Chương ba bảy
6 năm sau Đại hội 3, đảng họp Đại hội 4 (1976).
Ke t thu c thơ i ky vu trang vơ i ca nươ c quy phu c đa ng va Lie n Xo
đa ng ho ang va o Đo ng Nam A , Trung Quo c vơ ba m: với địch th thay Đa
i Loan ơ Thươ ng trư c Ba o an Lie n hơ p quo c, với đồng chí thì thay
thế chủ quyền Việt Nam ở một phần lãnh thổ.
Máu Việt Nam mới có sức dịch chuyển địa chính trị mạnh mẽ và quý giá làm sao!
Sau
The chie n 2, tồn tại hai phe đã đẻ ra cục diện chiến tranh lạnh với ba
lò lửa chiến tranh là ba nước bị chia cắt (chưa kể lục địa Trung Quốc
với Đài Loan mà một dạo Mao vờ như khiền đến nơi.) Cộng sản ở ba nơi này
đều phụng thờ bạo lực vũ trang nhưng chỉ hai nơi quyết chủ động tung
quân đánh trước.
Cục diện đã đi tới:
- Cộng sản Hà Nội thắng
- sau hàng chục năm vũ trang mang tên “chiến tranh cách mạng” hay “giải
phóng” (hoa lá cành che đi phương châm “chính quyền ra từ nòng súng”)
với hàng trăm nghìn chiến binh vừa cài lại vừa xâm nhập hoạt
1
TRẦN ÐĨNH
456
động ở trên đất địch và bom đạn hai bên bắn nhau là của đế quốc và cộng sản cung cấp ê hề.
-
Cộng sản Bình Nhưỡng cũng từng dùng nòng súng nhưng thất bại để rồi
bằng lòng hoà bình theo ý của “kẻ thù” tức Nam Hàn dù hàng chục nghìn
quân Mỹ đồn trú ở đó hàng chục năm và chỉ huy luôn cả quân Nam Hàn. (Chú
ý: Mỹ không chỉ huy quân đội Sài Gòn.)
- Và cộng sản Đông Đức,
với tư cách hàng binh, tự nguyện ùa sang chiếm luôn “đất địch” Tây Đức
đầy ắp Đê mác. Bằng nhân phẩm cao, mức sống cao, Tây Đức tư bản sáp nhập
trong nháy mắt Ðức Cộng và nước Đức thống nhất bèn thành tảng nam châm
hút bong mất Đông Âu.
Đâu phải chíến tranh cách mạng với mục tiêu
xã hội chủ nghĩa ở ngay trước mắt như đảng vẫn sà sã rao giảng là xu thế
phát triển trội.
Và nên chú ý: ca c nươ c Đư c, Nha t, Nam Ha
n... hiện đều có đầy quân Mỹ nhưng không ai gọi họ “chó săn tay sai Mỹ
“như gọi Sài Gòn hồi nào để tiêu diệt. (Cũng cần chú ý nữa: no i ca ch
ma ng Ta n Tra o cu ng tư ng co binh l nh My - và chỗ giao du hơi có
chất “chuông nguyện hồn ai” này chắc Hồ Chí Minh đã phải giải thích chật
vật với Mao, Xịt - ta - lin)
1972, Mỹ “cu t” nhưng ngụy “chưa
nhào” nên 1975, Hà Nội phải nổ súng tiêu diệt chúng để cuối cùng thắng
Mỹ vẹn toàn bằng màn thắng… Mỹ vắng mặt. Màn này rất quan trọng. Này
nhá, quyết tâm diệt Mỹ của Ðảng cao chưa? Và như thế là Ðảng không hề
nội chiến, vâng, “người Việt Nam không ai thắng ai” mà, Ðảng đã nói. Cho
bọn “chó săn tay sai” đi cải tạo cũng là mượn hình hài chúng để cải tạo
linh hồn Mỹ vắng mặt thôi!
ÐÈN CÙ
457
Thắng lợi cuối
cùng đã để lộ ra hai bản ngã của dân tộc Việt! Một được Ðảng dạy cho nên
biết yêu nước đúng bài đúng vở Quốc tế vô sản rồi thành anh hùng đánh
đâu thắng đó, một do thiển cận quốc gia nên phải làm “chó săn bán nước
tay sai” ro i thua he n thua ha .
Chung quy tại Mẹ Việt Nam có hai
buồng trứng - dị dạng hơn Mẹ Âu Cơ chỉ có một - cho ra đời cả chiến sĩ
Việt Cộng lẫn “ngụy quân bán nước phản động.”
Có lẽ đã đến lúc
thống kê xem có bao nhiêu mẹ Việt Nam mang song thai quốc gia và cộng
sản tương tàn tương diệt và bao nhiêu mẹ đơn thai đẻ ra thuần “anh hùng”
hay thuần “ngụy” giết hại nhau. Đến hơn 50% không? Nếu thống kê xin chớ
bỏ sót mẹ tôi! Cả bà mẹ đẻ ra tổng đốc Phan Đình Hòe và chánh tổng “bạt
nhĩ bẹp tai” Quế - Nguyễn Tuân rỉ tai tôi, khoái trá vì cũng từng đều
dân pum - là bố của Lê Đức Thọ. Xưa ông bác tổng đốc đã chạy chọt phần
nào cho anh em Sáu Thọ ra tù đế quốc Pháp thì sau này Thọ giúp lại cho
con cháu ông ung dung bỏ Sài Gòn đã vào tay cộng sản để ra ngòai định cư
sớm sủa, tiếp nối huyết thống song thai. Và bà mẹ của Võ Nguyên Giáp.
Em gái ruột Giáp lấy trung tướng “ngụy” Nguyễn Ngọc Lễ, ngày 30 - 4 -
1975 bỏ Sài Gòn chạy sang Mỹ đã nghĩ gì về ông anh cộng sản đang thần
tốc tung quân truy sát lính quốc gia… Ôi, ai làm cho những đứa con của
các mẹ Việt Nam chĩa súng giết nhau?
Non sông gấm vóc Ðảng thu về
một mối cho mình - hay mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa cho cả phe, rồi
Ðảng trịnh trọng tuyên bố “người Việt Nam không ai thắng ai.”
Song
nói ù xọe thế để “yên dân” đấy! Vì theo đúng nguyên lý trí tuệ đầu sổ
của Ðảng thì cứ phải duy trì bằng được ranh giới địch - ta! Cho nên xóa
được giới tuyến phân chia địa lý Bến Hải, bèn vội vã thay cho nó bằng
một giới tuyến phân
TRẦN ÐĨNH
458
chia sinh học dễ xúc
động lòng người - ấy là suy tôn Bà mẹ anh hùng, vạc ra ở trên mặt Mẹ
Việt Nam một mảng vẻ vang - và dĩ nhiên một mảng nhục nhã hay những đứa
mẹ đẻ ra các ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ lùng giết con các Bà mẹ
anh hùng! Rồi nói đại: “Không có ai thắng ai, chỉ có nhân dân Việt Nam
thắng Mỹ.” Thế sao không gọi ráo tất cả Mẹ anh hùng?
Năm 1998 tôi
đã nói với nhà báo Mỹ Kevin Whitelaw ở tờ US News and World report rằng
để dân thường xuyên nhớ đến sự nghiệp đánh Mỹ do Ðảng khởi xướng, Ðảng
đã vạc nên một vết thương ác độc trên mặt Mẹ Việt Nam.
Đúng ra là
mánh chia để trị quen thuộc của cộng sản. Trong dân thì công nhân tiên
tiến nhất, nông dân trung gian, trí thức lạc hậu (nên không bằng cục
cứt.) Trong nông dân thì bần cố nông tích cực, trung nông dao động và
phú nông thiên về phản động. Ngay đảng viên cũng còn chia đảng viên ưu
tú, trung gian và lạc hậu!
Có lẽ nơi duy nhất không chia tiên tiến
với trung gian, lạc hậu là Trung ương đảng. Tuy bụng cũng ngầm phân
loại xếp hạng cho nhau cả.
Theo Tổng tập luận văn của Võ Nguyên
Giáp, sau Điện Biên Phủ, về An toàn khu, Giáp đến chào Hồ Chủ tịch. Chủ
tịch ôm Giáp nói: “Chúc chú thắng trận trở về, nhưng chúng ta còn phải
đánh Mỹ.” (tôi nhấn).
Tôi đọc và hơi buồn. Tôi đã ngỡ Bác nói:
Chúng ta sẽ phải đối đầu với Mỹ nhưng hãy gắng thống nhất hòa bình, dân
ta chín năm chiến tranh đau khổ quá đi rồi!
Thế là vừa từ nô lệ bước ra dân ta đã bị Ðảng nhét thanh gươm Giải phóng vào tay. Giải phóng dân tộc đồng thời giải
ÐÈN CÙ
459
phóng giai cấp và loài người, làm một cuộc tiến quân thường trực và trường kỳ. Đi đời sức dân ơi hỡi sức dân!
Muốn
gì tôi vẫn muốn nêu câu hỏi mở đầu: liệu Việt Nam có thể tự trị năm năm
ở trong Liên hiệp Pháp rồi tiến tới độc lập không? Nên biết Pháp giải
chế độ thuộc địa chính là trong thời tổng thống de Gaulle chứ đâu phải
như CB tức Hồ Chí Minh viết trên báo: đế quốc đánh chết vẫn không chừa
cái nết chiếm hữu thuộc địa. Thôi, nói xa chả bằng nói gần: sao không
học Bắc Kinh nán chờ để thu hồi hòa bình Hồng Kông, Macao và cả Đài
Loan? Hay sao không như Nam Hàn nhìn các đồng bào suy nghĩ khác mình,
yêu nước khác mình la anh em co t nhu c đe cu ng ba n ba c va cưu mang
cư u đo i chư kho ng la ke thu pha i die t? Hay, ừ nhỉ, sao không nghĩ
được như Đặng Tiểu Bình: một quốc gia hai chế độ? (Kinh tế thị trường
với định hướng xã hội chủ nghĩa chính là con đẻ không che giấu nổi của
tư tưởng Tito đời mới này. Thập niên 40, 50 thế kỷ trước chửi nó dữ
lắm!)
Kỷ niệm trăm năm ngày sinh Lê Duẩn, 10 - 7 - 2006, (nhưng
sau báo chí lại công bố là ngày 7 - 4 - 2007. Mới một tí đã hai dị bản.)
Lê Đức Anh có bài ca ngợi Lê Duẩn giỏi chọn thời cơ hạ thủ miền Nam
cộng hoà. Theo Anh, Duẩn cho rằng để Sài Gòn thực hiện Việt Nam hoá thì
“nó sẽ mạnh lên và ta khó đánh đổ.”
A, đâu phải vì Sài Gòn phá hoại hiệp định Paris! Mà là vì đừng hòng ông cho chế độ chúng mày ưu việt.
Một
trí thức bảo tôi: Đầy một kho các lưỡi Ê - dốp, các ông rất giỏi dựng
kẻ thù để căm thù và tiêu diệt. Nghe nói cứ thấy cứt Sài Gòn là chó Hà
Nội nổi đóa liền! Còn khi được một tủ lạnh đã mất động cơ để làm trạn
thì người Bắc vui. Rồi tự hào” giỏi kết hợp thô sơ với hiện đại!”
TRẦN ÐĨNH
460
* * *
Trong
Báo cáo chính trị Đại hội 4, Lê Duẩn đánh giá thắng lợi như sau: đã đập
tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực
lượng cách mạng, (tư c chu ye uVie t Nam, Trung Quo c, Liên Xô) đã đẩy
lùi trận địa đế quốc, mở rộng trận địa xã hội chủ nghĩa (xin chu y :
then cho t ở đây. Một cách nói nữa là đẩy lùi từng bước, đánh đổ từng bộ
phận chủ nghĩa đế quốc), phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc
Mỹ ở Đông Nam Á (phòng tuyến SEATO này sau đổi ra là ASEAN), làm đảo lộn
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó
khăn chưa từng thấy.
Ve mie n Ba c, ông nói: “Thành tựu to lớn
nhất là đã thủ tiêu chế độ người bóc lột người (...) Các giai cấp bóc
lột đã bị xoá bỏ..., người với người sống có tình có nghĩa, đoàn kết,
thương yêu nhau cùng với “vô sản chuyên chính được củng cố” (...) “hệ tư
tưởng và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa được đặt trên những nền móng vững
chắc..” (Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ 4, NXB Sự Thật, 1977.)
Lê
Duẩn cũng thông báo thời kỳ hậu Việt Nam là thời kỳ chủ nghĩa xã hội
xuất hiện thành mục tiêu đấu tranh trực tiếp (tôi nhấn) của tất cả các
nước trên thế giới. Ngụ ý: công ông mở giai đoạn cho cách mạng to chưa?
Nhưng
hiện thực Việt Nam luôn bố láo như cố hĩ! Nó ngược lại Duẩn hoàn toàn!
Phe xã hội chủ nghĩa tan, không còn ai cho súng, cho tiền, cho khoa học
quân sự và cho tin tình báo ở phạm vi thế giới để làm “tiền đồn” đùng
đoàng nữa, sức mạnh binh khí của Việt Nam suy yếu hẳn. Việt Nam cô lập
kín mít, không mở ra nổi chuyện gì, trừ sáu tỉnh biên giới bị quân anh
em chí cốt tràn vào dạy bài “thủy chung.”
ÐÈN CÙ
461
Đặc
biệt đáng chú ý: Đại hội 4 là Đại hội thắng Mỹ nhưng Trung Cộng không
gửi đại biểu đến dự. Thế đấy, ông anh cú! Đã hứa với Mỹ không cho domino
ở vùng này thì chú em cứ domino! Ngày nào nó theo mình đánh Liên Xô ra
trò thì nay nó trở cờ, cam làm “Cuba ở phương Đông” mở cửa cho Liên Xô
vào Đông Nam Á bao vây mình.
Và nhân đang thời trăng mật với Mỹ,
Bắc Kinh đánh luôn Việt Cộng để thanh minh mình không xúi Việt Cộng xé
hiệp định Paris chiếm Sài Gòn.
Mãi tôi mới thấy trong canh bạc với
Mỹ, người ta toàn xì tố bằng máu Việt. (Nhắc lại: máu Việt Nam có sức
dịch chuyển quý giá.). Báo Time đăng ảnh các hộp đèn quảng cáo Coca
Cola, Big Mac… lần đầu tiên hiện ra rực đỏ ở dọc Bund Thượng Hải, Thành
Đô, Khai Phong… cuối những năm 70 với dòng chú thích “Đông phương lại
hồng.” Tôi xem thấy ở mỗi hộp đèn đỏ hình như còn có thon thót ánh máu
Việt.
* * *
Sau đại hội 4, tôi đến Nguyễn Thành Long. Anh
nói Chế Lan Viên dự đại hội về hơi buồn. Không vào Trung ương mặc dù Tố
Hữu hết sức đùn vào. Đồn là vì có đại biểu Bình Định đến đại hội nhận ra
Chế Lan Viên xưa đi ủng Nhật, thắt khăn mặt trắng to quanh cổ hô ủng hộ
Đại Việt thân Nhật. (Xin nói thêm cho công bằng: nếu có thế thì Chế
cũng đâu bằng Phạm Ngọc Thạch được Nhật cấp hàng nghìn cây súng cho
Thanh niên Tiền Phong?)…
Long nói Chế Lan Viên bảo đại hội có chất
vấn Trung ương vụ xét lại, yêu cầu tổng kết vụ án... Rồi lắc lư mái tóc
rậm đẹp, khẽ thêm: - Có vẻ Chế muốn qua tôi đánh động với ông hình như
sắp có cái gì với ông.
Tôi không để ý mấy.
TRẦN ÐĨNH
462
Thì
đùng một cái, chi bộ họp bất thường. Biểu quyết khai trừ tôi. Ma n ki
ch đe no i ky lua t la theo đu ng nguye n ta c tư chi bộ.
Nửa
tháng sau, Trọng, vụ trưởng Ban kiểm tra trung ương và Trần Trung Tá, vụ
phó bảo vệ đến triệu tập tôi họp. Bí thư đảng ủy và Hữu Thọ, trưởng ban
kiêm bí thư chi bộ ban nông nghiệp cùng dự. Hữu Thọ ngồi đúng trước mặt
tôi.
Trọng đọc nghị quyết khai trừ. Số 271 hay 171, 73 gì đó,
(chả thiết lục sổ tay ra xem lại.) Ngô Thuyền, phó trưởng ban kiểm tra
ký. (Thuyền có con gái tên là Bè cùng học ở Trung Quốc với tôi, bé nhỏ,
ngoan.)
Nghị quyết viết:
Tội danh bao trùm: Trong tổ chức
xét lại, chống đảng, lật đổ, gián điệp, tay sai nước ngoài. Ở dưới nói
rõ: Thuộc nhóm Vũ Đình Huỳnh, Minh Việt. Và ba tội trạng cụ thể:
1.
Phủ nhận mọi đường lối, chính sách của Ðảng, nhất là đường lối kháng
chiến chống Mỹ; 2. Lăng mạ lãnh tụ giai cấp, lãnh tụ dân tộc Hồ Chủ
tịch;3. Chuẩn bị viết tiểu thuyết chống Ðảng.
Tổng kết hỏi cung
tôi, Ban tổ chức trung ương không hề kết luận tôi ở trong “tổ chức chống
đảng, lật đổ.” vậy là theo điều lệ Ðảng tôi có quyền khiếu kiện.
Nhưng tôi cho qua.
Chỉ
thanh minh: - Nói tôi lăng mạ Hồ Chủ tịch là không đúng... Tôi nói
những điều không phải về Bác cũng như đứa con có khi bực mình nói bố.
Tá cười rất thú vị (như đã chuẩn bị sẵn bước này): “Đây, có bằng chứng, để tôi lấy.”
ÐÈN CÙ
463
Miệng nói tay mở cặp da. Tôi vội nói: “Thôi, thôi, tôi đồng ý.”
Tôi
chợn. Đã có bài học của Lưu Cộng Hòa ở Ban nghiên cứu lịch sử Ðảng: anh
bị phó ban vốn là bí thư tỉnh Kiến An phang cho cả một cái gạt tàn pha
lê nửa ký vào mặt. May có cặp kính lão che. Hữu Thọ có thể tái diễn trò
“A, thằng phản động dám lăng mạ Bác chúng tao” mà tặng cái gạt tàn thuốc
nửa ký pha lê Tiệp kia vào đầu tôi lắm. To i be n đưa hai tay o m tho
p, ve suy ngh . Tiệp Khắc hồi ấy tặng ta toàn đồ pha lê để “khôi phục
kinh tế” sau 1954. Cơ quan nào cũng đầy gạt tàn pha lê tuy đều chủ yếu
hút điếu cầy.
Trọng hỏi: - Anh Trần Đĩnh có ý kiến gì không?
- Không, việc của Ðảng mà.
Tôi
ngạc nhiên nghe cái giọng tôi dửng dưng. Còn tiễn Trọng và Tá ra tận
gốc đa cơ quan như chủ nhân vậy. Bỗng nhẹ tênh. Hê luôn cả cái quyền
pháp lý tối thiểu của đảng viên ghi trong điều lệ: đảng viên bị kỷ luật
khai trừ được dự các cuộc họp kiểm điểm và đề xuất kỷ luật với đảng
viên. Tự nhiên đọc thầm thơ Thế Lữ thích từ ngày thiếu niên: “Đã quyết
không mong xum họp nữa, Bận lòng chi lắm phút chia phôi...”
Đã có
lúc tôi khá xấu hổ vì bị khai trừ. Nhưng rồi lành lặn khá nhanh. Nhờ cái
gì? Nhờ - xin hiểu cho là tôi không bịa đặt ở đây - nhờ tôi nhớ lại câu
nói của ông tham tán thương mại Ba Lan tháng 6 tháng 7 gì đó bị sốt
xuất huyết nằm chung phòng ở Khoa lây Việt Xô với tôi năm 1970 (danh
thiếp ông đưa đã mất): “Giá nước chúng mày ra ở tít giữa Thái Bình Dương
rồi mọi người xúm lại cung cấp mọi thứ cho chúng mày sống riêng với
nhau thì thế giới đỡ mệt. Chúng mày phá quấy quá!.” Cũng một kiểu khai
trừ!
TRẦN ÐĨNH
464
Ra khỏi nhân loại.
So với xấu hổ của Ðảng trước toàn thế giới thì xấu hổ của tôi ở cơ quan chỉ bằng con muỗi mắt?
* **
Fin de partie - tên một vở kịch của Samuel Beckett: Hết ván, rời sòng.
1947,
ở thôn Mè, Ninh Giang, nơi mẹ tôi và anh em tôi tản cư tới, tôi đã được
bí thư Mậm nhắm kết nạp. Đã một sáng lên huyện ủy làm cái việc mà nay
có lẽ gọi là “phỏng vấn.” Tuổi mười bảy, lại thêm tung tích ông bố mịt
mùng, nên chỉ chuyện trò vụn vài câu. Không vinh quy trở về, tôi lên cơn
sốt rét, run cầm cập đi giữa thảm gấm vàng: đê bối bời bời hàng cây số
toàn tơ hồng chín tới. Tôi và Mậm rất thân nhau. Tôi thường ở nhà anh,
thường gặp cô cháu ruột của anh, T., con gái đầu lòng ông chủ tịch xã
Hồng Lạc, rất mỏng mày hay hạt, thuộc loại dễ thành Ỷ Lan. Tình cảm lúc
đó với Ðảng gắn cùng mối thiện cảm với cô gái hay liếc trộm tôi rồi đỏ
mặt. Lúc ấy tôi đã kén được một đối tượng điển hình để tập dượt đấu
tranh ý hệ: sư cụ Chùa Mè. Bốn chục tuổi, trắng hồng, môi đỏ, giỏi võ -
huấn luyện cho dân quân du kích xã. Phải cái tội mù. Cụ dạy tôi đánh đàn
nguyệt - nhà tôi trú ở chùa - và trả ơn thì tôi lên lớp phê phán tôn
giáo, nhất là đạo Phật, thuốc phiện đầu độc người lao động. Chủ nghĩa
cộng sản hay nhất! Giải phóng dân tộc, giải phóng thế giới, giải phóng
con người. Sư cụ chỉ cười, răng rất bóng (cụ có một thanh tre hình bơi
chèo, đầu to đập rập suốt ngày lia cọ răng) nhưng một bà vãi cãi lại,
làm tôi rất khó chịu. Chồng đi lính sang Pháp đóng tới bếp, bà quá mê sư
cụ. Nhoáng cái bà đã vào buồng sư cụ.
Mười ba năm sau, ở Bắc Kinh về, tôi trở lại Mè. Cảnh xưa mà người
khác quá. Cải cách ruộng đất, Mậm bị quy là Quốc
ÐÈN CÙ
465
Dân
Ðảng, bị tù. Sửa sai về nhà ít lâu chết. Vợ anh bảo: “Phẫn quá mà vỡ
tim, vỡ toang như quả bóng ấy, chú ạ. Hai anh em chủ tịch với bí thư
cùng bị gông cổ điệu đi.” Cô cháu gái lấy người chồng thứ hai nghe đâu
bị nó đổ tim la cho rồi chết. Sư cụ Chùa Mè bỏ đi đâu không biết. Dắt cụ
đi là người đàn bà cười cứ ròn khanh khách mỗi khi vào buồng cụ ngày
nào. Tôi thầm nghĩ nếu lúc ấy đứng tuổi có thể tôi cũng bị đổ vì đôi mắt
lênh láng ướt sau hai hàng mi dài mựợt làm xây xẩm cả người đàn ông
trước mặt. Nhưng sư cụ không biết đôi mắt ấy và bà cũng chẳng cần người
tình mù biết mình ra sao. Tình yêu này vô tư nhất.
Nh n đi a h nh
re u ma t sa n ga ch va mo c ơ tha n ca y cau me to i thươ ng vi n va n
như xưa, tôi muốn khóc. O i, con ngươ i, sinh va t mong manh nha t! Sư
cụ có lúc nào nghĩ đến tôi, kẻ nhiếc đạo? Ơ Ba c Kinh đo c Nietzsche, to
i mơ i bie t y he la ma tu y, va chu a ga y la c la y he co ng sa n..
* **
Nư
a na m sau ngươ i ta khuye n Phan Ke An xin ra đa ng, chơ đe bi đuo i
như Tra n Đ nh! An cho biết khi chi bộ khai trừ An, Nguyễn Đình Thi nói:
- Bọn xét lại là con dao đâm vào lưng Ðảng khi đang chống Mỹ.
Thi biết chúng tôi phản đối chiến tranh, thứ hội lễ lớn Ðảng mở ra cho dân tộc.
Vài
tháng trước một sáng Thi tặng tôi quyển Mặt trận trên cao - ghi: “Tặng
Trần Đĩnh, những ngày hè nóng bỏng” rồi lầm rầm: - Khổ Hoàng Minh Chính,
giờ thì thăm thẳm.
Ít lâu sau Tô Hoài cũng bảo tôi: “Bo n Ch nh tha m tha m nh !” Ho p khai trư An, To Hoa i ngo i im.
TRẦN ÐĨNH
466
…
Hai nét về chuyện khai trừ Ung Văn Khiêm, Lê Liêm. Đọc nghị quyết khai
trừ Khiêm xong, Lê Văn Lương dặn: anh cải tạo tốt thì lại trở lại với
Ðảng.
- Cha này, - Khiêm nói, lúc mới ở Hà Nội vào, mình bí thư Xứ
ủy phân công cha ra Ba Son vô sản hoá. Đã thổ cải theo Mao tan nát rồi
lại bảo mình gắng Mao hoá tư tưởng lập trường!
Còn Lê Liêm? Hoàng
Quốc Việt, Lê Văn Lương, Trần Quốc Hoàn dự cuộc khai trừ anh. Lúc anh
về, Hoàn đi theo nói: - Từ nay làm việc cho tớ nhá. Chúng nó có gì thì
báo tớ... “Mình nhìn hắn rất lâu, - anh nói, rồi lắc đầu: Không! Tởm
quá. Mà họ đâu có cho mình dự cuộc họp họ ra kỷ luật khai trừ mình, vi
phạm luôn Ðiều lệ.”
Đảng tạo ra hẳn một xã hội mới toanh cho loài
người bất cần loài người có bằng lòng hay không thì há còn phải theo
pháp luật, điều lệ nào nữa chứ?
* * *
Một đoạn nhỏ của Nghị
quyết trung ương 21 khóa 3 về vụ án xét lại tôi còn nhớ: Bè lũ xét lại
hiện đại tìm cách tuyên truyền xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lê nin. Một số
phần tử trong nước ta đã sao chép các luận điểm của chúng, sử dụng các
khái niệm xét lại để tuyên truyền chống lại các chính sách của Ðảng
ta... Cần ghi nhận rằng bè lũ này đã tập hợp các cá nhân bất mãn, ghen
tị và đồi trụy bên trong Ðảng lập ra một “tổ chức chính trị phản động
làm tay sai cho nước ngoài.”
Đúng là một kho tổ bố toàn lưỡi Ê - dốp!
Tổ
chức tay sai cho nước ngòai. Nước ngòai nào? Mỹ? Pháp? Anh? Nhật?...
Thế nào cũng phải đổ cho là tay sai nước ngòai nhưng rêu rao tên cụ thể
nào lên lại sợ. Kroutchev ngại chiến tranh với Mỹ nhưng rồi bị lật. Ngửi
thấy mùi khói lửa
ÐÈN CÙ
467
Trung Quốc sắp cho tràn
ngập Việt Nam hết sức thơm ngon, thế là từ 1965 Brejnev đã mau lẹ nhảy
ngay vào và cuối cùng còn viện trợ nhiều hơn cảTrung Quốc. Nhưng chúng
tôi? Chúng tôi không bao giờ thấy máu lửa ngập đất nước là thơm là ngon!
Lại xem nữa: ký hiệp ước tương trợ hữu nghị với Việt Cộng, Liên Xô có
móc đứa nào trong” đám tay sai “của nó ra không?
Có lẽ trong những
người phản đối cộng sản, có một số rất ghét xét lại chúng tôi vì là
“tay sai Liên Xô.” Họ nghe Ðảng nên không hiểu là do kiên trì phản đối
nội chiến, chúng tôi đã bị khép tội chống Ðảng, phản động trong bóng tối
bí mật bao la của Ðảng. Câu nói khá công khai của Trần Châu, anh tôi:
“Chiến tranh đau khổ thì dân nổi dậy lật đổ” đã là một trong mấy bằng
chứng quan trọng để Việt Cộng lập vụ án chống Ðảng lật đổ lẫy lừng trong
đảng sử. Lúc đó với chúng tôi, đào đâu ra Human Right Watch, ra
Internet, ra Hạ viện Mỹ thông qua nghị quyết đòi Việt Nam tôn trọng nhân
quyền, đào đâu ra các thứ blogs ngày ngày đòi thả chúng tôi v. v.?.
Xin
biết cho rằng chúng tôi đã bị bịt mồm hoàn toàn. Giá giống như Nhân Văn
- Giai phẩm, chúng tôi được kiểm thảo công khai ở Thái Hà Ấp? Được thưa
chuyện với dân rằng chúng ta không nên chém giết lẫn nhau. Rằng thống
nhất đất nước có thể trì hoãn được. Và có thể thống nhất hòa bình v. v…
Giá như chúng tôi được ra tòa như Cha Nguyễn Văn Lý. Thì anh Nam, phóng
viên thông tấn nước ngoài sẽ chớp được cảnh bịt mồm ít nhất ba người.
Kiểu này Hồng vệ binh gọi là văn đấu kết hợp vũ đấu. Lúc ấy đào đâu ra
tòa án dù là giả dối? Lúc ấy chúng tôi là đồ chó ghẻ lạc lõng trong biển
“nhân dân hăng say đánh Mỹ,” người người xua đuổi!
Trần Dần có lần bảo tôi - trên mảnh sân bằng cái chiếu trên tầng ba ở nhà Lê Đạt, Dần đến cố vấn cho việc nuôi hai
TRẦN ÐĨNH
468
đõ
ong Dần mới san cho Đạt: - Bọn Nhân văn chúng tao đòi tự do sáng tác,
ừ, đòi tự do tư tưởng, tự do ngôn luận…, bọn “Xét lại” chúng mày lại đòi
giữ mạng sống cho bất cứ người Việt nào, dù nó có là phản động chống
Cộng ở Sài Gòn đi chăng nữa.
Không phải ngẫu nhiên mà đêm đầu tiên
hết bom B52, tại quảng trường 1 - 5 vắng lặng, Trần Dần bảo tôi: - Trần
Đĩnh à, ra cái con lừa này nó cũng không ưa nặng mày nhỉ?
Và Văn
Cao: - Hòa bình, tao làm Mùa xuân đầu tiên là tao vùi chôn đi cái thứ
quân hành tanh tưởi máu Ðảng bắt dân ta theo… Bài ấy chính là tao nức nở
nghẹn ngào, đúng, đến độ thành ra êm đềm như ánh sáng ban mai vừa mới
ló, cuộc sống run rẩy mới lên mầm. Mày ơi, mấy chục năm máu xương liên
miên liệu “người đã biết yêu người” như tao hy vọng chưa hả?
Nhưng ít người hiểu được “bè lũ xét lại” như đám nạn nhân chính trị này.
Mà
thường lại tin vào luận điệu của Ðảng, sẵn sàng coi bọn tôi” tay sai
của Liên Xô” tức là cũng một mớ “uýnh chác khát máu” thế cả thôi. Kia,
Kiến Giang nom như cha cố mà là đầu mối gián điệp cắm ở Hải Phòng để đón
tàu ngầm Liên Xô vào đưa bọn xét lại đi đấy. Hay Minh Việt vào đại sứ
quán Liên Xô ở Hà Nội ăn tiệc với thủ tướng xét lại Kossiguin mách cách
phá Ðảng. Lúc ấy, trừ Lê Trọng Nghĩa, chúng tôi nào biết có Cục tình báo
Hoa Nam đỡ đần nên chưa ngờ có lẽ nó đã mớm cho tình báo Hà Nội biết
bao tin “đặc biệt.”
Nhưng rồi chúng tôi đều phản cung, cơ sở pháp lý cho Nguyễn Trung Thành lật án.
ÐÈN CÙ
469
Riêng
Phan Thế Vấn, bác sĩ nha khoa thì lại bị buộc phải phản cung! Chuyện
này đủ nói lên tính hề hài cùa tội danh “tay sai nước ngoài.”
Năm
1968, đòi gửi thư cho Lê Duẩn khiếu nại việc anh vô cớ bị bắt, Vấn đã
được đưa về Hỏa Lò gặp Hồ Chúc, cục trưởng Cục chấp pháp. Chúc bảo anh
ngồi viết đơn. Theo như thường lệ, viết tên tuổi xong, Vấn đề tiếp:
“Gián điệp của Liên Xô” thì Chúc gắt: “Sao lại gián điệp? Xóa đi.” Vấn
nói: “Ô kìa, mấy năm qua toàn bắt chúng tôi phải nhận cái tội này không
thì cột cho là ngoan cố mà lại!” Xóa tội “gián điệp tay sai Liên Xô”
xong, Vấn viết đơn cho Lê Duẩn.
Lần này Hồ Chúc vặn: - Không là
đảng viên sao anh viết thư cho tổng bí thư? Rồi anh là quần chúng sao
lại viết là hồi học tập Nghị quyết 9?
Vụ trưởng chấp pháp tóm dân
mà không hiểu tất cả ai ở trong cơ quan, tổ chức đều phải học cái nghị
quyết lừng danh đánh Liên Xô thờ Trung Quốc.
Đảng đổi hướng như
con thò lò. Cần Trung cộng, Ðảng cộp chúng tôi vào cái rổ “tay sai Liên
Xô” nộp làm thế chấp, nay cần Liên Xô thì Ðảng lẳng lặng vớt Vấn ra khỏi
cái rổ tay sai gián điệp Liên Xô nhưng vẫn giữ lũ chúng tôi làm “tay
sai gián điệp” hoài.
Bù vào chỗ mất tội danh “tay sai Liên Xô,”
vấn phải nhận thêm ba năm tù nữa. Lý do: quần chúng không đảng viên mà
chơi trèo, dám đòi pháp quyền và dân chủ với tổng bí thư.
Sau khi
ra tù, Vấn được thứ trưởng Y tế Nguyễn Văn Thủ -- bạn nghề và bạn ten -
nit - cho đi làm. Người ta không chịu. Vặn: mười năm qua anh ở đâu, lý
lịch cần rõ chỗ này.
- Tôi bị tù.
TRẦN ÐĨNH
470
- Giấy bắt và tha tù đâu?
- Không có, bắt suông tha suông thế thôi.
- Thế thì anh thôi vào biên chế.
Ai bảo Ðảng ta quan liêu giấy tờ?
Thế
mà tôi có giấy chứng nhận! Nguyên do: đầu những năm 1980, Ủy ban nhân
dân phường mấy lần giục tôi nộp bản thành tích chống Mỹ để lấy trợ cấp
chống Mỹ. Tôi không thích nhận. Phản đối chiến tranh mà nay lại lấy tiền
công đánh Mỹ? Tôi bèn đến nộp vụ tổ chức báo Nhân Dân một sơ yếu lý
lịch xin đóng dấu chứng nhận. Dấu liền đóng cái phắp. Tôi đưa lý lịch
cho Ủy ban. Người ta bèn lờ tôi ngay. Phần kỷ luật trong đó đề rõ:
“Trong tổ chức chống đảng, lật đổ, thường gọi là vụ Hoàng Minh Chính.”
Sướng quá, thoát nạn lĩnh tiền.
Xem giấy này, Kiến Giang cứ nói: - “Họ ỉm vụ án,nhưng tờ chứng nhận này của Đĩnh quá hay! Văn bản công khai duy nhất đấy!”
* * *
Ở
ngay buổi mừng chiến thắng đặc biệt tại báo Nhân Dân mà người chủ lễ
danh dự là Tổng bí thư Lê Duẩn, tôi đã trải qua một phen điên rồ.
Như
sau: sáng hôm ấy, Lê Duẩn đến báo đảng nói chuyện đại thắng Mỹ, mượn
dịp để ông với báo đảng cùng vui mừng lại vừa là cách tuyên dương công
trạng báo đảng đã trung thành với từng lời của ông trong suốt cuộc chống
Mỹ.
Toàn cơ quan có mặt, chả ai “moong” và tất cả đều ăn mặc đẹp,
đều hớn hở, đều cười nói rộn ràng và đều dồn hết cả lên mấy hàng ghế
đầu. Vâng, để được nhìn cho tỏ vị anh hùng
ÐÈN CÙ
471
vừa
thắng Mỹ, thế cho nên cả một nửa trên hội trường chật kín vào nhau như
sung, còn nửa bên dưới, chừng năm sáu hàng ghế dài có lưng tựa thì vắng
ngắt. Có thể lấy cảnh này làm biểu trưng cho tình “đoàn kết, đoàn kết,
đại đoàn kết” được lắm, tuy trông nó hơi học sinh trung học. Trong đám
đông chen chúc sung sướng tột cùng ấy, nổi lên chiếc cà vạt mầu đỏ ớt
cay xè mắt mũi của Hữu Thọ.
Lê Duẩn nói được vài phút, ma xui quỷ
khiến làm sao, tôi bỗng từ từ đứng lên, từ từ lách ra đầu hàng, từ từ đi
xuống sau lưng hàng ghế cuối cùng rồi đứng đó, chọn cái chỗ ngay ngắn
tại chính giữa hội trường, hai tay chống lên lưng ghế, mặt thản nhiên…
Để
làm gì? Thật tình tôi cũng chả rõ tại sao! Bệnh tôi là bồng bột, bốc
đồng thì còn mong gì tìm ra động cơ trực tiếp, cụ thể nữa. Có lẽ chọn
lìa khỏi số đông nồng nhiệt - xuất chúng, outstanding - tôi muốn trình
cho mọi người thấy kẻ hèn nhát phạm tội” sợ chiến tranh “kia trước sau
vẫn kiên trì chống lại bạo lực đến cùng dù hắn đơn độc, dù bạo lực đang
vỡ trời cuồng hoan.
Vừa đứng đặt tay lên lưng ghế nhìn lên nửa hội
trường trống không đến bảy tám mét thì thấy luôn hai anh thanh niên
quần kaki vàng, sơ mi trắng đến ốp ở hai bên, ở phía sau tôi một ít. Rồi
một anh thứ ba lớn tuổi hơn, đến khép lại ở sau lưng. Tôi thấy hình
thành ngay ở quanh tôi thế trận vành móng ngựa của tòa án mở ngược. Bụng
liền bảo dạ: “Hố to!” và bắt đầu bồn chồn không yên. Nhưng làm thế nào
bây giờ? Chẳng lẽ cười lấy lòng họ mà nói: “Đông quá nên tôi hơi khó thở
phải ra đứng đây?” Mà trở về chỗ cũ thì càng xoàng! Bèn đành cứ chịu
trận ở mẩu đất hoang vắng tự mình trích biếm mình đến đó, để thấy gáy
luôn nặng trình trịch như đeo một cái vạ đời. Lúc đó mới nhận ra hết
nghĩa chữ “vùng không
TRẦN ÐĨNH
472
người” và “vùng tự
do bắn phá.” Nhìn lên cứ thấy mắt Lê Duẩn nhìn thẳng vào mình. Tôi đoán
thế nào ông cũng nghĩ sao lại để người đã tóc hoa râm đi bảo vệ tôi?
Cục trưởng bảo vệ an ninh Kháng tóc bạc nhưng nom có giống tay này đâu?
Qua
kiểu lập nghiêm khác tập thể một trời một vực của tôi, ai cũng có thể
kết luận rõ ràng tôi đang” đi ngược dòng thời đại.” Và dĩ nhiên đã ngược
dòng thì chẳng còn nghe thấy gì nữa, mặc dù hội trường luôn rầm rầm vỗ
tay và reo hò.
Lễ vừa tan, tôi lẻn vội ra hồ Gươm, không cùng cả
cơ quan chụp ảnh với Lê Duẩn. (Hôm sau, xem bức ảnh Lê Duẩn chụp với báo
đảng to gần hết cả trang nhất. Nhà báo tên tuổi Th. T. ngả hẳn người
vào vai Lê Duẩn, cười khoái lạc, tay ôm một quyển to tổ bố - chắc là một
cụ kinh điển mác - xít nào anh vừa vào thư viện mượn ra làm đạo cụ diễn
show - tôi cả quyết thế vì chả lẽ đến để toàn tâm toàn ý nghe tổng bí
thư mà lại vẫn kè kè đèo theo một khối sách nặng đến nửa ký?)
Gió
mát, mặt hồ in bóng mây, tôi chợt nhận ra: bị trừng trị vì tội phản đối
chiến tranh, tôi vẫn khăng khăng theo đuổi tới cùng nguồn cơn “tội lỗi”
của tôi chứ không ùa theo đám đông mà quay mặt lại cả với chính mình.
Không, hơn thế, tôi đã cho mình nhân danh phái đối lập đơn độc trình
diện ở ngay trước mặt tổng bí thư!
Nhưng phải nói nếu biết bỏ ra đứng một mình là thế nào an ninh cũng ốp sát thì tôi chả ra mắt như vậy.
Bây
giờ viết lại chuyện này, tôi mới thấy ra là từ lâu trong vô thức, tôi
đã cất công xây nên vững chắc khoảng xa lìa rành rọt với phe chiến
tranh, và nó, khoảng trống cách biệt như âm với dương này đã ôm bọc tôi
mà bảo vệ suốt. Và cũng có lẽ hồn ma các nạn nhân chiến tranh mà tôi âm
thầm thương
ÐÈN CÙ
473cảm hồi đó đã cử tôi ra làm một luật sư câm lặng chất vấn tác giả của “thắng lợi”: “Thắng gì? Thắng ai?”
Mà cũng có lẽ tất cả chỉ là dục lực mông lung này thôi: “Tôi không sợ ông, dù ông là trùm bạo lực, tôi đương đầu lại đây...” Thôi, dù chả làm nổi trò gì thì ít ra tôi cũng nhất quán tuyên xưng mình là kẻ chống chiến tranh.
À, còn chuyện này. Ba chục năm sau, tháng 3 - 2006, ở hội nghị báo Nhân Dân - gồm cả các tổng biên tập đã về hưu như Hoàng Tùng, Hồng Hà… - kỷ niệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, khi người ta giới thiệu tôi là “phóng viên chiến tranh,” tôi đứng lên nói rành từng tiếng: - Tôi không chiến tranh, tôi chỉ bất khuất.
Tôi nhìn mặt các quan chức đồ sộ. Không một phản ứng. Sự thật của tôi được chấp nhận. Đây không phải Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận mà là bất khuất viết thường của Trần Đĩnh. Trong khi không ít anh em đang làm việc vỗ tay hoan hô… Tôi có thể kể tên ra.
Còn một số chị, như chị Lý y tế, thì tan họp ra cứ thì thào: - Ui, nghe anh nói mà sợ góa đi à! Mọi người lấy làm vinh dự thì anh lại lắc.
475
Chương ba tám
975.
Tháng 4. Đại thắng mùa xuân. Như tên hồi ký Văn Tiến Dũng viết. Và cho
tướng Giáp ra rìa đại tiệc. Báo Nhân Dân dành hai trang đăng bài Bùi Tín
tường thuật “giải phóng Sài Gòn.” Xem đến đoạn Bùi Tín vào Dinh Độc Lập
mở tủ lạnh xem “chúng nó” ăn những gì, tôi không đọc nữa. Kiểm kê sự ăn
uống của tư sản, địa chủ vốn nằm quen thuộc trong cẩm nang phát động
quần chúng căm thù bọn bóc lột. Tức là bấm vào cái huyệt ghen ăn tức ở.
Mở trí khôn cho quần chúng ở cái điểm này mới quý đây!
Bỏ báo
xuống là một phản ứng buồn. Chính tôi thua. Với thân phận kẻ bị đàn áp,
rất bản năng tôi đứng ngay vào phía bà con đại bại trong Nam. Tự nhiên
cứ hay hát thầm “Chung một tương lai tối mù tối mịt” theo điệu một bài
hát ca ngợi Biển Đông chung chạ môi răng.
Gần trưa 30 - 4, Nguyễn
Thành Long rủ tôi đi bộ về phía ngã tư Lý Thường Kiệt - Phố Huế. Đường
ngày càng đông người hò reo. Tôi nói: “Chả lẽ trời đất quỷ thần lại phù
hộ...” vừa lúc một chiếc xe máy phóng vượt lên, người ngồi sau vung một
bánh pháo đang nổ tụng tóe, tôi không nói tiếp nữa.
1
TRẦN ÐĨNH
476
Tôi
dành một trang nhật ký viết: Le rideau tombe! - Hạ màn. Sáng l tháng 5,
con gái tôi dậy rất sớm khe khẽ lấy khăn quàng đỏ xin phép cho lên xe
Nhà hát.
Tôi vẫy cháu đến bên giường. Thấy cần cho cháu hiểu điều
cơ bản. Nói: - Cho con đi mừng đất nuớc hết chiến tranh, dân thôi chết
chóc chứ không phải mừng chiến thắng vì khi con reo hò thì trong kia có
thể ông nội và các cô chú của con lại đang khóc... bởi bom đạn ngoài này
giết chết mất người thân.
Tự kiềm chế, tôi tránh chữ nội chiến,
sợ cháu ra ngoài bép xép nhưng chính cũng lúc đó trong đầu tôi chợt lóe
lên một liên hệ: Ðảng đã trung thành noi sít sao gương hai ông anh cả và
hai mở đầu sử mới của đất nước đều bằng nội chiến tàn khốc để rồi rút
ra kết luận thần thánh “chính quyền ra từ nòng súng.” Nhưng sao người ta
cứ phải mượn danh nghĩa chống ngọai xâm? Kia, từ 1972 đến 1975, ba năm
qua toàn là Việt Nam thịt Việt Nam! Mỹ cuối cùng chẳng phải đã học Trung
Quốc vở Việt Nam hóa chiến tranh đó sao? Để nó đánh, còn mình tung hứng
chỉ trỏ đằng sau có hơn không?
Đâu chỉ tôi lo người nhà tôi trong
kia khóc. Ngoài này tôi đã chứng kiến người khóc. Gần nhà tôi có cụ
Lập, hơn bảy chục tuổi, thổi clarinette dàn nhạc cung đình của Bảo Đại,
cùng dàn nhạc theo cách mạng, đánh Pháp rồi tập kết ra Bắc cùng với
Dương Quang Thiện, Lý Thương, các giám đốc Nhà hát Giao hưởng, Hợp
xướng, Nhạc vũ kịch, Nhà hát Ca Múa Nhạc. Mỗi cụ Lập không đảng thì lính
trơn. Sống một mình. Nghèo, đói. Bít tất nâu bạc phếch quanh năm ở
chân, đúng hơn, hết chun, tụt nằm lòng thòng ôm mắt cá. Đôi dép râu quai
vồng ngỏng lên như những còng vó. Mưa gió ra chuồng xí về thấy tôi dịch
sách ở đầu hiên (mất điện), cụ dừng lại. Đập vào mắt tôi là đôi bít tất
lúc này đã tụt ra nửa bàn chân
ÐÈN CÙ
477
đang như
hai cái bao tải con lau chùi vệ sinh cho dẫy hè sứt mẻ ướt dượt, cho
vũng nước đái đã lên váng mấy màu ở chuồng xí. Tôi thầm nghĩ: “Cụ không
tập kết thì cụ đang đi giày da bóng loáng và quần téc - gan màu than
đá.”
Về sau, trong mắt tôi, đôi bí tất lòng thòng ở hai cổ chân
gầy mốc meo và lật phật rủ ra ngoài đến một nửa kia trở thành ngọn cờ
của đầu hàng buông suôi. “Tôi là vì nghệ thuật mà hăm hở ra đi, nhưng
nghĩ lại thì cũng vì nhiều cái lắm, vì tiền đồ cá nhân này, vì nước này
nhưng cuối cùng chẳng cái gì nó vì tôi...”
Một hôm để cụ vui, tôi
nói: - Cụ ơi, sau Cách mạng tháng Tám, nghe Dàn nhạc cung đình chơi có
cả clarinette, saxo… hai bài “Lưu thủy Hành vân” ở trước Nhà hát lớn tôi
thật không ngờ ta đã kết hợp tây nhạc và hay đến thế. Các cụ từ hồi ấy
đã chăm chút vốn liếng dân tộc và học ngoại.
- Ấy, rồi ông Tố Hữu
bắt giải tán. Ông ấy bảo truyền thống chúng ta là thô mộc, tây nó mới
kèn đồng, dây đồng. Thì ông gì Cục trưởng văn hóa quần chúng cho mở lại
hội Lim cũng bị phê phán rồi mất chức đấy.
Tôi thầm nghĩ: Đào Duy Kỳ!
Bây
giờ, tôi mau mắn mừng cụ sắp được đoàn tụ gia đình. Nhưng cụ nắm tay
tôi: - Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu,
đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân...
Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình... Ra
đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi?
Thương cụ, tôi cúi xuống.
Thì
lần đầu tiên thấy chân trần của cụ. Nó xương xẩu, mỏng tóp, vặn vẹo, và
tôi thấy đúng là nó có một nội tâm và nội tâm ấy đang mếu. Tôi vụt nghĩ
Ma Y thần tướng có lẽ nên
TRẦN ÐĨNH
478
xem tướng bàn chân trước hết, lấy cái bệ đỡ của số kiếp này làm điểm đột phá vào vận mạng mỗi người.
Cụ Lập nói chuột cống tha mất bít tất rồi. Đêm qua ở nhà vệ sinh về bước vào vũng nước sâu phải cởi ra hong. Sáng không còn nữa.
Lúc
ấy tôi chỉ có một đôi bí tất rách mũi và gót. Vào nhà ai phải cởi giầy,
tôi thấy như đang viết khai lý lịch phi vô sản đáng xấu hổ.
Tôi
nói nhiều đến cụ Lập này vì hai nguyên cớ, ngoài tình thương đồng loại
còn có lợi ích. Sau khi cụ về Huế, Thanh Thanh, diễn viên múa, con gái
Hoàng Mười bảo vợ tôi: - Cô hãy xin cho dọn về nhà cụ Lập chứ ở mãi cạnh
chuồng xí mất vệ sinh lắm. Thú thật là vào nhà cô, em thấy mọi thứ ám
mùi... kia kinh quá.
Cụ Lập đã cho gia đình tôi một “dinh cơ… thơm.”
Nguyên
cớ thứ hai: cụ Lập giống Cụ Hồ như một bản sao. Trẻ con Khu văn công
thường đến đập cửa nhà cụ: Cụ Hồ ơi là Cụ Hồ ơi, sao Cụ lại đến ở đây?
Lý ngừa ô là ngừa ô ô ộ ô, nào xin rrước… Củ, rrước Củ, rrước Củ là về
rrưn... là về rrưn... à rrưn. Hay vỗ tay hát chõ vào nhà: “Hai mắt Bác
như sao, râu hơi mùi...”
Chúng kháo râu cụ có mùi thui thúi (nhại cụ).
Hỡi
Ma Y Thần tướng? Sao giống nhau như đúc mà mỗi người một cảnh? Bên là
vật chứng của vinh hoa thành đạt, bên là vật chứng của lụn bại thảm
thương. Tôi đã có lúc nghĩ không chừng cụ Lập là một phản - Hồ Chí Minh,
như phản vật chất trong
vật lý. Lúc ấy tôi chợt tiếc đã không quan sát kỹ bàn chân Cụ Hồ một dạo tôi hay nhìn thấy.
ÐÈN CÙ
479
Nhân
chuyện đám trẻ con Lý ngựa ô ghẹo rước cụ Lập về rrưn, cần nói thêm
chúng còn ghẹo cái phi lý của xã hội. Chúng vỗ mông hát rất đều và to:
Què liên lạc, Lác lái máy bay, Cụt tay đào hầm, Câm gọi điện, Mù đọc
báo, Điên chỉ huy
… Và một kiểu lắp thêm chữ vào câu hát như kiểu
cờ domino, ai ngắc không hát tiếp được sẽ bị ê ê: Bà gì bà ngoại, Ngoại
gì ngoại xâm, Xâm gì xâm lăng, Lăng gì Lăng Bác, Bác gì Bác Hồ, Hồ gì hồ
đồ, Đồ gì đồ xôi, Xôi gì xôi lạc, Lạc gì lạc thối, Thối gì thối tai,
Tai gì tai chó, Chó ỉa vào mày, Mày vầy nước đái, Cho tái mặt lên…
* * *
Xong
chiến tranh cả tháng tôi rất buồn: không có tin của bố và các em tôi.
Dù Linh vào Nam biểu diễn từ đầu tháng 5 và Thép Mới, Mai Lộc hết sức
tìm. Gia đình tôi mất liên hệ với nhau đã lâu.
Thương miền Nam
đang sướng rồi khổ đây thì mọi người cũng lại xuýt xoa trong kia dân nó
ối chà giàu ơi là giàu. Vàng chỉ năm chục đồng Cụ một cây. Tủ lạnh vài
chục đồng một chiếc. Lạnh cứ là liên lu liền lù suốt năm. Bảo cho tay
vào lâu là hoá ra đá.
Một sáng P. K. bên giáo dục chuyển sang làm
báo mời tôi ăn phở Phú Gia. Lúc chờ, anh nói: - Chỉ với anh thì tôi mới
nói thật cái này: nhà tôi là tư sản anh ạ.
Thấy vẻ sung sướng trên
mặt anh, tôi mừng thay nhưng cũng lo. Tôi nói khéo sẽ mất hết. K. nói: -
Tôi đã mách cách phân tán cả rồi. Sao để họ lấy không được chứ?
Trả
lời tôi hỏi trong ấy họ sống thế nào, anh nói: - Đủ hết nhưng nay nhà
tôi đã cho nghỉ máy lạnh. Giả nghèo. Buồng nào cũng máy lạnh. Xin lỗi
anh, tôi thấy sướng nhất là đi toa
TRẦN ÐĨNH
480
lét. Ối trời, anh biết không, rộng, thoáng, mát., sạch… Buồng trưởng phó ban báo ta thua xa…
Hồi
Nghị quyết 9, K. đả xét lại khá mạnh. Tôi không hiểu tại sao nay anh
chỉ nói niềm vui hưởng thụ của gia đình tư sản với riêng tôi. Mơ hồ thấy
có khi anh lại nhận ra ở tôi cái gì đó giống Sài Gòn - đúng, giống thì
mới chống dữ việc “giải phóng” nó chứ! Cũng lại nghĩ: thảo nào có câu
“miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng.” Con búp bê lủng lẳng trên ba lô
mỗi anh lính trên đường về Bắc. Nhẹ đi một cơ số đạn giỏi cướp mạng
người thì nặng ra một vật cưng biết chớp mắt, nhoẻn cười.
Thời
gian rồi cho thấy hóa ra Sài Gòn cũng có công bày lối đi tới cho Ðổi
mới... Định hướng xã hội chủ nghĩa cặp bồ với kinh tế thị trường, kẻ cho
uy danh, kẻ cho túi bạc, mối nhân duyên này chẳng phải là sặc sụa mùi
dân Nam nhận họ cộng, dân Bắc nhận hàng tư đó ư?
* * *
Cuối
cùng Thép Mới thư: “Đĩnh, Hồng Linh đã gặp cả nhà mày ở Nguyễn Thông
rồi. Đâu có đấy. Tao đến chào ông cụ. Ông cụ khỏe, khóc nhớ miền bắc.
Thép Mới, thân. Tối 31 - 5 - 1975 trước khi đi xem Hồng Linh biểu diễn.”
Sợ
mấy nghìn quyển sách - 16 loại từ điển - của bố tôi bị thiêu hủy, Thép
Mới cho bố tôi một giấy chứng nhận của báo Nhân Dân: “Xin cảm ơn cụ đã
có nhã ý để cho báo Ðảng chúng tôi sử dụng thư viện gia đình cụ...”
Cán
bộ nhân viên có gia đình trong Nam đều xin giấy chứng nhận cán bộ cách
mạng để gửi vào làm một thứ bảo lãnh. Tôi nộp đơn xin thì Ngũ Phong, cán
bộ văn phòng cho hay Hồng Hà không ký, bảo rằng tôi không cần. Nghĩa là
tôi không có tư cách cán bộ cách mạng. Khi Ngũ Phong báo tôi ý
ÐÈN CÙ
481
kiến
của Hồng Hà, Vũ Hòang Địch đang ngồi với tôi ở dưới cây đa sân báo liền
ngẩn ra rồi run run môi nhìn xuống. Co n to i tha y bo ng ra t ca i kim
a n to i đo Ða ng đo ng v nh cư u le n mặt. Kho ng co bu a ye m cho gia
đ nh, to i gư i hua n chương kha ng chie n cu a to i va o.
Ma t
he t! Ca c cha u be con hai co em đem hua n chương ra đa nh ca u. Nha
nươ c la n gia đ nh đe u phu nha n co ng le nh chie n đa u cu a to i.
Cơ
quan báo họp nghe truyền đạt ý kiến Phạm Văn Đồng: ta nhân đạo đưa họ
đi cải tạo để trở lại làm người, kẻ nào không chịu mà chống lại thì ta
sẽ đối xử như chó (ý là cho quay lại đời chó săn). Tôi nghe thấy kinh
khủng, lạnh cả người. Bữa ấy cũng truyền đạt lời Lê Đức Thọ: ta để cho
họ tạm buôn bán thế mà đã có anh em chất vấn. Họ như con chim ta nắm
trong lòng bàn tay, cần đến ta bóp lại ngay thôi mà.
Người ta hớn
hở thì lòng tôi u ám. Như Nàng Kiều trước mộ Đạm Tiên cứ thấy số phận
mình gắn nhiều hơn với bà con trong kia. Cũng chung phường phản động cả.
Nghe
câu “chuyến tôi đi xe đò đứt thắng, đ. mẹ đời đ. má tương lai” chả hiểu
vì sao lại truyền ra Bắc, tôi thấy rõ hơn bà con trong Nam, đồng minh
không cần cam kết, sẽ bị đày ải từ nay!
Nhưng người ngoài Bắc nô
nức đi Nam. Tôi biết thân phận không ngỏ ý ngay. Người ta sẽ bảo anh
chống kháng chiến chống Mỹ cơ mà, sao còn xin hưởng chiến thắng?
Ga
n na m rươ i sau, tôi được giấy phép vào. Tie n kho ng co , to i vay Le
Va n Vie n, phie n di ch cho sư qua n A n Đo , bố Bống tức ca sĩ Hồng
Nhung, 500 đồng. To của. (“Anh cứ cầm, bao giờ trả em, mà không trả cũng
được,” - Viện nói.) Có tiền rồi
TRẦN ÐĨNH
482
lại khó
khoản vé. Chỉ có thể hoặc nhất thế nhì thân hoặc chìa cổ ra cho phe vé.
Tôi nhờ học giả Đào Duy Anh. Anh viết vài chữ bảo tôi cầm đến cho Hiến
từng làm ở báo l’ Action, Quân du kích và Hà Nội Mới. Hiến đã mua cho
tôi vé liên vận - xe lửa đến Vinh, đổi xe khách trực chỉ ngày đêm vào
Sài Gòn.
Đêm miền Nam đầu tiên nghỉ ở Đà Nẵng. Hành khách ngủ vạ
vật trên đường quanh xe. Sáng sớm, mở mắt tôi thấy một vùng loá trắng,
tinh khiết, ngỡ như mênh mang ngay ở trên đầu: pho tượng Phật. Chợt thấy
lòng êm ả lạ. Nhờ ánh sáng an ủi mà một đức Phật bằng lặng và nguy nga
như tảng băng Nam cực kia trôi đến ban cho. Sau biết đó là pho tượng
Phật Quan Âm lớn nhất Việt Nam ở Chùa Linh Ứng, Bãi Bụt. Hay thật, sao
đêm đầu tiên gửi mộng trên đất miền Nam tôi lại ở Bãi Bụt!
Tôi tới nhà, cô em út trông thấy tôi đầu tiên.
Cách
đây hai mươi năm, ở Đại học Bắc Kinh, tôi nhận được một bưu thiếp, sản
phẩm đặc biệt của cái thời “tạm chia cắt.” Hân, mười sáu tuổi, viết: “Em
mơ thấy anh được Nobel, à, nhưng anh có biết Nobel là gì không? Em khoe
với bọn bạn là anh rất giống Marlon Brando và Anthony Perkins, ôi,
chúng nó ghen quá, đã đẹp trai lại giỏi nữa chứ. À, nhưng anh có biết
hai diễn viên Mỹ này không?”
Nay Hân ngẩn ra nhìn mãi cái người
tiều tụy đang cố rút chân ra khỏi đống bị, sọt, can, ba lô tha vào cứu
tế chất đầy sàn xích lô. Gắng rút được chân thì một chiếc dép nhựa nâu
văng lên thành một parabol hoàn hảo của một chiếc lá đa già, mỏng sắc,
nó liệng vồng lên qua đường rồi rơi đánh đạch một cái trước khung cửa gỗ
tăm tối của nhà tôi: tiền trạm của tôi lại là cái gót rỗ kỳ khu nằm
trình diện kia! Khi xỏ lại chân vào nó, tôi chợt thấy mình đúng là khố
dây đi đất. Tôi không có
ÐÈN CÙ
483
nền móng gì ở dưới chân. Nhẹ bỗng. Trống trơ. Trừ tình gia đình, bố con anh em…
Tôi
đồng thời cũng thấy một ngỡ ngàng lớn trên mặt em gái. Em quan niệm
người có tài mới thành đạt và thành đạt thì trước tiên là có nhiều tiền,
kiểu như Bill Gates sau này vậy. Tan vỡ Nobel. Marlon Brando, Anthony
Perkins... ở người anh. Tan vỡ hết luôn cả mộng nữ sinh Trưng Vương Sài
Gòn.
Đoàn tụ thật là cảm động và vui. Nhưng luôn nhói lên một nỗi
lo đen ngòm: gia đình tôi trong này rồi sống làm sao. Bố tôi sụt mười
mấy cân. Lo, chán. Tôi nhắc chuyện Nguyễn Thành Long nói bố bị bắt đứng
nghiêm một lúc. Cụ cười bảo tôi: - Bố đi bộ về đến đầu phố thì bị một
anh bộ đội cầm súng gác giữ lại hỏi đi đâu mà nhanh thế. Bố nói tôi già
nên muốn mau về nhà nằm. Không được, đứng nghiêm năm phút! Bố lại ngỡ
như thuở bé đi học đứng nghiêm là quay mặt vào tường nên quay vào tường
thì anh ấy lại vặn sao quay mặt đi? Trốn giáo dục à? Lại quay lại nhìn
thiên hạ qua lại nhìn mình. Đứng đã ngán lại phải nghe loa ca ngợi chiến
thắng, phân tích chiến thắng…
Đến đây, bố tôi chợt ra đầu giá
sách lúi húi lục tìm rồi quay lại đưa tôi hai trang báo đã cắt. - Đĩnh
xem, chiến thắng đây. Một nửa trang báo Sài Gòn Giải Phóng có câu tôi
nhớ đại ý như sau: Với Việt Nam, Trung Quốc vĩ đại không chỉ là người
đồng chí, mà còn là ông thầy tín cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để
chúng ta có được ngày hôm nay, thì chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc
hay thuộc ta cũng vậy thôi. Khi nào chúng ta muốn nhận lại, Trung Quốc
sẽ sẵn sàng giao lại. Một trang nữa với bài xã luận nhan đề thật kêu:
“Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt Nam.” (Bố tôi che phần dưới bài xã
TRẦN ÐĨNH
484
luận
hỏi tôi: “Tu crois en ca? - Đĩnh có tin không?” rồi rút tay lại cho tôi
đọc tiếp.) Như sau: “Đế quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người
thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng từ thú trở lại thành
người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân được nữa.
Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính.” Tôi lại thấy
lạnh người như lần đầu nghe truyền đạt lời Đồng - (chứ không phải vàng,
chỉ lời Bắc Kinh mới là vàng) tại bản doanh báo đảng.
Bố tôi nói: -
Qua thư từ các con, bố đóan các con khốn khổ vì đảng và vì thế bố cũng
hài lòng, đỡ buồn. Trước kia, trong này vẫn gọi Hà Nội là tay sai của
Moscou, Bắc Kinh… Còn bảo Sài Gòn tay sai thì Sài Gòn không hề dâng đất
cho Mỹ như Hà Nội. À, Đĩnh thì chắc biết cũng Trung Quốc nhưng Trung
Quốc lại đã có Lão Tử chủ trương không dùng vũ lực vì chính vũ khí sẽ
chống lại người cầm vũ khí… Mặc Tử thì phản chiến thế này: mùa đông rét,
mùa hè nóng nên không dấy binh, mùa xuân canh tác, mùa thu hái gặt nên
cũng không dấy binh… Người ta sợ khổ dân mà không đòi chém giết. Còn
Mạnh Tử nói kẻ cầm quyền coi dân là ngọn cỏ cục đất thì dân coi lại họ
là quân cướp, kẻ thù..
Nghe bố nói Lão Tử, Mặc Tử, Mạnh Tử mà mình
im, tôi hơi ngượng. Học ở Trung Quốc nhưng tôi không mò vào Lão Tử, Mặc
Tử, Mạnh Tử!... Đúng ra, 1973, tôi đã mượn Minh Chi quyển Đạo Đức Kinh
tiếng Anh nhưng đọc cứ trượt đi. Không tán thành Marx đề xướng bạo lực,
tôi cũng chê Lão Tử không tưởng khi chủ trương vô vi. Nhưng tôi rất
thích ý này của Lão Tử: lúc chuẩn bị dùng vũ khí thì hãy coi như đang
sửa soạn lễ tang, tàn sát nhiều thì nên thương khóc cho những mất mát
đau buồn, nếu có thắng thì nên kỷ niệm bằng tang ma chứ đừng tự ca ngợi
mình giết giỏi.
ÐÈN CÙ
485
Bố tôi chép miệng phàn nàn
im súng là mở luôn ngay một trận terreur rouge, - khủng bố đỏ. Bố đã
thấy những bà mẹ bế con bé quỳ xin người khác lên xe chạy trốn ra ngòai
hãy giúp đem con mình đi, trốn chế độ cộng sản.
- Dân Nam bỏ đi bị chết không biết đến bao nhiêu ở biển, - tôi nói.
-
Người ở lại thì chết trên cạn… Họ bạo lực thì dân phải trí trá, đạo đức
giả. Lần đầu tiên trong đời bố ngày ngày phải sống giả vờ tươi vui. Xưa
đọc sách báo phương tây nói về cộng sản bố đã sợ - cho nên không ở lại
ngòai đó - nhưng nay bố mới thật sự chìm trong cảnh.
- Năm con
mười ba tuổi, bố dịch các bài trong tạp chí Revue francaise, đọc cho con
viết, con nhớ có bài bất đề kháng của Gandhi, bố cốc đầu con một cái
khi con viết thành bất để kháng… xót máu dân hay không, - bố tôi nói.
Qua
gia đình, bố và các em, tôi thấy rõ hai miền hai kiểu nghĩ, hai lối
nhìn khác nhau trắng đen rõ rệt. Và tôi mừng. Thì vừa hay chiều, tôi và
chú em ra phố. Đến đầu Kỳ Đồng, chỗ bố tôi bị phạt đứng im, gặp một đám
ma. Chú em leo vội lên hè cúi đầu ngả mũ, cái mũ bẹp nát. Đi sau, tôi
lặng người. Ôi tan nát hết, từ nay sống ra sao, vậy mà vẫn níu lấy cái
mẩu văn hóa bắt đầu thấy bơ vơ lạc lõng kia! Chú em tôi đang làm tay sai
cho ai đây trong việc ngả mũ cúi đầu tiễn biệt một vong linh không quen
biết?
Vài hôm sau, ở Huỳnh Tịnh Của, tình cờ gặp Minh Trường,
phóng viên nhiếp ảnh Thông tấn xã năm 1971 đã cùng tôi vào vùng rốn lụt
của Hải Dương. Anh thuộc lớp người đầu tiên về Sài Gòn chiến thắng.
Nhưng anh đã nếm một chiến bại đớn đau. Hơn một năm sau kể lại với tôi,
giọng anh vẫn run run như nghẹn lại. Lẽ tất nhiên anh rất vui khi lần
đầu tiên trở lại
TRẦN ÐĨNH
486
đứng trước nhà mình bấm
chuông. Thì mẹ anh mở cửa. Thì mẹ liền chắp hai tay lạy: - Anh còn sống
thì tôi mừng nhưng anh về thì tất cả các đứa con bao lâu nay sống với
tôi, chăm sóc phụng dưỡng tôi đều đã bị các anh lôi đi tù hết mất rồi.
Anh về thì nhà này tan nát, thì tôi trơ trọi. Thôi, tôi xin anh, anh đi
với đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên...
Vũ Hoàng Địch đến
chào bố tôi. Kể chuyện Vũ Hoàng Chương. Chương ở chung xà lim với cựu
thủ tuớng Phan Huy Quát. Lúc mới vào, tự giới thiệu nhau xong, Chương
nói: - “Thế ra thi vương, tể tướng cùng là tù của cộng sản nhỉ.” Quát
nhất định không học tập. Tôi chống cộng sản từ trong đầu óc, máu huyết
tôi thì làm sao các ông cải tạo được tôi, các ông giết tôi đi chứ không
khi nào học các ông. Sau đó Quát chết trong tù. Không học qua một bữa.
Bố
tôi nói ngày cưới em gái tôi - cô em mơ tôi được giải Nobel - bố tôi
mời Phan Huy Quát, là bạn và thủ tướng lúc đó. Chú em rể tôi, phi công,
mượn cớ chào quan khách đến trước mặt Phan Huy Quát đã to tiếng hỏi sao
ông bán đất cho Mỹ? Quát vừa ký cho Mỹ thuê Cam Ranh 99 năm. Kể lại, bố
tôi lắc đầu cười. “Anh này lo Mỹ thuê hết đất thì không còn chỗ để Việt
cộng mở trại giam. Anh này hiện đang đi cải tạo xa lắm...”
Khoảng
một tuần sau, bố tôi đi chơi về khẽ bảo tôi: Vũ Hoàng Chương vừa mới
chết… Giọng bố tôi buồn. Một lúc cụ nói thêm, vẫn khẽ: - Vũ Hoàng Chương
có mấy câu thơ dân Sài Gòn thích lắm... “Từ thuở ngươi về hỡi loài man
rợ, Đến vô tri sỏi đá cũng buồn đau.”
Trần Vũ, đạo diễn điện ảnh
bảo tôi 1975 Vũ vào Sài Gòn tìm Vũ Hoàng Chương. Chương hỏi thằng Địch
nó làm gì? Vũ đáp làm ở Viện Triết. Chương cười: - Lạ nhỉ, chúng mày làm
đếch gì có triết mà cũng Viện triết?
ÐÈN CÙ
487
Bố
tôi mấy lần bảo tôi: - Chưa có thời nào mà bắt người thua trận bị tù
hàng chục vạn như thời cộng sản. Các tay này không biết lòng dân là thế
nào sao?... Cái khó chịu nhất là dân trong này thấy mình bị khinh miệt.
Hôm nọ nghe loa nói không có đảng cộng sản quang vinh thì làm sao có
được tổ quốc vĩ đại đánh thắng đế quốc trùm sỏ, bố thấy buồn quá.
Tôi
biết. Phong cách thừa thắng xông lên chả coi ai ra gì là một thái độ
cần được xây dựng đại trà. Nhưng tôi im lặng. Không muốn đẩy bố vào chỗ
suy sụp, trầm cảm. Tôi không ngờ bố tôi tụt mất mười bảy cân sau mấy
tháng “giải phóng”…
Tôi nghe một người quen gia đình ông Lê Đình
Duyên, con cụ Lê Đình Thám, nhân vật Hoà bình thế giới của miền bắc, kể
một câu chuyện khá tiêu biểu. Ông Duyên, người này nói, là thủ lĩnh Việt
Nam quốc dân đảng có uy tín và là nghị sĩ của chế độ Sài Gòn. Đại lễ
mừng giải phóng, tướng Trần Văn Trà, chủ tịch ủy ban quân quản Sài Gòn
gửi giấy mời và xe con đưa ông Duyên đến dự hẳn ở trên lễ đài. Trà nói
với ông: “Không có ai thắng ai, chỉ có nhân dân Việt Nam thắng Mỹ, nam
bắc chúng ta một nhà.” Ông Duyên về nói lại mà bao nhiêu người mừng. Ai
ngơ ro i ch nh tươ ng Tra ky le nh ba t ông đi cải tạo. Mo i ngươ i la i
ta i ma t. Dân ngụy chúng tôi bảo nhau ông Thiệu vẫn bảo đừng nghe Việt
cộng nói, hãy xem Việt cộng làm. Bây giờ thâu tóm tất cả rồi, chẳng
phải dụ ai, các ông nín được chuyện đánh tiếp ngụy dân đã trắng tay mới
là lạ. Đồng chí của Nguyễn Thái Học, Xứ Nhu mà tù đấy. Vừa ngon ngọt lại
quắc mắt ngay, lật lọng quá. Vào Sài Gòn tôi tránh gặp gỡ. Rồi trong
một bữa giỗ nhà Ngọ, sĩ quan biệt kích Sài Gòn bị cải tạo, Lan, vợ Ngọ
là bạn của em gái tôi khẩn khỏan mời tôi đến - đường Hoàng Đạo gần ga.
Và rồi không
TRẦN ÐĨNH
488
thể không chuyện. Bư a đo , ma y vi trí thức hỏi tôi: - Nếu có quyền thì vào đây ông làm gì?
To i no i to i kho ng the co quye n. Nhưng ho cư ba o gia thư la co đi, xin ông cứ nói.
-
Làm hai điều - tôi nói, không tiện im miệng mãi. Thứ nhất mời Liên hợp
quốc đến, dựng một lễ đài nổi ở ngoài biển mạn Vũng Tàu, đem ba cái LCT
chở xe tăng, đại bác, súng ống của cả Liên Xô, Trung Quốc, Mỹ đến đó
long trọng làm một lễ Farewell to Arms, - Vĩnh biệt vũ khí, quăng tất cả
xuống nước, xin Liên hợp quốc giúp cho chúng tôi từ nay làm ăn xây
dựng... Thứ hai xin cả nước để ba ngày róng chuông nhà thờ, chuông chùa
làm lễ cầu siêu cầu thoát cho tất cả các vong linh đã chết trong chiến
tranh này rồi cùng nhau tu sửa mọi nghĩa trang, bởi vì theo tôi, một khi
đã là nắm xuơng gửi lại mảnh đất này thì đều là U Linh Hồn Việt hết cả.
- Chúng tôi ít khi nghe được ở người ngoài Bắc ý kíến nào giống như của ông, - mấy vị nói.
Một
hôm đọc bài báo Thép Mới nói đến “hoà hợp dân tộc “tôi mừng. Bảo với
Thép Mới tớ có hai cái ý này… Nhưng anh đã gạt đi: - Không mày ạ, phải
chuyển gấp sang giai đoạn cách mạng mới rồi. Phải thống nhất ngay đất
nước và tức khắc lên chủ nghĩa xã hội.
Tôi lúc ấy không biết tháng
8 - 1975, hai miền Việt Nam đã nộp đơn xin vào Liên hợp quốc. Liên Xô
và nhiều nước của thế giới thứ ba tán thành tại Đại hội đồng Liên hợp
quốc nhưng Mỹ phản đối. Với lý do sao trước đó Hàn quốc xin lại bị từ
chối. Sau na y, ở Mỹ, Đoàn Viết Hoạt cho tôi bản copy tờ New York Times 7
- 8 - 1975 đăng tin kia, tôi mới hay.
Thế rồi Quốc hội miền Bắc họp tuyên bố thống nhất cả nước. Rồi đơn phương “thay mặt”cả miền Nam đổi luôn quốc
ÐÈN CÙ
489
hiệu.
Không có cảng tự do Sài Gòn gì cả. Không tán thành miền Nam làm theo
miền Bắc y xì, Nguyễn Văn Linh liền mất Bộ chính trị, về coi Tổng công
đoàn. Vì phản đối gay gắt giập khuôn Bắc Kỳ Cục, từ 1976 Trần Bửu Kiếm,
nguyên chủ tịch Ủy ban kháng chiến Nam bộ bị gạt phăng rồi sang Pháp
sống. Dân bị xua đi kinh tế mới; chồng vào trại tù, vợ con lên Tây
Nguyên. Cải tạo tư sản ầm ầm.
Từ ngữ loài người giàu thêm một chữ
boat people, thuyền nhân. Trong một câu thơ, động từ “nuôi” được dựng
thành ngọn cờ soái làm rớm nước mắt: “một là con nuôi má, hai là con
nuôi cá, ba là má nuôi con.”
Em trai tôi, phiên dịch cho cơ quan
Mỹ viện trợ Việt Nam, chú đã kính cẩn ngả mũ bẹp chào đám ma người không
quen biết, có năm đứa con cả trai lẫn gái kéo nhau xuống một cái tàu
đi. Gặp bão, được một tàu nước ngòai cứu. Thuyền trưởng tàu này hỏi năm
đứa: “Thuyền trưởng đâu?” - “Dạ, cháu đây!” Thằng cả mười bảy tuổi đáp.
Thuyền trưởng thật đưa tất cả lũ nhỏ lẫn thuyền trưởng giả đến Malaysia.
Tặng thuyền trưởng giả không có la bàn một la bàn.
Một chuyện làm
cho tôi lạ lùng. Gặp Xuân Tửu trong Sài Gòn. Anh cho hay người cậu ruột
của vợ anh là chuyên viên tài chính của Thiệu rồ, về hưu sang làm
chuyên gia cho chính phủ vương quốc Lào. Khi ta giải phóng hộ Lào, cụ
phải về Sài Gòn. Vợ chồng Xuân Tửu thăm cụ. Ông cụ nói người Mỹ đi rồi
người Mỹ lại về thôi. Xuân Tửu kể lại cho tôi mà bật phá lên cười. “Khôi
hài quá, - anh nói, tôi nghĩ bụng chứ không dám cười thật trước mặt cụ.
Chỉ bảo cụ: Thôi cậu ơi, cậu già rồi xin lão giả an chi chứ theo cháu
biết thì Mỹ đừng bao giờ hòng trở lại những nơi mà cờ búa liềm đã cắm
xuống. Cụ nói sao biết không? Cụ nói thế là vì các anh chị chưa hiểu sức
mạnh của đồng đô la đó thôi.”
TRẦN ÐĨNH
490
Trước khi
Xuân Tửu chết ít lâu, một hôm anh hỏi tôi có nhớ chuyện ông cậu ruột vợ
anh không? Này, - anh nói, tôi không hiểu nổi sao ông cụ lại có cái tầm
dự báo ghê gớm đến thế. Nó, thằng đô la ấy, nó trở lại thật kìa! Mà lại
phải khẩn khoản mời nó, xin nó, cải cách nhiều cái theo pháp luật nó để
cho nó hạ cố nó đến! Cái gì làm cho tôi ngu mà cái gì làm cho ông
chuyên viên ngụy kia sáng?
- Tại chúng ta tin cờ búa liềm đến đâu thắng đó.
- Có đúng như thế không thì chưa rõ… - Xuân Tửu nói. Nhưng chắc là không thắng được lòng người.
* * *
Gặp ve chai đồng nát đạp xe tơi tới ở Sài Gòn, tôi chợt thấy mình thường hay hỏi: - Thanh hay Nghệ đấy?
Đâu
chỉ hai căn cứ địa lớn này của Ðói. Khắp mọi nơi! Từ Nam chí Bắc nay
chả còn ai lạ câu hát “Tổ quốc ơi, ăn khoai mì mãi mãi. Từ trận thắng
hôm nay, ta ăn độn bằng mười. Từ trận thắng hôm nay ta ăn độn nhiều
lên...” `Tôi không nói ngoa, có lúc nghe hát mà tôi hoe hoe mắt. Nhất là
câu nhạc hơi cất lên “ta ăn độn nhiều lên...”
Cụ bạn trên kia
khoe cụ nhận ra được đặc điểm hình thái văn hóa ve chai - hay mảng kinh
tế thu dọn rác - đang tung hoa nh ơ Sa i Go n ba ng phương thư c lao đo
ng nguye n thu y la lục bới, cúi nhặt. Theo cụ, văn hoá ve chai đã khái
quát hoá rất rõ hành trình đi từ thô sơ thuần túy lên nửa cơ khí bắt đầu
có vận dụng tư duy nửa vời để vẫn cứ không thoát ly nổi hai bàn chân từ
trần trụi đến dép lê, qua giai đoạn dép cao su mà khi làm thủy thủ Anh
Ba đã thấy mẫu mã đầu tiên ở Sénégal rồi sau mách cho cách làm trên căn
cứ địa Việt Bắc.
ÐÈN CÙ
491
Cụ nói: - Đúng, tôi đố
ông… Đây, nếu không vũ trang theo ý nguyện được thì ngoài Bắc sẽ làm gì?
O i, o ng ba o la tuye n cư ư? Đe tha nh Đe nhi quo c te ca i lương đa u
ha ng a ? Hà Nội chẳng tuyển cử với ai hết! O ng xem da n ta to t như
the ma ca c o ng a y co cho tư do bo phie u đe đươ c đua ta i cao tha p
vơ i Ðảng đâu! Tôi nghĩ ra rồi. Sẽ không xẻ dọc Trường Sơn mà đắp lên ở
Bến Hải một Hoành Sơn nhất đái kiểu tường Béc - lin… Ông có bíết một dạo
dân Quảng Đông bơi qua biển trốn đi Hồng Kông bằng gì không? Dạ, bằng
phao ghép bằng bao cao su. Condom people! Cái bao cao su, Cụ tha lỗi,
chứ cụ có đồng ý là mỗi mạng người có mặt trên đời này đều là kết quả
của một cuộc cạnh tranh câm lặng nhưng hết sức dữ dội giữa các tinh
trùng không? Cách tuyển chọn phần tử ưu tú nhất đó… Sir Winston
Churchill, vị anh hùng kháng chiến của Anh và Charles de Gaulle, bậc anh
hùng giải phóng của Pháp đều về vườn sau khi thành đạt… Có lẽ vì thế
dân họ mới được hưởng cái mới. Tie n ho a la luo n ke m vơ i pha tha n
tươ ng. Còn cứ dựng thần tượng vĩnh viễn thì dân ăn mày.
Sau đó,
cụ bạn rủ tôi đi dạo một vòng. Mỏi chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt
thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài
granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện, tiếng máy nổ ầm ì ở
trong mỗi biệt thự.
Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một
phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo
ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang.” Cụ bạn bèn
đến bên: - Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
- Không ạ!
- Cô thấy nó đẹp không?
TRẦN ÐĨNH
492
- Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…
Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khóat, đanh thép này chút nào.
Người
phụ nữ nói tiếp: - Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều
nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng
quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh
làm gì. Hai cụ không nghe thấy dân đã có câu ca đấy ư?... “Áo lính chưa
ráo máu đào, Mà xe vợ tướng đã vào tới nơi.”
Người phụ nữ quê ở
Nga Sơn, Thanh Hóa. Đã thanh niên xung phong ở đường mòn. Ba năm tròn
không thấy một bóng vía đàn ông. Đến nỗi chị cung đoạn phó, chị này bạo
mồm lắm, bảo giá một đứa, Mỹ hay ngụy cũng được, nó lạc đến để cho chị
em ta nuôi nó ngày hai bữa chỉ sai nó làm có mỗi nhiệm vụ đứng đái đái
vẩy vẩy cho mà xem nhỉ? “… Còn cói kiếc gì nữa đâu hai cụ. Nay chiếu thì
phải chiếu trúc, chiếu ni lông Trung Quốc, Thái Lan… cơ. Thôi cháu chào
hai cụ, cháu đi đây. Sáng đến giờ mới kiếm được hai mươi tư nghìn...”
Người
ve chai đi rồi, cụ bạn chán nản nói: - Tôi và ông Trường Khoan đang ở
Đà Nẵng thì các ông đánh vào. Chúng tôi lên xe chạy nhưng bị chặn lại.
Vứt xe đi bộ, quên mất chiếc va li con đầy đô la, vàng bạc, tư trang
trên xe. Lại bị dồn quay về Đà Nẵng. Hôm sau qua một trại lính thấy xe
mình. Mà không dám vào hỏi. Thằng ngụy mà lại tư sản bóc lột thì mạt
hạng rồicụ ơi. Tiền gửi ngân hàng rồi cũng đội nón đi nốt. Thấy rõ thực
tại của mình bị đập vỡ dễ như bỡn. Nhưng người phụ nữ Nga Sơn kia bị vỡ
một thứ còn lớn hơn. Vâng, mộng, vỡ mộng ạ. Mộng là sức mạnh chi phối
đời cơ mà cụ. Hồ Chí Minh từng “Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh đó.” ..
Cộng mạnh lúc đầu chính là nhờ giỏi xây mộng cho thiên hạ:
ÐÈN CÙ
493
vâng,
bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình… Lòng tham, động lực ghê gớm nhất
đã được huy động triệt để cho biến thành mộng, mộng đẹp của cách mạng,
giải phóng loài người… Nhưng ở ta, im súng thì mộng cách mạng vỡ đánh
độp, nông dân, quân chủ lực của cách mạng hóa ra lại khổ nhất nước. Tay
trắng rồi, vong gia thất thổ, vũ khí bà ấy trông vào là gì? Bom Mỹ… Cú
quật trái tay của lịch sử! Ừ, có đúng là “Vèo trông lá rụng đầy sân,
Tương lai nói róc có ngần ấy thôi” không? Nhìn mặt bà ve chai này tôi
bỗng nhớ câu “chie n tha ng mang gương ma t kho đau cu ng cư c” của Olga
Bergolzt, nhà thơ nữ Nga bị đày ải hết đời. Bà ta nói thay cho tất cả
những ai sống với cộng sản. Cộng sản lúc đầu hấp dẫn nhờ đưa ra các hứa
hẹn thỏa mãn toàn bộ các nhu cầu của con người. Nhưng phiệu hết. Chỉ còn
bành trướng quyền lực của cộng là nhu cầu duy nhất phải thỏa mãn. Vỡ
mộng, dân bèn có nhu cầu trừng phạt cái tội lừa dân. Và cậy đến bất cứ
thứ gì không phải cộng.
495
Chương ba chín
rên
kia tôi nói tôi dửng dưng, tênh tênh khi bị khai trừ. Đúng! Nhưng không
phải không có lúc suy sụp. Vì tự ái, xấu hổ. Rồi vì tiếc những ngày
tháng đã “chiến đấu” dưới ngọn cờ đỏ. Rồi còn cả một chút tình ý bị mất
quyền lợi. Ít nhất sẽ không còn được nghe truyền đạt những thông tin
quan trọng và bí mật của Ðảng. Và rơi vào diện chờ mọt xác mới được tăng
lương. Hóa ra khi anh giơ tay trái lên ngang vai thề trước búa liềm là
anh sẽ trung thành hết đời với Ðảng thì cũng chính lúc đó anh nhận về
một quy chế vẻ vang dắt dẫn, giáo dục dân. Đang là khố rách áo ôm, anh
bỗng đổi đời.
Tôi viết nhật ký: “Tôi như con thú đêm về hang liếm
láp các vết thương trên người và rên rỉ.” Dostoievski nói cuộc đời sẽ
đem lại cho bạn nhiều bất hạnh nhưng chính con người bất hạnh là bạn lúc
ấy sẽ làm cho bạn hạnh phúc. Albert Camus cũng nói thường khi chính cái
tình ý xót thương cho bất hạnh bản thân nó lại làm cho ta hạnh phúc
Lúc
đó chưa thấy cái hạnh phúc mà hai ông nói, tôi chỉ thấy cái đau man
dại. Tôi bị tước mất danh hiệu trước đây tôi kiêu hãnh: ngươ i co ng sa
n, ngươ i co y thư c ca ch ma ng nha t, đa o đư c nha t, tie n bo nha t,
ngươ i va ch đươ ng ca m tri ch cho
T
TRẦN ÐĨNH
496
đa
t nươ c đi le n, cho va n ho a mơ i sinh tha nh. (Ngh the ma kho ng bao
giơ nha n m nh ơ ta ng lơ p tho ng tri ! Mà không thấy một mặc cảm
quyền lực, địa vị đã được cài sẵn ở trong bất kỳ người đảng viên cộng
sản nào! Vì hắn đã bị lóa đi bởi một lô các trò phù phép: chỉ biết có
lợi ích nhân dân, hy sinh tất cả cho đất nước v. v…) Từ nay nghe đảng
viên kêu gọi nhau chu y theo do i pha n ư ng cu a qua n chu ng trươ c sư
kie n na y sư kie n no , to i đo i khi xa u ho . Cảm thấy tấm mộc che
chắn, một bảo lãnh, bande de garantie đa bi rơi xuo ng, và tôi là một
con sên vỡ vỏ. Tôi rất muốn rên thành tiếng. Tôi chợt hiểu vì sao các
con vật bị đuổi ra khỏi bầy thường hay cúp đuôi. Da u hie u cu a buo n
hay cu a ngươ ng? Nhưng ban ngày, dưới ánh mặt trời, đi giữa bày người
hung hãn săn lùng tôi - ho ca n ca p mo m to i la i cho ca m kha u - tôi
lại dựng đuôi lên và nhe răng. Phản ứng kiêu hãnh tự nhiên của thú
hoang. Mư ng la m nh co n cha t thu hoang ơ trong ca i chuo ng gia su c.
Đa
co lu c qua na n. Chẳng hạn dưới đoạn nhật ký vừa nói trên tôi đã có
mấy dòng như sau. “Sẽ thư cho anh Thọ thế này: Tôi xin đầu hàng. Dạ, tôi
đã thua. Vì tôi chỉ đạo đức suông. Tôi đã tách đạo đức ra khỏi chính
trị. To i đa kho ng tha y đa o đư c pha i chi u sư ch đa o ch nh tri cu a
Ða ng. Tôi dại dột: tôi gìn giữ ý tứ với bản thân hơn với người khác,
trong đó có anh. Do đó hiện nay tôi đang tự tiêu hủy...”
Cố nhiên
đó chi là lúc oải. To i đa giư đươ c y tư vơ i ba n thân trước hết. May
sao cái chất thú hoang nó đã giúp tôi giữ lấy nhân cách cho mình, cái
nhân cách hết sức mong manh trong vòng vây của chủ nghĩa tập thể, cái
chủ nghĩa nó không biết đến nhân cách. Cái gì dính đến nhân - con người -
là nó ghét lắm. Tôi rất thích bố tôi viết trong thư: Il faut célébrer
la grande sortie de Đ nh, - cần ăn mừng cái thoát ra lớn lao của Đĩnh.
ÐÈN CÙ
497
Đúng,
bước ra khỏi vòng vây. Thà làm con đom đóm lập lòe được chút ánh sáng
của riêng nó. Cái ánh sáng nhỏ mọn nhưng làm nổi bật lên bóng tối bao la
hãi hùng vây quanh nó.
Mấy chục năm sau, sống với đất nước đang
dần dần nhận diện được kẻ đã đày ải mình, tôi bắt đầu cảm nhận thấy hạnh
phúc. Ít nhất tôi đã nhận ra tội ác và lên án nó giữa lúc nó đang có bộ
mặt huy hoàng nhất, có niềm tin gần như trọn vẹn của dân. Ít nhất tôi
đã đương đầu, không quỳ gối trước nó. Cũng như đã ngay thẳng nhận mình
từng đi theo nó, tội ác.
* * *
Để tỏ thông cảm, một dạo Thép
Mới hay mời tôi lên buồng anh uống nước, tán gẫu. Có khi nhờ đọc và
“chữa hộ luôn” bài anh vừa viết.
Một sáng cô thư ký vào đưa các
bài báo cho Thép Mới duyệt vừa đi ra, tôi hỏi anh có thấy các móng tay
cô ấy được săn sóc như vật tư trang, đồ tế nhuyễn bằng châu ngọc cả
không? - À, có thấy chứ? Nhưng để làm gì? - À, để thay mặt cho hai thứ
mà theo bản năng người con gái phải giấu kín. Đầu tiên cái móng tay tư
trang tế nhuyễn nổi gồ lên này ám dụ đến một thứ quả trong vườn cấm của
cô gái. Hai là mượn hình một chao đèn làm bằng chất pha lê qúy để che đi
ngọn lửa dọc của con dục lấp ló ở bên trong sau đó... Chiều nọ, đi ở
bãi sông Hồng, chỉ chiếc xú chiêng pô - pơ - lin Tàu trắng lóa, vật duy
nhất trên cây sào bắc dọc mạn con thuyền vắng ngắt ở cả một đoạn sông
vắng ngắt, tớ bảo cậu có thấy nó là một quả cầu thám không tráng mạ bằng
một chất liệu đặc biệt vừa mới hạ cánh sau một chuyến ngao du trên
không về không. Hôm nay nói thêm: khi nào ôm ngực người con gái thì quả
cầu ấy bay lên và sống, và éthéré - siêu thoát, còn khi rời ngực người
con gái thì nó xẹp xuống để gom dần năng lượng chờ chuyến bay sau...
Nhân đây, ừ, lại hỏi thêm: Sao các cụ gọi mắt
TRẦN ÐĨNH
498
lá
giăm? (Chỉ vào đĩa trứng vịt lộn có rau giăm). Nghi lễ ngôn ngữ đó!
Không lẽ gọi toẹt ra: Ôi em mắt dâm. Lá giăm là cái nệm giảm xóc, sản
phẩm tinh tế - hay lỡ lời thô thiển - của vô thức. Rút lại tớ muốn chứng
minh câu Voltaire: viết không đơn giản là vẽ ra tiếng nói… Câu này quá
hay, tôi nói tíếp. Vì để thành văn học, tiếng nói còn cần một mồi lửa vô
thức, nhất là ở tiếng nói của thơ, vô thức ấy chính là hồn thiêng riêng
biệt của mỗi người, không thể diệt, không thể hòa… Aragon cũng nói:
Viết là vũ đạo của đầu óc. Thôi, nói thêm… Cái Ng. học ở Đức về đi xăng
đan cao gót, cậu bảo bàn chân con gái tự nhiên trông thành một đường
arabesque - uốn lượn quá đẹp… Đúng, nhưng cậu mới thấy cái chất vật lý
của bàn chân con gái gói bọc trong những quai da. Tớ còn thấy ở đó động
thái ưỡn dướn của cơn mê nhục cảm.
- Sau này viết hồi ký, - Thép
Mới bỗng sôi nổi, tao phải viết những chuyện trò về chữ nghĩa và văn học
với mày. Nhưng tao thương mày... Mày cần tìm lại chất xã hội. Mày giàu
chi tiết nhưng thiếu tư tưởng.
Tức là chính trị, cái mà tôi kém
cỏi. Anh biết tôi nói tới quả kín và ngọn lửa dọc là tôi muốn bảo anh
hãy nhạt nó đi, nó, cái sự vật chính trị mà anh nhìn nhịu rất giỏi để
nhìn nhịu sang thế giới sự vật thiên nhiên, con người… đặng khai hoang,
mở rộng vùng cảm xúc. Với mọi hành vi chính trị của đảng, Thép Mới đều
nhìn nhịu ra thành thắng lợi, sáng suốt, cao quý, vì nước vì dân. Năm
1956, theo Bác Hồ đi cảm ơn các nước anh em, anh moong trại (trốn trại)
đến Bắc Kinh đại học chơi với tôi. Ngồi ở Trung Sơn công viên phía tây
Đại lộ Trường An, anh bảo tôi: “Để Hoàng Sa cho Bắc Kinh chứ không thì
Mỹ xây căn cứ hải quân ở đấy mất ư mày? Chỗ ấy ở dưới vĩ tuyến 17, vốn
là của bọn Sài Gòn cơ mà!...” Khác nào gửi trứng cho quạ! Quạ nhiều phần
chắc đã dọa Mỹ “xây căn
ÐÈN CÙ
499
cứ hải quân” nên mới đem trứng cho quạ trông giữ hộ như thế.
Nhưng bữa nay tôi chỉ nói:
- Xã hội délaisser (bỏ rơi) tớ thì tớ délaisser lại, mà kết bạn với chữ nghĩa tớ thấy sống phong phú, sung sướng, giàu chi tiết.
- Không phải, mày ạ, cần hai chiều.
-
Đúng, cần hai chiều. Ra Nghị quyết 23, ông Duẩn than rằng Ðảng có 80
vạn đảng viên nhưng quá lắm chỉ có nổi 5 nghìn người tài. À, tớ xin đặt
ngược lại: sao anh không đồng hóa anh vào những người tài trong nước mà
lại cứ bắt họ phải đồng hóa vào anh để rồi anh thu dung nối được có 5.
000 người? Tại sao chủ thuyết anh lại dứt khoát đòi lãnh đạo cách mạng
là phận sự một chiều cao quý của duy nhất ai đi theo nó mà thôi? Le
comble du sectarisme, - bố tổ sư bè phái.
Chuyện với Thép Mới có cái hay: khi căng anh thường lặng lẽ rút quân.
Những ngày một mình giữa bầy người băm bổ ở báo đảng, tôi hay nhớ đến một câu của Trần Châu.
Hôm
ấy, sau Nghị quye t 9 sa m sa p gio ba o, hai chu ng to i chuye n ơ giư
a sa n cơ quan. Thấy mọi người qua lại nhìn, tôi bảo đứng thế này có sợ
họ bảo là khiêu khích không? Tôi ngại cho Châu. Anh ít nhiều lép vế
hơn.
- Không, - Châu nói. Họ sợ chúng mình. Sợ sức mạnh tinh thần của hai chúng mình.
Càng sống ở đây càng thấy Châu nói rất đúng.
TRẦN ÐĨNH
500
Lại
nhớ đến câu Phùng, tỉnh ủy viên Hải Dương, bí thư huyện Cẩm Giàng bảo
tôi: - Qua ông tôi thấy ra rằng khi ta không sợ thì người sợ ta.
* * *
Tôi
bỗng nhận ra nguồn sức mạnh của ta thường đẻ ra trong đơn độc, những
điều ta đơn độc trải một mình từ rất sớm và bị lấp vùi nhưng rồi thình
lình từ trong vô thức mù mờ bỗng chớp nhoáng nhoi lên làm vị cố vấn câm
ẩn mặt. Dưới đây có thể coi là mấy cảnh ngộ đơn độc sớm nhất của tôi.
Tôi
chắc lên bốn. Một tối, nghe xung quanh kháo chuyện đi xem hội đình
chiến ông nô - văm (onze Novembre,11 tháng 11) có nhảy bị, bịt mắt bắt
vịt, leo cột mỡ…, tôi bèn nổi cơn vòi bà nội bế đi xem. Tôi không nhớ
lên đường như thế nào, chỉ nhớ khi đến bờ sông Sặt âm u những dặng bàng
đè sụp cành lá xuống một miếu thờ, tôi bỗng đòi ị. Bà dằn mạnh đầu tôi
cho ngồi xuống. Tuy cử chỉ bà phũ, tôi vẫn thấp thỏm ngoái nhìn về phía
xa xa nhấp nháy ánh đèn và lô xô những đầu người, râm ran những tiếng
cười dọc bờ sông đen ngòm mà đồng thời tôi cũng lại nơm nớp sợ thuồng
luồng và con giải vẫn hay bắt người ở đây, như trẻ con hồi ấy phải nín
khóc vì “không thì Tàu Ô nó đến kìa!”… Nhưng rồi tôi liền buồn. Tôi vừa
bắt chợt nét nhẫn nhục trên mặt bà, cái nét mà lúc ấy tôi chưa thể hiểu
là hy sinh, khi bà vén vạt chiếc áo kép lên, xé một mẩu lót màu xanh
nhạt có những bông hoa to mờ để chùi cho tôi.
Tôi đòi về ngay sau
đó. Trước hết để bà đỡ bận vì tôi, sau để bù vào chỗ hụt trên áo bà.
Cùng lúc, vô thức tôi chắc đã lờ mờ ghi lại rằng từ nay các cuộc vui
không phải là chỗ của tôi.
ÐÈN CÙ
501
Còn sám hối sớm
nhất? Một sáng, tôi chừng bảy tám tuổi, một người chú họ, chú Đinh, còn
trẻ ở quê bà nội đến nói là lên thăm ông bà. Đôi hồi, chú rủ tôi đi chơi
với chú. Bảo dẫn chú đến Sở mộ phu, căn nhà gần Trường Ga có ngọn cờ
đuôi nheo bẩn. Chú vào đấy, lát sau ra ngồi xuống một chiếc ghế kê ở ria
tường và chụp ảnh. Sau đó, chú cho tôi một xu đồng, dặn chớ nói với ai
rằng chú đi đâu. Chiều chú xin trở lại quê. Vài ngày sau, bố chú, em
ruột bà nội tôi, ở quê lên, khóc thảm thiết từ ga đến nhà. Chú tôi đã đi
phu Tân thế giới. Đồng xu chú cho tôi là một trong số 50 đồng chú bán
thân mình cho Sở mộ phu...
Tối đó, tôi chôn đồng xu xuống chân cột
đèn đầu phố thường hay cháy bóng. Sáng sau, ở sân trường học, nhìn ngọn
núi Yên Phụ bề thế, hiền hòa quê bà nội, tôi rớm nước mẳt: ông họ tôi
còn lại có một mình ở cái nơi trong văn vắt như pha lê kia. Buồn là mấy
hôm sau, tôi phát hiện thấy ai đã đào lấy mất đồng xu. Hối hận của ta
nhiều khi lại là món ăn ngon của kẻ khác, le lói trong tôi sự thật này
nhưng tôi gạt đi. Tuổi thơ không thích đen tối…
Và tội - hay công?
- về trung thành với một cam kết thầm kín hòan tòan đơn phương đầu
tiên. Tôi chừng tám, chín tuổi. Buổi tối bọn trẻ con thường nô trên vỉa
hè đầy rau sam và dải đường hẹp nằm giữa con phố chưa có đèn điện. Trước
cửa nhà tôi có một chị, tên P. đã mười hai mười ba. Tối ấy chị cùng
chơi trốn tìm. Một lần đi ẩn, chị kéo tôi vào một góc buồng. Bỗng trong
bóng tối ngột ngạt, chị cầm tay tôi đặt lên núm vú mới nhú, cứng như mỏm
một con quay vụ bằng sừng. Tôi rụt tay về, sợ nó vỡ thì chị kéo tôi vào
sát chị, tụt quần ra, sợi dải rút màu đỏ nhỏ rất xăn, dúi đầu tôi vào
chỗ kín. Tôi vừa sợ vừa thích vừa xấu hổ vừa tò mò muốn tìm tới nữa - tò
mò này chợt nổi lên từ dưới đáy bản năng chăng? - nhưng rồi
TRẦN ÐĨNH
502
thấy khai và khó thở, tôi bỏ chạy… Từ đó giữ kín cho tới bây giờ. Bảo vệ người đã chọn tôi ư?
Cuối
cùng là chuyện này. Với tôi, một thời gian dài bố tôi đã là giáo viên
phản diện về chính trị. Lúc tôi bé, mẹ hay kể bố ngày học ở Bưởi rất
nhiệt huyết cách mạng. Bạn “đào viên” với các bác Nguyễn Thái Học, bác
Đỗ Ngọc Du và hai bác thường đến nhà. Bác Học nằm sấp, hai chân gập lại
thế mà ngủ cả đêm chính là điềm báo sẽ lên đoạn đầu đài. Bác Du thì thân
với bố hơn, sau thành một ông rất to của cộng sản (năm 1960, viết về
đảng, tôi mới biết bác là Phiếm Chu, một trong những người thành lập)
rồi cũng chết. Để tang Phan Chu Trinh rất hăng hái, bố bị Trường Bưởi
đuổi rồi vào sổ đen mật thám. Thế là sợ, về đi làm và ăn chơi, và để ăn
chơi thì ăn hối lộ. “Bố các con chỗ này xoàng. Con một mà,” - mẹ thường
nhận xét.
Mẹ vô tình đã lái tôi tránh cực đoan nhút nhát bỏ cuộc
mà nhảy sang cực đoan cuồng tín. Ông Viện có lẽ cũng vì cuồng tín mà
quên gịot máu Đào Viên. Khi bố tôi tản cư về quê vợ của ông, ông là chủ
tịch huyện liền chuẩn bị đưa lính đến bắt. Em vợ bác ngầm báo và bố tôi
đành để ông bà và chúng tôi ở lại mà về thành. Chính ông Viện mời ông bà
tôi tản cư về đây nếu nổ súng. Không ngờ bố tôi cũng về đây. Ông cần tỏ
thái độ lập trường với đảng.
Như ng a nh lư a nho be lu n vu n
như the thươ ng a n k n ơ mo t nơi sa u tha m na o ro i t nh cơ mo t ho
m, chu ng, như ng ngo n đe n tie n tra m khie m nhươ ng, vụt thắp lên
cho ta nhận ra chỗ đặt chân. Chỗ là gồm cả đúng lẫn sai.
* * *
Tôi muốn được nói tới thày Nguyễn Hữu Tạo, người thày của bọn lớp nhất - lớp sáu bây giờ - chúng tôi ở Trường Ga
ÐÈN CÙ
503
ngày
bé. Đặc biệt luôn khêu gợi lòng yêu nước chân chính. Một lần thày rất
buồn kể chuyện thời trước quân lính ta sang đánh Cao Miên đã dã man róc
mía lên đầu sư người ta rồi reo cười với nhau. Trên con đường chinh
chiến từ bắc vào nam (thày chưa biết dùng chữ đi mở nước như hiện nay)
đã róc mía trên đầu bao nhiêu người? Chuyện ấy là một ấn tượng xấu hổ
đeo mãi lấy tôi. Một sáng tháng 12 năm 1941, khi bọn tôi xếp hàng chào
cờ ở sân trường thày bỗng long trọng giơ tay lên nói to: - Nhật đánh
Trân Châu Cảng, Mỹ đã tuyên chiến.
Tuy không biết phải có sóng
gió, đất nước mới thay đổi, (phải chăng Đại chiến thứ hai chính là một
cuộc toàn cầu hóa sơ sài đầu tiên nó sẽ đưa Việt Nam lại gần hơn nữa với
phương Tây?) tôi lờ mờ cảm thấy thày muốn hứa hẹn một điều tốt đẹp cho
nên mặc dù nổ chiến tranh tôi lại thấy hào hứng. Trong đầu con trẻ của
tôi, chữ Mỹ bắt đầu hằn in như một niềm hy vọng. Mãi sau mới biết thày
là Việt Minh từ sớm.
Năm 1952, ở An tòan khu, một tối xem điện ảnh
ở Văn phòng trung ương có cả Phạm Văn Đồng, tôi cầm micro thuyết minh
(phim Liên Xô nói tiếng Pháp) ở sau máy chiếu. Thì một người đi vào ngồi
cạnh. “A!” Tôi mừng quá, quên bỏ micro, nhân vật chính là tình báo Xô
viết ở Đức về ôm người yêu, lại reo lên “con chào thày.”
Phạm Văn Đồng nói to “Ô, thế thì hay nhỉ?”
Còn thày Tạo lúc ấy chánh văn phòng Liên khu ủy Việt Bắc về Văn phòng trung ương có công việc thì hỏi luôn: - Châu đâu?
Mãi giữa những năm 1990, Châu và tôi hai anh em mới cùng gặp lại thày. Bữa ấy thày nói: - Các anh đúng đấy, thày tán thành…
TRẦN ÐĨNH
504
Hôm
mừng thày 80 tuổi, chúng tôi mấy chục người tới, cả trung tướng phó
tổng tham mưu trưởng, LHĐ… Mệt nặng, thày nằm tiếp chúng tôi và câu thày
nói dài nhất, rõ nhất và chắc ghi sâu nhất vào đầu mỗi người có mặt bữa
ấy là:
- Đảng cần sửa sai cho anh Châu, anh Đĩnh. Có sai thì phải sửa.
Tôi
rất cảm động bởi tấm lòng trung thực trước sau không suy xuyển của
thày: với thày sai là sai. Sai của quân lính ta với người Miên xưa, sai
của Ðảng hôm nay… Với thày yêu nước không có nghĩa là xí xóa, nhắm mắt
cho qua. Yêu nước đồng nghĩa với nghiêm ngặt đầu tiên với chính bản thân
mình, quang minh chính đại nhìn thấy lỗi lầm của chính mình.
Ngoài
ra tôi còn cảm thụ được một điều gần như hết sức mới mẻnày: dù vắn gọn,
dù yếu ớt phát ra ở miệng một người bệnh hấp hối, chân lý luôn có sức
kích động khiến cho ta nghẹn ngào muốn đứng phắt ngay dậy.
505
Chương bốn mươi
Hoà
bình, lần đầu tiên Linh được cấp một căn hộ ở Khu văn công Cầu Giấy để
thật sự là nhà ở của riêng mình -- trước toàn ở nhờ lớp học. Một trong
bốn gian nhà lá mười hai mét vuông, tường toóc - si nằm trước hai ba mét
một dãy nhà xí “tăng cường” (là cất vội thêm cho kịp với nhu cầu bài
tiết do dân số tăng gấp) gồm bốn ngăn bằng đất (hai ngăn cho nam, hai
cho nữ), ngang nhà ở của nghệ sĩ xét về vật liệu nhưng bé hơn, ọp ẹp
hơn. Như ta t ca , ma t ha u nha tôi quay ra đường Chùa Hà (chả ai thiết
mặt tiền, lúc ấy trừ tiền tuyến còn tiền gì cũng xấu vì nó làm nghĩ đến
cái nhơ nhuốc nhất là đồng bạc), cứ ngày rằm mồng một hằng tháng, công
an, du kích lại dựng rào, xếp ghế băng hầm hè đuổi nạt dân đến lễ, không
cho bập vào “thuốc phiện.” Mo t la n da n ga n như no i loa n, huye n
đo i pha i đie u bo n kha u đa i lie n pho ng kho ng va o sân chùa vờ
tập trận, tôi ra tận nơi xem.) Tư nga y đa u mơ co i nghệ thuật, ngoài
nhà xí “tăng cường,” đã xây ở bốn góc Khu Văn Công bốn dẫy nhà xí chính
thức mái phi - brô xi măng, tường gạch quét vôi trắng (sang hơn nhà đất
mái lá của văn nghệ sĩ) đa y như ng bư c ve co sư c ru go i tre chui va o
sau ho x nhòm ngược lên những khi có nữ nghệ sĩ ở trong. Thấy nón trắng
lốp (để làm cửa di động thay cho cư a go đa bi la y ca p ve
HTRẦN ÐĨNH
506
la
m cu i) re va o ma nho m la kho ng the sai. Đám trẻ ấy bà con còn nhớ
tên, nay cũng đã hơn năm chục tuổi, xe hơi đi lại ra dáng cả. Va y la
danh thơm nghe s đươ c g n giư qua lo ng le o sau như ng da y x ta p the
gio ng ca c cho i canh tha p be ơ tra i ta p trung va co vu ng to a
hương ro ng tơ i chư ng ba bo n chu c mét đường bán kính.
Hôm
chúng tôi ở Khu Văn Công Mai Dịch dọn đến, Tr. trong dàn hợp xướng mách
ngay: - Anh nhớ cho em là của chúng ta, mọi cái đẹp đều giả, chỉ có cái
xấu là thật.
Tôi lắc đầu, không hiểu. Cô bèn giảng: - Không ư,
đứng trên sân khấu Nhà hát lớn, đầy người óng ánh toàn kim sa, thủy tinh
giả vàng giả bạc, chắp tay lại giả vờ say sưa hát “Chưa có bao giờ đẹp
như hôm nay,” để rồi khi nghe thấy mưa ầm ầm trên mái nhà hát lại bụng
vội bảo dạ chết, liệu sân khu Văn công có bị lụt không, thằng bé nhà
mình lê la trên hè có lăn cha nó xuống nước ngập trắng băng không. Mà
tài anh ạ, vẫn cứ say sưa “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay..” . Ừ, lão
tác giả này hâm đặc, nó làm cho mình cứ mong chiến tranh mãi, kẻo mai
kia hết thì sẽ xấu lắm đây.
Nói đến đây, Tr. tát vào miệng mình: -
Chung quy tại cái khe không đáy, cái lỗ không nắp này nó cứ phải có cái
ấn vào để sống cho nên nó cứ phải điêu, mày này, cái đồ điêu, bà thì
tát cho chết trợn mắt mày ra này. Co mơ rau muo ng a n cho nga y mai a n
ca cho nga y sau ma cư re n le n la chưa bao g ơ đẹp bằng… Cha nó, thế
mà là mồm mép! Là cái thùng rác thì có ấy!
Con đường đất chính
chạy giữa khu lổn nhổn những tảng đá hộc (cốt để vấp ngã) được gọi là
Đại lộ Hà Huy Giáp, cái ao rộng để vất rác, chuột, rửa bô là Hồ Cù Huy
Cận. Có lẽ đám văn công đã mở ra kiểu lấy tên danh nhân cách mạng đặt
tràn cho các đường phố sau này.
ÐÈN CÙ
507
Tôi đưa con
gái đi buổi đầu tiên đến trường. Thôn Trung, xã Dịch Vọng. Một hầm sâu
một mét. Ma i tha p đe su p xuo ng bo n lơ p ngo i ho lo n. Hai bậc
thang cuốc vào vách hầm làm lối lên xuống. Lớp học kiêm hầm phòng không
luôn thể. Gà qué, chó lợn chạy nhẩng trên mặt đất hất tung phân, rác vào
các cháu... Mưa, trẻ con trong lớp đội nón khoác mảnh ni lông và các
trang vở nhoè nhoẹt.
Xin nói chuyện hai vụ cháy ở Khu văn công nhà
mái lá. Nạn nhân là nữ ca sĩ nổi tiếng Ngọc Dậu. Chị chạy tới chạy lui
vào đám cháy cố lấy đồ đạc ra đem chất ở gần đấy. Xong cháy, mò đến chỗ
để đồ thì người ta khiêng về nhà người ta hết cả rồi.
Sau đó, nhà
Q. L., một diễn viên múa có chồng học ở Pháp cũng bị cháy. Cô đứng canh
trước nhà, ai đến cứu đều lịch sự từ chối. “Xin cảm ơn các vị. Tôi còn
chả thiết cứu, tức là chả có gì thì thôi xin các vị khỏi lụy.” Rồi bảo
bạn bè: - Thà thế, còn hơn bê đồ nhà mình ra cho người ta dùng hộ.
Và ai cũng khen cô biết xây dựng đạo đức mới.
Một
chuyện nữa về nghệ sĩ. Thường một hai năm lại có dịp kéo quân sang Đức,
Tiệp… biểu diễn và càn quét các cửa hàng bách hóa. Các cô kháo cái T.,
cái X. hay đi vì chịu chìa “hến” cho mấy lão trên bộ soạng. Chúng nó bảo
mất chó gì. Soạng hến suông thôi mà. Coi như đi bệnh viện khám phụ khoa
thiếu găng tay. Một lần P., em gái NĐT đi Đức về đến thăm Hồng Linh kể:
- Chuyến này ở Berlin bọn em ngượng quá. Vào bách hóa, vừa mới cười làm
duyên thì mấy cô bán hàng Đức đã đon đả: “Mẹ nhà các chị, có cần b.
không?” chả biết đứa nào ở bên ấy nó dạy người ta lếu láo như vậy.
Những chuyện nên vào biên niên sử nghệ thuật Việt Nam vẻ vang thời chống Mỹ giải phóng đất nước.TRẦN ÐĨNH
508
Đời
sống quá lầm than. Chiến tranh chấm dứt, cái nghèo khổ rộng khắp bao la
đoái hoài đến dân ngay. Các ông anh cộng sản chỉ đủ sức và cũng chỉ
mong giúp Hà Nội đánh đế quốc hộ. Còn xây gấp mười trước thì phải nhờ đế
quốc thôi.
Mãi từ Cách mạng tháng Tám tôi nay mới lại nghe thấy
chữ “điêu linh, “chữ xưa Việt Minh thường dùng để tố cáo chế độ thực dân
bạo tàn.
Chú họ tôi ở ngã năm Nguyễn Du - Bà Triệu, một công chức
lưu dụng giãn phế quản hộc ra từng ca máu khò khè bảo tôi: - Đĩnh ơi...
trên cao kia có biết cho nỗi điêu linh của dân chúng không? Nói tới đâu
thì có người nghe cho nhỉ?
Tin ye u Cu Ho , chu ơ la i cu ng co
ng nha n vie n ba o ve Sơ đie n ne n đươ c lưu du ng. “Chú ngỡ người ta
thuần túy quốc gia! Ai hay chính bà lang trọc cộng, nói lời lại nuốt lấy
lời. Bố cháu hồi 1945, 46 đã nói bọn Vẹm này nói thì kinh lắm rồi mà.
Chú còn ngây ngô. Thình lình cắt tiêu chuẩn lưu dụng, lương tụt một nhát
ngỡ như chính bản thân chú bị sập hầm.”
Cuo i cu ng sa p sa u chu
c tuo i o ng pha n la chu ho to i pha i đạp xe đi thu tiền điện. Ông
nói: - Lạ là từ Hàng Bài xuống Chợ Hôm cứ thấy toàn hố đào ngang đường.
Đành xuống xách xe vòng lên hè tránh rồi lại tụt xuống đạp. Thấy người
đi đường nhăn răng cười chú mới biết mình đã lầm bóng băng rôn hắt xuống
là hầm hào. Thế là ứa nước mắt ra, biết mắt thiếu bồi dưỡng sắp mù đến
nơi rồi. Một ông bạn bảo nếu đọc được băng rôn thì cụ không khổ. Toàn
lời hay ý đẹp sáng mắt sáng lòng… Đứa con trai út chú học “Nhật ký trong
tù “phát biểu câu thơ: “Nhân vì trong ngục không có gì làm, Hãy mượn
việc ngâm thơ cho qua ngày dài, Vừa ngâm vừa đợi ngày tự do” của Bác Hồ
là tiêu cực vì chờ đợi tự do. Cậu bé bị phê vào học bạ: “Phần tử này
không nên cho vào đại học...”
ÐÈN CÙ
509
Cả trăm pho
vè và tiếu lâm miêu tả cái nghèo. “Một yêu anh có Pơ - giô, Hai yêu anh
có cá khô ăn dần, Ba yêu rửa mặt có khăn,” “Bắt phanh trần phải phanh
trần, Cho may ô mới được phần may ô.” “Việt Nam kiêu hãnh hiên ngang,
Mua cái đinh ranh cũng phải xếp hàng, mua mẩu khoai lang thì bẩm chờ em
tìm tem phiếu,” con gái bảo nhau: “Lấy chồng cho đáng tấm chồng, Bõ công
em tắm xà phòng Camay.” camay là của quý bán chui bán lủi. Có người mua
chỉ để ướp quần áo, mỗi lần mở hòm lại lim dim mắt hít một hơi.
Một
sáng gặp Thanh Tú ở Cửa Nam. Tu mơ i to i đe n a n cơm. Ma nhToa n, ba n
to i, anh ca Ky Nam ơ Ha i Pho ng le n. To i ho i Tu da o na y the na
o. Tu than anh ơi, sáng em đi bán bột mì đong gạo, chiều em đi bán quần
áo họ hàng bên Pháp cứu tế, tối em đi bán mặt cho tivi, cho sân khấu...
May là không bị gọi con phe. Me em sang Pha p xem mo t phim ve đơ i so
ng Vie t Nam ba o xa u ho la m. Co ca nh ba la m phim (To i no i la
Danie le Hunebelle ra t đe p, nhân tình Kissinger, mình đọc sách Dear
Kissinger của bà ấy rồi m à) đe n tha m mo t o ng đa o die n, vơ la gia o
vie n. Va o nha ơ khu ta p the Kim Lie n, ba vươ ng ma y đư a tre đang
da n bao b cao Sao Va ng ơ cư a. Ho i lương vơ cho ng xong ba đa o die n
no i the th ch mua no i va i ca n ca , to i vư a kha o gia ơ chơ Ha ng
Be , va y so ng nhơ g ? O ng cho ng ch va o đa m tre : “Nhơ chu ng!” Ô
hay, trí thức bóc lột lao động thiếu nhi, bố mẹ ăn bám con! Mẹ em bảo
xem ti vi một mình mà vẫn ngượng chín cả mặt. Em bảo mẹ em: - Thôi, mẹ
ạ, thì đã được thế giới ca ngợi là anh hùng.
Đảng ra sức truyền
cho dân thói sính anh hùng và yếu tố quyết định tạo anh hùng là nuốt
ngon mọi khổ cực, trước hết sinh mạng mình.
Pha m Ma nh Toa n no i ơ Ha i Pho ng co ba anh em no đe u ca n bo chia nhau la n lươ t nuo i me gia . Ba tha ng ga p nhau la m
TRẦN ÐĨNH
510
thu
tu c sang tay me cho nha kha c, trong co mu c ca n me , ghi so đa ng ho
ang đe xem ai nuo i to t nuo i to i, áp dụng kiểu thi đua ở cơ quan.
Nhưng bà cụ đáo để. Yêu đứa út nhất cụ độn vào bụng hai bọc xi măng, đứa
thứ hai cũng yêu cụ để một bọc, đến anh cả cụ ghét thì cụ vất hết và ba
hôm trước khi cân cụ còn nhịn ăn… Cụ nói thằng út tôi coi như công nông
nên tôi chiếu cố.
Kỳ Nam kêu lên: - Ôi đường lối giai cấp vận dụng vào cả trong gia đình.
Toàn cười: - Có câu này vào được sử liệu các câu đối hay nhất nước ta: “Có cứt gì mà phân? Mà có phân thì như cứt.”
Nhân
chuyện bán mặt cho tivi Thanh Tú kể, xin nói đến chuyện bán mặt nạ cũng
của Thanh Tú tuy nó xảy ra lúc đất nước đã chơi xe hơi nhà lầu. Đầu
2003, tôi đi chào chỗ quen biết để vào Sài Gòn ở. Tôi đến Tú ở Triệu
Việt Vương thì Tú bảo tiếc quá, giá anh không vào Sài Gòn thì anh với em
cộng tác quá hay: ta viết sách về làm đẹp, em kể, anh viết… Tú cho biết
tay nghề tô đắp cái đẹp dung nhan của Tú đã được kén làm đẹp cho các
ông cốp lên ti vi. Tôi đùa “Công vỗ mặt ấy to đấy, bao nhiêu một mặt.”
Tú nói “Ba bốn chục nghìn. Mặt họ quý nhưng công mình vỗ vuốt mặt cho họ
thì là công bọ công bèo. Nhưng em cũng thôi rồi.” - “Sao thôi?” tôi
hỏi. “Có đứa bạn em nó bảo cẩn thận đấy, mày bôi mày quệt các thứ lên
mặt các cha mà ngộ nhỡ các cha lên sởi hay quai bị hay sưng mộng răng
hay phấn son làm nám da thì mày chết… Sao chết? Ô, người ta nghi mày mưu
hại lãnh đạo… Này, các chỗ ấy nguy hiểm chết người hơn cả trạm biến thế
điện hay chuồng cọp đấy, cứ té cho xa… Em bèn so - ri bái bài...” Tôi
chợt nhớ tới chuyện Lê Duẩn xưa tắc “chỗ kia” mà chả bác sĩ ta nào dám
mổ đâu. Cả Phạm Văn Đồng thong manh cũng vậy.
ÐÈN CÙ
511
Vợ
Vũ Hoàng Địch, giáo viên bảo tôi bọn tôi vừa ăn tối xong thì trường
triệu tập họp gấp 7g rưỡi. Đang đại hàn chi cực, rét ghê rét gớm. Tôi
ngồi cạnh một cô cứ thấy nó run bắn người lên. Hỏi thì nó bảo chị sờ
quần em xem. Ướt đẫm. Em có mỗi cái quần dạy xong đem giặt thì bị gọi
họp. Nhà không có bàn là mà có thì hôm ấy cũng mất điện. Đạp xe đến bạn ở
khu phố khác để là thì không kịp thế là đành… Lớp không có cửa gió bấc
cứ hun hút. Tối ấy tôi tưởng nó chết… Ở Đinh Công Trứ, gần nhà Vũ Hoàng
Địch, Anh hùng quân đội Nguyễn Thị Chiên bán vé xổ số.
Dân tổng kết quá siêu đầu ra của võ công oanh liệt:
Đầu
đường đại tá bơm xe, Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen, Trung tá đi
bán cà - rem, Thiếu tá thì bận thổi kèn đám ma, Đại úy chăn vịt đuổi gà,
Trung úy nhà bám đít con trâu, Còn thằng thiếu úy đi đâu, Ba - lô lộn
ngược buôn tàu bắc nam. Bao giờ Trung Quốc tràn sang, Trung ương Đảng
gọi, s quan chạy làng!
Như ca dao xưa đã nói “thằng Tây nó tếch
thằng Tàu nó sang!” Cùng tiền đồ đầy hy vọng: “Ngày xưa chống Mỹ, chống
Tây; Bây giờ chống cổng rước Mỹ Tây vào nhà.”
Một chiều xếp hàng
mấy tiếng ở Bách hoá tổng hợp mua săm lốp xe đạp Sao Vàng theo tem phiếu
một đời xe may mới được cấp một lần, tôi chứng kiến một cảnh chắc chắn
khắp thế giới không đâu có.
Ca ch chu ng to i đa m ngươ i mua sa m
lo p chư ng mươ i me t là quầy sữa. Bảy tám chị em còn trẻ nhấp nhổm
chờ ở đó đã khá lâu. Chốc lại nhăn nhó hỏi cô bán hàng sao lâu thế, con
em ở nhà chẳng có người trông. Nghe đâu bị giữ ở đây bốn tiếng, chị em
đã gọi đây là Hoả lò ngọai trú. Khoảng nửa giờ sau, một người đàn ông
thấp, vạm vỡ, hai cánh tay trần xăm
TRẦN ÐĨNH
512
xăm
đi tới, miệng nói lớn. “Trật tự, lần lượt từng người, xếp hàng vào...
Nào, đúng là đã chờ đủ bốn tiếng chứ?” vừa nói vừa nhặt một tờ giấy ghi
tên những người đến vào giờ nào giờ nào để ở trên quầy lên xem. “Ai
không đủ bốn tiếng thì về hôm khác đến...” (Một ông xếp hàng cạnh tôi
nói khẽ: - Sửa trụ sở y tế phường nên chị em phải đem vú đến chỗ chợ búa
thử thách xem tươi hay héo, rắn hay nhão. Chúng nó cấm về nhà v sơ chi
em cho con bu hay va t kie t sư a đi... Cho c se co n ba t chi em uo ng
nươ c tha t nhie u cho sư a de r n ra.)
Tôi thật sự không tin vào
mắt mình. Những bà mẹ trẻ lần lượt trật vú ra cho người đàn ông bóp kiểm
tra trữ lượng sữa sẽ nuôi các Phù Đổng tương lai. Hai tay hai bầu, mắt
chằm chằm vào núm vú, anh ta nói: - Cố nhịn đau đấy, tôi nhẹ tay thì lại
bảo tôi ngoắc ngoặc, thiên lệch... Cô bán hàng bên cạnh bỗng bình giá: -
Bốn hộp! Người mẹ vừa nghiến răng xoa ngực vừa vội kêu lên: - Ối, bốn
hộp thì con em bú sao đủ, tiền đâu mua sữa phe, khổ con em...
Tôi
quàng lốp vào cổ vội lách ra. Nghĩ đến tít xã luận báo Nhân Dân: “Hà
Nội, thủ đô của phẩm giá con người” mà không thể không rủa thầm bố tiên
sư nhà nó!
Vừa tới cổng bách hóa đằng Hai Bà Trưng thì bị giật về
đúng ba ngả: trái, phải và đằng sau. Một cô liến thoắng: - Bo ho ro i,
dơ me no loa i hai ro i, phải xem có sợi chỉ xanh ở vải lót bên trong
cơ, bố Khốt (khù khờ) quá… Thôi, thương bố Khốt con mua đỡ cho với giá
giữa loại hai và loại một xuất khẩu.
Tôi nghẹn cổ không trả lời
được vì một cô bên trái đã hai tay níu lấy cái lốp xoắn lại và nó lập
tức thít lấy cổ tôi. “Có mỗi con là chơi đẹp với bố Khốt. Nghĩa là trả
đúng loại một, chỉ xin bố Khốt bớt kha - ra - sô năm đồng. Thế là ố chìn
tuyệt, bố Khốt nhẻ nhẻ!”
ÐÈN CÙ
513
Tôi cố gỡ ra khỏi gọng kìm. Nói: - Tôi mua dùng, bánh xe tôi vấn một năm nay rồi…
- Bán đi. Đi vành sắt không lốp đỡ trượt ngã!...
Tôi
chẳng thiết ngó xem ai vừa mách mẹo thiết luân xa. Bụng nghĩ: chủ nghĩa
tư bản biến người thành hàng hoá, mình hơn là còn được làm cái giá treo
hàng cho nên mới thành lương tâm thời đại… đồ…
I t la u sau, mấy
chị em ở báo cho hay tay bóp vú ăn lương kia bị vợ li dị. Quen thói hóa
thành quỷ bạo dâm với ngay vợ. Cũng cho hay hôm nọ y tế lộ ra bí mật
quốc gia là 90 % trẻ sơ sinh của ta bị ỉa chảy. Loại cho bóp vú được tám
hộp sữa Liên Xô cũng điêu đứng. Sữa Nga để quá ba ngày là kém phẩm
chất. Ăn vội được ba hộp còn năm lại đem ra Hàng Buồm cho phe đỡ hộ. Sư a
Similac Nga a n va o la tro n tha o co ng o o ngay. Khéo mà các ta - va
- rít làm nhầm thuốc tẩy ra thành sữa à?… Một chị vặn lại: - Thế Nétxlê
nó cho thuốc táo bón vào ư?
Một chị nhắc lại hôm nào công đoàn
bán cho đoàn viên sữa Mộc Châu. Đặc quánh hệt mỡ tra ổ líp xe đạp. Nhiều
người mách nhau nấu chè bà cốt. Cư tương cho nư a ba n tay gư ng va o
la cha c da . Nhưng co che la i kho no i kho ng th a, pha i la y dao be p
na y.
Nghe no i, to i chơ t nhơ đe n như ng ca i th a ơ qua n Bo n
Mu a thu ng lo cho . Thìa không nằm trong dự kiến của Ủy ban kế hoạch
vì nghề đúc bị cấm như mọi ngành nghề thủ công khác - trừ hàng thiếc làm
đèn dầu, bếp dầu bằng những vỏ hộp nhờ trật vú ra cho bóp mà có. Dân
liền vào quán cà phê mậu dịch gọi một tách cà phê ba hào, uống xong nẫng
luôn thìa nhà mậu hào hai một chiếc. Đối phó lại, nhà mậu đem đục thủng
thìa ra. Một số trí thức gọi là thìa theo phái
TRẦN ÐĨNH
514pointlillisme, - hội họa lấm tấm… Được, ông lấy ông vất cống cho bõ ghét thôi mà.
Nhà
mậu cuối cùng thuê trẻ con mót que kem cho vào mỗi cốc cà phê hay chanh
quả một que đã được dội nước đánh ào một gáo cho chung cả rổ. Cuộc đấu
trí giữa thìa và que kem diễn ra khá dai dẳng trước con mắt dửng dưng
của trọng tài là đảng vốn thờ câu “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công
bằng!”
Đúng, không công bằng quá! Sao quốc doanh các anh có thìa mà tôi không?
Tôi
hỏi Khoa, công an sống trong khu văn công, sao ăn cắp nó chạy mà công
an cứ thổi còi chứ không đuổi? Khoa nói: - Đuổi làm gì chứ chú? -...? -
Bắt sao được nó? Nó chạy nhanh hơn. - Sao lại thế? - Sáng nó xơi sủi
cảo, bọn chúng em toàn cơm hẩm mà nguội ạ.
Thời ấy công an yếu không hay nện dân như thời lắp thêm chân kinh tế thị trường.
Lúc
ấy chưa có tổng kết bất hủ: lương công nhân viên chức chỉ sống đủ cho
10 ngày.. Tôi đã bảo Thép Mới: - Nạn đói thâm niên này nhất định để lại
trầm tích sâu dày trong vô thức. Rồi sẽ tham lam, tắt mắt, hôi của… tràn
lan. Cái đói nó ngoạm hết dần nhân cách.
Nhưng dân không chỉ tự
phá nhân cách! Cũng phá cả quan cách, tức là “tế phệ” ngay cái anh gieo
khổ vào mình. Đầu tiên dân thử đánh thí điểm vào anh em quốc tế vô sản
rồi mở ra diện sau. Đồng chí Liên Xô hóa thành Nhi - cô - lai Nhai -
quai - dép, đồng chí Triều Tiên thành Chim Xun Xun, đồng chí Lào thành
Hắc Lào Mông - chi - chít, Cai - đẻ Thôi - đẻ - hẳn, đồng chí Trung Quốc
thành Bành Âm Hộ...
ÐÈN CÙ
515
Quy luật chăng? Mở
trận chống cường quyền, dân thường dùng vũ khí nhọ nồi trước. Bôi đen
nhẻm mặt đối tượng đi. Thành khỉ khẹc rồi sẽ hiện ra thành quỷ dữ.
Tôi vẫn coi mẩu chuyện dân sáng tạo sau đây là tiêu biểu nhất của vũ khí nhọ nồi.
“Toàn
chui lủi luật lệ, Việt Nam bị Liên hợp quốc dọa đuổi và phải khai lại
lý lịch, không được nói phét nhập nhèm. Bèn khai: - Họ và tên: An Nam,
tức Việt Nam.
- Anh (kiêm mẹ lo cơm cháo): Liên Xô, Trung Quốc,
chuyên xui em đánh đấm. - Nghề làm lâu nhất: ăn xin... - Sở trường: đâm
chém và xé hiệp ước. - Sở đoản: nhìn ngõ cụt thành đại lộ thênh thang. -
Khả năng giúp Liên hợp quốc: thảo nghị quyết. - Tiền đồ phát triển: vật
phẩm có triển vọng thay hết nhân phẩm.”
* * *
Một hôm, Bộ
nội vụ mời tôi đến 16 Trần Bình Trọng; bộ phận tiếp dân của Bộ. Tết vừa
qua, lũ người nhà tù xét lại đến đây gửi thư từ, quà Tết cho tù. Toàn
các chị, riêng tôi đàn ông thăm Trần Châu vì anh không còn gia đình.
Người trẻ nhất trong chúng tôi là Châu, con gái Kỳ Vân, chị đứa em,
Đông, hy sinh vì rốc - két ở Trường Sơn. Cháu nhanh nhảu, hay cười như
bố. Nhìn cháu tự nhiên tôi nhớ đến một sáng rất rét trên An toàn khu,
nằm trong chăn Kỳ Vân bảo tôi: mày chưa được bíết những sớm thế này con
mày nó dậy nó leo lên người mày rồi nhìn mày bằng hai con mắt tròn xoe…
rồi nghĩ thầm chắc là cháu này đây. Kỳ Vân bị cổ chướng được về nhà chữa
bệnh. Đảng không muốn thêm một người chết trong tù sau Phạm Viết. Tôi
hỏi cháu: bố sao?
- Bụng như cái trống chú ơi. Nước đái đỏ như nước vối đặc.
TRẦN ÐĨNH
516
- Bố có buồn không?
- Cười đùa suốt, chẳng thấy buồn chú ạ. - Trả lời tôi, cháu cười toét, đúng cái cười của Kỳ Vân.
- Thế mới là bố cháu. Về nói với bố là chú hỏi thăm, chú rất nhớ... Bất năng khuất là bố cháu...
Thế rồi Kỳ Vân chết. Cháu Châu cũng chết. 1975, sau bố hai năm. Đẻ bị băng huyết.
Hôm
nay nhận giấy mời của bộ, tôi vẫn lệ thường dạo bộ với Lê Đạt nhưng lần
này rông xuống tận hồ Thuyền Quang. Rồi bảo Đạt chờ ở đó, tôi vào chỗ
tiếp dân của bộ, ở Trần Quốc Tỏan.
Le Tha nh Ta i, ngươ i Nam ta p
ke t, trưởng phòng cục chấp pháp đã ngồi chờ ở phòng khách cùng với một
người mặt hổ phù đỏ xậm. Trước mặt hai người hai gói thuốc lá và chè
chưa bóc. Tài giới thiệu, tôi mới biết người ngồi đó là Hoàng Thao, thứ
trưởng công an.
(Tai nghe tên Hoàng Thao thì đầu tôi nghĩ ngay đến
Lưu Động. Anh nói ở nhà tù Sơn La, anh được chi bộ phân công dạy Hoàng
Thao tiếng Pháp nhưng, anh nói, nó óc bã đậu quá. La forêt la rư ng th
no ho c ma i kho ng thuo c, đe n lu c thuo c la i xọ ra thành na pho dê
nà dừng. Tao phải bảo xừ Xứng Lê Thanh Nghị là rừng dạy nó thôi, cho nó
thông tiếng ta là tốt quá rồi...)
Co n lu c a y to i chưa bie t ch
nh Le Tha nh Ta i co ho m ba o Châu trong tù: - Ta vừa sút tung lưới
xét lại Liên Xô ghi hai bàn thắng xong. Tóm mấy chục người các anh là
một bàn này, vô hiệu hoá Võ Nguyên Giáp là một nữa này. Bàn thứ ba là sẽ
sang Nga lôi cổ mấy thằng Lê Vinh Quốc, Văn Doãn v. v. về. Cũng chính
Tài bảo Châu khi Châu tù ở Phú Sơn Thái Nguyên:
ÐÈN CÙ
517
- Báo anh biết là bắt thằng Trần Đĩnh em anh rồi. Nó là một bộ trưởng trong chính phủ phản động của các anh.
Châu
bảo tôi sau đó nghe ở ngoài giếng có ai huýt sáo anh cứ nghĩ là tôi.
Tôi nghe mà thấy mình có lỗi: Không bị bắt và không đến thanh minh khi
anh ngỡ tôi huýt sáo.
Tài pha trà, bóc thuốc (Thăng Long hẳn hoi)
rồi nói hôm nay bộ mời anh đến để anh Hoàng Thao có chuyện liên quan đến
Trần Châu. Tôi hơi chột dạ thì Thao nói ngay: - Nay Ðảng khoan hồng tha
cho Trần Châu về nhưng phải có người viết giấy bảo lãnh, mời anh đến là
để viết bảo lãnh đó.
Ngỡ họ ít ra cũng thanh minh về việc lỡ bắt anh chị em, tôi phản ứng luôn:
-
Tôi không bảo lãnh! Không tự do gì cả... Tự nhiên bắt, chẳng có tòa xét
xử và cứ thế giam, nay tan nát gia đình, thất nghiệp rồi ra tù lại cứ
vẫn đeo cái tiếng phản động.
Lê Thành Tài hút thuốc, mặt như không nhưng dưới gầm bàn đá lia lịa vào chân tôi. Công an can tử tế cũng bằng bạo lực - đá ngầm.
Nhận thông điệp quá dồn dập của Tài vào ống đồng, tôi bèn nói: - Nhưng đấy là nói nếu là tôi, còn đây là chuyện Trần Châu...
Thành Tài bảo anh chỉ viết nhận bảo lãnh cho anh Trần Châu rồi đưa chúng tôi là xong. Tài hỏi tôi ở quê còn ai không.
Tôi
nói ông bà nội đã lìa quê từ trẻ. Ôi, số phận, nếu tôi trả lời khác? Co
the Cha u se cha ng ve ga n Ha No i co vơ cho ng to i và sẽ chẳng lập
gia đình và có con cháu ở một làng tại Quốc Oai, Yên Sơn và nằm lại tại
đó. Nhất Sơn là làng nguyên quán.
TRẦN ÐĨNH
518
Đến
lúc ấy, Hoàng Thao nói: - Anh Trần Đĩnh ạ, các anh nói Ðảng ta theo
Trung Quốc là không đúng đâu. Đảng ta coi Liên Xô và Trung Quốc đều có
cái tốt cái xấu như nhau...
Tôi lại bật ra: - Tôi đến đây là đi cùng một anh bạn, chính khi đến đây tôi bảo anh bạn đó là cả hai thằng đều thối.
Vư a no i hai tha ng cư t he t vơ i Le Đa t tha t, sửa thành thối vì xã giao!
Hoàng Thao vội xua tay: - Thôi, thôi, tôi không nói nữa, kẻo các anh lại bảo Hoàng Thao biết gì lý luận mà nói.
Khi
bắt Lưu Động, chắc Hoàng Thao đã bảo đem đến cho gặp mình. Chắc muốn
cho một bài học lập trường. Tù Sơn La với nhau nhá, mày tú tài, tao bập
bẹ chữ, nhưng đấy đã thấy căn bản cách mạng cần cái gì chưa? Cần chó gì
cái tiếng Tây chuyên xui phản động của mày! Sau đó khi họ điệu đi, Lưu
Động cứ ôm chặt chân bàn (gỗ lim nặng lắm, chắc vẫn là bàn mật thám Pháp
hồi bắt, Lưu Động bảo tôi) mà chửi Hòang Thao rất to: - Tiên sư bọn Mao
- ít chúng mày giỏi nhất là bắt tù giết hại đồng chí!
Mồng sáu
Tết, Lê Thành Tài điện thoại nói Trần Châu đã về. Xin lỗi không báo
trước được, anh ấy về từ hăm chín Tết. Vâng, ở Xí nghiệp nông cụ Quốc
Oai. Quan liêu mà không báo hay là đánh bồi thêm cho một đòn ngay sau
khi mày đã được ông thả? Thế là Châu còm cõi mấy ngày Tết không Tết giữa
cái nhà máy vắng lặng...
Linh chất đầy một xe máy thức ăn, quà cho tôi đi gặp Châu.
Anh
em ôm nhau, tôi nói khẽ vào tai Châu: “Thả ra vì nay cần conAnh em ôm
nhau, tôi nói khẽ vào tai Châu: “Thả ra vì nay cần con tin nộp Liên
Xô...”
ÐÈN CÙ
519
Không biết còn là tuân theo khoản thả tù chính trị ký trong hiệp định Paris. Mỹ nó hay thọc gậy vào bánh xe chuyên chính.
Ngang
sống mũi Châu là một vệt tím bầm. Châu bảo sáng hôm được tin về, anh
vui quá hút thuốc lào bị say ngã vập mặt vào gờ xô vệ sinh… Tôi nghĩ đó
là cái dấu cuối cùng nha tu lưu la i cho anh.
Anh em tù mỗi người
về ở một huyện xa. Hoàng Minh Chính ở thị xã Sơn Tây ngay cạnh đồn công
an nhưng chỉ một năm anh đã lén ra bến ô tô từ sớm mua vé về Hà Nội, phá
lệnh. Đặng Kim Giang về Lim nhưng rồi cũng lại cả gia đình dọn về ở
trong khu vực chùa Liên Phái. Vũ Đình Hùynh về phố Thợ Tiện, Nam Định
(cũng vài lần ra đến bến ô tô để về Hà Nội nhưng công an lại túm được.
Lê Trọng Nghĩa đánh xe bò hợp tác xã vận tải thô sơ ở Trương Xá, Ân Thi,
Hưng Yên. Minh Việt đến Thắng, Hiệp Hòa Bắc Giang. Gia Lộc, Kiến Giang ở
hai nhà máy chè trên ẤmThượng. Lưu Động, Huy Vân, Huy Cương về nhà máy
gỗ đầu thị xã Ninh Bình. Phan Thế Vấn bật lên tận Lạng Sơn sống vói em
trai là bác sĩ Hổ trên đó. Hôm đưa Thẩm và Vấn về, xe Lê Thành Tài đỗ ở
trước nhà Vấn để Tài vào báo cho bố mẹ Vấn biết Vấn lên Lạng Sơn. Không
được vào chào bố mẹ, ngồi trên xe, Vấn nghe thấy người ta gắt bố già
mình: - Đến báo con các người ra tù mà mãi mới mở cửa à?
Bố mẹ Vấn
từng lọ mọ lên tận Yên Bái, Lao Cai thăm đứa con cả tù tội. Nhưng đi
hàng ngày đường vất vả chỉ được thăm con nửa giờ. Người ta phạt Vấn đã
dám gửi thư lên Lê Duẩn xin cho anh thuê luật sư cãi giúp anh.
Ở đây phải nói tới kế hoạch chưa thực hiện được là đày vợ chồng con cái Võ Nguyên Giáp ra đảo Tuần Châu.
TRẦN ÐĨNH
520
Sáu
Thọ định sẽ để anh em tù cứ thế sống vĩnh viễn tại nơi về quản thúc.
Cấm anh em làm những nghề sau: chữa đài thu phát thanh (sợ liên hệ với
địch), chữa đồng hồ (sợ đặt mìn định giờ), chữa xe đạp (sợ có phương
tiện tẩu thoát) và cắt tóc (sợ cắt tiết đồng bào chăng?)
Châu mới
ra tù, mỗi tháng tôi đi thăm anh hai lần. Chu nha t nha ma y va ng la
ng, một mình anh trơ trọi. Thươ ng le n đe n bơ đe ta So ng Đa y đa u
huye n Quo c Oai, to i mơ i cha y nươ c ma t. Nhịn từ lúc chia tay. Biết
rằng bao giờ anh cũng đứng ở đầu đê nhìn theo tôi mãi. Hà Nội từ nay là
chỗ trống không của anh.
Nỗi khổ lớn nhất của anh là bặt tin ba
đứa con. Mồng một Tết tự do đầu tiên của anh, chúng tôi đưa anh đến nhà
bà chị ở Hàng Đào, cho anh đứng ghé mắt qua lỗ cửa con khoét trên cánh
cửa lớn để nhòm xem ba con anh chúng sắp đến nhà Kh., dì ruột nó gần
đây. Châu đang nghiêng nghiêng đầu ngó thì bỗng nấc lên một tiếng, bàn
tay giơ lên quờ quạng, run rẩy. Lần đầu tiên trong đời tôi nhìn thấy
người mất hồn... Tôi nhòm ra: thung dung đi hàng một ở vỉa hè trước mặt,
ba đứa trẻ con anh.
Một dạo dài chúng hãi hùng nghe nhắc tới bố.
Một
quy định chung của Ðảng: con cái tù xét lại không được vào đại học, trừ
nông nghiệp, sư phạm và xây dựng mà Ðảng coi là đồ tã...
* * *
Thẩm
vấn tôi, người ta kết luận tôi sa đọa vì đọc quá nhiều “tà thư.” Họ lầm
chính sách của họ là chính thư, biết đâu chính cuộc đời bày ra sống
động hàng ngày mới là chính thư. Còn trong mắt tôi tà thư lại nâng tôi
dậy!
ÐÈN CÙ
521
Thẩm vấn - à, là hỏi cung, dịch ra các
tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha đều là thế. Thẩm vấn về, hôm sau tôi ngốn
ngay Bươm bướm của Henri Charrière và mấy nhà văn nữ. Hoài niệm không
giống với nó thu xưa,ho i ky cu a Simone Signoret, vơ Yves Montand, hai
vơ cho ng đe u sie u sao đie n a nh Pha p, Chim họa mi thôi hót trước
bình minh của Elsa Triolet cho tôi câu: “Thuở ấy tôi chưa biết số phận,
ấy là chính trị..” Một cái chết rất êm dịu của Simone de Beauvoir viết
về cái ốm cái chết riêng tư bé nhỏ của mẹ mình mà sao đầy trí tuệ và
tình cảm tinh tế đến thế. Trong khi chúng ta ngày ngày chết bao nhiêu
mạng mà chẳng có cái viết nào cảm lòng người. Tôi lẽ ra phải nghe những
“chính thư” như chỉ thị của một nhà lãnh đạo văn hóa nói xã hội ta không
có bi kịch. “Nam Ngạn một bà cụ có hai con gái phục vụ trận địa pháo hy
sinh đấy, anh nào đến chia buồn thì bà cụ tát cho vỡ mặt!”
Ơ ho i
ky cu a Simone Signoret, to i xu c đo ng chuye n Yves Montand nha n lơ i
mơ i đe n Ho i nha va n Lie n Xo vơ i đie u kie n la kho ng đo i o ng
ha t, mo i nga y o ng đa ha t ba buo i ơ nha ma y, nông trường quốc
doanh và nông trang tập thể rồi. Hội nhà văn nuốt lời. Ra t ca u nhưng o
ng va n le n bu c. Đe ha t đu ng hai câu thì ngừng lại hỏi các nhà văn
bên dưới: “Các người đã đổi gì để có phè phỡn này? Đổi bằng nín thít,
thậm chí đồng lõa nữa, trước những oan trái, chết chóc, tù đày của các
nhà văn dũng cảm, có tài hơn các người rất nhiều đấy.”
Những ngày
thế giới đau lòng về thuyền nhân Việt Nam, Yves Montand đã cùng Bernard
Kouchner lập ra “Phong trào một con thuyền cho Việt Nam” với con tàu cụ
thể là Đảo Ánh sáng.
Hồi Nghị quyết 9, tôi nói với Phan Kế An một
tâm đắc lớn rồi sau đi vào bỉên bản hỏi cung tôi. Hai chục năm sau, An
bảo tôi: - Chơi với mày từ 1948, 49, tao nhớ một câu mày nói:
TRẦN ÐĨNH
522
Chúng mình tiêu bạc thật, họ tiêu bạc giả, hãy cho lòi thánh đường bạc giả ra.
Chương bốn mốt
in
vượt thời gian gần hai chục năm nói đến một việc xảy ra năm 1995 vang
dội một dạo ở ngay lãnh đạo cao nhất của Ðảng. Vang dội vì đó là tiếng
kêu hy vọng đầu tiên mong đưa được ông thần Công lý ra mắt ở trong cái
đảng bất chấp sự thật, lẽ phải, pháp lý nhưng lại tự nhận là đạo đức,
văn minh này. Một “cuộc đại náo thiên cung” như tôi gọi như thế với nhân
vật chính của nó.
Vâng, đó là vụ đại náo đầu tiên diễn ra ở Trung
ương đảng và kẻ đại náo là NguyễnTrung Thành, nguyên vụ trưởng Vụ bảo
vệ chuyên xử các án nội bộ của Ban tổ chức trung ương, người lập hồ sơ
vụ án “xét lại” cho Lê Đức Thọ đàn áp và nay đề nghị lật án.
Nguyễn
Trung Thành là ai? Không gì khác hơn là tay hòm chìa khoá của cái kho
hồ sơ lý lịch tuyệt mật của toàn bộ cán bộ trung cao cấp Việt Cộng không
sót một ai. Từ đồng chí Hồ Chí Minh!
Còn nữa! Là người tra cứu hồ
sơ của bất cứ ai lọt vào danh sách ứng cử ủy viên trung ương trước mỗi
đại hội. Một thế lực khủng trong hậu đài. Thế mà đùng một cái Nguyễn
TrungThành gửi thư đề nghị Trung ương xoá vụ án “xét lại”
X
TRẦN ÐĨNH
524
bởi vì nghiên cứu lại, anh thấy không có bằng chứng pháp lý cấu thành án.
Hay như anh nói với tôi: - Vụ án này là do chúng tôi đặt ra, có thế thôi!
Ở
nhà Gia Lộc nghe tin “đại náo,” tôi và Gia Lộc đã nhờ điện thoại của
Giám, con trai cụ Nhuệ trước kia lái xe cho Hoàng Tùng ở báo Nhân Dân,
gọi cho Nguyễn Trung Thành. Chúng tôi vừa xưng danh tính xong, Nguyễn
Trung Thành nói ngay: - Mời hai anh lên tôi. Tôi cũng muốn chúng ta gặp
nhau.
Gia Lộc và tôi đến gặp ngay Trung Thành. Đâu còn xa lạ! Quen
biết nhau ớ sổ đoạn tràng cả rồi. Gia Lộc lại vốn còn là cả học viên
lớp “Bốn một” mà Trung Thành phụ trách năm 1953 - 54, lớp khai cung và
cải tạo 800 cán bộ trung cao cấp có nghi án chính trị như Cu Dét, Việt
Cách, Đệ Tứ, AB (chống bon - sơ - vích)... tóm lại tất cả những người
yêu nước nhưng không được cộng sản cấp môn bài cứu nước, “như cách tôi
nhận diện nó.” Đi buôn còn trốn được môn bài chứ yêu nước mà có tổ chức
thì cộng sản xóa sổ ngay, không chui, không lậu được. Cộng sản khống chế
tuyệt đối “thị trường yêu nước.”
Còn tôi, hai mươi tư năm rồi mới
gặp lại Trung Thành nay đã bảy muơi hai nhưng khoẻ. Phải nói rõ là đến
lần gặp này, tôi mới dứt khóat khẳng định anh có đôi mắt và một khuôn
mặt rất hiền. Cả tiếng nói, nụ cười đều rất hiền. Lần ở Ban tổ chức
trung ương, nghe anh tiễn tôi ra đầu cầu thang, nói “Gặp anh tôi học
được nhiều lắm,” tôi đã ngờ, tìm hiểu mãi tại sao anh lại nói như thế.
Nay thì thấy cơ sở sâu xa của nó.
Vào nhà thấy ngay gia cảnh nghèo. Hàm bộ trưởng lâu rồi mà phòng khách sơ sài, lạnh lẽo, trống vắng thế này là của hiếm hoi đấy.
Có một điều cần làm rõ. Động cơ Trung Thành?
ÐÈN CÙ
525
Rất đơn giản tuy có được là cực kỳ khó.
Thành nói: - Vì lương tâm cắn rứt..., vâng cắn rứt cho nên phải kêu lên Trung ương cho các anh chị.
Cắn
rứt nên anh mới đã công phu bỏ hẳn mấy tháng ra nghiên cứu lại tất cả
hồ sơ của chúng tôi để cuối cùng kết luận vụ án này không có bằng chứng
tội phạm.
- Nghĩa là thế nào anh? - Tôi hỏi. Vẫn tự dặn cần nhẹ nhàng, không băm bổ, soi mói, đừng làm cho Nguyễn Trung Thành ngại.
Nguyễn Trung Thành hơi đắn đo - hai con mắt sáng với đường mí rõ ràng hơi bối rối, tìm kiếm và hiền - rồi nói:
- Thì là oan… Là đặt ra, dựng lên... chứ sự thật không có gì cả.
Chúng tôi im lặng nhìn Thành. Không ngờ! Sự thật sơ sài mà kinh khủng.
Hai
mươi tư năm trước, tôi phân vân đánh giá một câu nói của Thành liên
quan đến tôi. Bây giờ tôi lại ngờ: chả lẽ không có gì cả mà Ðảng làm nên
nổi bao sóng gió, bao điên đảo, bao tan nát thảm thương thế này sao?
Nhưng tôi ngầm cởi bế tắc ngay: - Trung Quốc chuyên làm trò ngậm máu
phun người này rồi mà. Chống phái hữu, Cách mạng văn hóa đó!
- Lúc ấy, các cụ bảo - Thành nói, các cụ “cần” thấy các anh là một tổ chức chống Ðảng.
A!
trong đầu tôi bật ra một tiếng a! Rõ rồi, cần vì Bắc Kinh cần mà. Làm
cách mạng văn hóa diệt “Kroutchev thứ nhất” là Lưu Thiếu Kỳ và
“Kroutchev thứ hai” là Đặng Tiểu Bình, Bắc Kinh rất cần có bạn đồng hành
mà Việt Cộng đang được Bắc Kinh chu cấp mọi cái để đánh Mỹ thì tất sẽ
phải có một Kroutchev ứng họa theo nhưng thể tình Việt cộng đang chiến
TRẦN ÐĨNH
526
tranh
nên Bắc Kinh không đòi chỉ hẳn tên tuổi ra. Trùm chăn đánh quỵ là được
rồi… Đảng sợ Đại hậu phương có thể đem Đại tiền tuyến bỏ bơ vơ ở giữa
chợ chiến trường. Sau này đổi đầu tàu cách mạng, đảng lại thế chấp Chu
Văn Tấn, Lý Ban, Hoàng Chính nộp Liên Xô.
Nghĩ rất nhanh như trên -
thấy rõ mình đang gỡ ra một cái nút - nhưng tôi không hỏi vì sợ Trung
Thành sẽ co lại. Có lúc tôi đã e sự im lặng của chúng tôi sẽ lại làm cho
Nguyễn Trung Thành giữ gìn. Nhưng Thành vẫn nói tiếp. Chúng tôi sao
hiểu được rằng đang ở trong một con tàu vũ trụ kín bưng, Nguyễn Trung
Thành đã rời bỏ nó mà bước ra ngoài không gian. Và một khi sự thật đã
cất lời thì đừng mong chôn vùi được nó nữa.
- Các anh lạ gì rằng
khi đã là tổ chức thì phải có mấy yếu tố: hay gặp nhau (các anh thì hay
gặp nhau quá), thứ hai có phát ngôn láo. Cái này cũng có. (Cười.) Đặc
tình... (tôi hỏi đặc tình là gì?) À, là công an nhưng nó vờ làm như
giống các anh để bám nghe các anh mà không lộ. Đặc tình nó báo Trần
Châu, anh của anh đấy, nói cứ đánh nhau mãi thì có ngày dân nổi lên lật
đổ. Vậy là các anh có mục tiêu lật đổ, đúng không?. Thứ ba cần có hành
vi vật thể của tổ chức các anh. Cũng có nốt. Đặc tình và công an do Lê
Kim Phùng bố trí - sau vụ các anh, Phùng được cấp cho cái nhà to tướng
số 3 Lý Thường Kiệt, cạnh nhà cụ Vũ Ðình Huỳnh đó - biết Trần Châu có
bản sao trích biên bản hội đàm giữa đảng ta và đảng Trung Quốc, công an
bèn vờ làm như có kẻ trộm lấy đi. Vậy là tổ chức các anh vói tay đã quá
cao: lấy được cả tài liệu tối mật của Ðảng. Thứ tư là một khi đã có tổ
chức thì tất phải có cương lĩnh. Luận văn phó tiến sĩ sử của Minh Việt
là nó đấy chứ còn gì nữa. Trong khi phần lớn các anh không biết nó. Còn
Hoàng Minh Chính thì cho là viết uổng công. “Bên Liên Xô người ta
ÐÈN CÙ
527
phê
phán giáo điều nhiều vô kể rồi, viết làm gì?” Luận văn này có tên “chủ
nghĩa giáo điều ở Việt Nam.” các anh có lúc khai có tổ chức, có chống
đảng. Cuối cùng vì sao tôi dám làm đơn gửi Bộ chính trị kết luận các anh
vô tội? Chính là nhờ có cái chỗ dựa pháp lý vững như núi này của các
anh. Đó là các anh đều phản cung hoặc khai mâu thuẫn lại với mình cả.
Về
đặc tình, Trung Thành nói cụ Huỳnh thật thà nói với tù “đặc tình” vào ở
cùng phòng rằng may quá tài liệu chống giáo điều của Minh Việt để ở nhà
Phạm Viết không bị mất thế nên an ninh mới chẹn đường chị Ngọc Lan, vợ
Phạm Viết bắt tìm rồi giam luôn. Hồi ký của Lưu Động cũng bị đặc tình
biết được.
Tôi nghĩ thầm thảo nào Trần Châu bảo tôi một lần anh
đổi phòng giam, một thường phạm ở cùng anh đã dặn gặp tù chung phòng thì
đừng có tâm sự gì đấy. Cũng nghĩ tới câu ở tù ra Châu nói với tôi: “Nếu
Việt Nam không cộng sản thì dất nước thanh bình, không chiến tranh.
Cộng sản là họa của dân tộc.”
Thủ đoạn vu cáo cài bẫy bắt người
này, Milovan Djilas đã nói đến từ 1948. Trong cuốn Giai cấp mới từng làm
nghiêng ngửa giới tư tuởng cộng sản, ông vạch ra cách thức dựng nên các
vụ án chính trị. Hệt như Trung Thành nói với chúng tôi hôm gặp nhau lý
thú ấy. Vâng, đầu tiên cảnh sát mật, theo “gợi ý” của cán bộ đảng, “phát
hiện” được một người nào đó là kẻ thù của chế độ, là cái gai của chính
quyền vì anh ta công khai bảo vệ một quan điểm nào đó hoặc anh ta thảo
luận quan điểm đó với bạn bè của mình. Nếu việc “phát hiện” thành công
thì sẽ sang giai đoạn hai, giai đoạn đưa nạn nhân vào bẫy. Người ta sẽ
sử dụng một kẻ khiêu khích để thu thập những “bằng chứng có tính chất
phá hoại” hoặc doạ dẫm một kẻ nào đó và bắt phải kí những tài liệu vu
khống mà cảnh sát
TRẦN ÐĨNH
528
đưa cho. Đa số các tổ
chức bí mật là do chính cảnh sát lập ra để bẫy những phần tử bất đồng ý
kiến. Người ta không tìm cách ngăn chặn mà ngược lại còn cố tình đẩy
những công dân “không đáng tin” đến tội lỗi để trừng phạt họ.
Vậy
chúng tôi tỏ rõ chống chiến tranh thì đảng phải “để mắt” tới chứ! Chúng
tôi phát biểu ý kiến trong các cuộc họp đảng mở ra để thảo luận. Đảng
chưa đàn áp một vụ án chính trị lớn nào ở trong đảng, chúng tôi vẫn tin
đảng nói lời là giữ lời, chẳng hạn lời này: đảng ta là đạo đức, là văn
minh.
* * *
Nửa tháng sau tôi lại đến. Trung Thành vừa mở
cửa thấy tôi thì vui ra mặt, líu tíu nói: - Vào đi, vào đi. Pha trà uống
cái đã chứ nhỉ.
Cúi gỡ cái đai dây thép bện mấy vòng quàng lấy cổ
chiếc phích Rạng Đông cũ kỹ, Trung Thành nói tiếp. - Tôi vừa gặp anh Đỗ
Mười với anh Đào Duy Tùng chiều qua. Trình bày việc xin minh oan cho
các anh. Cũng là phải nhờ anh Vũ Oanh mách nước mới đến được anh Đỗ
Mười.
- ...?
- Thư từ đến tay anh Đỗ Mười rất khó, anh Vũ
Oanh dặn tôi lúc ấy lúc ấy đến chỗ ấy sau nhà anh Đỗ Mười sẽ thấy một cô
rửa rau vo gạo thì bảo đưa giúp công văn cho thủ trưởng. Cô ấy là cấp
dưỡng của Đỗ Mười, cô ấy thế nào cũng đưa. (Tôi đã nghĩ ngay là với các
chi tiết loại này, cô nấu cơm nom sao, gạo thế nào, cái rá? tiểu thuyết
Việt Nam dễ hay lắm đây! Rồi vui y như mình sắp viết ra thật. Sau nhận
ra cái vui này chỉ là cái vui thứ phẩm phái sinh của câu chuyện Trung
Thành gặp Đỗ Mười.)
Gặp Trung Thành, mở đầu Đỗ Mười hỏi tuổi.
ÐÈN CÙ
529
- Dạ, thưa anh, bảy mươi hai.
- Sắp đi khai hội với giun rồi sao không ở nhà chơi với con cháu mà lại đi viết kiến nghị?
(Tôi
phản cảm với cái giọng khinh khỉnh bề trên. Và với câu “khai hội với
giun” có cách đây đã nửa thế kỷ. Ông ta đúng là dân cố cựu kháng tân.)
- Dạ, anh bảy tám mà có được vui chơi với con cháu đâu ạ - Thành đáp.
(Tôi khen thầm Thành đá lại rất tinh tế).
-
Ừ, nhưng sao lại viết kiến nghị rồi lại gửi vung lên? Anh có biết Liên
hợp quốc nó như thế nào không? Nó là thằng địch phản động, thế mà anh
lại giúp nó vu cáo ta, gây sức ép với ta bằng cái thư của anh. Nó đang
chửi ta vi phạm nhân quyền kia kìa.
Trung Thành nói tháng 12 năm
1993, anh đã có thư trình bày lên Tổng bí thư vấn đề này nhưng mãi không
thấy trả lời. Trong thư này anh nói Ban chuyên án ngày ấy đã phạm sai
lầm dẫn tới Bộ chính trị và Trung ương đưa ra kết luận sai lầm về vụ án
này.
(Nên nhắc lại: trưởng ban chuyên án là Lê Đức Thọ.)
- Trung ương đã có nghị quyết kết luận vụ án này rồi mà.
-
Vâng, nghị quyết mà Trung ương kết luận về vụ án này chính là dựa trên
sai lầm của ban chuyên án và báo cáo của Ban chuyên án gửi Bộ chính trị
lúc bấy giờ là do chính tay tôi thảo. (Nghe câu này, tôi nghĩ ngay: “Có
ai trong lãnh đạo đảng trung thực được như Trung Thành?” Rồi tự nhiên
kéo ghế lại gần anh hơn.) Thưa anh, Nguyễn Trãi mười tám năm rồi được
minh oan, vụ anh chị em này đã hai mươi tám năm rồi ạ.
TRẦN ÐĨNH
530
- A, anh lại ví bọn này với Nguyễn Trãi? - Đỗ Mười cáu.
(Tôi lại bất bình: - Kiểu đâu chỉ có cả vú lấp miệng em. Nghĩ đến vùng miệng hô dẩu ra của Đỗ Mười có thấy rờn rợn.)
-
Không ạ, đây là tôi nói về thời gian hai vụ thôi ạ. Tôi xin minh oan vụ
này là làm theo lương tâm người cộng sản, làm theo trách nhiệm của
người đảng viên trước đảng.
- Anh nói thế ra tôi không có lương
tâm ư? Tôi tù Hỏa Lò với đám thằng Hoàng Minh Chính, Lê Trọng Nghĩa, tôi
lại không nghĩ được như anh sao? Tại sao đã không trả lời anh? Đó là vì
bận. Bận chuẩn bị đại hội.
- Vâng tôi cũng nghĩ như thế nên mới
tìm gặp Ban kiểm tra trung ương nhưng các anh ở đấy lại nói không quản
cái vụ này. Tôi lại nghĩ đảng đang đổi mới, đang có chính sách hòa hợp
dân tộc, nếu giải quyết được cho anh chị em kia thì đảng sẽ được lợi
nhiều. Còn nếu như anh bảo gửi cái thư này đi là sai thì tôi sẵn sàng đi
tù.
Đỗ Mười dịu xuống. Có lẽ nghĩ cũng nhờ anh này mà mình vào được Trung ương đây.
Trung
Thành cuối cùng đề nghị bốn điều. Để khôi phục quyền lợi cho anh chị em
bị án xét lại, đảng nên: Trước mắt trao Ban tổ chức giải quyết quyền
lợi cho anh chị em như người vô tội; trao Ban bảo vệ chính trị nội bộ
xét lại vụ án, lập tiểu ban thẩm tra, những người vướng mắc vào vụ này
được trình bày ý kiến hay đối chất; thông báo là sẽ có kết luận cuối
cùng của đảng.
Tôi ra cửa về thì Lê Hồng Hà đến. Lại nghe Trung Thành líu tíu: - Vào đi, có cái này hay đây.
ÐÈN CÙ
531
Hồng
Hà đã tán phát nội dung cuộc gặp quan trọng này. Đỗ Mười, Lê Đức Anh
liền phản ứng hết sức dữ. Lập tức khai trừ Nguyễn Trung Thành và Lê Hồng
Hà. Mở hội nghị cho Nguyễn Đình Hương lên án lại vụ xét lại. Mở một
triển lãm về vụ án xét lại với cả sơ đồ tên tuổi xét lại cũ mới. Có một
tên bị bôi kín. Hồng Ngọc, vợ Chính, gại gại ra thì là Lê Giản! Tôi cũng
hiện diện. Tôi bèn kiện: “Phải tòa xử mới có tội và ngay dù tòa xử có
tội rồi cũng không được cứ thích lên là đem bêu tên người ta ra! Hiến
pháp bảo vệ công dân ở đâu?” Lê Kim Phùng, cục trưởng A25 đến tận nhà
tôi thanh minh.
Trung Thành, Hồng Hà bị khai trừ quá nhanh. Sau đó
Hồng Hà có thư tố giác trong đó nói các vị lãnh đạo bây gìờ thua Trần
Độ mọi mặt...
Nguyễn Trung Thành bảo tôi anh không tán thành việc
Hồng Hà chưa chi đã công khai tóe ra chuyện anh gặp Đỗ Mười, ông ấy chỉ
cần hỏi: anh đề nghị, tôi nhận nhưng nói bận đại hội hãy chờ mà chưa chi
anh đã nêu tôi ra, định chẹn họng bắt bí tôi hả? là lòi ngay chỗ mình
không tuân thủ tục pháp lý. Nhưng anh Thành lịch sự không công khai đổ
hết cho Hồng Hà. Xưa học Trường đảng Bắc Kinh, Hồng Hà được giữ ở lại
phụ đạo cho anh em học sau, trong đó có Nguyễn Trung Thành.
Chỉ có sau đó anh Thành từ chối Hồng Hà đến chúc Tết. “Tôi bảo anh ấy là thôi, đừng đến tôi.”
* * *
Ba
mươi Tết Canh Thìn (2000), Trung Thành điện thoại: - Tôi vừa đọc lại
mấy cái thư khiếu kiện trước kia của anh, tôi mời anh đến chơi.
Mồng hai mồng ba gì đó, tôi rủ Hoàng Thế Dũng đi.
TRẦN ÐĨNH
532
Vẫn
căn hộ chung cư sơ sài, thanh bạch - đúng hơn là nghèo. “Mọi năm quà
mừng, thiếp chúc đầy cả, nay tạnh không...” - Thành nói.” Có lúc cũng
buồn nhưng nghĩ mình làm theo lương tâm, lương tâm yên thì mình vui. Họp
lão thành cách mạng cũng lờ. Lâm cảnh này mới thấu hết.” - Thành nhẹ
nhàng nói.
Tết Tân Tỵ năm sau tôi lại rủ Hòang Thế Dũng đến Trung
Thành. Vòng cổ dề giữ phích nước nóng vào chân bàn từ sợi dây thép bện
đổi sang một vòng đai nhôm lấp loá nay đa la một cu roa cao su đen bóng.
Sự đổi mới lộ liễu này khiến tôi se lòng. Nhưng nếu nhà Trung Thành đầy
các của quý thì sẽ không có chuyện chúng tôi gặp nhau trong không khí
nạn nhân.
Bư a na y Tha nh cho to i xem mo t tư lie u ra t ly thu .
Kỷ niệm 50 năm thành lập, Ban tổ chức trung ương yêu cầu các vị ở ban
từ thuở ban đầu viết lại những đóng góp của mình. Thành viết mười lăm
trang. Tường thuật toát yếu bốn chục vụ nghi án chính trị anh từng giải
quyết trắng án! Anh đã đưa tôi và tôi đọc tại chỗ, rất to cho Dũng điếc
có thể cùng nghe được.
Ở đây tôi kể ra vài ba vụ tiêu biểu.
Trước
hết nghi án Nguyễn Tài Đông tức Tài Cá, thứ trưởng công an nằm vùng
trong Nam bị bắt rồi” khai báo.” Trung Thành nghiên cứu đã kết luận vô
tội. Nghe anh tường trình, thường trực Ban bí thư Nguyễn Duy Trinh nói: -
Tôi thấy anh nói hợp tình hợp lý, lô gích nhưng anh đừng báo cáo với
anh Sáu Thọ như thế mà phiền ra. Anh Thọ nghĩ khác
Vậy là Sáu Thọ
muốn khép tội Tài Cá, người đang có dư luận là phen này sẽ thay Trần
Quốc Hoàn. Và rồi Tài Cá bật khỏi công an về phụ trách Hải quan thật. Để
Mai Chí Thọ sẽ
ÐÈN CÙ
533
thay Hoàn, cắm cờ đại tướng
đầu tiên cho công an Việt Nam. Biết từ nay trong đảng vật lộn nhau gay
go, Thọ cần em đến trấn cái cửa này.
Đến vụ Trần Quốc Hương. Cũng
tai tiếng khai báo. Trung Thành lại kết luận vô tội và lần này thì không
phải là vướng Lê Đức Thọ mà vấp chính tổng bí thư. Nhận định không hay
về Quốc Hương, Lê Duẩn gọi Nguyễn Trung Thành đến. Vặn: - Tội rõ như thế
mà sao anh kết luận là không tội? Anh ngồi xuống rồi lấy giấy ra ghi
đi, ghi rằng tôi mắng anh, ghi chưa, à, anh mang về báo cáo lại đúng như
thế với anh Sáu Thọ.
Vậy là Lê Duẩn muốn khép tội Trần Quốc
Hương. Và vụ này ghê đến độ Duẩn muốn Thọ qua bung xung Trung Thành biết
là mình mắng Thọ. Qua ca Trần Quốc Hương đặc biệt thấy lợi ích nhân sự
bắt đầu chọi nhau khá mạnh giữa cặp đôi tổng bí thư và Sáu Thọ.
Té
ra đến bước lung tung xòe thì Duẩn, Thọ ở trên hai con bè! Chẳng khác
gì “thắm thiết tình Việt - Trung - Xô” rồi choang nhau vỡ đầu.
Và
Lê Duẩn thiệt. Ông chết thì Trần Quốc Hương lại vào Ban bí thư phụ trách
nội chính. Bên công an thì Mai Chí Thọ. Thọ cần làm tê liệt các thân
tín của Duẩn.
Đọc đến đây tôi chợt nhớ lời Lê Đức Thọ bảo tôi hồi
1965, 66: Thằng nào bị địch bắt mà nói không khai là thằng nói phét.
Mình đồng da sắt chó gì mà nó quạng cho vọt cả cứt lẫn đái ra lại bảo
rằng không khai? Thằng nào cũng khai. Chỉ là khai tệ hại hay không thôi.
Nhưng ai phán xét là khai tệ hại hay không? Lê Đức Thọ. Gần như Thọ độc
quyền chuyện này
Và tất yếu có những ý trái lại Thọ nhưng khi mâu
thuẫn nội bộ chưa gay gắt thì người ta đoàn kết với nhau trên đau khổ
của nạn nhân.
TRẦN ÐĨNH
534
Lúc ấy tôi chưa vỡ lẽ khi
một người được độc quyền đánh giá đảng viên khai báo với địch có tệ hại
hay không thì người ấy cũng dễ dàng bịa đặt tội! Đào Phan trong thư gửi
Ban tổ chức năm 1992 đã tố cáo Sáu Thọ bịa cho anh tội báo tin anh em tù
ở Sơn La cho công sứ Pháp, chuyện Đào Duy Kỳ lên tận Sơn La gặp Đào
Phan - trong khi Kỳ đang tù Côn Đảo! Đào Phan nhũn não sắp chết mới nhận
được một chứng nhận của Ban tổ chức trung ương nói sai lầm ghi trong lý
lịch anh là “không có cơ sở.” Phải chăng vì bè phái, vì ghét trí thức
(không bằng cục cứt cơ mà) nên đã trẩm đi các đảng viên trí thức để cho
họ không vào được lãnh đạo cao nhất của Ðảng?. Như Đào Năng An, Đào Duy
Kỳ, Đào Văn Trường v. v. Đào tận gốc, trốc tận rễ trí, phú, địa, hào mà.
Trí đầu tiên.
Và oái oăm thay, tôi, kẻ mà Lê Công Tuấn hỏi cung
nhận xét là tội nặng hơn nhiều đứa “xét lại” bị tù thì thoát xà lim nhờ
vị chánh án gian hùng này đặt mắt xanh vào! Không những không bắt, ông
còn liên tục cho đò chờ đón tôi qua sông theo ông.
Thú vị là sau
khi Lê Duẩn và Sáu Thọ đã chết cả thì Nguyễn Tài Đông nhận danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang còn Trần Quốc Hương thì Huân chương Sao Vàng.
Đảng có một bộ phận hậu sự chuyên đi lau chùi đánh bóng tên tuổi các
người đã bị đảng hãm hại. Đấy, các vị lên tên phố đầy! Tóm lại đảng lãi
to: ra ngõ là đụng toàn hàng xịn, hàng hiệu vẻ vang của đảng mặc dù đều
đã va nhau đến hồn lìa thể phách cả. Lệ của đảng là khi chết rồi thì hòa
cả làng tất. Xóa tội xóa nợ cho nhau lúc này chỉ có lợi cho thanh thế
Ðảng.
Vụ thứ ba là vụ Chu Văn Tấn, Hoàng Chính “tay chân Bắc
Kinh.” Xảy ra vụ này vì lúc này Ðảng lại đang cần báo cáo Liên Xô: Dạ,
tôi phang Bắc Kinh cho đồng chí đây, đồng chí đầu tàu ơi!
ÐÈN CÙ
535
Nhưng
rồi Ðổi mới, trong văn bản hợp tác với thế giới tư bản có điều khoản
phải thả tù chính trị và Ðảng thì cũng chả còn cần các thế chấp dâng hai
ông anh! Hôm Trung Thành xuống Phố Nối đón Hoàng Minh Chính về thì
Dương Thông đón Hoàng Chính ra tù.
- Khổ hai anh Chính họ Hoàng, một anh lấy cả tên Bác làm đệm mà đều khốn nạn - tôi đùa.
Trung
Thành nói: - Anh Hoàng Chính vốn là ra Quảng Ninh chơi với cơ sở cũ, Bộ
công an liền nhờ lùa giúp về cho một đàn bò để họ liên hoan. Có công
mua hộ công an bò thì bị công an bắt vì tội mò ra cơ sở cũ “xúi giục cán
bộ bỏ trốn sang với Hoàng Văn Hoan.” vu ra cho người ta. Còn Chu Văn
Tấn thì chết. Chu Văn Thành con trai ông vẫn giữ những tấm ảnh chụp cỗ
quan tài hở toang hoác, trông thấy xác của Hùm xám Bắc Sơn nằm cứng queo
bên trong.
Tôi nói: - Biết trước Chu Văn Tấn sẽ khốn nạn như thế
nên Văn Cao báo trước trong bài hát Bắc Sơn “Ôi còn đâu đây sắc chàm
phai màu gió?” (Đúng ra là pha.)
Ngư ng mo t la t Tha nh la i no
i: - Ro i đe n o ng Le Đư c Anh. Anh Nguye n Đư c Ta m va to i mang ca
mo t cho ng ho sơ ly li ch ca c nơi pha t gia c khai man đe n ba o ca o
vơ i anh Sa u Tho nhưng anh Tho ba o no kho ng sao ca , tớ nghe trình
bày rõ rồi.
- Ông Thọ đang cần hai gia nhân bảo vệ đằng lưng cho
ông ấy mồ yên mả đẹp còn Giáp kiện Nguyễn Chí Vịnh bịa tội cho mình thì
Thọ mặc!
Tôi muốn được biết ai bảo Vịnh làm cái trò này nhưng
Trung Thành chỉ lầm rầm như nói cho mình: - Ông Thọ đang cần hai gia
nhân bảo vệ đằng lưng,còn Giáp kiện Vịnh thì ông ấy chả coi ra mùi!...
Với lại xóa án cho ông Giáp để mà bới tanh bành tất cả lên à?
TRẦN ÐĨNH
536
Trung
Thành rất thận trọng, nên dĩ nhiên tôi không hỏi tanh bành là sao. Tuy
đến nay mấy ai còn lạ ba đối tượng thất thế chủ yếu của Nghị quyết 9 là
Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp! Riêng tôi thất tình với
Trường Chinh và ớn Cụ Hồ chính vì các vị đã đầu hàng. Tép riu như tôi mà
dám bướng. Khai thác hết trữ lượng bí mật ẩn ức của cái mỏ “đại tam
thất” - ba mất lớn - này thì không biết sẽ vỡ ra đến đâu. Bởi lẽ đảng
không thể “sửa sai” vụ xét lại. Sửa thì để lòi ra ở trong lòng đảng một
sới vật man rợ và đảng mắt lé, mỗi con ngươi nhìn một ngả, không ai giữ
gìn cho thống nhất. Như lòi ra vụ chúng tôi - dĩ nhiên gồm cả Hồ Chủ
tịch và đại tướng Tổng tư lệnh -- là Bắc Kinh “cần” gạt.
Tha nh
hay tha c ma c ta i sao nhie u ngươ i đươ c minh oan la i vẫn khăng
khăng ôm lấy “tội.” - Anh biết vụ Nguyễn Thành Long, một vụ trưởng công
nghiệp không? - anh hỏi tôi.
- Anh ấy gửi một thư lên Trung ương
nhận xét mười một điều. Đúng cả duy điều 11 thì đúng mà kinh! Viết thế
này: “mấy chục triệu nhân dân ta nuôi báo hại mười mấy ủy viên Bộ chính
trị chẳng làm được ích lợi gì cho dân cho nước.” Bắt. Tra hỏi, dồn cung,
anh ta nhận mình chống Ðảng và người bảo viết thư là Nguyễn Chấn, ủy
viên trung ương, bộ trưởng điện than (trên rừng ở Văn phòng trung ương,
chúng tôi gọi là Chấn Trố, lổ đổ bạch biến ở vai ở ngực.) Đưa Chấn đến
đối chất, Chấn im. Giam Long bốn năm rồi thấy anh ta chẳng có tổ chức gì
thì tha. Đươ c tha ma va n cư la m ba m to i co to i. Sau hỏi Chấn sao
im thì nói: tôi có cãi cũng chả ai tin mà.
Tôi nói cây lý luận cự
phách của Đảng cộng sản Liên Xô Zinoviev chờ đảng giết mà trước sau chỉ
nói: Tôi thà bò lê trong đống bùn nhơ chứ không thể đứng ở ngòai đảng
rồi nói là mình đúng!
ÐÈN CÙ
537
Trung Thành kể sau
khi Bác Hồ chết, Sáu Thọ đã gặp Hoàng Minh Chính thuyết một hồi. Thấy
Chính rơm rớm nước mắt, Trung Thành đã mừng nhưng ch va i nga y sau Ch
nh la i đa u ho an đa y. Các anh quyết không nhận tội thì tôi mới dám
đứng ra xin xử lại chứ!
- Biết chuyện tôi đòi minh oan cho các
anh, anh Hoàng Minh Chính điện thọai cho tôi nói rõ hoan nghênh việc tôi
làm nhưng nhấn rằng không cảm ơn.
Tôi thấy giọng Trung Thành có
đôi chút xuýt xoa, đau đau nên sau đó gặp Chính tôi đã nói “Người ta vì
lẽ phải, dù muộn vẫn cứ hơn - mà hỏi ai từ đầu đã thấy lẽ phải? - rồi
đấu tranh cho lẽ phải đến mất cả sinh mạng chính trị mà mình vẫn không
cảm ơn thì không hay. Tôi thật tình thương Trung Thành. Anh ấy như vừa
lột khỏi kén, phơi mình ra với đời cát bụi, ta nên vun đắp cho những
ngày cuối cùng tử tế của anh ấy được tử tế...”
Hôm ấy tôi hỏi Trung Thành: - Bên ông Giáp có nói năng gì với anh không?
Tôi thấy hình như Trung Thành khẽ lắc đầu nhưng không dám chắc.
Tôi
nửa đùa nửa thật nói: - Tôi sợ có khi ông Giáp cũng nghĩ tòa án là trò
dân chủ tư sản bịp chả hay ho gì, chỉ kỷ luật của đảng vô sản mới đích
thực dân chủ. Chẳng qua là tôi chán thái độ nín nhịn quá gương mẫu - về
tính đảng - của Giáp! Đánh đông đánh tây bằng máu dân để “giải phóng con
người” nhưng để giải phóng chính mình khỏi kìm kẹp thì không. Sao kỳ
quặc thế?
Mấy lần tôi đã toan nhắc đến chuyện “Bác Hồ.” Sau Nghị
quyết 9 mà Bác không biểu quyết, Bác thôi họp Bộ chính trị là vì sao?
Anh đọc hồi ký Vũ Kỳ đăng số Tết báo Văn nghệ rồi
TRẦN ÐĨNH
538
chứ?
Nói rõ máy bay chở Bác về dự hội nghị Bộ chính trị thông qua kế hoạch
đánh Tết Mậu Thân suýt thì đâm xuống đất. Sau vụ đặt sai đèn hiệu này,
Vụ bảo vệ các anh không động đậy gì ư? Sao vậy? (Đến đây tôi suýt buột
miệng nói tiếp: “Anh có thấy rõ là dương mưu, mưu công khai không? Ghê
rợn! Ghê rợn cho những bộ mặt vẫn phẳng lặng của các cốp nhưng tôi kìm
lại được.) … Cũng hồi ký Vũ Kỳ nói dự hội nghị Bộ chính trị trên kia,
Bác chỉ ngồi ở một góc “và rồi trong suốt cuộc Tổng tiến công, Tổng nổi
dậy Bác và Vũ Kỳ ở Bắc Kinh tự lọ mọ mở đài tìm tin tức chứ chả ai báo
với Bác “thắng lợi có ắt về ta “hay không? Tôi còn muốn hỏi Nguyễn Trung
Thành nhiều nhiều. Chả hạn tháng 7 năm 1966 Bác kêu gọi cả nước đánh Mỹ
giọng còn khỏe lắm mà sao sang 1967 Bác đã phải đi chữa bệnh ở Bắc
Kinh? Cái gì làm sức khỏe Bác sút nhanh thế? Xin chú ý là năm 1967, Bác
về nước hai lần gần nhau, lần thứ hai về đầu tháng 7 là cái tháng bắt
xét lại đợt thứ nhất và tháng 9 là buộc Võ Nguyên Giáp đi chữa bệnh ở
Đông Âu. Phải chăng về là muốn ngăn bắt bớ cũng như lưu đày Giáp nhưng
lại được lệnh phải rời nước sớm?… Tôi đã không hỏi. Chắc là Trung Thành
sẽ im. Vả lại lúc ấy các điều tôi biết vẫn chưa thành hệ thống.
Cái
bè nạn nhân “xét lạ” cuối cùng đã không nguyên vẹn: Hồ Chủ tịch và Đại
tướng Võ Nguyên Giáp vẫn bảo vệ uy tín, thanh danh của Ðảng. Nhưng tôi
đinh ninh cái bè nạn nhân thuộc các đối tượng thanh trừng của Ðảng kể từ
“trí, phú, địa, hào” đến cải cách ruộng đất, cải tạo công thương nghiệp
tư bản, Nhân văn Giai phẩm và “xét lại lật đổ chống đảng.” .. chúng tôi
trước sau không hề bao giờ rã ngũ. Trái lại họ đã kết thành một bức
trường thành vô cùng kiên cố.
ÐÈN CÙ
539
Tôi đã có
những lúc đạp xe giữa Hà Nội phơi phới trình làng bộ mặt nạn nhân với
mong muốn kêu gọi, tập hợp. Chính bộ mặt ấy đã hút Kim Lân đuổi theo tôi
để chỉ nói: “Ừ, trông vẫn tư cách lắm. Này, sông có khúc, người có lúc,
nhớ thế nhá...” Anh biết tôi là người ngay bị kẻ gian móc túi rồi lại
hô bắt cho tôi thằng ăn cắp. Mà số người bị móc túi và bị hô bắt thì nay
hằng hà.
Và không ít lần tôi dạo phố với một bộ mặt không quen
biết nhưng thường hay nổi gió phần phật ở trong đầu tôi, bộ mặt của
Klocki Tarassov, bạn tù của nhà văn Nga Bukovski, người tiên phong mở ra
phong trào tin chui, báo lủi samizdat, ca i phong tra o minh ba ch, co
ng khai ma nh như đi a cha n ơ Nga rồi mở đường cho gió bão làm sập chế
độ xô viết. Trong 12 năm tù, Bukovski gặp Klocki Tarassov hay đúng hơn,
người giương lên ở trên mặt một bản tuyên án Đảng cộng sản Liên Xô. Trán
Klocki xăm: Lê-nin ăn thịt người! Má phải: Nô lệ của ĐCSLX! Má trái:
BCHTƯ chết đi! Toàn chữ xanh lè quanh một cái miệng đã rụng hết răng.
Năm 1944 Klocki Tarassov ăn cắp bị tù. Rồi tù mãi, tù mãi mấy chục năm
để hóa thành tù chống cộng. Người ta nhất định phải lột đi cái kim ấn mà
Tarassov đóng trả míếng lại vào mặt nhà cầm quyền xô viết. Không thuốc
tê, thuốc mê. Lột sống, bóc tươi. Nhưng mặt vừa lên da non. Tarassov lại
xăm, không để hoang phí chủ quyền lãnh thổ là thân xác và phẩm giá của
ông. Bên lột, bên xăm… cuối cùng họ đã bắn chết cái biểu ngữ ngạo nghễ,
kiên cường, độc đáo duy nhất trên thế giới này. Năm 1976, Liên Xô đánh
đổi Bukovski ngang giá lấy tổng bí thư Đảng cộng sản Chi - lê Luis
Corvalan cũng tù. Bukovski đã viết đến Klocki trong quyển Và gió lại
tiếp tục các chuyến đi.
TRẦN ÐĨNH
540
Từ
ngày Nguyễn Trung Thành làm đơn minh oan cho vụ xét lại, tôi đến gặp anh
chừng mười lần. Khoảng năm lần trong đó anh nói đến chuyện anh có thể
lại được phục hồi đảng tịch. Anh đã làm đơn. Đáng nói hơn là nhiều vị
quan trọng trong đảng, từ Lê Khả Phiêu, Phan Diễn…, đã tiếp anh và hứa
giúp anh. Trung Thành xem ra cũng hy vọng.
Nhưng rồi hơn năm sau,
Nguyễn Trung Thành phôn báo tôi người ta vừa gửi cho anh quyết định nhắc
lại án khai trừ anh ra đảng là đúng. “Hai năm qua, các anh từ Lê Khả
Phiêu, Phan Diễn luôn hứa giúp tôi thế là cũng đành chịu ư? Ngày tổng bí
thư Phiêu gặp tôi hứa hẹn giúp là có Trần Đình Hoan, chánh văn phòng
trung ương ngồi bên, ông ấy ân cần, niềm nở với tôi lắm nhưng lên trưởng
ban tổ chức rồi thì lại lạnh như tiền ngay với tôi, đời này khó lường
nổi thật.”
Tôi định nói anh ơi, ai lạ gì lời hứa của ta? Cũng ai
lạ gì sức mạnh hậu cung giấu mặt. À đây, thử hỏi ai bứng Phiêu ra khỏi
ghế tổng bí thư sớm thế? Ai không để Diễn lên tổng bí thư như đã đồn
nhiều một dạo? Ai cho Nguyễn Văn Linh làm có một nhiệm kỳ và Giáp thì cứ
đội oan mãi nhưng tôi lại im lặng. Chả lẽ chia buồn trong điện thoại
với anh? Trong khi đúng ra nên bảo anh hãy mừng đi. Ở ngoài đảng anh mới
được thật là anh.
Một hôm còn ở Hà Nội, tôi đến Trung Thành, dạo
ấy các cốp trong đảng đang nuôi cho anh hy vọng trở lại đảng mà theo anh
thì chẳng qua cũng chỉ cốt mượn việc đó để nói lên rằng khi đòi minh
oan cho chúng tôi, anh đúng chứ không chống Ðảng. Trung Thành buồn rầu: -
Xưa tôi bị ghét vì từng kỷ luật cán bộ, đảng viên, nay thì bị ghét vì
chống Ðảng. Vừa qua giỗ ông Sáu Thọ, người đến đông lắm, bà Chiếu nói
cái anh Trung Thành không ngờ lại phản anh Thọ. Kỷ niệm cách mạng tháng
tám ở Đông Anh, tất cả mọi người đều lên chửi
ÐÈN CÙ
541
Trần Độ và Nguyễn Trung Thành chống Ðảng. Nói gì chứ cũng rầu lòng lắm…
-
Những người chửi Trần Độ và anh đều là đóng thuế mồm thôi. Ăn của đảng
vào thì phải nhè các anh ra, chân lý quái gì ở đây mà buồn anh. Anh có
biết ông coi xe đạp ở dưới sân chung cư anh ở không? Cán bộ Ban tổ chức
của các anh về hưu đó, ông ấy có người con trai bại liệt, chắc anh biết!
Ông ấy bảo mới hôm nào người ta nườm nượp đến ông Thành. Có những ông
xuống đến tận cửa ra về vẫn còn cứ cười hớn hở lắm. Đều trúng rồi mà.
Đều nhờ Nguyễn Trung Thành mà lọt vào hàng ngũ lãnh đạo rồi mà… Đùng một
cái ông Thành hóa hủi. Thế là bặt ngay. ÔngThành khổ nỗi lại trong
sạch. Giá lúc có quyền cất nhắc đề bạt cũng thạo vòi giỏi xoay thì phải
biết… Tôi buồn cho con người quá. Mà cái diện người này toàn là trung
ương, bộ trưởng cả. Anh Thành à, tôi đã bảo ông giữ xe luận chuyện nhân
sự cao cấp Ðảng, rằng có hai điều. Một là cái chế độ này nó chỉ biết
phục tùng người có quyền. Hai là những người mà bác phàn nàn là vô ơn
kia thì họ vốn dĩ phải có bản lĩnh ôm chân và lật mặt thì mới lên cao
được bác ơi.
Trung Thành ngồi nghe cứ chớp mắt, không giấu được cảm động.
Từ
hôm ấy tôi thôi liên lạc với Nguyễn Trung Thành. Hình như thương Trung
Thành không được toại nguyện. Vẫn giữ số điện thoại của anh -- 08043746.
Con số ít thấy. Chung cư số 8 của Ban tổ chức trung ương sau dẫy chuồng
cọp Bách thú cũ chắc có mạng điện thoại riêng.
Với tôi chuyện
quan hệ với Nguyễn Trung Thành có hai đầu đuôi ngược nhau khá lạ: mở đầu
là giữa năm 1968, tôi đến đó một buổi trưa gặp Nguyễn Trung Thành, Trần
Trung Tá và Lê Công Tuấn để nghe thông báo tôi phải đi “kiểm
TRẦN ÐĨNH
542
điểm”
ngay lập tức ở xa Hà Nội, chuyến đi từ đấy liệt tôi vào danh sách
“chống đảng, lật đổ.” và kết là hăm bảy năm sau, Trung Thành, người
thiết kế nên vụ án theo nhu cầu các cụ - lại gặp “tội phạm” tôi để cùng
nhau phán về sự tầm bậy của cái vụ án này.
Chương bốn hai
au
Nguyễn Trung Thành tôi cần nói đến Lê Kim Phùng, Cục trưởng A25, cai
quản an ninh văn hóa chính trị, tuy tôi gặp Phùng trước vụ Nguyễn Trung
Thành minh oan năm năm. Để thấy từ 1990, phía công quyền đang có những
tính toán mới về vụ án “xét lạ” chúng tôi.
* * *
Khoảng cuối
tháng 5 - 1990, thình lình một hôm, trưởng công an phường cùng hộ tịch
viên dẫn hai người thường phục nhận là ở “phòng phong trào” đến nhà tôi.
Tôi và Linh tiếp. Tôi nói ngay: - Nay đổi mới, trực tiếp gặp thế này
hay hơn bí mật theo dõi... đáng sợ. Một dạo các anh gài người ngay trong
nhà anh Hồ Sĩ Đản ở trước nhà tôi, một công an khu vực mách tôi mà.
(Chính là Thắng, công an khu vực cuối những năm 80 nhưng tôi không kể
tên.) Các anh đến, tôi nói ngay trước tiên một ý bao trùm, đỡ phải rào
đón: không đổi mới thì Ðảng chết trước. Rồi dân theo sau.
(Phải cho dân cùng chung hoạn nạn với Ðảng là vì lịch sự và tự vệ. Để mình đảng chịu thì sẽ rầy rà.)
- Nhưng Đông Âu đổi mới mà chết đấy, - một anh thường phục nói.
S
TRẦN ÐĨNH
544
-
Các anh có biết kỷ niệm Cách mạng tháng Mười vừa rồi, Liên Xô mời
Nguyễn Văn Linh thay mặt phong trào cộng sản quốc tế đọc diễn văn chào
mừng là vì sao không? Vì khác Việt Nam, các nước Đông Âu không đổi mới.
Thép Mới viết Cuba nói “đổi mới hay là chết” lie n bi Cuba cư .
- Đổi mới mà Gorbatchev lại làm tổng thống?
-
Đã đổi mới thì phải có thay chứ! Ta cũng đổi mãi tên rồi đấy. Cộng sản
Việt Nam rồi Cộng sản Đông Dương. Cuối 1945, đảng giải tán, ẩn dưới cái
tên Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác, tôi làm ở cái báo của Hội này đấy, đến
năm l951 ra mắt lại thì thành Đảng lao động, mất cả cộng sản lẫn Đông
Dương!
- Anh nghĩ gì về đa nguyên?
Nghĩ không nên mới gặp đã
lộ sườn, tôi nói: - Chưa nghĩ kỹ, nhưng dứt khoát là phải dân chủ, phải
làm đúng những điều về dân quyền đã ghi trong Hiến pháp.
Khách ra
đến cổng Linh làm bằng các gióng tre Linh trồng, cái cổng rất hay mà cứ
nhìn nó là tôi hay nghĩ đến “cổng sài” kẽo kẹt hình như ở trong thơ
Nguyễn Trãi, một anh hỏi như bâng quơ: - Từ nay với các anh nên thế nào?
- Sai thì sửa, như cải cách ruộng đất đã làm ấy.
Đổi mới chíến
thuật. “Túm thắt lưng” tiếp cận, mềm mỏng hơn, cởi mở hơn. “Không thú gì
đổi mới nhưng sinh mạng của đảng lại cứ bắt đổi mới,” - tôi bảo Linh.
* * *
Khoảng
nửa tháng sau, Vũ Đình Huỳnh mất. Đi quanh quan tài chào anh lần cuối,
tôi ân hận. Khanh, con gái anh ôm lấy tôi khóc: “Anh bỏ bố em rồi ư?”
Tôi ràn nước mắt lắc. Gần đây, tôi thưa đến anh. Lúc hay tới anh, tôi
thường được dự một cuộc “mách tội” vui của chị. Này, ai lại nước vừa sôi
cho
ÐÈN CÙ
545
vào phích thì lại đem đổ ra đun ngay
lại. Khăn mùi soa dùng dở đem là. Trời ơi, lại còn hay dỗi nữa chứ. Ngày
xưa bao nhiêu luật sư, bác sĩ làm thơ xin tôi ngoái nhìn lấy cho chút
xíu thế mà tôi cứ đi lấy cái ông này để cả đời toàn đi thăm tù, tù tây
rồi lại tù ta… Những lúc ấy, Huỳnh lim dim mắt cười, chóp chép miệng móm
như nhấm nháp lần nữa những cái quái của mình mà vợ đang hâm cho xài
lại.
Thế nào rồi tôi bẵng đi. “Hư lắm, lâu không đến nhá...,” chị
Huỳnh hễ gặp lại đe tôi. Ít lâu sau một sáng tôi đến. Chị Huỳnh cho xem
ngay một bức thư vừa nhận. Của Lê Đức Thọ. Mới ở Pháp chữa bệnh về nhưng
dư luận đồn cũng là sang xem chuyện tiền nong gửi gắm ở ngân hàng
ngoại.
Bức thư đặc biệt lạ. Làm cơ sở pháp lý cho việc lật án của Huỳnh được.
SaoThọ
viết như thế? Tôi đã phải nghĩ ngợi một lúc. Cái chết đã hiện ra gần?
Hay tình thế mà tôi nói là cái sự đời, cái mạng của Ðảng nó đòi như thế?
Trước đó một năm, trong một cuộc họp cựu tù Sơn La, Sáu Thọ đã trân
trọng kéo Huỳnh lên ngồi cạnh, nói với tất cả hội trường: - Cuối 1944,
không có một vạn đồng anh Huỳnh chạy cho Ðảng thì Ðảng không thể tiếp
tục hoạt động để làm Cách mạng Tháng Tám.
Gia như Tho cu ng no i
Huy nh co n tư ng đa p chie c Diamant Pháp về tận quê Sáu Thọ gọi Thọ đi
hoạt động. Lu c ba y giơ tu ve , vơ tre , Sa u Tho la n co hơi bi la u,
Sao Đo pha i ba o Huy nh đi tro c.
Co n khi vie t thư chia buo n
vơ i chi Hu ynh, Sáu Thọ không biết hai năm trước, túng quá, chị Huỳnh
đã phải mở một quán nước ven nhà. Nga i no la nơi xe t la i pha n đo ng
lie n he , co ng an de p. Kiểu như đã cấm vợ Trần Dần. The la gia ng co,
xo đa y giư a mo t ba gia quye t giư ta i sa n va ma y co ng an quye t
ti ch
TRẦN ÐĨNH
546
thu a m che n, chai lo , điie u đo
m. Đang ngồi vót tăm, Huỳnh vội chạy ra, vẫn cầm con dao bài, tức là
cái lưỡi nó to bằng quân bài tam cúc. Co ng an be n ho hoa n Huy nh “ha
nh hung ngươ i la m co ng vu ” ro i va n luo n ca nh kh hai tay cu a cư u
thư ky Ba c Hồ, đùn như đùn chiếc xe cút kít về đồn cách vài ba chục
bước với hung khí dao bài, tang vật chống đối, tất nhiên. (Chính Huỳnh
thị phạm lại tư thế cút kít này với tôi.)
Ôi, nếu như Huỳnh không
chạy cho Ðảng một vạn đồng thì khó lòng có nổi Tổng khởi nghĩa. Th chi
Huy nh cu ng se không phải bán thuốc lá “bó củi” và trà chén năm xu. Th
co ng an sẽ không khoá tay cụ già đã chạy tiền cho Ðảng làm Tổng khởi
nghĩa. Va nư a, nếu Huỳnh không về quê tróc Thọ đi mà cứ để cho lặn nữa
lặn hoài thì Thọ sẽ không bắt nổi Huỳnh.
Không thể không nghĩ: đời đểu quá thật! Và cay đắng hơn: ai bảo Huỳnh dại?
Tôi
bảo chị Huỳnh cho sao nhiều bản, gửi Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban tổ chức
một, đề nghị Tâm căn cứ tinh thần thư Sáu Thọ mà giải quyết.
Sáu
Thọ có lẽ cũng thấy chuyện đàn áp vợ chồng Huỳnh nó” đau đớn lòng” nên
đã mời chị Huỳnh ăn cơm. Chị từ chối. Thọ bèn mời gặp. Gặp nói sẽ phục
hồi cho anh Huỳnh, từ chức “thư ký của Bác” đến các quyền lợi… Chị Huỳnh
nói cảm ơn anh nhưng tôi không nhận cho một mình anh Huỳnh được. Tôi
chỉ nhận khi nào anh chị em đã bị đàn áp đều được minh oan.
Tôi
đến thăm chị Huỳnh và đọc cái thư trên kia được vài ngày thì hai người
của A 25 lại đến. Mời tôi sáng mai gặp một người phụ trách.
ÐÈN CÙ
547
- Lê Kim Phùng? - tôi hỏi, khẳng định ngay là không thể ai khác. Cử những hai sĩ quan trung cấp đến nhà tôi thăm thú cơ mà!
Một
biệt thự ở Liên Trì cách hồ Thuyền Quang chừng trăm mét. Bộ xa lông
trước ban thờ vẫn còn mấy vòng hoa phúng và ảnh người chết. Tức là không
phải tôi đến cơ quan an ninh. (Cuối những năm 90, biệt thự 45 Liên Trì
này đã bị cơi nới vá ghép tùm lum thành hiệu rửa xe. Tốc độ đổi mới
nhanh quá)
Dị (hay Diệp hay Dụ? tôi không nghe rõ nhưng không
thiết hỏi rõ lại, cứ gọi tạm là Dị) tiếp. Cùng hai anh “phòng phong
trào” đến nhà ngày nọ và Nguyễn Chí Hùng. Chí Hùng hay đến tôi, sau là
trưởng phòng chính trị Sở công an Hà Nội.
Dị xin lỗi: - Bất ngờ có việc trên Trung ương, anh Phùng xin hẹn bữa khác, hôm nay anh cứ trò chuyện với chúng tôi.
Chủ động vào đầu, tôi nói ngay vụ “xét lại.”
-
Trong phong trào cộng sản ai đặt ra trò xét lại? Mao! Và ai theo Mao,
các anh đều rõ. Ở ta, anh Lê Duẩn viết “Mấy vấn đề quốc tế và Ðảng ta
“xuất bản năm 1963, trước Hội nghị trung ương lần thứ 9 suy tôn Mao lên
thành Lê-nin ở thời đại ba dòng thác cách mạng. Các anh đọc thì thấy rõ
sự trở cờ đổi ngôi này. Kéo theo thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên ca ngợi Mao
kinh khủng mà nay học sinh vẫn thuộc kia. Có đặt ra trò xét lại, Mao mới
nêu được khẩu lệnh “thế giới đại loạn Trung Quốc được nhờ” “căng đế
quốc Mỹ ra khắp thế giới mà đánh” và những ai phản đối chiến tranh như
chúng tôi, kể cả các ủy viên trung ương và Bộ chính trị, mới bị trị cho
cái tội “xét lại” chứ! Đúng quá! Mao không nêu khẩu lệnh, nhất là không
chi viện thì ta đào đâu ra súng đạn, tiền nong để đánh Mỹ? Trớ trêu là
nay Trung Quốc hoá thù, Mao hoá địch và Đặng Tỉểu Bình, “Khơ - rút - sốp
thứ hai của Trung Quốc” lên hạ Mao
TRẦN ÐĨNH
548
xuống
nhưng chúng tôi vẫn cứ đeo án chống Mao. Kho ng the cho i đươ c vie c
chu ng to i tha y to i Mao trươ c ca Sa ch Tra ng cu a Nha nươ c ta.
Đảng nên sòng phẳng chỗ này. Song nay th trươ ng ban chuye n a n xe t la
i cu ng no i kha c ro i. Hôm qua đến chị Huỳnh, tôi được xem bức thư
ông Lê Đức Thọ viết làm cơ sở lật án được cho Vũ Đình Huỳnh. Các anh
chắc đã đọc? (Tất cả lắc.) À, thế thì tôi thuộc, tôi đọc các anh nghe
ngay đây... “Kính gửi chị Vũ Đình Huỳnh, Tôi đi Pháp chữa bệnh về thì
được tin anh Huỳnh mất nên không thể đến viếng thăm được. Tôi bị ung thư
đã di căn, sức khoẻ yếu, nay tiếp tục chữa bệnh, không thể tới chia
buồn cùng chị và các cháu. Anh Huỳnh có công nhiều với cách mạng và nhân
dân, khuyết điểm (Dị cười đính chính: sai lầm! Tôi lắc đầu: là sai lầm
thì tôi kể lại làm gì chứ anh?) Khuyết điểm! Mà chưa hết. Khuyết điểm
nhất thời...” Trưởng ban chuyên án khẳng định Huỳnh công nhiều, khuyết
điểm nhất thời thế mà tù đày như thế đấy! Dạo anh Huỳnh chết, đăng tin
buồn trên báo Nhân Dân, báo cắt nghiến luôn chữ cựu thư ký của Hồ Chủ
tịch. Khuyết điểm tạm thời mà tù bảy năm, quản thúc ba năm rồi trợ cấp
“nhân đạo” mỗi tháng vài chục nghìn. Học Mao kỹ quá đấy.
- Ta chẳng học ai hết, - một anh hơi cao giọng lên. Anh này hôm đến nhà tôi đã nói Đông Âu đổi mới mà chết đó.
Biết
thế nào người ta cũng cãi ta không học Trung Quốc, tôi mang theo sẵn
thư Trường Chinh gửi sang Bắc Kinh cho tôi năm 1959 nói tôi phê bình
đảng tắp lắp của Trung Quốc quá nhiều là rất đúng. The la to i la y thư
na y đưa cho Di (Chính cái thư Phan Quang không đọc mà vu cho tôi là
“chạy ghế” với Trường Chinh. Đầu mải ghế gú - có được không nhỉ? thì
nhìn cái gì cũng ra gú ghế!)
Nha n la i thư ve , tôi nói: - Xin hỏi đã học ai làm cải cảch ruộng đất? À, đều rõ cả. La i co n vie c co va n Trung Quo c xưa ơ
ÐÈN CÙ
549
Bo co ng an ta ra t đo ng, he đe ba t ca p vu trươ ng la ta đe u tham khảo cố vấn…
Anh
vừa nói ta chẳng học ai lại nói: - Nhưng Bác Hồ cũng chống xét lại.
(Tôi nghĩ anh ta lảng chuyện chắc ngại tôi bới vào tổ chấy kếch xù này.)
-
Vâng, chống bằng không biểu quyết vào Nghị quyết 9, chống mà khi Lê
Quốc Thân nói nếu có lệnh công an chỉ cần bốn lăm phút là tóm cổ hết
được bọn xét lại thì Bác nói “chú hãy tóm cổ Bác trước.”
Tất cả chỉ cười. Nhưng tôi tin máy ghi âm mở.
Một anh hỏi: - Liệu có mất Liên Xô không anh Đĩnh?
Tôi
nghĩ ngay trong bụng: “Ngày nào theo Mao định cho Liên Xô kềnh tuyệt
nọc cơ mà” Song tôi nói: - “Hợp lòng dân thì chả mất cái gì. Dân đang
muốn một Liên Xô mới mà như Gorbatchev nói đấy: càng nhiều dân chủ càng
thêm xã hội chủ nghĩa.”
Chia tay. Hẹn 13 tháng 6. Dị không quên đưa giấy bút xin tôi viết lại đúng cái thư Lê Đức Thọ.
Tới
hẹn tôi lại đến. Trên đường đi, tôi đã định trước thái độ gặp gỡ. Tự
nhiên nhớ đến câu chuyện Lưu Động kể: bọn tù Sơn La chúng tao tuyệt
thực. Cousseau, công sứ kiêm chánh ngục đàn áp ngay - cấm cho uống nước.
Bụng không hạt cơm, không giọt nước thì chết rồi. Đến ngày thứ năm, chi
ủy quyết định ngừng. Bảo Trần Huy Liệu viết thư báo Cousseau. Liệu
viết. Bằng tiếng Pháp. Cousseau bắt viết lại bằng tiếng Việt. Và phải
xưng chúng con. Chúng con đã thấy tuyệt thực là phá kỷ luật nhà tù vậy
nay biết tội, nguyện sẽ thế này thế nọ v. v.
Vốn kị phồng phạo duy ý chí nên tôi dễ dàng rút lấy bài học đừng có dọc ngang trời đất mà ngã đau này. Gặp sẽ nói
TRẦN ÐĨNH
550
thẳng
thắn nhưng vẫn chú ý vuốt mặt nể mũi. Tất nhiên cũng tính đến nói gì.
À, nói cái họ sẽ không thể ngờ đến, đó là Ðảng yếu kém trí tuệ. Và phải
nêu bằng chứng. Nghĩ bằng chứng thì hiện ra hình ảnh anh hùng múa rá ăn
xin mà khinh ráo trọi mọi người. Và không ngờ, cả hình ảnh Ba Phều, bạn
học lớp thày Tô Đường nhưng tôi quên mất tên chỉ còn nhớ biệt hiệu Ba
Phều bỗng vọt lên ở trước mắt. Hơn chúng tôi ba bốn tuổi, Ba Phều nghịch
hết sức tai quái. Chuyên tán trong lớp. Thày bắt một mình một ghế ở
dưới cùng, Ba Phều ốp bàn tay vào kheo chân rồi từ từ co chân lại, phát
ra một tiếng rắm rất dài, lên xuống trầm bổng. Thày đuổi ra hè đứng cạnh
các ngăn giá để mũ thì rắm nách của Ba Phều càng nỉ non ai oán. Tư thế
đứng rất tiện lợi cho binh công xưởng dân lập thô sơ này hoạt động. Thày
mắng, Ba Phều nói nhà con toàn ăn khoai nên bụng lắm hơi. Thày quát:
“Thế anh đến trường để làm gì?” Khổ, thày không hiểu Ba Phều đâu cần
học. Ba Phều cần xuất đầu lộ diện ở thế gian với một trật tự khác người
thôi. Khi hai hình ảnh múa rá và phân phối rắm hiện ra ở trong đầu, tôi
đã bật cười một mình như gã tâm thần, nay tôi vẫn nhớ vào lúc đó tôi
lượn sang Phan Bội Châu để qua Bộ công an đến hồ Thuyền Quang…
Nhưng
chính lúc đạp qua Đoàn Nhữ Hài có nhà Tô Hoài, tôi đã xóa đi hai hình
ảnh múa rá và Ba Phều tạo rắm. Tự nhủ gặp nhau bữa đầu nên trang nhã.
Vấn đề là ở chỗ tranh thủ sao cho nói được nhiều. Cốt cho thấy là chúng
tôi không sợ, chúng tôi có thể nói mọi cái. Đảng lấy cung tôi trong lúc
đất nước mù mịt, tôi còn nói được hết huống chi nay đổi mới. Nguye n Ch
Hu ng đo n ơ he đưa to i va o. Lê Kim Phùng đã ngồi trong phòng khách
cùng mấy người tiếp tôi tuần trước, trừ hai anh chuyên bênh Bắc Kinh.
ÐÈN CÙ
551
Ngồi
xuống, tôi nói ngay: - Vừa nãy đi đường tôi cứ cười một mình. Rằng nếu
tổng bí thư Lê Duẩn không chết thì bọn ta, anh và tôi rồi cả anh Trường
Chinh, hiện đang hô Ðổi mới đây đều tù cả. Ông Duẩn nhận định tình hình
đất nước hết sức tốt đẹp, cao trào lao động xã hội chủ nghĩa đang dâng
lên ở trước mắt thì đùng ông Trường Chinh lại “không đổi mới thì chết,”
tôi nói đúng không? Thôi, anh Phùng nhỉ, nói năng thì tôi nhanh nhảu,
vậy trước hết bây giờ tôi nói một thái độ chính yếu: chúng tôi ủng hộ
đổi mới, chúng tôi cùng với đảng đổi mới. Lòng thành như vậy… Sau đó tôi
muốn làm rõ một điều, điều đau đớn nhất cũng là nguy hiểm nhất cho một
đảng cộng sản, ấy là mất lòng tin cûa dân. Ma t ma t cay đa ng ghe gơ m
na y, Ðảng đã thừa nhận trước cả nước rồi nhưng cho đó là vì đạo đức tư
cách đảng viên kém. Vâng, có chỗ ấy, nhưng chưa đủ. Theo tôi còn một cái
yếu nữa. Yếu trí tụê, tôi nhấn rõ và thong thả ba chữ này. Đúng thế.
Đại hội 6 của Ðảng chống duy ý chí mà duy ý chí thì là gì? Chính là yếu
trí tuệ. Tôi nói có bằng chứng. Đây, xin nêu thí dụ yếu trí tuệ: Hội
đồng bảo an LHQ có năm ủy viên thường trực thì ta nổ súng đánh bốn, co n
mo t tư c Lie n Xo th chư i no đu đ e u nhu c nha . Tôi từng nói đùa:
“Nghe chửi thế này thì tượng Mẹ Tổ quốc của Liên Xô khéo phải lặn xuống
sông Đôn mất tăm!” Về địa chính trị thì không kể phương Tây, chỉ từ Liên
Xô qua Nhật, Hàn quốc, Trung Quốc, các nước Asean cho tới Ấn Độ đều
từng hay đang là kẻ thù của ta cả. Nếu sẵn trí tuệ thì chắc sẽ không
đứng giữa trời chửi xa chửi gần hết cả nút như thế?...
Phùng và
năm sáu người vẫn im lặng nghe. Tôi nói tiếp: - Nay sang vụ xét lại. Tôi
thông cảm Ðảng cần giữ thể diện cho nên tôi không đòi Ðảng phải công
khai tuyên bố sửa sai vụ “xét lại” thế nhưng Ðảng cần phải minh oan,
phục hồi danh dự và quyền lợi hoàn toàn cho anh chị em. Vụ xét lại cũng
như vụ Nhân Văn là không có bằng chứng chúng tôi phạm
TRẦN ÐĨNH
552
pháp.
Tôi đã nhờ anh Thẩm nói với anh Thọ rằng giải quyết vụ án xét lại không
khó, miễn là Ðảng người lớn. Thế nào là người lớn? Là biết mình biết
người, mình có đúng nhưng cũng có sai, người có sai nhưng cũng có đúng.
Thứ hai, Ðảng đi bước trước, chủ động gặp anh em đặt vấn đề, kêu gọi hai
bên cùng thiện chí. Thứ ba không cò kè bớt một thêm hai. Có thế thôi
chứ theo tôi thì anh em thà chết chứ không hàng đâu.
- Nhưng Hoàng Minh Chính đòi Ðảng phải công bố đầy đủ lên báo - Lê Kim Phùng nói ngay.
-
Sao Ðảng không gặp cả chúng tôi mà chỉ gặp Hoàng Minh Chính rồi coi như
Chính thay mặt chúng tôi? Không có tổ chức, chúng tôi càng không biết
đến cái nguyên tắc tập trung dân chủ. Còn công bố hay không là chuyện kỹ
thuật nhưng về nguyên tắc thì là phải giải quyết. Giải quyết thỏa đáng
vụ chúng tôi thì Ðảng được lợi. Có lẽ còn lợi nhiều hơn cả chính nạn
nhân chúng tôi: Ðảng sẽ được dân tin cậy…
Tôi ngạc nhiên thấy
Phùng nói: - Các anh như bát nước đầy chẳng may bị hắt đổ đi thì có đem
vun lại cũng không thể nguyên vẹn được như cũ. Chúng tôi đang nghiên cứu
chính sách đối với thân sĩ, trí thức văn nghệ sĩ (sic) và nhân đó cho
cả các anh để giúp cải thiện đời sống. Hiện ông Chính được có 45 nghìn
đồng trợ cấp mỗi tháng thì gay thật. Chúng tôi đang nghĩ cách thế nào để
tăng được lương cûa các anh chị lên. Nhưng anh Đĩnh à, anh vừa rồi nói
vụ xét lại và Nhân văn không có bằng chứng là không đúng, chúng tôi có
đầy đủ bằng chứng.
- Vâng, bằng chứng thí dụ như thư ông Lê Đức
Thọ gửi bà Tề, vợ ông Vũ Đình Huỳnh mà hôm nọ tôi có viết lại cho các
anh ở chính đây trong đó nói “anh Huy nh co co ng nhie u vơ i nha n da n
vơ i ca ch ma ng, khuye t đie m la ta m thơ i” phải không anh? Bằng
chứng thành văn của chính ông trưởng ban
ÐÈN CÙ
553
vụ
án đấy! Khuye t đie m la ta m thơ i a y the ma tu to i he t đơ i. Còn
bằng chứng về Nhân Văn - Giai Phẩm, đảng tuyên bố kỷ luật người ta ba
năm rồi đâm ra trọn đời khốn đốn đấy, phải không anh? Nhân đây hỏi anh
là Hoàng Minh Chính ra tù ba năm thì đã giải quản chưa?
- Chưa, - Phùng nói.
- Thế thì chết, tôi nói, sao lại thế?
-
Vì theo luật ông Chính phải ra công an phường kiểm điểm xem đã tiến bộ
chưa rồi mới được giải quản nhưng ông Chính không chịu ra đồn kiểm điểm.
Ông Chính thấy mặt chúng tôi đâu là chửi đấy.
- Thế khi bắt người
ta thì có theo luật không? Có đem ra tòa xử người ta không? Thiếu bình
đẳng quá anh Phùng ạ. Bắt người ta không cần luật, giải quản cho người
ta lại đòi luật. Thôi, bây giờ tôi mách các anh: cứ bỏ lệnh giải quản
vào phong bì dán 80 đồng tem rồi gửi bưu điện. Tôi bảo đảm Chính không
có đạp xe đi trả lại các anh đâu.
Chuyện đến hồi cuối, tôi nói tôi
nghe thấy đồn rầm lên là sắp bắt Dương Thu Hương. Bắt là hạ sách. Đảng
cho nữ văn sĩ vào tù vì đòi dân chủ thì bằng phong Dương Thu Hương làm
thánh mẫu tòa sen. Nhà nước có luật pháp là đủ sao cứ phải kèm thêm
chuyên chính?
- Chức năng của chuyên chính là tổ chức, - Phùng nói.
-
Như tổ chức bắt tù xét lại mà không cần toà xử chứ ạ? Thôi, tómlại,
đảng cần dân chủ hoá, cần phải sửa sai vụ chúng tôi, cần bình thường
hoá. Chiều nay Từ Đôn Tín, “kẻ thù” đến Hà Nội ép ta nếu muốn bình
thường hoá quan hệ với Bắc Kinh thì phải rút khỏi Cam - pu - chia, việc
mà Bắc Kinh nói là chấm dứt xâm lược. Chuye n na y, ho e p ta nghe đa y.
Chả lẽ sức ép trong nước lại không bằng sức ép của bên ngòai?
TRẦN ÐĨNH
554
Có
lẽ nên nói rằng trong khi chuyện với Phùng, tôi đã cảm thấy một niềm
vui thênh thang bề thế: hưởng thụ lòng tin của tôi đang ngày một mở mang
- mà có bằng chứng xác thực - lòng tin vào chân lý yêu thương con người
chống bạo lực, cái đã làm cho tôi khốn đốn - và muốn trung thành với nó
thì trước hết hãy yêu thương bản thân tôi; đó là tôi phải giữ gìn
nguyên vẹn lòng tự trọng. Lòng tự trọng không những giúp anh bảo tồn
nhân cách mà còn cho anh bay bổng trí tuệ. Tôi thấy lòng tin và lòng tự
trọng này gần như là một.
Sau cuộc gặp này, tôi nhận thấy một động
thái gì đó cũng hứa hẹn. Nhưng vẫn tự dặn rằng với các ông này chớ nên
kết luận gì dứt khoát ngay sất cả. Đồng bóng lắm!
Tuần sau Hoàng
Minh Chính nhận được giấy giải quản. Nhận ở nhà. Chả ra đồn gì. Báo tôi
tin này, Chính bảo tôi “họ muốn gặp ông là để nghe mách nước đấy.”
Có tí chê tôi còn mơ hồ với an ninh. Tôi đùa: - Nếu nước tôi mách tồi thì đem giấy giải quản trả lại cho họ đi! Tôi đưa hộ.
Hồng Ngọc ngồi đó nói: - Có giấy tờ đi lại vẫn hơn là ru rú ở nhà chứ nhỉ, anh Trần Đĩnh!
Cố nhiên ai mà chả thích đi lại tự do.
Lại một tuần sau, gặp tôi, Đào Phan nói Diệp (hay Dị, Dụ?) đến chơi bảo: ga p chu ng to i, anh Tra n Đ nh tha ng tha n la m.
-
Thẳng chứ, - tôi nói. Đụng cả đến vấn đề trí khôn cơ mà. Vỗ ngực khinh
tuốt chính là tâm thế “tiền đồn” và “mũi xung kích” tự đặt ra để bù vào
mất mát xương máu đó! Nhưng ne n the t nh ngươ i ta ngo i đ nh ngo n cau
đang bi kie n lư a đo t la i thêm ong vò vẽ bu đến. Vực người tụt xuống
khó hơn vực người leo lên. Với lại vụ xét lại dính đến nhiều chuyện tày
đình của Ðảng. Duẩn theo Mao phát động chiến tranh thì
ÐÈN CÙ
555
chính
xét lại đã phản đối nội chiến rồi trong nội bộ đảng, chính các kễnh
chơi nhau mẻ đầu sứt tai… Mở vụ này ra thì bung to phải biết. Nó không
như Nhân văn Giai phẩm. Nhân Văn đụng to nhất chỉ đến ông Nguyễn Hữu
Đang bộ trưởng không Trung ương và Văn Cao, tác giả “Tiến quân ca” chả
cục vụ quái gì… Còn vụ này đụng đến tận Cụ Hồ.
Trước đây, quãng
1988, 89, một lần tôi đã bảo Nguyễn Chí Hùng, trưởng phòng chính trị Sở
công an Hà Nội, con rể Ngô Minh Loan: “Thật ra người bị xử lý đầu tiên
sau Nghị quyết 9 là Cụ Hồ. Không biểu quyết Nghị quyết 9 theo Bắc Kinh,
Cụ liền thôi họp Bộ chính trị ngay. Kỷ luật truất họp Bộ chính trị thế
là to quá rồi còn gì, phải không? Anh thấy ý cụ Mao thiêng chưa?” Ngồi
nghe tôi mà Hùng thuỗn ra. Tôi có nhâm nhi giây phút ấy.
Ba mặt
một lời, ít ra còn Nguyễn Chí Hùng có thể chứng cho việc tôi gặp Lê Kim
Phùng nói đến trí khôn Mác - Lê vỗ ngực nhất thế giới. Tôi đã nói với
Hùng nhiều dịp. Có lần Hùng còn thì thào bảo tôi: “Anh viết các cái này
gửi Bộ chính trị đi!” Ý là anh thử thuyết phục Bộ chính trị xem chứ em
là thấy đúng quá đấy. Năm 1998 tôi cũng nói cái ý Cụ Hồ nạn nhân với
Kevin Whitelaw, nhà báo Mỹ của tờ US News and World Report.
… Rồi tôi lại gặp Lê Kim Phùng. Tình cờ.
Đào
Phan mừng thọ 75 tuổi. Cả trăm bạn bè dự. Lê Trọng Nghĩa, Lê Đạt và tôi
ngồi ở một đầu bàn gần cửa. Thì Lê Kim Phùng đi vào. Thấy tôi, Phùng
đến chào.
Tôi đùa: - Ô, toàn con cháu Lê-nin gặp nhau nhỉ, nhưng Lê Trọng Ngh a, Le Đa t la Le do m…
Chuyện vài câu, Phùng khẽ bảo: - Anh ra kia một chút được không?
TRẦN ÐĨNH
556
Ra
cổng hội trường. Phùng nói: - Tôi đã thành tâm muốn giải quyết cho các
anh... nhưng bị vướng ở… trên, nên… Tôi thì sắp về hưu, có lẽ phải tìm
một đường vòng vậy.
- Chúng tôi không có chờ cái gì thuận ở đảng,
anh chắc là biết thế, - tôi nói. Thành thói quen rồi. Nhưng tôi nói lại
như đã nói với anh mấy năm trước, là sớm muộn rồi cũng phải mở lại vụ án
ghê gớm nhất trong lịch sử của Ðảng.
Phùng gật gật. Tôi thấy vẻ lúng túng trên mặt.
Chỉ
vài tháng sau Phùng đã hết lúng túng mà đứt hẳn một bề. Làm đơn xin
minh oan cho vụ án chúng tôi, Nguyễn Trung Thành bảo tôi anh nên thư cho
Lê Kim Phùng nói hắn nên đồng tình với tôi, Phùng hắn nể anh đấy. Tôi
đã làm theo gợi ý của Trung Thành. Mang đến tận nhà đưa thư - nhưng
Phùng đi vắng.
Tuần sau, Trung Thành bảo tôi. Cái cậu Phùng này
không tốt. Hắn với cậu Hương (hai Hương đều đệm Đình, tôi nhớ hình như
là Nguyễn Đình) vừa có đơn gửi Trung ương nói đánh vụ xét lại là đúng.
Tôi
nói Phùng phải nể Ðảng hơn nể tôi chứ anh. Tiêu chuẩn đạo đức cao nhất
của đảng viên là nhất trí với Trung ương mà! Cũng liền nảy cái ý: giá
như tâm địa thế nào thì lưỡi tự động số hóa vào nó như thế. Lúc cần đến
sẽ đem bản sao số hóa đó so với lời mới nói ra.
Nhưng với tôi
Phùng khá trọng vọng. Khi Nguyễn Trung Thành kêu lật án cho vụ xét lại,
đảng đã mở một triển lãm bêu tên đám phản động để nhân dân thấy mà ghét
cái mặt chúng. Xem xong Hồng Ngọc, vợ Hoàng Minh Chính mách tôi là có
tên tôi và tên anh Lê Giản nhưng chữ Lê đã bị bôi mờ. Tôi viết thư phản
đối cho Lê Kim Phùng. Hôm sau Phùng
ÐÈN CÙ
557
cùng thư ký đến tận nhà gặp tôi thanh minh là không có, bởi đã lặng lẽ cho rút đi.
…
Cuối 2002, Tuấn, một trung tá A25, hay đi với các đoàn làm phim Mỹ -
như Một người Mỹ trầm lặng mời tôi gặp vụ trưởng Khổng Minh Dụ. Tôi lịch
sự từ chối.
- Sao trước kia anh gặp ông Phùng? - Tuấn hỏi.
-
Không có chuyện cá nhân ở đây. Lúc ấy xét lại và an ninh lần đầu tiên
đối thọai. Nay thì an ninh và chúng tôi đã hiểu nhau cả rồi.
* * *
Cuối
cùng, năm 2012 cũng có người ngoài cuộc nói lên được sự thật. Trong
cuốn Cuộc chiến tranh của Hà Nội (Hanoi’s War), Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên -
Hằng viết: Lê Duẩn và Lê Đức Thọ đã chọn con đường phát động chiến
tranh (tôi nhấn.) Trong nội bộ Ðảng, đàn áp, loại khỏi quyền lực những
ai phản đối, làm nên vụ án xét lại chống Ðảng mang tên Hoàng Minh Chính
từ năm 1963 và cuộc thanh trừng “xét lại” lớn nhất trong nội bộ đảng vào
năm 1967. Để tiến hành chiến tranh, sau Đại hội Đảng lần thứ 3, từ năm
1960 lãnh đạo đã biến miền Bắc thành một xã hội công an trị với hàng vạn
người bị bắt vì “nguy hiểm đến an ninh, trật tự xã hội” (tôi nhấn
mạnh).
Năm 2013, nhân Hà Nội ca ngợi thắng lợi của Hiệp định
Paris, phó giáo sư Pierre Asselin viết chính quyền ở Việt Nam cho phổ
biến quan niệm cách mạng Việt Nam là theo “tư tưởng Hồ Chí Minh” nhưng
sự thật thì trong thập niên sau 1965, Hà Nội đã trung thành với “tư
tưởng Lê Duẩn.” Không cho phép đối kháng, vào năm 1967 - 68, Lê Duẩn
cùng với Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ (kiêm “trưởng ban
chuyên án xét lại chống đảng”) đã thanh trừng khoảng
TRẦN ÐĨNH
558
300
người “xét lại,” những người kêu gọi thương lượng với Washington và Sài
Gòn, hoặc đi ngược đường lối vũ trang chống Mỹ của Đảng (tôi nhấn
mạnh).
Lê Duẩn đã thừa nhận “tư tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng
Lê-nin trong thời kỳ ba dòng thác cách mạng,” vậy thì “tư tưởng Lê Duẩn”
như Asselin viết chính là tư tưởng Mao Trạch Đông, không thể nào khác!
Pháp sư giật dây cải cách ruộng đất ở Việt Nam là Mao. Phù thủy mách
nước đánh Nhân Văn - Giai phẩm là Mao - để phối hợp với chống phái hữu
bên Trung Quốc. Và Nghị quyết 9 của Việt Cộng ra đời là hưởng ứng Mao
chống xét lại để giữ cho chủ nghĩa Mác - Lê trong sáng mà thực chất là
gì? Sau thảm họa cải cách ruộng đất và “Chống phái hữu,” “Tiến vọt, ba
ngọn cờ hồng,” Hà Nội và Bắc Kinh đều đang đứng trước một hũ nút đen
ngòm là sự bất bình của dân. Cách tốt nhất với cộng là hướng dân vào căm
thù đế quốc. Mưu thâm trí cả, Mao đã nêu khẩu lệnh “căng đế quốc Mỹ ra
tòan thế giới mà đánh!” và “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ!”
khéo kéo mấy nước lạc hậu trong phe như Việt Nam, An - ba - ni theo mình
đánh Mỹ kẻo mà sợ chiến tranh thì thành “xét lại” đầu hàng, phản bội
như Liên Xô.
Xúi Hà Nội đánh đuổi Mỹ, Mao giấu đi mục tiêu chiếm
Biển Đông - tuy Chu Ân Lai đã công khai đòi chủ quyền từ 1949. Cũng là
mong muốn rửa bằng máu người cái hận bộ trưởng ngọai giao Mỹ Dulles
không bắt tay Chu Ân Lai ở Hội nghị Genève năm 1954. Còn với Lê Duẩn,
Mao đã giúp thỏa mãn ước nguyện lập công cao hơn Hồ Chí Minh là người
mới giải phóng có nửa nước! Mặt khác, Mao còn nêu gương (phang Lưu Thiếu
Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài...) để cho Duẩn và Thọ có thể nặng
tay với Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp cùng rất nhiều cán bộ và sĩ quan
trung cao cấp.
ÐÈN CÙ
559
Về cuốn sách: “Cuộc chiến
tranh của Hà Nội: một biên khảo Sử học Quốc tế về Cuộc chiến tranh vì
Hòa bình ở Việt Nam” của TS Nguyễn Thị Liên - Hằng, Pierre Asselin viết:
“Được ông Thọ hậu thuẫn, sử dụng các thủ đoạn lèo lái, lừa dối, và các
sách lược, Le Dua n, mo t tha nh vie n trung tha nh Nam tie n, đa loa i
bo tha nh co ng ca c đo i thu ý thức hệ trong Đảng, trong đó có ông Hồ.
Ông Duẩn lập nên một cấu trúc điều hành cho phép ông độc chiếm được
quyền lực chính trị, trở thành nhà độc tài và đưa Bắc Việt tiến đến
chiến tranh với Mỹ.”
Và rồi Mặc Lâm RFA cũng viết: Những người
“xét lại” việt Nam bị đàn áp “chỉ chống lại ý tưởng chủ chiến của Mao
Trạch Đông mà nhóm thân Tàu đang hết lòng cổ vũ. Những người bị kết án,
bị bắt nằm trong kế hoạch của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh và
kế hoạch này đã mở đầu cho một cuộc chiến khác khiến 3 triệu người Việt
Nam đã bỏ mình trong hai chục năm chiến tranh đẫm máu cho tới năm 1975
mới chấm dứt...”
Thì ra thế giới thấy rõ kim chỉ nam định đoạt đến
tận số phận nổi nênh, chìm đắm, sáng tối, phúc họa của từng lãnh tụ
Việt Cộng. Cụ Hồ gọi là kim chỉ nam quá giỏi!
(Về “kim chỉ nam,”
một luật sư Bắc Kinh, Pu Zhiqiang nửa thế kỷ sau đã công khai đánh giá:
Theo tôi, “Mao Trạch Đông không tốt hơn so với Hitler. Chúng ta chê Nhật
từ chối xem xét lại lịch sử trong khi Đức đã công nhận nạn diệt chủng
người Do Thái của Đức Quốc Xã” tuy nhiên, Trung Quốc cho đến nay vẫn
không thừa nhận rằng Mao Trạch Đông đã đầu độc cả thế giới. Chắc chắn
luật sư Pu có nghĩ đến cuộc chiến “chống Mỹ” của Việt Nam.)
28 - 7 - 1967, bắt mẻ “xét lại” đầu tiên. Tháng 9, Giáp sang Hung “dưỡng sức.” (Tôi nghe thông báo chính thức.) Cụ Hồ đi
TRẦN ÐĨNH
560
Trung
Quốc chữa bệnh. (Cũng nghe chính thức thông báo.) Trong khi đó ở Việt
Nam đã có hơn nghìn chuyên gia quân sự Liên Xô chịu trách nhiệm vận hành
cũng như bảo trì máy bay, tên lửa, trong đó có một nhóm chuyên nghiên
cứu, đánh giá hiệu quả vũ khí của Liên Xô cũng như thu thập mẫu vũ khí
của Mỹ, không kể khí tài, xăng dầu…
Quái gở thế đấy! Cái thằng
được rước vào giúp Việt Cộng nâng cấp chiến tranh lên hiện đại hóa (Bắc
Kinh chỉ giúp ở trình độ Thế chiến II thôi) lại đi cài tay sai để lật đổ
Việt Cộng? rồi để chính “tay sai” bị bắt cùng lúc đó nhưng vẫn không hề
nhạt một li chi viện! Rồi cả khi ký hiệp ước tương trợ Việt - Xô, “bọn
tay sai Liên Xô” cũng chả được sơ múi tẻo nào.
Vụ án “tay sai Liên
Xô” là một thế chấp nộp cho vui lòng Bắc Kinh. Tiền tuyến một lòng theo
đại hậu phương ạ! Vu làm tay sai đã thành võ chuyên sâu của Ðảng. Với
lại đảng đâu mà dại lên án chúng tôi phản đối nội chiến, phản đối chiến
tranh. Có mà bằng xúi dân theo chúng tôi chứ đừng đi B, đi C.
Chắc
thấy chúng tôi phản chiến là xót cho cả máu Mỹ - chứ không nghĩ chúng
tôi là tay sai của Liên Xô, kẻ thù số một của Mỹ, một buổi sáng tháng
chín gì đó năm 1998, một tham tán văn hóa đại sứ quán Mỹ -- tức chính
quyền Mỹ -- đã lần đầu tiên thanh thiên bạch nhật tại trung tâm Hà Nội
bất ngờ đến bắt tay một chàng xét lại Việt Nam - chàng ấy là tôi: “Chúng
tôi biết ông là thế nào nhưng không tiện gặp, chắc ông hiểu...” Sau đó
giới thiệu nhà báo Mỹ gặp phỏng vấn.
Không ít người không ưa Ðảng
nhưng lại tin lời buộc tội của Ðảng, vẫn không thấy chúng tôi vì phản
đối huynh đệ tương tàn mà bị đàn áp tàn bạo.
ÐÈN CÙ
561
Cũng như có người chi li coi Nhân văn - Giai phẩm chỉ là đòi tự do không thôi chứ vẫn là chính chuyên cộng sản.
Khốn
nạn, cộng sản mà đã đòi chia lời lẽ với Ðảng hay đa nguyên thì tất có
ngày hê đảng. Nhiều người không biết gốc tội chúng tôi là muốn… đối
thoại với bà con trong Nam chứ không xin máu họ.
Cộng sản tồn tại
nhờ chuyên chính bạo lực nhưng chúng tôi đòi giải vũ trang đảng, đòi
đảng phải cụp bạo lực đi hay từ bỏ vai trò “bà đỡ của cách mạng” hay
thôi con đường “chính quyền ra từ nòng súng.” Thực chất đòi dân chủ cho
muôn người.
Không có những con khỉ nghịch tử mang gien biến hóa thì tất cả chúng ta nay chắc vẫn cứ là khỉ độc đấm ngực thình thình mà hú.
Nghịch
tử gái nào không chịu nhuộm răng đen đầu tiên ở Việt Nam? Để rồi chịu
nỗi nhục me Tây! Hai Bà chống xâm lăng nhưng cô gái Việt đầu tiên không
nhuộm răng thì hòa nhập với tiên tiến của bên ngoài.
Giá như sắp cải cách ruộng đất có dăm ba người cộng sản nghịch tử đứng lên ngăn?
Trước
cuộc nội chiến Ðảng phát động để nhằm mục đích vẻ vang nhất “đánh đổ
một bộ phận, đánh lùi một bước chủ nghĩa đế quốc,” chúng tôi đã xung
phong làm nghịch tử. Không thích đổ máu người nữa. Thích quyền người.
563
NGHI LỄ MỘT LỜI GẤP SÁCH
“NGÀN NĂM MÂY TRẮNG MÃI RONG BAY “
(Bạch vân thiên tải không du du
(Bạch vân thiên tải không du du
Quanh
Hồ Gươm có hơn 90 loại cây. Người Pháp đã dựng một sưu tập thực vật quý
quanh vùng nước này. Tiếc không có biển đề tên từng loại. Trên rẻo đất
trồi ra hồ, ở trước tòa Đốc lý cũ, có cây lộc vừng và từ đấy đến vùng
vông hông Tháp Bút (mùa đông hàng chục cây vông rụng hết lá trông giống
như quần thể điêu khắc Calder đổ bằng bê tông miêu tả các dạng tâm thế
quằn quại đóng băng của bão) là mấy cây muồng hoa đào. Hoa lộc vừng đền
miếu thâm u bao nhiêu, muồng hoa đào đài các, lộng lẫy bấy nhiêu. Tại
ria vuờn hoa Con Cóc, trông sang đầu hồi khách sạn Métropole, (nơi trước
kia là dẫy bếp lò cao chiều chiều thả mùi thịt, mùi bơ thơm lừng sang
vườn hoa, các cụ hưu trí ngồi vườn hoa thường đùa là vừa đuợc Ban tổ
chức trung ương cấp tem phiếu cho đặc cách đến hóng mùi bồi duỡng miễn
phí từ xa (xa là vì phải giữ thể diện quốc gia), cũng có một cây muồng
hoa đào, thân uốn vặn một thế đứng của vũ nữ Ấn Độ. Mỗi khi tán lá nó
ngả xòa ra gánh trọng lượng con lũ hoa ào ào trổ rộ, tôi lại ngỡ trông
thấy một sườn Phú Sĩ ngập cánh anh đào. Hay gò má geisha tranh cổ Nhật.
Sau cơn bão số mấy một năm quá
TRẦN ÐĨNH
564
mắn bão,
nó đổ. Cùng cây lá trắng trước trụ sở tù mù mang tên Đoàn Kết nhiều phần
là của Đảng dân chủ. Màu hoa - là - lá này ngỡ đâu như mẫu mã
prototype, - đơn bản vị của sắc tuyết. Hai cây muồng hoa đào và lá trắng
luôn khiến tôi nghĩ tới bàn phấn mỹ nhân.
Một chiều tôi bắt gặp
một sự kiện chắc một đời chỉ thấy một lần: cả một mùa hoa lộc vừng cùng
lúc rủ nhau lìa đời, trút thả hơi thở mênh mang xuống trạt kín lấy một
vạt hồ rộng. Những cánh hoa lộc vừng dập dờn, khe khẽ chao sóng nom ngỡ
một rừng bướm xuân mê mải động tình. Thèm vớt được tấm thảm ren xao động
này làm mảng trời riêng. Rồi lại thèm có cung sinh tử của loài hoa vượt
chuẩn vương giả này. Ở nó, chết là sống tiếp một lần sống huy hoàng
nữa. Rời bỏ chiều cao, cái sống này khoe lộ hết mình trên pha lê nước,
đốt cháy đến quang tử cuối cùng, phô tông cuối cùng, nộp hết lửa vào lễ
hội, giữ nguyên vẹn cho đến giây phút cuối cùng cái đẹp phơi phới nguyên
bản. Tôi đã có diễm phúc ngắm mãi một nghiệp sống xú ve (sous - verre,
dưới kính - BT), dan díu, bồng bềnh, nghiệp sống - tầng - phóng - thứ -
hai mang chứa phần hồn, kiếp sống tác phẩm...
Hồ chiều như một sàn
diễn vũ trụ. Tôi lại đuợc chiêm ngưỡng ngay sau đó tiền sử ra đời! Một
con rùa đang nhích dần ra khỏi mặt hồ, leo thận trọng lên đảo tháp. Trươ
c ma t to i, Ho Gươm bo ng e m a , bo ng ba t nga t mơ ra cư a m nh đa n
bà. Mặt nước gợn trau là màng ối đang đau đáu, khoan thai tự xé bóc cho
khởi nguyên mốc thếch, sợ sệt, lặng lẽ trình diện. Hai màu phẩm nhuộm
hàng xén chợ quê (bạc hà và hồng hoàng của rượu chanh, rượu cam quốc
doanh) rót loè loẹt từ biển hiệu Thủy tạ xuống mảng hè đầy que kem, tàn
tích xa hoa một chiều chủ nhật người xương xẩu chen nhau đi để nhìn
người gầy guộc. Nay vắng ngắt. Kéo lê thúng lom khom
ÐÈN CÙ
565
mót
que kem để bán lại, những đứa trẻ chợt nom rỗng xẹp, nhẹ bỗng, như bằng
cặn nê - ông gồm các xác thiêu thân nát vụn anhánh phấn ngân nhũ.
Bên
kia, từ trong ngõ tối và khai sặc sụa, hai người đàn bà trẻ rời nhà vệ
sinh không đèn đóm thong thả qua đường. Vai tựa vai, họ như đặt ướm từng
bước. Hai áo len đan, đỏ cà chua, những hình hoa hình trám giống những
miếng cà rốt tỉa làm dưa góp đính lỏng lẻo vào nhau, hai quần phăng ống
túm màu mastic, hai đôi guốc Sài Gòn bạc xám hoa lau, gót dẹt dài tựa
một mỏ chim hạc - nhác thấy nét viền đen men theo rìa mỏ hay một mí mắt,
còn thân guốc thì là cổ hạc khoan xuyên vào gió. Hai vùng mông tròn lẳn
như hai đôi mặt âu yếm gù nhau. Thoáng một lằn âm điện ở cương vực thâm
nghiêm của vương quốc sinh nở.
Ơ đa t nươ c na y ch co n thie n nhie n va đa n ba tra n tre nghĩa! Miên man phát nghĩa.
Mơ
i ho m qua, tre n khu c re đe n ba Kie u ra Co t đo ng ho , một xe máy
chở một thiếu phụ lướt êm như trôi đi. Thươ ng đa y a p ngươ i va xe đa p
đe vo n la i tha nh mo t do ng ra c re n lư đư đa c se t, lu c na y con
đươ ng bo ng quang que , bư ng sa ng, như da o khu c tie n ta u do n lo
i cho đa i đie n le mơ ma n. Người thiếu phụ khoan thai ngứa cổ lên
dâng mặt cho lưỡi dao bén ngọt của gió. Gió liền tíu t t a p đe n va như
ng phoi ca m tha ch lie n vun vu t bay ra va ca c bie n ta u cu a vu
khu c to c lie n cuo ng vui vơ n o m la y to a nhan sa c ma con ta o
đang đ ch tha n che ta c tư ng chi tie t đe đa t ra chua n đe p cu a gio
ng ngươ i. Người thiếu phụ quay lại: bức điêu khắc về sắc bất ba đào dị
nịch nhân hiện ra toàn vẹn ở trước mắt tôi. Còn tôi, tượng kẻ mất hồn.
Ôi, Hà Nội quá nhiều Bích Câu. Chỉ thiếu kỳ ngộ nên đành hóa tượng.
TRẦN ÐĨNH
566
Tối
ấy, trước khi về nhà, tôi tạt qua chuồng công. Hay nhà nguyện của tôi. Ở
đầu cành cây làm chỗ công đậu, thù lù một khối đen đúa. Một người ăn
mày nào mới đem vật bất ly thân, cái bị rách của ông quàng vào đó.
Tôi
bỗng thèm một bị ăn mày. Đựng cái đời tôi chiêu như thanh ti mà mộ đà
như tuyết, cái đời đã nộp hết tô sống rẽ. Quyển sách này là cái bị ăn
mày ấy? Tha the ! Co n hơn ca i bo c da tho i tha Tra n Tha i To ng
khuye n tư bo trong Kho a hư lu c.
Tôi rất yêu hai câu thơ của Ferdinand Pessoa: Tất cả những gì tôi có là những gì tôi cảmvà Đẹp là bóng của các vì Thượng đế!
Ngh ca i bi a n ma y la đơ i m nh, chơ t tha p thoa ng tha y bo ng ca c vi Thươ ng đe .
XIN THÔNG CẢM
Gồm
nhiều chuyện, thường là kinh lịch của bản thân tôi, kể cả những điều
tôi đọc, sách này được viết từ những năm 90 thế kỷ trước nhưng vì lý do
khách quan tôi không thể cho ra mắt sớm do đó chắc chắn khó tránh khỏi
những bất cập về diễn biến cùng ý ngh a của những vấn đề tôi nhắc đến mà
không thể bổ sung cập nhật -- đòi hỏi này e có phần duy ý chí? Vả chăng
không nhằm nghiên cứu -- việc này hoàn toàn vượt quá bản l nh cùng mục
đích viết văn học chủ yếu dựa vào cảm quan cá nhân của mình tôi -- tôi
không thể tra cứu rộng khắp và đầy đủ các sự kiện nói đến trong sách.
Vậy xin bạn đọc thứ lỗi nếu có những thiếu sót bình diện thông tin vốn
vượt khỏi tầm với tri thức chim cánh cụt cũn cỡn của tôi nhưng phía bạn
đọc có mắt thiên lý vọng thì lại vô cùng cánh đại bằng quẩy gió đại
ngàn.
Xin cảm ơn. T. Đ.
567
Phụ Bản
568
Trần Ð nh khi học Ðại học Bắc Kinh (1958)
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
570
Trần Ð nh khi bắt đầu viết Bất Khuất (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
571
Trần Ð nh (1996)- (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
Trần Ð nh, Nguyễn Ðắc, điện ảnh, Hồ Chí Minh, Hồng Nghi, điện ảnh, Ðặng Ðịnh, nhiếp ảnh gia của Hồ Chí Minh (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
573
Ở
nhà Trần Thư, từ trái qua: Gia Lộc, Trần Ð nh, Kiến Giang, Hùng Phan Kế
An, Ðào Phan. Dưới Ðào Phan là chỏm đầu Lê Ðạt, Trần Thư. (hình do tác
giả Trần Đ nh cung cấp)
574
Ở
nhà Trần Châu tại Quốc Oai. Hàng trước, từ trái qua: vợ chồng Trần P
Phan Thế Vấn. Hàng sau: Trần Đ nh, Kiến Giang. (hình do tác giả Trần Đ
nh cung cấp)
575
Ở
nhà Đinh Văn Đảng, từ trái qua: Hoàng Minh Chính, Trần Đ nh, Lê Đạt bị
che lấp, Kiến Giang, Đinh Văn Đảng… (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
TRẦN ÐĨNH
576
Ở nhà Phan Thế Vấn Sài Gòn, từ trái qua: Lê Trọng Ngh a, Phan Thế Kiến Giang, Trần Đ nh. (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
577
Mừng Lưu Động tám mươi (đầu trái), Trần Đ nh, Hồng S (tù cùng Lưu Động, Trần Châu, KIến Giang Ba Sao), KIến Giang. (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
578
Ở nhà Trần Đ nh, trong khu văn công Cầu Giấy. Từ trái sang: vợ chồng Đoàn Viết Hoạt, Trần Đ nh, Mây, con gái TĐ và Thiếu Khanh, con út vợ chồng Hoạt. (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
579
Võ An Ninh chụp Nguyễn Tuân với Trần Ð nh trên tàu thủy xuôi sông xuống Thái Bình. "Ð nh xem cái đò phía sau lưng chúng ta. Năm ông Lý Công Uẩn ra Hà Nội, nó đã tung hoành đây rồi đấy!" Tuân nói. (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
580
Từ Thuận Elston, nữ phóng viên US Today chụp Dương Thu Hương và Đ nh. (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
581
582
583
584
TP Hồ Chí Minh ngày 18/7/1999
Ô(ng) T(rần) Đĩnh thân thiết!
Tôi nhớ ông lắm đấy ô(ng) T(rần) Đĩnh ạ, nói rất thật lòng, vô trong này tôi cũng ít bạn bè và cũng không muốn đánh bạn với người mới, làm xong công việc là xong. Ở trong này, tôi cứ nằm lì ở nhà, ở cái xó Khánh Hội mà ông đã tới ấy, ngay đến hàng xóm cũng không biết tôi đã ở nhà hay ra Hà Nội. Ngồi viết chút chút lại nằm đọc, đọc 1 chút là ngủ, ngủ một chút lại bừng dậy, đọc tiếp. Sống như thế là rất buồn, nhưng tôi đã sống một mình 20 năm nay, nên cũng đã quen, và không cảm thấy buồn lắm. Ai rủ đi đâu cũng ngại, trừ ra Hà Nội. Hà Nội vẫn là cái nhà của tôi, lắm lúc nhớ đến phát cuồng. Vì Hà Nội có đủ mọi thứ để nuôi dưỡng cho một tuổi già, nhất là có bạn, một ít bạn, trong đó có ông. Nhận được thư ông, lại được ông khen, tôi "phấn khởi" lắm, thì ra tôi vẫn thích được khen, nhất là được bạn khen, lại là bạn tâm đầu ý hợp khen thì nhất.
Tôi dạo này cũng yếu nhiều, già hẳn, đúng là một ông già 70 còn tương đối khỏe. Ngồi xuống muốn đứng lên lại phải chống tay. Bữa nọ đi bộ buổi sáng vấp nhẹ 1 cái đã ngã dập mặt xuống đường, gẫy một cái răng cửa, lại phải đi làm răng, đầu gối chỉ sưng chứ không bị rạn nên dăm hôm lại đi lại như thường. Nghĩ mà buồn, vì biết rằng cũng sắp đến ngày cáo biệt bạn bè rồi. Theo tử vi thì trong mùa xuân năm Ngọ, sang 73 tuổi là chết, là tận số, không có oan uổng gì. Tính ra, chỉ còn sống thêm 2 năm Thìn, Tỵ nữa thôi1. Sống thế cũng là thọ lắm, con đầu hơn tuổi
Nguyễn Khải mất ngày 15-1-2008 (ông sinh ngày 3-12-1930).ông Nam Cao, con út xấp xỉ tuổi Vũ Trọng Phụng, nhìn lại những trang đã viết chả biết có còn lại được mươi trang không?
Người làm sao văn làm vậy, tôi quen sống trong nhân nhượng, trong dàn hòa, bằng lòng với chút hạnh phúc bé nhỏ, bằng lòng với cái hữu hạn của một kiếp người nên văn cũng thế, thiếu triệt để, thiếu quyết liệt, không dám đi tới cái tận cùng. Bởi thế nên không thể "lớn" được, cái mà Lê Đạt bảo là "hình như còn thiếu một cái gì đó", một đời đã sống như thế chỉ còn vài năm cuối làm sao sống khác được. Sống không khác thơ văn làm sao mà khác! Chả biết từ nay đến cuối năm HNV (Hội Nhà văn) có gọi ra họp hành gì không, để mình lại có dịp gặp nhau. Tôi rất thèm được nói chuyện với ông lắm. Gặp nhau để nói những chuyện chả đâu vào đâu mới thật khoái. T(rần) Đĩnh, L(ê) Đạt, N(guyễn) Khải được ngồi đấu hót với nhau một đêm thì thật tuyệt!
Nhớ ông lắm ông ơi! Nhớ Hà Nội Lắm!
Hẹn cuối năm được gặp nhau.
Bạn già
Nguyễn Khải
Ông cho tôi được gởi lời kính thăm bà nhà. Bà vợ tôi năm nay toàn nằm bệnh viện, mỗi lần 1 tháng, mà yếu lắm, tay run, đi đứng lom khom, già rất mau, xem chừng không thọ. Con cái chăm sóc mẹ thờ ơ lắm, chúng chỉ lo việc của chúng thôi. Nên cũng buồn. Tuổi già luôn là buồn dẫu tôi đã cố vui.
Thẻ nhà báo (tháng 8 , 1949) của Trần Ð nh. Con số 19 tuổi sửa thành 23 cho… oai - (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
588
Mồng Một Tết Canh Dần (1950) tại tòa soạn báo Sự Thật: Trường Chinh mặc blu-dông Mỹ đứng giữa. Từ Trường Chinh sang phải là Quang Đạm, Xuân Thủy, Lê Quang Đạo, Trần Đ nh hai tay đút túi áo blu-dông dạ, co một chân tựa cầu thang. Trên đỉnh thang là Nam Cao, Thép Mới. Đầu cùng bên phải là Kỳ Vân khoanh hai tay. - (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
589
Tại tòa soạn báo Sự Thật: (từ trái) Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đ nh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ (sau này tự tử bệnh viện Nam Ninh, Trung Quốc)- (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
590
Tô Hoài (phải) và Trần Ð nh (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
591
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
592
Hồng Linh múa vỡ ba lê Nga Suralie tháng 9, 1960 (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
593
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
594
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
595
Phỏng vấn ông Trần Đĩnh (Tháng Bẩy 2001) Đinh Quang Anh Thái
588
Mồng Một Tết Canh Dần (1950) tại tòa soạn báo Sự Thật: Trường Chinh mặc blu-dông Mỹ đứng giữa. Từ Trường Chinh sang phải là Quang Đạm, Xuân Thủy, Lê Quang Đạo, Trần Đ nh hai tay đút túi áo blu-dông dạ, co một chân tựa cầu thang. Trên đỉnh thang là Nam Cao, Thép Mới. Đầu cùng bên phải là Kỳ Vân khoanh hai tay. - (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
589
Tại tòa soạn báo Sự Thật: (từ trái) Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân, Lê Quang Đạo, Trần Đ nh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ (sau này tự tử bệnh viện Nam Ninh, Trung Quốc)- (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
590
Tô Hoài (phải) và Trần Ð nh (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
591
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
592
Hồng Linh múa vỡ ba lê Nga Suralie tháng 9, 1960 (hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
593
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
594
(hình do tác giả Trần Đ nh cung cấp)
595
Phỏng vấn ông Trần Đĩnh (Tháng Bẩy 2001) Đinh Quang Anh Thái
ng Trần Đĩnh năm 15 tuổi đã tham gia cuộc tổng khởi nghĩa do cộng sản lãnh đạo ngày 19 tháng 8 năm 1945. Ông trở thành đảng viên năm 19 tuổi, lúc đó, đảng cộng sản Đông Dưong rút vào bóng tối, đổi tên thành Hội Nghiên Cưú Chủ Nghĩa Mác và xuất bản tờ báo Sự Thật, ông đựơc điều về viết cho báo này. Sau đó, ông đưọc đưa qua học tại đại học Bắc Kinh. Trong thời gian học, ông tham gia một cuộc họp chống phái hữu, và chính nhờ vậy, ông rút tiả đựơc nhiều bài học quí báu. Bài học đó là, các đảng viên chân chính, tích cực đã nghe lời đảng khuyến khích họ phê bình đảng. Nhưng khi họ phê bình thì bị đảng quay lại đánh. Theo lời ông Đĩnh thì đó là âm mưu của Mao Trạch Đông. Học xong, ông về Hà Nội làm việc một thời gian, thì xẩy ra việc đảng cộng sản Việt Nam đưa vấn đề chọn lựa tư tưởng Mao để chống xét lại, tức là chống lại chủ trương sống chung hoà do Tổng bí thư đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ là Nikita Khrushchev đưa ra. Ông Trần Đĩnh ủng hộ lập trường của Khrushov và chống tư tưởng Mao, nên bị khép vào tội chống đảng. Mặc dù không bị bắt như anh ruột ông là nhà báo Trần Châu, hay như những người khác như ông Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên, hoặc
Ô
TRẦN ÐĨNH
596
phải sống lưu đầy như Nguyễn Minh Cần.v.v..., ông Trần Đĩnh cũng bị khai trừ khỏi đảng và chịu nhiều trù dập về mặt tinh thần cho mãi tới ngày nay. Hiện nay, ông Trần Đĩnh đang sống tại Hà Nội.
ĐQAT: Tâm trạng của ông ra sao, khi nghe thông báo quyết định bị khai trừ khỏi đảng?
Trần Đĩnh: Tôi vào đảng cộng sản lúc tôi chưa 18 tuổi. Khi tôi ra đảng năm 1976, tâm trạng của tôi lúc bấy giờ rất nhẹ nhàng. Bố tôi lúc ấy ở trong Nam đã viết thư ra nói bằng tiếng Pháp (bố tôi có thói quen viết thư bằng tiếng Pháp) nguyên văn rằng “phải làm lễ mừng cái việc ra khỏi đảng của Đĩnh”. Bố tôi gọi đây là quyết định vĩ đại của tôi.
Sau chiến thắng năm 1975, họ thanh toán tất cả những người nào còn sót lại mà chưa bị thanh toán. Thì lúc bấy giờ họ khai trừ tôi ra khỏi đảng. Năm 75 là chiến thắng mà.
ĐQAT: Vụ án mà giới lãnh đạo đảng quy chụp là “Xét lại Chống đảng” xẩy ra khoảng năm 1967, giai đoạn đó đúng cao điểm Hà Nội ào ạt đem quân vào miến Nam, lúc đó, lập trường của ông ra sao đối với cuộc chiến?
Trần Đĩnh: Chúng tôi không tán thành, vì xuất phát từ suy nghĩ là thấy dân mình khổ quá. Đánh nhau mãi rồi, đánh nhau thì chỉ có dân chúng bị khổ. Nhất là chúng tôi ảnh hưởng lập trường của Khrushchev là hoà bình là con đường tốt nhất và muốn xây dựng kinh tế thì phải chung sống hoà bình. Chúng tôi không thích chiến tranh, nhưng chúng tôi không cưõng lại được. Chúng tôi bị phê phán, bị đánh ngay từ đầu. Do đó, chúng tôi không đựoc giao việc gì quan trọng trong thời kỳ đánh nhau. Bản thân tôi không đựơc giao làm nhiệm vụ gì cả, không đựơc viết lách gì nữa cả. Rồi chỉ vài năm sau, xẩy ra những vụ bắt bớ nên anh em chúng tôi tan hết.
ĐQAT: Khi nghe tin đất nước thống nhất ngày 30 tháng Tư năm 1975, tâm tư của ông lúc đó ra sao?
Trần Đĩnh: Tôi vui vì đất nước hòa bình, không chém giết, không đổ máu nữa, nhưng đồng thời cũng lo, không hiểu rằng rồi đây bà con mình, đồng bào mình trong đó sống thế nào.
ĐQAT: Khi vào Sài Gòn, xã hội Miền Nam, trong mắt ông ra sao ạ?
Trần Đĩnh: Tôi bị quy chụp là phần tử xấu nên mãi hai năm sau ngày 30 tháng Tư 1975 tôi mới đựơc vào thăm miền Nam. Tôi chủ trương rằng đất nước mình phải thống nhất thôi; nhân dân, đồng bào phải tìm nhau như con cùng bố mẹ, trước sau cũng phải tìm nhau thôi, hà tất phải dùng vũ trang. Cái mà người ta (đảng cộng sản) đánh tôi nhiều nhất là vì tôi chủ trương không dùng vũ trang, không dùng chiến tranh. Tóm lại, dân tộc mình hai miền đều cùng khổ cả như nhau. Tôi không phân biệt hai miền. Tôi cho rằng nhân dân mình bị gánh nặng nhiều quá. Dân trí thì kém, dân tình thì khổ cực. Rốt cục thì cũng phải tìm nhau thôi, như Nam Bắc Triều Tiên, như Đông Đức, Tây Đức, thực ra chẳng ai có thể chia cắt đựơc.
ĐQAT: Ông nhận định như thế nào về bản hiệp định thương mại Mỹ-Việt được Washington và Hà Nội ký kết hôm 13 tháng 7 vừa qua?
Trần Đĩnh: Có lợi quá chứ. Tôi rất tán thành Mỹ. Đôi bên đều có lợi. Tất nhiên, trong ấy có nhiều người được hưởng lợi hơn, thì phiá Việt Nam có lợi hơn cả. Vì sao? Vì Việt Nam chúng ta là những người đang đi đất, đang đi xe đạp, đang không có tiền, thì nếu được làm ăn, hợp tác với người ta thì theo tôi, nó sẽ tốt, sẽ lợi, làm cho chúng ta trở thành người đi auto, cả nước đi auto, cả nước sẽ có công ăn việc làm, sẽ giàu
TRẦN ÐĨNH
598
có, có kiến thức mới, có công nghệ mới, và do đó, vì cấu trúc kinh tế tự do như vậy, sẽ khiến sinh hoạt của xã hội đựơc tự do. Vì kiến thức nó vào thì xã hội phải khác đi. Chứ còn bây giờ cứ nói rằng dân chủ mà người dân thì khổ sở, người ta ra đường cứ phải kiếm ăn từng tý một thì người ta sẽ không thể nghĩ gì tới sinh hoạt dân chủ chân chính.
ĐQAT: Theo ông nhận định, tình hình Việt Nam hiện nay đang diễn biến theo chiều hướng nào?
Trần Đĩnh: Việt Nam hiện đang có đổi mới, tình hình đang có chiều hướng đi lên. Trước kia, giới lãnh đạo đảng đóng cửa đất nước, bây giờ thì họ phải mở cửa làm bạn với thế giới. Thế là bắt đầu thoáng rồi đấy. Trước kia, không ai biết tình trạng đất nước như thế nào, bây giờ thì mọi người biết trẻ em suy dinh dưỡng ra làm sao, bệnh viêm gan như thế nào, đói thế nào. Đó là bước đầu của tiến trình minh bạch hoá mọi việc. Những sự kiện đó cho thấy có tiến lên, tất nhiên theo kiểu của Việt Nam.
ĐQAT: Xin ngắt lời ông, hướng thay đổi đó có tốt đẹp không?
Trần Đĩnh: Tốt đẹp chứ. Thế giới ngày nay đang toàn cầu hoá. Mà khi đã toàn cầu hoá thì dân chủ phải toàn thế giới. Thế giới mới sẽ có một nền dân chủ cho cả thế giới. Tức là cái tiêu chuẩn chung sẽ thành là của chung. Như tại Việt Nam, tự do kinh tế sẽ khiến dân chúng khá hơn, và tự do kinh tế sẽ dẫn tới những tự do khác. Tất nhiên đảng cộng sản vẫn còn những điều mà dân người ta không bằng lòng thì dân người ta sẽ có ý kiến. Mà tôi cho rằng từ nay trở đi, dân chúng bắt đầu có ý kiến đựơc rồi đấy, mà tôi thấy giới lãnh đạo đảng cũng bắt đầu phải nghe dân rồi đấy. Còn tất nhiên, nghe đến mức nào thì còn cần phải có thời gian. Còn nếu mình quan niệm phải có cái gì long trời lở đất xẩy ra thì suy nghĩ đó cũng
không phải. Vì đất nước mình khổ quá rồi, lầm than quá rồi, dân mình chém giết nhau nhiều rồi, thành ra làm thế nào mình phải đưa đất nước lên tốt đẹp.
ĐQAT: Ông nhận định như thế nào về những người đang tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam như Hòa thượng Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, cựu Trung tướng Trần Độ, nhà văn Dương Thu Hương, nhà trí thức Hà Sĩ Phu .v.v...
Trần Đĩnh: Là một người đòi dân chủ, tôi thấy đấy là những người tôi rất ủng hộ. Họ là những người đã từng đau khổ, đã từng có ý kiến như nhau về dân chủ.
No comments:
Post a Comment