Friday, March 16, 2012

TRÍ KHÔN CÁC BÁC ĐỂ ĐÂU I



NHẬT TUẤN

TRÍ KHÔN CÁC BÁC ĐỂ ĐÂU ?


TIỂU LUẬN VĂN HỌC

Dân gian có chuyện một con hổ cứ lẽo đẽo theo bác thợ cày đang làm ruộng hỏi bằng được :” Trí khôn mày để ở đâu ?”. Bác thợ cày đáp :” Trí khôn tao để ở nhà. ”- “ Về lấy tao coi đi.”- “ Không được, tao về mày ăn thịt con trâu của tao thì sao, phải để tao trói lại đã…”. Chú hổ bùi tai bằng lòng cho bác thợ cày trói lại. Trói hổ xong , bác thợ mới cầm cày phang túi bụi, vừa phang vừa la lớn :” Trí khôn của tao ở đây …”.

Vậy còn trí khôn các bác nhà văn ta để đâu ?

I. NÚI TAM ĐẢO BIẾT ĐI


Xin bắt đầu từ nhà văn Nguyễn Công Hoan, người được bác Tô Hoài thổi lớn :”Truyện ngắn , truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo Ba Vì hùng vĩ, vượt qua hai thời kỳ kháng chiến , tiến vào cách mạng tháng Tám…”.

Ái chà chà, “trái núi biết đi” này tiến vào cách mạng liệu có từ Tam Đảo , Ba Vì biến thành Everest ? Trả lời được câu hỏi này không gì bằng những tác phẩm của ông viết sau cách mạng. Tiếc thay, “bệ đỡ văn hoá” lại là cái nền móng cho nhà văn xây nên ngôi nhà của mình. Nguyễn Công Hoan tốt nghiệp Sơ học yếu lược (cấp 1 bây giờ), sau đó vào trường sư phạm ra dậy tiểu học tại hầu hết các tỉnh lẻ : Hải Dương, Lào Kai, Nam Định rồi đảo Trà Cổ ( Mống Cái) …vừa dậy học vừa hoạt động cách mạng khó mà có thời gian, điều kiện mà nghiên cứu, tự học.

Sau năm 1946, ông cũng lên rừng như các văn nghệ sĩ khác , học tập chủ nghĩa Mác và đường lối văn nghệ Diên An là chính, về Hà Nội sau năm 54 cũng vậy, cũng miệt mài vào chủ trương chính sách của Đảng , các trào lưu tư tưởng và nghệ thuật hiện đại chỉ là vầng ánh sáng mờ nơi bên kia đại dương.

Văn chương Nguyễn Công Hoan bởi thế trở nên “phú quý giật lùi” so với thời ông viết những “Bước đường cùng”, “Cô giáo Minh”, “Kép Tư Bền”,” Lá ngọc cành vàng” …và hàng trăm truyện ngắn ghi lại được phần nào bộ mặt xã hội thời đó. Từ sau 1945 ( Nguyễn Công Hoan mới 42 tuổi), “tiến vào cách mạng tháng Tám” rồi “vượt qua hai thời kỳ kháng chiến” đánh Pháp và đánh Mỹ, ngòi bút Nguyễn Công Hoan cứ cạn mực dần . “

Mở hàng” cho cách mạng, năm 1946 , NCH viết tiểu thuyết “Đồng chí Tơ”, kể một anh tù hình sự, trong nhà giam được giác ngộ trởû thành người cách mạng, viết dở tới mức chỉ in 20 kỳ trên báo Sao Vàng rồi biến mất tiêu, không tái bản, cũng không ai nhắc tới . Sang năm 1947, NCH viết tiểu thuyết “Xổng cũi” thuộc tủ sách Vệ Quốc Đoàn, cũng không để lại dấu vết gì trên chặng đường sáng tạo.

Rồi mãi tới năm 1952, NCH mới lại cho ra lò tiểu thuyết “ bà Năm di cư”, năm 1955 tập truyện ngắn “ Nông dân và địa chủ” mà chỉ nội hai cái tựa cũng đủ biết nó chết yểu. Năm 1963, NCH xuất bản “ Đống rác cũ tập1 “ viết về mặt trái của quan lại phong kiến, sách ra lập tức bị thu hồi, không phải vì “nghĩ ra ngoài những điều Đảng nghĩ” mà chính vì dơ dáy, “tự nghiên chủ nghĩa” quá. Sau này, 1988, cả hai cuốn “Đống rác cũ 1 và 2 “ đều được xuất bản và cũng chẳng gây được tiếng vang nào vì …dở quá. Bản kê “sáng tác phẩm” của Nguyễn Công Hoan sau nửa đời đi theo cách mạng chỉ có bấy nhiêu còn lại toàn những “sổ tay văn học”,” kinh nghiệm sáng tác”, “nghĩ gì viết nấy”…

Sau năm 1975, Nguyễn Công Hoan có viết “di bút” :” Hiện nay , truyện ngắn viết dài mà truyện dài cũng viết dài. Rõ ràng cái viết dài này có dụng ý là khoe vốn sống. Kiếm được bao nhiêu vốn , khi cầm bút thì lôi tiệt ra. Hàng trang- hàng tràng. Vốn bị vét đến tận đáy . Thứ vốn sống …sượng cũng bị lôi ra tuốt…” Than ôi, những truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan viết sau chuyến đi thăm “miền nam hoàn toàn giải phóng “ lại rất tiêu biểu cho “thứ vốn sống…sượng” mà ông vừa cao giọng lên án.

“ Trên chuyến xe lam” (truyện ngắn 9-1975) đang bon bon về Sàigòn có “đại tá Đôn trong nguỵ quân của tên đại Việt gian Nguyễn văn Thiệu”. Ông Đôn đang lo “đi trình diện sẽ bị bắt, ngồi tù và sẽ phải “tẩy não” vì thế ông nhất quyết trốn và tập hợp chiến hữu âm mưu lật đổ cách mạng. “May thay” chiếc xe lam ghé lại bến đón khách …một anh bộ đội. Thế rồi trên đường , anh này kể chuyện “ xung phong đi đánh Mỹ chứ không phải bị bắt lính” rồi anh lại đọc cả …. tiểu thuyết Pháp nữa làm một bà mẹ trên xe nắc nỏm :” Cụ Hồ khéo dạy người thật.

Tôi thấy anh bộ đội ngoài ấy cũng như quân giải phóng trong này, anh nào cũng hiền lành tử tế”. Sự việc chỉ có nhiêu đó đập vào mắt ông đại tá làm ông “tỉnh ngộ”, thức tỉnh chính nghĩa cách mạng đến mức sáng hôm sau ông đi trình diện sớm, dứt khoát từ bỏ ý định trốn cải tạo làm phản loạn. Truyện ngắn này nếu che đi tên tác giả, người đọc sẽ tưởng là một cây bút “thông tin văn hoá phường” chứ chẳng ai ngờ người viết nó lại là một nhà văn lớn như “ Tản Viên- Ba Vì”.

Sang truyện ngắn “ Nỗi day dứt của một đại tá tỉnh trưởng nguỵ quyền”, vốn sống của nhà văn NCH lại càng…kinh dị hơn. Ông đại tá này ở lớp cải tạo “học đến bài thứ bảy, anh ta càng thấy sỉ nhục về cái tội làm tay sai cho đế quốc Mỹ xâm lược”. Nỗi xấu hổ này làm ông “ mất ngủ, ít nói, ít cười…vắt tay lên trán, thở dài thườn thượt…”Thế rồi không chịu nổi nỗi ăn năn, ông ta phải gặp cán bộ để thổ lộ “ Tôi biết là bọn Mỹ-Nguỵ đã đào tạo khiến chúng tôi không còn là người , nhưng cách mạng giáo dục để chúng tôi trở lại thành người . Tôi vô cùng cảm ơn cách mạng…

Tiến lên ta quyết tiến lên làm người …cách mạng, ông đại tá lại thú nhận :” Hồi tôi làm tỉnh trưởng tỉnh XX, thì trong những ngày cách mạng đến giải phóng thị xã, tôi và anh Xiêm cũng học lớp cải huấn này …đã lấy hết công quỹ gồm 13 triệu đồng”. Nay xin “ lập công chuộc tội ” với cách mạng, ông đại tá đề nghị :” Lấy uy thế tỉnh trưởng, tôi chỉ chia cho Xiêm 5 triệu, tôi giữ 8 triệu. Tám triệu không nuôi sống đời tôi nhưng giữ nó , tôi bị day dứt suốt đời. Tôi cần rũ sạch vết nhơ , vết ô nhục ấy …tôi xin phép được hiến cho chính phủ số tiền 8 triệu đồng …”

Cán bộ còn đang tuyên dương tinh thần “giác ngộ cách mạng qua học tập” thì chợt nghe tiếng gõ cửa cạch cạch . Ai thế ? Tưởng ai hoá ra anh Xiêm, đồng sự với ông đại tá, cũng tìm tới cán bộ để xin nộp lại 5 triệu kẻo nó thành vết nhơ ở trong lòng. Than ôi, to như trái núi Tam Đảo Ba Vì mà sao đẻ ra hai con chuột nhắt bé xíu thế ? Riêng cái truyện “ông đại tá…” chẳng phải vốn sống đang còn …sượng , bởi lẽ NCH đã bao giờ đặt chân tới trại tập trung cải tạo mà biết mặt mũi, tâm trạng mấy ông “đại tá tỉnh trưởng” ra sao, chẳng qua ông tưởng tượng vậy thôi . Mà trí tưởng tượng của ông lại bắt nguồn từ một hiểu biết quá nghèo nàn.

Sau gần nửa thế kỷ “hành trình tư tưởng”, lẽ ra ông nhà văn phải khôn ra rất nhiều để thấy cái thứ văn chương ‘tuyên truyền” trắng trợn đó là một thứ giả nghệ thuật, mà với nhà văn không gì dị ứng cho bằng sự giả dối. Vậy thì trí khôn của bác ở đâu mà đến nỗi “nhận thức” về “kẻ thù” ngớ ngẩn vậy ? Ông tiến sĩ văn học Niculin ( Liên xô cũ) ca ngợi nhà văn Nguyễn Công Hoan :” Thời buổi này, phải có lòng dũng cảm không nhỏ, niềm tin lớn lao mới dám bước lên con đường của Ông (Nguyễn Công Hoan).

Ông đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng khen ngợi :” Nguyễn Công Hoan là người không viết theo chiều gió, mà viết theo lý tưởng của mình, có nghị lực, có lòng dũng cảm…”. “ Có lòng dũng cảm” mà lại viết lách ngu ngơ đến thế ư ? Thì ra trí khôn của bác nhà văn nằm ở …cái gan. Chỉ tiếc cái gan của bác hơi bị bé nên sự nghiệp văn chương theo cách mạng của bác cũng chẳng có gì là…lớn.


II. Chén rượu tình rừng cay đắng lắm

Vào một chiều tại khu sơ tán bom Mỹ của Hội nhà văn VN, nữ văn sĩ Nguyễn thị Ngọc Tú đang lúi húi … rán cá- thứ của hiếm, trước cửa phòng, ngẩng lên chợt thấy bác Nguyễn Tuân đứng lù lù với chiếùc mũ “phớt” và hàng râu muôn thủa. Bác cầm can chỉ chỉ :” Con này chín non …Chị lật con kia lên kẻo cháy…”. Giá như là người khác hẳn đã xơi một chiếc guốc và đuổi đi chỗ khác, nhưng với bác Nguyễn Tuân, nổi tiếng “ ngông” nên chị Ngọc Tú chỉ cười cười.

Đã có rất nhiều bài viết về cái “ngông” của bác Nguyễn . Sau Cách mạng năm 45, cái “ngông”, cái văn chương “nhâm nhi , tỉ mẩn” trong những “Hương cuội”,” “Thả thơ”,” Đánh thơ”, ”Những chiếc ấm đất”… mang vào sáng tác cho quần chúng công nông binh, chẳng hiểu bác Nguyễn sẽ phải uốn éo ra sao đây ? Thật đáng lo thay. Sau này, Nguyễn Tuân tâm sự :“Giả sử bây giờ tôi còn trẻ, có lẽ tôi xin đi học ngành y làm thày thuốc , vì làm cái nghề văn này sợ lắm…”.

Sợ thật đấy chứ, đường đường một đấng “ phù thuỷ chữ nghĩa ”, “ ma thuật ngôn từ”, theo cách mạng được đôn lên ghế Chủ tịch Hội Văn nghệ, vậy phải “công nông hoá ngòi bút” sao đây để “lãnh đạo tin cậy”, cho dù trong lớp chỉnh huấn đã bày tỏ lập trường “ rũ bỏ con người cũ” bằng cách …treo cổ mớ bản thảo ngày xưa, từ bỏ “những đứa con tinh thần” vốn làm bác nên danh. Thế là Nguyễn Tuân xắn tay áo lên “nhả chữ”, mở đầu sáng tác cách mạng bằng tập “ Tuỳ bút kháng chiến” trong đó tiêu biểu là “ Đuốc dân công tiếp vận”.

Để tăng khí thế cho bài ký, bác viết : “ Hôm nay tôi kể chuyện một con đường thóc đêm đêm rầm rập bước chân người…bao nhiêu người bần cố nông gánh gạo về ngàn. Thật là vĩ đại. Không biết bao nhiêu là con số…Trên vai mỗi người còn đèo thêm một bó đuốc….Tôi cảm thấy đây là lần đầu tiên , nước Việt nam chúng ta đốt đuốc đi đêm một cách vĩ đại, huy hoàng…”.

Thật là vĩ đại, thật là huy hoàng, chỉ tiếc nó mới được hô lên từ…cổ họng, đại ngôn để xuê xoa cái nghèo cảm xúc. Cũng theo cách đó, ông mạt sát dân “vùng tề” :”Tôi nghĩ đến một cơn lốc khổng lồ lật ngửa những mái gianh đang úp vào mặt bùn kia, hút ngược bao nhiêu nhố nhăng kia lên giời và quét sạch cái không khí dịch tễ của nơi này đi…”, và chửi Pháp :” Chiều tà Việt bắc Đông bắc rừng rực lên những đồn Pháp, chiếu ống nhòm như những mâm cà độc dược, như những kim tự tháp loét ngọn…” .

Không còn “ngông”, cũng chẳng còn “nhâm nhi”, “Tuỳ bút kháng chiến” của Nguyễn Tuân, “quả mùa đầu” cho cách mạng, sau này được hai Giáo sư “chuyên gia nâng bi” là Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức reo mừng :” Sau Tuỳ bút kháng chiến, ta đã có một công dân Nguyẽn Tuân bên cạnh một Nguyễn Tuân nghệ sĩ, một cán bộ Nguyễn Tuân hoà hợp với một nhà văn Nguyễn Tuân”. Thế là khỏi lo “con bò trắng răng”, Nguyễn Tuân - chàng lãng tử ngông nghênh đã bỏ thói “nhâm nhi tỉ mẩn” , mài nhẵn xù xì gai góc, dọn giọng hót được cho bần cố nông nghe, trở thành “nhà văn cán bộ”, vượt quá yêu cầu của Đảng.

Vậy nhưng ‘cái nết đánh chết không chừa”, trở về Hà Nội sau năm 1954 có rượu tây, có ánh đèn xanh đỏ, có dáng “kiều thơm” …; bệnh “ngông “ trong Nguyễn Tuân lại tái phát. Vậy ông đã “ngông” như thế nào ? Trong khi cả thiên hạ đang phải gân cổ lên ca bài “ chống chủ nghĩa cá nhân”, làm việc quên mình vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1957, Nguyễn Tuân lại chơi ngông, nhâm nhi, tỉ mẩn luôn một bài… “Phở”. “Thật ra ăn phở cho đúng , đúng cái “gu” của phở, phải ăn thịt chín. Thịt chín thơm hơn thịt tái, mùi thơm miếng thịt chín mới biểu hiện đúng cái tâm hồn của phở…”

Than ôi, cái “ngông của Nguyễn Tuân’ cũng mới ở mức độ vuốt ve con tì con vị, chứ chưa dám “ngông” thở than oán trách gì chế độ, ấy thế mà cũng đã bị ông trùm mác xít Như Phong choang cho một chuỳ trên báo Nhân Dân :” Ở Nguyễn Tuân , ưa phân tích cầu kỳ các cảm giác như vậy không phải chỉ là một phong cách văn chương mà còn là một lối sống ưu du, hưởng thụ mà anh muốn truyền bá. Có đặt cả quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân , mới thấy bài “Phở” hãy còn mang nhiều dấu vết của khuynh hướng nhảm đó…”.

Khổ nỗi, nhâm nhi con tì con vị là…nghề của chàng. Thôi thì không cho “nhâm nhi” miếng ăn , miếng uống thì ta “xơi” cảnh vật vậy, so với thiên hạ đang phải nhai “ con người mới xã hội chủ nghĩa” thì chàng vẫn còn…ngông chán. Thế là cũng năm 1957, Nguyễn Tuân viết “Cây Hà Nội” : “ Hà Nội của ta rất nhiều me, nhiều sấu với những trẻ em trèo me, trèo sấu ngày xưa. Nhưng bên cạnh những phố trồøng toàn me toàn sấu,còn những cây đứng lẻ tẻ khắp Hà Nội. Hoàng lan, ngọc lan, sữa, long não, gạo, lim , đại , đỗ quyên Nhật…”. Ba hoa về “cây”, nhưng chàng Nguyễn vẫn không quên gài một câu xỏ xiên về “người” :” Lắm lúc tôi muốn rộng lượng tặng huân chương cho một vài cái cây thủ đô vì một số công lao của chúng đối với cuộc sống hàng ngày của người Hà Nội.

Anh tưởng chỉ có một số người nào mới có công lao thôi sao…Anh họp nhiều quá, lâu quá, cây đẹp không đợi được anh mãi…”. Cái mẹo đó sau này được đúc kết lại thành “thủ pháp nghệ thuật’ có tên là “gài mìn” nhiều năm sau được một số cây bút trẻ học lỏm. Hết “cây” lại đến “hồ”, mượn lời một chị Ba Lan, Nguyễn Tuân mệnh danh “Con hồ Thủ đô” là một …viên ngọc êmơrôt “nằm giữa một cái nền hộp nữ trang bọc nhung xanh hồng, kẻ đường con cờ…”. “ Êmơrôt” là cái quỷ gì quần chúng công nông làm sao biết ?

Thôi thì bỏ qua cái tội quên lời Bác dặn “viết sao cho dễ hiểu”, nhưng cái “lỗi” “lan man , lẩn mẩn” thì vẫn còn đó. “Một hôm tôi đang nhìn hai cô cân táo đen táo đo ûbán lẻ, tôi đang nhìn bà quay kẹo bông cho trẻ em, tôi đang nghe cái ông đội mũ rạ rách thuyết minh cho cái ống dòm thời sự chiến tranh của ông đỗ ở xế ga tàu điện cũ bờ hồ, bỗng thấy nhớ mấy cây lộc vừng năm nào vẫn soi bóng xuống hồ…”. Rõ chuyện tầm phào, “mậu dịch viên nhà nước” đâu hết toàn “tả” tư thương để mà nhớ về ‘quá khứ” ?

Có lẽ chợt nhận ra “lỗi” này, Nguyễn Tuân vội vàng bày tỏ lập trường: “ tổ chức tết trung thu Độc lập cho các em thiếu nhi quanh hồ phá cỗ” và rồi hăng lên bốc phét “trong những ngày vui ấy, một anh bạn tôi đã hồi sinh lại với thời đại đã vứt tõm xuống hồ Hoàn Kiếm một khẩu súng lục, nhất định từ bỏ ý định tự sát vẫn ám ảnh mình, một chị bạn tôi cũng vứt xuống lòng hồ một cái hộp sắt hàn thiếc trong ấy có cả một cuốn nhật ký một người đẹp sắp phát điên…”. Cách mạng cảm hoá người ta ghê gớm chưa, một anh sắp tự tử vứt cả súng, một chị chán đời quăng cả nhật ký xuống hồ. Bác Nguyễn “hư cấu’ thế này đến con nít cũng chẳng tin.

Ấy thế rồi để tăng thêm ‘tính cách mạng” cho bài viết, xuê xoa đi những chỗ “tầm phào”, bác Nguyễn lên giọng “chính trị”. Nào “ Đối với con người Hà Nội, đối với thủ đô năng suất gấp trăm gấp ngàn thành phố khác trên đất Việt Nam , hồ Gươm như là một người bạn thân thiết…”, nào “hồ là lá phổi làm thắm tươi dòng máu đập nhanh của gần nửa triệu con người thủ đô Hà Nội đang hàn gắn, chắt chiu và vững tâm xây dựng…”, nào ” Với anh chị em tập kết Trị Thiên, Khu năm, Nam bộ, có lẽ hồ Hoàn Kiếm còn thân mật hơn với tất cả chàng trai và cô gái sinh trưởng ở Hà Nội…”.

Than ôi, giọng văn khinh bạc của bác Nguyễn đâu rồi ? Còn lại một thứ “tả cảnh” của học sinh phổ thông làm luận “ Em hãy tả hồ Hoàn Kiếm. “. Mạt sát “phong kiến đế quốc” và “ tung hô cách mạng” từ nay đã trở thành cảm hứng chủ đạo xuyên suốt văn chương chữ nghĩa của chàng. Trong “Từ Tân thế giới mà về”, ông tả bà con khi rời Việt Nam:”…ở đâu phe phẩy ngọn cờ vàng ấy thì nơi đó ngày đêm nổi dậy tiếng than khóc mếu ly tán, vợ tiễn chồng, con tiễn cha.Tiếng khóc sinh ly dưới cờ vàng mà thảm hơn cả những tiếng tử biệt…”, ăn uống ở Tân Thế giới thì :” cá khô mủn ra như mạt cưa, một quả trứng luộc cho cả chục người ăn (sic) thịt trâu đánh đàn và rau muống thắt lưng được (hi hi)…”, khi bà con trở về quê hương đã vào ”cái thế kỷ lớn lên của chủ nghĩa cộng sản, cái thế kỷ của Liên xô đưa người hoà bình lên tinh cầu vũ trụ” và bởi thế bà con cực kỳ xúc động :”

Thật là sống lại. Lúc đi cũng chả nghĩ được ai là tốt ai là xấu. Nay về , thấy mọi người đều thân hơn cả ruột thịt. Giờ được về thấy nước như non tiên…”. Và rồi nhà văn Nguyễn Tuân “tưởng tượng “ : “Tôi không theo đoàn đại biểu kiều bào lên Hà Nội gặp bác Hồ nhưng tôi không khỏi hình dung, tưởng tượng nhiều tới buổi gặp gỡ này.

Chủ tịch nước chúng ta 70 tuổi thọ. Cụ già phu mộ Tân thế giới 80 tuổi chẵn. Cụ Hồ thì chủ động xuất dương mà bôn ba khắp châu này biển nọ mưu hạnh phúc cho tất thảy những người đau khổ thế gian, trong ấy có người đau khổ đi phu Tân Thế giới…” Khi viết những dòng hào sảng, đầy cảm hứng này, không hiểu bác Nguyễn có biết số phận những Việt kiều Tân đảo này rồi đây sẽ mất hút trong những vùng kinh tế mới trên núi rừng Tây Bắc xa xôi ?

Trí tuệ sắc sảo như nhà văn Nguyễn Tuân ắt phải biết nhưng viết thế thì vẫn cứ … phải viết. Chứ còn biết làm sao ? “Văn học nghệ thuật là vũ khí của Đảng, mỗi nhà văn là một chiến sĩ trên mặt trận văn hoá…văn học phải phục vụ chính trị…” Ta có thể thông cảm hoàn cảnh khắc nghiệt của các nhà văn Việt Nam khi phải đội trên đầu “cái vòng kim cô” đó mà bất kỳ ai cũng có thể đọc “niệm chú” cho kẻ đang đội nó phải thân tàn ma dại.

Vậy nhưng khác với Tôn Ngộ Không bị buộc phải đội, trong cái chợ văn chương xã hội chủ nghĩa, ai muốn vào thì vào, ai muốn ra cũng chẳng cấm, bất kỳ nhà văn nào muốn từ chối danh hiệu “ người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ” đều có thể xếp bút nghiên theo việc cày bừa, nhà văn có thể tháo cái “vòng kim cô” trả lại Đảng kiểu như nhà thơ Hữu Loan từ bỏ Hội Nhà văn về làm ruộng, Đảng còn mừng nữa là khác.

Với Nguyễn Tuân thì khác, ông “ngông” ở đâu không biết chứ trên “mặt trận văn hoá văn nghệ” ông “phục vụ chính trị” vào loại xông xáo nhất, hăng hái nhất trong các nhà văn “tiền chiến”. Thử coi Nguyễn Tuân tả Lê Duẩn giảng bài : “ Hình ảnh “ thày học “ ( Lê Duẩn) hửng dưới rặng hoa mơ hoa bưởi trắng, nở bên những mái gồi, trên những con đường thấp thoáng quần áo xanh lam dặm. Càng ngày càng hiểu thêm ra thấy rõ chủ nghĩa Mác là mùa Xuân của loài người. Càng thấy mình trẻ lại trong sự giáo dục ân cần của Đảng..”.

Thật khó ngờ rằng mãi đến những năm thập kỷ 60, ông nhà văn Nguyễn Tuân vẫn tràn đầy cảm xúc “mùa xuân của chủ nghĩa cộng sản” trong khi trước đó rất lâu , André Gide đã viết “ Retour de l’URSS”, Koetsler đã viết “ Le zero et l’infini” , nhà văn Nga Bulgakov đã viết “Trái tim chó”, Pasternack đã có “ Bác sĩ Dzivago”, nhà báo Proust đã lật tẩy :” chủ nghĩa cộng sản là sự đánh đồng cái cao thượng và cái ti tiện” , “Câu lạc bộ Petophi” ở Hunggary đã sôi nổi đòi thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa đó. Không lẽ trí óc lỗi lạc của ông nhà văn không mảy may tiếp nhận những tia hồi quang của những người tiên phong cùng thời đó ? Rồi cũng năm đó, ông tả hai cái xác chết của Lê Nin và Staline : “ Tôi cảm thấy như những cặp lồng mày, lông mi sắp sửa chớp chớp và tất cả ở đây sắp được nghe thêm một lời nói rất mới rất nhẹ.

Một vừng sáng hồng toả lên từ hai khuôn mặt trong lặng. Đấy là thần thái của những người sống, người còn sống. Đấy là thần thái của những vĩ nhân thế giới đã thức chọn một đời và trong lúc nhân loại ngày nay đã đi mạnh được trên cái đà của chủ nghĩa cộng sản thì Người đã yên tâm chợp mắt trong giây lát…

Người nghỉ đây nhưng người đã hoá thân vào trong tâm não của cả nhân loại…Người đã thành tên tuổi của một kỷ nguyên mới, của một nền cảm xúc mới và một nếp lạc quan mới…” Người ta có thể tin chắc nếu được dịch sang tiếng Nga cho nghe, hai đồng chí lãnh tụ tối cao đang nằm trong quan tài pha lê cũng phải nhổm dậy cười hô hố :” Thằng nào hót hay thế?”. Khổ nỗi không hót “hay” như vậïy, lần sau “nó” cắt xuất không cho đi tham quan các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa nữa thì…nguy. Bởi vậy ở một chỗ khác, NT lại “bốc phét” : “ Tuyết sẽ trùm lên hết Cung điện Mùa Đông Pêtôgrat. Nhưng lửa nghị lực và sức làm việc nóng sôi của Lênin ở lều đây sẽ làm tan khối băng tuyết…”.

Í trời ơi, lửa của lãnh tụ nóng như vầy không khéo đốt cháy cả nhân dân Nga. Thế rồi được uống rượu Vodka nhắm với trứng cá hồi, ông nhà văn lại ba hoa về tượng Staline :” Người nhìn ra xa , nhìn chủ nghĩa cộng sản đang hình thành giữa trời nước Liên xô bát ngát. Sta-lin to cao bình tĩnh như một ngọn đèn bể. Gió bể Cát-piên cuốn bụi dưới chân Người . Người đuổi theo những ý nghĩ lớn. Sta-lin không nói . Sta-lin lặng im như một pho tượng sống…Vây quanh lấy Sta-lin , cuộc sống tưng bừng xây dựng của Stalingrát và của cả Liên bang xô viết đang nói to lên những điều Sta-lin lặng nghĩ trên ngã ba sông…”.

Tượng đá mà còn biết nghĩ, và những ý nghĩ đó còn được cả bàn dân thiên hạ nói to lên, thì quả thực “nghề này phải lấy ông này tiên sư”. Nguyễn Tuân là tấm gương tiêu biểu cho phẩm chất “ Tuần chay nào cũng có nước mắt” của các nhà văn Việt Nam. Hồi đầu Cách mạng tháng Tám, ông đã có “Lột xác”, “ Ngày đầu tuổi tôi cách mệnh”,” Trên đường đến với Đảng”….Thật chẳng ai ngờ, mới ti toe làm cách mạng , Nguyễn Tuân đã mượn lời “Thần cách mệnh” thở ra giọng sắt máu :” Ta là kết inh của Bạo Phá.Ta là cái chổi quét mạnh vào những thứ nhân nghĩa không khoa học.Ta khai chiến với hiện tại. Ta là Hồng Hài Nhi của cuộc đời rơm cỏ bây giờ. Đối với cái khối của cải bất nghĩa, ta là cốt mìn, ta là bom nguyên tử. Ta đốt, ta quật ta phá, ta tạo ra tan rã, ta ngự trị lên cuộc đời mâu thuẫn .

Ta là lịch sử. kẻ nào nghịch với ta, ta giết…” ( nhạc kịch “Cỏ Độc lập”). Ghê gớm chưa , rõ ra là giọng “trí, phú, địa , hào đào tận gốc trốc tận rễ” từ thời xô viết Nghệ Tĩnh đã nhiễm sâu vào máu chàng lãng tử họ Nguyễn. Rồi để ca ngợi Đảng trong kháng chiến chống Pháp ông có “ Đuốc dân công tiếp viện”, “ Thắng càn “, “Đường vui” ,” Tình chiến dịch”,”Tuỳ bút kháng chiến”…Vào thời kỳ cải cách ruộng đất , bao nhiêu máu và nước mắt của hàng trăm ngàn người chết oan chẳng mảy may làm Nguyễn Tuân buông một tiếng thở dài, ông cứ ngó lơ cái bi kịch có tầm vóc dân tộc ấy để mà đấu hót ca ngợi công ơn Đảng và Chính phủ đã cho “người cày có ruộng” trong những “ Làng hoa”, “Tổ đổi công Chị Nhì ở Phú Yên”…, hoặc chửi rủa địa chủ phong kiến trong “Tây Bắc căm thù”,”Bóng nó còn đè lên xóm làng…”.

Chỉ nội trong chuyến được Đảng cho đi tham quan Liên xô, Nguyễn Tuân đã “hót” lia lịa cả loạt bài :” Lăng và hồ Lênin”” Về Stalingrát” “ Thăm nhà máy cày”. Nhân “Liên xô kỷ niệm Cách mạng tháng Mười được chẵn năm mươi năm”, Nguyễn Tuân ao ức :” Tôi muốn tôi được hoá thân làm một ngòi pháo cây bông lửa màu soi mình suốt đêm thâu đo trên pha lê tuyết ngần của Mạc Tư Khoa tôi hằng quý mến, của Lêningrát tôi hằng nhớ thương…”.

Ôi chao, tình thương mến thương quê hương cách mạng Tháng Mười của Nguyễn Tuân rào rạt đến như vậy thì còn có nhà văn nhà thơ thế giới nào hót hay hơn được nữa ? Chỉ tiếc chưa đầy hai chục năm sau, “kiểu đấu hót” này đã bị Ngài Putin vứt vào thùng rác của lịch sử. Được đi thăm Trung Quốc , Nguyễn Tuân ca ngay một tập “Bút ký Trung Hoa” trong đó có cả loạt bài, nào “Cung thiếu nhi”, nào “Ngày Quốc tế thiếu nhi tại Bắc Kinh””Xưởng máy dệt gai ở Cáp Nhĩ Tân”” Gang thép khu Đông Bắc và người công nhân Trung Hoa”” Xưởng máy mẫu cơ ở Thẩm Dương”” Làng ngoại thành Bắc Kinh” “ Sân khấu Trung Quốc”…ở đâu cũng thấy Nguyễn Tuân đề cao công ơn của Đảng cộng sản Trung Quốc mang tới cho nhân dân Tàu.

Chẳng chịu kém thi sĩ Chế Lan Viên trong hai câu thơ để đời : “ Bác Mao nào ở nơi xa… Bác Hồ ta đó cũng là bác Mao…” Nguyễn Tuân cũng phóng bút :” Trong cuộc sống tưng bừng ngày nay của Trung Quốc có Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Hoa luôn đem vui tươi ấm no đến cho nhân dân , tôi cảm thấy cây liễu đã trổ hoa thật và bóng liễu ngày nay xanh rờn bắt nắng hơn bao giờ hết…” .

Ôi chao ôi, công ơn Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Quốc cao đẹp đến nỗi cây liễu cũng ra hoa thì thật là bốc phét đến … tàu cũng phải cười. “Nhà tiên tri giả” Nguyễn Tuân liệu có biết chỉ không đầy chục năm sau, Mao Chủ tịch và Đảng cộng sản Trung Quốc đã dìm chết cả chục triệu người vô tội trong biển máu của “Cách mạng văn hoá” ?

Vậy nhưng bổng lộc Hội nhà văn Việt Nam đâu có nhiều cho Nguyễn Tuân “xê dịch” khắp thế giới dẫu đã tình nguyện làm con hoạ mi ca ngợi chủ nghĩa cộng sản, Và dường như Đảng đã nhận ra chàng Nguyễn “đấu hót” về tình quốc tế vô sản vĩ đại như thế đủ rồi nên “mời” chàng lên rừng để làm nhiệm vụ “tuyên truyền chính sách đại đoàn kết dân tộc” và chẳng ai ngờ, dẫu phải rời đất thánh Hà Nội, chàng cũng đã hoàn thành công tác một cách xuất sắc…. Đó là vào dịp đi thực tế sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm.

Thực ra trong vụ này, Nguyễn Tuân cũng có “tham gia “ vài bài như “Quanh việc phê bình tờ báo Văn, Phê bình nhất định là khó, Tìm hiểu Sê-khốp, Cây HàNội v.v.” nhưng cũng chỉ ở mức độ “em xin thưa lại với Đảng” kiểu như “ tình trạng lệch lạc trên mặt sáng tác của báo Văn là do trình độ yếu” hoặc “ đến với nghệ phẩm , anh đến với nó mà anh tham lam quá đáng hoặc hung hăng một cách không cần thiết thì nó biến mất” …thượng số chỉ thế , chứ chẳng phải đòi tự do sáng tác, dân chủ xã hội gì ghê gớm như bà Thuỵ Khuê đã viết trong “Thi pháp Nguyễn Tuân” : “Thời kỳ Nhân văn giai phẩm, Nguyễn Tuân trở lại với tính nghệ sĩ cứng đầu, viết những bài tiểu luận khá ngang tàng, phê bình chế độ và một số lãnh đạo văn nghệ “.

Ôi chao là ngộ nhận, bởi lẽ ngay sau khi được đồng chí Như Phong ( GĐ NXB Văn Học) uốn nắn trên báo Nhân Dân, đầu chẳng cứng mà khí phách cũng chẳng ngang tàng (từ sau cách mạng chưa bao giờ chàng có được cả hai phẩm chất này để mà “trở lại”), Nguyễn Tuân sám hối ngay một bài “ Nguyễn Tuân tự phê bình” in trên Văn Nghệ, tự nhận “hồi Nhân văn Giai Phẩm tôi đã có sai lầm hữu khuynh…”,”trong lòng mình thẩm lậu một con đê chưa hàn khẩu” (riêng câu này, bà Thuỵ Khuê có thể dùng để minh chứng thêm cho cái bà gọi là “thi pháp Nguyễn Tuân”, nhưng “thi pháp” nào cũng còn có ý nghĩa gì khi nó gói ghém một điều giả dối ?), thành khẩn không thua gì trong “Lột xác”, báo cáo thu hoạch sau đợt học tập chính trị hồi còn ở Việt Bắc.

Tuy nhiên lần này có khác, lần này kiểm điểm xong, Đảng mời Nguyễn Tuân “đi thực tế mãi trên Điện Biên” và lại còn dặn dò :” Các đồng chí mắc sai lầm lần này phải cố gắng đi thực tế…”. Những tưởng cái “ngang tàng, cứng đầu” trong con người Nguyễn Tuân vùng dậy mà quăng đi cái mũ cối bị chụp lên đầu, hoặc chí ít cũng có một lần thở dài trong trang viết của mình, nào ai có ngờ , những bài viết của Nguyễn Tuân trong đợt đi thực tế này lập tức được các nhà văn hoá của Đảng vỗ tay reo mừng .

Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ sốt sắng :” Chưa bao giờ câu văn Nguyễn Tuân có được cái âm điệu hùng tráng vui tin và lạc quan đến thế. Đáng quý ở đây là sự hoà hợp với cuộc sống mới xung quanh , ý thức đóng góp phần mình vào cái công trường không lồ của chủ nghĩa xã hội”. Nhà nghiên cứu Trương Chính khẳng định :” Chính trong chế độ mới, ông đã tìm ra con người chân thực của ông”.

Nhà văn Nguyên Ngọc cũng tâng bốc :” …tôi muốn chào mừng ở anh Nguyễn Tuân một cách đứng mới, một vị trí mới, không những chỉ là một vị trí mới của anh trong tác phẩm mà trước hết là một vị trí mới của anh trong cuộc sống mới. Anh đã nói rất nhiều , rất say sưa về những con người mới mà lòng hy sinh cao cả của họ đã hiến dâng hết cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội..” Tập “Tuỳ bút Sông Đà”của Nguyễn Tuân viết sau đợt đi Tây Bắc đã được dán rất nhiều tem đỏ kiểu như thế.

Bởi lẽ , vượt cả yêu cầu của đồng chí Tố Hữu, ông đã coi những người bị đầy đi làm kinh tế mới, những công nhân đập đá vá đường trên những vùng rừng núi xa xôi, heo hút là “những thỏi vàng của một khối vàng xã hội chủ nghĩa Đảng ta đem đầu tư vào Tây Bắc”. Niềm tin yêu Đảng lúc này chẳng biết thực hay vờ làm Nguyễn Tuân cất lên những dòng viết đầy hào sảng :” tâm hồn tôi đã in sâu và vang động tất cả cái ý thức xã hội chủ nghĩa của người đi mở đường miền Tây”,”Tiếng máy nổ của kế hoạch kinh tế sẽ trùm lên tiếng cối nước.

Ba năm chưa được thì lại năm năm và cuối cừng là rừng ở đây sẽ quấn quanh lấy người , lấy hơi người , mười đầu ngón tay con người sẽ giao hoà với cuống hoa đầu quả, hoa không còn là hoa ngàn vô định, cỏ cũng không còn là cỏ dại dặm dài . Hoa chẩu , hoa các cây công nghiệp, cây ép dầu , cây bóng mát, cây ăn quả sẽ đua tươi với mọi thứ hoa hương và hoa sắc. Hẳn vì đã thấy trước cái triển vọng thơm ngọt tươi thắm ấy của lũ chúng ta ngày nay trên con đường lớn này, mà trên đồi ngục Sơn La, từ những ngày hoa cỏ bị dập vùi, các đồng chí tiên liệt Đảng ta đã tượng trưng giồng lên mấy gốc đào…”

Ôi chao ôi là chàng Nguyễn, lên cơn “thi pháp Nguyễn Tuân” mà vẫn không quên cả cây đào của đồng chí Tô Hiệu, tiền bối cộng sản, trồng ở nhà ngục Sơn La ngày trước. Chỉ tiếc không đầy 20 năm sau giá như ông lại ngược sông Đà chuyến nữa để thấy các đồng chí cán bộ Đảng tại nơi ông đã đi qua cùng với đám lâm tặc phá rừng như thế nào – hơn 10 triệu ha rừng nguyên sinh, rừng gỗ quý, rừng phòng hộ đã bị chặt nát để biến thành những “phủ” lộng lẫy, những tiện nghi sa hoa, những xe hơi đắt tiền .

Ngày nay đọc lại những “ Sông Đà”,” Tờ hoa”, “Tình rừng “ của Nguyễn Tuân, người ta chỉ còn thấy đôi chút giá trị ở những tư liệu dư địa chí mà ông đã thừa nhận “ Tôi đọc ở Thư viện khoa học một bộ bảy quyển dày và to “La mission Pavie của một học giả thựuc dân Pháp viết rất kỹ về Lai Châu.

.Những kiến thức ấy cho tôi những trang viết sinh động trong tập Sông Đà…”, còn phần lớn là những trang tán nhăng tán cuội về những “con người giả” như anh bộ đội Điện Biên trở về quê “vận động cả gia đình lên Tây Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lấy núi rừng miền Tây làm quê hương thứ hai…” hoặc như anh cán bộ Phương, người kinh lên vùng cao công tác, được Nguyễn Tuân ca ngợi :” Cán bộ Đảng ta, nhất là ở Tây bắc, nhất là đối với một số đồng chí gây cơ sở ở vùng địch hậu cũ, cán bộ Đảng nó cứ như là một con dao pha ấy.

Vứt đâu cũng được, cái gì rồi cũng làm. Loay hoay ngày đầu , nhưng có ý thức trách nhiệm, rồi cũng tìm ra, vừa làm vừa học…”. Giá như Nguyễn Tuân thành thực với chính ông, chắc chắn ông sẽ thấy “ cán bộ Đảng ta” không phải là như vậy. Tuy nhiên, dẫu đã hót hay thế mà Nguyễn Tuân vẫn bị “bắt bẻ” trong “Tờ hoa”, “ Tình rừng” vì dám lên án kẻ đốt rừng. Ô hay, bác Hồ đã dậy :” Dẫu có phải đốt sạch cả dãy Trường Sơn để thống nhất đất nước thì vẫn cứ phải đốt ” rồi kia mà.

Bởi thế nhà thơ Xuân Sách mới làm thơ chân dung Nguyễn Tuân : “ Vang bóng một thời đâu dễ quên, Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên Chén rượu Tình rừng cay đắng lắm Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền” Sau hai “tai nạn nghề nghiệp” này , Nguyễn Tuân thôi không chơi “cảnh”, chơi “rừng” nữa, ông dứt khoát trở thành một chiến sĩ dùng ngòi bút làm vũ khí xông xáo trên mặt trận “chống Mỹ cứu nước “ : “ Cho giặc Mỹ ăn một cái Tết ta””Hà Nội ta diệt B52””Hà Nội giải tù Mỹ đi qua phố Hà Nội”… chửi Mỹ như một bà nhà quê mất gà.

Nào là “những tên phát xít Hoa kỳ hợm hĩnh về súng đạn và du côn du kề lộng hiểm” nào là :” từ lòng đường xông lên mùi của Thần Chết, một cái thứ khắm thối Hoa Kỳ mà không thứ nước huê đế quốc nào tẩy tan được…” nào là “Thằng Tổng thống kẻ cướp Mỹ ấy càng leo thang xâm lược càng nện dùi mạnh vào cái mặt trống hoà bình…””Nước Hoa Kỳ đã đi một lèo từ man rợ thẳng tới đoạ lạc mà không có thông qua giai đoạn văn minh, văn hiến nào…”.

Cứ như thế “ cơn bão ngôn từ” của Nguyễn Tuân lên tới đỉnh điểm ở bài ký nổi tiếng “ Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”. Trong bài này ngoài giọng chửi Mỹ xoe xoé, Nguyễn Tuân còn phủ lên cái chết tang thương của bao người Hà Nội một thứ “lạc quan cách mạng” phi nhân :” Chợ Ngọc Hà không phải là vỡ chợ mà là xác thù đã vỡ tan trên buổi chợ chiều”.

Ô hay , bom rơi xuống chợ, người chết, nhà cháy, toàn là dân ta cả, có “xác thù ” nào đâu mà nhà văn khéo tưởng tượng. Rồi thì “ cô gái trại hàng hoa vứt đó cái ô- doà sắp tưới vườn chiều, cầm vội tay súng…”, hi hi, chắc cô này không chồng, không con, không nhà, không cửa nên bom ném vào xóm là cầm ngay lấy…cây súng. Rồi thì “ Tôi đi giữa Hà Nội hôm nay đã chói thắm Huân chương Độc Lập hạng Nhất. Hà Nội phấn khởi đón mừng Huân Chương thi đua lập thành tích mới…Hoa sấu vẫn nở vãi vương khắp thủ đô tưng bừng chiến thắng…”.

Lậy đức Chuá nhân từ, máu đổ, người chết, nhà sập…bao nhiêu bi thương đó ông không thấy , chỉ thấy có “thành tích với huân chương” ? Phải chăng tâm hồn nghệ sĩ của “ thiên tài Nguyễn Tuân” ( nói theo bà Thuỵ Khuê) đã trơ như đá , rắn như sắt, cứng như thép mất rồi. Người ta có thể tôn vinh Nguyễn Tuân như một “phù thuỷ ngôn từ”, một “Thần bút và một thi pháp đặc biệt “ ( bà Thuỵ Khuê), người ta có thể ví ông như “một nhà làm xiếc chữ ở trên dây”, tiếc thay, từ sau năm 1945, cái dây đó đã đặt xuống đất rồi mà ông cứ vờ như nó vẫn dăng cao để ông cứ còn uốn éo mãi trên cả ngàn trang chữ.

Phải chăng đó là “thi pháp Nguyễn Tuân” ?



III. “ Cưỡi con dế mèn bay đi khắp thế gian…”

Sinh thời, ông trùm văn hoá mác xít Việt Nam, nhà phê bình văn học Như Phong “khái quát “ về nhà văn Tô Hoài vẻn vẹn trong có mỗi một câu :“thằng ngoại ô láu cá, văn chương đẽo gọt”.Văn chương thì khoan nói tới, nhưng về cái sự khôn lỏi, láu cá đầy phong cách tỉnh lẻ chỉ Hội nhà văn phải lấy “ông này tiên sư”. Thời bao cấp, được đi nước ngoài “tham quan, hội thảo, gặp gỡ” ( hồi đó chưa có từ “giao lưu”) là một mơ ước xa vời vợi đối với các bác có chân trong Hội nhà văn Việt Nam.

Bởi lẽ từ khâu đầu tiên được Ban đối ngoại Hội dự kiến, Ban thường vụ Hội duyệt rồi qua Bộ Nội vụ, Bộ Văn hoá, Bộ Ngoại giao rồi tới Vụ Văn Nghệ, Ban tuyên giáo trung ương , Ban bí thư…là cả một “con đườùng sấm sét” với muôn vàn trắc trở. Cử ai đi chứ cái thằng cha X. này phải coi lại nhé. Nghe nói tư tưởng “có vấn đề ”.

Nghe nói phát ngôn lung tung. Nghe nói viết lách không rõ ràng…Bằng ngần ấy ông “gác cửa”, chỉ cần một ông “ phán cho một câu” là rớt đài…đợi chuyến sau. Âùy vậy mà lọt qua được bằng ấy cửa tử rồi, vẫn cứ phải chờ “anh Lành “ ( tức đồng chí Tố Hữu ) gật cho một phát mới gọi là tạm yên tâm và bắt đầu hồi hộp chờ nhận comlê, cavát cùng là hộ chiếu, vé máy bay đợi ngày xuất ngoại.

Hội nhà văn Việt Nam hồi đó có hơn 150 Hội viên mà hàng năm chỉ có dăm bảy suất đi nước ngoài, bởi vậy đó là cuộc đấu tranh sinh tử, giành giật âm thầm và quyết liệt chẳng thua gì vũ đài quyền Anh. Nhà văn nổi tiếng và có nhiều tác phẩm giá trị như Nguyễn Thế Phương, tác giả tiểu thuyết “Đi bước nữa”, “Đào chèo”…mà đến tận cuối đời mới được một xuất đi Trung Quốc ngắn ngày, còn nhà thơ Quang Dũng, từ “ Đôi mắt người Sơn Tây” tới “Nhà Đồi” , viết lách cũng tới cả ngàn trang văn học cách mạng mà …chưa ra khỏi biên giới lần nào.

Ấy thế mà riêng Tô Hoài, tổng kết lại trong thời bao cấp ông đã xuất ngoại tới … 105 lượt( một trăm lẻ năm ), đủ các nước Á, Âu, Mỹ , Úc, Phi…, mà sự nghiệp của bác xem ra đỉnh cao nhất cũng chỉ là truyện vừa “Dế mèn phiêu lưu ký”. Bởi thế dân gian mới có câu : “Đảng đoàn là Đảng đoàn Thông, Ở đâu có rượu là ông tới liền Đảng đoàn làø Đảng đoàn Hoài, Hễ đi nước ngoài là có ông ngay…”

Hồi đó ông nhà thơ Hoàng Trung Thông và ông nhà văn Tô Hoài đều có chân trong Đảng đoàn Hội nhà văn Việt Nam . Các bác Hội viên “ cả đời chưa một lần đặt đít lên ghế tàu bay” phải ca cẩm :” cái thằng ranh ma thế , có mỗi con dế mèn mà bay khắp thế gian” .

Xem vậy đủ hiểu bác Tô Hoài luồn lách, chen lấn , đội đạp phải cỡ cao thủ võ lâm mới lập kỳ tích số lần đi nước ngoài đáng đưa vào Ghi-Nét Hội nhà văn Việt Nam như thế. Vậy nhưng cái tính “ngoại ô láu cá” ấy của bác Tô Hoài chẳng phải do cách mạng hun đúc nên mà ngay từ hồi còn phong kiến đế quốc bác đã mang nó rồi. Ngày nay đọc lại “Dế mèn phiêu lưu ký” mới thấy “anh Sen làng Nghĩa Đô” ( tên thật của tô Hoài) đã ranh ma từ độ ấy, mới giật mình, sao chú dế oắt “ngoại thành” này “khôn lỏi” thế ? Lo toan cho cái thân mình thế ?

Mới nứt mắt chú đã : “Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn làm thành cái giường ngủ sang trọng. Rồi cũng lo xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những ngách thượng, phòng khi gặp việc nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được…Bởi ăn uống điều độ, làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm…”

Quân tử “phòng thân” từ thủa ấu thơ kỹ lưỡng vậy trách gì khi trưởng thành chẳng rút ngay bài học “chui tọt ngay” vào hang sau khi lớn giọng trêu chị Cốc “ vặt lông cái Cốc cho tao, tao nấu tao nướng, tao xào tao ăn” để mặc thằng Dế Choắt bị chị Cốc “giận cá chém thớt” mổ cho đến chết, trong lúc đó Dế Mèn ta “ lên giường nằm khểnh, vắt chân chữ ngũ”, thây kệ thằng Dế Choắt ăn đòn thay mình. Sau này, trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm, cho dù chàng Dế Mèn chẳng dám chọc tức Đảng câu nào, nhưng cũng “tự đấm ngực nhận lỗi” trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng 3 năm 1958 : .

“Tư tưởng xấu của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm đã tiếp tục len vào cơ quan của Hội nhà Văn, trên báo Văn, gây nhiều tác hại. Quan niệm mơ hồ của tôi, khách quan đã tạo điều kiện cho khuynh hướng tư tưởng nhóm ấy lợi dụng diễn đàn báo Văn và một số cơ quan khác của Hội Nhà Văn như nhà xuất bản, câu lạc bộ, đã gieo rắc quan điểm chính trị và nghệ thuật nguy hại. Sự yên tâm vô lý của tôi trước tình hình đó là do tôi đã hầu như không để ý rằng miền Nam còn nằm trong lưới đế quốc Mỹ. Bộ máy chiến tranh tâm lý của Mỹ Diệm ngày đêm tìm mọi cách gieo rắc tư tưởng thù địch để phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc của chúng ta.

Trong văn học hiện nay không thể quên mỗi tư tưởng đều hoặc có lợi cho ta hoặc có lợi cho địch. “ Rồi thì thây kệ “chị Cốc” cứ “mổ” la liệt các “ chàng Dế Choắt” : Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán… đuổi đi đào đất, vác than. Chàng Dến Mèn chui tọt ngay vào cái hang “ đề tài miền núi” viết toàn chuyện “quan thống lý Pá Tra” đàn áp , bóc lột “vợ chồng A Phủ” tức “người Mèo ta khi chưa có Đảng”, tránh xa mọi chuyện hiểm nguy nới phố thị, tha hồ cho “chị Cốc” hoành hành, chàng cứ ung dung “toạ hưởng kỳ thành”, vắt chân chữ ngũ lâu lâu lại “cưỡi con dế mền ” bay đi tham quan nước bạn.

Thành công đó là nhờ Tô Hoài đã rút “kinh nghiệm” của chú Dế Mèn ngày xưa : “Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ, sớm muộn gì cũng mang vạ vào thân”. Cái đám Nhân văn Giai Phẩm kia đúng là “hung hăng bậy bạ”, “có óc mà không biết nghĩ” , “ Ôi thôi, chú mày ơi. Chú mày có lớn mà chẳng có khôn” (lời Dế Mèn dậy Dế Choắt) thì bị Đảng cho ăn đòn còn oan nỗi gì ? Phải khôn ranh, láu cá thì mới giữ được thân, hưởng lộc dài dài, chẳng thế mà hiền lành như nhà văn Bùi Hiển cũng phải than :” Tôi lại có cảm giác là anh ( Tồ Hoài) có khuynh hướng hơi e ngại, hơi dè chừng…”.

Giống như chú Dế Mèn trong suốt cuộc phiêu lưu , chẳng thấy “hành hiệp giang hồ”, đánh kẻ mạnh cứu kẻ yếu đuối, toàn đi “chọi “ với Cào Cào , Châu Chấu …mà cứ hễ thua là bỏ chạy, Tô Hoài cũng vậy, suốt cả mấy thập kỷ ngồi ghế “lãnh đạo văn nghệ” (hết Hội nhà văn Trung ương lại tới Hội nhà văn Hà Nội), bao nhiêu nhà văn Hà Nội bị “Cốc mổ” như Xuân Khánh, Châu Diên, Vũ Bão, Lê Bầu…mà chưa lần nào thấy ông Dế Mèn lên tiếng bênh vực đàn em, chưa kể có khi còn xúi “chị Cốc” mổ thêm cho chết. Hoá ra “ triết lý con lươn” của Nguyễn Khải – cứ gặp rắc rối là tiết chất nhờn lủi mất, còn thua xa bí kíp “chui tọt xuống hang” của bác Dế Mèn. Cứ chữ “thọ” đeo sau lưng, Nhân văn –Giai Phẩm lủi lên Tây Bắc, Mỹ đánh miền Hà Nội , chuồn lên rừng… cứ thế làm gì bác chẳng lập kỷ lục Ghi Nết “hễ đi nước ngoài là có ông ngay”.

Vậy nhưng “cứ tọt xuống hang” vậy rồi sự nghiệp văn chương chữ nghĩa của bác rồi sẽ đi về đâu ? Nhìn vào bản liệt kê các tác phẩm đã xuất bản của Tô Hoài, ta phải ngả mũ bái phục về khối lượng đồ sộ của “lão nhà văn” tuổi ngoài tám mươi vẫn viết không ngưng, không nghỉ : “Lão đồng chí, Núi cứu quốc, Ngược sông Thai, Đại đội Thăng Bình, Xuống làng, Truyện Tây Bắc , Khác trước, Võ tỉnh, Người ven thành, Mười năm, Miền Tây,Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ, Những ngõ phố, Người đường phố, Thành phố Lêningrat, Trái đất tên người, Kim Đồng, Vừ A Dính, Ông Gióng, Con mèo lười, Trâu húc, Đảo hoang,

Sự tích Thăng Long, Nhả chữ vân vân…” và gần đây nhất là hồi ký “ Cát bụi chân ai”. Tuy nhiên, trong tập thơ “ Chân dung nhà văn”, nhà thơ Xuân Sách khái quát sự nghiệp văn chương của Tô Hoài, còn lại với thời gian chỉ dăm ba cuốn : “ Dếâ mèn lưu lạc mười năm Để cho “O chuột” ôm cầm thuyền ai ?

Miền tây sen đã tàn phai Giăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang” Những “Dế mèn phiêu lưu ký”, “O chuột” ,“Giăng thề” được viết từ trước cách mạng 1945 khỏi nói tới, sau đó dù có viết tới vài ngàn trang, theo cách nhìn nhận của nhà văn Xuân Sách, Tô Hoài còn lại có “Mười năm”, “Miền tây” và “Đảo hoang”. “ Mười năm” là cuốn tiểu thuyết dầy 400 trang viết về làng Hạ gần Hà Nội vào thời kỳ (1936-1945), tức là thời kỳ Mặt trận Bình Dân tới Cách mạng tháng Tám. Cái làng nghề dệt lụa này đang vào thời kỳ suy sụp, khung cửi xếp xó, xóm làng xác xơ gây nên thảm trạng “con đánh bố”, “trai gái sắp chết đói vẫn đòi ngủ với nhau”…

” Có áp bức là có đấu tranh”, thế là đám thanh niên trong làng như Lê, Lạp, Trung quên cả đói “chơi trò” trốn thuế, diễn kịch, lập hội Ái hữu, rải truyền đơn…và sau “Mười năm” trui rèn trong lửa cách mạng, Lạp và Trung đã trở thành “đảng viên cộng sản lãnh đạo quần chúng cướp chính quyền ở xã và phủ”, còn chị Hai Tâm, goá chồng, dâm đãng, bị một thằng đểu nó lừa…sau này cũng trở thành đảng viên cộng sản, có chân trong Đội Danh dự làm “công tác đặc biệt”.

Vậy là mọi ngả đường của phần lớn các nhân vật đều đi tới …vào Đảng cộng sản cả. Ca ngợi đến mức đó mà “Mười năm” vừa mới ra lò đã bị Như Phong, nhà phê bình mác xít “choang cho một búa “ :” Phong trào cách mạng của ta trong thời kỳ ấy, nếu ai muốn tìm hiểu nó trong cuốn “Mười năm” thì sẽ luôn luôn gặp những hình ảnh rất lạ lùng, lờ mờ, nguệch ngoạc và có khi méo mó đến làm ta sửng sốt được…”.

Nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ thì răn đe :” Nghệ thuật hiện thực xã hội chủ nghĩa không chấp nhận lối viết hồn nhiên, tự phát, kinh nghiệm…mà đòi hỏi một sự nhận thức sâu sắc về những quy luật xã hội, một trình độ tổng hợp và khái quát ngày càng cao…”. Ôi thôi, thế mới biết đi theo đường lối văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa của Đảng đâu có dễ. Nào nhận thức quy luật, nào tổng hợp, nào khái quát, các nhà văn đi theo cách mạng đừng có tưởng bở dễ ăn theo được Gorki, Sôlôkhốp, Fađêép …những nhà văn cộng sản lẫy lừng thời đó.

Vậy là “Mười năm” đã bị “khai đao” ngay từ lúc mới sinh và cho tới bây giờ đọc lại thấy vẫn “đầu Ngô mình Sở”, may ra còn được vài trang tả cảnh “ những phiên chợ lụa, những chái nhà sâu dặt dìu tiếng khung cửi, những mảnh sân vào những đêm trăng cuối thu thoang thoảng mùi hoa thiên lý , hoa cau, hoa ngọc lan, hoa móng rồng”. Viết chuyện “ngoại ô” xem ra khó xơi, Tô Hoài “láu cá” (chữ của Như Phong) phóng tuốt lên rừng viết truyện “ Miền Tây” giàu chất phóng sự, báo chí hơn là tiểu thuyết.

Nếu như trước cách mạng, Tô Hoài thường đi sâu miêu tả cá nhân trong thân phận mỗi người, sang “thời đại mới”, ông sốt sắng đi theo con đường hiện thực XHCN theo cách hiểu của ông, chuyển hướng sang “phản ánh” cả một phong trào, một thời kỳ cách mạng. Bởi thế cái đích ngắm của ông trong “Miền Tây” là “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go và phức tạp ở các vùng cao những năm 1954-1957 giữa một bên là “bọn phản động” Đèo văn Long, Mùa Sống Cổ…”xưng vua” và một bên là nhân dân và chính quyền cách mạng.

Tiếc thay, “phe phản động” chẳng thấy đâu, hoặc chỉ là những bóng ma lẩn khuất trong rừng đâu có dễ dàng lộ diện cho nhà văn tiếp xúc để mà “ nhận thức quy luật”, “khái quát” để mà “phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp gay go”, bởi thế Tô Hoài phải dùng lại cái “chiêu” cũ : mô tả cái đói cái cơ cực trước cách mạng và cái “đổi dời” khi cách mạng về của đồng bào miền núi.

Tuy nhiên, gọi là “bám rễ” ở vùng cao, Tô Hoài cũng chỉ quẩn quanh ở các trụ sở Uỷ Ban, Đảng uỷ…gặp gỡ các “nòng cốt” của Đảng chứ đâu có “ba cùng” được với bà con trong bản. Bởi thế nhân vật trong “Miền Tây”, dù cho có là nhân dân lao động đi chăng nữa cũng được sản xuất theo một công thức : cơ cực khi chưa có Đảng, đổi đời khi cách mạng về như là “ Vừ Soá Toả, suốt ba đời đi ở đúc lưỡi cày cho thống lý, bây giờ trở thành Chủ tịch xã…” “ Thào Khay , con bà Giàng Súa đã trở thành y sĩ, thành người cán bộ của Đảng, có chân trong châu uỷ Châu Mộc…” vân vân và vân vân. “

Nhân vật” trong tiểu thuyết Miền Tây đã hiếm hoi nhưng lại được đúc ra từ một khuôn kiểu vậy, bù lại, lấp cho đầy những trang giấy, Tô Hoài đi sâu vào “tả cảnh”. “ Những đêm đầu mùa hè mây dày từng mớ, từng lớp vàng đẫm ánh trăng ủ trên những cánh rừng tít tắp chân mây , những thung lũng làng mạc xa lạ…”,”Bóng tối trĩu nặng từng quãng nhanh và dữ dội , gió chồm lên rồi chết đứng từng đợt ngay giữa các triền núi , những dòng suối chảy ra lưng trời, chảy ngang người ngang ngựa…”.

Tuy nhiên, những đoạn văn có mùi Nguyễn Tuân như thế rất hiếm hoi, còn thường là Tô Hoài dùng “thủ pháp đen trắng”, so sánh “ngày ấy, bây giờ” :” Trước kia mỗi phiên chợ Phiềng Sa, người đói muối đông nghìn nghịt chen chúc nhau, chồng đống lên nhau như đá đè, tiếng chửi rủa kêu khóc vang cả một góc núi. Bây giờ những ngày phiên chợ giáp Tết là những ngày hội tưng bừng của các dân tộc vùng cao. Sự thật kỳ diệu nhất sau ngày giải phóng là sự thay đổi vận mệnh của những con người, những người nô lệ bây giờ đứng lên làm chủ đất nước…”.

Chẳng hiểu có cái gì làm ông nhà văn bốc đồng đến thế, quên ngay mình đang viết tiểu thuyết mà nhảy phắt sang viết…xã luận đăng báo Nhân Dân. Khởi nghiệp bằng truyện con nít, “Dế mèn phiêu lưu ký” đã đưa mình đi khắp thế gian, Tô Hoài không quên xuất xứ, nên trong sự nghiệp văn chương của ông có tới trên 40 dầu sách viết cho thiếu nhi.

Thế nhưng chất nhân văn của chú Dế mèn và cô Chuột ( O chuột) dường như ngày càng lấn át bởi chất “chính trị “như trong “Vừ A Dính”, “ Tuổi trẻ Hoàng văn Thụ”, “ Kim Đồng” nên những truyện kể con vật như “Chú mèo lười”, “Trâu húc”,” Người đi săn và con nai”, “ Voi biết bay”, “Hổ và Gấu đi cấy”…còn lâu mới tới chú Dế mèn và cô Chuột. Đó là chưa kể trẻ con ngày nay đổ xô tìm đọc những Đôrêmôn, Harry Potter…cùng lắm là Nguyễn Nhật Ánh dẫn tới nguy cơ “mặt hàng giành cho thiếu nhi” của nhà văn Tô Hoài không khéo bị lưu kho. “Đảo hoang” là “tiểu thuyết thiếu nhi” được nhà thơ Xuân Sách nhắc tới trong thơ “ Chân dung nhà văn” cũng được viết theo truyền thuyết An Tiêm nhưng còn thua xa “Quả dưa đỏ” của Phạm Trọng Luật ngày xưa.

Trong “Đảo hoang”, Tô Hoài đã tuỳ tiện “sáng tác “ thêm hai nhân vật là Mơn và và Gái – con trai, con gái của An Tiêm. Rồi trên hoang đảo lại có thêm một chàng trai tên Mali từ đâu dạt tới để sau này cùng với cô Gái sánh duyên đi xây dựng…miền đất mới. Cái “cảm hứng” xây dựng miền đất mới , cuộc sống mới, con người mới, xã hội mới này làm cho những “tiểu thuyết thiếu nhi” của Tô Hoài nặng về giáo dục làm mệt đầu con nít vốn đã bị nhà trường nhồi nhét đủ thứ “mới” ở trên đời. Bởi thế chúng nó bỏ anh Dế Mèn chạy về với những Đôrêmôn, Harry Potter, Tom & Jerry…thì cũng là…quy luật tất yếu của cuộc sống…

Mới đây, nhân dịp kỷ niệm 45 năm chiến thắng Điện Biên, Báo Văn Nghệ Trẻ số ra ngày 23-4-04 có đăng bài phỏng vấn Giáo sư Phong Lê về “ Văn học nhữõng năm kháng chống thực dân Pháp – BÂY GIỜ NHÌN LẠI” . Nhà nghiên cứu văn học này phát biểu :” Đến Giải thưởng 1954-1955 với “ Việt bắc” của Tố Hữu, “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc, “Truyện Tây bắc” ( giải nhất) của Tô Hoài thì bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.

Vậy là trong “thơ chân dung” nhà văn Tô hoài , nhà thơ Xuân Sách đã quên một tác phẩm mang tầm vóc dấu mốc của văn học chống Pháp – “ Truyện Tây Bắc”.

Vậy nhưng tác phẩm này có tương xứng với những lời tâng bốc của ông Giáo sư ? Đó là một tập truyện ngắn Tô Hoài viết vào những năm 1953-1955 tiếp tục đề tài miền núi trong những tập “ Núi cứu quốc” (1948), Xuống làng (1949) rước đó. Tuy nhiên, như Giáo sư Phan Cự Đệ khẳng định:” Đến “Truyện Tây Bắc” mới là tác phẩm cắm mốc , khẳng định vị trí của Tô Hoài trong nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa”. Tại sao một tập truyện ngắn đường rừng rất xa trung tâm của cuộc kháng chiến - những vùng chiến sự ác liệt nơi đồng bằng, trung du…lại được tôn vinh “cắm mốc” ?

Đó là do “…thông qua hành động thực tiễn, đường lối giai cấp và đường lối dân tộc của Đảng , tác phẩm đã nói lên một cách đau xót nỗi thống khổ bao đời của các dân tộc anh em ở vùng cao dưới ách chiếm đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai là bọn quan bang, quan châu, phìa tạo, thống lý …” như GS Phan Cự Đệ nhận xét.

Vậy là khác với những truyện đường rừng ngày xưa của Lan Khai, “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài có”giá trị cao” là vì “thấm nhuần đường lối của Đảng”. Thảo nào trong hai truyện được coi là xuất sắc nhất trong cả tập là “Cứu đất cứu mường” và “Vơ ïchồng A Phủ” hễ cứ là “phong kiến” thì cực kỳ tàn bạo, gian manh, còn nhân dân lao động thì tốt thật tốt.


Trong “Cứu đất cứu Mường”, có“Cô Áng ngày xưa đã một thời đẹp nức tiếng đất Mường Cơi”, thế rồi bông hoa rừng ấy lọt vào tay quan tri châu Né “tối ngày ngồi một xó nha, rót nước, nướng thịt, bưng xôi, đun nước tắm …con mắt mờ mịt…”. Cái ông quan tri châu này chẳng hiểu có thực ở trên đời không mà bao kẻ hầu người hạ đâu hết lại bắt “mỹ nhân” làm chuyện tay chân đó ? Cái ”tình huống ban đầu” đã nặng mùi giả dối, ấy thế rồi sau 10 năm đầy đoạ,“bông hoa rừng” được thả về làng mang theo hai con nhỏ ( con quan chẳng hiểu vì sao bị đuổi khỏi nhà ) vẫn còn…trẻ, đẹp để mỗi lần các quan đi săn ghé qua vẫn bị lôi đi hầu quan.

Thế rồi nàng Ảng khổ quá phải cho đi một đứa con trai tên Nhấn , còn đứa con gái lại phải làm tôi tớ cho thằng con chồng là Cầm Vàng, sau này dẫn lính về cướp bản, nó chỉ mặt Ảng chửi :” Con gia øMường này rồ thật” rồi vung roi lên đánh. Chẳng hiểu sao “quan bố“ “quan con” lại xấu đến thế ? Riêng thằng Nhấn- đứa con đã cho đi của nàng Ảng, lớn lên được anh cán bộ tên Sơn giác ngộ cách mạng trở thành du kích và bộ đội cụ Hồ.

Thế còn cô em gái phải làm tôi mọi cho quan ? Không thấy tác giả nói tới và thằng anh ruột đi bộ đội cũng…quên cô luôn (có lẽ do cô đã thuộc thành phần…nhà quan). Trong “Vợ chồng A Phủ” cũng có một nhân vật na ná như nàng Ảng nhưng có phần may mắn hơn. Cô Mỵ cũng là một “bông hoa rừng”, cũng bị bắt về lấy con quan thống lý là A Sử.

Lạ một điều là cưới được “mỹ nhân” mà thằng chồng vẫn hành hạ, ngược đãi cô vợ trẻ đẹp coi cô như trâu như ngựa khiến cô hái nắm lá ngón dắt trong người, mấy lần tính ăn để tự tử cho thoát kiếp tôi đòi. Thế rồi đến ngày Tết, A Sử đi chơi xa vài ngày, đã không cho vợ đi theo hắn còn trói nàng lại ở cột nhà ,” xách cả một thùng sợi đay ra trói đứng, tóc Mỵ xoã xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mỵ không cúi, không nghiêng được đầu nữa…” .

Trói vậy, không ăn không uống liền mấy ngày, chắc chắn khi A Sử đi chơi xa trở về, cô vợ xinh đẹp đã thành cái xác không hồn. Người ta chẳng hiểu vì sao chỉ cốt cô Mỵ không đi theo mà A Sử lại hành động như một kẻ giết vợ như thế ? Thôi đành chỉ tự hiểu đã là con quan thì thằng A Sử phải tàn ác, phải coi người như trâu chó, kể cả vợ mình.

Vậy mới là “thấm nhuần quan điểm đấu tranh giai cấp”. May cho nàng Mỵ, thằng chồng chỉ đi một ngày một đêm đã trở về không phải vì lo nàng chết mà chính vì lúc chơi trong hội tết nó bị một thanh niên trong bản đánh vỡ đầu. Mãi lúc đó, nàng Mỵ mới được nhà quan phát hiện đang bị trói và được cởi để đi hái thuốc chữa trị cho chồng. Còn anh thanh niên kia, tên A Phủ, bị ông ”quan bố” Pá Tra trói gô “sọc ngang cái gậy, khiêng về ném giữa nhà “.

Thế là từ đó, A Phủ phải ở lại nhà thống lý Pá Tra làm trâu làm ngựa đề đền tội đả thương con quan. Một năm kia, đàn ngựa A Sử được giao chăn dắt bị hổ vồ mất một con. Thế là luôn trong mấy ngày, A Phủ bị trừng phạt trói đứng trong góc nhà nhịn ăn nhịn uống.

Trong lúc đó, đêm đêm nàng Mỵ ngồi bên bếp lửa suy nghĩ :” Chúng nó thật độc ác . Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói , chết rét, phải chết…Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi. Người kia việc gì mà phải chết thế …A Phủ…”. Thế rồi nàng Mỵ rút con dao cắt dây trói cho A Phủ trốn và bất ngờ øcô chạy theo :” A Phủ cho tôi đi…Ở đây thì chết mất…”.

A Phủ chợt hiểu. Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Họ trở thành vợ chồng ngay trên đường trốn chạy và một tháng sau họ đã thoát được sang vùng tự do. Truyện ngắn lẽ ra là kết thúc ở đây trang thứ 20 – nhưng không, Tô Hoài còn kéo dài thêm 20 trang nữa kể chuyện “vợ chồng A Phủ đổi đời trong cách mạng” vậy mới đúng phương pháp hiện thực XHCH. Sau vài năm xây “tổ ấm”, vợ chồng A Phủ đã có mái nhà,có khung cửi, có lợn trong chuồng. Ấy thế rồi một hôm quan Tây dắt lính nguỵ tới cướp bản, dắt đi hai con lợn lại còn bắt A Phủ đi theo để khiêng lợn xuống đồn.

Từ đó trong anh nung nấu lòng căm thù quân Pháp xâm lược, may thay một hôm có A Châu, cán bộ cách mạng tìm tới giác ngộ:” Bao giờ nhân dân ta lấy được độc lập thì vợ chồng A Phủ về quê tôi chơi. Bấy giờ tha hồ đi, đâu cũng được ở yên ,làm ruộng làm nương, làm buôn làm bán, đâu đâu cũng sung sướng như nhau…” .

Và ta cũng có thể đoán ngay được phần kết của “truyện ngắn kéo dài” “Vợ chồng A Phủ”. Bản làng trở thành khu du kích, cuộc sống vừa sản xuất vừa chiến đấu thật là vui vẻ, tươi sáng và tất nhiên A Phủ trở thành một chiến sĩ du kích xuất sắc. “ Truyện Tây Bắc” – đỉnh cao nhất trong sự nghiệp văn học cách mạng của Tô Hoài, tác phẩm đánh dấu mốc mở ra thời kỳ văn học hiện thực XHCN Việt Nam là như vậy.

Văn chương dễ dãi, chẳng “đẽo gọt” như Như Phong nhận xét, nội dung sơ lược, mang nặng mục đích tuyên truyền chính sách dân tộc miền núi của Đảng, bỏ qua tính chân thực vốn là cốt lõi của văn chương, viết theo lối viết “địch - ta” rạch ròi, vạch một ranh giới tuyệt đối giữa các nhân vật và chỉ chấp nhận họ hoặc ở phe này hoặc phe kia.

Rút cuộc, “đỉnh cao sự nghiệp Tô Hoài “ vốn ra đời theo yêu cầu nhất thời của cách mạng đã bị thời gian đào thải, ngày nay, ngoại trừ những học sinh và sinh viên phải làm bài, khó có ai đủ kiên nhẫn để thưởng thức nó.

Trong thời cố Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, hội chứng “phản tỉnh” không chỉ nảy nòi ở các nhà văn trẻ , một số cây đa cây đề cũng bị nhiễm “con virus” này, viết bài “tự chỉ trích” hoặc “phân bua” với thiên hạ mình cũng suy nghĩ độc lập lắm đây. Chế Lan Viên có bài “ Bánh vẽ”, Nguyễn Minh Châu có “ Đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh hoạ”…mới đây Đào Xuân Quý có “ Nhớ lại”. Tuy không nặng mùi “ phản tỉnh”, nhưng Tô Hoài cũng viết một cuốn hồi ký dầy cộp – “ Cát bụi chân ai”, nói rõ một số chuyện xoay quanh vụ Nhân văn Giai phẩm, “dựng lại chân dung” một số nhà văn “cây đa cây đề” làm xôn xao dư luận một thời.

Trước khi đưa ra một số tình tiết “phản kháng” của văn nghệ sĩ trong vụ án văn này, Tô Hoài “thủ” trước một lập trường chính trị vững vàng theo Đảng : ” Nhưng mà những hoạt động gây sự không phải chỉ ở vài bài báo trên Nhân Văn, mà cái chính là ý đồ chính trị rộng ra nữa của một số giới không phải là những người làm báo Nhân Văn trong tình hình nhạy cảm ở các đô thị lúc ấy….không ai lưu tâm những người bỏ tiền cho vốn in báo và những hoạt động chính trị đòi thay đổi và chia quyền lãnh đạo đã âm thầm dấy lên, trong giới tư sản đương bối rối, trong một số trí thức ở vùng mới giải phóng và ở đảng Dân Chủ.

Báo Nhân Văn chỉ là một phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào “trăm hoa đua nở”. “ Vậy đã rõ ràng, trong vụ Nhân văn Giai Phẩm, Tô Hoài trước sau vẫn vững “lập trường cách mạng”, không có “phản tỉnh”, “phản mê” gì hết. Tuy nhiên ông cũng đưa ra một vài hồi ức cho thấy không phải nhà văn nào cũng “vững vàng” như ông.

Trên báo Nhân Dân số ra ngày 12 tháng ba năm 1958 có đăng bài “ Nhìn lại một số sai lầm trong bài báo và công tác “, Tô Hoài sát phạt anh em :”càng thấy rõ những tư tưởng nguy hại của một số người, từ báo Nhân Văn, không phải ngẫu nhiên tồn tại và có cơ phát triển đối kháng, chống lại Đảng, chống lại chủ nghĩa xã hội trong khi giai đoạn cách mạng đương chuyển nhanh, chuyển mạnh.” và tự kiểm thảo :

”Tôi đã đánh giá thấp những hoạt động của tư tưởng chính trị và nghệ thuật kiểu báo Nhân Văn vẫn sống sót, lại nhặt nhạnh dần thêm những rơi rứt lạc hậu của từng người hoặc một phần nào trong tự tưởng mỗi người, vào lúc giai đoạn cách mạng đương chuyển, nó dẫy giụa chống lại bước tiến mới của cách mạng và đã tác hại không nhỏ.” Tô Hoài nhớ lại , ngay sau khi đọc bài báo : “Nguyên Hồng buông tờ báo xuống. Rồi Nguyên Hồng xua xua tay, nói như hét vào mặt tôi: - Tiên sư mày, làm thằng Câu Tiễn ông thì không, Nguyên Hồng thì không! Nguyên Hồng quỳ xuống trước tôi, rồi cứ phủ phục thế, khóc thút thít.

- Tao về Nhã Nam. - Về Nhã Nam? - ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đéo chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.” Phải chăng mượn lời Nguyên Hông , 42 năm sau, Tô Hoài đã “chữa khéo” hành động của mình trong vụ Nhân Văn hồi đó là “ Câu Tiễn” ? Trong những năm tháng “ khó khăn “ đó, Tô Hoài kể lại “ hai hoạ sĩ Nguyễn Tư Nghiêm và Dương Bích Liên, tuy chỉ làm có cái bìa sách cho nhà xuất bản nọ nhưng chắc là không khí sát phạt ở các buổi họp khiến các anh ngại, đã xin ra Đảng”; Dương Bích Liên đã vẽ “một tranh sơn dầu hai đứa trẻ gái gầy guộc xanh lét cả tóc” có tên là “Hào” bị loại khi mang ra triển lãm; Nguyễn Sáng vẽ ký hoạ trên báo Nhân Văn một đầu người ở cổ có vết khía, như cái lá. Người ta bảo đấy là chân dung Trần Dần và cái sẹo còn lại khi anh định tự vẫn.

Nguyễn Sáng không được bình huân chương kháng chiến ; Nguyễn Huy Tưởng thì “mấy đêm không chợp mắt được. … Nguyễn Huy Tưởng nói:”Nước Hungari trong phe xã hội chủ nghĩa, nhưng trước nhất nước Hungari là nước Hungari đã ông thấy thế nào? Các ông thấy thế nào? Tôi không hiểu, tôi không thể hiểu.”…Nguyễn Huy Tưởng băn khoăn. Nguyễn Huy Tưởng có những ý kiến khác những lời bình trên các báo.Tôi đùa:”

Ông là thằng cộng sản dân tộc”.Nguyễn Huy Tưởng cười hiền lành.:” Cậu bảo tớ bắt chước Ti tô? Không phải, Nguyễn Huy Tưởng là cộng sản Việt Nam. Nhưng mà nguy hiểm đấy. Chẳng nên đùa nhau thế.”.Nguyễn Huy Tưởng nói nho nhỏ, cặp mày rậm nên con mắt hồn nhiên nhíu lại, buồn hẳn.

Chúng tôi không bao giờ đùa cợt và nhắc lại như vừa rồi nữa.”, Trần Dần, Lê Đạt , Hoàng Cầm, Phùng Quán bị tước hội tịch trong 5 năm nhưng “Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng mấy ông “Nhân Văn cả nước”, mà tràn lan đến những “Nhân Văn phố, Nhân Văn xóm”, chẳng bị kỷ luật gì, nhiễu người không phải vì bài văn câu thơ, mà bởi lời nói bông lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn.”, khi nhà học giả Phan Khôi mất “ đi sau xe tang, chỉ có bác gái và các con với một mình chị Hằng Phương - cháu gọi bằng cậu”.

Nhớ lại Phùng Cung, tác giả “Con ngựa già của chúa Trịnh”, 11 năm tù biệt giam, Tô Hoài ngậm ngùi : “ Phùng Cung công tác chạy hiệu ở văn phòng cơ quan hội Văn Nghệ từ trên Tuyên Quang. ở rừng, những việc tủn mủn không tên, giấy tờ công văn, giữ sách thư viện, làm sách mới, đi chặt củi, vác gạo, khiêng người ốm ra trạm xá, thui chó liên hoan..Đọc truyện ngắn Con ngựa già của chúa Trịnh Phùng Cung đăng trên báo Nhân Văn tôi cũng gật gù. “ Thằng này viết được. Nhưng còn hộc máu ra mới nên cơm nên cháo đấy, con ạ.”.

Tôi không thể tưởng tượng ra được một Phùng Cung thế nào mà bị bắt.Lại hơn mười năm sau. Chặp tối, một người bước vào cửa. Dáng ủ rũ, mặt tái ngoét, không phải Phùng Cung mà là cái bóng Phùng Cung trên tờ giấy tẩy chì mờ mờ.” Cũng trong cái thời nhà văn bị theo dõi tới từng câu từng chữ ấy, Tô Hoài nhớ lại : “Có một thời, những người “theo dõi” báo chí, xuất bản và phát hành sách báo được phong làm lính gác.

Lính gác thì phải có việc của lính gác, chẳng lẽ ăn lương để đứng không. Nhưng thật ra người ta chỉ đọc a dua rồi đánh đòn hội chợ. Cấp trên hô người ấy, bài ấy có vấn đề. Tự nhiên cảm thấy hình như có vấn đề thật và người ta dò tìm từng câu từng chữ. Thế nào chẳng ra vấn đề! Bỗng khó chịu cả cách diễn đạt khác nhau của mỗi ngòi bút, thế là làm sao.

Không biết vì tổ chức đặt ra công tác theo dõi làm cho cái người theo dõi bỗng nhiên được làm thầy thằng bị (được) theo dõi. Hay là tại vì thuở nhỏ đi học, nhà trường chưa bao giờ giảng cho các vị ấy khi còn là học sinh hiểu bài văn muốn có ý nghĩa, trước hết bài văn phải hay. Khốn thay, người ta viết văn thất bại nhưng vẫn làm cán bộ theo dõi được. Cái nhìn sự sáng tạo cứ lên xuống theo thời tiết. Nguyễn Tuân cáu kỉnh nhẹ nhàng và chua chát: - Có khi mày bảo chúng nó viết đi, để ông với mày đi chơi, thế là bớt được thằng công tác theo dõi! Nói vậy, Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn Tuân thế, không có gì khác. - Này, chúng nó đồn ầm lên ông mới nói, nếu ông còn trẻ thì ông cũng bỏ đất này ông đi. Nguyễn Tuân thong thả nói, như cho mình nghe:

- Biết đuổi theo đứa nào mà cải chính bây giờ, tao mà chết, nhớ chôn theo với tao một thằng phê bình…” Những trang viết thực như vậy quả là những tư liệu đáng quý trong lịch sử văn học Việt Nam, tuy nhiên, cuốn “ Cát bụi chân ai” của Tô Hoài lại gây xôn xao bạn đọc ở phần “bật mí” những khía cánh riêng tư của các ngôi sao văn học.

Chẳng hạn tuy Nguyễn Tuân được tiếng là “tài tử” nhưng lại rất kỹ tính “ Năm 1961, Nguyễn Tuân lên Hà Giang dự khánh thành đường Bắc Quang - Hoàng Su Phì. Hoà bình thảnh thơi rồi, nhưng vẫn lại là về rừng, lại đeo cái ba lô Nhật với những sợi dây dù Mỹ buộc màn, không quên chiếc bi đông chiến dịch sông Thao hơn mười năm trước. Giữa đám các thứ lỉnh kỉnh, một xếp giấy bản lau chén bát, một quyển sách đang đọc và mấy thẻ hương mua thửa ở hàng quen cửa chợ Đồng Xuân để…chống muỗi”.

Nhiều năm nay, thiên hạ đồn thổi về cái sự “tình trai” của Xuân Diệu, trong “Cátbụi chân ai”, Tô Hoài đã huỵch toẹt ra chuyện đó : “Dịu dàng, âu yếm, Xuân Diệu cầm cổ tay tôi, nắm chặt rồi vuốt lên vuốt xuống. Bốn mắt nhìn nhau đắm đuối…Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp mình trần truồng trong mảnh chăn dạ…

Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quít cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, lên cơn dữ dội, dằn ngửa cái xác thịt kia. Rồi như chiêm bao, tôi rời rã, thống khoái, im lặng. Giữa lúc ấy, hai bàn tay mềm như lụa lại vuốt lên mặt. Làn môi và hơi thở nóng như than bò vào mắt, xuống vú, xuống rốn, xuống bẹn... Cơn sướng lại cơn lên cho đến lúc ngã cả ra, rúc vào nhau. …

Thực là một trang đặc tả mà ngay đến các cây bút “hậu hiện đại” cũng chưa viết nổi. Còn chàng Hoàng Cát , một “tình trai “ của Xuân Diệu, khi lên đường vào B được Xuân Diệu tặng thơ với lời yêu đương thống thiết : “ Ôi Cát! Hôm vừa tiễn ở ga Chưa chi ta đã phải chia xa! Nhưng bóng em đi đã khuất rồi Đứt lìa khúc ruột của anh thôi!

Tình ta như mối dây muôn dặm Buộc mãi đôi thân, dẫu cách vời…” Aáy thế mà khi Cát trở về Hà Nội viết “ Cây táo ông Lành” đăng báo Văn Nghệ bị đòn hội chợ, Xuân Diệu đã quay ngoắt :’ Tôi không biết thằng đó là ai ?” Nhưng thê thảm nhất là kỷ niệm về Nguyễn Bính. Nguyên thời làm báo Trăm Hoa, nhà thơ được một cô gái trẻ đem lòng yêu, và sinh ra một bé gáiï tên là Hiền. Khi cháu mới bập bẹ, cô gái trả con lại cho Nguyễn Bính để đi bước nữa.

Thế rồi một đêm mưa, Nguyễn Bính bế con ra dốc hàng Kèn và trao cho một người đàn ông qua đường nào đó. Oân lại chuyện cũ . Tô Hoài xót xa : “Bấm đốt ngón tay, đã trên ba mươi năm rồi. Ai là người đã đi qua ngã sáu oan nghiệt tối hôm ấy - nếu trời để cho được sống, ông ấy cũng phải đến trong ngoài sáu bảy mươi rồi, nếu vẫn nhớ có người đưa cho một đứa trẻ, thế thì tên cháu là Hiền nhé…”

Vâng tên cháu là Hiền, nhưng lẽ ra cần nói rõ, cháu là con gái của nhà thơ dân tộc : Nguyễn Bính. “ Cát bụi chân ai” dù thế nào, vẫn còn chút lòng nhân hậu và sự trung thực trí thức của Tô Hoài. Chỉ tiếc nó được viết sau khi ông nhà văn đã rời bỏ cái ghế Chủ tịch Hội văn Nghệ Hà Nội, nơi ông đã ăn dầm nằm dề cả gần hai mươi năm nay. Giá như ông chịu treo ấn từ quan sớm, chắc sự nghiệp của ông không chỉ còn lại với thời gian một “chú dế mèn”.
IV. Đất nước đứng lên – Tây Nguyên ngày ấy…


“ Mấy lần “ Đất nước đứng lên “… Đứng lâu phải mỏi cho nên phải nằm…” Giới cầm bút trong nước ít ai không biết “ Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết của nhà văn Nguyên Ngọc, còn các sinh viên khoa văn Đại học Sư phạm không ai là không biết truyện ngắn “ Trao kiếm” cũng của nhà văn này bởi lẽ nó đã được đưa vào giáo trình giảng dậy. “ Trao kiếm” viết vào những năm đầu thập kỷ 50 vào lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang loang rộng.“ Cụ Cư, 58 tuổi, nghèo xơ xác, chân lại có tật ở một thôn đất cát…” .

Vì nhà nghèo, cụ được coi là nòng cốt cách mạng, nhà cụ được chọn để du kích dùng làm nơi “thảo luận tổ” trong khoá học “ du kích gương mẫu của Tỉnh mở”. Từ lúc đó, “cụ ngồi nép một bên phản nghe anh em thảo luận”, rồi mải mê quá, lúc đầu cụ còn ngồi một góc phản, lần lần anh em thảo luận hăng quá, cụ rút một chân lên, rồi rút cả hai chân lên ngồi nghe…”.

Cứ như thế, cụ tự biến thành học viên và cũng giơ tay “Tui xin có ý kiến”. Cụ kể rằng năm 1949 giặc đổ bộ lên Tam Quam, cụ nằm dưới hầm nhìn thấy “ 4,5 thằng đi qua, xí lô xí là lia bừa cả súng , giựt nhau một miếng dừa mà ăn…giành nhau trã cá…ngủ bỏ cả súng …tui xin ý kiến là giặc sở hở lắm…”.

Lính Tây mà giựt nhau cả một miếng dừa, tranh nhau ăn trã cá thì không hiểu “khẩu phần lê dương” của nước Cộng Hoà Pháp thằng nào ăn mất, các vị du kích chẳng cần đánh đấm, cứ ho một cái là địch bỏ chạy, khỏi cần tiến lên chính quy hiện đại.

Từ đó cụ Cư biến thành học viên của khoá đào tạo “ du kích gương mẫu” , lên lớp cho tất cả mọi người :” Cuộc kháng chiến của ta là toàn dân, nghèo giàu gì cũng kháng chiến cả, chỉ có số ít nhà giàu chưa giác ngộ …” làm anh em du kích cứ há cả mồm ra nghe. Nắm vững sách lược “đoàn kết toàn dân “vậy, không khéo ông cụ Cư là bác Hồ cải trang chăng ? Nhưng mà không, hàng ngày cụ vẫn đi cuốc đất, luộc khoai, bưng nước cho anh em, chỉ có buổi tối cụ mới tham gia “có ý kiến”.

Thế rồi hôm kết thúc lớp học, thật bất ngờ, cụ vào buồng lấy ra một thanh kiếm trao cho một anh du kích : ” Ai ? Ai nói không có kiếm giết Tây ?…Cây kiếm này, lần trước nó vô đổ bộ Chợ Cát, sau tôi mới sắm đây. Tôi giữ rất kỹ, thường ngày lau chùi luôn, định chờ địch đổ bộ lên đây lần thứ hai, chặt đứt đầu nó…”. Cụ Cư trao kiếm cho du kích còn căn dặn :

” Tôi nghèo chớ giàu thì mua cho anh khẩu súng. Anh cứ về, nếu địch lên anh chặt đầu nó cho tôi. Nếu thắng tôi sẽ thưởng anh, nếu đánh không được tôi cũng xuống coi tại sao anh đánh không được ?”. Ông lão nhà quê mà ghê chưa , thật đúng là nhân dân ta rất anh hùng ? Nhà nghèo toàn ăn khoai, ngủ đất chẳng hiểu cụ già lấy tiền đâu ra mà sắm hẳn một cây kiếm để chặt đầu Tây? Trong chuyện cổ nước ta, có một anh bốc phét rằng :” tôi nhìn thấy một con trâu khổng lồ, liếm một cái hết ba sào mạ…” làm người nghe phải kêu lên :” Không nhẽ lại có thế ?”.

Đọc truyện ngắn “Trao kiếm” nghe nhà văn Nguyên Ngọc tả lính Tây, cụ lão nông bỏ tiền mua kiếm, người ta cũng phải tự hỏi :” Không nhẽ lại có thế ?” Trong kho tàng văn học cách mạng chống Pháp của Việt Nam, như Giáo sư Phong Lê nhìn lại, “tới “Đất nước đứng lên “ của Nguyên Ngọc thì bức tranh kháng chiến mới thực sự được mở rộng trong một cảnh quan vừa có chuyện vừa có người, có quê hương và đất nước, có gắn nối giữa chất trữ tình và sử thi, có hài hoà giữa chủ thể và khách thể…”.


Vậy là trong văn học kháng chiến chống Pháp, tiểu thuyết “ Đất nước đứng lên” của Nguyên Ngọc đứng đầu sổ. Cuốn truyện viết về Tây Nguyên thời chống Pháp, thời đất nước đang đứng lên, còn bây giờ “đứng lâu phải mỏi cho nên phải nằm” như hồi tháng Tư vừa rồi hàng ngàn người Ba Na, Ê Đê…”đứng lên” đập phá trụ sở Uỷ ban xã, phường… thì hiển nhiên hoàn toàn không có ngay cả trong tưởng tượng của nhà văn Nguyên Ngọc. Thời đó, ở làng Kông Hoa gần An Khê có anh chàng Núp cùng đám thanh niên trong buôn nghe già làng bok Sung kể chuyện. Bok kể rằng ngày trước có một ông tên là “ Tú người to lớn, râu lưa thưa, con mắt ướt mà ngó thẳng , trên khố giắt một cái gươm dài.

Đất nước mình không có ai có cái gươm đó. Gươm ông Tú không phải gươm thường , đó là một cái gươm giàng , đem ra đánh Pháp, Pháp thua chạy hết. Nhưng có một bữa , trời mưa to gió lớn sấm sét…nước sông Ba lên to, chút nữa ngập hết làng. Ông Tú đem gươm ra múa, đánh mưa gió cứu dân…” Thế rồi ông Tú cao hứng, múa gươm vung mạng, chẳng may lưỡi gươm bị văng ra rơi xuống sống, trôi tuột về xuôi, lọt vào tay người kinh.

Từ đó “người Kinh giữ cái lưỡi, người Thượng giữ cái cán, hai người ở xa nhau , Pháp tới không có cái gì đánh nên phải thua…Bởi vậy muốn đánh Pháp phải đi tìm người Kinh , chắp lại cái gươm mới đánh thắng…” Bài học về đoàn kết Kinh với Thượng như vậy kể cũng ghê, nhưng với đám thanh niên trong buôn nghe xong xem ra lại phản tác dụng vì thằng Pháp là ma là Giàng , không có gươm của Giàng đánh sao được nó ? “ Không khí nhà rông trở nên ồn ào.

Người nói Pháp như hòn đá, như cái cây, nó là Giàng. Trên trời nó đi cũng được , dưới nước nó đi cũng được , đánh trúng nó , nó không chảy máu…Ngày trước bok Klăng đánh, nó đem máy bay tới bay trên làng, bok Klăng lấy ná bắn trúng máy bay, cũng không thấy chảy máu, cũng không thấy chết…” .

Mang tên mà bắn trúng máy bay thì đúng là “thần diệu” hơn cảùsúng trường hạ máy bay Mỹ sau này. “ Không nhẽ lại có thế ?” Nghe chuyện anh chàng Núp tức trong bụng lắm, có thiệt thằng Pháp bắn không chảy máu không ? Phải đi “điều nghiên” coi sao. Anh bèn nói dối mẹ xuống thị trấn An Khê mua muối, nhưng chính là để “Tao đi coi mày cho kỹ, mai mốt phải đánh mày chảy máu mới được…”.

Thế rồi đi mấy ngày mới tới An Khê, không thấy ông nhà văn kể Núp làm những chuyện gì, chỉ thấy anh về kể với mẹ :” Con đi coi Pháp cho biết, bữa sau đánh Pháp. Con coi nó kỹ rồi, cái súng nó, cái xe nó, cái tàu bay nó giỏi thật, nhưng con người nó cũng giống con người mình thôi, không phải ông trời. mai mốt con bắn thử xem có chảy máu không ?”

Hoá ra chàng Núp mới chỉ xuống phố …đứng coi coi súng ống ,tàu bay, tàu bò thôi, người ngợm Tây ra sao cũng chưa biết, vẫn còn phải chờ coi bắn nó có chảy máu không ? Vậy thì nhà văn bắt nhân vật lặn lội từ trên núi cao xuống mãi tận nơi “ ngó lên thấy ông trời đất rộng, núi bốn phía thấp xuống” để làm gì ?

Nắm tình hình địch tơ lơ mơ như vậy mà về buôn vẫn hạ quyết tâm tiêu diệt Pháp. Thế rồi một hôm “Buổi sáng đi rẫy, bỗng nghe tiếng súng nổ. Thôi, khổ rồi. Pháp đánh tới rồi. Súng nổ xa. Súng nổ gần. Súng nổ nhỏ, rồi súng nổ to..Không còn kịp dọn cái nhà, không kịp bắt con heo, con trâu, không kịp lấy cái áo, cái khố…”.

Thế là tất cả buôn chạy dạt lên rừng. Mẹ Núp già nua, yếu đuối vẫn phải cõng em Núp trên lưng, giao cho Núp cõng gùi gạo. Ở gia đình người Thượng, gùi gạo nặng phải trên 50 kí lô, là thực phẩm sống còn, là sinh mạng của cả gia đình. Người con trai trụ cột trong nhà như Núp, khi có biến lẽ ra phải cõng em, gùi gạo, dắt mẹ chạy lên rừng. Nhưng không, anh ta mang gùi gạo…gửi hàng xóm cõng đi, làm “ mẹ ra tới đầu làng, quay lại không thấy Núp đâu , vừa kêu vừa khóc : “ Ới Núp ơi, Núp ơi…”

Núp chạy đến : “ Mẹ đi đi, con gởi gùi gạo cho Xíp mang vô núi trước rồi. Con không đi đâu, con ở lại đánh Pháp thử đã. Mẹ đi trước, đánh Pháp chảy máu rồi con đi theo sau…” Than ôi, giữa cảnh nhà cháy, người chết, súng ống nổ ầm ầm, thật tội nghiệp cho bà mẹ Núp, có con trai lớn lại bỏ em nhỏ, bỏ mẹ già, bỏ cả miếng ăn của cả nhà để ở lại đánh Pháp.

Người anh hùng bất hiếu hay là nhà văn cố tình quên không nhắc tới ? Có thằng con cột trụ trong nhà, lúc biến lại xử sự như thế, nhưng người mẹ vẫn không oán trách, vẫn lo cho nó : “ “ Ố ố…một mình con đánh nó không được đâu…” Vậy nhưng ông con vẫn bướng bỉnh vẫn như bị “ma ám “ : “ Được mẹ ạ. Con đánh thử trước, lũ làng bắt chước sau…” Bà mẹ nhìn Núp. Bà biết rằng “ cái miệng người già không nói được thanh niên đâu. ..”. Thế là bà đành chùi nước mắt đi theo lũ làng để con ở lại. Chẳng biết cái anh chàng Núp này căm thù giặc Pháp tới đâu, trong tay chỉ có mỗi cái ná, mà dám một mình ở lại đối chọi với cả đại đội lính Pháp có đầy đủ cả súng ống, mọoc-chi-ê… “Chẳng nhẽ lại có thế ?” Dường như đãng trí , mau quên là cố tật của mấy ông nhà văn lớn.

Mới vài trang trước, Nguyên Ngọc kể Núp xuống An Khê gặp cách mạng ““ Đi một ngày, ở một đêm, về một ngày….”, trang sau Nguyên Ngọc đã lại cho Núp lang thang cả ban ngày giữa phố An Khê sạch bóng quân thù : “ người nào cũng đổ về chật ních. Núp chỉ thấy toàn đầu tóc đen lố nhố và cờ đỏ . Người kinh cũng đông, người Thượng cũng đông, lần đầu tiên Núp thấy người kinh, người Thượng đi chung với nhau, nắm tay nhau , ào ào như nước sông Ba chảy qua thác, người nào cũng nói, nghe không hiểu gì cả, nhưng vui lắm, thích lắm…”

Ngày hội cách mạng trong con mắt Núp chỉ có nhiêu đó, riêng bok Hồ thì …chưa có gì .”Núp cứ nghĩ mãi : bok Hồ là người thế nào ? Sao bok Hồ giỏi thế ?”. Rồi ông nhà văn cho chàng Núp ví von :” Bữa nay nhờ có bok Hồ mới biết đất nước mình rộng quá ( rõ khổ, chàng mới về tới phố An Khê thôi, đã đi được tới đâu) có nhiều con suối quá , nhiều con suối nhỏ, được bok Hồ khơi dòng cho, bây giờ đã chảy chung lại thành con suối lớn, càng ngày càng lớn.Pháp có như một trăm hòn đá lớn giữa dòng sông cũng cứ chảy qua hết…”. Hình ảnh rất hay, rất đẹp, chỉ tiếc ông nhà văn quên mất rằng suối nhỏ nào rồi cũng chảy vào suối lớn rồi suối lớn nào cũng phải chảy vào sông mà chẳng cần tới…bok Hồ khơi dòng. Từ một anh dân tộc Ba Na đầu óc hoang sơ, lo lắng ngớ ngẩn” sợ bắn thằng Pháp không chảy máu” bỗng chốc chỉ sau một đêm gặp cách mạng, trí tuệ đã được khai sáng có ngay khả năng trừu tượng hoá, ví von “trước kia làng Núp chống Pháp như dòng suối chảy giữa rừng, nay nhờ bok Hồ khơi dòng…” thì quả thực “ có nhẽ đâu lại thế?”. Vậy “ bok Hồ là người thế nào? Sao bok Hồ giỏi thế ?

Anh chàng Núp nghĩ mãi không ra, sau rồi nhớ tới câu chuyện già làng kể chuyện ông Tú , anh đắc ý :” Chắc bok Hồ cũng như ông Tú vậy …”. Oâng Tú theo già làng là người “to lớn, râu lưa thưa…”thì đúng là bok Hồ rồi. “Khi giặc Pháp tới, ông Tú đem gươm ra đánh Pháp, Pháp thua chạy hết cả…”thì lại càng giống bok Hồ.

Nhưng khi mưa gió sấm sét, ông Tú lại mang gươm ra múa, “múa mạnh quá, rớt mất cái lưỡi gươm xuống sông Ba, trong tay chỉ còn cái cán, còn cái lưỡi trôi về dưới xuôi, người Kinh lấy được…” thì lại không được phép giống bok Hồ. Bởi lẽ bok Hồ bao giờ cũng sáng suốt, cẩn thận không khi nào bốc đồng múa gươm mạnh đến văng cả lưỡi xuống sông. Mà nếu có lỡ tay, nhất định bok Hồ sẽ đi tìm bằng được lưỡi gươm trả về cho người Ba Na chứ chẳng bao giờ chịu để lọt vào tay người kinh. Aáy là chưa kể không biết lưỡi gươm nặng vầy có trôi được theo sông vượt cả trăm kilômét thác ghềnh để về tới tận dưới xuôi không, hay là vẫn còn mắc dưới đáy sông trên núi.

Tuy nhiên đó không phải lỗi của anh chàng Núp, chẳng qua tại nhà văn quên mất tinh thần trách nhiệm cao cả của bok Hồ cũng như quên mất thanh gươm bằng sắt chứ không phải bằng gỗ để có thể nổi lềnh bềnh trên sông đó thôi. Sau cùng chàng Núp và dân làng Kông Hoa cũng được gặp bok Hồ, nhưng không phải…” người thiệt , chỉ thấy người trên tờ giấy…”. Đó là vật thể vật chất duy nhất mà cách mạng mang tới cho người dân Ba Na. Vậy mà ông nhà văn cũng để cho lũ làng “tưng bừng chào đón như chào đón mặt trời…”

.Cái chỗ này cũng là lỗi của ông nhà văn, bởi lẽ dân Ba Na đang đói gạo, đói muối đến thế, cách mạng tiếc gì không gửi kèm vài chục ký lô theo ảnh bok Hồ làm quà cho dân hồ hởi phấn khởi mà cứ để cán bộ tay không trèo lên bản như thế ? Đã không cho dân được ký lúa, lại hứa lèo “bộ đội bok Hồ sắp lên” làm dân mỏi mắt “đợi mãi, đợi ,mãi vẫn không thấy bộ đội đâu cả. Đê cán bộ cũng không thấy nữa”.

Thế rồi cũng tới lúc bộ đội về làng thật , nhưng không phải đoàn quân chiến thắng mang quả thực về cho lũ làng mà là toán người “có khiêng người trúng đạn …Gặp lúc lúa chưa chín không có chi ăn cả. Núp đem cho bộ đội một rổ bắp. Lũ làng bắt chước đem cho rất nhiều. Bộ đội không ai biết nói tiếng Ba Na. Chỉ chào rồi đi ngay…”. Chưa giúp được dân cái gì mà đã nhiễu dân đang túng đói thế này, bác Hồ mà biết tất các chú bộ đội phải kỷ luật. Buồn cười nhất là ông nhà văn tả tình quân dân “ có bộ đội bị trúng đạn phải khiêng.

Người đó không nói được, nhưng không khóc.Chỉ có các bà mẹ Kông Hoa khóc, sợ người đó đau…”. Hi hi, chồng chảø phải, con trai thì không, thấy người lạ hoắc , lần đầu tiên khiêng qua làng mà các mẹ lại…khóc được mới tài. Pháp chiếm An Khê và các vùng xung quanh. Cán bộ cũng trốn mất hút luôn. Dân Kông Hoa lại “chờ hết một mùa lúa nữa mới có đê cán bộ của bok Hồ lên”. Anh cán bộ người kinh tên Cầm này cũng tay không lên bản và…kể chuyện bok Hồ :” Bok Hồ chống Pháp từ khi còn nhỏ, cũng bị Pháp bỏ tù. Sau trốn ra được , đi khắp đất nước bày đất nước đứng lên chống Pháp, chống Nhật…”.

Í trời, chỗ này ông nhà văn quên cả tiểu sử Hồ Chủ tịch. Chẳng lẽ hồi đó Pháp bỏ tù bác ở…ngõ Compoint, thủ đô Paris bắt làm nghề thợ ảnh ? Rồi lại từ đó trốn ra bày cho dân “chống Pháp, chống Nhật”. “Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết lớn nhất thời chống Pháp, lầm lẫn lớn thế mà bao năm Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng không phát hiện ra để cải chính thì thật đúng là “cơm chúa múa tối ngày”.

Từ ngày có cán bộ Cầm ở bản, tinh thần chống Pháp của lũ làng lên cao hẳn, cao nhất phải kể đến…bà mẹ của Núp. Một hôm Núp dẫn bộ đội đi đánh đồn Pháp, chạy về khoe mẹ : “Mẹ ơi, Pháp chết mười lăm đứa…” Thế là Mẹ Núp, giận luôn trong hai ngày ? Vì sao thế ? Nghe tin Pháp chết phải vui mừng chớ sao lại giận Núp ? Sau này Mẹ mới giải thích : “Mày thương Pháp lắm sao? Mẹ có hỏi mày Pháp chết mấy đâu . Chết mấy đứa kệ Pháp, nó chết hết cũng được…

Sao bộ đội chết mấy người mày không nói, mày thương Pháp hơn bộ đội rồi…” Oái trời, Mẹ thương bộ đội thì Mẹ chỉ cần hỏi :” Thế ta chết mấy người ?” là…xong. Eùp uổng Mẹ giận con những…hai ngày liền làm gì cho rắc rối cuộc đời ? Chắc ông nhà văn muốn xây dựng tính cách nhân vật cho “phong phú và đa dạng” đây mà. Chỉ tiếc, cảm hứng ca ngợi người dân tộc quá đà gây nên những cái “lỗi chính tả” như thế nhan nhản trong truyện làm người đọc cứ ngờ ngợ :” có nhẽ đâu thế?” . Anh cán bộ Cầm và bộ đội ở bản ít ngày rồi lại rút đi, để Kông Hoa lại rơi vào thảm cảnh. “Nắng như cầm lửa đổ xuống. Dưới suối nước trốn gần hết, dân phải dỡ từng hòn đá ra mới tìm được nước.Rẫy muốn cháy. Cây lúa thấp lè tè, hột cứng ít, lép nhiều…”. Kinh hoàng hơn cả là cái đói ….muối.

“ Con nít khóc kêu mẹ :” Mẹ ơi, mẹ ơi, cho con cái mặn…”. Nước da người nào cũng tái lét , bủng rẹt. Hai ông già không có muối ăn, thở không nổi, rồi chết…” Trong cơn hoạn nạn, ông Chủ tịch Pok Pa và chỉ huy Núp muốn cứu dân thì chỉ việc cho phép lũ làng xuống phố An Khê làm thuê lấy tiền mua muối, đong gạo là vượt qua được mọi chuyện. Nhưng không, Núp khăng khăng ngăn không cho về :

” Không được đâu.. Về càng chết…Thà chết thôi..”. Aáy đấy, mới nho nhoe lên làm lãnh đạo, anh hùng Núp đã coi mạng người như cỏ rác ? Viết tới đây chắc ông nhà văn cũng cảm thấy cái lý do “ không cho dân xuống phố An Khê mua muối” là không được…chính đáng lắm, ông bèn cho mấy người trốn xuống núi và vài hôm sau họ trở về khóc to : “ Pháp lấy dao cắt lỗ mũi, cắt lỗ tai, chặt tay, chết hết bốn người rồi, ba người sợ quá trốn về đây…”

Oâi chao ôi, Pháp nào mà ngu quá, bỏ công bỏ sức ra vận động người Thượng về với mình ; khi dân trở về lẽ ra phải mở rộng cửa mà đón vào, tặng gạo muối chớ ai lại đi cắt tai, xẻo mũi , chặt chân … thì thực là chuyện chỉ có trong…tưởng tượng của ông nhà văn. Bịa ra cái lý do “ đầy thuyết phục “ ấy rồi, từ nay tác giả tha hồ “nhốt “ dân Ba Na trên làng Kông Hoa để “xây căn cứ địa” chống Pháp bất chấp nạn đói đủ thứ.

Tuy nhiên, sức chịu đựng của con người xem ra cũng còn có giới hạn, khi chỉ huy Núp kêu gọi mọi người bỏ làng lên núi cao lập làng mới để chống Pháp cho chắc ăn bị bà con phản đối : “Không có muối ăn làm sao ? Chân Núp thanh niên khoẻ, Núp leo núi được. Chân tôi không có muối, không biết leo núi đâu.. Ở đây không đi đâu cả. Đấy con nít đấy, đem nó lên núi, chết trên đó, chôn trên đó à…”.

Phản đối thì phản đối, nhưng Núp nhớ lời anh Cầm dậy :” Mình phải đứng dậy cầm giáo mác, cung tên đánh lại Pháp mới lấy lại đất nước được…”. Bởi vậy dân đói cơm đói muối, con nít chết…mặc kệ, cứ phải là “lấy lại đất nước cái đã”, Núp quyết định cứ chuyển hết làng lên núi bất chấp “ bốn phía tiếng con nít đòi muối khóc ồn ào, tiếng bà già ông già chửi người xui bậy , tiếng thanh niên phản đối Núp nói to.

Giải tán hết. Mỗi người đi một ngả…” Lúc này mới thấy cái bản tính sắt đá, kiên quyết mục tiêu cách mạng dẫu hy sinh tính mạng của dân cũng cứ mặc kệ mà đê cán bộ Cầm gieo vào tâm hồn anh thanh niên người Thượng nay đã sớm đơm hoa kết trái, bám chắc vào cái đầu vốn nguyên sơ trong trẻo như nước suối đầu nguồn của anh ta. Thế là anh quyết không chịu nhân nhượng dân làng mà đi từng nhà vận động : “ Aên tro tranh thay muối khổ lắm.

Tôi cũng biết khổ. Nhưng ăn tro tranh khổ một đời mình thôi. Còn ăn muối của Pháp khổ hết đời mình, đời con mình khổ nữa , đời cháu mình khổ nữa…” Kỳ lạ thay , cái triết lý “ sống cho tương lai”, “sống là để sửa soạn sống cho mai sau ” – cốt lõi của nhân sinh quan cộng sản chẳng hiểu đã thấm sâu vào anh thanh niên Thượng này từ bao giờ mà anh “vận dụng” xuất sắc đến như vậy ? Ngay khi cán bộ còn chưa mang “ cái ánh sáng của Đảng “ tới cho lũ làng, chẳng hiểu sao, anh chàng Núp đã đứng lên kêu gọi vanh vách :”Đánh đếân khi hơn Pháp, hết Pháp ở đất nước mình mới thôi.

Đánh đời mình chưa xong, thì đánh đến đời con, đời cháu mình nữa…”. Oâi chao, cán bộ cao cấp cỡ Uỷ viên Trung ương Đảng ra lời kêu gọi toàn dân trường kỳ kháng chiến chắc cũng chỉ hùng hồn bằng anh thanh niên người Thượng này. Với tinh thần đó, quyết không chịu sống trong vùng tạm chiếm, Núp kéo luôn cả bản Kông Hoa chạy tuốt lên núi cao lập làng “tự do” thiếu gạo, ăn tro thay muối, khoác vỏ cây thay quần áo, thiếu cả rìu dựa bằng sắt phải thay bằng đá để chặt cây, phá rừng dựng nhà làm rẫy. Có ai chặt được cây lớn bằng đá không ? Có đấy, ông nhà văn kể :

” Đêm nay Núp phải ngả cho được cây này . Núp lại ôm hòn đá, lấy sức bửa vào gốc cây, hai cái, ba cái …làm mãi, làm mãi không nghỉ . Cho đến khi con gà thức giấc kêu ò ó o. Núp leo lên ngọn cây , cột một sợi dây rừng rồi ra sức kéo. Cây gẫy răng rắc, đổ ào xuống…”.

Ngày nay nếu trở lại Tây Nguyên, ông Nguyên Ngọc thử treo giải thưởng trăm triệu đồng cho anh thanh niên nào khoẻ nhất làng dùng hòn đá trong có một đêm mà chặt được cây lớn “gẫy răng rắc” thì mới thật là không…bốc phét. Suốt ba năm 90 con người làng Kông Hoa sống trong khổ cực vậy để làm gì ? Xin thưa rằng chỉ là để…”…chờ bộ đội Bok Hồ, chờ anh Cầm, dài không biết bao nhiêu.Hòn đá dưới suối Đất Hoa trước kia nhọn, bây giờ nước đã mài tròn cả đầu nó rồi. Chín mươi người vẫn lầm lì đi theo Núp”.

Sống cả ngàn ngày như trong thời đại đồ đá vậy mà không mong ăn no, không cầu mặc ấm mà lại chỉ “mong mãi lưỡi gươm ông Tú, mong mãi người Kinh, người của Bok Hồ lên” thì lũ làng Kông Hoa quả thực là mắc bệnh tâm thần cả rồi. Aáy thế nhưng chờ đợi trong khổ cực, mỏi mòn vậy mà cách mạng cũng vẫn chưa chịu lên cho, sau cùng anh chàng Núp đành phải tự mình đi tới rừng Ba Lang tìm gặp cán bộ chứ còn biết chờ tới bao giờ ? Không thấy tác giả kể cuộc gặp gỡ ấy ra sao, chỉ thấy Núp “đi gặp người Kinh “ về khoe với cả làng : ” Ô…người kinh này tốt lắm. Con mắt hiền lành đen lắm. Ít nói…Cái áo màu đen, thường thôi, không đẹp đâu. Đi dép làm bằng bánh xe lấy được của Pháp…”.

Cũng giống như lần trước đi gặp cách mạng về, Núp chẳng mang được nắm gạo, hạt muối nào về, lại vẫn chỉ những câu chuyện về bok Hồ. “Thế bok Hồ ở đâu ?”- lũ làng hỏi. Núp nhìn quanh , suy nghĩ, rồi đứng dậy đi ra cửa quay về phía ông sao giống cái bánh lái của người Kinh , đưa tay chỉ vào đêm tối mờ mịt: “ Bok Hồ ở phía này…”

Tất cả đều ra cửa nhìn. Oâng sao bảy cái nhấp nhánh và rất sáng. “ Bok Hồ ở phía này” “ Phía này có một ông sao quanh năm không bao giờ thay đổi chỗ ở. Sáu ông sao lớn chạy quanh ông sao đó…” Oâng sao đó chính là bok Hồ “ không bao giờ lặn nữa trong lòng đồng bào Kông Hoa.” Ghê chưa, một phát hiện thiên văn học vĩ đại, “ông sao 7 cái “ thì đúng là “đại hùng tinh rồi”, nhưng tìm đâu ra “một ông sao quanh năm không đổi chỗ” và lại có những “sáu ông sao lớn chạy quanh” để tượng trưng cho bok Hồ ?

Lỗi kiến thức này không thuộc anh thanh niên người Thượng mà chính do tác giả đã nhét vào đầu anh ta. Vả lại, hình ảnh “ngôi sao dẫn đường” chỉ dành nói về Đảng thôi , còn nói về bác thì phải dùng hình ảnh “cha già dân tộc” kìa, vậy mới đúng là kiểu nói chính thống. Nói chuyện bok Hồ xong rồi, tất nhiên phải nói tới chuyện…Đảng. Chuyện này “trừu tượng” chứ không cụ thể như chuyện bok Hồ, làm sao nhét được vào đầu anh thanh niên “bán khai” đây ? Cái sự “giác ngộ về Đảng “ cho người dân tộc này xem ra khó quá, nên tác giả đành lờ đi cái quá trình mà chỉ trình bầy cái kết quả.

Anh cán bộ Thế nói : “ Người mình đánh Pháp cứ thua mãi, thua mãi. Cho đến khi có Đảng chỉ huy mới thắng được tới bây giờ. Đánh Pháp ngày nay là do Đảng chỉ cho đấy…” “ Ô…thế Đảng là Bok Hồ phải không ?” “ Bok Hồ cũng là người Đảng đấy. Nhưng còn nhiều người Đảng khác…Ai người nghèo khổ , căm thù Pháp, căm thù người bóc lột , làm ăn tốt…người đó là người Đảng…” Chỉ có thế thôi, anh chàng Núp đã “giác ngộ Đảng “ rồi . “ Suốt đêm đó Núp không ngủ. Chung quanh thấy toàn sao là sao…”. Vậy là “mặt trời chân lý” đã “chói qua tim” anh người Thượng, thức trắng đêm là phải rồi, thật chẳng bù cho mấy anh trí thức, học đi học lại mãi mấy kỳ chỉnh huấn mà vẫn tơ lơ mơ chưa hiểu Đảng là gì.

Thế rồi sau “ gần bốn năm sương mặn của núi Chư Lây đã làm đen sạm hết chín mươi khuôn mặt lũ làng. Gần bốn năm nay , chưa một ngày nào chín mươi người đó được ăn đủ no, đủ mặn. Thịt trong người teo lại. Má hóp xuống…”, sau cùng anh Thế, người của Đảng cũng đã trèo lên bản mang theo…9 cái rìu rựa để tặng lũ làng. Oâi chao ôi, quà của bok Hồ chỉ có bấy nhiêu thôi, mà già làng đã “õ múa tay, trợn tròn hai con mắt” : “ Bok Hồ gửi anh Thế mang lên cho bốn cái rựa, năm cái rìu …ô cái nào cũng mới tinh cả, sáng như là ông trăng, như thế cũng bằng cho người Kông Hoa…mấy cái ?Hai cái à…cũng chưa phải đâu…ba bốn năm sáu bảy…một trăm cái tay đấy…hà hà hà…”

Anh chàng Núp cũng cầm cả 9 cái rìu rựa đưa lên cao mà rằng : “ Bây giờ có anh Thế mang rìu rựa của người kinh, của bok Hồ gửi cho mình đây, mình càng làm rẫy giỏi nữa , ăn no nữa, nhất định thằng Pháp phải chết trước mình…” Chỉ mất có 4 con dao và 5 cái rìu mà đã lôi kéo được cả làng người Thượng đi theo cách mạng, đánh Pháp đến cùng thì “công tác vận đồng quần chúng trong các dân tộc ít người” quả thực là quá…dễ dàng. Viết như thế, người Pháp đọc được chắc phải tiếc hùi hụi vì đã bỏ ra biết bao tiền của cho các sắc tộc Tây Nguyên mà vẫn bị họ căm thù, đánh cho tơi tả thì là sao ?

Ở đây ông nhà văn không muốn vạch ra cái “bí kíp” của cách mạng đó, chắc là sợ người Pháp học được dùng nó lôi kéo lại người Thượng thì rầy rà hay là trong thực tế chuyện giác ngộ Đảng cho anh thanh niên dân tộc không diễn ra xuôi xẻ như ông nhà văn tưởng tượng khiến ông phải làm qua loa chiếu lệ vậy thôi. Cảm hứng ca ngợi quá đà tình cảm “Kinh-Thượng” cũng đã đưa ngòi bút Nguyên Ngọc diễn tả một thằng bé người Thượng lưu luyến anh cán bộ người Kinh chỉ về huyện họp có dăm ngày đến mức…lố bịch : “Bữa nay anh Thế về huyện. Nó ngồi trông mãi .

Tay nó cầm sợi dây có cột nhiều gút. Anh Thế hẹn đi về huyện năm ngày thì trở lên. Mỗi ngày thằng Ngứt thắt một gút trên sợi dây . Sáng nay ngủ dậy , nó đem ra đếm , thấy đã đủ năm gút, nó ra ngồi chờ mãi, sao anh Thế không thấy lên ? Nó ngồi trên ngưỡng cửa , ai hỏi gì cũng không nói, chị Liêu đi ra rẫy cũng không đi theo, con mắt cứ ngó chăm chăm phía suối Đất Hoa…”

Oâi chao, cái thứ nhớ nhung “bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi đống rơm “ thế này là thứ tình cảm trai gái đang yêu, ông nhà văn nỡ lòng nào nhồi nhét cho một thằng con nít người Thượng đang tuổi ham chơi ? Cứ phải chịu đựng một thứ cảm hứng “ca ngợi quá đà” như thế, người đọc phải kiên nhẫn lắm mới theo được Nguyên Ngọc dẫn dắt câu chuyện anh chàng Núp đi vận động các làng xung quanh : Đê ta, Đê ô, Đê mô, Đê lanh, Kông giàng…đi theo cái làng Kông hoa của anh đứng dậy đánh Pháp. Rồi Núp vào Đảng, Núp thành cán bộ xã, cán bộ huyện, thành Chiến sĩ thi đua, thành Anh hùng Quân đội…và đi ra Bắc tập kết để tiếp tục đánh Mỹ- Diệm và được gặp bok Hồ.

Anh chàng Núp và mọi nhân vật trong “ Đất nước đứng lên” được vẽ bằng toàn một mầu hồng đỏ chói không mảy may gợn một chút bụi trần của con người phàm tục. Đó toàn là những con người “ nghe theo người Kinh” cam chịu đóng đanh trên cây thập giá của chiến tranh với nỗi ham muốn tột bực chỉ là đánh Pháp .

Nguyên Ngọc đã nhào nặn tuốt luốt những con người Thượng nhỏ bé, đầu óc giản đơn , chất phác , sống hoà hợp với thiên nhiên thành những kẻ say máu, chém giết bằng những vũ khí dã man như tên độc, chông đất, chông trời…và đưa họ vào bảng phong thần thành những thánh nhân của cách mạng. Tại sao vậy ? Đó là vì : “Tháng 8-1955, tôi được triệu tập về trại sáng tác về Anh hùng Quân đội , ở đây tôi được phân công viết về đồng chí Núp.

Tôi viết “Đất nước đứng lên “trong dịp ấy, trong sách đó , tôi gửi tất cả những mong ước ca ngợi những người anh hùng Tây Nguyên mà từ trước đến nay tôi chưa thực hiện được qua mấy lần thất bại…” ( Nguyên Ngọc – Thư gửi ngày 9-11-1960 cho Tổ văn học hiện đại Trường đại học Tổng hợp Hà Nội) Vậy là đã rõ, “Đất nước đứng lên” được viết trong “trại sáng tác về anh hùng quân đội, chỉ nhằm ca ngợi những người anh hùng chứ không nhằm phản ánh hiện thực các sắc tộc Tây Nguyên trong những năm chiến tranh của thập kỷ 1950.

Và bởi mục tiêu rõ ràng và rành mạch như vậy nên bức tranh mà Nguyên Ngọc dựng lên trong suốt hơn 200 trang giấy còn lâu lắm mới tiếp cận tới những sự thực dữ dội của đời sống người Thượng trên cao nguyên. Và như vậy, suy cho cùng, “Đất nước đứng lên “ cũng chỉ thuộc loại sách “Người tốt việc tốt” dùng để giáo dục chính trị tư tưởng trong một thời kỳ lịch sử đã qua.


V. Con nai …vờ ngơ ngác

Ngay sau khi giành được chính quyền ở Sàigòn, Nhà nước VN đã tổ chức “một khoá học tập gọi là khoá bồi dưỡng chính trị dành cho văn nghệ sĩ”, “cấp tốc đưa từ Hà Nội vào những nhân sự có vai vế trong giới văn học của miền Bắc như Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bảo Định Giang...v..v...” và thơ Lưu Trọng Lư “đã kể lại con đường phục vụ "cách mạng" của mình và kêu gọi văn nghệ sĩ miền Nam hãy mạnh dạn đi theo con đường mà ông đã trải qua. “.

Thực ra chẳng phải chờ tới “khoá bồi dưỡng chính trị” này, ngay sau ngày Huế rơi vào tay “bộ đội giải phóng”, đứng trước cảnh nhà cháy, người chết, gia đình ly tán, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã “kể lại con đường của mình” bằng những lời sảng khoái, mừng rỡ trong bài thơ “Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi “ : “ Đất này không phải xứ sở của thần tiên,

Người với người thôi , sao mà đẹp vậy… Đường ta đi thế đấy Đường ta đi thế đấy bạn lòng ơi…” Ba ngày sau khi tiếng súng đã tắt trên cố đô, đặt chân trên đường phố Huế, nhà thơ Lưu Trọng Lư đã bịt tai che mắt sao mà không nhìn thấy những dấu tích máu còn lại sau tết Mậu Thân, những thảm trạng người với người giết nhau, giành giật nhau cơ hội sống còn trong trốn chạy, tưởng như “Thượng đế đã chết trong thành phố”, vậy mà trái tim thi nhân của nhà thơ vẫn reo vui : “ Người với người thôi, sao mà đẹp vậy…”

Phải đặt câu thơ vào thời khắc của lịch sử , người đời sau mới thấy hết được trái tim đen của thi nhân, ngòi bút của ông ta đã chấm vào mực hay máu để mà cười vui trước nỗi đau của dân tộc ? “Như con ngựa đường trường Ta về đây gõ móng Trời cao đất rộng Mở phanh vạt áo của hồn ta…” Tháng Tư 1975, từ biệt thự cơ quan Hội nghệ sĩ sân khấu 51 Trần Hưng Đạo Hà Nội , “con ngựa đường trường “ Lưu Trọng Lư đã phi thẳng tới “ cố đô Huế “hỗn loạn để …gõ móng .

Oâng gõ vào ai vậy ? Tất nhiên không phải vào “Ban quân quản thành phố”, không phải “đoàn quân chiến thắng xạm màu súng đạn”, cũng không phải Đại Nội rợp trời cờ đỏ ? Vậy thì nó chỉ còn gõ móng vào nỗi đau của đồng loại trong “mùa hè đỏ lửa” trên “đại lộ kinh hoàng” và liệu ông có coi những mẹ, những em, những nỗi đau “bọt bèo số phận” là “đồng loại” không ? Chắc là không ? Đồng loại của nhà thơ phải là những “mũ tai bèo đôi cánh đang bay”, những “em băng trong lửa đạn chiến hào , tóc nữ sinh cuốn theo vành mũ vải…”

Vô cảm với nỗi đau con người trong loạn lạc, Lưu Trọng Lư lại còn tự đấm ngực, bứt tóc, rên rỉ, gào rú cho thân phận của chính mình trước ngày ông có Đảng : “ Oâi !bé bỏng một tấm thân người Một chiếc thuyền nan bồng bềnh giữa hai bờ sống chết Có nỗi thương của Giêdu, có nước mắt của Phật Và trên tay áo này, Trên tay áo này Những giọt đau ! Những giọt đau ! …Trong cõi lạnh hư vô Một con đò, ôi một con đò…” Viện cả đức Chúa Giêsu và đức Phật Thích ca ra để mà “phản tỉnh con người cũ” liệu có lôi kéo được ông Nguyễn Khắc Viện ( người được Lưu Trọng Lư tặng bài thơ này” đi theo “ Đường ta đi thế đấy…” :

“Ta một giang hồ thi sĩ Dừng nghe tiếng gọi từ xoáy hồn ta Hay tiếng gọi từ một bến bờ xa Tiếng gọi từ một bến bờ xa Tiếng gọi từ một bến bờ quang đãng Trận gió Thu và những ngày Tháng Tám Đắng cay sực tỉnh, mình lạnh mồ hôi…”

Đó, một “giang hồ thi sĩ” lớn như Lưu Trọng Lư còn đi theo Cách mạng Tháng Tám, huống hồ nhà viết sách “học làm người” như Nguyễn Khắc Viện còn chần chừ làm chi ? Thôi thôi hãy cùng nhà thơ lên đường : “ Rồi với kẻ cùng đi Với những tấm lòng theo nhau vào trận đánh Thế thôi !mà sao vất vả rộn ràng… Một ngày qua nhanh, tiếc ngẩn…” Lời rủ rê này chẳng riêng gửi bác Nguyễn Khắc Viện mà cho cả trên 400 văn nghệ sĩ Sàigòn trong “khoá học chính trị “ ngày đó.

Các vị còn chần chừ gì nữa, hãy “theo nhau vào trận đánh”, chậïm một ngày là tiếc ngẩn một ngày, đơn giản thế thôi mà sao cứ “vất vả” chần chừ mãi thế ? Tiếc thay, bỏ ngoài tai lời kêu gọi của nhà thơ, chỉ vài năm sau , gần 400 văn nghệ sĩ này đã bỏ của chạy lấy người, rủ nhau biến sạch ra…hải ngoại. Làm thơ chưa đã, Lưu Trọng Thư còn diễn dịch ra 80 trang văn xuôi “Đường ta đi thế đó bạn lòng ơi…” để “giác ngộ thanh niên Huế”. “ Sau khi Huế giải phóng dược vài hôm, giữa phố Paul Bert cũ , tôi đã gặp mấy thanh niên…Cũng không hiểu sao, họ đã nhận ra tôi và điều đầu tiên là họ muốn biết từ Tiếng thu những bước đi của tôi như thế nào ?” Và nhà thơ hãnh diện trả lời : “ Còn thế nào nữa ? Tôi ngày nay đã là một người cộng sản. Với những người bạn trẻ ở miền Nam vừa được giải phóng, những bạn đã từ một đêm dài trở lại với ánh sáng, hôm nay tôi muốn có đôi lời gửi gắm…”

Nào các bạn thanh niên miền Nam vừa từ “đêm dài” trở lại “ánh sáng”, sắp được rời thành phố lên rừng đi kinh tế mới, sắp được khăn gói đi học tập cải tạo, sắp được bước vào công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền Nam, các bạn hãy lắng nghe nhà thơ “Tiếng thu” ngày xưa , “cộng sản” ngày nay gửi gắm những lời lẽ gì ?

Sau khi nhắc lại hình ảnh ông là chiếc thuyền nhỏ bé đi giữa hai bờ sống chết, nhà thơ tâm sự : “ Câu thơ này thật ra có thể tổng kết cả một thời trai trẻ của tôi , nói lên cả một chân lý cuộc đời tôi…Thật là lênh đênh giữa hai bờ sống chết. Không phải thân thế tôi chỉ “giang hồ “ trong cuộc sống , mà tâm tư tôi còn “phiêu bạt” trong cõi đất trời mông lung mà tôi không hiểu nổi…”

Trong cả chục triệu thanh niên miền Nam trước 1975, liệu có được bao nhiêu người “lênh đênh giữa hai bờ sống chết”,” giang hồ” trong cuộc sống”, “tâm tư phiêu bạt trong trời đất” như nhà thơ ? Khéo lắm chỉ có đám đâm thuê chém mướn, “đá cá lăn dưa” ở chợ Cầu Muối mới có cùng tâm trạng với ông, còn tuyệt đại đa số thanh niên miền Nam vốn chí thú làm ăn và coi gia đình là gốc, vậy lời “gửi gắm” của ông còn có tác dụng gì? Vậy nhưng ông vẫn kiên trì kể lể : “ Tôi có thể nói từ thủa nhỏ, từ nhà tôi, một nhà quan cũng như từ cung vua của Thái tử đi ra tám hướng, hướng nào cũng ngập những nỗi khổ đau của con người…

Tôi đi tới phương nào cũng gặp những nối khổ đau của con người. Nào tôi đã làm gì để giảm nhẹ , để xoá bỏ nỗi đau khổ của con người ?” “ Đời là bể khổ” mà, Phật đã dậy rồi. Vậy là mang lý tưởng của Đức Như Lai, cậu bé Lưu Trọng Lư lên đường để “xoá bỏ nỗi đau khổ của con người”. Oâi cao quý thay…Vậy cậu đã làm gì ? “ Cũng chỉ đến đổ nước mắt thôi!Chỉ có nước mắt thôi , không cứu nổi con người đâu …”

Vậy thì cái gì cứu nổi con người. Chẳng vòng vo gì nhiều, ông nhà thơ huỵch toẹt : “Sau này khi tôi có bài thơ nói về Đảng của tôi, trong đó có câu : “ Mẹ không cho nhiều nước mắt Như Lai…” Là ý nghĩa như thế, Đảng trân trọng những gịọt nước mắt nhưng Đảng không khuyên con người cứ chết chìm trong nước mắt. Niệm một nghìn lần câu “ Đời là bể khổ” cũng không cứu đời ra bể khổ…”.

Vậy là đã rõ, đứng trước mọi khổ đau của kiếp người cho dù bố đi cải tạo, mẹ vất vả thăm nuôi, chị gái ra đứng đường, em gái liếm lá ngoài chợ… thì cũng không nên “ chết chìm trong nước mắt”. Vậy phải làm gì ? Oâng nhà thơ đã vạch cho tuổi trẻ miền Nam một lối thoát : tin yêu vào cuộc sống . “ Sự tin yêu cuộc sống đã cho tôi sức trẻ…Trong thơ văn tôi đã nhắc nhiều lần đến hai chữ “hồi sinh”. Trong bài thơ “Tiếng thu II” tôi có câu : “ Những kiếp người tất tả hồi sinh” Vậy “hồi sinh” tôi hiểu thế nào ? Là từ bỏ những gì vẩn đục , đen tối xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn…”

Rất chí lý, hàng triệu thanh niên miền Nam đã thực hiện y như lời gửi gắm của nhà thơ Lưu Trọng Lư, họ cũng từ bỏ những gì vẩn đục, đen tối, xấu xa để chuyển tới một cuộc đời trong sáng hơn, cao đẹp hơn, chỉ tiếc rằng họ “hồi sinh” bằng “đôi chân” chạy trốn khỏi cái xứ sở thời đó mà đến cái cột đèn nếu có chân cũng phải bỏ đi…

Tất nhiên ông nhà thơ không đời nào muốn tuổi trẻ miền Nam “hồi sinh” theo kiểu “ bỏ phiếu bằng đôi chân đó”, ông muốn các em trước hết hãy đi vào …nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê mà ông kêu to lên như người mới phát hiện ra chân lý :

“ Oâi !Duy vật biện chứng pháp bao nhiêu ngày tháng tôi triền miên trong cái trầm hương đó toát ra từ cái cốt lõi sự vật.Và mỗi ngày tôi ngắm xung quanh tôi muôn vàn biểu hiện , vô vàn biểu hiện phong phú, rực rỡ của cái người đời gọi là vật chất, cái duy nhất có thật ở đời…”

Oâi, ở miền Bắc sau hơn 20 năm nghiên cứu học tập, chẳng còn mấy ai tin vào cái “biện chứng pháp “ ấy nữa, bởi vậy nhà thơ mới mang nó vào miền Nam, thật đúng là “củi mục bà để trong rương , hễ ai hỏi đến trầm hương của bà”… Đặt chân rất sớm vào Sàigòn sau Tháng Tư năm 1975, từ Hội trường Khoá bồi dưỡng chính trị cho gần 400 văn nghệ sĩ “chế độ cũ”, nhà thơ Lưu Trọng Lư đi thẳng tới khám Chí Hoà …làm bài thơ “Tìm anh” : “ Đập cổng Chí Hoà không thấy bóng Tay cầm hoa trắng , đi tìm anh…”

Nhà thơ tìm ai vậy ? Có phải một bạn thơ cũ ngày trước làm việc cho Mỹ-nguỵ hoặc họ hàng thân thuộc có dính dáng tới chính quyền cũ nay bị cách mạng bắt giam ? “Qua cầu Công lý nhìn mây nước Tưởng thấy hình anh giữa biếc xanh…” Hoá ra không phải, người mà nhà thơ cất công tới tận nhà ngục tìm chính là anh…Nguyễn văn Trỗi, chưa một lần gặp mặt mà chỉ biết tới qua bút ký “ Sống như anh” của Trần Đình Vân.

Trong thời điểm các nhà thơ miền Bắc mới đặt chân vào Sàigòn ngay sau ngày ông Dương văn Minh tuyên bố “bàn giao chính quyền”, cũng nên nhắc tới Huyền Kiêu, một nhà thơ lão thành miền Bắc, khi vào Sàigòn đi ra ngoại ô đã cảm thán làm bài thơ “Gặp người thương binh nguỵ trên cầu Bình Triệu” với chút cảm thông, lập tức nhà thơ bị phê phán và bị đưa về “ngồi chơi xơi nước “ tại NXB Văn Học. Suốt cả đời thơ, Lưu Trọng Lư tuyệt nhiên không va vấp, không có câu thơ nào làm mếch lòng Đảng, không có bất kỳ một “tai nạn nghề nghiệp” nào như rất nhiều đồng nghiệp khác.

Ngay cả mấy năm sau, năm 1979, nổ ra chiến tranh biên giới phía Bắc, được lên Cao Bằng để chứng kiến bọn bành trướng Trung Quốc giết hại các em nhỏ ở một lớp học, được giao làm thơ để tố cáo bọn bá quyền dã man, nhà thơ Lưu Trọng Lư cũng tính rằng đây chỉ là “ngọn gió quái”, sẽ qua mau, Trung Quốc vẫn “ vừa là đồng chí vừa là anh em”, nên ông làm một bài thơ giữ kẽ, rất chung chung, không dám nêu đích danh kẻ thù lúc đó là quân xâm lược Trung Quốc :

Tội giặc Từ chiến địa trở về Ngủ một đêm Đèo Gió Trăng như vừng gương nhỏ Trên tay em gái sàn Nước máng từng giọt tràn Như đàn tranh tưng tửng Hương bưởi gần thoang thoảng Nằm nghe gió rúc xa Dưới ánh lửa hồng cô giáo Thuỷ Nhớ trò, nhớ lớp ngồi ngẩn ngơ. Cao Bằng 3-79 Với bọn Khơ me đỏ, Pônpốt, Iêng xary cũng vậy, dẫu sao các “đồng chí” đó vẫn là cộng sản, chửi đích danh đâu có được :

“Tới đây mắc võng Trường Sơn Có thu trước mặt , có xuân bên mình … Sáng nay con đến ven rừng Thấy cành hoa đẹp vết thương trên người Chết rồi còn đỏ làn môi Thấy sỗ sàng thân ngọc, con nghiêng cài áo khuy…” 1981 Chỉ chung chung thế thôi, đâu có dám vạch mặt chỉ tên những đứa nào đã làm nhục mẹ .

Cứ “giữ kẽ “ vậy cho an toàn, biết đâu vài năm nữa các đồng chí đó lại “ bốn phương vô sản đều là anh em” thì sao ? Quả nhiên những bài văn thơ nêu tội ác đích danh bọn Trung Quốc xâm lược đều lặng lẽ biến mất khỏi sách báo, riêng có bài của Lưu Trọng Lư vẫn được in vào tuyển tập.

Ca ngợi người anh hùng trong chiến tranh với Khơ me đỏ và Trung Quốc cũng vậy, chẳng bù cho ngày trước lớn tiếng vạch mặt Mỹ- nguỵ, nay không một chữ nào điểm mặt, chỉ tên quân thù : “ Anh không ngồi đếm bao thu còn lại Bao tuần lá đổ, vàng rơi Khi cánh song anh khép kín cõi đời Anh vẫn không tin : mình chết… Khi gà mai mỗi ngày còn đập cánh Ai tắt được lửa bình minh…” Lẽ nào anh chết- 1981 Cứ làm thơ theo định hướng chiến lược phân biệt “bạn thù” của Đảng kiểu “kẻ thù lâu năm của nhân dân ta vẫn là đế quốc Mỹ”, trái tim nhà thơ liệu có còn đập theo những buồn vui trần thế nữa chăng ?

Trong những năm chiến tranh, đời sống dân miền Bắc rất thê thảm, con nít sinh ra không đủ sữa, nhiều người phải giã đậu phọng thành nước cho con bú, triết gia Trần Đức Thảo ngày ngày đạp chiếc xe “Pơ giô” con vịt – tức xe đạp con nít Liên xô từ Khu tập thể Kim Liên tới Thư viện Khoa học xã hội, mang theo cái cạp lồng trong có hai cục bột mì luộc, trên đường ghé nhà ăn tập thể tranh thủ xin… biđông nước chè “một hào ba gói” .

Trong khi đó Lưu Trọng Lư sống trong khu Ba Đình giành cho các quan, mua bán tại cửa hàng Tôn Đản là “chợ vua quan” làm sao thấu hiểu nỗi khổ dân chúng nên thơ ông tuyệt nhiên không một câu cảm thông những cảnh đời khốn khó . Suốt cả chục năm 1975-1986, ông vẫn náu mình trong “Hoành sơn nhất đái” - ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng muôn thủa. Năm 1982, một anh bạn đi Pháp về cho coi ảnh chụp …bác Hồ ngủ trưa giữa ổ rơm ngoại thành Paris, Lưu trọng Lư liền cảm khái thành thơ : Giữa ổ rơm : Nằm nơi đất lạ, tình không lạ Giấc ngủ tìm về giữa ổ rơm Một đời gắn bó mùi rơm rạ Mắt nhắm còn lo chuyện áo cơm…”'

Thế đấy, hàng triệu người già, trẻ con trong những năm tháng đó lấy rơm làm giường sao nhà thơ không buông một tiếng thở dài ? Tiếc thay đó là điều cấm kỵ trong văn chương miền Bắc nên ông cứ ngó lơ, ngậm miệng “giữ ghế” cho … con cái đi học Liên xô, dân chúng có khổ sở vì “giá, lương, tiền” ông vẫn reo vui : “Đẹp lắm!trên đời những vấn vương Chao ôi thiên lý một con đường… Đi trong trời đất từ duyên ấy…”

Thưa vâng, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội “thiên lý” lắm, nhưng nếu cứ ở khu Ba Đình, hưởng sổ cung cấp Tôn Đản thì nhà thơ cứ đi mãi được và lại còn hô hào thanh niên : “Chút lửa hồng , em hỡi Ngày ấy, còn đỏ trên tay “ Nào lên đường đi !người trai trẻ !” …Ta đi như một hiệp sĩ hôm nào… 1986 Thày giáo dạy văn bình giảng bài này cho học sinh ắt hẳn sẽ tán “truyền thống cách mạng vẫn còn trong tay, nào lên đường noi gương các anh hùng liệt sĩ.”. Nhưng lên đường đi đâu, chiến tranh đã qua rồi đâu còn mặt trận nữa ? Chỗ này thì nhà thơ…tắc tị, đành lờ đi chứ còn biết nói sao ?

Không lẽ hô hào lên đường làm giàu, cái đó khỏi cần nhà thơ hô hào, hàng chục ngàn các cô gái nông thôn đã chẳng lên máy bay sang Đài Loan lấy tàu rồi đó sao ? Vậy nhưng thời thế rồi cũng đổi thay, sang kỳ kinh tế thị trường, đề tài “ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng “ xem ra mất khách, dải “Hoành sơn nhất đái “ không còn là nơi dung thân vạn đại cho những con chim chỉ biết hót véo von trong lồng son, cóng sứ.

Ngay nhà văn quân đội gạo cội Nguyễn Minh Châu cũng phải đọc “Lời ai điếu cho văn chương minh hoạ”, “theo phong trào” Lưu Trọng Lư cũng viết sách thị trường, năm 1989 cho ra đời cuốn hồi ký “ Nửa đêm sực tỉnh”. Aùi chà, đọc cái tựa sách cũng đã thấy đậm màu “phản tỉnh” – nửa đêm chợt tỉnh giấc để suy nghĩ gì đây ? Aên năn, sám hối về quãng đời đã qua ? Xét lại đường lối văn nghệ của Đảng đã đưa Lưu Trọng Lư đến chỗ bạt vía nàng thơ ?

Không phải, để làm yên lòng tuyên huấn và gây tò mò cho độc giả bỏ tiền mua, sách có ghi rõ phụ đề “ Hồi ký – Nhớ lại những mối tình “. Vậy một mũi tên trúng cả hai đích, ổn thoả đôi đường, Đảng yên tâm mà đầu nậu bỏ tiền in sách cũng yên trí. Gọi là “nhớ lại những mối tình” nhưng tác giả đã bỏ qua cái phần hay nhất là những “cuộc tình cô đầu” để kể chuyện hai bà vợ chính thức và những giao tiếp các tên tuổi nổi danh như Nguyễn Tuân, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy, Nguyễn Đỗ Cung, Điềm Phùng Thị…qua đó nêu bật được con đường từ dòng dõi danh gia vọng tộc đến với cách mạng như thế nào.

Bà vợ đầu là một cô gái Hội An, sau một lần gặp ở Huế đã lặn lội ra tận Hà Nội gặp nhà thơ để “ngày nào cũng đi chơi với nhau”. Hoá ra cô Tài là người hùn vốn sản xuất dầu tràm nhãn hiệu Thanh Thuỷ, trùng với một bút hiệu của nhà thơ bởi thế đem lòng quý mến. Cưới cô Tài ít lâu, nhà thơ đưa vợ về quê Quảng Bình sống trong ngôi nhà nhỏ ven sông Gianh; nhờ vào tiền vợ nên ngày ngày chỉ “ sớm leo núi, chiều bơi thuyền”. Khi tiền cạn, vợ chồng đành dọn về Huế tìm kế sinh nhai.

Thời gian này Lưu Trọng Lư cho ra đời truyện ngắn “Người sơn nhân “ mà theo lời tác giả được cụ Phan Khôi “ đã đưa cuốn truyện của tôi lên mây xanh” với lời tâng bốc “văn đoàn cho đến nay chưa có tác phẩm nào có giá trị sáng tạo như thế…”.


Cùng lúc đó những bài thơ mới đầu tiên của Lưu Trọng Lư ra đời gây xôn xao dư luận tạo đà cho nhà thơ đưa cả gia đình ra Hà Nội, nơi phồn hoa đô hội, đâu ngờ ra đó “khác gì số phận một chiếc thuyền nan bé nhỏ giữa ngàn sóng đại dương”. Lúc đầu nhiều người tìm tới để “mua lúa non”, giao tiền chưa cần bản thảo , chỉ cần “khi hứng ông viết vài câu để lại cho đời”. Thế rồi “cơm áo không đùa với khách thơ”, nhà thơ than thở :”

Bên những bài thơ trong sạch là “ Khói lam chiều”,”Voi già vua Hàm Nghi”,” Lầu sương điếm cỏ”….lương tâm nhà văn đã qua những bước chán chường mệt mỏi. Tôi sẵn sàng viết những tiểu thuyết để làm vui lòng những tiểu thư, những bà lớn, những cô gái tân thời…”. Một lời tự thú thật hiếm hoi trong sự nghiệp văn chương Lưu Trọng Lư. Tiếc thay, giá lời tự thú này được viết 50 năm sau đó, thì trước khi trở về với đất, “con nai vàng “ còn lưu lại chút ngậm ngùi trong lòng người đọc.

Nhưng rồi dù có viết để “vui lòng các bà, các cô” đi chăng nữa, nhà thơ cũng không trụ nổi đất Hà thành, đành dắt díu nhau về Thanh Hoá dạy học, sống đời công chức tỉnh lẻ. Dăm năm sau, bà vợ đầu mất đi, để lại cho nhà thơ hai đứa con nhỏ và như lời tác giả :” kết thúc mười năm tình nghĩa” và “một chương mới của đời tôi đã mở ra”. Chương mới đó là chuyện tình thứ hai và cũng là sau cùng, chiếm tới 9 phần mười “Nửa đêm sực

tỉnh”. Lúc này nhà thơ đã vào tuổi tam thập, đang thất vọng vì thơ không nuôi nổi người, “ cái buồn , cái đau, cái tuyệt vọng để bán liệu có ai mua ?”. Có lần, đọc vài đoạn trong kịch thơ “Ngọc Du, Ngọc Duệ” trước một cử toạ ít người, nhà thơ cảm thán thân phận “không còn một chỗ ngồi, chỗ đứng, một nẻo đi…” đến mức “như không còn kiểm soát được mình nữa , sẵn có bao quẹt trong túi, tôi đốt luôn tập thơ của tôi trên tay…”.

Đó là lần duy nhất đốt bản thảo, tiếc thay, từ đó về sau, nhà thơ không lặp lại cái việc đáng làm này nữa. Chắc vì đã có “một chỗ ngồi, một chỗ đứng” trong làng thơ và đã có “một nẻo đi” theo cách mạng chứ không bế tắc như hồi chưa có Đảng nữa. Tất nhiên, giúp nhà thơ thoát khỏi bế tắc lúc đó chưa phải Đảng mà vẫn là…tình yêu.

Cô gái đó – tên Mừng và là bà vợ sau chót, cũng dòng hoàng tộc, con gái một thày đờn, trước khi chết đã kịp truyền cho con gái mọi ngón nghề đàn tranh để sau này cô dạy cho giới quan lại, quý tộc, “dạy cho cả con gái Phạm Quỳnh, quen vào ra các nơi dinh thự “ và sau cách mạng được “ anh Nguyễn Chí Thanh cũng như anh Tố Hữu thường khen :” đàn của Mừng rất lạc quan, rất tươi”.

Sau khi bố chết, cô Mừng được mẹ hứa gả cho một công chức giàu có, “môn đăng hộ đối”. Aáy thế rồi chẳng hiểu có ma đưa lối tiên dẫn đường, hay vì tâm hồn lãng mạn, trái tim cô “lạc nẻo” sang chàng thi sĩ nghèo kiết xác, đáng tuổi cha chú, đã một đời vợ và hai con riêng. Tất nhiên bà mẹ phản đối quyết liệt mối tình trong con mắt bà là cọc cạch và phi đạo đức. Nhưng ngăn sao được ma lực của những vần thơ rót vào tai, chảy xuống tim con gái bà ?

Theo nhà thơ kể lại, một ngày nọ, chẳng hiểu thi sĩ dỗ ngon dỗ ngọt ra sao, cô gái con nhà gia giáo tên Mừng đó đã nói dối mẹ để hẹn hò người tình “qua đêm” trên một chiếc thuyền nhỏ đi xa khỏi Huế. “Đêm ấy, gió cứ thổi. Thuyền cứ trôi. Chúng tôi không cần biết thuyền ngược lên Tuần hay xuôi tới cửa Thuận. Nếu tình yêu có đỉnh cao, thì đây là đêm thiên thai của chúng tôi…”.

Vậy là sau cái đêm “động phòng” trên sông ấy, “chẳng cần những cái gọi là lễ hỏi, lẽ cưới ở trên đời”, ông nhà thơ đã phỗng tay trên cô vợ sắp cưới của anh công chức và đứa con gái rượu của một bà mạ xứ Huế hết lòng thương con. Bù đắp lại, cô gái được nhà thơ ca ngợi : “ Em là chim ý nhi Vơ vẩn dưới gốc Thuỳ Thẩn thơ tình nghệ sĩ Thơ thẩn cơn chia ly Em chở một hồn đầy…” Vậy mới biết, “dùng bút làm đòn xoay chế độ “ chưa thấy đâu, nhưng cứ rót vào tai nàng những vần thơ như thế thì đến mười bà mẹï cũng phải chào thua chịu mất con gái cho thi sĩ. Riêng bà mẹ cô Mừng không dễ chịu thua, bà phản kháng quyết liệt. Sau đêm đi hoang, cô gái viết thư cho nhà thơ :

” Ra đến giữa sân mạ gọi lại : Mừng vào đây tao hỏi. Một buổi chiều, một ngày, một đêm mày đi với ai, mày đi những đâu…đừng nói nữa tao biết cả rồi.Dưới nhà “anh ấy” (tức chồng sắp cưới) cũng biết cả rồi, khỏi phải nói. Mày đi với “chú mày” (tức nhà thơ), mày đi giữa phố có thèm tránh ai đâu, từ lúc nào mạ chuẩn bị sẵn một thanh củi. Cứ thế mà phang vào em, bên hông trái, bên hông phải. Em nói : mạ cứ đánh đi…Mạ giựt tóc em, bứt đừng khuy áo em ra, giựt cả vòng ngọc em đeo nơi cổ. Những hạt ngọc văng ra tung toé…”.

Đúng là một bi kịch Romeo và Juliette thời ‘thơ mới” ở Việt Nam. Duy có điều chàng Romeo xứ Mít chẳng hành động gì hết , chẳng tới dàn xếp với vị hôn phu của người yêu, cũng chẳng tới quỳ xuống xin “mạ” tha thứ, chàng chẳng làm gì ngoài…làm thơ. “Quả tình tôi là một kẻ bất lực. Tôi chỉ biết ngồi chờ Mừng đối phó , chờ Mừng hành động.Tôi bị gạt ra ngoài vùng lo toan, mưu kế của Mùng. Tôi tin rằng trước bao sự doạ dẫm hay doạ nạt của người mẹ, Mừng chẳng đầu hàng. Đau đớn càng nhiều, Mừng càng gắn bó, chung thuỷ với tôi…”.

Nhà thơ đã tiên đoán đúng, chỉ một tháng sau, nàng Juliette đã trốn nhà đi theo chàng Romeo trên chuyến tàu lửa về Đà Nẵng xây tổ ấm bằng “ Mừng quyết định bán đồ trang sức ra khỏi thịt da, đem đi cầm đi cố. Cả vòng chuỗi ngọc cũng đã ra đi…”. Rồi đến lúc chẳng còn gì để bán nữa , hai trái tim vàng không thể uống nước lã cầm hơi trong túp lều tranh và cô gái đã quyết định :”Không thể như thế này được nữa đâu.

Em phải về thôi”, Mừng khóc ré lên như một đứa trẻ…”. Cô gái trở về không phải để xin xỏ mẹ mà vì – theo tác giả “ Mừng đã sung sướng rỉ vào tai tôi :” Cụ Hồ Chí Minh đã về ngoài ấy…”. Oâi chao ôi, tiền hết gạo cạn thì cái sự “trở về’ của cô gái chẳng qua để xin tiền mẹ là rõ rồiï, vậy mà ông nhà thơ lại bịa ra một cái cớ tận đẩu tận đâu.


Rồi hứng lên, ông đặt vào miệng người yêu lời lẽ chỉ có ở nữ nhân vật tiểu thuyết những năm 1960 sau này :”Mừng còn nói thêm:”Em tin cách mạng sẽ đến, em sẽ đứng trước toà án cách mạng, em bảo vệ tình yêu của em…”.
Và thế là bi kịch Romeo Juliette thời tiền chiến ở VN nay đã có “ông Bụt”… cách mạng hiện lên để gỡ rối mọi chuyện. Nàng trở về nhà, ít ngày sau chàng cũng về theo và phép mầu thần kỳ của “ông Bụt” đã xảy ra, khi nhà thơ về tới Huế “Thành phố đã lên đèn đãø lâu .

Tôi đứng nhìn xuống sông, hứng ngọn gió thì nghe có tiếng trống nhịp. Khúc hát hành quân . Tôi ngẩng lên bàng hoàng không tin ở mắt mình. Người cầm cờ đi trước…một cô gái mặc cái áo thô đen trông giống Mừng và tôi phóng mắt nhìn kỹ lại : Mừng . Tôi không chạy tới Mừng . Tôi cũng chẳng kêu to tên Mừng…Tôi cứ thế, bước theo đám biểu tình …”.

Oâi trời ôi, sao mà “tốc độ” quá vậy ? Một người con gái hoàng tộc, bỏ nhà theo trai, hết tiền quay về với mẹ mà thoắt cái, hôm trước hôm sau đã trở thành… nữ chiến sĩ cách mạng cầm cờ đi đầu đoàn biểu tình thì quả thực trí tưởng tượng của nhà thơ đã vượt quá sức chịu đựng của người đọc. Aáy vậy mà “cảm hứng bốc phét ” của thi sĩ vẫn chưa chịu dừng lại, ông còn đi tới luôn, “sáng tác ” ra câu chuyện :

“Sau khi ở cửa Ngọ môn, Bảo Đại tuyên bố thoái vị để được làm người dân của một nước tự do thì một hôm người con gái cũng ở trong hoàng tộc được gọi ra trước một toà án, trước công chúng đông đảo , trẻ trung và nàng đã dõng dạc tuyên bố :” Người chồng chưa cưới của tôi là một người đáng quý trọng, nhưng duyên chẳng đưa, phận không đẩy, tôi bị ép một bề.

Tiền dặm hỏi, tôi xin trả lại. Bây giờ cách mạng đến rồi. Tôi yêu ai tôi lấy người ấy. Đó là việc của tôi. Cách mạng đã giải phóng đất nước, lẽ nào chẳng giải phóng trái tim tôi. Xin cám ơn cách mạng đã mở ra toà án này cho tôi được nói rõ lòng tôi.

Tôi chẳng có gì tội lỗi hết , phong kiến bắt tôi bỏ người tôi yêu để lấy người tôi không yêu ”. Quần chúng vỗ tay…nhìn lên các quan toà, người nào người nấy mặt mày đều hớn hở. Mừng về báo cho tôi biết :” Mừng thắng rồi…” Tội nghiệp bà mẹ mang nặng đẻ đau bị con gái yêu kết ngay cho cái tội “phong kiến”, một trọng tội thời bấy giờ, và từ lúc đó bà cũng biến luôn khỏi tâm trí đôi vợ chồng trẻ.

Tội nghiệp vị hôn phu, cách mạng nổ ra lo giữ cái thân hoàng tộc chẳng xong, còn đâu dám kiện một “nữ chiến sĩ cách mạng” tội từ hôn. Vả chăng đôi uyên ương tiền ăn còn chẳng có lấy đâu ra trả lại “tiền dặm cưới” ? Cuốn “Nửa đêm sực tỉnh “ của Lưu Trọng Lư không còn là “hồi ức “ nữa, nó là một thứ “truyện tưởng tượng” thì đúng hơn. Tới đây, nhà thơ “hồi ức” toàn chuyện cách mạng. Nào “Như một luồng gió cách mạng thổi tới, tôi được gặp anh Nguyễn Chí Thanh và anh Tố Hữu. Anh Thanh xông xáo, chân thành chân thật. …

Tố Hữu mũm mĩm, tráng trẻo thư sinh…các anh là những người còn rất trẻ, rất nhanh nhẹn , linh hoạt, có nhiều tài năng – nhũng con người của mọi tình thế…”- hết mức tán dương. Nào là “chúng tôi ở chung, ăn chung với anh Lưu Quý Kỳ, anh Trần Hữu Dực …” Thế là “ Hồi ký , nhớ lại những mối tình” của Lưu Trọng Lư đã biến thành hồi ký cách mạng.

Thảo nào nó chỉ được xuất bản có mỗi một lần thời xoá bao cấp chuyển sang kinh tế thị truờng. Từ đó đến nay chẳng còn thấy ló dạng trên các quầy tầng tầng lớp lớp những sách tái bản của các nhà văn nhà thơ tiền chiến… Vậy là trên “mặt trận” thơ và văn xuôi, dẫu có hoàn thành nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, nhưng cái cốt lõi làm nên văn chương là giá trị nghệ thuật của nó thì Lưu Trọng Lư chẳng tạo được bao nhiêu để ít ra cũng được báo chí Nhà nước tung hô một thời .

Trong khi đó các nhà văn, nhà thơ cùng trang lứa như Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài …lại nổi đình đám với những “Vỡ bờ”, “ Truyện Tây Bắc”, Chế Lan Viên, Xuân Diệu…tuần nào cũng có bài nghễu nghện trên báo Văn Nghệ. Thêm nữa Hội nhà văn VN là chỗ “quần hùng tụ hội”, những chiếc ghế béo bở đã bị mấy cha từ Việt Bắc trở về giành hết, chen chân vào đó dẫu có anh Lành bảo kê, “con nai vàng” dù có vờ ngơ ngác cũng chẳng kiếm được bao nhiêu bổng lộc.

Thôi thì “đầu gà hơn đuôi trâu” làm anh hùng nhất khoảnh ở Hội sân khấu lại chẳng hơn một xuất Uỷ viên Thường vụ Hội nhà văn ư ? Thế là ông nhà thơ quyết tiến công vào một mặt trận mà chẳng mấy anh nhà văn muốn chen chân vô : viết kịch , nhất lại là kịch thơ. Và thế là văn chương Lưu Trọng Lư có một mảng ít người biết nhưng nếu không nhắc tới thì việc đánh giá sự nghiệp thật oan uổng cho thi sĩ lắm. Kịch phẩm hàng đầu của Lưu thi sĩ là “ Tuổi hai mươi” – kịch thơ dài viết trong những năm 1966-1971 mà khi ra đời , thi sĩ Chế Lan Viên đã xỏ ngọt rằng :” Các em mà anh Lư nói đó bây giờ cũng ngoại sáu mươi chứ không còn tuổi hai mươi như anh viết nữa”. Thi sĩ Lưu Trọng Lư nóng mặt, đáp lại rằng “Đây là tôi viết cho lứa tuổi hai mươi còn lứa tuổi sáu mươi phải nhờ ông vậy…”

Vậy Lưu Trọng Lư đã viết gì cho “tuổi hai mươi” ? Mở màn chị Trăng “giao lưu’ với các cây Mận, Đào, Xoan , Trúc.. Chị than thở : “Từ trong hoàn vũ vô biên Ta lăn quanh bóng chị dâu hiền Chị yêu dấu muôn vàn : Chị Đất Oâi nửa mình chị chảy đầy nước mắt Chìm đi trong bóng tối đặc dày…” Hoá ra “chị Trăng “ cũng mang nỗi đau…chia cắt, y hệt “cảm hứng thời đại” lúc đó Đảng quy định cho văn nghệ sĩ. Nửa đêm về sáng rồi cuộc trò chuyện giữa Trăng và Cây vẫn còn rôm rả. Bất chợt ở ngoài cầu ao có tiếng chân khua xuống nước. Ai vậy nhỉ ? Ai mà giữa đêm hôm khuya khoắt còn chưa đi ngủ còn ra ngoài ao vầy nước nhỉ ?

Cô Đào nói rằng chắc cô con dâu nhà mẹ Xuân, xa chồng không ngủ được nên mới ra tắm ao vậy thôi. Cô Mận mới hỏi rằng bà Xuân có những 3 cô dâu , vậy cô nào “ khó ngủ vì vắng chồng”. Lập tức bác Mít nổi giận “con Mận con Đào hay nói tào lao”, xúc phạm phụ nữ cách mạng : “ làng này ai không biết Ba cô dâu đẹp nhà mẹ Xuân Tái nhập ngũ một lần Cả ba ông đều đi bộ đội Cơm chung nấu một nồi Con : chẳng con chị con tôi Xóm dưới làng trên thảy đều mến phục…” Ba cô vợ bộ đội mẫu mực như vậy, làm gì có chuyện nửa đêm nửa hôm còn ra cầu ao “chao chân” làm gì ?

Vậy thì người đó là ai ? Cô Đào dự đoán : “ Đúng rồi( Trót thả măng ( cá măng) với trắm mè sợ măng già sục sạo đêm khuya. Cô kỹ thuật phải ra cầu ao ngồi gác..” Các cô cãi nhau loạn cào cào, “cô dâu” bà mẹ Xuân chẳng phải, cô kỹ thuật nuôi cá cũng không, vậy thì ai là người đó ? Cô Trúc lại đoán : “ Chắc mẹ Đối lo cho con Sáng nay đã lên đường Lo cho dâu : hoa đến thì , xuân đợi Và thương cho mình tóc đã điểm sương…” Lo lắng trăm bề vậy chắc nửa đêm chẳng ngủ được nên mẹ ra cầu ao rửa chân hẳn ? Không phải, bà mẹ VN có con đi bộ đội thì phải hãnh diện tự hào chớ , làm gì có chuyện “lo lắng cá nhân “ vậy ? “Tính kịch” mỗi lúc một tăng cao khi cái bóng người ngoài cầu ao hiện rõ ra là một…ông già .

Mà cũng không phải ông già, chính là hồn của bố bà Xuân, tức người ông trong gia đình hiện về thăm con cháu. Lão Mít lập tức nhớ lại cảnh khổ thời phong kiến , trước khi có Đảng phát động cải cách ruộng đất : “Thuở thằng Chánh Yên …mùa vừa chín tới Sóc trên cây chưa ngửi thấy mùi Thằng Chanh yên dẫn xác tới rồi Lấy sào chọc đếm từng quả… Quả đầu mùa màng biếu nó Quả cuối mùa màng biếu nốt mới yên…” Tội ác địa chủ ghê gớm chưa, nhưng bác Mít cho biết nay đã đổi đời rồi, “thằng Chánh Yên : của trời trả đất, giặc Pháp cũng lui rồi..”.

Lúc này , người ông mới cho biết ông cũng là dân binh đánh Tây : “ Một đời ta trải bao nhọc nhằn gian khổ Mắt từng quen cảnh sống chết chiến trường Hạt gạo dân binh từng quẩy gánh Súng trên tay từng gác núi Vụ Quang…”

Vậy là “người ông” đã một đời đánh Tây, cay đắng đủ mùi, lẽ ra chỉ mong con cháu sống thanh bình, sinh con đẻ cái, vậy mà không, ông chỉ trở lại xem con cháu có “tiếp nối cha anh “lên đường đánh Tây không hay là an phận thủ thường. Và ông mừng rỡ khi đứa cháu cũng lại “tay súng lên đường”: “ Ai thế nhỉ ? Khăn gói lên đường Lại trên vai khẩu súng Chắc sắp sửa lên đường…” Và người ông reo mừng :

“ Chà!dáng đi vẻ đứng hiên ngang Cháu yêu ta đó! Đúng rồi : cháu yêu ta đó…” Oâi chao ôi, ông ơi là ông, sao chỉ thích cháu ‘cầm súng ra chiến trường” sao không mong đời cháu sung sướng, mát mặt hơn đời ông ? Quả nhiên, đúng ý ông, đứa cháu cũng sắp lên đường nhập ngũ, nó ra đây để chờ chia tay người yêu. Trong giờ phút ly biệt này, nó nghĩ gì vậy ? Nó không nghĩ vì sao nó phải dứt ruột chia tay mẹ, chia tay người yêu, nó không lo khi nó đi rồi, mẹ già có mạnh khoẻ, người yêu liệu còn trung thành với nó, mà chỉ nghĩ : “ Thương mẹ khi tắt đèn tối lửa Cũng thương em khi “việc đội”, “việc đoàn” Việc chung cũng trọn, việc riêng cũng tròn…”

Vậy là nó chỉ lo người yêu không hoàn thành nhiệm vụ sản xuất chiến đấu của người “em gái hậu phương” chứ đâu có bịn rịn, lưu luyến lúc sắp chia xa . Và rồi người con gái cũng xuất hiện…súng trên vai làm “người ông “ khoái trá: “Cô nào đấy nữa Mặt mày coi sáng sủa Cũng lại súng trên vai…” Rặt những…súng là súng , đi đến chỗ hẹn người yêu chia tay đi xa, cũng không quên mang súng theo. Cô gái này thật đã làm đúng y boong lời dậy của Mao Chủ tịch :”Bất ái hồng nhan, ái…vũ trang…”. Người con gái chẳng cần son phấn gì hết, cứ khoác súng lên vai là…đẹp rồi. Và bác Mít trả lời “ người ông”:

“ Cháu dâu bác đó, bác ơi Và người trai kia, thật cháu bác Người thanh niên của Tổ Quốc Súng trên vai sắp sửa lên đường…” Rồi sợ “người ông” chưa hiểu lên đường đánh ai, bác Mít giảng giải : “ Nhưng bác ơi!Giặc Pháp đuổi rồi Giặc Mỹ đến liền Hai mươi năm đường đầy lang sói Hai mươi năm sông đỏ oán hờn…” Rồi như sợ “người ông” chưa thấu rõ “tội ác giặc Mỹ xâm lược”, mấy cô Mận, Đào, Xoan, Trúc xúm vào kể lể : “ Con nai gầy bên suối Cành hoá héo giữa đồi Lúa vàng đốt dưới ruộng Nụ cười chết trên môi… Ruột liền cắt đoạn Giọt máu cắn đôi…”

Kinh khủng chưa, giặc Mỹ tới thì đến…con nai cũng gầy, hoa cũng héo, lúa cũng cháy và đến nụ cười cũng…chết. Chỗ này ông nhà thơ quên dứt chủ nghĩa lạc quan cách mạng với hình tượng “nụ cười Võ thị Thắng” trước họng súng quân thù. Giặc giã độc ác vậy nên các cô Mận, Đào, Xoan , Trúc đồng thanh : “Trai “sẵn sàng” băng miền hoả tuyến “ Gái “đảm đang” ở lại hậu phương Vì Tổ Quốc, đi, ở, đôi đường Tuổi thanh niên đã nguyện xem thường…” “Người ông” còn thắc mắc nếu chiến tranh kéo dài liệu con cháu có còn coi rẻ tuổi thanh niên nữa không ? Oâng hỏi : “ Dẫu mười năm xa cách Tuổi thanh niên đã nguyện coi thường ?”

Bác Mít trả lời ngay : “ Vâng, đã nguyện xem thường Dẫu ràng giữa tuổi yêu đương “ Cốc rượu mồng bên môi mới bén Khúc hát đêm qua vừa trao hẹn Sáng nay hoa tiễn , vẫn tươi cười…” Đó “người ông” cứ yên tâm, con cháu chúng ta như thế đấy. Dù chỉ mới qua một đêm tân hôn, sáng mai phải ly biệt nhưng đôi trai gái vẫn…tươi cười. Nhà thơ “mô tả tâm lý nhân vật “ như vậy thì…hết chỗ nói. Lúc này “người mẹ” cũng đã bước ra, bởi lẽ bà đang ngủ “ nửa đêm sực tỉnh, bên cầu ao, ta nghe có tiếng chân chao, ai thế nhỉ ?”.

Bà quên phứt ngay con trai mờ sáng nó sẽ dứt áo ra chiến trường, bà cứ đánh một giấc ngon lành mãi khi nghe tiếng chân khua nước ngoài cầu ao mới tỉnh dậy ra coi sao ? Bà quanh quẩn một hồi chẳng thấy ai, sờ vào quả mít, bà mới nhớ ra con sắp đi chiến trường : “ Mít kia chẳng mai kia sẽ chín Cũng muốn con ăn một miếng cho vui Nhưng việc dân, việc nước lửa bỏng nước sôi…” Vậy thì con cứ đi cho nhanh nhé, việc nước quan trọng hơn…ăn mít.

Than ôi, có bà mẹ nào sốt ruột cho con đi ngay vào nơi mũi tên hòn đạn như ngày nay giục con đi lĩnh xổ số giải độc đắc vậy ? Viết lách như thế , trách gì thể loại kịch thơ đã…chết bất đắc kỳ tử trên sân khấu Việt Nam kể từ khi nhà thơ Lưu Trọng Lư chiếm lĩnh “trận địa” này ? “Bà mẹ” đã “cách mạng “ tới mức đó, ấy vậy mà vẫn còn bị ông nhà thơ trách móc :

“Sao không học gương mẹ già thuở trước Cũng thức suốt đêm thâu Nhưng để may cờ cứu nước Kịp cho con gà gáy lên đường…” Chẳng hiểu có “cái thuở nào “ lại có bà mẹ “quái thai” đến thế, sáng sớm hôm sau con trai đã đi vào tử địa mà đêm đó bà vẫn còn ngồi…may cờø ? Cảm hứng “ra trận” quá đà làm ông nhà thơ cứ bịa ra những chuyện trời ơi đất hỡi vậy. Rồi cũng tới cảnh “ chinh phu, chinh phụ” thời chống Mỹ.

“Người con trai” và “người con gái” ngồi xuống một tảng đá. Oâi chao, trong lúc tử biệt sinh ly, lẽ ra hai con tim phải hoà chung thống khổ, ngờ đâu cô gái mở miệng : “Anh ra đi mẹ có dặn gì ?’ Chàng trai phấn khởi : “Mẹ cười, mẹ bảo Việc nước con cứ đi Việc hợp tác, việc nhà Có tao có nó…

” Bất chấp tình cảm tự nhiên trai gái khi ly biệt, ông tác giả kịch bản bắt đôi uyên ương sắp rời cánh …ca bài sản xuất và chiến đấu . Cô gái nức nở : “Nhớ anh em mở một đường cày xách dăm gầu nước tưới cây anh trồng … Em đi đón dòng “cá bột” Mang giống về chọn lọc em ươm Một năm anh về, hai năm anh về Mười năm anh về, cá lớp lớp sinh sôi Nhớ anh thế đó, anh ơi…” Chàng trai cũng sụt sùi :

“Kẻ địch nào chẳng thắng em ơi( Khó khăn nào anh không vượt nổi ? Nhớ lời Bác dậy ? Nghìn sông anh cũng lội Vạn đèo anh cũng băng…” Tâm tình lâm ly xong rồi, tới “tiết mục tặng quà”. Cô gái tặng “gói kim chỉ” để áo rách anh tự vá, còn anh trai tặng gì ? Cô gái đoán … cuốn sách dạy trồng dâu ? Không phải . Thôi đúng hạt giống rau rồi ? Cũng không phải, cô lại đoán :

“Phải rồi , anh cho em chiếc lược Bằng thép mỏng máy báy?” Anh con trai nổi tự ái : “ nếu là chiếc lược em ơi ( Thì hãy đợi một ngày Khi tự tay anh hạ lấy “ Con “thần sấm” giữa trời Và tự tay anh chuốt thành lược…’ Ghê chưa, nếu em muốn anh tặng lược thì đợi anh bắn rơi máy bay Mỹ lấy mảnh nhôm đã. Các nhà chế tạo máy bay Mỹ cần chú ý chi tiết này, nên làm sẵn vài ngàn chiếc lược, phòng khi máy bay hạ cánh khẩn cấp trên đất Việt, còn có cơ đàm phán cẩu nguyên chiếc về kẻo máy móc bị xả thịt làm…lược. Khi cô gái chịu thua không đoán được, chàng trai mới “bật mí”. Tưởng gì quý báu, hoá ra là…chiếc gương . Đã vậy còn dặn dò :

“ Những khi cày xong một buổi “ Em ra gốc muỗm em ngồi Em lấy gương đẹp ra soi “ Trận đấu chiều đã vãn Em lấy gương đẹp ra soi Em gỡ những vết bùn trên tóc…” Vậy em nhớ nhé, gương này anh tặng chỉ dùng trong…sản xuất chiến đấu, còn sáng ngủ dậy, hoặc đình đám hội hè chớ dùng tới nó.

Thật biểu hiện sinh động của một nền văn minh “đứng đầu nhân loại”. Aáy thế mà cho dù chịu thắt buộc “nội quy sử dụng gương” vậy, cô gái vẫn vui vẻ : “ Anh ra đi mưa nắng chiến trường, sao cho tròn nhiệm vụ Em ở nhà, một niềm chung thuỷ hai chữ “đảm đang” Dẫu năm năm, mười năm, nhìn gương em chẳng hổ, Đường chiến đấu , dài lâu gian khổ…”

Một cuộc chia ly màu siêu đỏ, đến “người ông “ vốn là chiến sĩ Cần Vương cũng phải ngỡ ngàng, phấn khởi : “ Thậm chi ( không có dấu) là khoái trá Con trai con gái bây giờ Tiễn đưa nhau đi đánh giặc mà cứ như là…” … là đưa nhau tới…phòng cưới vậy.

Thế là cả ông lẫn cháu đều ra sa trường , để hoàn chỉnh “ bức tranh gia đình cách mạng”, cha truyền con nối đánh giặc, tất nhiên phải có ông bố nữa, thế là ông nhà thơ cho “hồn người cha” ra sân khấu cho đủ tam đại cầm súng : “ Ta người chiến sĩ Điện Biên, Về đây, thăm vườn cũ Mười mấy năm cách mặt chẳng xa lòng…”

Gặp lại bố ngày xưa, cha con chưa kịp hàn huyên, người cha đã mang chiếc ba lô xưa chống Pháp, nay con sắp mang đi chống Mỹ kể lể : “ Ôi( Chiếc ba lô ngày cũ Giữa chiến trường Điện Biên Phủ Còn nguyên đây : dấu đạn giặc xuyên qua Chiếc ba lô đã từng thấm máu hồng ta…” Và khoe với người ông : “ Cha hãy trông đây Chiếc ca bác Hồ gửi tặng Còn nguyên hai chữ Điện Biên… Con qua cháu lại Lớp lớp tay chuyền…”

Mười mấy năm cách trở quay về, hồn “người cha” chẳng thiết nhòm ngó vợ sống ra sao, ở vậy hay đi bước nữa, con cái, nhà cửa thế nào, chỉ chăm chăm chuyện “đánh giặc” : “ Lòng con bao xiết tự hào Nhà ta ba đời vằng vặc trăng sao Oâng đến cháu dốc một lòng đại nghĩa…” Cũng may vở kịch viết vào năm 1971, nếu lùi lại ngót chục năm nữa, nhất định ông nhà thơ đưa thêm ‘thằng chắt” lại vác ba lô đi đánh …giặc Tàu thì lớp lang, ra vào sân khấu còn phức tạp nữa. Lúc này con chưa ra chiến trường, cháu chưa lọt lòng mẹ, bởi vậy chỉ có hai thế hệ cha ông tranh nhau kể lể thành tích chiến đấu .

Người cha khoe : “ Vâng, giữa chiến trường con đã ngã Vết đạn đã xuyên mình Nhưng Điện Biên Phủ quang vinh Đã ra đời một hành tinh mới…” “Thế hệ cha” ghê gớm chưa, hy sinh thân mình làm mới bộ mặt hành tinh. Bốc phét cỡ vũ trụ thế này thật xứng tầm…ếch ngồi đáy giếng. Nghe thằng con thổi thành tích lên hết cả cỡ giành cho cha, người ông đâm bực mình :

NGƯỜI ÔNG (động lòng tự ái) : Con ơi ( Thuở cha đứng lên Cũng trời nghiêng, đất ngả Oanh oanh liệt liệt một trường Mật nào chẳng nếm , gai nào chẳng nằm Gươm đại nghĩa mười năm không nao núng…” Lúc này mấy cô Mận, Đào, Xoan, Trúc đành phải nhảy vào can khéo hai cha con : “ Chị em “bầy tui” : Mận, Đào, Xoan, Trúc Lại xin nghiêng đầu trước đầu bạc Vụ Quang Mười năm gian khổ kiên cường…” (và tất cả lại đến bên người chiến sĩ Điện Biên ) “ và trước người chiến sĩ Điện Biên anh dũng Chị em ‘bầy tui” xin thân mến cúi chào: Một trận long trời dậy sóng năm châu Thực dân quen thói đè đầu Việt Nam đứng dậy phất cao cờ hồng…” Vậy là…huề, cả “ông” lẫn “cha” thành tích “ chống quân ngoại xâm “ đều tầm cỡ “long trời lở đất cả, ngang sức ngang tài anh hùng cách mạng, khỏi tranh cãi ai hơn ai. “

Người ông phấn khởi : “ Cha chả là vui( Nhưng mà… Nghe, để bác nghe cho hết lỗ tai Nhìn, để bác nhìn cho suốt con mắt…” “Người mẹ” bước vào, khán giả chờ đợi một cuộc trùng phùng cảm động sau mấy chục năm âm dương cách trở giữa đôi vợ chồng “ người cha”, tiếc thay ông tác giả kịch bản đã dấu biến “tình huống nhạy cảm” nàyï để cho bà vợ “trữ tình bay bổng” trong nỗi niềm “chống Mỹ cứu nước “ : “Con ơi, giặc trước tan Ruộng vườn vừa cướp lại Giặc sau đã tới…

Nhưng con ơi( Tội giặc ngập núi ngập sông Thương hận : tràn Nam, tràn Bắc Mẹ thương con phải giục bước lên đường… Con ơi, ơn Đảng đi về : bao xiết công lênh…” “Hồn chồng” gặp lại vợ chăng mảy may da diết nghĩa phu thê lại chăm chăm vào …cái ba lô vợ khoác lên vai con trai : “ Ôi( rộng lớn hai vai con mẹ khoác lên một niềm đại nghĩa Vườn cũ gió bay vờn tóc mẹ Suối ngàn, cất bước đẹp tình con…’

Và sau cùng “ người ông” bật mí kẻ khua nước dưới cầu ao giữa đêm khuya chẳng phải con gái, cháu dâu động tình mất ngủ mà chính là …ông đó : “ Chao nước đêm khuya chính là lão đó Ta nghe đất nước, cơn bão trước, cơn bão sau Dức dối thân mình, bàng hoàng giấc ngủ Nay ta về đây, Tai đã sướng lỗ tai Mắt đã no con mắt…” Vâng, khán giả đã “no con mắt” cả chục nhân vật thuộc ba thế hệ ra vào sân khấu trong một hoàn cảnh rất kịch mà người xưa từng nói “ Thùng thùng trống đánh ngũ liên, bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa…”, đã “sướng lỗ tai” những những ngôn từ vĩ đại, vậy mà tiếc thay, người xem chỉ thấy quay đi quay lại có mỗi một nhân vật : chính là ông tác giả kịch bản .

Oâng đã chui vào hình hài của vợ chồng ông, cha, con người ta để làm mỗi một việc là động viên tuyên truyền “Tuổi hai mươi” lên đường chống Mỹ bằng những lời thơ lủng củng, sáo mòn, ngôn từ khẩu hiệu. Kịch chẳng có, thơ cũng không – vở kịch thơ “ Tuổi hai mươi”, tác phẩm chính đã đưa thi sĩ Lưu Trọng Lư lên chiếc ghế Chủ tịch Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam đã nhanh chóng rơi vào thùng rác thi ca của lịch sử giống y như giấc mộng kê vàng của ông vậy. Năm 1985, không khí sáng tác trong nước đã sặc mùi “cởi trói” tới m?c các nhà văn nhà thơ cây đa cây đề cũng lăm le “phản tỉnh”. Chế Lan Viên có bài thơ “Bánh vẽ”, Nguyên Ngọc có “Đề dẫn”, Nguyễn Minh Châu “Đọc lời ai điếu cho một nền văn học minh hoạ”…

Những lộn xộn tràn lan đó không thể không thôi thúc Lưu Trọng Lư “làm một cái gì đó” cho hợp “phong trào” cho dù ông vẫn âm thầm nghe ngóng theo kiểu “ cứ để yên coi sao “. Không dám ra mặt thực hiện “ sứ mệnh thiêng liêng của người cầm bút “chống lệnh “cấp trên” viết sao cho khỏi cắn dứt “lương tâm thời đại”, ông len lén dùng miếng võ cũ rích từ thời Nhân văn Giai phẩm “mượn xưa nói nay” trong vở kịch nửa nói nửa thơ “Bình minh anh vũ” và cũng chỉ dám xẹt qua, mượn lời vai phụ “gài mìn” qua vài câu thoại bóng gió. Truyện kịch kể rằng ở thời Trần Duệ Tôn, có ông Nguyên soái họ Nguyễn, vào một tối cao hứng, sai treo tranh “Nắng hè tuyết bay” mời tài tử văn nhân tới đề thơ.

Đề tài thật trái khoáy, tuyết sao còn sống sót sang mùa hè và lại còn “bay” trong nắng? Ngụ ý gì đây ? Mở đầu cuộc hội, “Trần Doãn, nhà thơ đứng tuổi, ra dáng một quan thơ, áo quần trau chuốt, dáng vẻ đường bệ, “ đề thơ và được một nàng “vũ nữ áo xanh” cất giọng ngâm lớn : “ Tuyết sao có tuyết giữa hè Có chăng tuyết cũng tan đi với chiều… Cánh bèo chỉ đẻ cánh bèo Là hoa thiên lý mới leo đỉnh giàn…” khẩu khí rất “bé ngoan”, tôn trọng “cấp trên”, hợp “quy luật” làm một “nhà thơ già” đứng dậy vỗ tay khen rối rít : “Đúng như vậy. Tuyết nào lại có tuyết giữa hè ? Như thế là trái đạo trời.

Thơ này mới phải đạo, tranh kia không nên có…”. Bức tranh “nắng hè tuyết bay” này thật ngang trái với lẽ trời. Lẽ đời cũng vậy, có trước có sau, có ngôi có thứ, đổi ngôi, vượt phận , sang hèn lẫn lộn là điên đảo thế tình…” Cái thói “cừu con”, “giữ trật tự”, “ổn định chính trị” này lập tức bị một “nhà thơ trẻ”û phất tay áo cãi lại : “ Thế nào là điên đảo thế tình?

Thế nào là ngửa nghiêng trời đất? Đông mà cứ tuyết lạnh mà nói Hè mà cứ nắng gió mà ca Thơ văn như thế là có mùi thiu đấy…” Than ôi, nếu nhà thơ trẻ nói đúng thì sự nghiệp văn thơ sau cách mạng của chính ông tác giả kịch bản hẳn đã nồng nặc lên rồi. Bởi thế “nhà thơ già” lên tiếng chửi lại : “Chuyện thơ văn mà như chuyện nơi sông chợ…” Lúc này quan Nguyên soái mới can đôi bên và mời người tiếp theo là Dư Sinh, còn trẻ, áo quần xuềnh xoàng, dáng người bình dị đề thơ và được một cô “vũ nữ áo vàng” cất tiếng ngâm : “ Tuyết từ giá rét đêm đông Vẫn trong áo trắng sang sông với hè Vẫn trong nắng cháy tuyết đi Một lòng trinh tiết chẳng hề chịu tan…”

Bài thơ thật “ngạo ngược”, bóng gió văn nghệ sĩ dưới chế độ “quản lý tư tưởng” chẳng khác gì “tuyết giữa mùa hè” đi trong “nắng cháy” , mặc dầu vậy, cần giữ lấy bản chất “ nghệ sĩ” chớ có chịu “tan”. Ngay lập tức “ nhà thơ già” đập mạnh chén rượu xuống bàn quát to :

“ Bạo thiên nghịch địa, bạo thiên nghịch địa…” hống hách , cha bố thiên hạ chẳng khác gì mấy ông nhà văn già xúm vào đánh đòn hội chợ nhóm viết trẻ Nhân Văn Giai Phẩm và tất nhiên trong số đó phải có nhà thơ Lưu Trọng Lư dấu mặt chỉ đạo. Tuy nhiên lúc này đã đêm trước của ngày cố Tổng bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, lớp “nhà văn già” không còn độc diễn, Lưu Trọng Lư đành đưa ra sân khấu “lớp trẻ” cho hợp “thời thượng” :

“MỘT NHÀ THƠ TRẺ đứng lên phất cao tay áo:” Thơ như thế là bạo thiên nghịch địa ư ? Các vị bảo : “Đạo người có trên có dưới. Khi đánh giặc thì kẻ trên dưới một lòng. Đánh xong giặc thì lại đạp cổ xuống bùn, kẻ thì “toạ hưởng kỳ thành”ấp này ấp nọ.Quý hoá thật, hay ho thật. Muốn leo đến đâu thì leo- nhưng khi đạp lên lưng những đứa nô tỳ cũng thử nhìn xuống xem :

Cánh tay thằng dân đen ấy, cánh tay cha anh họ cũng còn nguyên hai chữù “Sát Thát đấy”. Aáp ruộng các ngài cò bay sã cánh, các ngài có nghĩ đến giun dế dưới bùn đen…”“ Lời tố cáo thật đanh thép từ thời Trần Duệ Tông vẫn còn “tươi rói” tới tận bây giờ khi giai cấp tư sản đỏ cầm quyền ngày càng cách biệt với đám dân đen đã từng cầm súng đi “chống Mỹ cứu nước “.

Hãy thử hỏi các “đồng chí “ chủ trang trại hàng trăm héc ta cà phê, cao su, tiêu, điều “cò bay sã cánh”, các đồng chí “chủ vườn” hàng chục mẫu Bắc bộ xanh tươi và béo bở, có khi nào ngó xuống đám dân đen một thời “Sát Mỹ” hiện sống ra sao với thu nhập 30 USD/ tháng ? E rằng ý kiến của “nhà thơ trẻ” đã đi quá đà, “mượn xưa” thì mượn nhưng nói năng liều mạng quá e cấp trên phật ý, bởi thế Lưu Trọng Lư vội vàng xí xoá :
NHÀ THƠ GIÀ (đập cốc rượu vỡ choang): “ Giọng lưỡi sông chợ, đâu phải chuyện thơ văn …” Cái kiểu “bí cờ văng tục”, đá trái banh “chính trị” vào vườn văn thơ là thủ đoạn quen thuộc từ thời vu vạ nhóm Nhân Văn - Giai phẩm tội phản động, chống chế độ chứ không phải “ đòi tự do sáng tác”.

Dẫu sao, Lưu Trọng Lư cũng đưa được lên sân khấu cuộc tranh luận nảy lửa giữa “ nghệ thuật vị cấp trên”, đại diện là ông “quan thơ” Trần Doãn với “nghệ thuật vị dân đen” người phát ngôn là chàng nho sinh họ Dư nghèo. Tới đây lẽ ra Lưu Trọng Lư không được “náu mình” đứng giữa hai phe nữa, ông phải bày tỏ quan điểm của mình, phải chọn hoặc “quan thơ” chính thống hoặc chàng nho sinh nghèo làm thơ “ngạo ngược”.

Tiếc thay nỗi sợ cố hữu thường trú trong các nhà thơ cách mạng đã giữ ông lại, chỉ “tự cởi trói” được tới đó, chỉ đưa ra cuộc tranh cãi giữa đôi bên mà lờ đi không bênh vực và cũng chẳng lên án bên nào. Từ đây kết thúc “câu chuyện thơ thẩn” để bắt đầu chuyện tình ai oán của Dư Sinh qua nhân vật này bộc lộ khá rõ “con người thật” thi sĩ Lưu Trọng Lư.

Nguyên trong hội đề thơ, chàng Dư chẳng thèm chú ý tới cuộc tranh cãi giữa hai nhà thơ già-trẻ, chỉ…nhìn lom lom vào cô “vũ nữ áo xanh” trẻ đẹp - người ngâm bài của ông quan thơ Trần Doãn. Cô này cũng cảm thấy chàng Dư chết mệt vì mình nên trong lúc múa hát đã gửi gắm những động tác chỉ riêng chàng nhận ra. Tiệc tàn, Dư Sinh lân la hỏi dò người hầu gái mới được biết “ Nàng tên gọi Tuý Tiêu, quê ở nam Sách. Nguyên soái nhân một ngày đi săn chim Anh Vũ gặp nàng mang về. Nàng được học múa, học ca, học chữ. Học đâu nhớ đấy, nhận một trả mười.” .

Chàng Dư nổi hứng làm sẵn một bài thơ : “Sương bay vườn Tuý Nặng giọt ba Tiêu Trời mờ mịt tối Hồn lạc tìm nhau…” Thói hám gái của chàng Dư không lọt khỏi mắt quan Nguyên suý, ông tới gặp chàng nói thẳng : “Ta đoán sau buổi ca vũ, ngươi có điều vương vấn. Nay ta có điều muốn nói với ngươi: trong dinh ta có mười ca vũ nữ, toàn là những người hát hay, múa giỏi. Cô nào đẹp mắt ngươi cứ nói…” Lẽ ra là “kẻ sĩ”, chàng Dư phải thấy hổ thẹn, chân ướt chân ráo được mời tới dự tiệc nhà người ta đã tính “chôm” ngay mỹ nhân, vậy nhưng chàng Dư được lời như cởi tấm lòng, vội vàng chộp ngay cơ hội :

“ Thưa nguyên soái…người làm kẻ hậu sinh bàng hoàng chính là người vũ nữ áo xanh…” Sống sượng vậy, rồi để chắc ăn , chàng trình ngay Nguyên soái bài thơ vừa làm còn chưa ráo mực trong có tên Tuý Tiên mà lẽ ra phải trao tặng nàng trước đã. Oâng quan võ tốt bụng không ngờ, bằng lòng gả ngay cô gái cho chàng và còn vỗ vai dặn : “ Mọi việc đều ở tay ta. Người cứ về phòng khách đánh một giấc ngon lành. Mai sớm khi bình minh qua cửa sổ, Anh Vũ hót vang. Thì ngươi hãy sửa khăn cài áo đón tin vui…”

Chàng Dư mừng hết biết, mới gặp chặp tối, sáng sớm hôm sau đã được ôm người đẹp, một cuộc tình, một hôn nhân tốc độ còn chớp nhoáng hơn cả mấy ông Đài Loan sang Việt Nam lấy vợ thời nay. Dĩ nhiên, suốt đêm hôm đó chàng Dư sao mà “đánh một giấc ngon lành” được, cứ phấp phỏng đốt nến ngồi chờ tiếng chim Anh Vũ mà đón nàng. Khổ nỗi chàng cứ chờ hoài, chờ hoài chẳng thấy chim lẫn người đâu ra :

“ Ta về mái tây, không hề nhắm mắt Mấy lần đốt nến lên, mấy lần thổi tắt Nào hay Anh Vũ chẳng hót cho Tin mừng chẳng có Có phải trời đã ngủ quên Đất không thức dậy ? Vậy là chưa hết đêm, bình minh chưa tới mà chàng Dư đã than trời trách đất, “nghi ngờ” lòng tốt ân nhân , thật chẳng “quân tử”û chút nào. Thế rồi có tiếng chân động ngoài thềm, mặc dù chưa đúng “ám hiệu” , chàng cũng “ vội đứng dậy, cài áo sửa khăn bước ra” hoá ra là…gió. Lại thấp tha thấp thỏm chờ đợi.

“Bỗng có tiếng chim hót.Dư lại một lần nữa cài áo sửa khăn. Nhưng khi nhận ra không phải tiếng chim Anh Vũ, Dư lại một lần nữa bàng hoàng thất vọng : “ Tiếng hót sao nghe như rối rít bàng hoàng Mà đâu phải tiếng chim Anh Vũ…”

Mới chưa qua một đêm chờ đợi, tính cách chàng nho sinh họ Dư đã bộc lộ cái phần “kém trượng phu” trong nhân vật chính vở kịch “Bình Minh Anh Vũù” làm người coi ngờ ràng nó phản chiếu chính ông tác giả.
Thế còn nàng Tuý Tiêu ? Xuất thân nhà nghèo nơi thôn dã, bố chết sớm năm 17 tuổi, lọt vào tay một gã thuyền chài, sau được quan Nguyên soái chuộc về dạy múa, dạy ca…theo kiểu “đào tạo” kỹ nữ làm vui trong phủ.

Trong tối hội thơ, vừa nhìn thấy Dư Sinh lần đầu nàng đã ưng trong bụng , đã “nhấm nháy”, ngầm đánh “tín hiệu” đủ thấy gốc gác chẳng phải gia giáo. Tan hội, đêm về, được quan Nguyên soái báo tin gả nàng cho Dư sinh, lại được đọc bài thơ chàng làm có ghép tên mình, nàng mừng rỡ OK liền và xin vâng theo đúng kịch bản quan nguyên soái đề ra khi có tiếng chim anh vũ cất lên nàng sẽ đi “tìm cọc” ở phòng chàng Dư. Đêm đó, cũng giống chàng thi sĩ, nàng bồn chồn, sốt ruột chẳng ngủ được, chờ hoài chẳng thấy chim chóc nào cất tiếng hót. Thế là nàng đành phớt lờ “kịch bản” : “Băng sương vượt lối Ta đến với người Chân không bước mạnh Sợ động hồn mai…”

Xăm xăm tới phòng Dư Sinh, chàng lại đang … ngủ khì, nàng đành đánh động tự giới thiệu mình là “ người áo xanh” trong tối hội và tên Tuý Tiêu trong bài thơ chàng mới làm. Những tưởng chàng sẽ mừng quớ, ai ngờ lại vô tâm, hỏi cắc cớ :” Aùo nào ? Thơ nào?”, rồi còn nghi ngại : “ Nguyên soái đã dặn Khi nắng sớm trên cành Và Anh Vũ hót inh Thì nàng sẽ đến…”

Tới nước này, nàng Tuý Tiêu đành phải giải thích chắc là chim anh vũ…ngủ quên nên : “Chẳng ngại sương đêm Thiếp đến với chàng tưởng như đi trong bình minh rạng rỡ…” Có lý do chính đáng “chim ngủ quên”, lúc này chàng Dư mới như người ngủ dậy nghe tin trúng số , vội vàng : “ Tuý Tiêu !Tuý Tiêu ! Chuyện trong mơ, mà quả người đã đến thật…”

Thế là tình lớn gặp nhau, đồng lòng gặp gỡ khỏi chờ tiếng chim anh vũ như lời dặn quan nguyên soái, chàng nàng tranh nhau kể lể . Nàng thì than vãn “ 12 bến nước lênh đênh, không cội không cành, dạt đâu là phận đó, kể sao cho hết nỗi niềm” và thổ lộ từ xưa, từ trước khi gặp chàng, nàng chửa hề yêu ai :

“ Uốn khúc tim mình Mắt xanh chẳng gặp mắt xanh Canh khuya chỉ thấy lệ quanh gối nằm” Còn chàng lại khoe chí khí nam nhi : “ Lòng ta chỉ muốn được rong chơi Ném quản bút tre vào mực đen thế sự Giấy nhân tình nhoè đỏ Cười khóc chuyện người…” Í trời ơi, giá như thi sĩ Lưu Trọng Lư cũng làm được như nhân vật của mình “ném bút vào thế sự” thì nay người đọc hẳn đã được hưởng một di sản thơ giàu có chứ chẳng phải trắng tay như ông để lại.

Tỏ vẻ lấy bút chống trời xong rồi, chàng dùng nó chinh phục người đẹp : “ Nghe lời ca ai não nuột Nhìn điệu múa ai uốn đau Ruột này cũng quặn héo…” Và chàng thề thốt : “Hãy sáng lên hỡi ngọn đèn Ta nguyện vì em làm phên che gió…” Chàng nàng đang nỉ non tình sự, hốt nhiên Nguyên soái xuất hiện tay xách lồng chim. Người ta tưởng đòn trừng phạt tội cãi lời quan, không chịu chờ chim anh vũ lên tiếng sẽ giáng xuống đôi tình lang, may thay ông quan là người tử tế , chẳng những không bắt lỗi mà còn cho ngựa, cho kiệu để chàng rước nàng về quê lại kèm theo quà tặng cưới chiếc lồng chim anh vũ ghi lại kỷ niệm ngày quan đi săn loại chim này, chuộc nàng về.

Tuy nhiên chẳng phải ông quan nào gặp được trong đời cũng độ lượng, tử tế như quan nguyên soái. Cái ông quan thứ hai làm thay đổi cuộc đời Dư Sinh và Tuý Tiêu lại là một bạo quan – Thân Trụ Quốc từng khoe khoang : “ Trong triều ngoài quận đều biết tiếng ta Có trầm quý nào trong rừng mà ta không kiếm được Tội nặng như núi, một chữ của ta còn xoá được nữa là…” So với ngày nay, ông quan này có khả năng “chạy án” phải ngang cỡ….Uỷ viên Bộ chính trị. Nghe tin chùa Phổ Tế mới có ni cô xinh đẹp, ngài cũng dẹp ngay việc quan, lên kiệu mò tới coi. Cô này được một anh nho sinh ca ngợi : “Hôm nay thỉnh chuông mới thì nhà chùa cũng thỉnh về một cô tiểu thư mới.

Cứ nghe cô cất giọng kệ thì Phật có cho vào Niết Bàn cũng chẳng thiết vào nữa . Còn quan to quan nhỏ trong triều , cứ thấy mặt cô một lần , cũng không muốn rời khỏi cửa tam quan…” Khi quan Thân Trụ Quốc vừa đi kiệu tới, nhà chùa vội bắc loa nói vọng ra giữ trật tự :”Tướng công sắp qua . Ai ở đâu ở đấy.Già không lẫn trẻ.Nữ chẳng kể nam…” Thế rồi “lính trước lính sau, Thân Trụ Quốc bước ra. Tiếng “ A di đà Phật “râm ran.”. Không may cho vợ chồng Dư Sinh, cũng đi vãn cảnh chùa trong tuần trăng mật nhằm lúc đó. Vừa nhìn thấy Tuý Tiêu đứng bên hồ tay cầm đoá sen, tướng công đãhồn xiêu phách lạc, quên bẵng mất ni cô trong chùa. Ngài “ nhìn sững, rồi đưa tay về phía Tuý Tiên ra lệnh :

”Cứ cho lên kiệu về kinh ngay. Gấm vóc sẽ ban sau cho cha mẹ. Bọn lính dạ ran . Trong nháy mắt , chúng làm theo ý Thân Quốc Trụ. Tuý Tiên kêu la, chống lại nhưng chúng đã ép nàng lên kiệu khiêng đi. Mọi người chỉ biết nhìn theo. Đây đó một vài tiếng niệm :” A di đà Phật…” Chứng kiến cảnh bắt người ngay trước cửa Phật, thiện nam tín nữ chỉ biết niệm kinh. Thế còn Dư Sinh, người chồng mất vợ, chàng thi sĩ mất người yêu ? Không chạy theo kiệu quan mà giải thoát Tuý Tiêu , không vạch mặt chỉ tên quan cướp ngày Thân tướng công, chàng chỉ đành ngửa mặt kêu trời :

“Xanh xanh!Xanh xanh!Trời rất xanh Gíó như không gió vẫn dưa cành Ta đi đi về đâu ? Lội xuống hồ sen hay vào Tây Trúc ? Miệng ta mắc niệm Phật Ai khóc cho ta nỗi bất bình ?” Cái kiểu cam chịu trước cường quyền bạo ngược, chỉ biết “khóc” và hỏi “trời xanh” này, chẳng riêng nhân vật chàng Dư mà ngay ông tác giả đẻ ra nó và cả sĩ phu Bắc Hà ngày nay, hỏi ai là không có ?

Bởi vậy nàng Tuý Tiên còn mong gì được giải thoát ? Quả nhiên sống trong dinh Trụ Quốc Công, ngày đêm nàng chỉ còn biết giữ chặt “ chữ trinh” khiến quan lớn trong triều phải đặt mình ….ngoài vòng chăn gối của nàng tới đêm thứ …109 và “chiến công “ đó làm nàng thích chí. TUÝ TIÊU (cười ngặt nghẽo) :”Thế đêm nay là đêm thứ mấy ?”

THANH THẢO ( con hầu) : “Một trăm lẻ chín.” TUÝ TIÊU :”Thiếu một đêm nữa là trăm lẻ mười…” Nhưng rồi một trăm đêm, một ngàn đêm, liệu giữ mãi được không , nàng than : “ Thảm thương số kiếp hoa cành Làm sao giữ mãi hương trinh hở trời ?”

Vậy là nàng chỉ còn biết trông vào trời, chứ còn cái anh chồng Dư Sinh chỉ đánh võ mồm “Ném quản bút tre vào mực đen thế sự”, chỉ “cười khóc chuyện người…” chứ còn chuyện của chính mình thì …thua, lại đành phó thác cho trời chứ biết sao ? Quả nhiên suốt trong thời gian đó, chàng Dư mất vợ chỉ quẩn quanh xó nhà “áo để buông không thắt giải, trên đầu đội một cái mũ cỏ, dáng đi thất thểu “ và than vãn :

“ Một ngày xa vợ hết khôn Ta đi lùng hoa dại Vò nát giữa bàn tay Máu trong hồn rỉ mãi…” Rồi gặp vợ ngồi kiệu đi trên đường, chàng cũng chỉ đành trố mắt: “Ngồi trên kiệu đúng người thương Người vũ nữ . chính áo vàng đau chưa ? Nhìn lên chẳng thấy mắt xưa Ta đành cúi mặt , miệng và lệ thương… Rõ ràng ta đó, ai kia ?

Tay nào xé rách trăng thề đó ai ?” Hoá ra không những chàng quên phứt lời thề làm phên liếp che mưa cho cuộc đời nàng mà còn trách móc nàng “đã khác xưa”. Thói cam chịu, than vãn trời đất của chàng Dư Sinh khiến người bõ già của chàng cũng phải bực mình. Oâng mượn lời mắng chim anh vũ, nhưng chính là nhằm vào chàng :

NGƯỜI BÕ GIÀ (lấy mấy con cào cào cho chim ăn) : “Lão nói cho mà biết Làm chim thì phải bay Có cánh thì phải đạp mây. Ngày hai buổi tốn công lão…” Vậy đó, làm đàn ông phải vẫy vùng trời đất, chống lại tham quan, bạo quyền, làm chồng phải bao bọc, cưu mang được vợ, tiếc thay những lời răn chí tình đó chẳng lọt lỗ tai chàng thi sĩ Dư Sinh, ngày ngày chàng cứ điên điên : “ Aùo đứt khuy đành để vậy Khăn tóc vướng cỏ rơm Cơm bữa chẳng thành cơm Gặp hoa nào cũng hái…” Lạ thay, điên vậy mà từ miệng chàng chẳng khi nào thốt ra được một lời oán trách, chửi bới Thân tướng công – kẻ đã cướp vợ, gây cho chàng nỗi thống khổ “máu trong hồn rỉ mãi” .

Hoá ra không dám vạch mặt chỉ tên những kẻ gây nên bao đau đớn khiến thế gian này ngập tràn nước mắt chính là nỗi khiếp sợ thâm căn cố đế chẳng riêng thời nào, cho tới tận bây giờ cố tật đó vẫn còn ăn sâu trong những người cầm bút. Trong lúc chàng Dư nửa điên nửa khùng, ? lầu phía đông dinh quan Thân Trụ Quốc, nàng Tuý Tiêu vẫn dựng “ thành đồng vách sắt “ cố thủ không cho quan xâm phạm tới “cái ngàn vàng”. Tới đêm thứ 100 nàng doạ treo cổ tự vẫn, quan mới dỗ dành : “ Việc gì mà khinh sinh uổng mạng ? Có việc gì mà ta không làm được để chiều ý nàng ?” Cho dù là gái có chồng bị quan bắt sống giữa ban ngày ban mặt ngay cổng chùa, nàng cũng phải nói thác :

“ Từ buổi đầu gặp Dư Sinh…vì lời thơ tiếng hát mà chăn gối mặn nồng… Nay lầm đường lạc lối sa vào cửa tướng công Hoạ phúc hợp tan đều ở tay tướng công cả…” Thân tướng công cười thâm hiểm : “Ngỡ là chuyện gì, đêm nay ta sẽ xuống trát tìm “chàng bán thơ”, triệu về dinh này. Nàng ở mái đông, chàng ở mái tây, đông tây tha hồ… xướng hoạ…”

Nàng Tuý Tiêu được lời như cởi tấm lòng, nào trang điểm, nào thay áo mới , nào đòi tấu nhạc. Riêng có cô hầu tên Thuý Bình cảnh giác : “Chị tin rằng trát đòi “người thơ” sẽ đến ư ? Lại đoàn viên chăn gối ư ?” Thật chẳng ngờ, được trát đòi vào dinh chàng Dư Sinh vội vàng khăn gói ra đi , chỉ có lão bộc nhận ra chân tướng quan Thân Trụ Quốc.

Nhưng nỗi niềm riêng chẳng dám tỏ bày với ai, lão đành trò chuyện với con chim anh vũ : “ Mình đổ máu đánh giặc , giữ giang sơn nhà nó, cho nó vợ đẹp con khôn, cho nó nhà cao cửa rộng. Đánh được giặc rồi, đứa nào đứa ấy phong ấp có hàng nghìn mẫu . Chú mày bay cũng xoạc cánh. Trốn đâu cũng là ấp chúng nó.

Ruộng tay người ta canh phá ra, nó cướp làm ấp của nó…” Lời lẽ này đặt vào miệng một cụ cựu chiến binh thời bây giờ xem ra vẫn còn tươi roi rói . Oâng lão bộc lại vạch ra cái mặt quan nham hiểm : “ Lại vợ người ta nó cướp làm vợ nó không cheo không cưới.Cái giống đó đã kẹp vào tay rồi đừng có hòng. Tao hỏi chú mày , có ai đời vào tận hàm con ly con long mà đòi lại ngọc trai? Thò tay vào, nó không ngoạm cả tay đó ư ?

Aáy thế mà thấy trát đòi ba chân bốn cẳng chạy ngay vào trấn…” Lão bộc thật sáng suốt và chí lý. Chỉ cóù điều ông không ngờ tới là chàng Dư vào dinh quan, được khoản đãi ở lầu tây, ngày đêm có cô Thuý Hường hầu hạ, nên chẳng có đòi “ngọc trai”, cũng chẳng yêu cầu trả vợ, chẳng đòi gì hết ngoài…uống rượu say tít cung thang suốt tháng ngày. Một tối, Thân tướng công sai Thuý Hường trang điểm thật lộng lẫy, bày tiệc chờ chàng Dư .

Đi uống rượu về ngà ngà say, nhìn thấy cô hầu gái xinh đẹp, cầm lòng chẳng đậu, chàng “ôm đại “làm cô ta giãy nảy : “Em đây mà. Thuý Hường đốt nến chờ chàng từ đầu hôm. Thuý Hường chớ nào phải ai khác. Chàng quá say nên lầm lẫn đó thôi…”

Lẽ ra chàng Dư phải xấu hổ, xin lỗi rối rít, vợ đang bị giam cầm mà lại “vồ “hầu gái còn gì đểu cáng cho bằng, nào ngờ chàng giở giọng tán tỉnh : “Cho ta được giây phút lầm lẫn…” Đến đây mới thấy văn chương chữ nghĩa như tấm gương hiện rõ chân tướng người viết, thi sĩ Lưu Trọng Lư cố vẽ cho được một chàng nho sinh tiết nghĩa, chung thuỷ nhất mực, khổ nỗi đôi khi cứ lộ ra chất “đểu giả”. Nghe vậy, Thuý Hường ỡm ờ : “ Hà tất chơi trò lầm lẫn…”
Hoá ra đây là âm mưu hiểm độc của Thân tướng công, dùng sắc đẹp con hầu mê hoặc làm chàng mất mặt khỏi đi tìm vợ cũ. Mang rượu cho chàng uống, Thuý Hường lại báo trước : “nửa đêm nay sẽ có tin mừng…”

Chàng Dư giả bộ ngây thơ : “Tin mừng gì đây ? Nào ta uống nữa! Uống nữa đi !” Quả nhiên tới nửa đêm Thân tướng công cho người mang tới tặng chàng một cành hoa quỳnh trong chậu nhỏ phủ khăn điều làm chàng Dư mừng rối rít : “ Xin người về trình lại Tướng công, khách mái Tây muôn vàn cảm tạ tướng công…”

Oâi chao ôi, lẽ ra đúng tính cách nho sinh, chàng phải quăng trả chậu quỳnh, lớn tiếng chửi quân cướp ngày, đòi trả lại cô vợ yêu , ngược lại, đã không phản kháng còn ‘tri ân” rối rít khác gì thoả thuận ngầm dâng vợ cho quan. Đêm hôm đó Thuý Hường nào ca, nào đàn , nào dâng rượu cho chàng Dư ngắm hoa quỳnh nở. Đúng nửa đêm, nàng đến bên chàng suồng sã : “ Hương quỳnh toả ngát trời Nào chàng cùng em cạn chén …” Rồi nàng dắt Dư Sinh “nửa tỉnh nửa say lên giường, vừa quạt màn cho chàng vừa hát ru : Ru người tình, ấp người say Hai tay đưa quạt đã rời cánh chim…”

Quạt mỏi tay rồi nàng xoay qua…tắt nến. Có 12 cây nàng đã tắt tới cây thứ 11 , chỉ còn một cây nữa thôi là sáng sớm mai chàng Dư chỉ còn nước khăn gói về quê, mặt mũi nào mà dám đòi vợ. May thay tới “phút 89”, nàng Thuý Hường lại nổi máu …lương tâm : “Bốn điều Tướng công ra, ta đã làm xong ba Duy còn một điều nữa, cuốn tóc trăm vòng Ta xin chịu tội Trời đất quỷ thần soi sáng lòng dạ này…”

Nói rồi nàng ra khỏi màn, gài cửa đi sang phòng khác. Vậy là nhờ lòng tốt của cô hầu gái, chàng Dư vẫn giữ được lòng “thuỷ chung son sắt “ với nàng Thuý Tiêu yêu quý chứ chẳng phải gan vàng dạ sắt gì . Rõ đẹp mặt “anh hùng”. Điều này hẳn ngoài ý định ông tác giả kịch bản, nếu không ông đã chẳng bôi bác “hình tượng nhân vật” của mình đến thế. Gần sáng, thật bất ngờ, nàng Tuý Tiêu bên mái đông sốt ruột sốt gan, đang bệnh cũng liều mình đi tìm chồng bên mái tây.

May mắn thay chắc vì “ miếng ăn đến miệng còn tuột mất”, sau lúc Thuý Hường rút khỏi màn, chàng Dư hẳn “tiếc của trời” chẳng ngủ được mới mò dậy làm thơ dán lên vách, chứ không, nàng Tuý Tiêu bước vào chứng kiến cảnh chồng mình đang ngủ với hầu gái chắc nàng tự tử thiệt chứ chẳng còn doạ. Khá khen thay chàng nho sinh, Tuý Tiên vừa xuất hiện trong màu áo xanh, tay cầm bông sen, chàng ca ngay được bài ca thương nhớ : “ Chết lòng trong ngóng đợi Người vẫn đến bất ngờ Đúng màu xanh đêm trước Đối mặt vẫn là mơ…” Vợ chồng gặp lại chưa kịp hàn huyên , bên ngoài đã có tiếng dặng hắng rồi hầu gái của Tuý Tiêu là Thuý Bình chạy vào báo :

” Kiệu tướng công đã xịch trước cổng, xin chàng…”. Rồi cô ta nhìn Dư Sinh như cầu khẩn chàng đưa vợ trốn ngay. Lạ thay chàng cứ đứng như bụt mọc, cô hầu gái thương chủ quá khóc nấc lên. Chàng Dư vẫn trơ mắt ếch đứng nhìn; hai người đành dắt díu nhau trở về mái đông. Vợ đi rồi chàng mắm môi mắm lợi cầm bút làm thơ dán lên vách : “ Trăng đến tận giường múa Chưa hát trọn bài ca Nỗi đau không câm mãi Tức nước phải vỡ bờ…” Aùi chà chà, có áp bức là có đấu tranh đây, tinh thần quật khởi hẳn đã thức dậy, phen này chắc chàng đâm chết tên quan dâm đãng đã phá tan hạnh phúc đời chàng. Nào ngờ khi Thân tướng công bước vào, chàng lại cung kính :

“ Cũng là duyên đưa đẩy Đêm trăng lại quá nhàn rỗi. Đang mong ân nhân đến…” Oâi chao ôi, chàng “tri ân” con cọp dữ đã cho rượu, cho hoa quỳnh, cho gái đẹp mà quên mất thù bị cướp mất vợ sao ? Tính cách này phải chăng bộc lộ từ tác giả phẩm chất dễ dàng “hoà đồng với cái ác” miễn sao được yên thân, tiềm ẩn sâu bên trong con người thi sĩ họ Lưu ? Nó cũng chính là “chủ nghĩa cầu an” , sao cũng được miễn cứu được “bộ da” của chính mình, căn bệnh trầm kha của “trí thức Bắc Hà “. Cái hành động phản kháng cao nhất chàng Dư có thể đạt tới là rụt rè mời ông quan : “ Vào dinh tướng công lâu ngày Hôm nay cũng như ngày hôm trước Quá nhàn rỗi, có bốn câu thơ Xin trình tướng công …”

Đọc liếc câu thơ “tức nước phải vỡ bờ” Dư Sinh “trình” lên, ông quan coi như tiếng muỗi vo ve, cười khảy : “ Chị Hằng từ cung Quảng sa xuống để chú Cuội trơ thân Cuội một mình, nhưng chú Cuội có giận người giận mình mà chặt mất cành đa thì cũng chỉ thiệt mất cành đa thôi…” Rồi bất chợt phát hiện ra mùi hương quen thuộc của Tuý Tiêu, vợ chàng Dư phảng phất đâu đây, lão sầm mặt, phảy tay ra lệnh :”mãn trà”. Đây là giây phút cuối cùng để chàng Dư có thể bộc lộ sự kiên cường phản kháng của mình, vậy mà không ,” Dư sinh tiến vội đến trước mặt Thân, cung kính bái biệt”.

Thật đúng là một cử chỉ hèn đớn khán giả ai cũng nhận ra, chỉ riêng ông tác giả kịch bản là không thấy. Chờ cho viên quan đi khuất i, chàng Dư mới dám “cởi áo, xé thơ” theo đúng phép “thắng lợi tinh thần” của dân Mít chỉ dám xì xào sau lưng người ta, chàng cầm bút làm bốn câu thơ khác dán lên tường và ngâm lớn : “ Đọc hết vạn kinh sách Mà nhân nghĩa vẫn cúi đầu Hỏi thần thánh ở đâu ? Hay đã bị vùi dưới đất…”

Nghe thơ chàng Dư, hốt nhiên nhớ tới mấy câu thơ chân dung hoạ phê bình gia Hoài Thanh của nhà thơ Xuân Sách : “ Bình thơ đến thủa bạc đầu Cũng chưa thể tất nổi câu nhân tình…” Vâng, ngày nay có biết bao sĩ phu đọc vỡ tới cả vạn cuốn sách , liệu đã có mấy ai ngẩng cao đầu đòi cho được chữ “nhân”, chữ “nghĩa’ cho đám dân đen con đỏ ? Ngay sáng hôm sau, quan Thân Trụ Quốc lôi ngay gã “mật vụ phòng” ra đánh đòn tan xương nát thịt về tội không kịp thời báo cáo việc nàng Tuý Tiêu lẻn tới tìm chàng Dư . Quan vứt ngay bộ mặt giả nhân giả nghĩa, nói toẹt ra rằng : “Ta đón hắn về mái Tây này chẳng phải là để chúng lén sau lưng ta. Sao trong dinh ta , việc lớn việc nhỏ lại dám để lọt khỏi tai mắt ta ? Ta cho hai đứa được gần mà chẳng được xáp mặt.

Thể như con mèo trước bóng mỡ chớm mãi mà không bắt được. Hoa mắt sùi mép mà phải buông…” Nói xong làm liền, quan bày trò dã man, đêm trước ngày Dư Sinh bị đuổi về “địa phương”, quan cho chăng một sợi dây ngay trước cửa phòng nàng Tuý Tiêu, cho phép chàng Dư tới từ biệt vợ nhưng cấm … bước qua dây và chỉ được tới khi đèn phòng thắp sáng. Thắt buộc nhau vậy khác nào “ đặt mỡ miệng mèo mà chỉ cho ngửi”. Lẽ ra đạo làm người quân tử đời nào chịu làm phận ‘con mèo”. ?y th? mà đêm đó chàng Dư vẫn vâng lệnh quan theo chân con hầu Thuý Bình mon men tới phòng Tuý Tiêu ở “mái đông”. Vừa nhìn thấy đèn còn sáng chàng đã hí hửng : “Đèn còn sáng, hẳn nàng có ý đợi ?”. Con hầu lắc đầu: “ Việc đường đột này tuyệt nhiên chị tôi không được báo trước. Ngày mai chàng về nơi cũ, đêm nay quan cho giáp mặt người xưa…”.

Gọi là “giáp mặt” nhưng chỉ đến chỗ căng dây mà ngó lên thôi, chàng Dư đâu dám trái lệnh quan vượt qua, đành đứng bên “giới tuyến” ngước cổ than vãn : “ Oâi người bước trước cửa buồng mà chân đành chôn đất lạnh” Khi vợ xuất hiện nơi cửa sổ, chàng Dư cũng chỉ dám đứng bên dây thừng mà kêu : “ Tuý Tiêu ! Tuý Tiêu ! Dẫu đất trời tan tác Nàng ơi ta không thể nào quay bước Về nhìn đôi gối đêm nay, buốt lạnh..” Về nhìn đôi gối đêm nay, buốt lạnh..” “Tuý Tiêu! Tuý Tiêu ! Người khuất đâu rồi ? Khoan đừng lay động , ngọn đèn ơi…” Vậy là chàng chỉ sợ bên trong vợ tắt đèn phải quay lui theo đúng lệnh quan mà thôi, không hề dám có ý định vượt qua “vạch dây thừng” mà lao tới với nàng. Đến khi con hầu báo tin : “Chàng trông ! Đèn đã lụi dần Dám xin chàng hãy kịp lui chân…”

Cũng đành, chứ biết làm sao ? Chơi cái trò “ mỡ quệt mũi mèo” này, quan Thân Trụ Công quả là cao mưu . Chàng Dư cam tâm làm “chú mèo ngoan”, đứng bên sợi dây chăng mà vuốt bụng thở dài : “ Đau lòng thân nam tử Chân cóng giữa vòng vây…” Tấm thân ngọc ngà của vợ yêu chỉ trong gang tấc mà người “quân tử” ngày xưa của Lưu Trọng Lư cũng chẳng dám vượt rào đón lấy huống hồ ngày nay, các bậc hiền nhân quân tử “ chân ấm giữa tiền dự án, tiền tài trợ ” Nhà nước rót dài dài, đời nào dám “vượt dây thừng” nói chuyện đa nguyên đa Đảng với các quý vị hải ngoại ? Quay về nhà, chàng Dư mang lòng căm thù, trút giận vào..đôi chim Anh Vũ, quà tặng cưới của quan Nguyên soái, người đã tác hợp Tuý Tiêu với chàng : “ Chém cha cái giấc mộng Tưởng đôi chim nhỏ chết rồi Thế mà vẫn nguyên đó Nhảy đi hót đi…”

Thật đúng y tính cách “lưu manh Bắc kỳ” của giới trí thức ngày nay, khi “mộng không thành” chẳng dám vạch mặt kẻ phá thối mà chửi ngay mộng tưởng đẹp đẽ của chính mình. Rồi đến đêm, nằm mơ thấy quan Nguyên soái, ân nhân ngày trước, chàng vội vàng kể lể sự tình, nhờ quan ra tay giải cứu nàng Tuý Tiêu. Thực chẳng ngờ khi nghe xong, Nguyên soái cũng chân giò lảng ra : “ Ta chỉ biết điều tác hợp Còn như giữ trọn lứa đôi Là tự ở các ngươi Quả điều ta không liệu nổi…” Vậy là vô phương cứu…vợ, chàng Dư chẳng còn biết trông đợi vào ai, lại đành chỉ ngồi nhà kêu trời : “ Thần thánh hết thiêng khôn Chữ nghĩa văn chương như của thiu đốt sạch Trăm sách muôn nghìn sách Hỏi còn sách nào hơn ?”

Troi Phat, thần thánh, văn chương chữ nghĩa rồi cả quan Nguyên soái chẳng cứu được chàng, rốt cuộc chính những người dân đen lại ra tay nghĩa hiệp. Oâng lão bộc đã tuyển mộ được hơn 20 nghĩa sĩ, móc nối với con hầu của nàng Tuý Tiêu hẹn ngày hội đốt cây bông nàng sẽ mặc đồ trắng nhường cho con hầu mặc đồ xanh, khi kiệu đi vào đám đông, thừa cơ lộn xộn sẽ cướp nàng Tuý Tiêu trả về cho chàng Dư. Kế hoạch sắp xếp xong xuôi , chàng Dư chẳng mất công mất sức gì, cứ ngồi nhà chờ nghĩa sĩ khiêng kiệu nàng Tuý Tiêu trở về : “ Lòng ta bồn chồn Rối rít tiếng chim Anh Vũ Canh đà chuyển sang canh Sao kiệu nàng chưa về tới Hay đường đi nhiều trở ngại ?” Rồi đang nước sôi lửa bỏng, chẳng nghĩ gì tới những người vì mình xả thân nơi đao kiếm, chàng chỉ nghĩ tới nỗi sung sướng gặp lại vợ :

“ Hót inh lên anh vũ ơi Kiệu hoa đã đến rồi Nến ơi bừng sáng Đào ơi, khoe hết màu tươi…” Thế rồi đúng ý nguyện của chàng, kiệu hoa đã đến, nàng áo xanh cũng bước xuống, chàng Dư mừng rỡ : “ Tuý Tiêu…Tuý Tiêu…” Nhưng hỡi ôi không phải Tuý Tiêu vợ chàng mà là con hầu mặc áo của nàng theo kiểu “Lê Lai liều mình cứu chúa”. Cô ta cho biết : “ Chị Tuý Tiêu trong cơn xô xát hỗn loạn Bị một nhát thương Qua dòng nước trong Chị gieo mình tuẫn tiết…” Hay tin dữ, chàng Dư chưa kịp thắp cho nàng nén hương đã vội vàng khăn gói xuống đò theo chân lão bộc chạy trốn khỏi địa phương. Kết thúc vở kịch tác giả ca ngợi :

“ Tuý Tiêu! Tuý Tiêu! Ngọn đèn không tắt Lửa hồn đốt kiếp Trao nhau trọn xác trọn hồn…” Còn nhân vật chính, chàng Dư Sinh, dẫu có làm cả ngàn bài thơ nghĩa khí, rút cuộc vẫn lộ ra chàng nho sinh hèn nhát và hám gái. Rút cuộc Lưu Trọng Lư cố tô vẽ chân dung người quân tử nhưng vô tình cứ lộ ra chân tướng kẻ tiểu nhân.

Mô tả người anh hùng lắm khi cứ thò ra tính cách một “ thằng đểu” thực ra chẳng phải căn bệnh của riêng thi sĩ Lưu Trọng Lư mà là cố tật chung cho mọi văn nhân thi sĩ một khi đã cam chịu viết văn chương phải đạo, răm rắp tuân thủ những yêu cầu tức thời của chính trị. Trên trang thờ thi sĩ Lưu Trọng Lư tại nhà lưu niệm ở ngoại thành Sàigòn có treo bài thơ di cảo tự tay ông viết : “ Đi dưới vườn nhân dạ ngẩn ngơ Vì thương người lắm mới say thơ Phên thưa đã có bàn tay đỡ Đêm lạnh phăng lần những mối tơ Đẹp lắm trên đời những vấn vương Chao ôi thiên lý một con đường Đi trong trời đất từ duyên ấy Sớm tối không rời một chữ thương…”

Vậy là chẳng sám hối quyết liệt được như Chế Lan Viên trong bài thơ “Bánh vẽ”, đến tận cuối “con đường thiên lý” thi sĩ họ Lưu vẫn thương trời, thương đất, thương người chung chung mà chẳng dám buông một tiếng thở dài , tự vấn về con đường mình đã đi. Cũng trong nhà lưu niệm này, có treo một tấm liễn ghi bút tích Lưu Trọng Lư : “ Tôi thà bị lừa còn hơn không tin vào con người…” Than ôi, bằng chữ nghĩa và sự nghiệp lãnh đạo văn hoá văn nghệ của mình, chính ông đã lừa biết bao thế hệ độc giả mà ông đâu có biết . Bởi thế, nhiều năm qua, thân nhân và tỉnh uỷ Nghệ An cố dựng lên “Giải thương văn học Lưu Trọng Lư” mà chẳng mấy ai biết tới. “ Con nai vờ ngơ ngác Nó ca bài cải lương…” Lưu Trọng Lư chẳng ca “cải lương” đâu ông Xuân Sách ơi, ông ấy ca bài “khôn ngoan” đó…

No comments: