 LUẬN NGỮ DANH NGÔN YẾU LÝ
LUẬN NGỮ DANH NGÔN YẾU LÝ 
[1.1].Tử        viết ‘Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ, hữu bằng tự viễn        phương  lai, bất diệc lạc hồ, nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc  quân   tử     hồ’.
[1.3]     .Xảo ngôn lệnh sắc tiển hỉ nhân.
[1.4].Tăng     Tử  viết: ‘ngô nhật tam tỉnh ngô thân ─ vị nhân mưu nhi bất trung   hồ、dữ   bằng hữu giao nhi bất tín hồ、truyền bất tập hồ’
(1.14)     .Tử    viết : quân tử thực vô cầu bảo , cư vô cầu an , mẫn ư sự ,  nhi    thận ư    ngôn , tựu hữu đạo , nhi chánh yên , khả vị hảo học dã  dĩ.
(1.15).Tử Cống viết : bần nhi vô  siểm , phú nhi vô kiêu ,
(1.16). Tử viết : bất hoạn nhân chi bất kỷ tri , hoạn bất tri nhân dã .
(2.1). Tử viết : vi chánh dĩ đức , thí như Bắc thần , cư kỳ sở , nhi  chúng tinh cộng chi.
(2.2).Tử viết: Thi tam bách , nhất ngôn dĩ tế chi ,  viết , tư vô tà .
(2.3).Tử viết : đạo chi dĩ chánh ,  chi dĩ   hình , dân miễn  nhi vô sỉ . Đạo chi dĩ đức ,  chi dĩ lễ ,   hữu sỉ thả cách .
(2.4).Tử      viết: Ngô thập hữu ngũ nhi  chí vu   học ; tam thập nhi lập ;  Tứ    thập   nhi  bất hoặc .Ngũ thập nhi tri thiên mệnh ;lục  thập nhi  nhĩ      thuận   ;thất thập nhi tòng tâm sở dục , bất  du củ .
[ 2.11].Tử viết: ôn cố nhi tri tân , khả dĩ vi sư hĩ .
[ 2.13]. Tử Cống vấn quân tử , Tử viết : tiên hành kỳ ngôn , nhi hậu tòng chi .
[ 2.14].Tử viết: quân tử chu nhi bất tỉ , tiểu nhân ti nhi bất chu .
[2.15].Tử viết : học nhi bất tư tắc võng , tư nhi bất học tắc đãi .
[2.16].Tử viết :công hồ dị đoan , tư hại dã kỷ .
[ 2.17]. Tử viết :Do , Hối nhữ ( 女 nữ dùng như 汝 nhữ  ) tri chi hồ , tri chi vi tri chi , bất tri vi bất tri , thị tri dã .
[2.18).       Tử Trương  học can lộc . Tử viết : đa văn khuyết nghi , thận ngôn   kỳ   dư  ,  tắc quả vưu , đa kiến khuyết đãi , thận hành kỳ dư , tắc  quả   hối ,   ngôn  quả vưu , hành quả hối , lộc tại kỳ trung hĩ
[2.24]. Tử viết: phi kỳ quỷ nhi tế chi , siểm dã .Kiến nghĩa bất vi , vô dũng dã .
[ 3.7 ] Tử viết : quân tử vô sở tranh
[ 3.12 ] .Tế như tại , tế thần như thần tại . Tử viết: ngô bất dữ tế , như bất tế.
[11.12].Quý     Lộ hỏi về sự thờ phượng thần linh. Khổng Tử đáp: " Đạo thờ người còn     chưa biết, sao biết việc thờ thần linh?- Dám hỏi về sự chết. Ngài  đáp:  "   Chưa biết sự sống sao biết sự chết?
[ 4.3 ] .Tử viết : duy nhân giả , năng hảo nhân , năng ác nhân .   
[ 4.8]. Tử viết :triêu văn đạo , tịch tử , khả hĩ .  
[4.9]. Tử viết :sĩ chí ư đạo , nhi sỉ ác y ác thực giả , vị túc dữ nghị dã .  
[4.10]. Tử viết : quân tử chi ư thiên hạ dã , vô thích dã , vô mạc dã , nghĩa chi dữ bỉ .  
[ 4.11]. Tử viết : quân tử hoài đức , tiểu nhân hoài thổ , quân tử hoài hình , tiểu nhân hoài huệ.
[4.15]. 
Tử  viết: Sâm  hồ , ngô đạo  nhất dĩ quán chi .
[4.16]. 
Tử viết : quân tử  dụ ư nghĩa , tiểu nhân dụ ư lợi .
[4.17] .
Tử     viết : kiến hiền tư tề yên , kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh  dã .
[4.18]. Tử viết : sự  phụ mẫu ki gián , kiến chí bất tòng , hựu kính  bất    vi , lao nhi bất oán.
[ 4.19]. Tử viết : phụ mẫu tại , bất viễn du , du tất hữu phương . 
[4.24].
Tử viết : quân tử dục nột ư ngôn , nhi mẫn ư hành .
[4.25].
Tử viết : đức bất  cô , tất hữu lân .
[5.26].  Tử viết , lão giả an chi , bằng hữu tín chi , thiểu giả hoài chi .
[6.16].     Tử viết: chất thắng văn tắc dã , văn thắng chất tắc sử , văn  chất   bân   bân , nhiên hậu quân tử.[6.21].Tri giả nhạo thủy, nhân giả nhạo    san,   tri giả động , nhân giả tĩnh . Tri giả  lạc , nhân giả thọ.
[6.25].Tử viết: " Quân tử bác học ư văn , ước chi dĩ lễ , diệc khả dĩ phất bạn hĩ phu .
[6.27]. Tử viết:  trung dong chi vi đức dã , kỳ chí hĩ hồ ,  dân tiên cửu hĩ .
[7.1].Tử viết: Thuật nhi bất tác , tín nhi hảo cổ , thiết bỉ ư ngã lão bành .
 [7.2]. Tử viết: " mặc nhi thức chi , học nhi bất yếm , hối nhân bất quyện , hà hữu ư ngã tai .
 [7.3].Tử viết: " đức chi bất tu , học chi bất giảng , văn nghĩa bất năng đồ , bất thiện bất năng cải , thị ngô ưu dã" . 
[7.5]. Tử viết:  thậm hĩ ngô suy dã , cửu hĩ , ngô bất phục mộng kiến Chu công .
[7.10].Khổng     tử nói với Nhan Uyên ( Nhan Hồi ):  Đời dùng (ta)  thì ta hành động,     đời bỏ (ta)  thì ta ẩn dật. Chỉ có ta  với ngươi làm được như vậy   thôi.   Tử Lộ hỏi: " Ví như thầy đem quân ra  trận, thầy sẽ chọn ai theo   phò  tá?  Đức Khổng đáp: " Những kẻ  tay không  đánh hổ, không dùng   thuyền mà  lội  qua sông, chết chẳng hối hận, ta chẳng  cho những kẻ ấy   theo ta.  Ta  chọn những ai biết lo sợ, dè dặt, biết mưu  tính sao cho   thành  công."
[7.16]. Tử viết: gia ngã sổ niên , ngũ  thập dĩ học dịch , khả dĩ vô đại quá hĩ .
[8.7].Tăng     Tử viết: sĩ , bất khả dĩ bất hoằng nghị , nhiệm trọng nhi đạo viễn .     Nhân dĩ vi kỷ nhiệm, bất diệc trọng hồ , tử nhi hậu dĩ , bất diệc  viễn    hồ .
 [8.9].Tử viết: dân khả sử do chi , bất khả sử tri chi .
[8.10]. Tử viết: hảo dũng tật bần , loạn dã , nhân nhi bất nhân , tật chi dĩ thậm , loạn dã .
[     8.13].Tử viết:Đốc  tín hiếu học , thủ tử thiện đạo, nguy bang bất   nhập  ,  loạn bang bất cư,  thiên hạ hữu đạo tắc kiến , vô đạo tắc ẩn,   bang  hữu  đạo , bần thả tiện  yên , sỉ dã , bang vô đạo , phú thả quý   yên ,  sỉ dã.
[ 9.16.] Tử tại xuyên thượng viết: thệ giả như tư phù , bất  xả trú dạ .
 [ 9.17]. Tử viết: ngô vị kiến hảo đức , như  hảo sắc giả dã . 
[ 9.25].Tử viết :  tam quân khả đoạt sư dã , thất phu bất khả đoạt chí dã .
     [9.26].   Tử viết: y tệ ôn bào , dữ y hồ hạc giả lập , nhi bất sỉ  giả  ,   kỳ Do dã   dữ . Bất kĩ bất cầu , hà dụng bất tang . Tử Lộ chung   thân   tụng  chi.  Tử viết : thị đạo dã , hà túc dĩ tang .
 [9.27].Tử viết: Tuế hàn , nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã .
     [9.22].Tử viết:  hậu sanh khả úy , yên tri lai giả chi bất như kim  dã  ,     tứ thập ngũ thập nhi vô văn yên , tư diệc bất túc úy dã dĩ .
[9.28]. Tử viết: trí giả bất hoặc , nhân giả bất ưu , dũng giả bất cụ .
[9.29]. Tử viết: khả dữ cộng học , vị khả dữ thích đạo , khả dữ thích đạo , vị khả dữ lập , khả dữ lập , vị khả dữ quyền .
[ 11.12]. Quý Lộ vấn sự quỷ thần . Tử viết: vị năng sự nhân , yên năng sự quỷ . Cảm vấn tử . Viết: vị tri sanh , yên tri tử.    
Mạc     xuân giả , xuân phục ký thành , quán  (2) giả ngũ lục  nhân , đồng  tử    lục thất nhân , dục hồ nghi , phong hồ vũ vu , vịnh nhi  quy  [11.26]
[12.23]. Tăng Tử viết: Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu hội nhân.
[13.1]. Tử Lộ vấn chánh . Tử viết , tiên chi , lao chi . Thỉnh ích . Viết , vô quyện .
[13.2].   Trọng Cung vi Quý thị tể , vấn chánh .       Tử  viết:  tiên hữu ti ,   xá tiểu quá , cử hiền tài . Viết :  yên tri hiền tài nhi cử chi . Viết :   cử nhĩ sở tri , nhĩ sở bất tri ,  nhân kỳ xá chư .
[13.3].    Danh bất chánh , tắc ngôn bất thuận , ngôn bất thuận , tắc sự bất thành   , sự bất thành , tắc lễ nhạc bất hưng , lễ nhạc bất hưng  , tắc hình   phạt bất trung , hình phạt bất trung , tắc dân vô sở thố thủ  túc . Cố   quân tử danh chi tất khả ngôndã , ngôn chi tất khả hành dã , quân tử ư   kỳ ngôn , vô sở cẩu nhi dĩ hĩ .     
[13.16]. Diệp công vấn chính.  Tử viết: cận giả duyệt , viễn giả lai .
[13.17].   Tử Hạ vi cử phụ tể , vấn chánh . Tử viết , vô dục  tốc , vô kiến tiểu   lợi . Dục tốc tắc bất đạt , kiến tiểu lợi tắc đại sự  bất thành .
[13.23]. Tử viết:  quân tử hòa nhi bất đồng , tiểu nhân đồng nhi bất hòa .
[13.24].   Tử Cống vấn  viết , hương nhân giai hảo chi , hà như . Tử viết , vị  khả  dã . Hương  nhân giai ác chi , hà như .    Tử viết:  vị khả  dã .  Bất  như hương nhân chi thiện giả hảo chi , kỳ bất thiện giả ác chi  .
【13.26].  Tử viết:  Quân tử thái nhi bất kiêu , tiểu nhân kiêu  nhi bất thái .
【14.1】.   Hiến vấn sỉ . Tử viết:  bang hữu đạo cốc , bang vô đạo cốc , sỉ dã .    Khắc , phạt , oán , dục , bất hành yên , khả dĩ vi nhân hĩ .  Tử viết:    khả dĩ vi nan hĩ , nhân tắc ngô bất tri dã .
[14.2]. Tử viết: sĩ nhi hoài cư , bất  túc dĩ vi sĩ hĩ .
[14.3]. Tử viết: bang hữu đạo , nguy ngôn nguy hành , bang vô đạo , nguy hành ngôn tốn  .
[14.6]. Tử viết: Quân tử nhi bất nhân giả, hữu hỉ phù! Vị hữu tiểu nhân nhi nhân giả dã!
[ 14.10]. Tử viết : bần nhi vô oán , nan ; phú nhi vô kiêu , dị .
【14.26]. Tử viết: bất tại kỳ vị , bất mưu kỳ chánh . Tằng tử viết : quân tử tư bất xuất kỳ vị .
【14.27】. Tử viết: quân tử sỉ kỳ  ngôn nhi quá kỳ hành .
[14.35]. Hoặc viết , dĩ đức báo oán , hà như ? Tử  viết : Hà dĩ báo  đức ? Dĩ trực báo oán , dĩ đức báo đức .
【14.36].    Tử viết : mạc ngã tri dã phu .  Tử Cống viết : hà vi kỳ mạc tri tử dã  ?  Tử viết , bất oán thiên , bất   vưu nhân , hạ học nhi thượng đạt ,  tri  ngã giả kỳ thiên hồ !
【15.13】. Tử viết : dĩ  hĩ hồ , ngô vị kiến hảo đức như hảo  sắc giả dã
【15.21】. Tử viết: quân tử cầu chư kỷ , tiểu nhân cầu chư  nhân .
【15.22】. Tử viết : quân  tử căng  nhi bất tranh , quần nhi bất đảng .
【15.23】. Tử viết , quân tử bất dĩ ngôn cử nhân , bất dĩ  nhân phế  ngôn 。        
【15.24】. Tử   Cống vấn viết : hữu nhất ngôn , nhi khả dĩ chung thân hành chi giả hồ .   Tử viết : kỳ thứ hồ , kỷ sở bất dục , vật thi ư nhân .
【15.27】.  Tử viết: xảo ngôn loạn đức , tiểu bất nhẫn , tắc loạn đại mưu .
【15.28】.Tử viết: chúng ác chi , tất sát yên , chúng hảo chi , tất sát yên .
【15.29】.Tử viết , nhân năng hoằng đạo , phi đạo hoằng nhân .
【15.30】.  Tử viết: quá nhi bất cải , thị vị quá hĩ .
【15.36】. Tử viết:  đương nhân , bất nhượng ư sư .
【15. 37】. Tử viết : Quân tử trinh , nhi bất lượng .
【15.38】. Tử viết:  Sự quân kính kỳ sự , nhi hậu kỳ thực .
【15.39】. Tử viết:  Hữu giáo , vô loại .
[16.1].
bất hoạn quả nhi hoạn bất quân, bất hoạn bần nhi hoạn bất an
[16.7】.Khổng   tử viết , quân tử hữu tam giới , thiểu chi thời , huyết khí vị định ,   giới chi  tại sắc , cập kỳ tráng dã , huyết khí phương cương , giới chi   tại đấu , cập kỳ lão dã , huyết khí ký suy , giới chi tại đắc .
【16.8】.Khổng   tử viết , quân tử hữu tam úy , úy thiên mệnh , úy đại nhân , úy thánh   nhân chi ngôn .Tiểu nhân bất tri thiên mệnh , nhi bất úy dã , hiệp đại   nhân , vũ thánh nhân chi ngôn .   【16.9】.Khổng tử viết , sanh nhi tri   chi giả , thượng dã , học nhi tri chi giả , thứ dã , khốn nhi học chi ,   hựu kỳ thứ dã , khốn nhi bất học , dân tư vi hạ hĩ .  
【16.13】.Trần   Kháng vấn ư Bá Ngư viết: tử diệc hữu dị văn hồ .Đối viết , vị dã ,   thường độc lập , lý xu nhi quá đình , viết: học thi hồ .   Đối viết , vị   dã . Bất học thi , vô dĩ ngôn . Lý thối nhi học thi .       Tha nhật ,   hựu độc lập , lý xu nhi quá đình , viết , học lễ hồ . Đối viết , vị dã  .  Bất học lễ , vô dĩ lập . Lý thối nhi học lễ . Văn tư nhị giả . Trần   Kháng thối nhi hỉ viết , vấn nhất đắc tam , văn thi , văn lễ , hựu văn   quân tử viễn kỳ tử dã .
   【17.2】. Tử viết : tính tương cận dã ,  tập tương viễn dã .
【17.3】. Tử viết:  duy  thượng tri dữ hạ ngu bất di .
【17.10】.   Tử vị Bá Ngư viết : nhữ vi Chu nam Chiêu nam hĩ hồ ,  nhân nhi bất vi   chu nam triệu nam , kỳ do chánh tường diện nhi lập dã dữ  .
【17.22】.    Tử Lộ viết , quân tử thượng dũng hồ?. Tử viết :  quân tử nghĩa dĩ vi   thượng , quân tử hữu dũng nhi vô nghĩa    vi loạn , tiểu nhân hữu dũng   nhi vô nghĩa , vi đạo .
【17.23】. Tử Cống viết : quân tử diệc hữu ố  hồ  ? Tử viết:   hữu ố , ố xưng nhân chi ố giả , ố  cư hạ lưu nhi san   thượng giả , ố  dũng nhi vô lễ giả , ố quả cảm nhi trất giả . Viết : "Tứ dã diệc hữu ố hồ? Ố kiêu dĩ vi tri giả, ố bất tốn dĩ vi dũng giả, ố kiết dĩ vi trực giả.
[ 19.13]. Tử Hạ viết: sĩ nhi ưu tắc học , học nhi ưu tắc  sĩ .
 LUẬN NGỮ ĐỊA NHÂN  DANH
LUẬN NGỮ ĐỊA NHÂN  DANH 
Ai công: vua nước Lỗ .
Án Bình Trọng晏平仲 :tức Án Tử 晏子,họ Án tên Anh 晏 婴, tự Bình Trọng 平仲, quan đại phu nước Tề.
Bá   Di    伯夷 : Bá Di, Thúc Tề là hai anh em
、 : Xem Thúc Tề 叔齊
Bá Ngư  伯魚 con trai Khổng Tử, chết sớm. Bá Ngư chết vào năm 12 đời Ai Công, lúc đó Khổng Tử 69 tuổi, như thế chết sau Nhan Hồi 8 năm, nhưng trong thiên Tiên Tiến sách Luận Ngữ lại chép, Nhan Uyên chết, Nhan Lộ xin chiếc xe của Khổng Tử làm cái quách, Khổng Tử đáp : - Khi Lý (Bá Ngư) chết, cũng chỉ có quan mà không quách... Như thế thì Bá Ngư chết trước Nhan Uyên. Trong sách Ngũ Kinh dị nghĩa của Hứa Thận, cho đó nếu là lời giả thiết cũng không hợp tình lý, thế nên trong sách Sử Ký thám nguyên nói rằng tuổi của Nhan Uyên phải là nhỏ hơn Khổng Tử 40 mới hợp lý, vì nếu ông chết vào năm 32 tuổi, thì Khổng Tử 72, lúc đó thì Bá Ngư đã chết được 3 năm rồi...
Bá Ngưu 伯牛 họ Nhiễm tên Canh冉耕 tự Bá Ngưu, bị bệnh hủi, là học trò Khổng Tử.
người nước Lỗ, sách Khuyết lý quảng chí và Thánh môn chí đều viết : nhở hơn Khổng Tử 7 tuổi. Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ liệt ông vào hàng đức hạnh, thiên Ung dã viết : Bá Ngưu có bịnh, Phu Tử hỏi thăm ngoài cửa và nắm tay yên ủi : " Mất ...là mạng vậy, người như vầy mà lại có bịnh như thế ". Phu Tử thương tiếc sâu xa, tình cảm hiện rõ ra lời nói. Tên Bá Ngưu thấy trong sách Luận Ngữ chỉ có hai chương mà thôi. Sách Luận Ngữ chỉ viết có bịnh. Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : Bá Ngưu có " ác tật ". Sách của Hoài nam Tử, Tinh thần huấn có viết : " Bá Ngưu có bịnh phong cùi, đó là bịnh khó trị và cũng dễ truyền nhiễm, thế nên mới gọi là ác tật. Khổng Tử thân đến thăm, Bá Ngưu sợ truyền nhiễm nên không để cho Phu Tử vào, mà chỉ để đứng ngoài cửa hỏi thăm, Bá Ngưu ra ngoài nằm phía trong cửa, Khổng Tử thấy bịnh tình nguy ngập, cảm thương nên cầm tay Bá Ngưu xem thử mạch, thấy mạch đã mất nên than thở ". Đọc đoạn nầy, thấy tình cảm của Khổng Tử đối với môn đệ thật đậm đà.
Biện: Đất Biện ở nước Lỗ
.
B
iện Trang: Xem Trang Tử.
Cảnh công :Xem Tề Cảnh công
Cao Sài: xem Tử Cao.
Cao   Tông 高宗   : ông là vị vua đời Thượng Cổ . Có nhiều vị vua Trung  Quốc   xưng Cao Tông  như Thương Cao Tông Vũ Đinh  trị vì: 1324 TCN –  1266  TCN,  Đường Cao Tông Lý Trị. Kinh Thi nói về Cao Tông nhà Thương.  Ông  đã ở  chòi tranh Lượng Âm trong ba năm để tang
Cốc      sóc:  lễ  vào ngày đầu tháng ( mồng một là ngày sóc) , vua chư hầu    dùng   dê  để tế  tổ tiên tại miếu đường để kính cáo ( cốc). Mỗi vị  quan   phải    dâng một con  dê sống để vua tế. Ở nước Lỗ, từ Văn công  trở đi   nhà vua    chẳng còn cúng  tế. Nhưng mỗi đầu tháng, các quan  vẫn giữ lệ   cũ mà  nạp   dê. Tử Cống thấy  vô lý và tốn kém bèn đề nghị  bỏ lệ này đi.   
Công Bá Liêu公伯寮 họ Công Bá   tên Liêu 寮,tự Tử Chu 子周, người nước Lỗ ,học trò Khổng tử, làm gia thần họ Quý. Đệ tử truyện chép Công Bá Liêu, tự Tử Châu, Luận Ngữ tập giải viết : Người nước Lỗ, trong sách Gia ngữ không thấy chép tên người nầy.Trong sách Luận Ngữ, đề cập đến Công Bá Liêu chỉ có 1 chương trong thiên Hiến Vấn, đề cập đến việc tố Tử Lộ với Quí Tôn. Thiên Hoặc Vấn trong sách Luận Ngữ của Chu Tử chú giải cho rằng : " Đó là lúc đánh Tam độ, tìm thấy giáp binh " ! Công Bá Liêu tố cáo Tử Lộ, tức là muốn ly gián Khổng Tử như thế rõ ràng là ông nầy không phải là đệ tử của Khổng Tử. Như thế, Luận Ngữ và Đệ tử truyện đều lầm lẫn.
  
Công   Minh Giả 公明贾: họ Công Minh, tên  Giả  người nước Vệ, học trò của Công   Thúc Văn Tử, đã gặp Khổng Tử có lẽ  là khi Khổng Tử đến nước Vệ.
Công   Tử Củ 公子糾(?-前685年)),là em Tề Tương   Công và Tề Hoàn Công. Thời Tề  Tương  Công lưu vong nước ngoài, mẹ là  người Lỗ, do Quản Trọng và Thiệu  Hốt  phò tá trú tại Lỗ, sau bị Tề Hoàn  Công giết.
Công Tây Xich : xem Tử Hoa
Công tử Kinh 公子荆 là quan đại phu nước Vệ, tự Nam Sở, anh của Vệ Hiến công.
Công Sơn Phất Nhiễu 公山弗擾 :Ông là gia thần họ Quý,  chiếm ấp Phí của họ Quý, ông muốn mời Khổng Tử cộng tác.
Công Thúc Văn Tử 公叔文子: đại phu nước  Vệ thời Xuân Thu,  nổi tiếng là hiền,  ông sống đồng thời với Vệ Linh công, Lỗ Định công
Công Dã Tràng公冶長 (519-470), họ Công Dã, tên Tràng tự Tử Tràng 子長, Tử Chi 子芝, người  người nước Lỗ thời Xuân Thu. Sách Đệ tử truyện viết : Người nước Tề, tự Tử Trường. Sách " Sách Ẩn " viết : Người nước Lỗ, tên Trường. Phạm Ninh viết : Tự Tử Chi. Sách Luận Ngữ thích văn lại dẫn lời sách Gia ngữ viết : tự Tử Trương. Sách Luận Ngữ tập giải dẫn lời Khổng an Quốc viết : " Công dã Trường người nước Lỗ, họ Công dã, tên Trường, các thuyết khác nhau là do chữ gần nhau và âm cũng tương tợ ". Khổng Tử đã gã con cho Công dã Trường, như vậy là rễ của Khổng Tử.
Cơ  Tử 箕子 , họ Cơ , tự Tử Cơ    子姓 thuộc tôn thất nhà Thương ,  can vua  Trụ mà bị bắt làm nô lệ.
Cức Tử Thành 棘子成: Ông là quan đại phu nước Vệ, sống đồng thời với Khổng Tử.
Cừ   Bá Ngọc 蘧伯玉 Quan đại phu nước Vệ, làm quan ba đời vua Hiến công,   Tương  công và Linh công, phẩm cách cao đẹp. . Khổng tử qua Vệ đến ở nhà   ông.  Sau này, ông cho người sang thăm Khổng tử.
Châu  công 周公:   tên thật là Cơ Đán, cũng được gọi là Chu Công Đán, là  công  thần khai  quốc nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công giúp  Chu Vũ  Vương  (Cơ Phát) lập ra nhà Chu (1122 - 256 trước Công nguyên),  sau giúp  vua  mới là Chu Thành Vương  xây dựng và phát triển nhà Chu  thành một  nước  mạnh mẽ . Ông được ban tước công  cho nên người ta gọi  ông là Chu   Công. Tuy được phong đất, ông vẫn ở lại triều phò tá Vũ  vương, Văn   vương. Ông sai con là Bá Cầm tập hưởng tước công, là Lỗ  công, cai trị   nước Lỗ.
Châu Nhậm 周任 :  sử quan thời Chu Chiêu Công  (995 TCN-977 TCN) , tính tình ngay thẳng
Chí 摯: Xem thái sư Chí.
Chúc Đà 祝鮀 , tự Tử Ngư 子鱼,quan đại phu  nước Vệ, tôi của Vệ Linh công.
Chuyên Du 顓臾  : tên một nước cổ  thời Xuân Thu,   chư hầu nước Lỗ, họ Quý Tôn nước Lỗ muốn đánh chiếm.
Chuyên Tôn Sư: xem  Tử Trương.
Diệp công 葉公,Ông người nước Sở, tên là Thẩm  Chư Lương,沈諸梁  tự Tử Cao 子高 làm quan tại huyên Diệp nên được gọi là Diệp công. gặp Khổng Tử khi Ngài đến nước Sở. 
Dương Hóa  陽   貨  là gia thần Quý thị , tên Hổ 虎。Lúc Quý Hoàn tử cầm quyền ,  Dương  Hổ   có lúc nhốt Quý Hoàn Tử. Y muốn  vời Khổng tử đếnh nhà y,  nhưng  Khổng   tử từ chối.
Dương Phù 陽膚 học trò của Tăng Tử。 
Đại phu Soạn: xem Soạn
Đam Đài Diệt Minh澹台灭明 (512 BC—?)tự Tử Vũ 子羽,học trò Khổng Tử , làm quan tể ở  ấp Võ Thành nước    Lỗ (Quan tể lúc này là chức quan coi một ấp tức thái ấp,  là đất vua    phong cho công thần, coi như một thành  (khác với tể tướng là quan lớn    trong triều, địa vị sau vua mà thôi. Tể tướng còn gọi là Trủng tể,  Thừa   tướng, sau này là thủ tướng).
Ông người Võ thành, sách Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 39 tuổi. Sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 49 tuổi ". Thiên Ung dã trong sách Luận ngữ có ghi việc Tử Du làm quan Tể đất Võ thành, Khổng Tử hỏi có tìm được người giỏi không. Tử Du tiến cử Đam Đài Diệt Minh. Đệ tử truyện chép : Hình trạng Tử Vũ thật xấu xa, muốn đến thờ Khổng Tử làm thầy. Khổng Tử nghĩ rằng dù cho có tài ít, mà chịu khó học tập thì cũng có thể lập danh được. Sau đó, Khổng Tử nói : " Ta xem lời nói để dùng người, thì bị thất bại với Tể Dư, xem diện mạo dùng người, thì bị thất bại với Tử Vũ ". Sách Gia ngữ viết : Tử Vũ có dung mạo của người quân tử, mà tài thì không xứng, trái ngược lại những điều đã chép trong Đệ tử truyện.
Định  Công鲁定公: tên là  Cơ Tông, người nước Lỗ , dòng họ vua nhà Châu,  thời   Xuân Thu, con  trai của anh Lỗ Chiêu Công, nối Chiêu công làm vua (  509   TCN - 495  TCN) tại vị 15 năm.
Đông Mông 東蒙 : núi ở nước Chuyên Du là nơi nước Lỗ  tế tự thần Xã tắc.
Giản công : xem Tề Giản công
Hạ Vũ : xem Vũ
Hậu Nghệ“后羿: xem Nghệ羿
Hậu Tắc 后稷: xem Tắc
Hiến  憲  xem Nguyên Tư
Hoàn công: xem Tề Hoàn công
Hòan    Khôi  桓魋: Quan Tư mã (Thượng thư bộ binh) nước Tống sau thời Tống   Hoàn    công.Khổng Tử đến nước Tống, giảng dạy các đệ tử dưới cây đại  thọ.    Hoàn  Khôi ghét ngài bèn sai người đốn cây đại thọ. Bọn đệ tử sợ  sệt,    nhưng  Ngài vẫn vững vàng không lo lắng vì tin Trời che chở.
Hữu Tử: họ Hữu 有 tên Nhược  若là người có hiếu, học trò Khổng Tử.  Trong thiên Học nhi, thiên thứ nhứt của Luận Ngữ, chương đầu ghi lời nói của Khổng Tử, chương hai là ghi lời của Hữu Tử. Hữu Tử tên là Hữu Nhược, sách tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Là người nước Trịnh " (Trịnh Huyền có sách Mục lục về đệ tử của Khổng Tử, nhưng sách đã mất). Sách Đệ tử truyện viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 13 tuổi, sách Chánh nghĩa lại dẫn lời sách Gia ngữ viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 33 tuổi ". Ấn bản mới của sách Gia ngữ thiên đệ tử giải có viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi ". Trong các sách khác như Lễ ký, sách của Khổng Dĩnh Đạt thì lại ghi " Nhỏ hơn Khổng Tử 43 tuổi ". Các thuyết đều khác nhau, không biết đâu là đúng. Sách Đệ tử có chép : " Khổng Tử đã mất, đệ tử nhớ thương, Hữu Nhược hình dáng giống Khổng Tử, đệ tử đồng ý với nhau lập Hữu Nhược làm thầy, rồi thờ như thờ lúc Khổng Tử còn sống. " Sách Gia ngữ lại chép Khổng Tử tiên tri, biết trời sẽ mưa, và Thượng Cù sẽ có 5 người con, đó là những điều truyền thuyết huyền hoặc của hậu nho đề cao Khổng Tử một cách vụng về và nhơn đó để so sánh Hữu Nhược không thể nào bằng Khổng Tử được... Sách Luận Ngữ nhắc đến các đệ tử, dùng chữ " tử " (thầy) để gọi, duy chỉ có hai người mà thôi : đó là Hữu Nhược và Tăng Tử. Hữu Nhược được tất cả các đồng môn tôn xưng, sách Lễ ký có viết : Lời nói của Hữu Nhược giống như Khổng Tử, sách Đệ tử truyện lại viết : Hình trạng ông giống Khổng Tử, vì thế mà tất cả môn đệ đều lập ông lên làm thầy...như thế thì " trông diện mạo mà chọn người " vậy. Thiên Đằng văn Công trong sách Mạnh Tử có viết về sau cái chết của Khổng Tử : " Ngày nọ, Tử Hạ, Tử Du, Tử Trương, vì thấy Hữu Nhược giống như thầy mà muốn thờ Hữu Nhược như thờ thầy nên bắt ép Tăng Tử theo. Tăng Tử nói : - Không nên...Sông Giang, Hán đã gột rửa, nắng thu đã hong sấy, nên sáng rỡ, không thể nào được như thế ! Quả thật chuyện đó đã có bàn đến, nhưng bị tăng Tử không đồng ý nên Hữu Nhược không được tôn... Tăng Tử chỉ nói Khổng Tử không có ai so sánh được, không thể suy tôn một người nào để kế vị, chớ không phê phán một lời nào về Hữu Nhược cả. Trong Sử ký có chép : Khổng Tử là người học rộng, biết nhiều, không việc gì mà không biết...Nhơn đó mà người đời sau phụ họa cho rằng Khổng Tử tiên tri để quá khen ông một cách vụng về. Hữu Tử, họ Hữu mà tên Nhược, dường như không có gì đáng nghi cả. Trong sách Lộ sử chép " Hữu thị là hậu duệ Hữu sào thị nhưng Hữu sào thị chỉ là một danh từ tuợng trưng chỉ người thời thượng cổ làm ổ trên cây mà ở, chớ không phải ở thời ấy có dòng Đế vương tên họ như thế. Thời thượng cổ cũng có những tên : Hữu hùng thị, Hữu nga thị, Hữu hộ thị, Hữu tô thị, rồi Hữu Ngu, Hữu Hạ, Hữu Ân, Hữu Châu, nhưng chữ Hữu ở đây chỉ là " phát ngữ từ " mà thôi. Từ xưa đến nay, ở Trung Hoa chưa bao giờ nghe ai có họ Hữu cả. Sách Gia Ngữ Đệ Tử Giải có viết : Hữu Nhược, người nước Lỗ, tự là Tử Hữu như thế là tên Nhược, còn tự là Tử Hữu chớ không phải họ Hữu
Kiệt Nịch: Xem Tràng Thư, Kiệt Nịch 長沮桀溺.
Khang Tử :Xem Quý Khang Tử
Khổng Tử là người ấp Trâu nước Lỗ.
Khổng Văn Tử xem Trọng Thúc Ngữ  .
          
Lao 牢: Ông họ Cầm, tên Khai  琴 開, tự Tử Khai 子開, học trò Khổng từ. Thiên Tử Hản trong sách Luận Ngữ có viết : " Lao có nói : Phu Tử nói : Ta không làm thử, nên không có nghề ". Tên Lao thấy trong sách Luận Ngữ chỉ có chương ấy mà thôi. Trịnh Huyền, trong sách Tập giải viết : " Lao là đệ tử Tử Lao không biết họ là gì. Thiên Tắc dương trong sách Trang Tử có viết : " Trường Ngô hỏi người về chuyện Tử Lao ". Sách Thích văn dẫn lời Tư mã Ban viết : " Tức là Cầm Lao, đệ tử của Khổng Tử ". Trong sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu cũng có Cầm Lao. Vương Kiện Tôn trong Đọc thơ tạp chí gọi tên Cầm Lao là lầm với Cầm Trương, vì Tả truyện và Mạnh Tử đều có tên Cầm Trương và sách Trang Tử cũng có Tử Cầm Trương mà không viết Cầm Lao. Cầm Lao tự là Trương, thấy có chép trong Gia ngữ, người đời sau căn cứ theo đó mà sửa chữa lại trong sách Hán thơ. 
Lâm Phóng  Thiên Bát dật trong Luận Ngữ, có chép chuyện Lâm Phóng hỏi về cái gốc của Lễ, Khổng Tử khen : Đó là câu hỏi " lớn " và cũng có ghi chuyện Quí thị đến Thái Sơn, Khổng Tử lại có nói " Thái Sơn không bằng Lâm Phóng chăng ? " Lời chú sách Luận Ngữ không có ghi ông là đệ tử, trong Đệ tử truyện cũng không thấy nói đến, duy chỉ trong Lễ điện đồ của Văn Ông nói Lâm Phóng là đệ tử của Khổng Tử mà thôi.
Liễu   Hạ Huệ 柳下惠 (720 TCN- 621 TCN), tên thật là Triển Cầm (展禽), tự là  Quý   (季), người đất Liễu Hạ (柳下), nước Lỗ, thời Xuân Thu, nổi tiếng là  một   chính nhân quân tử. Liễu Hạ Huệ làm Sĩ Sư, ba lần bị truất mà không  bỏ   nước. Có người  hỏi, ông trả lời: "Lấy đạo ngay mà thờ người thì đi   đâu  mà không bị ba  lần truất. Nếu lấy đạo cong thì hà tất phải bỏ   nước của  cha mẹ". Sau khi  chết, được đặt tên thụy là Huệ. Mạnh Tử khen   ông là  bậc thánh về Hòa (Thánh chi hòa 聖之和).
Linh công : xem Vệ Linh   công.
Lỗ công 魯公: tên là Bá Cầm 伯禽, con của Chu Công, được thừa tập tước công của cha,  làm vua đầu tiên ở  nước Lỗ.
Mạnh Vũ Bá 孟武伯 họ Trọng Tôn, 仲孙,cũng gọi là Mạnh Tôn孟孙 tên Trệ 彘,  tên Hà Kị 何 忌 con quan đại phu Mạnh Ý Tử ở nước Lỗ, tánh gàn dở, không biết giữ  thân nên Khổng Tử bảo nên giữ thân để khỏi buồn lòng cha mẹ. 
Mạnh     Kính  Tử 孟敬子làm quan đại phu nước Lỗ, họ Mạnh Tôn, tên Tiệp 孟孙捷,  song    người  đời thường gọi là Trọng Tôn Tiệp  sống đồng thời với  Khổng Tử,  là    ông tổ của Mạnh Tử.
     Mạnh Ý Tử:  Quan đại phu nước Lỗ, họ Trọng Tôn 仲  孫, cũng có tên là    Mạnh  Tôn,  tên là Hà Kị 何忌. Mạnh Ý Tử hay nói trái ngược cho nên  Khổng   Tử   bảo:"Chớ nên nói trái ngược".
 Thiên Vi chánh trong Luận Ngữ, có chương Vấn hiếu của Mạnh Ý Tử, nhưng lại viết ông là Đại phu nước Lỗ, Đệ tử truyện cũng không thấy ghi tên ông, duy chỉ có sách Khổng Tử thế gia chép : Nghe theo lời di mạng của cha là Hi Tử đến học lễ với Khổng Tử.    Mạnh Trang Tử 孟莊子(550BC),họ Cơ, tên Tốc 速 thuộc dòng  Mạnh Tôn nước Lỗ, con Mạnh Hiến tử, làm quan đại phu nước Lỗ.
Mạnh Công Xước 孟公绰: Quan đai phu nước Lỗ, thuộc họ Mạnh tôn là một gia đình quyền uy ở Lỗ.
 Mẫn Tổn. Mẫn Tử Khiên
Mẫn   Tử Khiên   閔子騫:  họ Mẫn 閔 tên  Tổn  損,tự Tử Khiên, người nước Lỗ,    sống  thời  Xuân  Thu,  cao đệ của Khổng Tử. Mẫn  Tử Khiên là người con  có    hiếu.   Sông  Vấn ở phía bắc biên cương nước Lỗ,  bên kia sông là  nước   Tề.   Mẫn Tử  Khiên ghét  Quý  Khang Tử là quyền thần  ở ấp Phí,  chuyên   lấn  áp  vua  nên không muốn cộng tác. Nếu ép thì ông bỏ  đi  nơi biên  giời   xa xôi  ẩn  dật
Mật Bất Tề : xem Tử Tiện
Miện: xem Sư Miện 師冕
Nam Dung : Xem Nam Cung Quát
Nam Cung Quát  南 宮括:  cũng có tên Nam Dung  南容,   tự  Tử Dung 子容  , tên Đạo 縚,  cũng   có tên Quát  适, anh của Mạnh Ý Tử, làm quan đại phu nước Lỗ. Thiên Công Dã Trường trong sách Luận Ngữ có viết : "  Phu Tử bảo Nam Dung : Nước có đạo thì không bị bỏ, nước không đạo thì khỏi bị hình lục, Phu Tử liền đem đứa cháu gái (con của anh) gả cho ông ấy ". Sách Luận Ngữ tập giải viết : " Nam Dung là đệ tử của Nam Cung Đạo, người nước Lỗ ". Sách Gia ngữ viết : " Nam Cung Đạo tự Tử Dung, đời trong sạch không bị bỏ, đời ô trọc không bị nhiễm. Khổng Tử đem đứa cháu gái gả cho. Đệ tử truyện viết : " Nam Cung Quát tự Tử Dung, thiên Hiến Vấn sách Luận Ngữ viết Nam Cung Quát, Nghệ, rất thiện xạ ". Sách tập giải dẫn lời Khổng an Quốc : Quát là Nam Cung Kỉnh Thúc. Sách Hán thơ, thiên Cổ kim nhơn biểu, sách Thù Tứ khảo tín lục đều viết là Nam Cung Quát và Nam Cung Kỉnh Thúc là một người. Sách Lễ Ký của Trịnh Huyền viết : Nam Cung Đạo tức là Nam Cung Duyệt con của Mạnh hi Tử. Sách Thế bản cũng có viết : " Trọng Tôn Quốc sanh Nam Cung Đạo ". Sách Tả truyện viết : Nam Cung Kỉnh Thúc và Khổng Tử qua nhà Châu, Kỉnh Thúc là con Mạnh hi Tử, tức Nam Cung Kỉnh Thúc là Nam Cung Đạo vậy. Trong sách Hán thơ, phần Cổ kim nhơn biểu thì lại cho rằng Nam Cung Kỉnh Thúc và Nam Dung là hai người, thế nên về những nhân vật Nam Dung, Nam Cung Quát, Nam Cung Đạo, Nam Cung Kỉnh Thúc, Trọng Tôn Duyệt, những người ấy liên quan như thế nào, chưa có tài liệu nào xác định được cả.
Nam     Tử 南子:  Người  thời Xuân Thu, là phu nhân của Vệ Linh Công, bà nổi    tiếng  dâm  dục, vốn  là  công chúa nước Tống , kết hôn cùng Vệ Linh  Công   ,đã   thỉnh Khổng Tử  và Ngài nhận lời .Bà này dâm dục nổi  tiếng  khiến  con trai bà là thế tử Khoái Quý lấy làm hổ thẹn muốn giết  bà.  Công  việc không thành, cha là Linh Công đày Khoái Quý và tước  chức thế  tử.  Linh Công định lập công tử Dĩnh làm thế tử, công tử Dĩnh  chẳng nhận.   Linh công mất, Nam Tử đưa công tử Dĩnh lên ngôi. Công tử  Dĩnh cũng chối   từ, Nam Tử bèn tôn công tử Triếp là con Khoái Quý, là  muốn dùng con   chống cha. Khổng Tử đến Vệ, nếu được dùng thì Khổng Tử  sẽ tôn công tử   Dĩnh làm vua, thế là danh thuận. Còn để cho hai cha con  Khoái Quý làm   vua là danh bất chính, nhưng tahn ôi, toan tính của  Khổng Tử cũng vô ích   vì công tử Dĩnh đã từ chối hai lần, Việc này cho  thấy Khổng Tử tham   danh lợi, chẳng màng danh tiết khi ra mắt Nam Tử!
Ninh     Vũ Tử  甯武子:    tên Ninh Du 宁俞,hiệu Vũ Tử 武子。làm quan đại phu nườc Vệ     thời  Xuân Thu,   thờ hai vua Văn Công và Thành Công. Thời Văn Công,   nước    yên ổn, ông ra   sức phò vua, đến đời Văn Công, nước suy đồi  ông  vẫn    hết lòng giúp nước.   Người đời chê ông ngu muội.
Ngu Trọng 虞仲  :Ông thuộc giòng Chu Vũ vương , đi ẩn dật.
Nguyên Hiến: xem Tử Tư
Nguyên Nhưỡng 原壤: ông là người  thường dân, it học,  quen  Khổng Tử lúc trẻ.
Nguyên Tư 原思 tên là Hiến,  học trò Khổng Tử. Chương Hiến vấn mang tên ông.
Ngư: xem Sử Ngư.
Nghệ   羿tức Hậu Nghệ “后羿 vốn là vua nước Hữu  Cùng, một chư hầu thời nhà  Hạ.   Ông nổi tiếng có sức khoẻ hơn người và  đặc biệt là có khả năng bắn   cung  giỏi nhất thiên hạ .  Năm 2188 TCN, vua Khải mất, con là Thái   Khang    lên thay. Thái Khang ham chơi bời, thích săn bắn, không quan   tâm việc    chính sự. Hậu Nghệ thường đi theo phục vụ Thái Khang. Thấy   Thái Khang   bỏ  triều chính, Hậu Nghệ nảy sinh ý định  chiếm ngôi. Một   hôm  Thái  Khang rời kinh đô đi săn ở đất Lạc. Hậu Nghệ bí mật điều    quân từ  nước  Hữu Cùng sang tập kích kinh đô nhà Hạ, chiếm được kinh    thành. Thái  Khang, phải lưu vong ở  nước  ngoài cho đến hết đời. Hậu   Nghệ cướp được  ngôi nhà Hạ lại tỏ ra  kiêu ngạo, bỏ chính sự như  Thái   Khang trước kia.  Ông cũng ham mê săn  bắn và thích uống rượu. Bầy tôi   của Hậu Nghệ là  Hàn Trác   thấy Hậu Nghệ như vậy cũng nảy sinh ý định   cướp ngai vàng.  Một ngày năm 2120 TCN, Hậu  Nghệ đi săn, Hàn Trác đi   theo. Trác mang   rượu ngon ra dâng lên Hậu  Nghệ. Ông uống rượu say bất   tỉnh. Hàn Trác   thừa cơ giết chết ông.
Theo truyền thuyết  Trung Quốc, Hậu Nghệ có  vợ là Hằng Nga. Hai vợ chồng   là những vị thần  bất tử sống trên thượng  giới. Một hôm, mười người  con  trai của Ngọc  Hoàng   biến thành mười mặt  trời, làm cho mặt đất  trở nên nóng bỏng và  khô  cằn.  Ngọc Hoàng ra  lệnh cho các con mình  ngừng phá hủy mặt đất  không  được  bèn triệu Hậu  Nghệ đến cứu giúp. Hậu  Nghệ, bằng tài bắn  cung của  mình,  đã bắn hạ  chín mặt trời, chỉ để  lại một người con  trai của Ngọc  Hoàng  làm mặt  trời.
Ngọc Hoàng thấy  chín con trai của  ông đã chết bèn  trừng  phạt Hậu  Nghệ bằng cách đày  Hậu Nghệ và Hằng  Nga xuống hạ giới để  sống  cuộc  sống của con người.  Thấy Hằng Nga rất  đau khổ vì bị  mất khả năng bất  tử, Hậu Nghệ quyết   định lên đường đi  tìm thuốc trường  sinh trong một  cuộc hành trình dài  và  đầy gian  khổ, nguy hiểm để hai  người có thể trở  lại cuộc sống bất  tử.  Hậu  Nghệ đã gặp được Tây Vương  Mẫu. Tây Vương  Mẫu đồng ý cho Hậu  Nghệ một  viên thuốc, nhưng dặn rằng  mỗi người chỉ  cần nửa viên để trở  thành  bất tử. Hậu  Nghệ mang viên thuốc về nhà và  cất nó trong một cái  hộp.  Hậu Nghệ  dặn  Hằng Nga không được mở chiếc  hộp. Khi ông đi vắng,  Hằng  Nga tò mò  mở  chiếc hộp và nhìn thấy viên  thuốc ngay khi Hậu Nghệ   quay lại nhà. Sợ   Hậu Nghệ nhìn thấy, vô tình  Hằng Nga đã nuốt chửng   viên thuốc. Ngay lập   tức Hằng Nga bay lên trời  do thuốc quá mạnh. Mặc   dù Hậu Nghệ muốn bắn   Hằng Nga để tránh không  cho nàng bị lơ lửng   trên bầu trời, nhưng không   thể nhằm mũi tên vào  nàng. Hằng Nga cứ bay   lên mãi cho đến khi đến mặt  trăng.
Nghiệu  奡: một người  thời  thượng cổ có sức mạnh  có thể một mình kéo  chiếc  thuyền trên bãi sông.  Ông có tài đánh trận sau rồi cũng chết bất  đắc kỳ  tử.
Nhan Vô Do xem Tử Lộ
Nhan Lộ 顏路 : cha của Nhan Hồi.
 
Nhan     Uyên  tức  Nhan Hồi 顏回(521BC -481BC),người nước Lỗ, tự Tử  Uyên  子淵,còn    có  hiệu Nhan  Tử 顏子, cao đệ của  Khổng Tử, được thờ ở Khổng   miếu  (đứng    đầu Tứ phối) . Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Người nước Lỗ, một đai cơm, một bầu nước, nhưng không thay đổi sự vui thích (Thiên Ung dã, sách Luận Ngữ), học một biết mười (thiên Công dã, sách Luận Ngữ), học một biết mười (thiên Công dã Tràng), ham học, không giận dỗi vô lý, không bị lầm lỗi hai lần (thiên Ung dã) cho nên Khổng Tử khen : Ta thấy nó tiến mà không hề thấy nó dừng lại (thiên Tử Hản), các bạn đồng môn nhiều người tôn sùng, như Tử Cống đã nói : " Tứ nầy đâu dám mong như Hồi " (thiên Tiên Tiến) nhưng ông không may chết sớm, cho nên Khổng Tử khóc rất cảm động : " Trời hại ta, trời hại ta ". Tình cảm đau xót tràn ngập ngoài thái độ và ngôn ngữ, vì Nhan Uyên là một đệ tử rất đắc ý của Khổng Tử, cho nên trong thiên Tiên Tiến đã sắp ông là người có nhiều đức hạnh hơn hết. Về tuổi của Nhan Uyên, trong Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Đệ tử truyện lại có viết : " Nhan Hồi 29 tuổi, tóc đều bạc, chết sớm ". Gia ngữ cũng viết : " Nhan Tử 29 tuổi mà tóc bạc, mới 32 tuổi mà chết sớm ". Thiên Lực mạng trong sách Liệt tử lại viết " tài Nhan Hồi không dưới đám đông, nhưng chỉ thọ có 4, 8 (32). Truyện Tôn Đăng, sách Tam quốc Ngô chí có viết : " Tôn Quyền lập Đăng làm thái tử, tuổi 33, Đăng đã thượng sớ viết : Nhan Hồi ở Châu Lỗ có tài thượng trí mà còn yểu chiết...hà huống gì thần đã qua tuổi thọ của ông, v.v... " như thế thì Nhan Tử chỉ có 32 tuổi dường như là đúng.Nhan Hồi nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi, chết vào năm 32, lúc đó Khổng Tử 62 tuổi nhằm năm thứ 5 đời Ai Công.
Nhiễm Bá Ngưu 冉    伯牛〗: Ông họ Nhiễm, tên Canh 耕, tự Bá Ngưu 伯牛, người nước Lỗ, thời  cuối    Xuân Thu, thuộc dòng quý tộc, cùng họ với Nhiễm Ung ( Trọng Cung  ) .   Ông  được kể là thập triết của Khổng tử.Khi  Đức Khổng Tử  làm  quan  Tư  Khấu nước Lỗ, Đức Khổng Tử cử ông làm quan Tể ở  Trung  Đô. Sau  nầy  ông  có theo Đức Khổng Tử lúc bị tai nạn ở nước Trần  và  nước  Thái.                 Khi  ông đau sắp chết, Đức Khổng Tử có đến  nhà  thăm, cầm tay  mà  than rằng:  Ngươi như thế mà mắc phải bệnh nặng  nầy  ư? Bá Ngưu chết,  Đức  Khổng Tử tỏ  lòng thương tiếc lắm. Bá Ngưu được đời sau phong là Đông Bình Công.
Nhiễm Cầu 冉求(522-489BC): xem Tử Hữu 子有,
Nhiễm Ung: xem Trọng Cung
Nhũ Bi 孺悲  Người nước Lỗ , thời Lỗ Ai công, đồng thời Khổng Tử.
Trong thiên Dương hoá sách Luận Ngữ, có ghi Nhụ Bi muốn ra mắt Khổng Tử. Khổng Tử từ chối, bảo là mình có bịnh, người truyền lờivừa ra ngoài là ông lấy đàn, đàn hát, muốn cho Nhụ Bi nghe. Thiên Tạp Ký trong Lễ ký viết : " Tang của Truất Do, Ai Công khiến Nhụ Bi đến học tang lễ với Khổng Tử, vì đó mà có thiên Sĩ tang lễ, như thế chứng minh Nhụ Bi là đệ tử Khổng Tử. 
Phàn Tu xem Tử Trì
Phàn Trì:Học trò Khổng Tử, họ Phàn tên Tu 須.
Quản        Trọng 管仲 (725 TCN - 645 TCN) là một chính trị gia, nhà quân sự và    nhà     tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Tên ban đầu của  ông   là   Di   Ngô (夷吾). Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử,  Tề  Hoàn    Công   phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với   "chiến   lược  không   đánh mà thắng"
 Quý Lộ季路  Xem  Tử Lộ .
 Quý thị: họ Quý Tôn như Quý Khang Tử.
Quý  Hoàn Tử季桓子: quan đại phu nước Lỗ, dòng quyền thần Quý thị,.
Quý Bình Tử   季平子sinh Quý Hoàn Tử 季桓子,Quý Hoàn Tử sinh Quý Khang Tử季康子
Quý Tử Nhiên李子然: thuộc gia tộc quyền thần họ Quý ở nước Lỗ, con Quý Bình Tử, em Quý Hoàn Tử.
Quý    Khang Tử   季康子: quan đại phu nước Lỗ, đồng thời Khổng Tử.Ông là một   quyền  thần.   Ông là con của Quý Hoàn tử, kế nghiệp cha. Khổng Tử làm   quan  Trủng  tể  (Tể tướng) ở nước Lỗ hồi còn Quý Hoàn Tử. Khi Quý Khang   Tử kế  tục  địa  vi cha, đức Khổng Tử trở về Lỗ sau 13 năm chu du liệt   quốc.
Quý Văn Tử 季文子 (?—568BC),tức Quý Tôn Hành Phụ 季孙行父。 họ Cơ 姬,cũng họ   Quý 季.Người nước Lỗ, làm quan đại phu  thời Lỗ Hoàn Công
Soạn 僎, không rõ họ gì, làm đại phu thuộc hạ của Công Thúc Văn tử ,đại phu nước Vệ.
Sở   Cuồng 楚狂接輿  : Người thời Xuân Thu, họ  Lục, tên Thông, sống vào đời   vua  Chiêu Vương nước Sở,  thích ẩn dật, giả cách rồ dại  không chịu ra   làm  quan. Người đương thời gọi ông là Sở cuồng (Kẻ cuồng  nước Sở)                                                      .
Sư  Miện  師冕 Ông là thầy dạy nhạc nên gọi là sư, tên Miện, nên gọi là sư   Miện.(  Trong sách xưa, cổ nhân thường gọi các nhạc sư là sư như sư   Khoáng..  .). Sư Miện là nhạc sư nước Lỗ, người mù, đến  thăm Khổng Tử.
Sử   Ngư  史鱼 Ông là quan đại phu phụ trách chép sử đời Vệ Linh công,  không   rõ họ gì tên Ngư cho nên sách gọi là Sử Ngư, người thời Xuân Thu.  Ông  tự  là Tử Ngư là nhà chép sử ngay thẳng. Cừ Bá Ngọc là người hiền  mà  vua  Linh Công nước Vệ không dùng. Di Tử Hà là người dở mà vua lại   dùng. Sử   Ngư thấy thế, đã răn nhiều lần, mà vua không nghẹ Lúc ông có   bệnh,sa('p   mất, dặn con rằng: "Ta làm quan tại triều nước Vệ, không   hay tiến được   Cừ Bá Ngọc, thoái được Di Tử Hà thế là bầy tôi không   khuyên răn nổi  vua,  thì khi ta nhắm mắt, không được làm đủ lễ. Cứ để   thây ta dưới cửa  sổ,  thế là xong việc cho tạ"  Lúc  ông mất, người con   cứ làm theo lời  dặn. Vua Linh Công đến viếng thấy  vậy, lấy làm ngạc   nhiên. Người con  đem lời di chúc của cha tâu lại. Vua  thất sắc nói   rằng: "ấy là cái tội  của quả nhân!"  Rồi sai người đem xác ông Sử Ngư   vào nhà, bắt khâm liệm  và mai táng cho đủ lễ.Sau quả nhiên vua Linh   Công dùng Cừ Bá Ngọc mà bãi  Di Tử Hà. 
Tả Khâu Minh 左丘明: Người  nước Lỗ, sống thời Xuân Thu, là một sử gia.
Tang Bá Tử 桑伯子: Ông là người nước Lỗ, đồng thời với Khổng Tử , ở nhà không mặc áo, không đội mũ, Khổng Tử chê là cẩu thả.
Tàng     Văn  Trọng  藏文仲 hay Tang Văn Trọng  臧文仲,, họ Cơ 姬 (Tôn thất nhà Chu)   ,họ    Tang  (Tàng)臧,tên Thìn 辰,làm quan chính khanh đại phu nước Lỗ,  là  người    thông  minh nhưng Khổng Tử chê là di đoan vì tin bói rùa,  nuôi  rùa  cầu   phước.
Tang Vũ Trọng 臧武仲:   họ Tang , tên  Hột 纥,   quan đại phu nước Lỗ, được   vua phong ấp Phường, có tội với  vua Lỗ,  chây qua nước Châu 邾, sau trở   lại ấp Phường, cho người tới  xin lỗi vua  Lỗ, và xin cho người lập tự  cho  dòng họ mình ở đất  Phường. Vua thuận  thì ông sẽ bỏ đi xứ khác nếu  không  ông sẽ chống cự  nhà vua. Như vậy là  uy hiếp vua.
Tắc 稷 :tức Hậu Tắc
 后稷..  Hậu Tắc là con Đế  Cốc, mẹ  là con gái họ Hữu Thai, tên là Khương  Nguyên - vợ cả Đế  Cốc.Truyền  thuyết cho rằng Khương Nguyên vào rừng  thấy vết chân người   khổng lồ  bèn dẫm vào rồi mang thai. Cho rằng đó  là điềm không lành, khi   sinh  nở, Khương Nguyên bỏ đứa trẻ ra ngõ hẹp.  Nhưng trâu ngựa đi qua  đều   tránh không dẫm vào đứa trẻ. Khương  Nguyên bèn mang bỏ vào rừng,  nhưng   đúng lúc rừng lại đông người, nên  bỏ vào lạch. Đứa trẻ được loài  chim   lấy cánh ủ cho
. Khương Nguyên thấy lạ bèn mang con về nuôi và đặt tên là Khí (nghĩa là bỏ).
Từ   nhỏ, Khí đã tỏ ra là người có chí khí như người lớn. Ông thích trồng    cây vừng, các loại đậu và đay. Lớn lên, Khí thích việc canh nông, xem    xét các chất đất, tìm ngũ cốc thích hợp với từng loại đất, vì vậy mọi    người học theo ông. Vua Nghiêu nghe tiếng ông tài giỏi, bèn cử ông làm    Nông sư. Nhờ vậy trong nước được mùa. Đến thời vua Thuấn, ông tiếp tục    đảm nhiệm việc trồng lúa đậu. Ông được vua Thuấn đặt hiệu là Hậu Tắc,    phong cho đất Thai và ban cho họ Cơ, nên gọi tên là Cơ Khí. Hậu Tắc  sống   qua đời vua Thuấn đến đời nhà Hạ thì qua đời[1].  Tiếng tăm của  ông   được nhiều người biết đến. Con Hậu Tắc là Bất Khuất  lên nối  nghiệp.   Dòng họ của ông truyền đến đời thứ 16 là Cơ Phát thì lật đổ  nhà Thương   lập ra nhà Chu.
Tăng Điểm:
 Tự Tích, sách Đệ tử truyện lại chép là Tăng Điềm. Sách Thuyết văn viết : Điềm tuy có nghĩa là đen, nhưng lại sáng suốt. Trong thiên Tiên Tiến, chương Thị tọa, sách Luận Ngữ có viết chuyện Tử Lộ, Nhiễm Hữu, Công Tây Hoa, mỗi người đều nói xong " chí " của mình, Phu Tử liền quay lại hỏi Tăng Tích : - Còn Điểm, ngươi như thế nào ? - Tôi thì khác với ba người ấy... Phu Tử nói : - Cũng là mỗi người nên nói lên cái chí của mình vậy. Tăng Điểm tiếp : - Xuân phục đã thành, kẻ đội mũ năm, sáu người, tắm ở sông Kỳ, hứng gió ở nền Võ Vu, ca hát mà về. Trong thiên Đàn Cung cũng có chép chuyện đám tang Quí Võ Tử, Tăng Tích đứng dựa cửa mà hát v.v...cho nên Mạnh Tử đã đáp với Vạn Chương, cho rằng ông với Cầm Trương, Mục Bì là một số người mà Khổng Tử cho là cuồng sĩ (Thiên Tận Tâm). (Phải chăng ông này là cha Tăng Sâm?)
Tăng Tử曾子: họ  Tăng  tên Sâm  曾参(505BC~432BC), tự Tăng Tử  Tử Dư  子舆,người nước Lỗ  thời Xuân Thu , học trò Khổng Tử là người trung tín, giữ đạo lý.
Sách Luận Ngữ, thiên Học nhi, chương tư, có ghi lời Tăng Sâm, và cũng gọi là Tăng Tử. Tăng Sâm tự Tử Dư, trong Đệ tử truyện và Gia ngữ đều ghi nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi, người ở Nam Võ thành, tức hiện nay thuộc tỉnh Sơn Đông, phía Tây Nam, cách Phí huyện 90 dặm. Quyển " sách Ẩn " có viết : " Đất Võ thành thuộc nước Lỗ, lúc đó cũng có Bắc Võ thành, cho nên mới ghi rõ là Nam Võ thành ". Như thế thì Tăng Tử cũng là người nước Lỗ. Tăng Tử là người nỗi tiếng có hiếu, thiên Thái Bá trong sách Luận Ngữ có viết : " Tăng Tử có bịnh, triệu môn đệ tử vào nói : " Mở chưn cho ta, mở tay ta (xem coi có gì lạ không). Kinh Thi viết : Nơm nớp lo ngại như đi gần vực sâu, như bước trên giá mỏng ". Từ nay trở đi ta mới biết là khỏi vậy các người ơi ! Trong Hiếu kinh có câu " Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cam hủy thương " là do câu nói trên mà ra vậy. Mạnh Tử có nói : "Tăng Tử nuôi Tăng Tích, ắt có rượu, thịt, sắp dọn thì hỏi có cần thêm gì không ? Nếu có hỏi có còn thức ăn nữa không, thì cứ bảo luôn là còn. " Mạnh Tử đã khen Tăng Tử nuôi cha. Gia ngữ có viết : Nước Tề thường rước ông, muốn ông làm quan Khanh, nhưng ông không đến mà nói rằng : - Cha mẹ tôi già, ăn lộc của người thì lo việc người, cho nên tôi không nỡ xa cha mẹ để làm việc cho người khác. Như thế chúng ta đã thấy chữ Hiếu của Tăng Sâm. Gia ngữ cũng có viết chuyện ông bỏ vợ vì vợ chưng trái lê không chín, rồi sau đó không cưới vợ nữa v.v...chuyện nầy chắc do kẻ hiếu sự đặt thêm chớ không có sự thật. Trong các sách Đệ tử truyện, Gia ngữ, Hán chí đều nói : " Khổng Tử nói về đạo Hiếu cho Tăng Tử nghe, rồi Tăng Tử mới viết Hiếu kinh. " Nhưng trong Hiếu kinh bắt đầu có câu : " Trọng Ni ở đó, Tăng Tử hầu... ". Như thế thì dù cho quyển sách nầy của Khổng Tử nói ra, Tăng Tử chép thì cũng không bao giờ có việc ghi lên trên mấy chữ Khổng Tử và Tăng Tử như vậy. Người ta nghĩ rằng ai đó đã viết quyển Hiếu kinh và vì Tăng Tử có hiếu nổi tiếng, cho nên mới mượn danh mà ghi vào quyển sách. Mạnh Tử có viết : " Tăng Tử ở Võ thành dạy học ", thật ra thì Tăng Tử không bao giờ có dạy học cả. Trong số đệ tử của Khổng Tử, Tăng Tử là người nhỏ tuổi hơn cả và cũng thọ hơn nhiều người, cho nên trong các thiên của sách Lễ ký, thường có nhắc đến Tăng Tử luôn. Trong thiên Lý nhơn sách Luận Ngữ có chép : " Khổng Tử bảo Tăng Tử : - Đạo của ta " Nhứt dĩ quán chi ". Tăng Tử liền nói với môn nhơn : - Cái đạo của Phu Tử, Trung Thứ mà thôi vậy " Vì thế Chu Tử mới viết " Chỉ có mình Tăng Tử mới độc cái chơn truyền đạo thống. " Ông cũng cho rằng thiên Đại Học trong sách Lễ Ký là do Tăng Tử viết, và định đó là một trong pho Tứ Thơ. Trong sách Hán chí, phần Nho gia, có ghi tên sách của Tăng Tử viết gồm 18 thiên, nhưng đã bị thất lạc. Sách " Nguyên hoà tánh soán " có viết : " Dưới thời Xuân Thu, Lữ diệt Tăng, Tăng thái tử là Vu làm quan ở nước Lỗ, bỏ ấp của mình mà trở thành Tăng thị (lớp bình dân). Theo sách Thế bổn : Vu sanh Phụ, Phụ sanh Tích là phụ thân của Tăng Tử
Tấn Văn Công : xem Văn Công .
Tất Điêu Khai 漆雕開:học trò Khổng Tử, tự Tử Nhược 子若, Tử Khai, sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : Người nước Lỗ, sách Chánh nghĩa dẫn lời Gia ngữ viết : Người nước Thái tự Tử Nhược nhỏ hơn Khổng Tử 11 tuổi. Trong sách Hán chí phần Nho gia có Tất điêu Tử, là đệ tử Khổng Tử, hậu duệ cuả Tất điêu Khai. Sách " Tiên kinh đại huấn " viết tên là Bằng. Sách Bạch thủy bi ghi tự là Tử Tu. Thiên Công dã Tràng sách Luận Ngữ có viết : " Phu Tử bảo Tất điêu Khai làm quan. Thưa : " Dạ đối với việc ấy tôi chưa được tự tin ". Phu Tử rất thích ". Trong sách Luận Ngữ, thấy tên Tất điêu Khai chỉ có trong chương ấy mà thôi.
Tề   Cảnh công齊景公 họ Khương . Tề Cảnh công sống đồng thời với Khổng Tử.Tề   là  cường quốc sau Tấn tại Trung Nguyên. Năm 567 TCN Tề Linh công diệt   Lai,  cương thổ mở rộng tới phía đông Sơn Đông: phía đông giáp biển,   phía tây  tới Hoàng Hà, phía nam tới Thái Sơn, phía bắc tới Vô Lệ Thủy   (nay là  phía nam huyện Diêm Sơn, địa cấp thị Thương Châu, tỉnh Hà Bắc).   
 
Cuối  thời Xuân Thu, Tề suy  yếu. Các  khanh đại phu chuyên quyền. Năm 548 TCN,  Thôi Ninh giết Trang  công, lập  Tề Cảnh công.  Năm 489 TCN, Tề Cảnh công  chết, hai họ Quốc,  Cao (hậu  duệ của Tề Văn công) lập Yến Nhụ Tử làm quân  chủ nước Tề.
Tề  Hoàn Công  齊桓公  (?-前643), người thời Xuân  Thu, tên  là Khương Tiểu   Bạch, là một trong ngũ bá. Khương Tiểu Bạch là  con thứ của Tề Ly công –   vua thứ 13 nước Tề và là em của Tề Tương công –  vua thứ 14 nước Tề.  Mẹ  ông là người nước Vệ.  
Cuối  năm 686 TCN, Tề  Tương công bị Công  Tôn Vô Tri sát hại. Những người em  của Tương công bỏ  chạy ra nước  ngoài. Khương Tiểu Bạch được Bảo Thúc  Nha phò tá, bỏ chạy  sang nước Cử;  người em thứ hai của Tương công là  Khương Củ được Quản  Trọng và Thiệu  Hốt phò tá chạy sang nước Lỗ. Đầu  năm 685 TCN,  Công Tôn  Vô Tri bị  giết. Vì Tiểu Bạch chơi thân với đại  phu Cao Hề nên  Cao Hề  bàn với đại  phu họ Quốc đi đón ông ở nước Cử về  nối ngôi. Công tử  Củ ở  nước Lỗ  nghe tin đó bèn sai Quản Trọng đi đón  đường ngăn cản ông  về  nước. Quản  Trọng bắn trúng đai áo Tiểu Bạch,  ông bèn ngã ra giả vờ   chết. Quản  Trọng sai người đi báo với công tử  Củ. Vì vậy công tử Củ chủ   quan đi  chậm, không vội về nước Tề.
Khi   Quản Trọng đi khỏi, Khương Tiểu  Bạch ngồi trên chiếc xe bịt kín  đi  gấp  về nước Tề. Ông được họ Cao và  họ Quốc làm nội ứng, cùng lập làm   vua  mới, tức là Tề Hoàn công. Tề  Hoàn công lên ngôi bèn dàn quân tấn  công  nước Lỗ.  Quân Lỗ thua chạy,  bị quân  Tề chặn đường về. Ban đầu  Tề Hoàn  công định giết cả 3 người  chống đối ở  nước Lỗ, nhưng Bảo Thúc  Nha vốn  là bạn thân của Quản  Trọng, do đó Bảo Thúc Nha đề nghị Hoàn  công nên   tha cho Quản Trọng  sống dùng làm người phò tá lên nghiệp bá.
Tề   Hoàn công nghe theo, bèn ra điều  kiện nước Lỗ tự giết công tử Củ  và   giao nộp Thiệu Hốt cùng Quản Trọng  để cho nước Tề xử tội. Nghe lời Bảo   Thúc Nha, Tề Hoàn công trao chính  sự cho Quản Trọng,  dùng làm đại  phu.  Ông còn trọng dụng Cao Hề, Bảo  Thúc Nha và Thấp Bằng  sửa sang  chính sự  nước Tề. Từ đó nước Tề trở nên  giàu mạnh.
Tề  Giản công 齊簡公 vua nước  Tề, tên tên  thật là Khương Nhâm 姜壬 , cai trị:  từ 484 TCN-481 TCN,  là vị  vua thứ  29 nước Tề - một chư hầu của nhà  Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Năm   485 TCN, Ngô Phù Sai sai sứ liên  minh với nước Lỗ,  nước Châu và nước   Đàm để cùng tấn công Tề. Họ Bão có  thù với vua cha Tề  Điệu công, bèn   giết chết Điệu công để đề nghị Phù  Sai lui quân rồi bỏ  trốn sang  nước  Ngô. Điền Khất lập Khương Nhâm lên  ngôi, tức là Tề Giản công.
Ngô   Phù Sai mang quân từ đường biển vào  tấn công nước Tề nhưng bị quân Tề   đánh bại phải rút lui. Cùng lúc đó  quân Tấn do Triệu Ưởng chỉ huy  cũng  xâm lấn nước Tề nhân lúc nước Tề  rối ren. Quân Tấn đánh tới đất  Lai mới  rút về.
Thế  lực họ Điền trong nước Tề ngày một  lớn. Điền Khất  (Điền Hi tử) chết,  còn là Điền Hằng  (Điền Thành tử,  Trần Thành Tử, Trần  Thành) lên thay.  Tề Giản công nhớ ơn Hám Chỉ theo  giúp ông khi  lưu  vong ở nước Lỗ,  bèn cho Hám Chỉ vào triều nắm trọng  trách. Điều đó   khiến Điền Hằng  không bằng lòng. Người đánh xe của Tề  Giản công là Ương  khuyên ông nên  chọn một trong  hai họ Điền hoặc Hám  vì hai họ sẽ không  hòa thuận,  nhưng Giản công không  nghe.
Điền  Hằng mưu trừ họ Hám  để nắm toàn  quyền. Năm 481 TCN, Điền Hằng  cùng  các anh em mang quân đến  cung vua.  Hám Chỉ mang quân tới đánh, bị   Điền Hằng đánh bại, phải chạy  sang  Phong Khâu. Người Phong Khâu giết   chết Hám Chỉ. Tề Giản công chạy  đến  Từ châu thì bị quân Điền Hằng đuổi  bắt được. Tề  Giản công hối hận   không nghe lời người đánh xe. Tháng 5  năm 481 TCN, Tề  Giản công bị Điền   Hằng giết chết tại Từ châu. Ông ở  ngôi 4 năm. Điền  Hằng lập em ông là   Khương Ngao lên nối ngôi, tức là  Tề Bình công.
Tể Dư 宰豫 (Xem Tể Ngã) .
 Tể Ngã 宰我: Tể Ngã là đệ tử của Khổng Tử, họ Tể tên Dư 予, tự là Tể Ngã, người nước Lỗ, sau làn quan nước Tề.Ông được đời sau phong là Lâm Truy Công.
Tư Mã Canh, Tư MãNgưu, Xem  Tử Ngưu
Tử Cao 子羔 tên là Cao Sài 高柴, học trò Khổng Tử. Tự Tử Cao, Đàn Cung cũng viết là Tử Cao (chữ Cao trong tên ông Cao Dao). Đệ tử truyện viết : Người nước Tề, nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết Người nước Vệ. Sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng 40 tuổi. Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ viết : " Bảo Tử Lộ cho Tử Cao làm quan Tể đất Phí, Gia ngữ viết Tử Cao thường làm quan Tể đất Võ thành. Cũng có sách chép ông làm quan Sĩ sư nước Vệ, thường làm tội chặt chân người, và trong cuộc loạn Bằng Khoái, những người bị tội chặt chân thoát đượcv.v...
Tử Cầm: tên là Trần Cang (Khang) 陳亢 , học trò Khổng Tử.
             
Tử Cống :Họ Đoan Mộc 端木 , tên Tứ 賜,  người nước Vệ, học trò     giỏi của Khổng Tử, nhỏ hơn Khổng Tử 31 tuổi, giỏi về ngôn ngữ Ông  cũng    có tài về buôn bán, nhà giàu. Làm quan nước Lỗ sau mất ở Tề. Đời sau phong ông là Lê Dương Hầu.Trong thiên Tiên Tiến, sách Luận Ngữ có viết : " Ngôn ngữ, có Tể Ngã và Tử Cống ", như thế là Tử Cống giỏi về khoa ngôn ngữ. Đệ tử truyện cũng có viết : " Tề sắp đánh Tấn, Tử Cống qua du thuyết với Ngô, bảo hãy bỏ Việt để đánh Tề, rồi lại qua Tấn du thuyết đánh Ngô, Tử Cống một lần ra đi du thuyết, giữ còn nước Lỗ, làm loạn Tề, phá Ngô, làm mạnh Tấn, làm Bá nước Việt, là nhờ giỏi về khoa ngôn ngữ... Thật ra, chuyện ghi trên đây không giống với tài liệu Ngô thế gia và Tề thế gia...cũng có thuyết nói ông làm tướng nước Tề, Vệ, nhưng không có bằng chứng gì đáng tin. Trong thiên Tiên Tiến cũng có chép : " Nếu Tứ không chịu mạng với đế vương mà đi buôn thì làm giàu ". Tử Cống có tài sản đến ngàn vàng, trong các sách Đệ tử truyện, Hóa thực truyện và Gia ngữ đều có chép. Sách Thôi thuật chép rằng, Tử Cống giàu, là chỉ lưu tâm đến việc sản xuất, chớ không phải buôn bán. Về cuối đời Xuân Thu, thương nghiệp đã lần lần phát đạt, vì các đệ tử của Khổng Tử không chú tâm đến việc lợi, nếu lo làm giàu thì tất nhiên sẽ có nhiều người sẽ giàu lớn, lời nói của họ Thôi, không phải là không căn cứ. Tử Cống là người có tiền nhiều nhứt trong số môn đệ của Khổng Tử, mà nghèo nhứt là Nguyên Hiến và Nhan Uyên, cho nên sách Gia ngữ và Hàn thi ngoại truyện đều có chép chuyện Tử Cống đến thăm Nguyên Hiến. Tử Cống sùng bái ngôn luận của Khổng Tử, điều nầy thấy có chép rất nhiều trong sách Mạnh Tử, cho nên Thôi Thuật mới nói : " Khổng Tử mà được sáng danh trên đời là nhờ công của Tử Cống rất nhiều ".
Tử Du 子游(506-BC):Họ Ngôn tên Yển言偃. tự Tử Du 子游,Ngôn Du, “言游”、Người nước Ngô  thời Xuân Thu , là học trò của Khổng Tử ,     kém  Đức Khổng Tử 35  tuổi (có sách nói ông là người nước Lỗ, kém  hơn    Đức Khổng Tử 45 tuổi),  giảng tập về Lễ được liệt vào khoa Văn  học   trong  cửa Khổng..Tử Du làm quan Tể ở ấp Vũ Thành nước Lỗ, đem Lễ Nhạc dạy dân, người trong ấp ấy học tập về huyền ca cho đến mãi bây giờ.. Tử Du được đời sau phong là Sơn Dương Công.
Đệ tử truyện chép : " Người nước Ngô, nhỏ hơn Khổng Tử 45 tuổi ". Sách Gia ngữ chép : " Người nước Lỗ, nhỏ hơn Khổng Tử 35 tuổi... "Theo sách Luận Ngữ, Lễ Ký, có chép thì Tử Du, Tử Hạ và Tăng Tử đều có nhiều lời nói trong các sách ấy, tuổi những người ấy xấp xỉ nhau. Có lẽ theo sách Đệ tử truyện là đúng. Số đệ tử của Khổng Tử, người nước Lỗ là nhiều hơn hết. Kế đó là người nước Vệ, rồi sau là người nước Tống. Sách Mạnh Tử có chép : " Nước Trần, Lương, Sở sanh ra, đẹp cái đạo của Châu Công, Trọng Ni, phía Bác học với Trung quốc ". (Trong thiên Đằng Văn Công). Sau khi Khổng Tử mất, vì Ngô cách xa với Lỗ, và Khổng Tử cũng chưa hề đến Ngô, mà Tử Du, chỉ là người độc nhứt mà nước Ngô, không nài đường xa vạn dặm đến học, xét ra, sách Gia ngữ chép có phần đúng. Tử Du thường làm quan ở Lỗ, làm quan Tể ở Võ Thành. Thiên Dương Hóa trong sách Luận Ngữ có viết : " Tiếc người có đại tài mà đem dùng vào việc nhỏ ". Thiên Lễ vận sách Lễ Ký có chép Tử Du dạy " Đại đồng và Tiểu khương ", Tử Du và Tử Hạ đều nổi tiếng về văn học và cũng giỏi về Lễ, và thiên Lễ vận là cũng do học trò của Tử Du ghi chép.
Tử Hạ子夏(507-?BC) ,        Họ Bốc tên Thương 卜商, tự Tử Hạ 子夏,sau cải là Bốc Tử Hạ 卜子夏”、Bốc tiên sinh卜先生”.người nước Tấn thời Xuân Thu, học trò Khổng Tử được xếp vào hạng thập triết, ông hay phụ giúp và thết đãi cha mẹ nhưng hay giận dữ. Cũng có tài liệu nói ông người nước Vệ,  nhỏ hơn Đức  Khổng Tử 44 tuổi, học tập về Kinh Thi thông hiểu được nghĩa lý, nên được  liệt vào khoa Văn học trong cửa Khổng.               Sau    khi Đức Khổng Tử mất, Tử Hạ trở về nước Vệ. Ông thấy có người đọc  sách   Sử Chí rằng: "Tấn sư phạt Tần, tam thỉ độ hà."   Nghĩa là: quân  nước  Tấn  đánh nước Tần, ba con heo bơi qua sông. Tử Hạ   nghe xong,  nói với   người đọc sách ấy là: Không phải Tam thỉ mà là Kỷ   Hợi.                  Người  đọc sách Sử Chí hỏi lại các người làm sử nước Tấn thì  đều nói   rằng: Kỷ  Hợi là đúng. Từ đó, người nước Vệ cho Tử Hạ là bậc  Thánh nhân.                 Tử   Hạ dạy học ở Tây Hà. Vua nước Ngụy là  Ngụy Văn Hầu   (423-387 tr TL) tôn   ông làm thầy và thường đến hỏi ý  kiến về Chính sự   trong nước, đặt quan   bác sĩ để học các Kinh. Nho  giáo thành ra quốc   giáo khởi đầu từ đó. Tử   Hạ chú trọng về văn  chương và lễ nghi, lại có   vua bảo hộ, có quan bác   sĩ coi giữ các  Kinh, cho nên về sau càng  ngày  càng phát đạt lên. Tử Hạ  được đời sau  phong là Hà Nội Công (?).
 
Tử Hoa 子华 :  họ Công Tây  tên Xích 公西赤,tự Tử Hoa 子华.Học trò Khổng Tử. Khi  Khổng Tử  làm quan Tư Khấu ( Hình bộ thượng thư) nước Lỗ, Tử Hoa làm quan  nước  Lỗ.
Đệ tử truyện viết : " Tự Tử Hoa, nhỏ hơn Khổng Tử 42 tuổi ". Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Người nước Lỗ. Khổng Tử khen : Thắt đai đứng chốn thiên đình, có thể nói chuyện với tân khách (Thiên Công dã Tràng, sách Luận Ngữ) ". Tử Hoa cũng nhận mình : " Nguyện làm tiểu tướng ở chốn Tôn miếu Hội đồng " (thiên Tiên Tiến) như vậy Tử Hoa có tài về ngoại giao. Mã Dung trong sách Luận Ngữ tập giải viết : Tử Hoa có dung nghi có thể làm hành nhơn (đi sứ) Thiên Ung dã cũng có ghi chuyện Tử Hoa đi sứ ở nước Tề, Nhiễm Tử xin gạo cho mẹ, và Khổng Tử có nói : Chu cấp không nên tiếp giúp cho kẻ có tiền... Đây là chuyện chép lúc Khổng Tử còn làm quan Tư Khấu, dự việc chánh ở nước Lỗ. Nếu xét cho kỹ, lúc đó Khổng Tử đúng 52 tuổi, thì Tử Hoa mới có 10 tuổi thôi, như thế là Đệ tử truyện sai lầm.
Tử Hữu子有 :   là tự của  Nhiễm Cầu 冉求 .Nhiễm Hữu冉有 người nước Lỗ, Gia ngữ vết : " Ông thuộc tông tộc Trọng Cung ". Đệ tử truyện và Gia ngữ đều viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 29 tuổi ". Khổng Tử khen ông có thể làm quan Tể cho một ấp ngàn nhà, hay là một nhà có đến 100 cổ xe (Thiên Công dã Tràng trong Luận Ngữ), như vậy là giỏi về việc chánh cũng như Tử Lộ. Nhiễm Hữu có nói về chí, cho rằng : " Nếu cần làm việc đó, thì 3 năm có thể làm cho dân ấm no " ; như thế là giỏi về lý tài. Ông đã làm chức việc coi thu góp cho Quí thị. Khổng Tử có nói : " Cầu không phải là học trò của ta...tiểu tử hãy nổi trống công kích nó ! " Nếu chuyên môn về lý tài thì sẽ đi đến chỗ tệ hại là cứ lo thu góp. Cá tánh của ông tương phản với Tử Lộ...cho nên Khổng Tử đã nói : " Cầu thoái bộ cho nên phải đẩy tới, còn Do thì lấn lướt người, nên phải kéo lui...(thiên Tiên Tiến). Nhiễm Hữu thường nói : " Không phải tôi không thích cái đạo của thầy, tôi chỉ không đủ sức ". Khổng Tử nói : " Sức không đủ, giữa đường mà bỏ, là tại ngươi tự vạch cho mình. Tự cho mình là sức không đủ, tự vạch lằn mức cho mình mà không cầu tiến, đó gọi là thối vậy ". Trong sách Khổng Tử thế gia có ghi chuyện Quí Khương Tử trước triệu Nhiễm Hữu trở về nước Lỗ, nhờ lời Nhiễm Hữu mà mới rước Khổng Tử về để an dưỡng tuổi già. Khổng Tử được trở về Lỗ là nhờ công Nhiễm Hữu vậy.
Tử Lộ子路 (542-480)     : tên là Nhan Vô Do. Ông là người có hiếu,  Ông họ Trọng 仲 tên Do 由,tự Tử Lộ ,người  nước    Lỗ , học trò Khổng Tử . Ông làm gia thần cho nhà đại phu họ Quý  nước  Lỗ   nên được gọi là Quý Lộ. Tử Lộ hay cậy mình khỏe, sau chết ở  Tích  Thành   nước Vệ.
Đệ tử truyện và Gia ngữ đều chép : " Nhỏ hơn Khổng Tử 9 tuổi, người đất Biện, Biện là một ấp của Lỗ, thành cũ hiện nay ở phía Đông huyện Tư Thủy, tỉnh Sơn Đông, như thế thì Tử Lộ cũng là người nước Lỗ. Tử Lộ hiếu dõng, thích tiến thủ, học được điều gì chưa làm được, thì không chịu học thêm (Thiên Công dã Trường trong Luận Ngữ), nhưng ông không biết lo ngại, dè dặt, tính toán khi lâm sự để thành công nên Khổng Tử mới nói : Tay không cự cọp dữ, lội bừa qua sông nguy hiểm, chết mà không hối hận...ta không như thế (thiên Thuật nhi). Khổng Tử cũng thường than thở : " Như ngươi Do, thì bất đắc kỳ tử vậy " (thiên Tiên Tiến). Sau Tử Lộ làm quan ở nước Vệ và chết trong nạn Bằng Khoái đánh đuổi Triếp. Khổng Tử đang ăn, nghe tin Tử Lộ bị chết thảm, liền khóc lớn : " Trời dứt ta, t trời dứt ta ". (Xem Đệ tử truyện và thiên Đàn cung trong sách Lễ Ký). Khổng Tử thường khen Tử Lộ : " Một lời nói có thể đoán định được việc hình ngục " (thiên Nhan Uyên) và " Nước có ngàn cổ xe có thể dùng ông vào việc tài chánh (thuế má) " (thiên Công dã Trường) thế nên trong sách Luận Ngữ có viết : " Việc chánh thì Nhiễm Hữu và Quí Lộ ". Dưới thời Quí Hoàn Tử, ông thường làm quan Tể cho Quí thị. Lúc Khổng Tử làm quan ở nước Lỗ, mà được Quí tôn trọng dụng là cũng nhờ Tử Lộ.
Tử Ngưu  tên là Tư Mã Canh, Tư Mã Ngưu, người nước Tống, sách Luận Ngữ tập giải của Khổng an Quốc viết : Ngưu là đệ tử của Tư mã Lê, dường như cũng có tên là Lê. Ngưu là em của Tư mã Hoàn Đồi nước Tống, Hoàn Đồi chuyên quyền ngang ngược, vua Tống thảo phạt, Hoàn Đồi thua chạy qua nước Tào rồi nước Vệ. Ngưu bỏ ấp chạy qua Tề, Hoàn Đồi cũng chạy qua Tề, Ngưu lại bỏ Tề, chạy qua Ngô, người nước Ngô không ưa, liền trở về Bắc, đi ngang qua Lỗ, chết ngoài cửa thành, cho nên Khổng Tử đã khuyên : " Người quân tử không lo, không sợ ", mà Ngưu thì có lời than : " Người ta đều có anh em, chỉ có mình tôi là không có gì cả " (thiên Nhan Uyên trong sách Luận Ngữ). (Trong chữ Nho, Ngưu và Lê hình và nghĩa tương tợ nhau, nên Ngưu lầm ra Lê, chớ chẳng phải có hai tên).
Tử Nhược:  xem Tất Điêu Khai
Tử Phục Cảnh Bá  子服景伯 là quan đại phu nước Lỗ thời Khổng tử.
Tử      Sản子產(?-522BC): Họ Cơ 姬 ( là họ Tôn thất nhà Chu), cũng có họ Công       Tôn公孫  tên Kiều僑,do đó có tên là Công Tôn Kiều 公孫僑、Công Tôn Thành  Tử      公孫成子、tự Tử Sản子產,Tử Mỹ 子美 .Ông làm quan đại phu nước Trịnh, là  một   chính    trị gia, một nhà cải cách.
Tử Tây 子西  (?~前479),là  tự của  Công tử Thân 申 hay Nghi Thân 宜申,người  thời Xuân  Thu, con của Sở  Bình vương, anh của Sở Chiêu vương, làm quan  đại phu  nước Sở, được tôn  lên ngôi nhưng nhường cho Chiêu vương. Ông  giỏi  chánh trị. Chiêu vương  muốn dùng Khổng tử, Công Tây ngăn cản.
Tử Tiện子賤: học trò Khổng Tử, họ Mật 宓tên Bất Tề 不齊, tự Tử Tiện.
sách Gia ngữ và Luận Ngữ tập giải đều viết : người nước Lỗ, sách Đệ tử truyện viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 49 tuổi. Sách " Sách Ẩn " dẫn lời sách Gia ngữ viết : Nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Gia ngữ bản mới lại chép : Nhỏ hơn Khổng Tử 40 tuổi, thường làm quan Tể ở Đơn phụ, gảy đàn, chẳng ra khỏi nhà mà trị. Sách Đệ tử truyện và Lã thị Xuân Thu đều có viết những dật sự lúc ông làm quan. Khổng Tử khen ông : " Quân tử thay con người đó...như vậy ông cũng là một cao đệ trong Khổng môn ".Sách Hán chí có chép : Nho gia, Mật Tử có viết quyển  sách gồm 16 thiên nhưng bị thất lạc. Sách " Chánh Nghĩa " dẫn lời Nhan thị gia huấn viết : " Vĩnh Thành huyện ở Đái Châu tức là huyện Đơn phủ cũ, phía Đông có Tử Tiện bi, có khắc " Tế Nam phục sanh " tức là người dòng dõi của Tử Tiện.
Tử Tư, sách tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : " Người nước Lỗ ". Sách Gia ngữ viết : " Người nước Tống, nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi ". Thiên Ung dã trong sách Luận Ngữ viết : " Nguyên Tư làm quan Tể, cho lúa 900 mà từ chối ". Sách Gia ngữ cũng viết : " Khổng Tử làm quan Tư Khấu nước Lỗ, Nguyên Hiến thường làm quan Tể cho Khổng Tử ". Không nghe nói Khổng Tử có Thái ấp (đất cấp) như thế thì tể đây là giao tể, không phải là ấp tể. Có thuyết nghi rằng, Nguyên Hiến nhỏ hơn Khổng Tử 26 tuổi, Gia ngữ lầm chữ " tam " với chữ " nhị ". Nếu như Gia ngữ nói đúng thì lúc Khổng Tử làm Tư Khấu, thì Nguyên Hiến chỉ có 16 tuổi, Nguyên Hiến rất nghèo, sách Gia ngữ và Hàn thi ngoại truyện đều chép như thế.
 Tử Trì, trong sách Gia ngữ và Đệ tử truyện đều chép nhỏ hơn Khổng Tử 36 tuổi. Trịnh Huyền cho ông là người nước Tề, nhưng Gia ngữ lại nói là người nước Lỗ. Sách Gia ngữ cũng chép : Ông thường làm quan với Quí thị, nhưng không biết căn cứ vào đâu mà sách Gia ngữ lại viết như thế. Thiên Tử Lộ trong sách Luận Ngữ có viết : Phàn Trì xin học làm ruộng làm vườn, Khổng Tử chê là " tiểu nhơn " Chữ tiểu nhơn nầy là đối với chữ quân tử tại vị...cũng như Mạnh Tử đã nói chữ " dã nhơn " vậy (người quê mùa). Sách Bạch Thủy Bi có viết : " Phàn Tu tự là Tử Đạt, Phàn Hưởn tự Tử Trì, như thế dường như Phàn Tu và Phàn Hưởn là hai người...Người đời xưa dùng chữ Tu có nghĩa là " râu " mà cũng có nghĩa là chờ đợi, như thế thì Phàn Tu, tự là Trì cũng có lý..Phần trên có nói : Một người chống gậy mỉa mai Khổng Tử : " Tay chưn không động, 5 giống lúa không phân biệt được " là ý muốn chê Khổng Tử không lao động. Trước thời Khổng Tử, chưa có tư nhơn dạy học, thâu học phí của đệ tử [ngày xưa chữ thúc tu (bó nem) là như học phí bây giờ]. Lúc đó cũng chưa có giới bình dân đi đó đi đây du thuyết, và hoạt động chánh trị...vì hế những kẻ ẩn sĩ rất chướng tai gai mắt với phong trào mới mẻ ấy. Ýù của Phàn Trì, có phải muốn chống đối thái độ thiếu lao động của Nho gia thời ấy chăng ? Hay là ông phẫn chí vì cái đạo không hành được trong lúc ấy chăng ? Hay là Phàn Trì đã nhận được sự cần thiết của lao động, cày cấy ; làm vườn là điều thực tế trong hoàn cảnh xã hội lúc đó ?
 
 Tử    Trương 子張 ( (503BC-?), người nước Trần 陳 cao đệ Khổng Tử, Luận Ngữ    thiên 19 mang tên ông. Ông   có họ là Chuyên Tôn, tên là Sư, tự là Tử    Trương, người nước Trần, nhỏ   hơn Đức Khổng Tử 48 tuổi, người có dung    mạo đẹp đẽ, tư cách hòa nhã,  lúc  nào cũng có vẻ trang nghiêm, ở ngôi    sang không mừng, không khinh  người  hèn, không ngại người khổ, không    câu nệ, nên không tương đắc với  các  đồng môn.               Hai    ông   Tăng Tử và Tử Du chê Tử Trương chưa thật là bậc nhân, vì cái học    của   Tử Trương có phần phóng khoáng thái quá, nhưng hai ông thì lại tỉ  mỉ     và câu nệ tiểu tiết. Tử Trương được đời sau phong là Uyển Khâu  Hầu.Đệ tử truyện và Gia ngữ có viết : " Nhỏ hơn Khổng Tử 48 tuổi, người nước Trần ".Sách " Sách Ẩn " dẫn lời Trịnh Huyền : "
Người đất Dương Thành. Dương Thành thuộc về nước Trần... "Thiên Tôn Sư trong " Lã thị Xuân Thu " viết : " Tử Trương thuộc về một gia đình tầm thường ở nước Lỗ " như thế là cho Tử Trương là người nước Lỗ.Họ Chuyên Tôn đuổi Trần công tử, chuyện nầy thấy có chép trong sách Thông chí thị tộc lược...nhưng theo sách Tả truyện thì vào năm 25 đời Chiêu Công, Chuyên Tôn ra đi...Năm Chiêu Công thứ 25 thì Khổng Tử mới 35 tuổi thì Tử Trương chưa sanh, làm sao Tử Trương là con Chuyên Tôn được.
Họ Chuyên Tôn đẩy Trần công tử qua Lỗ, thế nên mới có thuyết Tử Trương là người nước Trần, nước Lỗ.Thiên Tiên Tiến trong sách Luận Ngữ có viết : " Tử Cống hỏi Sư với Thương (Bốc Thương) ai hiền ? " Khổng Tử đáp : " Sư thì thái quá, còn Thương thì bất cập ". 
Tử Cống lại hỏi thêm : " Như thế thì Sư hơn chăng ? " Khổng Tử đáp : " Thái quá thì cũng như bất cập...vì Tử Hạ tánh tình đôn hậu thành thật, nhưng khí độ lại hẹp hòi, còn Tử Trương thì khí độ rộng rãi, tánh tình xốp nổi, hay khoa trương và hơi bạc... "Thiên Tử Trương trong sách Luận Ngữ có viết : Môn nhơn của Tử Hạ hỏi về chuyện giao thiệp với Tử Trương.Tử Trương hỏi : " Về chuyện đó thầy Tử Hạ nói như thế nào ? ".
Môn nhơn đáp :- Thầy Tử Hạ nói : Nếu người khá thì cùng giao thiệp. Nếu không khá thì cự tuyệt...Tử Trương nói : - Chỗ tôi biết thì khác : Người quân tử tôn hiền mà bao dung đám đông, khen người lành mà xót thương người dở...Ta có phải là kẻ đại hiền chăng ? Làm sao không dung người được ? Ta là kẻ chẳng hiền chăng ? Người ta sẽ cự tuyệt ta, ta làm sao cự tuyệt người được ? Xem chương nầy, chúng ta thấy khí độ hai người không giống nhau. Thiên Đàn cung trong sách Lễ Ký có viết : " Tử Hạ đã hết tang mà đến ra mắt...Ta đàn, họa đó mà không hòa, đàn mà không thành tiếng... Bảo rằng : Buồn chưa quên được...vì Tiên vương chế lễ mà không dám vượt qua... Tử Trương đã hết tang, mà đến ra mắt, ta đàn, họa đó mà hòa, đàn mà thành tiếng. Bảo rằng : Tiên Vương chế lễ, chẳng dám chẳng đến... ". Đọc chương nầy, ta thấy tánh tình hai người chẳng giống nhau. Tăng Tử nói : - Đường đường Tử Trương cũng khó mà sánh được cái nhơn của người ấy. Theo Đệ tử truyện, Tử Hạ nhỏ hơn Khổng Tử 44 tuổi, Tử Du nhỏ hơn Khổng Tử 45 tuổi, Tăng Tử nhỏ hơn Khổng Tử 46 tuổi, Tử Trương nhỏ hơn 48 tuổi, 4 ông nầy là lớp thiếu niên đồng môn tuổi xấp xỉ nhau, mà Tử Trương nhỏ hơn hết. Mạnh Tử có nói : Khổng Tử đã mất, Tử Hạ, Tử Du, Tử Trương vì thấy Hữu Nhược giống thánh nhơn nên muốn dùng lễ thờ Khổng Tử, thờ Hữu Nhược mà bắt Tăng Tử phải theo. Tăng Tử không đồng ý (thiên Đằng văn Công) như thế, lúc Khổng Tử mất, 4 thầy kể trên là lãnh tụ của các đồng môn vậy. Trong thiên " Phi thập nhị tử ", Tuân Tử đã phê bình Tử Trương, Tử Hạ và Tử Du là 3 phái " tiện Nho " mà không đề cập đến Tăng Tử là vì cho phái của Tăng Tử là chánh thống. Sách Luận Ngữ ghi những lời đệ tử phát biểu ý kiến mình, về Tăng Tử thấy có 13 lần, Tử Hạ 12 lần, Tử Trương 2 lần, Tử Du 4 lần, 4 ông ấy là tuổi trẻ nhứt trong số đồng môn, và đó là số đệ tử nổi nhứt trong số đệ tử lớp sau. Số đệ tử lớp trước, như Nhan Tử, chỉ thấy lời nói có một lần ; và đó là lời tán tụng Khổng Tử, lời nói của Tử Cống có 7 lần ; trong số có 5 lần tán tụng Khổng Tử còn phát biểu ý kiến mình chỉ có 2 lần...Như thế thì số đệ tử từ lớp sau phát biểu ý kiến riêng của mình nhiều hơn lớp trước.
 Tử Văn子文: làm Lệnh doãn nước Sở
Tử Vũ子羽: là tự của Công Tôn Quân  公孫揮 quan đại phu nước Trịnh 。đồng thời với Tử Sản (520BC)
Tử Uyên: Nhan Hồi (Xem Nhan Uyên)
Tỳ Thẩm 裨谌 là quan đại phu nước Trịnh.
Tỷ   Can 比干  là một người trong hàng chú bác của bạo chúa nhà Ân là Trụ.   Đế  Tân (帝辛), Trụ (紂), Trụ Tân (紂辛) hay Trụ Vương (紂王)  ở ngôi từ 1154   TCN -  1123 TCN[1] hoặc 1075 TCN - 1046 TCN. Tỷ Can  thường can gián Trụ   nên  bị Trụ giết.  
Thái     Bá 太伯 :  Thái vương nhà Châu  ngày trước làm vua chư hầu, tước công,   có   ba người con  là Thái Bá,  Trọng Ung,  Quý Lịch. Ông Quý Lịch  sinh  một   trai tên Xương  sau thành  Văn vương lập  nhà Châu. Thái  vương biết   Văn   vương là người tài   đức,  muốn truyền ngôi cho Quý  Lịch  để  Quý  Lịch   truyền ngôi cho Văn  Vương.  Thái Bá biết ý cha,  bèn rủ em là  Trọng Ung   cùng đi hái thuốc  mà đi lên phía bắc, ẩn dật ở  xứ Kinh Man.
Thái     miếu  là  điện thờ Chu Công ở nước Lỗ. Võ vương sau khi diệt vua Trụ      nhà  Thương  lập nhà Châu, phong cho em là Châu công làm vua nước  Lỗ.
Thái       Sơn:  Thái Sơn ở ngoài lãnh thổ nước Lỗ. Thiên tử có lệ phái vua  chư     hầu   thay mình đi tế thần, gọi là lễ Lữ. Lúc bấy giờ Quý Khương  Tử  chỉ     là  quan đại phu mà lạm quyền đi tế Lữ.
Thái  sư Chí  大師摯 quan thái sư nước Lỗ, tên Chí, đứng đầu bộ âm nhạc, bỏ  sang  nước  Tề. Thái sư Thiếu sư lúc này là quan coi nhạc, khác đời sau,   Thái sư là  quan to ngang quyền tể tướng.
 Thân Trành 申棖,tự Chu 周,học trò Khổng Tử, người nước Lỗ.
Thiên Công dã Tràng trong sách Luận Ngữ viết : Phu Tử nói : Ta chưa thấy ai cứng rắn... Hoặc có kẻ đáp : Có Thân Tranh. Phu Tử nói : Thân Tranh nhiều lòng dục, đâu có cứng rắn. Sách Tập giải viết : " Thân Tranh người nước Lỗ. Sách Đệ tử truyện không có tên Thân Tranh, chỉ có Thân Đảng, tự là Châu. Sách Chánh Nghĩa viết : " Người nước Lỗ. Sách Đệ tử khảo dẫn Lễ điện đồ của Văn ông nói có Thân Đảng ; Hán Vương Chánh bi có viết : " Không có lòng dục của Thân Đường ". Sách Luận Ngữ thích văn có dẫn lời Gia ngữ : " Thân Tục, tự Châu. Sách Sử ký, sách Ẩn lại viết Thân Trách...các thuyết đều khác nhau không biết đâu là đúng.
Thế Thúc 世叔 tức  Tử Thái Thúc 子太叔,tên Du Cát 游吉,quan đại phu nước Trịnh  sau khi Tử Sản chết, ông làm Tể tướng.
Thiệu   Hốt 召忽: Người nước Tề thời Xuân Thu, đồng thời với Quản Trọng.Hai  ông   phò công tử Củ, khi Hoàn công giết công tử Củ, Thiệu Hốt chết  theo,  còn  Quản Trọng theo phò Hòan công.
     Thôi  Tử   崔子: Ông tên là Thôi Trữ  崔杼, người thời Đông Chu liệt  quốc,    là   quan  Hữu Khanh nước Tề đã giết Tề Trang Công vì Tề Trang  công tư    thông   với vợ Thôi Trữ.
Thúc Tề :  Bá  Di, Thúc tề  伯夷、叔齊     là 2 con vua Cô Trúc, chư hầu của   nhà Ân.. Vua  Cô Trúc chon Bá Di    làm vua, Bá Di không chịi, bèn nhường cho em là Thúc Tề. Thúc Tề cũng   từ  chối. Sau cả hai giúp  Vũ vương.  Khi Vũ   Vương kéo quân sang   đánh   Trụ ( vua nhà Ân), lập nhà   Chu. Bá Di và  Thúc  Tề  bỏ đi ở ẩn ở  núi    Thủ Dương, hái rau vi mà ăn    chứ không ăn  thóc  nhà Chu.
Thúc Tôn Võ  Thúc  叔孫武叔: Đại phu nước Lỗ sống đồng thời với Khổng Tử
Trang   Tử 庄子: Trang tử ở đất Biện (thuộc Lỗ) cho nên nhiều sách ghi là  Biện   Trang   卞庄 hay Biện Trang Tử 卞庄子là người tay không đánh hổ.
Tràng Thư , Kiệt Nịch 長沮桀溺 hai nhà ẩn sĩ ỏ giữa nước Sở và nước Thái, cùng nhau làm ruộng, sống đồng thời với Khổng Tử.
Trần Cang 陳亢 (511BC~?) tự 子亢, và  Tử Cầm 子禽,là người nước Trần  học trò Khổng Tử.
Trần Tử Cầm 陳子禽  người này không rõ tông tích, có nhiều thuyết khác nhau, nhưng không phải là Trần Cang 陳亢, có tên trong sách Luận Ngữ ở 3 chương, chương 1 là Học nhi, chương 2, Tử Cầm hỏi Tử Cống và thiên Quí thị, chương Trần Cang hỏi Bá Ngư.Sách Luận Ngữ do Trịnh Huyền chú và thiên Đàn Cung trong kinh Lễ đều nói là đệ tử của Khổng Tử.Trong sách Đệ tử giải không có tên Trần Cang, mà chỉ có Nguyên Cang Tịch.Sách Gia ngữ viết : " Trần Cang, người nước Trần, tự Tử Ngươn, cũng tự là Tử Cầm, nhỏ hơn Khổng Tử 40 tuổi rồi cũng có người có tên là Nguyên Cang tự Tử Tịch, như thế thì Trần Cang và Nguyên Cang không phải là một người.
Thiên Đàn Cung viết : " Trần Tử Xa chết ở nước Vệ, vợ ông và quan Đại phu tính toán việc tuẫn táng mà Trần Tử Cang đến...Trịnh Huyền có lời chú : Tử Xa là Đại phu nước Tề, Tử Cang là em Tử Xa, như thế thì Tử Cang lại là người nước Tề.Sách Hán thơ, thiên Cổ kim  nhơn biểu phân : Trần Cang, Trần Tử Cầm và Trần Tử Cang là 3 người, và không cho là đệ tử của Khổng Tử.
Trần Thành Tử 陳成子 tức Trần  Hằng 陈恒 , cũng có hiệu  là  Điền Thành Tử quan đại phu nước Tề khoảng 481 BC. đã giết Giản công, 
Trần Văn Tử 陳文子:làm quan nước Tề thời Tề Trang Công.
Trọng Cung  仲弓 : họ Nhiễm冉, Nhiễm Ung 冉雍, tự  Trọng Cung  仲弓,tự Hành  行。người nước Lỗ , cùng họ với Nhiễm Bá Ngưu 周冉伯牛, là học trò  Khổng Tử. Ông là người có đức hạnh , Khổng Tử khen là  có thể làm vua (Nam  diện:   vua  thường ngồi quay mặt về phương nam) .
Sách Tập giải dẫn lời Trịnh Huyền viết : Người nước Lỗ. Sách " Sách Ẩn ", dẫn lời Gia ngữ viết : " là tông tộc của Bá Ngưu, nhỏ hơn Khổng Tử 29 tuổi ". Thiên Ung dã trong Luận ngữ viết : Phu Tử gọi Trọng Cung bảo : " Con của trâu lang mà đã có sừng và sắc đỏ (có thể dùng cúng tế) tuy muốn chẳng dùng, nhưng núi sông (thần thánh) đâu có thể bỏ được. " Gia ngữ cũng có viết : " Sanh trong gia đình một người cha bất hiếu ". Sách Đệ tử truyện viết : " Cha của Trọng Cung là người đê tiện ". Những điều đó đều do ức đoán của sách Luận Ngữ mà ra. Trong thiên Tiên Tiến thì liệt Trọng Cung vào hạng đức hạnh, trong thiên Ung Dã, Khổng Tử khen  " Có thể khiến ngồi day mặt về phương Nam " là rất hợp với ý trên. Trọng Cung thường làm quan Tể cho Quí thị (xem thiên Tử Lộ) mà thành tích chánh trị không thấy ghi trong sách vở, không hiểu tại sao...
Trọng Thúc Ngữ  仲叔圉:tức Khổng Văn Tử 孔文子。 tên là Khổng Ngữ 孔圉,tự Trọng Thúc 仲叔, làm quan đại phu nước Vệ.
 Văn Công 晉文公(697-628 BC),là con của Tấn Hiến Công , họ Cơ tên Trùng Nhĩ, làm vua 9 năm,  là một trong ngũ bá thời bấy giờ.
Vệ Linh Công     衛靈公:tên Cơ Nguyên,  vua nước Vệ thời Xuân Thu, đồng thời với Khổng Tử.
Vệ công Tôn Triều    衛公孫朝: Ông là quan đại phu nước Vệ tên là Công Tôn Triều, sống đồng thời với Khổng Tử.
 
  Vi Sanh Cao 微生高:  Họ Vi Sanh 微生,tên 高,người nước Lỗ thời Xuân Thu , học trò Khổng Tử.
Vi tử 衛子 hay 衛子夫
(90BC),Tự Tử Phu 
子夫, ông người nước Vi, anh em cùng cha khác mẹ với vua Trụ, bỏ nước ra đi
Vu Mã Thi: Gia ngữ viết : tự là Tử Kỳ, người nước Trần, nhỏ hơn Khổng Tử 30 tuổi. Sách Luận Ngữ lại chép là : Vũ Mã Kỳ (thiên Thuật nhi). Đệ tử truyện chép : tự Tử Kỳ. 
Sách Hán thơ, thiên Lễ kim nhơn biểu, và thiên Câu bị lãm của Lã thị Xuân Thu cũng chép là Tư Mã Kỳ.
  Vương      Tôn Giả : là quan đại phu nước Vệ. Khi Khổng Tử qua Vệ, Vương Tôn     Giả   cho rằng Khổng Tử muốn làm quan nước Vệ nên nói câu trên để dò  là ý     tứ  Khổng Tử. Thần Áo là thần bậc trên, Táo quân là thần nhỏ. Ý  nói   nên   nhờ  thần cấp thấp  hơn là thần cấp cao, nghĩa là nên nhờ  ông ta,   quan   đại  phu thì hay hơn là xin vua. Khổng Tử trả lời  khéo  léo  rằng  người   quân  tử  không cần cầu cạnh ai, dầu là cầu thần Áo  hay  ông Táo.  Người   chân  chánh thì Trời giáng phước, kẻ gian ác thì  Trời  trừng  phạt, thần  Áo  hay  thần Táo cũng chẳng thể cứu giúp  được."
Vũ  禹: tức vua Vũ nhà Hạ, được gọi là Hạ Vũ (2205  TCN – 2198 TCN[) là vị   vua đầu tiên của nhà Hạ trong lịch sử Trung  Quốc. Ông là người đầu  tiên  lập chế độ cha truyền con nối. Tên khi  sinh của ông là Tỉ Văn Mệnh  (  姒文命), cũng được gọi là Đại Vũ (大禹). Cha  của ông Vũ l2 ông Cổn được  vua  Nghiêu sai đi trị thủy nhưng không  thành. Vua Nghiêu truyền ngôi  cho ông  Thuấn , vua Thuấn xử tử ông Cổn.  Ông Vũ tiếp tục công việc của  cha  trong 13 năm hoàn thành 9 con sông  mới.Vua Thuấn nhường ngôi cho  ông Vũ  chứ không cho con trai mình là  Thương Quân.
Vũ thành 武城 một ấp ở nước Lỗ
Vương Tôn Giả  王孙贾: người nước Vệ thời Xuân Thu, làm quan đại phu thời Vệ Linh Công (khoảng 502BC).
