Friday, February 19, 2010

ĐẨU TIẾP * TRONG 99 CHÓP NÚI 3

*


PHỤ LỤC:

Phần phụ lục này do Nguyễn Thiên Thụ sưu tập tài liệu, có thể chia làm hai phần.
Phần thứ nhất :sưu tập các bản dịch "Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm"
Phần thứ hai : các bài viết về Đinh Nhật Thận và Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm.

Nguyễn Thiên Thụ



A.PHẦN THỨ NHẤT: CÁC BẢN DỊCH "THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM"

I. BẢN NGÔ ĐIỀN

Bản này được in trong bộ Văn Đàn Bảo Giám của Trần Trung Viên.Bộ này Trần Trung Viên viết lời tựa năm ât sửu (1926), Dương Bá Trạc năm bính dần (1927), và Tản Đà đề tựa 1934. Nam Ký xuất bản 1932, Mặc Lâm Sai gon tái bản năm 1968. Theo Trần Trung Viên, dịch giả bài thu Dạ Lữ Hoài Ngâm này là Ngô Điền.Theo Trần Trung Viên, ông quê Nam Định, thi đậu Hoàng giáp đời vua Tự Đức. Trứơc làm quan trong nội các, sau thuyện đi nhậm ở một tỉnh xa xôi. Do vậy,lâu không được về quê nên có viết tập Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm để than thở niềm tư gia ở nơi đất khách (Tiểu sử các bậc thi hào ViệtNam).

Theo phả hệ họ Ngô làng Tả Thanh Oai, Ngô Điền , thuộc dòng Ngô Thời Sĩ, Ngô Thời Nhậm, người Tả Thanh Oai huyện Thanh Trì , tỉnh Hà Đông , đỗ Hoàng giáp, 1841.
http://www.phahe.vn/FamilyTree/Pages/ViewFunctionContent.aspx?FamilyTreeID=772&id=391

Như vậy, Ngô Điền là người đồng thời với Đinh Nhật Thận, Nguyễn Hàm Ninh, Cao Bá Quát và Tùng Thiện vương.
Còn việc nói ông viết Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm thì e không đúng, ông chỉ dịch bản Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận mà thôi.Trong 99 Chóp Núi, ông Đẩu Tiếp có nhắc đến bản Trần Trung Viên, bản Xuân Lan và bản của Nguyễn Văn Trác, nhưng không đề cập đến Ngô Điền,. Ngoài Trần Trung Viên cũng không ai nói đến Ngô Điền và Thư Dạ Lữ Hoài Ngâm.


THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa rót chén kim bôi.
Gẫm xem thời sự sụt sùi,
Cõi phù mấy thuở làm vui cho đời.

Người ngắm cảnh, trăng soi hoa nở
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm mấy kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm ngày với thu

Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên dương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông nhường như bay.

Khúc ngư thủy nhớ ngày Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Ngọn đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rỏ (1) sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn rù đất khách
Nhật quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Ba tiêu khóc lệ, hơi may ngâm trùng.

Làm chi vậy dở dang quán lữ.
Năm, sương yên kế nửa vừa rồi
Có khi ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cài trên lương

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác (2) cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mặt, nghe nằm thẹn tai

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không khách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại phiền.


Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm thẳng gióng Giang Lăng.
Lòng quê đâu đã bâng khuâng,
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bong.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế khua rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng

Lòng quanh quéo sông càng quanh quéo.
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Canh khuya những mơ mòng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi (3) ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở (4) gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn

Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bó xiêm lửng thửng bên hè,
Mày sầu khóm liễu dì dì khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.


Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế khắt khe
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Này hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu tính đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại người Tràng An.

Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,

Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ thời xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm trường
Giang hồ dù có biết thương
Thiết tình lại nhớ những đường dặm khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trong đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Vài thằng cháu nhờ ơn cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay đã có học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi thơm nức một nhà.
Từ phen chén rựợu quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi trang ?
Mới hay đồng bệnh cùng thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Cảnh li biệt lệ đầy hai mắt,
Bóng hương khuê xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi tựa lan can
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.

(Văn Đàn Bảo Giám III,107-111)

____

1. VĐBG ghi là rõ. Phải là rỏ, nhỏ giọt
2. VĐBG ghi là bác, vô nghĩa, phải là đòng mác. Mác là cây dao nhọn dài, đòng là loại giáo, mũi nhọn có cán dài
3.VĐBG ghi gác toi, chắc là lỗi ấn công, các bản khác ghi là gác thoi.
4. VDBG ghi là dở, các bản khác ghi là trở.Giở hay trở chỉ là giọng Bắc Trung khác nhau, cũng là quay.




BẢN II.G. CORDIER
"Thu dạ lữ hoài ngâm - Plainte de l’exilé par une nuit d’autume " xuất bản năm 1925.


Thu dạ lữ hoài



Thơ nhã ái bốn câu ba vận
Rượu ly hoài vài chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Não lòng đất khách, ngậm ngùi người xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền ở đâu chèo thẳng biên giương ?
Bồi hồi đêm nguyệt trời sương
Non hàn thuyền khách trông chừng như bay.

Khúc ngư thủy nhớ ngày đại đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Mấy thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Khi ta đi liễu đang xanh tốt
Chim hoàng anh mới hót ba câu.
Bằng nay cúc đã ngậm thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió Đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã rò sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn dù đất khách
Nhật quan đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương gối phòng tây
Ba tiêu khóc lệ hơi bay ngâm trùng

Làm chi vậy giở dương quán lữ.
Năm sương yên kể nửa vừa rồi
Có khi ngỗi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng bác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Khóc ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ xem bông lại phiền

Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh buồm gióng thẳng Giang lăng
Lòng quê luống những bâng khuâng
Phút theo buồm nhẹ tếch chừng bể khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một áng mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã rối bồng.
Phút theo mây kéo trùng trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng ran thành vàng

Lòng quạnh quẽ sông càng cạnh quẽ,
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Thân đất khách não lòng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Ngậm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Canh khuya những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng im người,
Ngủ mơ giấc bướm tỉnh rồi gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước ra thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con yến kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc gieo thoi đêm tối,
Gọi con đồng vừa mới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi dừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Đầu thềm con dế rù rì khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn giở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khuê đèn

Thương thay những ngóng tin sớm ấy,
Ngày gần hôm chẳng thấy thư về
Bỏ xiêm lững thững bên hè,
Mây sầu khóm liễu dì dì khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên muốn gợi tay đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn thôi xỏ dép ra vườn bẻ hoa.


Nay hẳn bảo trời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường sá khắt khe,
Dặm ngìn hồ dễ đi về cho năng.

Nay hẳn bảo ta chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Trường An.

Ví chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy du,
Anh hùng kia mấy trượng phu ai từ.

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên hoa khôn xiết dạ sâu.
Há còn tuổi trẻ chi đâu,
Phong lưu tính cũ giang hồ thói xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương khuê xa khuất dặm nghìn.
Giang hồ dù có biết thương,
Thiết tình lại nhớ những đường rậm khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Mừng cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Gia đình thời đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu nhờ trời cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng hộ cho anh,
Năm nay biết có học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri kỉ,
Mùi lan chi thêm nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.


Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi chăng ?
Mới hay cùng bệnh thêm thương,
Kẻ Tần người lại Tiêu Tương một giời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Bằng nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Cảnh li biệt lệ đầy nước mắt,
Bóng hương khuê xa cách dặm ngìn.
Rượu rồi ngồi tựa câu lơn,
Chiêm bao thấy giấc canh tàn về thu.




III.BẢN NGUYỄN TÀI CẨN


"Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận" dựa trên bản bản thảo của anh trai là Nguyễn Tài Chất, xuất bản năm 2008.Bản này có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 Chóp Núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế.



THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu

Thơ nhã ái bốn câu buông vận
Rượu ly hoài ba chén làm khuây
Trước đèn trong chốn thư trai
Chạnh lòng đất khách, nhớ người đời xưa.

Ngoài Hương thủy tiếng ngư văng vẳng
Thuyền từ đâu chèo thẳng biên giang ?
Lờ mờ đêm nguyệt trời sương
Thuyền ai tưởng khách Non, lại không !
.
Khúc ngư thủy nhớ ông Đại Đỗ
Buộc con thuyền lòng cũ bơ vơ
Hứng thu để tám bài thơ
Xui người đất khách ngẩn ngơ tình làng

Xưa ta đi liễu đang thanh tế
Chim hoàng anh mới kể ba câu.
Bằng nay cúc đã hoa thâu
Liễu kia cũng nghĩ âu sầu vì ve

Khi ta đi đào khoe tiếu kiểm
Gió đông phong mới điểm ba hàng
Bằng nay lan đã chồi sương
Đào non nghĩ cũng võ vàng vì thu

Làm chi vậy buồn rầu đất khách
Ngày quán đồng mượn thích làm khuây
Có đêm nương bóng hồi tây
Tiếng sương khóc lá hơi bay gọi trùng

Làm chi vậy lạnh lùng quán lữ.
Năm, sương yên hết nửa đi rồi
Có đêm ngồi nhẫn thư trai
Gió lay bên trúc, nguyệt cái trên lương

Nào có phải như chàng ném bút
Vì vua mà đồng mác cho cam
Luống đem thân thế cát lầm
Thấy ngồi hổ mắt, nghe nằm thẹn tai

Nào có phải như ai vâng hịch
Vì thân mà xa cách cho xong
Bỗng không cách địa binh bồng.
Trông mây lại nhớ, xem bông lại buồn


Ngày nay đứng trông miền bể rộng
Một cánh lá buồm gióng thẳng về Cồn.
Lòng quê đâu đã cuồn cuồn
Phút theo buồm vượt máy ngàn sóng khơi.

Ngày nay đứng trông nơi non thẳm,
Một làn mây sớm ngắm trên không.
Lòng quê đâu đã bồng bồng.
Phút theo mây kéo mấy trùng non xa

Trông tin nhạn biết là đâu tá,
Tâm tình này ai tả cho nên.
Chuông chùa Diệu đế cho rền
Trống vang cửa bể súng rên thành vàng

Sông quạnh quẽ ruột càng quằn quại
Cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu.
Lữ du ai chẳng tiêu điều,
Tiếng chày trong xóm tiếng chèo ngoài sông.

Than đất khách não nùng tâm sự,
Thương người quê tình tự bây giờ.
Đèn khuya cơn tỏ cơn mờ,
Gẫm tình che quạt luống chờ bóng trăng.

Năm canh những mơ màng trên gối,
Mảnh tình riêng biết nói cùng ai.
Thương thay đêm vắng không người,
Ngủ thời bướm báo dậy thời gà kêu.

Hoặc có lúc ban chiều trong khổn,
Bước xuốn thềm lại muốn lên lầu .
Phút nghe con én kêu sầu,
Lược rầu tóc chải gương rầu mặt soi.

Hoặc có lúc đưa thoi đêm tối,
Gọi con tì vừa tới điểm đăng.
Phút nghe tiếng nhạn khơi chừng,
Máy rời chân đạp thoi ngừng tay đưa.

Thương thay có đêm chờ nửa gối,
Đêm gần qua chẳng thấy thư về.
Gác thoi ra đứng bên hè
Tai nghe tiếng dế rè rè khóc sương.

Trông chẳng thấy chán chường than thở,
Đoái phòng khuê muốn trở gót giầy.
Gà ai eo óc hồi tây,
Gẫm tình tựa gối liền tay khêu đèn

Thương thay có ngày nhìn sáu khắc
Ngày gần tàn chẳng thấy thư sang
Xuống thềm ra đứng bên đàng
Mày sầu lá liễu hàng hàng khóc ve.

Trông chẳng thấy lại về đứng đợi,
Đoài cầm hiên tay gợi ngón đàn.
Bướm đâu trêu cợt bình lơn,
Buồn tình mang dép ra vườn hái hoa.

Rày hẳn bảo giời đà mát mẻ,
Lương nhân ta có dễ gần về.
Biết đâu đường thế nhiêu khê
Dặm ngàn hồ dễ đi về cho năng.

Rày hẳn nói mình chừng lâu ở,
Ôm khâm trù hay đã có người.
Phong lưu vốn đã quen rồi,
Phồn hoa lịch sự lại mùi Tràng An.

Nếu chẳng thể bàn hoàn chi mãi,
Hết xuân rồi hạ lại sang thu.
Lầu hồng cung cấm ấy ru
Anh hùng lại với trượng phu ai từ.?

Như thế ấy bây giờ ai biết,
Trông yên ba khôn xiết dạ sâu.
Há còn trai trẻ chi đâu,
Phong lưu thói cũ giang hồ lối xưa.

Cảnh du lữ câu thơ thổn thức,
Bóng hương quan trước mắt mơ màng
Non sông khách có biết chăng
Vẫn tình thì nhớ nhưng đường thì khơi.

Tuy rằng nói đã người tần tảo,
Trên tôn đường trọng đạo tề gia.
Rau khe nước suối cũng là,
Mình xa chẳng biết ở nhà làm sao.

Duy cho trẻ đứa nào đứa ấy,
Trong gia đình đều thấy yên vui.
Lúc đi trẻ mới hay cười,
Tóc răng nay đã ra người lớn khôn.

Và thằng cháu giời thương cũng khá,
Tuổi năm nay chừng đã trưởng thành.
Phúc nhà mừng trộm cho anh,
Năm nay biết đã học hành cùng ai.

Bạn đèn sách một hai tri thức
Mùi lan chi sực nức một nhà.
Từ phen chuốc chén quan hà,
Vị thành lúc ấy rồi mà dương quan.

Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động,
Hai anh ta có chóng hồi hương ?
Thương ôi đồng bệnh cùng thương,
Một Tần lại một Tiêu tương một trời.

Đến bao giờ cùng ngồi kể chuyện,
Kể hương tình cho đến khách trung.
Mà nay nào nguyệt nào phong,
Nào thi nào tửu biết cùng ai hay.

Sầu li biệt tuôn đầy hai mắt,
Bóng hương quan xa khuất dặm ngàn.
Rượu rồi ngồi dựa lan can
Chiêm bao tỉnh giấc đêm tàn về thu.



Đêm thu lặng, bóng giời thấp thoáng
Cách rèm thưa chuốc chén gượng nguôi
“Thiên thời nhân sự tương thôi”
Kiếp chiêm bao dễ mấy hồi người ta ?

Người đối cảnh, trước hoa trăng tỏ
Cảnh trêu người ngọn gió rung cây
Nỗi niềm ai kẻ tỏ hay ?
Cùng ai trăng gió đêm này với thu




NHẬN XÉT TỔNG QUÁT

+Có nhiều bản dịch nhưng sự sai biệt giữa các bản rất ít. Có thể do một dịch giả sau các người khác chỉ sửa chữa vài chữ, hoặc một hai câu.
+Theo Nguyễn Tài Cẩn, bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Đẩu Tiếp là gần với nguyên bản của Đinh Nhật Thận.


BẢN4. KỲ ĐỒNG (1875 - 1929)


Một tác giả khác là Kỳ Đồng cũng có một bài thơ Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm cũng viết bằng chữ Hán theo lối song thất lục bát nhưng nội dung là lòng yêu nước, trong khi Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm của Đinh Nhật Thận là nói về nỗi nhớ nhà.

Kỳ Đồng tên thật là Nguyễn Văn Cầm, rất thông minh, mới 10 tuổi đã đi thi hạch. Quan trường thấy lạ, làm sớ về kinh, vua sắc cho 2 chữ "Kỳ Đồng" mới lấy làm tên. Mấy năm sau, họp bạn đứng ra chống Pháp, bị Pháp bắt rồi đày qua Angeria. Ở đây, ông đi học, đổ tú tài khoa học và văn chương. Sau đó Pháp cho ông về Yên Thế. Nhưng năm 1898, vì sợ ông liên lạc với Đề Thám, Pháp lại đày ông đi Tahiti và ông tạ thế ở đó vào năm 1929, hưởng dương 55 tuổi. Bài "Thu Dạ Lữ Hoài Ngâm" này ông sáng tác và dịch quốc âm lúc chưa bị đày, đang mang mối hận mất nước và mong mỏi có ngày khôi phục.(Nay chưa tìm thấy bản bản Hán văn)

THU DẠ LỮ HOÀI NGÂM

Thiên khí nhập trung thu chi dạ
Tiêu điều kinh tứ tọa sương hàn
Tiên gia biệt chiếm thanh nhàn
Đả tàn kỳ trận, ẩm tàn cúc bôi
Cửu thiên ngoại, lâu đài ca quản
Bích khê liên mãn giản đào hoa
Phương tôn nhất cảm tuế hoa
Du nhiên bất giác thị hà càn khôn
Hào đỗ vũ thiên thôn tịch mịch
Tức trùng thanh tứ bích thê lương
Khả lân tư cổ chiến trường
Đài phong kim thốc ô nhương cô hồn.


Quần hùng trục lộc bôn chi lộc
Tứ hải chiêm chỉ ốc chi ô
Thiên tâm vị yếm Hồ sô
Thủy thâm hỏa nhiệt lai tô giả thùy
Quỳ hoắc hữu tâm nhi hướng nhật
Tàm oanh hà vật khước tri thu
Tây thiên đường bệ giao phu
Hoa cừu cạnh sắc chiên hồ đồng chương
Thiên tầm bách kinh sương bất biến
Song nam kim bách luyện di cương
Cẩu năng thiết thạch can trường
Lưu danh trúc gian lưu phương báo bì.


Y thị nhật nghĩa kỳ xướng xuất
Tương trung tâm thủ nhật ngu uyên
Tẩy thanh cựu quốc sơn xuyên
A đồng khí khái nhất thiên cao hoành
Cái trung nghĩa thanh thiên bạch nhật
Nhi vinh hoa vân bạch cẩu thương
Lập thân sở quý cương thường
Hưu tương nhất mộng hoàng lương tráng hoài
Nhân thế hãn phùng khai khẩu tiếu
Si nhi diệc vị liễu công gia
Khả liên lục đại hào hoa
Du mi Lương quán đề nha Tống đài


DỊCH:

Đêm trung thu trời mây trong trẻo,
Sương đầm đầm lạnh lẽo bốn bên.
Thanh nhàn riêng một cảnh tiên,
Mảng vui cờ thánh rượu hiền tiêu dao!
Ngoài chính cõi đài cao đàn địch,
Suối liền khe nước biếc đào hồng.
Ngày dài thưởng chén rượu nồng,
Càn khôn nào biết là trong hay ngoài !
Tiếng quyên bỗng một trời khắc khoải,
Lại bốn bề dế gọi đau thương.
Buồn thay cảnh cũ chiến trường,
Cô hồn quạ cúng, tên vàng bám rêu!



Hươu một con, ùa theo bao kẻ
Quạ một bầy, bốn bể đều trông!
Giặc Hồ trời hãy còn dong
Nước sâu lửa đỏ dễ hòng kêu ai?
Lòng quỳ hoắc, theo trời mà hướng,
Tiếng oanh già vất vưởng hồn thu.
Lầu Tây chủ khách gật gù
Hoa cừu rạng rỡ, chiên hồ nghênh ngang
Bách ngàn trượng mặc sương với gió,
Vàng trăm rèn càng tỏ thức son!
Cang trường sắt đá chẳng sờn,
Dấu thơm ghi để nước non sau này!



Ngày khởi nghĩa cờ bay rực rỡ,
Tấm lòng trung nào sợ bóng chiều !
Giang sơn cố quốc sạch màu,
Đồng vang vang tiết trời lầu lầu xanh.
Áng trung nghĩa rõ hình nhật nguyệt
Bả vinh hoa mây biếc chó mờ
Cương thường gốc cũ ngàn xưa,
Kê vàng giấc mộng buồn mơ sá gì !
Người đời ít gặp khi cười hả,
Trẻ nhọc nhằn vất vả nào vui.
Sáu đời thịnh trị ai ơi
Lương đình hươu nhởn, Tống đài quạ kêu.


VIETKIẾM FORUM
http://www.vietkiem.com/forums/index.php?showtopic=12626




B. PHẦN THỨ HAI: CÁC BÀI VIẾT VỀ ĐINH NHẬT THẬN



I. ĐINH NHẬT THẬN NIÊN BIỂU (1815- 1856)
Nguyễn Thiên Thụ


-Sinh Ất Hợi 1815 tại làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.
- Đinh Dậu (1837) thi hương, đỗ cử nhân.
-Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ . Bổ tri phủ.
bị cách chức.
Năm 1843, được hồi phục, nhưng cáo bệnh, sống ẩn dật, đi ngao du và làm thuốc.
-Năm 1854, Cao Bá Quát theo Lê Duy Cự chống triều đình, nên sau đó ông bị giam vì liên quan đến Cao Bá Quát, it lâu được thả.
-Mất 1856, hưởng dương 52 tuổi.


II. TIỂU SỬ


"Thật trời đã khéo tày vị mà dành riêng cho cụ một khối óc thông minh, một lá gan hào hùng, có lẽ chung đúc lại bởi khí thiêng của sông Lam núi Hồng là nơi cụ sinh trưởng. Lấy văn chương và phẩm hạnh, cụ đã làm Thái Sơn, Bắc Đẩu cho cả một vùng Hoan - Ái là đất tài ba văn vật có tiếng xưa nay"


Đinh Nhật Thận


Đinh Nhật Thận, tự Tử Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Ông nội là Đinh Trọng Mưu mất sớm, thân phụ là Đinh Trọng Miễn con rể của quan tri huyện Thừng. Vốn trước đó Đinh Trọng Miễn là học trò của quan tri huyện sau được gả con gái lớn. Đinh Nhật Thận là con trai thứ hai.

Vốn sáng dạ và có trí nhớ tốt, ngoài việc thông làu kinh sử, Nhật Thận còn tinh thông về y học, dược tính, rất giỏi thơ Nôm, viết văn không cần thảo trước. Sách “Đăng Khoa Lục” chép rằng:

“Ông nổi tiếng có tài nhớ sách, đọc qua một lượt là nhớ … Khi ông làm quan ở Kinh kì, có người muốn thử tài ông, đưa cho ông một cuốn từ điển. Ông nhận sách đọc, ngày hôm sau trả lại mặc cho người kia muốn hỏi gì thì hỏi, ông đều nhớ hết và nói rất rành mạch”

Mặc dù tài cao nhưng không phải cứ thi ngay là đỗ. Khoa thi hương năm Đinh Dậu (1837) ông chỉ đỗ cử nhân, lại thuộc dạng lấy thêm.

Khoa thi hội năm Mậu Tuất (1838) niên hiệu Minh Mệnh thứ 19, không có Bảng nhãn, không có Thám hoa, Đinh Nhật Thận đỗ đầu hàng tam giáp đồng tiến sĩ và là người trẻ tuổi nhất trong bạn đồng khoa. Đứng trước ông có hai Hoàng Giáp là Nguyễn Cửu Trường và Nguyễn Văn Nghị.

Sau khi đỗ đại khoa, Nhật Thận được triều đinh bổ làm tri phủ, ngoài ra còn được làng cấp cho 5 mẫu học điền ở cánh đồng Gia Hội. Tuy nhiên phần lớn ruộng này ông để cho bà con trong thôn cày mà không thu hoa lợi. Ông còn tổ chức khai khẩn thêm đất và chiêu mộ người các nơi đến lập thành làng Gia Hội. Làm quan tri phủ được một thời gian thì ông bị cách chức không rõ nguyên nhân.

Năm 1843 được phục chức nhưng ông cáo bệnh không nhận. Tính tình ông phóng khoáng, thích làm thuốc, làm thơ giao du đây đó lấy việc kết thân bạn hữu gần xa làm trọng. Ông là bạn chí thân của Cao Bá Quát (Bắc Ninh) và Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Bình). Sau này Cao lãnh đạo khởi nghĩa nông dân làm loạn khiến ông cũng liên lụy và bị kiềm chế gắt gao.


Vua Tự Đức biết ông là người học rộng tài cao nên quyết giữ ông lại trong cung, trước là để kiềm tỏa giữ chân ông, sau là nhờ ông dạy cho các hoàng tôn.

Sống cuộc sống gò bó, ông đâm ra chán chường trong lòng lúc nào cũng mang nặng nỗi lòng với cố hương. Vào một đêm Thu thanh vắng, độc ẩm tức cảnh sinh tình, ông viết một mạch khúc ngâm nổi tiếng “Thu dạ lữ hoài”. Tất cả những tâm tư tình cảm với gia đình, với quê hương xứ sở được ông thể hiện qua khúc ngâm này. Tuyệt phẩm này được truyền tụng và lọt đến tai vua, vì mến phục tài đức của một nhân cách cao thượng, Tự Đức đã xuống chỉ tha cho ông.

Ông trở về chốn cũ, vui thú điền viên ở Gia Hội. Ông qua đời sớm, tuổi 52. Vùng Cát Ngạn vẫn còn câu ca về ông, rằng:

Non sông Giăng
Nước sông Giăng
Trời sông Giăng
Nhớ chăng
Em
“Thu dạ lữ hoài”
Lừng danh Đinh Nhật Thận một đời tài hoa.

Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương

Tham khảo:

1. Đinh Nhật Thận. - Bài viết của tác giả Chu Trọng Huyến.
2. Thanh Chương đất và người. - Nhiều tác giả.
3. Trong 99 chóp núi. - Nguyễn Văn Để.
4. Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận. - Nguyễn Tài Chất, Nguyễn Tài Cẩn

http://tcnao.net/showthread.php?t=43


II.GIAI THOẠI VỀ ĐINH NHẬT THẬN



Nói láo với nhà Vua qua thi phú:


“Nói láo” là đặt điều, là bịa ra mà nói, là nói điều không đúng sự thực, và nói láo là một sự xấu.

Ngày xưa, bầy tôi nói láo với vua là mang trọng tội. Chiếu theo luật pháp của các triều đại phong kiến, nói láo với vua là mang tội “khi quân” có thể bị xử trảm. Thế nhưng trong kho tàng văn chương ta có kẻ dám nói láo với vua và chẳng những không bị tội mà còn được nhà vua ban thưởng:

Đinh Nhật Thận thi đỗ Đình Nguyên Khoa Mậu Tuất năm Minh Mạng thứ 19, tức vào năm 1838 dương lịch. Được bổ làm quan ít lâu thì chán cảnh hoạn trường nên cáo quan về sinh sống bằng nghề dạy học và bốc thuốc.

Là bạn thân của nhà thơ “ngông” Cao Bá Quát, vì thế đến đời vua Tự Đức ông bị bắt giải về kinh vì bị tình nghi có nhúng tay vào vụ Cao Bá Quát khởi loạn. Nhưng vì không có bằng chứng nên được tha. Vua Tự Đức mến tài ông nên giữ ông ở lại kinh đô để dạy cho các tôn thất học.

Khi ở kinh thành, một hôm ông cùng các quan đại thần được theo ngự thuyền ngoạn cảnh trên sông Hương, nhân dịp lúc vua và các quan đàm luận về đạo đức thánh hiền, ông có nhắc đến câu:

”Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu”

(Vua khiến tôi chết, tôi không chết không trung, cha khiến con chết, con không chết không hiếu) và cho đó là một câu chí lý mà mọi người phải theo.

Nghe ông nói vậy, vua Tự Đức mới phán:

- Thế bây giờ trẫm truyền cho khanh nhảy xuống sông này mà chết đi, khanh có làm không ?


Nghe nhà vua phán, các quan ai nấy đều lo cho số phận của ông vì không nhảy thì mang tội bất trung còn nhảy thì chết một cách oan uổng. Thế nhưng ông vẫn bình tĩnh, lạy tạ nhà vua xong rồi lao mình xuống sông Hương. Giòng nước bắn tung tóe, mọi người đều nghĩ đây là nơi an giấc nghìn thu của ông Đinh Nhật Thận. Thế là kết liễu một đời tài hoa không tội lỗi...

Nhưng chỉ giây lát sau, hết dưỡng khí, bị ngộp thở, ông ngoi đầu lên bơi đến bám vào ngự thuyền. Vua Tự Đức thấy vậy bèn hỏi:

- Sao khanh không ở dưới đó mà chết đi còn trở lên đây ?

Ông đáp:

- Thần định ở nhưng vừa xuống tới đáy sông thì gặp ông Khuất Nguyên, ông ấy đuổi thần lên và mắng thần bằng hai câu thơ như sau:

Ngã phùng ám chúa hàm oan nhẫn!
Nhữ ngộ minh quân nịch tử hà?”

(Ta gặp vua ngu phải chịu chết oan đã đành,
Còn người gặp vị vua sáng suốt sao phải chết đuối?)

Thần nghe ông ấy mắng đúng lắm nên phải lên đây tâu bệ hạ rõ.

Vua Tự Đức nghe qua cả cười, sai thị vệ đón ông lên ngự thuyền, lấy quần áo cho thay, rồi đích thân rót một chén rượu để khen thưởng. Thưởng cho cái tài ứng phó mẫn tiệp mặc dù biết đó là một câu chuyện hoàn toàn bịa đặt, tức là nói láo.

Đó là nói láo đấy, nhưng nói láo mà nhà vua phải khen, các quan phải phục và người đời sau ca tụng mãi mãi. Lối nói láo đó không làm hại gì ai mà trái lại còn tô điểm cho kho tàng văn học thêm phong phú. Ở đời đã mấy ai không nói láo, nhưng đã có mấy ai nói láo có nghệ thuật để thiên hạ biết mình nói láo mà vẫn nghe, vẫn phục và vẫn có thiện cảm!

Người Thanh Chương.
Trích: 39 giai thoại văn chương - Lê Thương .
http://tcnao.net/showthread.php?t=43



III.PHÊ BÌNH


      VÀI SUY NGHĨ VỀ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ HỌC ĐỐI VỚI NGHIÊN CỨU THƠ CA và đóng góp mới của Nguyễn Tài Cẩn qua"Khảo sát về thơ Định Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm "(1) ( in trong Tạp chí Ngôn ngữ, số 11/2008
      Hữu Đạt.

1. Cuộc đột phá của ngôn ngữ học vào lĩnh vực thơ ca

Từ cuối thế ký XIX về trước, việc nghiên cứu thơ ca ở hầu khắp các nước trên thế giới chủ yếu mới chỉ dừng lại ở truyền thống: nghiên cứu tác phẩm văn học theo khuynh hướng xã hội lịch sử . Theo phương pháp nghiên cứu của khuynh hướng này, tác phẩm văn học được coi là sự phản ánh lịch sử trong mỗi một giai đoạn cụ thể. Vì vậy, việc phân tích và đánh giá tác phẩm văn học nói chung đều lấy việc phân tích nội dung trong mối tương quan của nó với xã hội- tức bối cảnh làm nên tác phẩm làm trọng.


Phương pháp nghiên cứu này, trên thực tế, đã đạt được những thành tựu rất đáng ghi nhận và nó đã ngự trị trong suốt một thời gian dài từ Aristote cho đến cuối thế kỷ XIX. Tuy nhiên, nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học từ góc độ này thì bản chất nghệ thuật của tác phẩm không được đánh giá một cách đúng mức. Đó là chưa kể việc áp đặt chủ quan của nhà nghiên cứu, một tác phẩm có thể bị xem xét lệch lạc theo cách của xã hội học dung tục. Để khắc phục tình trạng trên, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một nhóm các nhà lý luận văn học Nga và các nhà nghiên cứu thuộc nhóm các nhà ngôn ngữ học trẻ Moskva đã thành lập ra một Hội nghiên cứu riêng, gọi là Hội nghiên cứu thơ ca.

Những thành viên tích cực của Hội nghiên cứu này là các nhân vật nổi tiếng như Jakubinski, O. Brik, V. Novikov, B Tomashevski, B. Eikhenbaum, V.Shklovski, Jacovson.. Cương lĩnh của Hội nghiên cứu này chủ trương dùng phương pháp phân tích hình thức đối với tác phẩm văn học nghệ thuật thay thế cho phương pháp nghiên cứu truyền thống theo hướng xã hội lịch sử. Trong đó, lần đầu tiên, ngôn ngữ được coi là một đối tượng nghiên cứu vô cùng quan trọng đối với một tác phẩm nghệ thuật. Bằng phương pháp nghiên cứu mới này, Hội nghiên cứu thơ ca Nga đã tạo nên một trường phái nổi tiếng toàn thế giới, có ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều nước và là nguyên nhân hình thành nên nhiều trường phái thi pháp học hiện đại. Những lý thuyết quan trọng của nó đã tạo nên một học thuyết có sức hấp dẫn mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học, trong đó có các khoa học như ngôn ngữ học, văn học...Lý thuyết của trường phái này được gọi là lý thuyết của chủ nghĩa hình thức.

Có thể nói, việc hành thành chủ nghĩa hình thức Nga là một bước tiến bộ vượt bậc trong nghiên cứu thơ ca nói riêng và nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung. Nó mở ra một chân trời mới cho việc áp dụng các thành tựu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu nghệ thuật. Bởi vậy, ngay từ những khởi động đầu tiên, các tácgiả nổi tiếng của chủ nghĩa hình thức Nga đã vận dụng các kết quả nghiên cứu ngôn ngữ học của Baudouin de Courtenay và Sherba, cụ thể là đã vận dụng các tri thức về ngữ âm học vào việc nghiên cứu thi pháp học. Một loạt các vấn đề như: lý thuyết về chủ âm, hệ chủ đề ( được hình thành qua thủ pháp ngôn ngữ), chức năng thi học của ngôn ngữ, hình ảnh của từ... đã được đặt ra trong các công trình thi pháp học của Jacovson, Tomashevski...Ngoài ra, những thành tựu nghiên cứu về ngôn ngữ học tâm lý của nhà ngôn ngữ nổi tiếng Potebnia cũng bắt đầu được vận dụng vào việc phân tích các yếu tố ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật.

Những đóng góp của các nhà chủ nghĩa hình thức Nga có ý nghĩa cực kỳ to lớn cả lý thuyết lẫn thực tiễn đối với việc nghiên cứu nghệ thuật nói riêng và văn học nói chung. Chính vì thế, nhà nghiên cứu nổi tiếng người Pháp Jean Tardie đánh giá " Chủ nghĩa hình thức Nga là trường phái cách tân nhất thế kỷ" ( [13], tr12). Có thể nói, các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi hẳn một số khuynh hướng nghiên cứu văn học. Đặc biệt, sau khi lý thuyết ngôn ngữ học đại cương của F.de. Saussure ra đời thì nhiều vấn đề như: phương pháp so sánh lịch sử, phương pháp so sánh loại hình, đặc điểm tín hiệu, tính hệ thống của ngôn ngữ... ngày càng được nghiên cứu sâu. Giờ đây, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực ngữ âm nữa.


Nó đã được mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác và thậm chí cả một số vấn đề của phương pháp luận. Chính vì thế, ở Việt Nam có một số nhà ngôn ngữ học còn dùng chính các phương pháp nghiên cứu vốn quen được dùng trong ngôn ngữ học ( như phương pháp miêu tả, phương pháp cải biến, phương pháp so sánh, đối chiếu...) để nghiên cứu thơ ca nói riêng và văn học nói chung. Đó là các tác giả như Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn Phan Cảnh, Hữu Đạt, Mai Ngọc Chừ.... Tính ưu việt của cách nhìn ngôn ngữ học đối với thơ ca là ở chỗ, nó đưa đến cho ta một kiểu tư duy hoàn toàn mới về cách tiếp cận tác phẩm văn học. Còn việc áp dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học này đối với văn học sẽ cho ta những luận cứ khách quan để giải thích các hiện tượng phức tạp của văn chương mà nếu phân tích theo hướng lý luận, phê bình sẽ gặp những bế tắc không giải quyết nổi.

Nhất là những trường hợp, khi một tác phẩm có nhiều dị bản thì việc truy tìm nguyên tác càng không thể dựa vào cách nghiên cứu văn học theo con đường truyền thống. Bởi, đời sống hiện thực, xét cho cùng chỉ là môi trường mà nhà nghệ sĩ thâm nhập vào đó để tái tạo lại bóng hình của nó theo con đường sáng tạo riêng của mình. Còn ngôn ngữ mới đích thị là sản phẩm của anh ta. Nó là cái bề mặt của tác phẩm, là cái để biểu thị nên tư tưởng và các giá trị hình tượng. Nếu không thông qua thao tác làm việc của ngôn ngữ học, thì việc phân tích văn chương nói chung và thơ ca nói riêng sẽ không thoát khỏi tình trạng cảm tính, thậm chí mơ hồ. Đó là chưa nói đến các tình trạng thẩm định sai dẫn đến chỗ bình tán tùy tiện làm cho hình tượng tác phẩm bị méo mó không đúng với bản chất của nó.


Trong các thể loại của văn học, thơ là một thể loại rất độc đáo trong sử dụng ngôn ngữ. Có không ít bài thơ, nếu ta chỉ tiếp cận bằng con đường nghiên cứu theo truyền thống cũ sẽ không phát hiện được ra điều gì. Nhưng nếu tiếp cận bằng con đường ngôn ngữ học, tình hình sẽ khác hẳn. Chẳng hạn, với một số bài thơ như " Chùa Đọi" của Nguyễn Khuyến, " Nhớ đồng" của Tố Hữu...việc phân tích bằng con đường ngôn ngữ học đã làm sáng tỏ những nhầm lẫn mà lý luận phê bình văn học mắc phải hàng trăm năm và nửa thế kỷ nay.

Có không ít người đã nhầm tưởng rằng, nói tới việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học vào văn học là chỉ tới nói việc thống kê hay giải thích từ ngữ trong tác phẩm. Thực ra, đó là một cách hiểu quá đơn thuần vì vai trò của ngôn ngữ học đối với nghiên cứu văn học không chỉ dừng lại ở đó. Nó có phạm vi hoạt động rộng lớn hơn nhiều. Một mặt, nó cung cấp cho ta những cơ sở khoa học để lý giải các quá trình hình thành nên nghĩa hình tượng của tác phẩm. Mặt khác, nó còn tạo ra những khả năng đặc biệt mà bộ môn lý luận, phê bình khó có thể vươn tới được. Đó là việc vạch ra những nét đặc trưng về phong cách trong mỗi nhà văn, nhà thơ; thậm chí cao hơn, việc nghiên cứu ngôn ngữ học đối với văn học còn chỉ ra được những nét đặc trưng của phong cách thời đại hoặc phong cách của mỗi trào lưu văn học cụ thể.



Đặc biệt, với các tác phẩm thơ ca có sử dụng biện pháp chơi chữ ( như thơ Hồ Xuân Hương, thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Dương Quảng Hàm...), nếu không dùng phương pháp phân tích ngôn ngữ học thì không thể nào phát hiện ra được sự độc đáo trong cách dùng ngôn ngữ của nhà thơ cũng như tính độc đáo của tiếng Việt. Chẳng những thế, một số kết quả nghiên cứu thơ ca theo hướng này còn góp phần bổ sung, giải thích sâu hơn về mối quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, về đặc điểm loại hình ngôn ngữ cũng như về văn hóa ngôn từ của người Việt. Như thế, thực chất,dù trực tiếp hay gián tiếp nó đã làm phong phú thêm nhiều cho lý thuyết về phương pháp nghiên cứu liên ngành đối với nghiên cứu văn học.

2. Việc nghiên cứu thơ ca cổ-trung đại Việt Nam

Từ trước đến nay hầu như mới chỉ dừng lại ở phương pháp nghiên cứu truyền thống ( theo hướng xã hội lịch sử). Bởi thế, có khá nhiều hiện tượng văn học, nhà nghiên cứu vấp phải tình trạng bế tắc, không có khả năng giải quyết. Chẳng hạn, với bài thơ " Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị, nếu chỉ khảo sát theo phương pháp của lý luận, phê bình văn học thì mới chỉ phát hiện được một phần rất nhỏ tài năng và phong cách thơ ca của vị vua hay chữ này.


Nhưng khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học vào để khảo sát nó, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn đã đưa ra một kết quả độc đáo khiến ai cũng phải sững sờ. Hóa ra, về hình thức đó chỉ là một bài thất ngôn bát cú, nhưng bên trong nó lại chứa đựng một chiều sâu thăm thẳm của tư duy. Một bài thơ, nhưng có tới 128 cách đọc, tức 128 bài thơ khác nhau, với rất nhiều cách gieo vần khác nhau. Sự độc đáo này có lẽ chỉ tìm thấy ở một ngôn ngữ đơn lập điển hình kiểu như tiếng Việt chứ không thể có ở các ngôn ngữ biến hình, lập khuôn hay chắp dính...

Trước tình hình như đã nói, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học để nghiên cứu văn học là một đòi hỏi cấp bách. Có thể nói, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn là một trong các nhà ngôn ngữ học đầu tiên đã đáp ứng được đòi hỏi này. Như ta đã biết, do bối cảnh thời gian và hoàn cảnh lịch sử, cho đến nay nhiều tác phẩm văn học cổ Việt Nam ( đặc biệt là thơ chữ Hán và chữ Nôm) vẫn còn ẩn chứa rất nhiều vấn đề mà nếu nghiên cứu theo phương pháp lý luận và phê bình văn học sẽ không thể đụng chạm tới. Thứ nhất, chữ Hán và chữ Nôm vốn là loại văn tự khối vuông, có nhiều nét phức tạp.

Mỗi nét, mỗi dấu của nó đều có những ý nghĩa riêng, bởi vậy nếu chỉ mất một nét hay dấu nào, hoặc mờ một chút thì có thể gây ra những biến dạng khác nhau, dễ làm nên hiện tượng đa nghĩa hoặc mơ hồ về nghĩa. Đó chính là lý do khi sao chép lại các văn bản gốc, người viết có thể tự ý nhuận sắc lại bản thảo theo cái cách riêng của mình. Thứ hai, văn cổ Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh kỹ thuật in ấn của ta chưa hình thành hoặc hình thành rồi thì mới ở giai đoạn sơ khai ( khắc in trên gỗ). Việc sao chép văn bản được coi là phương thức chủ yếu để lưu truyền và phổ biến trong dân chúng. Việc sao chép văn bản, như đã nói, thường gây ra nhiều dị bản khác nhau đối với cùng một tác phẩm văn học.


Thời gian trôi qua, đến nay, việc xác định lại xem đâu là văn bản gốc quả không phải là chuyện dễ dàng. Nếu chỉ nghiên cứu tác phẩm văn học theo phương pháp của lý luận và phê bình văn học thì tình hình không tránh khỏi những bế tắc không thể giải quyết. Điều này chúng ta đã gặp nhiều hiện tượng như khi khảo cứu "Truyện Kiều" của Nguyên Du, "Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm, "Cung oán ngâm khúc" của Nguyễn Gia Thiều, thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ Nguyễn Trung Ngạn...

Trong bức tranh phức tạp như đã nói, việc vận dụng các thành tựu nghiên cứu của ngôn ngữ học vào nghiên cứu thơ ca cổ có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Một mặt, nó cho ta một cách nhìn mới về các văn bản nghệ thuật vốn là một kho tàng quí báu của văn hóa truyền thống và tiếng nói dân tộc.

Mặt khác, những miêu tả và phân tích theo hướng này sẽ mở ra một con đường đáng tin cậy trong cách tiếp cận văn bản. Hiệu quả tích cực của nó là, đối với các văn bản có nhiều biến thể, việc phục nguyên lại nguyên tác sẽ có những cơ sở khoa học có sức thuyết phục. Đối với các trường hợp còn nghi vấn đối với văn bản về dùng từ hay cách giải thích nghĩa, việc vận dụng các thao tác và thủ pháp phân tích ngôn ngữ học sẽ cung cấp cho ta những luận cứ xác thực để chứng minh và lý giải các hiện tượng nói trên. Đây là trường hợp Nguyễn Tài Cẩn phân tích hiện tượng độc đáo trong cách đọc bài thơ "Vũ trung sơn thủy" của Thiệu Trị [4, 340] hoặc, thơ Nguyễn Trung Ngạn {4,304], hoặc bàn lại một số câu, số chữ trong Truyện Kiều [3,37-54].... Chẳng hạn, câu 1019,1020, các bản Kiều đời Tự Đức ( 1871, 1872, 1875, 1879, 1884) đều ghi:
Kiếp này nợ giả chưa xong /Làm chi thì cũng một chồng kiếp sau

Nhưng Nguyễn Tài Cẩn sau khi phân tích những diễn biến cú pháp của nó lại cho rằng, đây là một chữ viết tắt, có thể do mờ mà người chép không nhận ra hoặc do người chép đùa nghich mà chữ "nợ" lại được đổi thành chữ "một". Bởi thế nên hiểu câu này là:

Kiếp này nợ giả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau. [3,45].

Cũng bằng phương pháp so sánh và đối chiếu, Nguyễn Tài Cẩn đã đi đến giải thích đúng đắn chữ "lạt" và chữ "nhàm" trong câu 1089,1090.

Thấy nàng lạt phấn nhàm son
Mừng thầm được Thóp bán buôn có lời.

cần được hiểu là Bạc Bà thấy Kiều đẹp đến nỗi phấn son phải nhạt đi mới chính xác. Nếu hiểu theo tinh thần như vậy thì cũng không lấy làm lạ khi có một số bản Kiều khác nhau lại thay chữ "nhàm" bằng chữ "bạt" [3, 46-47].

Sử dụng các thành tựu nghiên cứu và phương pháp của ngôn ngữ học rõ ràng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nghiên cứu văn bản nghệ thuật, đặc biệt là nghiên cứu thơ ca cổ. Nhiều kết quả nghiên cứu bằng con đường này còn khắc phục được những sai sót của quá trình dịch từ chữ Hán hoặc chữ Nôm sang chữ quốc ngữ hoặc cách hiểu chưa đúng hình tượng của từ và hình tượng tác phẩm. Chẳng hạn, Hữu Đạt trong công trình [8] đã chứng minh, chữ "nen" trong Truyện Kiều ở câu 48 không phải là động từ "nêm" hay "nen" ( chen) với nghĩa là "chen chúc" như trong cách hiểu của Từ điển Đào Duy Anh[1, 263] và như nhiều người thường nghĩ bấy lâu nay.

Theo tác giả, đây là một danh từ được dùng theo tiếng địa phương Nghệ Tĩnh là "cánh con cào cào châu chấu"[8, 144]. Còn chữ "ngài" trong câu thơ tả ThúyVân (câu 20) không phải là chữ "ngài" theo cách hiểu của Đào Duy Anh. Nó là chữ "người". Vì vậy, "nét ngài' ở đây không thể được hiểu là "lông mày" mà phải hiểu là "co người" mới đúng. Qua phân tích, ông còn chứng minh thêm, chữ "ngài" ở câu 2167 tả Từ Hải dứt khoát không phải là chữ "ngài" theo cách giải thích của cụ Đào Duy Anh với nghĩa " thứ bướm do con tằm hóa ra; cũng chỉ con tằm, tỷ dụ lông mày" [1,274] mà là chữ "đồi" ( mày của con chim đồi- một loài chim trong họ chim phượng hoàng[9, 231]. Với cách nhìn văn bản thơ từ góc độ ngôn ngữ học, tác giả Hữu Đạt đã nêu ra kết luận, trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du có ba chữ "ngài" hoàn toàn khác nhau. Đó là ba chữ đồng âm, nhưng khác nghĩa [9, 227-232].


Qua một vài ví dụ vừa nêu, ta có thể thấy tính ưu việt của phương pháp phân tích ngôn ngữ học đối với văn bản nghệ thuật. Nó càng trở nên quan trọng hơn khi đi sâu vào nghiên cứu các loại văn bản có nhiều dị bản để xác minh hoặc phục nguyên lại văn bản gốc. Khi tiến hành khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm, Nguyễn Tài Cẩn có ý thực hiện mục tiêu này.

Trước hết cần nói rằng, Đinh Nhật Thận là một danh nhân của xứ Nghệ, một vùng đất có truyền thống hiếu học và khoa cử. Ông là người đậu đầu bảng tiến sĩ thời Minh Mạng thứ 19 và là người trẻ nhất trong kỳ thi này. Với tài năng xuất chúng, nhưng sinh ra không hợp thời, Đinh Nhật Thận gặp khá nhiều trắc trở trong con đường công danh. Chỉ vì tài làm thơ mà trong thời nhiễu loạn, ông bị hiểu lầm là tay chân của Cao Bá Quát, có mưu đồ chống lại triều đình. Cuối cùng ông bị bắt giam.

"Thu dạ lữ hoài ngâm" là một tác phẩm thơ được ông sáng tác trong lúc bị giam lỏng ở kinh đô. Tác phẩm thơ này phản ánh nỗi buồn xa quê của một người có nhiều tâm sự, đồng thời cũng là bức tranh thủy mạc về cảnh đẹp của đất nước chốn Bình sơn hương thủy. Ngoài giá trị về văn học, nó còn là một cứ liệu sống động về các hiện tượng ngôn ngữ của tiếng Việt giai đoạn thế kỷ XIX. Vì thế, công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật thận qua thu dạ lữ hoài ngâm"(2) là một công trình có đóng góp quan trọng cả đối với nghiên cứu thơ cổ trung đại Việt Nam và cả về phương diện ngôn ngữ học trong khuôn khổ tìm hiểu một số vấn đề về lịch sử phát triển tiếng Việt.


2.1. Đóng góp về phương diện văn bản học

Nhờ có việc công bố cuốn sách, nay bạn đọc có thể xác định được cái văn bản có khả năng gần với nguyên tác nhất là bản chép tay do người cháu đích tôn của Đinh Nhật Thận tặng lại cho ông Nguyễn Tài Chất. Đây là văn bản hiện được ông Nguyễn Tài Cẩn lưu giữ và dùng làm cơ sở để so sánh, đối chiếu với các văn bản khác. Đó là các bản 1902 ( tức bản Trường Thịnh Đường in mộc bản mùa đông năm Nhâm Dần đời Thành Thái) và bản Nguyễn Văn Đề được công bố ở cuốn "Trong 99 chóp núi" do Hà Xuân Tề đề tựa ngày 4 tháng 7 năm 1941, tại Huế. Trước hết cần khẳng định, đây là một đóng góp hết sức quí về mặt tư liệu của anh em Nguyễn Tài Chất và Nguyễn Tài Cẩn đối với việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ đơn thuần là một tài liệu có giá trị về mặt ngữ văn mà còn là một tài liệu quí về phương diện sử học.

2.2. Những đóng góp của Nguyễn Tài Cẩn về mặt ngôn ngữ học

Trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn chủ yếu phương pháp thống kê, so sánh và đối chiếu để phân tích văn bản. Ngoài ra, trong một số trường hợp cần thiết, ông còn dùng phương pháp thay thế, giả định để chứng minh những chữ, những từ đáng nghi vấn kết hợp với việc phẩm bình văn chương từ góc độ cảm thụ ở một chừng mức vừa đủ nhằm làm sáng rõ các luận cứ trình bày. Trên đại thể, có thể coi đây là một phương pháp nghiên cứu tổng hợp, lấy góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học làm cơ sở. Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi

Với một bản văn học cổ, nếu việc phiên bản không chính xác tất sẽ dẫn đến tình trạng xộc xệch, thậm chí mâu thuẫn giữa hình thức văn tự và nội dung biểu đạt của nó. Chỉ riêng việc thống kê ra những trường hợp có những hiện tượng khả nghi về sự sai sót hay nhầm lẫn cũng đã là một việc hết sức công phu, đòi hỏi ngoài sự kiên trì còn phải có khả năng tinh tế trong thụ cảm ngôn ngữ. Nhờ có vốn uyên thâm về Hán học, lại thêm tri thức hiện đại về ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn đã chọn lọc và tách ra được rất nhiều hiện tượng liên quan đến sự thiếu nhất quán trong cách sử dụng ngôn ngữ của ba loại văn bản hiện có.

Với một sự lao động cần mẫn, tỉ mỉ và thật sự khoa học, ông đã cung cấp cho người đọc nhiều điều vô cùng thú vị về những biến đổi trong quá trình hành chức của các đơn vị ngôn ngữ ở mỗi cấp độ khác nhau. Trong toàn bộ phần nghiên cứu cơ bản ( tập trung ở chương II phần I ), ông đã cố gắng đứng ở vị trí thật khách quan khoa học để lý giải những chỗ còn nghi vấn từng câu thơ, đoạn thơ và trong toàn bộ tác phẩm. Thao tác nghiên cứu mà ông thực hiện tập trung nhất là luôn luôn hướng vào việc so sánh ba bản chép tay và khắc in, sau đó đối chiếu từng đoạn, từng câu, thậm chí từng từ trong bản của Nguyễn Tài Chất và hai bản còn lại.

Chính vì thế, ông đã đưa ra những nhận xét rất đáng tin cậy. Cụ thể, sau khi khảo sát 980 chữ của toàn bộ bài thơ, ông đã tìm ra 85 trường hợp được dùng với các dị bản khác nhau ( tr 18). Đây quả là một con số không nhỏ. Nó cảnh báo cho ta những lưu ý cần thiết khi tiếp cận không chỉ với "Thu dạ lữ hoài ngâm" mà còn cả với các tác phẩm thơ cổ điển khác nữa. Còn riêng trong công trình này, Nguyễn Tài Cẩn đã tổng kết một số sai sót tạo thành qui luật. Cụ thể, với bản của Nguyễn Văn Đề, ông lưu ý một số trường hợp:

+Cách viết mâu thuẫn với cách đọc.
Ví dụ: đọc là "tiêu điều" thì lại khắc là "vạn điều"(câu 59), đọc là "thùy" lại in là "thính"( câu 83)...
+Cách đọc không nhất trí với các từ điển Hán Việt. Ví dụ: "Diệt" được đọc thành "duyệt" ( câu 63), "ngọ mị" được đọc thành "mụ mị" ( câu 65)...
+ Viết sai so với chữ Hán bình thường. Ví dụ: Chữ "di" ở câu 9, chữ "tăng" ở câu 47...

Với bản của Nguyễn Tài Chất, ông cũng cho rằng có nhiều chỗ sai do nhớ nhầm. Chẳng hạn, đổi "sơ liêm" thành "rèm thưa" (câu 2), "lưỡng tam thanh" lại chép thành"lưỡng tam chi"...

Qua đối chiếu từng câu, từng chữ trong mỗi dị bản, Nguyễn Tài Cẩn đã phát hiện trong bản 1902 có nhiều sai sót hơn cả ( tr 16-17). Đó chính là lý do ngôn ngữ học để ông nhận định, trong ba bản nói trên thì bản của Nguyễn Tài Chất và bản của Nguyễn Văn Đề gần với nguyên tác hơn.

Tất nhiên, để nêu lên được những nhận định và kết luận có tính khái quát như vậy, Nguyễn Tài Cẩn đã phải vận dụng cách tư duy ngôn ngữ học để miêu tả và phân tích các hiện tượng. Đây là phần nghiên cứu công phu nhất.

Chẳng hạn, khi phân tích câu 35 và câu 36:

An năng mộ mộ......................... hiên
Phong dao đình trúc, nguyệt huyền ốc lương"

ông cho rằng không nên dùng "tây hiên" mà phải dùng "thư hiên" như trong bản của Nguyễn Tài Chất mới hợp lý. Bởi, " rõ ràng chỉ ở trong THƯ HIÊN thì chuyện "thấy được trăng treo trên tường nhà" mới có giá trị [5, 20].

Nếu phương pháp so sánh và đối chiếu giúp ông có thể phát hiện ra được những sai sót, nhầm lẫn của từng văn bản thì biện pháp phân tích theo cách nhìn hệ thống lại giúp cho ông có được cách nhìn bao quát để đánh giá việc hợp lý trong cách sử dụng các biến thể. Nói một cách khác, đó chính là việc lựa chọn các khả năng có thể có ở cùng một vị trí kết hợp để tìm ra một từ/một chữ có nghĩa nét nhất trong việc xây dựng hình tượng đồng thời đảm bảo tính liên kết hệ thống của văn bản.

Chẳng hạn, khi phân tích câu 121, ông cho rằng, việc dùng chữ "kì huynh" như bản 1902 và bản của Nguyễn Văn Đề " Kì huynh diệc viết hạnh tai" là chưa đạt vì chữ "kỳ" mơ hồ, không rõ nghĩa. Trong khi đó, bản của Nguyễn Văn Chất lại dùng chữ "ngô" (= ta) thì lại ăn khớp với chữ "ngô" trong câu 123 sau đó [5, 20].


Nói đến hoạt động của ngôn ngữ thơ ca không thể không nói tới thao tác lựa chọn. Nhà ngôn ngữ học đồng thời là nhà nghiên cứu thi pháp học nổi tiếng Jacovson đã từng nhấn mạnh, nguyên tắc hoạt động của ngôn ngữ thơ là "chức năng thi ca đem nguyên lý tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp [14,56].

Việc lựa chọn một yếu tố nào đấy trên trục tương đương/ trục hệ hình hoàn toàn không có tính ngẫu nhiên mà nó được qui định bởi văn cảnh. Do vậy, với câu thơ 129 và 130, theo các tư liệu mà Nguyễn Tài Cẩn đưa ra so sánh có thể cho phép ta nhận định, ở câu 129 thì nên dùng từ"sau" thay cho từ "nhà" như bản Nguyễn Văn Đề và Nguyễn Tài Chất, còn ở câu 130 thì nên dùng"hồi hương" như bản Nguyễn Văn Đề chứ không dùng "hồi trang" như bản của Nguyễn Tài Chất và bản 1902. Bởi, dùng từ "sau" thì câu 129 mới liên kết chặt chẽ với câu 127 theo quan hệ tiếp nối thời gian. Còn dùng từ "hồi trang" thì câu 129 không tạo thành vần thông với câu thơ tiếp theo đó ( câu 131). Cụ thể, đoạn thơ này sẽ là như sau:

Từ phen cất chén quan hà
Vị thành lúc ấy rồi mà Dương quan
Sau chẳng biết ngoài miền Bắc động
Hai anh ta có chóng hồi hương
Thương ôi đồng bệnh cùng thương
Một Tần lại một Tiêu tương một thời.


Ngoài việc vận dụng các thao tác phân tích ngôn ngữ học, Nguyễn Tài Cẩn còn hết sức quan tâm đến quan hệ tiếp xúc ngôn ngữ và văn hóa giữa tiếng Hán và tiếng Việt để bổ sung thêm một số căn cứ khoa học giúp cho việc nhận diện các hiện tượng còn tồn nghi hoặc chưa có kiến giải rõ ràng. Bởi vậy, có thể xem chương III của Phần I là chương củng cố các lập luận được trình bày trong phần khảo sát văn bản thuộc chương II. Tại chương này, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng của thơ chữ Hán đối với thơ Việt làm theo thể Đường luật, nhưng cũng nhấn mạnh đến những điểm khác biệt do quá trình diễn biến lịch sử.

Cụ thể, ông nhấn mạnh đến ảnh hưởng xấu của cách gieo vần không hài hòa trong thơ Hán Việt vào thơ ngũ ngôn, thất ngôn thuần Nôm [5,109]. Ngoài ra, ông còn lưu ý độc giả quá trình diễn biến của cách đọc HánViệt đến lúc này đã xa so với tiếng Hán thời Quảng Vận, cho nên văn bản thơ đang khảo sát khó bảo lưu được 100% sự đồng vận theo qui tắc của thơ tiếng Hán. Chính vì thế, ông kết luận "hiện tượng gieo vần mất hài hòa là một hiện tượng các nhà thơ Việt bắt buộc phải chấp nhận. Và khi đã quen chấp nhận trong thơ Hán Việt thì dần dần họ cũng áp dụng sang cả thơ Nôm" [5, 120].


Những kết quả nghiên cứu rất có giá trị của công trình " Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm ", một lần nữa lại cho thấy vai trò quan trọng của việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu và các thao tác phân tích ngôn ngữ học đối với thơ ca, đặc biệt là đối với thơ cổ trung đại Việt Nam. Đó cũng là một công trình có đóng góp không nhỏ vào việc hình thành môn thi pháp ngôn ngữ học trong nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật.




____

Chú:
(1) Nxb ĐHQG Hà Nội năm 2008.
(2) Đinh Nhật Thận, tự là Từ Úy, hiệu Bạch Mao Am, sinh năm Ất Hợi 1815 tại xóm Xuân Vinh, làng Thanh Liêu, Tổng Cát Ngạn nay là xã Thanh Tiên, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.Theo nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh, ông là chắt nội của Hấu đốc Lĩnh Đinh Nho Côn. mất năm Bính Dần (1866) tại quê nhà.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
Đào Duy Anh.1974. Từ điển Truyện Kiều. Nxb KHXH.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2002.Tư liệu Truyện Kiều Bản Duy Minh Trị 1872. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Tài Cẩn.2001. Một số chứng tích về ngôn ngữ, văn tự và văn hóa. Nxb ĐHQG Hà Nội. Nguyễn Tài Cẩn.2008.Khảo sát về thơ Đinh Nhật Thận qua Thu dạ lữ hoài ngâm. Nxb ĐHQG Hà Nội.
Nguyễn Phan Cảnh.1988. Ngôn ngữ thơ. Nxb ĐH&THCN.
Mai Ngọc Chừ. 2005 . Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng của ngôn ngữ học. Nxb VHTT.
Hữu Đạt. 1993. Jazưk kak Vietnamskoi poezii. Rossiiskaja Akademija nauk. Institut Jazưkoznanija. Moskva
Hữu Đạt. 1996. Đặc điểm của ngôn ngữ thơ và ca dao nhìn từ góc độ giao tiếp. Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
Hữu Đạt. 2000. Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Nxb KHXH.
Hữu Đạt. 2007. "Đất nước"- một hình tượng đặc sắc về Tổ quốc và sự cách tân trong ngôn ngữ thơ. Tạp chí Thơ, số 6.
Hữu Đạt. 2007. Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng trong quá trình tiếp cận hình tượng thơ. Tạp chí Ngôn ngữ, số 11. Nghệ thuật như là thủ pháp. 2001. Nxb Hội Nhà văn.
Roman Jacovson.2001. Ngôn ngữ học và thi học. Tạp chí Ngôn ngữ, số 14.


Hữu Đạt
http://huudat.net/%28A%28rER8ecj3ygEkAAAAYjllNjQzZjUtZWU5Ny00MzcwLWE3YzYtYWUyOGEzYzk3MjIxXLFrxK6mKjNQ4thM2wGQlnLcD7o1%29S%28npifypy2cwskvc55wergwnvy%29%29/ShowArticle.aspx?ID=31

***
Khởi công ngày 15 tháng 2 năm 2010
Hoàn thành ngày 20 tháng 3 năm 2010
Nguyễn Thiên Thụ



No comments: