*
DANIEL GRANDCLÉMENT
Dịch giả:Nguyễn Văn Sự.
Nhà xuất bản: Phụ Nữ,2006
LỜI ĐỀ TỰA
Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: BAO DAI ou les derniers jours de l'empire d'Annam - Nhà xuất bản JC Lattès - 1997
****
Ảnh trong truyện là sưu tầm riêng của Nguyễn Học, không phải của tác giả cuốn truyện.
CÂY PHẢ HỆ CỦA VƯƠNG TRIỀU NHÀ NGUYỄN
Ghi chú : Những số tương thích chỉ thứ tự của các vị hoàng đế đã trị vì.
hết: LỜI ĐỀ TỰA, xem tiếp: Chương 1 |
Daniel Grandclément
BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM
PHẦN I
HOÀNG ĐẾ
Chương 1
Tin đồn rộ lên trước hết trên đường phố kinh đô Huế. Thành phố đầy bụi và ẩm ướt như bừng tỉnh.
Người ta kháo nhau từ nhà này sang nhà khác, từ chùa chiền đến chợ búa vào tận các cung các phủ, gây sửng sốt cho mọi người dân sống trong khu phố Tây tĩnh lặng lẫn các phố buôn bán náo nhiệt, các thôn xóm tồi tàn bao quanh tường hào hoàng cung. Đâu đâu người ta cũng bàn tán khấp khởi hi vọng Vua Bảo Đại trở về nước nhiếp chính chắc đất nước sẽ đổi mới.
Nguồn tin chính thức do những người Pháp làm việc ở Toà Khâm sứ Trung Kỳ loan ra(1). Như mọi lần, phải hàng giờ sau mới đến lượt dân phố chợ dọc sông Hương xôn xao tranh luận ầm ĩ. Lúc đầu mới chỉ quanh các sạp hàng trong chợ sau đó lan ra các hàng quán bên ngoài, dân đi chợ mua bán xong, sà vào các hàng ăn, thưởng thức món bún canh, hay bánh xèo đặc sản xứ Huế. Người ta thì thầm to nhỏ rỉ tai nhau, nhưng chẳng mấy chốc đã lớn tiếng bình phẩm vui vẻ pha chút tự hào kín đáo.
Ảnh: Vua Khải Định và con trai Vĩnh Thuỵ (Bảo Đại) tại Paris, 1922
Vậy là vị Hoàng đế trẻ tuổi sắp trở về. Ông ta lại một lần nữa ngắm nhìn thần dân, nhếch đôi môi mỏng khẽ mỉm cười nheo mắt, hoặc gật đầu ra vẻ tán thưởng. Ông sẽ vắt vẻo ngồi trên chiếc ngai vàng của tổ tiên để lại và cũng như họ, lặng lẽ khinh rẻ nhìn đám quan lại khom lưng trước mặt Hoàng đế tung hô vạn tuế. Ông sẽ là một đấng quân vương anh minh, nhân từ được người Pháp không tiếc lời ca ngợi.
Cũng như các bậc tiên đế, ông trở thành con của Trời - Thiên tử, nửa là thần thánh trên cao, nửa là con người trần thế, là đấng thượng đẳng toàn năng ở hạ giới người giữ thế cân bằng cho mọi tầng lớp trong xã hội, từ nông dân đến dân chài, từ thường dân đến binh sĩ. Mọi người thấy ở ông nguồn ánh sáng chỉ đường, làm trọng tài giữa thiện và ác, hết thảy đều sùng bái, tôn thờ ông như mặt trời, như sấm sét dưới bầu trời.
Ở cái xứ An Nam nóng nực và căng thẳng này, tất cả mọi người, bất kể làm nghề gì, giàu sang hay nghèo hèn, địa vị xã hội ra sao, đều say sưa bàn tán về chính trị, Từ đầu thế kỷ, các trào lưu tư tưởng, các phong trào cách mạng đã khuấy động họ. Đa số dân xứ Huế đều hân hoan hoặc dù sao thì cũng hài lòng với việe phục hưng ngai vàng đã bị bỏ trống từ khi vua Khải Định băng hà. Ngay cả những người cách mạng, những nhà quốc gia cực đoan tất cả đều bực bội, thấy như bị sỉ nhục trước sự bàng quan của hàng triệu người Việt Nam khác ở Sài Gòn hay Hà Nội coi cố đô Huế như thuộc về quá khứ rồi.
Đám đông người hiếu kỳ, những người lái đò trên sông Hương lân la đến tận Ngọ môn, khu vực đẹp nhất kinh thành để đọc cáo thị, nhất là những đạo dụ của triều đình.
Một đạo dụ xác nhận ý nguyện của dân chúng. Vua Bảo Đại sẽ trở về - Một xứ sở lạ lùng phân chia thành ba miền Trung, Nam, Bắc, với ba chế độ cai trị khác nhau ở mỗi miền biệt lập nhau nhưng tất cả đều phục tùng luật pháp chung của quan thầy Pháp. Nhà vua chỉ có quyền hành ở Trung Kỳ, cái xứ nhỏ bé, rất nghèo và rất xa cách các trào lưu trên thế giới. Nước Việt Nam trước đây qui tụ ba miền nay thực tế không còn nữa.
Nội dung đạo dụ rõ ràng, cho biết chính xác tháng 9 năm 1932 vua Bảo Đại sẽ về nước, đúng dịp kỷ niệm ngày sinh thứ 20 của Ngài.
Thật đúng lúc! Bảo Đại đã ra đi từ khá lâu rồi, gần 10 năm, thần dân đang sốt ruột ngóng chờ. Tờ La Dépêche Coloniale (2) (Tin điện thuộc địa) tán tụng: "Đức Vua có biết hàng triệu thần dân đang ngắm sao, ngóng gió, nhìn mây nước để cố tiên đoán triều đại mới sẽ ra sao không?".
Báo chí trong nước đã đăng nhiều bài về thời gian học tập chuyên cần của Nhà vua ở phương Tây qua các ngày lễ lạt, tưởng niệm và những hoạt động tiêu biểu khác mà ông đã phải tham dự. Nhưng chỉ ghi chép theo lối biên niên, được tô màu lòe loẹt về những sự việc, những hoạt động lễ tân, báo trướe vai trò tương lai của ông không đủ nữa. Hình ảnh Nhà vua đã gần phai lạt trong trí nhớ người dân cày An Nam. Chỉ còn lại tấm ảnh đã vàng ố về ngày lễ đăng quang tráng lệ năm nào.
Ảnh: Bảo Đại đăng quang năm 1926
Bảo Đại lên ngôi ngày 8 tháng 1 năm 1926 ở tuổi 13. Đang học ở Paris từ bốn năm nay, ông phải tạm nghỉ để về nước làm lễ đăng quang vương miện trong những nghi thức trọng thể và oai nghiêm như bất kỳ vị vua mới nào. Chưa có cải cách gì trong các nghi thức.
Ngày hôm đó, đứng trên chiếc ngai đặt dưới một cái tán rộng, đầu đội mũ miện dát châu ngọc, được trang điểm như một chiếc hòm đựng Thánh tích, vị Thiên tử thiếu niên lọt thỏm trong chiếc áo dài rực rỡ, thêu hình các cành lá bằng vàng. Chân đi ủng lụa đen, vị tân quân - thiếu niên trong tư thế uy nghi đứng trước văn võ bá quan sụp lạy trước mặt. Lạy là một nghi thức tôn kính. Người thực hiện phải cúi rạp mình, trán chạm đất để tỏ lòng kính trọng và thuần phục bề trên. Hai nhà sử học Pháp là các ông Teston và Percheron đã được tham dự lễ đăng quang viết: "Người ta có cảm tưởng mơ hồ rằng một kỷ nguyên mới bắt đầu, Nhà vua trẻ tuổi sẽ đem lại một nỉềm hy vọng bao la..."(3).
Trời mưa bụi, hạt mưa ken dày thành một màn sương xám xịt bao trùm lên buổi lễ. Nhà vua cảm thấy ngột ngạt hầu như bất động, đứng rụt cổ một cách thảm hại trong hoàng bào rực rỡ. Nét mặt cố giữ tươi tỉnh nhưng gượng gạo, khó hiểu. Như chán ngán trước tiết tấu chậm chạp và lộng lẫy của buổi lễ.
Sau lễ đăng quang, đáng lẽ Bảo Đại đã có thể ở lại hoàng cung, thay thế vua cha đã băng hà, đảm đương nhiếp chính. Công việc trị dân dưới chế dộ bảo hộ chẳng nặng nhọc gì. Đã có các quan đại thần phụ chính, đức Hoàng Thái hậu, quan Tổng lý Nội các đứng đầu cơ mật viện phò tá nhất là các quan chức người Pháp không thiếu. Lời khuyên và quyền lực của họ có thể bù đắp cho tuổi đời còn quá trẻ của Nhà vua.
Nhưng không thế, Nhà vua lại ra đi, tiếp tục công việc học tập ở Pháp. Làm lễ tấn tôn nhận vương miện chẳng qua là một nghi thức, triều đình vẫn quyết định vị vua trẻ tuổi phải quay trở lại con đường học vấn như lời vua cha quá cố căn dặn, để có đủ tài trí đưa đất nướe ganh đua được với thế giới. Một quan nhiếp chính đ
Chắc chắn là không có gì quan trọng bằng việc dựa vào nền bảo hộ Pháp, thông qua Paris, đưa đất nước tiến lên theo kiểu Pháp, là Pháp hoá tối đa. Sau gần một thế kỷ tự khép mình trong chủ nghĩa bảo thủ, triều Nguyễn nhận ra rằng phải tiến kịp thế giới, phải đi đây đi dó, xem xét và học hỏi các nước phương tây. Sau này, vua Bảo Đại phải là ngườí chỉ ra con đường canh tân xứ sở, là hiện thân của chính sách mở cửa đang ngự trị trên thế giới lúc bấy giờ.
Việc tự nguyện xuất dương thời đó không có gì lạ và ngoại lệ. Trong những năm 20 của thế kỷ, sang Pháp cũng thời thượng như đi sang nước Anh hay Thuỵ Sĩ. Con cháu các bậc vua chúa các nước xa xôi đến Pháp rất đông, kể cả các vị vua đã thoái vị hay bị lưu đày, hay đi làm "cách mạng". Không nói đến các cuộc viếng thăm liên tục của các vua đang trị vì, đến Pháp nghỉ mát ở La Rivera hay Deauville. Trong số này, không thể tránh được sớm hay muộn, có những người muốn ở lại lâu dài không muốn quay về nước mình nữa.
Như vậy, để chính thức trở thành vua, chàng hoàng tử thiếu niên chỉ phải tạm nghỉ học một thời gian ngắn tại một trường nổi tiếng trưởng giả có tên là Hattemer.
Sang Pháp từ lúc 9 tuổi, vị Hoàng đế đã mang cốt cách người dân Paris, được dạy dỗ ở thủ đô, đi dạo chơi trên đường phố thủ đô, nếm trải đủ thú vui của kinh thành, sống trong một khung cảnh phương tây xa cách thần dân trong nước. Cũng tuổi thơ tầm thường vô vị như các vương tôn công tử khác, nhưng không biết đến cuộc sống trong nhung lụa bạc vàng đầy bí ẩn nơi cung cấm. Triều đình cử một bậc túc nho đi theo sang Pháp để dạy Vua học thêm chữ Hán và các khuôn phép phương đông nhưng các ông thẩy người Pháp đã nhanh chóng cách ly ông.
Thời khoá biểu trong những năm niên thiếu của Bảo Đại đã được quy định chặt chẽ, chính xác, thích hợp với việc dạy làm vua trong tương lai.
Một viên chức cao cấp người Pháp chịu trách nhiệm trông nom dạy dỗ. Hàng ngày, cứ vào buổi trưa, đi học về, Bảo Đại đến gia đình ông Charles ở phố Bourdonnais và ở đó không được đi đâu cho đến chiều tối. Ông Charles chính là cựu Khâm sứ Pháp tại Huế, thay mặt nhà nước bảo hộ tại kinh đô An Nam, thời thơ ấu của Nhà vua. Khi ông về Pháp, vua cha Khải Định đã uỷ thác cho ông Charles trông nom Bảo Đại. Ông là con người độ lượng và khoan dung chẳng những ân cẩn và chu đáo theo dõi từng bước việc học tập tại trường mà trong dịp hè còn đưa Bảo Đại đi nghỉ ở Vichy hay tại nhà riêng ở Prades. Có thể nói ông Charles coi Bảo Đại gần như con cháu trong nhà.
Ngoài giờ lên lớp buổi sáng, thời gian còn lại là làm những bài tập rất chuyên cần cùng với vài người đồng hương. Các ông thầy người Việt được cử đến dạy chữ Hán và lịch sử An Nam, chắc chắn là các môn học phụ này không có kết quả cho lắm. Sau này về nước cầm quyền bính Bảo Đại thú nhận rằng ông ta gần như hoàn toàn không biết gì về lịch sử triều đại đã dẫn đến việc quyền hành bị nước ngoài thâu tóm như thế nào.
Sau đó, Bảo Đại học lên trung học ở trường Condorcet, rồi trường Khoa học chính trị. Ông sống trong một căn nhà dành riêng cho ông tại 13 phố Lamballe trong ngôi nhà riêng dành cho ông. Theo báo LAsie Nouvelle (Châu Á mới) kể lại, ngoài thời gian học, Bảo Đại chơi thể thao. Đây là một điều mới mẻ, một cuộc cách mạng đối với hoàng gia(4). Những ảnh chụp lúc đó cho thấy Bảo Đại mặc trang phục quần vợt, quần soóc, áo thun trắng, hay trang phục của người chơi gôn, trượt tuyết. Lúe nào chàng thanh niên cũng ăn mặc chỉnh tề, trau chuốt, lịch sự, điển trai. Có thể hơi quá một chút như một tài tử điện ảnh, một công tử bột của những năm 30, hợp với những thú vui Paris hơn là hoạt động chính trường.
Hình ảnh cũng như sự nổi danh đó sẽ gây phiền phức cho ông ta sau này. Thậm chí báo chí đã tố cáo nước Pháp đã có dụng ý làm hư hỏng một thanh niên, biến anh ta thành con người nhu nhược, kém nghị lực, chỉ biết vâng lời.
Bảo Đại thích thú với cách sống như vậy cho đến năm 1932, đã trở thành thói quen đến mức không dễ dàng thay đổi. Trong lúc bố cáo đã được niêm yết ở cửa Ngọ môn báo tin Hoàng đế hồi loan khiến hàng triệu người dân Việt ngóng trông thì ông vẫn còn do dự hình như chưa dứt khoát quyết định sẽ trở về nước.
Một buổi chiều tháng 5, ông cẩn thận đóng cánh cửa chiếc xe ô tô mình dài, mui gấp hiệu Delahaye của ông.
Ông là người say mê chơi ô tô, ở tuổi 16 ông ta đã sở hữu trong tay nhiều kiểu ôtô. Ông có các xe tốc độ cao để đi vào các đường phố thủ đô hay đi trên đường cao tốc từ Cannes đến Deauville. Ông lái xe sành điệu cũng như sau này lái các máy bay thể thao và trong săn bắn tài thiện xạ thể hiện rõ mỗi khi ông cầm súng rình một con hổ. Đối với ông cái đẹp pha chút hiểm nguy để được hưởng thụ trọn vẹn, với một chút kiểu cách, một chút xu thời cộng thêm một chút sang trọng và eũng rất gần với cái chết và sự tàn bạo. Một thái độ cổ điển của các công tử ham chơi bời của thời đại nhưng ông đã làm nổi bật tính cách đó bằng tài nghệ riêng của ông. Ông là người có năng khiếu, lái xe giỏi và nhanh, thoải mái, bình tĩnh mỗi khi tăng tốc độ, biết sử dụng tính năng của động cơ, không mất thời gian để gây ấn tượng như những tay chơi kiểu cách nhưng đôi khi cũng suýt gây tai nạn khi quành một chỗ rẽ.
Ngày hôm đó, ông lái xe trên quốc lộ 7. Ông vừa kết thúc mấy tiếng đồng hồ vui vẻ, sau khi thành lập được một Câu lạc bộ những người chơi du thuyền y-át ở Cannes. Đó là chuyện thường tình trong cuộc sống của ông. Trong lúc tay ông còn chạm cần tốc độ trong chiếc xe cao tốe Delahaye, ông đã thầm nghĩ đến cuộc sống nay mai ở nước An Nam xa xôi kia, ông đã thoáng rùng mình e ngại.
Ở đây, tại nước Pháp, cuộc sống của ông dễ dãi, huy hoàng, có phần phù phiếm, vô bổ. Ông cũng biết thế nhưng sẵn sàng thích nghi với nó. Trời đã phú cho ông tính ham thích những thú vui chốc lát. Cuộc sống tối tăm trong hoàng thành Huế cùng với sự tôn kính của thần dân làm ông chán ngán. Ông biết lắm? Chiếc xe lướt trong đêm sẽ đưa ông đến một cái bẫy trong đó chắc chắn ông sẽ mất hết lẽ sống. Cuộc sống ở đây chẳng có gì phấn khởi, cũng chẳng quí tộc gì để giữ ông ở lại, nhưng ông không thích làm vua. Ông thích cuộc sống thật của ông. Tốc độ, đàn bà và đàn đúm với bạn bè.
Chính phủ Pháp không phải là không biết tính ông chẳng ham thích gì trách nhiệm của vị đế vương. Về thái độ không mấy hăng hái trở về, ông Chatel, thư ký của Phủ Toàn quyền viết: "Tôi tự hỏi không biết ông Bảo Đại có luôn luôn tìm cách trì hoãn thêm nữa việc trở về nước không. Nếu tôi tin vào tâm sự của một số người gần gũi với ông ta thì quả là ông ta tỏ ra không sốt sắng lắm, không vội vã trở về để trị vì"(5). Về phần ông Charles, ông cũng thông báo cho các bộ trưởng có liên quan về tâm trạng Bảo Đại, học trò của ông. Ông đã cẩn thận để Bảo Đại tránh tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, thoát khỏi ảnh hưởng bất lợi, nhưng đã không thành công trong việc làm cho Bảo Đại ham muốn quyền lực. Tuy nhiên tình hình không cho phép trì hoãn thêm nữa: Tại Đông Dương đã nổ ra hai cuộc bạo loạn khiến chính phủ đặc biệt lo ngại: Một của những phần tử quốc gia thân Trung Quốc và một do sáng kiến của những người cộng sản. Cuộc nổi dậy thứ nhất thường được gọi là cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra tháng 2 năm 1930. Năm mươi lính khố đỏ đóng tại dồn binh Yên Bái đã quay súng chống lại chỉ huy người Pháp. Cuộc nổi dậy đã nhanh chóng lan ra một số đồn nhỏ quanh vùng. Nhưng cuộc nổi dậy đã bị nhấn chìm trong biển máu, gây ra một sự xúc động lớn ở Đông Dương và ở Pháp. Mấy tháng sau, hàng vạn nông dân Nghệ An ở miền trung nổi dậy chống lại chủ đồn điền thực dân người Pháp và các chức dịch người Việt. Thiếu đói lại bị sưu cao thuế nặng, họ tống cổ các quan chức trong bộ máy cai trị hợp pháp và thay bằng những Uỷ ban do dân chúng cử ra. Cuối cùng 6000 người biểu tình tuần hành về thành phố Vinh, thủ phủ tỉnh Nghệ An, quân đội lê dương đã chặn họ lại và lại đổ máu nữa!".
Các hồ sơ lưu trữ của Phủ Toàn quyền Pháp cho biết cùng thời gian đó triều đình Huế cũng sôi sục những mưu toan thủ đoạn thầm lén. Các quan thượng thư trong triều cũng không ngồi yên. Công việc điều hành nhiếp chính trở nên khó khăn. Quan đại thần đứng đầu Viện cơ mật cũng gây không ít khó khăn cho chính quyền bảo hộ.
Tại Paris, chính nghị viện cũng sục sôi đòi cải tổ. Edouard Daladier, thay mặt cho phe cấp tiến và Marius Moutet, thuộc đảng xã hội, cả hai tố cáo "nồi hơi" Đông Dương đang sôi sùng sục. Trước mắt, nhờ đàn áp các cuộc phản kháng người ta đã giữ để không bị bật nắp. Tình hình đã có phần lắng dịu, lúc này Nhà vua có thể trở về nước.
Làm sao có thể thuyết phục được Nhà vua trẻ lên đường về nước. Chỉ mình ông mới có thể tháo gỡ cuộc khủng hoảng, trở thành một đồng minh của nền bảo hộ mới, tự do hơn và quan tâm hơn đến lợi ích của người An Nam.
Eugène Chatel ngày càng tỏ ra bực bội trước những do dự của Bảo Đại. Ngồi trong văn phòng của ông tại Hà Nội, ông liên tiếp đưa các đề nghị, cố sức làm cho ngày trở về của Bảo Đại thành một màn kịch tán dương và thành phố Huế sầu thảm trở thành một thành phố thời thượng(6). Bảo Đại là quân cờ cần thiết, có vai trò chính trên bàn cờ Việt Nam. Trong lúc này, ông vua trẻ vẫn ở hàng dự bị, sống thu mình ở chính quốc là điều không tưởng tượng được. Ông ta phải trở về bằng bất cứ giá nào, và chính quyền bảo hộ đã sẵn sàng trả giá cho việc này. Chatel, con người thông minh và nhiều mưu mô xảo quyệt ra sức tô vẽ cho dự án. Ngày này sang ngày khác, bức tranh do viên chủ sự đáng nể trọng của Phủ Toàn quyền Đông Dương phác hoạ ngày càng đầy đặn, mang dáng vẻ sử thi và tính anh hùng ca. Để chuyến trở về của vị vua trẻ này được huy hoàng tráng lệ, người ta đã hứa sẽ làm như César ở kinh đô La Mã hay Napoléon ở Austerlitz. Phải làm cho nước An Nam có sức hấp dẫn nhất là biết giữ ông ta ở lại đó nếu may ra vị Hoàng đế cuối cùng chấp nhận từ bỏ các thú vui tắm biển hay thói ăn chơi của xã hội thượng lưu.
Trong lúc ông Chatel bóp trán nghĩ ra mọi điều có thể cám dỗ vị Hoàng đế trẻ, thì tiết xuân ẩm ướt ở Bắc Kỳ còn dễ chịu hơn thường lệ. Năm đó không một trò vui nào ở vườn hoa hay các cuộc dạo chơi tổ chức quanh hồ Hoàn Kiếm có thể làm xua tan được cái cảm tưởng bất an và nghi ngờ dai dẳng trong tâm trí người dân xứ Bắc. Không nản chí, viên Tổng thư ký Phủ Toàn quyền viết nhiều báo cáo về Bộ Thuộc địa, biện hộ sự cần thiết cần có nghi thức thật tráng lệ huy hoàng, đòi chi thêm tiền, thêm điều kiện dễ dàng. Tương lai của triều đại phụ thuộc một phần vào các điều kiện vật chất và tinh thần cho việc trở về. Ông viết trong báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931: "Chúng ta nên cố gắng, không tiếc sức..."(7).
Từ bây giờ vai trò của vị Hoàng đế trẻ tuổi đáng để các cấp cao nhất của Nhà nước Pháp phải chú ý đến số phận của ông ta. Vì lẽ đó các kế hoạch do viên Tổng thư ký Phủ Toàn quyền đề đạt đã được thông qua ở cấp cao nhất.
Trước hết là cuộc hành trình trở về nước. Phải tổ chức thật rầm rộ như một đám rước mang tính phô trương. Ông Chatel khẩn khoản xin để các tàu chiến đến đón vua khi chuyển từ tàu viễn dương tại cảng Sài Gòn rồi đưa thẳng về Đà Nẵng sau đó mới ra Huế bằng đường bộ. Bản báo cáo nhấn mạnh tất cả các nghi lễ phải được tiến hành trọng thể tối đa.
Ai sẽ tháp tùng Nhà vua khi trở về nước? Dĩ nhiên là vợ chồng ông Charles. Tốt hơn là hai ông bà nên đi sớm để không gây cảm tưởng rằng Nhà vua hãy còn ở "tuổi vị thành niên kéo dài, nói một cách khác, còn quá trẻ con để làm cái việc trọng đại là cai trị muôn dân". Ngoài ra cũng nên để một số người An Nam đi theo. Một danh sách ngắn ngủi được đưa ra nhưng ít người biết rõ là gồm những ai. Còn ông Chatel thì "lăng xê" ngay một chiến dịch quảng bá rùm beng để ít nhất chấm dứt thái độ nửa lạnh lùng của dân chúng. Nhiều cuộc nói chuyện được tổ chức cho các quan lại, công chức, học sinh. Báo chí nên bỏ đi lối đưa tin có vẻ chính thức như đăng tải các thông cáo, chỉ thị, hướng dẫn của Toà Khâm sứ Trung Kỳ ban ra mà viết dưới dạng đưa tin bình thường kèm các phóng sự, cảm nghĩ của dân chúng trước sự kiện trọng đại này. Cuối cùng là ảnh chân dung Bảo Đại. Các độc giả mua báo dài hạn sẽ được phát không ảnh chân dung cỡ lớn đồng thời hàng vạn bưu ảnh in chân dung vị vua trẻ tuổi cũng được phát hành rộng rãi. Điện ảnh cũng được huy động vào công việc tuyên truyền này. Chính quyền Bảo hộ sẽ tài trợ bằng cách mua lại những đoạn phim thời sự quay quang cảnh đón rước, các nghi lễ tiếp tân... và sẽ được chiếu rộng rãi trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng ông Chatel còn đi xa hơn nữa. Ông lấy làm vui thích khi đưa ra những sáng kiến mới cho việc tuyên truyền này. Ví như ông nghĩ ra việc sáng tác những bài hát theo kiểu hát xẩm ngoài phố mà nội dung hướng về ca ngợi vị tân Hoàng đế. Phủ Toàn quyền Đông Dương thấy cần phải sáng tác ra các điệp khúc ca ngợi sự nghiệp vinh quang của Nhà vua. Khoảng một chục nhạc sĩ sáng tác được huy động để bắt tay vào việc, sao cho bài hát phải giản dị, dễ hiểu hợp niêm luật với các làn điệu dân ca, ai cũng có thể hát và thuộc lòng. Trong việc quảng cáo này, dù sử dụng các phương tiện như thế nào, sự can thiệp của chính quyền phải được giữ kín. Những báo cáo dài lê thê của ông Tổng thư ký Phủ Toàn quyền gửi về Paris đụng tới mọi lĩnh vực, ngay cả những lĩnh vực thầm kín nhất. Chính quyền biết rằng không phải đơn thuần là niềm kiêu hãnh hay sự lòe loẹt sẽ quyết định vai trò của vị vua trẻ. Một lần nữa phải làm mọi việc để ông ta có ý muốn nắm lấy con thuyền quốc gia mà các nhà đương cục Pháp đã chuẩn bị cho ông. Toà điện bao la sẽ được dùng làm tư dinh của Nhà vua - điện Kiến Trung, một trong mười hai toà điện nguy nga trong Tử Cấm thành phải được tân trang lại. Xây một cung điện mới thì tốn kém quá, nhưng mặt ngoài của cái cung điện cũ kỹ kia sẽ giữ nguyên còn bên trong thì cái chính là cần sắp xếp lại, thay đồ đạc bên trong quá cổ lỗ, cải tạo nội thất, thay thế đồ trang trí cũ. Về đây Nhà vua có thể cảm thấy mình đơn độc giữa các ông già râu dài hủ lậu của Tử Cấm thành.
Các nhà đương cục sẽ đưa đến đây những bạn bè thanh niên cùng trang lứa, có thể trở thành bạn thân, có nhiệm vụ tái tạo từng phần môi trường xung quanh Nhà vua, tạo một khung cảnh vàng son và thân thiện để ông quen dần mà tiến hoá theo. Chính quyền Bảo hộ bổ nhiệm một loạt sĩ quan và viên chức trẻ. Những thanh niên độc thân được giáo dục tốt và tác phong giao tiếp tuyệt vời và nhất là phải kín đáo.
Chính quyền còn có ý định luôn thay thế bằng những người mới (3 năm/lần) để họ không gây được ảnh hưởng quá lớn đối với Nhà vua. Còn phụ nữ? Có điều lạ là vấn đề này không được đề cập đến trong báo cáo mật của ông Chatel được coi như nhà ảo thuật của phủ Toàn quyền, nhưng đó là những vấn đề tự nhiên là phải có và thực tế không gây ra khó khăn thật sự nào.
Còn những tin đồn ác ý được nêu ra trong một bức thư của Bộ Thuộc địa ngày 24 tháng Giêng năm 1926 nói rằng Bảo Đại không phải con vua Khải Định đã quá cố, mà đúng là con của một trong các bà phi của Khải Định với một nhân vật quý tộc trong triều. Lại phải làm mọi việc để những tin đồn như thế phải được dập tắt ngay?(8)
Nhưng ta không nên dừng lại ở một vài biện pháp liên quan chủ yếu đến những tiện nghi trong cuộc sống của Nhà vua. Ông Chatel không đánh giá thấp vấn đề này. Ông còn lôi kéo Nhà vua bằng những đòn có tiếng vang lớn về chính trị. Nhà vua phải đạt được những thành tích hiển nhiên, tiến hành những cải cách phổ cập rộng rãi để dân chúng thấy rằng đất nước của họ nay đã tìm được người đứng đầu chính đáng. Chính quyền bảo hộ liền chuẩn bị một loạt biện pháp giả danh cách mạng sẽ được ban bố khi Nhà vua trở về.
Hồ sơ dày cộm những bản báo cáo dài đều đi đến kết luận như nhau: nước An Nam cần có một vị Hoàng đế thật sự thông minh, biết điều khiển thành thạo và có hiệu lực bộ máy cai trị bao gồm những quan lại trung thực, tiên tiến. Những người này sẽ truyền đạt những quyết định của cấp trên để thực hiện ở cấp xã thôn là những tế bào cơ sở của xã hội An Nam. Tất cả đều hoàn hảo, tiến hành theo hình tháp, lôgic và đơn giản.
Những viên chức của chính quyền bảo hộ không muốn thấy đứng đầu Triều đình là những ông vua điên dại ốm yếu (như Thành Thái) hay biến chất (như Duy Tân) khiến họ phải cai trị trực tiếp mà chính họ cũng không muốn. Chính quyền bảo hộ muốn có một ông vua được đào tạo có bài bản, được rèn luyện, biết suy nghĩ đúng đắn gần giống như họ. Nhưng các bản báo cáo đó, thường là sáng suốt và khôn khéo, cho thấy rõ không một quyết định của Nhà vua dù ít màu nhiệm nhất, cũng không thể đem lại hiệu quả nên không được quan Toàn quyền hay Thống sứ, Khâm sứ người Pháp ký tắt trước. Tất cả mọi người đều tập dượt trong trò chơi kỳ cục đó để bộ máy hai trăm công chức người Pháp có thể điều khiển tám triệu người An Nam. Gần như một bài tập về phong cách. Một bài học về chủ nghĩa thực dân. Tất cả đều phải tế nhị và chặt chẽ. Để được như thế phải có một ông vua. Trình độ học vấn vừa đủ, tất nhiên là thân Pháp, chắc chắn là phải thông minh, nhưng con chim quý đó không được coi mình là cứu tinh của nhân dân như Jeanne d Are của nước Pháp hay như hai chị em Bà Trưng năm 41 đã đuổi quân Hán khỏi Việt Nam. Tóm lại, vị vua đó phải có đủ trí, đủ tài trừ cái tính cách và tính cả gan chống lại họ. Vậy vua Bảo Đại có phải là con người chính quyền bảo hộ đang tìm đến không? Nhưng trước hết và ngay cả trước khi đặt ra vấn đề này, Bảo Đại phải rời khỏi Paris, phải chấp nhận một thời hạn đã được chính phủ Pháp ấn định phù hợp với số mệnh, là tháng 9 năm 1932.
Chiếc xe Delahaye đỗ trước cửa căn nhà phố Lamballe ở lưng chừng đồi Passy. Ánh sáng còn chiếu sáng ở tầng cuối cùng. Những người thân cận của Nhà vua đều có mặt. Một người anh em họ, một cận vệ đều là những bạn bè chí cốt và hiếm hoi lâu nay của ông.
Hết thảy mọi người đều ép Nhà vua trở về nước nắm quyền bính. Tất cả, như ông Chatel, như Bộ trưởng Thuộc địa hay Bộ trưởng Ngoại giao cho đến cả Tổng thống Pháp cũng cho biết niềm vui mừng được thấy Nhà vua trở về. Xem ra khó mà từ chối kế hoạch mà ông Chatel đã dày công chuẩn bị. Không còn có chuyện lần lữa, tìm một cái cớ hay điều bất trắc cuối cùng để từ chối lên đường. Chiều hôm đó, Bảo Đại đã chấp nhận. Được, ông ta sẽ trở về mảnh đất tổ tiên. Nhưng trước khi rời Paris mà ông hằng yêu mến, ông nói rõ ông có ý định sẽ quay trở lại Pháp. Và sẽ trở lại luôn hoặc lâu lâu mới trở lại. Ông đòi hỏi điều này và được chấp nhận.
Việc trở về An Nam của Hoàng đế là một hành động có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị. Đã có sớm một giải pháp mà hai mươi năm sau người ta gọi là "giải pháp Bảo Đại". Từ chục năm nay, vua kế vị làm lễ đăng quang rồi mà ngai vàng vẫn để trống. Nước Pháp đã gây cảm tưởng là một mình cai trị An Nam. Việc Nhà vua trở về, trước mắt mọi người, phải chứng minh cho ý muốn của nước Pháp là muốn giảm nhẹ sự bảo hộ của mình. Theo các điều khoản của Hiệp ước ký 50 năm trước, chính quyền bảo hộ lo việe giúp đỡ, tổ chức và bảo vệ Đông Dương, còn công việc nội trị trong từng nước trên bán đảo sẽ do nhân dân nước đó tiến hành. Thời gian qua những quy tắc đẹp đẽ đó đã trở thành điều hoàn toàn tưởng tượng.
Hoàng đế An Nam trở về ngự trị ngai vàng của mình là dấu hiệu cho thế giới và dư luận về một bước ngoặt trong chính sách thuộc địa của Paris, trở lại với tinh thần của Hiệp ước 1884.
Cũng vào thời điểm này, ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp họp kín tại 120 phố Chateaudun. Tám người có mặt, một người Âu và bảy người Việt. Trong chương trình nghị sự có mục: "Hoàng đế trở về nước và việc ám sát Bảo Đại". Tất cả mọi người có mặt đều tuyên bố ủng hộ việc xử tử Bảo Đại. Sẽ tổ chức bốc thăm, ai trúng sẽ được giao thi hành nhiệm vụ.
Một người tên là Phạm Văn Điều được chỉ định thực hiện bản án tử hình Bảo Đại ở Paris. Một người Việt khác tên là Nguyễn Đình Tính tức "Blinov" có trách nhiệm tổ chức một vụ thứ hai, lần này ở Marseille khi Nhà vua bước lên cầu tàu thuỷ(9).
Chú thích:
(1) Nơi làm việc của Khâm sứ Trung Kỳ, người đứng đầu bộ máy cai trị thuộc địa ở miền Trung nhưng lại thay mặt cho Chính phủ Pháp, đúng hơn là Bộ Thuộc địa trong việc giao thiệp với Triều đình Huế. Đứng đầu bộ máy cai trị thuộc địa toàn Đông Dương bao gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào là Toàn quyền Đông Dương đặt trụ sở tại Hà Nội.
(2) Ra ngày 31 tháng 8 năm 1932.
(3) L Asie Nouvelle (Châu Á mới) ra ngày 31 tháng 5 năm 1936.
(4) Bảo Đại được gọi không phân biệt khi là Vua An Nam bao gồm các tỉnh miền Trung, khi là Hoàng đế An Nam xưa của tổ tiên để lại vì trước đây bao gồm Trung, Nam, Bắc Kỳ và cả hai nước chư hầu Cao Miên và Lào.
(5) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - SPCE 476 (Phòng Báo chí quân đội viễn chinh) và Louis Roubaud, Viet Nam, la tragédie indochinoise (Việt Nam, tấn thảm kịch Đông Dương).
(6) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931.
(7) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - SPCE 476 (Phòng báo chí quân đội viễn chinh)
(8) CAOM, lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE, 476 (Phòng báo chí quân đội viễn chinh Pháp).
(9) Lưu trữ Mật thám Fontainebleau (Hồ sơ Lưu trữ "Người Nga").
*
Bảo Đại - Hay Những Ngày Cuối Cùng Của Vương Quốc An NamNgười ta kháo nhau từ nhà này sang nhà khác, từ chùa chiền đến chợ búa vào tận các cung các phủ, gây sửng sốt cho mọi người dân sống trong khu phố Tây tĩnh lặng lẫn các phố buôn bán náo nhiệt, các thôn xóm tồi tàn bao quanh tường hào hoàng cung. Đâu đâu người ta cũng bàn tán khấp khởi hi vọng Vua Bảo Đại trở về nước nhiếp chính chắc đất nước sẽ đổi mới.
Nguồn tin chính thức do những người Pháp làm việc ở Toà Khâm sứ Trung Kỳ loan ra(1). Như mọi lần, phải hàng giờ sau mới đến lượt dân phố chợ dọc sông Hương xôn xao tranh luận ầm ĩ. Lúc đầu mới chỉ quanh các sạp hàng trong chợ sau đó lan ra các hàng quán bên ngoài, dân đi chợ mua bán xong, sà vào các hàng ăn, thưởng thức món bún canh, hay bánh xèo đặc sản xứ Huế. Người ta thì thầm to nhỏ rỉ tai nhau, nhưng chẳng mấy chốc đã lớn tiếng bình phẩm vui vẻ pha chút tự hào kín đáo.
Ảnh: Vua Khải Định và con trai Vĩnh Thuỵ (Bảo Đại) tại Paris, 1922
Vậy là vị Hoàng đế trẻ tuổi sắp trở về. Ông ta lại một lần nữa ngắm nhìn thần dân, nhếch đôi môi mỏng khẽ mỉm cười nheo mắt, hoặc gật đầu ra vẻ tán thưởng. Ông sẽ vắt vẻo ngồi trên chiếc ngai vàng của tổ tiên để lại và cũng như họ, lặng lẽ khinh rẻ nhìn đám quan lại khom lưng trước mặt Hoàng đế tung hô vạn tuế. Ông sẽ là một đấng quân vương anh minh, nhân từ được người Pháp không tiếc lời ca ngợi.
Cũng như các bậc tiên đế, ông trở thành con của Trời - Thiên tử, nửa là thần thánh trên cao, nửa là con người trần thế, là đấng thượng đẳng toàn năng ở hạ giới người giữ thế cân bằng cho mọi tầng lớp trong xã hội, từ nông dân đến dân chài, từ thường dân đến binh sĩ. Mọi người thấy ở ông nguồn ánh sáng chỉ đường, làm trọng tài giữa thiện và ác, hết thảy đều sùng bái, tôn thờ ông như mặt trời, như sấm sét dưới bầu trời.
Ở cái xứ An Nam nóng nực và căng thẳng này, tất cả mọi người, bất kể làm nghề gì, giàu sang hay nghèo hèn, địa vị xã hội ra sao, đều say sưa bàn tán về chính trị, Từ đầu thế kỷ, các trào lưu tư tưởng, các phong trào cách mạng đã khuấy động họ. Đa số dân xứ Huế đều hân hoan hoặc dù sao thì cũng hài lòng với việe phục hưng ngai vàng đã bị bỏ trống từ khi vua Khải Định băng hà. Ngay cả những người cách mạng, những nhà quốc gia cực đoan tất cả đều bực bội, thấy như bị sỉ nhục trước sự bàng quan của hàng triệu người Việt Nam khác ở Sài Gòn hay Hà Nội coi cố đô Huế như thuộc về quá khứ rồi.
Đám đông người hiếu kỳ, những người lái đò trên sông Hương lân la đến tận Ngọ môn, khu vực đẹp nhất kinh thành để đọc cáo thị, nhất là những đạo dụ của triều đình.
Một đạo dụ xác nhận ý nguyện của dân chúng. Vua Bảo Đại sẽ trở về - Một xứ sở lạ lùng phân chia thành ba miền Trung, Nam, Bắc, với ba chế độ cai trị khác nhau ở mỗi miền biệt lập nhau nhưng tất cả đều phục tùng luật pháp chung của quan thầy Pháp. Nhà vua chỉ có quyền hành ở Trung Kỳ, cái xứ nhỏ bé, rất nghèo và rất xa cách các trào lưu trên thế giới. Nước Việt Nam trước đây qui tụ ba miền nay thực tế không còn nữa.
Nội dung đạo dụ rõ ràng, cho biết chính xác tháng 9 năm 1932 vua Bảo Đại sẽ về nước, đúng dịp kỷ niệm ngày sinh thứ 20 của Ngài.
Thật đúng lúc! Bảo Đại đã ra đi từ khá lâu rồi, gần 10 năm, thần dân đang sốt ruột ngóng chờ. Tờ La Dépêche Coloniale (2) (Tin điện thuộc địa) tán tụng: "Đức Vua có biết hàng triệu thần dân đang ngắm sao, ngóng gió, nhìn mây nước để cố tiên đoán triều đại mới sẽ ra sao không?".
Báo chí trong nước đã đăng nhiều bài về thời gian học tập chuyên cần của Nhà vua ở phương Tây qua các ngày lễ lạt, tưởng niệm và những hoạt động tiêu biểu khác mà ông đã phải tham dự. Nhưng chỉ ghi chép theo lối biên niên, được tô màu lòe loẹt về những sự việc, những hoạt động lễ tân, báo trướe vai trò tương lai của ông không đủ nữa. Hình ảnh Nhà vua đã gần phai lạt trong trí nhớ người dân cày An Nam. Chỉ còn lại tấm ảnh đã vàng ố về ngày lễ đăng quang tráng lệ năm nào.
Ảnh: Bảo Đại đăng quang năm 1926
Bảo Đại lên ngôi ngày 8 tháng 1 năm 1926 ở tuổi 13. Đang học ở Paris từ bốn năm nay, ông phải tạm nghỉ để về nước làm lễ đăng quang vương miện trong những nghi thức trọng thể và oai nghiêm như bất kỳ vị vua mới nào. Chưa có cải cách gì trong các nghi thức.
Ngày hôm đó, đứng trên chiếc ngai đặt dưới một cái tán rộng, đầu đội mũ miện dát châu ngọc, được trang điểm như một chiếc hòm đựng Thánh tích, vị Thiên tử thiếu niên lọt thỏm trong chiếc áo dài rực rỡ, thêu hình các cành lá bằng vàng. Chân đi ủng lụa đen, vị tân quân - thiếu niên trong tư thế uy nghi đứng trước văn võ bá quan sụp lạy trước mặt. Lạy là một nghi thức tôn kính. Người thực hiện phải cúi rạp mình, trán chạm đất để tỏ lòng kính trọng và thuần phục bề trên. Hai nhà sử học Pháp là các ông Teston và Percheron đã được tham dự lễ đăng quang viết: "Người ta có cảm tưởng mơ hồ rằng một kỷ nguyên mới bắt đầu, Nhà vua trẻ tuổi sẽ đem lại một nỉềm hy vọng bao la..."(3).
Trời mưa bụi, hạt mưa ken dày thành một màn sương xám xịt bao trùm lên buổi lễ. Nhà vua cảm thấy ngột ngạt hầu như bất động, đứng rụt cổ một cách thảm hại trong hoàng bào rực rỡ. Nét mặt cố giữ tươi tỉnh nhưng gượng gạo, khó hiểu. Như chán ngán trước tiết tấu chậm chạp và lộng lẫy của buổi lễ.
Sau lễ đăng quang, đáng lẽ Bảo Đại đã có thể ở lại hoàng cung, thay thế vua cha đã băng hà, đảm đương nhiếp chính. Công việc trị dân dưới chế dộ bảo hộ chẳng nặng nhọc gì. Đã có các quan đại thần phụ chính, đức Hoàng Thái hậu, quan Tổng lý Nội các đứng đầu cơ mật viện phò tá nhất là các quan chức người Pháp không thiếu. Lời khuyên và quyền lực của họ có thể bù đắp cho tuổi đời còn quá trẻ của Nhà vua.
Nhưng không thế, Nhà vua lại ra đi, tiếp tục công việc học tập ở Pháp. Làm lễ tấn tôn nhận vương miện chẳng qua là một nghi thức, triều đình vẫn quyết định vị vua trẻ tuổi phải quay trở lại con đường học vấn như lời vua cha quá cố căn dặn, để có đủ tài trí đưa đất nướe ganh đua được với thế giới. Một quan nhiếp chính đ
Chắc chắn là không có gì quan trọng bằng việc dựa vào nền bảo hộ Pháp, thông qua Paris, đưa đất nước tiến lên theo kiểu Pháp, là Pháp hoá tối đa. Sau gần một thế kỷ tự khép mình trong chủ nghĩa bảo thủ, triều Nguyễn nhận ra rằng phải tiến kịp thế giới, phải đi đây đi dó, xem xét và học hỏi các nước phương tây. Sau này, vua Bảo Đại phải là ngườí chỉ ra con đường canh tân xứ sở, là hiện thân của chính sách mở cửa đang ngự trị trên thế giới lúc bấy giờ.
Việc tự nguyện xuất dương thời đó không có gì lạ và ngoại lệ. Trong những năm 20 của thế kỷ, sang Pháp cũng thời thượng như đi sang nước Anh hay Thuỵ Sĩ. Con cháu các bậc vua chúa các nước xa xôi đến Pháp rất đông, kể cả các vị vua đã thoái vị hay bị lưu đày, hay đi làm "cách mạng". Không nói đến các cuộc viếng thăm liên tục của các vua đang trị vì, đến Pháp nghỉ mát ở La Rivera hay Deauville. Trong số này, không thể tránh được sớm hay muộn, có những người muốn ở lại lâu dài không muốn quay về nước mình nữa.
Như vậy, để chính thức trở thành vua, chàng hoàng tử thiếu niên chỉ phải tạm nghỉ học một thời gian ngắn tại một trường nổi tiếng trưởng giả có tên là Hattemer.
Sang Pháp từ lúc 9 tuổi, vị Hoàng đế đã mang cốt cách người dân Paris, được dạy dỗ ở thủ đô, đi dạo chơi trên đường phố thủ đô, nếm trải đủ thú vui của kinh thành, sống trong một khung cảnh phương tây xa cách thần dân trong nước. Cũng tuổi thơ tầm thường vô vị như các vương tôn công tử khác, nhưng không biết đến cuộc sống trong nhung lụa bạc vàng đầy bí ẩn nơi cung cấm. Triều đình cử một bậc túc nho đi theo sang Pháp để dạy Vua học thêm chữ Hán và các khuôn phép phương đông nhưng các ông thẩy người Pháp đã nhanh chóng cách ly ông.
Thời khoá biểu trong những năm niên thiếu của Bảo Đại đã được quy định chặt chẽ, chính xác, thích hợp với việc dạy làm vua trong tương lai.
Một viên chức cao cấp người Pháp chịu trách nhiệm trông nom dạy dỗ. Hàng ngày, cứ vào buổi trưa, đi học về, Bảo Đại đến gia đình ông Charles ở phố Bourdonnais và ở đó không được đi đâu cho đến chiều tối. Ông Charles chính là cựu Khâm sứ Pháp tại Huế, thay mặt nhà nước bảo hộ tại kinh đô An Nam, thời thơ ấu của Nhà vua. Khi ông về Pháp, vua cha Khải Định đã uỷ thác cho ông Charles trông nom Bảo Đại. Ông là con người độ lượng và khoan dung chẳng những ân cẩn và chu đáo theo dõi từng bước việc học tập tại trường mà trong dịp hè còn đưa Bảo Đại đi nghỉ ở Vichy hay tại nhà riêng ở Prades. Có thể nói ông Charles coi Bảo Đại gần như con cháu trong nhà.
Ngoài giờ lên lớp buổi sáng, thời gian còn lại là làm những bài tập rất chuyên cần cùng với vài người đồng hương. Các ông thầy người Việt được cử đến dạy chữ Hán và lịch sử An Nam, chắc chắn là các môn học phụ này không có kết quả cho lắm. Sau này về nước cầm quyền bính Bảo Đại thú nhận rằng ông ta gần như hoàn toàn không biết gì về lịch sử triều đại đã dẫn đến việc quyền hành bị nước ngoài thâu tóm như thế nào.
Sau đó, Bảo Đại học lên trung học ở trường Condorcet, rồi trường Khoa học chính trị. Ông sống trong một căn nhà dành riêng cho ông tại 13 phố Lamballe trong ngôi nhà riêng dành cho ông. Theo báo LAsie Nouvelle (Châu Á mới) kể lại, ngoài thời gian học, Bảo Đại chơi thể thao. Đây là một điều mới mẻ, một cuộc cách mạng đối với hoàng gia(4). Những ảnh chụp lúc đó cho thấy Bảo Đại mặc trang phục quần vợt, quần soóc, áo thun trắng, hay trang phục của người chơi gôn, trượt tuyết. Lúe nào chàng thanh niên cũng ăn mặc chỉnh tề, trau chuốt, lịch sự, điển trai. Có thể hơi quá một chút như một tài tử điện ảnh, một công tử bột của những năm 30, hợp với những thú vui Paris hơn là hoạt động chính trường.
Hình ảnh cũng như sự nổi danh đó sẽ gây phiền phức cho ông ta sau này. Thậm chí báo chí đã tố cáo nước Pháp đã có dụng ý làm hư hỏng một thanh niên, biến anh ta thành con người nhu nhược, kém nghị lực, chỉ biết vâng lời.
Bảo Đại thích thú với cách sống như vậy cho đến năm 1932, đã trở thành thói quen đến mức không dễ dàng thay đổi. Trong lúc bố cáo đã được niêm yết ở cửa Ngọ môn báo tin Hoàng đế hồi loan khiến hàng triệu người dân Việt ngóng trông thì ông vẫn còn do dự hình như chưa dứt khoát quyết định sẽ trở về nước.
Một buổi chiều tháng 5, ông cẩn thận đóng cánh cửa chiếc xe ô tô mình dài, mui gấp hiệu Delahaye của ông.
Ông là người say mê chơi ô tô, ở tuổi 16 ông ta đã sở hữu trong tay nhiều kiểu ôtô. Ông có các xe tốc độ cao để đi vào các đường phố thủ đô hay đi trên đường cao tốc từ Cannes đến Deauville. Ông lái xe sành điệu cũng như sau này lái các máy bay thể thao và trong săn bắn tài thiện xạ thể hiện rõ mỗi khi ông cầm súng rình một con hổ. Đối với ông cái đẹp pha chút hiểm nguy để được hưởng thụ trọn vẹn, với một chút kiểu cách, một chút xu thời cộng thêm một chút sang trọng và eũng rất gần với cái chết và sự tàn bạo. Một thái độ cổ điển của các công tử ham chơi bời của thời đại nhưng ông đã làm nổi bật tính cách đó bằng tài nghệ riêng của ông. Ông là người có năng khiếu, lái xe giỏi và nhanh, thoải mái, bình tĩnh mỗi khi tăng tốc độ, biết sử dụng tính năng của động cơ, không mất thời gian để gây ấn tượng như những tay chơi kiểu cách nhưng đôi khi cũng suýt gây tai nạn khi quành một chỗ rẽ.
Ngày hôm đó, ông lái xe trên quốc lộ 7. Ông vừa kết thúc mấy tiếng đồng hồ vui vẻ, sau khi thành lập được một Câu lạc bộ những người chơi du thuyền y-át ở Cannes. Đó là chuyện thường tình trong cuộc sống của ông. Trong lúc tay ông còn chạm cần tốc độ trong chiếc xe cao tốe Delahaye, ông đã thầm nghĩ đến cuộc sống nay mai ở nước An Nam xa xôi kia, ông đã thoáng rùng mình e ngại.
Ở đây, tại nước Pháp, cuộc sống của ông dễ dãi, huy hoàng, có phần phù phiếm, vô bổ. Ông cũng biết thế nhưng sẵn sàng thích nghi với nó. Trời đã phú cho ông tính ham thích những thú vui chốc lát. Cuộc sống tối tăm trong hoàng thành Huế cùng với sự tôn kính của thần dân làm ông chán ngán. Ông biết lắm? Chiếc xe lướt trong đêm sẽ đưa ông đến một cái bẫy trong đó chắc chắn ông sẽ mất hết lẽ sống. Cuộc sống ở đây chẳng có gì phấn khởi, cũng chẳng quí tộc gì để giữ ông ở lại, nhưng ông không thích làm vua. Ông thích cuộc sống thật của ông. Tốc độ, đàn bà và đàn đúm với bạn bè.
Chính phủ Pháp không phải là không biết tính ông chẳng ham thích gì trách nhiệm của vị đế vương. Về thái độ không mấy hăng hái trở về, ông Chatel, thư ký của Phủ Toàn quyền viết: "Tôi tự hỏi không biết ông Bảo Đại có luôn luôn tìm cách trì hoãn thêm nữa việc trở về nước không. Nếu tôi tin vào tâm sự của một số người gần gũi với ông ta thì quả là ông ta tỏ ra không sốt sắng lắm, không vội vã trở về để trị vì"(5). Về phần ông Charles, ông cũng thông báo cho các bộ trưởng có liên quan về tâm trạng Bảo Đại, học trò của ông. Ông đã cẩn thận để Bảo Đại tránh tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam, thoát khỏi ảnh hưởng bất lợi, nhưng đã không thành công trong việc làm cho Bảo Đại ham muốn quyền lực. Tuy nhiên tình hình không cho phép trì hoãn thêm nữa: Tại Đông Dương đã nổ ra hai cuộc bạo loạn khiến chính phủ đặc biệt lo ngại: Một của những phần tử quốc gia thân Trung Quốc và một do sáng kiến của những người cộng sản. Cuộc nổi dậy thứ nhất thường được gọi là cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra tháng 2 năm 1930. Năm mươi lính khố đỏ đóng tại dồn binh Yên Bái đã quay súng chống lại chỉ huy người Pháp. Cuộc nổi dậy đã nhanh chóng lan ra một số đồn nhỏ quanh vùng. Nhưng cuộc nổi dậy đã bị nhấn chìm trong biển máu, gây ra một sự xúc động lớn ở Đông Dương và ở Pháp. Mấy tháng sau, hàng vạn nông dân Nghệ An ở miền trung nổi dậy chống lại chủ đồn điền thực dân người Pháp và các chức dịch người Việt. Thiếu đói lại bị sưu cao thuế nặng, họ tống cổ các quan chức trong bộ máy cai trị hợp pháp và thay bằng những Uỷ ban do dân chúng cử ra. Cuối cùng 6000 người biểu tình tuần hành về thành phố Vinh, thủ phủ tỉnh Nghệ An, quân đội lê dương đã chặn họ lại và lại đổ máu nữa!".
Các hồ sơ lưu trữ của Phủ Toàn quyền Pháp cho biết cùng thời gian đó triều đình Huế cũng sôi sục những mưu toan thủ đoạn thầm lén. Các quan thượng thư trong triều cũng không ngồi yên. Công việc điều hành nhiếp chính trở nên khó khăn. Quan đại thần đứng đầu Viện cơ mật cũng gây không ít khó khăn cho chính quyền bảo hộ.
Tại Paris, chính nghị viện cũng sục sôi đòi cải tổ. Edouard Daladier, thay mặt cho phe cấp tiến và Marius Moutet, thuộc đảng xã hội, cả hai tố cáo "nồi hơi" Đông Dương đang sôi sùng sục. Trước mắt, nhờ đàn áp các cuộc phản kháng người ta đã giữ để không bị bật nắp. Tình hình đã có phần lắng dịu, lúc này Nhà vua có thể trở về nước.
Làm sao có thể thuyết phục được Nhà vua trẻ lên đường về nước. Chỉ mình ông mới có thể tháo gỡ cuộc khủng hoảng, trở thành một đồng minh của nền bảo hộ mới, tự do hơn và quan tâm hơn đến lợi ích của người An Nam.
Eugène Chatel ngày càng tỏ ra bực bội trước những do dự của Bảo Đại. Ngồi trong văn phòng của ông tại Hà Nội, ông liên tiếp đưa các đề nghị, cố sức làm cho ngày trở về của Bảo Đại thành một màn kịch tán dương và thành phố Huế sầu thảm trở thành một thành phố thời thượng(6). Bảo Đại là quân cờ cần thiết, có vai trò chính trên bàn cờ Việt Nam. Trong lúc này, ông vua trẻ vẫn ở hàng dự bị, sống thu mình ở chính quốc là điều không tưởng tượng được. Ông ta phải trở về bằng bất cứ giá nào, và chính quyền bảo hộ đã sẵn sàng trả giá cho việc này. Chatel, con người thông minh và nhiều mưu mô xảo quyệt ra sức tô vẽ cho dự án. Ngày này sang ngày khác, bức tranh do viên chủ sự đáng nể trọng của Phủ Toàn quyền Đông Dương phác hoạ ngày càng đầy đặn, mang dáng vẻ sử thi và tính anh hùng ca. Để chuyến trở về của vị vua trẻ này được huy hoàng tráng lệ, người ta đã hứa sẽ làm như César ở kinh đô La Mã hay Napoléon ở Austerlitz. Phải làm cho nước An Nam có sức hấp dẫn nhất là biết giữ ông ta ở lại đó nếu may ra vị Hoàng đế cuối cùng chấp nhận từ bỏ các thú vui tắm biển hay thói ăn chơi của xã hội thượng lưu.
Trong lúc ông Chatel bóp trán nghĩ ra mọi điều có thể cám dỗ vị Hoàng đế trẻ, thì tiết xuân ẩm ướt ở Bắc Kỳ còn dễ chịu hơn thường lệ. Năm đó không một trò vui nào ở vườn hoa hay các cuộc dạo chơi tổ chức quanh hồ Hoàn Kiếm có thể làm xua tan được cái cảm tưởng bất an và nghi ngờ dai dẳng trong tâm trí người dân xứ Bắc. Không nản chí, viên Tổng thư ký Phủ Toàn quyền viết nhiều báo cáo về Bộ Thuộc địa, biện hộ sự cần thiết cần có nghi thức thật tráng lệ huy hoàng, đòi chi thêm tiền, thêm điều kiện dễ dàng. Tương lai của triều đại phụ thuộc một phần vào các điều kiện vật chất và tinh thần cho việc trở về. Ông viết trong báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931: "Chúng ta nên cố gắng, không tiếc sức..."(7).
Từ bây giờ vai trò của vị Hoàng đế trẻ tuổi đáng để các cấp cao nhất của Nhà nước Pháp phải chú ý đến số phận của ông ta. Vì lẽ đó các kế hoạch do viên Tổng thư ký Phủ Toàn quyền đề đạt đã được thông qua ở cấp cao nhất.
Trước hết là cuộc hành trình trở về nước. Phải tổ chức thật rầm rộ như một đám rước mang tính phô trương. Ông Chatel khẩn khoản xin để các tàu chiến đến đón vua khi chuyển từ tàu viễn dương tại cảng Sài Gòn rồi đưa thẳng về Đà Nẵng sau đó mới ra Huế bằng đường bộ. Bản báo cáo nhấn mạnh tất cả các nghi lễ phải được tiến hành trọng thể tối đa.
Ai sẽ tháp tùng Nhà vua khi trở về nước? Dĩ nhiên là vợ chồng ông Charles. Tốt hơn là hai ông bà nên đi sớm để không gây cảm tưởng rằng Nhà vua hãy còn ở "tuổi vị thành niên kéo dài, nói một cách khác, còn quá trẻ con để làm cái việc trọng đại là cai trị muôn dân". Ngoài ra cũng nên để một số người An Nam đi theo. Một danh sách ngắn ngủi được đưa ra nhưng ít người biết rõ là gồm những ai. Còn ông Chatel thì "lăng xê" ngay một chiến dịch quảng bá rùm beng để ít nhất chấm dứt thái độ nửa lạnh lùng của dân chúng. Nhiều cuộc nói chuyện được tổ chức cho các quan lại, công chức, học sinh. Báo chí nên bỏ đi lối đưa tin có vẻ chính thức như đăng tải các thông cáo, chỉ thị, hướng dẫn của Toà Khâm sứ Trung Kỳ ban ra mà viết dưới dạng đưa tin bình thường kèm các phóng sự, cảm nghĩ của dân chúng trước sự kiện trọng đại này. Cuối cùng là ảnh chân dung Bảo Đại. Các độc giả mua báo dài hạn sẽ được phát không ảnh chân dung cỡ lớn đồng thời hàng vạn bưu ảnh in chân dung vị vua trẻ tuổi cũng được phát hành rộng rãi. Điện ảnh cũng được huy động vào công việc tuyên truyền này. Chính quyền Bảo hộ sẽ tài trợ bằng cách mua lại những đoạn phim thời sự quay quang cảnh đón rước, các nghi lễ tiếp tân... và sẽ được chiếu rộng rãi trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng ông Chatel còn đi xa hơn nữa. Ông lấy làm vui thích khi đưa ra những sáng kiến mới cho việc tuyên truyền này. Ví như ông nghĩ ra việc sáng tác những bài hát theo kiểu hát xẩm ngoài phố mà nội dung hướng về ca ngợi vị tân Hoàng đế. Phủ Toàn quyền Đông Dương thấy cần phải sáng tác ra các điệp khúc ca ngợi sự nghiệp vinh quang của Nhà vua. Khoảng một chục nhạc sĩ sáng tác được huy động để bắt tay vào việc, sao cho bài hát phải giản dị, dễ hiểu hợp niêm luật với các làn điệu dân ca, ai cũng có thể hát và thuộc lòng. Trong việc quảng cáo này, dù sử dụng các phương tiện như thế nào, sự can thiệp của chính quyền phải được giữ kín. Những báo cáo dài lê thê của ông Tổng thư ký Phủ Toàn quyền gửi về Paris đụng tới mọi lĩnh vực, ngay cả những lĩnh vực thầm kín nhất. Chính quyền biết rằng không phải đơn thuần là niềm kiêu hãnh hay sự lòe loẹt sẽ quyết định vai trò của vị vua trẻ. Một lần nữa phải làm mọi việc để ông ta có ý muốn nắm lấy con thuyền quốc gia mà các nhà đương cục Pháp đã chuẩn bị cho ông. Toà điện bao la sẽ được dùng làm tư dinh của Nhà vua - điện Kiến Trung, một trong mười hai toà điện nguy nga trong Tử Cấm thành phải được tân trang lại. Xây một cung điện mới thì tốn kém quá, nhưng mặt ngoài của cái cung điện cũ kỹ kia sẽ giữ nguyên còn bên trong thì cái chính là cần sắp xếp lại, thay đồ đạc bên trong quá cổ lỗ, cải tạo nội thất, thay thế đồ trang trí cũ. Về đây Nhà vua có thể cảm thấy mình đơn độc giữa các ông già râu dài hủ lậu của Tử Cấm thành.
Các nhà đương cục sẽ đưa đến đây những bạn bè thanh niên cùng trang lứa, có thể trở thành bạn thân, có nhiệm vụ tái tạo từng phần môi trường xung quanh Nhà vua, tạo một khung cảnh vàng son và thân thiện để ông quen dần mà tiến hoá theo. Chính quyền Bảo hộ bổ nhiệm một loạt sĩ quan và viên chức trẻ. Những thanh niên độc thân được giáo dục tốt và tác phong giao tiếp tuyệt vời và nhất là phải kín đáo.
Chính quyền còn có ý định luôn thay thế bằng những người mới (3 năm/lần) để họ không gây được ảnh hưởng quá lớn đối với Nhà vua. Còn phụ nữ? Có điều lạ là vấn đề này không được đề cập đến trong báo cáo mật của ông Chatel được coi như nhà ảo thuật của phủ Toàn quyền, nhưng đó là những vấn đề tự nhiên là phải có và thực tế không gây ra khó khăn thật sự nào.
Còn những tin đồn ác ý được nêu ra trong một bức thư của Bộ Thuộc địa ngày 24 tháng Giêng năm 1926 nói rằng Bảo Đại không phải con vua Khải Định đã quá cố, mà đúng là con của một trong các bà phi của Khải Định với một nhân vật quý tộc trong triều. Lại phải làm mọi việc để những tin đồn như thế phải được dập tắt ngay?(8)
Nhưng ta không nên dừng lại ở một vài biện pháp liên quan chủ yếu đến những tiện nghi trong cuộc sống của Nhà vua. Ông Chatel không đánh giá thấp vấn đề này. Ông còn lôi kéo Nhà vua bằng những đòn có tiếng vang lớn về chính trị. Nhà vua phải đạt được những thành tích hiển nhiên, tiến hành những cải cách phổ cập rộng rãi để dân chúng thấy rằng đất nước của họ nay đã tìm được người đứng đầu chính đáng. Chính quyền bảo hộ liền chuẩn bị một loạt biện pháp giả danh cách mạng sẽ được ban bố khi Nhà vua trở về.
Hồ sơ dày cộm những bản báo cáo dài đều đi đến kết luận như nhau: nước An Nam cần có một vị Hoàng đế thật sự thông minh, biết điều khiển thành thạo và có hiệu lực bộ máy cai trị bao gồm những quan lại trung thực, tiên tiến. Những người này sẽ truyền đạt những quyết định của cấp trên để thực hiện ở cấp xã thôn là những tế bào cơ sở của xã hội An Nam. Tất cả đều hoàn hảo, tiến hành theo hình tháp, lôgic và đơn giản.
Những viên chức của chính quyền bảo hộ không muốn thấy đứng đầu Triều đình là những ông vua điên dại ốm yếu (như Thành Thái) hay biến chất (như Duy Tân) khiến họ phải cai trị trực tiếp mà chính họ cũng không muốn. Chính quyền bảo hộ muốn có một ông vua được đào tạo có bài bản, được rèn luyện, biết suy nghĩ đúng đắn gần giống như họ. Nhưng các bản báo cáo đó, thường là sáng suốt và khôn khéo, cho thấy rõ không một quyết định của Nhà vua dù ít màu nhiệm nhất, cũng không thể đem lại hiệu quả nên không được quan Toàn quyền hay Thống sứ, Khâm sứ người Pháp ký tắt trước. Tất cả mọi người đều tập dượt trong trò chơi kỳ cục đó để bộ máy hai trăm công chức người Pháp có thể điều khiển tám triệu người An Nam. Gần như một bài tập về phong cách. Một bài học về chủ nghĩa thực dân. Tất cả đều phải tế nhị và chặt chẽ. Để được như thế phải có một ông vua. Trình độ học vấn vừa đủ, tất nhiên là thân Pháp, chắc chắn là phải thông minh, nhưng con chim quý đó không được coi mình là cứu tinh của nhân dân như Jeanne d Are của nước Pháp hay như hai chị em Bà Trưng năm 41 đã đuổi quân Hán khỏi Việt Nam. Tóm lại, vị vua đó phải có đủ trí, đủ tài trừ cái tính cách và tính cả gan chống lại họ. Vậy vua Bảo Đại có phải là con người chính quyền bảo hộ đang tìm đến không? Nhưng trước hết và ngay cả trước khi đặt ra vấn đề này, Bảo Đại phải rời khỏi Paris, phải chấp nhận một thời hạn đã được chính phủ Pháp ấn định phù hợp với số mệnh, là tháng 9 năm 1932.
Chiếc xe Delahaye đỗ trước cửa căn nhà phố Lamballe ở lưng chừng đồi Passy. Ánh sáng còn chiếu sáng ở tầng cuối cùng. Những người thân cận của Nhà vua đều có mặt. Một người anh em họ, một cận vệ đều là những bạn bè chí cốt và hiếm hoi lâu nay của ông.
Hết thảy mọi người đều ép Nhà vua trở về nước nắm quyền bính. Tất cả, như ông Chatel, như Bộ trưởng Thuộc địa hay Bộ trưởng Ngoại giao cho đến cả Tổng thống Pháp cũng cho biết niềm vui mừng được thấy Nhà vua trở về. Xem ra khó mà từ chối kế hoạch mà ông Chatel đã dày công chuẩn bị. Không còn có chuyện lần lữa, tìm một cái cớ hay điều bất trắc cuối cùng để từ chối lên đường. Chiều hôm đó, Bảo Đại đã chấp nhận. Được, ông ta sẽ trở về mảnh đất tổ tiên. Nhưng trước khi rời Paris mà ông hằng yêu mến, ông nói rõ ông có ý định sẽ quay trở lại Pháp. Và sẽ trở lại luôn hoặc lâu lâu mới trở lại. Ông đòi hỏi điều này và được chấp nhận.
Việc trở về An Nam của Hoàng đế là một hành động có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị. Đã có sớm một giải pháp mà hai mươi năm sau người ta gọi là "giải pháp Bảo Đại". Từ chục năm nay, vua kế vị làm lễ đăng quang rồi mà ngai vàng vẫn để trống. Nước Pháp đã gây cảm tưởng là một mình cai trị An Nam. Việc Nhà vua trở về, trước mắt mọi người, phải chứng minh cho ý muốn của nước Pháp là muốn giảm nhẹ sự bảo hộ của mình. Theo các điều khoản của Hiệp ước ký 50 năm trước, chính quyền bảo hộ lo việe giúp đỡ, tổ chức và bảo vệ Đông Dương, còn công việc nội trị trong từng nước trên bán đảo sẽ do nhân dân nước đó tiến hành. Thời gian qua những quy tắc đẹp đẽ đó đã trở thành điều hoàn toàn tưởng tượng.
Hoàng đế An Nam trở về ngự trị ngai vàng của mình là dấu hiệu cho thế giới và dư luận về một bước ngoặt trong chính sách thuộc địa của Paris, trở lại với tinh thần của Hiệp ước 1884.
Cũng vào thời điểm này, ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp họp kín tại 120 phố Chateaudun. Tám người có mặt, một người Âu và bảy người Việt. Trong chương trình nghị sự có mục: "Hoàng đế trở về nước và việc ám sát Bảo Đại". Tất cả mọi người có mặt đều tuyên bố ủng hộ việc xử tử Bảo Đại. Sẽ tổ chức bốc thăm, ai trúng sẽ được giao thi hành nhiệm vụ.
Một người tên là Phạm Văn Điều được chỉ định thực hiện bản án tử hình Bảo Đại ở Paris. Một người Việt khác tên là Nguyễn Đình Tính tức "Blinov" có trách nhiệm tổ chức một vụ thứ hai, lần này ở Marseille khi Nhà vua bước lên cầu tàu thuỷ(9).
Chú thích:
(1) Nơi làm việc của Khâm sứ Trung Kỳ, người đứng đầu bộ máy cai trị thuộc địa ở miền Trung nhưng lại thay mặt cho Chính phủ Pháp, đúng hơn là Bộ Thuộc địa trong việc giao thiệp với Triều đình Huế. Đứng đầu bộ máy cai trị thuộc địa toàn Đông Dương bao gồm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Cao Miên và Lào là Toàn quyền Đông Dương đặt trụ sở tại Hà Nội.
(2) Ra ngày 31 tháng 8 năm 1932.
(3) L Asie Nouvelle (Châu Á mới) ra ngày 31 tháng 5 năm 1936.
(4) Bảo Đại được gọi không phân biệt khi là Vua An Nam bao gồm các tỉnh miền Trung, khi là Hoàng đế An Nam xưa của tổ tiên để lại vì trước đây bao gồm Trung, Nam, Bắc Kỳ và cả hai nước chư hầu Cao Miên và Lào.
(5) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - SPCE 476 (Phòng Báo chí quân đội viễn chinh) và Louis Roubaud, Viet Nam, la tragédie indochinoise (Việt Nam, tấn thảm kịch Đông Dương).
(6) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931.
(7) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - SPCE 476 (Phòng báo chí quân đội viễn chinh)
(8) CAOM, lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE, 476 (Phòng báo chí quân đội viễn chinh Pháp).
(9) Lưu trữ Mật thám Fontainebleau (Hồ sơ Lưu trữ "Người Nga").
*
Tác giả: Daniel Grandclément.
- Dịch giả:Nguyễn Văn Sự.
Nhà xuất bản: Phụ Nữ,2006
Số trang: 504 | Người gõ: Mõ Hà Nội, Nguyễn Học VNthuquan Thư viện Online &Văn Tuyển * |
No comments:
Post a Comment