Tuesday, February 2, 2010

VUA BẢO ĐẠI 8

*


Daniel Grandclément

BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM

Dịch giả : Chưa rõ

Chương 14


Ngày 3 tháng 9 một chiếc máy bay kiểu Liberator của không quân hoàng gia Anh bay thấp qua thành phố, sau vài vòng lượn thấp đã thả ra ba chiếc dù màu.
Không có người, chỉ là ba chiếc thùng gỗ dày, đóng đai chắc chắn. Một chiếc rơi xuống vạt ruộng trên cánh đồng An Cựu, lọt ngay vào tay lực lượng bộ đội giải phóng quân Huế đóng gần đó. Hai chiếc khác rơi xuống sân trường Thiên Hựu, nơi có khoảng 200 gia đình Pháp kiều và cha đạo ở các giáo xứ trong tỉnh tập trung về đây từ sau đảo chính Nhật mồng 9 tháng 3 năm 1945.
Đã nổ ra cuộc đụng độ nhỏ giữa Pháp kiều và dân quân, tự vệ Việt Minh để tranh nhau chiếm đoạt hai chiếc hòm gỗ được thả xuống sân trường. Cả hai bên đều có thương vong. Một người Pháp gục ngã vì trúng đạn tiểu liên của Việt Minh. Một thanh niên tự vệ có nhiệm vụ canh gác khu vực Pháp kiều tên là Lê Văn Mười bị trúng đạn tiểu liên, hôm sau được chính quyền địa phương tổ chức lễ tang trọng thể. Không ai biết số người bị thương ở cả hai phía Pháp và Việt là bao nhiêu.
Hai hòm gỗ được khui ra. Tuyệt nhiên không có vũ khí. Hết thảy đều chở thuốc men và lương thực. Có cả những chiếc gương có đục lỗ để làm tín hiệu cho máy bay.
Nạn nhân Pháp tên là Chenevier, được chôn trong vườn nhà thờ chứ không phải ở nghĩa địa vì nghĩa địa do Việt Minh kiểm soát. Quan tài làm bằng những mảnh gỗ phế loại, phủ cờ tam tài.
Sau đó một số người Pháp bị người Việt bắt đem đi đã được thả về. Một người khác tên là Meynier bị bắt giải đi đâu không ai rõ (1).
Hai trăm Pháp kiều chen chúc trong khu phố Tây, sau sự kiện ngày 3 tháng 9 sống nơm nớp lo sợ bị trả thù. Nghe đâu mỗi căn nhà đều được đánh dấu trong sơ đồ tấn công của tự vệ.
Mấy ngày sau, ngày 11 tháng 9 máy bay Đồng minh trở lại, hạ cánh đường hoàng xuống sân bay Phú Bài, mang theo một toán gồm 6 quân nhân Mỹ hoặc có thể có người Pháp trà trộn vào lấy danh nghĩa phái bộ Đồng minh, có nhiệm vụ điều tra, tìm hiểu số phận phi công Đồng minh bị Nhật bắn rơi trên chiến trường Đông Dương trước đây, và tiếp tế cho tù binh Pháp. Họ được chính quyền địa phương đón tiếp nồng nhiệt, nhân dân đứng chật hai bên đường Tự Đức mang cờ, biểu ngữ "Hoan nghênh phái bộ Đồng minh (Welcome to the Allied Mission), "Quyết chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam (Struggle for independence of Vietnam), "Nước Việt Nam của người Việt Nam" (Vietnam to vietnamese) hoan nghênh phái bộ Đồng minh. Trong buổi tiếp kiến chính quyền địa phương, phái bộ Đồng minh nhắc lại sự kiện thả dù tiếp tế cho Pháp kiều tuần trước. Đại diện chính quyền giải thích: sở dĩ có vụ đụng độ đó là do trước đó 8 ngày có vụ biệt kích Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ cách Huế 25 cây số về phía Tây, yêu cầu từ nay muốn tiếp tế cho tù binh và Pháp kiều, xin chuyển qua Uỷ ban nhân dân tỉnh(2). Tại khách sạn Morin phái bộ tiếp xúc với Pháp kiều, hứa sẽ chuyển giúp thư tín. Từ mùa thu 1940 những người Pháp ở Huế cũng như nơi khác không gửi được gì về gia đình ở Pháp vì từ khi bại trận, mọi quan hệ thư tín và buôn bán giữa chính quốc và Đông Dương hầu như bị cắt đứt. Một nhà báo Mỹ liên lạc được với Pháp kiều, mang theo thư từ Nam Kỳ và cả những tin tốt lành. Có những người thân trong gia đình của binh sĩ Pháp đi thoát về Sài Gòn vượt qua cả nghìn cây số đường rừng phần lớn là phía Lào, con đường họ đi sau này được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh. Nhiều người trong bọn họ bị ốm dọc đường nhưng vẫn cố đi thoát vào đến Sài Gòn.
Điều kiện sống trong khu phố Tây sút kém hẳn. Người Pháp phải đặt mua thực phẩm tại một cửa hàng tiếp tế do Việt Minh phụ trách. Sau khi trả tiền được lĩnh một tích kê hẹn hôm sau lấy hàng. Không còn bánh mỳ, bơ, cà phê, những đồ ăn, thức uống quen thuộc của người Pháp, nhưng lại được Việt Minh coi là đồ xa xỉ.
Đêm đêm nghe thấy nhiều tiếng súng chẳng biết vì lý do gì, ai bắn và bắn ai, những tin đồn thảm sát. Từng đêm người sống trong khu đi nằm với câu hỏi đêm nay sẽ là đêm cuối cùng chăng. Rồi những hồi trống rung lên càng dồn dập vào buổi sáng sớm.
Giọng điệu đã trở nên căng thẳng nhất là từ sau ngày Pháp gây hấn ở Nam Bộ, 23 tháng 9 năm 1945.
Tình hình đó khiến Paris lo ngại. Một báo cáo đề ngày 22 tháng 9 năm 1945 của các tổ chức mật vụ Pháp ở Việt Nam cho biết: "Tình cảnh của các kiều dân Pháp, bị tập trung hay quản thúc rất bấp bênh. Những vụ lộn xộn ngày càng nhiều. Nguy cơ về một cuộc tàn sát hàng loạt vẫn tồn tại và ngày càng nghiêm trọng"(3).

Chú thích:
(1) Elula Perrin, sách đã dẫn.
(2) Báo Cứu quốc số 43 ngày 14 tháng 9 năm 1945.
(3) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, hồ sơ 1211NF.
hết: Chương 14

*

Daniel Grandclément

BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM

Dịch giả : Chưa rõ

Chương 15


Ngày 2 tháng 9, năm giờ sáng, hai ngày sau lễ thoái vị, công dân Vĩnh Thuỵ rời Huế ra Hà Nội, với chức vụ cố vấn của chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đang chờ ông.
Đoàn gồm hai xe ôtô. Xe thứ nhất chở Vĩnh Thuỵ được Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến tháp tùng. Xe kia chở hoàng thân Vĩnh Cẩn. Phái đoàn Trần Huy Liệu sau khi nhận ấn, kiếm đã lên đường ra Hà Nội từ hôm trước.
Nhà nước mới chưa có xe, đoàn dùng hai chiếc xe riêng của cựu hoàng. Hành trình sáu trăm cây số từ Huế ra Hà Nội đã được thực hiện trên hai chiếc xe tiện nghi nhất lúc đó là các xe Mercury và Packard.
Bên cạnh niềm hân hoan chung, một mối lo âu nặng nề tràn ngập một bộ phận quan trợng trong dân chúng đô thành. Đó là gia đình nhân viên hoàng gia, các triều thần hay cả những nhân viên bình thường trong bộ máy Nam triều cũ. Lương tháng sẽ ra sao đây? Chính quyền cách mạng hứa sẽ trả đủ lương tháng 8, nhưng sau đó thì sao, công việc trong bộ máy chính quyền mới đâu dành cho họ. Chính quyền nhân dân không lẽ nuôi họ mãi? Tình cảnh của họ thật giống như ở Pháp sau cách mạng 1789, giai cấp quý tộc cũ phải sống nhờ những người nghèo khổ trước đây bị họ bóc lột.
***
Khi ôtô vừa nổ máy thì Nam Phương và các con chạy ra sân tiễn ông Vĩnh Thuỵ. Ông xúc động nói với chúng những lời căn dặn dịu dàng bằng tiếng Pháp. Đó là một cuộc ra đi thân tình gần như lặng lẽ hiếm hoi trong gia đình họ. Xưa kia thì có quân lính làm hàng rào. Bây giờ, khi người đứng đầu hoàng cung đi xa, chỉ vài câu nói âu yếm của người thân, lời tiễn biệt lặng lẽ của đám gia nhân. Bà Nam Phương lặng lẽ đặt bàn tay phải lên cây thánh giá đeo trên chiếc kiềng. Ông Vĩnh Thuỵ rưng rưng nước mắt ôm hôn đứa con nhỏ nhất.
Còn bà hoàng thái hậu Từ Cung không mấy hoan hỉ trước việc bổ nhiệm con bà làm Cố vấn cho chính phủ mới. Bà linh cảm một tương lai không có gì tốt đẹp. Bà đã chứng kiến Thành Thái ra đi, rồi đến lượt Duy Tân. Lần này chính con bà đẻ ra lại ra đi về phía phe đối lập, không biết lành dữ ra sao? Có phải là sự đi đày trá hình hay còn cái gì tệ hơn nữa. Ai biết rằng đoàn xe sẽ không rơi vào ổ phục kích? Chính phủ mới không có Algérie, không có đảo Réunion để đày kẻ thù cũ. Bà lo cho tính mệnh của con mình. Như mấy hôm trước, từ trong cung An Định lại vang lên tiếng mõ tụng kinh. Tiếng mõ bộc lộ nỗi lo ngại của các bà mệnh phụ.
Hoàn toàn ngược lại, trên đường ra Bắc, phái đoàn được dân chúng nhiều nơi nghênh đón không phải chỉ nhằm Bộ trưởng Lê Văn Hiến, cựu chính trị phạm Kontum mà cả cựu hoàng Bảo Đại từ nay được gọi là Cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ.
Vĩnh Thuỵ vốn là người ít nói, nhất là lần đầu tiên tiếp xúc với quảng đại quần chúng mạnh dạn hồ hởi chứ không phải đám quan lại, chức dịch chỉ sụp lạy không dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt vua. Lê Văn Hiến kể lại: "Có lẽ tính ông Vĩnh Thuỵ hơi nhút nhát", "Ông ta chẳng biết gì về cách mạng, ông hỏi tôi Hồ Chí Minh là ai. Tôi cho ông biết đó chính là Nguyễn Ái Quốc, ông có vẻ hài lòng. Hôm đầu tiên khi ông được biết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là một ông nhớ lại câu sấm truyền Nam Đàn sinh thánh", thánh đây phải là Nguyễn Ái Quốc ông đã thốt ra: "Thế thì thoái vị cũng đáng".(1)
Đoàn xe lao nhanh trên đường. Ý định của cụ Hồ là muốn cố vấn Vĩnh Thuỵ có mặt cùng với các thành viên chính phủ lâm thời trong buổi lễ long trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945, nhưng không kịp. Tình hình khẩn trương.
Công việc bề bộn như núi. Lại còn phải lo đối phó hàng chục vạn quân Tưởng đang lũ lượt kéo vào. Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn có cựu hoàng bên mình, thể hiện tình đại đoàn kết dân tộc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ lật đổ chính quyền cách mạng.
Đang mùa lũ lụt. Đường bị nước ngập nên xe phải đi chậm lại. Nhiều cầu bị bom Mỹ phá sập. Không phải là chuyến đi bí mật nên mỗi khi tới địa phương nào đoàn phải dừng lại để quần chúng nghênh tiếp. Vĩnh Thuỵ không phải là một viên chức bình thường như các viên chức khác trong bộ máy chính quyền.
Suốt dọc đường từ cố đô ra thành phố lớn phía bắc, quẩn chúng nhân dân nhận ra ông, hoan nghênh. Lần đầu tiên dân chúng được nhìn thẳng vào Hoàng đế mà không phải quỳ lạy. Suốt dọc đường dân chúng đã dành cho ông những biểu hiện hân hoan, nồng nhiệt vừa kính trọng vừa yêu mến khiến ông cảm động xiết bao!"(2).
Đến Vinh, gần nửa đường Huế - Hà Nội, đoàn có thêm một thành viên mới: hoàng thân Souphanouvong, lãnh tụ những người Lào yêu nước. Bên kia dãy Trường Sơn, cách khoảng trăm kilômét, người Lào cũng đang cố gắng khẳng định chủ quyền của họ. Hoàng thân cùng tuổi với Vĩnh Thuỵ và cũng đã sống nhiều năm ở Pháp, học trường cầu đường nhưng căm thù người Pháp sâu sắc, tham gia phong trào chống Pháp từ rất sớm và đã trở thành người lãnh đạo phong trào.
Một vinh dự mới dành cho công dân Vĩnh Thuỵ: cách thủ đô Hà Nội vài chục cây số, tạl thị trấn Phủ Lý (thuộc địa phận tỉnh Hà Nam) ông Trần Huy Liệu, một trong những nhân vật chính của Tổng Bộ Việt Minh, người đã nhận sự thoái vị, chờ đón ông bên đường. Sự đón tiếp chính thức, thân tình, khiến ông xúc động nhất là khẳng định thái độ trọng thị của chính quyền cách mạng đối với ông. Những cuộc đón tiếp chính thức của chính quyền địa phương, những tiếng hoan hô của quần chúng không biết thật tâm đến đâu. nhưng cũng làm cho ông yên tâm.
Chỉ có thời tiết là không thuận lợi. Trời vẫn mưa dai dẳng, không lúc nào tạnh. Sau một đêm dừng lại tại Phủ Lý, 9 giờ sáng hôm sau, đoàn lên đường đi nốt chặng đường cuối cùng về Hà Nội. Đến sát cửa ngõ thủ đô, lác đác vẫn có những chỗ dân chúng tụ tập để đón chào mừng cố vấn tối cao của chính phủ.
Ngày 4 tháng 9, vào lúc 11 giờ, chiếc Mercury đỗ trước cửa một toà biệt thự xinh xắn trước đây là nhà riêng của viên Đốc lý thành phố ở số 51 đại lộ Gambetta (ngày nay gọi là phố Trần Hưng Đạo) một đường phố vào loại đẹp nhất thành phố Hà Nội.
Sáng hôm sau, cố vấn Vĩnh Thuỵ chính thức đến chào chủ tịch Hồ Chí Minh tại dinh chủ tịch đặt tại toà Thống sứ Bắc Kỳ sau đổi thành dinh Khâm sai Bắc Bộ.
Dưới con mắt Nguyễn Vĩnh Thuỵ, người đứng đầu nhà nước, dáng người mảnh khảnh, yếu đuối trong chiếc áo khoác ngoài kín cổ, với đôi dép cao su, chòm râu lưa thưa, giống một người khổ hạnh vừa giống một nhà nho, phù hợp với các cuộc đàm đạo văn chương hơn là hoạt động chính trị. Tuy nhiên, đôi mắt sâu sau một cơn sốt rét nặng trước khi rời chiến khu, vẫn toát ra một niềm tin vững chắc ở tiền đồ đất nước, có sức cảm hoá rất mạnh đối với người đối thoại với mình. Ông gọi Vĩnh Thuỵ là "Ngài" một cách trân trọng nhưng thái độ cư xử thân tình như tình cha con. Ấn tượng tốt đẹp này vẫn được lưu giữ mãi về sau, đã được ông cố vấn nhắc lại trong thư viết về cho mẹ là bà hoàng thái hậu Từ Cung, trong câu chuyện với một nhân viên mật vụ Pháp ở Côn Minh và cả về sau này khi đã quay trở về hợp tác với người Pháp cầm đầu chính phủ chống lại Việt Minh, như ông đã kể lại trong hồi ký.
Ngay chiều ngày 5 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến đáp lễ ông cố vấn tại nhà riêng. Người ta đã thấy hai người sau khi nói chuyện trong phòng khách, còn xuống sân khoác tay nhau đi đi, lại lại tiếp tục trò chuyện đến hơn nửa tiếng. Sự tương phản về vóc dáng và trang phục giữa một nhà cách mạng lão thành, chủ tịch chính phủ, thân hình mảnh khảnh, gầy gò, mặc quần áo ka ki cổ đứng, chân đi dép và một cựu hoàng trẻ tuổi béo tốt, tóc chải mượt, quần áo tuýt-xo bảnh bao, cổ thắt cà-vạt, chân dận giày da láng bóng tạo thành một sự tương phản rõ rệt nhưng cũng là hình ảnh đại đoàn kết dân tộc độc đáo hiếm thấy trong lịch sử.
Bắt đầu từ ngày 8 tháng 9, ông cố vấn dự các phiên họp của Hội đồng chính phủ họp đều đặn vài lần trong một tuần, Hồ Chí Minh chủ toạ các phiên họp. Vĩnh Thuỵ luôn luôn được xếp ngồi phía đầu bàn, giữa một bên là Hồ Chí Minh ở bên phải và một bên là Bộ trưởng Nội vụ Võ Nguyên Giáp, ở bên trái. Ông có một phòng làm việc riêng, ngay sát phòng làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sáng sáng ông đến làm việc hồi bảy giờ. Biết bao vinh hạnh, biết bao biểu hiện tôn kính làm cho ông xúc động.
Nhưng thái độ của cố vấn Vĩnh Thuỵ làm cho mọi người ngạc nhiên. Ông chẳng nói một lời, ngồi im lặng, như thể các cuộc thảo luận không liên quan gì đến ông. Trong nhiều tháng, ông dự hàng chục cuộc họp vì trong thời kỳ trứng nước chính quyền mới thành lập, chính phủ họp hàng ngày nhiều khi bàn cả các vấn đề cụ thể chẳng khác nào một cuộc họp của hội đồng thành phố khiến ông phát chán. Ông vắng mặt nhiều buổi. Ngay cả những buổi có mặt, ông ngồi im lặng, không phát biểu gì. Trong thành phần chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có đại biểu các đảng phái, các xu hướng khác nhau. Có những buổi bàn bạc qua quít hình như mọi việc đã được quyết định ở đâu đó, tranh luận bàn cãi chỉ là vô ích. Có những buổi tranh luận khá căng thẳng trong lúc tình hình kinh tế xã hội đang khó khăn chồng chất, quan hệ với Tàu, với Pháp, với các đảng phái đối lập diễn biến phức tạp làm cho ông cố vấn mệt mỏi.
***
Cuộc sống thường nhật của ông cố vấn tối cao khá dư dả trong hoàn cảnh chung rất eo hẹp lúc bấy giờ. Cũng như mọi thành viên khác trong chính phủ ông không có lương. Bữa ăn do khách sạn Asia cung cấp. Ông chủ khách sạn trước đây kinh doanh xích lô nay trở nên giàu có đã quyết định góp phần ủng hộ chính phủ mới. Ngôi biệt thự chính phủ cấp cho ông ở gần các dinh thự của các ông tướng Tàu, gần cả nhà tướng Mỹ Gallagher, đại diện phái bộ Đồng minh. Có hôm ông lái xe Jeep Mỹ cùng với mấy sĩ quan Đồng minh đi chơi phố đồng thời để thử tính năng của loại xe kỳ cục này.
Thường ông dùng chiếc xe Mercury sang trọng mang từ Huế ra, lượn trong các phố của thủ đô. Có hôm dân chúng nhận ra ông xúm lại khen ngợi chiếc xe, hoan hô công dân Vĩnh Thuỵ. Trong mấy chục năm ngự trên ngai vàng chưa bao giờ ông có thái độ bình dân, gần gũi dân chúng như lúc này... Các nhà báo Hà Nội tổ chức một bữa tiệc lớn để hoan nghênh ông đã tự nguyện từ bỏ cuộc sống vương giả để trở thành công dân bình thường, hi sinh ngai vàng vì lợi ích dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Trong một lần về Thọ Xuân thuộc tỉnh Thanh Hoá, ông cũng được nhân dân địa phương trọng vọng như vậy khi ông đến tưởng niệm trước những ngôi mộ của các ông tổ triều Nguyễn.
Nhân dân Hà Nội cũng chưa quên khuôn mặt ông trên các con tem thư in hình ông và bà Nam Phương. Bưu điện Việt Nam chưa có phương tiện in tem mới và cũng để tiết kiệm, vẫn dùng lại những con tem cũ, đóng dấu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và giá cước mới theo thời giá.
Trong những ngày đầu tiên, với tư cách cố vấn chính phủ, Vĩnh Thuỵ sống thoải mái trong khu phố vào loại sang trọng nhất thủ đô. Trước mặt ngôi biệt thự là trại bảo an binh cũ. Một tiểu đội độ mười người đã được phái đến canh gác toà nhà và bảo vệ ông. Trong hai chiếc xe đem từ Huế ra, ông biếu một chiếc cho ông bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến, cựu chính trị phạm, người đã tháp tùng ông ra Hà Nội.
Chỉ mấy tháng sau Vĩnh Thuỵ đã gặp lại Lý Lệ Hà, người tình cũ của ông. Ông quan hệ công khai với ả, đêm đêm đi dạo, ăn nhậu, lui tới các nơi ăn chơi, tiệm nhảy bất chấp dị nghị của mọi người xung quanh đang sống khắc khổ đạm bạc.
Cách mạng thành công, không khí phấn khởi hồ hởi những ngày đầu mới giành được chính quyền rồi cũng qua đi, không đủ che lấp nhưng khó khăn chồng chất trong cuộc sống. Nhân dân nhiều địa phương thiếu ăn, hậu quả của nạn đói đầu năm chưa khắc phục xong, nhiều đoạn đê không chống nổi mức nước dâng cao trong mùa lũ tháng 8. Việc tiếp tế gạo từ miền Nam gặp nhiều trở ngại do phương tiện vận chuyển thiếu, nhiều cầu cổng bị bom Mỹ phá huỷ chưa chữa xong. Hàng vạn quân Nhật chưa hồi hương hết thì gần hai chục vạn quân Tưởng tràn vào. Tiếng súng chống xâm lăng dã nổ ở miền Nam.
Giải quyết vấn đề cái ăn của nhân dân là một trong những khẩu hiệu chính của chính phủ mới. Gần hai triệu nông dân chết đói trong những tháng trước đó, có nghĩa là bằng hay gần bằng con số người chết trong bốn mươi năm chiến tranh mà nhân dân Việt Nam phải chịu đựng..
Từ khi rời bỏ ngai vàng, Vĩnh Thuỵ cùng một lúc mất phần lớn tài sản của ông. Tất cả những gì ông có đều gắn với địa vị của ông. Ông chẳng có gì: nhà cửa, cung điện, ngựa, xe, tất cả là của Triều đình. Rời bỏ ngai vàng cũng có nghĩa là ông cũng dứt bỏ luôn cuộc sống xa hoa của một vị đế vương.
Chỉ vài tuần sau ngày thoái vị, ông không còn lo nhân dân và chính quyền cách mạng trả thù, mạng sống được bảo đảm nhưng cuộc sống đời thường khiến ông như tỉnh lại sau một cơn mê dài. Ông thấy mình đang giữ một vai trò chính trị thực sự, chứ không phải làm vì, mà cũng là để bảo đảm cho tính hợp pháp của chính quyền mới. Sắc lệnh ngày 10 tháng 9 năm 1945 đã chính thức cử ông vào chức vụ Cố vấn của chính phủ lâm thời. Sau này cứ mỗi lần thay đổi thành phần chính phủ, từ chính phủ lâm thời sang chính phủ liên hiệp, rồi chính phủ chính thức do Quốc hội trong phiên họp đầu tiên mồng 2 tháng 3 năm 1946, ông đều được cử làm Trưởng đoàn cố vấn tối cao, cho đến những lần cải tổ chính phủ sau này, dù ông vắng mặt, chức vụ cố vấn tối cao của ông không hề thay đổi.
Thực tế ông đã làm công việc ấy và chính thức thay mặt chính phủ trong nhiều dịp. Ba ngày sau ra tới Hà Nội nhậm chức, ngày 7 tháng 9 năm 1945, các báo đã đến phỏng vấn ông tại nhà riêng 51 phố Trần Hưng Đạo. Có lẽ đây là lần đầu tiên kể từ khi về nước cầm quyền bính năm 1982, ông mới có cuộc tiếp xúc với đông đảo các nhà báo. Ông phát biểu khá trơn tru, thành thật và tự tin:
"Tôi đã thoái vị, chính phủ lại mời làm cố vấn. Tôi vui lòng ra đây để yên lòng chính phủ... Nói đến chuyện trước kia, người Pháp khi nào cũng muốn tôi ngồi yên một chỗ, không cho ra ngoài thân mật với dân cho nên trong hai mươi năm trời làm vua, tôi ra Bắc có một lần và một lần vào Nam Kỳ, còn xung quanh tôi, họ đặt toàn những người mật thám. Tôi rất buồn hiểu rằng không thể làm việc chi có ích cho đất nước. Họ muốn làm gì thì họ làm phiếu tâu lên lúc tôi được đọc thì Khâm sứ Pháp đã ký rồi thành ra tôi không thi thố được sáng kiến gì cả.
Mục đích của người Tây là ai định tâm giúp ích cho nước thì họ tìm cách làm xa tôi ra, nếu không xa được thì họ phá. Cũng vì có nhiều chuyện buồn như vậy nên tôi chỉ muốn vô núi vô non cho quên hết mọi điều. Vì tôi hay đi chơi nên có lần người Pháp hỏi tôi: "Sao Ngài không làm việc gì mà cứ đi chơi hoài như vậy?". Tôi trả lời: "Các anh phải bỏ chức khâm sứ toàn quyền ở đây tôi mới làm việc được".
Tôi lên đường ra Bắc có ghé mấy tỉnh ở phía bắc Trung Bộ và ghé Ninh Bình và Phủ Lý. Tới đâu tôi cũng thấy nhân dân cả quyết hăng hái đề đi đến độc lập hoàn toàn, tôi rất vui lòng.
Đến Hà Nội, tôi được mời qua dinh Bắc Bộ hội đồng gặp anh em trong chính phủ một cách vui vẻ thân mật. Lần trước tôi ra Hà Nội, tôi không thấy rõ ràng một cầi gì. Lần này đi lại tự do, tôi có thể biết rõ được nhiều điều hơn trước.
Ban đầu khi tham dự cuộc lễ, tôi có ý lo lo. Nhưng sau khì thấy đại biểu chính phủ đối đãi đặc biệt nên không lo ngại gì nữa và tôi cũng vui mừng thấy việc hy sinh (ngôi báu) của tôi cũng là một việc có ích cho đất nước.
Sau khi trao quyền, tôi cũng muốn ra khỏi hoàng thành ngay cốt để tránh mọi sự nghi ngờ, vì tôi sợ rằng còn ngồi ở đấy, thì sẽ có người lợi dụng tôi. Tôi ra đây mục đích giúp chính phủ thưc hiện nền độc lập hoàn toàn.
Việc gì tôi cũng hết lòng giúp đỡ. Tôi còn lưu tại đây. Ngày về chưa nhất định. Trước khi đi, tôi dặn mấy ông trong nội các cũ thì ông nào cũng đồng ý. Trong lúc này phải đoàn kết triệt để thì mới sông, nếu chia rẽ thì chết... Lúc trước mọi việc (quan hệ) với người Nhật rất khó, lại phải tổ chức rất nhiều việc. Tuy vậy nội các cũ cũng cố làm mong cho mỗi ngày một khá nhưng sau này không thấy được kết quả gì nên đã mấy lần xin từ chức. Họ là những người hết lòng ra làm việc và biết làm chử không phải là bất lực.
Khi bên ngoài hoàng thành có cuộc khởi nghĩa,... mấy công sở đã bị Việt Minh chiếm cả rồi. Người Nhật phái người đến hỏi tôi nếu muốn đánh quân cách mệnh thì chính phủ (Nam triều) phải làm đơn yêu cầu quân Nhật giúp, quân Nhật sẵn lòng giúp. Tôi có nói rằng không bao giờ chính phủ Việt Nam lại yêu cầu ngoại quốc đánh dân Việt Nam(3).
***

Hôm sau, ngày 8 tháng 9, các báo ở Bắc Bộ đã tổ chức tiệc chiêu đãi Vĩnh Thuỵ tại nhà hàng Asia. Cùng dự có Hoàng thân Vĩnh Cẩn, sĩ quan cận vệ Nguyễn Hữu Tường, và ông Phạm Khắc Hòe, cựu Tổng lý Ngự tiền văn phòng, nay làm việc tại Bộ Nội vụ. Ông thay mặt chủ tịch Hồ Chí Minh làm chủ toạ lễ bế mạc "Tuần lễ Vàng" ngày 30 tháng 9 năm 1945, và ngay tối hôm đó chủ toạ tiệc chiêu đãi ban tổ chức Tuần lễ Vàng, chủ toạ bữa cơm chay nhân ngày lễ Hạnh nguyện của Phật giáo tại chùa Quán Sứ ngày 16 tháng 10. Dự lễ tấn phong Giám mục Lê Hữu Từ ngày 29 tháng 10 năm 1945, dự Đại hội Liên đoàn công giáo tại Phát Diệm ngày 30 tháng 10 năm 1945. Ông luôn tháp tùng Hồ Chủ tịch trong nhiều cuộc lễ long trọng: khai mạc đại hội thanh niên thành Hoàng Diệu ngày 25 tháng 9, lễ thành lập Hội Thân hữu Việt Mỹ ngày 5 tháng 10, khai mạc tuần lễ văn hoá ngày 7 tháng 10, dự lễ khai mạc cuộc lạc quyên gạo chống đói ngày 11 tháng 10, dự cơm chay của nhà Phật tại chùa Quán Sứ ngày 14 tháng 10, dự lễ tế Khổng Tử tại Văn Miếu Quốc tử giám ngày 21 tháng 10, dự tiệc liên hoan đoàn kết giữa các đảng phái (Việt Minh, Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội) ngày 24 tháng 10. Theo gợi ý của chính phủ, ngày 14 tháng 9 năm 1945 nhân danh Hoàng thân Vĩnh Thuỵ, nguyên Hoàng đế Bảo Đại, ông viết thư cho chính phủ và quốc dân Pháp với giọng văn khá hùng hồn: Tôi kêu gọi sự hiểu biết của các người có trách nhiệm của nước Pháp để khỏi có những việc đáng tiếc xảy ra. Nếu sự chẳng may không thể tránh khỏi được thì trong hàng ngũ quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tôi quyết sẽ là một tên lính thường ở bên cạnh đồng bào của tôi và sẽ chiến đấu hy sinh tính mệnh để khôi phục tự do cho Tổ quốc(4).
Từ đây cố vấn Vĩnh Thuỵ sau khi vượt qua xuất sắc một số thử thách, trở thành một chính khách được thừa nhận, được mọi người kính nể. Ông không thèm để ý đến một câu nói hài hước của dân ngoại ô thủ đô: "Việt Nam là một dân tộc nhỏ nhưng lại có một ông vua cao to, béo tốt như Tây!".
Ông còn được chính phủ bổ nhiệm tham gia Uỷ ban dự thảo hiến pháp cùng với bảy thành viên khác do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, có trách nhiệm cùng với các thành viên khác soạn ra bản dự thảo hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để trình Quốc hội thông qua. Tại đây, theo lời những người thân cận, ông tỏ ra rất nổi bật, khác hẳn hình ảnh mờ nhạt của ông ở hội đồng chính phủ.
Kiến thức của ông về luật hành chính học được ở trường khoa học chính trị Paris đã giúp ông có được vai trò tích cực trong Uỷ ban soạn thảo hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông còn được cử làm chủ tịch ngoại giao uỷ viên hội, uỷ viên quản trị hội đồng Đại học Việt nam với một số trí thức khác(5).
Sau khi chủ toạ lễ tấn phong Giám mục Lê Hữu Từ tại Phát Diệm ngày 27-10-1945, ông ra nghỉ ở Sầm Sơn (Thanh Hoá). Ông ở lại hai tháng ở bờ biển, hai tháng rong chơi, ngắm mặt trời lặn, những ngày nghỉ kỳ lạ. Có lúc thảng thốt ông tưởng tượng có một phát súng từ đâu đó bắn trúng hay một nhát dao găm sẽ kết liễu đời ông. Nhưng chính quyền không những không tìm cách hãm hại ông, mà còn mời ông chuyển đến một nơi khác sâu trong đất liền, mãi vùng Thọ Xuân, an toàn hơn bãi biển, giữa lúc có tin Pháp đang ngấp nghé đổ bộ lên Sầm Sơn. Người này đã thành kẻ thù trực tiếp của ông, kể từ khi họ nổ súng tái chiếm Nam Bộ. Bất kể thế nào, chính quyền nhân dân không muốn ông rơi vào tay họ. Tháng chạp năm 1945, ông nhận lời mời ứng cử đại biểu Quốc hội tỉnh Thanh Hoá và đã trúng cử với số phiếu khá cao: 92% phiếu bầu, mặc dầu ông không bận tâm lắm đến phiếu việc bầu cử và cũng không đi vận động bầu cử và cũng không biết đích xác địa điểm bỏ phiếu để thực hiền quyền công dân của mình.
Theo nghị quyết của hội nghị Postdam, quân đội Trung Hoa từ Vân Nam vào miền Bắc để giải giáp quân Nhật. Theo chân chúng là những đảng phái quốc gia chống cộng, âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Bọn này cũng tìm thấy ở Cựu hoàng một sự ủng hộ khi thấy những viên tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa có vẻ có thiện cảm với ông, tưởng đâu ông cũng muốn khôi khôi phục lại quyền bính nên nước lợi dụng ông. Phái đoàn Pháp ở HN nhiều lần xin gặp, nhưng có lẽ nể mặt Cụ Hồ nên ông lảng tránh (6).
Nhưng không, điều đó không hợp tính cách ông. Như thế cũng có nghĩa là có thể xảy ra nạn đảng tranh dẫn đến nội chiến, một điều ông muốn tránh từ trước khi tự nguyện thoái vị. Ông không thể làm như thế. Vì vậy ông vẫn tiếp tục ở lại Sầm Sơn, tránh xa mọi mưu toan lật đổ chính quyền nhân dân của tướng Lư Hán và bọn tay sai người Việt.
***
Ngày tháng trôi qua, áp lực của các đảng phái đội lốt quốc gia được quân đội Trung Hoa đứng đằng sau tăng lên.
Trên đường phố, một số dân chúng đi biểu tình qua biệt thự ông ở, hô khẩu hiệu đòi lập chính phủ mới do Vĩnh Thuỵ đứng đầu. Các tướng lĩnh Trung Hoa liên tục tới gặp ông.
Tháng 2, tất cả các đảng cánh hữu thân Trung Hoa vận động dân chúng xuống đường đòi hỏi lập một chính phủ do cựu hoàng làm chủ tịch.
Vĩnh Thuỵ tâm sự với ông Hòe: "Ông biết đấy, tôi không phải là người ham quyền bính. Những người thuộc phe quốc gia nói dân chúng ủng hộ tôi". Sau khi đi hỏi ý kiến ông Hồ, cựu hoàng đã tránh không tiếp đại biểu của đoàn biểu tình mấy trăm người diễu qua biệt thự ông ở. Ngày 22 tháng 2, ông thẳng thắn tuyên bố trước các nhà báo: "Tháng 8 năm ngoái, tôi bỏ ngôi vua mục đích là để thế giới và trong nước biết rằng dân tộc Việt Nam không phân biệt giai cấp trên dưới đều một lòng đoàn kết chặt chẽ để quyết giành lấy độc lập và tự do. Ngày nay các đảng phái đều đoàn kết, tôi rất vui lòng vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới tranh thủ được hoàn toàn độc lập. Bởi vậy tôi mong rằng toàn dân nên đem kết tinh thần và lực lượng đế giúp chính phủ trong công việc kháng chiến kiến quốc.
Những việc gì có thể làm cho lòng người hoang mang, có thể để cho quân địch lợi dụng như bãi thị, bãi công thì nhân dân không nên làm.
Vận mệnh của nước nhà là ở trong tay toàn thểđồng bào chúng ta đoàn kết chặt chẽ thì nhất định chúng ta thắng lợi.
Nếu toàn thể dân chúng muốn tôi trở lại chính quyền thì tôi sẵn sàng nhận, nhưng một nhúm người không phải là toàn thể dân chúng. Việc bầu chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ do Quốc hội định đoạt. Vì chỉ Quốc hội mới là đại biểu chính thức của dân chúng cả nước. Không phải một nhóm người muốn cho ai làm chủ tịch là người ấy được làm chủ tịch ngay"(7).
Cùng ngày, điều ngạc nhiên là Hồ Chí Minh có một lúc cho biết ông không phản đối việc cựu hoàng đứng đầu nhà nước còn ông sẽ làm cố vấn tối cao thế vào chỗ của ông Vĩnh Thuỵ. Phải chăng theo ý nghĩ của ông Hồ đó là một cách tương kế tựu kế làm vừa lòng người Pháp đang đòi hỏi ký kết hiệp định với một chính phủ tiêu biểu cho "thống nhất dân tộc"...
Người ta kể lại câu chuyện lạ lùng giữa cố vấn Vĩnh Thuỵ và chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Một buổi sáng khi Vĩnh Thuỵ đang dùng bữa sáng điểm tâm thì cụ Hồ đến với một dáng điệu có vẻ suy sụp. Cụ nói: Ngài hãy trở lại vai trò đứng đầu nhà nước... Người Pháp không muốn thương thuyết. Những người trong phe quốc gia đang gây sức ép mạnh đối với tôi". Vĩnh Thuỵ nghe thấy thế lấy làm lạ, hỏi lại: Cụ không đùa đấy chứ? Nếu tôi đứng đầu chính phủ, tôi có thể chọn các ông bộ trưởng giúp việc tôi được không? Hay buộc phải chấp nhận những người do Cụ đưa ra?
Cụ Hồ trả lời dứt khoát: "Không, ngài có thể lấy tất cả những người ngài muốn, để lập chính phủ mới".
Nhưng đến khi gặp lại, cụ Hồ lại thay đổi ý kiến:
"Thưa Ngài, tôi nghĩ lại rồi, tôi không thể thoái thác nhiệm vụ trong lúc khó khăn này. Tôi vẫn phải ở lại cương vị đứng đẩu chính phủ"(8).
***
Ngày 7 tháng 3, ký Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp được một ngày, ông luôn luôn ở bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp chính thức đại biểu Pháp Sainteny và đến thăm đáp lễ ông ta. Ngày 8 tháng 3 năm 1946, Hội đồng chính phủ họp quyết định cử một phái bộ thân thiện đi Trùng Khánh đồng thời cũng cử một phái đoàn thân thiện đi Pháp. Ngày 11 tháng 3, hội đồng chính phủ lại quyết định cố vấn Vĩnh Thuỵ dẫn đầu phái đoàn đi Trùng Khánh. Trong đoàn còn có Nghiêm Kế Tổ, người của Việt Nam Quốc dân đảng, Thứ trưởng Ngoại giao, Nguyễn Công Truyền, đại biểu Việt Minh, uỷ viên tuyên truyền thuộc Uỷ ban Nhân dân Bắc Bộ, Hà Phú Hương, đại biểu Đảng Dân chủ Việt Nam (trong Việt Minh), uỷ viên tuyên truyền thuộc Uỷ ban nhân dân Trung Bộ. Phái bộ sẽ để lại một đại diện ở lại Trung Hoa làm đại diện thường trú cho phái bộ. Hội đồng chính phụ còn xác định nhiệm vụ của phái bộ là tỏ rõ cho chính phủ Trung Hoa là các đảng phái đã đoàn kết rồi, hỏi Trung Hoa có thể giúp ta những gì, yêu cầu ta những gì, tỏ cảm tình với Trung Hoa, trao đổi ý kiến chứ không cam kết gì. Phái bộ còn được phép để lại Trung Hoa một đại diện cho phái bộ(9). Cố vấn Vĩnh Thuỵ nhận lời đi Trùng Khánh nhưng với tư cách cựu hoàng đi du lịch chứ không lãnh đạo phái đoàn. Vì vậy Nghiêm Kế Tổ, người của Việt Nam Quốc dân đảng làm trưởng đoàn. Đúng ngày lên đường, 16 tháng 3 năm 1946, Vĩnh Thuỵ nói với Phạm Khắc Hòe cựu tổng lý văn phòng của ông: "Sau khi tôi lên đường đi Trung Hoa, ông có thể vui lòng đi Huế một lần nữa mời bà Nam Phương đưa các con ra Hà Nội không. Cụ Hồ cũng đã đồng ý với đề nghị này"(10).
Vậy là Vĩnh Thuỵ và Hồ Chí Minh chia tay nhau. Họ không gặp lại nhau nữa và mỗi người ở một phe đối lập nhau trong cuộc chiến tranh Việt - Pháp sau này.
Nhưng thời gian đầu chính phủ Hồ Chí Minh vẫn có thái độ nương tay, cho đến phút cuối cùng vẫn cố níu kéo một con người lầm lạc trở về với sự nghiệp chính nghĩa. Ông Phạm Khắc Hòe kể lại sau ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ chí Minh còn cử ông Phạm Ngọc Thạch đem tiền sang và vận động Bảo Đại về nước tham gia kháng chiến với nhân dân. Nhưng ông khước từ. Sau này chính ông Phạm Khắc Hòe còn được Hồ Chủ tịch cử đi Hongkong để vận động Bảo Đại trở về nhưng sắp đi thì được tin Bảo Đại đã nhận lời về với Pháp nên ông Hòe không đi nữa. Cũng theo nhà báo Tường Hữu, một nhân viên Việt Nam của hãng thông tấn Pháp cho biết Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh còn phái một nhân viên cao cấp trong chính phủ tên là Hồ Đức Linh mang vàng và ngoạí tệ sang cho Bảo Đại và thuyết phục ông về nước nhưng không thành công(11).

Chú thích:
(1) Nguyên văn câu tiếng Pháp: " Ça vaut bien le coup, alors?".
Xem Hồi ký của Phạm Khắc Hòe: "Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987.
(2) Nói chuyện với ông Bảo Long tại Paris (Tác giả).
(3) Báo Quyết chiến, cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mệnh, xuất bản tại Thuận Hoá ngày 8 tháng 9 năm 1945.
(4) Báo Cứu Quốc ngày 15 tháng 9 năm 1945.
(5) Tiến sĩ Nguyễn Trọng Hậu trong bài "Những điều còn ít biết về một người thư ký đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946". Thông báo khoa học của viện Bảo tàng cách mạng Việt nam, tháng 6-2005
(6) Võ Nguyên Giáp. Những năm tháng không thể nào quên, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
(7) Báo Sự thật ngày 24 tháng 2 năm 1946. Xem thêm báo Cứu Quốc ngày 23 tháng 2 năm 1946, Phạm Khắc Hòe dẫn trong Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987.
(8) Bảo Đại, Con Rồng An Nam, sách đã dẫn. Có một việc ít người biết tới là việc cụ Hồ đã có ý định để Cựu hoàng Bảo Đại thay mặt cụ để ký vào Hiệp định 6 tháng 3 với Pháp. Cụ nói với Vũ Đình Huỳnh, một người giúp việc gần gũi: Để ông ta ký mà hay. Pháp tin ông ta hơn tin tôi" (xem Hồi ký Vũ Đình Huỳnh: Tháng Tám cờ bay, Báo Văn Nghệ, tháng 4 năm 1993) (B.T.).
(9) Biên bản Hội đồng chính phủ ngày 8 và ngày 11 tháng 3 năm 1946, lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(10) Xem Phạm Khắc Hòe, "Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987.
(11 Tường Hữu, Sự thật về chiến tranh Việt Nam 1945-1975, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2004 (ND).
hết: Chương 15, xem tiếp: Chương 16

Daniel Grandclément

BẢO ĐẠI, HAY LÀ NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA VƯƠNG QUỐC AN NAM

Dịch giả : Chưa rõ

Chương 16


Sáng sớm, mặt trời vừa mọc, bà Nam Phương đã dậy. Bà hé cửa phòng, nhẹ nhàng bước ra thềm. Bà bận chiếc áo vải nhẹ, thắt đai lưng vải, đẩu đội mũ nhưng đi chân đất, nhún nhảy đi một điệu vũ chậm rãi mặc dù không có nhạc đệm. Cánh tay đưa lên cao tạo thành một đường lượn đung đưa trên đầu, đi một vài vũ đạo rất chậm. Điệu ba lê vừa thanh thoát lại vừa nặng nề xiết bao. Năm nay vừa tròn ba mươi tuổi nhưng chưa bao giờ bà thấy mình đẹp như thời gian này. Thân hình hơi mảnh dẻ, khuôn mặt không còn thanh tú thời thiếu nữ trưởng thành lúc bước lên xe hoa nhưng là của một thiếu phụ có thân hình cân đối, kiêu sa. Cứ mỗi buổi sớm mai, bà khiêu vũ một mình dưới con mắt tò mò của chú bộ đội đóng quân gẩn đó. Tính họ vẫn nhút nhát, không dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đàn bà quý tộc đang nhún nhảy, cho làm như thế là phạm thượng. Bà Nam Phương tập thể dục đều đặn hàng ngày ngay cả sau này khi có chiến tranh cũng vậy.
Người dân quanh cung An Định cũng đã quen với cảnh này nên không mấy ai chú ý mà cũng chẳng bàn tán gì về sự có mặt của bà cựu hoàng với lũ trẻ lá ngọc cành vàng ở cái xóm yên tĩnh bên con kênh phía tây bắc thành Huế.
Tại Huế, cũng như quanh vùng Thừa Thiên - Huế không khí chính trị đã thay đổi kể từ khi cựu hoàng rời kinh thành ra Bắc và khi phái đoàn chính phủ đã quay về Hà Nội, mang theo họ những lời hứa hẹn đối xử khoan hồng với quan lại và chức sắc của chế độ cũ...
Trong khi một số quan lại cũ hội họp biểu lộ lòng trung thành với chế độ mới thì một số phần tử chống đối hoặc gây trở ngại cho chính quyền mới đều bị thẳng tay trừng trị. Không ai biết rõ con số là bao nhiêu. Trong tháng 11 các báo ở Huế đưa tin vắn tắt Phạm Quỳnh, nguyên thượng thư bộ Lại, đứng đầu Viện cơ mật của Triều đình Huế và Ngô Đình Khôi, nguyên thượng thư, cùng với con trai là Ngô Đình Huân đã bị toà án cách mạng xử tử trong thời gian thiết quân luật. Báo còn đưa tin: Sáng 10 tháng 12 năm 1945 toà án quân sự Thuận Hoá (tức thành phố Huế) đã mở phiên toà xử Nguyễn Tiến Lãng, trước đây là thư ký riêng của bà Nam Phương, cũng là con rể của Phạm Quỳnh, tuyên phạt tám năm tù, tịch thu hai phần ba gia sản. Một hôm cậu con trai lớn của bà Nam Phương, Bảo Long, gặp lại người thư ký riêng của cha mình bị cảnh sát vây quanh. Ông ta gầy giơ xương, râu ria mọc dài, run lẩy bẩy. Ông ta đến xin lại ít tiền đã gửi bà Hoàng hậu ngày trước để khi cần thì "trà thuốc" cho những người canh giữ mình hay để mua thức ăn thêm... Đám trẻ thắc mắc ông này trước đây béo tốt chững chạc mà nay trông thảm hại thế. Bà Nam Phương, không cười, giải thích khéo: Có lẽ do hút thuốc lá nhiều quá... Một điều kỳ diệu xảy ra với ông Lãng là ông chỉ bị giam một thời gian ngắn. Sau đó ông đi theo kháng chiến, được Việt Minh sử dụng vào việc dạy tiếng Pháp và dịch thuật.
Còn nhiều người khác kém may mắn hơn, tại sao họ không kêu cứu với cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ? Dù có kêu cứu bà Nam Phương thì với vị thế của bà lúc này cũng khó có thể giúp đỡ được ai.
Còn với ông cố vấn, chưa chắc ông để ý đến chuyện này tuy có thể một vài tin đồn về các vụ hành quyết đến tai ông. Ông bênh vực bạn bè và hình như nhờ đó có một số người thoát khỏi tội chết (trong đó có Ngô Đình Diệm). Nhưng những người đồng sự với ông cùng ngồi làm việc trên tầng gác Bắc Bộ phủ tức dinh Chủ tịch chính phủ đặt tại toà Thống sứ cũ, không ai còn nhớ được ông cựu hoàng có can thiệp giúp được ai không.
Hoàng gia đã rời khỏi hoàng thành để không bao giờ trở lại. Cả nhà bây giờ về ở cung An Định, một ngôi nhà xây lớn nhưng kém tiện nghi ở gần khu dân cư của thành phố Huế, trông như một cửa hàng bánh ngọt, một bề chạy dọc theo con đường đi Đà Nẵng, một bề sát con sông hẹp gọi là sông An Cựu, thuyền đi lại như mắc cửi. Chiếc thuyền rồng của Nhà vua neo đậu tại đây.
Dân nhà thuyền hễ trông thấy chiếc thuyền rồng neo ở đây là họ hiểu rằng Nhà vua đang ở trong cung An Định nên chỉ dám nhìn xuống mặt nước chứ không dám nhìn lên toà nhà để khỏi làm ô uế cung điện mùa hè của hoàng gia ở phía bờ nam sông Hương trong khu phố người Âu đối diện với hoàng thành. Trước toà nhà là mấy thước sân, giữa sân là hòn núi non bộ. Phía ngoài là chiếc cổng xây bề thế có hoạ tiết trang trí bằng đá. Đằng sau toà nhà là con đường dài giữa hai hồ nước ở hai bên. Cổng sau xây đơn giản, thanh thoát bù lại dáng vẻ nặng nề của cung An Định. Hai bên sân sau còn có hai dãy nhà, kiến trúc đơn giản một bên là nhà bếp và bên kia đã được dự kiến xây chuồng hổ và nuôi cá sấu. Nay hai dãy nhà này làm nơi đóng quân của đơn vị bộ đội Việt Minh vừa làm nhiệm vụ canh gác vừa giám sát hoạt động của hoàng gia. Chỉ huy kiêm chính trị viên của đơn vị cùng ở với anh em binh sĩ trong hai dãy nhà đó. Lúc mới đến ông chỉ huy còn lạ lẫm, nhưng rất nhanh chóng được đối xử như một thành viên trong hoàng gia. Cung An Định ngày nay trông hoang tàn. Dãy nhà bên trái trước dành cho bộ đội đóng quân đã bị phá huỷ trong chiến tranh không bao giờ được xây lại. Tính độc đáo của toà nhà này là sân sau được bố trí như một nhà hát ngoài trời do đích thân vua Khải Định ra lệnh xây dựng. Sân khấu là một sân trời xây trên bệ cao, trước mặt thấp hơn là chỗ ngồi của người xem.
Cung An Định được xây lên từ đầu thế kỷ. Kiến trúc thô thiển, nửa âu nửa á, cổ, kim lẫn lộn tuy bề thế nhưng kém tiện nghi, đồ đạc nội thất tồi tàn, lỗi thời, trong nhà thiếu ánh sáng. Từ khi xây dựng đầu thế kỷ, nó chưa bao giờ được cải tạo hay sửa sang lớn cho hợp với trào lưu hiện đại. Nơi đây còn là nơi ở của hoàng tử Vĩnh Thuỵ sau khi được tấn phong Đông cung thái tử lúc 6 tuổi, trước khi sang Pháp học tập.
Ngày nay ngôi nhà vẫn tồn tại nhưng trông như một cung điện hoang phế, biểu tượng của một sự giàu sang trong quá khứ(1). Trong nhà, gian phòng lớn tối tăm còn nguyên hàng cột, chiếc cầu thang nặng nề bằng đá, trên tường còn giữ các bức hoạ trong khung gỗ hình xoắn ốc dát vàng miêu tả phong cảnh khu lăng tẩm nhà Nguyễn ở vùng ngoại thành Huế. Tất cả còn lại như một nhà tù lớn. Nghe nói một kiến trúc sư người Pháp năm 1916 đã cho xây thêm ba sân trời ở phía sau để đón ánh sáng theo phong cách Địa Trung Hải. Nơi đây vào những ngày hè nóng nực, Nhà vua muốn tránh cái không khí oi bức trong Đại nội thường ra đây để nghỉ ngơi hóng gió Nam.
Bà Nam Phương cùng các con và bà Hoàng Thái hậu Từ Cung từ khi dọn ra đây đều sống chung dưới một mái nhà. Trước đây trong Tử Cấm thành, mỗi bâ đều có cung điện riêng. Quan hệ giữa họ với nhau không êm thấm gì, không chỉ là giữa mẹ chồng nàng dâu, mà do tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Một bà xuất thân bình dân, làm vợ thứ ba của vua Khải Định, nhờ sinh con giai là Vĩnh Thuỵ nên sau khi Khải Định chết, Vĩnh Thuỵ được lên ngôi, bà mới được phong làm Hoàng Thái hậu, mộ đạo Phật, ít chữ nhưng trọng lễ nghĩa theo đạo Khổng, còn một bà là con nhà đại phú hào bậc nhất nhì miền Nam, du học bên Pháp từ nhỏ, tiếp thu văn hoá phương Tây, thuộc gia đình có đạo gốc đến mấy đời. Không có những cuộc cãi lộn om sòm mà chỉ là sự đối đầu ngầm trong cuộc chiến tranh lạnh thường là về những chuyện lặt vặt như cách nuôi dạy con, cúng giỗ tổ tiên. Bà Nam Phương không chịu được mùi hương. Thế nhưng trong Đại Nội, mỗi cung điện đều có bàn thờ riêng, thờ tổ tiên, thờ thổ công, thổ địa như phần lớn các gia đình Việt Nam khác.
Trong số gia nhân thị nữ theo các bà hoàng có Sử Lệ, một chị hầu phòng rất mực trung thành, đã rút cả tiền để dành để giúp đỡ hoàng gia. Cũng như cựu hoàng bà Nam Phương không có nhiều tiền để dành ngoài những đồ trang sức đắt tiền do chồng bà cùng các bạn biếu tặng. Tuy đã giảm rất nhiều nhưng số gia nhân đầy tớ theo hai bà về cung An Định cũng còn đến mười người.
Bà cựu hoàng Nam Phương và các con được tự do đi lại chỉ cần báo trước cho ông chính trị viên đơn vị bộ đội được giao canh gác cung An Định cũng như bảo đảm an toàn cho các thành viên hoàng gia mỗi khi cần đi ra ngoài phố. Dĩ nhiên bà không chịu để người này nhìn soi mói vào cuộc sống của bà nhất là sau khi có một số vụ hành quyết của toà án cách mạng gây nỗi kinh hoàng cho những ai trước đây hay giao du với người Pháp.
Các linh mục và tu sĩ Công giáo cung cấp đều đặn tin tức cho bà, nhờ đó bà biết rõ diễn biến của các sự kiện, và càng làm tăng thêm nỗi lo âu của bà. Bà hay nổi nóng một cách vô cớ. Cộng với những lo lắng về chính trị bà còn sợ hãi những cơn giận dữ của con trai bà. Bảo Long không phải là đứa trẻ dễ tính. Những người thân thuộc rất sợ mỗi khi cậu bé nổi giận vô cớ hoặc chỉ vì những chuyện không đâu như phải chờ đợi lâu mỗi khi đòi hỏi một điều gì đó. Bà hoàng với mấy gia nhân còn lại không còn biết nhờ ai giúp thằng bé trở lại bình tĩnh. Bản thân bà cũng trở nên nghiêm khắc hơn, kém kiên nhẫn và kém độ lượng hơn. Tuy vậy, Bảo Long tỏ ra là một thiếu niên ngoan ngoãn. Ít có những ảnh chụp nào mà không thấy mấy anh em quây quần bên nhau: Một đứa con trai mẫu mực, chững chạc, biết suy nghĩ.
Cậu bé lại cắp sách đến trường. Nhưng không phải là trường cũ. Không còn điều kiện lên tận Đà Lạt để đi học trường Công giáo như trước. Cũng không còn gia sư trong nhà. Bây giờ là đi học trường công trong thành phố, đúng hơn là trường Lycée cho con gái nhưng ở các lớp dưới, con trai con gái học chung. Cậu ta vào học lớp tám theo chương trình trung học tương đương với lớp nhì tiểu học. Chương trình học có một cải tiến làm cậu ta ngao ngán: cấm nói tiếng Tây ngược hẳn với trước đây Ai vi phạm sẽ bị kỷ luật. Lúc đầu, cậu bé nói tiếng mẹ đẻ rất kém nên ít nói, cậu ta thấy lạc lõng nhưng rồi hoà nhập rất nhanh với bạn bè trong lớp. Có hôm, thấy các cháu lúng túng không tìm được từ tiếng Việt thích hợp, cô giáo phải nhắc nhưng lại dặn đừng kể với ai, vì làm như thế chúng sẽ chóng quên tiếng mẹ đẻ, nhất là mấy đứa em gái Bảo Long. Còn cậu ta thì vẫn say mê với đống sách truyện tiếng Pháp của ông nội là đức vua Khải Định để lại, nhất là mấy cuốn truyện viễn tưởng khoa học của Jules Verne. Nhờ đọc thẳng từ nguyên tác tiếng Pháp, nên những câu chuyện về đại uý thuyền trưởng Nemo và về Phileas Fogg - những nhân vật trong tác phẩm của Jules Verne - Bảo Long vẫn có dịp tiếp xúc với tiếng Pháp.
Bây giờ Bảo Long đi học không phải để sau này làm vua nữa. Với cái tên được ghi danh là Nguyễn Bảo Long, cậu ta cũng chạy nhảy, rong chơi ngoài đường, nô đùa, nghịch ngợm, cãi nhau, đánh nhau như mọi học trò khác. Không còn bị ràng buộc bởi bao điều cấm kỵ gò bó như đối với một đông cung thái tử khi trước. Các bạn học trong trường chẳng mảy may phân biệt đối xử, thù ghét gì dòng dõi hoàng gia. Hơn thế mọi người vẫn kính nể ông vua cuối cùng triều Nguyễn đã tự nguyện rời bỏ ngai vàng để giao chính quyền cho cách mạng rồi trở thành cố vấn tối cao của chính phủ, ngang hàng với chủ tịch Hồ Chí Minh, người giải phóng cho dân tộc.
Được cái Bảo Long học rất khá. Đứng đầu lớp, được ghi tên trên bảng danh dự. Trong các buổi chào cờ ngày đầu tuẩn, cậu ta được vinh dự kéo lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ ở sân trường như mấy tháng trước đây cậu ta cũng được chọn để kéo là cờ tam tài của nước Pháp?
Có những niềtn vui tuổi trẻ con mà trước đây trong cuộc sống trong cung cậu ta không bao giờ được biết tới: đi chăn vịt với trẻ con đường phố, té nước vào nhau trên các vũng nước trong mùa mưa xứ Huế. Lần đầu tiên, Bảo Long biết thế nào là mùa mưa ở Huế. Mọi năm, cứ đến trước mùa Giáng sinh mấy mẹ con bà Nam Phương lại kéo nhau lên nghỉ ở Đà Lạt có khí hậu vùng núi cao, để tránh mùa mưa xứ Huế. không phải là mưa rào từng cơn mà là mưa phùn, lâm thâm, không ngớt suốt đêm ngày, kéo dài từ tháng chạp năm trước đến tháng ba năm sau. Mọi thứ đều ẩm ướt, đường sá nhớp nháp, cảnh tượng thiên nhiên buồn bã.
Từ sau khi Vua Bảo Đại thoái vị, hoàng gia dọn về ở trong cung An Định không còn cha cố đến nhà rao giảng kinh thánh, không còn cầu nguyện ngay trong phòng riêng, vào mỗi buổi tối. Mỗi buổi sáng sớm, tập thể dục xong, bà chỉ cần qua sân sau sang bên kia đường mấy chục mét là đến giáo đường dòng Chúa Cứu thế để cầu nguyện và nghe cha cố giảng giáo lý, và cũng là dịp để nghe ngóng tin tức. Còn các con bà thì chúng đã nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống học đường, đã tiếp thu ảnh hưởng mác-xít của Việt Minh.
Cuộc sống dường như phẳng lặng nhạt nhẽo. May mà còn có các cuộc míttinh, biểu tình chẳng ngày nào không có, chẳng khác nào vào mùa lễ hội. Đó là thời kỳ của những hoạt động sôi nổi tác động mạnh đến tâm lý người dân. Cũng như cha chúng ở Hà Nội, con của bà Nam Phương, những hoàng tử, công chúa lá ngọc cành vàng trước đây, chẳng cuộc míttinh, biểu tình nào vắng mặt. Chúng còn hô khẩu hiệu to hơn những đứa trẻ khác. Hoàng gia còn tích cực hưởng ứng các cuộc lạc quyên trong đó có Tuần lễ Vàng. Bà Nam Phương đóng góp vài chiếc xuyến bằng vàng ròng. Được tuyên dương, bà thấy cũng chẳng có gì đáng gọi là công trạng. Tiếp theo là tuần lễ quyên góp đồng, quyên vải may quần áo giúp trẻ em nghèo trong mùa đông lạnh giá. Dư luận tỏ thiện cảm với bà khi bà tuyên bố với nhà báo: "Tôi rất vui mừng và cảm ơn Chính phủ Dân chủ Cộng hoà đã đối đãi rất tử tế với gia đình chúng tôi. Chúng tôi rất vui mừng thấy chị em đã tiến rất chóng trên con đường cứu nước. Từ trong nội mới dọn sang, nhà cửa xếp đặt chưa xong, hiện nay tôi chưa làm gì được nhiều, song nay mai khi nào chị em có việc gì cần đến tôi, tôi sẽ rất sung sướng mà gánh lấy một phần công việc"(2). Khi dự tiệc của các nhà báo chiêu đãi phóng viên Mỹ của hãng Associated Press ghé qua Huế, bà yêu cầu nhà báo Mỹ lúc nào về nước làm ơn cho chính phủ và dân chúng Mỹ biết chồng bà, Hoàng thân Vĩnh Thuỵ đã rất vui lòng thoái vị đế tỏ lòng đoàn kết với toàn dân Việt Nam ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà(3).
Ngày 18 tháng 11 năm 1945, bà cựu hoàng ra lời kêu gọi phụ nữ toàn thế giới, được các báo đăng toàn văn như sau:
"Nước Việt Nam đã thoát khỏi ách nô lệ... Chính phủ Lâm thời Dân chủ Cộng hoà đã thành lập. Chồng tôi, ông Vĩnh Thuỵ tức cựu Hoàng đế Bảo Đại đã từng tuyên bố "Vui lòng làm dân một nước tự do hơn làm vua một nước nô lệ" nên đã đồng ý thoái vị. Tôi cũng đã đồng ý với chồng tôi, nên chồng tôi đã làm cố vấn trong chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Riêng tôi, tôi cũng đã cùng với các chị em phụ nử giúp nhiều việc trong công việc xã hội ở nước chúng tôi.
Chúng tôi chỉ đinh ninh phụng sự cho tổ quốc của chúng tôi. Nhưng từ lâu nay bọn thưc dân Pháp được sự che chở của phái bộ Anh đã xâm chiếm đất nước chúng tôi và miền Nam nước Việt Nam hiện giờ, nơi chôn rau cắt rốn của tôi đang bị chìm đắm trong vòng khói lửa.
Đồng bào chúng tôi trong ấy có cả thân quyến của tôi bị giết, bị hành hạ bởi sự tham tàn của một bọn người xâm lược. Những bạn bè của tôi ở nhiều nước châu Âu, các ông các bà đã quen biết tôi, tất cả những người yêu chuộng tự do công lý, các người kêu gọi chính phủ của các người cương quyết can thiệp để ngăn cản bàn tay đẫm máu của bọn thực dân Pháp ở miền Nam nước Việt Nam là các người đã làm ơn cho dân tộc chúng tôi, làm ơn cho tất cả phụ nữ chúng tôi, cho cả tôi nữa. Các người hãy tin chắc chắn rằng mối cảm tình nồng nàn của dân tộc chúng tôi, của riêng tôi đối với các người sẽ nhờ đó mà tồn tại mãi mãi.
Thay mặt cho mười ba triệu bạn gái của nước Việt Nam, một lần nữa tôi kêu gọi lòng bác ái nhân đạo của các người. Tôi mong mỏi các người không để cho chúng tôi phải thất vọng".
Tóm lại, cuộc sống êm thuận, vui vẻ. Một cuộc cách mạng thực sự. Chỉ có một điều dè chừng. Ông chính trị viên luôn luôn có mặt, giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của bà. Trong lúc chuyện trò, bà phải cẩn thận giữ gìn ý tứ, lựa lời để không làm phật lòng ông ta. Ngoài ra tâm trạng bà lúc nào cũng lo âu phấp phỏng.
Sáng sáng, bọn trẻ đến trường bằng xe kéo. Trừ đứa bé nhất chưa đủ tuổi vào lớp, còn ba đứa chất đầy một xe kéo. Trên đoạn đường ngắn từ nhà đến trường chúng được chứng kiến bọn lính Trung Hoa xử sự như đất nước chúng: Chúng ngang nhiên cướp bóc, trấn lột vơ vét của cải của người dân đem về doanh trại. Nhưng vui nhất là lúc đi qua khu phố Tây gần trường học, trong đó những gia đình kiều dân Pháp sống chen chúc biệt lập trong các nhà theo kiểu biệt thự.
Bọn trẻ con người Việt hễ thấy lũ con Tây là trêu chọc, chửi bới xua đuổi vào trong nhà, dùng súng cao su hay ném đá vào các cửa sổ. Anh em Bảo Long cũng đua đòi theo các bạn chơi cái trò độc ác đó. Người học sinh cũ của trường dòng Oiseaux và của trường trung học d Adran cũng hò hét, ném đá vào cả những đứa trẻ mà chỉ chưa đầy một năm trước đây cậu hằng yêu mến. Dân quân Việt Minh ngày đêm canh gác khu phố Tây để ngăn mọi hành động quá khích. Một hôm tình hình trở nên căng thẳng hơn mọi ngày: Xảy ra một cuộc xô xát giữa mấy anh bộ đội Việt Minh với một số kiều dân Pháp. Số là trên mặt trận Nam Bộ, bộ đội Việt Nam vừa dùng lựu đạn đánh chìm chiếc tàu Pháp Richelieu. Bộ đội Huế nghe tin liền tổ chức hội họp ăn mừng chiến công đó. Quá phấn khích, suýt nữa thì họ xông vào các nhà Pháp kiều để tàn sát.
Các lực lượng trật tự đến kịp: chỉ có đấm đá nên chỉ gây thương tích nhẹ cho nạn nhân. Bà Nam Phương có thêm những lý do để lo lắng tình hình sẽ xảy ra tồi tệ hơn nữa.
Những kỷ niệm thời Pháp thuộc phai mờ dần trong tâm trí người dân, kể cả những đứa trẻ trong hoàng gla. Quyền lực được xây dựng và tồn tại gần một thế kỷ phút chốc tiêu tan qua các phong trào nổi dậy của đông đảo quần chúng. Không còn bóng người Pháp nghênh ngang trên đường phố. Kiều dân Pháp sống tập trung trong khu biệt cư. Binh lính và sĩ quan của đội quân thuộc địa một thời đã từng diễu binh hùng dũng dưới chế độ Decoux, hãy còn bị giam giữ trong các trại tù binh từ ngày đảo chính mồng 9 tháng 3, mặc dù Nhật đã đầu hàng(4).
Số phận hoàng gia đã bị thế giới phương Tây, những kẻ bảo hộ họ trước đây, bỏ quên. Chẳng ai buồn đoái hoài đến họ. Thật lạ lùng chỉ có đô đốc D Argenlieu, vừa mới được tướng De Gaulle bổ nhiệm Cao uỷ Pháp tại Đông Dương nhớ đến. Từ Chandernagor, một tỉnh Ấn Độ, thuộc Pháp ông ta theo sát tình hình để chờ thời cơ thuận lợi tiến vào Đông Dương. Ông liên tiếp báo cáo về Pháp: "Hoàng hậu An Nam và các con bị những người nổi dậy nhốt ở Huế. Hoàng Thái hậu kỳ thị bà, chính quyền cách mạng luôn luôn đe doạ tính mệnh bà. Bà có ảnh hưởng lớn đối với tín đồ công giáo Đông Dương. Hy vọng Toà Thánh sẽ can thiệp với Trung Hoa đang chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự khu vưc bắc Đông Dương có những biện pháp cần thiết đế đưa bà Hoàng hậu và các con về Sài Gòn" (điện ngày 9 tháng 10 năm 1945).
Nhưng Laurentie trong Uỷ ban Đông Dương nhận bức điện "tối mật" ngày 9 tháng 10 năm 1945 đã bác bỏ đề nghị của D Argenlieu. Trong hồ sơ của Bộ Pháp quốc hải ngoại lưu giữ ở Aix-en-Provence, người ta còn thấy dấu tích bút phê bằng bút chì của ông Laurentie chua ở bên lề bức điện của đô đốc D Argenlieu: "Tôi thấy không đúng lúc việc nhờ Toà Thánh can thiệp và Trung Hoa gây sức ép với những người chúng tôi muốn thương thuyết(5).
Nhiều phóng viên đến gặp bà cố vấn tối cao để viết bài. Trước tiên là hai phóng viên báo Quyết thắng, cơ quan của Việt Minh Trung Bộ. Họ thuật lại: Đến cung An Định họ được yêu cầu chờ ở phòng khách. Một người râu rậm, có vẻ trí thức tiếp họ. Đó là Nguyễn Duy Quang, nguyên Đại nội đại thần của Bảo Đại. Ông nói bà phu nhân cố vấn đang tắm nên không thể tiếp họ được, yêu cầu nhà báo để lại những câu hỏi phỏng vấn để hôm sau trở lại. Hôm sau, vào đến cổng họ chú ý đến một cậu bé, chín mười tuổi kháu khỉnh đang câu cá bên sông đào. Chắc là Bảo Long. Ông Quang dẫn họ vào một phòng dài có hai ghế bành lớn, hai ghế bành của cặp vợ chồng Nhà vua trước đây. Bà Nam Phương từ trong buồng trong bước ra. Hai ông nhà báo bất ngờ thấy bà đứng thẳng người, nâng nắm tay phải lên ngang tai chào theo kiểu Việt Minh? Một bà cựu hoàng "đỏ", bà có đi quá xa không? Được hỏi về tình hình ông cố vấn ở Hà Nội. Bà cho biết ông vẫn mạnh khỏe, làm việc nhiều, thỉnh thoảng viết thư về, thư nào cũng nói tốt về cụ Hồ(6): Cụ có tuổi nhưng làm việc miệt mài, có hôm về rất muộn, thức ăn đã nguội mà cũng không yêu cầu người phục vụ hâm lại.
Nhà báo hỏi về vai trò của bà cựu hoàng trong xã hội mới và trách nhiệm của phu nhân cố vấn tối cao, bà vui vẻ trả lời: "Bây giờ đất nước được độc lập rồi, đã đến lúc người phụ nữ phải coi trọng vai trò của mình. Phụ nữ Trung Nam Bắc có nhiệm vụ chung là tích cực tham gia uào công cuộc tái thiết đất nước". Bà còn tỏ ý mong Chính phủ cụ Hồ sẽ giao cho bà một trách nhiệm cụ thể. Mỗi khi viết thư trả lời ông cố vấn bà đều nhắc lại nguyện vọng đó. Trả lời câu hỏi về gia đình, các hoàng tử công chúa, bà cựu hoàng trả lời: tất cả đều mạnh khỏe. Cảm ơn các nhà báo đã đến phỏng vấn. Bà đứng dậy, đột ngột cắt dứt câu chuyện, tươi cười bắt tay tạm biệt hai nhà báo và lui vào buồng trong. Tác giả kết luận bài báo: Tính cách bà cựu hoàng thật đặc biệt.
Ít lâu sau, đáp ứng nguyện vọng của bà muốn tham gia vào công cuộc kiến thiết quốc gia, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh bổ nhiệm bà cùng với hai chục nhân sĩ trí thức có tên tuổi tham gia "Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc" thành lập ngày 31 tháng 12 năm 1945. Tuy vậy chưa khi nào bà rời Huế để tham gia các cuộc họp của Uỷ ban này.
Tháng mười năm 1945, ông Phạm Khắc Hòe, cựu Tổng lý Ngự tiền Văn phòng nay làm việc ở Bộ Nội Vụ từ Hà Nội vào Huế mang đến cho bà một phong thư có ba tờ giấy xanh kín chữ to rộng của Bảo Đại. Bà Nam Phương xúc động run tay nhè nhẹ thong thả đọc bức thư đầu tiên của ông cố vấn. Ông Hòe gặp bà trên đường dọc bờ kênh. Bà vừa đi dự lễ chầu ở nhà thờ Phú Cam về. Ông Hòe theo bà vào cung An Định, lên cầu thang lớn đến một căn phòng nhỏ, khá cổ. Nơi đây không nghe tiếng ồn của phố xá, cũng không nghe tiếng hò của những người kéo thuyền trên sông bên cạnh nhà. Bà ngồi trên một chiếc ghế bành nặng nề có tay vịn chạm rồng. Ghế đó có lẽ từ thời vua Khải Định để lại. Dù người nhỏ thó và mảnh khảnh, Khải Định thích những đồ dùng lớn.
Ông Hòe ngồi bên cạnh trên một ghế bành cùng loại, chờ bà đọc thư xong. Ông giữ im lặng. Bà vốn nặng tai nếu không ngồi gần sát, bà không nghe được người đối thoại nói gì. Trước đây có Nguyễn Tiến Lãng được mệnh danh là "cái tai" của Hoàng hậu Nam Phương chuyên nghe rồi nói lại cho bà hiểu. Lúc này ông Lãng đang ngồi trong tù. Hôm nay bà mặc chiếc áo dài lam giản dị, cổ đeo chiếc kiềng vàng nặng, không trang điểm vì vừa đi lễ về. Ông Hòe ngạc nhiên thấy bà như già đi, những nếp nhăn nhẹ hiện trên gương mặt đẹp.
Ông cảm động thấy bà bối rối, hai giọt nước mắt lăn chầm chậm trên gò má. Bà cựu hoàng thấy không cần che giấu cơn xúc động. Bà hẹn ông đến buổi chiều sẽ trở lại để lấy thư trả lời gửi ông Vĩnh Thuỵ.
4 giờ chiều hôm đó, y hẹn, ông Hòe trở lại cung An Định. Lần này, cuộc trò chuyện có vẻ thân tình hơn.
Sau khi đưa thư, bà nói:
- Ông Hòe này, tôi rất tin ông, trước thế nào thì nay cũng thế, tôi muốn ông cho biết tất cả sự thật về việc ông Vĩnh Thuỵ mê con Lý.
- Chúng tôi rất tiếc không được biết tường tận, nhưng đúng là ở Hà Nội tôi có nghe nói loáng thoáng về việc Ngài cố vấn có "quan hệ" (đương thời gọi là "mèo") với Lý, ông Hòe ấp úng.
- Ông biết con Lý nhiều không. Con ấy là người như thế nào?
- Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy cô ta. Chỉ nghe nói là cô ta đẹp nhưng về tư cách thì khỏi phải nói. - Ông Hòe nói thêm - Chúng tôi không biết gì khác vì tôi không ở cùng nhà với Ngài cố vấn. Công việc ở bộ Nội vụ choán hết thời gian nên chúng tôi không quan tâm đến những chuyện khác. - Ông Hòe im lặng một lát, rồi nói thêm - Bà cùng các con nên ra Hà Nội cùng sống và chăm sóc Ngài...
- Nếu chồng tôi được hạnh phúc với người tình thì tôi không hề ngăn cấm. Tốt hơn là tôi ở lại một mình ở đây. Ngoài ra cụ Hồ có đề nghị tôi ra sống ở Hà Nội không…?
- Tôi chưa biết. Đây mới là ý kiến riêng của tôi.
Cuộc nói chuyện kết thúc. Bà còn hẹn ông một cuộc gặp nữa vào sáng hôm sau trước khi lên đường ra Hà Nội, bà có câu chuyện muốn nói.(7)
Dù sống và làm việc ở Hà Nội, ông Hòe vẫn có nhà riêng cho gia đình ở cố đô Huế. Về thăm lại vợ con, ông còn nghe được. nhiều tin đồn trong thành phố.
Bà Nam Phương còn có chuyện gì nữa muốn nói với ông? Ông thắc mắc tự hỏi. Chắc hẳn bà sẽ nói với ông về một kế hoạch mà ông đã được nghe phong thanh.
Nếu tin đồn là có thật thì đó là một kế hoạch, đúng hơn là một âm mưu đảo chính đang được ấp ủ mà linh hồn chính là Nam Phương. Cánh bảo thủ trong hoàng tộc tập hợp một số người công giáo sẽ tiến công đồn Mang Cá ở phía bắc hoàng thành, giải thoát đám lính Pháp đang bị Nhật canh giữ rồi tổ chức cướp chính quyền, với sự ủng hộ của hoàng tộc sẽ đưa Bảo Long lên ngôi vua. Trước đây khi Bảo Đại thoái vị, hoàng tộc không được tham khảo ý kiến nên trong lòng vẫn oán hận.
Kế hoạch này nếu đem ra thực thi, chắc chắn sẽ nổ ra nội chiến. Có lẽ bà thăm dò ý kiến ông Hòe. Tại sao lại là ông? Bà biết ông rất thân cận với chính quyền Việt Minh. Có thể quan hệ thân tình trước đây khiến bà nghĩ rằng ông sẽ giữ im lặng hoặc kế hoạch đã xúc tiến đến mức ông có biết cũng không thể ngăn cản nổi.
Hôm sau ông Hòe đi luôn Hà Nội, không trở lại cung An Định nữa. Sau đó không có chuyện gì xảy ra. Có thể bà cựu hoàng đã thay đổi ý kiến, cũng có thể người Pháp đã khuyên bà không nên làm gì.
Ông Trần Hữu Dực, nguyên Phó thủ tướng chính phủ kể lại: Thời gian này với tư cách chủ tịch Uỷ ban nhân dân Trung Bộ tôi cũng đến thăm gia đình bà Vĩnh Thuỵ tại cung An Định trên bờ sông An Cựu, cùng ở với mẹ chồng (tức bà hoàng thái hậu Từ Cung), và các con trai, con gái, cấp 10 mẫu ruộng ở thôn An Cựu, theo yêu cầu của bà Từ Cung để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng các vua nhà Nguyễn, cấp một xe tải theo yêu cầu của bà Nam Phương để chạy xe lấy tiền chi tiêu thêm... Có lần ra Hà Nội họp, gặp Vĩnh Thuỵ tôi hỏi có cần gì không, Vĩnh Thuỵ nói ông ta ở Hà Nội cũng như gia đình ở Huế đều được chính phủ chăm sóc(8).
Ông Lê Văn Hiến, bộ trưởng Lao động, trong một chuyến công cán đặc biệt vào các tỉnh phía Nam, đã đến thăm bà Vĩnh Thuỵ. Nhân danh chính phủ ông chính thức đề nghị bà cùng các con ra sống ở Hà Nội.
Đó là một vinh dự mà chính phủ dành cho bà. Nhưng bà cựu hoàng đáp lại một cách từ tốn: Bà rất sung sướng được thấy ngày vinh quang của xứ sở. "Bà không mong gì cho cá nhân bà, cho gia đình bà cả. Bà chỉ mong sao cho cho nển độc lập của nước nhà được vững bền. Bà cũng mong được có dip ra Bắc để thăm đồng bào Bắc Bộ nhưng như vậy sẽ tổn hao và phiền phức cho chính phủ nên bà hẹn chờ ngày nước nhà được độc lập chính phủ khỏi cơn khó khăn, bà sẽ ra Bắc. Bà rất mong chồng bà đem hết tài sức giúp chính phủ".(9)
Trong lúc Vĩnh Thuỵ đang sống lưu vong tại Trung Hoa, trong phiên họp ngày 20 tháng 5 năm 1946, sau khi nghe Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam báo cáo về tình hình gia đình bà Vĩnh Thuỵ, Hội đồng chính phủ quyết định sẽ dùng đủ phương pháp để lo cho sự an toàn gia đình ông Cố vấn, và nếu bà Cố vấn ưng ra ngoài Bắc hoặc ưng thế nào thì chính phủ sẽ tuỳ lo liệu(10).
Tại sao bà khước từ lời đề nghị ra Hà Nội cùng sống với ông cố vấn? Hẳn bà biết quá rõ tính nết của ông chồng, bà có ra Hà Nội ở cùng, vị tất dã làm ông chấm dứt thói trăng hoa của ông, hơn thế nữa xung đột gia đình được phơi bày trước mắt mọi người chỉ làm mọi người chê cười, làm hoen ố thêm uy tín ông cố vấn và khơi sâu thêm nỗi chua xót của bà.

Chú thích:
(1) Cung An Định là nơi ở của bà Hoàng Thái hậu Từ Cung cho đến năm 1954, sau đó Ngô Đình Diệm buộc bà phải rời cung. Sau năm 1975, cung An Định trở thành di tích của cố đô Huế.
(2) Báo Quyết chiến, cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mệnh tại Thuận Hoá, xuất bản ngày 18 tháng 9 năm 1945.
(3) Báo Dân quốc xuất bản tại Hà Nộị ngày 24 tháng 9 năm 1945.
(4) Đại tá Cédille, được De Gaulle cử làm uỷ viên cộng hoà Pháp tại miền Nam Việt Nam nhảy dù xuống Lộc Ninh ngày 22 tháng 8 năm 1945 bị Nhật bắt đưa về Sài Gòn trao cho Gracey, trưởng phái bộ Anh (ND).
(5) COM, bộ Pháp quốc Hải ngoại, Hồ sơ 1211, NF.
(6) Ít nhất ông Cố vấn gửi đến năm bức thư về cho vợ, nhờ cán bộ đi công tác vào Nam chuyển.
(7) Phạm Khắc Hòe, Sách đã dẫn.
(8) Xem Hồi ký Trần Hữu Dực, Bước qua đầu thù, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996.
(9) Báo Dân quốc xuất bán tại Hà Nội ngày 20 tháng 12 năm 1945.
(10 Biên bản họp Hội đồng Chính phủ ngày 20 tháng năm 1946, lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
hết: Chương 16, xem tiếp: Chương 17
*

No comments: