Showing posts with label SƠN TRUNG VĂN TẬP * PHIẾM LUẬN. Show all posts
Showing posts with label SƠN TRUNG VĂN TẬP * PHIẾM LUẬN. Show all posts

Sunday, December 27, 2009

SƠN TRUNG * PHIẾM LUẬN

BÀN VỀ SẤM KÝ

Trong lịch sử Việt Nam, giữa những trang tranh đấu xương máu hiện thực, có nhiều trang ghi lại những chuyện tâm linh huyền bí.Lẽ tất nhiên, bá nhân bá tính, có kẻ tin người không vì xã hội ta là xã hội tự do. Tuy xã hội quân chủ là tư do mà là một xã hội đạo đức, chứ không phải mang hai mặt như truyền thống Marx Lenin :một mặt hung bạo, gian manh, một mặt xưng thần xưng thánh !

Các nhà viết sử, một mặt mang tính khách quan của sử học, ghi chép sự thực, vua và triều đình không được dòm ngó việc của sử quan. Một mặt các sử quan tin vào Trời Phật, tức là thuộc phái Duy Tâm như phe Marx nhận định.Vì vậy trong sử ta có nhiều đoạn viết về sấm.Sấm, hay sấm ngôn là những lời, những bài thơ ngắn hoặc dài, thường là ngắn, có nội dung tiên đoán tương lai của một ông vua vua hay một triều đại, hay một biến cố quan trọng sắp xảy đến cho một quốc gia, dân tộc. Tôi xin đưa một vài dẫn chứng về sử:


Theo sử sách, nhà tiên tri đầu tiên của Việt Nam là sư Định Không (730-808), thuộc đời thứ 8 dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Thuở nhỏ, Ngài thông về lý số, được mọi người tôn trọng, gọi ngài là trưởng lão. Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (765-804) nhà Đường, sư lập chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Lúc đào đất đắp nền, sư được một quả hương và 10 cái khánh. Sư đem xuống ao rửa, một cái khánh lăn xuống tận đáy ao. Sư làm bài tụng:

Địa trình pháp khí
Nhất phẩm tinh đồng.
Trị Phật pháp chi hưng long
Lập hương danh Cổ Pháp.

( Đất dâng pháp khí,
Là một chất đồng ròng.
Điềm Phật pháp hưng long
Đặt tên làng Cổ Pháp)
Sư lại nói :
Pháp khí xuất hiện, thập khẩu đồng chung,
Lý hưng vương, tam phẩm thành công.

Bài sấm này tiên đoán họ Lý làng Cổ Pháp sẽ lên làm vua. Tam phẩm có hai nghĩa : Nghĩa thứ nhất, ở triều Lê, Lý Công Uẩn làm Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ có thể vào bậc tam phẩm. Nghĩa thứ hai là chữ Uẩn vì chữ Uẩn ? gồm hai chữ giống chữ tam và chữ phẩm. Quả nhiên, hai trăm năm sau, Lý Công Uẩn lên làm vua tức Lý Thái tổ (1010- 1225). Sư lại nói thêm:


Thập khẩu thủy thổ khứ
Cổ pháp danh hương hiệu.
Kê cư loan nguyệt hậu,
Chánh thị hưng tam bảo.
( Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ
Tên làng là Cổ Pháp.
Gà ở sau loan nguyệt,
Tam bảo được hưng vượng)

Quả nhiên năm kỷ dậu (1009), Lê Long Đỉnh chết, Lý Công Uẩn lên ngôi, Phật giáo toàn thịnh. Sau sư trụ trì chùa Thiền Chúng ở làng D?ch Bảng, sau đổi là Đình Bảng, phủ Thiên Đức ( Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Trước khi viên tịch, sư dặn đồ đệ là Thông Thiện như sau:
Ta muốn mở rộng làng nhà, nhưng e sau này sẽ có tai họa, vì người lạ sẽ đến phá hoại cảnh thổ ta. Sau khi ta viên tịch, ngươi phải giữ gìn đạo pháp của ta. Khi gặp người họ Đinh, thì truyền cho y, như vậy chí nguyện của ta mới thỏa.

Nói xong thì tịch, thọ 79 tuổi. Thông Thiện dựng tháp thờ sư ở chùa Lục Tổ, ghi lời sư dặn vào đá. Khoảng năm ất dậu (865), Cao Biền sang Việt Nam làm Tiết Độ sứ, Cao Biền làm phép trấn yểm nhiều nơi, trong đó có làng Cổ Pháp, đúng như sư Định Không tiên đoán.

Sư La Quý An là đệ tử đời thứ mười dòng Tỳ Ni Đa Lưu Chi, sư họ Đinh, thuở nhỏ tham yết khắp các thầy. Sau gặp sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng, nghe sư nói một lời liền giác ngộ, bèn theo Thông Thiện. Khi Thông Thiện sắp viên tịch, gọi sư lại mà bảo:

Xưa thầy ta là Định Không dặn rằng : Hãy gìn giữ pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ giao truyền. Vậy ngươi hãy nhận lấy trách nhiệm này, ta từ giã đây'

Sư Thông Thiện mất, La Quý An đi tìm đất dựng chùa, truyền giảng chánh pháp, lời sư nói đều là sấm ngữ. Sư đúc tượng lục tổ bằng vàng nhưng sợ trộm cướp bèn chôn xuống đất. Sư có di chúc:

Đại sơn long đầu khởi
Cù vĩ ẩn chu minh
Thập bát tử định thành
Miên thụ hiện long hình
Thố kê thử nguyệt nội
Định kiến nhật xuất thanh.

Đại sơn : Đinh Bộ Lĩnh ( Lĩnh là núi cao), Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua năm mậu thìn (968). Chu minh : ánh sáng đỏ, tức ánh sáng mặt trời. Chỉ Lê Hoàn ( trong chữ Hoàn có chữ Nhật), nhưng đây là mặt trời bị mây che ( ẩn ) vì trên dưới đều có chữ nhất ngăn chận, và cây cối che lấp ( bên cạnh có chữ mộc) . Lê Hoàn lên ngôi cuối năm canh thìn 980 ( cù vĩ). Thập bát tử họp lại thành chữ Lý ?.Nhà Lý lên thay Tiền Lê. Miên thụ cây bông gạo. Chữ Miên ? và chữ Uản ? giống nhau, đều là cây bông, cây gai dùng dệt vải may quần áo. Uẩn ? là cây gai và Uản ? là súc tích thông nghĩa. Thố, kê, thử nguyệt : trong khoảng tháng mão, tháng dậu, tháng tí, Lý Công Uẩn lên ngôi. Quả vậy, ngày quý sửu, tháng mười, năm kỷ dậu (1909), Lý Công Uẩn lên ngôi, mở một kỷ nguyên thái bình thịnh trị.

Năm thứ năm, niên hiệu Thái Bình (974), đời Đinh Tiên Hoàng, trong dân gian truyền tụng bài sấm sau:

Đỗ Thích thí Đinh Đinh,
Lê gia xuất thánh minh.
Cạnh đầu đa hoành nhi ,
Đạo lộ tuyệt nhân hành.
Thập nhị xưng đại vương
Thập ác vô nhất thiện
Kế đô nhị thập thiên.

Dịch
Đỗ Thích thí Đinh, Đinh (Đỗ Thích giết hai người họ Đinh) : tháng mười, năm kỷ mão (979), Đỗ Thích giết Đinh Tiên hoàng và Việt Nam vương Đinh Liễn.
Lê gia xuất thánh minh ( Họ Lê làm vua sáng)
Đinh Toàn lên ngôi mới sáu tuổi, binh quyền lọt vào tay Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Bà Dương Thái hậu tư thông với Lê Hoàn, trao ngôi vua cho Lê Hoàn tức vua Lê Đại Hành. Lê Đại Hành lên ngôi đánh thắng quân Tống xâm lược.
Cạnh đầu đa hoành nhi ( Các trẻ tranh giành nhau). Đại lộ tuyệt nhân hành ( Trên đường cái, không người qua lại). Lê Đại Hành lên ngôi, cho con thứ ba là Lê Long Việt làm thái tử. Lê Đại Hành mất ( 1005), các con tranh giành nhau, đem binh chém giết nhau trong bảy tháng trường, ngoài đường không ai dám qua lại.
Thập nhị xưng đại vương. Thập ác vô nhất thiện
( Thập nhị tự xưng làm vua). Thập nhị là Lê Long Đỉnh giết anh là Lê Long Việt mà lên làm vua ( Trong chữ Đỉnh ? có Nhâm? chiết tự là Thập Nhị? ?). Long Đỉnh là người tàn ác ( Mười điều ác không có một điều lành) .
Thập bát tử đăng tiên : (Thập bát tử họp lại thành chữ Lý ) họ Lý sẽ lên làm vua.
Kế đô nhị thập thiên : Đô nhị thập thiên : bốn chữ này hợp thành Trần giả .
Kế đô nhị thập thiên tức là họ Trần sẽ kế tiếp làm vua.

Trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, ở hương Duyên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét đánh, trong ruột cây có chữ:

Thụ căn diễu diễu ,
Mộc biểu thanh thanh.
Hòa đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A nhập địa
Dị mộc tái sinh
Chấn cung kiến nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Sư Vạn Hạnh giải thích như sau :
Vua thì non yểu, tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất, họ Lý nổi lên. Họ Trần làm vua, rồi đến Lê. Sau đó, họ Mạc nổi lên rồi nhà Lê trung hưng. Rồi họ Trịnh mất. Trải qua năm, sáu năm, thiên hạ thái bình. (Ngô Sĩ Liên. Toàn Thư I, 185-186).

Sấm Trạng Trình phần đầu cũng nhắc lại các việc trên:

7-Việt Nam khởi tổ xây nên
8 - Lạc Long ra trị đương quyền một phương
9 - Thịnh suy bỉ thới lẽ thường
10 - Một thời lại một nhiễu nhương nên lề
11 - Đến đinh Hoàng nối ngôi cửu ngũ
12 - Mở bản đồ rũ áo chấp tay
13 - Nhự đao phút chốc đổi thay
14 - Thập bát tử rày quyền đă nổi lên
15 - Đông a âm vị nhi thuyền
16 - Nam phương kỳ mộc bổng liền lại sinh
17 - Chấn cung hiện nhật quang minh
18 - Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
19 - Đoài cung vẽ rạng trăng thu
20 - Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn.

Trong dân gian từ xưa đến vẫn có sấm. Sấm là do những bậc tiên tri nhưng cũng có thể là do những tay chính trị làm ra. Nhưng ta phải phân biệt vì những tiên tri thường là xuất hiên trước. Sấm ký nhiều khi là những ý kiến bình luận.
Tại Hà Tĩnh, người ta ca tụng về họ Nguyễn Du:
"Bao giờ ngàn Hống hết cây,
S6ng Rum hết nước, họ này hết quan."
Tại Nghệ An từ thời Nguyễn Thiếp (nhà Lê) đã truyền tụng:
Bao giờ Bò Đá (1) thất thanh,
Nghệ An sinh thánh rành rành chẳng sai."

Câu này cũng đúng. Bò Đá là một địa danh, là một cái suối kêu vang, trước đây đã im tiếng. Tại Nghệ An có hai ông vang danh thiên ha. Một là Phan Bội Châu, hai là Nguyễn Tất Thành tức Nguyễn Ái Quốc, là Hồ Chí Minh . Phan Bôi Châu chính là thánh mà Nguyễn Ái Quốc cũng là "thánh". Chữ "thánh " theo cổ nhân có hai nghĩa, một là người làm vua, hai là thánh hiền!
Như câu sấm nói về Lê Đại Hành: Lê gia xuất thánh minh.Thánh ở đây là vua.
Trong sử sách, vua chúa thì có minh quân, hôn quân, mà ông Hồ cũng như Lenin, Stalin, Mao, Hồ, Pol Pot. . . là ma vưong, quỷ vương.

Trước đây một số người Thiên chúa giáo ghét Bảo Đại vì người ta loan truyền "Bảo Đại" là bãi đạo". Việc này không đúng vì bên cạnh Bảo Đại có bà Nam Phương và các đại thần là giáo dân, và trện cao là thực dân Pháp, làm sao vua Bảo Đại lại "bãi đạo"? Lại nữa, ông được đào tạo tại Pháp, người khôn ngoan, cởi mở, việc gì mà phải "bãi đạo"!
Nhưng tiên tri này cũng đúng vì trong thời vua Bảo Đại còn sống, Việt Minh cai trị, chúng đã giết hại Thiên chúa giáo và các tôn giáo khác.

Nhạc gia tôi thường kể truyện trước 1945, cụ đi xin cơ bút.Trong thơ tiên có câu:
" Nhất nhật đằng vân quy Bắc hải"( một ngày sau sẽ bay về biển băc) . Vì vậy sau di cư vào Nam, cụ tin tưởng có ngày cả nhà trở về đất Bắc! Nhưng thực tế hơi khác điều cụ nghĩ. Sau 1980, dần dần cả nhà đi máy bay ( đằng vân) sang định cư tại Bắc Hải tức là Mỹ và Canada! Nhưng biết đâu sau này con cháu sẽ trở về Hà Nội trong ngày vinh quang?

Những truyện về trạng Trình, người ta bàn đã nhiều. Sấm Trạng Trình cũng như sấm Nostradamus thì bí hiểm, nhiều người giải thích khác nhau. Sấm Trạng trình có đoạn:

Cửu cửu kiền côn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
(AB 444, AB 355 thư viện Viễn đông Bác cổ Hà Nội)

Có kẻ bàn :Năm 1954 vào tiết thanh minh đã tàn (Hoặc thế lực Pháp suy tàn? Đến đầu năm dê và đuôi ngựa (1954) tám vạn lính cộng sản (Hồ binh) tiếp thu Hà Nội.

Một đoạn khác:
109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông ?
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.

Trưóc đây tôi nghĩ về đoạn này. Trong chiến tranh, nhất là khi Nam Băc chia cắt, đường sắt Việt Nam cũng bị cắt đôi. Sau 1975, cộng sản tái lập giao thông toàn quốc, Cục Đường Sắt lập ra "Xe lửa Thống Nhất" chạy suốt Nam Bắc. Tôi nghĩ câu sấm Trạng Trình rất đúng;
Trạng Trình đặ ra câu hỏi và trả lời:
Khi nào thì đường sắt Việt Nam nối liền?
Lả khi Hồ Chí Minh (1890- 1969) và Mao (1893- 1976) chết. Chính trong giai đoạn này đã xảy ra cuộc hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Hải quân Trung Quốc. Hải quân Trung Quốc được Phạm Văn Đồng hoan hô nhiệt liệt với công hàm công nhân chủ quyền Trung Quốc ở
biển đông:

Công hàm của TT Phạm Văn Đồng

Công hàm của TT Phạm Văn Đồng by Nguyen Tien Trung.
Ngày 4 tháng 9 năm 1959, Bắc Kinh ra tuyên bố chính thức về hải phận của họ, bao gồm 12 hải lý từ bất kỳ mốc lãnh thổ nào của Trung Quốc, "trong đó tính gồm cả các đảo Đông Sa, Tây Sa, Trung Sa và Nam Sa.... tức là Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam"

Mười ngày sau, Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng gởi công hàm chính thức cho Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

Và rõ ràng là ở thế XVI, Trạng Trình (1491-1585) đã thấy xe lửa Việt Nam ,cuộc hải chiến này và việc cộng sản chiến thắng miền Nam. Cũng có thể ngài nhìn xa hơn nữa.

Nhân đây, tôi xin kể thêm một việc nhỏ. Giáo sư Bửu Cầm trước 1975 kể cho tôi nghe rằng người Mỹ đã tìm đến giáo sư và hỏi câu:
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.

Có phải là chiến tranh ngoài biển không?

Nay những biến cố về biển đông dồn dập, uy hiếp sự tồn vong của nhân dân Việt Nam, lòng tôi không nén được kinh hãi. Câu trên vẫn có thể hiểu một cách khác.

Có ba sự kiện:
+Toàn cầu: Trung Cộng xâm lăng kinh tế khắp thế giới
+Về mặt biển: Cộng sản chiếm Hoàng Sa, Trường Sa và vẽ lại bản đồ thềm lục địa hình lữỡi bò. Trung Cộng nửa đùa nửa thực đề nghị với Mỹ đòi chia đôi Thái Bình Dương. Hơn nữa Trung Cộng đã đem chiến thuyền diễn hành khắp nơi từ Á sang Phi.
+Về mặt bộ, Trung cộng đã trúng thầu nhiều mối làm ăn, nhất là việc làm đường xe lửa Trung Quốc Việt Nam mà địa điểm đầu là Hà Nội:

Công ty quốc doanh Đường Sắt số 6 của Trung quốc vừa trúng thầu xây dựng hệ thống đường sắt nội đô Hà Nội trị giá gói thầu $350.57 triệu, theo tin từ Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN được hãng tin tài chính Dow Jones thuật lại.

Tin này được đưa ra không thấy hệ thống báo chí trong nước loan tải vào lúc đang có nhiều chuyện tố cáo các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu hầu hết các dự án đầu tư xây dựng lớn ở Việt Nam và họ đem lậu hàng ngàn công nhâu đủ loại vào Việt Nam thay vì thuê mướn nhân công địa phương.

“Cổng thông tin điện tử” của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư CSVN phần tiếng Việt cũng không thấy đưa tin này.

Theo nguồn tin Dow Jones thuật lại từ bản tin của Bộ vừa nói cho biết công ty của Trung quốc sẽ lập đồ án và xây dựng hệ thống 13.5 km đường sắt cũng như cung cấp 52 toa xe trong vòng 5 năm.

Đường sắt sẽ xây dựng chạy từ trung tâm ở thủ đô tới quận Hà Đông nằm phía Tây Nam thành phố, với phí tổn chung cho dự án là $552.86 triệu. Hà Đông trước đây là thị xã của tỉnh Hà Tây nhưng nay trở thành một phần của thủ đô khi được sát nhập vào thành Hà Nội mở rộng.
http://www.hoa-viet.com/forum/archive/index.php/t-13301.html
http://vietbf.com/forum/showthread.php?t=142950

Phải chăng chiến tranh ngoài hải phận Việt Nam sẽ xảy ra trong thời gian làm xe lửa Trung Việt (Nam Bắc hà thời thiết lộ thông? ).

Suy nghĩ lại, tôi thấy hai cuộc hải chiến khác nhau. Cuộc hải chiến Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc trước 1975 hay cuộc giao phong giữa hải quân Việt Cộng và Trung cộng sau 1975 là không đúng ý nghĩa của Trạng Trình bởi hai điều:
  • Cuộc chiến trên chỉ hư hại vài chiếc tàu và chỉ chết mấy chục người thì không đáng kể.
  • Cuộc chiến trên xảy ra khi Ưng khứ ( Mỹ bỏ đi) còn cuộc chiến tương lại là Ưng lai ( Mỹ trở lại) Trạng Trình muốn nói đến cuộc hải chiến kinh khiếp máu loang biển đông. Nhưng phải chờ Mỹ đến đánh Trung Quốc (con chim ưng ăn thịt con sư tử -- Nhược đãi Ưng lai Sư tử thượng --- Mỹ là chim ưng, Tàu được mệnh danh là con sư tử Á châu), thì thế giới mới hòa bình. Tuy nhiên câu trên cũng có kẻ giải:
+Khi nào Mỹ đánh Trung Quốc thì Thái Bình Dương nổi sóng (Thái Bình phong)
+Khi nào Mỹ tấn công Trung Quốc, thì chiến tranh Thái Bình Dương lan khắp thế giới (Tứ phương thiên hạ).

Theo thiển ý , đoạn trên có ý nghĩa như sau:
Bao giờ đường xe lửa Bắc Nam thông suốt? Bắc Nam đây là Việt Nam và Bắc Quốc Trung Hoa chứ không phải Bắc Kỳ- Nam Kỳ!
Đó là giai đoạn Hồ Cẩm Đào cầm quyền , hay ẩn dật, hay chết. .(Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch)
Hải chiến rất khủng khiếp, máu loang biển động.
Hai câu năm và sáu không rõ. Phải chăng chiến tranh xảy ra năm dậu?
Phải chờ Mỹ ra tay thì thế giới mới hòa bình.
*

Một số người Việt Nam không tin thần thánh, bói toán. Đó là tự do của họ. Đừng có nửa nạc nửa mỡ như các ông cộng sản lúc thì phỉ báng thần thánh, mạ lị khoa học tiên đoán tương lai để rồi bắt giam người ta và khủng bố người ta như họ đã làm với các tôn giáo và thầy bói, đồng bóng! Nhưng nay cộng sản lại tin đồng bóng, thờ cúng, cụ thể là họ làm rầm rộ cái mà họ gọi là "môn ngoại cảm"!Họ luôn luôn oai phong mà không chút xấu hổ về những điều họ đã nói và làm trong quá khứ!

Tuy nhiên ta phải coi chứng về thần thánh và bói toán vì nhiều lẽ:
+Thần thánh có lúc ứng lúc không, ma quỷ có nhiều trình độ như con người chúng ta ở thế gian. có kẻ i tờ, có ông tiến sĩ. Các ông thầy bói cũng có thầy giỏi, thầy dở, và có lúc đúng, lúc sai.

Kinh Thư (đã được giáo sư Thẩm Quỳnh dịch khoảng 1960 ) là một cổ thư nhưng có nhiều điều chí lý.
  • Kinh Thư khuyên ta nên dùng ý chí quyết định mọi việc. Trừ khi nào không quyết định được hoặc nghi ngờ thì mới dùng bói toán, và cầu thần thánh.
  • Kinh Thư khuyên ta nên thận trọng. Nên chọn thầy nổi tiếng, đứng bạ ai cũng tin. Và sau khi đã chọn thầy, cũng nên kiểm nghiệm bằng cách thử gặp vài thầy để xem họ nói có đúng không và thống nhất không.
+Nhiều kẻ lợi dụng bói toán để làm tiền. Việc nào, giới nào cũng có chân và giả. Có thầy bói tài ba, có thấy bói ba xạo. Chính trị gia có kẻ chân thành, có kẻ gian ác như ta đã thấy trong thế giới cộng sản. Tu hành cũng vậy, có loại chân chính, có hạng lưu manh .

Nêu bạn không tin bói toán, không tin thần thánh là tự do của bạn, nhưng xin nói thêm:
  • Nếu bạn là nhà khoa học, hay nhà kinh tế, chính trị, triết học duy vật,xin bạn đừng chỉ trích tôn giáo và các khoa học huyền bí vì đối tượng nghiên cứu của bạn không thuộc bộ môn này. Không phải chuyên môn của mình thì xin đừng đề cập đến.
  • Nếu bạn là tín đồ một tôn giáo, xin đừng chỉ trích tôn giáo khác là mê tín, dị đoan... bởi vì tôn giáo nào cũng có những điều "thiêng liêng" nhưng đối với tôn giáo khác lại là những điều khả ố, hoặc mê tín dị đoan.

Dân ta một số nông nổi. Vừa theo Tây phương ít tháng, vừa nghe cộng sản vài ngày đã lên tiếng chỉ trích duy tâm thần bí, mê tín dị đoan. Không ai phủ nhận Mỹ là khoa học kém nhưng người Mỹ bộ môn nào người ta cũng nghiên cứu kỹ dù duy tâm hay duy vật. Xem như chuyện giáo sư Bửu Cầm (nay còn sống ở Việt Nam) và chuyện về tài liệu ông Đạo Nhỏ mà CIA lấy đi thì sẽ thấy rõ người Mỹ nghiên cứu kỹ lưỡng như thế nào.TÀI LIỆU VỀ CÁC NHÀ TIÊN TRI

___
1.Bò Đá : Phải chăng là khe Hoàng Ngưu (khe Trâu Vàng) ở Hồng Lĩnh?
*


Saturday, October 24, 2009

SƠN TRUNG * PHIẾM LUẬN

VII. CON GÀ TRONG ĐỜI SỐNG VIỆT NAM

====


Con gà , con chó, con mèo và trâu bò là những người bạn thân thiết của người dân Việt Nam. Vì 85% dân chúng Việt Nam sống về nghề nông, trâu bò trở thành công cụ sản xuất.
Một số những người khác không phải là nông dân, hoặc là vì quá nghèo nên không nuôi trâu bò. Nhưng tuyệt đại đa số đều nuôi chóùmèo và gà.Mỗi loại gia súc đều có nhiệm vụ riêng:


Chó giữ nhà, mèo bắt chuột
Chó giữ nhà, gà gáy sáng



Trong bài này, chúng tôi chú trọng đến vai trò con gà trong đời sống Việt Nam.
Tổng quát, con gà là hình tượng, là âm thanh của quê hương. Đi đến một làng , một bản xa, nghe tiếng gà gáy tức làta sắp đến một nơi đông đúc dân chúng cư ngụ. Tiếng gà gáy, và tiếng chó sủa tiêu biểu cho sức sống của một làng, một xóm, một xã. Đa số chúng ta đều rời bỏ làng xóm lên thành phố học hành và làm việc, do đó mà chúng ta xa thiên nhiên. Chúng ta không có cơ hội nhìn dòng sông trôi, hay lên khe suối tắm mát. Chúng taít cóthời gian nhìn cánh đồng lúa chạy dài đến chân trời và nghe tiếng chó sủa và gà gáy trong thôn xóm. Nếu ta đi đến một nơi, hoàn toàn im vắng, không có tiếng gà gáy, tiếng chó sủa và tiếng chim ca, thì hãy đề phòng. Có thể nơi đó đang có chiến tranh, thần chết đang lởn vởn, hay một biến cố nào sắp xảy ra. . .




Con gà rất ích lợi, rất cần thiết cho con người.
Ích lợi thứ nhất là đo thời gian. Ngày xưa chúng ta chưa có đồng hồ. Chúng ta lấy mặt trời làm tiêu chuẩn thời gian. Mặt trời mọc một cây sào. Mặt trời đứng bóng. Mặt trời sắp lặn. Người ta còn dùng tiếng gà gáy để đo thời gian. Tiếng gà gáy sáng. Tiếng gà gáy trưa. Tiếng gà gáy chiều. Tiếng gà gáy nhiều nhất là lúc vừa sáng tức canh năm, khoảng năm ,sáu giờ sáng, báo hiệu một ngày mới bắt đầu, là lúc mọi người phải thức dậy để làm việc.




Ích lợi thứ hai là cúng giỗ. Đa số dân ta có tục thờ tổ tiên, lấy ngày cha mẹ, ông bà mất làm ngày giỗ. Người ta nuôi gà là để cúng giỗ. Ít nhất cũng có mâm xôi, con gà. Bậc huynh trưởng có nhiệm vụ lo thờ tự, lo cỗ bàn trong ngày giỗ. Anh chị em, con cháu mỗi nhà góp phần một mâm xôi, một con gà. Triều Nguyễn muốn phong tục giản kiệm, nên ra lệnh cúng giỗ chỉ có xôi và thịt. Nhà giàu hoặc giỗ lớn ( tức giỗ họ đại tông tại nhà thờ lớn) con cháu đông, có thể thịt heo hoặc bò, còn giỗ nhỏ, thường là thịt gà. Luộc một con gà, để nguyên con ( cóø đầu, cánh) để lên trên một mâm xôi tròn. Cúng thần ở đình làng nhiều khi cũng cúng xôi gà.




Ich lợi thứ ba là kinh tế. Con gà cũng là kinh tế gia đình. Nhà khá hơn thỉ nuôi heo, nhất là nuôi heo nái. Một mẹ sinh năm sáu heo con, có thể bán kiếm lời. Nguời ít vốn hơn thì nuôi gà. MộÄt con gà cho chín mười trứng. Trước là vui cửa vui nhà, sau bán gà con kiếm lời chút đỉnh. Nuôi gà hay nuôi heo cũng là cách bỏ ống. Nuôi heo tốn tiền mua cám tấm cho heo, nhưng nhà nông thì cần nhất là nuôi heo lấy phân trồng lúa khoai , rau .
Trong mục đích kinh tế, người ta nuôi gà để lầy thịt. Ở thôn quê ngàyxưa, người ta ít ăn thịt. Thỉnh thoảng ngày giỗ, ngày Tết mới ăn thịt gà, thịt heo, còn quanh năm rau dưa, cà mắm.




Trong kháng chiến và trong xã hội chủ nghĩa, chính phủ cộng sản ra lệnh tăng năng xuất, bắt dân chúng làm ruộng hai mùa, phá rừng khai hoang và nuôi gà, nuôi heo. Ai ăn trứng gà, ai giết gà vịt đều bị kết tội phá hoại sản xuất. Thành thử có con gà, muốn cúng giỗ hay ăn thịt phải giết trộm. Đi chợ mua thịt gà, thit heo cũng phải giấu diếm, đừng để người ngoài biết, họ sẽ đem ta ra thôn xã hoặc cơ quan phê bình hoang phiù và phá hoại chính sách tăng gia sản xuất của đảng và nhà nước. Chỉ ăn thịt một con gà mà bị phê bình là phá hoại chính sách, là phản quốc, là đáng bị xử tử!



Ích lợi thứ tư là giải trí. Người ta còn nuôi gà để đá. Ngày xưa, có nhiều người say mê đá gà mà hết cảđiền sản. Nhưng đa số ở thôn quê chỉ là đá chơi như là đá dế, đácá lia thia. Chỉ là những thú vui của tuổi ấu thơ. Chỉ là những dịp tập họp vui đùa một cách ngây thơ và hạnh phúc củatuổi trẻ Việt Nam ngày xưa.



Ich lợïi thứ năm là y học. Y học cổ truyền dùng gà con với thuốc để bó gãy xương.
Nuôi gàcũng vui mà cũng mệt vì gà vào phóng uế bừa bãi trong nhà ngoài sân, và gà thường bươi cào làm chết các cây hoa và vườn rau. Một đàn gà mười con cuối cùng chỉ còn vài con vì bị bệnh, bị chồn, hoặc diều hâu bằt mất. Trên tầng trời cao xanh ngất, một vài con diều bay lượn thong dong, thực ra là đang săn mồi. Chúng nó đang theo dõi đàn gà con ở dưới đất. Bỗng một con diều hâu lao xuống, một tiếng gà con thét lên. Gà mẹ vội vàng chạy tới nhưng con gà con đã bị con diều hâu quặp chặt bay lên cao. Diều hâu ân cần săn đuổi gà con như là hình ảnh chàng theo đuổi nàng:
Có gà, diều mới lượn vành,
Có em, anh mới xây quanh chốn này!



Ở thành phố còn có nạn mèo và chuột cống bắt gà con. Tiếng gà con chinh chích là một kích thích lớn đối với mèo và chuột. Gà còn phá các ruộng lúa. Thôn quê người ta thường chửi nhau vì gà sang hàng xóm quấy phá. Thôn quê còn có nạn trộm gà. Người tachửi nhau, thù nhau vì một con gà.



Người Việt Nam dùng hết các bộ phận con gà. Thịt đễ ăn, lông gà để làm chổi. làm quạt. Chân gà để xem bói.
Thịt gà thuộc loại thịt trắng rất tốt. Thịt gàcũng như thịt heo, thịt bò dễ ăn, không như thịt trâu dai, thịt cừu hôi, và thịt rắn có mùi khét. . . Thịt gà thì được dùng nhiều cách. Luộc, chiên,hấp, nướng đều tốt.Ngoài ra, người ta làm phở gà, hoặc phở bò gà, miến gà, bún thang. . . cũng ngon. Ngày nay, có hai loại gà. Một loại gà thả rong ( gà vườn, gà quê) thịt chắc, ăn ngon. Và loại gà thủ công nghiệp, nhốt trong chuồng trại, gà nhiều thịt nhưng bệu, không ngon bằng gà vườn. Có người chê gà vườn xương nhiều, ốm nhách, ăn không ngon bằng gà Mỹ!



Aên thịt gà, người xưa cho rằng " Nhất phao câu, nhì đầu cánh" hoặc "" Nhất bì, nhì cốt" nghĩa là ngon nhất là da, ngon nhì là xương. Clinton tỏ ra sành ăn khi ăn thịt gà ông ăn cả da chứ không bỏ da, bỏ mỡ như dân Bắc Mỹ! Dân miền Bắc và Trung ít ăn trứng gà.HọÏ để gà đẻ trứng và cho nở thành con. Dân Nam thích ăn trứng gà, nhất là trứng vịt lộn, gà lộn. Chịu ảnh hưởng văn minh Pháp, cái món ăn gà” ốp- la” ăn với bánh mì trong buổi sáng đã phổ biến ở Sài gòn



Dân miền Nam, như dân Long Xuyên, gặp khách quý, nhất là khách nhậu thì mời đầu, cổ và cánh. Còn khách thường thì mời thịt. Dân Bắc chặt thịt gà thành từng miếng đặt vào đĩa trông vuông vích đẹp mắt. Người Trung và Nam thường xé phay để nấu cháo hoặïc cho con nít ăn vì bị mắc xương gà dễ chết như chơi, không thầy nào chữa kịp! Nửa khuya, anh em, bạn bè tụ họp, làm nồi cháo gà thì ngon tuyệt!
Aên thịt ga øthường là ăn chung với lá chanh non thái mỏng, chấm với nước mắm hay muối vắt thêm múi chanh. Nấu cháo gà, làm gỏi gà hay gà xé phay thường trộn rau răm! Người Việt có câu ca dao về hết hợp thịt với rau như sau:
Con gà cục tác lá chanh,
Con lợn ủn ỉn, mua hành cho tôi!
Con chó khóc đứng khóc ngồi,
Mẹ ơi đi chơ ïmua tôi đồng riềng!
Tại sao không nói thịt gà với rau răm?



Con gà trống là hình ảnh một chiến sĩ anh dũng và đa tình. Con gà trống trông rất hùng dũng, lông nhiều màu sắc như là mang một bộ giáp trụ rực rỡ củacác vị tướng ngày xưa. Không bao giờ gà trống chịu sống cô đơn. Nếu vườn nhà không có mái nào thì chú gà trống phải đi sang hàng xóm tìm bạn tri âm. Khi bắt được miếng ngon, gà trống nhường cho nàng và kêu gọi rối rít. Ai cũng khen bồ câu hòa bình làsai lầm. Bồ câu độc tài và tham ăn. Bồ câu đàn áp ‘’phụ nữ’’ và không biết mời’’ bạn gái’’ ăn uống. Bồ câu không biết ‘’galant và dụ dỗ’’ như gà!Thực phẩm chính của gà cũng như của dê cừu trâu bò la øngũ cốc và rau quả ( nghĩa là chúng hoàn toàn ăn chay trọn đời ) thế mà gà cũng như trâu bò, dê cừu vẫn khoái tranh đấu và dâm dục!Tuy nhiên, gà, trâu bò không ‘’sắt máu’’ và tàn bạo như cọp, beo và bò rừng!
Gà mái biểu tượng cho mẹ hiền. Nhìn con gà mẹ xoe øcánh che chở mưa nắng và ấp ủ cho con thơ và dương lông cánh cự với chó mèo và diều hâu, ta thấy được tất cả lòng can đảm và hy sinh nhẫn nại của người mẹ hiền!



Gà đã đi vào văn chương văn thế giới và văn chương Việt Nam.
Trong kho tàng truyện cổ châu Âu, mà nguồn gốc dường như là châu Á, có truyện gà đẻ trứng vàng. Một nông dân nuôi được một con gà rất quý, mỗi ngày nó đẻ cho anh một trứng bằng vàng. Anh nổi lòng tham, muốn tiến nhanh tiến mạnh trên đường giàu sang nên bắt gà làm thịt để lấy hết kho vàng trong bụng con gà. Than ôi, con gà chết, mà trứng thì còn non, chưa hóa thành vàng!




Theo La Fontaine, gà trống là một kẻ xấu, tham danh háo thắng và ưa nịnh. Một hôm, con chồn đói meo, thấy chú gà trống đậu trên cành tre, miệng ngậm miếng bánh thơm phức. Chồn bèn lại gần, kiếm lời tâng bốc gà trống.
Chao ôi, bộ lông của chú đẹp quá. Giọng hát của chú lại tuyệt vời! Chú thật là thanh sắc vẹn toàn! Chú vui lòng biểu diễn cho tôi nghe một bài được không?
Gà khoái chí, nhắm tít mắt và há mỏ hát. Miếng bánh rơi xuống đất, con chồn mgoạm miếng bánh, chào con gà và bỏ đi!




Đông Châu Liệt Quốc kể truyện Mạnh Thường Quân hiếu khách, trong nhà thường nuôi ba bốn ngàn tân khách, đủ hạng sang hèn. Sau, Mạnh Thường Quân lãnh sứ mạng của vua Tề sang Tần làm sứ giả. Vua Tần thấy Mạnh Thường Quân tài giỏi theo lời tả hữu muốn giết đi. Kinh Dương Quân báo tin cho Mạnh Thường Quân. Mạnh Thường Quân đem tân khách trốn qua cửa Hàm Cốc, nhưng đêm khuya, cửa thành còn đóng chặt. Bọn tùy tùng có kẻ giả tiếng gà gáy, khiến cho gà trong thành theo nhau mà gáy ran. Lính canh tưởng là trời đã sáng nên vội mở cửa thành. Mạnh Thường Quân và đòan tùy tòng thoát được ra ngoài.



Trong văn chương Việt Nam, có nhiều hình ảnh của con gà. Đó là hình ảnh chùa Thiên Mụ:
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
Canh gàø ở đây là tiếng gà gáy trong canh khuya ( đêm năm canh, ngày sáu khắc) ở Thọ Xương chứ không phải ‘’chicken soup’’ đâu!




Ngàyxưa, người con trai phải đến nhà gái làm rể. Ban đêm chàng và nàng hẹn hò nhau. Cô gái dặn:
Chuột kêu rúc rích trong rương,
Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ nghe.
Nhưng ban đêm trong bóng tối, anh đụng giường em vợ. Cô em cất tiếng hỏi:
Nửa đêm gà gáy o o,
Hỡi người quân tử anh mò đi đâu?
Và đây là chuyện Xã hội chủ nghĩa. Gia đình trò Năm nuôi được ba con gà lớn và năm con gà con. Cộng là 8 con gà.Trò Năm báo cáo: nuôi được 8 con gà.Chi Tư và anh Ba mỗi người cũng báo cáo nuôi được 8 con gà. Cha của trò Năm làm việc ở xã, cũng báo cáo nuôi được 8 con gà. Tổng cộng bốn người nuôi dược 32 con gà! Đó là báo cáo của xã hội chủ nghĩa!




Sau khi chia ruộng đất cho dân nghèo được mấy tháng, đảng bèn lập hợp tác xã, nghĩa làlấy lại ruộng, tiêu diệt tư hữu, bắt mọi người phải làm chung, ăn chung, đảng làm chủ, còn tất cả chỉ là nông nô. Cộng sản bao giờ cũng mưu mánh. Họ xúi dục nông dân giết hại nhau, cưỡng bách nhau dưới danh từ “dân chu”û, “thiểu số phục tùng đa số ”á. Trong buổi họp đầu tiên, cộng sản vận động góp ruộng đất vào HợÏp Tác xã. Không ai dám phản đối. Buổi thứ hai, góp trâu bò vào Hợp tác xã. Không ai dám phản đối. Tư Ròm tích cực nhất giơ cả hai tay đồng ý đưa trâu bò vào Hợp Tác xã. Hôm thứ ba, họp để vận động đưa gà vịt vào Hợp Tác xã. Tư Ròm cương quyết phản đối. Sau buổi họp, các bạn bè xúm lại hỏi Tư Ròm:
Hôm qua anh đồng ý đưa trâu bò vào Hợp Tác xã, sao hôm nay lại không chịu đem gà vịt vào?
Tư Ròm đáp:
Trâu bò là của người khác nên tôi đồng ý dễ dàng. Còn gà vịt là của tôi, làm sao tôi chịu đem vào Hợp tác xã!



Trước 1945, Ngô Tất Tố là một nhà nho, đỗ cử nhân Hán học, lại có tư tưởng xã hội. Ông viết Tắt Đèn, Việc Làng nhằm tố cáo tục ăn uống và tục mua quan bán tước ở thôn quê. Sau 1945, ông theo kháng chiến. Năm 1954-1955, ông bị đấu tố mà chết trong chính sách cải cách ruộng đất. Trong quyển Việc Làng, ông kể việc nuôi gà rất ư là công phu để cúng thần. Khi cúng thần xong, một con gà được chia ra 83 phần, 13 mâm cỗ, mỗi phần được cắm vào một cái tăm! Nghĩa làmỗi người được một miếng thịt bao gồm ruột, gan, xương không bằng một đốt lóng tay! Tội nghiệp cho dân ta, cho các cụ quan viên trong làng ngày xưa ăn uống quá kham khổ, đạm bạc, thế mà còn bị tố cáo đủ thứ tội, chả bù cho các đồng chí xã thôn tỉnh huyện ngày nay, sẵn lúa gạo trong kho, sẵn tiền bạc công ty, một bữa nhậu tốn hàng chục triệu bạc!
Năm nay ất dậu. Từ lâu người ta tin vào sấm Trạng Trình:
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân dậu niên lai kiến thái bình.
Cách đây gần 10 năm, tôi đã nghiên cứu các lời tiên tri của thánh nhân Việt Nam, và đăng trên Đối Lực, với kết luận năm 2005 Việt Nam sẽ thật sự thái bình.
Thật vậy, năm canh ngọ (1990) và tân mùi (1991ø Liên Xô và ĐôngÂu sụp đổ là điều chứng tỏ các vị “ anh hùng” tận số rồi. Cái râu ria Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn, Cu Ba cũng sẽ dũ sổ thôi. Lúc nào? Nhiều người nói.: Thân dậu nào mới được chứ? Thưa rằng thân dậu sau khi Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng chết:
Khi nao đá nổi lông chìm,
Đồng khô, Hồ cạn, búa liềm ra tro.



Thực tế chính trị cũng cho biết ngày nay các nhà tranh đấu càng ngày càng mạnh. Nội bộ cộng sản chia rẽ thành phe Võ Nguyên Giáp và phe Lê Đức Anh. Cuộc đấu tranh ngày càng quyệt liệt, đưa đến việc tiêu trừ chủ nghĩa cộng sản, bọn tham quan ô lại và bọn bán nước.
Chúng ta hãy lắng nghe tiếng gà gáy sáng, báo hiệu đêm tối cộng sản sắp tàn lụi và bình minh dân tộc sẽ bừng sáng trong năm ất dậu (2005).

SƠN TRUNG VĂN TẬP * PHIẾM LUẬN

CON MÈO TRONG ĐỜI SỐNG VIỆT N




Từ thời xa xưa, con người đã nhận thấy con mèo là một vật dễ thương cho nên người ta đã bắt mèo trên rừng về nuôi. Dân xứ nào cũng thích nuôi mèo, nhất là các bà, các cô. Người Việt Nam ta nuôi mèo có nhiều mục đích. Mục đích trước tiên là niềm vui. Chó cũng như mèo,gà, vịt,bồ câu là bạn của con người. Nhìn thấy con mèo, con chó đi lại trong sân, ta cảm thấy vui vẻ.Không gì buồn cho bằng một căn nhà vắng vẻ,không người,không cây cối, không thú vật .Khi ta ra sân,rãi thóc cho gà,cho bồ câu ăn, chúng ta vô cùng thích thú khi thấy loài vật bâu quanh ta, chen chúc nhau lượm từng hạt thóc vàng.




Loài vật không những là cảnh trí mà còn là một phần tử giúp việc trong gia đình. Có người coi trâu bò, chó mèo..là con cái trong gia đình. Mỗi loài làm một việc, giúp cho gia đình an ninh,thịnh vượng:
" Chó giữ nhà,mèo bắt chuột, gà gáy sáng."



Trong gia đình Việt Nam, con chó là một nhân viên an ninh, canh giữ trộm cướp. Con mèo có nhiệm vụ bắt chuột,nếu không có mèo, thì chuột cắn quần áo, phá ngõ ngách,ăn hết lúa gạo( Tuy nhiên,không phải mèo nào cũng bắt chuột và chuột nào cũng sợ mèo. Chuột cống có con hung dữ, cắn chết mèo!)
...Con trâu, con bò đi cày, đi bừa ngoài ruộng với chủ.Còn con gà là cái đồng hồ báo thức của nông gia.Chúng rất hữu ích nhất là vào cái buổi con người chưa có đồng hồ.
Con mèo dường như không đóng một vai trò tích cực trong phạm vi huyền bí như chó.Người ta coi tướng chó, chọn chó tốt để lợi chủ. Không ai nói đến tướng mèo. Người ta thích mèo tam thể vì nó đẹp. Sau này, người Việt Nam yêu mèo Xiêm vì mèo Xiêm có bộ lông đặc biệt vì phần chót cơ thể nó thường có màu đen hay màu mun( mõm đen, cuối đuôi đen, cuối sợi lông đen...) rất đặc biệt lại hăng hái bắt chuột.
Người ta cho rằng mèo đến ở nhà mình là điềm xui, trái lại,nếu có một con chó ở đâu chạy vào ở nhà mình, thì là điềm phát tài :





"Mèo đến thì khó, chó đến thì sang"
Tuy nhiên, ai mà được mèo cho cái" nhau" của nó thì có số giàu!Nên biết rằng mèo rất kín đáo, khi đi vệ sinh,nhất là khi đẻ con,mèo giấu rất kín ( Người ta nói:" giấu như mèo giấu cứt" là thế!),cho nên ít ai được nhau mèo.
Người tây phương thì sợ mèo đen, còn dân ta không chú ý đến nó. Tuy sống trong một nhà, nhưng chó và mèo có nhiều mâu thuẫn. Người ta thường nói:

" Như chó với mèo" , "Mèo một xó, chó một nơi"
là để nóí anh chị em, vợ chồng hay cãi nhau.Dường như hai bên có thù truyền kiếp. Chó thấy mèo là đuổi cắn.Mèo nhỏ con hơn nên phải bỏ chạy. Mèo có tài trèo cao,nên thoắt một cái là mèo đã nhảy lên bàn,lên nóc nhà, chó đành đứng dưới dất giương mắt tức giận. Chó vốn cậy công. Chó giữ nhà, chó còn săn bắt chuột. Không có chó thì kẻ trộm vơ vét hết tài sản của chủ. Theo quan điểm của chó, thì con mèo là giống vô tích sự,nó chỉ " ăn no lại nằm" như con heo. Con mèo có cái tật mằm suốt ngày bên bếp lửa , rồi lại ỉa trong bếp. Cái tật xấu nhất của mèo là tật ăn vụng tuy rằng chó không phải không có tật này.Bởi vậy,tục ngữ ta có câu:" Mỡ để miệng mèo" , " Chó treo mèo đậy."



Con mèo lanh lợi nên thoát được nhiều tai họa, con chó chậm chạp nên lãnh đủ mọi điều :
" Con mèo làm bể nồi rang,
Con chó chạy lại mà mang lấy đòn."
Con mèo không có công trạng hơn chó thế mà được chủ yêu quý hơn. Nó được bà chủ, cô chủ ôm ấp trong lòng, cho ngồi cạnh bàn ăn,ngồi trên xa lông,đôi khi còn ngồi trên giường.Còn chó phải đứng xa,không dám lại gần chủ,lúc ăn thì ăn dưới đất, và ăn toàn xương xẩu!




Dân ta hay ăn nhậu nhưng không ai ăn thịt mèo.Người ta nói thịt mèo ăn xui,và dở. Dân ta cũng không ăn thịt thỏ mặc dù mấy ông tây rất thích ăn thịt thỏ. Sau 1975, cá thịt hiếm hoi, nhiều nhà nuôi thỏ đẻ nhiều nhưng cũng bỏ bởi vì không ai mua. Người ta nói thịt thỏ ăn như thịt mèo! Ở Sàigon nay số mèo hoang rất đông. ( Ngay cả bên Mỹ ,bên Pháp cũng vậy.) Mấy tay nhậu chuyên bắt trộm chó, trừ khi túng lắm mới bắt mèo làm thịt. Trung quốc có một thời ra lệnh giết chim để bảo vệ mùa màng.Để bảo tồn lúa gạo, Việt Nam và Trung quốc đã chủ trương giết chó mèo,cấm làm bánh,làm phở...Nhưng than ôi. giết chim thì sâu bọ vùng lên , giết mèo,giết chó thì chuột gia tăng phá hoại sản xuất. Các bậc lãnh đạo anh minh lại ra lệnh nuôi mèo, nuôi chó,tha tội cho chim trời..Than ôi! Cách mạng đâu có phải là đặt đầu xuống đất, chân lên trời?


***