặt của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa: nước này đang phát triển rất mạnh trong khi đảng tiếp tục nắm chặt quyền lực và không ai biết nó có còn là đảng cộng sản nữa hay không. Hiện nay, trên thế giới chỉ còn một nước cộng sản duy nhất, một nước vẫn tiếp tục đi theo logic tự hủy diệt, đấy là Bắc Triều Tiên.


*


Chúng ta không biết chủ nghĩa Quốc xã sẽ tiến hoá như thế nào. Nó không đạt được đỉnh điểm và đã bị lật đổ ngay khi bắt đầu cuộc chinh phục của mình. Trong chế độ Quốc xã, việc phá hoại chính trị được thực hiện theo một trật tự khác với chế độ cộng sản Liên Xô. Chủ nghĩa Quốc xã hướng ra bên ngoài trước khi nó kết liễu xong xã hội Đức. Trong khi đó, Liên Xô lại coi trọng công việc phá hoại có tổ chức, công việc phá hoại một cách có kế hoạch tinh thần kẻ thù “bên ngoài”, Hồng quân chỉ xuất hiện để khẳng định chiến thắng về mặt chính trị, còn chủ nghĩa Quốc xã lại tiến hành chiến tranh ngay lập tức. Chiến tranh đã gia tốc việc thực hiện các kế hoạch của chủ nghĩa Quốc xã nhưng cũng làm gia tăng sức kháng cự bách chiến bách thắng trên toàn thế giới.

Thành tố không dự đoán trước được trong chủ nghĩa Quốc xã cho phép ta giả định rằng Hitler có thể, thí dụ, thoả hiệp và kí hiệp ước hoà bình mà vẫn giữ được một phần lãnh thổ rộng lớn và an toàn. Trong trường hợp đó, sau khi Hitler chết, chế độ sẽ trải qua giai đoạn suy nhược tương tự như chế độ của Lenin. Về vấn đề này, Leszek Kolakovsky đã viết một tiểu phẩm hài hước nhại một bài báo trên tờ New York Times hồi đầu những năm 80 theo phong cách mà báo này viết về Liên Xô thời Brezhnev. Tác giả chào mừng sự nới lỏng về chính trị, chào mừng những thành công của chủ nghĩa Quốc xã mang bộ mặt con người. Tất nhiên, tác giả viết tiếp, những điều khủng khiếp trong quá khứ, trong đó có số phận kinh hoàng của người Do Thái, là đáng tiếc. Nhưng đấy đã là quá khứ xa xôi và nó không thể cản trở chúng ta trong việc ghi nhận những thành quả tuyệt vời, những thành quả do chế độ, trên đường bình thường hoá, mang lại…

Ý nghĩa của những tác nhân bên ngoài đối với quá trình suy nhược và sụp đổ của các chế độ toàn trị có thể khác nhau. Đối với nước Đức Quốc xã thì đấy là tác nhân quyết định: nước Đức đã bị quân đồng minh đánh tan. Nhưng thế giới “tư bản chủ nghĩa” ít khi là mối đe doạ đối với chế độ cộng sản. Chủ nghĩa Quốc xã đã nêu cao tính chính danh của chủ nghĩa cộng sản trong mắt phương Tây. Trong thời “Chiến tranh lạnh”, chính sách roll back (quay lại quá khứ, nghĩa là quay lại các quan hệ trước chiến tranh) đã nhanh chóng nhường chỗ cho chính sách containment (kiềm chế). Bước ngoặt đó cũng không ngăn chặn được sự phát triển rộng khắp của phong trào cộng sản ở châu Á, châu Phi và cả châu Mỹ nữa. Cuối cùng thì đảo Grenada là nơi duy nhất mà chủ nghĩa cộng sản bị lật đổ, tương tự như chủ nghĩa Quốc xã, nghĩa là bằng một cuộc đổ quân ồ ạt, dù bị một số nước phi cộng sản phản đối quyết liệt.



Phụ lục
Chủ nghĩa Bolshevik: Nhớ và quên

Có một sự đồng thuận rộng rãi về sự tương đồng giữa chủ nghĩa cộng sản kiểu Bolshevik và chế độ Quốc xã, ít nhất thì trong giới các nhà sử học hàn lâm đã có một sự đồng thuận như thế. Tôi coi thuật ngữ “hai anh em sinh đôi cùng trứng” thể hiện được bản chất của hai chế độ này. Đấy là hai hệ tư tưởng đã giành được quyền lực trong thế kỷ XX. Mục đích của chúng là xây dựng một xã hội hoàn hảo và để làm điều đó thì trước hết phải loại bỏ hoàn toàn cái bất thiện, tức là những trở ngại trên con đường dẫn đến xã hội hoàn hảo đó. Đối với chủ nghĩa cộng sản thì bất thiện chính là tài sản tư nhân, cũng có nghĩa là tầng lớp hữu sản. Nhưng hoá ra cái bất thiện không biến mất sau khi giai cấp hữu sản đã bị tiêu diệt, từ đây tất cả mọi người dân, những người đã bị “tinh thần của chủ nghĩa tư bản” làm cho thoái hoá biến chất, đều bị coi là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, thậm chí kẻ thù còn thâm nhập vào bộ máy của đảng nữa. Đối với chế độ Quốc xã thì các dân tộc bị coi là hạ đẳng, mà trước hết là người Do Thái, chính là cái bất thiện. Nhưng sau khi người Do Thái bị tiêu diệt thì cái bất thiện cũng không biến mất, cần phải loại trừ cái bất thiện trong cả các chủng tộc khác, kể cả chủng tộc thượng đẳng vì chính họ cũng đã bị vấy bẩn. Cả chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa Quốc xã đều dựa vào uy tín của khoa học để nêu cao tính chính danh của mình. Cả hai chế độ đều có tham vọng tạo dựng con người mới và cải tạo lại toàn bộ nhân loại.

Cả hai hệ tư tưởng đều tự nhận là có lòng nhân ái. Chủ nghĩa Quốc xã thì muốn mang lại hạnh phúc cho nhân dân Đức và tuyên bố rằng giết người Do Thái là làm điều thiện đối với loài người. Chủ nghĩa cộng sản-chủ nghĩa Lenin thì mong muốn đem hạnh phúc đến cho toàn thể loài người. Tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản chính là ở đó, trong khi cương lĩnh của chủ nghĩa Quốc xã thì không thể nào xuất khẩu được. Cả hai học thuyết đều đưa ra “những lý tưởng cao cả”, đủ sức động viên người ta thực hiện những hành động anh hùng và giữ lòng trung thành tuyệt đối. Nhưng cả hai đều cho người ta quyền được giết và buộc người ta phải giết. Xin dẫn ra đây những lời được coi là tiên tri của Chateaubriand: “Hai hệ thống khác nhau này có cùng một phương tiện anh hùng, được tuyên bố công khai hay hiểu ngầm thì cũng thế, đấy là: giết người”. Còn Hugo thì nói: “Ngươi có thể giết tên này”. Hoặc loại người này. Sau khi giành được chính quyền, họ đã thực hiện chương trình giết người với một mức độ chưa từng có trước đây. Tội ác của hai hệ thống có tương đương nhau hay không? Sau khi đã tìm hiểu cả hai hệ thống, sau khi đã biết những kỷ lục của chủ nghĩa Quốc xã về cường độ (buồng hơi ngạt) và kỷ lục của chủ nghĩa cộng sản về số lượng (hơn 80 triệu nạn nhân), sau khi đã biết sự phá hoại về mặt lý trí và tình cảm mà cả hai hệ thống đã gây ra cho nhân loại, tôi nghĩ rằng chẳng nên thảo luận vấn đề này làm gì, ta phải trả lời một cách đơn giản và dứt khoát: chúng đều có tội như nhau.

Vấn đề là tại sao hôm nay, nghĩa là vào năm 1997, trí nhớ lịch sử của nhân loại lại đối xử với chúng khác nhau đến nỗi có cảm giác như chủ nghĩa cộng sản đã bị người đời bỏ quên.

Cách đối xử bất bình đẳng rõ ràng đến nỗi chẳng cần phải chứng minh. Ngay từ năm 1989, phe đối lập ở Ba Lan cùng với Nhà thờ đã đề nghị mọi người cùng quên đi quá khứ và cùng tha thứ. Tại phần lớn các nước vừa thoát khỏi chủ nghĩa cộng sản, không thấy ai nói đến việc trừng phạt các nhà lãnh đạo cũ, những người đã giết người, đã tước quyền tự do, đã cướp bóc và lừa đảo các thần dân của họ suốt hai ba thế hệ. Trừ Tiệp và Đông Đức, tại tất cả các nước khác, các đảng viên cộng sản vẫn được tiếp tục tham gia vào các trò chơi chính trị và nhờ thế, đôi khi họ lại nắm được quyền lực. Tại Nga và các nước cộng hoà khác, các quan chức cảnh sát và ngoại giao vẫn được giữ nguyên chức vụ. Phương Tây đánh giá tích cực cuộc đại ân xá này. Chỉ một thời gian sau, các phương tiện thông tin đại chúng lại sẵn sàng nói đến “thiên anh hùng ca của chủ nghĩa cộng sản”. Tuy quá khứ của Đảng Cộng sản Pháp đã được trình bày một cách rõ ràng và có đủ cứ liệu chứng minh, nó vẫn chẳng gặp khó khăn gì trong việc hội nhập vào phong trào dân chủ của nước Pháp.

Ngược lại, damatio memoriac (sự nguyền rủa đời đời) chủ nghĩa Quốc xã không những không có thời hạn nào mà có vẻ như lòng căm thù của người đời đối với nó càng ngày lại càng lớn lên thêm. Các thư viện nói về tội ác của chủ nghĩa Quốc xã đã và đang được bổ sung thêm mỗi năm. Các viện bảo tàng và các cuộc triển lãm tiếp tục nhắc nhở người ta, mà như thế là đúng, về “sự khủng khiếp của tội ác”.

Xin theo dõi một số đề tài của một tờ báo lớn từ năm 1990 đến năm 1997 là năm tôi viết tác phẩm này. Chủ nghĩa Quốc xã được nhắc tới 480 lần, Chủ nghĩa Stalin – 7 lần, Oswiecim – 105 lần, Kolyma – 2 lần, Majdanek – 1, Kurpatư – 0 lần nào, Nạn đói ở Ukraine (năm 1933 có từ 5 đến 6 triệu người bị chết vì đói) – 0 lần nào.

Khi nói về cuốn sách mang tên Nhớ và quên của mình, Alfred Grosse tuyên bố: “Tôi đề nghị: phải áp dụng cùng một tiêu chí cho tất cả mọi người khi đánh giá trách nhiệm về những tội lỗi mà họ đã phạm trong quá khứ.” Dĩ nhiên là như thế, nhưng đây là điều rất khó, không phải với tư cách một quan toà mà với tư cách một nhà sử học bình thường, hôm nay tôi xin cố gắng giải thích các sự kiện sine ira et studia (một cách bình tĩnh và không thiên vị). Tôi không nghĩ là mình sẽ giải quyết được toàn bộ vấn đề. Chỉ xin đưa ra một số nhân tố:

  1. Chủ nghĩa Quốc xã được nhiều người biết hơn là chủ nghĩa cộng sản vì các lực lượng đồng minh đã mở rộng cửa “các chỗ giấu xác người” và vì nhân dân nhiều nước Tây Âu đã trải qua giai đoạn nô dịch của chủ nghĩa Quốc xã. Tôi đã nhiều lần hỏi các sinh viên xem họ có biết gì về nạn đói do chính con người tạo ra ở Ukraine vào năm 1933 không. Hoá ra họ chưa nghe nói đến chuyện đó bao giờ. Tội ác của chủ nghĩa Quốc xã trước hết là việc thủ tiêu về mặt thể xác. Nạn nhân và nhân chứng, những người không buộc phải chấp nhận chủ nghĩa Quốc xã, không bị nó tiêm nhiễm về mặt đạo đức. Như vậy là tội ác của nó rất rõ ràng, ai cũng thấy. Các lò hơi ngạt được lập ra để giết một phần nhân loại là một sự kiện rõ ràng, trực tiếp. Còn GULag và lao cải thì lại dường như bị chìm trong sương mù và chỉ được biết đến qua những chứng cớ gián tiếp. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ, đấy là nước Cămpuchia, ở đấy những nấm mồ tập thể đang được khai quật.

  2. Nhân dân Do Thái tự nhận trách nhiệm ghi nhớ thảm hoạ. Đối với họ, ghi nhớ những cuộc đàn áp là trách nhiệm mang tính đạo đức, trách nhiệm tôn giáo liên quan đến sự vinh danh và lời thỉnh cầu Đức Chúa, Người đã hứa bảo vệ Dân Mình, Người trừng phạt sự bất công và tội ác. Nhân loại phải mang ơn trí nhớ của người Do Thái, họ chính là những người bảo vệ các kho lưu trữ về thảm hoạ. Điều bí mật nằm ở các dân tộc đã quên mà tôi sẽ nói tới sau.

  3. Chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản nằm trong một từ trường bị phân cực bởi các khái niệm tả khuynh và hữu khuynh. Đây là một khái niệm cực kỳ phức tạp. Một mặt, tư tưởng tả khuynh đồng nghĩa với việc các tầng lớp xã hội được tham gia dần dần vào các tiến trình chính trị dân chủ. Đồng thời cần phải ghi nhận rằng sự phát triển của giai cấp công nhân Mỹ đã làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa không còn hấp dẫn nữa, giai cấp công nhân Anh, Đức và các nước vùng Scadinavia đã lớn mạnh, với đa số các đại diện của mình trong nghị viện, đã quay lưng lại với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Ngay trước chiến tranh thế giới thứ II, chỉ có ở Pháp và Tiệp Khắc, cũng như sau này ở Italy, chủ nghĩa cộng sản có thể giành được chiến thắng cùng với phong trào công nhân và như vậy là có toàn quyền tham gia vào lực lượng cánh tả mà thôi. Xin nói thêm rằng: ở Pháp, có một số nhà sử học, thí dụ như Matier, những người hâm mộ cuộc Cách mạng vĩ đại Pháp đã làm việc so sánh Cách mạng tháng Mười năm 1917 với Cách mạng năm 1792 và so sánh cuộc khủng bố do những người Bolshevik và những người Jacobin tiến hành.

    Mặt khác, nhiều nhà sử học sinh ra và trưởng thành trước chiến tranh vẫn giữ được cảm giác sống động về cội nguồn xã hội chủ nghĩa hay vô sản của chủ nghĩa phát xít Italy và Quốc xã Đức. Chứng minh cho điều đó là cuốn sách Lịch sử chủ nghĩa xã hội ở châu Âu của Eli Galevi xuất bản năm 1937. Tác giả dành hẳn chương ba của phần năm của tác phẩm để nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Italy phát xít. Còn chương bốn là để nói về chủ nghĩa xã hội ở nước Đức Quốc xã. Chế độ này tự tuyên bố là theo đường lối chống tư bản, đã tịch thu tài sản của tầng lớp tinh hoa hay tiêu diệt chính tầng lớp này; như vậy là ngày hôm nay, chiếu theo một số tiêu chí, chế độ này có thể chiếm được vị trí mà nó không thể ngờ được, tức là vị trí trong lịch sử của phong trào xã hội chủ nghĩa.

  4. Chiến tranh đã đưa các nước dân chủ tham gia liên minh quân sự với Liên Xô, và vì vậy đã làm giảm sức đề kháng đối với tư tưởng cộng sản mà vào lúc Stalin kí hoà ước với Hitler đã rất mạnh, cũng như đã tạo ra một sự rối loạn tri thức nhất định. Để một nước dân chủ chiến đấu hết mình thì đồng minh của nó phải được tôn trọng ở một mức độ nhất định, khi cần thiết người ta buộc phải gán cho nó một sự tôn trọng như thế. Với sự tiếp tay của Stalin, lòng dũng cảm của các chiến binh Liên Xô được coi là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước, còn tư tưởng cộng sản thì được người ta cố tình che giấu đi. Khác với các nước Đông Âu, các nước phương Tây không phải chịu cảnh xâm lăng của quân đội Xô viết. Vì thế, người ta coi Hồng quân là quân đội giải phóng, tương tự như quân đội của các nước đồng minh khác, nhưng điều này trái ngược hẳn với quan niệm của người Ba Lan hay người dân các nước Baltic. Đại diện Liên Xô cũng tham gia vụ xét xử ở Nuremberg. Các nước dân chủ đã chịu nhiều tổn thất trong cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít. Sau đó, họ chỉ có thể đồng ý chịu những hi sinh tối thiểu để ngăn chặn sự bành trướng của chế độ Xô viết và khi nó sắp cáo chung, nhằm giữ sự ổn định, họ đã giúp đỡ để cho nó sống còn. Chế độ này đã tự sụp đổ, đã biến mất, vai trò của các nước dân chủ trong chuyện đó là không đáng kể.

  5. Một trong những thành tựu của chế độ Xô viết là nó đã tuyên truyền và dần dần áp đặt được cách phân loại các chế độ chính trị hiện nay theo quan điểm tư tưởng của mình. Lenin đã giản lược thành sự đối đầu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cho đến những năm 30 của thế kỷ trước, Stalin vẫn giữ quan điểm về một thế giới lưỡng phân như thế. Chủ nghĩa tư bản hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc bao gồm các chế độ tự do và dân chủ-xã hội, phát xít và Quốc xã. Điều đó đã tạo điều kiện cho những người cộng sản Đức đánh đu giữa những người “phát xít – xã hội” và “Quốc xã”. Nhưng sau khi đưa ra nghị quyết về cái gọi là chính sách Mặt trận dân tộc thì các nước được phân thành: chủ nghĩa xã hội (nghĩa là Liên Xô), dân chủ tư sản (các nước tự do và dân chủ-xã hội) và cuối cùng là phát xít. Các chế độ như Quốc xã, phát xít Mussolini, các chế độ độc tài ở Tây Ban Nha, Áo, Hung, Ba Lan… và cuối cùng là các lực lượng cực hữu ở các nước dân chủ tự do đều bị coi là phát xít cả. Người ta đã xâu chuỗi Hitler với Jean Sharp (một quan chức cao cấp trong chính quyền Pháp trước chiến tranh và sau này có tham gia chính quyền tay sai phát xít Đức, có cảm tình với cánh cực hữu), Franco, Mussolini ..v..v.. Tính đặc thù của chế độ Quốc xã đã bị xoá nhoà. Thêm vào đó, chế độ này bị xếp vào cánh hữu và phủ bóng đen lên tất cả các lực lượng thiên hữu. Chế độ này trở thành cực hữu, trong khi Liên Xô trở thành lực lượng cực tả.

    Điều đáng ngạc nhiên là cách phân loại như vậy đã thâm nhập và củng cố được vị trí của mình trong tư duy lịch sử ở nước Pháp. Xin xem mấy cuốn sách giáo khoa về lịch sử dành cho các trường trung và đại học. Cách phân loại thường được viết như sau: Chế độ Xô viết; các nước dân chủ tự do với các lực lượng cánh tả và cánh hữu; các chế độ phát xít, nghĩa là chế độ Quốc xã, chế độ phát xít ở Italy, chế độ của Franco ở Tây Ban Nha..v..v.. Đấy chỉ là cách trình bày “đã được mềm hoá” sự phân loại của Liên Xô mà thôi. Ngược lại, trong các cuốn sách giáo khoa này thật khó tìm thấy cách phân loại đúng đắn, đã được Hannah Arendt đề xuất vào năm 1951 và được tất cả các sử gia đương đại tán thành: Hai hệ thống toàn trị là chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, các chế độ tự do, các nhà nước chuyên chế (Italy, Tây Ban Nha, Hungary, các nước Mỹ La tinh). Cách phân loại như thế sẽ đưa chúng ta trở về với các tiêu chí cổ điển về các chế độ độc tài và áp bức, được mọi người biết đến từ thời Aristotle.

  6. Số người có khả năng gìn giữ trí nhớ về chủ nghĩa cộng sản quả thật không nhiều. Chế độ Quốc xã chỉ tồn tại có 12 năm, trong khi chế độ cộng sản châu Âu kéo dài 50 đến 70 năm, tùy nước. Thời gian dài đã tạo ra hiệu ứng ân xá tự động. Trên thực tế, trong thời gian dài như thế xã hội công dân đã bị thủ tiêu, các tầng lớp tinh hoa đã bị tiêu diệt, bị thay thế hoặc bị cải tạo hết. Tất cả mọi người, từ trên xuống dưới đều đã tự thích nghi, đã phản bội, đã suy đồi về mặt đạo đức. Hơn thế nữa, đa số những người có khả năng tư duy đã không có kiến thức về lịch sử nước mình, đã không còn khả năng phân tích nữa. Khi đọc các tác phẩm đối lập, nghĩa là nền văn học chân chính duy nhất của nước Nga, ta chỉ nghe thấy những lời khẩn cầu đau xé tim gan, những mô tả đầy xúc động về cái thảm hoạ bất tận đó, nhưng không bao giờ gặp một sự phân tích mang tầm lý tính, mang tầm trí tuệ. Các nhà sử học trẻ Nga hiện nay không quan tâm đến giai đoạn đó, một giai đoạn đã được cho vào quên lãng và khinh khi. Xin nói thêm là nhà nước còn đóng cửa các kho lưu trữ. Môi trường duy nhất còn giữ được trí nhớ về chủ nghĩa cộng sản là phong trào gọi là dissident [2] , xuất hiện khoảng năm 1970. Nhưng phong trào này đã tan rã vào năm 1991 và không có khả năng tham gia vào chính quyền mới.

    Khôi phục trí năng và nhận thức về đạo đức của nhân dân sau khi chế độ toàn trị tan rã là việc cực kỳ khó. Theo ý nghĩa này thì công việc ở nước Đức Quốc xã có nhiều thuận lợi hơn so với nước Nga hậu cộng sản. Ở Đức, xã hội công dân chưa bị phá sập hoàn toàn. Việc lên án, trừng phạt, phi phát xít hoá do quân đội đồng minh tiến hành đã giúp xã hội công dân tìm được sức mạnh để tham gia vào phong trào thanh tẩy lương tâm, lên án chính mình, giúp nó người ta ghi nhớ những việc đã làm và sám hối.

    Đông Âu thì không như thế, phương Tây phải chịu một phần trách nhiệm trong chuyện này. Khi những người cộng sản Nga biến việc nắm giữ toàn bộ tài sản quốc gia thành tài sản tư nhân hợp pháp của chính họ, khi họ hợp thức hoá quyền lực của mình bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu, khi họ thay chủ nghĩa Lenin bằng chủ nghĩa xô vanh nước lớn thì phương Tây đã im lặng, cho rằng đòi hỏi họ phải chịu trách nhiệm là không đúng chỗ. Không nên giúp nước Nga theo cách tồi tệ như thế. Việc những bức tượng của Lenin còn đứng trên tất cả các quảng trường của nước Nga là biểu hiện rõ ràng về sự ngộ độc của tâm hồn con người, phải nhiều năm nữa mới chữa được. Ở phương Tây, lời “giáo huấn” của Comintern đưa ra cho Mặt trận dân tộc vẫn chưa được được xoá bỏ hẳn. Việc đưa các tư tưởng của Lenin vào hàng ngũ cánh tả chắc chắn sẽ làm cho Kautsky, Bernstein, Léon Blum, Bertrand Russell, thậm chí ngay cả Rosa Luxemburg cũng sẽ tỏ thái độ khinh bỉ nếu các vị đó còn sống cho đến hôm nay. Chính vì việc làm sai lầm như thế mà hiện nay người ta vẫn coi đó là một sự hiểu lầm hay một trường hợp đáng tiếc trong phong trào cánh tả. Bây giờ, sau khi biến mất, nó lại tiếp tục được coi như là một dự án xứng đáng thực thi nhưng đã bị đưa vào con đường lầm lạc.

  7. Việc quên chủ nghĩa cộng sản lại thúc đẩy người ta càng nhớ đến chủ nghĩa Quốc xã nhiều hơn và ngược lại, một trí nhớ trung thực và đơn giản cũng đủ để kết án cả hai chế độ này. Ở đây có cả đặc trưng của cái lương tâm không trong sáng đã tồn tại nhiều thế kỷ ở phương Tây: nguồn gốc của cái ác tuyệt đối bao giờ cũng xuất phát từ phương Tây. Nay quan niệm về vị trí địa lý của họ đã thay đổi. Nguồn gốc của cái ác bây giờ là Nam Phi với nạn phân biệt chủng tộc, là Mỹ với cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhưng trung tâm động đất vẫn là nước Đức Quốc xã. Nga, Triều Tiên, Trung Quốc, Cuba được coi là bên ngoài hay bị đẩy ra bên ngoài vì người ta đã nhắm mắt làm ngơ. Sự cắn rứt lương tâm đi kèm với quá trình này được bù trừ bằng sự cảnh giác không khoan nhượng, sự chú tâm không mệt mỏi vào tất cả những gì có liên quan đến chủ nghĩa Quốc xã mà trước hết là chính quyền Vichy ở Pháp trước đây và tất cả những tư tưởng sai lầm đang thối rữa trong một vài tổ chức cánh hữu ở phương Tây hiện nay.
Thế kỷ XX không chỉ có một lịch sử sát nhân kinh hoàng mà còn có đặc điểm là nhận thức lịch sử phải trải qua nhiều khó khăn mới lựa chọn được hướng đi đúng. Cái này là nguyên nhân của cái kia. G. Orwell đã nhận xét rằng nhiều người trở thành Quốc xã vì nỗi kinh hoàng có thể lý giải được khi thấy những việc mà cộng sản đã làm và nhiều người đã trở thành cộng sản vì nỗi kinh hoàng khi thấy những việc mà Quốc xã đã làm. Điều đó cảnh giác chúng ta về nguy cơ của những sự xuyên tạc lịch sử. Một sự xuyên tạc như thế đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta, và thật đáng buồn nếu cái lịch sử bị xuyên tạc như thế sẽ là di sản mà chúng ta để lại cho thế kỷ sau.

Nhưng tôi vẫn hy vọng. Phải cần nhiều năm, người ta mới nhận thức được đầy đủ chủ nghĩa Quốc xã vì nó là cái bất khả tưởng tượng, là cái mà trí não con người không thể hiểu được. Điều đó cũng có thể sẽ xảy ra với chủ nghĩa cộng sản, công việc mà nó đã làm cũng tạo ra một hố sâu đen ngòm mà con người không thể nào hiểu được, và giống như Oswencim, công việc đó đã được che giấu bởi sự khó tin, khó tưởng tượng và không thể hình dung nổi. Thời gian, một trong các chức năng của nó là phát hiện ra sự thật, có thể sẽ làm được nhiệm vụ của mình.


Bản tiếng Việt © 2007 talawas



[1]Arcady, vùng đất thuộc Hy Lạp, nơi dân chúng chỉ làm nghề trồng trọt và chăn nuôi, không quan tâm đến công nghiệp và khoa học, nghệ thuật (ngoại trừ ca nhạc) và rất hiếu khách. Được các nhà thơ sau này ví với thiên đường trên cõi thế.
[2]Dissident, nghĩa rộng là để chỉ những người chống lại các quan điểm, các nguyên tắc, các cơ chế đã đứng vững, nhưng thường được dùng theo nghĩa hẹp để chỉ những nhà hoạt động chính trị chống lại các chế độ độc tài, toàn trị.

TAI HỌA CỦA THẾ KỶ 2

Alain Besançon
Tai hoạ của thế kỷ. Chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa phát xít và tính đặc thù của thảm hoạ
Phạm Minh Ngọc dịch
1 2 3
Chương II
Phá hoại về mặt đạo đức

Bên cạnh việc thủ tiêu về mặt thể xác, một khía cạnh rõ ràng của thảm hoạ, một lĩnh vực thu hút nhiều công trình nghiên cứu và có nhiều tài liệu thống kê thì còn một lĩnh vực nữa, không nhìn thấy được, nơi sự phá hoại có thể còn lớn hơn nhiều vì nó động chạm đến số lượng người đông hơn và đòi hỏi nhiều thời gian khắc phục hơn. Đấy là sự phá hoại trái tim và khối óc.

Sự phi lý

Có thể lập và người ta đã lập phả hệ của hai hệ tư tưởng đã từng làm điên đầu một phần nhân loại trong thế kỷ vừa qua. Nhưng khi làm như thế, ta có nguy cơ tin rằng những tư tưởng to lớn và sâu sắc vẫn còn tồn tại trong hai hệ tư tưởng đó, tin rằng chúng đã sử dụng khía cạnh nào đó của những tư tưởng sâu sắc nói trên trong việc tạo lập ra hình hài của chính mình. Chúng không xứng đáng được tôn trọng và được đánh giá cao đến như thế. Làm như thế là chúng ta đã thuận theo yêu sách được liệt vào phả hệ của chúng. Chủ nghĩa Marx-Lenin coi mình là hậu duệ của những truyền thống xuất phát từ Heraclitus và Democritus. Nó chứng minh rằng nó có cội nguồn từ Lucretius, từ thời Khai sáng, từ Hegel và toàn bộ tiến trình phát triển của khoa học. Chủ nghĩa Quốc xã tự coi mình có nguồn gốc từ truyền thống bi kịch Hy Lạp, từ Herder, Novalis, từ Hegel, từ Nietzsche và dĩ nhiên là đã biện hộ bằng toàn bộ sự phát triển của khoa học từ thời Darwin. Không được tin chúng. Ảo tưởng như thế có thể tạo ra một mối nguy nữa, tức là ta có thể bôi nhọ thanh danh của những người mà các học thuyết này coi là cội nguồn của chúng: chúng ta có thể lên án cả Hegel và bất cứ triết gia hay khoa học gia nào được chúng nhắc tới vì họ đã tạo ra những kẻ thừa kế như thế.

Ảo tưởng đó sẽ tan biến ngay khi ta xem xét cơ chế tư duy của các lãnh tụ cộng sản và Quốc xã. Cơ chế tư duy của họ bị điều khiển bởi một hệ thống giải thích thế giới cực kỳ đơn giản: đấy là cuộc đấu tranh một mất một còn giữa các giai cấp hay các chủng tộc. Định nghĩa giai cấp hay chủng tộc lại chỉ có ý nghĩa ở bên trong và thông qua hệ thống này, vì vậy, mọi biểu hiện khách quan trong định nghĩa về giai cấp hay chủng tộc đều không có giá trị. Trong đầu óc những đồ đệ của các học thuyết nói trên, các khái niệm điên rồ như thế đủ sức lý giải bản chất của cuộc đấu tranh, biện hộ cho nó, đủ sức hướng dẫn hoạt động của kẻ thù cũng như đồng minh. Có thể sử dụng bất kỳ thủ đoạn nham hiểm và xảo trá nào miễn là đạt được mục đích và nếu nhìn vào các sự kiện, có thể thấy chủ nghĩa cộng sản đã có những kịch sĩ tài năng hơn Hitler nhiều như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Đây là những hệ thống phi lý, còn mục đích của chúng là bất khả thi.

Cốt cán của đảng phải là người trung thành tuyệt đối. Chỉ thị của “thượng cấp” có thể xoay chuyển toàn bộ đầu óc và ngũ quan. Kết quả là ngôn ngữ cũng bị biến dạng: nó không còn là phương tiện trao đổi mà là để che giấu mối liên hệ giữa hệ thống và hiện thực. Ngôn ngữ trở thành ảo thuật gia: buộc hiện thực khuất phục thế giới quan của hệ thống. Đấy là ngôn ngữ của lễ nghi, mỗi lời đều chứng tỏ rằng kẻ nói là người của hệ thống và người nghe cũng phải tham gia vào hệ thống này. Những câu nói có giá trị nhất của nó chính là những lời đe doạ, những biểu hiện của sức mạnh.

Khi đã bị hệ tư tưởng như thế khống chế thì trí tuệ không còn. Chủ nghĩa Quốc xã đã lôi kéo được một vài nhà tư tưởng vĩ đại: Heidegger, Carl Schmitt. Nhưng đấy là họ qui chiếu các tư tưởng xa lạ với chủ nghĩa Quốc xã của mình lên chủ nghĩa Quốc xã: thù địch với hiện đại hoá, thù địch với dân chủ, chủ nghĩa dân tộc mang màu sắc siêu hình. Dường như chủ nghĩa Quốc xã đã tiếp thu tất cả những cái đó, đã tiếp thu mà bỏ qua những điều tạo nên giá trị trong đời sống tinh thần của triết gia, đã bỏ qua tư tưởng, chiều sâu và siêu hình học của họ. Các nhà triết học này cũng ngộ nhận về phả hệ.

Chủ nghĩa Marx-Lenin chỉ tuyển mộ được những đầu óc loại hai, thí dụ như Lukács, nhưng những người này đã mau chóng đánh mất tài năng ngay sau đó. Các đảng cộng sản có thể huênh hoang vì có những người nổi tiếng như Aragon, Bréton, Picasso, Langevin, Neruda đứng cùng đội ngũ, nhưng họ lại tìm mọi cách để cho những người này đứng ở ngoài lề, chỉ cho họ tham gia khi cần, khi hoàn cảnh đòi hỏi. Mặc dù vậy, mặc dù đảng tính chỉ là chiếu lệ, hội hoạ của Picasso, thi ca của Neruda và Aragon cũng đã bị ảnh hưởng. Các nhà tư tưởng lớn ngả về một hệ tư tưởng nào đó là do sự say mê nhất thời, bản chất của lòng say mê nằm ngoài mọi hệ tư tưởng. Nhưng khi tiến gần vào trung tâm thì lòng nhiệt tình bỗng giảm hẳn, thường chỉ còn lại sự bực bội mà thôi.

Trong hàng ngũ cộng sản, một số lãnh tụ như Stalin và Mao Trạch Đông đã tự vạch ra sơ đồ nguyên lý chủ yếu của hệ tư tưởng này. Sơ đồ này có thể được mô tả trên vài trang giấy và chứa đựng toàn bộ học thuyết: không tìm đâu ra những kiến giải sâu sắc hơn, mặc dù những cuốn sách giáo khoa này đôi khi được gọi là “giáo trình cơ sở” để tạo ấn tượng rằng có những kiến giải khác khoa học hơn; nhưng những tác phẩm như thế, nếu có, cũng chỉ là kể lại một cách dài dòng “giáo trình” mà thôi. Những cuốn sách như thế lại là đối tượng “nghiên cứu”, nghĩa là các thần dân của họ phải tụng, phải nhại lại như vẹt những điều được ghi trong đó. Chủ nghĩa Quốc xã không có những cuốn sách giáo khoa ngắn gọn như thế: phải tuân thủ tuyệt đối tư tưởng của lãnh tụ, mà tư tưởng của lãnh tụ thì lại có tính chất tiên tri và đầy cảm hứng. Nếu phân tích thì ta sẽ thấy đấy chỉ là sự pha trộn một cách nghèo nàn chủ nghĩa Darwin đem áp dụng vào xã hội loài người, di truyền học, tư tưởng của Nietzsche mang màu sắc bài Thiên Chúa giáo, tư tưởng phục thù và bài Do Thái bệnh hoạn mà thôi.

Môn đệ của cộng sản cũng như của Quốc xã đều cần được khám bệnh tâm thần. Họ là những người kín đáo, sống tách rời thực tế, họ có thể nhắc đi nhắc lại suốt ngày những lý lẽ cũ rích chẳng khác gì những kẻ tâm thần nhưng lại tin rằng mình là người hoàn toàn tỉnh táo. Đấy là lý do vì sao các bác sĩ tâm thần lại so sánh họ với bệnh hoang tưởng mãn tính, với bệnh tâm thần phân liệt. Nhưng khi nghiên cứu kỹ thì ta thấy cách so sánh như thế chỉ mang tính ẩn dụ. Biểu hiện rõ nhất cho thấy đấy là cơn điên nhân tạo thể hiện ở chỗ có thể chữa được: khi áp lực chấm dứt và khi hoàn cảnh thay đổi thì người ta lập tức khỏi bệnh, cứ y như họ vừa thoát khỏi cơn mê vậy. Nhưng đấy là mê trong lúc thức, mê mà không cản trở hành động, mê mà vẫn giữ được vẻ mạch lạc, hợp lý. Khi thoát ra ngoài cái môi trường đã bị thương tổn đó, cái môi trường vốn là thượng tầng của lý trí của một người bình thường, cái môi trường tạo ra tôn giáo và triết học, hay nói theo Kant, là tạo ra các “ý tưởng điều khiển lý trí” thì các chức năng lý tính dường như không bị thương tổn nhưng đã bị phân hoá và nô dịch đến mức hoang tưởng hoàn toàn, khi tỉnh ngộ người ta thấy đầu óc trống rỗng, phải học lại từ đầu tất cả mọi thứ. Nước Đức, hàng thế kỷ được coi là Athen của châu Âu, đã trở thành ngây độn sau 12 năm cầm quyền của chủ nghĩa Quốc xã. Đấy là chưa nói đến nước Nga, một nước đã trải qua nền giáo dục phi lý một cách có hệ thống trong hơn 70 năm trời, một nước mà nền tảng tinh thần chưa phát triển và dễ bị tổn thương hơn nước Đức!

Những chứng bệnh tinh thần nhân tạo đó lại có khả năng truyền nhiễm. Đã có người so sánh chúng với việc bùng phát dịch đậu mùa hay cảm cúm. Về mặt hình thức thì quá trình phát xít hoá nước Đức vào năm 1933 và Cách mạng Văn hoá ở Trung Quốc đã phát triển giống như một căn bệnh truyền nhiễm. Trong khi chờ đợi có những kiến thức sâu sắc hơn về những bệnh dịch tâm thần này, chúng ta hãy coi đây là sự so sánh có giá trị tượng trưng.

Sự phi lý vừa là nền tảng vừa là điều kiện của sự phá hoại về mặt đạo đức. Sự rối loạn nhận thức chỉ có thể xảy ra khi quan niệm về thế giới, thái độ đối với hiện thực bị phá hoại một cách cố ý. Tôi không thảo luận ở đây vấn đề có thể coi sự mê muội đó là tình huống giảm khinh hay phải coi nó là một phần không tách rời của cái ác. Câu trả lời, nếu có, cũng không làm thay đổi đánh giá của chúng ta.


Sự xuyên tạc tính thiện của chủ nghĩa Quốc xã

Khi xem xét một cách cẩn thận toàn bộ các hình thức đày ải mà một dân tộc phải chịu đựng trong sáu cơ sở giết người của chủ nghĩa Quốc xã thì ngôn từ không còn giá trị, các quan niệm biến mất, trí tưởng tượng cũng không còn hoạt động, chỉ còn trí nhớ là có giá trị. Chúng ta như đã thoát ra ngoài thế giới loài người. Và ý nghĩ về quỷ dữ cứ bám mãi vào tâm trí.

Quỷ dữ ở đây chính là những hành động đó được thực hiện nhân danh điều thiện, nhân danh đức hạnh. Phương tiện phá hoại đạo đức chính là sự xuyên tạc tính thiện, cho nên thật khó nói tội nhân có thể nhận thức được rằng họ có phạm tội hay không.

Trong thời kỳ chiến tranh, Himmler đã đăng đàn nhiều lần trước các sĩ quan và hàng ngũ lãnh đạo SS (Heinrich Himmler, Discours secrets, Gallimard, Paris, 1978). Tất cả đều mang giọng giáo huấn đạo đức.

Xin dẫn ra ở đây một đoạn, nó còn cao hơn cả nhu cầu lúc đó, cao hơn nhu cầu của chính đế chế, có thể nói mang tính toàn năng: “Tất cả những điều chúng ta làm đều phải được biện hộ trước tổ tiên của chúng ta. Nếu chúng ta không có mối liên hệ đạo đức như thế, một mối liên hệ sâu sắc nhất và tuyệt vời nhất vì là tự nhiên nhất, thì chúng ta không thể chiến thắng Thiên Chúa giáo và xây dựng được đế chế Đức, một đế chế sẽ là vinh hạnh cho toàn bộ trái đất của chúng ta. Trong suốt hàng ngàn năm qua, nhiệm vụ của chủng tộc da trắng là làm chủ trái đất và luôn luôn tạo ra hạnh phúc và văn minh trên trái đất này” (ngày 9 tháng 6 năm 1942).

Theo chủ nghĩa Quốc xã, tính thiện là khôi phục lại trật tự tự nhiên đã bị lịch sử đảo lộn. Đẳng cấp tự nhiên của các chủng tộc đã bị các hiện tượng như Thiên Chúa giáo (“bệnh dịch hạch này là căn bệnh nặng nhất mà chúng ta gặp trong suốt tiến trình lịch sử”), dân chủ, quyền lực của đồng tiền, chủ nghĩa Bolsevik, người Do Thái phá hoại. Đế chế Đức là đỉnh cao của trật tự tự nhiên nhưng trong đó vẫn có chỗ dành cho các dân tộc Đức khác như người Scandinavia, Hà Lan, Flammand. Đế chế Anh, “một đế chế quốc tế do người da trắng thành lập”, sẽ được giữ nguyên. Người Pháp, người Ý ở bậc thấp hơn. Người Slav còn ở bậc thấp nữa, họ sẽ biến thành nô lệ và số người sẽ giảm bớt: Himmler cảnh báo sẽ “giảm” 30 triệu người. Trật tự tự nhiên cũng được phục hồi ngay trong lòng xã hội, trong đó những người tốt nhất, cứng rắn nhất, trong sạch nhất, cao quý nhất sẽ giữ thế thượng phong: tầng lớp tinh hoa Vaffen-SS là thí dụ điển hình. Khi Himmler nói như thế thì trong các bệnh viện và nhà thương điên, những bệnh nhân không còn khả năng hồi phục, những người tàn tật, người tâm thần thuộc “chủng tộc” Đức đã bị đem thủ tiêu một cách bí mật.

Tất cả những điều đó, Himmler nói tiếp, chỉ có thể đạt được bằng một cuộc chiến đấu cực kỳ khốc liệt. Trong các bài diễn văn của mình, ông ta luôn luôn kêu gọi lòng dũng cảm, kêu gọi những chiến tích siêu nhân, tinh thần trách nhiệm cao trước đế chế, đặc biệt khi nói về việc thực thi các mệnh lệnh khó chịu: “Chúng ta phải thực hiện những trách nhiệm tư tưởng và tuân theo số phận; chúng ta phải đứng vững trên hai chân, không được quỳ gối, không được ngã lòng, phải giữ vững vị trí cho đến hơi thở cuối cùng hay khi nhiệm vụ chưa hoàn thành”.

“Giải quyết triệt để vấn đề Do Thái”, ở khía cạnh nào đó, chỉ là vấn đề kỹ thuật, như người ta giết rận mà thôi: “Diệt rận không phải là vấn đề thế giới quan, đấy là vấn đề vệ sinh (…) chẳng bao lâu nữa sẽ không còn một con rận nào” (ngày 24 tháng 4 năm 1943). Hình ảnh loài côn trùng cần phải bị tiêu diệt thường xuất hiện khi người ta nói về kẻ thù tư tưởng. Lenin cũng hay sử dụng hình ảnh này. Nhưng Himmler, với vai trò một thủ trưởng mẫu mực, dùng nó để động viên, khuyến khích thính giả. Ông ta biết rằng họ sẽ khó khăn: một lúc nào đó, lương tâm có thể sẽ cắn rứt, cho nên để thực hiện một số nhiệm vụ nào đó, “luôn phải nhận thức được rằng chúng ta đang tiến hành cuộc đấu tranh chủng tộc, nguyên thủy, tự nhiên và hợp quy luật” (ngày 1 tháng 12 năm 1943). Bốn cái nhãn này mô tả chính xác đặc điểm của nền đức dục Quốc xã.

Trong diễn văn đọc ngày 6 tháng 12 năm 1943, Himmler trình bày quan điểm của mình về việc “giải quyết triệt để vấn đề Do Thái” như sau: “Mệnh đề ‘người Do Thái phải bị tiêu diệt’ chỉ chứa có vài từ và được nói rất nhanh, thưa các ngài. Nhưng điều nó đòi hỏi ở người thực hiện lại là nặng nề nhất và khó khăn nhất. Dĩ nhiên, bọn Do Thái chỉ đơn giản là Do Thái, rõ ràng là như thế; nhưng xin các vị hãy suy nghĩ, có biết bao nhiêu người, kể cả các đảng viên, đã đề đạt với các cơ quan khác nhau, họ tuyên bố rằng dĩ nhiên Do Thái là bọn lợn, ngoại trừ tên này hay tên kia, chúng là những tên Do Thái trung thực không nên động đến. Tôi có thể nói rằng: căn cứ vào số đơn từ và ý kiến đó, số Do Thái trung thực ở Đức còn nhiều hơn số dân Do Thái nói chung (…). Tôi khẩn thiết đề nghị các vị hãy nghe những điều tôi nói ở đây, trong một nhóm nhỏ này và sau này sẽ không bao giờ nói lại nữa. Trước mặt các vị có một vấn đề: làm gì với phụ nữ và trẻ con? Tôi đã định thần và trong trường hợp này cũng tìm được giải pháp rõ ràng. Tôi cảm thấy không có quyền tiêu diệt đàn ông nhưng lại để lại những đứa trẻ con để sau này chúng sẽ báo thù con chúng ta, báo thù những thế hệ sau của chúng ta. Cần phải chấp nhận một quyết định đầy khó khăn, đấy là quét sạch dân tộc này khỏi mặt đất. Đối với cái tổ chức phải thực hiện nhiệm vụ này thì đây là nhiệm vụ khó khăn nhất mà nó từng thực hiện. Tôi nghĩ tôi có thể nói rằng: nhiệm vụ này phải được thực hiện sao cho dân chúng, các sĩ quan của chúng ta không bị đau khổ về mặt tình cảm và tâm hồn. Nhưng mối nguy hiểm như thế quả thật là đang tồn tại. Con đường giữa hai khả năng: trở nên quá cứng rắn, tàn nhẫn và đánh mất hết sự tôn trọng đối với đời sống của con người hoặc là trở thành quá mềm yếu và mất tinh thần đến mức động kinh, con đường giữa Scylla và Charibdys [1] là con đường cực kỳ hẹp.”

Cái đạo trung dung mà Himmler đòi hỏi đôi khi cũng đạt được: trên thực tế, có nhiều tên đồ tể có tiếng lại là những ông bố dịu dàng, những người đàn ông đầy tình cảm. Ông ta yêu cầu rằng “nhiệm vụ” phải được thi hành mà không có những động cơ “ích kỷ”, thi hành một cách bình tĩnh, không được ngã lòng. Rượu chè, hiếp dâm, cướp bóc những người bị đi đày vì quyền lợi riêng, rơi vào trạng thái cuồng sát một cách vô ích đều là biểu hiện của tình trạng vô kỷ luật, hỗn loạn, đánh mất lý tưởng của chủ nghĩa Quốc xã, cần phải bị lên án và trừng phạt.


*


Đạo đức Quốc xã buộc người ta phải tuân theo trật tự do thiên nhiên qui định. Nhưng cái trật tự tự nhiên đó không thể nhận thức được bằng quan sát mà được rút ra từ sự hiểu biết về mặt tư tưởng. “Chủng tộc da trắng” đại diện cho bên thiện, còn “chủng tộc” Do Thái là bên ác. Cuộc đấu tranh mang tầm vũ trụ sẽ kết thúc bằng chiến thắng của phía bên này hay bên kia.

Nhưng đây chính là sự giả dối. Không có “chủng tộc” theo cách hiểu của những người Quốc xã. Không có “một người thượng đẳng da trắng cao to” ngay cả nếu ta có thể tưởng tượng được một người Đức da trắng cao to. Và cũng không có “người Do Thái” theo cách hiểu của họ, vì cái hình ảnh chủng tộc mà người Quốc xã tạo ra chỉ có những nét trùng hợp vô tình với diện mạo của một dân tộc trong Kinh Cựu ước mà thôi. Đảng viên Quốc xã cho rằng họ hiểu được tự nhiên, nhưng tự nhiên lại nằm sau các sơ đồ của họ. Hoàn cảnh lịch sử và chiến tranh cũng bị nhận thức một cách sai lệch. Vì chủ nghĩa Quốc xã mà Hitler khởi chiến và cũng vì chủ nghĩa Quốc xã mà hắn đã thất bại. Stalin đã nắm thế thượng phong vì ông ta biết gạt hệ tư tưởng của mình sang một bên khi cần chuẩn bị cho chiến thắng. Hệ tư tưởng của chủ nghĩa Lenin tỏ ra “tốt hơn” vì nó cho phép những giai đoạn tạm dừng và sự kiên nhẫn về mặt chính trị, còn chủ nghĩa Quốc xã lại đầy xung động nên không thể làm như thế.

Luân lý Quốc xã là sự phủ nhận truyền thống đạo đức của toàn thể loài người. Chỉ một nhóm nhỏ các nhà tư tưởng ngoại vi đã nêu ra một vài đề tài mỹ học như một hình thức khiêu khích. Còn trên thực tế thì loại hình chủ nghĩa hiện thực do họ đề nghị: siêu nhân, người chưa thành nhân, khát vọng quyền lực, hư vô chủ nghĩa, chủ nghĩa phi lý đã đẩy họ vào lĩnh vực mỹ học. Nhưng đấy chỉ là cái tầm thường nghệ thuật dễ làm mê hoặc lòng người: những buổi trình diễn ở Nuremberg, các kiến trúc to lớn của Speer, sức mạnh thô bạo. Nhưng về mặt đạo đức thì nó không tìm ra được một người kế tục nghiêm túc nào trong lịch sử; trong lĩnh vực này, sự thoái hoá của nó là rõ ràng, nó cũng không thể được diễn dịch vào ngôn ngữ chung của nhân loại. Đấy là hai điểm yếu mà người ta thường đem so sánh với đạo đức cộng sản.

Đấy là lý do vì sao đạo đức Quốc xã ít lây nhiễm hơn đạo đức cộng sản, còn sự phá hoại đức hạnh của chủ nghĩa phát xít cũng không rộng lớn bằng. Các chủng tộc “thấp hèn”, các chủng tộc “chưa thành nhân” nhìn thấy ngay mối nguy hiểm chết người không thể nào tránh khỏi trong học thuyết này và vì vậy mà không bị nó lôi cuốn. Chính nhân dân Đức đi theo Hitler chủ yếu là vì tinh thần dân tộc hơn là vì chủ nghĩa Quốc xã. Tinh thần dân tộc - một tình cảm tự nhiên được hun đúc trong suốt hai thế kỷ trước - là một nguồn năng lực và nhiên liệu đối lập với các luận điểm của chủ nghĩa Quốc xã cũng như chủ nghĩa cộng sản. Một số người thuộc tầng lớp tinh hoa Đức đã ủng hộ Hitler, nhưng tính chất quý tộc nhuốm màu du đãng của các đội quân của Hitler lại chẳng có gì chung với tầng lớp tinh hoa cũ. Tầng lớp tinh hoa theo tinh thần Nietzsche, cũng như tất cả những người khác, đã mắc bẫy. Còn sự trung thành của hàng ngũ sĩ quan thì đấy là do truyền thống được củng cố bởi những nhóm theo Kant hay Hegel. Binh lính thì chỉ biết tuân phục.

Đấy là lý do vì sao đỉnh cao lý luận của chủ nghĩa Quốc xã, nghĩa là sự tiêu diệt về mặt thể xác dân tộc Do Thái, rồi sau đó là những dân tộc khác lại là bí mật của đế chế, mà lại là bí mật được bảo vệ kỹ lưỡng nhất. “Đêm pha lê”, được coi là vụ kiểm nghiệm, một cố gắng để tập hợp và giải thích cho người Đức về dự án vĩ đại đã không thành công về mặt chính trị. Lúc đó, Hitler mới quyết định xây dựng bên ngoài lãnh thổ lịch sử của nước Đức sáu trung tâm giết người hàng loạt.

Sự phá hoại về mặt đạo đức của chủ nghĩa Quốc xã có thể mô tả như những vòng tròn xung quanh một hạt nhân trung tâm, vài đoạn trong những bài diễn văn đã dẫn ở trên cho ta thấy hình ảnh của cái hạt nhân này. Hạt nhân được hình thành từ những kẻ hoàn toàn chấp nhận chủ nghĩa Quốc xã: cốt cán của đảng, cốt cán của Waffen-SS, cốt cán của GESTAPO. Những người tiến hành công việc giết người thì ít hơn. Đa số họ không cần chủ nghĩa Quốc xã: năng lực công nghệ và công nghiệp phát triển cao của Đức cho phép tiết kiệm sức lao động. Chỉ cần mấy trăm tên SS quản lý các trại tử thần, chúng giao công việc “đen tối” cho chính các nạn nhân. Các đội Einsatzgruppe được hình thành từ những kẻ chẳng cần qua một giai đoạn huấn luyện nào. Trong một số tác phẩm, người ta đã nói rằng thành viên của những đơn vị giết người này, về lý thuyết, có thể xuất ngũ được. Nhưng họ sẽ gặp nhiều rắc rối, mà ít nhất là bị điều ra mặt trận phía Đông. Những người này là quỷ dữ, nhưng không thể nào nói rằng họ là những kẻ cuồng tín tư tưởng Quốc xã. Ở dân tộc nào cũng có thể tìm được đủ số những kẻ giết người và tra tấn khi cần. Màu sắc tư tưởng chỉ giúp chúng dễ dàng thể hiện khuynh hướng và cho phép chúng phất lên mà thôi.

Có người đã nhấn mạnh rằng hoạt động của các Einsatzgruppe không thể là bí mật đối với quân đội vì so với bộ đội thì họ ở hậu phương; mục đích của các đoàn tàu cũng như việc tiêu diệt các khu vực của người Do Thái không phải là điều mà ngưới ta phải nghi ngờ; và mặc dù các khu vực xung quanh các trại tử thần là khu “trắng” đi chăng nữa thì tin tức cũng thường lọt ra ngoài. Hilberg viết rằng đấy là “bí mật mà mọi người đều biết”. Dĩ nhiên là như thế, nhưng cần phải lưu ý hai điều sau đây.

Bí mật mà mọi người đều biết thì không phải là chính sách hay sự kiện được công bố công khai. Người Đức đi theo Hitler vì kỷ luật quân sự và kỷ luật công dân, vì tinh thần dân tộc, vì sợ hãi, vì không dám nghĩ hay thực hiện các hành động phản kháng. Bí mật, ngay cả khi đã không còn là bí mật nữa, đã giải thoát họ khỏi trách nhiệm tinh thần, hoặc ít nhất đã giúp họ giả vờ, giúp họ quay lưng hay làm ra vẻ như không có gì xảy ra cả. Trong chế độ Quốc xã xã hội vẫn còn một ít quyền. Hàng ngũ sĩ quan tức một số khá đông người vẫn còn giữ được lòng trung thành với luật pháp và truyền thống tiến hành chiến tranh, ít nhiều còn giữ được danh dự. Tài sản tư hữu chưa bị xoá bỏ, như vậy là xã hội công dân phần nào cũng vẫn còn. Bộ phim Danh sách Schindler dựa trên câu chuyện có thật về nhà doanh nghiệp người Đức Oskar Schindler có khả năng thu gom và bảo vệ người lao động Do Thái. Không thể tưởng tượng một chuyện như thế ở Nga ngay cả trong những năm đầu của chính quyền cộng sản.

Đối với một người bình thường thì bí mật này là không thể tưởng tượng được. Phần lớn dân Đức lúc đó vẫn còn sống trong một xã hội quen thuộc, vẫn theo đạo đức truyền thống, họ không thể tưởng tượng được điều sẽ chờ đợi họ trong tương lai, vì vậy, họ khó tin cái hiện thực mà người ta cố tình che giấu, khó tin ngay cả những tang chứng. Chính người Do Thái, sau khi đã bị tước đoạt, bị tập trung và đưa lên tàu hoả cũng không tin vào hiện thực ngay trước khi bước vào lò hơi ngạt.

Nền giáo dục Quốc xã chỉ tồn tại có mấy năm. Khi nước Đức bị đồng minh chiếm đóng, chủ nghĩa Quốc xã biến mất ngay lập tức, ít nhất thì chuyện đó đã diễn ra ở Tây Đức; bên Đông Đức nó đã chuyển hoá thành một dạng khác. Nó biến mất, trước hết, vì bị các quan toà Đức cũng như quan toà quốc tế kết án. Thứ hai, đa số dân chúng chưa bị nó nhồi sọ một cách triệt để. Cuối cùng, nó biến mất vì những người Quốc xã sau khi tỉnh ngộ đã không tìm được mối liên hệ rõ ràng giữa quá khứ, khi họ còn nằm dưới tác động ma thuật của hệ tưởng, và hiện tại, khi cái tác động kia đã không còn. Eichmann [2] đã trở lại với bản chất của một viên chức bậc trung như hắn ta từng là trước đây và có thể sẽ là sau này nếu không bị bắt và bị kết án. Hắn đã chấp nhận bản án một cách thụ động, đúng với tính cách nhạt nhẽo của hắn. Bản luận tội, như Hannah Arendt đã nói rất đúng, không phù hợp với nhận thức hạn chế của con người tầm thường này.


Sự xuyên tạc tính thiện của chủ nghĩa cộng sản

Chủ nghĩa cộng sản là đạo đức. Toàn bộ các lịch sử các phong trào tiền thân của chủ nghĩa Bolshevik (phong trào xã hội chủ nghĩa Pháp và Đức, phong trào dân túy Nga) đều dựa vào yêu cầu đạo đức và chiến thắng của nó đồng nghĩa với chiến thắng của cái thiện. Mỹ học không theo kịp cái đẹp. Đảng viên Quốc xã coi mình là nghệ sĩ, còn người cộng sản thì coi mình là chân nhân.

Cơ sở của nền đạo đức này nằm trong hệ thống giải thích và được rút ra từ tri thức. Chủ nghĩa cộng sản dạy rằng khởi kỳ thủy, tự nhiên không phải là tự nhiên theo hệ thống thang bậc, dãn man và nhẫn tâm mà con người siêu nhân Quốc xã sùng bái. Không, nó giống như tự nhiên đầy thiện ý trong tác phẩm của Rousseau. Tự nhiên này đã biến mất, nhưng chủ nghĩa xã hội sẽ tái tạo nó trên một mức độ cao hơn và khi đó, con người có thể thể hiện được toàn bộ khả năng của mình. Trotsky khẳng định rằng: con người bình thường của nhân loại trong tương lai sẽ là Michelangelo và Leonardo da Vinci. Chủ nghĩa cộng sản dân chủ hoá con người siêu nhân.

Quá trình tự nhiên cũng là quá trình lịch sử vì chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định sự thống nhất giữa tự nhiên và lịch sử. Chủ nghĩa cộng sản vớ lấy đề tài về sự tiến bộ, một đề tài vĩ đại thời Khai sáng, trái ngược hoàn toàn với đề tài thoái hoá và suy đồi của chủ nghĩa Quốc xã nhưng sự tiến bộ lại đầy bi kịch, phải trải qua những sự tàn phá to lớn và không thể nào tránh được. Ở đây, chúng ta thấy bóng dáng của Hegel và đặc biệt là cuộc đấu tranh sinh tồn không khoan nhượng của học thuyết Darwin đem áp dụng vào xã hội. “Quan hệ sản xuất xã hội (‘Chế độ chiếm nô’, ‘chế độ phong kiến’, ‘chế độ tư bản’) thay thế nhau như các vương quốc trong thế giới động vật, như loài có vú thay cho loài lưỡng cư. Có một sự thống nhất bí mật giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản: “Không đập vỡ trứng thì làm sao có món trứng rán”, “Chặt cây thì mảnh phải văng ra”… Cả hai bên đều coi lịch sử là sư phụ. Chủ nghĩa Quốc xã khôi phục thế giới trong vẻ đẹp của nó, còn chủ nghĩa cộng sản khôi phục thế giới trong tính thiện của nó.

Sự khôi phục phụ thuộc vào ý chí của con người đã được tư tưởng soi sáng. Chủ nghĩa Lenin còn lệ thuộc vào sơ đồ nhận thức luận hai mâu thuẫn đối kháng và ba giai đoạn hơn cả chủ nghĩa Quốc xã. Quá khứ là công xã nguyên thủy, tương lai là chủ nghĩa cộng sản, còn hiện tại là cuộc đấu tranh giữa hai mâu thuẫn cơ bản. Các lực lượng thúc đẩy cuộc vận động về “phía trước” là tốt, còn lực lượng “cản trở” là xấu, là ác. Hệ tư tưởng (có căn cứ khoa học) mô tả bản chất của cái ác. Đấy không phải là tồn tại mang tính sinh vật (chủng tộc hạ đẳng) mà là tồn tại mang tính xã hội, thâm nhập vào toàn bộ xã hội: tư hữu, chủ nghĩa tư bản, đạo đức, luật pháp và văn hoá, là thượng tầng kiến trúc của cái ác, có thể được coi là “linh hồn của chủ nghĩa tư bản”. Những người hiểu được quá trình chuyển tiếp của các giai đoạn và hai mâu thuẫn cơ bản, những người nhận thức được bản chất của trật tự của tự nhiên và xã hội và hiểu được xu hướng tiến hoá và phương tiện để thúc đẩy quá trình tiến hoá tập hợp vào một tổ chức thống nhất, tạo ra đảng.

Như vậy, tất cả mọi phương tiện đưa đến mục đích mà người cách mạng tiên đoán được đều là tốt. Vì quá trình đó cũng là quá trình tiến hoá tự nhiên và phù hợp với lịch sử nên việc phá bỏ chế độ cũ là cần thiết để cho cái mới mau đến hơn mà thôi. Cách diễn đạt của Bakunin khi ông này tổng kết nhận thức của mình về Hegel đã trở thành tiền đề của chủ nghĩa cộng sản: tinh thần phá hoại cũng là tinh thần xây dựng. Trước khi có chủ nghĩa cộng sản, những người dân túy, xuất phát từ nhận thức của họ, đã nhận thức sâu sắc sự cần thiết của một cuộc cách mạng đạo đức. Chernyshevsky, Nechayev, Tkachev đã phát triển trong văn chương đề tài “con người mới”, còn Dostoievsky thì viết những tác phẩm trào phúng về đề tài này, ông là người hiểu rõ ý nghĩa siêu hình của nó. Con người mới là con người nắm được đạo đức mới, trung thành tuyệt đối với mục đích, người kiên trì thanh tẩy tàn dư của đạo đức cũ do “kẻ thù giai cấp” truyền bá nhằm kéo dài sự thống trị của chúng. Lenin xác lập đạo đức cộng sản. Trotsky thì viết một cuốn sách nhỏ về đạo đức “của chúng nó” và “của chúng ta”.

Điều đáng ngạc hiên là không có ai ở bên ngoài phong trào cách mạng nhận thức được sự hẫng hụt về mặt đạo đức này. Để mô tả nền đạo đức mới, chủ nghĩa cộng sản đã vay mượn ngôn từ của nền đạo đức cũ: công bằng, bình đẳng, tự do,… Thế giới mà cộng sản chuẩn bị phá bỏ quả thực đầy rẫy bất công và áp bức. Những người khao khát sự công bằng không thể không công nhận rằng cộng sản là những người lên án những điều bất công này một cách hăng say nhất. Cả những người yêu chuộng công bằng lẫn những người cộng sản đều nói rằng không só sự công bằng trong việc phân chia tài sản. Một người tốt, một người tuân theo lý tưởng công bằng sẽ tìm cách làm cho việc tái phân phối tài sản được thực hiện một cách tốt đẹp hơn. Nhưng đối với người cộng sản thì tư tưởng công bằng không nằm trong khái niệm chia một cách “công bằng” mà nằm trong việc thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, nằm trong việc xoá bỏ tư hữu và bằng cách đó xoá bỏ mọi cách chia, xoá bỏ chính sự chia và quyền của các bên tham gia vào quá trình phân chia. Khai sinh ra nhận thức về sự bất bình đẳng, nhưng người cộng sản không đặt mục tiêu chỉ ra sự khiếm khuyết của luật pháp: mục tiêu của họ là tạo trong dân chúng lòng khát khao một xã hội mà ở đó, pháp luật không còn là phương tiện điều chỉnh nữa. Tương tự như thế, tư tưởng cộng sản về tự do đặt mục đích khích động nhận thức về sự áp bức ở nơi mà cá nhân, nạn nhân của sự vong thân tư bản chủ nghĩa coi mình là tự do. Nói tóm lại, tất cả các ngôn từ thể hiện cái thiện: công bằng, tự do, nhân bản, từ tâm, khoan dung, v.v... đã biến thành công cụ cho một mục đích duy nhất, cho việc thiết lập chế độ cộng sản, một chế độ bao hàm và hiện thực hoá tất cả những điều tốt đẹp đó.

Nhưng có những tiêu chí đơn giản có thể đánh tan được sự lầm lẫn này. Tôi gọi nền đức hạnh mà các nhà thông thái thời cổ đại, cũng như các nhà thông thái Trung Quốc, Ấn Độ và châu Phi dựa vào là đức hạnh tự nhiên hay đức hạnh phổ thông. Trong thế giới Thiên Chúa giáo, đức hạnh này được trình bày tóm tắt trong nửa sau của “Mười điều răn”. Đạo đức cộng sản hoàn toàn trái lại. Mục đích của nó là tiêu diệt tư hữu và những điều liên quan đến sở hữu là luật pháp và tự do, nó còn đặt ra mục tiêu là cải tạo cả các quan hệ gia đình nữa. Nó cho mình quyền dối trá và sử dụng bạo lực như là phương tiện để chiến thắng trật tự cũ và thiết lập trật tự mới. Cơ sở của đạo đức cộng sản trái ngược hoàn toàn với điều răn thứ 5 (“hiếu kính cha mẹ”), điều răn thứ 6 (“chớ giết người”), điều răn thứ 7 (“chớ phạm tội tà dâm”), điều răn thứ 8 (“chớ trộm cướp”), điều răn thứ 9 (“chớ làm chứng dối cho kẻ lân cận mình”) và điều răn thứ 10 (“chớ tham điều gì của kẻ lân cận”). Không cần phải là người tin vào Thánh kinh, vẫn có thể đồng ý với tinh thần của những điều răn mà mọi người trên trái đất đều biết nói trên. Nhiều người cho rằng có những hành vi tốt, hành vi chân chính vì những hành vi này phù hợp với những qui luật của vũ trụ mà họ biết. Chủ nghĩa cộng sản khẳng định có một vũ trụ mới và một nền đạo đức mới phù hợp với nó. Đấy là lý do vì sao chủ nghĩa cộng sản bác bỏ không chỉ các điều răn mà còn bác bỏ cả cơ sở của nó, tức là thế giới tự nhiên. Chúng ta nói rằng đạo đức cộng sản dựa vào tự nhiên và lịch sử, nhưng không phải như thế: đạo đức cộng sản dựa vào siêu nhiên và lịch sử đã bị tước bỏ chân lý.

“Chế độ Xô viết”, Raymond Aron viết trong cuốn Chế độ dân chủ và chế độ toàn trị, “thoát thai từ ý chí cách mạng, được cổ vũ bởi lý tưởng nhân đạo. Mục đích là tạo ra một chế độ nhân bản nhất mà lịch sử từng biết tới, một chế độ mà lần đầu tiên con người có điều kiện trở thành nhân ái, một chế độ không còn giai cấp, nơi sự thống nhất của toàn xã hội tạo điều kiện cho các công dân tôn trọng lẫn nhau. Nhưng cái phong trào hướng đến mục tiêu tối thượng này lại không dừng lại trước bất cứ phương tiện nào vì theo học thuyết thì chỉ bạo lực mới có thể giúp tạo ra xã hội hoàn hảo đó và vì vậy, giai cấp vô sản đã bị lôi kéo vào cuộc đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa tư bản. Các giai đoạn khác nhau của chế độ Xô viết xuất hiện từ sự kết hợp giữa cái mục đích cao cả và phương tiện tàn nhẫn nói trên.”

Mấy câu đã dẫn trên đây thể hiện rõ ràng tính chất nước đôi và dối trá của chủ nghĩa cộng sản. Vì cái mà họ gọi là nhân văn và nhân ái trên thực tế lại là siêu nhân văn và siêu nhân ái, đây chính là cái mà hệ tư tưởng cộng sản hứa mang đến cho nhân loại. Lòng nhân văn và nhân ái đó không kèm theo quyền và không có tương lai. Các giai cấp không thể chung sống hoà bình, tất cả rồi sẽ biến mất. Xã hội không thể thống nhất, tính tự chủ và tính năng động vốn có của nó đã không còn. Không phải là giai cấp vô sản tiến hành chiến tranh chống lại chủ nghĩa tư bản mà là một hệ tư tưởng đã hành động và tiến hành chiến tranh nhân danh giai cấp vô sản. Cuối cùng, chủ nghĩa tư bản cũng chỉ còn tồn tại trong sự tương phản với chủ nghĩa xã hội, mà chính chủ nghĩa xã hội cũng chỉ còn trong khuôn khổ của hệ tư tưởng, nghĩa là khái niệm chủ nghĩa tư bản cũng không thể dùng để mô tả cái hiện thực cần phải bị loại bỏ được nữa. Mục đích không còn cao quý nữa, nó chỉ khoác màu sắc cao quý mà thôi. Phương tiện, nghĩa là việc sát sinh, đã trở thành mục đích khả thi duy nhất.

Kết luận đoạn so sánh dài một cách đáng khâm phục giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Quốc xã, Raymond Aron viết: “Tôi kiên quyết khẳng định rằng có sự khác nhau đáng kể giữa hai hiện tượng này, dù chúng có giống nhau đến mức nào. Sự khác nhau đáng kể là hậu quả của những tư tưởng cổ động cho hai phong trào nói trên. Một phong trào thì kết thúc bằng trại lao động cải tạo, còn phong trào kia thì là buồng hơi ngạt. Một phong trào đặc trưng bởi ý chí xây dựng một xã hội mới và có thể cả con người mới bằng mọi phương tiện, còn đặc trưng của phong trào kia là một ý chí ma quái nhằm tiêu diệt một chủng-tộc-giả định”.

Tôi công nhận có sự khác nhau giữa chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở những luận cứ sẽ được trình bày dưới đây. Những điều đã dẫn không thuyết phục được tôi. Chủ nghĩa Quốc xã cũng thiết kế ra một xã hội mới, con người mới và cũng bằng mọi phương tiện. Không thể biết giữa việc tiêu diệt một chủng-tộc-giả-định, sau đó đến lượt các chủng-tộc-giả-định khác, kể cả chủng tộc “siêu đẳng” vì tất cả các chủng tộc đều hư hỏng và việc tiêu diệt một giai-cấp-giả-định trước, rồi sau đó đến lượt các giai cấp khác vì tất cả các giai cấp đều tiêm nhiễm tinh thần của chủ nghĩa tư bản, cái nào ma quái hơn.

Raymond Aron kết luận: “Nếu phải nói một cách cực kỳ ngắn gọn ý nghĩa của mỗi phong trào nói trên thì tôi sẽ đề nghị công thức như sau: đối với chế độ Xô viết, tôi xin nhắc lại một câu mà ai cũng biết: “Kẻ muốn tạo ra một thiên thần lại tạo ra được một quỷ dữ”; còn đối với chế độ của Hitler thì tôi xin nói: “Con người có lẽ đã lầm lẫn khi muốn mình hao hao như thú dữ vì anh ta đã rất thành công trong chuyện này.”

Cái nào hay hơn: Trở thành thú với dáng vẻ thiên thần hay là người với dáng vẻ thú, nếu có thể chứng minh được rằng cả hai đều là những con thú dữ? Trường hợp thứ nhất, mức độ dối trá cao hơn và sức mê hoặc cũng nhiều hơn, sự xuyên tạc tính thiện cũng triệt để hơn vì ở đây cái ác lại có vẻ thiện, khác hẳn với tội ác không hề che giấu của chế độ Quốc xã. Điều đó đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa cộng sản truyền bá rộng hơn và làm rung động nhiều người, những người sẽ tránh né ngay lập tức các dự án của bọn SS. Làm cho những người tốt trở thành xấu có lẽ là việc ghê tởm hơn là làm cho kẻ xấu trở thành xấu hơn. Lập luận của Raymond Aron làm cho ta hiểu được sự khác nhau của ý đồ. Ý đồ của chủ nghĩa Quốc xã mâu thuẫn với điều thiện được toàn thể nhân loại công nhận. Ý đồ của chủ nghĩa cộng sản lại bóp méo nó, vì trông nó có vẻ thiện và lôi kéo nhiều người thiếu chú ý tham gia vào dự án. Dự án đã không hoàn thành cho nên không thể xét đoán nó về mặt đạo đức, chỉ còn lại các phương tiện, các phương tiện này không có khả năng đưa tới mục đích, chúng đã trở thành mục đích trên thực tế. Kèm theo tội ác, sự dối trá làm cho tội lỗi càng có sức hấp dẫn và trở thành nguy hiểm hơn.

Trở thành hấp dẫn hơn vì chủ nghĩa Lenin đã ăn cắp di sản của một lý tưởng có nguồn gốc lâu đời nhất. Trong thời điểm cải đạo, nhiều người không có khả năng nhận thức được sự xuyên tạc lý tưởng. Đôi khi có người suốt đời là đảng viên cộng sản mà không biết có sự xuyên tạc như thế. Sự lầm lẫn giữa đạo đức cũ (được mọi người công nhận) với đạo đức mới chưa bao giờ được làm sáng tỏ tới cùng. Vì chưa được làm sáng tỏ tới cùng như thế nên trong các đảng cộng sản, vẫn còn một số “người đứng đắn”, sự thoái hoá đạo đức của họ được triển hạn và chính vì có họ mà sự tha thứ đã diễn ra một cách dễ dàng hơn. Một cựu đảng viên cộng sản thì dễ dàng được tha thứ hơn là một cựu đảng viên Quốc xã vì người ta ngờ rằng ngay từ khi ra nhập đảng Quốc xã, hắn ta đã đoạn tuyệt với đạo đức truyền thống.

Nguy hiểm hơn vì cách nhồi sọ của cộng sản nham hiểm hơn và thường xuyên hơn, vì nó biến việc ác thành việc thiện và buộc người ta phải làm điều ác. Tội ác của cộng sản nguy hiểm hơn còn vì rằng nạn nhân của nó không thể nào đoán trước được. Trên thực tế, bất kỳ người nào, vào bất cứ lúc nào, cũng có thể được gán cho những đặc điểm tưởng tượng của kẻ thù. Chế độ Quốc xã xác định rõ ngay từ trước các kẻ thù của nó. Nó gán cho kẻ thù của mình những tính chất quái gở, như khi họ nói đến những kẻ bất thành nhân thì ta biết ngay đấy là người Do Thái, khi họ nói đến người Slav đáng khinh thì ta biết ngay đó có thể là người Ba Lan hay người Ukraine bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Người nào không phải gốc Do Thái hay Ba Lan hoặc Ukraine thì được tạm hoãn. Khi chưa cướp được chính quyền thì tính chất toàn nhân loại là một ưu điểm lớn của chủ nghĩa cộng sản so với tính độc tôn của chủ nghĩa Quốc xã, nhưng tính chất này lại trở thành mối đe doạ mang tầm nhân loại khi chủ nghĩa cộng sản nắm được chính quyền. Chủ nghĩa tư bản, trong ngôn từ của những người cộng sản, chỉ là một tồn tại mang tính tư tưởng, bất cứ người nào hay hiện tượng gì cũng có thể được coi là tư sản và bị nó nguyền rủa: trung nông, bần cố, trí thức, vô sản và cuối cùng là chính đảng cũng có thể được coi là đi theo con đường tư bản. Tất cả đều có thể bị nhiễm tư tưởng tư sản. Không có ai thoát khỏi được sự ngờ vực.


*


Các lãnh tụ Quốc xã đã nhận thức được một phần hiện thực khi họ nói rằng sẽ có máu và nước mắt, họ đã nhìn thấy trước cuộc chiến đấu một mất một còn để khôi phục lại trật tự sắc tộc vốn có của nhân loại. Lenin thì ngược lại, ông ta cho rằng thời cơ đã chín muồi, chỉ cần lật đổ được “chủ nghĩa tư bản” là tương lai tươi sáng của thế giới sẽ thành hiện thực. Ngọn lửa cách mạng sẽ bao trùm khắp thế giới. Chỉ cần những kẻ tước đoạt bị tước đoạt là các hình thức của chủ nghĩa xã hội sẽ tự xuất hiện. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra buổi sáng sau ngày 7 tháng 11 năm 1917 cả, bức màn được kéo lên nhưng đằng sau nó hoá ra là một sân khấu trống không. Giai cấp vô sản, bần cố nông, trung nông và tinh thần quốc tế vô sản đâu hết cả rồi? Chỉ có Lenin và đảng của mình cùng với một nhóm cận vệ đỏ giữa một thế giới đầy thù nghịch hay ít nhất cũng là một thế giới bàng quan.

Nhưng chủ nghĩa Marx-Lenin lại là một khoa học. Nghĩa là, kinh nghiệm phải cung cấp bằng chứng cho lý thuyết. Chủ nghĩa tư bản đã bị lật đổ, điều quan trọng bây giờ là thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội. Vì hiện nó chưa thắng lợi nên phải xây dựng nó theo đúng lý thuyết và phải kiểm tra để kết quả luôn phù hợp với lý thuyết. Từng tầng, từng tầng một của cái thế giới giả tạo có nhiệm vụ thay thế cho thế giới hiện thực được xây dựng lên như thế đấy. Sự dối trá đã phủ bóng đen ngày một dày đặc hơn của nó lên toàn bộ xã hội, lời nói và việc làm ngày càng xa rời nhau. Phủ nhận sự hiện diện của cái ác được coi là thiện và cái “thiện” đó cứ thế điên cuồng sinh sôi nảy nở.

Sự xuống cấp về mặt đạo đức trong chế độ cộng sản chủ yếu phát triển theo con đường như thế. Cũng như trong chế độ Quốc xã, nó lan truyền theo những vòng tròn đồng tâm xung quanh một hạt nhân trung tâm.

Trung tâm là đảng, trong đảng là nhóm lãnh đạo của nó. Trong thời kỳ mới giành được quyền lực, nhóm lãnh đạo này hoàn toàn bị hệ tư tưởng chi phối. Đấy là lúc nó tiến hành “tiêu diệt kẻ thù giai cấp”. Do lương tâm đã bị đầu độc, nhân danh lý thuyết không tưởng, người ta tiến hành tiêu diệt hàng loạt nhóm người khác nhau. Nhìn về quá khứ, ta thấy dù ở Nga, ở Triều Tiên, Trung Quốc, Rumani, Ba Lan hay Campuchia thì vụ tắm máu đầu tiên này cũng là một trong những vụ giết người lớn nhất trong lịch sử của chế độ cộng sản, trong giai đoạn này khoảng 10% dân số đã bị giết hại.

Khi giấc mơ không tưởng không thể nào trở thành hiện thực được, còn mười người giết một cũng không đưa đến đâu thì sự không tưởng đã thoái hoá đơn thuần thành việc bám víu quyền lực. Vì kẻ thù khách quan đã bị tiêu diệt, cần phải theo dõi để làm sao cho nó không tái xuất hiện, kể cả khả năng xuất hiện trong hàng ngũ của đảng. Đấy là lúc bắt đầu cuộc khủng bố giai đoạn hai, một cuộc khủng bố có vẻ vô nghĩa, vì nó không tương xứng với sự chống đối và chỉ nhằm áp đặt sự kiểm soát hoàn toàn lên tất cả mọi người dân, mọi ý nghĩ, mọi tư tưởng. Sợ hãi trở thành tài sản chung, nó lan truyền vào cả trong đảng, mỗi đảng viên đều cảm thấy nguy hiểm. Người này tố giác người kia, người này phản bội người kia. Tất cả, không trừ một ai.

Sau đó đến giai đoạn ba: đảng đưa ra các biện pháp chống lại những vụ thanh trừng thường xuyên. Đảng chấp nhận sự phân phối quyền lực hủ bại và hài lòng với sự an toàn của chính mình. Đảng không còn tin vào hệ tư tưởng nữa nhưng vẫn tiếp tục nói bằng ngôn ngữ của nó và theo dõi để cái ngôn ngữ mà nó biết rõ là dối trá trở thành ngôn ngữ giao tiếp duy nhất: đấy chính là dấu hiệu rằng nó đang nắm quyền. Đảng tích cóp dần đặc quyền đặc lợi. Đảng trở thành một đẳng cấp riêng. Tham nhũng hiện diện khắp nơi. Dân chúng bây giờ không so sánh đảng viên với chó sói nữa mà so sánh với lũ lợn.

Tất cả dân chúng còn lại đều là ngoại vi. Tất cả và ngay lập tức được kêu gọi và huy động cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tất cả đều bị đe doạ, bị lừa dối, bị xúi giục tham gia làm những việc ác.

Trước hết, tất cả đều bị khoá chặt. Tất cả các chế độ cộng sản đều bế quan toả cảng, đấy là một trong những bước đầu tiên của chế độ. Cho đến năm 1939, Quốc xã vẫn cho người ta ra nước ngoài miễn là có người trả tiền: nước Đức chỉ càng “trong sạch” hơn mà thôi. Cộng sản không bao giờ cho đi như thế. Họ cần có một đường biên giới nội bất xuất ngoại bất nhập, bí mật của những vụ giết người hàng loạt và bí mật về sự thất bại của họ cần phải được bảo vệ, nhưng trước hết là vì cả nước phải trở thành một trường học, nơi tất cả sẽ nhận được một nền giáo dục đào tận gốc rễ tinh thần của chủ nghĩa tư bản và thay vào đó là tinh thần xã hội chủ nghĩa.

Bước thứ hai: kiểm soát thông tin. Dân chúng không được quyền biết những chuyện ở bên ngoài khối xã hội chủ nghĩa. Họ cũng không được quyền biết những điều xảy ra ở trong nước. Họ không được quyền biết về quá khứ. Họ không được quyền biết về hiện tại. Họ chỉ được quyền biết về tương lai tươi sáng mà thôi.

Bước thứ ba: thay hiện thực bằng giả-hiện-thực. Có cả một tầng lớp chuyên sản xuất ra báo-chí-giả, lịch-sử-giả, văn-chương-giả và nghệ-thuật-giả và tất cả đều có nhiệm vụ phản ánh cái hiện thực không hề tồn tại. Kinh-tế-học-giả thì tạo ra thống kê tưởng tượng. Đôi khi nhu cầu của các chuyên viên trang trí dẫn đến các biện pháp theo kiểu Quốc xã. Thí dụ, ở Liên Xô, người tàn tật do chiến tranh hay tai nạn lao động bị cách li khỏi xã hội và được đưa đến những khu vực xa xôi để họ không làm hỏng bức tranh chung. Ở Bắc Triều Tiên, như người ta nói, những người lùn bị đưa đi thật xa và bị cấm sinh con, “chủng tộc” này sẽ phải biến mất vĩnh viễn. Có hàng triệu người tham gia vào công việc trang trí như thế. Để làm gì? Để chứng tỏ rằng xã hội chủ nghĩa không chỉ là khả thi mà đang được xây dựng, đang được củng cố, hơn nữa, có thể xây dựng được: đã có một xã hội tự do và tự quản mới, nơi những “con người mới” suy nghĩ và hành động theo qui tắc của hiện-thực-bịa-tạc. Công cụ hữu hiệu nhất của chính quyền là chế tác ra ngôn ngữ mới, trong đó, từ ngữ có ý nghĩa khác hẳn với ý nghĩa đã được mọi người công nhận. Vốn từ vựng và cách thể hiện đặt nó ngang tầm với ngôn ngữ cúng tế: ngôn ngữ thế hiển tính siêu nghiệm của chủ nghĩa xã hội. Nó chứng tỏ sức mạnh vô địch của đảng. Việc sử dụng rộng rãi thú ngôn ngữ này là chỉ dấu cho thấy sự nô dịch đã thành công.

Trong thời kỳ đầu, phần đông dân chúng tự nguyện học nói dối. Người ta gia nhập đạo đức mới cùng với di sản đạo đức cũ. Họ yêu lãnh tụ, những người hứa hẹn mang lại hạnh phúc cho họ, họ tin rằng mình hạnh phúc. Họ nghĩ rằng đang sống trong một xã hội công bằng. Họ căm thù kẻ thù của chủ nghĩa xã hội, họ tố cáo chúng, đồng tình với việc cướp đoạt, xoá bỏ chúng. Họ tham gia hoặc ủng hộ vào việc tiêu diệt kẻ thù. Họ cùng tham gia thực hiện tội ác mà không biết. Trong khi đó, họ bị làm cho mụ mẫm đi bằng thông tin giả và logic giả. Họ đánh mất khả năng tự tri và đạo đức. Không còn khả năng phân biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và lý tưởng đức hạnh được mọi người thừa nhận cho nên khi gặp phải những điều bất công, họ liền cho rằng đấy là do kẻ thù bên ngoài. Cho đến tận ngày tàn của chế độ cộng sản ở Liên Xô, mỗi khi gặp phải sự đối xử bất công của cảnh sát hay cán bộ đảng, người dân lại gọi họ là “phát xít”. Họ không nghĩ rằng phải gọi những kẻ đó theo đúng tên: tên của chúng là cộng sản.

Sau đó, cuộc sống trong khối xã hội chủ nghĩa không trở nên “tốt hơn”, “vui hơn”, như Stalin nói vào lúc cao trào của cuộc “đại thanh trừng”, mà trở nên buồn tẻ hơn và u ám hơn. Trước đó, sự suy thoái về đạo đức diễn ra một cách vô thức nhưng bây giờ, người ta đã dần nhận thức được bản chất vấn đề. Trước đó, nhân dân làm điều ác nhưng lại nghĩ rằng đang làm việc thiện; nay thì họ biết họ đang làm gì. Người ta tiếp tục tố giác, tiếp tục ăn cắp, tiếp tục luồn cúi nhưng họ đã biết xấu hổ. Khác với chế độ Quốc xã, cộng sản không che giấu tội lỗi, nó tuyên bố công khai việc mình làm và kêu gọi dân chúng tham gia. Mỗi một vụ kết án đều có các cuộc mít tinh ủng hộ. Tội nhân bị đồng chí, bạn bè, vợ con công khai nguyền rủa. Tất cả đều phục tùng nghi lễ vì sợ và vì tư lợi. Những anh hùng lao động thời kỳ đầu chỉ là yếu tố trang trí, thực ra lại là những kẻ lười biếng, quỵ lụy, một người Xô Viết ngu độn. Phụ nữ bắt đầu căm thù đàn ông, trẻ con căm thù cha mẹ vì chúng cảm thấy rằng chúng cũng sẽ trở thành những người như thế.

Giai đoạn cuối cùng đã được các nhà văn thời kỳ cáo chung của chế độ cộng sản như Dinoviev, Erofeev miêu tả rất rõ. Tuyệt vọng và coi thường chính mình là tình cảm phổ biến nhất. Người ta chỉ còn mỗi một cách là sử dụng các tiện nghi mà chế độ cho phép, đấy là sự vô trách nhiệm, ăn bám và sống lay lắt qua ngày. Người ta không còn phải ứng xử theo kiểu nước đôi nữa, họ cố gắng để không còn nghĩ đến bất cứ điều gì. Con người trở nên khép kín. Đa sầu đa cảm, self-pity là cách để kêu gọi người khác chứng kiến sự xuống cấp đạo đức của chính mình, họ hành động giống hệt những kẻ nghiện rượu. Cuộc chiến đấu tất cả chống lại tất cả vẫn diễn ra nhưng xung năng thì đã giảm đi nhiều. Zinoviev cho rằng con người xô viết (homo sovieticus) là sản phẩm của một sự đột biến không thể phục hồi. Có thể là ông đã lầm.

Không ai có thể tránh khỏi nền giáo dục dối trá. Các khuôn khổ của xã hội cũ cùng với tư hữu đã bị bãi bỏ và được thay bằng đủ các thứ trường học và cơ quan theo dõi: nông dân thì bị nông trang, công xã nhân dân (Trung Quốc), công nhân thì bị “công đoàn”, nhà văn và nghệ sĩ thì bị các “hội văn học nghệ thuật” theo dõi. Có thể mô tả lịch sử chế độ cộng sản ở các nước khác nhau như là một cuộc rượt đuổi không mệt mỏi nhằm thiết lập một sự kiểm soát toàn diện, còn từ phía các thần dân thì đấy là những cuộc tìm kiếm tuyệt vọng một chỗ ẩn náu, dù đấy chỉ là một góc nhỏ cho chính mình. Góc nhỏ thì bao giờ cũng có. Chính vì thế mà một số gia đình trí thức cũ ở Nga đã có thể gìn giữ được truyền thống của mình. Andrey Sakharov sinh ra trong một gia đình như thế. Trong các trường đại học tổng hợp, các khoa ngôn ngữ học cổ điển gần như vẫn được giữ nguyên như cũ. Trong các thánh đường bị nô dịch vẫn có bầu không khí trong lành để thở. Trong thời kỳ cuối của chế độ cộng sản, ta có thể thấy ở Moskva những nhóm người trẻ tuổi, những người, sau khi tiếp thu được tri thức và đạo đức, đã không đi làm, không giành một chức vụ nào, họ sống tự do, cố gắng hạn chế tiếp xúc với môi trường Xô viết. Họ đã giữ như vậy cho đến ngày chế độ cáo chung.

Trong đế chế Liên Xô, công tác cải tạo cộng sản dừng lại trước ngưỡng cửa nhà tù. Nếu những người Quốc xã xem việc cải đạo là không thể xảy ra thì những người cộng sản, đơn giản, lại từ chối không cho các tù nhân cải sang đạo của mình. Họ từ chối một cách kiên quyết đến nỗi dù đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện kinh hoàng, Solzhenitsyn vẫn khẳng định rằng nhà tù là nơi có tự do tư tưởng và trong sạch về lương tâm. Ngược lại, chế độ cộng sản Á châu lại biến nhà tù thành trường học. Chính quyền ghi nhận thành tích học tập của từng trại viên. Chỉ có những người chết hoặc đã được cải hoá mới được ra khỏi nhà tù mà thôi.


Đánh giá

Với quan điểm lịch sử như vậy, có thể so sánh sự tàn phá về mặt đạo đức mà chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản đã gây ra trong thế kỷ vừa qua.

Tôi quan niệm sự tàn phá về mặt đạo đức không phải là sự phóng đãng mà từ xa xưa, những người già đã từng phàn nàn khi quan sát đức hạnh của giới trẻ. Tôi cũng không muốn so sánh thế kỷ này với những thế kỷ trước. Không có một cơ sở triết học nào để nói rằng người ngày xưa thì tốt hơn hay xấu hơn hiện nay. Nhưng rõ ràng là chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa cộng sản đã quyết định làm ngược và làm thay đổi cả các nguyên tắc đạo đức, thay đổi nhận thức về thiện - ác. Vì lý do đó mà họ đã làm nhiều việc mà kinh nghiệm của loài người chưa từng biết đến.

Mặc dù chủ nghĩa Quốc xã đã thực hiện những tội ác mà chủ nghĩa cộng sản có thể không so sánh được nhưng phải nói rằng sự tàn phá về mặt đạo đức của chủ nghĩa cộng sản thì sâu hơn và rộng hơn nhiều. Có hai lý do:

Thứ nhất, toàn dân phải học các nguyên tắc đạo đức mới. Các chứng cớ đã nói với ta rằng đây là sự cải đạo bắt buộc, đấy là sự áp bức nặng nề nhất, khó chịu nhất, so với nó thì tất cả những thứ khác: sự thiếu vắng tự do chính trị và dân sự, việc theo dõi của cảnh sát, sự đàn áp về thể xác và kể cả nỗi sợ hãi, đều không là gì so với nền giáo dục bắt buộc đó. Nó có thể làm người ta phát điên vì nó trái ngược hẳn với các sự kiện rõ ràng, trái ngược hẳn các sự kiện có thể cảm thấy được. Và cuối cùng, tất cả các “biện pháp” và “cơ quan” đều bị nó khống chế. Chủ nghĩa cộng sản có thời gian tồn tại lâu hơn chủ nghĩa Quốc xã cho nên nền giáo dục này đã hoàn thành nhiệm vụ mà nó đặt ra. Sau khi sụp đổ, nó đã để lại một xã hội đầy thương tích, để lại những tâm hồn bị đầu độc khó thanh tẩy hơn là ở nước Đức mà sau một giai đoạn vong thân tạm thời, đất nước này đã thoát ra khỏi cơn ác mộng, sẵn sàng lao động, sẵn sàng sám hối.

Thứ hai, vì có sự lẫn lộn thâm căn cố đế giữa đạo đức vẫn được mọi người thừa nhận và đạo đức cộng sản: cái sau ẩn náu sau cái trước, sống ký sinh vào cái trước, giết chết cái trước, như bệnh hoại thư, dùng cái trước làm phương tiện truyền bệnh của mình. Đây là một thí dụ: Trong một cuộc tranh luận sau khi xuất bản Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản, tác giả của những bài xã luận trên tờ Humanité đã tuyên bố trên truyền hình rằng 85 triệu người bị giết hại không hề làm lu mờ lý tưởng cộng sản; đấy chỉ là kết quả của những sự lệch lạc rất đáng tiếc mà thôi. Sau Oswiecim, ông ta tuyên bố, không thể là đảng viên Quốc xã được nữa, nhưng sau những trại tù của Liên Xô thì người ta vẫn có thể là đảng viên cộng sản được. Con người này, lúc đó vẫn còn tỉnh táo, không biết rằng ông ta đã tự ký cho mình bản án tử hình khi nói như thế. Ông ta không nhận ra rằng lý tưởng cộng sản đã đánh mất hoàn toàn nguyên tắc thực tiễn và cơ sở đạo đức đến nỗi trong thực tế, nó vẫn còn sống được sau khi đã để lại trên đường đi của nó 85 triệu xác chết, trong khi lý tưởng Quốc xã đã sụp đổ dưới sức nặng của chính những xác chết do nó tạo ra. Ông ta đã nói những lời lẽ khủng khiếp như thế trong khi nghĩ rằng mình là một người trung thực, một người trung thành với lý tưởng, một người không khoan nhượng. Chủ nghĩa cộng sản tha hoá hơn chủ nghĩa Quốc xã vì nó không bảo người ta chấp nhận một cách có ý thức tư cách của kẻ làm điều ác nhưng nó lại lợi dụng tinh thần công bằng và bác ái thịnh hành trên khắp hành tinh để truyền bá cái ác. Tất cả các thí nghiệm của cộng sản đều bắt đầu bằng sự trong trắng, hồn nhiên.


Bản tiếng Việt © 2007 talawas



[1]Scylla và Charibdys là hai quái vật trong thần thoại Hy Lạp, sống trên hai bờ vịnh hẹp, chuyên giết hại những người đi qua eo biển này.
[2]Eichmann (1906-62), một tội phạm chiến tranh, hoạt động trong lực lượng SS từ năm 1933, năm 1937 cầm đầu Phòng xử lý vấn đề Do Thái, sau Chiến tranh thế giới thứ II chạy sang Argentina. Bị tình báo Israel bắt và bị tử hình năm 1962.