Showing posts with label SƠN TRUNG VĂN TẬP * ĐẠO VÀ ĐỜI. Show all posts
Showing posts with label SƠN TRUNG VĂN TẬP * ĐẠO VÀ ĐỜI. Show all posts

Thursday, September 2, 2010

SƠN TRUNG * LÀM THIỆN






LÀM THIỆN


Sống thiện đã là khó mà làm thiện lại càng khó hơn.Làm thiện là gì? Làm thiện như thế nào? Sau đây, tôi sẽ đề cập đên các phần này.


I. TÌNH ĐỒNG LOẠI

Loài vật cũng như loài người vốn có tình cảm. Vợ chồng yêu nhau, cha mẹ yêu con cái, anh chị em thương mến nhau.

Con người ban đầu sống thành bộ lạc, phát triển thành quốc gia. Loài vật thì sống thành bầy. Tình thương là bản tính, là sự cần thiết của muôn loài.Nếu không có tình thương, người và vật khó tồn tại cho đến ngày hôm nay.




II.LÀM THIỆN LÀ GÌ?

Tình thương là nguồn gốc của mọi hành động chúng ta, và lý tưởng cho cuộc sống chúng ta. Tôn giáo nào cũng đề cao tình thương, mặc dù ngôn ngữ khác nhau, và ý nghĩa có khác nhau chút đỉnh. Phật giáo gọi là từ bi, Nho giáo gọi là nhân ái, Thiên chúa giáo gọi là bác ái, và Hồi giáo gọi là tình huynh đệ.

Đó là cái tâm thiện của ta đối với tha nhân như Nguyễn Trãi nói trong Gia Huấn Ca:
"Thương người như thể thương thân".
Tuy nhiên, tùy theo tâm lý và đạo hạnh mỗi người, tình thương có cấp bậc khác nhau, cường độ và sắc thái khác nhau. Tình yêu nam nữ khác tình yêu cha mẹ và con cái. Tình bằng hữu khác tình anh em. Rất khó mà yêu người như yêu mình vì bản tính con người ich kỷ. Đừng ghen ghét, hận thù mà chỉ yêu người một tí thôi cũng đã là quý .


Ta không làm hại người mà người cũng ghét ta huống hồ ta có động chạm đến họ dù nặng dù nhẹ. Làm sao mà ta có thể yêu được kẻ đã hại ta? Vì lòng nhân, ta không đánh trả nhưng ta cũng buồn lòng, khó mà thân thiện huống hồ giúp đỡ họ. Đa số "dĩ oán báo oán" nhưng Phật gia bảo rằng lấy oán báo oán thì oán bao giờ dứt? Trừ những bậc chân tu thì mới " dĩ đức báo oán" theo đạo Phật. Lão tử cũng bảo " báo oán dĩ đức". Còn đa số "dĩ đức báo đức, dĩ trực báo oán" (1) theo Nho gia thì cũng là lẽ công bằng.

Thôi thì ta chọn con đường tương đối vậy. Trừ những kẻ ác, kẻ thù của ta, hoặc kẻ đố kị với ta, ta giúp một số người nào đó cũng được, vì thực tế không ai có thể giúp toàn quốc, toàn thế giới. Đừng cố tâm hại ai, giúp một vài người, vài nhóm người cũng tốt lắm rồi!

Theo Khổng tử, con người hành động từ gần đến xa, từ thấp lên cao. Phải tu thân rồi mới tề gia, sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ. Cũng vậy, nếu sắp theo thứ tự ưu tiên, chúng ta phải yêu bản thân ta trước tức là lo tu tập và học hành, sau đó là gia đình, tổ quốc và nhân loại. Những ai bắt buộc cá nhân hy sinh cho tập thể là sai lầm. Có gia đình mới có quốc gia. Trong gia đình, mỗi cá nhân là rường cột. Chúng ta vừa yêu bản thân, vừa yêu gia đình vừa yêu tổ quốc, và nhân loại. Trong chung có riêng, trong riêng có chung.

Phật giáo quan niệm rằng vũ trụ bao la, tình yêu bao gồm các chúng sinh, nghĩa là chúng ta yêu loài người, yêu loài vật , cây cỏ và các giống vô hình. . . Quan niệm của Phật giáo rất rộng rãi, thực tế đa số con người yêu loài vật, cây cỏ không riêng gì Phật giáo. Đừng hiểu sai về côn trùng, vi trùng. Chúng ta không nên diệt hết côn trùng, vi trùng vì có loại côn trùng, vi trùng hữu ich.

Quan điểm Phật giáo là rộng rãi. Thực tế và nhiều tôn giáo chú trọng nhiều về cách đối xử giữa người và người.Nếu ai đó chỉ yêu loài người thôi cũng đã là quý, hoặc chỉ yêu gia đình mình mà không làm hại đến người khác, gia đình khác cũng đã là hiếm!.




Làm thế nào thể hiện tình thương theo lời Phật, Khổng tử, Chúa Giê Su và đấng Allah?
Chúng ta cần thực hành hai điều là sống thiện và làm thiện. Sống thiện là sống theo giới luật, theo luân lý và pháp luật. Người Phật tử phải tu tập để diệt tham sân si. Đức Khổng tử đề ra Nhân nghĩa lễ trí tín và Trung hiếu. Thiên Chúa giáo thì có Mười điều răn.

Còn làm thiện còn gọi là làm lành, hành thiện, làm phước, làm công đức.

Đức Phật dạy việc quan trọng nhất của Phật tử là "làm lành lánh dữ".Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chi Phật giáo.

(Đừng làm xằng bậy,
Hãy làm việc lành.
Giữ lòng trong xanh
Ấy lời Phật dạy.)

Kinh Phúc Âm dạy các tín đồ làm việc thiện: :
Chúa chúng ta đã đi ra làm việc lành, cớ gì chúng ta không tiếp bước Ngài? Người ấy nắm bắt mọi cơ hội có được để đem thức ăn cho người đói, áo quần cho người rách rưới, giúp đỡ kẻ mồ côi và khách lỡ đường, thăm viếng người bệnh hoặc người đang bị giam cầm, và lấy của cải mình mà giúp người nghèo. Với lòng nhẫn nại, người ấy vui thỏa trong nỗ lực giúp đỡ người khác theo như lời Chúa dạy, “Hễ các ngươi làm việc đó cho một người trong những anh em ta, dầu là kẻ nhỏ hơn hết, tức là làm cho chính ta vậy.”(2)

Khổng tử dạy: "Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân."

Thiên Chúa giáo cũng dạy các tín đồ làm lành lánh ác. Đức Chúa Jésus cũng có dạy môn đồ rằng: "Ne faites pas à autrui ce que vous ne voudriez pas qu'on vous fit - .Let us do unto others as we would be done by"
Thiên chúa giáo cũng dạy các con chiên làm việc thiện. Thánh Phaolô đã diễn tả tâm lý con người yếu đuối mà phạm tội :
Điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm... Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi (Rm 7,15.18b-20).

Căn bản của việc làm thiện là lòng từ bi, bác ái như nói ở trên.
Thiện tâm được thể hiện trong tình yêu mọi người, không phân biệt tôn giáo, đảng phái, quốc gia.. Nói rõ hơn, đối đãi mọi người bình đẳng chính là thiện tâm. Thiện tâm được thể hiện qua các hành động như làm thiện hay làm việc thiện tức là giúp người khác sống, và đối xử muôn loài với từ tâm.

+Cứu người đói, người bệnh, người hoạn nạn là hành thiện.
+Làm công đức : gíúp xã hội tốt đẹp hơn như xây nhà, lập bệnh viện, làm đường, làm cầu, xây chùa, dựng tháp, mở trường. .. đều là những việc thiện.
+Làm công tác xã hội, làm từ thiện: Ngày nay, các quốc gia Tây phương đã lập nhiều đoàn thiện nguyện để giúp các quốc gia nghèo đói. Các học sinh, sinh viên thường tham gia công tác xã hội. Nhiểu nữ tu Thiên Chúa giáo đã mở các bệnh viện cùi và chăm sóc,giúp đỡ người cùi. Đó là làm những việc thiện, lập công đức, làm phước.
+Tranh đấu cho độc lập, tự do, dân chủ, dân quyền:
Việc này thuộc lãnh vực chính trị nhưng với tâm thiện, thật sự vì nước vì dân để cứu nhân dân khỏi lầm than thì đó cũng là việc công đức.
+Các tổ chức bảo vệ loài vật cũng là thể hiện tâm từ bi của Phật.
+Các tổ chức bảo vệ môi trường cũng là hành thiện.
+Sống đời bình thường với thiện tâm: Nghĩ rộng ra, mỗi người một nghề sống lương thiện cũng là hành thiện. Bác sĩ cứu bệnh nhân; luật sư cứu người khỏi oan khuất; nông dân giúp dân chúng khỏi đói; thợ mộc, thợ nề xây nhà cho dân chúng; thầy giáo nâng cao đời sống và kiến thức nhân loại . . .

Đa số chúng ta không cần phải hy sinh nhiều như nhảy xuống sông, xuống biển cứu người chết đuối, hoặc nhảy vào lửa cứu người chết cháy. Chỉ cần làm việc bình thường với tâm thiện, biết nghĩ đến anh em, đồng bào và nhân quần, xã hội một chút và đóng góp một cái gì đó tùy năng lực và hoàn cảnh của mình là đã hành thiện.Ví như người người bán phở tất nhiên phải tính lời, nhưng gia vào việc nấu nướng là biết lo làm sao cho dân chúng có bát phở ngon và vệ sinh ấy là đã thể hiện tâm thiện. Thương gia tất nhiên phải tính lời lãi, nhưng lời vừa phải, nhà thầu làm đường xây cầu cũng cần lời lãi nhưng đừng vì ăn lời quá đáng mà làm gian dối như cầu vừa xây đã sập, cột đường làm bằng tre. Những việc làm hại hại nước, hại dân đều là việc làm ác, trái pháp luật và lương tâm con người.

Nguyễn Trãi kêu gọi:
Thấy ai đói rách thì thương,
Rét thường cho mặc, đói thường cho ăn"

Tục ngữ , ca dao ta có câu:

-"Lá lành đùm lá rách"

-"Dù xây chín đợt phù đồ,
Sao bằng làm phúc cứu cho một người!"


Tôn giáo nào cũng nói đến làm thiện. Phật giáo dạy rằng có nhiều cách hành thiện, giúp đời, giúp người. Nói chung có hai cách bố thí là thí tài, thí pháp Thí tài tức là đem tiền của giúp người. Thí pháp thì rộng rãi hơn. Đem một lời khuyên, nói một lời an ủi, dạy người sống đạo hạnh, bày vẽ cách làm ăn. . . đều là thí pháp.

Làm thiện rất khó vì trừ các bậc thánh, không ai thương người như thương mình. Con người vốn phức tạp. Trong xã hội loài người và loài vật thường có cảnh đấu đá, chém giết nhau. Không những loài này giết loài kia mà cũng có cảnh gà cùng một mẹ đá nhau. Con người có tâm thiện mà cũng có tâm ác. Blaise Pascal nói "L'homme n'est ni ange ni bête". Bên cạnh tình thương, trong tâm con người còn có những thứ khác mà Nho gia gọi là "thất tình" là "hỉ ,nộ, ai, lạc, ái, ố và dục ".

Trên bình diện lý thuyết, các nhà tư tưởng cũng có quan điểm khác nhau. Trong khi Mặc Địch chủ trương vị tha ( kiêm ái) thì Dương Chu chủ trương vị kỷ.
Sartre đã kêu lên " Tha nhân là địa ngục" ( "l'enfer, c'est les autres -"Hell is other people"), và Marx chủ trương đấu tranh giai cấp.

Đa số tư tưởng gia chủ trương làm lành lánh dữ vì chỉ có đường lối này mới xây dựng hòa bình cho thế giới và an lạc cho thân tâm con người...
Đừng hờn oán người, thương người một chút xíu cũng đã có thể gọi là thiện nhân, thiện tâm. Trong thất tình yêu và ghét đối nghịch nhau, phải diệt lòng ích kỷ, ghen ghét, và thù hận thì mới thi hành đức từ bi, lòng bác ái và tình huynh đệ.

Lại nữa, không ai cũng có khả năng thí tài, thí pháp. Thí pháp phải có trình độ. Thí tài cũng vậy. Trong xã hội, đa số là nghèo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nuôi vợ, nuôi con chưa vẹn toàn thì nói chi đến việc đem tiền của giúp người! Thành thử, chúng ta phải có phương tiện thì mới hành thiện. Tuy nhiên, không phải chỉ có tiền mới giúp được người.





III.LÀM THIỆN BẰNG CÁCH NÀO?

Như đã nói, trong tất cả hành động với thiện tâm là ta đã sống đời thiện và làm việc thiện. Nhưng không phải cứ đưa tiền ra, cứ hành động theo tiếng kêu rên của nạn nhân hoặc sự vận động của sư ni, linh mục, mục sư hay hội đoàn từ thiện là xong. Có thể ta góp một số tiền là lòng ta đã thanh thản. Nhưng nhiều khi không phải là vậy!

Theo thiển kiến, làm thiện cần có nhiều điều tế nhị.

1. Tâm vô phân biệt và Tâm phân biệt

Như trên đã nói, muốn làm việc thiện phải có thiện tâm. Thiện tâm là cơ sở của việc thiện. Ai không có thiện tâm mà nhảy ra xưng xe làm thiện thì không phải là làm thiện mà chỉ là lợi dụng. Làm sao mà biết ai có thiện tâm, ác tâm? Rất khó! Chỉ ta biết ta mà thôi. Vì lòng thương người mà ta làm việc thiện.

Phật giáo đề cao tâm vô phân biệt. Thế nào là vô phân biệt? Chúng sinh vốn bình bình đẳng, ta phải thương yêu mọi người, mọi loài.Chúng ta không nên kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, xứ sở, giai cấp, giới tính. . .

Như khi cưú trợ nạn nhân thiên tai hay nạn nhân chiến tranh, ta không thể đem đồng tiền quốc tế mà phát riêng cho đồng đạo, hay đồng chí mình để phát triển đạo và phát triển đảng. Tuy nhiên, cũng có trường hợp cần phân biệt. Ta phải phân biệt ai đã lãnh nhiều, ai lãnh ít, ai chưa lãnh đồ cứu trợ.Bọn gian ác thường dùng mưu mánh để lãnh được nhiều lần. Chúng còn giành giật và cướp bóc các nạn nhân.

2. Chọn đối tượng

Và đây là một trường hợp khác. Một vị cư sĩ than thở với một cao tăng:
"Tại sao con đem tiền của giúp người mà họ chẳng cám ơn con. Nhiều khi họ còn chửi mắng con?"
Vị cao tăng nói:
-Phải tùy theo đối tượng mà giúp. Anh đem tiền cho người rượu chè, cờ bạc thì lãng phí mà còn bị vợ con người ta oán trách. Anh đem tiền giúp kẻ không có tài kinh doanh thì tất là họ thua lỗ, họ không trả tiền cho anh, anh đòi nợ thì ắt bị người mắng chửi.


3. Phải đề phòng người lợi dụng và lừa dối:

Ngoài ra còn có một sự phân biệt khác nữa.Trong xã hội có nhiều kẻ gian ác, lưu manh lợi dụng lòng từ bi của chúng ta.
Trước 1975, trong quán ăn, tôi thường gặp một vài kẻ tự xưng là tù Côn Đảo về mà không có tiền xe hồi hương. Sau 1975, tôi thấy trước buổi chợ đông, một vài kẻ đi xe xích lô đến chợ, rồi điềm nhiên mặc áo rách, lấy băng quân chân tay và bôi thuốc đỏ, xong giả cách què, bò ra giữa đường. Sáu giờ chiều, y thu hành trang, lên xe xích lô về nhà tắm rửa và đi nhậu.

Họ rất hách dịch. Trong quán ăn, nếu anh không cho tiền họ, họ sẽ thò tay bẩn vào bát của anh. Giữa chợ, nếu cô, bà không cho họ tiền, họ chửi bới, hoặc bôi máu mủ cùi hủi vào người ta để khủng bố, để trả thù.
Cũng có những kẻ thuê hoặc bắt cóc trẻ con bắt đi ăn xin cho chúng . Cũng có kẻ cạo trọc đầu làm tăng ni giả đi khất thực, có cả xã chuyên nghề ăn mày!(3). Người ta khám phá nhiều ăn mày khi chết có hàng triệu đồng.

Trong chính trị và tôn giáo cũng vậy. Người ta lợi dụng lòng từ bi, bác ái, lòng yêu nước để tăng sức mạnh cho họ rồi giết người, hoặc bóc lột người.. . Cộng sản khi chưa cầm quyền thì kêu gọi toàn dân đoàn kết nhưng sau 1954 nắm quyền thì sát hại cán bộ và nông dân với khẩu hiệu " trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ". Và sau 1975, cộng sản đã giết và bỏ tù bọn GPMN! Chính Việt Cộng mở trại tỵ nạn Kampuchia tại Saigon. Khi quốc tế đến viện trợ, họ đốc đông người vào nhận đồ, quốc tế về họ thu lại.

Nhận đồ viện trợ, cộng sản không bao giờ hoặc rất it phân phát cho dân. Áo quần thì họ đem bán cho các cửa hàng "đồ sida" (4). Còn thực phẩm thì họ đưa vào các cửa hàng mâu dịch, hoặc lương thực thực phẩm. Những hàng này có hiệu và cờ Anh, Pháp ,Mỹ , họ xé bỏ nhãn hiệu rồi bán lại cho dân theo sổ lương thực.

Chúng ta có thiện tâm nhưng phải đề phòng bọn gian manh lợi dụng từ tâm của ta để làm việc ác hoặc làm giàu cho cá nhân hoặc phe nhóm họ.


Không phải cứ đưa một số tiền cho các nhà tu hành hay hội đoàn là xong. Có những bậc chân tu nhưng cũng có những quỷ Sa tăng trong giáo đường, trong giáo hội và chùa chiền. Ngoài ra, chúng ta đừng tin vào các nhãn hiệu và khẩu hiệu. Các bọn cướp thường nêu cao khẩu hiệu là "thế thiên hành đạo", "lấy của nhà giàu mà chia cho người nghèo" nhưng thực chất là cướp của giết người. Marx, Lenin, Stalin, Mao, Hồ hô hào chống bóc lột, dựng xây thế giới đại đồng nhưng thực tế cũng là cướp của giết người, khủng bố nhân dân, bóp nghẹt tự do của nhân dân.


Trong xã hội đã có những kẻ tu hành và thành viên các tổ chức từ thiện đã cờ bạc, mua dâm,có vợ hai, vợ ba, và họ đem tiền mua xe hơi, tậu nhà cho bồ nhí. Tại Việt Nam, tiền quốc tế viên trợ, cứu đói, cứu lụt lọt vào tay đầu gấu mà không đến tay nạn nhân. Chính phủ cộng sản đã ban luật" cứu trợ xã hội là việc của nhà nước". Vì vậy mà người ta đã bắt hoà thượng Huyền Quang, Quảng Độ về tội cứu trợ nạn nhân trái luật. Luật này tỏ cho ta biết cộng sản muốn nuốt tiền phước thiện!Đúng là "cướp cơm chim"! Ôi! Cái đảng vì vô sản, vì chống bóc lột, vì lý tưởng công bằng xã hội mà hành động cướp bóc như vậy!

Để chống việc cộng sản bóc lột, bạn hàng các chợ đã về tận nơi cứu trợ đồng bào.
Như vậy, hành thiện phải có phương pháp mà phương pháp đơn giản và thực tế là tự mình hành thiện, đừng qua trung gian, phải đến tận nơi, trao quà cáp và tiền bạc tận tay.



4. Phải khôn ngoan và đề phòng bất trắc


Cũng không phải đưa tiền đến tận tay nạn nhân là được. Một vị linh mục người Việt Nam ở Mỹ có lòng nhân đạo đã mang một số tiền về Việt Nam để làm quà cho trẻ bụi đời. Ông đi một mình vào xóm lao động, nơi tụ họp ban đêm của trẻ vô gia cư. Ông trao tiền, trao quà cho bọn trẻ. Ngay lúc đó, bọn lưu manh xông ra bắt ông trói lại, rồi trấn lột ông. Chúng còn đánh đập ông về tội ông bất công, chỉ cho bọn trẻ tiền mà không cho bọn chúng.Và chúng chửi mắng ông nào là tay sai Mỹ ngụy, theo tư bản bóc lột, giả dạng từ thiện để về do thám và đánh phá XHCN. .. .Nói chung, trong khi làm việc thiện, ta cũng nên khôn ngoan chọn phương cách để giúp người vui vẻ mà ta cũng không bị thiệt hại như trộm cướp, bắt cóc, tra tấn, đánh đập và tù tội. . .





IV.LỢI ÍCH CỦA VIỆC HÀNH THIỆN

Chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ anh em, đồng bào.Tại sao?

1. Giúp người tức giúp mình.
Trong xã hội, con người phải đoàn kết, phải tương trợ. Đó là đạo lý mà cũng là thực tế.Ban đầu con người ích kỷ, đèn nhà ai nấy rạng. Khi ông B cháy nhà, ông A yên lặng. Vậy thì khi ông A cháy nhà, ông Ba cũng " bình chân như vại". Như vậy thi tất cả đều thiệt hại. Nếu khi ông B cháy nhà, ông A, ông C và hàng xóm xông vào chữa lửa, thì lần sau nhà ông A, ông C cháy đều được cả xóm, cả làng cứu giúp.

2. Giúp người thì tâm ta vui vẻ.

Đây là một thực tế. Khi ta giúp được ai, ta cảm thấy vui vẻ. Tuy nhiên, muốn tâm an lạc, chúng ta nên hành thiện với tâm vô vị lợi. Làm xong rồi quên, đừng chú ý đến việc người ta nhớ ơn mình hay quên. và nhất là đừng kể công. Đó là quan điểm " Thi ân bất cầu báo."

3.Giúp người thì được phước

Nhiều tôn giáo cho rằng luật nhân quả chi phối khoa học và đời sống tâm linh.
Thiên Chúa giáo tin có ngày phán xét cuối cùng, và tin có Thiên Đường Địa ngục. Phật giáo tin có kiếp trước, kiếp hiện tại, và kiếp sau. Rộng hơn nữa, Phật giáo tin có luân hồi, quả báo. Mọi kiếp của ta là do việc làm của ta.

Dục tri tiền thế nhân
Kim sinh thọ giả thị
Dục tri lai thế quả
Kim sinh tác giả thị”

( Muốn biết nguyên nhân của đời trước
Thì xem cái kết quả của đời này
Muốn biết cái quả ở ngày sau
Xin xem cái nhân đang gây ra trong hiện tại).

Người ta thường kể chuyện sau:

Ngày xưa có một vị Đạo sĩ và một Đệ tử cùng lên núi cao để tu Tiên … Sau một thời gian tu học, một hôm vị Đạo sĩ bấm Dịch số để xem cho Đệ tử và phát hiện ra rằng Đệ tử của mình sắp mãn phần nên âm thầm cho học trò về quê thăm gia đình trong những ngày cuối đời.

Trên đường về quê khi đi ngang qua một con suối nhỏ, người học trò nhìn thấy một khúc gỗ mục đang trôi theo dòng suối - nhìn kỹ mới thấy vô số kiến đang bám vào khúc gỗ chới với giữa dòng, thế là người học trò vội vã lội xuống suối và vớt khúc gỗ lên để cứu đàn kiến đang trong cơn nguy kịch.

Sau thời gian về thăm nhà người học trò trở lại núi cao để tiếp tục việc học. Nhìn thấy Đệ tử trở lại vị Đạo sĩ vô cùng ngạc nhiên nhưng cũng rất vui mừng – sau đó ông âm thầm bấm số xem lại: “ Thì ra học trò của ông trên đường về quê đã làm được một việc thiện ”.



Như vậy, ta có thể hiểu là nếu ta sống thiện và hành thiện thì ta có cuộc đời may mắn, vui vẻ. Con làm ác thì bị quả báo. Trong các truyện cổ tích hay truyện bình dân Việt Nam như truyện Tấm Cám, Thạch Sanh Lý Thông, những kẻ gian ác bị chềt thảm thương còn kẻ hiền lành, chuyên làm việc thiện thì được vinh hoa, phú quý.


Lý giải các tôn giáo là vậy. Tuy nhiên trong Phật giáo cũng có ý kiến khác. Cuộc gặp gỡ giữa Bồ-đề-đạt-ma và Vũ Đế được các ngữ lục ghi lại như sau:
Là một người phụng sự đạo Phật, Lương Vũ Đế đã cho xây trong nước mình nhiều chùa chiền, bảo tháp.
Vũ Đế hỏi nhà sư Đạt Ma:
-"Trẫm từ lên ngôi đến nay, xây chùa, chép kinh, độ tăng không biết bao nhiêu mà kể. Vậy có công đức gì không?"
Đạt Ma đáp
- "Không có công đức."
- "Tại sao không công đức."
- "Bởi vì những việc vua làm là nhân "hữu lậu", chỉ có những quả nhỏ trong vòng nhân thiên, như ảnh tùy hình, tuy có nhưng không phải thật."
- "Vậy công đức chân thật là gì?"
Sư đáp: "Trí phải được thanh tịnh hoàn toàn. Thể phải được trống không vắng lặng, như vậy mới là công đức, và công đức này không thể lấy việc thế gian (như xây chùa, chép kinh, độ tăng) mà cầu được."
Vua lại hỏi: "Nghĩa tối cao của thánh đế là gì?"
- "Một khi tỉnh rõ, thông suốt rồi thì không có gì là thánh."
- "Ai đang đối diện với trẫm đây?"
- "Tôi không biết."


Đạt Ma là một nhà truyền giáo triết lý cao siêu nhưng hành xử kém, ngôn ngữ vụng về ,thô lỗ. Hơn nữa, lời của Ngài cũng sai lời Phật dạy, và quá khích nếu không là chật hẹp.
Theo Phật giáo Bắc phương, người tu hành có lục Ba La Mật là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, và Trí huệ. Như vậy, bố thí đứng đầu. Kinh Pháp Cú đã nói đến việc làm lành lánh dữ:

118. If one should some merit make
do it again and again.
One should wish for it anew
for merit grows to joy. (5)

(Nếu đã làm điều lành,
Phải tiếp tục thi hành.
Hãy ước mong làm thiện,
Thì lòng được an bình)

Qua các điều trên, ta thấy Bố thí , làm các công đức không phải là việc nhỏ, việc tầm thường.Bố thí, làm công đức là những điểm quan trọng của người Phật tử.

Mục đich của Phật giáo là giải thoát, là ra khỏi vòng luân hồi. Nhưng điều này quá cao. Không phải ai cũng thành Phật và ai cũng đến Niết Bàn. Trong khi vươn lên mục đich cao cả, con người phải sống với thực tế là giúp đỡ quần sinh, nghĩa là phải làm việc thiện, dù kết quả rất nhỏ, dù đó là nhân hữu lậu. Phải hành thiện dù là việc thiện nhỏ.
Lưu Bị rất hữu lý khi dạy con:" Đừng thấy việc thiện nhỏ mà không làm, đừng thấy việc ác nhỏ mà làm".(Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi").

Kinh Dịch, Hệ Từ có đoạn:
Tiểu nhân dĩ tiểu thiện vi vô ích nhi phất vi dã, dĩ tiểu ác vi vô thương nhi phất khử dã; cố ác tích nhi bất khả yểm, tội đại nhi bất khả giải.”
( Kẻ tiểu nhân cho rằng một điều thiện nhỏ là vô ích nên không làm, một điều ác nhỏ là vô hại nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc không che giấu được nữa, tội hoá lớn mà không thể tha được. )



V. HỆ QUẢ CỦA VIỆC HÀNH THIỆN


1.MẶT TÍCH CỰC

+Một số biết ơn ân nhân.


Hàn Tín cảm ơn Phiếu mẫu:

Bát cơm Phiếu mẫu trả ơn nghìn vàng.


2. MẶT TIÊU CỰC

+Làm việc thiện chỉ là giúp đỡ phần nào


Làm thiện chân thực có thể làm cho muôn loài hạnh phúc nhưng cũng có thể chỉ là xoa dịu vết thương bên ngoài.
Trong những ngày lễ Phật, tôi đứng nhìn xem chư tăng ni và thiện nam, tín nữ thả chim. Thả chim là một tục lệ tốt, mang ý nghĩa giải phóng. Nhưng sau khi ra khỏi lồng, con chim có thực sự giải phóng không? Có thể nói là không. Hoặc có thể nói là tỷ lệ thành công rất ít. Tại sao vậy? Vì con người có lòng nhân đạo nên có tục thả cá, thả chim. Có tục thả chim nên trẻ con bắt chim để bán. Chim để trong lồng lâu ngày nên chân tù, cánh mỏi, thả ra thì bay loạng quạng. Chúng nó một số bay thoát nhưng một số bị mèo vồ, quạ bắt, và bọn trẻ vây bắt lại. . .

Như vậy, một vấn đề khác được đặt ra là phải hành thiện rốt ráo!Vấn đề rất khó! Làm sao đưa chim về rừng an toàn? Làm sao cho nạn nhân được bớt đau khổ? Ta chỉ có thể giúp một phần thôi. Cha mẹ nuôi con cũng vậy. Nhà giàu thì cha mẹ để của đến vài đời cho con cháu, nhưng đa số cha mẹ chỉ nuôi con đến tuổi trưởng thành, sau đó các con phải tự lo.

Than ôi, làm việc thiện đôi khi không phải dễ. Phải có khả năng tài chánh, phải có kiến thức , có phương pháp và cũng phải có khôn ngoan.



+Một số không chấp nhận lòng tốt của người thiện tâm:

Sau 1975, tôi đi quanh khắp Sài gòn. Tôi dùng xe đạp đi vào Phú Lâm. Từ phía bên trái, có một ngôi nhà khang trang, đàng trước nhà tức là ngoài khuôn viên có để một số tượng Phật, tượng Chúa.Tôi bèn đi vào xem các tượng Phật. Các tượng rất to và rất đẹp. Đây là cơ sở làm tượng có trước 1975. Khi tôi lặng ngắm các bức tượng thì chủ nhân vui vẻ ra tiếp tôi . Chúng tôi nói chuyện trên trời dưới đất. Ông bảo:
-Một hôm tôi gặp một gã vô gia cư đi lang thang. Tôi ngỏ ý mời ông về nhà tôi ở.
Ông nhận lời nhưng ở ít lâu, có cơm ăn nhà ở nhưng được vài bữa thì ông kia ra đi.


Sau 1975, tôi theo bạn bè đến thăm nhà nghỉ mát ở Thủ Thiêm của một bác sĩ. Nhà không ai trông nom, ông gặp một người vô gia cư và mời họ đến nhà trông nom nhà cửa, vườn tược. Nhưng it bữa, người này cũng cuốn gói mà đi!

Nghe chuyện hai người vô gia cư, tôi lấy làm lạ lùng hết sức. Không nhà, không cơm , nay có người cho nhà ở, cơm ăn, tại sao họ lại từ chối? Nào có phải làm việc gì khó nhọc, hoặc phải làm điều phi pháp, phi đạo đức, chỉ coi nhà thôi mà! Phải chăng họ thích ngao du bốn biển? Phải chăng họ có tâm hồn du mục? Phải chăng họ có bệnh?


+Một số người phủ nhận công ơn những người đã giúp đỡ họ.

Trước 1975, đi ngang chợ Thái Bình, nếu đi thẳng tới trường Tư thục Hưng Đạo của giáo sư Nguyễn Văn Phú, chúng ta sẽ thấy một cơ sở từ thiện, của tư nhân, do các bà phụ trách, có bảng đề là Viện Dục Anh. Viện này thành lập từ lâu có lẽ trước 1945 có mục đích nuôi trẻ mồ côi. Một số trẻ mồ côi đưọc học bổng qua Pháp học thành kỹ sư, bác sĩ, nhưng tất cả các hạng đều có một hai điều đáng buồn :
-Không ai nhìn nhận mình xuất thân từ viện Dục Anh.
-Những kỹ sư, bác sĩ trước khi du học đã cam kết góp tiền về giúp viện để Viện có tiền nuôi lớp sau. Nhưng chẳng ai chịu trả một xu cho Viện!
Tất nhiên mấy ông này có rất nhiều tiền nhưng không ai muốn dính líu đến Viện Dục Anh, không ai muốn nhớ đến quá khứ đau khổ, đến nguồn gốc đen tối của họ!

+Ân thánh oán

Nếu bạn có một số tiền, bạn đem ra cho bà con. Số tiền có hạn, bạn chỉ tặng một trăm người.Một trăm, hai trăm người khác sẽ âm thầm buồn giận hoặc lớn tiếng trách mắng bạn.
Ngay người bạn tặng tiền đôi khi cũng trách bạn vì cho quá it. Ở Việt Nam nay muốn tặng ai it nhất cũng 100 đô, nếu không người ta chửi vào mặt bạn. Dạy bảo, khuyên răn người cũng vậy , coi chừng " giáo đa thành oán..




Làm thiện là cần thiết, là điều tốt, tùy theo khả năng mình mà làm. Chúng ta phải có tâm thiện, có phương pháp và cũng cần có sự khôn ngoan. Nếu đã làm, thì phải tự mình làm. Đừng tin ai vì trong đời sống nhiều kẻ gian manh muốn lợi dụng danh nghĩa từ thiện để gạt gẫm người. Hạng này bao gồm những kẻ khoác áo tu hành hoặc các cơ quan , đoàn thể mượn danh từ thiện hoặc chính nghĩa đề làm việc ác hoặc xấu xa đồi bại .


___

(1). Luận ngữ. Hiến vấn 14.
(2).Phúc âm Matthew 25: 40
(3). Theo chân những người mạo danh nhà sư đi khất thực.http://f.tin247.com/21396470/S%C6%B0+s%C3%A3i+%C4%91i+kh%E1%BA%A5t+th%E1%BB%B1c+%C4%91%E1%BB%81u+l%C3%A0+gi%E1%BA%A3+m%E1%BA%A1o.html
+ Về lại "xã ăn mày".http://www.baomoi.com/Info/Ve-lai-xa-an-may/137/2616269.epi
(4).Đồ sida: đồ cũ, người khác đã mặc, mình mặc vào dễ bị lây bệnh sida.
(5).Kinh Pháp Cú.The Path of Truth.English translation by Bhikkhu Khantipalo & Sister Susanna. Sydney, Australia, 1993. IX- Papavagga.



Tuesday, May 4, 2010

THIÊN ÁC VÀ GIẢ CHÂN

***


VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916-1976)




Trước 1945, Vũ Hoàng Chương đã nổi danh với Thơ Say (1940) và Mây (1943). Cốt cách của ông là cốt cách của một lãng tử. Ông thuộc trường phái lãng mạn , nhưng nghệ thuật ông cũng là nghệ thuật tượng trưng cho nên đôi khi rất xa xôi bí hiểm và rất cao siêu, bóng bẩy. Sau 1954, Vũ Hoàng Chương vào Nam và đã sáng tác khá nhiều.

THƠ
Rừng Phong Sai gòn, 1954
Hoa Đăng, SG, 1959.
Trời Một Phương, SG, 1962.
Lửa Từ BI, SG, 1963. Ánh Trăng Đạo, SG, 1966.
Bút Nở Hoa Đàm, SG, 1967.
Cành Mai Trắng Mộng, SG, 1968.
Ngồi Quán, SG, 1970.

TUYỂN TẬP THƠ:
Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm
Cảm Thông ( Communication)
Tâm Tình Người Đẹp (Les 28 étoiles)
Đời Vắng Em Rồi Say Với Ai.
BÚT KÝ
Ta Đã Làm Chi Đời Ta. TrươngVĩnh Ký,SG, 1972.
KịCH
Tâm Sự Kẻ Sang Tần. SG,1961.




Rừng Phong in lần thứ nhất năm 1954 nhưng trong đó có những bài thơ làm trước 1945. Thời tiền chiến, Vũ Hoàng Chương đã nổi danh về những bài thơ về tình yêu và đam mê, sau 1945, ông vẫn tiếp tục sáng tác theo hai chủ đề trên. Vũ Hoàng Chương là một thi sĩ lãng mạn. Tinh hoa của thi ca lãng mạn là thuở hoa niên bướm ong rạo rực, nhiều mơ mộng đắm say cũng như lúc đẹp nhất của một ngày là buổi bình minh. Thơ Say và Mây là tinh hoa của Vũ Hoàng Chương, nhưng sau 1954, Vũ Hoàng Chương vẫn cho đời những bài thơ dịu ngọt như Chờ đợi hoài công, Bài ca hoài Tố.

Ông ca tụng tính yêu, đã say mê hình bóng giai nhân, và đau khổ vì yêu:
Ta đợi em từ ba mươi năm
Uổng hoa phong nhụy hoài trăng rằm
Heo may chớm đã lên mùa gió
Ngăn ngắt chiêm bao lạnh chiếu nằm
. . . . . . . . . . . . .
Ngai trống, vàng son lợt sắc rồi
Lòng ta hoàng hậu chẳng về ngôi
Hồ ly không hiện, người không đến
Chỉ ánh trăng vào khuôn cửa thôi

Hiu hắt tình trai một kiếp suông
Mênh mông nệm gối rét căn buồng
Lệ sa bạch lạp ngàn đêm trắng
Thơ vút sầu say, rượu nhập cuồng ( Chờ đợi hoài công)

Vũ Hoàng Chương luôn hoài niệm mối tình ngày xưa, mối tình thuở hoa niên:
Mùa đã sắp thu rồi, trăng ướt sương
Nến lụi chiêm bao, nằm xa nhớ thương
Hỏi tiếng xưa còn gió thơm canh trường
Em Kiều Thu giờ lầu ai phấn hương? (Bài ca hoài Tố)
Em Kiều Thu ạ! Mười năm cách
Lòng gã Hoàng lang vẫn ngậm ngùi
( Tình thuở thanh bình)
Nhớ xưa còn tuổi hai mươi
Cả một vườn hoa của bướm
Lòng con hồ điệp chơi vơi
Tám nẻo dài thăm nhụy ướm (Hoa nào của bướm)

Vũ Hoàng Chương khi vào Nam cũng tiếp nối cuộc sống của một nghệ sĩ nhiều đam mê:
-Ta van cát bụi trên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Để ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời.( Nguyện cầu)
-Ta say, ta đốt
Ta nằm, ta quên
Và ta nhớ, thuở lòng ta lẫn một
Với âm dương, đằm thắm ý giao duyên
Là đây ngọn lửa đoàn viên
Khói hương tiền sử bên đèn nao nao.(Bài ca dị hỏa)

Trong Rừng Phong, Vũ Hoàng Chương vẫn nối tiếp chủ đề siêu thoát. Vũ Hoàng Chương chịu ảnh hưởng Phật và Lão Trang. Ông thắc mắc về cuộc đời . Ông luôn tìm kiếm chân lý. Phải chẳng tất cả là hư không, là hư ảo, là giấc mộng, là đau khổ?
Phải chăng muôn kiếp nặng nề
Từ Hư Không tới lại về Không Hư
Lẽ nào mộng cả thôi ư
Người ơi! Gịọt bể chứa dư tang điền. ( Bài ca siêu thoát)

Những cơn say cũng là hình thức siêu thoát:
-Trở gót quê Say ngược Suối Điều
Nét hoa mờ tỏ sóng phiêu diêu
Lên tiên về tục thương Từ Thức
Lấy ảo làm chân học Thúy Kiều ( Ngẫu cảm)
-Mặt khói chơi với hề ngọn đèn chênh vênh
Kìa núi tà dương đỏ dậy
Lam mờ bể nguyệt lung linh
Đã mở cánh huyền vi hề sau rèm hiển hiện
Còn nguyên khối hỗn mang hề vũ trụ sơ sinh
. . . . . . . . . . . .
Đèn hôm nay ngọc đỏ
Khói nơi này tơ xanh
Ta ơi hề ta ơi
Kìa thoáng chân thân vừa hiện đó
Nụ cuời say hoan lạc đến vô tình ( Bài ca tận túy)

Thi sĩ quan niệm cuộc đời là những cuộc siêu thoát, là những bước phiêu du từ bao độ luân hồi tử sinh:
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về .( Nguyện cầu)

Sau cùng, cái chết là một hình thức của siêu thoát:
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng cây mấy thuở ai người biết
Từng khóc từng reo đã mấy lần
Nhựa ứ càng cao niềm giục giã
Đất trời mong mỏi nức hương lân
Cánh hoa sắp hé phô kiều diễm
Nụ thoát hình trong phút nhập thần ( Thoát hình)


Thơ của Vũ Hoàng Chương là cái nhìn về mình và cuộc đời. Phần lớn là nỗi buồn tuôn ra cùng tiếng thở dàì áo não. Trước kia Vũ Hoàng Chương đã cảm thấy lạc loài vì nhân thế coi khinh, nay Vũ Hoàng Chương vẫn cảm thấy mình là một người khách lạ giữa cuộc đời xa lạ:
Ta đến nhân gian lạ cõi bờ
Này sông lưu lạc, núi chơ vơ
Nỗi buồn sông núi ai người biết
Máu cũng chưa hề rỏ phím tơ ( Nỗi buồn sông núi)
Ông buồn vì mộng và thực khác xa nhau, và ông cũng buồn vì thân thế đắng cay của người nghệ sĩ nghèo:
Lửa khóa mây then vách bốn trời
Về đâu mộng cũng chẳng đành nơi
Vẫn chưa ý gửi hồn thơ được
Mà đã dâu toan hóa biển rồi
Ngọn gió nghe chừng xoay mãi hướng
Vầng trăng ai nỡ xẻ làm đôi
Tin xuân lạnh lắm rồng ao cạn
Há chỉ phòng thu lệ nến rơi ( Ngẫu cảm)

Ngoài tình yêu, thơ Vũ Hoàng Chương còn là tiếng oán than thời ly loạn. Ông nhớ đến thuở thanh bình ngày xưa chàng Vũ cũng như những đôi trai gái cùng trang lứa đã yêu nhau nhưng bây giờ là chia ly, tang tóc:
Ôi thôi cuộc thế hết thanh bình
Cái tuổi thơ ngây của chúng mình.
Đã hết rồi em!. . . và cũng hết
Cả mùa thu ấy đẫm men tình ( Tình thuở thanh bình)

Vũ Hoàng Chương là nhà thơ siêu thoát, siêu thực. Nhưng con người của Vũ Hoàng Chương là một con người thực tế. Ông như một cây cổ thụ đứng trên núi cao, cành lá tỏa bốn phương và nở hoa đến tận chín tầng trời nhưng cội rễ bán chặt lòng đất, đá và suối khe. Ông có hai cái nhìn: một cái nhìn mơ mộng và một cái nhìn thực tế. Ông là thi sĩ và cũng là một chiến sĩ. Ông là con người yêu nước cổ điển, nghĩa là yêu nước theo truyền thống dân tộc, theo quan điểm của Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ chống Nguyên, Minh Thanh xâm lược trong khi cộng sản tôn thờ Stalin, Mao Trạch Đông:

Sát cánh vua cùng dân
Chung lòng với tướng quân
“Phá cường địch” cờ ai sáu chữ
Báo hoàng ân là báo quốc ân
Trăm họ chẳng ai còn lưỡng lự
Sông núi nào riêng một họ Trần.
Bình Than lạ nổi phong vân
Một gươm Tiết chế hai lần trao tay.

Lời Đại Vương truyền nín cỏ cây
Ba quân hào khí ngất tầng mây
Vụt nghe tướng lệnh, vươn mình thét:
-Sông Bạch Đằng tôi có mặt đây!
Hán hồ cũng đến chôn thây
Trước sau một khúc sông này mà thôi...

Triều non bạc lên ngôi, giờ lịch sử
Và xuống ngôi, theo lệnh Đại Vương truyền.
Nước rút đi, như ngàn vạn mũi tên
Lấy Đông Hải làm bia nhằm bắn tới
Một ám hiệu Kình nghê vừa mắc lưới,
Thuyền Vương Sư liền quật khởi tranh phong
Tay chèo nổi ngược cơn dông
Tiêng hò “Sát Thát” vang sông ngập bờ.
(Bài Ca Sát Thát)


Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải,
Dưới vầng dương thiêu đốt quan san
Lớp hưng phế xô nghiêng từng triều đại
Mà chí lớn dọc ngang
Mà nghiệp lớn huy hoàng
Vẫn ngàn thu còn mãi
Vẫn ngàn thu người áo vải đất Qui Nhơn?
Ôi người xưa Bắc Bình Vương
Đống Đa một trận trăm đường giáp công
Đạn vèo năm cửa Thăng Long
Trắng gò xương chất, đỏ sông máu màng.
(Bài ca bình Bắc )

Hình như trong tiềm thức, ông đã thấy rõ cái họa mất nước vì cộng sản Việt Nam dâng biển và đất liền cho cộng sản Trung Quốc cho nên ông đã gào thét: "Trả Ta Sông Núi "

Trải bốn nghìn năm dựng nước nhà
Sông khoe hùng dũng, núi nguy nga
Trả ta sông núi bao người trước
Gào thét đòi cho bọn chúng ta…
Trả ta sông núi từng trang sử
Dân tộc còn nghe vọng thiết tha
Ngược vết thời gian, cùng nhắn nhủ:
Không đòi, ai trả núi sông ta

Cờ báo phục hai bà khởi nghĩa
Ðuổi quân thù, xưng đế một phương
Long Biên sấm dậy sa trường
Ba thu xã tắc, miếu đường uy nghi
Xót nòi giống, quản chi bồ liễu
Dòng Cẩm Khê còn réo tinh anh
Một phen sông núi tranh giành
Má hồng ghi dấu sử xanh đời đời

Bể dâu mấy cuộc đổi dời
Lòng trăm họ vẫn dầu sôi bừng bừng
Mai Hắc Ðế, Phùng Hưng, Bố Cái
Liều thế cô dằng lại biên cương
Ðầu voi, Lệ Hải Bà Vương
Dù khi chiến tử vẫn gươm anh hào
Tinh thần độc lập nêu cao
Sài lang kia, núi sông nào của ngươi?
Núi sông ấy của người dân Việt
Chống Bắc phương, từng quyết thư hùng
Ngô Quyền đại phá Lưu Cung
Bạch Ðằng Giang nổi muôn trùng, sóng reo
Hồn tự chủ về theo lửa đuốc
Chữ thiên thu: Nam Quốc sơn hà
Phá tan nghịch lỗ không tha
Tướng quân Thường Kiệt gan già mấy mươi
Gươm chiến thắng trỏ vời Ðông Bắc
Hịch vải nêu tội giặc tham tàn
Dựng nhân nghĩa, vớt lầm than
Danh thơm ải ngoại, sấm ran biên thùy
Khí thiêng tỏa chói tư bề
Phường đô hộ có gai ghê ít nhiều?…

Cũng như bao thi sĩ khác, Vũ Hoàng Chương đã đau khổ nhìn thấy khói lửa tràn ngập quê hương:
Một vầng trăng huyết
Rụng đỏ kinh kỳ
. . . . . . . . .
Say thành bại nhân gian cuồng vọng
Riêng mình ta vạn kiếp bi thương
Đã sa ngôi cũ hoàng vương
Còn toan đổ máu phơi xương làm gì ( Bài ca thời loạn)

Ngồi Quán do Lửa Thiêng ấn hành năm 1970. Những bài thơ trong tập này đều được sáng tác trong năm 1968-1969. Trong tập này, chủ đề chính là chiến tranh Việt Nam, là cuộc tấn công mậu thân 1968 của Cộng sản tại miền Nam.

-Thế là con ác nhả sân bay rồi bỗng lên dần
Thế là bầy rắn nhổ neo vừa phun nọc độc
Thế là đoàn bọ hung sang số bay đi
Thế là cánh tay người buông rũ liệt
Thế là xong. . . là hết. . . .
Thế là không còn chi. . .
Ôi Chiến tranh làm biệt ly
Như bọt vỡ trên sông trên biển
Như bụi nát nhừ trên đường ra hỏa tuyến . .(Thế là)
-Khổ đau tràn bốn cửa Thành
Dư ba chợ Bến, hồi thanh xóm Chùa
Ngựa Thời gian phá trường đua
Hí lên cho bước Giao Mùa nhịp theo
Đường Hai Mưoi lắng chuông gieo
Gối tay thế kỷ nằm heo hút buồn
Dưới kia thác lũ mưa nguồn
Lệ hay mạch nước ào tuôn vỡ bờ?
Lật coi giòng máu chưa mờ
Bạch thư dày mấy muôn tờ đất đen. ( Đào sâu trang sử)


Vũ Hoàng Chương là nhà thơ lãng mạn, là nhà thơ quốc gia và cũng là một nhà thơ Phật giáo. Cũng như Nhất Linh, ông đã phản đối hành động đàn áp Phật giáo của Ngô Đình Diệm cho nên ông đã sáng tác rất nhiều bài thơ ủng hộ công cuộc tranh đấu của Phật giáo chống gia đình họ Ngô. Đó là các tác phẩm: Lửa Từ Bi, SG, 1963; Ánh Trăng Đạo, SG, 1966; Bút Nở Hoa Đàm, SG, 1967.
Ông là một nhà thơ yêu nước, nhà thơ chống chiến tranh, chống cộng sản cho nên sau 1975, ông trở thành mục tiêu đầu tiên của cuộc thanh trừng văn nghệ sĩ quốc gia. Theo Mai Thảo, những năm cuối cùng, sống trong cảnh cơ cực của hỏa ngục, tâm linh và nghệ thuật củaVũ Hoàng Chương đã lên đỉnh cao:

. . . một thân thế non tây lồng trong một bình sinh xế tà thình lình đuổi đạt được khỏi nó tấm mùng khói sương cô tịch vây phủ, tự thắp sáng lại bằng một thắp sáng rực rỡ. Giữa thắp sáng lại này, một Vũ Hoàng Chương rất hài đồng, rất tươi thắm và cũng rất lớn đi ra.
Làm xanh thắm lại cái úa héo, giữ chặt trên cành sinh trái tử sắp rụng, chất lục diệp tố đến tự những nguồn hô hấp nào? Tự hai nguồn. Một của thơ. Một của đời sống. Hai nguồn trong một liên hệ tuyệt diệu.


Nếu tài thơ bao giờ cũng ung dung chuyển đảy được nó tới nhiều đất trời khác biệt, không chôn chết một đất trời cố định- những sức thơ tầm thường không bao giờ thực hiện được vận động này của thơ- cõi thơ sau, cõi thơ sáu mươi, cõi thơ phơi phới vô cùng riêng Vũ Hoàng Chương đưa mình tới được là một thoát vượt, một bỏ lại rất xa cách sau lưng mọi cõi thơ Vũ Hoàng Chương trước, và cõi thơ sau này, ánh sáng của ngôi sao bắc đẩu mới khởi sự trong suốt, thật sự vòi vọi.
Hãy nhớ lại ba đỉnh của vòm trời cũ. Là Mây, Hoa Đăng và Rừng Phong.

Tâm thức ba vùng trời cũ là:
Đêm hỏa táng trần tâm cõi đời nghiêng đổ
Thịt xương ơi, nằm nhé đất oan khiên.
Trần cấu lâng lâng ngoài cửa mộ
Ta thoát hình nương khói bay lên.
Đâu đó tà dương hề treo ngọn bắc
Đâu đó cuồng phong hề reo đáy chai
Mùa chi ngày chi tuổi bao rồi nhỉ
Quanh chiếu rộn tang thương hề tinh anh ngoài đời.


Đó là tâm thức hình giảo quấy động quằn quại trong một thạch động kín bịt. Hồn tuy đắm khổ đau những muốn bay lên cùng khinh thanh, chướng nghiệp chưa yên rũ được, nhà ngục hình hài. Tưởng là thoát hình, đâu có thoát hình. Thịt xương ném trả đất oan khuất đâu có ném trả. Thực hiện cuộc thiêu hủy trần tâm bằng một lửa. Thì thiêu hủy. Nhưng khác nào ngọn lửa hủy giận dữ của Hồ Dzếnh:' Lửa giận tan rồi, than tối đen' (ChânDung 15 Nhà Văn Nhà Thơ Việt Nam, 16-17).

Vũ Hoàng Chương bị bắt ngày 13-4-1976. Họ tịch thu 60 bài thơ cuối cùng của thi sĩ (27). Họ bắt ông vì ông là nhà thơ hàng đầu của miền Nam, vì ông không theo chúng mà còn làm nhiều bài thơ mang tính cách chống cộng. Một vài tài liệu cho thấy trước khi ông bị bắt, cộng sản đã chiêu hàng ông, bắt ông phải ca tụng bài thơ của Tố Hữu quỳ lạy Stalin nhưng ông đã thẳng thắn cho rằng đó không phải là thơ, mà là những lời nịnh hót đê tiện. Vì vậy, hôm sau, Vũ Hoàng Chươngđã bị bắt giam và bị trả thù cho đến chết.Biết tấm thân già yếu của thi sĩ chỉ còn thoi thóp, chúng bèn cho về.


Hơn nữa, trong thời gian quân quản, dân chúng miền Nam đã kính yêu ông, nhắc nhở ông, coi ông như một nhà thơ tiên tri cho vận mệnh đất nuớc đen tối khiến cho hàng vạn người băng qua biển cả để tìm tự do:

Lũ chúng tôi lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Bể vô tận sá gì phương hướng nữa
Thuyền ơi thuyền, theo gió hãy lênh đênh. . .
(Thơ Say, Phương xa)


Sau 1975, em trai của Vũ Hoàng Chương là Vũ Hoàng Địch và một số văn nghệ sĩ hàng đầu của chế độ đã vào thăm Vũ Hoàng Chương. Họ nói những gì với Vũ Hoàng Chương? Họ nói cho Vũ Hoàng Chương những tội ác của cộng sản đối với nhân dân và đối với văn nghệ sĩ? Họ khuyên ông nên ở loại với đảng và nhân dân vì đảng luôn luôn yêu quý những nhân tài như ông? Hay họ khuyên ông đầu hàng? Khuyên ông đứng lên tố giác tội ác Mỹ ngụy, tội ác của các văn nghệ sĩ Miền Nam ( như Vũ Hạnh, một cộng sản nằm vùng đã làm). Có lẽ Vũ Hoàng Địch đã kể cho Vũ Hoàng Chương con đường đau khổ của ông và của các văn nghệ sĩ miền Bắc sống dưới chế độ cộng sản vì đó là dẫn dụ và cũng là răn đe. Bài học lịch sử này cũng sẽ được lặp lại cho nhân dân và văn nghệ sĩ miền Nam. Vũ Hoàng Địch, Đào Duy Anh, Nguyễn Đổng Chi đã thực hiện chỉ thị của Đảng nhưng họ đã thất bại. Vũ Hoàng Chương đã trầm tĩnh đón nhận bàn tay máu của cộng sản. Có thể ông đã hiểu cộng sản vì ông cũng đã sống trong lòng chiến khu Việt Minh. Và cũng có lẽ ông đã đi sâu vào thiền, vào được trung tâm của Phật cho nên ông vẫn bình tĩnh coi thường tù đày và chết chóc.Ông đã chọn con đường danh dư và chiến đấu trong bất khuất.

Mai Thảo đã nói đến cái chí khí bất khuất của Vũ Hoàng Chương:
Anh em văn nghệ sĩ miền Nam, ngoại trừ một thiểu số khiếp nhược, nói chung đã có một phong cách nghiêm chỉnh, lúc thất thế, trong bi thảm, trước kẻ thù. Nhưng gương mẫu nhất, rực rỡ nhất tuy từ hai cách thế biểu hiện khác biệt, qua suy nghĩ và nhận thức tôi là Vũ Hoàng Chương và Thanh Tâm Tuyền (23) mất ngày 19-8-76. 12 giờ khuya. 13-4-76.
Bài thơ sau cùng của Vũ Hoàng Chương là tiếng chuông báo tử của tự do văn nghệ miền Nam:
Cứ coi như từ biệt
Liền tay thảo một chương
Bút vạch không thành nét
Chữ viết không thành hàng
Bây giờ trở về trước
Là mây trời dọc ngang
Từ nay là bóng tối
Chia hai từ dao vàng (39).

Năm 1974, con gái họa sĩ Mai Lân, đã xin nhà thơ một bài cho báo Văn , và đây chính là chúc thư của nhà thơ gửi cho hậu thế:
Lòng đá
Kể cả chuyến ngược chiều lên tuổi mộng
Vì nay trong vòng tay đôi mươi cũng chỉ là trống rỗng
Thì không còn chuyến đi nào làm ta ngạc nhiên
cho dẫu đi bằng không thuyền.
Khắp đâu đâu cũng chỉ là mảnh vỡ ta ra từ một
khối thuyền quyên
Họa may còn chuyến đi vào hư vô tên gọi văn chương
của những nấm mồ.
Đi chuyến ấy dòng đời ta tự xóa ta không
còn gì cũng không là ức triệu mảnh hồn
ghen kia mới thỏa mới chịu về nguyên mối tình
si mang hồn phiến đá
Đá sẽ dựng cho không-là- gì - hết
một phiến cao tận cùng sâu tận tuyệt mà không
chữ nào viết không âm nào ghi
Cao sâu lòng đá phẳng lì
mãi mãi chỉ riêng nàng được biết
từ đầu những chuyến Gã ra đi. (46)


Trước 1975, Vũ Hoàng Chương nhận sự giúp đỡ của gia đình Đông Hồ. Sau 1975, bọn cộng sản khủng bố ngấm ngầm khiến bà Đông Hồ tức Mộng Tuyết ( Thất Tiểu Muội) đã sợ hãi. Vì tế nhị và cao thượng, Vũ Hoàng Chương đã lui về ở chung với gia đình Đình Hùng trong một xóm nghèo. Lúc này, một số văn nghệ sĩ miền Bắc đã vào thăm hoặc kín đáo gửi lời thăm Vũ Hoàng Chương.
Đào Duy Anh xin Rừng Phong (27-28).
Đào Duy Anh nói: Tôi vào Nam chỉ để gặp anh..Thơ
trước sau tôi vẫn yêu nhất có hai người. Là anh và Lý Bạch.
Vũ Hoàng Chương đã đưa cho Mai Thảo xem lá thư Trần Dần gửi cho Vũ Hoàng Chương sau 30 năm xa cách vì chiến tranh, Trần Dần viết với tất cả sự tôn kính:
Thơ anh, thơ Đinh Hùng, sống muôn đời với thi ca Việt Nam (sđd, 19).

Trong các nhân vật Bắc Hà, thư của Trần Dần là thành thật và đáng tin cậy. Còn những nhân vật khác không biết tâm địa ra sao. Họ thật sự tôn trọng Vũ Hoàng Chương? Họ chỉ xã giao làm công việc trí vận của đảng mà trong tâm, họ là kẻ chiến thắng, coi Vũ Hoàng Chương là kẻ chiến bại đáng khinh, là kẻ ngụy quân, ngụy quyền đáng bị trừng phạt?


Vũ Hoàng Chương là nhà thơ hàng đầu của miền Nam và của cả nước Việt Nam. Ông đã cống hiến cho đời những hàng châu ngọc. Thơ ông tiếp nối dòng thơ tiền chiến với những ý tưởng tân kỳ và lời trang nhã,văn hoa ít người sánh kịp. Ông đem lại cho thi ca miền Nam một sinh khí mới, một nghệ thuật vững vàng trong khi thơ miền Bắc chỉ là tiéng thét và tiếng súng ở nơi ngục tù. Trái tim ông luôn hòa nhịp với những biến động của đất nước, ông không đứng ngoài mà tích cực và can đảm dấn thân và chịu đựng những gian truân của kiếp người và của dân tộc đau khổ. Thơ ông còn mãi với thời gian và tâm hồn ông đã chinh phục trọn vẹn tình cảm của người quốc gia yêu nước , yêu tự do và yêu văn hóa Việt Nam.

(Trích Nguyễn Thiên Thụ, Văn Học Sử Việt Nam - Văn Học Hiện Đại IV)

*

Friday, November 13, 2009

VĂN HÓA ĐÔNG PHƯƠNG

***

VĂN HÓA ĐÔNG PHƯƠNG

***
Từ thời Pháp thuộc, dân ta chia làm hai phái. Một phái hân hoan tiếp nhận nền văn hóa Pháp và khinh bỉ văn hóa truyền thống của nhân dân ta. Những người này gồm nhiều thành phần. Nhóm thứ nhất là những nho sĩ tiến bộ, như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Khôi, Phan Kế Bính. Họ đã chịu chịu ảnh hưởng tư tưởng của cách mạng Pháp năm 1789, nhất là tư tưởng của Voltaire, J.J. Rousseau, và Montesquieu qua các tân thư và sách dịch Trung Quốc. Nhóm thứ hai là các nhà tân học như Nguyễn Văn Vĩnh, Nhất Linh. Và nhóm thứ ba là những người cộng sản.

Một phái khác là những nho sĩ yêu nước, thủ cựu, chống Pháp, chống văn hóa Tây phương, trong đó có Trần Tế Xương, Tản Đà. Phái này yếu thế hơn, ở vào cảnh chiến bại.
Phái canh tân đã lập Đông kinh nghĩa thục ở Hà Nội, phong trào Duy tân, Quảng Nam nghĩa hội ở Trung kỳ. Họ đã truyền bá chữ quốc ngữ, hô hào cắt tóc ngắn, mang âu phục. Tại Nam Kỳ , các nhà cách mạng gồm các ông Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương. . .chủ trương thực nghiệp như lập hội đoàn buôn bán, kinh doanh, sản xuất thủ công và nông nghiệp. Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn là cơ sở của nhóm này ở Nam Kỳ .

Nhất Linh trong các tác phẩm như Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng. . . đã lên tiếng chống việc hôn nhân cưỡng bách, đòi nam nữ bình quyền, chống việc thủ tiết. . .và các tục lệ khác của Việt Nam.
Cộng sản với chủ trương tiêu diệt thương tầng kiến trúc cũ đã nhắm phá bỏ các phong tục cũ như cách ăn mặc, việc thờ cúng, tình gia đình. . .

Sau khi ra ngoại quốc, chúng ta chịu ảnh hưởng văn hóa Âu Mỹ.
Văn hóa Âu Mỹ có nhiều ưu điểm mà ta phải học tập:
+Giữ gìn vệ sinh, sạch sẽ
+Kỷ luật tự giác trong đó có việc xếp hàng chờ đơi, tôn trong người già, người bệnh, trẻ con và phụ nữ. ..


Ngoài ra, pháp luật nhằm bảo vệ phụ nữ và trẻ con.
+Cha mẹ không được đánh con trẻ
+Đàn ông không được đánh vợ, vợ cũng không được hành hung chồng.

Hai điều này thiết cũng hợp lý. Tại Việt Nam, chúng ta có tục lệ đánh con trẻ quá đáng với danh nghĩa "thương con cho roi cho vọt" . Và nhiều đàn ông có thói quen đánh vợ tàn nhẫn, và có thói " chồng chúa vợ tôi".
Pháp luật Âu Mỹ tôn trọng tự do và bình đẳng. Trong đời sống, nam nữ dễ dàng yêu đương và dễ dàng ly hôn. Người Việt Nam tại quốc nội và hải ngoại nay đang theo mốt ly dị.Việc này có phần tốt mà cũng có phần xấu.

Tuy nhiên, không phải người Á Đông nào cũng theo Âu Mỹ triệt để, và người Âu Mỹ nào cũng triệt để tự do, phóng túng.

+ Người Ấn Độ tôn trọng tình gia tộc và truyền thống cũ. Họ vẫn ăn mặc lối y phục cổ truyền, ra ngoại quốc, họ vẫn giữ truyền thống " lá lành đùm lá rách". Trong một gia đình ba người anh em, họ góp tiền cho người thứ nhất mua nhà, rối góp tiền mua nhà cho người thứ hai. Cứ như vậy cho đến khi mọi người có nhà cửa. Người Ấn Độ thuộc loại thông minh và thành công ở Âu Mỹ.


+ Chúng ta không vì quan niệm tự do mà không quản lý con em. Chúng ta phải theo dõi, góp ý kiến và khuyên dạy trẻ con. Gia đình Kennedy thành công vì bố mẹ Kennedy luôn đốc thúc các con phải quyết tâm làm tổng thống Mỹ. Người Việt Nam thành công là vì cha mẹ luôn thúc đẩy con chăm học, và cố gắng đỗ kỹ sư, bác sĩ. Như vậy, việc hướng dẫn con cái là một điều tốt bất cứ xã hội nào.

+Việc sống chung vợ chồng là một việc rất khó, đòi cả hai bên phải nhường nhịn và thông cảm lẫn nhau. Không phải việc gì cũng đưa nhau ra tòa án. Ông bà Clinton đều là luật sư nhưng họ có đưa nhau ra tòa và đòi ly dị như người Á Đông không? Rõ ràng là không. Có thể do nhiều lý do, nhưng trong đó là vì danh dự, vì tham vọng ứng cử tổng thống mà bà Clinton đã nhịn. Dẫu sao, đó cũng là một gương tốt!


Chúng ta có nhiều phong tục, tập quán xấu phải bỏ, nhất là những tập quán do công sản gây ra.. Có những tập quán tốt phải duy trì. Và có những phong tục cần dung hòa giữa Đông và Tây.


*

Saturday, October 24, 2009

TRÍ TUỆ CON NGƯỜI

TRÍ TUỆ CON NGƯỜI

===


Quyển Luân Lý Giáo Khoa Thư là một quyển sách rất giá trị, do cụ Trần Trọng Kim và các nhà nho thuở ấy như Bùi Kỷ,Trần Lê Nhân soạn thảo để dạy luân lý cho các trẻ tiểu học và các lớp nhỏ hơn. Quyển này cũng như quyển Cổ Học Tinh Hoa, Thơ Ngụ Ngôn của La Fontaine, truyện ngụ ngôn của Aesope là những bài dạy triết lý, tâm lý, là túi khôn của loài người, và là những bài học xử thế..Luân Lý Giáo Khoa Thư ăn sâu trong lòng thế hệ học sinh 1930 - 1945. Thuở nhỏ tôi cũng thích Luân Lý Giáo Khoa Thư mà trong đó có bài nói về trí khôn của loài người là tôi thích nhất.


Tôi quên mất tên truyện. Truyện kể rằng một nông dân ra đồng cày ruộng. Anh ta đặt cái ách lên cổ con bò rồi cầm roi đánh vào lưng bò để thúc nó làm việc. Con bò đi chậm, con bò đi không thẳng hàng đều bị đánh một vài roi. Thậm chí con bò làm việc tốt, anh nông dân vẫn luôn miệng quát thét “tắc”, “rì” , “hò” và quơ roi vun vút trong không khí để hăm dọa. Một con cọp ngồi trên bờ, thấy vậy, thương con bò to lớn thế mà bị thằng người nhỏ nhoi cầm roi ánh đập, quát tháo. Nó chờ dịp, đón con bò hỏi chuyện:



Này, Bò! Mày to xác thế mà sao lại bị thằng người đánh đập mày suốt ngày?
Bò buồn rầu trả lời:
-Thưa ông cọp, tôi tuy to xác nhưng không làm gì đuợc loài người vì họ có trí khôn.Con cọp nghe nói lạ lùng, không hiểu trí khôn là cái gì mà ghê gớm thế. Nó có thể giúp con ngưòi chinh phục thiên nhiên, chế ngự loài vật, bắt loài vật phải làm nô lệ cho loài người. Cọp bèn đón đường hỏi người nông dân:
-Nghe nói mày có trí khôn. Đâu đưa tao xem thử một tí!Người đáp: Tôi để trí khôn ở nhà, không mang theo đây.-Mày về lấy cho tao xem ngay.
- Tôi không thể về được, vì tôi phải trông coi con bò cho nó ăn cỏ.
- Mày cứ về đi, để tao trông con bò cho.- Tôi không tin ông. Lỡ ông ăn thịt con bò của tôi thì sao?


Nếu ông bằng lòng, cho tôi trói ông lại thì tôi mới an lòng về nhà lấy trí khôn cho ông xem.
Vì nóng lòng muốn biết trí khôn của loài người như thế nào cho nên cọp đồng ý cho bác nông dân trói lại. Người nông dân bèn lấy dây thừng trói con cọp lại, và tháo bắp cày ra đánh cho cọp một trận, và nói: “ Trí khôn của tao đây”! “Trí khôn của tao đây”!Câu chuyện chỉ kể đến đây thì chấm dứt. Và lúc đó tôi rất thích thú. Và tôi bao nămvẫn thích thú câu chuyện này, và sinh thêm lòng tự hào về con người khôn ngoan, trí tuệ.Nay tuổi đời đã cao, bỗng nhiên tôi nghĩ đến câu chuyện này.




Tôi cứ thắc mắc. Không biết sau trận đòn, con cọp bị giêt hay đuợc thả ra. Và sau trận đòn, nó có hiểu trí khôn là gì không.Câu truyện trên cần phải được xét lại. Con cọp ỏ đây rất nhân hậu, biết thương yêu loài vật. Con cọp ở đây cũng thân thiện với con người, không phải là kẻ thù bất cộng đái thiên như mối tương quan giữa người và cọp ngày nay. Cọp nói chuyện với người, tìm hiểu con người, tìm hiểu sự vật, nó rất thành thật, không ác tâm hại người. Trong khi đó con người gian trá, xảo quyệt. Trí khôn là vật vô hình, không phải là vật hữu hình như cái dao, cái nón, cái cuốc mà bảo là để ở nhà. Đó là lời nói dối. Con người đã dùng mưu mô xảo quyệt để hại cọp. Khi cọp chịu trói thì người trở mặt đánh cọp. Đó là một thái độ tàn bạo, độc ác, thiếu sự thành thật trong giao tế xã hội. Và khi đánh cọp, người nói: “Đây là trí khôn của tao”.




Vậy trí khôn của loài người là cái gì? Trói được người ta, đánh được người ta là khôn sao? Lừa đảo được người ta là khôn sao? Có lẽ đa số con người nghĩ vậy. Họ cho rằng lừa được người tức phải là khôn, và kẻ bị lừa tất nhiên là ngu dại. Nhiều người quan niệm rằng kiếm được tiền bạc, đạt được vinh hoa, phú quý là khôn ngoan, tài gỉỏi. Trong chính trị, ai lắm mưu kế , ai lừa bịp nhiều thì được tôn là giỏi như là Khổng Minh, Tào Tháo. Về quân sự, những ai giết người nhiều, tàn hại sinh linh, phạm tội diệt chủng thì được khen là anh hùng như đại đế Alexandre, Thành Cát Tư Hãn. Người Tây phương dùng súng đạn giêt người, cuớp của, cứơp đất đai, bắt các dân tộc Á Phi làm nô lệ thì được khen là văn minh, tiến bộ và giàu mạnh. . . Có một số khen Hồ Chí Minh là giỏi vì ông ta lắm thủ đoạn tàn ác. Trước đây vài chục năm, đa số kính phục lẫn sợ hãi Lênin, Stalin, và Mao Trạch Đông. Không một nhà tư tưởng, nhà chính trị nào viết được một luận thuyết kết án Marx và đảng cộng sản.



Trí , hay khôn, hay trí khôn là tiếng Việt, chữ Hán là trí. Khôn, trí khôn hay khôn ngoan trái nghĩa với ngu đần, trì độn, dốt nát, dại dột.Thanh Nghị giải nghĩa trí khôn ( intelligence, lesprit) là cái khôn, thông minh. Đào Duy Anh định nghĩa trí là hiểu rõ sự lý- thông minh, và trí tuệ là thông minh, linh hoạt. Tự điển tiếng Anh định nghĩa thông minh là khả năng thấy, học, và hiểu. Còn spirit là phần bất tử trong con người giúp ta cảm giác và suy tưởng. Nói chung, trí khôn hay trí tuệ là khả năng giúp ta cảm xúc, suy nghĩ, hiểu rõ, và hiểu nhanh. Khi đã hiểu rõ sự lý, khi đã nhìn thấy vấn đề thì ta phải hành động, phải giải quyết vấn đề. Tuy nhiên không phải lúc nào tri và hành cũng đi đôi. Có khi ta biết mà không thể làm được, vì ta không có khả năng hoặc thời cơ chưa tới.Như vậy phạm vi của trí khôn rất lớn, bao gồm mọi khả năng tri và hành của con người. Trí khôn hay trí tuệ là khả năng tuyệt vời của con người. Nó giúp con người sáng tạo văn học, âm nhạc, xây dựng kinh tế, kiến tạo quốc gia, nhất là phát minh khoa học. Đó là thành quả tốt đẹp của con người, là khả năng tuyệt diệu của con người. Cũng có nhiều hành động mà con người khó lòng nhất trí, kẻ này bảo thế là khôn, người khác lại chê là dại:



Thế sự đua nhau nói dại khôn,
Biết ai là dại, biết ai khôn.
Khôn nghề cờ bạc là khôn dại,
Dại cái văn chương, ấy dại khôn.
Mưu trí hay mưu kế cũng thuộc khả năng của trí khôn.Nhưng mưu kế thì có nhiều kiểu, mưu kế của thằng ăn trộm, mưu của mấy tên bợm. Tục ngữ có câu: « mưu con đĩ, trí học trò ».Đứng về phương diện đạo đức, ta có thể chia làm hai loại mưu kế: mưu quân tử và mưu tiểu nhân. Mưu quân tử là mưu cao thượng, mưu tiểu nhân là mưu hèn hạ, bỉ ổi. Kẻ lưu manh sống nhờ mưu kế xảo quyệt.Và bọn này luôn luôn sống bằng mưu kế độc ác hoặc hạ tiện. Loại khôn ngoan này không nên đề cao. Loại mưu kế này chỉ đem lại đau khổ cho quốc gia, dân tộc, cho thế giới. Nó là tai họa, là vết nhơ của con người, không phải là một thành quả tốt đẹp đáng ca tụng. Cái khôn ngoan của con người dùng để lừa gạt là hành động vô đạo đức, không có gì đáng tự hào.Loại trí khôn đáng ca tụng, cần phát triển đó là loại trí khôn giúp đời tươi sáng, gíúp loài người hạnh phúc và tiến bộ. Còn những trí khôn dùng trong việc chọi gà, đá dế, chơi cờ đều không ích lợi trong việc cứu nước giúp dân. Và loại trí khôn dùng để lường gạt, giết người, hại người thì cần phải bỏ.



Hình như truyện trên xuất xứ từ nền văn học La Hy, mà sau bọn thực dân sưu tầm và dùng để biện minh cho việc xâm lăng các nước Á Phi và bắt dân da đen làm nô lệ!


***

VUA SỞ MẤT CUNG

***

VUA SỞ MẤT CUNG

===


Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cung. Các quan theo hầu cố xin tìm cho được. Cung Vương nói: Thôi tìm làm gì nữa! Người nước Sở đánh mất cung, lại người nước Sở bắt được cung, đi đâu mà thiệt (Cổ Học Tinh Hoa).



Như thường tình, khi vua bị mất một món đồ, thì vua giận dữ, quát thét quan quân đi tìm kiếm, và trừng trị những kẻ có trách nhiệm giữ gìn đồ đạc của vua. Thường thường con người mất đi một sợi lông cũng làm ra to chuyện, nhất là khi họ có chút quyền lực trong tay.Thế mà vua Sở không giận dữ, lại có thái độ ôn hòa, bình tĩnh.



Con người như vậy rất hiếm có ở trong cõi đời này.Khi nghe truyện trên, chúng ta quả thật kinh phục tấm lòng bác ái của vua nước Sở.



Sách Cổ Học Tinh Hoa có ghi lời bàn như sau:Vua đánh mất cung, không nghe lời các quan bắt tìm cung, thế là có lòng thương dân, không muốn làm phiền đến dân. Vua lại nói một người nước Sở mất cung chịu thiệt, thì có một người nước Sở được cung có lợi, thế là đã có lòng muốn lợi cho dân cả một nước.Tuy nhiên, đức Khổng Tử thì lại có ý chê bai. Khi nghe chuyện trên, Ngài bảo: Đáng tiếc cho cái chí vua nước Sở không làm to hơn được nữa! Hà tất phải nói : “ Người nước Sở? ”
Giá nói: “ người đánh mất cung, lại người nhặt được cung thì chẳng hơn ư?” (Thuyết Uyển).



Khổng Tử chê là hẹp, là vì vua Sở chỉ biết có người nước Sở lấy bờ cõi nước Sở mà làm giới hạn cho cái lòng nhân ái của mình. Cứ như ngài nói, mời thực rõ cái nghĩa bác ái, tức là cái lòng rộng yêu hết cả nhân loại, không phân di chủng hay ngoại quốc gì nữa. Cùng một ý với câu thầy Hạ Tử nhắc lời ngài mà đáp Tư Mã Ngưu rằng: “Người bốn bể đều là anh em cả”. Nói rộng ra: chỉ có lý vô phân biệt, trí vô phân biệt, vật ngã nhất thể thì mới hết sạch chướng ngại mà hoan hỉ vô cùng!




Theo thiển kiến, lời phê bình của đức Khổng là hơi quá đáng. Mỗi người trong đời đều có một vị trí, một vai trò, một địa vị. Cung vương là vua nước Sở cho nên Ngài quan tâm đến nước Sở, và đề cập đến nước Sở là đúng vai, trò, vị trí và giới hạn của Ngài. Còn Khổng tử là ông thầy của thiên hạ, lo việc thiên hạ ( tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ) cho nên Ngài có thể nói đến thiên hạ mà không bị ai chê cười là vu khoát. Trái lại, nếu chúng ta chỉ là thường dân, chỉ là cha của mấy đứa trẻ thì chỉ nên lo chuyện gia đình, đừng đại ngôn, mặc dầu ta có quyền tự do ngôn luận bàn chuyện năm châu bốn bể!




Con người ở đời dù là thường dân hay vua chúa đa số tham lam, muốn tăng gia tài sản, muốn chiếm đoạt của cải của người khác. Tuy nhiên, bảo vệ tài sản của mình là một quyền lợi chính đáng. Luật pháp của nhà nước công minh là phải bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân trong nước.Tư tưởng của vua Sở là mang tính chất triết lý công bằng bác ái của Nho gia , Lão gia và Phật gia.Phật giáo đề cập đến vô phân biệt tâm. Ta nên có cái tâm rộng rãi, yêu hết chúng sinh, không phân biệt ta với người. Ông vua nước Sở phát biểu như vậy là ông không phân biệt vua và dân, coi mọi người trong nước Sở là bình đẳng, không có vua tôi, không có kẻ mất người được. Và chinh ông là bậc thánh , đã nhập Khổng Phật Lão vì ông được không vui, mất không buồn, luôn luôn an nhiên tự tại.




Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy. Ta cày cấy suốt năm, ta dệt vải suốt mùa, khi thâu hoạch, ta mang ra chợ bán nhưng bị mất tiền , có thể ta vô ý làm rơi hay bị quân gian móc túi, ta không thể thản nhiên mà bảo: "Người Sở mất tiền, người nước Sở được tiền, không đi đâu mà thiệt!"Làm sao ta có thể an tâm khi ta không còn tiền bạc để trả tiền nhà, tiền điện nước và lo lương thực, quần áo cho vợ con ta ?Khi quốc gia ta rơi vào tay bọn gian tham, tàn ác, chúng bán đất đai tổ tiên cho ngoại bang, cướp đoạt tài sản của nhân dân, ta lẽ nào ung dung mà bảo:" Người nước Việt mất đất thì cũng có người Việt thêm vàng bạc, không đi đâu mà thiệt!"Lại nữa, khi nước ta bị ngoại bang xâm lược, lẽ nào ta cười mà bảo" Người Việt mất đất thì người nước khác được đất, cũng là người với nhau, có sao đâu!"Nếu lý luận như vậy là ta đã đi theo bọn bán nước hại dân!Người yêu nước, thương dân phải biết tranh đấu cho tổ quốc và nhân dân, không thể để cho nhân dân bị mất tự do dân chủ và bị tước đoạt đời sống.Tuy nhiên, trường hợp kể trên là phạm vi nhỏ, là trường hợp đặc biệt. Cây cung chỉ là vật tầm thường cho nên vua Sở có thể bình tâm mà nói như thế. Nếu như nhà vua mất cây Thái A kiếm, hay viên ngọc bich Biện Hòa, hay vợ con bị người khác chiếm đoạt, giang san của Ngài bị người nước Sở chiếm mất và bản thân ngài phải lưu vong hay bi giam cầm, chắc ngài đã không bình thản mà nói về lẽ được mất như vậy!

***

PHẬT GIÁO

HUỆ NĂNG VÀ PHÁP BẢO ĐÀN KINH

==NGUYỄN THIÊN THỤ



Các kinh điển Phật giáo thì nhiều vô số. Khoảng thế kỷ thứ nhất, Đại Thừa Phật giáo(Mahayana) nổi lên thì cũng là lúc một số đại sư như Long Thọ , Mã Minh, Vô Trước, Thế Thân xuất hiện và kinh điển ra đời. như các bộ kinh Kim Cương, Diệu Pháp Liên Hoa, Trung Luận (hay Trung Quán Luận), ĐạI Thừa KhởI Tín Luận. Các bộ kinh này không nói rõ tác giả là ai. Pháp Bảo Đàn Kinh là một tác phẩm đầu tiên công khai cho biết tác giả.



Pháp bảo đàn kinh (zh. 法寶壇經) là một bộ ngữ lục, 1 quyển, do Lục tổ Huệ Năng thuyết giảng , nên còn gọi là Lục tổ đàn kinh (六祖壇經). Lúc Lục tổ Huệ Năng ở chùa Bảo Lâm, Tào Khê có Thứ sử Thiều Châu là Vi Cừ thỉnh Tổ vào chùa Đại Phạm để diễn giảng pháp Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật. Bài giảng của Huệ Năng được đệ tử là Pháp Hải ghi lại thành sách, về sau gọi là Đàn kinh.


Trải qua nhiều lần sửa chữa thêm thắt, xuất hiện hơn 10 bản khác nhau, nhưng đại khái có thể phân làm 4 bản quan trọng hơn cả:(1). Bản Đôn Hoàng (敦煌本), gọi đủ là Nam tông đốn giáo tối thượng đại thừa ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật kinh Lục tổ Huệ Năng Đại sư ư Thiều Châu Đại Phạm tự thí pháp đàn kinh (南宗頓教最上大乘摩呵般若波羅蜜經六祖惠能大師于韶州大梵寺施法壇經). Bản này gồm có 57 tiết, chẳng chia phẩm mục, chữ nghĩa chất phác, được xem là bản có sớm nhất.(2). Bản của Huệ Hân (惠昕), tên Lục tổ đàn kinh (六祖壇經), chia làm 2 quyển thượng và hạ, gồm 11 môn, khoảng hơn 14.000 chữ, ít hơn bản Đôn Hoàng 1.000 chữ. Bài tựa của Huệ Hân viết: Bản xưa văn rườm rà được đệ tử xem qua, trước vui sau chán. Có thể thấy rằng bản này đã được lược bớt chút ít.(3). Bản của Khế Tung, gọi đủ là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh Tào Khê nguyên bản (六祖大師法寶壇經曹溪原本), gọi tắt là Tào Khê nguyên bản, gồm 1 quyển, 10 phẩm, hơn 20.000 chữ, do sư Khế Tung biên sửa lại vào khoảng niên hiệu Chí Hoà (1054-1056) đời nhà Tống.(4).Bản của Tông Bảo, gọi đủ là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh (六祖大師法寶壇), 1 quyển, 10 phẩm, hơn 20.000 chữ, do sư Tông Bảo (宗寶) biên tập lại vào niên hiệu Chí Nguyên thứ 28 (1291) đời nhà Nguyên, đây là bản thường thấy lưu hành, được xếp vào Đại Chính tạng tập 48 trang 845.


Như vậy, Pháp Bảo Đàn Kinh do lục tổ truyền giảng, sau do các đệ tử ghi chép lại, và sửa chữa nhiều lần. Nội dung của Pháp Bảo Đàn Kinh bản Đôn Hoàng đại khái chia làm 3 phần:(1).Việc Ngũ tổ Hoằng Nhẫn trao truyền y pháp cho Huệ Năng.(2). Những lờI giảng thuyết của Huệ Năng và các lời vấn đáp giữa Huệ Năng và đệ tử.(3).Những lời Huệ Năng dặn dò đệ tử trước khi tịch diệt.



Hòa thượng Thích Mãn Giác đã dịch bản Đôn Hoàng và nhân định như sau:



Nguyên bản Pháp Bảo Đàn kinh mà tôi dịch đây là bản mới tìm được từ động Đôn Hoàng, vùng sa mạc Tân Cương, miền Trung Á. Bản này đã được viết ra vào khoảng năm 830 và trễ nhất là năm 860 (theo giảo nghiệm lối viết chữ thảo ở thời đó, do một chuyên viên danh tiếng, giáo sư Akira Fujieda của Đại học Tokyo). Đây là bản Pháp Bảo Đàn xưa nhất của thế giới hiện nay. Trước đây, ở Việt Nam, tôi được biết ít nhất có ba bản dịch Việt của ba dịch giả (Hòa thượng Thích Minh Trực, ông Đoàn Trung Còn, và ông Tô Quế), nhưng cả ba bản dịch này được dựa theo bản chữ Hán Pháp Bảo Đàn kinh được viết vào thế kỷ thứ XIII (năm 1291), gọi bản Tông Bảo; bản này không khác lắm với bản Đức Dị được in vào năm 1290 tại Nam Hải (bản Đức Dị đã được du nhập vào Triều Tiên vào năm 1316 và tất cả bản Pháp Bảo Đàn kinh bằng tiếng Triều Tiên đều xuất phát từ bản Đức Dị). Bản Pháp Bảo Đàn kinh được thông dụng nhất hiện nay ở Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam chính là bản Tông Bảo được viết vào năm 1291 và được in trong Đại Tạng kinh ở đời Minh. Ngoài những bản vừa kể, ít nhất chúng ta được biết có gần mười bản Pháp Bảo Đàn kinh khác nhau, ngoài bản xưa nhất tìm lại được ở động Đôn Hoàng, viết vào khoảng những năm 830-860 (chính là bản tôi dịch), những bản khác là bản Huệ Hân (năm 967), bản Thiều Hồi (năm 1013), bản Tồn Trung (năm 1116), bản Bắc Tống (năm 1153). Ngoài ra có hai bản đáng lưu ý và được coi đầy đủ nhất là hai bản ở Nhật Bản, bản Đại Thừa Tự (Daijòji) và bản Hưng Thánh Tự (Kòshòji); bản Đại Thừa Tự thì dựa vào bản Tồn Trung, còn bản Hưng Thánh Tự thì dựa vào bản Bắc Tống và bản Thiều Hồi. Tất cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh khác nhau vừa kể trên đều xuất phát từ bản duy nhất còn tìm lại được: chính là bản Đôn Hoàng (830-860) mà tôi dịch ở đây. Bản Đôn Hoàng là bản ngắn gọn nhất và chỉ gồm có mười hai ngàn chữ, còn những bản khác (bản đời Nguyên và Minh) gồm khoảng hai mươi mốt ngàn chữ. Bản chữ Hán tôi dịch ở đây được dựa theo bản chữ Hán đã được san định kỹ lưỡng do công phu uyên bác của giáo sư Philip B.Yampolsky của Đại học Columbia (The Platform Sutra of the Six Patriarch, the Text of the Tun-Huang Manuscript with Translation, Introduction, and Notes by Philip B.Yampolsky, Columbia University Press, New York, 1967). ( NXB. Tôn Giáo Hà Nội (2003).



I. HUỆ NĂNG:



Huệ Năng (zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō), 638-713, là đệ tử của ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Sau khi được truyền y bát, sư bắt đầu giáo hoá ở chùa Pháp Tính, về sau về Bảo Lâm tự ở Tào Khê và thành lập Nam tông. Trong tác phẩm này, lục tổ đã giới thiệu tiểu sử của Ngài:. Cha hiền của Huệ Năng vốn là một quan viên ở Phạm Dương, sau đó người bị giáng chức và phạt làm thường dân ở Tân Châu, Lĩnh Nam. Lúc Huệ Năng còn nhỏ, cha mất sớm, mẹ già và con thơ dọn về Nam Hải.


Hòa thượng Mãn Giác xác quyết – “Huệ Năng là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam””. . .- Lĩnh Nam là đất Việt Nam (ngày xưa Lưỡng Quảng: Quảng Đông và Quảng Tây cũng thuộc Việt Nam). Ngay đến Yampolsky cũng đã chú thích rất rõ: "Lĩnh Nam là những vùng ở Quảng Đông, Quảng Tây, và miền "Bắc Đông Dương Việt Nam" ("Ling-nan indicates the areas of Kwangtung, Kwangsi, and Northern Indochina", op. cit., trang 126). Còn địa danhh "Nam Hải" ghi trong tất cả những bản Pháp Bảo Đàn kinh thì theo Yampolsky đó là Phiên Ngung, tức là thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày xưa .Hoà thuợng căn cứ hai điểm mà kết luận Huệ Năng là người Việt Nam:(1)- Huệ Năng không biết đọc và không biết viết chữ Tàu;(2)- Huệ Năng sinh trưởng tại Lĩnh Nam và hoằng pháp chung quanh vùng Nam Hải, tức là Phiên Ngung (thuộc lãnh thổ Việt Nam thời đó).


1.LĨNH NAM


Lĩnh Nam 嶺南 là một vùng rộng lớn và có nhiều định nghĩa khác nhau.+Theo Yampolsky, Lĩnh Nam gồm Quảng Đông, Quảng Tây và Bắc Việt Nam.+Theo Đào Duy Anh, Lĩnh Nam là phía nam miền Ngũ Lãnh nước Tàu. NgườI ta thường gọI miền Quảng Đông, Quảng Tây là Lãnh Nam (Hán Việt Từ Điển).+Từ Điển Từ Hải chú: Lĩnh Nam là tên đường đặt ra từ đời Đường. Lĩnh Nam là vùng đất ở phía nam Ngũ Lĩnh. Hiện nay ở vùng Lưỡng VIệt (Quảng Đông, Quảng Tây và Việt Nam, thuộc thành phố Quảng Châu, tức là huyện Phiên Ngung. Sau lại phân ra hai đường Lĩnh Nam đông, Lĩnh Nam tây, nay thuộc Vi ệt trung .+Một số người Việt Nam cho rằng Lĩnh Nam là Việt Nam như trong “ Lĩnh Nam Chích Quái” của Trần Thế Pháp, Vũ Quỳnh. Điều này không đúng, và là một sự suy diễn quá rộng rãi. Hòa thượng đã theo ý tưởng này, cho Lĩnh Nam là Việt Nam:- Lục tổ “người đất Lĩnh Nam (tức là Việt Nam).”- “Huệ Năng là người Việt Nam, sinh ở Lĩnh Nam”Theo thiển kiến, dù rằng năm 208 tr.TL, Triệu Đà, lấy quận Nam Hải và nước Âu Lạc lập nên nước Nam Việt cũng không thể bảo rằng người Quảng Đông, Quảng Tây đều là người Việt Nam vì nước Nam Việt chỉ là một phần của Quảng Đông và Quảng Tây mà thôi, mà trong nước Nam Việt còn có một phần là người Tàu. Như vậy không thể kết luận Huệ Năng là người Việt Nam. Hơn nữa, năm 208 trước TL, Phiên Ngung, Quảng Châu thuộc Nam Việt nhưng năm 111 tr.TL thì bị Lộ Bác Đức xâm chiếm, bị sát nhập vào Trung Quốc, cho nên khoảng thế kỷ thứ bảy, tức gần ngàn năm sau, khi lục tổ ra đời, người và đất đai không còn là Nam Việt hay Việt Nam nữa. Việc này giống như trăm năm, hay ngàn năm sau, một sử gia hay thiền sư nào đó viết Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Mãn Giác là người Chiêm Thành, và Trương Vĩnh Ký, Paulus Của, Phan Văn Hùm, Hồ Hữu Tường là người Cambodia !Giả sử Lĩnh Nam là Việt Nam đI nữa, Huệ Năng là ngườI Trung Quốc, vì cha của Ngài ở Phạm Dương, tỉnh Hà Bắc phạm tộI, bị cách chức và bị đày ra biên cương (bản Tuyên Hóa).. . Phạm Dương là chánh quán còn Lĩnh Nam chỉ là trú quán cho nên không thể nói ông là người Lĩnh Nam, Việt Nam. Việc này cũng dễ hiểu. Như tại Sài gòn, có nhiều người Trung Quốc, Ấn Đô và Tây phương sinh sống, ta không thể kết luận họ sống ở Sài gòn tức họ là người Việt Nam.




2. BẮC NAM


Trong Pháp Bảo Đàn Kinh hai từ “Bắc, Nam” được nhắc đến nhiều lần. Hoà thượng Mãn Giác vin vào hai chữ Bắc và Nam để xác định Bắc là Trung Quốc, Nam là Việt Nam.. Chúng ta phải hiểu chữ "Bắc" trong kinh có nghĩa là "Trung Quốc" và "Nam" có nghĩa là Việt Nam; ngày xưa người Trung Hoa coi nước Việt Nam là thuộc địa miền Nam của họ.


Vì suy nghĩ như vậy cho nên khi diễn giảng, hòa thượng đã đem tất cả chữ Nam trong Pháp Bảo Đàn Kinh cho là Việt Nam.


Mãn Giác dịch :Huệ Năng nói: "Con người tuy có Nam Bắc, Phật tánh lại chẳng có Bắc Nam. Tuy thân mọi rợ này không giống với thân Hòa thượng, Phật tánh trong chúng ta có gì là sai biệt?".



Mãn Giác diễn giảng:"Con người tuy có Tàu có Việt, tuy thân mọi rợ này không giống với thân Hòa thượng, nhưng Phật tánh trong Hòa thượng và trong tôi chẳng có gì là sai biệt".



Mãn Giác dịch :Sau khi đắc pháp rồi, nửa đêm Huệ Năng tôi bèn cấp tốc ra đi. Ngũ Tổ đích thân tiễn Huệ năng tới đến mãi tận trạm Cửu Giang. Tôi giác ngộ lập tức. Ngũ Tổ lại dặn dò: "Ôngphải nỗ lực, đem pháp về phương Nam, trong vòng ba năm không được hoằng pháp, nếu không e sẽ có pháp nạn. Sau đó rồi ông hãy hoằng hóa, khéo dẫn dắt kẻ mê mờ. Nếu như ông khai mở được tâm họ thì họ cũng không khác gì ông". Sau khi tạ từ xong, tôi bèn đi về phương Nam.Mãn Giác diễn giảng:Ngũ Tổ âm thầm lén lút đưa tiễn Huệ Năng đến trạm Cửu Giang, và đuổi khéo Huệ Năng trở về rừng rú Việt Nam, không dám giữ lại đất Trung Hoa, [. . .]. Hòa thượng khéo léo kín đáo trao truyền tất cả trách nhiệm tâm linh nặng nề nhất của đạo pháp, khéo léo khuyên Huệ Năng lui trở về Việt Nam và trốn tránh ở Việt Nam, chứ đừng ra mắt xuất hiện ở đất Trung Hoa nữa; Huệ Năng đã nghe lời dạy của Ngũ Tổ và đã mất dạng ở đất Trung Hoa trong vòng mười sáu năm; ngài trở về ẩn náu ở vùng rừng núi Việt Nam và đến mười sáu năm sau mới xuất hiện giữa vùng biên cương hai nước để thuyết pháp.


Đó là một việc diễn dịch sai lầm vì Bắc và Nam có nhiều nghĩa. Trung quôc có Nam Kinh, Bắc Kinh, Việt Nam có Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Mỹ có Nam Mỹ, Bắc Mỹ, Nam không có nghĩa là Việt Nam.



3. NGÔN NGỮ VÀ VĂN TỰ


Hòa thượng còn căn cứ vào việc Huệ Năng không biết viết Hoa văn và nói không giỏi Hoa ngữ mà kết luận Huệ Năng là người Việt Nam. Sự thật thì người Việt Nam và Trung quốc không phải ai cũng học Hoa văn và nói giỏi tiếng Hoa bởi vì dân Quảng Đông có thể không hiểu ngôn ngũ tỉnh khác. Các tài liệu đều nói Huệ Năng không biết đọc, biết viết, nhưng không có tài liệu nào nói ngài chỉ biết tiếng Hoa chút ít như Hòa thượng Mãn Giác đã viết: Huệ Năng biết nói tiếng Tàu, nhưng nói đại khái thôi và không rành lắm : dữ kiện lịch sử đã chứng minh rằng Huệ Năng nói không rành tiếng Tàu (đã được những hậu bản kinh Pháp Bảo Đàn ghi chép) dù Huệ năng có nói tiếng Tàu theo giọng Quảng Đông đi nữa thì không có lý do gì mà Huệ Năng phải cần tự biện hộ (ngài đối đáp với Hoằng Nhẫn) lúc Ngũ Tổ đưa ngài đến trạm Cửu Giang để trở về Việt Nam, như sắp vĩnh biệt Ngũ Tổ. Chẳng hạn đọc lại bản Tông Bảo của Pháp Bảo Đàn kinh. . . .


Về việc nói tiếng Hoa, các bản dịch như nhau.

+Bản Duy Lực: Huệ Năng sanh nơi biên địa nên giọng nói khó nghe.
+Bản Minh Trực: Huệ Năng này sanh tại xứ dã man, giọng nói nặng âm thổ ngữ,
+Bản Thanh Từ: Huệ Năng sanh nơi biên phương, tiếng nói không đúng,
+Bản Trí Quang: Huệ Năng con sanh ra ở chỗ biên địa, đến nỗi tiếng nói cũng không đúng. . .
+ Bản Tuyên Hóa: Huệ Năng nầy sanh nơi biên địa, giọng nói không đúng.
+Bản Mãn Giác: Huệ Năng này sanh tại xứ dã man và giọng nói không đúng,


Như vậy là đa số bản đều hiểu rằng Huệ Năng sinh sống nơi biên địa cho nên giọng nói khó nghe, Huệ Năng sinh trưởng ở Quảng Đông nên ngôn ngữ khác với Kỳ Châu, chứ không phải ông không thạo tiếng Hoa. Chúng ta đều biết mỗi địa phương Trung Hoa có ngôn ngữ khác nhau. Ngay tại Việt Nam, người Bắc Kỳ hay Nam kỳ thì cho rằng giọng Nghệ, Tĩnh, Bình , Quảng Nam, Quảng Ngãi là nói khó nghe ( nói khó nghe chứ không phải là không biết nói tiếng Việt, hay chỉ biết chút đỉnh tiếng Việt thôi!)


Một người lúc nhỏ nghe được kinh Kim Cang, sau lớn lên đi thuyết pháp bằng tiếng Hoa thì trình độ nói tiếng Tàu không phải dở. Hơn nữa, Ngài sinh ở Quảng Đông, thuyết pháp ở Quảng Đông thì chắc chắn không gặp trở ngại về ngôn ngữ.


Tôi nhớ trước đây, có một vị tu sĩ đã cho rằng Pháp Bảo Đàn Kinh có lối văn giản dị, dễ hiểu và đó là Hán văn của người Việt Nam. Vị tu sĩ đó quên mất một điều là Huệ Năng không biết viết, biết đọc. Pháp Bảo Đàn Kinh là do các đệ tử đời sau ghi chép.Lý luận của hòa thượng Mãn Giác đôi khi mâu thuẫn. Phần lớn hòa thượng cho rằng Lĩnh Nam là Việt Nam và lục tổ là người Việt Nam nhưng có đoạn hòa thượng lại nói Huệ Năng “ở vùng gần biên giới Trung Hoa”[.. ] Ngài Huệ Năng thuyết pháp trên ba mươi mấy năm trời chung quanh vùng Quảng Đông và vùng biên giới Trung - Việt [ . ..]Theo Yampolsky, chúng ta chỉ biết chắc có một điều là có một người tên là Huệ Năng, một thiền sư có đôi chút tiếng tăm đương thời và sống đâu đó ở vùng miền Nam Trung Hoa".



Theo thiển kiến, theo các tài liêu, các địa danh mấu chốt về nơi sinh trưởng của Huệ Năng là Lĩnh Nam, Hải Nam, Phiên Ngung, do đó ta có thể kết luận Huệ Năng sinh trưởng ở vùng Quảng Đông, Trung Quốc.



Xưa nay, Pháp Bảo Đàn Kinh được coi như là một tài liệu khá đầy đủ về cuộc đời và tư tưởng Huệ Năng. Nhưng sau này,Tào Khê Ðại sư Biệt truyện (gọi tắt là Biệt truyện) đã tuyệt tích ở Trung Quốc lại được lưu truyền đến Nhật Bản, năm 1920 mới được Trung Quốc sao chép lại. Quyển sách này ghi chép cuộc đời của Lục tổ, và so sánh hai bản, chúng ta nhận thấy có những điểm khác biệt như sau:


(1). Huệ Năng đi tu ở chùa từ nhỏ:


Theo Biệt truyện: Ðại sư Huệ Năng họ Lô, người Tân Châu. Bố mẹ mất sớm, 3 tuổi đã mồ côi, có chí hướng hơn người. Năm đó, Đại sư vân du đến Tào Khê, kết nghĩa anh em với người trong thôn tên Lưu Chí Lược, lúc đó khoảng 30 tuổi. Lưu Chí Lược có người cô, xuất gia ở chùa Sơn Giản, hiệu Vô Tận Tạng, thường tụng kinh Niết Bàn. Ban ngày, Ðại sư cùng Lược làm lụng, tối đến nghe kinh, sáng lại vì Vô Tận Tạng giải thích nghĩa kinh. Ni cô Vô Tận Tạng lấy kinh cùng đọc. Sau Huệ Năng xuất gia ở chùa Bảo Lâm 3 năm.Năm thứ 5 niên hiệu Hàm Hanh, lúc Ðại sư 34 tuổi, sư đến Hoàng Mai, Kỳ Châu, xin học Ngũ tổ. Đàn Kinh thì nói Huệ Năng bán củi nuôi mẹ, đến Hoàng Mai học pháp lúc 24 tuổi.


(2). Đối thoại giữa ngũ tổ và Huệ Năng khác Đàn Kinh.

Tổ hỏi: Con là người Tân Châu, Lãnh Nam, lẽ nào có thể làm Phật? Huệ Năng hỏi lại: Phật tánh người Tân Châu, Lãnh Nam và Phật tánh của Hòa thượng có gì sai biệt? Ngũ tổ không hỏi tiếp, và không có bài kệ Bồ đề bản vô thọ.



Theo Tâm Hiếu, Biệt truyện được một vị Tăng vô danh trước tác vào năm thứ 2 niên hiệu Kiến Trung đời Ðường (781), là sách chép tay lưu truyền ở khu vực Triết Giang. Khoảng 24 năm sau, cao tăng Nhật Bản, hiệu Tối Trừng (761- 822) đến Trung Quốc học pháp vào năm thứ 20 niên hiệu Trinh Nguyên đời Ðường (804), “bán vàng mua giấy” sao chép cả thảy 345 quyển gồm 128 bộ kinh điển Phật giáo. Sau đó, mang toàn bộ những kinh sao chép này về Nhật Bản. Trong đó, có quyển Tào Khê Ðại sư biệt truyện. Nhật Bản rất trọng bộ Biệt truyện này, liệt vào Tục tạng của Nhật. “Truyện” có dòng chữ “viết xong vào ngày 9 tháng 3 năm 19 niên hiệu Trinh Nguyên, Thiên Thai tông-Tối Trừng”, đóng mộc chùa Tỷ Duệ. Năm 1920, khoảng 1.200 năm sau, từ Nhật Bản, kinh này được sao chép về lại Trung Quốc. Lúc này, Hồ Thích từng đi đến Nhật Bản, Anh, Pháp sưu tập một số lượng lớn sử liệu trước đời Tống, có liên quan đến Thiền tông vào đời Đường của Trung Quốc, Biệt truyện có phải Hồ Thích lúc đó sao chép lại không, cần phải nghiên cứu nữa .Theo Tâm Hiếu, Biệt truyện là tập truyện ghi lại gia thế, cuộc đời và hoạt động truyền pháp của Lục tổ, là tư liệu hình thành sớm nhất trong lịch sử Thiền tông Trung Quốc. Ra đời sau khi Lục tổ viên tịch 68 năm, so với Ðàn kinh của Ðôn Hoàng viết sớm hơn 120 năm, là tài liệu vô cùng quý giá. Hồ Thích đối với Biệt truyện, có viết, đọc và khảo chứng qua. Ông so sánh 3 quyển: Biệt truyện, Ðôn Hoàng bổn đàn kinh và Minh tạng bổn đàn kinh, phát hiện có 5 chỗ mà Ðàn kinh trưng dụng sao chép từ trong Biệt truyện. Sau khi khảo chứng, Hồ Thích có viết bài Khảo chứng đàn kinh. Ông nói: Có thể chứng minh quan hệ giữa Tào Khê Ðại sư biệt truyện và bản Minh tạng bổn đàn kinh, tôi đã từng khảo đính qua các bản Ðàn kinh, liệt kê ra một bản, ghi rõ diễn biến của Ðàn kinh. Trong quyển Hướng dẫn đọc Ðàn kinh, trang số 200, Hồ Thích có liệt kê rất nhiều sự tích, thuyết minh Ðàn kinh được rút từ tài liệu Biệt truyện, bản thân của Ðàn kinh chính là khẳng định tính chân thật đối với Biệt truyện.Sau khi Hồ Thích khẳng định Biệt truyện, không rõ vì nguyên nhân nào ông lại phủ nhận gọi nó là bộ “Ngụy thư”.



Theo Mãn Giác, sau khi khảo xét rất kỹ lương tất cả tài liệu liên quan đến Huệ Năng trong bộ Toàn Đường văn, Yampolsky phải đi đến kết luận rằng tất cả đều là ngụy tạo (op. cit., trang 59).[. .] Theo Yampolsky, chỉ có hai tài liệu đáng tin cậy: thứ nhất là Lăng Già sư tử ký (khai quật ở Đôn Hoàng), và tài liệu này chỉ nhắc đến tên Huệ Năng như là một trong mười học trò của Hoằng Nhẫn, chỉ thế thôi và không có ghi chép sự kiện gì khác; tài liệu thứ hai là bia ký của thi hào Vương Duy vào khoảng năm 740. Còn tất cả những tài liệu khác đều do những thời đại sau ngụy tạo. . .(Mãn Giác).Theo thiển kiến, Pháp Bảo Đàn Kinh do đời sau ghi chép, nhằm tuyên truyền cho nên có nhiều điều không thật, hoặc truyền thuyết, mơ hồ, và “những điểm chép sai quá lộ liễu” như việc tạc tượng Huệ Năng “ Bản Tông Bảo có điều vô lý là ghi rằng Phương Biên, người tạc tượng, đã gặp Bồ Đề Đạt Ma, đến trước Huệ Năng năm đời Tổ ( Mãn Giác ).


Chúng ta cũng còn phải chờ các tài liệu mới để có đủ kết luận.


II. TƯ TƯỞNG TRONG PHÁP BẢO ĐÀN KINH


Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, chúng ta thấy hai phần rõ rệt. Phần nói về tư tưởng Huệ Năng, và một phần nói về cuộc đời Huệ Năng. Phần tư tưởng có lẽ là của Huệ Năng. Trong phần này, chúng ta nhận thấy có hai phần. Một phần là tư tưởng chung của Phật giáo Bắc phương, và một phần là tư tưởng riêng của Huệ Năng.


1. ĐẠI THỪA(1).


Không tính:Bài giảng đầu tiên của Huệ Năng lấy ý từ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa:

Chư vị Thiện tri thức! Bồ đề tự tánh bổn lai thanh tịnh giác ngộ, vốn là bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Cần nên dùng cái chân tâm giản đơn thẳng thắn này mà thành Phật, không nên dùng tâm vọng tưởng.


Bài kệ của Huệ Năng là bày tỏ không thuyết của Phật nhất là của phái Thiền Tông:

Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật
,Chỗ nào vướng trần ai?

(2). Bất nhị pháp môn:

–Pháp sư! Ngài diễn giảng kinh Niết Bàn, nếu Ngài có thể thấy Phật tánh, minh tâm kiến tánh, đó chính là pháp bất nhị pháp môn trong Phật pháp. [. . .]. "Thiện căn có hai loại: một là thường, hai là vô thường. Nhưng Phật tánh không có sự phân biệt giữa thường và vô thường, cho nên không đoạn Phật tánh. Gọi đó là bất nhị pháp môn. Lại nữa, ngũ giới, thập thiện là thiện; ngũ nghịch, thập ác là ác, nhưng Phật tánh không có sự phân biệt của thiện ác, đó gọi là bất nhị pháp môn [. . .] "Phiền não tức là Bồ-đề, chẳng phải hai và chẳng phải khác nhau. Lấy trí huệ mà chiếu phá phiền não, là chỗ thấy hiểu của hàng Nhị thừa, là cái căn cơ của xe nai, xe dê. Bực đại trí thượng căn chẳng phải làm như vậy.[. .] .Minh và vô minh, kẻ phàm phu xem đó là hai loại khác nhau, nhưng người có trí huệ thì hiểu rõ tánh của nó không có hai thứ, là tánh vô nhị, đó là Thực tánh." (Bản Tuyên Hóa).(3).


Tôn trọng cư sĩ và tu tại gia.

Rất nhiều kinhđiển đã đề cao vai trò cư sĩ như Duy Ma Cật Kinh. Ở đây, Huệ Năng cũng vậy:Nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không nhất định phải ở Chùa. Người tại gia có thể tu hành, giống như người Ðông phương có tâm lành. Xuất gia mà không tu hành cũng giống như người Tây phương tâm ác (bản Tuyên Hóa).


2. HUỆ NĂNG


Huệ Năng có kiến giải riêng, rất mạnh mẽ và độc đáo, khác với Lâm Tế.

(1). Chống cực đoan của không thuyết:

Diệu tánh của chúng ta vốn là không, không có một pháp khả đắc, cho nên nói Tự tánh như hư không, chân vọng đều ở trong, ngộ triệt bổn lai thể, một cái thông tất cả đều thông, tự tánh Chân không giống như đạo lý trên đây tôi vừa nói.Quý vị Thiện tri thức! Không nên nghe tôi nói không, liền chấp vào không. Ðiều quan trọng nhất là không được chấp vào không. Nếu các ông nói tất cả là không, tâm không thân cũng không, thế giới cũng không, như thế ngồi thiền sẽ lạc vào vô ký không. Vô ký không thì giống như người đã chết rồi, cái gì cũng không biết, tuy là người sống nhưng vừa ngồi thiền là giống như chết. Chúng ta tu đạo cần phải biết trong cái Chân không có cái Diệu hữu, không phải cái gì cũng không biết. Cái gì cần biết, cái gì không cần biết, phải sáng suốt nhận định rõ ràng; giống như đạo lý "tâm thanh nước hiện bóng trăng, định tâm định ý bóng mây không còn. (bản Tuyên Hóa).


(2). Chống cực đoan bất lập văn tự:

Nếu các ông không chấp có, mà lại chấp vào không, thì sẽ tăng trưởng vô minh. Người chấp trước vào không sẽ nói như thế này: "Cái gì cũng không cần, không cần học kinh điển, vì tất cả đều là không, không cần dùng văn tự! Văn tự là chấp tướng." Ðã nói không dùng văn tự vậy thì y cũng không nên nói, vì ngữ ngôn là tướng của văn tự, văn tự chính là ngữ ngôn.


(3). Kiến giải minh bạch về tọa thiền:

Tâm bình hà lao trì giới,Hạnh trực hà dụng tu thiền![. . .].

Thiền, không nhất định giới hạn nơi im lặng tịnh tọa, mà là đi đứng nằm ngồi đều là thiền, cho nên nói "đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, nói im động tĩnh thể an nhiên." Người biết dụng công, không chỉ giới hạn nơi tịnh tọa mới dụng công, mà bất cứ lúc nào, ở đâu cũng đều có thể dụng công [. . ]. "Chư Thiện tri thức! Sao gọi là tọa thiền? Trong pháp môn nầy không có chỗ nào ngăn, không có sự gì cản. Ngoài đối với tất cả các điều lành dữ các cảnh giới, mà tâm chẳng khởi vọng niệm, gọi là tọa. Trong thấy tánh mình chẳng động, gọi là thiền [. . .]. Ðại sư nói: "Ðạo do tâm mà ngộ, đâu phải do ngồi. Kinh nói: ‘Nếu nói Như Lai hoặc nằm hoặc ngồi là hành tà đạo. Bởi cớ sao? Không từ chỗ nào mà lại, cũng không từ chỗ nào mà đi.’ Không sanh không diệt là tánh Như Lai thanh tịnh thiền. Các pháp đều vắng lặng trống không là tánh Như Lai thanh tịnh tọa. Thế là cứu cánh không chứng đắc, hà huống là ngồi!"" (Bản Tuyên Hóa).

(4). Chủ trương đốn ngộ:

Ðốn pháp là gì? Ðốn chính là bảo quý vị phải đoạn. Ðoạn cái gì? Ðoạn lòng dâm dục.[. . .]. Ðốn là lập tức hiểu rõ sáng suốt, hiểu rõ một cái lý. Lý tức đốn ngộ, sự cần tiệm tu, tu hành cần ngày này qua ngày kia tu hành, ngộ chỉ là ngộ cái lý, cho đến chứng quả vẫn là tự mình tu hành[. ..]. Tổ Sư mới gọi đại chúng mà bảo rằng: "Pháp vốn là một tông, còn người thì có Nam và Bắc. Pháp tức là một thứ, còn chỗ thấy thì có mau chậm. Pháp không có mau chậm. Bởi con người có tánh sáng tối, cho nên mới gọi là mau chậm.


III. GHI CHÉP CỦA CÁC ĐỆ TỬ

Phần nói về tiểu sử chính là ngọn bút của các đệ tử đời sau.

1.Về việc Huệ Năng được truyền y bát:

(1). Truyền y bát.Dường như mục đích chính là tuyên thuyết Huệ Năng được truyền thụ y bát để đánh tan việc dư luận nghi ngờ vai trò lãnh đạo của Huệ Năng. Tài liệu của hoà thượng Mãn Giác cho thấy ban đầu Huệ Năng không có tiếng tăm gì cả, sau nhờ Thần Hội gióng trống khua chiêng mà được người đời để ý:Danh tiếng, uy thế của Thần Tú và đệ tử Phổ Tịch lẫy lừng vang dội và được vua Trung Hoa coi như Quốc sư, đang khi ấy ngài Huệ Năng chỉ là một ông đạo sĩ "man rợ" tối tăm ở biên cương, chỉ có được một số môn đệ người Trung Hoa trung thành sùng bái, trong số đó có một người tên là Thần Hội; chính Thần Hội sau này đã khôi phục lại ngôi vị Tổ sư thứ sáu cho Huệ Năng và rao truyền đạo lý Đốn ngộ Bát nhã của Huệ Năng và đẩy lùi tất cả những trường phái Thiền tông khác đi vào bóng tối của lịch sử. Tất cả tư tưởng đạo lý của Thần Hội đều được rút ra trực tiếp từ Huệ Năng.Huệ Năng lúc đầu không nổi bật là do những lý do sau:-Không ai biết hoặc ít biết về việc Huệ Năng được truyền y bát.-Phải rất lâu, sau khi rời Hoàng Mai, Huệ Năng mới xuất đầu lộ diện.Phải chăng muốn biện minh việc Huệ Năng được “bí truyền” mà các tác giả phải bày ra những chuyện tranh giành, ám toán như sau:–Ta nghĩ trí huệ và kiến giải của ngươi có chỗ dùng, nhưng lo có người ganh ghét mà khởi tâm hại ngươi, cho nên cố ý không nói chuyện nhiều với ngươi. Ngươi có hiểu nỗi khổ tâm của ta không?-"Y bát là đầu mối của sự tranh giành, chỉ truyền đến ông là ngừng, đời sau không nên tiếp tục truyền nữa. Nếu truyền y bát này, sợ rằng sinh mệnh ông giống như sợi chỉ mành treo chuông, bất cứ lúc nào cũng có sự nguy hiểm. Ông lập tức rời khỏi chỗ này, vì tôi e có người hại ông."Đoạn sau đây thì giống như việc tổ sư cầm gậy đập vào đầu Tôn Hành giả:Ngũ Tổ dùng gậy gõ vào cối ba tiếng, rồi bỏ đi. [. . ]. Huệ Năng hiểu rõ ý của Ngũ Tổ muốn Ngài canh ba đêm nay vào phòng Ngũ Tổ. Gõ vào cối ba tiếng là cách nói không lời.Nếu nơi tu hành mà tranh giành, chém giết như vậy thì trách sao đảng cướp?


(2). Nói xấu Thần Tú và ca tụng Huệ Năng.

Dù là Huệ Năng cao hơn Thần Tú, Thần Tú cũng đứng sau Huệ Năng, hai ông đều là thiền sư, học một thầy. Cách đề cao mình và mạt sát người là một điều không nên có trong cửa thiền. Việc tự đề cao không ngờ chi làm hoen ố danh dự hai bên:Giống như đồ đảng của Thần Tú, tâng bốc đưa Thầy mình lên cao, cho rằng Thầy mình sẽ làm Lục Tổ, cho nên dự bị những người đồ đảng tâm phúc ở khắp nơi dò tin tức. Nếu Ngũ Tổ Ðại sư truyền y bát cho ai liền sát hại người ấy.


Tôn giáo nào cũng có những kẻ xấu. Bên Phật có Devadatta, bên Thiên Chúa giáo có Judas . Tác phẩm “ Những Con Chim Ẩn Mình Chờ Chết “ của Colleen Mc Cullough đã nói lên tham vọng của một số nhà tu, mà Ái tình, Tiền tài và Quyền lực vẫn là những mục tiêu của họ. Bởi vậy mà ta không ngạc nhiên về việc tôn giáo đã gây ra chiến tranh thế giới mà người ta gọi là cuộc thánh chiến. Cuộc thánh chiến đã qua nhiều thế kỷ, nhưng ngày nay, một số Hồi giáo vẫn phá hoại các di tích Phật giáo.


Mục đích chính của các đệ tử của Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn Kinh là truyền bá tư tưởng của thầy mình, đồng thời ca tụng thầy mình. Đó là tâm lý chung của người đời, ai cũng quý thầy mình, phe mình và người mình yêu còn người khác là không đáng quan tâm.

Hoà thượng Mãn Giác cũng đề cao Huệ Năng mà cho rằng Huệ Năng là tổ sư Thiền chứ không phải Đạt Ma:“Người đã thực sự sáng tạo ra Thiền tông lại chính là Huệ Năng chứ không phải Bồ Đề Đạt Ma; ngài Bồ Đề Đạt Ma chỉ là được truyền thống Thiền chọn lựa đứng tên danh dự mà thôi để linh động hóa tinh thần tạ ơn đối với Ấn Độ, quê hương tâm linh của Phật giáo nhân loại”.


Những điều viết ra trong Đàn Kinh không biết có đúng sự thực hay không, nhưng dù đúng hay sai, vẫn là phản tác dụng, tôn kính hóa ra bất kính, đề cao hóa ra miệt thị..Tất nhiên là đệ tử của Huệ Năng tôn kính Pháp Nhẫn. Nhưng trong khi đề cao Huệ Năng kém văn hóa và quê mùa mà có trí tuệ cao, họ viết về lời ngũ tổ trong buổi sơ ngộ Huệ Năng mà những lời lẽ này không thể có ở một nhà chân tu:

Ngươi là người Lĩnh Nam lại là người man di mọi rợ thì làm sao có thể làm Phật được?Ngũ tổ đã gọi Huệ Năng là “ các lão”.

Hoà thượng Tuyên Hóa giải thích:"Các" là một loại thú nhỏ có mũi rất ngắn, gần giống như loại chó. "Lão" là người man di chưa khai hóa. Các lão là chỉ loại người không rõ đạo lý, chưa được khai hóa, là người thuộc về loài súc sanh.

Chính hoà thượng Mãn Giác rất tôn kính và tự hào về Huệ Năng nhưng không hiểu sao trong lời diễn giảng lại vô tình khinh thị Huệ Năng, coi Huệ Năng là một kẻ “ khôn vặt” , có hành động “ lố bịch” mặc dầu những chữ này được đóng trong ngoặc kép:


Huệ Năng đã hiểu mật ý của Ngũ Tổ và muốn nói với Ngũ Tổ rằng: "Thầy muốn đưa con về Việt Nam là để cứu thoát con để khỏi bị lâm nạn ở đất Tàu, vì con nói tiếng Tàu không rành, là người mọi rợ, lại lên ngôi vị Tổ sư [. . .]. Chỉ có thể hiểu như vậy mới không thấy cái "lố bịch" của Huệ Năng khi tỏ vẻ "khôn vặt" chơi chữ với chữ "độ" trong một giây phút linh thiêng nhất, lúc giã biệt thầy.Tóm lại, Pháp Bảo Đàn Kinh là một viên ngọc quý nhưng có một vài tỳ vết.

===

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Pháp Bảo Đàn Kinh . Thích Duy Lực. Thư viện Hoa Sen
Pháp Bảo Đàn Kinh. Mãn Giác. Thư viện Hoa Sen
Ngài Huệ Năng . Trí Quang. Thư viện Hoa Sen
Pháp Bảo Đàn Kinh .Thanh Từ. Thư viện Hoa Sen
http://www.thuvienhoasen.org/khphapbaodan-07.htm
Pháp Bảo Đàn Kinh .Hoà thượng Tuyên Hóa
http://www.tangthuphathoc.net/gianggiai/kpbdlg-01.htm
Tâm Hiếu. Khảo chứng mới về cuộc đời lục tổ Huệ Nă ng.(Lược theo báo Cam Lồ, Học viện Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc)http://www.giacngo.vn/chude/vulan2008/2008/08/05/73C413/
Tuệ Nguyễn. Lục tổ Huệ Năng là người Hoa hay người Việt? http://giaodiemonline.com/2008/10/lucto2.htm

===