Võ Phước Hiếu
(Viết
chung với Hiếu
Đệ)
NGÀN SAO LẤP LÁNH
(Tập truyện)
Hương Cau, 2008.
(Mọi trích dẫn, dịch thuật và xử dụng trong sanh
hoạt cộng đồng
đều được tự do với điều kiện xin ghi rõ xuất xứ).
|
Bìa của Họa sĩ Nguyễn Thảo
(Florida – Hoa Kỳ)
Trình bày: Anh Vũ.
Mục Lục
**
Hiếu Đệ:
- Vườn Nhãn Bác Sĩ Nguyễn Hữu Trí
- Họa Sĩ Điêu Khắc Gia Phạm Thế Trung
- Tiếng Súng Đêm Giao Thừa
- Câu Chuyện Bé Ký & Hồ Thành Đức
- Hà Mộng Hải Người Họa Sĩ Điên
- Hoa Thược Dược
- Cô Hồn Tháng Bảy
Võ Phước Hiếu:
- Nỗi Buồn Hoài Niệm
- Miếng Thương Miếng Nhớ
**
Vườn Nhãn
Bác Sĩ Nguyễn Hữu Trí
Tôi
quen thân với bác sĩ Nguyễn Hữu Trí từ ngày chúng tôi còn mặc đồ lính. Năm 1962
tôi được bổ nhiệm về Phòng Báo Chí Cục Tâm Lý Chiến chăm sóc mấy tờ báo Quân
Đội cùng với các nhà văn Mặc Thu và Thanh Nam. Lúc đó, bác sĩ Trí trông coi
Phòng khám bệnh của Tiểu Đoàn 50 Cục Tâm Lý Chiến và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung
ương. Thời gian này bác sĩ Trí vừa mới ra trường. Bác còn rất trẻ, khoản chừng
trên dưới ba mươi tuổi. Quân đội Pháp đã rút về nước. Bác sĩ người Pháp hầu như
cũng không còn làm việc ở Việt Nam. Tình trạng khan hiếm bác sĩ trong nước rất gay go.
Tính từ thời người Pháp thành
lập Viện Đại Học đến nay, các bác sĩ chuyên khoa trong nước không quá ba trăm
người để phục vụ cho đồng bào toàn quốc. Cũng như anh em trường Mỹ Thuật chúng
tôi vừa tốt nghiệp ở Sài Gònvào năm
1956, số họa sĩ chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Bác Trí thường nói với tôi:
- Hiếu Đệ à! Chúng ta còn phải
làm việc nhiều hơn nữa. Không lẽ tụi mình phải mặc đồ lính và bị kẹt mãi cả đời
trong trại như thế này sao?
Tình hình trong nước mỗi lúc
một khó khăn. Cộng sản miền Bắc đánh phá khắp nơi. Phật giáo xuống đường chống
lại vụ đàn áp tôn giáo của chính phủ Ngô Đình Diệm. Qua đến năm sau, quân Mỹ
nhảy vào Miền Nam. Chánh phủ Diệm bị quân đội lật đổ. Anh em Nhu Diệm bị giết
hại. Bọn binh tôm tướng cá bên quân đội nhảy lên nắm chính quyền. Chúng tôi
nhân cơ hội này chạy về phía dân sự, cởi bỏ đồ lính trả lại cho quân đội. Bác
sĩ Nguyễn Hữu Trí đắc cử Hội Đồng tỉnh Gia Định. Tôi qua Phủ Thống Nhất nơi đây
gặp đám bạn cũ là luật sư Nguyễn Hải Tấn và Phan Tùng Mai. Tôi xin làm chân Công Cán Ủy Viên Văn Hóa Chính Trị.
Rồi từ đó, tôi mới xin về trường Mỹ Thuật trở lại.
Theo chỗ tôi biết thì bác sĩ
Nguyễn Hữu Trí sinh ở bên Tàu. Bác về nước lúc lên năm tuổi và lớn lên ở làng
Bát Tràng miền Bắc. Ông thân sinh của bác sĩ Trí mang họ Mạc. Lẽ ra bác sĩ Trí
là Mạc Hữu Trí nhưng lớn lên gia đình đổi là Nguyẽn Hữu Trí để lên Hà Nội thi
vào trường Đại Học. Nguyên trọn cuộc đời bác sống trong hoàn cảnh chiến tranh của đất nước
nên bác hằng mơ ước làm sao xây dựng lại thành một nước Việt Nam thanh bình,
thoát khỏi sự chi phối của ngoại bang. Bác thực sự là một người yêu nước, yêu
dân tộc.
Vì ta không lý tưởng
Để lòng ta vấn vương
Quanh quẩn bên yêu đương
Cho thân ta phờ phạc
Cho đời ta tan tác
Hãy tìm ra lối thoát
Cho đời ta sáng hơn
Hãy yêu lấy giang sơn
Cho tình ta rộng lớn
Không ngại nắng hay sương
Quên mình ta sung sướng
Nhân loại là tình thương.
(1958)
Bài thơ này bác làm
từ ngày mới ra trường đại học năm 1958. Những năm còn ngồi ghế nhà trường, bác
rất say mê chính trị. Bác là người đầu tiên thành lập Tổng Hội Chuyên Việt Nam
đánh thức tuồi trẻ Việt Nam thời đó như
tinh thần bài thơ được phổ nhạc thành bài hát kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam ở các
trường đại học trong nước:
Chuyên viên Việt Nam vùng lên!
Bồi đắp non sông huy hoàng
Không phân giai cấp, không gieo hận thù
Anh em quyết chuyên một nghề
Tự mình ta sống chẳng nhờ tay ai
Dân ta tự lập
Anh em ơi! Hãy đứng lên
Muôn người như một, hãy sát cánh bên nhau
Ta cười tin tưởng ngày mai huy hoàng
Hiên ngang hãy sống, hãy làm
Ngửng mặt lên. Người dân Việt
Hiên ngang quyết tâm xây dựng
Một thế giới vui tươi hòa bình!
Mang thiên hạ ra khỏi lầm than điêu tàn
Dám nói dám làm
Đã nói phải làm
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Anh em ơi! Hãy đứng lên!
Hiên ngang như người
Ngày mai cách mạng lên rổi
Ngày mai chuyển hướng nơi nơi vui mừng
Không ngừng tiến lên, không ngừng tiến lên
Anh em ơi! Anh em ơi!
Không ngừng tiến lên!
(1995)
Những năm làm Chủ tịch Hội Đồng Tỉnh
Gia Định, bác sĩ Trí đã xây dựng được các lớp Bách Khoa Bình Dân dạy các ngành
khoa học kỹ thuật, các lớp hướng nghiệp, mở các quán cơm xã hội cho người
nghèo. Bác Trí mơ ước làm sao mỗi người dân Việt Nam có một nghề chuyên môn
trong tay để đất nước mình thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bác là con người khoa học
luôn luôn hướng về cái mới, cải thiện lấy nhân nghĩa để cất cánh bay cao và
tiến xa hơn.
Những ngày mang gia đình di tản
sang quê hương mới, đặt chân đến Michigan giữa những mùa tuyết lạnh rất khó khăn.
Bác đã tranh đấu để đứng vững và vươn lên để xây dựng cho con cái nên người.
Phải nói là buổi đầu có sự tiếp tay của người vợ thật rất lớn. Một bà mẹ Việt
Nam đã tạo nên một thế hệ bác sĩ thứ hai nối tiếp truyền thống gia đình và sống
theo nề nếp của người cha để đi lên bằng chính tài năng thật sự của mình nhằm
xây dựng sự giàu mạnh cho gia đình và cho đất nước sau này. Sau hơn ba mươi năm
loạn lạc, trái đất vẫn tròn, tôi gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Trí ở vùng Ngũ Đại
Hồ Michigan này. Bác sĩ Trí đã nhiều lần tổ chức hội thảo chính trị mở rộng
khối đoàn kết người Việt Nam tự do.
Sau thập niên 80, khối Cộng sản
Bắc Âu và Liên bang Sô Viết đã sụp đổ. Bức tường Bá Linh chia cắt nước Đức cũng
không còn. Tại Đại hội Y Dược Việt Nam tổ chức ở Ba Lê, Pháp, bác sĩ Trí đã đọc
một bài tham luận về sức mạnh dân chủ và tiên đoán khối Cộng sản Việt Nam sẽ bị
cuốn trôi theo làn sóng dân chủ của thế giới không tránh khỏi. Bác sĩ Nguyễn
Hữu Trí là người đầu tiên đứng ra thành lập Ban Chấp hành Người Việt tại thành
phố Grand Rapide và miền Tây Michigan. Trong những nhiệm kỳ đầu, bác sĩ Nguyễn
Hữu Trí được cử làm Chủ tịch và người viết làm Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký.
Bác Trí mơ ước cộng đồng người Việt hải ngoại là hậu cứ của những cuộc cách
mạng dân chủ trong nước.
Trong đêm tối đã có mặt trời
Trên đất Mỹ đã có chúng tôi
Dù đang sinh sống nổi trôi
Quyết đòi công lý không ngơi
Đồng bào ơi!
Bao năm lam lũ nhọc nhằn
Đói không cơm, rét không áo, đau không thuốc
Khó khăn lâu rồi!
Đứng lên thôi! Đứng lên thôi!
Đồng bào ơi! Đứng lên thôi!
Quyết đòi công lý không ngơi
Dưới ánh mặt trời, soi sáng khắp nơi.
(1995)
Ngày nay theo trật tự toàn cầu
hóa, Cộng sản Việt Nam đã gia nhập vào thương mãi thế giới W.T.O. Qua những
cuộc nổi dậy của đồng bào trong nước, từ đồng bằng đến cao nguyên, lực lượng
dân chủ đã vùng dậy kết nạp thành phần trẻ trong nước. Người dân không còn sợ
bạo lực của đảng nữa. Trái lại, đảng đang khiếp sợ trở lại nhân dân. Bác sĩ
Nguyễn Hữu Trí tiên đoán một ngày không xa Cộng sản Việt Nam sẽ bị sụp đổ bởi
hằng loạt sóng thần trong nước do nhân dân vùng dậy:
Toàn dân bừng tỉnh dậy
Cách mạng như sóng thần
Dâng lên từ lòng dân
Tràn ngập khắp nơi nơi
Quét sạch loài cỏ dại
Chẳng ngần ngại xót xa
Xây dựng lại cơ đồ
Ông cha đáng mặt người.
(1995)
Người Việt nước ngoài chúng ta
không có lãnh thổ nhưng tất cả cùng một lập trường quốc gia. Chúng ta có chung
một ngọn cờ vàng đã được các tiểu bang của nước Mỹ công nhận. Bác sĩ Trí gọi đó
là một quốc gia Viêu Việt. Chúng ta tranh đấu ở đây có nghĩa là tranh đấu cho
tám mươi triệu đồng bào trong nước. Chúng ta vì Đại Nghĩa Dân Tộc chứ không đòi
hỏi một quyền lợi nhỏ nhoi nào.
Ai đã tu thân? Ai đã tề gia?
Hãy đứng lên cùng ta lập quốc
Quốc gia Siêu Việt.
Con đường Đại Nghĩa
Giúp nhân loại vui sống tự do ấm no hòa bình
Một đời cho nhân loại thân thương
Cho Việt Nam phú cường.
(03.1996)
Cuộc tranh đấu dân
chủ trong nước không phải là cuộc tranh đấu của một người. Cho dầu bác sĩ Trí
đã nằm xuống nhưng chúng ta vẫn còn hàng vạn người trẻ đang đi tới. Thế hệ lão
niên không còn nữa thì thế hệ tuổi trẻ Việt Nam tiến lên. Trong cuộc chiến đấu
ở Iraq vào những năm trước, trong đạo quân chiến thắng đánh vào chế độ độc tài
ở Baghdad có một số thanh niên là con cháu của anh em cựu chiến binh Việt Nam
Cộng Hòa. Họ mang trong người truyền thống của cha anh. Chúng ta hy vọng lứa
tuổi này sẽ góp bàn tay của mình trong việc gây dựng lại một nước Việt Nam giàu
đẹp và dân chủ phú cường trong tương lai.
Kèn Đại Nghĩa đã thổi vang vang
Anh em ơi! Chúng ta cùng nhau lên đàng
Làm trai quyết chí hiên ngang
Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên
Dân ta cực khổ triền miên
Nào ai thấy cảnh thấn tiên bao giờ?
Việt Nam! Việt Nam ơi!
Ta yêu đất mẹ tuyệt vời
Ai về ta nhắn mấy lời thân thương
Quê hương! Quê hương ơi!
Có ngày ta trở lại
Tương lai rất gần.
(1996)
Thụy Vi, một thi sĩ của thế hệ đi
sau nhưng cũng hưởng ứng tinh thần vì Đại Nghĩa của bác sỉ Nguyễn Hữu Trí:
Cũng muốn thắp đèn trong đêm quá tối
Cười thật tươi trong đời sống ly hương
Dựng lại niềm tin giữa cơn bối rối
Trong tình thương nở rộ khắp mười phương
Cũng muốn phá rừng xới vun đất mới
Gieo giống ươm mầm lên mảnh vườn hoang
Nhựa sống đầy như nụ non mới mọc
Đồng lúa yêu thương nặng trĩu hạt vàng.
Cũng muốn làm chim bay vào nắng sớm
Hành trình xa không mỏi cánh phiêu du
Thu ngắn đường dài bằng đôi chân nhỏ
Sống thênh thang cho bõ kiếp ngục tù.
Cũng muốn hát hò cho người tiếng khóc
Phấn đấu thật nhiều trong kiếp ly hương
Điểm phấn tô hồng cho đời rạng rỡ
Đại Nghĩa mang đến hạnh phúc tình thương.
Cũng muốn xóa đi bao đời nô lệ
Hái nụ xuân hồng ướp thắm hương hoa
Quê hương ta có lắm điều cơ cực
Cuộc sống ưu tư trong chuỗi ngày dài.
Cũng muốn xóa đi bao điều phiền muộn
Bất công, đọa đày, ngu dốt, xấu xa
Tranh sống từng giờ phồn vinh giả tạo
Nước mắt tuôn dòng, lòng vạn xót xa.
Ước mơ dân ta đồng tâm hiệp lực
Cho Việt Nam thật hạnh phúc bình yên
Cho Việt Nam không bao giờ nô lệ
Cho Việt Nam thoát ách triền miên.
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Quyết tâm – Ta phải thành Nhân
Tạo hạnh phúc cho nước nhà vĩnh cửu
Mầm non gieo trên thửa đất điêu tàn.
(Thụy
Vi kính tặng bác sĩ và bà Nguyễn Hữu Trí).
Cuộc tranh đấu vì
Đại Nghĩa, vì lá cờ vàng, mặc dầu chúng ta đang ở nước ngoài vẫn gay go lắm,
chứ không phải bình thường. Không tránh khỏi bị người Việt với nhau trong cộng
đồng chụp mũ. Bác sĩ Trí không tránh khỏi bị chụp mũ là Cộng sản, là nằm vùng,
là thân Cộng. Tờ báo Người Việt Michigan bị đánh phá không cho lấy quảng cáo
nữa. Các chợ, các nhà hàng người Việt nào phát hành tờ báo sẽ bị hăm dọa tẩy
chay. Tờ báo phải dẹp tiệm thôi. Bác sĩ Trí cũng hay than phiền là khoản tiền
bảo hiểm mỗi năm một lên nhất là mỗi khi làm bác sĩ mà vấp phải những vụ kiện
tụng. Mỗi vụ kiện như vậy không phải một năm là xong, có khi còn kéo dài đến ba
bốn năm, sống lo lắng đến phải đau tim. Bác là bác sĩ sản khoa, giải quyết
những ca sinh đẻ cũng hồi hộp lắm.
Hơn nữa tiểu bang
Michigan vào mùa tuyết lạnh, mặt trời bị mây mờ che phủ. Cây cối trơ cành.
Không có ánh sáng mặt trời, tim bác không được khỏe. Bác dời về thị trấn Naple,
tiểu bang Florida để dưỡng bệnh và nghỉ hưu. Nơi đây khí hậu ấm áp như ở Lái
Thiêu, tỉnh Bình Dương Việt Nam. Năm 1997 thị trấn Naple chỉ toàn là rừng, dân
cư thưa thớt như nông thôn Việt Nam. Buổi sáng thức dậy nghe tiếng gà gáy,
tiếng chim hót líu lo. Cuộc sống ở đây như một ẩn sĩ, không còn ai tranh chấp
hơn thua với mình nữa. Khung cảnh rất thanh bình. Chỉ có hai mùa mưa nắng. Có
điều hơi xa thủ đô Orlando của tiểu bang Florida, lái xe lên phố phải mất bốn
tiếng đồng hồ. Bác sĩ Trí xây ngôi nhà ngói đỏ và bắt đầu vui thú điền viên,
xin nhận nơi này làm quê hương. Bác nói làm vườn chẳng phải mua bảo hiểm nữa vì
chẳng có cây cỏ nào nó kiện mình hết, khỏe re.
Bác cũng rủ tôi đi
làm vườn với bác. Vì đất rừng ở đây rất rẽ chỉ có ngàn đồng một mẫu tây. Tôi
nghĩ mình nay cũng có tuổi rồi đâu cần làm anh chàng tarzan ở trong rừng nữa,
sống với con cháu được ngày nào hay ngày đó chẳng vui hơn sao? Đám con bác Trí
xây cho bác cái nhà thật đẹp, có hồ tắm, có hòn giả sơn, có dòng suối và chiếc
cầu bắt ngang.
Trong vườn ngồi ngắm cỏ hoa
Dưới nước cá lội trên cành chim ca
Ngoài kia vẳng tự đàng xa
Nghe tiếng suối đổ reo hòa với thông
Trời xanh mây trắng vẫn hồng
Làm ta lại chạnh đau lòng xa quê
Xa quê mong có ngày về
Mơ sao “Đại Nghĩa Việt Siêu” mau thành
Tuổi
ta nay đã sáu tư
Mong con cháu tự theo đường ta đi
Can đảm, yêu thương, đoàn kết
Trai tài, gái sắc, thông minh, hiền hòa
Thế
là sống trọn đời ta
Đi từ
trái đất tiến vào thiên thai
Chẳng
cần ganh tị cùng ai
Chỉ
cầu nhân loại vui tươi thái bình.
(1998)
Khu vườn của bác rộng khoản năm mẫu tây. Bác trồng
được hơn một ngàn cây nhãn và một số cây ăn trái. Công lao động ở đây thật rẽ,
khoản hai ba đồng một giờ. Mình đến chợ người thuê người Cuba hay người Mễ về
làm, chiều chở họ về trả lại chợ người. Quanh năm bác trồng rau loại ngắn hạng
như rau muống, ngò gai, húng quế, bầu bí. Có nhà thầu đến thu gom cứ mỗi tuần
lễ đôi lần. Bác Trí mơ ước nơi đây sẽ là một làng Việt Nam lấy tên là Hùng
Vương xã. Nơi đây sẽ trở thành một làng xã như ở Đài Loan. Con người ở Đài Loan
họ cũng căm thù cộng sản ở Hoa Lục. Nhưng họ chỉ lo làm ăn. Họ chỉ xây dựng
thành một quê hương giàu đẹp làm cho Trung cộng phải lẹt đẹt theo sau đó là
điều chắc chắn.
Nguyễn Gia Trang. Làng Việt Nam
Mang tên “Hùng Vương xã”
Tinh thần Hưng Đạo Vương
Đại nghĩa thắng hung tàn
Trí nhân thay cuồng bạo
Mang dòng giống Việt
Sáng ngời năm châu
Dù đang sinh sống nơi đâu
Về đây góp mặt
Xứng danh: con Rồng cháu Tiên
Xây nhà ngói đỏ. Với vườn cây xanh
Sống trong thanh bình. Con cháu noi
gương
Tiến lên!
Trong một thế giới. Vui tươi hài hòa
Florida!
Nơi
ta lập nghiệp lâu dài ai ơi.
(12.1998)
Tính đến ngày Giỗ Tổ Hùng Vương năm 2003 cũng đã có
hơn hai mươi gia đình người Việt Nam về đây lập nghiệp. Lúc này thị trấn Naple
không còn là cánh rừng như hồi bác sĩ Trí mới đến nữa. Đất rừng ở đây người ta
không còn bán cho mình với giá một hai ngàn US đô la một mẫu mà đã được nhân
lên đến ba mươi ngàn đồng. Thành phố trở thành một nơi nghỉ mát rất đẹp, đã có
shoping mall rất tối tân, xa lộ sáu lanes rộng lớn, phi trường mở rộng. Vườn
nhãn của bác sĩ Trí xanh mướt trái nhiều, cành quằng xuống đất. Thu hoạch hằng
ba bốn trăm ngàn đồng mỗi năm. Bác thường khoe với tôi vườn nhãn của bác rất
đẹp như con gái mười tám. Mỗi mùa xuân, mỗi cây nhãn cho bác hơn cả trăm pounds
trái nhãn.
Đây
mảnh đất hoang vu đầy cỏ
Biến
nó thành một chỗ vui chơi
Từ
ngàn xưa mảnh đất không người
Nay
dân Việt cùng nhau đoàn tụ
Mảnh
đất ấy nằm vùng tráng lệ
Chờ
bàn tay bồi đắp dân ta
Buổi
ban đầu tuy bước không xa
Đặt
căn bản cũng là trọng hệ
Dân
tộc ta lưu vong bốn bể
Gặp
lại đây trên đất hữu tình
Mảnh
đất này sẽ có cây xanh
Có
trái thắm và bông hồng rực rở
Đất
tồn tại với không gian rộng mở
Chỉ
tình mình vọng lại quê hương
Đất
với người vương vấn tình thương
Hồn
dân tộc ấm lòng thế hệ.
(K.T.S. Nguyễn Đình Thi Sarasota
- Đầu Xuân 2000)
Tôi biết bác ở một mình trong rừng cũng buồn lắm nên
bác thường rủ tôi xuống ở chơi với bác. Nhất là những mùa đông ở trên Michigan
chỗ tôi ở mây mù và tuyết lạnh. Bác kêu tôi đi trốn tuyết ở nhà bác một đôi
tháng, anh em rủ nhau phơi nắng, tắm biển đến khi Michigan trời hết tuyết rồi
hãy về. Có hôm tôi đi chơi ở nhà bác Trí gặp lúc bác đi khám đầu ở nhà thương
For Meiyer. Bác bảo tôi mang theo quyển tiểu thuyết ngồi đọc chờ bác đi khám.
Khi ra về, bác nói mấy scane khám trong đầu bác thấy có bướu não. Họ bảo tuần
sau đi mổ. Tôi lý luận với bác:
- Nếu như ngày xưa chưa có cái máy đo đó thì họ đâu có
biết là mình có bướu não. Mình cũng sống được từ năm năm đến bảy năm nữa, có
chết cũng chẳng sao. Bây giờ mình thử phớt lờ đi cũng được chứ gì.
Bác Trí cự nự:
- Ông là nghệ sĩ nói sao cũng được. Chứ tôi làm khoa
học, thấy bệnh thì phải chữa, phải sống chết vì khoa học, phớt lờ đâu được.
Hôm đó nhân mùa Giỗ Tổ Hùng Vương có giáo sư Nguyễn
Văn Canh xuống thăm vườn nhãn của bác sĩ Trí. Tối hôm đó có một buổi họp bạn
thân mật có một số anh em trẻ tham dự gồm kiến trúc sư và địa ốc cùng các ngành
xây dựng. Họ phác họa chương trình phát triển mở rộng thị trấn du lịch và
thương mãi của người Việt Nam ở Naple. Các chuyên viên trẻ dĩ nhiên họ làm ăn
mạnh bạo hơn mấy cụ già. Họ có thể vay bạc triệu từ các ngân hàng để xây dựng
thành phố. Nhưng dù sao bác sĩ Nguyễn Hữu Trí vẫn là người mở đường đi trước.
Qua ngày sau, chúng tôi kéo nhau về Orlando thì nghe tin bác Trí đi giải phẩu
bướu não. Bác đi luôn trong ca mổ. Bác
vẫn lạc quan như những phi hành gia trong chiếc phi thuyền Chalenger khi về đến
gần trái đất.
Hôm nay làng Hùng Vương lớn mạnh thành một đô thị.
Vườn nhãn vẫn đơm bông kết trái, chim vẫn hót, hoa vẫn nở nhưng bác sĩ Trí
không còn nữa. Bà vợ của bác sĩ Trí từ nay không dám sống đơn chiếc một mình ở
trong rừng. Bà bán vườn nhãn trở về ở với con cháu trên tiểu bang Michigan.
Hiếu Đệ
**
Họa Sĩ, Điêu khắc gia
Phạm Thế Trung
Ngày Phạm Thế Trung vào Đại học Mỹ Thuật cũng là ngày tôi mang khăn gói
đi vào trại tập trung cải tạo. Lúc bấy giờ các ngành văn học nghệ thuật được
nhà nước nâng lên hàng "tiếng nói của Đảng". Phó tiến sĩ Lê Phước
Sanh ở Liên Xô về, được cử làm Giám đốc Trường Đại Học Mỹ Thuật, chỉ huy một
đám họa sĩ và điêu khắc gia từ ở chiến khu trở về.
Đám bạn bè của tôi như
Trần Vạn Lộc, Huỳnh Phương Đông, Cổ Tấn Long Châu, nhất là Lê Vinh, Nguyễn Thái
Bình làm việc ở Phòng Quản Lý Mỹ Thuật. Họ đều lên án Hiếu Đệ là "đại họa
nô" của Việt Nam Cộng Hòa, một Đại úy Cục Tâm Lý Chiến nên họ ưu ái đánh
giấy giới thiệu để tôi đi vào trại tập trung cải tạo sớm cho khuất mắt. Coi vậy
dầu cho mình có đi cải tạo mút mùa nếu không kiệt sức chết ở trong rừng thì
cũng vẫn có ngày về lại được thành phố. Trừ khi chết ở trong rừng mới hết về! Ngày tôi xuất trại cải tạo, phòng An ninh
Chính trị ở đường Nguyễn Trãi có kêu tôi lên trình diện. Họ bảo tôi rằng sau
khi được cải tạo rồi thì không được làm nghề cũ nữa. Như người nghiện ma túy đã
được cai thuốc phiện rồi thì không được hút nữa mà phải làm một người dân lương
thiện, phải lao động sản xuất xây dựng xã hội chủ nghĩa!
Chuyện này cũng dễ
thôi! Tôi thuê một chiếc xích lô đạp lòng vòng trong phố, thong thả đi uống cà
phê và đọc sách báo, gác cẳng nằm ngủ dưới bóng cây bên vỉa hè. Còn gì vui
sướng cho bằng! Nhưng có điều mình cũng còn nhớ mùi sơn cọ. Nhớ màu sắc lung linh.
Nhớ cái không khí làm nghệ thuật ở Sài Gòn ngày xưa, nên thỉnh thoảng tôi có
tắp vào hội quán của Hội Mỹ Thuật thành phố. Nơi đây có cà phê buổi sáng, bia
hơi, rượu đế buổi chiều, có triển lãm tranh và nhạc sập sình. Văn nghệ sĩ đủ
loại già trẻ, đám cũ đám mới gặp gỡ xi lăng xi lô. Đôi khi tôi gặp lại cả Trịnh
Công Sơn, Phạm Trọng Cầu ôm đờn nghêu ngao với mấy em bé. Đám nghệ sĩ già như
Văn Cao, Diệp Minh Châu cũng thường ghé lại đây.
Hơn nữa ở đây tôi còn gặp
lại đám học trò cũ ngày tôi dạy ở Trường Mỹ Thuật Huế và Trường Vẽ Gia Định.
Chúng nó có đứa chưa ra trường nhưng cũng được làm hội viên Hội Mỹ Thuật. Có
thể nhà trường cố làm như vậy để học viên làm quen với sinh hoạt văn hóa nghệ
thuật của xứ xã hội chủ nghĩa. Do đó, tôi gặp Phạm Thế Trung. Bây giờ nó làm đệ
tử của Lê Phước Sanh ở chuyên khoa điêu khắc. Nó thấy tôi sáng xỉn chiều say,
nó bảo:
-
Ông thầy điệu này hư rồi. Đã đạp xích lô mà còn say sưa nữa thì còn làm gì cho
tương lai.
Tôi
chỉnh nó ngay:
-
Tương lai của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là do các đoàn viên, đảng viên, hội
viên... chứ cải tạo viên như ông thầy chỉ có rong chơi ca múa chờ bảo lãnh sang
định cư ở nước Mỹ thôi.
Nó
hỏi tôi:
-
Ông thầy có sáng tác gì nữa không?
Tôi
tức cười nói:
- Ai cho? Sơn cọ, khung vải là tư
liệu sản xuất, tất cả do nhà nước quản lý. Mình, phó thường dân, ai cho mình
được cái quyền ca ngợi đảng. Vẽ không khéo họ bảo mình châm biếm là đi tù! Đạp
xích lô yên phận rồi thôi, không được đèo bồng. Thôi đừng có hỏi dông dài. Thầy
trò mình gặp nhau chỉ có uống rượu thôi. Mình chỉ được quyền nói chuyện chung
quanh ly rượu là được rồi!
Ngày
xưa, sau vụ tổng công kích năm Mậu Thân, nhờ có sắc luật tổng động viên nên tôi
được biệt phái về Trường Vẽ. Học sinh chúng nó rất thích cái tính của tôi rất
là lính, ngang tàng hơn các ông giáo sư khác. Ngày đó, Viện Văn Hóa Pháp có
giúp cho trường hai ông giáo sư trẻ. Họ là thứ họa sĩ mới ra trường Mỹ Thuật
Paris. Được dịp trong lúc tình hình Việt Nam hỗn loạn ở khắp nơi, thành phố rơi
vào cảnh trụy lạc yêu cuồng sống vội, mãi dâm, xì ke ma túy đầy dẫy, hai ông
Tây con này bị lũ trẻ ở trường rủ ren đến hư thân mất nết, nghiện xì ke, nằm
ngủ lang bang trong Xóm Đình sau Trường Vẽ. Tôi bàn với họa sĩ Đỗ Đình Hiệp,
Giám đốc trường trả mấy giáo sư nước ngoài lại cho Trung Tâm Văn Hóa Pháp. Mình
không nên làm hư hại thanh niên của người ta. Ông Hiệp rất là hiền lành, giao
đứt công việc này cho tôi bằng câu:
-
Ờ, Hiếu Đệ cứ thảo văn thư đi, rồi đưa tôi ký cho.
Sau
khi mấy họa sĩ về nước, ông Rémaud Giám đốc Trung Tâm Văn Hóa Pháp đến cám ơn
tôi rất nhiều. Về lại Trường Vẽ, tôi khởi sự làm tranh trở lại. Đưa học trò đi
vẽ ở ngoại cảnh. Bài của học viên làm chưa xong thì ông thầy đã có được mấy bức
tranh đẹp. Đến đỗi Chú Ba Lượng, Giám thị của trường còn ngạc nhiên hỏi:
-
Ông Đệ đâu phải là học trò mà ông vẽ lu bù vậy?
Học
viên thấy tôi chẳng những giảng bài và phê bình bài mà còn vẽ ra được bằng tác
phẩm nên rất thích. Họ cảm thấy như được tiếp xúc với một chế độ học xưởng, cả
thầy và trò cùng làm tác phẩm rất thoải mái. Nhờ thế khoảng cách giữa thầy và
trò rất thân mật như trong một mái ấm gia đình. Do vậy, khi tôi mới vừa định cư
ở Mỹ, Phạm Thế Trung nghe tin, lái chiếc xe Van từ Toronto chở vợ con chạy qua
thăm tôi. Hai thầy trò chúng tôi có hơn mười năm mới gặp lại nhau. Chúng tôi
tưởng đâu vẫn muôn đời nghìn trùng xa cách. Trung cho biết nó vượt biên qua
Canada từ năm 1982. Lúc ấy, nó chưa tốt nghiệp Đại học Mỹ Thuật. Mùa hè năm đó,
trường cử nó đi xâm nhập thực tế ở quê hương Đồng Khởi (tức là tỉnh Bến Tre) để
lấy tư liệu làm tác phẩm thi ra trường. Trong chuyến đi Mõ Cày và Bình Đại,
nhân cơ hội đó nó vượt biên trót lọt. Trung cho biết vợ chồng nó làm ăn rất
khá. Nó có một cửa tiệm trang trí nội thất. Vợ Trung là Phan Ni Phấn có tiệm
may thời trang và một căn nhà rất đẹp, tất cả ở trên đường Dundas, trung tâm
thành phố Toronto. Cha mẹ vợ là người Hoa, vừa mới được bảo lãnh qua Canada hơn
năm năm nay, trước là chủ tiệm cầm đồ Phước Lợi ở trước chợ Gia Định. Ông cụ là
Hiệu trưởng trường Viết Thành dạy tiếng Trung Hoa và tiếng Việt ở sau chợ Bà
Chiểu. Thằng Hiếu, con trai của Trung lúc đó được mười tuổi.
Trung
có nói chuyện với tôi về cuộc thi tác phẩm điêu khắc do Bộ Văn Hóa của Canada
tổ chức, có giải thưởng 5.000 đồng. Bức nào được giải sẽ được chọn phóng lớn
làm tượng đài dựng ở trung tâm thành phố. Đa số những tác phẩm hôm nay hay dùng
ngôn ngữ nghệ thuật mới, "Arts Modernes", hướng theo cái nhìn của đô
thị có xu hướng nặng về kiến trúc. Đề tài ngã về trừu tượng. Nước Canada rất
tôn trọng màu sắc đa văn hóa (Multiculture). Hơn nữa, hiện nay Việt Nam chúng
ta là dân tộc sau cùng đến định cư. - phố Toronto có tượng Gandhi của Ấn Độ,
tượng Tôn Dật Tiên và tượng Khổng Phu Tử của Trung Hoa, tượng thi sĩ Alexandre
Puskin của Nga, tượng đài kỷ niệm Cuộc Nổi Dậy ở Ba Lan năm 1956 v.v... Tôi
thảo luận với Trung về vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Hơn một thập niên qua, làn
sóng di tản của ngươi Việt Nam, cả hàng triệu người vượt biển, khiến cho cả thế
giới bàng hoàng xúc động. Cao Ủy Liên Hiệp Quốc phải gọi tiếp cứu. Tất cả các
nước vùng Đông Nam Á nơi nào cũng có thành lập các trại tị nạn.
Trong lịch sử Việt Nam đã trải
qua một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, nhưng chưa lần
nào dân ta phải bỏ nước ra đi đông đảo như thế. Điều này đủ chứng tỏ là chế độ
độc tài của Cộng sản tàn ác hơn ngàn lần bọn Tàu, Tây thuở trước. Chính Phạm
Thế Trung cũng là người vượt biên, lấy sự chết chốc để đổi lấy tự do! Tại sao
Trung không nói lên nỗi nguy hiểm và thống khổ của thuyền nhân Việt Nam. Chúng
ta nên làm một tượng đài để nói lên một giai đoạn lịch sử đau thương và khao
khát tự do của dân tộc mình! Thầy trò chúng tôi thảo luận từ đêm đến sáng về
một pho tượng với đề tài "Vượt Thoát Đi Tìm Tự Do" (Escaped for
Freedom). Một bà mẹ Việt Nam bế con vượt đại dương hiểm trở để đi tìm một tương
lai cho đứa bé! Có thể sau hai mươi năm, đứa bé đang đứng dưới chân pho tượng
sẽ là một kỹ sư, một chuyên gia sáng chói trong đội ngũ khoa học kỹ thuật ở
nước ngoài, lúc đó nó nghĩ về bà mẹ mình ngày xưa, bây giờ không còn nữa. Có
thể cậu sẽ đặt dưới chân pho tượng này một vòng hoa. Văn hóa dân tộc là như thế
đó. Tôi viết cho Trung hơn hai mươi bài đăng ở các báo để yểm trợ cho pho tượng
đi vào giải thưởng. Nhớ lại phong trào hội họa Lập Thể của Picasso buổi đầu bị
người thưởng ngoạn tẩy chay, liệng đá vô phòng triển lãm. Thi sĩ Apolinaire
phải viết hơn hai chục bài ca ngợi cho lối vẽ này. Vấn đề quảng cáo cũng rất
quan trọng. Nó là sợi dây liên kết giữa tác giả, tác phẩm và người thưởng
ngoạn.
Trong
Trường Mỹ Thuật, người ta cũng thành lập thêm ngành chuyên khoa này để cho mấy
học viên không có năng khiếu, không vẽ được ra tranh. Người ta gọi chuyên khoa
này là ban chuyên tu lý luận. Bởi một đứa nói ngang, ba làng cãi không lại là
như thế! Một số nghệ sĩ Việt Nam tốt nghiệp ở nước ngoài trong nhóm Tiên Rồng
cũng có gởi tác phẩm tham dự nhưng không được ban giám khảo lưu ý. Họ diễn tả
đề tài bà tiên lấy con rồng đã rườm rà và không hợp lý. Có người diễn tả quả
trứng của bà Âu Cơ to bằng cái nhà nở ra trăm người con, làm chẳng có ai hiểu
nổi. Đã đành đó là một khối tròn nhưng không thể nào đẹp bằng hình dáng người
phụ nữ được Henri More diễn tả thành những khối Donut theo xu hướng trừu tượng
trong biểu tưởng mới. Chẳng bao lâu, Trung chạy qua Mỹ cho tôi hay pho tượng
của nó được trúng giải. Chính phủ Canada bằng lòng cho dựng tượng đài này ở góc
phố Tàu thành phố Ottawa. Người ta có thói quen gọi là Phố Tàu (Chinatown) chứ
thật ra là Phố Việt (Vietnamtown). Thầy trò tôi phấn khởi kéo nhau lên xem địa
điểm để phác họa tượng đài nằm giữa ngã tư đường Somerset và Preston. Chúng tôi
chạy về họp các hội đoàn thuộc cộng đồng Việt Nam để tổ chức xin quyên góp một
số tiền. Lúc đầu chúng tôi có làm một thông cáo kêu gọi lòng hảo tâm của đồng
bào đã từng vượt biên và sinh sống tại Canada, xin mỗi người cho một đồng. Hy
vọng sẽ được vài trăm ngàn. Vì dựng một tượng đài để giữa phố như vậy đòi hỏi
phải tốn kém bằng cất một ngôi nhà, chưa kể vườn hoa và ánh sáng. Cuộc lạc
quyên kéo dài thu góp cũng chẳng được bao nhiêu. Cộng đồng người Việt ở Toronto
phải tổ chức những bữa cơm gây quỹ. Những bữa cơm gây quỹ như thế chỉ kiếm lời
được chừng ba bốn ngàn. Cộng sản nghĩ rằng chúng tôi đẽo cày giữa chợ, chẳng
bao giờ xong!
Hơn
nữa, Phạm Thế Trung là học trò ruột của phó tiến sĩ Lê Phước Sanh. Nó chưa tốt
nghiệp Mỹ Thuật thì "võ công" của nó được bao nhiêu mà làm tượng đài.
Ở Việt Nam, người ta chú trọng đến vấn đề tuyên truyền nên họ chỉ làm tượng
bằng xi măng thôi. Ngân khoản của họ chỉ dựng được tượng xi măng là hết sức
rồi! Tôi nhớ ngày xưa khi tôi còn là Trung úy, Hội Đồng Tướng Lãnh Bộ Tổng Tham
Mưu muốn tổ chức ngày Văn Hóa Quân Đội để kỷ niệm ngày 19 tháng 6, Ngày Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa lên nắm vai trò bảo vệ đất nước. Việc này để chứng tỏ họ
không phải là binh tôm tướng cá, chỉ chuyên môn đánh đấm, thi hành trước khiếu
nại sau. Một ngày mà tất cả mọi ngành văn hóa nghệ thuật trong nước được thể
hiện rõ nét đề cao vai trò quân đội, có trao giải thưởng văn chương, mỹ thuật,
âm nhạc, điện ảnh, nhiếp ảnh... đủ thứ. Họ muốn dựng hai mươi tượng đài khắp
các công trường ngả tư, ngả sáu trong thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định.
Trong lúc đó ngân khoản để dựng tượng chỉ còn lại có hai trăm ngàn đồng. Họ hỏi
tôi có làm được không? Lúc đó vào khoảng năm 1965, tình hình trong nước đang
sôi động, thanh niên xuống đường khắp nơi. Phật giáo, Công giáo chống đối nhau.
Đoàn thể này chống đoàn thể kia. Cảnh sát dã chiến phải điều động suốt ngày.
Trong nội các, tướng lãnh cũng thanh trừng lẫn nhau tơi bời, chẳng phe nào chịu
thần phục phe nào.
Tôi
trả lời Bộ Tổng Tham Mưu là tôi sẽ làm được thôi với điều kiện tất cả các tượng
đài đó phải không được đẹp. Lúc đó, người làm điêu khắc chỉ đếm được trên đầu
ngón tay. Nguyễn Văn Thế dựng tượng Hai Bà Trưng ở Bến Bạch Đằng. Lê Ngọc Huệ
dựng Thánh Đường La Vang ở Quảng Trị bị lên án là gia đình Nhu Diệm. Họ bỏ về
Pháp cả rồi... Tôi chỉ dùng các nhà điêu khắc bất đắc dĩ, toàn là thợ hồ, thợ
mộc ở thành phố. Chính Nguyễn Văn Thu được tiếng là điêu khắc gia nhưng Thu
cùng học với tôi một lớp trong chuyên khoa sơn dầu thôi. Vấn đề tượng học, khi
quần chúng đã tin tưởng rồi thì nó sẽ là một pho tượng rất có giá trị. Do đó,
người ta có thể chỉ cục đá nói là pho tượng Phật cũng được. Hay nhìn khối đá,
họ bảo là tượng Hòn Vọng Phu. Còn nếu quần chúng không thích nữa thì họ hạ bệ
thần tượng quẳng vào hố rác. Chuyện đó dễ thôi. Tôi có thể dùng ngân khoản hai
trăm ngàn đồng phân phối cho các binh chủng, mỗi ngành mười ngàn, họ sẽ dựng
tượng thánh tổ của binh chủng họ. Để vinh danh màu cờ sắc áo của họ, họ có thể
bỏ ra một ít tiền túi đóng góp thêm. Điểm thứ nhất, mình tạo được an ninh ở
công trường đường phố để thanh niên khỏi xuống đường. Điểm thứ hai, mình đề cao
được vai trò của quân đội đảm nhiệm công cuộc bảo vệ đất nước. Mà chỉ có hai
trăm ngàn đồng thôi, quá rẻ! Đã rẻ như vậy mà cứ đòi đẹp và giá trị thì đâu có
được! Quý vị tướng tá nghe luận điệu của tôi, họ chịu lắm:
-
Ờ! Chú làm sao thì làm.
Như
vậy, buổi sáng Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1965, hơn hai chục tác phẩm điêu
khắc của các tượng đài được khánh thành rất trọng tnể. Phạm Thế Trung nghe ông
thầy Hiếu Đệ kể chuyện làm tượng đài ở Việt Nam, cười khoái chí. Tôi trấn an
nó:
- Đừng có lo pho tượng Bà
Mẹ Việt Nam không hoàn thành được. Chi bằng mình hãy bỏ tiền túi và công sức ra
dứt điểm thành một tác phẩm đẹp cái đã! Trước nhất phải bỏ năm trăm ra mướn một
ngôi nhà để làm xưởng, năm trăm nữa kéo vật liệu và tiêu xài. Còn phải bỏ thêm
năm trăm nữa để thuê người đứng làm mẫu. Mình phải kết thúc chỉ trong đôi tháng
để tránh phải tiêu xài nhiều.
Chúng
tôi quyết định hoàn thành tượng đài và lễ khánh thành sẽ lấy mốc là ngày 30
tháng tư năm 1995, kỷ niệm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam, một trận tuyến
lớn và dài nhất của cuộc chiến tranh lạnh và cũng là ngày đánh dấu năm mươi năm
kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến. Làn sóng vượt biển của thuyền nhân Việt Nam cũng ghê
rợn và khủng khiếp giống như lò ngục Holocaust của Phát xít Đức Quốc Xã năm
mươi năm về trước. Tôi hình dung ngày đó sẽ có một cuộc diễu hành vĩ đại. Nhiều
ngàn người Việt lưu vong từ các nơi trên khắp nẻo đường đất nước đổ về, đi theo
sau dàn quân nhạc có cờ quạt bay rợp
trời. Đông đủ mặt các vị đại diện chính quyền nước Mỹ và Canada cũng đến làm lễ
khánh thành và đặt vòng hoa dưới chân tượng đài. Trong mùa tuyết lạnh năm đó,
chúng tôi hoàn thành pho tượng một cách rất vất vả. Pho tượng cao hơn hai mét
nên đòi hỏi sức lao động rất nhiều. Bên cạnh chúng tôi còn có cả một Ủy ban Xây
dựng Đài Kỷ Niệm, gồm có ông Vũ Xuân An và ông Lê Duy Cẩn đồng chủ tịch lo vấn
đề đối ngoại. Chúng tôi còn rủ một số anh em ở California qua. Trước đó là điêu
khắc gia ở Việt Nam sang yểm trợ công việc đúc khuôn. Tháng 11 năm 1994, pho
tượng xi măng được hoàn thành. Chúng tôi lấy bảo hiểm và chở lên Québec giao
cho lò đúc của Mỹ. Hợp đồng đến giữa tháng 4 năm 1995 là đúc xong thành pho
tượng đồng với số tiền là 70 ngàn. Bây giờ chúng tôi đã có pho tượng đàng hoàng
nên dùng giấy nợ của lò đúc đi lạc quyên cũng dễ hơn. Ông chủ siêu thị Tân Á
cho 5.000 đồng. Ông ta nói đùa:
-
Đó thấy chưa! Tân Á này không bao giờ cho một đồng đâu!
Mấy
ông chủ siêu thị và mấy cơ sở thương mại khác lên tiếng:
-
Tân Á này coi vậy mà lối hén. Hắn ta là Hoa Kiều trước đây ra đi chính thức,
chớ có phải là dân vượt biên hoặc đi chui đâu mà cũng chơi trội!
Đám
này lại tức khí cho nhiều hơn ông Tân Á khiến mấy bà giám đốc Thẩm Mỹ Viện lại
chạy đua góp nhiều hơn nữa. Giới phụ nữ trong cộng đồng người Việt Toronto còn
giành công tác đi vận động lạc quyên. Chẳng mấy chốc, số tiền quyên góp vượt
khỏi 70 ngàn lúc nào không hay. Khi tôi viết bài này thì câu chuyện xây dựng
Tượng Đài Thuyền Nhân Việt Nam ở thủ đô Ottawa đã trải qua hơn năm năm rồi. Cộng đồng người Việt ở Canada đang chuẩn bị
làm lễ kỷ niệm ngày đầu tiên dựng tượng đài Người Mẹ Việt Nam vào ngày 30 tháng
tư năm 2000. Bà con sẽ tổ chức buổi diễu hành của cộng đồng Người Việt tị nạn
từ các nơi tập hợp về cùng đoàn quân nhạc, cùng đại diện các hội đoàn và đoàn
thể trên thế giới về làm lễ bên pho tượng Bà Mẹ Thuyền Nhân Việt Nam ở thủ đô
Ottawa. Năm năm rồi Bà Mẹ vẫn đứng trong năm mùa sương tuyết mong đợi đàn con
trở về giải phóng quê hương và xóa bỏ chủ nghĩa Cộng sản độc tài.
**
Năm năm trôi qua... Câu chuyện không êm xuôi
như dòng sông đang chảy. Phạm Thế Trung là người biết lo lắng cho vợ con. Tất
cả mọi thứ nó đều mang về xây dựng cho mái ấm gia đình đến nỗi nhạc sĩ Mai Đằng
còn nói:
- Anh Đệ à! Hình như Trung không phải là đàn
ông như tụi mình. Anh Nguyễn Tăng Chương trông coi tờ báo Sóng vốn là thầy dạy
học của Trung ở trường Pétrus Ký không nhìn Trung nữa vì nó là em út của Nguyễn
Hữu Nghĩa báo Làng Văn! Báo Làng Văn thù nghịch với báo Sóng. Sở dĩ báo Sóng
chết ngủm cũng bởi báo Làng Văn...
Tôi có tới nhà anh Nguyễn Tăng Chương chơi mấy
bữa. Anh ta bày bát Trung quá cỡ. Tôi có lời bênh vực Trung: "Thôi anh à!
Anh đừng chấp nê trẻ nhỏ!". Anh ấy cự nự: "Trẻ nhỏ cái cóc khô gì, nó
năm nay gần năm mươi tuổi đầu rồi chớ phải ít chi!". Thường thì mấy ông
già hơi gàn. Chị Chương có nói anh ta khó tánh mà chị khuyên hoài chẳng được
đến đỗi báo Sóng mỗi tháng chị phải bù vào trong đó hơn năm trăm đồng. Chị bảo
anh nghỉ làm báo nhưng anh vẫn không chịu. Tôi nói chúng ta phải nhìn nhận
những người làm báo hôm nay ở hải ngoại, tất cả là những anh hùng và mình phải
có bổn phận giúp đỡ anh em đó mới đúng nghĩa. Hôm tờ báo Lửa Việt đóng cửa giải
nghệ, Trung nói với tôi:
- Nhóm Hải Triều là
Việt cộng.
Nó còn bảo Nghĩa nói
với nó như thế mà. Tôi
cự nự với Trung:
- Vậy chớ chú mầy là đệ tử của
Phó tiến sĩ Lê Phước Sanh chuyên môn đắp tượng ông Hồ, sao người ta chẳng nói
Trung là Việt cộng đi cho được việc! Ông thầy cũng sợ người ta chụp mũ, không
lẽ phải đội nón sắt cả đời sao?
Mùa
hè năm 1996, thầy trò chúng tôi đi xuống Washington D.C. Như mọi lần thì vợ con
Trung cùng đi theo. Nhưng năm nay thì lại khác. Tôi đoán biết chuyện nhà của
Trung đang đến hồi cơm không lành canh không ngọt. Hỏi ra mới biết vợ nó đang
gây chuyện. Phụ nữ vào lứa tuổi bốn mươi trở lên, cơ thể có khi suy yếu. Họ cảm
thấy có thấp khớp hoặc đau lưng nhức mỏi. Có người bạn gái tới tiệm may áo,
mách cho ý kiến, khuyên cô nàng đến bác sĩ nọ để tập Therapy. Cô ta khai là
trước kia học Đại Học Khoa Học, nay có hiệu may thời trang. Anh bác sĩ Mỹ này
bảo rằng cô nàng trẻ đẹp như thế, làm nghề may không tốt, ngồi khom lưng mỏi cổ
như thế xương sống sẽ đóng vôi. Cô trước kia học khoa học, nay có thể tiếp tục
học lên y khoa, nữa sau ra làm bác sĩ. Để có điều kiện đi học tiếp, cô có thể
làm phụ tá cho anh ta. Cô nàng là người Việt có thể giúp anh ta thông ngôn cho
các bệnh nhân Việt Nam đến chữa bệnh, mai sau sẽ có kinh nghiệm để mở phòng
mạch làm ăn một mình. Anh ta bắt đầu hẹn cô nàng đi thực tập nơi một bệnh nhân
ở Mississauga. Anh ta hẹn ngày
mai gặp lại ở bến xe điện hầm đường Dundas West.
Bữa nọ, Trung gặp bà
xã đang đứng lớ ngớ ở bến xe điện hầm. Trung cập xe vào hỏi đôi điều, nhằm lúc
anh chàng bác sĩ Mỹ nọ cũng vừa đến. Trung lôi vợ bỏ lên xe. Anh chàng Mỹ sấn
tới gây gổ. Trung đấm cho hắn ta vài quả khiến hắn ta phải mời cảnh sát đến can
thiệp. Nội vụ đưa đến thưa kiện. Anh chàng bác sĩ Mỹ cho rằng Trung làm nhục
đàn bà ở ngoài đường. Từ đó khiến hai người không ngó mặt nhau. Tôi khôi hài an ủi:
-
Tại chú mày không biết vuốt ve con mèo. Cho dầu biết lỗi bây giờ mới vuốt thì
mọi việc đã quá muộn rồi. Con mèo bỏ chạy qua nhà hàng xóm thì không thể nào
bắt về được.
Hơn
nữa, về sau này khi bà xã của Trung về sống trong gia đình, một bầy em vợ và
cha mẹ vợ xúm lại vẽ đường cho hươu chạy. Do vấn đề này có liên quan đến ba
ngôi nhà trên đường phố Dundas. Có hôm Trung dẫn vợ con đi xem chiếu bóng đến
mười giờ tối chưa về. Ông già vợ gọi điện thoại qua không thấy ai bắt phôn. Ông
gọi qua kêu cứu ở Sở Cảnh Sát. Trong lúc Trung đang ngủ, cảnh sát phá cửa xong vào, thấy thân chủ bình thân như
vại chẳng xảy ra việc gì. Họ bèn bỏ ra về và còn bảo là "ông già vợ của
chú mày kêu cứu!". Trung giận quá lớn tiếng bảo "ông già này
điên!". Có thế mà cũng trở thành trận giặc. Vợ Trung quát tháo:
-
Ở với anh cả chục năm, tại sao bây giờ anh lại chửi cha tôi!
Qua
đến ngày mai, Trung lái xe đi làm. Chiều lại trở về, thấy vợ con biến mất. Có người đến đưa vợ
con Trung vào Center of Abuse. Nơi đây họ cách ly, không cho người nhà gặp mặt.
Người ta nói trung tâm này có cả chục ông luật sư thất nghiệp thường xuyên nằm
phục trong đó kiếm ăn! Chờ cho có người nào rơi vào là họ xúm nhau bày vẽ đủ
thứ để làm ăn. Có thể trong giai đoạn đầu, họ giúp đỡ, đến khi kiện tụng xong
lấy lại được tài sản, họ mới tính tiền hồ sơ giấy tờ sau. Khách hàng bu lại
hiệu may lấy lại vải vóc và tiền cộc. Người ta quát tháo chửi ầm cả lên. Vợ
Trung đang làm ăn khá giả, thợ may làm việc cũng đến ba bốn người. Khi không
bây giờ lại đi xin tiền xã hội. Trung có phôn qua cho tôi hay tình trạng của nó
bi đát, bây giờ chỉ còn có nước tự tử! Tôi nói ở đầu dây điện thoại:
- Nam nhi đại trượng phu, sao chú mầy nói gì kỳ vậy?
Trung không nhớ lại năm 1982 khi Trung vừa lội lên đảo Bi-Đông cũng chỉ một
thân, chẳng có đồng xu dính túi, chẳng có nhà cửa vợ con, thì bây giờ cũng vậy
thôi. Mình khởi sự làm lại thôi chớ có gì đâu mà thất chí dữ vậy? Cuộc thành
bại chỉ là sự thường tình. Có điều ta còn lại một tài sản lớn ở trên cõi đời
này. Trong lịch sử mỹ thuật, từ Michel Angelo đến Rodin, chẳng có người nghệ sĩ
nào có một mái ấm đàng hoàng. Tất cả toàn là những mối tình bị gẫy đổ. Trong
hai vấn đề gia đình và sự nghiệp, họ chỉ thành công có một thôi. Đó là sự
nghiệp của nhà làm nghệ thuật.
Có một hôm, Trung đang làm trang trí cho một ngôi nhà nọ,
tình cờ gặp lại hai đứa con của mình chạy đến chơi với lũ bạn ở trong nhà này.
Thằng Hiếu, đứa lớn nay được mười bốn tuổi, cao lớn như người Mỹ. Đứa em là
Hải, năm nay cũng lên sáu tuổi. Chúng nó gặp được cha mừng vô cùng. Trung ôm
con vào lòng vuốt ve, hỏi thăm chuyện nhà. Hai đứa trẻ cho biết người đàn ông
ngày đầu tiên chở mẹ con chúng nó vào Center of Abuse là chú Cường. Tên này làm
cảnh sát ở Toronto và thường lui tới làm bạn với Trung. Hai người cũng tỏ ra
rất thân tình. Cường thường hay về Việt Nam. Anh ta có một cửa hàng trò chơi điện tử khoảng hơn hai mươi
cái máy Game đủ loại để giải trí cho các cậu ấm con nhà giàu ở Sài Gòn.
Trong chiến dịch giao lưu văn hóa của Việt cộng, chúng có
cử bác sĩ Dương Đình Hùng và một nhóm họa sĩ sang trưng bày tác phẩm ở Toronto
với chủ đề lấy tên là "Những Mảnh Vụn Của Đời Sống " (The Fragment of
Life) về những người lính tan xác ở Đắc Tô, Đắc Sút, Pleime, Hạ Lào... Họ bảo
là những hình ảnh mà đám nghệ sĩ của đảng bắt gặp trên những nẻo đường của đất
nước. Phòng trưng bày là một căn phố khá lớn ở góc đường St. Claire và Robina,
cờ quạt đang treo sẵn, có sự bảo trợ của những giới chức cảnh sát, ông Joseph
và Davis Hứa. Những người này thuộc sở Department of Police Toronto. Tôi và
Phạm Thế Trung đi uống cà phê ngang qua trụ sở Hội Người Việt có ghé thăm anh
Nguyễn Duy Tuệ thì gặp một buổi họp quyết định về cuộc trưng bày triển lãm này.
Sẵn dịp họ hỏi ý kiến tôi về giao lưu văn hóa. Tôi bảo văn hóa không cần có sự
giao lưu vì nó vốn đã có sẵn từ muôn đời. Coi được thì dùng, không được thì bỏ
a-lê-hấp. Thế là xong chuyện. Joseph có lẽ là ông cò cảnh sát, phân trần xin bỏ
vấn đề chính trị ra khỏi tác phẩm mỹ thuật và kêu gọi ban chấp hành cộng đồng
người Việt duyệt xét mấy thùng tranh đang để ở văn phòng Công ty Blaha. Tôi vẫn giữ một lập trường, nói:
- Chúng tôi không chấp
nhận trưng bày thì duyệt mấy thùng tranh làm gì?
Rồi quay sang ông
Joseph:
- Xin lỗi, vấn đề truy lùng tội phạm thì tôi xin thua
ông, chứ vấn đề xác định giá trị tác phẩm nó là sở trường của tôi. Tôi đã hơn
chục năm làm giáo sư ở Trường Mỹ Thuật rồi mà!
Anh chàng bảo trợ cho cuộc triển lãm "Những Mảnh Vụn
Của Đời Sống" bị thua cuộc, thất vọng bỏ ra về. Có lẽ nó kể lại cho đám
họa sĩ Việt cộng nghe về tên Hiếu Đệ. Cho nên đầu năm 1997 có đến ba tờ báo của
Cộng sản ở Việt Nam xúm chửi tên Hiếu Đệ và tên Phạm Thế Trung. Tờ Thanh Niên,
bài "Tổ quốc nhìn từ xa". Tờ Tuổi Trẻ, bài "Nỗi buồn của người
Việt". Tờ Công An, bài "Chuyện văn hóa nghệ thuật ở nước ngoài".
Nhưng mà không sao. Mình đi cải tạo cả
chục năm không chết, không lẽ bị báo Việt cộng chửi mà ta lại chết sao!
**
Phía bên vợ của Phạm Thế Trung thắng kiện. Họ lấy được
ba cái nhà, bán tất. Còn Trung chỉ thắng có một điểm là không phải trả tiền trợ
cấp hàng tháng. Ông Tòa nói Trung là nghệ sĩ, nhà cửa của nó bị lấy hết, bây
giờ chỉ còn hai bàn tay trắng, còn bắt nó góp tiền trợ cấp hàng tháng cái gì
nữa! Đàn bà con gái khi thương thương vội, khi lìa lìa xa. Chẳng những như vậy,
họ còn đạp cho chết nữa là khác! Bây giờ, Trung cảm thấy như được trở lại cái
thời độc thân vui tính, thuở hái hoa bắt bướm, không còn bị ràng buộc bởi gia
đình vợ và con. Nó bảo người nghệ sĩ sống được qua những giây phút khó khăn này
mình nên cám ơn Thượng Đế mới phải. Bây giờ nó mới thấy được tình yêu. Yêu nghệ
thuật và yêu cái đẹp của thiên nhiên! Trung bắt đầu làm thơ đến đầy hết mấy
quyển tập. Nó giữ tôi ở lại với nó cả tuần để nghe nó đọc thơ:
Chỉ Có Một Người
Phương Bắc cách xa
phương Nam bao nhiêu?
Bình minh kia đi qua để lại một buổi
chiều
Trời cao đất thấp xa vời vợi
Thế gian này ta chỉ có một người
yêu.
Thương
Thương em chép lại
bài thơ
Canh thâu thức giấc hững hờ gọi tên
Thương em thương quá là thương
Thương hình bóng cũ con đường em đi
Mai kia dầu có chia ly
Tên
em vẫn gọi thầm thì giữa đêm.
Chờ
nhau
Để nụ cười dâng lên khóe mắt
Cho
gió tung, tóc phủ bờ vai
Tình
yêu còn đó.... những đêm dài
Nhớ
thương ngút ngàn... mây theo gió
Nhìn
lên trời thấy một vì sao...
Bây giờ Trung ở một
căn trại trống trơn như ngôi giáo đường, không có bếp, livingroom,
diningroom... Chỉ có tượng và cái sofa để nằm. Ngày xưa, nhà thơ Hồ Dzếnh bảo
rằng: "Tình chỉ đẹp khi hãy còn dang dở!" - mà có dang dở, mới có phiêu lưu, mới có những
mối tình khác bắt đầu chớm nở tốt đẹp hơn! Năm vừa qua, nhân dịp xuân Bính Tuất
2006, tôi đi dự tiệc cưới nơi gia đình người sui gia. Người con trai của gia
đình này về Việt Nam cưới vợ đem qua Mỹ. Nay ra mắt bà con họ hàng ở San José, California. Trong
lúc rảnh rổi, tôi dạo qua chợ Tết Vietnamese Center. Tôi có gặp cô Vũ Thị Ngà,
cô giáo của Phạm Thế Trung lúc Trung học ở trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn. Chúng
tôi thăm hỏi nhau một hồi rồi mới nói chuyện đến Phạm Thế Trung. Cô Ngà
hỏi :
- Anh biết gì không anh Đệ?
Phạm Thế Trung nó có vợ rồi. Anh
biết vợ nó là ai không?
Tôi bảo rằng lâu nay tôi chẳng biết gì về Trung hết. Cô
Ngà phân trần:
- Trung nó bậy ghê đó anh à! Nó lấy Giang vợ
của họa sĩ Nghiêu Đề, bạn của anh Đệ đó. Hôm bữa Nghiêu Đề mất, nó có xuống
California dự đám tang. Xong rồi ít ngày sau, nó đem Giang về Toronto luôn.
Tôi cười một hồi rồi nói với cô Ngà:
- Tôi xin hoan nghinh hai đứa nó luôn. Ít nữa
họ cũng tự cứu chữa cho mình cái bịnh lonely. Một người mất vợ và một người vừa
mới mất chồng.
Cô Ngà không đồng ý:
- Theo tôi, tối thiểu nó cũng phải để cho
Giang mãn tang chồng ba năm rồi mới cưới hỏi đàng hoàng để Giang bước thêm bước
nữa chứ!
Tôi trả lời:
- Đó là suy nghĩ theo thế hệ của chị, chứ bây
giờ tụi mình sống ở Mỹ lâu năm rồi. Chị không biết con người lưu lạc ở nước
ngoài, quê hương và người thân thuộc bị mất cả. Nay lại thêm mất vợ mất chồng
nữa, chị có biết nó đau khổ đến mức nào không? Phải để cho người ta bớt khổ
chứ!
Tôi nhớ tôi có gặp họa sĩ Nghiêu Đề lần sau
cùng ở Toronto, Canada năm 1996. Con gái lớn của Nghiêu Đề được trúng Giải Văn
Chương hay nhất toàn nước Mỹ. Cô con gái được thưởng đi du lịch ở Nhật Bản, còn
cha mẹ được đi chơi ở Canada. Hôm đó, chúng tôi gặp nhau ở nhà thi sĩ Phan Ni
Tấn. Chúng tôi cùng nghe Tấn đọc thơ và kéo đi chơi thác Niagara. Nghiêu Đề cho
biết hai cô con gái của anh năm sau sẽ vào đại học và được học bổng tốt vì các
cháu chẳng những học giỏi còn có nhiều năng khiếu. Qua ngày sau Nghiêu Đề từ
giã chúng tôi để sang phi trường Bufalo về thành phố New York. Tôi thấy Nghiêu
Đề có vẽ yếu ớt vì bệnh gan hay tái phát trở đi trở lại. Chính vì ốm yếu bệnh
hoạn nên trong thời gian Tổng động viên toàn quốc, anh được miễn dịch vì lý do
sức khỏe. Từ ngày tôi đứng ra sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ đến nay, anh em hội viên
trẻ đã ra đi hơn phân nữa. Bây giờ đến lượt Nghiêu Đề và Mai Chững. Tôi đoán
chừng như Phạm Thế Trung và cô Giang vợ của Nghiêu Đề đã yêu nhau từ nhiều năm
rồi. Nay họ mới có dịp gần nhau đó thôi.
Hiếu Đệ
**
Tiếng Súng Đêm Giao Thừa
Phía
xã hội chủ nghĩa họ dồn ép con người vào đời sống của một trại lính. Con người
phải thoát ly gia đình, không có quyền vương vấn thê nhi. Yêu thương chỉ là cái
trò tiểu tư sản cần phải xóa bỏ. Nhà thơ Hoàng Cầm thương người vợ nghèo vẫn bị
phê phán:
Tôi có người vợ nghèo
Đời
vất vả gieo neo
Lần
hồi rau cháo dăm phiên chợ
Ngực
lép thân gầy áo tả tơi
Đêm
ba mươi gió thổi tôi bỗng nhớ con tôi
Khóc
thét lặng từng hồi
Mẹ
thời nước mắt nhiều hơn sữa...
Nhà thơ Hữu Loan khóc người vợ trẻ mất ở hậu phương:
Sao không chết người trai ngoài khói lửa
Mà
chết người gái nhỏ miền xuôi
Tôi
về không gặp nàng
Mẹ
tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc
bình hoa ngày cưới
Nay
thành bình hương tàn lạnh vây quanh...
Trong lần phỏng vấn
Nhà thơ Hữu Loan do đài BBC Luân Đôn, anh ta chưởi rủa:
- Thuở nay vợ tôi
chết, tôi làm thơ khóc vợ mà nó cũng cấm nữa. Ai có chịu nổi không? Khẩu hiệu
của đảng là chỉ có chiến đấu và sản xuất để xây dựng xã hội chủ nghĩa giàu
mạnh. Nhưng muôn đời đâu thấy đất nước giàu tí nào, có giàu chăng chỉ là mấy
tên tham nhũng thôi.
Ngày đầu Cộng sản tấn
chiếm Miền Nam, các loại nhạc vàng, nhạc tiền chiến bị cấm hát. Các tụ điểm văn
hóa chỉ cho hát các loại nhạc tuyên truyền của họ thôi. Như "Vùng lên nhân
dân anh hùng" ca ngợi người du kích Đồng Khởi, "Dáng đứng Bến
Tre" v.v... Đến 1985, chủ nghĩa Cộng sản ở Liên Xô và Bắc Âu bị suy yếu.
Tổng Bí Thư Gorbachev kêu gọi Glasnost mở cửa, phải làm ăn với các nước tư bản.
Phải đổi mới hơn là chết. Bãi bỏ chế độ bao cấp, cho phép buôn bán tự do. Ở
Việt Nam, sau Đại hội đảng lần thứ VI, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh cũng hô hào
cởi trói cho người dân, cho phép nói thẳng nói thật. Quả bóng bị căng phồng quá
lớn nay phải cho xã xú báp hoặc xì hơi bớt kẻo nó có thể nổ tung. Ngồi ở Câu
Lạc Bộ Văn Hóa, tôi nghe bọn văn nghệ sĩ trong đảng chưởi toáng lên:
- Bộ đảng xem bọn trí
thức Bắc Hà này là trâu bò hay sao mà muốn trói hay muốn thả gì cũng được. Nay
còn dạy chúng nó phải biết tự cởi trói cho mình. Người Việt Nam chúng ta đã
trải qua thời đồ đá, đồ đồng. Nay chúng ta đang sống dưới thời đại đồ đểu sao?
Đúng là tới lúc họ được khuyến khích chưởi
đảng. Coi như chưởi được hồi nào hay hồi nấy. Vì chúng biết trước thế nào rồi cũng bị trói gô
lại thôi. Nhà văn Nguyễn Minh Châu viết bài kêu gọi hãy trả lại độc lập trong
việc sáng tạo văn học nghệ thuật và chấm dứt vai trò minh họa cho các nghị
quyết của đảng. Nhưng đó chỉ là một loạt bài cuối cùng ông viết trước ngày đi
nằm nhà thương vì bịnh ung thư phổi. Nhà văn Nguyễn Tuân hôm mừng lễ thượng thọ
80 tuổi có tiết lộ rằng:
- Sở dĩ ông sống tới
ngày nay là cũng nhờ ông biết sợ đảng.
Trong một buổi thuyết
trình về đổi mới văn học nghệ thuật tại Hội quán Thành Phố, nhà văn Bảo Định
Giang cho biết văn học của đảng Cộng sản ngày nay đã mất chất lửa. Nó yếu hẳn,
ai cũng thấy rõ, không còn vùng lên, không còn sức đấu tranh như ngày trước.
Ngọn lửa đó bây giờ coi như bị trao về cho bọn chống đối lại đảng. Vì bây giờ
chúng ta không còn kêu gọi ai vùng lên nữa, nhỡ nó vùng lên giải phóng Tập Hai
thì nguy hại cả đám sao? Từ những câu ca dao trong dân gian:
Nam Kỳ khởi nghĩa
tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do.
Những câu bôi lọ châm biếm chiến thắng Điện Biên Phủ và
đại tướng Võ Nguyên Giáp như:
Ngày xưa đại tướng
cầm quân
Bây giờ đại tướng cầm quần chị em.
Khôi hài đen và những câu thơ truyền khẩu trong dân chúng
đã toát lên một sức chiến đấu thấy rõ. Trong khi đó, thi ca và âm nhạc của anh
em hội viên văn học nghệ thuật lại hướng về yêu đương lãng mạn. Những khúc hát
của Trịnh Công Sơn:
Bao nhiêu năm rồi
người vẫn ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Đi đâu loanh quanh cũng vòng nhật nguyệt
Chỉ thấy trăm năm một cõi đi về.
Trần Long Ẩn ngôi sao của trào lưu nhạc trẻ lại còn bi
quan hơn cả Trịnh Công Sơn:
Anh đi qua nhà em, không còn em ở đó
Bâng khuâng chiều ba mươi
Tối đen như màn trời
Đi qua mùa lá rơi, ngỡ mùa thu đã
tới
Còn vượt đèo băng sông, giữa vòm
trời mênh mông...
Anh đã mất em rồi... Có thể em đã đi vùng kinh tế mới,
hay có thể em đã vượt biên. Em hiện là thuyền nhân ở trại Palawan, trại Sikiew
hay Hồng Kông cũng không chừng... Đối với chủ nghĩa Cộng sản, tình yêu và tôn
giáo bị xóa bỏ. Dưới chính thể này chỉ có "lao động là vinh quang, lang
thang là chết đói". Thành phần thanh niên không thoát ly gia đình vào đội
ngủ thanh niên là những phần tử lưng chừng bị đánh giá thấp. Về phía văn nghệ
sĩ của chế độ ưu việt "bách chiến bách thắng" nay nhận diện mình đang
bị trói chẳng bao giờ được giải thoát. Việc cởi trói hay đổi mới sau Đại hội
đảng lần thứ VI cũng chỉ là một thứ lạt mềm buộc chặt. Ai cũng tưởng sau thời
gian hy sinh cho cuộc chiến tranh Việt Nam để hôm nay được sống trong thanh
bình dễ thở, nào ngờ đâu đất nước lại gánh thêm một cuộc chiến khác càng khốc
liệt hơn. Hằng ngàn thanh niên đã ngã xuống trên chiến trường Campuchia, hằng
vạn trai trẻ lại khăn gói lên đường. Việt cộng gọi là đi làm nghĩa vụ quốc tế.
Chiến tranh dai dẳng suốt nửa thế kỷ nay rồi. Người dân không một ai còn muốn
nghe những tiếng gọi bước vào lò lửa sát sinh nữa. Nơi các tụ điểm văn nghệ
quận huyện và thành phố, thanh niên chỉ thích nghe các loại nhạc êm dịu, nhạc
tiền chiến, nhạc vàng. Những khúc nhạc đương thời "Người nữ tự vệ Sài
Gòn", "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây", "Dáng đứng Bến
Tre", từ bộ đội đến công an họ bịt tai không còn muốn nghe nữa. Người
xướng ngôn viên chỉ mới giới thiệu tên bài thôi, khác giả la ó huýt sáo kêu dẹp
ngay. Họ đành phải hát nhạc tiền chiên của thời bình. Những nhạc sĩ đảng viên
cũng khởi sự sáng tác những tình khúc mới, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
Ngày mới ra trại trở về thành phố, tôi được nghe văng
vẳng trên các làn sóng đài phát thanh Sài Gòn bản nhạc "Người Lính
Trẻ" của nhạc sĩ Xuân Hồng:
Đường phố ơi hãy
lặng yên
Chim ơi đừng bay nhé
Và hoa ơi hãy tỏa hương
Và cây ơi hãy rung thật khẽ
Cho đôi bạn trẻ đón xuân về.
Khi mặt trận bình yên
Anh lính về thăm xóm
Cô gái vừa tan ca
Họ gặp nhau, cùng chờ nhau
Cùng khát khao hạnh phúc.
Khi tạm biệt người yêu
Anh lính về biên giới
Cô gái vào ca ba
Họ tạm chia tay, cùng chờ nhau
Cùng khát khao hạnh phúc.
Ôi hạnh phúc không chỉ có cơm ăn và
áo đẹp
Và mùa xuân đâu chỉ có hoa thơm và
nắng hồng
Tạm biệt rồi
Môi vẫn đọng lại những nụ hôn.
Trong năm đó, người ca sĩ nổi tiếng với ca khúc này là nữ
ca sĩ Ngọc Anh, tiếng hát trẻ vừa đoạt huy chương vàng Thành phố Hồ Chí Minh.
Cô là một tài năng mới với giọng oanh vàng, lấn át cả đám ca sĩ đàn chị trong
thời đại đổi mới của niên khóa 1986-1987. Với vẻ đẹp của một cô gái lai Mỹ như
Quang Dũng diễn tả trong bài thơ "Đôi mắt người Sơn Tây". Cuộc đời
của nàng cũng truân chuyên đau khổ vô cùng đúng như câu thơ của cụ Nguyễn Du
"hồng nhan bạc phận". Trong cuộc đổi đời, mẹ nàng bị mang tiếng là
người có con lai phải bị đi vùng kinh tế mới. Học hành của con cái bị gián
đoạn. Qua thời gian làm ăn thất bại ở trong rừng, gia đình nàng lại trở về xóm
cũ ở quận Phú Nhuận. Nàng có người yêu là Sinh, một thanh niên cùng xóm và cùng
lớp những năm trước. Hai người yêu nhau từ lâu. Gia đình Sinh cũng thuộc thành
phần chính trị hạng C. Sinh đánh đàn guitare và tập cho nàng học hát từ lúc còn
trên ghế nhà trường. Cuộc đời trôi nổi làm khả năng âm nhạc và ngón đờn của
Sinh thêm dày dạn và điêu luyện hẳn. Hiện nay Sinh đang giữ guitare của Ban Văn
hóa Thông tin Quận Mười ở đường Trần Quốc Toản. Cũng nhờ tiếng đàn của Sinh
thường xuyên tập luyện nên tiếng hát của Ngọc Anh vượt hằn từ phường, xã, huyện
lên đến cấp thành phố và cả nước. Nhưng đến khi nàng trở thành ca sĩ nổi danh
thì cuộc đời lại đổi khác.
Mẹ nàng đứng ra lo cho tương lai của nàng. Bà sắp xếp cho
Ngọc Anh gặp gỡ anh chàng Đại úy Dũng, thuyền trưởng chiếc tàu viễn dương số 7
ở bến Bạch Đằng. Vào thời điểm này chỉ có những chiếc tàu viễn dương mới có khả
năng đi buôn lậu hàng nước ngoài và đưa người trốn ra nước ngoài để chui vào
các trại tỵ nạn ở khắp các vùng Đông Nam Á. Dĩ nhiên họ chém với một giá rất
cao. Anh chàng Dũng xây cho mẹ Ngọc Anh một căn phố lầu thật đẹp ở Ngã Ba Ông
Tạ, Phú Nhuận và bảo đảm đời sống của bà bằng giao cho bà ta đi thu gom tiền đô
la quanh phố để Dũng đi buôn. Dĩ nhiên, ai cũng biết Đại úy Dũng thuộc giòng
giỏi con ông cháu cha, tức thứ cán bộ hạng gộc. Đám này đang nằm ngay trong
Trung ương đảng. Tình yêu của anh chàng nhạc sĩ nghèo như bị đánh bật ra ngoài
bởi uy quyền và thế lực của đồng tiền. Đó là điều chắc chắn. Ở ngoài mồm người
ta hô hào đấu tranh giai cấp đâu chẳng thấy chỉ thấy mình càng nghèo thì lại
càng bị giai cấp và quyền lực chà đạp, khinh rẻ. Bà Sáu, mẹ của Ngọc Anh có
thái độ cấm chỉ không muốn cho Sinh gặp nàng. Bà cũng ngỏ ý thuê một tay đàn
guitare khác đến tập cho nàng hát các bài mới. Trong khi đó Ngọc Anh là một
ngôi sao đang lên. Nàng đang được những ca sĩ đàn chị trong thành phố và các
nhà tai mắt lãnh đạo các ngành văn hóa thông tin để ý chiều chuộng. Bọn đảng
viên còn tính chuyện đẩy anh chàng Sinh này đi thật xa, đến chiến trường
Campuchia hay Lạng Sơn cho êm chuyện.
Con người Cộng sản họ hiểu sai, họ thường bảo tình yêu là
cái trò tư sản. Cũng như tôn giáo là một thư á phiện để giai cấp thống trị và
phong kiến trói buộc con người. Nhưng bây giờ họ lại trở thành một bọn thống
trị mới, một thứ tư sản đỏ đang cướp đoạt hạnh phúc và đức tin con người bằng
uy quyền và bạo lực. Albert Camus
trong quyển "L'Homme Révolté" có nói:
- Con người vô sản
đứng lên làm tương lai của mình bằng bạo lực để sau cùng họ chết dở sống dở bởi
chính quyền bạo lực của chính họ.
Như vậy bắt buộc họ
phải nổi loạn một lần nữa. Đó là luật đương nhiên. Cũng vì thế câu chuyện sẽ
đến... phải đến. Đêm giao thừa 1987, giữa lúc thành phố Sài Gòn đang đón xuân.
Hoa đèn sáng rực. Người ta đi lại tấp nập. Vào lúc không giờ, Sinh xuất hiện
trong nhà Ngọc Anh. Chàng đi thẳng lên lầu với khẩu AK 47. Giữa lúc cả nhà Bà
Sáu đang có đủ mặt để đón giao thừa. Đại úy Dũng cùng đám cán bộ và đám ca sĩ
đang nâng ly rượu mừng. Sinh xuất hiện trước cửa phòng. Chàng lấy chiếc khăn
trắng chít lên đầu để tang cho cha mẹ rồi đưa súng ra hỏi tội đám người. Xong
chàng lia một băng AK. Tiếng súng lẫn vào tiếng pháo mừng đêm giao thừa của
thành phố. Trong cảnh mờ mịt của khói súng, Sinh quay súng bắn vào người tự tử.
Theo bài tường thuật của báo Sài Gòn Giải Phóng thì đám cán bộ Thông tin Văn
hóa Quận Mười đang bảo vệ an ninh cho nhà hát thành phố đường Trần Quốc Toản.
Sau cử nhậu mừng xuân chiều ba mươi Tết, tất cả ai về nhà nấy. Chỉ còn lại ông
Ba Già ở lại phụ trách vọng gác phía trước cổng. Sinh đến tử tế nói với ông Ba
để cho anh gác thế cho ông để ông được về nhà thắp hương rước ông bà. Ông Ba
uống từ chiều đến giờ cũng bừng bừng cơn say, nghe Sinh nói phải quấy, ông ta
rất cảm động lại còn khen anh chàng này sao tử tế quá. Ông bèn giao vọng gác
cho anh để đi về. Không dè Sinh xách khẩu AK đi thẳng đến nhà Ngọc Anh chấm dứt
cuộc tình ngang trái vào lúc đêm Giao Thừa.
Từ đêm Xuân năm đó,
tôi không còn nghe đài phát thanh Sài Gòn hát bài "Người Lính Trẻ"
nữa và người ca sĩ nổi tiếng trong bài hát cũng không còn:
Khi tạm biệt người yêu
Anh
lính về biên giới
Cô
gái vào ca ba
Họ
tạm chia tay cùng chờ nhau
Cùng
khát khao hạnh phúc.
Ôi, hạnh phúc đôi bạn trẻ
Tuy
đơn sơ nhưng nóng bỏng
Mùa
Xuân đâu chỉ có hoa thơm và nắng đẹp
Tạm
biệt nhau rồi còn đọng lại những nụ hôn.
Tình yêu như bừng sống
trong tiếng pháo Giao Thừa. Tình yêu đã về lại trong thành phố thân yêu nay bị
mang tên mồ ma Hồ Chí Minh. Tình yêu nổ vang như xác pháo vang lên trong trái
tim của người tuổi trẻ. Bắt đầu năm đó nhà nước không còn cho tiếng pháo nổ
trong đêm Giao Thừa nữa... Đã nhiều năm qua, người dân thành phố bị bóp nghẹt
bởi chế độ quản lý hộ khẩu, khốn đốn vì chén cơm manh áo. Ngày nay người dân
nhận diện ra hạnh phúc con người không phải chỉ bằng cơm ăn áo mặc. Mùa Xuân
không phải chỉ có hoa thơm và nắng đẹp mà còn có những ý tưởng cao quý hơn. Trong
đó có cả tình yêu và đức tin tôn giáo. Con người sống và hít thở bằng không khí
tự do dân chủ. Mặc dầu kẻ thống trị có nhân danh chủ nghĩa nào đi nữa cũng phải
tôn trọng những quyền tối thiểu của con người. Không ai được quyền xâm phạm
quyền tự do tư tưởng và tự do tín ngưởng. Những ý niệm về dân chủ và nhân quyền
này đã có từ bao nhiêu thế kỷ.
Mấy ngày Tết chúng tôi có dịp theo gia đình đi lễ chùa Xá
Lợi, phía sau trường Nữ Trung học Gia Long. Thấy tang lễ của Sinh được tổ chức
ở nhà quàng phía sau chùa. Tôi gặp đám anh em ký giả làm báo hồi chế độ cũ hỏi
ra mới biết Hà Đức Sinh người nhạc sĩ đánh đàn guitare dạy hát cho ca sĩ Ngọc
Anh là con trai của anh Hà ĐứcMinh, Chủ bút kiêm Chủ nhiệm tờ báo Bông Lúa, tờ
báo của đảng Cần Lao Nhân Vị dưới thời Đệ nhứt Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình
Diệm. Anh Hà Đức Minh là người đốt đuốc trong những buổi lễ tuyên thệ của các
đảng viên trong đảng. Anh tự hào tên anh là đích thực còn Hồ Chí Minh là tên
giả, trên giấy tờ là của một người khác. Họ Hà lớn hơn Hồ, chí lớn hơn, đức anh
cũng là một lãnh tụ rất quan trọng. Cho nên anh không công nhận việc làm nông
nổi của Sinh. Anh cho đó là tầm bậy vì một đứa con gái lai không ra gì của gia
đình một me Mỹ mà hy sinh như thế. Anh không công nhận Sinh là con nữa. Anh không cho đem xác con về với gia đình và
người mẹ đem linh cửu của Sinh quàng ở phía sau chùa Xá Lợi để bà con đến phúng
điều. Chúng tôi nghĩ cũng có một phần là gia đình sợ liên lụy đến cha mẹ nên
anh mới làm như thế thôi. Sự hy sinh của Sinh là một nổi loạn tranh đấu cho
quyền làm người được sống và được tự do yêu đương, tự do tín ngưởng, tự do học
hành như đã ấn định trong Bản Hiến Chương Liên Hiệp Quốc 1988 mà Việt cộng đã
ký kết và công nhận mà không thi hành đứng đắn. Gia đình họ Hà cũng có nhiều
tay làm lớn cả bên này và bên kia chiến tuyến nên tang lễ của Sinh mới được tổ
chức êm đẹp như vậy chứ không phải như đối với anh em cải tạo bọn chúng tôi
đâu.
Hiếu Đệ
**
Câu Chuyện Bé Ký
& Hồ Thành Đức
Sở Thú sau vụ Tổng công kích Mậu Thân của Việt Cộng trở nên vắng khách.
Những giới quân sự trên Bộ Tổng Tham Mưu đánh giá Sở Thú là một khu rừng rất
quan trọng nằm giữa Thành phố Sài Gòn. Việt Cộng có thể từ khu Rừng Sát lẻn vào
bằng ngõ Thị Nghè, độn nhập vào Sở Thú làm bàn đạp tấn công những cơ sở đầu não
của chính phủ như Dinh Độc Lập, Dinh Thống Nhứt và Tòa Đại Sứ Mỹ mà quân đội
không thể trở tay kịp. Do vậy, họ giao cho Cục Tâm Lý Chiến đóng quân bên trong
Sở Thú, không cho dân chúng vào đây nữa nhằm kiểm soát an ninh khu vực này.
Phòng Báo Chí chúng tôi được chia ra thành trung đội ứng chiến để giữ an ninh
Sở Thú trong thời chiến. Tuy vậy trong Sở Thú vẫn còn những cơ sở của nhà nước
đang làm việc trong ấy. Nhân viên công chức còn cả trăm người. Như ở đầu ngõ có
trường Viễn Đông Bác Cổ và Viện Bảo Tàng Lịch Sử. Bên trong Sở Thú có chi đội
Thú Y để chăn nuôi thú. Sở Trồng Trỉa và Chi đội Cảnh Sát vẫn làm việc như
thường lệ.
Tôi thường đi vào Sở Thú rủ mấy người bạn họa sĩ đi
uống cà phê vì trước đây tôi có quen với họa sĩ Trần Văn Thọ và Trần Đắc. Các
anh ấy là họa sĩ tự do, không có tốt nghiệp trường Mỹ Thuật. Nơi đây thường
chia bè chia phái nên các anh rất thích tôi. Các anh là nhân viên của trường
Viễn Đông Bác Cổ kể cả anh Sáu Ớt làm Giám đốc Sở Trồng Trỉa. Mỗi lần tôi nhận
lãnh nhiệm vụ thiết kế những khu vườn nơi tư thất của các tướng lãnh thì anh
Sáu Ớt đảm nhiệm việc thực hiện một số cây trồng. Do sự làm ăn với nhau nên bọn
tôi rất thân tình như anh em ruột thịt.
Nhà của anh Sáu Ớt ở ngay trong khuôn viên Sở Thú, quay mặt về phía Cục
Tâm Lý Chiến. Tôi thường ghé qua chơi bên anh ấy mỗi ngày.
Trải qua một thời gian dài trong quân ngũ, tôi được
trở về đời sống dân sự. Tôi không còn mắc võng nằm trong Sở Thú và uống cà phê
với bạn bè trong ấy nữa. Tôi trở về cuộc đời công chức sáng xách ô đi chiều
xách ô về, giảng dạy ở trường Mỹ Thuật Sài Gòn và trường Mỹ Thuật Huế. Mãi đến
lúc tôi bị tập trung cải tạo cho đến khi được thả về, anh em cũng không hề hay
biết. Đến khi tôi đi lang bang ở Sở Thông Tin Văn Hóa quận Phú Nhuận, tôi mới
gặp lại anh họa sĩ Trần Đắc. Anh đương kẽ panneaux ở đây. Tôi lọ mọ đến hỏi
thăm tình hình thì anh cho biết:
- Anh em họa sĩ tụi mình mà không có công ăn việc làm
thì bị xóa hộ khẩu và đuổi đi kinh tế mới.
Anh mới xin vào đây kẽ bản hiệu thông tin tuyên truyền
để được ở lại Sài Gòn. Anh còn bảo nếu tôi bằng lòng kiếm việc ở đây, anh sẽ
xin anh Tư Bình cho tôi làm việc ở đây luôn. Anh Tư Bình ô kê cho tôi làm việc
ở quận với vai trò tô nền kẽ chữ làm khẩu hiệu và mở lớp dạy vẽ ban đêm cho trẻ
em nào thích Hội Họa. Anh Trần Đắc còn nháy mắt với tôi :
- Thì bây giờ mình cứ dạy lớp vỡ lòng. Vài ba năm sau
chúng nó lên lớp chuyên nghiệp và có nghề cao hơn thì chỉ có anh mới có đủ khả
năng và đủ kiến thức chuyên môn. Dĩ nhiên anh em sẽ giao lại cho anh thôi.
Tôi chấp nhận theo
anh Trần Đắc vào văn phòng gặp anh Tư Bình, Trưởng ban Thông Tin Văn Hóa quận
Phú Nhuận để ký đơn nhận việc. Thì cũng ngay buổi đó, Tổng bí thư Lê Duẩn đi từ
phi trường Tân Sơn Nhứt vào Sài Gòn ngang qua quận Phú Nhuận. Ông ta dừng lại
vì thấy có mấy tấm panneaux vẽ cổ động khuyến khích dân Sài Gòn đi về vùng kinh
tế mới. Trong tranh có vẽ hình một em bé khăn quàng đỏ ôm quả bí. Để vẽ rõ quả
bí, họa sĩ lại vẽ thành ba sọc màu đỏ. Ông ta dừng lại bắt lỗi nói :
- Đã giải phóng mấy năm nay rồi mà ngày nay còn vẽ cờ
ba sọc đỏ! Vậy là ý gì?
Lại một bức khác vẽ hình Hồ Chí Minh nhìn vào bản đồ
miền Nam nói: «Miền Nam trong trái tim ta». Họa sĩ lại vẽ mặt Hồ Chí Minh được
chia ra từng mảnh theo phái lập thể Picasso. Ông ta hỏi tại sao vẽ chân dung
Bác Hồ kính yêu giống như mặt quỷ. Vậy là bôi bác lãnh tụ sao? Có thế mà ngài
bí thư kêu Tư Bình lên rầy rà thiếu điều lột chức anh ta. Anh Trần Đắc nói với
tôi:
- May là anh em mình chỉ khiên bản hiệu và bôi nền,
chứ vẽ nhăn vẽ cụi là đi tù cả đám rồi. Tuyên truyền cũng khó khăn lắm chứ
chẳng phải chuyện dỡn chơi đâu. Làm thông tin văn hóa là họ chỉ để cho bọn mình
hụ hợ thôi, chứ vị trí của bọn mình được bao nhiêu kí lô mà thủ vai chính.
Không được bao lâu,
lớp Hội Họa của anh em chúng tôi được học viên ghi danh rất đông. Lý do vì nhà
nước tuyển sinh, bày ra rất nhiều nguyên tắc rất khó khăn, phải đứng trên lập
trường giai cấp. Thành phần hồ sơ chính trị hạng C như nhân viên công chức và
con cháu của sĩ quan ngụy thì không được thi vào trường Mỹ Thuật. Nơi đây họ
đào luyện một cán bộ tuyên truyền chứ không phải là một anh nghệ sĩ chỉ lo
phụng sự nghệ thuật. Vì thế, thanh niên ghi danh lớp Hội Họa ban tối của chúng
tôi rất đông. Do đó, chúng tôi mới quyết định làm giấy tờ xin tổ chức thêm lớp
ban ngày và qui tụ thêm giáo viên và người
giảng huấn. Chúng tôi thuê địa điểm của nhà quảng cáo Kim Tiền nơi dốc
cầu Phú Nhuận, mời thêm họa sĩ Vi Vi (Võ Hùng Kiệt) và họa sĩ Phi Long về hợp
tác.
Anh Tư Bình còn phát triển Nhà Văn Hóa ở đầu đường
Trương Tấn Bửu. Anh ta tổ chức những buổi nói chuyện về văn học nghệ thuật như
thi sĩ Chế Lan Viên nói về «Thi ca cách mạng», Bảo Định Giang nói về «Lửa trong
thi ca mới», Diệp Minh Châu nói về «Hồ Chí Minh những ngày ở chiến khu
Việt Bắc» và những đêm ca nhạc của những ca sĩ vừa được huy chương vàng của
Thành phố thuở đó. Những ngày cuối tuần, thứ bảy và chúa nhựt, anh em họa sĩ
thường tổ chức lớp vẽ ở trên phố lầu của nhà tôi. Các anh có nhờ cô Phương, bạn
cùng lớp với họa sĩ Nguyễn Minh Tâm và Thanh Trúc đến ngồi mẫu để luyện tranh
sơn dầu. Có khi cũng có thuê người mẫu khỏa thân của trường Mỹ Thuật. Trong số
anh em họa sĩ vẽ tranh chỉ có anh Trần Đắc là giàu nhứt vì anh có người con
trai vừa vượt biên đến được Mỹ, tháng nào cũng gởi cho một thùng đồ. Vì vậy,
anh dành trả tiền cô ngồi mẫu cho anh em.
Anh Trần Đắc rất vui tính. Những khi vẽ tranh, anh thường
hay kể chuyện vui. Anh em cứ bảo anh Trần Đắc là bố nuôi của nữ họa sĩ Bé Ký.
Anh ta xác nhận là có vì đầu đuôi câu chuyện như sau. Năm 1954, Hội nghị Genève
kết thúc; đất nước ta bị phân chia hai miền. Chính phủ Ngô Đình Diệm đưa hàng
triệu người Bắc di cư vào Nam. Năm đó, Bé Ký khoảng mười hai tuổi. Chị ta là
đứa bé bán đậu lạt rang. Bữa đó, Bé Ký thấy người ta đứng lố nhố rất đông trên
boong của chiếc tàu Hải Dương. Bé liền xuống tàu để bán với hy vọng là mình sẽ
bán hết mớ lạt rang đó. Nào dè đâu trong lúc mải mê bán hàng, chiếc tàu nhổ neo rời bến hồi nào chẳng hay biết. Bé Ký
đứng trên boong tàu khóc bù lu bù loa. Anh Trần Đắc thấy bé khóc tội nghiệp. Anh đến gần an ủi. Anh
bảo bé đừng có khóc nữa! Anh hứa sẽ đem bé về dưỡng nuôi như con mình và sẽ cho
bé ăn học đàng hoàng. Anh trở thành bố nuôi của bé.
Từ dạo đó, bé theo anh Trần Đắc
về đến điểm định cư. Tuổi của bé cũng lở cở để vào trường học nên anh để bé ở
nhà làm những công việc vặc vạnh. Như giúp anh để bồi tranh, tô đồ những hình
mẫu do anh vẽ và học chút đỉnh cơ bản hội họa. Thật ra anh Trần Đắc thuộc loại
họa sĩ dân gian chứ không có tốt nghiệp cơ bản ở một trường sở nào cả. Anh chỉ
học ở cụ Nam Sơn và họa sĩ Mạnh Quỳnh rồi cũng bỏ nửa chừng. Anh Trần Đắc
chuyên vẽ tranh lụa như anh họa sĩ Trần Văn Thọ. Có điều anh Trần Đắc chuyên vẽ
những tranh đông người như hội làng, hội xuân và cảnh đi chùa. Người Pháp mang
tinh thần thuộc địa và văn hóa cổ Việt Nam. Họ rất thích tranh của Trần Đắc.
Còn đám người theo văn hóa mới, họ không thích mấy.
Tôi nghe người ta đồn đãi về
chuyện xích mích giữa Bé Ký và gia đình Trần Đắc. Tôi đoán chừng ra người con nuôi nào lại chẳng phàn nàn gia
đình cha mẹ nuôi mình và ngã theo thiên hạ ở ngoài đường. Mặc dầu cha mẹ nuôi
có đối xử tốt cách mấy cũng phải bị mang tiếng là khó khăn và hẹp hòi với con
cái. Tôi biết tánh tình anh Trấn Đắc. Anh ta hiền như bụt mà bị mang tiếng là
đánh đập Bé Ký khiến cô ta phải ra đi với hai bàn tay trắng. Bây giờ, anh Trần
Đắc không còn nữa, nghe đâu anh ta mất bên Mỹ năm 1997.
Thử hỏi Bé Ký làm sao đền đáp
được công ơn dưỡng nuôi của cha nuôi của mình được. Hơn nữa anh Trần Đắc đã dạy
dỗ cô ta đã trở thành một nữ học sĩ có danh hôm nay. Dựa vào tiếng đồn của
thiên hạ làm cho anh Trần Đắc mang tai tiếng xử tệ với Bé Ký khiến cô ta bỏ nhà
ra đi, trở thành một đứa trẻ không nhà trong lúc đất nước đang chiến tranh. Trong
hoàn cảnh đó, Bé Ký xin được sự giúp đỡ của các hội từ thiện như Hội Cha Mẹ
Nuôi Quốc Tế, Hội Trẻ Em Mồ Côi, Enfants S.O.S. Trong số các trẻ em được giúp
đỡ chỉ có mỗi mình Bé Ký là họa sĩ có tiếng tăm nên cô ta rất được nâng đỡ.
Những phòng trưng bày ở thành phố Sài Gòn cũng sẵn sàng ưu tiên cho Bé Ký trình
bày. Các nhà bình luận hội họa lại chịu khó viết bài nâng đỡ và ủng hộ Bé Ký.
Họ còn bốc thơm Bé Ký là một thiên tài khiến cô ta trở nên khá giả hơn các họa
sĩ tốt nghiệp của trường Cao Đẵng Mỹ Thuật Sài Gòn. Người ta chẳng bao giờ biết
được họa sĩ Trần Đắc là cha nuôi của Bé Ký mà họ chỉ biết Bé Ký thôi.
Năm 1965, tôi và Đại úy Ngy Cao
Nguyên đứng ra thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam, qui tụ một số anh em trên
dưới ba mươi tuổi. Dựa vào chính quyền Quân Đội lúc đó, chúng tôi được cấp cho
chúng tôi miếng đất ở đường Lê Thánh Tôn trước kia nhà nước bảo hộ Pháp dùng để
xây khám lớn. Đại tá Lưu Kim Cương ở Tân Sơn Nhứt cho một số nhà tiền chế làm
trại của quân đội Mỹ. Chúng tôi cử Hồ Thành Đức vào tháo gỡ đem về xây cất
thành trụ sở và phòng triển lãm của Hội Họa Sĩ Trẻ. Theo chỗ chúng tôi được
biết Hồ Thành Đức là chồng của Bé Ký. Chính nhờ cái tài tháo vác của Đức, chúng
tôi cử anh ta làm Tổng thư ký của Hội. Đức sinh trưởng ở Đà Nẵng. Trước đó anh
ta là học trò của tôi ở trường Mỹ Thuật Huế dưới thời họa sĩ Mai Lan Phương
thay thế Tôn Thất Đào làm giám đốc. Bữa đó, tôi và giáo sư Trần Kim Hùng vào
trường thấy lố nhố trước cổng trường rất nhiều sinh viên đang đánh đấm túi bụi
một sinh viên khác. Chúng tôi đoán chắc người bị đánh chẳng ai xa lạ hơn là một
bạn học cùng lớp với họ. Tôi bàn tính với Trần Kim Hùng:
- Sinh viên không được đánh đập tơi bời một bạn học như vậy dù anh ta có
vi phạm trầm trọng nội qui của trường. Chuyện đâu còn có đó. Đừng làm mất nhân
phẩm của người ta như thế. Nếu là sinh viên của trường thì mình sẽ đưa ra hội
đồng kỷ luật vào cuối tuần. Còn nếu là người ngoài thì mình hãy giao cho cảnh
sát để họ giải quyết.
Tôi với Trần Kim Hùng nhìn kỹ lại
thì ra người bị đánh lại là Hồ Thành Đức. Bọn tôi đưa Đức vào văn phòng. Tôi
bàn với Đức:
- Dầu sao câu chuyện cũng đã dĩ
lỡ như vậy rồi. Nội qui của trường là nội qui mà ai cũng phải tuyệt đối tôn
trọng. Bây giờ mình nên tìm cách giải quyết thôi.
Tôi bàn cho Đức một lối thoát.
Đức cứ làm đơn rút hồ sơ vì lý do gia cảnh xin nghỉ học để khi nào yên ổn, Đức
xin đút đơn đi học lại cũng chẳng muộn. Chứ bây giờ để đưa ra hội đồng kỷ luật
cho họ xử thì tương lai sẽ nát hết. Đức nghe tôi vẽ đường cho hươu chạy rất có
lý. Ngày mai anh ta đến xin rút
hồ sơ nghỉ học luôn. Tôi còn vận động với hai anh Mai Lan Phương và Lê Ngọc
Huệ, đám họa sĩ ra dạy học ở Huế:
- Chúng mình ra dạy ở Huế dầu sao cũng tha phương cầu
thực, giống như các sinh viên từ Sài Gòn ra học ở trường Huế. Chúng ta nên xử
đẹp với sinh viên và giúp đỡ họ, hơn là xử theo kỷ luật để ngày mai thầy trò
còn gặp nhau trên con đường làm việc cho nghệ thuật.
Về sau, khi làm ăn khấm khá, Đức đưa đơn vào trường Mỹ
Thuật Sài Gòn. Lúc đó dưới thời thầy Lê Yên làm giám đốc để xin học lại và thi
lấy bằng tốt nghiệp. Lúc này cũng dưới trào Quân Đội, trường Đại Học Mỹ Thuật
được nâng lên bảy tám năm để thanh niên được rộng rãi trốn nghĩa vụ. Chế độ giảng
dạy trở nên bê bối. Thành phần con ông cháu cha có tiền được mua lấy mảnh bằng và kéo dài năm
học. Họ gọi là mấy ông tiến sĩ Mỹ Thuật. Sinh viên đa phần lại xuống đường bỏ
học. Tình hình chiến tranh ngày một lên cao mãi đến khi Việt Cộng tấn chiếm
Miền Nam.
Anh em Hội Họa Sĩ Trẻ thường nói
chơi với Hồ Thành Đức là phải để cho anh ta xí gạt mình một không (1/0), anh ta
mới vui. Chứ mình bắt lỗi hay cự lại thì anh ta hay buồn. Cho nên Bé Ký thường
phàn nàn là anh chồng hay xí gạt chị. Anh ta bảo với chị, anh ta là họa sĩ tốt
nghiệp trường Mỹ Thuật ra. Đến chừng ở với nhau đến hai ba mặt con rồi Bé Ký
mới biết ra là mình bị gạt nên chị ta buồn khiến cho Hồ Thành Đức phải lục đục
đi học lại. Giữa năm đó tuổi anh ta đã già hơn hết trong lớp. Anh em họa sĩ
cùng lứa gọi anh ta là Ông Bé Ký vì nữ họa sĩ Bé Ký có tên tuổi và tài hoa hơn
chồng. Dĩ nhiên là Bé Ký thực sự có tên tuổi hơn chồng mình. Anh em bảo là đỉa
đeo chân hạc là vậy.
Ngày tôi đi học cải tạo về lại
Sài Gòn, tôi thường ghé lại nhà của Bé Ký và Hồ Thành Đức ở ngõ hẻm đường Đinh
Tiên Hoàng. Lúc này anh ta làm ăn khấm khá. Việt kiều về nước thường hỏi mua
tranh của Bé Ký nên cô nàng cặm cụi vẽ suốt ngày. Còn anh chồng thì sáng sáng
ngồi ở quán cà phê với bạn bè. Nhưng anh
ta có rất nhiều mánh lới và biết phát huy làm ăn. Anh tổ chức một xưởng sơn mài
và đưa anh em bạn học về làm sơn mài lên một số tranh của Bé Ký. Dĩ nhiên là
tranh sơn mài bán được cao giá hơn tranh vẽ trên lụa.
Nghe đâu những năm này Bé Ký có
tiền, cô nàng về lại Hải Dương thăm quê cũ tìm lại quê hương của mình và xây
sửa lại nhà từ đường của dòng họ. Cũng nghe đâu ông cụ thân sinh ra Bé Ký mất
trong trận Điện Biên Phủ, mấy người em của Bé Ký được làm việc nơi văn phòng
Trung ương Đảng ở đường Hồng Thập Tự. Tôi có hỏi lại Hồ Thành Đức về tin này
thì anh ta bảo là họ làm ban dịch vụ ở văn phòng, có lẽ là họ coi sóc vệ sinh
quét dọn, pha trà, mở máy lạnh, mở đèn... chứ đâu phải là ông tai to mặt lớn gì
đâu. Bé Ký phải cung cấp tiền bạc cho họ xài mới đủ.
Đến ngày gia đình tôi đi Mỹ theo diện H.O. tôi lại gặp gia đình Bé Ký và Hồ
Thành Đức cùng ở một trại với tôi ở Phi Luật Tân. Cô ta ở Vùng 5 còn tôi ở Vùng
10 trại Bataan. Bé Ký được sự bảo trợ của Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế vì Bé Ký là
người con có tên tuổi của Hội trước đây. Nhờ đó nên Hồ Thành Đức làm hồ sơ xin
Hội bảo trợ để được đi nước ngoài. Như vậy là một sự may mắn lớn đấy chứ. Nhưng
Bé Ký lại không chịu. Cô nàng lại thường gây lộn quá cỡ. Cô ta phàn nàn với
tôi :
- Anh Đệ biết không? Anh Đức
ảnh hại tôi đến tan nhà hại cửa. Tôi bán tranh đến ngày nay cả triệu bạc, nhà
cửa đang ở đàng hoàng lại phải bỏ đi không biết chỗ ăn chỗ ở như thế nào. Bây
giờ phải học tiếng Anh nữa, chẳng biết ngày mai sẽ ra sao? Anh thấy ảnh hại tôi
ghê chưa? Có thể vì ảnh muốn đi theo con Hạnh, cô dược sĩ thường đến mua tranh
của anh.
Tôi an ủi :
- Đi nước ngoài thì mọi sự sẽ êm đẹp trở lại. Bé Ký
đừng lo.
Bé Ký lại không có vốn sinh ngữ nên cô ta học tiếng
Anh mãi cũng không vô. Xưa nay, cô ta không bao giờ đến trường nên cô ta không
quen đi học. Càng không đi học được, Bé Ký càng căm giận anh chồng. Đức tìm cách mang tranh Bé Ký đi trưng bày ở
nhiều thành phố chung quanh Manila. Anh ta hy vọng Bé Ký bán được nhiều tranh
thì cô ta phải vẽ thêm những bức khác để trưng bày. Tranh của Bé Ký chỉ có vẽ đi
vẽ lại những cảnh sinh hoạt ở ngoài chợ thành ra Bé Ký cũng vẽ nhanh thôi.
Tôi thường đến chợ Vùng 5 và ghé nhà Bé Ký và Hồ Thành
Đức. Đức thường giữ tôi lại nhậu vài chai San Magné với anh rồi hãy về nhà. Có
tôi ngồi trong nhà thì cuộc tranh cãi của hai vợ chồng Bé Ký trở nên giảm thiểu
và có khi dứt ngang. Vì thế Đức hay rủ ren tôi:
- Cuối tuần này anh Đệ ghé nhà em, rượu chè để em hoàn
toàn lo liệu. Anh cứ lên nhà em là vui rồi.
Có hôm tôi lên nhà Bé Ký thấy chị ta đang trang bị mái
tóc quăn. Hồ Thành Đức nháy với tôi:
- Mấy ngày nay chị ta ghen tương dữ quá. Chị ta ghen
với cô Hạnh, dược sĩ. Bây giờ lại tính chạy đua về nhan sắc nữa. Chị ta bảo
chuyến đi Mỹ của gia đình em là đi theo cô Hạnh. Cô khách hàng thường đến mua
tranh nhà em. Nay Hạnh được chồng bảo lãnh đi Mỹ để đoàn tụ. Người ta về với
chồng mà mình làm sao đi theo được mà nghi ngờ.
Đức nói tiếp:
- Cho dầu Bé Ký có
trang bị nhan sắc bao nhiêu cô cũng là phụ nữ bốn năm con rồi, làm sao bằng
được người ta còn con gái mới lấy chồng. Mình có đi Mỹ đây cũng vì tương lai
của con cái để qua đó cho chúng nó học hành chứ còn mình bề nào cũng lớn tuổi
cả rồi. Chỉ có người hẹp hòi mới đi ghen tương tầm bậy. Ai nấy qua Mỹ lại chẳng
đi bằng hai bàn tay trắng rồi họ cũng làm nên tất cả, chứ có ai đem theo được
tài sản đâu mà tiếc của đời. Ngày mình rời Việt Nam, nhà nước buộc mình thanh
toán tài sản, sang nhượng nhà phố, chỉ được ra đi với hai bàn tay trắng thì còn
tiếc của cái nỗi gì mà gây sự.
Những ngày sống ở
trại Phi Luật Tân là vùng núi lửa và bão lớn. Có ngày trời mù mịt, toàn là tro
than của núi lửa che lấp ánh sáng mặt trời đến cả chục ngày. Bão tố làm sập nhà
và cây cối ngã ngang, ngăn cả lối đi. Chúng tôi rất đỗi hoang mang lo sợ. May
sao, bất ngờ chúng tôi được lên danh sách đi định cư. Chúng tôi được di chuyển
ra trại transit ở Manila và chuẩn bị lên đường sang nước thứ ba.
Ngẩm lại cho cùng Bé Ký dù sao cũng là một người con
gái lớn lên giữa thời buổi chiến tranh Việt Nam. Một cuộc chiến khắc nghiệt
nhất trong lịch sử. Thân phận của Bé Ký đã từng là một trẻ mồ côi không nơi
nương tựa. May sao rơi nhằm gia đình anh họa sĩ Trần Đắc. Anh làm cha đỡ đầu
nuôi dạy Bé Ký thành một nữ họa sĩ có tài và tên tuổi một thời. Người cha nuôi
nào lại chẳng bị tai tiếng khe khắc là độc ác. Nhưng anh Trần Đắc vẫn coi thường
dư luận để nuôi dạy Bé Ký đến ngày hôm nay.
Người xem tranh không đòi hỏi nhiều ở Bé Ký. Miễn sao
cô ta chỉ dừng lại ở giai đoạn vài nét ký nguệch ngoạt bằng bút nho là đủ rồi.
Cô không cần phải có bút pháp, phong cách,
bố cục cầu kỳ như những họa sĩ tốt nghiệp ở trường Mỹ Thuật. Kể ra Bé Ký cũng
được thành công lớn, không như những người phụ nữ khác trong chiến cuộc Việt
Nam. Không như Lệ Lý Harshif trong truyện Trời Và Đất phải bị rơi vào thân phận
một nạn nhân, phải bị dập liễu vùi hoa bởi cuộc chiến tranh tàn khóc.
Hiếu Đệ
**
Hà Mộng Hải
Người Họa Sĩ Điên
Ngày mới định cư ở Mỹ, tôi nghe một số bạn bè nói ở thành phố Montréal,
Canada có một anh chàng họa sĩ điên. Tôi nghĩ, ở xứ kỹ nghệ hóa, sống trong các
thành phố lớn, làm họa sĩ cũng đủ nghèo rồi, lại còn thêm cái nạn điên khùng
nữa thì làm sao sống nổi. Tôi hỏi thăm hắn có điên như họa sĩ Van Gogh một trăm
năm về trước hay không ? Có người nói là còn hơn thế nữa. Van Gogh cả
đời không bán được một tấm tranh, đói
quá nên anh ta tự tử chết. Còn tên này vẽ tranh lu bù nhưng chẳng cần cho ai
xem. Có người đến mua tranh, hắn còn vác cây rượt đuổi. Còn đối với bạn bè, hắn
đóng cửa không tiếp xúc với ai hết. Đến điện thoại, hắn ta cũng cắt nữa. Thôi
vậy là hết thuốc chữa rồi còn gì.
Lúc đó vào năm 1991,
đầu tháng tư vừa dứt tuyết, còn lạnh. Sinh hoạt văn học nghệ thuật trong cộng đồng người Việt tỵ nạn cũng bắt
đầu tưng bừng trở lại. Tôi đi chơi dưới phố Boston, Massachusetts đến nhà anh
Trần Như Tráng và chị Thủy. Được biết ở Montréal, anh em có khai mạc một cuộc
triển lãm hội họa do một nhóm họa sĩ gồm có bảy tám tác giả trẻ. Anh Tráng còn
nhờ tôi viết một bài giới thiệu cho họ chạy trên tờ Thế Kỷ 21 số Đặc Biệt Mùa
Hè. Chúng tôi phóng xe lên Montréal đến ở nhà họa sĩ Nguyễn Quốc Tuấn và có mặt
trong lễ khai mạc triển lãm tranh của sáu họa sĩ trẻ. Nội dung lấy tên Art Việt
91 tổ chức tại Complexe Guy Favreau, hôm 8 tháng 3 tức là Ngày Phụ Nữ Quốc Tế
và cũng là ngày lễ Hai Bà Trưng của Việt Nam. Sáu họa sĩ trưng bày tranh hôm đó
toàn là những họa sĩ trẻ. Có người xuất thân trường Mỹ Thuật Quebec và Ba Lê.
Riêng Hà Mộng Hải và Nguyễn Quốc Tuấn tốt nghiệp ở Sài Gòn. Trong nhóm này có
một nữ họa sĩ là bà Nguyễn Lệ Hà.
Trong số khách tham dự ngày lễ khai mạc, tôi được dịp
gặp thi sĩ Dương Tử, thiếu tá Nguyễn Văn Đệ, tác giả tập thơ «Người Tù Cải Tạo»
vừa mới phát hành năm rồi, anh Nguyễn Văn Toán, kỹ sư cầu đường. Anh Toán có bộ
sưu tập rất giá trị gồm đủ mọi tác giả có tên tuổi, trong đó có Nguyễn Gia Trí,
Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Văn Anh, Tôn Thất Vân, Nguyễn Siên… Lần này anh Toán
cũng chọn được rất nhiều tranh đẹp của anh em họa sĩ trẻ. Tôi có viết đôi dòng
về cảm nghĩ của mình. Thật ra triển lãm Hội Họa lần này là để trình làng về sự
hồi sinh và phát triển nghệ thuật của anh em nghệ sĩ trẻ trong cộng đồng người
Việt tỵ nạn trước bằng hữu và người thưởng ngoạn. Việc này chứng tỏ là anh em
còn hiện hữu và còn cầm cọ trở lại, còn dấn thân sáng tác.
Người Việt ở Montréal chịu ảnh hưởng lối sống văn hóa
Pháp, rất yêu chuộng nghệ thuật, nhưng khách mua tranh thì ít lắm. Tôi đến
thành phố này nhằm lúc kinh tế ở đây đang suy thoái, tình trạng thất nghiệp lên
đến 10,70%, một số xí nghiệp đang phá sản. Trong khi đó lại có nhiều anh em
đang xâm mình cắm cổ lo vẽ tranh, rõ cũng gan cùng mình. Sống ở Sài Gòn làm hội
họa đã khó khăn rồi. Qua đến đây, chân ướt chân ráo chưa mấy ổn định, lại gặp
toàn những khó khăn mới. Phải nói vẽ tranh là một điều đáng khích lệ, nhịn đói
đẹp thật mới đáng kể hơn nữa. Tôi xin biểu dương các nghệ sĩ chịu nghèo chịu
đói hôm nay ở thành phố Montréal này.
Hà Mộng Hải và Nguyễn Quốc Tuấn cũng mới định
cư ở Canada từ năm 1984. Cũng nhờ
sự gặp gỡ trong ngày lễ khai mạc phòng
tranh, tôi được biết anh chàng họa sĩ điên ở phố Montréal này chính là đứa em
kết nghĩa với tôi. Hai đứa biết nhau từ ngày ở tù cải tạo về. Nó là họa sĩ Hà
Mộng Hải nổi tiếng là Hải Lùn. Hải tốt nghiệp Trường Mỹ Thuật năm 1968, học
khóa 6 Thủ Đức. Anh xung vào Biệt Kích nhảy toán thuộc Phòng 7 Bộ Tổng Tham
Mưu, dưới trướng của đại tá Hồ Tiêu. Nhờ tài liều mạng trong những trận đánh
nhau chí tử và nhảy xuống từ trong lòng địch, nó được đặc cách gắn lon từ mặt
trận nhiều lần. Hải Lùn thuộc thành phần tuổi trẻ tài cao, phải đi học tập mút mùa,
vì nó mang lon trung tá. Hải tưởng rằng mình liều mạng đánh nhau cho mau chết,
nhè đâu lại mau lên lon mới khổ cái mớ đời. Khi Hải được ra tù thì vợ hắn đã có
chồng khác. Khổ nỗi người chồng mới của vợ anh ta là tài xế xe jeep của Hải
ngày xưa. Tên này bậy một điều là nó nói với lũ em vợ:
- Bây giờ đổi đời rồi, ông Hải cũng như tôi thôi. Hơn
nữa, ông ta còn đang mang tấm thân tù tội, còn tệ hơn một người thường dân nữa.
Như vậy, tôi đang ở vị trí cao hơn ông ấy. Tôi lấy vợ của xếp tôi là tôi thương
ổng, giúp vợ ông ấy có một đời sống tốt đẹp, hơn là xách giỏ đi nuôi tù mãi tận trại Thanh Cẩm, trại Vĩnh Phú cũng
hết đời cô ta .
Có điều tên tài xế này
nhằm to. Con người cho dù ở tù đến mút mùa cũng có ngày về. Ngày được ra trại,
Hải lò dò xuống tới Bắc Mỹ Tho, nơi quán cà phê của vợ chồng tên hạ sĩ tài xế,
chửi cho nó một trận. Anh nói:
- Để trở thành một người đàng hoàng, người ta phải
biết đạo lý. Con chó còn biết chủ nhà; chủ nó có khốn khó đui mù, nó cũng vẫn
dắt chủ đi xin ăn, không bao giờ nó phản lại. Tại sao con người lại nói đổi đời
rồi đi làm sâu bọ bẩn thỉu!
Hải không đòi vợ lại,
nhưng anh bắt tên hạ sĩ nọ hứa trước mặt anh là từ nay về sau, nó phải bảo đảm
đời sống cho cô Thúy, vợ anh. Hải tha cho nó cái tội bất nghĩa, dám hủy hoại
cái thai nhi mà vợ anh đã mang bầu với anh cả bốn tháng. Nó là đứa con của anh,
theo lời mấy cô em vợ Hải thuật lại. Chuyện đời đâu đã hết. Lúc trở về, ra
đến bến xe Cầu Bắc, Hải bị một toán công an đến ách lại. Hỏi ra thì anh không
có giấy đi đường. Trong túi chỉ duy nhất có tấm giấy ra trại của trại tù Vĩnh
Phú ở ngoài miền Bắc. Họ chụp mũ là anh đi tìm đường vượt biên trái phép. Họ
còng anh lại và giải về Trại Chấp Pháp
của Ty Công An tỉnh Bến Tre. Anh bị tra hỏi đủ điều và cuối cùng phải ở tù thêm
cả một năm. Ngày được thả tù, buổi chiều hôm đó, Hải vác hành lý đi ngang qua
sân banh gặp tên Ba Chiến, Giám đốc Ty Công An đang đánh banh với một lũ cán
bộ. Tên Ba Chiến hỏi:
- Cái gì đó, anh Hải ?
Hải gải tai, nói:
- Báo cáo anh Ba, thằng
em này buồn quá muốn thưa với anh một chuyện. Hôm công an tỉnh bắt, trong mình
tôi chỉ có tấm giấy ra trại do Ban Quản Lý trại tù Vĩnh Phú cấp, có tham chiếu
án lệnh của Nha Quân Pháp, Bộ Quốc Phòng. Tất cả mọi thứ công văn đều có ghi số
và ngày, kể cả người ký tên. Tờ giấy kia không được các anh trả lại, nay chỉ có
mỗi tờ lệnh thả tù của anh Ba, ký không có số công văn, không tham chiếu án
lệnh của Tòa Án, làm sao tôi về địa phương xin tạm trú được. Hơn nữa, lệnh thả
tù lại do anh Ba viết tay nguệch ngoạc mấy chữ, không biết rồi đây có được hay
không ?
Tên Ba Chiến đứng giữa sân ra điều giận dữ:
- Mầy là thằng tù, tao là thượng cấp. Nay đã
thả tù rồi, sao lại không chịu về, còn đứng đây lải nhải làm khó tao nữa sao?
Tao nhốt đầu mầy lại thêm một năm nữa bây giờ. Cút đi!
Hải thấy không thể nói chuyện với tụi ngu dốt
và hung bạo được nữa. Anh đành quay lưng bỏ đi luôn. Anh nghĩ rằng đây chỉ là
sự trả thù của tên tài xế ở Bến Bắc. Một xã hội hỗn tạp, thú dữ lên làm người
đang cướp đoạt sự sống của người dân.
Cha của Hải là cụ Hà Huy Liêm đã có thời làm
Tổng Trưởng Giáo Dục dưới trào Ngô Đình Diệm. Cụ Hà Huy Liêm và cụ Ngô Đình
Nhu, hai người cùng một tuổi và cùng học Ecole de Chartre ở Pháp. Cụ Nhu tốt
nghiệp ngành Quản Thủ Thư Viện. Cụ Hà Huy Liêm thuộc ngành Khảo Cổ. Cụ là Ủy
viên của Viện Cổ Tích Thế Giới. Dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, cụ làm Giám đốc Viện
Khảo Cổ và Viện Bảo Tàng ở Sở Thú. Cụ đã được Khối Văn Hóa UNESCO bảo trợ cho
Viện Bảo Tàng và sửa lại toàn bộ Museum ở Sở Thú Sài Gòn. Công trình này chưa
kịp hoàn chỉnh thì Việt Cộng ập vào tấn chiếm Sài Gòn. Cụ Hà Huy Liêm và toàn
bộ gia đình được Viện Cổ Tích Thế Giới can thiệp với chính phủ Hà Nội để đi ra
nước ngoài và định cư ở Canada. Cụ mới mất năm 1996, hưởng thọ hơn 85 tuổi.
Trong lúc cả nhà được ra đi, riêng trung tá
họa sĩ Hà Mộng Hải còn kẹt lại trong trại cải tạo, mãi tới năm 1983 Hải mới
được thả về. Đã thế, anh còn xuống tỉnh Bến Tre ở tù thêm một năm nữa. Sau
cùng, Hải xin vào làm việc ở Viện Bảo Tàng thành phố. Bọn Việt Cộng muốn giữ
Hải làm ở đây để móc nối trở lại với cụ Hà Huy Liêm, nhờ cụ xin cho họ được
tiếp tục sự yểm trợ của Sở Văn Hóa UNESCO để xây dựng tiếp công trình đang bỏ
dở. Trong thời gian làm việc ở Viện Bảo Tàng, Hải Lùn phải lòng một người đẹp
bán cà phê nơi Câu Lạc Bộ giải khát trong Viện. Nàng tên Quỳnh Như, có người
cha trước kia làm cảnh sát cũng đi học tập cải tạo mới về. Hai người chưa thề
non hẹn biển với nhau thì Hải Lùn vượt biên. Nhưng chuyến đi bị thất bại,
thuyền bị trôi giạt vào bờ, nhiều người chết vì bị đói khát. Riêng Hải Lùn được
đem vào cứu cấp nơi một bệnh viện ở vùng duyên hải.
Trong lúc gần chết, thoát nhiên bừng tỉnh dậy,
Hải thấy Quỳnh Như ngồi kế bên. Cô nàng lặn lội không biết bao nhiêu là đò
giang để tìm đến được gặp chàng. Hải thấy trên thế gian này, Quỳnh Như hiện ra
như một chiếc phao trên đại dương mênh mông. Nàng là sự sống của Hải. Hình như
ơn trên đã xui Quỳnh Như đến với chàng. Ngày ra khỏi bệnh viện, họ hứa hẹn với
nhau sẽ làm lễ cưới. Xưa cụ Hà Huy Liêm ra đi nước ngoài có để lại cho Hải một
ngôi biệt thự gồm hai căn hộ và một khu vườn ở Gò Vấp. Tất cả những bất động
sản trên đều bị bọn chính quyền địa phương lấn chiếm. Họ quyết định đuổi anh đi
kinh tế mới.
Những ngày đi lang thang trong thành phố, Hải
gặp người yêu cũ. Cô ta là dân biểu Kiều Mộng Thu. Bọn này ngày xưa cùng với
Ngô Công Đức, Nguyễn Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận kéo nhau làm thành lực lượng đối lập
chống lại chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Đến thời xã hội chủ nghĩa, bọn cộng sản
có ý mị dân, công nhận bọn Ngô Công Đức là phe ta và cho tờ Tin Sáng ra hằng
ngày trở lại. Kiều Mộng Thu một lần nữa được đắc cử là đại biểu quốc hội của
Việt Cộng, đứng ra tuyên bố ba hoa chích chòe ủng hộ bọn cộng sản Hà Nội. Cô
nàng nghĩ tình cũ nghĩa xưa với Hà Mộng Hải từ thuở còn học trò. Kiều Mộng Thu
chạy lên làm nũng với tên trùm cộng sản Mai Chí Thọ xin nó khiển trách bọn
chính quyền địa phương quận Gò Vấp, khiến bọn này nuốt không trôi bèn trả lại
ngôi nhà và cho phép Hải được ở lại thành phố để làm giấy tờ ra đi nước ngoài
theo diện gia đình bảo lãnh.
Trong thời gian này, xưởng sơn mài của tôi
đang làm ăn phất lên như diều. Chúng tôi sản xuất tranh cho Sở Ngoại Thương,
mỗi tháng thu nhập hàng chục lạng vàng. Chiều nào tôi cũng gặp Hải Lùn, Tâm
Râu, Nguyễn Khắc Vinh và một đám họa sĩ ở quán nhậu. Riêng Hải Lùn, anh ta cũng
vừa nhận được sự tài trợ của gia đình từ Canada gởi về rất đều. Anh ta quyết
định làm đám cưới với Quỳnh Như, cô hàng cà phê ở câu lạc bộ của Viện Bảo Tàng
thành phố. Bọn tôi đứng ra làm người lớn phía bên họ nhà trai. Thật ra gia đình
nhà trai chỉ toàn là mấy anh chàng cải tạo thôi. Sau lễ cưới, Quỳnh Như sống
bên chồng rất hạnh phúc.
Hải có đến xưởng vẽ của tôi để tập sự làm sơn
mài. Ở giai đoạn này chưa có chế độ làm ăn cá thể, tất cả phải bị tập trung vào
hợp tác xã hay những tổ hợp sản xuất có sự kiểm soát của chánh quyền địa
phương. Hiến pháp của cộng sản chỉ cho phép những ông giáo kèm trẻ trong gia
đình, người văn nghệ sĩ sáng tác, người thợ săn và người câu cá ven sông được
làm ăn một mình, còn bao nhiêu nghề khác tất cả phải tập trung vào tập thể hết.
Riêng người thợ thủ công ở gia đình được làm việc từ ba người trở lại, còn qua
khỏi cấp số này thì phải khai báo hay xin phép nhà nước. Do đó, xưởng vẽ của
tôi cũng không được làm việc quá ba người. Nên tôi cử Bé Thành, đứa con trai
của tôi đến Hà Mộng Hải để giúp anh ta về kỹ thuật làm sơn mài, những công việc
làm vóc, đánh sơn và hom bó lót, mài tranh và đánh bóng. Còn bọn tôi cuối tuần
kéo nhau đến uống rượu ở nhà Hải.
Trong lúc này, Quỳnh Như đang mang thai đứa
con đầu lòng cho Hải. Bọn tôi tuy không còn là lính nhưng anh em sống với nhau
vẫn giữ tinh thần đồng đội như những ngày chung sống với nhau trong trại cải
tạo. Người này lâm vào cảnh khó khăn thì người kia giúp đỡ, chia xẻ nỗi khổ với
nhau trong tình bạn bè. Tôi còn nhớ bữa đó Bé Thành chạy về báo với tôi:
- Ba ơi, Ba! Sao nhà chú Hải lại có cái
quan tài, đèn đuốc sáng choang. Hình như nhà chú có người chết. Đâu, Ba chạy
lên đó xem.
Tôi vội vã cùng với Bé Thành phóng xe nhanh
lên nhà Hải, được biết Quỳnh Như, vợ Hải đã chết. Cô ta đi sanh ở nhà thương Từ
Dũ bị nhiễm trùng máu, sốt cao quá chưa tới ba ngày đã ngã ra chết.
Hà Mộng Hải có kể lại anh ta có đứa bạn cùng
học ở trại cải tạo là bác sĩ Phạm Ngọc Lân. Anh này chuyên ngành sản khoa. Lân
vừa là cháu của bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ riêng của Hồ Chí Minh. Chị của
Lân có chồng là Sáu Quang, phụ tá cho Mười Phi, Giám đốc Sở Ngoại Thương thành
phố. Nên khi cải tạo về, Lân được tuyển vào làm bác sĩ trong bệnh viện Từ Dũ.
Mấy tháng trước Hải và Lân gặp nhau, Lân có căn dặn Hải là khi chị Quỳnh Như
sanh thì đưa vào bệnh viện Từ Dũ, Lân hứa là anh sẽ đặc biệt săn sóc cho chị,
mẹ tròn con vuông. Anh còn bảo Hải đừng có ngại chi cả.
Chính lúc Quỳnh Như chuyển bụng, đích thân bác
sĩ Lân đứng ra đỡ đẻ cho chị. Có điều anh ta vừa quay lưng đi thì đám y tá và
bác sĩ đảng viên xúm lại đặt vòng xoán để phát động chiến dịch kế hoạch hóa.
Không ngờ khi người phụ nữ vừa mới sanh, cổ và thân tử cung chưa được bóp lại
làm lạc mất chiếc vòng xoán khiến Quỳnh Như bị nhiễm trùng máu, lên cơn sốt và
chết sau đó. Quỳnh Như là cô gái mười chín tuổi, mới sanh lần đầu, đã bị họ thí
nghiệm như một con chuột, chết tức tửi. Bác sĩ Phạm Ngọc Lân tức đến xanh mặt.
Anh cởi chiếc áo trực vất vào mặt tên bác sĩ giám đốc, chửi thẳng một câu,
chẳng thà anh về đạp xích lô chớ quyết không hợp tác với bọn đỉnh cao trí tuệ
này nữa. Riêng bọn tôi kêu Hải đem em bé về, nhứt định không để cho họ nuôi
trong lồng kính của nhà thương nữa.Tôi nói:
- Dù sao anh cũng đã trải qua sáu đứa con rồi.
Chuyện nuôi em bé cũng dễ thôi, để anh lo cho. Hơn nữa có cả Lân phụ giúp chẳng
có sao đâu. Hải cứ yên chí đi. Chuyện lo tã lo sữa cho em bé còn dễ hơn vẽ
tranh nhiều.
Chỉ tội cho Hải một điều là sau khi chôn cất
vợ xong, căn nhà không có bóng đàn bà, trẻ con thì khóc đòi sữa, không gian
thấy nó trống trải đến buồn không thể tả. Đám cải tạo phải thay phiên đến ngủ
cho có bạn với Hải. Cũng như trong chuyện thần tiên, không có nàng Bạch Tuyết
thì bảy chú Lùn phải làm hết mọi việc, rồi đâu cũng vào đó thôi. Về sau Phạm
Ngọc Lân làm bác sĩ nhà thương Sùng Chính ở Chợ Lớn. Trong vai vế, bác sĩ Lân
là người em trong gia đình tôi. Ngày xưa xã Thô bắn chết xã Dụ là ông nội tôi.
Xã Thô nhảy ra làm Thiên Địa Hội chống lại chánh phủ Pháp. Lúc đó, hai người là
xã trưởng làng Thiền Đức và làng Đức Nghĩa tức là thị xã Phan Thiết bây giờ. Bà
nội tôi về lại xóm Ngã Hai Mương Mán làm ruộng, gởi hai đứa con cho gia đình
ông Phạm Ngọc Bích để làm con nuôi.
Gia đình họ Phạm được tiếng là giàu nhất ở
Phan Thiết. Giới bình dân có câu là: «Nhứt Bính, nhì Xì». Phạm Ngọc Bích giàu
về nhà đất và ngân hàng. Nguyễn Văn Xì giàu bằng ruộng cò bay thẳng cánh. Cha
tôi có bổn phận chăm sóc mấy cậu ấm của gia đình họ Phạm đi học ở trường
Chasseloup Laubat Sài Gòn. Nhờ đó mấy cậu ấm học đến đâu thì cha tôi được học
đến đó. Đến khi các cậu ấm đi Tây thì cha tôi trở về Phan Thiết làm thầy giáo.
Ông được nổi tiếng là ông Giáo Chí. Tôi gọi những người bên gia đình họ Phạm
bằng chú là như thế. Do đó, bác sĩ Lân là vai em của tôi. Lân rất thích tranh
của Hiếu Đệ. Ngày đi cải tạo ở rừng Phước Long Bù Gia Mập, tôi với Lân ở cùng
một trung đoàn. Chỉ có khác biệt tiểu đoàn thôi mà người ở núi kia, kẻ ở đồi
nọ. Chừng nào ghé quán bà Sáu Đập uống cà phê ăn hủ tiếu may ra hai anh em mới
gặp nhau.
Tôi còn nhớ bữa Lân được thả về nhằm lúc tôi
đi lao động, hai đứa gặp nhau ở Ngã Tư Đồng Bang. Lân trút giỏ xách cho tôi mớ
quần áo cũ và chăn màn. Tất cả thuốc sốt rét và trụ sinh Lân gói lại kỹ lưỡng
để lại cho tôi dùng. Anh chỉ còn giữ lại quyển Bách Khoa về Bệnh Lý từ lâu anh
vẫn gối đầu nằm và coi đó là bạn. Tôi nói:
- Từ điển bách khoa cứ ba năm thì người ta
phát hành một bộ mới, bề nào quyển đó cũng quê rồi, bỏ đi.
Nhưng anh đáp:
- Nước mình đang trên đà
đi xuống thời đồ đá, có quyển này cũng đủ là cha đời thiên hạ rồi! Anh không thấy trong trại mình, bịnh gì họ
cũng trị bằng cỏ hôi và xuyên tâm liên đó sao?
Lân thuộc diện gia đình
cách mạng nên được về trước tôi hơn một năm. Dáng dấp anh là người khắc khổ,
nhỏ con và hơi gầy. Hôm đó, anh có bàn tính với tôi việc ra đi bằng diện con
lai. Anh có săn sóc cho gia đình của một tên cán bộ thành ủy. Trong một ca mổ
thập tử nhất sanh, anh cứu được mẹ con nó mẹ tròn con vuông. Tên cán bộ coi anh
như là cha đỡ đầu cho đứa con trai duy nhứt của nó. Nó có ý muốn đền ơn đáp
nghĩa với anh bằng cách khuyên Lân đi mua một đứa con lai để nó tìm cách ghép
vào hộ khẩu của gia đình anh và chuyển hồ sơ xin đi nước ngoài. Nhưng vào năm
1985, vấn đề ra đi bằng diện con lai bị gián đoạn, cuộc thương lượng giữa Mỹ và
Cộng sản Việt Nam về chương trình MIA, POW bị bế tắc nên gia đình Lân vượt biên
bằng đường bộ. Anh bị bắn chết ở biên giới Thái Lan, vợ con không đem xác của
anh về lại Sài Gòn được. Khổ nỗi Lan, vợ của Lân làm dâu bên chồng là một gia
đình quý tộc đỏ. Ai cũng là anh hùng chiến sĩ cả, nào là Phạm Ngọc Thảo, Phạm
Ngọc Thạch. Anh thứ hai của Lân là Phạm Ngọc Nam năm 1950 là Trưởng ban Tuyên
truyền Xung phong tỉnh Bình Thuận bị quân Pháp bắn chết ở Ba Hòn Bảy Miễu tỉnh
Bình Thuận. Các chị ở cả Hà Nội mới về, họ xúm nhau đay nghiến nàng dâu đến
chịu không nỗi.
Năm 1989 trong lúc tôi ở
trại PRPC của Phi Luật Tân nghe được tin Lan, vợ của bác sĩ Lân đã chết trên
biển trong một chuyến vượt biên. Nàng bị đuối sức, hai đứa con thì được cứu
sống hiện đang ở trại Vùng 5 bên cạnh dãy nhà của chúng tôi. Đúng như bài thơ
của Thanh Nam đã viết :
Thấy rơi nước mắt khi tàn mộng
Nghĩ đắc vô cùng giá tự
do !
Hai người con của Phạm
Ngọc Lân nay đã tốt nghiệp đại học, làm việc ở gần tiểu bang Washington DC. Các
cháu hiện đang sống rất xứng đáng trước sự hy sinh của cha mẹ. Mang thân phận
gà trống nuôi con, tôi thấy Hà Mộng Hải sáng tác tranh buồn lắm. Anh vẽ toàn là
cảnh khổ đau chết chóc. Đám bạn bè bu lại uống rượu phê phán, bảo là Hải nó vẽ
con ma vú dài ở khám Chí Hòa, kiểu mấy bài báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà hồi
1965. Bức người con gái xanh xao đứng
nhặt lá vàng trông rất ma quái thấy rõ. Hải bảo là nó hóa thân theo kiểu Đinh
Cường. Mấy đứa bạn cười lăn ra. Có đứa cho rằng Hải vẽ tranh để chữa bệnh, căn
bệnh tâm thần ở trong nó. Mấy con mụ bán cá ở chợ Cầu Ông Lãnh gọi là bệnh mắc
nàng dưới, tức là mấy con ma ở dưới âm phủ trong đó có con ma vú dài. Thằng Tâm
Râu lại nói:
- Thôi mầy ơi! Bức tranh
là một đại hội của màu sắc chứ không phải là đại hội của mấy con ma vú dài, dở
bỏ mẹ. Thôi bỏ đi tám.
Hồi xưa Picasso đi đưa
đám tang một thằng bạn tự tử vì tình, trở về nhà ông ta vẽ toàn cảnh nghĩa
trang và những người khổ đau đang ôm mặt khóc suốt cả một giai đoạn màu lam.
Anh ta không cất đầu lên nổi vì ám ảnh cũng như Hải Lùn bây giờ. Cuối cùng,
Picasso cũng phải đập phá hết cả mới tìm được lối ra bằng xu hướng cách mạng
hội họa Lập Thể. Nguyễn Du có câu:
Đoạn trường ai có qua cầu
mới hay.
Qua cầu để thấy và hiểu
biết chứ qua cầu mãi thì bỏ bu người ta còn gì. Vỏ xe đạp chỉ có một khúc thôi,
chơi mà đứt hoài chỉ có nước đem vứt mua vỏ khác. Ai lại đoạn trường mãi coi
sao được. Chơi như vậy chơi với ai! Anh em đùa quá cỡ làm Hải Lùn nó cười như
con cọp mếu. Tâm Râu phản đối:
- Hải Lùn nó cười theo
kiểu con hổ trong hiệu bia BGI là không được! Chúng ta phải đòi nó cười kiểu
Phở Đầu Bò hay con bò cái hiệu Phó Mát mới được.
Đám bạn bè cải tạo lúc
nào anh em cũng hồn nhiên tự tại, chuyện đời tới đâu hay tới đó. Nhờ vậy, có
đứa đi tù cả hơn chục năm vẫn còn sống nhăn. Trong khi đó cũng có người về đến
địa phương, thần kinh bị căng thẳng trước hoàn cảnh cuộc đời, buồn tình đến tự
tử. Họ rất đau khổ - chứng tỏ tự do nằm ở trong tâm con người mạnh hơn ở ngoài.
Những năm cải tạo ở trại
Vĩnh Phú, bọn cải tạo có đưa Hải Lùn đi lao động ở Sở Trà. Có lúc Hải Lùn được
chọn làm việc ở Phòng kế toán. Nhờ trong thời chiến, có bận anh được làm sĩ
quan tiếp liệu ở Quân Đoàn nên việc làm sổ sách chi thu anh ta rất rành rẽ. Dĩ
nhiên anh hơn cả đám cán bộ ở dưới chân núi khiến bọn thư ký của Sở Trà tôn anh
làm bậc thầy. Nhờ đó, Hải Lùn lọt vào mắt xanh của một nàng thư ký trẻ đẹp. Cô ta tên Kiều Loan. Cha nàng là người Đức, mẹ
nàng dân xứ Nghệ, quê hương của «Hồ chủ tịch». Xưa cha nàng là lính Lê Dương
của Pháp bị bắt làm tù binh. Ông này lấy vợ Việt Nam nên ở lại làm công nhân Sở
Trà chứ không chịu về nước. Kiều Loan có nét rất đẹp, mắt xanh, tóc vàng. Hải
dạy cho cô nàng về quản lý kế toán và điều hành xí nghiệp nên chẳng mấy chốc,
cô ta được thay đổi cấp bực. Việc nâng cấp số lương của cô cũng nhờ Hải Lùn.
Bởi lý do kỷ luật của trại tù rất khắc khe nên hai người chỉ lấy mắt nhìn nhau,
bố bảo chẳng bên nào dám hó hé đến chuyện thề non hẹn biển cả. Mối tình của hai
người trẻ tuổi vẫn mơ màng như sương khói quanh núi đồi Vĩnh Phú.
Mãi tới ngày lãnh giấy ra trại, giã từ rừng
núi, mang hành lý cá nhân ra về, anh ta cũng chẳng dám đến Sở Trà để từ giã
người đẹp một lời. Thế mà trải qua đến gần một năm sau ngày vợ Hải chết, Kiều
Loan lại tìm được tin tức của Hải Lùn. Nàng đến trước căn nhà đơn chiếc của hai
cha con Hải. Nàng đã tìm đủ mọi cách để hỏi dò tin tức về Hải cả mấy năm, nay
mới tìm ra được. Kiều Loan đốt hương khấn bàn thờ của vợ Hải Lùn. Nàng xin làm
người vợ để thay thế cho Quỳnh Như và coi em bé Thùy Linh là con của mình.
Trước một người đẹp như thế làm cho Hải Lùn rất khó xử. Nàng xin ở lại với Hải
sống cho trọn những kỷ niệm của những ngày ở Rừng Trà Vĩnh Phú.
Tình yêu của Kiều Loan như một trái chín trên
cây vừa hái xuống, nhất là nàng cũng mới lần đầu tiên vào đến thành phố Sài
Gòn. Lúc này cũng nhằm lúc Hải Lùn vừa bán được căn nhà. Anh gạ tên cán bộ hạng
gộc từ Hà Nội vào để nó tự lo làm giấy tờ nhà đất. Hải lấy tiền chạy giấy tờ
chiếu khán xuất ngoại. Giữa Kiều Loan và Hà Mộng Hải, mỗi người như đang sống
cho những giấc mơ của mình. Từ núi đồi Vĩnh Phú, nàng đã mơ nằm gối đầu trên tay
Hải Lùn. Nàng đã mơ cùng chàng đi giữa phố Nguyễn Huệ và Mini Rex dưới ánh đèn
đêm, trong tiếng nhạc ở sàn nhảy. Hai người cùng bé Thùy Linh rong chơi khắp
Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang. Còn Hải, chàng sẽ đi một vòng khắp Việt Nam để mai
đây sống ở nước ngoài chưa chắc gì mình được có dịp về thăm quê hương đất nước
của mình. Lãng mạn nhất khi nghe cô gái tóc bạch kim nói thì thào bên tai Hải:
- Hạnh phúc của em là được sống bên người yêu
lý tưởng của mình, cho dầu em chỉ sống có một ngày hay một đêm thôi cũng còn
được. Không cần biết về sau trên cõi đời này, chúng mình có còn gặp nhau nữa
hay không. Những kỷ niệm của cuộc tình này sẽ ôm ấp trong tim mình mãi. Tình
yêu lý tưởng như những chiếc bong bóng
bằng bọt sà phòng dễ vỡ. Cái đẹp lý tưởng nó cũng giống như cái đẹp không
tưởng, có khi mình chỉ gặp nhau có một lần thôi. Ngày mai này em trở về núi
rừng Vĩnh Phú. Anh sống trên một đô thị ở nước ngoài, chúng ta chỉ còn tìm nhau
trong những giấc mơ thôi.
Giấc mơ nào rồi cũng tan mất, mỗi người hướng
về một nẻo đường. Hải Lùn bán được căn nhà rồi lại lo giấy tờ ra đi. Cô gái tóc
bạch kim, sau một tháng rong chơi với người yêu rồi nàng lại trở về Vĩnh Phú
sống với đám công nhân ở Rừng Trà. Hải bàn giao ngôi nhà rồi bế con qua xóm Hòa
Hưng ở trọ nhà của Hiệp. Anh chàng Hiệp là một võ sĩ, trước kia cùng đi biệt
kích với Hải Lùn, sau đổi về làm bảo vệ yếu nhân Tổng Thống Phủ. Hôm hai vợ
chồng Nguyễn Văn Thiệu ra đi, họ tính kéo theo Hiệp, nhưng anh bận bịu mẹ già
con dại nên xin ở lại. Bà Thiệu có bỏ lại cho anh một nghìn đô la gọi là chút
quà tình nghĩa. Từ khi Hiệp đi cải tạo ở Vĩnh Phú, nghìn đô la đó nay chỉ còn
lại cái sạp bán cơm tấm trong nhà lồng chợ Hòa Hưng để sống lam lũ qua ngày.
Hải ở nhà Hiệp chừng vài ba tháng. Anh lo cho Hiệp đi vượt biên được trót lọt.
Trong khi đó giấy chiếu khán xuất ngoại của Hải vẫn chưa làm xong.
Sau khi nghe tin Hiệp được sang Hoa Kỳ định
cư, cha con Hải Lùn bồng bế nhau qua nương tựa ở chùa Phổ Hiền bên Khánh Hội.
Trong thời gian ở chùa, anh ta phụ trách giúp ông sư hoàn thành pho tượng Thích
Ca ngồi ở chánh điện cũng rất đẹp. Hải Lùn nói rằng chính nhờ tôn tượng Đức
Thích Ca Mâu Ni gia hộ hai cha con anh đi ra nước ngoài một cách tốt đẹp. Ở
Việt Nam dưới chế độ cộng sản, đắp tượng Phật là cả một vấn đề rất nguy hiểm.
Tôi còn nhớ trong những năm này, họa sĩ Mai Lân nhà vẽ Thế Hệ ở đường Trương
Minh Giản có đắp một pho tượng Thích Ca để ở chánh điện một ngôi chùa ở Bàn Cờ.
Anh bị đi tù vì họ điều tra số tiền từ bên ngoài gởi về để đúc tượng Phật. Họ
nêu lý do tại sao không trình báo cho nhà nước quản lý.
Họa sĩ Trương Đình Vĩnh Lân xuất gia ở chùa
Trúc Lâm thọ giáo ông thầy Đồng Bổn, chùa ở xóm chợ Cây Quéo bên cạnh nhà của
điêu khắc gia Nguyễn Văn Thu. Nghe đâu pho tượng Quan Âm Quá Hải được các nơi
gởi đơn đặt hàng lên đến năm trăm bức. Chuyện trên do Hội Phật Giáo Yêu Nước
báo cáo lên Ủy ban Nhân dân thành phố. Họ ập vào chùa Trúc Lâm bắt anh Lân đi
tù và tịch thu toàn bộ tài sản của xưởng điêu khắc. Họ bảo là họa sĩ Lân diễn
tả Quan Âm đang đạp lên đầu Hồ Chí Minh. Ở tù vài năm, tánh tình Lân như bị mất
bình thường. Hiện nay nhà điêu khắc Trương Đình Vĩnh Lân đang định cư ở
Vancouver.
Đến khi tôi gặp Hải ở Montréal thì bé Thùy
Linh đã lên mười tuổi rồi. Số tranh của Hà Mộng Hải trưng bày trong lần này màu
sắc có phần tươi đẹp hơn. Hải đưa tôi về căn hộ của anh ở đường La Jeunesse.
Anh còn bảo:
- Anh Đệ, anh phải ở với em một tháng rồi em
sẽ lấy vé máy bay cho anh về.
Bé Thùy Linh gọi tôi bằng bố Hiếu Đệ. Đến năm
sau, tôi đi dự khóa tu của thầy N.H. ở làng Cây Phong. Tiết trời vào mùa
Halloween bắt đầu trở lạnh lắm. Tôi xuống núi trở về nhà Hà Mộng Hải đi phố với
hai cha con Thùy Linh mà vui hơn. Bọn tôi kéo tới thăm anh Đinh Văn Khai, thăm
ông cụ Hà Huy Liêm, bố của Hải. Tôi được dự đám cưới của cô em gái Út của Hải,
lấy chồng người Pháp. Bé Thùy Linh còn khoe với bố Hiếu Đệ trong giờ học
Bilingual Vietnamese Literature, nó được xếp hạng nhất. Cô giáo chọn bài luận
văn của nó đọc lên cho cả lớp cùng nghe. Tôi có lấy cái bài luận văn này của
nó, viết thêm cái chapeau gởi cho anh Đoàn Minh Hóa chạy trên báo Đi Tới để
Thùy Linh mừng. Và đưa nó xuống phố mua tặng nó chiếc đồng hồ đeo tay trị giá
năm mươi đồng làm phần thưởng. Thùy Linh reo mừng nhảy tung tăng như một con
chim nhỏ.
Bây giờ Hải mới kể cho tôi nghe chuyện tại sao
người ta gọi anh là người họa sĩ điên. Những năm đầu khi bế con rời bỏ quê
hương đất nước ra đi đến thành phố tuyết
lạnh này, sao thấy buồn vô hạn. Nếu cứ ngồi nhà nhìn ra bốn bề tuyết giăng
trắng xóa lại càng buồn hơn nữa. Anh ta dẫn xác đến Man Power đút đơn xin việc
làm có thể còn đỡ buồn hơn. Người ta tiến dẫn Hải đến làm ở một Factory chuyên
đóng bàn, ghế, tủ. Trong giờ đi làm, anh đem gởi bé Thùy Linh ở nhà bà nội của
bé, nhờ mấy cô trông nom giùm cháu, đến chiều tan sở anh đi rước bé về. Lúc đó,
bé vừa được tám tháng. Ở phố này, Hải Lùn gặp lại một số bạn của thuở còn đi
lính, đứa thì quen biết từ trại cải tạo, đứa thì biết nhau từ thuở học trò. Cứ
mỗi chiều tan sở là họ xáp lại với nhau uống rượu, chén anh chén tôi đến say
mèm cả đám. Bé Thùy Linh thì còn bú chai sữa, nằm ở ghế bên ngủ.
Thường thường khi tan chầu nhậu thì mạnh ai
nấy ra về. Anh bế con xuống bến xe hầm Station
Métro đi từ phố
Côte des Neiges về đến xóm La Jeunesse, rồi cõng em bé lội bộ về tới nhà. Xui
cho anh, khuya hôm đó nhằm một cơn bão tuyết, gió thổi mạnh và lạnh như cắt da.
Hải không dám bế con ra khỏi xe hầm. Chiếc xe chạy mãi cho đến mười hai giờ
khuya qua mấy trạm quen thuộc. Đêm về khuya, xe cũng chẳng còn khách. Người
kiểm soát vé đến đánh thức Hải dậy, họ bảo là xe đã hết giờ rồi, anh thức dậy
đi về nhà. Hải cho biết anh có con nhỏ không thể đi về trong cơn bảo tưyết
được. Anh chỉ bé Thùy Linh đang còn mới biết đi lững chững và nhờ họ gọi
emergency xin cảnh sát đưa về giùm. Ở nước văn minh người ta rất quý trọng trẻ
em và phụ nữ nên trong phút chốc, xe cảnh sát kéo đến rất nghiêm trọng. Họ đem
đủ đồ ấm và máy sưởi để đắp ấm cho bé Thùy Linh và hộ tống hai cha con Hà Mộng
Hải về đến nhà.
Anh chàng Hải này từ Việt Nam mới qua tưởng
đâu như vậy là sung sướng hết cỡ. Mình đi uống rượu có được lính hộ tống đưa về
thì còn gì bằng. Lần sau, anh ta tiếp tục kêu lính đưa về. Nhưng xui cho Hải,
lần sau này đám cảnh sát không chịu dễ
dàng như vậy nữa. Họ chụp hình cả hai cha con Hải, sau đó họ làm giấy warning
cảnh cáo: «Nếu Hải tái phạm lần nữa, họ sẽ tách rời cháu bé ra khỏi cha nó, đưa
vào Center Abuse, tìm người bảo trợ để nuôi em bé. Còn bố nó, chiều nào cũng
say xỉn thì phải đi ở tù, chứ không được giỡn mặt với nhà nước Canada nữa!».
Chính vì cảnh sát cảnh cáo rồi nên Hải không
dám kêu họ đưa về nữa. Bữa nọ, trời khuya bão tuyết càng lớn, gió thổi mạnh như
gào thét. Trong cơn say xỉn, Hải cõng con chạy ra khỏi xe điện hầm về đến trước
cổng nhà, anh đuối sức bước lên tam cấp, trợt ngã đầu đập vào ngạch cửa, quỵ
xuống bất tỉnh trước cửa. Máu trên đầu chảy lênh láng. Bé Thùy Linh khóc thét
lên, ôm lấy đầu bố, tay chân bê bết những máu. Tiếng em bé khóc làm Hải tỉnh
dậy, nhìn thấy hai bàn tay bé đầy máu. Anh ta không biết mình đã bất tỉnh bao
lâu rồi. Hải bế em bé vào pha nước nóng rửa tay chân, mặt mũi và thay đồ ấm cho
bé. Anh pha sữa và dỗ cho bé ngủ. Xong rồi, Hải mới băng bó vết thương trên
đầu. Anh ngồi một mình trong phòng khách, gục đầu suy nghĩ. Hải tự nhận thấy
anh có lỗi với con mình. Anh có lỗi với vong linh của Quỳnh Như là mẹ của nó.
Anh không làm tròn bổn phận của người cha, một người chồng. Tại sao anh lại tệ
bạc như thế. Anh đốt lên trên bàn thờ của vợ một nén hương tạ lỗi trước vong
linh của nàng. Anh hứa sẽ làm lại cuộc đời của mình và nuôi dạy bé Thùy Linh
nên người. Bắt đầu từ đó, mỗi chiều đi làm về, anh không trở lại gặp bạn bè nơi
quán nhậu nữa. Đám bạn nhậu kéo đến đứng la trước nhà khiến anh phải trốn họ.
Hải cắt dây điện thoại và giây chuông ở trước cửa.
Khi giã từ bạn nhậu rồi, anh phải làm gì để
lấp lỗ trống khoảng thời gian này. Hải bắt đầu nghĩ đến việc sáng tác tranh trở
lại. Từ khi anh dứt khoát với bàn rượu, số tiền đi nhậu vẫn nằm nguyên trong
ngăn kéo. Hải dùng khoản tiền này xuống phố mua sắm sơn cọ và bố vẽ để khởi sự
làm tranh. Hải nhớ lại những ngày anh sống với ông sư ở chùa Phổ Hiền bên Khánh
Hội. Trong lúc hai người đang lên pho tượng Thích Ca, ông sư có nói:
- Trong các pháp môn tu học khó nhất là tu chỉ
(…), có nghĩa là dừng lại (stopping) như người ta đang nghiện thuốc lá, đang
nghiện rượu mà dứt khoát bỏ được là cả một vấn đề, phải kiên trì lắm mới được.
Bởi vì con người còn phải nô lệ tế bào, bởi trái tim, bởi tình cảm. Phải đạt
được sự dừng lại, mình mới nhận định và thấy được sự sai trái. Người ta gọi định
có nghĩa là thấy (seeing). Chỉ và định nó tác động với nhau cũng
như âm dương trong Kinh Dịch. Chứ mình đương say mèm thì còn thấy cóc khô gì.
Sự sai trái cứ tiếp tục nhân lên thành tội lỗi. Ma quỷ hiện ở trong con người
chứ không phải ở bên ngoài. Đàn áp được chính mình tức là trấn áp được ma quỷ
và tội lỗi. Còn chịu thua để cho sự đam mê và dục vọng cứ lấn lướt, mình chỉ
còn có nước bị đẩy lùi xuống vực thẳm hố sâu. Phải đứng lên để mà đi chứ.
Hải nói:
- Thằng em của anh Đệ nó bị mất hết tất cả.
Mái ấm gia đình cũng mất, vợ chết, quê hương đất nước cũng rời bỏ. Bây giờ chỉ
còn mấy thằng bạn bên bàn rượu, em cũng bỏ luôn! Giữa đại dương mênh mông, em
chỉ còn bám được chiếc phao mong manh này là bé Thùy Linh, coi nó như một lẽ
sống. Còn nữa chứ, còn một lẽ sống rất đẹp là nghệ thuật, là thế giới màu sắc.
Em vẽ cho nó quên đời.
Hồi đó ông sư cũng có nói:
- Vẽ đi chú Hải à ! Vẽ tranh là thiền đó.
Thế giới của tranh cũng mầu nhiệm như thế giới của thiền quán (vipasana).
Hải nói tiếp:
- Mình đi làm cả tám tiếng trong ngày, có khi
vì nhu cầu của sở, mình còn phải làm việc phụ trội để trang trải các thứ bill,
không lẽ còn mấy tấm tranh mình cũng đem đi trình làng và buôn bán nó nữa sao?
Do đó, lũ bạn nhậu lại nhà xin coi tranh, xin mua tranh, em vác cây em đuổi là
như thế. Bọn nó giận quá, chạy ra đường nói ầm cả lên là thằng Hải Lùn nó điên
rồi. Để như thế mà còn có lợi cho mình hơn, thằng em của anh nó cũng chẳng cần
đính chánh. Mấy thằng bạn nhậu còn chửi em, nói là thằng Hải nó lối, nội cái
tên của nó, thấy cũng đã khùng rồi đừng nói gì khác. Hà Mộng Hải sống mà mơ
thành biển thì sức mấy, cả trăm con sông cũng chỉ đổ ra biển thôi. Cũng anh Hà
Minh Đức, ảnh đòi làm bố của tên Hồ Chí Minh. Ảnh nói Hồ là cái vũng nước. Đức
lớn hơn Đạo, to gấp vạn lần cái chí của con người. Ở Trung Quốc có sự khai quật
mới đây ở một ngôi cổ mộ, người ta tìm được cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử. Trong
hàng nghìn câu kinh, phần nói về Đức cũng đứng trước phần Đạo. Nhưng có điều
đến ngày hôm nay, anh Hà Minh Đức, chủ nhiệm tờ Bông Lúa của ông Ngô Đình Nhu
sao thấy ảnh nghèo khổ đến tội nghiệp.
Mấy năm sau này tôi cũng có đến thăm Hải. Anh
đã dời đi một địa chỉ khác, khá khang trang hơn. Hải nói với tôi, nay bé Thùy
Linh nó đã thành thiếu nữ mười sáu tuổi còn gì. Bé lại giống mẹ nó như hai giọt
nước. Bạn trai của bé tới nhà nườm nượp khiến anh vác cây đuổi tụi nó chạy bắt
mệt. Tôi cười quá cỡ nói:
- Thôi, đuổi tụi nó mần chi, hồi nhỏ tụi mình
cũng vậy đó chứ gì!
Hải còn kể chuyện anh họa sĩ Phạm Tăng từ
Paris qua thăm ông cụ. Hồi xưa họ có thâm tình với nhau. Hơn nữa, ông cụ của
Hải là ông thầy của Phạm Tăng. Anh có đến xưởng vẽ của Hải, thấy hai cha con
Hải sinh sống, họa sĩ Phạm Tăng cảm động ôm Hải khóc. Anh kể chuyện hồi trước ở
Hà Nội, Phạm Tăng có một người yêu, cô ta rất đẹp. Mối tình của anh và cô nàng
bị gia đình cấm cản làm đỗ vỡ. Cô nàng tự tử chết. Anh khóc trước ngôi mộ người
yêu trước khi rời Hà Nội để di cư vào Nam. Lúc này anh vẽ biếm họa cho tờ nhật
báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền. Sau đó, anh được học bổng đi học bên Pháp. Anh
có yêu một cô nàng làm người mẫu cho anh. Gia đình cô ta rất khá giả, cha cô có
nhà in, làm các ấn bản cho những tác phẩm nghệ thuật. Ông ta là người Đức. Cô
nàng sinh cho anh một cháu gái. Về sau, cô ta bị bịnh mất trí phải đi điều trị
ở một bệnh viện tâm thần và mất ở nhà thương. Đứa con gái mất mẹ được anh đưa
vào viện nuôi trẻ của mấy dì phước. Đến khi khôn lớn, nó không còn nhìn nhận
anh là cha của nó. Đời anh coi như bị mất đi hết tất cả. Kể cả đứa con gái có
mái tóc bạch kim rất đẹp. Hà Mộng Hải tuy vậy vẫn còn hạnh phúc hơn anh. Anh
ngồi trong xưởng vẽ của Hải, lòng quặn đau, tưởng nhớ đến vợ con của mình.
Nhà văn Honoré de Balzac có viết quyển tiểu
thuyết nhan đề Bức Tranh (Le Tableau) nói về một anh chàng họa sĩ đam mê làm
nghệ thuật quên cả vợ con, suốt đời chỉ nghĩ đến tác phẩm. Hôm nọ, đứa con của
anh đang hấp hối. Người vợ ra phòng vẽ gọi anh vào lo cho đứa bé. Anh họa sĩ
này tỉnh queo, lại còn mang sơn cọ vào giường vẽ cái chết của đứa con. Sau khi
chôn cất đứa con xong rồi, vợ anh bỏ đi
lấy chồng khác để anh họa sĩ nọ côi cút một mình. Lúc anh ta già gần chết, có
người đến bên giường cho anh hay là bức tranh Sự Chết (La Mort) được giải
thưởng số một về nghệ thuật. Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật quyết định thỉnh vào
Museum. Anh nằm rơi nước mắt, hồi tưởng lại bức tranh, chỉ có tấm tranh thôi,
còn tất cả những gì gần gũi nhất đối với anh đều bị xóa mờ trong dĩ vãng. Ôi
tấm tranh, tấm tranh để làm gì mà anh phải khổ đau như thế.
Anh Phạm Tăng nhìn thấy hai cha con Hà Mộng
Hải là cả một niềm hạnh phúc, thứ hạnh phúc mà cuộc đời của anh hằng mơ ước mà
không bao giờ tìm được. Anh biết rằng ngày mai nó sẽ khác đi, khi bé Thùy Linh
bước vào ngưỡng cửa đại học, nó sẽ ở trong Dome tách rời khỏi bố nó. Nó sẽ có
bạn bè là những roommate của nó. Nó sẽ có bạn trai, có thể là một international
student. Thùy Linh sẽ theo người yêu đi đến một nước nào ở Âu Châu. Nó sẽ rời
xa bố trong khi Hải Lùn đang ở vào tuổi xế chiều và anh chỉ còn ngồi lại trong
xưởng vẽ một mình với những tấm tranh.
Tôi thấy Thùy Linh cũng sợ mất anh, cũng như
anh đang sợ mất nó. Có bữa tôi và Hà Mộng Hải đang ngồi nói chuyện dong dài, bé
Thùy Linh mở to đôi mắt đứng trước mặt bố nó, nói:
- À ! Mấy ông già này kể chuyện tình yêu
đó phải không? Bà nào đó vậy? Giấu tui hén!
Hải cười ruồi:
- Đừng có nghĩ tầm bậy! Bố đang kể chuyện má
mầy đó!
Thùy Linh quay sang bố nói:
- Ờ! Kể chuyện má tôi ngày xưa
thì được, chứ nói chuyện tới cô nào thì bố chết với tui đó nghen!
Hai bố con nó cùng nhau cười,
rất dễ thương.
Hiếu Đệ
**
Hoa Thược Dược
Trong cuộc sống, nhiều khi ta cứ
tưởng là ta đang trong hiện hữu, nhưng quả thực ta chưa hề được tiếp xúc
với ta. Bởi vì tâm ta cứ rong ruổi chạy đuổi theo ảo ảnh của quá khứ, của hiện
tại và tương lai. Chưa bao giờ chúng ta được ngừng nghỉ.
Chỉ có một phương pháp
duy nhất để tiếp xúc với sự sống đích thực là bằng cách trở về với giây phút
hiện tại. Và lúc đó, ta mới có cơ hội tìm lại được ta.
Trong sự trở về nầy,
ta thoát ly được sự hơn thua mất còn. Ta có thể bình yên nhìn được cánh hoa
đang nở, những đọt lá xanh tươi trên cành, nụ cười ngây thơ của em bé, nền trời
xanh có áng mây vừa bay qua. Tất cả chính là những sự mầu nhiệm của cuộc sống
mà chúng ta đã từng đánh mất nó.
Cuộc đời là phù du giả
tạm, giống như một cánh cửa của địa ngục hay thiên đường đang mở đóng ở trước
mắt. Nó lôi cuốn con người vào vòng huyển hóa đó. Nếu có người ý thức được điều
đó thì khi nhìn lại lòng mình, chỉ có giờ phút hiện tại mới là hạnh phúc đích
thực.
Trong thiền học có câu
chuyện như sau:
Một hôm, trong pháp đàn tại Pháp Hội Linh Sơn, có sự
tham dự của 1250 vị tỳ kheo, đại đức, tăng ni và chư thiện nam tín nữ. Lúc đó,
Đức Phật cầm một Hoa Sen đưa lên và hoàn toàn yên lặng. Ngài không nói gì cả.
Tất cả các đệ tử phải ngạc nhiên suy nghĩ. Họ không hiểu Đức Phật làm như thế
là có ý gì. Trong chúng hội, lúc bấy giờ có ngài Ma Ha Ca Diếp nở một nụ cười.
Đức Phật bảo:
- Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn Diệu Tâm, Pháp
Môn Mầu Nhiệm chẳng lập văn tự, ngoài giáo lý truyền riêng, nay giao phó cho
ngươi. Ngươi phải khéo giữ gìn Chánh Pháp này, truyền trao mãi đừng dứt, đến
sau nầy truyền lại cho A Nan.
Đức Phật đến trước tháp Đa Tử gọi Ma Ha Ca Diếp rồi
nói kệ truyền Pháp:
Pháp bổn Pháp vô Pháp
Vô Pháp Pháp diệt Pháp
Kim phó vô Pháp thời
Pháp Pháp hà tằng Pháp
Dịch là:
Pháp gốc Pháp không Pháp
Pháp không Pháp cũng Pháp
Nay khi trao không Pháp
Mỗi Pháp đâu từng Pháp.
Câu chuyện đó cho đến nay vẫn còn là đề tài để cho mọi
người, mọi giới thảo luận. Và có không được bao nhiêu người đã hiểu ý nghĩa của
câu chuyện “Niêm Hoa Vi Tiếu”.
Từ ý nghĩa câu chuyện đó và để đóng góp một vài ý nghĩ
cho hành giã tu tập, chúng tôi thử đưa ra một vấn đề đơn giản để tìm hiểu ý
nghĩa và bổ túc cho sự tu tập hiện tại.
Như có một người nào đó dâng lên một đóa hoa. Họ muốn
trình bày ra trước mặt quý vị, mục đích là họ muốn quý vị nhìn thấy cái hoa đó.
Nếu quý vị bận vào những suy nghĩ khác, dĩ nhiên quý vị sẽ không thấy cái hoa
ấy. Chỉ trừ khi quý vị không bận rộn, tâm hồn thanh thản không vướng bận thì
quý vị sẽ bắt gặp và thưởng thức vẻ đẹp cái hoa ấy một cách trọn vrẹn.
Như vậy cái hoa đó vừa đến và mọi người có khả năng
tiếp xúc với nó trong sự chú ý đồng nhất thì những nét đẹp đã đến với họ rất
sâu sắt. Và họ thưởng thức cái đẹp thuần khiết của hoa.
Một ví dụ khác:
Có một em bé đang cười một nụ cười hồn nhiên với quý
vị. Quý vị sẽ không thực sự thấy nó khi đang suy nghĩ về quá khứ hoặc tương lai
hay đang lo lắng một vấn đề khác trong hiện tại. Quý vị sẽ không thưởng thức
được nụ cười hồn nhiên của nó và sẽ đánh mất nó. Như vậy quý vị sẽ không thấy
được em bé đó thật sự có trước mặt.
Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy vấn đề của sự sống,
khi chúng ta không hoàn toàn trở về với mình, sống thật sự trong cuộc sống hiện
tại thì chúng ta sẽ mất hết tất cả. Do đó, kỷ thuật trở về với chính mình là
một giải pháp mầu nhiệm, như một phép lạ làm cho cái hoa, em bé và mọi sự vật hiện thành sự thật.
Đến đây chúng tôi xin trình bày một bài thơ của thi sĩ
Quách Thoại. Anh mất ở Sài Gòn vào năm 1956, lúc đó tác giả mới hai mươi tám
tuổi, tính đến nay cũng đã hơn ba mươi năm. Bạn bè tìm lại thấy anh có rất
nhiều bài thơ hay.
Một trong những bài thơ đó là bài Hoa Thược Dược:
Đứng yên ngoài hàng dậu
Em mỉm nụ nhiệm mầu
Lặng nhìn em kinh ngạc
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Vừa thoáng nghe em hát
Lời ca em thiên thâu
Tôi lặng lẽ cúi đầu...
Mặc dầu bài thơ ngắn gọn, ít chữ nhưng ý thơ rất xúc
tích. Mỗi chữ đều tượng thanh tượng hình làm cho người đọc dễ dàng hình dung
được cái bối cảnh của Hoa. Điều đó chứng tỏ tác giả bị thu hút bởi cái Hoa
Thược Dược khi đi ngang qua hàng dậu. Anh ta dừng lại và cảm hứng viết lên bài
thơ trong lúc anh chàng rất thanh tịnh và sống trọn vẹn với cái Hoa đó.
Quách Thoại chết lúc còn trẻ. Anh sống rất đam mê và
cuồng nghiệt. Không biết anh đã có dịp đọc hoặc nghe Hoa Nghiêm Kinh hay Diệu
Pháp Liên Hoa Kinh hay chưa mà tư tưởng của anh giống như người tỉnh thức như
thế.
Khi tôi đọc bài thơ này, tôi thấy huyền bí lạ lùng vì
tự nó toát ra một cái đạo. Đó là cái đạo của sự tỉnh thức và cái nhìn thật sâu
thẳm mà một người thường tình không bao giờ có.
Ngài Huyền Quang đời nhà Trần có nói:
“Thế nhân khai thị túy man man”
Có nghĩa là:
«Người đời mắt mở nhưng vẫn say nồng».
Ở đây, người nghệ
sĩ mà linh hồn thơ lại giống như một nhà tu nên nhà văn André Malraux thường
nói: «L’Artiste est un Chrétien» là như vậy.
Người thi sĩ có cái nhìn khác biệt với mọi người, khi
họ nhìn mọi sự vật bằng trực giác. Họ dùng cái trực giác thanh tịnh của mình để
xúc chạm đến nét đẹp thiên nhiên, hòa mình với vũ trụ. Lúc đó họ tìm thấy sự
giải phóng toàn diện trong lúc họ tuyệt đối sống với chính mình trong giây phút
hiện tại.
Quả thật, giây phút hiện tại là giây phút mầu nhiệm tuyệt
vời, nếu chúng ta biết quý mến nó. Như chúng ta biết, nhờ có hiện tại mà chúng
ta có thể suy đoán được quá khứ ta đã tu tập, hoặc đã tạo ra phước, nghiệp báo
gì, và ta cũng có thể suy đoán vào kiếp tương lai ta sẽ làm gì.
Nhất cử nhất động đều căn cứ vào sự kiện hiện tại
trong đời nầy và hiện tại của từng mỗi niệm, mỗi sát na. Chính trong những giây phút hiện tại ta mới
kiểm soát và sống thật với lòng mình.
Như Đức Phật lúc đưa bông sen trước pháp hội, chỉ có
ngài Ca Diếp lãnh hội được ý của Phật. Đây không phải là các vị Tỳ Kheo, La Hán
v.v… không có giác tánh, hoặc không sống trong giây phút hiện tại. Các vị khác
cũng có, tuy nhiên có thể là có phản ứng chậm, hoặc chưa đạt tới mức độ thượng
thừa như ngài Ca Diếp.
Cũng như Hoa Thược Dược nở bên hàng dậu. Trong lúc đã
có rất nhiều người đi ngang qua, nhưng không có một người nào làm thơ ca ngợi
và nghe được tiếng hát của Hoa Thược Dược. Không có người làm thơ về Hoa và
diễn tả tiếng hát của Hoa Thược Dược
không có nghĩa là không có người biết thưởng thức cái đẹp của Hoa. Có thể có
nhưng những người không phải là Thi Sĩ thì không đủ văn chương để diễn tả cho
dù họ có cái nhìn thanh tịnh.
Quách Thoại vừa là Thi Sĩ, vừa có tài nghệ thưởng thức
với cái nhìn nhất quán thanh tịnh. Do đó, anh đã viết thành thơ.
Từ sự việc nầy, tôi dám nói Hoa Thược Dược nở bên hàng
dậu giống như cành sen Đức Phật đưa ra trước đại chúng trong pháp hội. Hàng dậu
nơi Hoa Thược Dược đứng là Linh Sơn thánh địa và Quách Thoại là ngài Ca Diếp.
Và tôi muốn nói:
Hoa Thược Dược nở bên hàng dậu là sự hiện diện của Bồ
Tát đạo, là con đường trở về nội tâm. Hàng dậu nơi Hoa Thược Dược đứng đó là
căn bản của sự phát sinh ra Bồ Tát đạo và Quách Thoại là người có khả năng trực
giác tiếp thu đường về với Bồ Tát đạo.
Tôi có ý nghĩ như thế vì theo trong kinh nói:
Giảng giải một câu kinh, đưa mọi người tiếp xúc lạc
thú bằng nghệ thuật trong việc tu tâm dưỡng tánh để tìm lại cái chân như thanh
tịnh của thuở ban đầu, đó là một lạc thú cao cả, là một hành động của Bồ Tát mà
kinh Kim Cang gọi là hành động Bát Nhã.
Cành Hoa Sen không những nở trong pháp hội Linh Sơn mà
nó còn nở trong lòng ngài Ca Diếp, đệ tử của Phật. Cái Hoa Thược không những nở
bên hàng dậu mà nó còn nở trong tâm hồn Thi Sĩ Quách Thoại.
Hoa Vô Ưu, Hoa Đạo Pháp không những đã nở cách đây mấy
ngàn năm về trước tại Ấn Độ và cả trên quê hương Việt Nam vào các triều đại
Đinh, Lê, Lý, Trần mà còn nở mãi mãi trong lòng các người con Phật có tâm hồn
yêu đạo mến đời.
Hiếu Đệ
**
Cô Hồn Tháng Bảy
Hồi năm 1945, thi sĩ Nguyễn Bính vào Sài Gòn. Anh nghĩ không bao giờ còn
trở lại Hà Nội được nữa vì trong trí anh
ta chỉ có vỏn vẹn vài chục đồng thôi. Cho nên anh nghĩ mình như một Kinh Kha
sang Tần:
Người sang bên ấy sao mà lạnh
Ngõ trúc ta về lạnh mấy mươi.
Đến khi sống ở Sài Gòn lục tỉnh thì chẳng mấy ai biết
anh chàng ta là Nguyễn Bính. Nên anh ta than thở:
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà bâm mặt
Thiên hạ ai người khóc nhận thây.
Trong truyện Tàu thì chỉ có Hồ Thị là người đứng ra hy
sinh nhận thây của Nhiếp Chính. Duy nhứt chỉ người ấy thôi. Vả chăng văn chương
thời loạn lạc là như thế. Thật là đáng trách. Có ai chịu đọc sách báo đâu! Cũng
như bây giờ thôi, họ còn phải để thời giờ đi làm over-time nữa. Cho nên:
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười.
Trong bài Hành Phương Nam của Nguyễn Bính cũng như Tản
Đà vẫn hay nói: «Văn chương hạ giới rẻ như bèo». Còn cụ Tiên Điền Nguyễn Du lúc
làm quan thì chẳng nói làm gì. Tới lúc viết truyện Kiều thì trút hết tâm sự của
mình vào áng văn kiệt tác đó mà cụ vẫn còn nói:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
Cụ nghĩ rằng ba trăm năm sau cũng chẳng có ma nào hiểu
tới mình. Các văn nghệ sĩ đều là như vậy. Họ kết thân với nhau thành một bộ
tộc, cùng sống lang bạt giang hồ. Chưa tới lúc chết mà Sao Trên Rừng đã trối
lại với con cháu:
Con ơi nhớ lấy lời nầy
Đời cha mạnh giỏi cũng nhờ rong chơi.
Tôi nghĩ rằng mình cũng là thành viên trong bộ tộc đó
nên đồng ý với nhà thơ Vũ Hoàng Chương là:
Lũ chúng ta một đàn dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh.
Tôi cũng mang cái tật rong chơi quên lối về như thi sĩ
Vũ Hoàng Chương. Mà nhà thơ nầy thường tiếp lũ bạn tre trẻ chúng tôi trên chiếc
chiếu hoa, với ngọn đèn dầu lạc. Đến lúc cháy túi không có tiền xài nên nhà thơ
rên lên:
Em ơi lửa tắt bình khô cạn
Đời vắng em rồi say với ai?
Những năm đầu của
cuộc chiến thì thân phận của giới thanh niên lao đao lận đận, trai làm lính,
gái làm điếm:
Ngoài ba mươi tuổi duyên còn
hết
Một ván cờ thua ngã bóng chiều
Ai khóc đời ai trên bấc lụi
Đây mùa thu sớm lửa dần thiêu.
Nhưng dấn thân vào
cuộc chiến thì nhà thơ là một chiến sĩ rất dũng cảm. Nhà thơ đã đem thân mạng
và sự sống của mình tham dự vào cuộc đấu tranh bất bạo động để tranh thủ hòa
bình và chống độc tài từ năm 1963 cho đến 1977. Anh đã từng bị tù tội nhiều lần
trong thời gian đó. Trong bài Bút Nở Hoa Đàm, anh viết:
Ai sẽ là người trong tương lai
Một sớm một chiều
Vươn tay hái cành hoa thương yêu
Làm bút viết.
Chính nhà thơ Vũ Hoàng Chương là người đã hái được
cành hoa Từ Bi đó chứ còn ai nữa. Đó là một hành động Bồ Tát và công đức vô
hạn. Đến khi chánh quyền Việt cộng phóng thích anh về thì anh chỉ sống với vợ
con duy nhứt có một ngày rồi mất. Được tin nầy, thiền sư N.H. rất thương cảm
viết nên bài thơ. Ông ta dùng toàn những chữ rất quen thuộc của nhà thơ. Các
bạn đọc nào thường đọc thơ của Vũ Hoàng Chương thì sẽ cảm thấy ngay. Đó là bài «Đuốc Thơ Còn Cháy Trên
Trang Sử Người»:
Đêm
nay dù đã về ngôi
Hồn thơ vẫn thấy luân hồi thế gian
Bút hoa ngàn kiếp không tàn
Đuốc thơ còn cháy trên trang sử người
Có không mù mịt biển khơi
Nẻo về đã rạng chân trời thênh thang
Tỉnh say vẫn một cung đàn
Lửa anh hào đốt cháy tan đêm sầu
Thơ lên bay vút bồ câu
Triều âm chấn động phương nào chẳng nghe
Giấc mơ Hồ Điệp đi về
Biển Đông sóng vỗ, kình nghê vẫn còn.
Tôi
còn nhớ những năm tôi mặc đồ lính, thi sĩ thường hay đến nhà tôi chơi. Trong
những dịp đó, anh hay trách tôi:
-
Này, nhà chú mầy coi đông con cái như thế nầy mà không có đến một cái bàn thờ
tổ tiên ông bà. Cái đó bậy lắm đó nghen!
Tôi quay sang hỏi anh:
- Làm sao tụi tôi thiết kế cái bàn thờ đó?
Anh đáp:
- Đâu, đưa giấy bút đây, tớ viết cho mấy chữ là xong
ngay. Cho ta biết đủ họ cha họ mẹ và họ bên vợ coi.
Thi sĩ có lối thủ bút rất ngọt, rồng bay phượng múa, chỉ
có vài phút là xong ngay. Anh đưa lên ngắm nghía một hồn rồi nói:
- Này nhé! Đi làm
cái khung rồi để lên bàn thờ mà thắp hương với người ta. Ta báo cho biết là bắt
đầu từ bây giờ, gia đình chú mầy sẽ khác hẳn đó, sẽ làm ăn phát tài lên.
Tôi bèn đáp:
- Anh nói cho tôi vững bụng; vậy chứ mặc đồ lính rồi mà
còn đòi phát tài cái gì nữa?
- Ấy! Chú mầy không tin thì thôi, đó là tao chúc chú mầy
mà! (Hề... hề...). Mấy đứa bụi đời ngủ ở lề đường mà tụi nó còn có cái bàn thờ
ông bà, còn mình có nhà cửa đàng hoàng mà chẳng biết cái gì cả. Cái đó phải tội
với tổ tiên đó nghe chưa?
- Đâu cái bàn thờ
ông bà của dân bụi đời ra sao anh?
- Thì đấy, nó xâm hàng chữ trên cái khuỷu tay đó: “thương
quê hương nhớ mẹ hiền”. Bởi vì bọn họ không bao giờ có nhà để trở về. Nhưng họ
vẫn nhớ về huyết thống tổ tiên. Như vậy hàng chữ đó là cái bàn thờ ông bà của
họ đó chứ còn gì nữa. Cái bàn thờ nầy đến chết họ vẫn còn mang theo đó chú mầy
ơi!
Cũng nhờ thi sĩ họ Vũ mà tôi mới có cái bàn thờ ông bà tổ
tiên. Đến nay sống ở nước ngoài, lũ con tôi chúng nó vẫn mang theo cái bài vị
của bàn thờ ông bà qua đây, mặc dầu cái nền màu đỏ của tờ giấy đó đã trắng bệch
ra rồi. Sau nầy còn tiến bộ hơn là trên cao còn có bàn thờ Phật nữa.
Người Việt Nam chúng ta lúc nào cũng có cái bàn thờ ông
bà ở trong mỗi gia đình. Đến ngày rằm tháng bảy, họ thường hay chưng dọn hoa
quả, trà nước để cúng kính ông bà. Họ cho đó là một ngày rất hạnh phúc vì họ
nghĩ rằng ông bà nay về đoàn tụ với họ, vui vẻ trong ngày lễ Trung Nguyên đó.
Ông bà cũng chứng minh sự hưng thịnh của gia đình họ ngày hôm nay. Cũng trong
dịp nầy, họ còn nghĩ đến cô hồn tháng bảy. Đó là những con ma đói, không nhà
cửa để trở về. Họ thiết lập một cái bàn thờ nữa để ở trước nhà, bày ra nhiều
thứ thức ăn thức uống để cúng cô hồn. Người ta thường gọi là Cúng Thí Thực. Họ
nghĩ là những con ma đói thiếu tình thương của gia đình thân thuộc, đói cả sự
hiểu biết và đức tin. Tội nghiệp cho những ma đói nầy cả đời cho đến khi nhắm
mắt chẳng nhận được một thứ tình thương nào cả.
Theo trong kinh Phật thì nói thứ ma nầy có cái bụng rất
lớn nhưng cái cổ họng lại nhỏ xíu thôi nên chúng khó bề mà tiếp nhận được thực
phẩm, nước uống do tình thương của muôn người cung cấp cho nó. Bởi vì loại ma
nầy đầu óc hạn hẹp lắm. Sở dĩ cái cổ họng nhỏ xíu lại là vì tánh hoài nghi, hay
ngờ vực hết mọi người, chẳng tin vào ai cả. Thế cho nên xã hội chúng ta hằng
ngày sản xuất ra hằng nghìn con ma đói nầy. Nhất là cái xã hội kỹ nghệ hóa và
cá nhân chủ nghĩa như bây giờ.
Chúng ta chịu khó
nhìn sâu một chút sẽ thấy và hiểu được nó ngay. Biết vậy, chúng ta không nên
oán trách nó mà phải thương xót nó nữa là khác. Bởi vì nó cũng bị kẹt không thể
thoát ra được, đành chịu chết dí ra như thân xác con chuột con sóc đang nằm
trên xa lộ. Trong lễ cúng thí thực cho cô hồn, người ta có đọc một bài chú.
Người ta nói là để cho cái cổ họng của cô hồn được mở toát ra mà tiếp nhận thực
phẩm và tình thương. Và cũng để giải phóng cho nó được hiểu biết nhẹ nhàng mà
trở về với gia đình và xã hội.
Có những thanh niên thanh nữ tự vỗ ngực lớn tiếng nói với
gia đình rằng mình không phải là người Việt Nam. Có những người còn chưởi thẳng
vào cha mẹ là loại cổ lổ xỉ (old fashion). Có những em bé làm giao liên cho
đường giây ma túy, phát tài rồi không chịu đi học nữa, thoát ly gia đình luôn. Những
gia đình người Á Đông lên tiếng báo động tình trạng làm mình mất con. Họ nói
thà trở lại sống ở các nước nghèo nhược tiểu mà giữ được con cái. Truyền thống
văn hóa có cơ nguy bị cắt đứt.
Sở dĩ chúng ta có được một đời sống an lành và hạnh phúc
là do chúng ta có gia đình, có xã hội, có cộng đồng. Chúng ta có dòng máu và
tinh thần của tổ tiên ông bà. Chúng ta là những đứa con hiếu thảo của cha mẹ
nên chúng ta hiểu biết được tổ tiên ông bà. Còn ngược lại, chúng ta không tìm
thấy sự bình yên. Chúng ta không tìm thấy sự tin tưởng trong chúng ta. Như vậy
là chúng ta thành cô hồn, thành những con ma đói. Đói cả truyền thống văn hóa,
đói cả sự tin cậy vào cuộc đời. Những con ma đói, những cô hồn còn có được
tháng bảy để trở về. Còn chúng ta, có khi bị đi đứt luôn.
Tại sao chúng ta nhớ cứ mỗi rằm tháng bảy làm lễ cúng cô
hồn? Tại sao chúng ta lại không mở rộng trái tim mình, hiểu và thương đến những
người tuổi trẻ thiếu tình thương và thiếu cả nơi nương tựa.
Hiếu Đệ
**
Nỗi Buồn Hoài Niệm
Tôi vào năm thứ nhất trường Trung học Trương
Vĩnh Ký thường gọi là trường Pétrus Ký, niên khóa đầu tiên khi trường được quân
đội viễn chinh Pháp sang tái chiếm Đông Dương sau thế chiến thứ hai, giao hoàn
lại chánh quyền Việt Nam. Đó là năm 1947 sau một thời gian trường ăn nhờ ở đậu
nơi nhiều cơ sở giáo dục khác như trường Sư Phạm ở cạnh Sở Thú, trường Nữ Trung
học Gia Long, chủng viện Mossard, trường Marie Curie…
Chính nơi trường Marie Curie nguy nga đồ sộ nầy, thấp
thoáng đó đây nhiều khuôn mặt tây đầm oai vệ với quần áo thẳng thớm phẳng phiu,
thằng nhỏ nhà quê là tôi chưa hoàn hồn khi đang ngơ ngác, chới với giữa đô
thành tráng lệ, lại ngỡ ngàng âu lo lúc dự thi tuyển vào trường Pétrus Ký. Và
cũng trong năm 1947 đó, trường mở lại chế độ nội trú sau nhiều năm gián đoạn vì
thời cuộc và chiến tranh.
Một may mắn khác là
tôi thuộc thành phần học sinh nội trú này. Chẳng qua nhờ ăn "dưa leo chấm
nước cá kèo" nên theo chân "mấy anh học trò nghèo học buộc xi
ê". Nhờ ông trời thương vì với lớp nghèo như tôi thi tuyển vào trường
Pétrus Ký lúc bấy giờ mà trợt một keo thì cuộc đời kể như đi đứt. Nói theo ngôn
ngữ dân gian chân quê của bà con tôi là kể như tôi sụm bà chè luôn. Lý do là
tôi đâu còn cơ hội nào nữa để được dự thi lần thứ hai.
Chế độ tuyển chọn thời thực dân thịnh trị vô cùng khắc
khe nghiệt ngã. Bao nhiêu nam nữ hiếu học cầu tiến thời đó đã mất hết tuổi
thanh xuân mộng mơ của mình và đành chấp nhận định mệnh phải bỏ dở dang việc
học hành để tiến thân khi dứt cấp sơ học.
Thực tình cũng nhờ tôi tốt số do nhờ ơn trên và hồng
phúc dòng tộc hay sao mà tôi lại đậu có hạng trong kỳ thi tuyển khó khăn đó. Và
tôi đương nhiên được ban giám đốc nhà trường chọn vào chế độ nội trú. Một thành
quả tôi không hề dám ước mơ nhưng đã là sự thật. Một nỗi mừng không bút mực nào
tả được đối với tôi lúc bấy giờ. Không như ở mẫu quốc này hiện nay, gia đình
nào không có thu nhập cao, con cái đều được cấp học bổng do chánh sách nâng đỡ
và khuyến khích học hành của chánh quyền. Cho dù kết quả của chúng nơi trường
ốc có đạt như ý muốn hay không.
Mấy năm ở nội trú, tôi
giữ rất nhiều kỷ niệm, những kỷ niệm đầu đời này khó quên, không sao kể xiết.
Chính nơi đây, tôi đã gặp "anh hùng tứ xứ", từ cuối mũi quê hương Bạc
Liêu, Cà Mau quanh năm rì rào sóng vỗ đến Tây Ninh ngất nghểu Núi Bà huyền
thoại, Biên Hòa bắp ngon bưởi ngọt... từ vùng biển mặn Gò Công, Mỹ Tho đến Hà
Tiên với Đông Hồ ấn nguyệt, Thạch Động thôn vân v.v... trong Hà Tiên thập cảnh,
Châu Đốc những ngày Vía Bà "ngựa xe như nước, áo quần như nêm"...
Toàn là những tay hiếu học say mê cầu tiến.
Trường bãi bỏ hẳn chế độ nội trú khoảng năm 1951 sau
đám tang Trần Văn Ơn được tổ chức trong khuôn viên nhà trường với thành phần
nồng cốt là học sinh nội trú. Đây là một trong những đám tang lịch sử trọng thể
hiếm có sau đám tang vĩ đại của chí sĩ Phan Châu Trinh thuở trước. Từ năm đó
trở về sau, trường chỉ nhận duy nhứt học sinh ngoại trú mà thôi.
Gần năm mươi năm tuần tự
tiếp nối, kẻ mất người còn, trải qua lắm biến cố biển dâu, đất nước đổi đời.
Bao nhiêu bè bạn bằng hữu ngày xưa, nay dở sống dở chết nơi "xứ tù chung
thân" Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Bao nhiêu tri âm tri kỷ lưu đày nơi xứ
lạ, ngậm đắng nuốt cay khắp năm châu, canh cánh trong lòng nỗi hờn ly hương mãi
mãi quặn xoáy không nguôi. Tuy nhiên dù hoàn cảnh có oái oăm nghiệt ngã đến thế
nào nhưng trong tâm tư tình cảm của chúng tôi vẫn in sâu, đậm nét câu đối chữ
Hán do giáo sư Ưng Thiều viết và được khắc trên hai cột trụ đứng hoành tráng ở
cổng chánh của trường:
«Khổng Mạnh Cương
Thường Tu Khắc Cốt
Tây
Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm».
Lật bật chúng tôi đã
trang bị đầy đủ rương hòm để vào nhập học năm thứ nhứt, khởi sự cuộc sống tập
đoàn với những sinh hoạt râm rấp theo một nội qui chặt chẽ. Chương trình học
giao tiếp giữa hai bậc tiểu học và trung học nhằm giúp đám học sinh "ra
ràng" còn non chèo chúng tôi làm quen với nề nếp, phương pháp và nhịp độ
sinh hoạt mới của trường ốc. Do vậy, chưa có những gò bó, bức bách khắc khe như
mấy năm sau này khi phải chuẩn bị trần thân khổ ải, thi cử trầy vi tróc vảy do
chính sách giáo dục của thực dân Pháp.
Họ chủ trương hạn chế nhân tài bản địa vì sợ nguy cơ
tiếp xúc nền tảng văn chương văn hóa phóng khoán cùng những tư tưởng tiến bộ về
bình đẳng, bác ái và tự do, dân chủ Tây Phương. Nhưng trong thực tế, họ đành
chấp nhận thất bại chua cay. Dù họ có trăm mưu ngàn kế dùng những thủ đoạn và
biện pháp độc tài độc đoán thất nhân tâm cách nào đi nữa vẫn không sao
thoát khỏi nấm mồ ô nhục, nấm mồ phũ
phàng chôn chính chế độ của họ sau thế chiến thứ hai.
Chúng tôi học tà tà.
Hằng ngày, đa số chúng tôi mặc bộ đồ bà ba trắng phao được ủi xếp nếp. Giống
như dáng vóc các anh công tử bột miệt vườn, chúng tôi đều mang guốc dông nhẹ
hêu, lũ năm lũ ba kéo lẹp xẹp đến lớp học, qua dãy hành lang vừa dài hun húc,
vừa khoản khoát, lúc nào cũng sạch sẽ lộng gió. Vài đứa thuộc hàng giàu có, con
cái các địa chủ lục tỉnh khét tiếng, mang guốc lồng mức rắng chắc, nặng ì, mỗi
bước đi nện mạnh xuống sàn gạch nghe lốp cốp lốp cốp như tiếng ngựa phi nơi đại
đạo.
Bài vỡ đã ít. Tuy vậy,
sáng nào chúng tôi cũng có lệ "ngồi ê tuýt" ôn lại bài học trong ngày
hay chuẩn bị chu đáo sách vỡ hoặc dụng cụ cần thiết... trước khi đến lớp. Ngán
nhứt là lúc "ngồi ê tuýt" bắt buộc vào buổi tối. Thì giờ quá dư giả, thừa mứa. Không
biết phải làm gì. Chập chập chúng tôi cứ nhìn đồng hồ tay, thấy kim đồng hồ
dường như ngừng chạy hẳn.
Thật chán phèo! Những
lúc ấy, tôi thường hay nhớ lại những ngày tháng dài mài đủng quần ở ghế nhà
trường tiểu học tại quận nhà. Nơi đây có quá nhiều thoải mái, tự do nên trong
lòng tôi thoáng dậy vu vơ bao nhiêu tiếc nuối ngậm ngùi, phảng phất
rất nhiều khuôn
mặt bạn bè nối khố nay đã chia tay tản lạc, thằng góc biển, đứa chơn
trời mù tăm.
Giờ đây, có đứa học hành xuôi chèo mát mái, đổ đạt
thành danh thành tài. Chúng ăn nên làm ra, cuộc đời lên hương như diều gặp
những ngày lộng gió, lúc nào cũng ăn trên ngồi trước. Thật tâm mừng cho chúng
nó. Và chúng tôi cũng tự hào và hãnh diện chung cho tăm tiếng của nhà trường mẹ
nữa.
Nhưng đại đa số còn lại, ngày ngày tất bật bon chen
kiếm sống, chắt chiu từng đồng xu cắt bạc mà vẫn chưa yên thân yên phận. Nơi
đây, tôi xin được chia xẻ nỗi niềm với những đồng môn bất hạnh này. Từng đứa
từng tên cứ mãi ẩn hiện vấn vương trong tôi những lúc bâng quơ ngoái nhìn về dĩ
vãng. Mới hay những hình ảnh mất đi bao giờ cũng dễ nhớ và đòng đọng dài lâu trong
mỗi con người chúng ta.
Nghĩ đến ngày may mắn gặp lại đám trời đánh, tinh
nghịch khuấy phá thuở thiếu thời này thật vô cùng mong manh mà nghe xao xuyến,
buồn vô hạn. Đôi khi bên tai tôi lại văng vẳng lời của thầy tôi nơi trường tiểu
học, dong dài về huyền sử của dân tộc, về định mệnh của người Việt nam qua
truyện kể Âu Cơ và Lạc Long Quân.
Hai ông bà đã chia tay nhau, mỗi người dẫn dắt năm
mươi con theo hai ngả khác nhau. Hai ngả cách ngăn diệu vợi: rừng núi chập
chùng và biển cả thẳm sâu. Những lúc đó, tôi trầm ngâm lặng thinh như cúi đầu
chấp nhận định mệnh của chính mình!?
Ngồi không khơi khơi
nơi phòng «ê tuýt», chúng tôi đâm ra buồn ngủ. Lại không được quyền ngủ. Chỉ
còn nước tự cứu rổi lấy mình là ngủ gà ngủ gật một vài thoáng ngắn ngũi chờ tiếng
chuông reo giải thoát cuối giờ. Vì đây là giờ học bắt buộc mà!
Các thầy giám thị rất
dễ thương. Thầy Nguyễn Văn Tình, thầy Thân, thầy Xáng, thầy Trương Minh Ứng,
thầy Hồ Văn Trị, thầy Nguyễn Gia Tốn, "papa" Lê Văn Khiêm v.v...
thỉnh thoảng hò hét cầm chừng để áp đặt trật tự phòng ốc. Hoặc phân xử những vụ
kiện cáo lặt vặt không đâu đâu giữa chúng tôi.
Những lúc này được nghe hai bên nguyên cáo và bị cáo
cãi qua cãi lại theo kiểu móc họng, giành phần thắng về mình. Thêm mấy đứa nhân
chứng lứng khứng, làm nhưn làm nhụy, nhập nhầy lải nhải trước sau bất nhứt,
không ra hồn. Rồi những lời phán quyết hàng hai, huề cả làng, làm đẹp lòng tất
cả của các thầy là dịp cứu tinh qua giờ giấc.
Có đêm, ông Motais de Narbonne, Tổng Giám thị người
Pháp cuối cùng của trường, bách bộ hóng mát xa xa bên ngoài phòng học để nhắc
nhở sự hiện diện dù chiếu lệ của ông. Lúc ấy, ông đã lụm khụm, đi đứng chậm
chạp khó khăn, thêm móm xọm, sắp về hưu.
Càng về khuya càng
buồn ngủ hơn. Hai mí mắt mỏng tanh, nhẹ bong cứ kéo xụp xuống nặng nề, dù chúng
tôi cố nhướng cách mấy cũng không sao hé mắt được. Thỉnh thoảng, các thầy gõ
thước cốp cốp rồi gọi từng tên cảnh cáo, nhắc nhở phải học bài làm bài hoặc
khuyên đọc sách trao dồi kiến thức.
Lớp học lại trở nên im thin
thít. Từng chập từng chập, chúng tôi nghe mấy con tắc kè sống lâu năm, to thân
lớn xác, thường thập thò ở cửa chánh hướng vào "đọt toa", kêu lên
những tiếng nặng nề ngắt khoảng, trầm buồn khôn tả. Những lúc ấy, tôi cảm thấy
trong lòng mình dấy lên nỗi nhớ nhà nhớ quê, nhớ mái chùa xưa cong cong rong
rêu, nhớ vòm me cổ thụ xum xuê, nhớ đình nhớ miễu um tùm rập rạp… Những nơi tôi
từng nghe phát ra lạnh lùng tiếng những con tắc kè thân quen hằng đêm.
Ngồi
học nhưng chúng tôi canh giờ. Tai lắng nghe bác lao công giè thân quen xách
thùng nước trà Huế nóng đổ vào hũ da bò lớn kê bên ngoài, phía sau lớp. Thế là
chúng tôi nối đuôi nhau, hết đứa này đến đứa khác, xin thầy giám thị trực đêm
cho phép đi lấy nước uống. Nước trà nóng giúp tỉnh táo trở lại không mấy hồi
như có phép tiên vậy.
Hơn nữa, ra được
ngoài sân là một cơ hội ngàn vàng, trông chờ đỏ con mắt. Có gió mát trong lành
thoang thoảng mơn trớn. Có sao trời lấp lánh nên thơ quyến rủ. Có trăng non lơ
lửng đồng tình...
Tha hồ cho chúng
tôi ở nán lại đấu chuyện tào lao, vội vàng hấp tấp. Khốn nỗi đôi lúc chúng tôi
bị níu kéo nán lại. Vì có thằng dốt đặc cán mai cũng tập tành con cà con kê,
dong dài vẽ viên những câu chuyện Chị Hằng Chú Cuội, dặm mắm thêm muối cho lâm
ly lôi cuốn rồi cao hứng chúng nó lang bang vào cõi mơ hồ, nào chòm sao Đại
Hùng Tiểu Hùng, nào sao vua Xử Nữ v.v... Làm như chúng nó sành sõi, thông hiểu
rành rọt về khoa thiên văn địa lý vậy. Nhưng thực tình bây giờ nhớ lại lúc đó
chúng nó xạo hết chỗ nói, nhưng xạo có căn cơ, gốc ngọn, nghe cũng bùi tai. Nhờ
vậy chúng tôi vốn mù tịt nhưng được một cái là tỉnh táo trở lại.
Một số bạn khác lén trốn ở các dãy bàn chót để đánh cờ
tướng, cờ chó, cờ ăn ừ chờ giờ. Việc này không thoát được đôi mắt rất tinh của
các thầy. Nhưng các thầy cũng thương tình thông cảm, giả điếc giả mù làm ngơ.
Miễn sao chúng tôi giữ yên lặng để đứa nào muốn học hành có đầy đủ
điều kiện tối thiểu, sẽ không
phàn nàn hay khiếu nại gởi thưa.
Nay các thầy chắc đã nằm xuống thảnh thơi toại nguyện nơi
lòng đất mẹ ấm tình ruột thịt, tâm thần thanh thản vì đã làm tròn trách nhiệm
một kiếp người. Vì lúc ấy các thầy cũng đã trọng tuổi, trừ thầy Nguyễn Gia Tốn
hãy còn trẻ măng, chỉ lớn hơn chúng tôi chắc chưa tròn một kỷ.
Sau này, đến
30/04/1975, chúng tôi vẫn thường gặp thầy trên "chiếc xe mẫu" bốn bánh,
do chính thầy vẽ kiểu và thực hiện, có lấp máy nổ. Thầy làm phương tiện di
chuyển trong thành phố, trông không giống ai nhưng lúc nào cũng lôi kéo người
tò mò, quến kẻ hiếu kỳ. Kể ra thầy rất có khiếu sáng chế, tiếc thay "sanh
lầm thế kỷ" nên không gặp thời để cải tiến thêm và thương mãi hóa sáng
kiến của mình. Các thầy không còn nữa nhưng hình ảnh các thầy vẫn đậm nét và
sống mãi trong lòng tôi.
Nhưng kỷ niệm có ảnh hưởng lớn đối với tôi có lẽ là phong
trào đọc tiểu thuyết ở nội trú. Gia đình tôi ở xa thành phố, không phải cuối
tuần nào hay ngày lễ nào cũng về thăm nhà được. Tài chánh có giới hạn, chỉ dành
cho những chi tiêu tối cần cho việc học hành thi cử. Phương tiện di chuyển thời
ấy hãy còn nhiêu khê, phôi thai và quá đắt.
Vẫn những chiếc xe điện cũ kỹ nối liền Sài Gòn Chợ Lớn
theo đại lộ Galliéni sau này là Trần Hưng Đạo và đường Marins tức Thủy Binh hay
Đồng Khánh ở Chợ Lớn... Chúng vẫn giữ một nhịp độ bất di bất dịch từ năm này
sang tháng nọ, cứ cà rịt cà tang với những tiếng chuông báo động
leng keng leng keng, đêm đêm
nẹt điện xèn xẹt sáng ngời, chớp tắt không nguôi.
Vẫn những chuyến xe lửa Mỹ Tho Sài Gòn đen ngòm, nặng nề,
chạy bằng củi thay vì than đá do thời buổi nhiễu nhương khan hiếm nguyên liệu.
Lắm khi lên dốc cầu Phú Lâm, chúng phải phải thụt tới thụt lui đôi lần ba lượt
để lấy trớn từ xa. Có khi mãi tận Mũi Tàu, An Dưỡng Địa An Lạc, tức khoảng xa
cảng Miền Tây bây giờ. Những lúc đó, lũ nhỏ chúng tôi tha hồ đánh đeo theo các
toa xe, mặc tình đùa giỡn nói cười thỏa thích.
Thêm vào đó, còn
cảnh tượng khách đi xe đông như kiến, bám đeo đầy các cửa lên xuống, cả trên
mui xe rất nguy hiểm. Bỗng nhiên tôi lại nhớ hình ảnh bác gác cổng già nơi ga
xe lửa Phú Lâm hấp tấp thổi mấy hơi còi dài để báo động trước khi bác cẩn thận
kéo hai cổng tre sơn trắng đỏ đều khoản, xuống nhằm chận xe cộ và bộ hành qua
lại.
Vẫn những chiếc xe thổ mộ lụp cụp leng keng, leng keng
lụp cụp với mấy con ngựa có tuổi ốm nhôm, chạy đi chạy về không biết bao nhiêu
lượt trong ngày. Chung qui các chuyến xe đã làm nên một thời đó đều bắt đầu và
được đợi chờ ở hai bến ga xe lửa Sài Gòn và Chợ Lớn Mới, Chợ Lớn Cũ. Mấy chú
ngựa uể oải lúc cuối đời này, phóng uế bừa bãi, rải rác ngay giữa lòng đường.
Dù vậy, bà con vẫn quen mắt từ bao đời rồi nên chẳng có một phản ứng nào cả.
Vả lại, mỗi lần về thăm nhà do phương tiện di chuyển vốn
trắc trở đã đành mà còn tốn kém lắm đối với hạng học sinh có tiêu chuẩn
"dưa leo, cá kèo". Tiền cha mẹ cho bỏ túi mang theo không đáng giá là
bao nhưng là cả một hy sinh lớn lao của một đời người.
Chồng làm quần quật
trên đồng không mông quạnh, quanh năm thách thức gió mưa sương nắng. Vợ thì lam
lũ ngày nắng ngày mưa, đội trên đầu hay gánh gồng oằn vai băng qua những cây
cầu khỉ khập khểnh hay đường làng quanh co trơn ướt, nào là rau khoai, cây trái
vườn nhà đem bán ở chợ xa.
Chúng tôi thường ở
lại trường vào mỗi cuối tuần. Cả một vài tháng hay gặp lễ lớn mới có hy vọng về
thăm nhà. Số học sinh nội trú bất hạnh này tương đối không đông mấy vì có những
bạn may mắn tốt số hơn, nhờ kiếp trước khéo tu, lánh dữ làm lành sao đó nên bây
giờ được bà con quen biết ở thành phố hay những vùng phụ cận bảo lãnh đi phép
ngày thứ bảy hay chủ nhật. Sáng chúng đi trọn ngày, tối về trường trước giờ
đóng cửa "đọt toa".
Thời gian rổi rảnh của chúng tôi trong hai ngày cuối tuần
dài thăm thẳm, buồn thúi ruột thúi gan. Bạn bè ở lại trường thường quá ít nên
quang cảnh thêm trống vắng hắt hiu. Tuy trời nắng tốt với màu xanh rộn rả thắm
tươi mà sao cảnh vật đối với chúng tôi trông quá nhạt nhòa thểu não. Mới hay
"người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!" (Nguyễn Du).
Chép bài hộ các anh
lớn, vốn tiện tặn từng giờ từng phút mài miệt chuẩn bị ngày đêm để thi
"bắc on", "bắc đơ" riết cũng chán. Chúng tôi cứ lần lữa hứa
cuội, cười trừ, khất tiều khất quảng kéo dài mãi khiến các anh tới lui thúc hối
như đi đòi nợ ngày nợ tháng không bằng. Đôi khi các anh buông những lời chê
trách cho rằng chúng tôi làm ăn chậm lụt như lục bình trôi, còn hơn ba ba lội
biển.
Chúng tôi chỉ có cách đọc sách để tiêu khiển. Thường là
tiểu thuyết Pháp hoặc Việt mới giết hết thì giờ. Dọc sách ở nội trú là một cái
thú tuyệt vời. Nhứt là vào khoảng mười giờ ruỡi mười một giờ, chúng tôi vừa đọc
sách vừa run đùi nhâm nhi loại cơm cháy chảo đụn. Các chú các bác phụ trách ẩm
thực sâm soi vàng hườm, dòn rụm, còn tráng lên một lớp mỡ thịt heo kho tàu óng
ánh, thêm lởm chởm hành hương xắt nhỏ, thơm ngon lạ lùng.
Sau này, rời trường
lưu lạc khắp nẻo đường quê hương, lăn lóc bập bũm trong những hoàn cảnh trái
ngược nhau, rồi đến hôm nay ly hương bất đắc dĩ, lặn hụp nơi xứ lạ quê người từ
mấy mươi năm qua, tôi vẫn còn tiêng tiếc cái thuở “vàng son” của một đời người
này. Vì chẳng cách nào tôi tìm lại được hương vị qua ư đặc thù xa xưa ấy nữa.
Sách Pháp không ngoài những tác giả chúng tôi mua ở nhà
sách Khai Trí hoặc Văn Đàn ở Chợ Cũ Sài Gòn những khi đi phép hiếm hoi cuối
tuần. Đại khái như các tác giả Alphonse Daudet, George Sand, René
Chateaubriand, Alexandre Dumas, Victor Hugo, Hector Malot, Pierre Loti và...
giáo sư Phạm Duy Khiêm với tác phẩm "Les Contes en Terre Sereine" mà
các thầy dạy Pháp văn như thầy Phan Quốc Quân, thầy Lê Văn Phước, thầy Hồ Văn
Kỳ Trân, thầy Nguyễn Văn Thơ, thầy Huỳnh Văn Hai, thầy Lê Chí Thiệp v.v...
thường khuyến khích khuyên bảo chúng tôi cố tìm đọc.
Riêng tiểu thuyết Việt thì nhiều, nhiều lắm. Thị trường
chữ nghĩa tiếng Mẹ đang phát triển mạnh mẽ và tràn ngập lúc bây giờ. Hầu như
hằng tuần nào cũng đều có những tựa sách mới với kỹ thuật in ấn trình bày ngày
càng cải tiến hấp dẫn. Dù sao, sách Việt cũng dễ đọc, dễ hiểu, không phải lôi
thôi tra cứu tự điển, mất thì giờ và mất cả hứng thú.
Chúng tôi dành dụm,
chầm khíu đồng lặn đồng mọc, hạn chế tối đa chi xài lặt vặt không cần
thiết để
có tiền mua sách. Mua được cuốn
nào là
chúng tôi trao đổi, chuyền tay
nhau đọc. Đôi khi còn tranh giành đọc trước đọc sau như tôm tươi không bằng.
Lúc này, “toàn dân nghe chăng sơn hà nguy biến” nên phong
trào yêu nước bừng lên mãnh liệt, sục sôi khắp mọi nơi. Các tầng lớp công dân
trẻ già trai gái hạ quyết tâm hy sinh, chung một lòng kháng chiến chống Pháp xâm
lăng sau thế chiến thứ hai. Từ thành phố chí đến thôn làng hẻo lánh đều vang
dội những bước quân hành. Những bản hùng ca đánh động lương tâm của Lưu Hữu
Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ thời cách mạng tháng Tám vẫn còn âm hưởng
quẩn quanh đâu đây.
Chiều chiều, ở
những giờ giải trí, các anh lớn tụ tập hòa đàn những bản Thanh Niên Hành Khúc,
Việt Nam Mến Yêu, Lên Đường, An Phú Đông... lôi cuốn, quến lũ chúng tôi bu
quanh rất đông đảo. Rồi động lòng sanh hứng, chúng tôi cùng nhảy vào tham gia
nhưng chỉ biết vỗ ghế đập
bàn ầm ầm theo nhịp hát hồn
nhiên muốn vỡ cả lồng ngực.
Thời đó, ở Sài Gòn, hầu hết báo chí thống nhứt hằng ngày
đồng thanh lên tiếng tỏ rõ lập trường dứt khoát chống lại nhựt báo phân ly Phục
Hưng của nhà báo Hiền Sĩ, người chủ trương đòi Nam Kỳ tự trị theo đúng sách
lược của thực dân. Và cây bút móc lò nổi tiếng lúc bấy giờ ký dưới bút hiệu Nam
Quốc Cang, tức ký giả Nguyễn Văn Sinh, trong mục "Trớ Trêu", ví von
đã kích không nương tay những tên thực dân giàu sụ. Bọn này cố bám níu quyền lợi
mong manh còn sót lại. Đặc biệt là nhóm "Tam B" chọc trời khuấy nước:
Béziat, Bazé và Bonvicini.
Trong khi đó, các
văn nghệ sĩ ở thành hầu hết đều hướng nhìn về phía chiến khu hoặc có thiện cảm
với kháng chiến. Những đề tài sáng tác của họ xoáy quanh giai đoạn lịch sử ấy
nhằm khích động bấu nhiệt huyết tuổi trẻ và lương tri độc giả, thúc giục họ
đứng lên "chống xâm lăng", đấu tranh giành độc lập, tự do, dân chủ
cho nước nhà. Về sau nhà phê bình văn học Nguyễn Văn Sâm gọi giai đoạn này là "Phong
trào Văn chương Kháng chiến Nam Bộ".
Nhiều tựa tiểu thuyết đến nay vẫn in dấu sâu đậm trong
trí nhớ tôi như Người Yêu Nước của Thẩm Thệ Hà, Nửa Bồ Xương Khô của Vũ Anh
Khanh, Trên Đường Nhiệm Vụ, Những Tia Nắng Mới của Đặng Thị Thanh Phương, Kòn
Trô, Sương Gió Biên Thùy của Lý Văn Sâm, Manh Áo Ngự Hàn, Người Chiến Binh Bạt
Mệnh của Nguyễn Đạt Thịnh, Tình và Nghĩa Vụ, Lá Cờ Hồng Thập của Nhất Tâm, Bên
Mồ, Hận Người Tử Sĩ của Hoàng Kim...
Ngao Châu dịch
Đường Lên Cõi Bắc trong khi ký giả nhà văn Việt Quang đi xa hơn với Xin Đắp Mặt
Tôi Mảnh Lụa Hồng. Lụa hồng ở đây có ý nghĩa gì? Chẳng qua là lá cờ đỏ của Cộng
sản được tác giả tô vẽ phai nhạt bớt để qua mặt kiểm duyệt lúc bấy giờ.
Chưa kể những tác giả khác như Trần Thanh Mại (Ngô Vương
Quyền), Dương Tử Giang (Duyên hay Nợ), Sơn Khanh (tức cựu Thủ tướng Nguyễn Văn
Lộc trong chánh phủ Nguyễn Cao Kỳ), Liên Chớp, Bùi Nam Tử, Võ Hòa Khanh, Tô
Nguyệt Đình... Tôi nghĩ rằng một số anh em chúng tôi đã thực sự chịu ảnh hưởng
của những tiểu thuyết đấu tranh này, hầu hết do nhà xuất bản Tân Việt in ấn và
phát hành rộng rãi ở thành phố.
Vì chịu một phần ảnh hưởng ấy nên một số không nhỏ thanh
niên nặng lòng yêu nước đã từ bỏ thành phố hoa lệ đi vào chiến khu với ước mơ
trong sáng đem đến chiến thắng vinh quang nhanh chóng cho dân tộc, cho tổ quốc.
Nhưng thảm thương thay, đa phần đều vỡ mộng, không tìm được lối thoát.
Một số nhắm mắt
buông xuôi theo định mệnh để bảo toàn mạng sống rồi từng bước bị lôi cuốn vào
guồng máy hận thù chém giết, đấu tranh giai cấp của cộng sản để thân bại danh
liệt về sau. Một số khác kiên cường bất khuất với tâm niệm hướng thượng, vì quê
hương dân tộc, vì tổ quốc trên hết nên bị Việt minh Cộng sản thanh toán, bức tử
giữa lúc tuổi thanh xuân tràn đầy nhựa sống yêu đời.
Trường hợp nhà văn
tên tuổi Vũ Anh Khanh là một điển hình đến nay vẫn chưa phai nhòa trong ký ức
tập thể của toàn dân Miền Nam. Anh đã vượt tuyến và bị bộ đội biên phòng bắn
chết nơi sông Bến Hải, xác bị bọn chúng dập vùi đâu đó bên bờ sông?
Duy chỉ một số may
mắn hơn, vượt thoát được gọng kềm quá ư khắc nghiệt và tàn nhẫn của cộng sản.
Họ bất chấp hiểm nguy, quyết tâm trở về vùng đất tự do và bị chúng với ác tâm
cố hữu gán cho hai chữ Việt gian nhục nhã chỉ vì không chấp nhận chủ trương và
đường lối độc tài đảng trị của chúng.
Khoảng năm 1958/59, tôi có giữ một chức vụ nho nhỏ trong
guồng máy chánh quyền Đệ Nhứt Cộng Hòa và có cơ hội hướng dẫn một phái đoàn
nhân viên đi khảo sát Côn Đảo. Tôi lưu lại đây tròn một tháng vì thời bấy giờ
mỗi tháng chỉ có một chuyến tàu duy nhứt xuất phát từ Bến Bạch Đằng để tiếp tế
cho đảo. Lúc này Thiếu tá Bạch Văn Bốn làm tỉnh trưởng Côn Sơn.
Tôi được dịp thăm viếng hầu như tất cả các trại giam, cả
khám biệt lập mà một thời báo chí thiên tả trong nước cũng như giới truyền
thông quốc tế ác ý đồng thanh gọi là “chuồng cọp” với những mô tả thiếu khách
quan. Tôi cũng có thăm khám tử hình và nơi đây tôi có gặp nhà văn nhà chánh trị
Hồ Hữu Tường, ký giả Văn Lang Trần Văn Ân, chủ nhân sáng lập báo Đời Mới nổi
tiếng một thời, rồi những đàn em của tướng lưu vong Bình Xuyên Lê Văn Viễn như
Tư Cốc, Tiểu Lý Quảng, Chín F.M v.v...
Một nỗi buồn dấy lên trong tôi lúc đó khi trông thấy một
số khuôn mặt bạn bè chung lớp hoặc biết mặt biết tên trong những năm chung sống
vui vẻ dưới mái trường Pétrus Ký đang trong vòng lao lý nơi các trại giam khổ
sai, ngày ngày đi đốn củi hoặc lao động nặng. Tôi suy nghĩ có thể một số nào đó
vẫn còn trung thành với giấc mơ không tưởng của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Nhưng
tuyệt đại đa số khó mà chọn lựa một lối thoát thân do sự kềm kẹp rúng ép của các
chi bộ đảng nhà tù.
Thuở đó, chánh sách của chánh quyền Miền Nam là mở rộng
vòng tay đón nhận những người phía bên kia thành tâm trở về với chính nghĩa
quốc gia. Tỉnh trưởng Bạch Văn Bốn có tổ chức một khu riêng biệt cho những
người hồi tâm hối cải này. Họ được tự do thoải mái, sống chung đụng nhau và nơi
khu này tôi còn nhớ có cả quán xá bán đầy đủ cà phê, hủ tiếu, thuốc lá cùng
những dụng cụ cần thiết v.v...
Có nhiều người ngày
ngày được cho ra sinh hoạt ngoài phạm vi của khu và chỉ trở lại đây để ngủ đêm.
Cho nên anh em tù nhân gọi khu này là “thiên đường” để đối lại với các trại khổ
sai hay cấm cố là “địa ngục”. Chính nơi “địa ngục” này, biết bao thanh niên
trong đó có không ít bè bạn đồng song của tôi đã vĩnh viễn từ giã cõi đời, mang
xuống tuyền đài giấc mơ dang dở.
Trong giai đoạn đó, tôi có cơ may và cũng chắc do định
mệnh sắp sẵng là rất say mê đọc các tác phẩm bất hủ về nông thôn đồng ruộng quê
mùa của nhà văn đặc sệt Miền Nam, Phi Vân. Có lẽ do gốc gác tôi chân quê, sinh
trưởng và lớn lên trên thửa ruộng vồng khoai, sông nước bát ngát, quanh năm bà
con tôi cày sâu cuốc bẩm, gắn bó với lũy tre xóm làng nên dễ cảm thông và cảm
nhận chăng?
Tác phẩm của Phi Vân không lớn lao đồ sộ, không như đối
với các tiểu thuyết gia dấn thân đương thời. Ông chỉ trình làng suốt cuộc đời
khá dài cầm bút của ông, dăm ba cuốn nhưng với ngần đó cũng đủ để tên tuổi ông
sáng chói trên văn đàn bấy giờ.
Những cuốn Đồng Quê
(Phóng sự), Tình Quê (Truyện dài), Cô Gái Quê (Truyện ngắn), Dân Quê (Truyện
dài), trước đây tôi đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần. Và lần nào cũng
đầy hứng khởi say mê. Và càng say mê hứng khởi hơn từ những ngày sống ly hương,
xa quê hương cội nguồn.
Tôi say mê thích
thú đọc Phi Vân ở những giờ "ê tuýt" ban đêm đã đành mà ngay ở giờ
giấc được tự do giải trí nữa. Đôi khi tôi quên lững tiếng chuông reo báo hiệu
chuẩn bị đi ăn cơm chiều. Hoặc lúc lên "đọt toa", khi bốn bề đã yên
lặng, tôi vẫn liên tục lén đọc nốt chương sách lở dở dưới ánh đèn xanh xao, mờ
mờ ảo ảo, vừa đủ để phân biệt từng chữ một.
Phi Vân đã gợi trong lòng tôi cảnh đồng quê tươi đẹp rất
đặc thù của Miền Nam thuở thanh bình xa xưa, thời "tiền cách mạng",
qua những tập hợp phóng sự sống động trong Đồng Quê. Có thể nói trong các tác
phẩm của ông, tôi tâm đắc nhất quyển này.
Tác giả đã dùng
ngòi bút tài tình linh hoạt, quyến rủ lôi cuốn tôi qua những sinh hoạt quen
thuộc của đời sống hằng ngày nơi thôn dã, chất chứa tình tự và tình yêu. Bao
nhiêu phong tục tập quán, lề lối hành xử tình nghĩa cân phân giữa nhau, bao
nhiêu tín ngưỡng hun hút một thời đã được ông mô tả nổi bậc qua hình ảnh chân
quê rất dễ thương của những thầy pháp, thầy bùa, của các đám hỏi, lễ cưới...
Rồi nào là câu hát
huê tình trên sông rạch rẻ nhánh chia dòng, điệu hò đối đáp bắt trả quyện nhau
tuyệt vời qua khúc quanh thời đại mang đầy tính chất thơ mộng lãng mạn như ca
tài tử với giọng ngân nga não nuột theo tiếng đờn ai oán réo rắc... Đến những
hiện tượng đặc biệt của thời đại ông nay không còn nghe nhắc nhở nữa để nhạt
nhòa trong dĩ vãng như trộm cướp trên sông rạch, như bối có tổ chức v.v...
Bàng bạc qua những dòng chữ, những trang giấy vừa mới rọc
cạnh lướt dưới mắt hằng đêm trước khi ngủ, tôi hân hoan bắt gặp những bong hình
ngày xưa, những sinh hoạt năm cũ. Tôi nghe tâm hồn lâng lâng xao xuyến, rộn rả
ngập tràn một tình cảm luyến lưu trên nền xanh tinh anh dịu dàng, mênh mong bất
tận của quê hương mình. Một quê hương ngàn đời tươi đẹp. Một quê hương muôn
thuở diễm tuyệt mà tôi vừa đành lòng rời bỏ trong tiếc nuối nhớ thương, khi
phải dặt chân đến ngôi trường Pétrus Ký, tiếng tăm vào bậc nhứt Miền Nam.
Đối với tôi, qua
tác phẩm Đồng Quê, Phi Vân quả đã thành công vẽ lên một cách truyền thần bức
tranh xã hội đất Nam Kỳ Lục Tỉnh trước biến cố lịch sử 1945: mùa thu sơn hà
nguy biến. Một bức họa đầy màu sắc thắm tươi với những đường nét điêu luyện độc
đáo ấy từ lâu đã tan biến trong hun húc của dĩ vãng.
Nhưng điều quan trọng hơn hết đối với cá nhân tôi là Phi
Vân đã gieo trong tôi những khúc chiết thắm thiết, những kỳ bí thôi thúc, những
âm vang ngân nga của tình yêu quê hương chơn chất, đậm đà bất diệt. Vì lẽ đó,
tôi xin đặc biệt có đôi dòng hoài niệm
mà cũng để tạ ơn người cho trọn tình và phải đạo của một độc giả trung thành và
của một bạn vong niên sau này.
Vốn là người rặc nòi Miền Nam, sanh quán ở cuối mũi quê
hương, vùng Bặc Liêu/Cà Mau, thừa hưởng một truyền thống xuề xòa dễ dãi, cởi mở
thứ tha, sống dung dị giản đơn, quý khách, chuộng bạn bè, quấn quít cột chặt
vào đồng ruộng đất nước Miền Nam nên khi phải chỉ trích đả phá một số hủ tục
nào đó, Phi Vân đắn đo nâng niu ngòi bút. Ông cân phân từng chữ từng câu, bài
xích rất nhẹ nhàng, vừa chọn lựa đủ lời đủ ý, không dư không thiếu, vừa cợt đùa
dí dỏm dễ thương.
Chính cái tính xây
dựng, chung sống hài hòa giữa con người với con người, giữa con người với thiên
nhiên vạn vật, chính cái ý hướng trong sáng gieo rắt niềm vui thanh thản nơi
những người chung quanh, khiến ông tin tưởng ở việc tốt điều lành trong tình
yêu, trong việc xử thế có ta có người, biết mình biết người, có trước có sau.
Do vậy, ông chọn dứt khoát một thái độ đứng đắn xuất phát từ tình yêu thương
chân thật, mộc mạc tinh tuyền của người dân tiêu biểu vùng quê nghèo Miền Nam.
Ông có một vốn sống
quá phong phú vì trong thời thanh xuân bay nhảy, tiếu ngạo giang hồ, đã từng
lăn lóc nhiều ngõ ngách xóm thôn nơi vùng sông nước bạt ngàn của đất Nam Kỳ Lục
Tỉnh, nhứt là ở vùng cuối mũi quê hương, nơi chôn nhau cắt rún của ông. Từ đó,
những kỷ niệm sống động được lắng đọng, chắt chiu trong sâu thẳm của trí nhớ để
được ông sàng lọc, chọn lựa kỹ lưỡng, đúc kết thành những cốt truyện quyến rủ
lôi cuốn.
Ngay trong các tác phẩm kế tiếp như Tình Quê, Dân Quê
sáng tác trong thời kỳ kháng chiến với nhu cầu tâm lý bức bách đánh động lương
tâm và lương tri con người, vực dậy lòng yêu nước của mọi công dân có trách
nhiệm, ông đắn đo đề cập những tình tiết, trạng huống mới cho phù hợp với trào
lưu sôi động lúc bấy giờ nhưng vẫn trung thành với những réo gọi, câu thúc nội
tâm của thuở ban đầu. Ông vẫn lấy bối cảnh thôn quê hữu tình của Miền Nam làm
khung để những trạng huống tình tiết ấy được triển khai và diễn tiến chan chứa
tình người.
Tôi có cảm tưởng
như ông có sẵn trong huyết quản mình duyên tình thắm thiết với đất đai làng
xóm, với bản quán xã thôn, với hương đồng vị đất thoang thoảng không ngưng trên
quê hương ông. Tôi cũng có cảm tưởng như ông có nợ nần níu kéo trói buột, keo
sơn gắn bó với thôn xa xóm gần, với ruộng rẫy kinh mương, với những người khuất
mày khuất mặt mà vong linh lãng đãng quanh quẩn đó đây. Cái duyên tình và nợ
nần đó đã được ông thăng hoa trong các tác phẩm bất hủ của ông vậy.
Khác với một số lớn
cây viết đồng thời với ông trong thời kỳ dầu sôi lửa bỏng sau bao nhiêu thập
niên dài bị đô hộ vừa tiếp cận cao trào quật khởi đấu tranh, đường lối sáng tác
của ông không vượt ngoài những nét sâu
đậm của cá tính Miền Nam. Những cá tính truyền thống nơi thôn quê căn đày kiếp
đọa nhưng chân chất thật thà, thực tế như củ khoai hòn đất, như con cá con cua,
không vọng tưởng mơ mơ hồ hồ xa vời, không mù quáng quá khích nông nổi.
Tôi vẫn tin rằng trong ý hướng, ông đả kích để xây dựng.
Ông chỉ trích để hợp tác. Ông đề xuất góp ý để cuộc sống chung thêm hài hòa dễ
chịu hơn.
Nếu như ông có đặt
thành vấn đề về "sự chuyển mình" của nông dân trong thời kỳ bị điền
chủ phú hào và giới chức quyền địa phương toa rập cậy thế, đàn áp bóc lột, bức
bách những người thế cô ngắn cổ, ông cũng cố gắng bóp méo thành tròn, giảm
thiểu những gốc cạnh dị biệt. Ông nuôi dưỡng ý hướng xóa lấp bớt lằn ranh ngăn
cách giữa người giàu kẻ nghèo, giảm thiểu cái hố phân chia giữa chức dịch hội
tề và người dân bình thường.
Tôi không biết mình
có chủ quan trong nhận xét hay không? Nhưng công bằng mà nói, ông lấy sự rộng
lượng bao dung, hỉ xả thứ tha làm khuôn vàng thước ngọc nhằm tạo cảm thông hiểu
biết giữa nhau. Ông đề xướng cổ võ sự đoàn kết cần thiết trong tinh thần trong
sáng có trách nhiệm, có tình thương, rốt ráo trong hai chữ "tình
người".
Cái hay và cái nét đặc thù của Phi Vân theo tôi là ở chỗ
đó.
Ở chỗ tiếp nối truyền thống tốt đẹp ngàn đời của dân tộc
Việt Nam, lấy tình nghĩa thủy chung, lấy cảm thông nhân hậu xóa bỏ tranh chấp
hận thù giai cấp.
Ở
chỗ ông không chủ trương cuồng tính loại trừ hoặc tận diệt một ai hay một giai
từng nào trong xã hội trên cái chéo quê hương thơ mộng mỹ miều của ông. Nơi này
tình nghĩa bà con, lâng bang lối xóm cột chặt vào nhau như cá với nước, không
thể tách rời được. Cũng tại nơi này, ông ao ước mỗi người trên mảnh đất chung
đụng hiền hòa ấy đều có một chỗ đứng trang trọng, xứng đáng. Mỗi người có bổn
phận đồng hành, vui vẻ góp bàn tay cần cù lam lũ để tích cực đem mồ hôi công
sức xây dựng hạnh phúc của tập thể, của cộng đồng.
Ở chỗ ông không thiển cận, không câu
nệ, không hề hẹp hòi đào sâu thêm hố chia rẻ giữa nhau, làm suy yếu tiềm năng
sản xuất, phục vụ cộng đồng, phục vụ nhân sinh. Ông tránh làm vấy bẩn màu xanh
tươi thắm và dịu dàng của quê hương ông.
Nếu ông có đề cập
đến "sự trổi dậy" tất nhiên của từng lớp người kham khổ bất hạnh,
suốt đời bám đất bám làng, sống dung dị với chéo mạ vuông vườn để lập nghiệp
tiến thân, nếu ông có đề cập đến những xung đột giữa chủ và tá điền nhưng vẫn
không đến nổi quyết liệt phải loại trừ, khống chế, tận diệt nhau. Vì lẽ đó, sau
ngày cộng sản hiếu chiến miền Bắc đã cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam bằng súng
đạn hận thù, chúng đã không nương tay, từng phát biểu rất nghiêm khắc khi phê bình những tác phẩm một
thời vang danh của Phi Vân.
Bọn “đỉnh cao trí
tuệ” có “ba tăng” của đảng cho rằng tác giả Phi Vân đề cập "sự trổi
dậy" đó của nông dân trong Liên Minh Công Nông, từng bị bốc lột tận xương
tủy một cách đột phá, bọc phát. Việc mà cộng sản, vốn có manh tâm và ý đồ cướp
công cướp của của người khác, không thể nào và không bao giờ chấp nhận và tha
thứ được.
Vì tác giả không hề
nói đến hoặc cố tình phủ nhận vai trò lãnh đạo "thần thánh", “bách
chiến bách thắng” của Đảng Lao Động, thối thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lý
do biện giải của chúng là trước đó, Đảng cộng sản đã được thành lập từ lâu
(1930) và đã thực sự lãnh đạo mọi cuộc đấu tranh trên toàn quốc (sic).
Theo họ, nơi Phi
Vân có sự nhân nhượng trầm trọng. Ngòi bút của Phi Vân cố tình ngừng lại ở quan
điểm “tạch tạch xè” cố hữu của tuổi thanh xuân chập choạng thiếu lãnh đạo. Tác
giả thiếu hẳn lập trường giai cấp dứt khoát cùng chiến đấu tính cương trì.
Và sự đấu tranh
trổi dậy của nông dân đất Nam Kỳ Lục Tỉnh theo tầm nhìn của Phi Vân thiếu hẳn
tính chất hận thù thâm căn cố đế, thiếu hẳn thái độ sắt máu quyết liệt như của
những năm đấu tố dã man cường hào ác bá, địa chủ phú nông trong chiến dịch cải
cách ruộng đất dã man, đẫm máu và nước mắt ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Tức
thời kỳ chuẩn bị phát động chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tôi nghĩ điều này,
tác giả không bao giờ và chẳng bao giờ nghĩ đến trong quá trình xây dựng và
sáng tác. Lý do nó đi ngược lại cảm thức và nguyện vọng trong sáng của dân tộc.
Nó đi ngược với lương tâm và sứ mạng cao cả của người cầm bút chân chính.
Phi Vân đã nhắc nhớ tình yêu thôn làng bất diệt để bám rễ
ăn sâu vào tình cảm và tâm khảm tôi trải dài từ bao nhiêu thập niên qua. Quê
hương ngàn đời dấu yêu. Quê hương bao dung chan chứa tình người. Quê hương
trường tồn. Quê hương trên hết.
Một tình cờ đến với tôi. Vì tôi
không hề ước mơ mà đã thành sự thật. Từ sự kính trọng và ngưỡng mộ thuở thiếu
thời đối với tác giả, hai mươi mấy năm sau, tôi có dịp chủ trương một nhà
xuất bản nho nhỏ
thuộc loại cò con, có tính cách thủ công gia đình, đẩy đưa tôi gặp tác giả tại
tòa soạn nhật báo Cấp Tiến. Tờ báo của hai cố giáo sư khả kính Nguyễn Văn Bông
và Nguyễn Ngọc Huy, cơ quan ngôn luận chánh
thức của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến. Nơi này, ông làm việc phụ trách trang
nhứt.
Trong giới truyền thông báo chí chuyên nghiệp ở Miền
Nam tự do, ông được đồng nghiệp đánh giá là một trong hàng ký giả cao thủ thuộc
lớp đàn anh già giặn kinh nghiệm. Ông có tài chọn tin và "đi tít" đập
mạnh ngay vào nhãn quan của độc giả. Họ so sánh ông ngang hàng với những bậc
làm báo vang danh đã làm nên một thời như: Nguyễn Kỳ Nam, Trần Tấn Quốc, Nguyễn
Duy Hinh, Việt Quang, Nguyễn Kiên Giang... nếu chỉ kể những người cầm bút gốc
gác Miền Nam như ông.
Nhật báo Cấp Tiến vốn thối thân của nhật báo Bình Minh
của ông bầu vui tánh Võ Văn Ứng, bút hiệu Võ Bình Sơn, chủ nhân nhà hàng Nam Đô
ở gốc đường Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Thái Học. Các bạn ghiền bóng tròn trước năm
1975 không thể nào quên được hình ảnh bệ vệ của vị Chủ Tịch Tổng Cuộc Bóng Tròn
Nam Việt quý mến và hào sãng ấy trên khán đài danh dự, mỗi khi có những cuộc
tranh tài quan trọng hay quốc tế ở sân cỏ Vườn Ông Thượng hay Vận động trường
Cộng Hòa sau này.
Không dè lần gặp gỡ
tình cờ đó lại là khởi điểm cho một đoạn đường dài hợp tác giữa hai anh em
chúng tôi. Chính tôi đã mấy lần trang trọng in lại quyển Đồng Quê, một tác phẩm
đạt nhiều cảm tình và thương mến của độc giả trong nước trước ngày Miền Nam bị
bức tử. Vì sách được liên tiếp tái bản trước sau hơn mười lần nếu tôi không
lầm.
Mấy năm trước đây,
tôi có thấy tái bản ở Hoa Kỳ, bày bán khắp nơi ở hải ngoại. Và gần đây, do sự
đòi hỏi và khát khao chánh đáng của độc giả trong nước luôn luôn hướng về căn
cơ cội nguồn, cộng sản phải cho tái bản qua khuôn khổ bỏ túi.
Từ dạo đó, giữa tôi và Phi Vân có mối giao tình đậm đà
kéo dài đến khi tôi vượt biên ngày 5 tháng 6 năm 1979. Và anh cũng đã từ trần
vào những năm sôi động đó trong hoàn cảnh cực kỳ bi ai trầm thống.
Thuở ấy, cái thuở
“ngăn sông cách chợ”, “thắt lưng buột bụng” đến xác xơ rã rời thể xác lẫn tinh
thần, người dân bị khống chế trong những biện pháp hận thù giai cấp, nào là
chiến dịch đánh tư sản mại bản, cải tạo công thương nghiệp, văn hóa đồi trụy,
truy quét đưa đi kinh tế mới v.v... mọi di chuyển xê dịch đêm ngày bị kiểm
soát, phép tắc khắc nghiệt đến nghẹt thở. Tôi được bạn bè cho biết khá muộn
màng anh đi thăm người con vốn là sĩ quan chế độ cũ bị Việt cộng tập trung cải
tạo. Vì chứng kiến tận mắt, thấy con mình tiều tụy đói trơ xương nơi trại tù
man rợ chưa từng thấy trong lịch sử dựng nước và giữ nước, anh quá đỗi xúc động
chán chường và qua đời không lâu sau đó.
Tôi đoán biết có lẽ
do hậu quả nguy hại của chứng áp huyết cao mà anh đã mắc phải từ lâu lắm rồi.
Vì trong đôi lần gặp gỡ nhau, anh có tâm tình với tôi: nhiều khi áp huyết lên
quá cao, gia đình phải buột tay buột chân anh vào thành giường để anh nằm yên
bất động. Tôi không dám tìm hiểu thêm lý do gì hay nguyên nhân nào đưa đến sự
ra đi vĩnh viễn của anh để thêm ngậm ngùi đau đớn trong lòng. Dẫu sao, sự mất
mát đáng tiếc này đã là sự thực rồi.
Hơn nữa, cũng vì
lúc ấy tôi không còn tinh thần nào để tiếp thu và phán đoán những lời đồn đãi
ấy. Tôi chỉ tha thiết mong muốn sau này bạn bè thân cận đã từng chứng kiến hay
thân nhân anh sẽ làm sáng tỏ thêm. Nhưng tôi thiết nghĩ cho dù có làm sáng tỏ
hay không, sự ra đi của anh trong thời điểm thương đau tột cùng ấy vẫn là một
mất mát lớn lao không xóa lấp được của nền văn chương học thuật và của báo chí
truyền thông Miền Nam. Do ở tuổi anh, anh vẫn còn thừa công sức và nhứt là tâm
trí minh mẩn để dùng ngòi viết trân quý của mình tiếp tục phục vụ đồng bào,
phục vụ nhân sinh.
Làm sao tôi quên
được hình ảnh người anh lớn dễ thương dễ mến ấy. Làm sao những kỷ niệm giữa anh
và tôi lại có thể nhạt nhòa nhanh chóng trong tâm khảm tôi được?
Sau ngày quốc nạn
tháng Tư Đen, anh vẫn trung thành khắn khít với chiếc vespa ọp ẹp màu xanh
dương nhạt để làm phương tiện di chuyển đó đây trong thành phố thay tên đổi
đời, đã bắt đầu có những triệu chứng nghiệt ngã, trả thù tập thể. Anh thường
hay đến thăm chúng tôi tâm tình về những đổi thay của trò đời đen bạc.
Mỗi lần đến nhà
tôi, anh có thói quen hỏi vợ chồng tôi:
- Sao chị?
- Sao anh?
Chỉ đôi lời ngắn gọn rồi anh giữ im lặng một hồi lâu.
Nhưng tôi nhìn nụ cười chua chát nơi gương mặt uể oải bơ phờ, không còn sức
sống thuở nào, đoán biết không sai niềm thất vọng chua cay nơi anh, qua cuộc
đổi đời tai hại quá trầm trọng này và nhứt là qua sự lo âu sâu lắng của cuộc
sống tương lai.
Trong câu chuyện
giữa nhau, thỉnh thoảng anh buông ra những tiếng thở dài cay đắng, những nức nở
hoàn toàn bế tắc. Trái với những lần gặp gỡ trước thảm họa tháng Tư, những câu
chuyện về văn chương chữ nghĩa, về thông tin báo chí, những toan tính về in ấn
xuất bản, rồi những quan hệ giữa bạn bè kẻ mất người còn, không bao giờ được
anh có can đảm đề cập đến nữa. Trong âm thầm mãi mãi gậm nhấm đay nghiếm và
trong niềm đau uất hận riêng rẻ của mỗi người, chúng tôi mặc nhiên ý thức rằng
cái quyền tự do sinh sống cho đáng mặt người, cái quyền tự do hội họp, tự do
ngôn luận, tự do phát biểu, tự do báo chí... những thứ tự do trân quý ấy đã bị
bọn độc tài độc đoán tước đoạt trong thể chế lãnh đạo xích hóa tư tưởng phục vụ
chế độ.
Vô hình trung,
chúng tôi xem như bị bắt buộc tự mình làm lễ an táng không kèn không trống nhằm
tiễn đưa để chôn vùi từ đây tất cả các thứ tự do mà mình đã được thừa hưởng
trong thể chế Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi xem như đã vĩnh viễn tiễn đưa nó
dưới nấm mồ của độc quyền độc tôn xã hội chủ nghĩa.
Lúc này quán cơm
bình dân thường được đồng bào gọi là quán cơm xã hội của vợ chồng anh ở đường
Triệu Đà trong Chợ Lớn đã bị "dẹp tiệm" từ lâu. Quán cơm này do anh
lập ra và giao cho chị hoàn toàn trông nom từ những năm tháng trước 1975. Mục
đích duy nhất nhằm giúp giới nghèo khó ở Đô Thành, đa số là những phu xe xích
lô, xe ba bánh cùng nhân công các hảng xưởng lân cận và ngay cả sinh viên lận
đận có bữa cơm trưa và chiều với giá phải chăng, vừa với túi tiền của
họ. Bây giờ tìm đâu mỗi ngày mấy bao
chỉ xanh gạo khi chánh sách
“ngăn sông cách chợ” của cộng sản được ban hành và được kiểm tra chặt chẽ ngặc
nghèo.
Anh quá đổi thất
vọng. Nhưng sự thất vọng của anh được nhân lên gấp bội khi anh cộng thêm cái
quyền cầm bút chuyên nghiệp bị tước đoạt, bị cấm đoán trong khi anh hoài công
xuôi ngược giữa lòng thành phố đổi họ thay tên, mong tìm một phương kế sinh
nhai trong tiếng thở dài. Lúc này quả thật đời sống của anh vất vả lắm. Chứng
bệnh áp huyết cao không được theo dỏi thuốc men thường xuyên và đầy đủ do phần
tài chánh eo hẹp đã đành mà còn vì loại thuốc này đắc giá lại khan hiếm dần.
Một nỗi buồn nằng nặng ám ảnh tôi
luôn. Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 làm tiêu tan bao Nhiêu chương trình dự định mà chúng tôi ấp ủ
cưu mang từ nhiều tháng trước và đang trên đà hoàn tất. Đó là bộ "Phi Vân
Toàn Tập" gồm những tác phẩm chính vừa kể trên như Đồng Quê, Dân Quê, Tình
Quê, Cô Gái Quê cùng một số bài viết chọn lọc như truyện ngắn, tùy bút, tạp ký,
chuyện vừa v.v... mà ít người biết đến do tác giả ký dưới nhiều bút hiệu khác nhau.
Tôi đã chuẩn bị chu đáo xong một bản tiểu sử của anh Phi
Vân khá đầy đủ và chính xác. Bản tiểu sử này đã được chính anh thận trọng duyệt
kỹ lưỡng, thêm thắt bổ sung với những chi tiết về thân thế cũng như về sự
nghiệp mà đến nay xem như chưa hề được công bố. Thêm vào đó còn có hình ảnh cá
nhân qua nhiều thời kỳ và những ảnh lưu niệm gia đình phong phú. Nhưng tất cả
đều bị thiêu hủy cùng chung số phận với nhiều bản thảo giá trị của các tác giả
khác trong những chiến dịch đánh tư sản mại bản, kiểm kê tài sản và "chống
văn hóa đồi trụy" dồn dập của cộng sản nơi thành Hồ.
Những bản thảo văn
thơ và nghiên cứu giá trị của cụ Thuần Phong, của giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn
Ngọc Huy, của nhà biên khảo sử học Nguyễn Văn Xuân, của các cụ Vương Hồng Sển,
thi sĩ Quách Tấn xứ Trầm Hương, sử gia kiêm giáo sư thỉnh giảng ban Sử thuộc
Đại học Văn Khoa Sài Gòn, cụ Lê Thọ Xuân qua tác phẩm đồ sộ về địa danh Miền
Nam, nhà văn Nguyễn Hiến Lê, học giả Bùi Đức Tịnh, giáo sư Nguyễn Văn Hầu của
Viện Đại Học Hòa Hảo... đều chung số phận bị thiêu hủy phũ phàng trong cơn lốc
của ngọn lửa bạo tàn hận thù giai cấp.
Tôi quên ghi chú thêm là anh Phi Vân còn là tác giả quyển
"Nhà Quê Trong Khói Lửa" viết trong khi anh tham gia kháng chiến
những năm đầu thời Nam Bộ chống xâm lăng. Theo anh kể thì quyển này đã được
giải thưởng văn học ở chiến khu do ông Hoàng Xuân Nhị làm Chủ tịch Ban Chấm
giải. Tuy nhiên từ dạo ấy đến nay, hơn nửa thế kỷ qua, tôi chưa từng thấy phổ
biến tập sách này, ngay cả tựa sách, cho dù sau ngày Miền Nam bị cưỡng chiếm.
Anh còn cho biết
thêm anh cũng là tác giả hai tiểu thuyết dài đã được đăng hằng ngày trên các
nhật báo ở Sài Gòn thuở anh vừa bước chân chập chững vào chốn văn chương báo
chí. Nhưng anh cố công tìm kiếm mãi,
chẳng bao giờ được mãn nguyện. Hoặc giả anh không toại nguyện lắm về những tiểu
thuyết này so với các tập truyện đã được trình làng chăng?
Anh tên thật là Lâm Thế Nhơn, sanh năm 1917 tại Cà Mau
thuộc tỉnh An Xuyên trong một gia đình trung lưu. Là nhà văn nhà báo chuyên
nghiệp, anh cộng tác với nhiều tạp chí văn học và nhứt là nhựt báo quan trọng
như Tiếng Chuông, Dân Chúng, Tiếng Dân, Thủ Đô Thời Báo, Bình Minh, Cấp Tiến...
Anh mất tại Sài Gòn vào ngày 11 tháng 1 năm 1977 theo tài liệu của nhà biên
khảo Nguyễn Thiên Thụ trong Văn Học Sử Việt Nam - Văn Học Hiện Đại, tập IV do Gia Hội xuất bản
ở Canada năm 2006.
Có một sự trùng hợp
lý thú về danh tánh giữa anh với một nhà văn nổi tiếng khác là Đoàn Thế Nhơn.
Nhà văn này hiện định cư ở Mỹ. Anh Đoàn Thế Nhơn chẳng ai khác hơn là nhà văn
lớn Võ Phiến, một cây đại thụ trong chốn văn chương chữ nghĩa trong nước trước
đây và ở hải ngoại sau này.
Một sự ngẩu nhiên
là hai nhà văn tên tuổi cùng tên thật là Thế Nhơn. Một người là Lâm Thế Nhơn
lấy bút hiệu là Phi Vân tức "Mây Bay", đã ra đi về cõi vĩnh hằng. Một
người là Đoàn Thế Nhơn với bút hiệu Võ Phiến, đảo ngược lại là "Viễn
Phố" báo trước một giai đoạn lưu đày xa xôi cuối đời! Giống như trường hợp
của lãnh tụ Bình Xuyên Lê Văn Viễn, vì mang tên Viễn nên bỏ thây nơi đất lạ quê
người.
Nhớ Phi Vân, nếu tôi thiếu sót không nói thêm Phi Vân
không phải là lý thuyết gia chỉ lối dẫn đường hay một nhà văn dấn thân xu thời
thế. Anh không phải là một cây viết bị ràng buộc trong khuôn khổ gò bó theo một
mẫu mực qui định. Anh không sáng tác theo đơn đặt hàng dưới sự chỉ
đạo như những tác giả dưới chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Tác giả Đồng Quê,
Dân Quê... không có tham vọng dẫn dắt dư luận thế hệ mình phải làm gì và xã hội
thời mình hướng về đâu theo một chủ thuyết cố đỉnh nào đó. Nếu anh có xu hướng
cổ vũ một tập thể nhỏ bé nơi thôn làng quê mùa hẻo lánh trổi dậy chống lại
những bất công áp bức đương nhiên phải có, dù ở bất cứ xã hội nào hay thời đại
nào, tôi nghĩ đó chỉ là một phản ứng của lương tâm, một khắc khoải trong thời
điểm nhất định mà thôi.
Vì anh không thể
dửng dưng trước nghịch cảnh bất công. Vì anh không thể dưng dửng trước những
thay đổi trong nước, đặc biệt là ở nông thôn xa xôi mà sức mạnh đồng tiền và
quyền thế lấn át tất cả.
Anh chỉ là một họa
sĩ phác vẽ bức tranh quê để qua màu sắc thắm tươi độc đáo, đường nét đậm đà
quyến rủ, người xem có một ý niệm khá chính xác về xã hội thời đó. Anh cố gắng
ghi lại một cách trung thực để lưu hậu thế khung cảnh quê hương nay không còn
nữa, những tình tiết trạng huống về phong tục tập quán, về mê tín dị đoan, về
hội hè đình đám, những cái đó qua ngôn ngữ đặc thù địa phương đất Nam Kỳ Lục
Tỉnh đã mất húc trong dĩ vãng.
Đúng như anh viết
trong lời tác giả tập sách Đồng Quê:
“Hình ảnh những
nhân vật trong chuyện - những người đã cùng tôi sống chung – ngày nay đã mờ
trong ký ức
“Kể lại một quãng đời phải chăng là sống lại với ngày
qua? Có lẽ thế. Nhưng tôi muốn xa hơn: vẽ một bức tranh phong tục và tập quán.
“Thật
là quá cao vọng !»
Nhưng tất cả những cái
không còn đó, những cái mất mát đó phối hợp nhuần nhuyễn với nhau tạo nên kho
tàng văn chương Nam Kỳ Lục Tình vô giá. Nó giúp rất nhiều cho những nhà nghiên
cứu về nhân chủng học và xã hội học Việt Nam về sau.
Nhắc nhớ, thăng hoa hồn đất, hồn người lãng đãng trong
hồn thiêng sông núi, khơi dậy thời quá khứ xa xôi với ước mơ tìm về cảnh địa,
thổ địa, tìm về sinh hoạt truyền thống dằng dặt ẩn hiện bao nhiêu phong tục tập
quán xưa, tôi nghĩ Phi Vân không hề thụ động. Anh không ngừng lại ở hiện tại.
Trái lại, tác giả tích cực hướng ngòi bút mình thực sự
trở về với căn cơ, gốc tích, cội nguồn. Tôi có thể nói một cách trang trọng là
Phi Vân quả đã đóng góp và đã thành công làm sáng danh vùng đất chôn nhau cắt
rún của anh. Anh đã tích cực giúp khám phá trở lại nhân diện và giá trị đích
thực của nó, bàng bạc trong tinh anh tú chất của dòng giống Rồng Tiên muôn đời
muôn thuở vậy.
Nền văn hóa nông thôn
đồng ruộng bề ngoài tưởng như thô sơ tầm thường, không tinh không nhả. Nhưng
những nhà quan sát nghiêm túc trên thế giới chú tâm nghiên cứu và phát hiện
nhiều khía cạnh đa dạng, vừa sắc sảo tinh tuyền, vừa uyển khúc thâm sâu.
Những thánh truyện, truyện thần tiên, truyện hoang
đường, truyền kỳ, chuyện đời xưa, chuyện giải buồn, chuyện châm biếm, những
chuyện kể dân gian nói chung, gói ghém, hàm chứa những phong tục tập quán,
những suy nghĩ, những ước vọng thiết tha của một nhóm người vào một thời điểm
nhứt định nào đó v.v... Tất cả kết hợp nhau nhằm bảo tồn và phát huy ngày thêm
phong phú ký ức và kỷ niệm tập thể của một vùng đất.
Trong chiều hướng đó,
Phi Vân đến rất gần với nhận xét của thi sĩ Patrice de la Tour du Pin của Pháp.
Ông sinh ở thủ đô Paris năm 1911, được giới văn gia thi sĩ biết tới qua bài thơ
"Les Enfants de Septembre" ấn hành năm 1931 lúc vừa mới hai mươi mốt
tuổi. Hai năm sau, ông in thi tập "La Quête de Joie" và sau thế chiến
thứ hai, ông lại in tiếp tác phẩm "Une Somme De Poésie" (1946).
Chính trong bài "Dẫn Nhập" thi tập sau cùng
này, ông có viết:
"Tous les pays qui n'ont pas de légende
"Seront
condamnés à mourrir...".
Do ám ảnh này, nhiều
nhà văn trên khắp thế giới đã suy tư gắn bó, cột chặt sự nghiệp văn chương của
mình vào ký ức tập thể đó. Những trường hợp điển hình không sao kể xiết và được
giới hậu sanh nhắc nhớ luôn.
Miền Nam, sau lớp các nhà văn một thời chói sáng trên
văn đàn như cụ Hồ Biểu Chánh (Hồ Văn Trung), nhà văn nhà báo Phi Vân Lâm Thế
Nhơn, nhà chơi đồ cổ Vương Hồng Sển, nhà biên khảo đất Nam Kỳ Nguyễn Văn Hầu
v.v... phải kể đến Sơn Nam Nguyễn Minh Tây, người đã có công đưa sông nước đồng
quê Miền Nam lên đỉnh cao của nghệ thuật qua các tác phẩm nổi danh như Hương
Rừng Cà Mau, Vọc Nước Giỡn Trăng, Tìm Hiểu Đất Hậu Giang, Văn Minh Miệt Vườn...
và gần đây Một Mảnh Tình Riêng, đầy màu sắc địa phương, đặc thù về cảnh thổ và
tình người.
Ngay ở Âu Mỹ và ngay ở
thời đại tân tiến hiện tại, không thiếu gì tác giả đã giành cả một đời để ghi
lại những gì đã mất nơi quê hương họ. Và đây chính là những công trình thầm
lặng đóng góp vào bước tiến vững vàng trong sáng của mỗi quốc gia và của cả
nhân loại.
**
Những giòng hoài niệm nào đều cũng như nhau,
phảng phất chất chứa một nỗi buồn riêng. Đôi khi chỉ mình ta cảm nhận.
Nỗi buồn tưởng tiếc
những người đã để lại nơi lòng mình bao nhiêu nghĩa tình, trong từng nỗi buồn
vui do cuộc sống vô tình đẩy đưa tới tấp đến chóng mặt.
Nỗi buồn hồi nhớ để cố gắng vẽ lại trung thực chân
dung những người đã trực tiếp tham gia đóng góp, chia xẻ với mình những thôi
thúc cô đơn chán chường, những thăng trầm vinh nhục đã qua, hòa lẫn với nỗi
trầm thống tận cùng và niềm hãnh diện tự hào chung của dân tộc.
Nỗi buồn bùi ngùi đứng trước thực tế phũ phàng của
ngày hôm qua và của hiện tại, những khuôn mặt thân thương hay quen biết ít
nhiều đã đi qua đời mình, kẻ trước người sau đều từ giã cuộc đời, từ giã cuộc
chơi nhân thế để miên viễn đi vào vùng thiên thu siêu thoát. Như những tuyến
sông lạch nước rải rác khắp đó đây đến những khúc quanh rẽ nhánh chia
dòng bớt đi lưu lượng nguồn nước.
Tuổi trẻ của tôi mới đó
với khung cảnh đầm ấm của ngôi trường Pétrus Ký nguy nga tráng lệ bậc nhứt Miền
Nam, nơi có những dãy lầu nội trú hai tầng kiên cố thách thức gió sương, với
những thầy cô hy sinh tận tụy, một lòng một dạ chăm lo dìu dắt thế hệ mới tấn
lên của chúng tôi… những khung cảnh đầm ấm đó không mấy chốc bay vèo theo năm
tháng.
Nay tóc muối tiêu, tuổi xế chiều, chân mỏi gối
dùng, trong thầm lặng ngoái nhìn lại những chặn đường đã qua mà nghe lòng thêm
xao xuyến nghẹn ngào. Lòng càng dằng dặt bao đắng cay tủi nhục liên tiếp bủa
vây từng bước trong kiếp sống lưu vong.
Nếu trong đời, nhiều lúc
đối diện với chính mình, tôi từng cám ơn Cha tôi đã ban cho tôi mảnh hình hài
không thô không lịch nhưng tràn đầy sức sống và âm thầm mặc nhiên đã mớm thêm
cho tôi ý nghĩa cuộc sống để hăm hở hy vọng chào đón tương lai.
Nếu tôi đã từng hoen tròng lặng lẽ cám ơn Mẹ tôi
đã khổ cực cưu mang ban cho tôi hơi thở đầu đời và tiếp tục hy sinh, chắt chiu
săn sóc, dưỡng nuôi tôi qua dòng sữa thương yêu trắng ngần, tinh tuyền thanh
khiết.
Thì hôm nay, một mình lặng lẽ ngồi đối diện với
chính mình dưới ngọn đèn bàn giấy không được sáng tỏ, tâm thần lắng đọng trong
vắng vẻ quạnh hiu, tôi cũng xin cám ơn Trường xưa Thầy cũ, cám ơn bạn bè trang
lức thuở tuổi hồn nhiên mộng mơ. Những tâm hồn trong trắng, cửa lòng luôn rộng
mở này, đã tuần tự mang đến tôi bao nguồn vui tuổi trẻ, rộn rả tiếng cười yêu
đời, từ ấy mãi đến bây giờ.
Tôi cũng xin cám ơn
các văn nhân thi sĩ đã có dịp góp mặt trong cuộc sống và cuộc đời tôi để qua
lời văn tim óc, qua ngôn ngữ của thi ca, qua lời hay ý đẹp đã vĩnh viễn cột
chặt tâm hồn tôi vào dải đất Quê Hương mến yêu và duy nhứt này của tôi.
Tôi cũng xin đặc biệt cám
ơn anh Phi Vân, người trước tiên giúp tôi thấm thía nét đẹp tuyệt vời của bản
quán xóm làng, của nông thôn đồng ruộng, thơm nồng mùi rơm hương rạ. Anh cũng
giúp tôi được dịp thấm đẫm tình cảm tinh ròng đối với nơi chôn nhau cắt rún cố
thổ. Nơi mà mỗi con người tôi gặp gỡ lan man đâu đó trên bờ ao kinh rạch, bên
liếp mía vồng khoai luống mì, ven đường mòn quanh co uốn éo tận chân trời xa
thẳm... cứ vừa là lạ nhưng lại vừa quen
quen. Tựa hồ như tôi đã năm lần bảy lượt đối diện chuyện trò, tựa hồ như tôi đã
bao phen tâm tình thân mật trước đây lâu rồi.
Tôi lại trở về lặng
lẽ, nhớ quê hương, lòng ray rứt trong cái khoảng trống không hiện tại của cuộc
đời lưu lạc. Nhưng cũng may, niềm đau ray rứt ấy đôi khi mang đến tôi một chút
an ủi vỗ về, thoáng ẩn thoáng hiện, đã có ma lực xoa dịu phần nào tâm tư tình
cảm tôi.
Mới hay sự gắn bó với làng quê thôn xóm, bà
con láng giềng, tha thiết với mỗi bến sông vàm nước, eo vịnh kinh mương, mỗi
ánh nắng sớm chói chang lung linh huyền diệu, mỗi ngọn gió chiều hiu hiu se
lạnh, từ chiếc lá khô úa vàng nằm im thin thít trên mặt nước ao bèo đến con cá
lìm kìm thon thon nhỏ nhắn se sẽ ve vẫy đuôi làm chao động ngọn cỏ non, từ cây
xoài cà lăm tróc gốc oằn nhánh say trái chua lè đến ngôi nhà từ đường xưa với
nhiều thế hệ tiếp nối dóc tâm xây dựng, bất chợt tôi mang máng nhớ, tôi mang
máng thấy đâu đây... phảng phất hồn đất, hồn người hòa cùng nhịp điệu của muôn
tiếng reo vui của thiên nhiên, của lịch sử. Thật là linh diệu biết dường nào!
Nơi đây tôi xin ghi
lại những vần thơ tôi viết cách đây hơn mười lăm năm nhưng nay trong hoàn cảnh
hoài niệm nhớ nhung vẫn thấy thích hợp để tạm nói lên phần nào một chút ngậm
ngùi thổn thức, một chút sắt son gắn bó đối với đất nước quê hương nơi xứ lạ
quê người.
Lòng Vẫn Vương Mang
Không
Xuân trang điểm xác pháo hồng,
Không
mai vàng thắm trải non sông,
Không
câu đối đỏ rồng phượng múa
Lòng
vẫn vương mang nỗi nhớ nhung.
Không
cau thiu ngủ cạnh sân đình
Không
ngọn mưa rào đất nước xinh,
Không
tiếng bịp kêu bờ bến vắng,
Lòng
vẫn vương mang một khối tình.
Không
cánh cò xa điểm trắng cành,
Không
hàng dừa lửa ngắm sông xanh,
Không
bóng thuyền câu soi trăng bạc
Lòng
vẫn vương mang giấc mộng lành.
Không
ga hoang vắng rít tàu chiều,
Không
khói hoàng hôn mái tranh xiêu,
Không
người viễn khách ôm trăng hận,
Lòng
vẫn vương mang kiếp hẩm hiu.
Không
áo thướt tha ngọn gió đùa,
Không
cầu lắt lẻo bắt mương xưa,
Không
bến quạnh hiu đò lỡ chuyến,
Lòng
vẫn vương mang giọt lệ thừa.
Bềnh
bồng biển Thái chiếc thuyền con,
Ly
hương phiêu bạt mấy xuân tròn,
Kinh
hoàng đeo đẳng đau trang sử,
Lòng
vẫn vương mang chút sắt son.
Võ Phước Hiếu
**
Miếng Thương Miếng Nhớ
Thằng Đực Lang mang tục danh Cò Lửa từ ngày chập chững vào đời, biết
ngắm nhìn cảnh trí thôn làng chôn nhau cắt rún của nó. Tục danh nầy chẳng qua
là do thân hình thon thon như tre miễu, với bộ vó nó cà xóc cà xóc, đi như gà
mỗ, cái đầu luôn trước cái bụng. Bộ vó đó đã là đề tài chế rểu trêu chọc của
đám bạn bè trang lứa và ngay cả các bậc đàn anh trong những buổi họp mặt cưới
hỏi, đình đám.
Mặc dù vậy, nó nổi tiếng lực điền lớn gộc, "lăn
chai bạt mạng" nhứt xóm. Tánh nó kỳ cục hết cỡ, rất vui tánh, liếng thoán
hơn người. Không bao giờ chúng tôi thấy nó buồn, làm như ở trên cõi đời nhiễu
nhương lắm chuyện nầy chỉ có toàn chuyện vui thôi đối với nó.
Nó tốt bụng, con người rộng rãi xẻ chia. Cây trái vườn
nhà, cả những trái cơm nguội nó hái đâu đó ở mương ranh đình miễu, loại trái
nho nhỏ màu tim tím hồng hồng, vị ngọt khá đậm đà, mỗi khi chúng tôi gặp nó,
chưa kịp để chúng tôi quanh co, mại hơi nói gièm, nó đã nhanh nhẹn dúi ngay vào
lòng bàn tay anh em chúng tôi mỗi đứa nhúm mớ rồi. Nó còn bảo chúng tôi ăn thử
xem, ngon ngọt lắm.
Nhưng nó lại có biệt tài khó sánh bì. Nó biết làm đủ
thứ việc trong nhà ngoài ngõ, những việc coi như làm chơi khơi khơi như lục
bình trôi mà thực tế lại ăn thiệt.
Nó xử dụng mấy loại
bẫy chim, tự tay nó học lóm lởm bởm ở các bực đàn anh hay mấy cụ trưởng thượng
vào tuổi ướm rụng nhàn rỗi, rồi chế biến làm lấy, rất điêu luyện. Do vậy, nó
thường hãnh diện với mọi người xem như ngón nghề giải trí ruột của nó, khó có
đứa lục lăn lục lửa trang lứa bắt chước được.
Những lúc nó rỗi rãnh, bà con thấy nó thả rong dài dài
theo mé sông mé rạch dầy mịt dừa nước, ô rô ắc ó, chằng chịt dây leo bìm bìm
rau choại. Nó đặt rãi rác đó đây vài cái bẫy cần bật. Nó bắt ráo nạo không sót
một con, nào là chim quốc, nào là cò lửa, cò trắng, cò xám, cò quắm… lạc đàn đi
lang thang tìm mồi.
Chim ham ăn, thấy con mồi cá rô hay cá lòng tong nhúc
nhít liên hồi làm mặt nước chao động không ngưng, bèn thọc mỏ vào mổ tỉnh bơ.
Chúng trúng lẫy, bị bật mạnh thình lình như trời giáng, đất trời bất biết.
Sợi dây thòng
lộng siết mạnh cổ, treo nó lủng lẳng giữa thinh không đến nghẹt thở, tắt hơi
tắt tiếng. Dù cho nó có tập trung đập đôi cánh đành đạch đành đạch làm tung toé
lông lá lả tả, dù cho nó có nổ lực chống đỡ đến đâu, cũng đành thúc thủ chờ
chết. Những con cò ngơ ngác đi kiếm ăn cu ki ít khi thoát khỏi bàn tay sát thủ
thiện nghệ của nó.
Còn loại bẫy tre cò ke
có hình tam giác, nó đã đặt nơi đâu là hình như chim chóc đều bị đập gẫy cổ
chết tươi lập tức, không kịp thét la vừa khi chui đầu vào ăn mồi. Mồi thường là
trái cò ke chín, màu thâm thâm đen đen mà chúng nó rất ưa thích.
Nhưng thằng Đực Lang
ưng ý nhứt là khi nó dùng bẫy kèo dù này. Vì kết quả rất nhanh, mau ăn hơn các
loại bẫy khác. Một khi nó thấy chim đang sà qua sà lại đáp xuống cây nào, chỉ
mấy phút sau khi đặt bẫy là con chim đó đã tuyệt mạng rồi.
Bẫy kèo dù Cò Lửa làm bằng kèo dù cũ cũng độc đáo lắm.
Không biết nó tìm đâu được cây dù xập kí nình, bỏ xó từ lâu để làm hằng lố bẫy
có lực đập như thiên lôi. Loại bẫy này lại dễ sử dụng.
Những cây mãn cầu ta trong vườn đang có trái chín hườm
hườm quến trao trảo. Lơ là không trông coi, không bao bọc cẩn thận hay bỏ bê
săn đuổi, chúng nó từng cặp lục lạo không sót một chỗ. Từ tưng bửng sáng, chúng
nó đã líu lo tranh nhau tha hồ đáp xuống ăn hổn ăn hào, mổ bừa bãi phung phí.
Đực Lang treo lòng
thòng gần đấy một bẫy kèo dù. Nó chỉ cần ẩn núp lẩn quẩn đâu đó một đỗi là nghe
trao trảo kêu la thất thanh. Con chim ranh mảnh phá phách vài phút trước đó
thình lình bị sập bẫy, đành chịu trận, không sao thoát được. Cò Lửa chỉ kịp leo
lên cây tháo bẫy lôi con chim xuống mềm nhũng.
Đó là con chim trao trảo, loại chim thường cắn phá, mổ
bừa bãi những trái cây chín hay vừa hườm hườm ở vườn nhà vào lúc tờ mờ hừng
đông. Do đó, mấy bà mấy ông chủ vườn rất hoan nghinh và khen nó hết lời. Hôm
nào nó ham mê rong chơi xa, chim bị sập bẫy, để lâu nghẹt thở lòng thòng,
chết rũ cứng đờ. Dù vậy, nó vẫn mang về nhổ lông, thui lửa rơm, tha hồ rô ti
với nước dừa xiêm.
Do đó, cái hổn danh
"Cò Lửa lăn chai" của nó không đến đỗi quá đáng. Dù vậy, nó rất dễ
thương và thảo ăn nhất xóm Rạch Rít của tôi. Mỗi lần gặp chúng tôi, thế nào nó
cũng lôi từ trong túi áo đã tướt đường chỉ một đôi phân tây, khi thì vài trái
me ngọt dôn dốt, chỉ nhìn thoáng qua cũng đủ chảy nước miếng như trường hợp đàn
bà cấn thai thèm chua. Khi thì một chót khoai lang bí lùi ở bếp nấu rượu lậu nơi
nhà nó, còn hăng hắt mùi hèm do đôi bàn tay xục xạo thái mái của nó đụng đâu
bốc đấy.
Tánh tình nó rất dễ
dãi, cởi mở, không đố kỵ ganh tỵ. Nó thừa hưởng những đức tánh phóng túng hào
hiệp, rộng vòng tay của người dân phương Nam đất mới người thưa. Nó noi theo
gương ông bà cha mẹ gìn giữ truyền thống tốt đẹp, lấy bụng ở đời để phân biệt
sự phải trái, điều tốt xấu, cái thiện cái ác, việc nên làm và việc phải tránh
xa.
Bản thân nó không có
nhu cầu đòi hỏi gì nhiều. Cũng chẳng có ước mơ quá đáng. Nó rất bằng lòng với
mấy bộ quần áo toàn vải thô, duy nhứt một màu đen mốc thếch để thay ra thay vô
khi cần thiết. Cơm ngày ba bữa chắt bụng với tôm tép, cá mắm kho quẹt mặn mòi,
với rau cải xanh tươi, với khoai bắp và hoa quả đủ loại trồng chung quanh nhà.
Một ngày đối với nó
rất đơn giản như hết ngày đến đêm, hết mưa đến nắng. Nó cũng chẳng có gì thắc
mắc hay nôn nóng cả. Mọi việc gì cũng tuần tự đến với nó một cách thanh thản
bình thường.
Quả vậy.
Một ngày bình thường
trong số những ngày bình thường khác trong năm theo nhận xét thô thiển chơn quê
của nó bắt đầu với sáng sớm mờ sương. Lúc mặt trời vứa hé mọc ở đằng Đông, phía
bên kia cánh đồng xa, sẫm xanh một màu đồng nhứt với ranh giới thoai thoải được
viền bởi rặng dừa nước rậm rì ngút mắt. Đám dừa nước huyền diệu và sung mãn
suốt tháng quanh năm này rất quen thuộc với tầm ngắm nhìn của nó ngay từ lúc
hãy còn tấm mẳm.
Ngày làm việc của nó
để giúp mẹ cha, ngoài thời gian đi học, cũng chẳng phức tạp gì. Vẫn khởi sự ở
bến sông rậm rạp sau hè, vẫn bắt đầu ở những đám ruộng lấp xấp nước, lưa thưa
cỏ dại đó đây nhưng nhun nhúc đĩa trâu đĩa mén đen thủi đen thui.
Chiều về vẫn vậy. Vẫn mặt trời ửng đỏ chói chang ở
đằng Tây ẩn hiện từng đàn cò trắng bay nhanh về tổ, báo hiệu một ngày dài sắp
tàn. Xa xa khói bếp cơm chiều uể oải, nhốm lên trên những mái lá, mái tranh
nghèo đang lập loè ánh đèn dầu con cóc lù mù liêu trai.
Quanh năm vẫn thế.
Không hề thay đổi. Và nó chỉ biết có thế thôi.
Tốt bụng, ai nhờ đến,
nó tận tình giúp đỡ ngay, không cân phân so đo, không tính toán đòi hỏi
"bánh sáp đi bánh qui lại". Hay "có qua có lại mới toại
lòng nhau", nghĩa trả ơn đền chi
cả. Nó
hành động theo phản ứng và cảm nhận tự nhiên "thi ân bất cầu
báo" của người xưa. Nó cũng rất kín đáo, không màng cho ai biết đến hành
động «đạo đức» hướng thượng của mình, ngoài nụ cười hiền hòa dễ mến và sự toại
nguyện trong nội tâm. Với nó, thế là quá đủ.
Nhà nghèo.
Nơi ăn chốn ở của nó từ khi chào đời đến giờ phút này
chỉ là một túp chòi lá lụp xụp. Cột tre cột tràm thô sơ với vách phên chầm
khiếu toàn bằng cà tăng tre hay cà rèm lá. Mỗi đợt giông to gió lớn đầu mùa ào
ạt thổi tạt qua, ngôi nhà lè tè ấy cứ lúc la lúc lắc liên hồi, giống như mấy
chiếc răng cấm lung lay sắp rụng của các cụ già gần đất xa trời.
Tùy đợt gió mạnh nhẹ, nó phát ra những âm thanh khô
khan lạnh lùng hay những tiếng cót két... cót két ngân nga khe khẽ nhịp nhàng.
Người nghe phát ớn xương sống, nổi da gà, tưởng chừng như nó sắp sập đến nơi
rồi, không cách gì cưỡng chống lại được.
Ấy thế, bà con tôi rất
ngạc nhiên thấy cái chòi lá đó vẫn hiên ngang đứng trơ trơ, vững như trồng qua
bao phong ba bão táp dồn dập. Với tài sản gia đình như vậy, cuộc sống hằng ngày
của nó rất gian nan trắc trở.
Nhưng không vì vậy nó mất đi nguồn hạnh phúc và niềm
vui của lứa tuổi thanh xuân. Cũng như không cấm cản được nó ấp ủ trong lòng
những ước mơ nồng thắm tốt đẹp nhứt. Vì nó ý thức niềm vui, hạnh phúc và ước mơ
vốn dĩ quý báu và vô giá lúc chính những thứ vô hình đó nằm gọn trong tầm tay
chừng mực và hiện tại của mỗi con người.
Nó được cho đi ăn học
rất ít là lẽ đương nhiên. Do hoàn cảnh nên dong dong lớn đại mà chữ i chữ u nó
chưa từng biết rành rọt. Quanh năm, nó mải mê không ngừng bám sát theo phụ giúp
tía nó rất sớm. Và rất đắc lực. Nó liên tục lênh đênh khắp đầu vàm cuối vịnh, dầm
mưa sương gió đến khét nắng hôi trâu. Nó thách thức thời tiết khắc nghiệt trên
những thửa ruộng phèn chua nằm sâu húc tận trong ruột những cánh đồng mông
quạnh cùn cốc.
Nhờ lăn lốc lặn hụp
thường xuyên trong gian lao khổ cực, nó có dáng vẻ lực lưỡng cường tráng trước
tuổi so với lũ chúng tôi. Đến gần nó, lúc nào chúng tôi cũng ngửi thấy hắc ra
một chút mùi vị xà xịn non đọng lại trên cơ thể nó, không cách nào gội rửa cho
sạch hết được. Cho dù chiều nào đúng y như chiều nấy, nó đều đùng xuống sông tắm,
long mình hằng giờ trong nước mát trong xanh.
Lũ chúng tôi rất
thương mến quyến luyến nó. Vắng nó, chúng tôi cảm thấy thiếu thốn nhớ nhung. Nó
lại tháo vác, biết làm và ham làm bất cứ việc gì dù khó khăn nặng nhọc đến đâu
ở thôn làng hẻo lánh.
Bản thân nó không hề từ nan. Có
sự hiện diện và nhúng tay tham dự của nó, sanh hoạt thường nhựt của
chúng tôi đỡ buồn tẽ nhàm chán.
Cây mưa buổi xế chiều
vừa mới tạnh tức tưởi. Khác với những trận mưa đầu mùa sấm sét hầm hừ, giông
gió dây dưa dai dẳng. Những lúc đó, không cách nào dám mở toạt được cái áo tơi
chầm bằng lá dừa nước nặng ì i, dù chỉ trong chốc lát. Mấy con ếch ẩn núp nằm
im thin thít dọc theo bờ kinh bờ rạch hay mương rãnh nhơn lúc mưa vừa mới tạnh,
trời trong mát mẻ, gió phơn phớt hiu hiu, bắt đầu lên tiếng thi nhau kêu uệch
uệch... uệch uệch...
Nơi nầy chưa dứt, nơi kia trổi lên đối đáp vang rân.
Như chúng chưa từng không hò không hẹn nhưng cùng đồng cảm đồng tình ganh đua
nhau cố làm vui thôn xóm. Hay chúng đang chào đón ngày mùa sau thời gian dài
hạn hán, đất đai nức nẻ khô cằn.
Cò Lửa đưa tay đập vào
vai chúng tôi cái bộp khô hốc. Nó nhướng mắt lia lịa rồi nheo nheo cực kỳ sản
khoái làm giựt giựt đôi lông mày rô đen huyền. Giờ hành động lý tưởng mà nó chờ
đợi khá lâu. Tay nó chỉ về hướng những buội ô rô chơm chởm gai, chằng chịt ắc
ó, bìm bìm và đủ thứ giây leo hoang dại. Nó tỏ vẻ sung sướng hơn lúc nào hết.
Những nơi hoang địa
này còn là nơi ẩn trú an toàn của nhiều loại thú rừng vô phương kể xiết. Những
con chồn đèn chồn mướp ranh mảnh, đêm đêm thường lén vào chuồng bắt gà bắt vịt
nhưng nhát hít. Chỉ cần một tiếng động nho nhỏ đã nhanh chân biến mất tận hang
ổ gần đó.
Những con rái cá mập ú na ú núc, xê dịch khó khăn chậm
lụt, vốn quen mắt với bóng dáng con người nên rất mực dạn dĩ. Chúng bất kể nguy
hiểm có thể xảy đến với chúng bất cứ lúc nào. Đôi khi, chúng không ngần ngại
chui tuốt vào tận chòi lá nhà nó để tìm thức ăn.
Cò Lửa cười tình, cái
miệng méo xẹo méo xếch, nói úp úp mở mở rồi ra dấu cho anh em chúng tôi giữ im
lặng tuyệt đối để nó tập trung lắng tai nghe thật kỹ. Chúng tôi chẳng biết nó
nói ất giáp những gì nhưng cũng nghe theo nó, một mực ngậm câm như hến. Mấy con
ếch sung mãn vẫn tiếp tục kêu uệch uệch vô tư vô lự. Con ở gốc này a dua hưởng
ứng, đối đáp trả lễ ngay con nọ ở gốc kia. Bỗng dưng buổi chiều hôm đó thật vui
nhộn làm sao!
Cò Lửa bắt đầu đánh
dấu, định vị những chỗ ếch kêu trong trí nhớ phong phú của nó. Chỉ cần nghe
tiếng ếch bổng trầm, to nhỏ, nhặc khoan hay đứt khoảng, nó biết ngay phong phóc
từng con một. Nó đã có kinh nghiệm từ những năm về trước rồi.
Con nào là ếch bà dầy dạng gió sương, lắm phen từng
thoát chết qua bàn tay sát thủ của con người. Con nào no mồi biếng nhát, uể oải
kén ăn. Con nào còn tơ nheo nhẻo, xông xáo háo hức dễ bị mắc lừa. Con nào đói
thom lom, chỉ cần nhử con mồi nhảy múa bẹo hình bẹo dạng trước miệng là hổn hào
nhảy xôm tới táp phụp ngay, không chút đắn đo do dự.
Còn đối với loại ếch
bà già giặn kinh nghiệm, từng may mắn sống sót trong đường tơ kẽ tóc, lại gặp
lúc trời mưa no nước, dù con mồi nhái oé mềm mại hấp dẫn được nhử đong đưa,
nhảy lên nhảy xuống trước mặt nó như khêu gợi, như thách thức, vẫn không đủ ma
lực quyến rủ làm xiêu lòng nó. Nó vẫn phớt lờ, lạnh như tiền, nằm im ĩm bất
động, bất cần đời.
Có khi nó còn quay mặt phũ phàng tránh né con mồi béo
bổ. Hay nó đổ quạu lấy hai chân trước xua đuổi, xô đẩy con mồi dị họm cứ mãi
chàng ràng nhột nhạt, chọc tức trước mặt. Với loại ếch dầy dạng lâu năm này, Cò
Lửa có phương chước thích nghi khá độc đáo, xem như có một không hai trong xóm.
Đánh dấu địa điểm
xong, Cò Lửa phóng nhanh, chạy u một mạch thẳng về nhà trong chớp mắt. Một đỗi
sau, nó quành trở lại, mang theo đầy đủ đồ nghề nhờ kinh nghiệm cha truyền con
nối mấy đời khẩn hoang lập ấp.
Những người này lúc sanh tiền đã cặm cụi sáng tạo biết
bao nhiêu loại dụng cụ cần thiết trong lao động hằng ngày. Tuy thô sơ nhưng rất
hữu hiệu trong nhu cầu sinh hoạt và sinh tồn nơi vùng hoang vu hẻo lánh, sình
lầy nước đọng buồn tênh. Vì nơi này quanh năm ngăn cách với thế giới văn minh
bên ngoài.
Ở xóm Rạch Rít khổ
hạnh của tôi, ô rô mọc đầy hai bên mương rạch, bờ kinh, bờ sông, hầu như nối
tiếp nhau không dứt. Thêm vào đó còn có hằng hà sa số các loại dây leo thường
gặp như dây choại, dây mây, bìm bìm... chằng chịt níu kéo, đan quyện nhau mù
mịt. Nhiều buội ô rô sầm uất lớn đại, một phần nằm vắt sâu trên bờ và phần còn
lại chiếm một khoảng không nhỏ nơi lòng sông rạch. Nơi đây kiến vàng làm những ổ to bằng cái thúng, tha hồ bò tới
bò lui, trèo lên tuột xuống từng đàn như đi trẫy hội.
Ô rô lại có gai. Lá
nào cũng có. Tua tủa lởm chởm. Gai tuy không cứng lắm nhưng nhọn lểu ở những lá
già, đủ làm rách da xước thịt, tươm máu. Trâu bò với da dẻ dầy cui cũng tránh
né, không hề dám phiêu lưu dẫm vào. Do đó, lâu ngày chày tháng, những buội ô rô
nầy cứ nở nang to lớn dần thêm. Buội này nối tiếp buội kia thành từng đám rậm
rạp, xanh um, kéo dài cả một đoạn sông.
Loài ếch cũng khá khôn
ngoan, nhứt là mấy con ếch bà, tu luyện lâu năm, sống nhờ nhiều mánh khoé và
phản ứng tự vệ theo kinh nghiệm bẩm sinh trời phú cho. Chúng nó xây hang ổ an
toàn ở sâu trong những buội ô rô thênh thang dầy mịt đó. Nhiều hang bóng nhẵn
láng o, đứng bên ngoài trông hun húc, thăm thẳm ở địa thế hiểm trở hổn mang
này.
Người đi trên bờ kinh
rạch với tiếng động sột soạt dù nhẹ nhàng đi nữa cũng đủ cho chúng nó đoán biết
có tai biến để kịp thời đề phòng ứng phó. Chúng nó rất thính tai, cũng thuộc
loại chết nhát nên nghi kỵ mọi động tịnh bất kể từ đâu đến. Bản tính trời cho
nó? Khi nhận định đúng nguy hiểm sắp đến, chúng nó nhanh lẹ phóng ùm xuống nước
kinh rạch dầy đặc rong bèo, bông sún, lục bình... rồi lặn sâu mất dấu để thoát
nạn biệt tăm biệt tích.
Nhờ những kinh nghiệm
quý báu của ông bà cha mẹ từ mấy đời nay và được thực tập thành thạo, tôi luyện
tinh vi ở những mùa mưa, nhứt là những cây mưa sớm đầu mùa, Cò Lửa rất tự tin.
Trong khi đó, lũ chúng tôi chăm chú theo dõi từng cử chỉ của nó.
Nó đâu phải hạng gà mờ hay tay ngang mới lởm bởm tập
tểnh bước vào nghề đâu. Nó có dại gì đi bắt ếch tàng tàng, thong dong trên bờ
kinh để
ngẩn ngơ luyến tiếc sau đó khi thấy con mồi to lớn, mập mạp béo bổ vuột
thoát khỏi tầm tay mình. Nó có phương cách hữu hiệu và chắc ăn lắm.
Cái mũi chỉa bằng thép
già nhọn lểu có ngạnh sáng choang bén ngót được nó tra chắc chắn vào đầu cán
trúc. Cán trúc già này thon thon đã được trui lửa nên có màu vàng óng ánh, dài
độ đôi ba thước tây do những buội ô rô thường sầm uất và to lớn. Ở đầu mũi chỉa
nó gắn con mồi hấp dẫn. Dù no bụng, ếch cũng khó cầm lòng lâu được.
Đối với Cò Lửa, con
mồi cũng là một trong những yếu tố quyết định sự thành công. Phải là con mồi
đặc biệt mới đảm bảo chắc chắn chín mươi chín phần trăm kết quả. Còn lại một
phần trăm thất bại, nó đổ trút cho sự xui xẻo rủi ro, tức do cái lỗi của ông
trời già oái oăm cắc cớ. Một phần trăm này vượt khỏi sự hiểu biết và tầm tay
của nó.
Con mồi ở đây không
phải loại nhái bầu, nhái oé quá quen thuộc mà bà con tôi thường gặp nhan nhản
ven các bờ mẫu hay ao đầm cạn nước. Mấy con ếch bà thừa mứa, dư ăn, quen hơi
lờn mặt. Chúng nó hiu hiu tự đắc lên mặt làm cao, dở trò chê lên chê xuống.
Cò Lửa bèn nhảy phóc
vào rừng tràm, thọc vội vài ổ kiến vàng rồi hấp tấp lựa một nắm trứng kiến
chúa. Hai tay nó vuốt lia lịa đám kiến vàng liều chết, cùng nhau đoàn kết xã
thân bảo vệ tổ ấm, đeo riết theo bám vào cắn chích nó. Có con hy sinh quyết tử
dù đã bị giết chết nhưng hai càn vẫn còn bám sát vào da thịt nó.
Nó chọn những trứng
kiến màu trắng đục, to lớn đẫy đà, đầy đủ hình thù chờ ngày chuyển sang màu
vàng sậm chuẩn bị sinh nở. Nó đem gắn chặt một nhúm vào đầu mũi chỉa. Xong
xuôi, nó hươu hươu cây chỉa vòng vòng trên không trung, tỏ ra vô cùng đắc ý,
như để biểu diễn cho anh em chúng tôi xem.
Nó bảo chúng tôi đang xem lúc Quan Vân Trường vung
Thanh long đao xông trận. Lúc ông quyết tử chiến giữa rừng gươm giáo trong
những tuồng tích mà các gánh hát bội hay hát cải lương nghèo xơ xác, thỉnh
thoảng ghé xóm tôi cống hiến bà con liên tiếp năm ba đêm thức coi trắng dờ con
mắt.
Đâu đó chuẩn bị xong,
nó căn dặn chúng tôi không được đi theo sát bên nó làm khuấy động sự yên tĩnh.
Phải tuyệt đối giữ im lặng. Nhứt định chúng tôi không được nói năn lải nhải
hoặc cãi vã, trững giỡn om sòm khó cho nó làm ăn, thi thố tài nghệ.
Nó từ từ lội xuống
nước, lần mò ven theo mé kinh rạch rất nhẹ nhàng, đôi mắt giản nở to tròn, chăm
chú dáng vào các buội ô rô. Nó đang tìm hang ổ của ếch. Lũ chúng tôi cũng thả
nổi tò mò xa xa phía sau nó chờ đúng khi nào nó huýt gió, khoát tay ra dấu như
lệnh truyền mới được mon men đến gần.
Đến địa điểm đã thầm
đánh dấu sẵn trong trí nhớ lúc nảy khi mưa vừa tạnh, nó chậm rãi đưa tay vẹt
nhẹ những nhánh ô rô non, gai còn mềm mại, chẳng những không đâm chít mà còn
dội ngược chịu thua khi va chạm vào da thịt chai lỳ của nó. Quả thật, qua lùm ô
rô tua tủa de ra xa khỏi mé rạch, nó không khó khăn mấy để tìm vị thế con ếch.
Hang láng o, tròn lẵng
và kín đáo do con vật chà lết lâu ngày chày tháng. Con ếch to lớn mập lút, ngồi
thừ một cục không nhúc nhít, choáng gần hết miệng hang. Hai chân trước thẳng
đứng trong tư thế như muốn chồm dậy quan sát. Trong chớp mắt, nó thấy con ếch
với đôi mắt giản nở tối đa, bất động, ngạc nhiên nhìn nó đăm chiêu sợ hãi.
Cò Lửa đang lội chầm
chậm ở mương, nước ngập đến cổ. Đôi khi gặp chỗ sâu hoặc lún sình, nước lé đé
tới hai lỗ mũi, vừa đúng tầm để nó thở khình khịch nhè nhẹ. Con ếch đành thúc
thủ. Nó tự biết con đường thoát thân duy nhứt thường ngày của nó đang bị cản
trở. Vì có sự hiện diện nguy hiểm của một địch thủ mà chắc nó đã lường trước
mức tai hại sắp đến. Nó chưa biết phải xử trí ra sao và đối phó cách nào nên
đành khép nép, cố thu mình nhỏ lại và nép vào tận sâu trong hang. Nó không dám
nhảy ùm xuống nước như thói quen.
Bây giờ, Cò Lửa từ từ
hướng cây chỉa trực chỉ hướng thẳng vào con ếch đang ngồi trong tư thế sợ hải
vì bị động. Mũi chỉa có gắn trứng kiến chúa chỉ trong chốc lát đã nằm sừng sững
trước miệng con ếch rồi. Ếch có vẻ dè dặt nghi kỵ nên chưa có thái độ nào.
Cò Lửa bắt đầu xe tròn
liên tục đuôi cán chỉa với đôi mắt chăm chú để giữ mấy trứng kiến chúa đong đưa
nhảy múa vừa tầm miệng con ếch. Nó cẩn thận xe tới xe lui rất đều tay và nhịp
nhàng. Nó đang nhử mồi để thách thức con ếch và mùi thơm thơm của trứng kiến
chúa lan tỏa rất khêu gợi.
Dù dè dặt sợ sệt đến
đâu theo phản ứng nghi kỵ tự vệ trời phú cho, con ếch cũng không sao cầm lòng
lâu dài được trước sức hấp dẫn, hương thơm ngào ngạt thoát ra từ những trứng
kiến chúa. Loại mồi hiếm hoi có sức khêu gợi khẩu vị này mà nó ít khi bắt gặp
trong suốt chuỗi dài ngày tháng sinh sôi nẩy nở và trưởng thành trước đây. Bất
giác, nó nhón hai chân trước xổm dậy như ở tư thế sắp sửa tấn công. Và sau
đó, thình lình nhanh như tia sét lúc
trời mưa vào xế chiều, nó táp phập con mồi gọn lỏn, ngoạm ngoạm ngon lành.
Nảy giờ Cò Lửa lặng
thinh, trì chí và hồi hộp theo dõi thái độ của con ếch. Có lúc nó như nín thở
chờ đợi mau đến giây phút quyết liệt này. Nó vội vàng nhóng lên khỏi mặt nước,
lấy hết sức bình sanh ấn mạnh cây chỉa vào miệng con ếch giữa tiếng kêu la thảm
thiết và vùng vẫy hoài công của con vật đang trúng thương oằn oại. Bị tấn mạnh
vào sâu trong hang, lại mắc phải ngạnh cây chỉa bén ngót đau điến, ếch không
sao thoát thân được. Cho dù nó cố chống đỡ dảy dụa cách mấy đi nữa.
Tiếng kêu thảm thiết
của con ếch giảm dần cường độ và sau cùng con vật im re, xui xị bất lực. Cò Lửa
từ từ kéo con ếch ra khỏi lùm ô rô rồi nhìn chúng tôi hiu hiu bằng lòng và tự
đắc. Lũ trời đánh thánh đâm chúng tôi cũng reo cười mừng rỡ, càng thán phục nó
thêm.
Rõ là con ếch bà vàng
hườm mập lút, thân mình lóm đóm những nốt đen đen to nhỏ, bụng phệ ốc ách, no
tròn bình rĩnh. Chẳng mấy chốc, Cò Lửa bắt ráo nạo đám ếch kêu uệch uệch khi
nảy. Và lũ chúng tôi thay phiên nhau xách xâu ếch nặng ì ì, lòng thòng, mỗi con
được Cò Lửa cột chặt bằng nuộc dây lạc dừa nơi eo, con nầy nối kết với con kia.
Có con đổ ruột lòi
phèo lòi gan, mắt đứng tròng như chăm chú nhìn chúng tôi van lơn cầu khẩn một
cử chỉ giải thoát cứu độ? Có con nổ mắt, con ngươi vuột tuốt đong đưa ra ngoài,
nằm bất động đợi chờ bàn tay rộng lượng của con người? Có con thè lưỡi máu me
đầm đìa, thòng đầu giữa hai chân trước, buông xuôi yếu ớt như thầm chấp nhận
một nghịch cảnh éo le của định mệnh?
Không quen mắt, trông cảnh tượng có vẻ rùng rợn man rợ
làm sao! Nhưng dù man rợ rùng rợn đến đâu cũng không sao làm tan biến được niềm
vui bất tận của lũ chúng tôi vào thời điểm ấy. Bây giờ ngoái nhìn về dĩ vãng xa
xôi, tôi không khỏi thấy mình sao quá tàn ác, đã nhẫn tâm hay vô tình kéo dài
những đớn đau tột cùng của con vật trước khi chết!
Xâu ếch hôm đó ngam
ngám một chục đủ đầu. Buổi đi đâm ếch của Cò Lửa xem như trúng lớn. Bà Tư Ân,
mẹ của Cò Lửa khi thấy con ếch vội buông lời:
- Mồ tổ ơi, con ếch sao mà lớn đại vậy? Trong đời tao
chưa hề thấy!
Rồi bà tiếp:
- Bà con mình nói không sai. Ở vùng đất khỉ ho cò gáy,
âm u cùn cốc này, trên cao đâu đâu cũng là trời xanh mà dưới đất lục lục thường
tình là loại ếch vàng nghệ úc núc này. Gia đình mình không đông mấy, quanh năm
làm việc tất bật tối mặt tối mày hằng ngày, cả nhà muốn ăn chung đông đủ một
bữa cơm dầu đạm bạc đến đâu nhưng tao thấy sao mà nó khó giàn trời giàn đất.
Nhưng hôm nay, tao nhứt định lớn nhỏ phải ăn chung một mâm cho vui.
Tôi không dám
nhìn cảnh chặt đầu ếch lúc bà Tư Ân làm thịt con ếch. Tôi có nghe những người
lớn tuổi thường nói, trước lúc con ếch thọ hình, khi thân mình mềm nhũng nhớt
lầy của nó bị kẹp cứng, hai chân trước nó vẫn cố vùng vẫy. Nó thu hết sức mọn
hơi tàn còn lại để chấp dính vào nhau giống như con người chấp đôi tay van vái
khẩn cầu xin được tha chết?
Con vật trước lúc từ
giã cõi đời còn biểu lộ sự ham muốn được tiếp tục kiếp sống trần gian, hà huống
là con người! Đôi khi con ếch còn thốt lên mấy tiếng yếu ớt thảm thương trong
tuyệt vọng. Bà Tư Ân đọc lâm râm trong miệng mấy câu ngắn ngủi, nghe tiếng được
tiếng không. Nhưng đại ý không ngoài cầu nguyện cho con ếch kiếp sau nếu có đầu
thai sẽ không làm thân con ếch nữa.
Xong, bà ấn một nhát
dao ngọt lịm cắt tiện đầu con ếch ra khỏi mình nó. Đôi mắt nó hãy còn mở to
tròng trọc như tức tưởi, như oán hờn. Bà Tư hình như cũng rung động xao xuyến
lắm.
Làm sao không xao xuyến rung động trước cảnh chết chốc
chia lìa? Bà bảo phải cắt tiện nhanh như thế để sớm chấm dứt cảnh cực hình đau
đớn của con vật. Chúng nó không biết nói nhưng sự đau đớn của chúng nó cũng
không khác chi sự đau đớn của con người.
Thịt con ếch Cò Lửa
đâm ở bờ kinh, mương rạch, ven đìa ven ao... lúc mưa đầu mùa ăn rất ngon. Bắp
đùi vàng hườm rắng chắn, săn cứng, vung tròn. Thịt thà vừa dai vừa thơm tho dịu
bùi. Chỉ riêng bộ mồng tơi lớn cả một bụm tay, vàng mơ óng ánh hoặc đỏ au với
lá gan to béo cũng đủ hấp lực lôi cuốn khẩu vị và đưa cay đối với bà con tôi
rồi.
Ở xứ khỉ ho cò gáy
Rạch Rít nhun nhúc muỗi mồng đĩa vắt của tôi, bà con sống thanh bạch theo đúng
truyền thống làng xóm quê mùa, không cầu kỳ vẻ duyên, ngay cả trong việc bếp
núc nấu nướng. Quanh quẩn những món quen thuộc như ếch cà ry, ếch canh chua lá
me nấu với bắp chuối hột, ếch chiên mỡ, ếch xào lăn với củ hành tây bún tàu,
ếch lăn bột chiên, ếch cơm tay cầm với núm mèo tươi rói mọc xô bồ nơi các gốc
so đũa mục ở đầu ngõ hay ở mấy cây đọt xộp ở cuối vườn nhà...
Bữa ăn thịt ếch lúc
nào cũng xôm tụ, tập hợp đông người. Bà con tôi vốn hảo ăn đã đành, thêm được
dịp để mời mọc, gặp gỡ thù tạc nhau trong thân tình. Nhờ vậy mà quan hệ chòm
xóm, bang giao lân lý ngày càng thêm thấm thiết gắng bó. Và hai chữ "bà
con" hằng ngày được thốt ra từ cửa miệng mọi người mới thực sự mang một ý
nghĩa đậm đà, lai láng tình thương và sự tương kính quý trọng.
**
Đất hoang vừa khẩn xong còn nóng hổi. Bờ mẫu,
đê điều, kinh mương song hành được phóng có trật tự và theo một kế hoạch thực
tiễn. Nhiều con đê đồ sộ tăm tắp thẳng băng, chạy dài ngút mắt mãi tận chân
trời xa.
Với thời gian, bà con
tôi tiếp tục gia công tu bổ dần mỗi mùa lúa. Chẳng mấy chốc, khắp nơi, bờ mẫu
trở nên chắt nịt. Cỏ mai chen lẫn các loại cỏ dại khác mọc bừa bãi ven bờ. Có
đoạn buội rậm um tùm hổn loạn do ít người dẫm chân đến hoặc chưa bao giờ đi qua
một lần trong năm. Nếu lơ là, chểnh mảng bỏ bê, những bờ mẫu ấy sẽ sạt lở, mùa
màn bị ảnh hưởng trầm trọng. Thu hoạch sẽ không đảm bảo hầu trang trải mọi chi
phí tốn kém cho những mùa sau.
Ruộng mới khẩn vẫn còn
nhiều chỗ hổn mang nên phức tạp lắm. Thửa này cao, thửa kia thấp, thêm những
gốc cây chưa kịp đánh gốc, chơm chởm rãi rác đó đây. Đánh gốc cây là cả một
công trình dài hạn và vất vả, đòi hỏi lắm công sức con người, lại phí nhiều
tiền của đầu tư. Mặt nước ruộng so le cần đến sự quan tâm theo dõi hằng ngày,
ngay cả về đêm để sớm có biện pháp can thiệp thích ứng.
Người đi khẩn hoang
vốn thuộc giai cấp bần cùng nghèo khổ. Tiền của, vốn liếng lận lưng, khụm nụm
mang theo dự trù sinh sống làm mùa thường vừa đủ ngám để chịu đựng đôi ba năm
là cùng. Đôi khi vì hoàn cảnh bất khả kháng, bắt buộc họ phải vay nợ năm nợ
mùa, rồi nợ cứ gối đầu mãi trả không dứt, để có phương tiện hoàn chỉnh đất mới.
Họ rất nôn nóng. Khi
vừa tạm xong một thửa ruộng xem được được là họ bắt đầu gieo giống, cày cấy ngay. Họ hy vọng sớm
có huê lợi, dù là huê lợi tượng trưng ở những năm đầu tiên để giải quyết nợ nần
réo gọi, níu kéo lắm khi thôi thúc ngặt nghèo. Loại nợ này với lãi suất thắt
họng, quá cao đến chóng mặt.
Những gốc cây chơm chởm còn đó, rải rác nơi này chỗ
kia nhưng chẳng cản trở chi đến việc canh tác. Khi làm cỏ dại, họ tém dẹp gom
góp đem bỏ tập trung ở những gốc cây này làm thành những đống to ngùn ngụt.
Chim cò có chỗ đậu nghỉ chân, đứng xa xa trông như những bức tranh thủy mạc của
các họa sĩ thời danh Trung Hoa, đẹp mắt và thơ mộng.
Bờ mẫu chung quanh
những thửa ruộng mới tinh khôi này rất quan trọng đối với bà con đi khẩn hoang
lập ấp. Họ rất quan tâm be đắp, theo dõi thường xuyên liên tục. Chỉnh mảng tu
bổ, không sao giữ được mặt nước vừa tầm mạ non hay lúc lúa bắt bén để trưởng
thành.
Ruộng thấp ngập nước,
lúa mất sức, quỵ xuống chết ngộp xác xơ vàng nghệ. Ruộng cao thiếu nước, lúa
khô cằn đỏ hoe hoe, chết dần. Số còn lại lưa thưa như tóc còi trên những mái
đầu người hói.
Những đêm mưa tầm tã, bà con tôi vẫn phải vác cuốc lao
vào đêm đen mưa gió lạnh lẽo để tháo lỗ trổ thoát nước. Gặp những hôm trời
nắng, hạn hán kéo dài, bà con phải vần công từng nhóm, luân phiên nhau tác gàu
sòng gàu giai cứu lúa không kể giờ giấc.
Nhưng ác thay, bờ mẫu
dù có được chăm nom tu bổ công phu đến đâu cũng thường bị một tai họa không
lường được. Đó là nạn lươn lịch đục khoét thành những lỗ mội nho nhỏ ở những nơi
hẻo khuất, những nơi vắng bóng người cỏ hoang mọc sum xuê, loạn xạ um tùm. Nước
cứ chảy ro re róc rách, ngày tiếp nối ngày, rất khó cho con mắt tinh vi khám
phá.
Bỗng dưng một ngày nào
đó, người ta giựt mình nhìn thấy ruộng cao mất nước đáng ngại, trong khi ruộng
thấp kế bên nước ngập lé đé ngọn lúa. Có nơi lúa chìm lĩm nguy hiểm dưới nước
sâu, cần phải có ngay những biện pháp cứu tử khẩn cấp. Trù trừ, lúa có thể chết
ngộp, mất toi một mùa.
Khi lỗ mội được phát
hiện, thoạt tiên người ta tìm phương cách xảm lại nhưng vẫn không an tâm. Phần
lớn đều hoài công. Hôm sau, nước vẫn ro re chảy tiếp.
Con lươn đang ung dung
trong ngỏ ngách, hang ổ của nó ở nơi đây chắc mẻm rồi. Nó chiếm vị thế an toàn,
vững như bàn thạch. Vì chẳng ai có thể động đến nó được. Đêm đêm thanh tịnh
vắng vẻ, nó len lén chui ra ngoài tìm mồi phá phách, làm lở lói bờ đê thêm mãi.
Một tai ách vô hình đối với nông dân.
Bà con tôi cứ chập tối cấm những cần câu dài dài chung
quanh lỗ mội nhưng sáng hôm sau, cần câu thì còn nguyên vẹn đó nhưng lưỡi câu
và con mồi biến đâu mất. Con lươn chắc phải to lớn và già dặn lắm. Họ bất lực,
điên đầu, chưa tìm ra giải pháp.
Đêm nào như đêm nấy.
Bực dọc, bà con bèn đặt trúm với mồi ngon khêu gợi hoặc dùng chỉa nhọn xôm sâu
trong lòng bờ. Họ hy vọng con lươn bị tử thương chết rũ trong đó.
Cò Lửa để ý đến những
lỗ mội, nơi có nước chảy róc rách thường xuyên nhưng rất khó xâm, khó xảm này.
Nó kiên nhẫn ít đứa trang lứa bì kịp. Không hề thấy nó chùng chưn chùng lòng.
Vì nó không bao giờ chịu lùi một bước trước mọi chông gai trở ngại đang gặp
phải.
Cái tánh dấn thân kiên trì chiến đấu chống mọi nghịch
cảnh của nó do được thừa hưởng lâu nay ở cha mẹ dòng tộc nó. Các bậc này đã móm
cho nó qua thực tiển hằng ngày cải tạo đất đai, cái tinh thần và ý chí cao đẹp ấy
để chiến thắng thiên nhiên, để thành công trong sinh tồn. Do vậy, với giá nào
nó cũng phải vượt qua. Với giá nào nó cũng phải thanh toán cho bằng được con
lươn ác ôn tai hại này.
Bản tánh của nó là như
vậy. Nó đã được trui rèn bất di bất dịch và được thể hiện rất sớm trong cuộc
đời son trẻ của nó. Nó biết những gì nó phải làm. Mà đối với nó, biết là một
việc tốt nhưng mạnh dạng xăn tay áo, dám đổ mồ hôi bắt tay vào để thực hiện
những điều hiểu biết của mình mới quan trọng hơn.
Nó vốn có tiếng nhiều
mưu thần chước quỷ, nhại bén và hữu hiệu. Đâm con ếch đẫy đà nằm lút trong hóc
các buội ô rô dầy mịt, nó đã có những phương cách ít người nghĩ tới. Với con
lươn tinh ranh tác hại mùa màng này, nhứt định nó không thể tha thứ được và bỏ
qua được. Nó vò đầu bức tóc, nghĩ tìm thế thần ăn thua đến cùng mới nghe.
Nó lại đinh ninh chắc
nịt rằng những con lươn có tầm phá hại nguy hiểm cở đó ắt hẳn phải là loại lươn
sinh sống lâu đời, nhiều năm tu luyện sắp thành chồn cáo và rất già dặn kinh
nghiệm. Không biết ai chỉ dẫn giải thích cho nó nghe chuyện con lươn một khi
sống lâu năm mập ú, trở nên cụt đòn do đuôi lươn co rút ngắn hẳn, lại có thêm
hai mang tai nhỏ hếu nhô ra bên ngoài... đầy đủ những điều kiện cho phép nó
thoát lớp lươn để trở thành chồn cáo?
Và không biết nó có
thấy được sự thay hình đổi dạng đó lần nào chưa. Nhưng coi mòi nó rất tin ở
huyền thoại biến hóa ấy lắm vì bàng dân thiên hạ truyền miệng nhau từ đời này
qua đời nọ để có lần lọt vào đôi tai nó. Dù sao, nó cũng không lầm vì đã đánh
giá đúng mức sự hung hăng và sức mạnh phi thường của loại lươn già dặn này để
chuẩn bị đồ nghề tương ứng.
Cò Lửa bắt đầu tốm chỉ
to gấp ba bốn lần chỉ câu thông thường mà nó tìm tòi mua nơi những tiệm chạp
phô khách trú ở các chợ quận hay thị trấn lớn trong vùng. Nơi đầu sợi chỉ, một
lưỡi câu đã được nó o bế dũa tới dũa lui rất công phu nhiều ngày trở nên bén
ngót với một ngạnh to
nhọn lểu chỉ cần xốc phớt cũng đủ làm rách da rách thịt.
Chạng vạng tối, khi
mặt trời sắp lim dim ngủ sau rặng trâm bầu hay lũy tre ranh, nó bắt đầu lò dò
xuất hành. Đơn độc một mình. Thách thức đêm đen và thời tiết. Trên mình nó vỏn
vẹn một chiến áo tơi chầm bằng lá dừa nước, trùm phủ từ đôi vai nở nang để
chống chọi lại cái lạnh thấu xương về đêm, cái buốt giá của những ngọn gió dấy
lên từ sông nước hay những trận mưa sớm kéo dài.
Với chiếc áo tơi
truyền thống, vừa dễ chầm, vừa rẽ tiền và tiện lợi này, nó ngồi co ro che thân
ngược theo chiều gió, chiều mưa để một mình lắng nghe hạt mưa lốp đốp trầm buồn
bên ngoài mà quên đi cái lạnh vây kín chung quanh. Ấy thế, nhiều lúc nó cứ bắt
phải rung cả người cầm cập, không cách nào hóa giải được. Cả hai hàm răng nó cứ
đánh bò cạp một cách máy móc. Dù sao nó cũng đã quá quen nên không đến đỗi ngạc
nhiên cho lắm.
Tuyệt nhiên, nó không
cho chúng tôi đi theo vì nó nghĩ sẽ vướng bận tay chưn nó. Mà thật tình nó rất
có lý. Lươn thường có vẻ lù đù chậm chạp do cái vẻ bề ngoài nhưng vốn thính
tai. Nằm sâu dưới bờ mẫu, nó vẫn nghe rõ ràng tiếng chân người nện thình thịch
trên mặt đất.
Cò Lửa thủ sẵn một khúc
ruột vịt già làm hai ba hôm trước mà nó căn dặn người thân trong nhà phải để cả
ngày đêm dưới sức nóng và hơi sương. Ruột vịt bắt đầu trở thành sình chương mùi
hôi thum thủm. Lươn vốn loài ăn tạp. Mồi trùng, mồi nhái có khi nó chê. Riêng
cái mùi hôi thum thủm ruột vịt này dù có no cách mấy nó cũng không nỡ chối từ.
Cò Lửa vẹt gai, vẹt cỏ
dại cùng những chướng ngại khác rồi nằm sắp dài trên bờ mẫu. Nó thòng đầu xuống
ruộng, nơi có lỗ mội. Nó từ từ đưa lưỡi câu có móc ruột vịt thum thủm vào sâu
trong lỗ mội nhờ một thanh tre mảnh mai giúp đẩy nhẹ lưỡi câu. Cuối đầu sợi dây
câu phía ngoài, nó cẩn thận buộc một thoải tre vừa vặn một nắm tay, dài khoảng
một tất rưỡi tây. Thoải tre này dùng làm điểm tựa để nó giữ thế thăng bằng. Và
cũng để nó lực lúc trì kéo đối đầu với con lươn.
Nó giữ tư thế dị họm
đó bất động và trì chí rất lâu trong đêm vắng quạnh hiu, lúc trăng khuya bị mây
che khi mờ khi tỏ, mặc kệ muỗi mồng tha hồ thi đua nhau cắn chích nó. Ngón tay
trỏ của nó luôn luôn để nhẹ trên sợi chỉ câu với ý đồ phát hiện sớm sự động đậy
con mồi khi lươn đánh mùi chao động.
Thình lình nó nghe con
lươn đánh trốc một tiếng trong ấm khô khan, âm thanh hòa lẫn với nước ro re ở
lỗ mội rất quen tai nó. Vì đây không phải là lần đầu tiên đối với nó. Trong
chớp mắt, nó nhảy ùm cái sột gọn gàng xuống ruộng nước. Tay nó nắm chắc thanh
tre, giặt một cái dứt khoát. Và nó nhận định con lươn chắc đã mắc câu nên nó
ghì tay chịu cứng không cho thanh tre xê dịch dù một li một tí.
Nó cảm thấy sợi chỉ
câu căng thẳng đáng ngại rồi dùn dằn từng chập từng chập, do con lươn trong lỗ
mội cố hết sức dẩy dụa thoát thân. Dưới ánh trăng mờ tỏ tỏ mờ, nó thấy rõ dòng
nước đục ngầu cuồn cuộn tuông ra từ lỗ mội mà lòng mở cờ tưng bừng sung sướng.
Con lươn đã thực sự mắc câu rồi.
Dòng nước đục ngầu
phun phún chầm chậm trong đêm vắng đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của nó lúc
ấy. Nó đang trên đà thành công. Nó đang nuôi hy vọng chiến thắng được con lươn
đầy ám ảnh và tội ác này. Trong lòng, nó đinh ninh cầm chắc thế nào cũng bắt
được con lươn tác hại mùa màng, làm phiền hà bà con bấy nay. Nó mừng thầm trong
bụng. Mai đây và suốt chuỗi ngày sắp tới, bà con nó sẽ không còn phải bận tâm,
nơm nớp lo âu đối phó con lươn phá hại trời đánh thánh đâm nầy nữa.
Cò Lửa vẫn đứng im
dưới ruộng nước. Vẫn ẩn nhẩn đợi chờ. Nó không hề nôn nóng vì nôn nóng lúc nầy
ắt sẽ hư việc. Con lươn vẫn dằn co mãi
trong tuyệt vọng. Nó uốn éo níu kéo, cố dùng tối đa sức lực của nó.
Cái tư thế chờ đợi của
Cò Lửa, luôn giữ thanh tre bất động không ngoài làm giảm bớt sự căng thẳng,
nhiều khi nghe bừng bực của sợi chỉ câu. Nó có học hành đến nơi đến chốn đâu để
hiểu rõ sức căng tối đa của sợi chỉ. Nhưng có điều nó biết rõ ở hai đầu sợi
chỉ, một bên con lươn đang vùng vẩy tháo chạy thoát thân, bên kia nếu nó cố sức
kéo con lươn ra khỏi lỗ mội ngay thì nhứt định sợi chỉ sẽ đứt không chóng thì
chầy. Kinh nghiệm cha ông truyền lại giúp nó có phản ứng tự nhiên đó.
Đôi lúc, sức vùng vẫy
của con lươn trong hang, uốn éo nương theo cái thế hiểm hốc của những đường
cong, ngăn ngách ngoằn ngoèo của lỗ mội làm cho nó phải gồng cả hai cánh tay
gân guốc lực lưỡng để giữ thanh tre không sai chạy. Lòng nó luôn hồi họp, cứ
mãi phập phồng lo sợ đứt sợi chỉ câu bất tử. Nó nhăn mặt, một mình dằn co gian
nan lâu lắc với con lươn trong âm thầm của đêm thanh vắng.
Nó nhìn lên không
trung trông thấy con trăng đã chênh chếch nhợt nhạt. Nó đoán biết đã khuya rồi.
Mà quả thực vậy. Nó ngó xa xa chỉ thấy lờ mờ trong hơi sương mấy cây trôm già,
vài cây gáo ngựa vượt khỏi hẳn những lũy tre im lìm bất động. Quan cảnh giờ đó
rờn rợn lạnh tanh. Những mái lá mái tranh thôn nghèo đèn đuốc lập loè như ma
trơi lúc đầu hôm giờ này đã lịm tắt từ lúc nào rồi.
Bỗng dưng, Cò Lửa nghe
tiếng vặn mình răn rắc... răn rắc khe khẽ của con lươn. Sợi chỉ câu căng thẳng
thêm sau những tiếng răn rắc bẽ mình bẽ mẫy liên hồi đó. Nó đoán biết sắp đến
hồi kết thúc cuộc chiến đấu ngang ngữa và dằn dai giữa nó và con lươn quái gỡ
nhưng rất tự tin ở sự thắng lợi cuối cùng sẽ về phần nó.
Quả vậy. Tai nó nghe
một tiếng ọt vừa nhẹ nhàng, vừa uể oải kéo dài khô khan. Con lươn đã kiệt quệ
buông xuôi. Nó không còn sức để kháng cự nữa. Cò Lửa bảo là con lươn bị giản
xương sống, trở nên yếu ớt như cọng bún vừa mới ra khỏi lò.
Sợi dây câu chùng lại
mềm nhũng, lủng lẳng. Nó bắt đầu từ từ kéo cẩn thận thanh tre lên. Con lươn dịu
dàng ngoan ngoản được lôi ra khỏi lỗ mội. Nó tiếp tục vùng vẫy chống cự nhẹ
nhàng trong tuyệt vọng nhưng Cò Lửa nhanh nhẹn nắm đầu nắm đuôi kẹp cứng nó rồi
lấy hết sức bình sinh kéo giản thẳng ra làm cho nó càng thêm kiệt quệ hơn.
Ngày hôm sau, Cò Lửa
rất hãnh diện về thành tích của nó đêm qua. Nó khoe và hướng dẫn chúng tôi đến
xem con lươn sắp thành chồn cáo được nó rộng trong việm, đậy kỹ càng nhờ tấm
thớt nặng ì ì làm bằng lõi me già. Nó không ngớt lời tường thuật lại cho chúng
tôi nghe cuộc chiến đấu gian nan trường kỳ giữa nó và con lươn hi hữu đó.
Nó chỉ cho chúng tôi
xem cái đuôi con lươn mập lút, ngắn ngủn nhứt là hai bên đầu có hai mảnh da nhỏ
nhô ra. Nó khẳn định là hai lỗ tai của con chồn sắp thành hình, đúng theo
truyền thuyết lâu đời của bà con quê mùa, những bực trưởng thượng trong xóm đã
nhiều lần kể cho nó nghe. Con lươn quá to lớn hơn bắp tay tôi, ức vàng hườm tận hai bên hông, ú
na ú nú, chỉ trừ sóng lưng đen mun.
Cò Lửa thêm tự hào và
hứng khởi chỉ tiếp cho chúng tôi xem chung quanh miệng con lươn lủng lẳng năm
sáu lưỡi câu láng cón do nó ham mồi, cắn đứt chỉ câu trước đây mà nó không sao
tự mình lột bỏ ra được. Nó đành ngậm đắng nuốt cay bất đắc dĩ phải giữ lòng
thòng với nó trong cuộc sống hằng ngày ở lỗ mội như một kỷ niệm khó quên.
Cò Lửa bật ngửa cười
hăn hắc. Nó bảo với chúng tôi những lưỡi câu đó thuộc về hàng dỏm, làm sao hữu
hiệu được. Những lưỡi câu rẽ tiền ấy không thể so sánh với lưỡi câu đặc biệt
của nó được. Lưỡi câu này do chính tay nó gia công uốn với thép già tôi luyện
đúng mức. Bằng cớ là con lươn phải chịu chết vì nó.
Chúng tôi nhìn con
lươn lăn lóc uốn éo trên nền đất, oằn oại hiền hòa. Bây giờ thất thế sa cơ,
trông nó lờ đờ mềm nhũng còn hơn tàu chuối rũ bỏ bê lâu ngày ngoài vườn. Đôi
mắt chúng tôi cứ tròn xoe lên nhìn con lươn mà lòng ngạc nhiên và thán phục Cò
Lửa.
Gốc vườn trầu hôm đó ồn ào không dứt tiếng nói cười tào
lao của Cò Lửa trong khi tay nó nắm đầu con lươn vuột trấu. Thân hình mềm mại
đen mun của con lươn không mấy chốc trở nên sạch nhớt và mơn mỡn hơn. Nó bảo
không nên vuột con lươn trắng bạch, thịt ăn sẽ bở rệt không ngon. Phải để da
lươn còn đen đen, giữ lại chút ít hơi hướm của nó mới đúng điệu nghệ ẩm thực và
khẩu vị người thưởng thức.
Thịt con lươn Cò Lửa vừa mới câu nầy ngon ngọt thơm phứt,
hương vị dìu dịu mạ non lúa mới, phảng phất mùi hoa hoang dã. Với thịt lươn béo
bổ kéo níu khẩu vị con người, lâu lâu mới có, bà con tôi thường tổ chức đánh
chén linh đình. Nào lươn um sã với bạc hà rau ôm. Lươn xào lăn núm mèo bún tàu
với hành tây to lớn óng vàng mua ở chợ quận. Canh chua lươn nấu với con mẽ
thanh tao dịu bùi. Cháo lươn nấu với môn nước v.v...
Nhưng hôm đó, con lươn cụt đòn vàng nghệ được bà Tư Ân
lóc xương sống từ đầu đến đuôi, thịt hai bên lường tươm màu hồng thắm, tươi
thật tươi. Bà Tư đã chuẩn bị sẵn một tô thịt heo bầm ướp đầy đủ gia vị thơm tho
ngọt ngào. Xong bà nhồi vừa vặn trong bụng con lươn, may chỉ lại cẩn thận. Bà
khoanh từng vòng tròn, đem nướng trên dĩ than bếp lửa lò im ĩm để thịt dồn có
đủ thì giờ chín tận bên trong.
Bà Tư dùng than đước,
loại than mua để dành đốt bàn ủi để ủi áo quần những lúc mùa màng rổi rảnh đi
xem hát bội, hát cải lương ở đình ở miễu, hoặc khi tham dự lễ Kỳ yên, ngày hội
Tết hay giỗ quảy, cưới hỏi trong xóm trong làng. Lửa than nóng hực nhưng rất
hậu.
Bà Tư tránh để lửa phừng phựt, cháy hổn hào nám khét lươn
nướng. Mỡ lươn quyện với mỡ thịt heo bầm nhễu xèo xèo trên lò làm khói thơm bốc
lên nghi ngút. Cả mấy dãy nhà bên cạnh cũng cất tiếng khen đáo để. Họ khó cầm
được thèm thuồng.
Ấy vậy, thỉnh
thoảng bà Tư Ân còn ân cần trét lên mình con lươn dồi một ít mỡ nước có lấm
chấm những khoanh nhỏ hành hương. Con lươn bắt đầu căn da trong bóng, vàng
hườm, hăn hắc mùi thơm.
**
Quê hương Rạch Rít
của tôi nay chỉ còn ẩn hiện trong trí tưởng. Cảnh thổ chôn nhau cắt rún của tôi
đã cách ngăn diệu viễn từ hai mươi mấy năm nay. Lưu vong, tỵ nạn cộng sản, tôi
giã từ một chế độ độc tài khát máu, áp bức bất công, dối gian tham nhũng nhất
trên cõi trần.
Từ dạo đó đến nay,
tôi chưa một lần trở lại quê cha quê mẹ quê mình, trong lòng hằn luôn ray rứt
quặc thắt nhớ thương. Nơi ấy, tôi đã để lại một quãng đời son trẻ của mình với
biết bao kỷ niệm buồn vui, không bút mực
nào tả xiết. Và cũng chính nơi ấy, tôi từng lang bạt thấm đẫm hương đồng vị đất bản làng để có nhiều dịp
thưởng thức và nhớ đời những thổ sản và món ăn dân gian với nhiều phương cách
nấu nướng chế biến của bà con tôi, tuy nghèo tiền nghèo của nhưng lúc nào cũng
tràn đầy sức sống và sáng tạo.
Rau cỏ, cá mắm, tôm tép... Cả cua đồng, rùa, rắn, chuột,
chồn cáo, ếch nhái, lươn lịch... Đặc biệt là gà vịt mà bà con tôi nhà nào cũng
có năm ba bầy sởn sơ đôn đít nhau, thả chạy nhởn nhơ rạn đất, từ trong trang
trại nhà ra đến tận ngoài vườn.
Có khi không có vịt xiêm mái để ấp, bà con tôi mua trứng
vịt có trống ở lối xóm đem về nhà cho gà mái ấp kèm. Đến lúc trứng nở, xuống ổ,
mẹ gà túc túc không thôi, trông nom chăn vịt con trên vườn, ngoài sân. Trong
khi ấy, đàn vịt con ranh mảnh, mải mê bơi lội, vô tư rong theo mương rảnh rối
vô tình phiêu lưu theo dòng nước trong vắt lững lờ.
Những khi diều hâu, bù cắt lửa xà xuống xớt gà con trên
liếp, gà mẹ bất chấp hiểm nguy vỗ cánh nhảy ập tới đối phó bất kể mạng sống của
mình, miễn sao bảo vệ được sự sống còn của đàn con. Gặp khi vịt con bị lươn rút
giò hay vướng rong, gà mẹ vẫn không chút do dự, nhảy ào xuống nước cứu con, kêu
la toát toát. Cũng may, mương ranh không sâu lại dầy đặc rong bèo, rau muống đan
quyện nên gà mẹ ướt mèm, không đến đỗi chết chìm.
Thương thay cảnh "mẹ gà con vịt chắt chiu" đậm
đà lai láng biết dường nào.
Loại gà vịt thả chạy tự do ngoài sân ngoài vườn, nơi bến
sông mương rảnh lúc nước ròng, tìm ăn cào cào châu chấu, tép rong tép bò, sâu
bọ, lúa thóc rơi rớt không thiếu gì. Đói nữa, chúng nó cứ tự tiện nhào vô
chuồng trại, tìm nơi các mán heo ăn thế nào cũng còn sót chút cám xay, cám giả
hay bã hèm rượu lậu dư thừa. Con nào con nấy trở nên mập lút, trổ mã lông lá
mướt mượt, màu sắc óng ánh.
Nhiều bà con còn cất chòi lá chòi tranh đơn sơ ở
những gò đất, vạt đất giữa đồng không
mông
quạnh để thả gà thả vịt tự do
sinh sôi nẩy nở. Họ không nuôi trong nhà do gà vịt chập chập lẻn vào tìm ăn làm
dơ bẩn. Họ còn mất công thỉnh thoảng phải chốp tàu dừa tàu cau để sẵn đâu đó la
ó hò hét, đập rầm rập rèn rẹt ở phênh vách, ở gốc cột hay nơi chân ván ngựa,
chân bàn ghế để đuổi chúng ra khỏi nhà, nhứt là đám vịt con, gà giò phá phách
bươi xớt như tinh.
Dù cất chòi xa nhà, bỏ bê bù lu bà la, lâu lâu mới ra
thăm một lần để rải chút ít lúa mót hay
lúa quét sân lúc giê gió mà họ còn có khi nhớ khi quên. Nhưng gà vịt
không hề bị mất mát, bất quá thỉnh thoảng chỉ bị chồn tha hay diều xớt một vài
con là cùng. Chúng nó lớn như thổi. Quên một thời gian, chúng đã đến lứa ăn
thịt chẳng mấy chốc.
Bà con tôi tuy quê mùa cục mịt, tuyệt nhiên không tham
lam, tháy máy tài sản của cải người khác. Vì thời bấy giờ, nhà nhà đều hạnh
phúc ấm no, đủ ăn đủ mặc, không phải đắn đo bươn chải nhiều. Hạnh phúc của họ
nằm trong cái mình có trong tay và trước mắt. Vì bà con tôi nghĩ đơn giản rằng
hạnh phúc không lúc nào được cho là đủ cả. Nếu mình cho là đủ thì đủ. Trái lại,
nếu mình bảo thiếu thì lúc nào cũng vẫn thiếu.
Nghèo khổ thiếu thốn, cứ lấy mồ hôi công sức mình tự lực
cánh sinh để sống trong lương thiện. Đất đai hoang vu không thiếu gì. Chỉ cần ý
chí và quyết tâm là có cơm ăn hằng bữa, áo ấm quanh năm. Châm ngôn của bà con
tôi là trong hoàn cảnh nào cứ bám vườn bám đất mà sống, sẽ không sợ đói.
Cái thuở thanh bình xa xôi đó đã mất rồi hun húc trong
miền ký ức của tôi, vốn bị nhiều thương
tổn nặng nề khi tôi đã từng lăn lộn với sóng đời dồn dập từ những thập niên gần
đây. Bao nhiêu kỷ niệm phai mờ. Bao nhiêu tình tiết rõ nét. Lẫn lộn chồng chất
lên nhau xô bồ, không lớp lang, thiếu mạch lạc.
Có cái nhớ cái quên. Cái quên thì nhiều. Cái nhớ lại ít.
Suốt một khoảng đời
lao đao lận đận trên quê hương nhiễu nhương hằng nửa thế kỷ, nhứt là từ ngày
đau buồn tháng Tư Đen cộng sản hiếu chiến Miền Bắc cưỡng chiếm quê hương tôi,
biết bao sự việc đã lướt đi âm thầm khỏi trí nhớ tôi. Cũng may, trong cái nhớ
ít oi còn sót lại này, nhiều hình ảnh đậm đà thấm thiết, nhiều dấu vết ngăn
ngắt cứ mãi trở mình ẩn hiện, khắc sâu như nhắc nhớ tôi cả một quá khứ cội
nguồn sáng rực tinh tuyền.
Tôi đưa miếng thịt gà nấu cà ry tươm tất, đúng điệu nghệ
nhà nghề sành sõi vào miệng mà nghe bều bệu nhạt nhẽo, rã rời bở rệt. Nhìn
những
khúc thịt
mềm nhũng, tươm chất mỡ lầy nhầy tái
mét, tôi cố nuốt một cách máy
móc theo động tác quen thuộc hằng ngày, ăn để sống, ăn để được hiện diện, ăn để
sinh tồn.
Đó là loại gà kỹ nghệ, nuôi theo phương thức khoa học tân
tiến, có chuồng trại, tường vách, sàn mái bao bọc ấm cúng, tiện nghi vệ sinh
ngăn nắp. Có hệ thống điều hòa nhiệt độ, thuốc men đầy đủ, đèn đuốc sáng trưng
để gà ăn uống ngày đêm liên tục.
Chủ trại còn vỗ béo tối đa để gà chóng có cân lượng đòi
hỏi, sớm bán thêm lời. Mỗi con chỉ có vừa vặn một chỗ đứng để ăn rồi nằm, nhằm
tránh cử động tối đa, không cho mất năng lượng nhiệt lượng. Gà sẽ súc cân.
Thức ăn luôn luôn
kề nơi miệng, tha hồ ăn no phồng bầu diều. Nước uống nhễu giọt liên tục cận kề
một bên. Thêm nhiều loại kích thích tố hóa học thôi thúc sự trưởng thành nhanh
chóng và thuốc trụ sinh ngăn ngừa những bịnh dịch, gà không bị toi bị gió.
Loại gà vịt nuôi thúc để thỏa mãn nhu cầu của xã hội tiêu
thụ, sống hấp tấp vội vàng, không hội đủ điều kiện hương vị hấp dẫn khẩu vị của
tôi. Ngay cả loại gà đắc giá, loại gà nhà vườn nuôi theo phương pháp cổ truyền
với hạt lúa mì, hạt bắp tinh anh mà đồng bào tỵ nạn ở Pháp vui miệng gọi đùa là
"gà đi bộ" để tránh danh từ "gà chạy" thuở còn ở bên nhà.
Loại gà đó cũng không có được những đặc điểm thơm ngọt chắt thịt. Có thể vì ham
muốn thu nhiều lợi nhuận nên họ đã pha chế thêm phần nào thức ăn độn so với
quảng cáo chăng?
Mỗi lần ăn thịt gà, tôi nhớ đến con gà chạy bên nhà, con
gà nuôi thả lỏng ngoài vườn tược, ngày ngày bươi xới cỏ non, cào cào châu chấu.
Chiều chiều, chủ nhà rải bừa bãi ngoài sân một quảo lúa, loại lúa rơi rớt khi
quét sân quét bồ những ngày phơi lúa bán lúa đã được tích trữ ở lẫm trại. Rồi
họ thong dong sung sướng đứng nhìn cả bầy tranh nhau mổ, đập cánh rượt cắn đá
nhau, nhảy tới nhảy lui, rững mở nô đùa trước khi lên giàn ngủ.
Tôi nhớ đến miếng thịt gà thơm ngon ngày xưa nơi quê
hương Rạch Rít của tôi. Loại thịt gà này tôi đã từng ăn không biết bao nhiêu
lần nhưng vẫn không hề biết nhàm chán. Miếng thịt gà ở quê nghèo khổ hạnh nhưng
rắng chắt ngọt lịm, hương vị thanh tao.
Còn nói gì đùi ếch nhập cảng của Thái Lan hay Nam Dương, ngay
cả của Trung Hoa Lục Địa, của Đài Loan... được gói ghém cẩn thận trong những
bọc giấy kiếng trong, bao bì in ấn đẹp đẻ quyến rủ nhưng thú thật dai nhách, ăn
xảm xảm, không mùi không vị. Con lươn nhập cảng cũng thế. Tuy được làm sẵn sạch
sẽ và được trình bày với bao bì màu sắc hấp dẫn nhưng đông lạnh lâu ngày, tích
trữ nhiều tháng, da dẽ thịt thà không thơm ngon lại có phần bã thịt.
Trên chéo đất tạm dung ray rứt này, mỗi lần ăn lươn ăn
ếch đổi bữa, tôi như đi tìm lại một chút hương vị đã mất từ hơn hai mươi năm
nay. Tiếc thay, tôi chưa bao giờ bắt gặp lại cái hương vị mất mát đậm đà của
ngày xưa ấy. Lắm khi tôi đâm ra chán chường để lịm dần trong mênh mang tưởng
tiếc, hồi nhớ cái khoái cảm đã qua. Cái khoái cảm nhẹ nhàng thâm thúy ấy hãy
còn đeo đẳng mãi bên tôi, đến giờ phút này và chắc hẳn đến cả cuối đời mình
nữa.
Làm sao tôi quên được thịt xâu ếch vàng mơ óng ánh mà Cò
Lửa lội mương ô rô đâm đổ ruột lòi phèo lúc trời mưa vừa mới tạnh. Làm sao tôi
quên được thịt con lươn mập lút cụt đòn thơm tho mà Cò Lửa đã ẩn nhẩn câu ban
đêm, con lươn sắp sửa hóa chồn hóa cáo ấy miệng còn mắc lủng lẳng cả năm bảy
lưỡi câu rĩ màu xám xịt.
Miếng ăn để đời.
Miếng ăn lưu luyến.
Miếng ăn mộc mạc,
không chế biến cầu kỳ. Miếng ăn đậm đà tình nghĩa chòm xóm.
Những miếng ăn đó dù đã hun húc theo thời gian đăng đẳng
cả nửa thế kỷ phế hưng thổi dạt vào quê hương trăm đắng nghìn cay của tôi, nay
vẫn hiển hiện rõ nét trong trí tưởng tôi, trong sâu thẳm tâm hồn tôi.
Nó mơn trớn khêu
gợi, lôi cuốn khẩu vị tôi mỗi khi nhắc nhớ với bối cảnh chôn nhau cắt rún của
tôi mãi mãi không nhạt nhòa. Nó như thêu dệt vẽ vời cảnh thổ nên thơ, xóm Rạch
Rít buồn hiu nơi tôi thực sự sống, thực sự trưởng thành và thực sự gắn bó trọn
vẹn.
Bây giờ, nơi chốn lưu đày tạm bợ này, qua bao nhiêu năm
gần tròn một đời người, ngăn ngắt chuyện buồn vui chua xót, nơi cuộc sống
nghiệt ngã rối nhùi, lắm chuyện phiền toái hằng ngày, hình ảnh con ếch bà ven
rạch, cạnh bờ kinh năm xưa, con lươn sắp thành chồn thành cáo ngày nào, con gà
chạy vàng mướt với đôi chân như nghệ... là cả một trời nhớ nhung vời vợi.
Tôi thấy nó đang
tuần tự phục hiện rõ nét trong tâm tư
tình cảm tôi. Tuy không thứ tự lớp lang nhưng dù sao bấy nhiêu đó cũng đủ cho
tôi cồn cào ray rứt về một thời của quá khứ, về tuổi trẻ bất hạnh và cả chuỗi
ngày cuối đời lận đận lao đao của mình.
Nó như vẫn còn đọng lại bền vững trong tôi luôn. Mới hay
kỷ niệm thời son trẻ bao giờ cũng được khắc ghi đậm đà sâu thẳm trong ngõ ngách
của miền ký ức là vậy.
Quê hương tôi đó. Chập chờn. Lãng đãng. Bất diệt.
Quê hương tôi đó với miếng nhớ miếng thương, miếng tình
miếng nghĩa.
Miếng nhớ quê cha,
quê mẹ, quê nhà, nơi ruộng đồng cò bay thẳng cánh, thổ sản hải sản dư thừa, hoa
quả thơm ngon ngọt lịm, tôm cá đủ loại hằng hà sa số trên sông rạch thiên nhiên
ngày mùa, kinh đào đan quyện khắp nơi. Ngần ấy đủ nuôi sống người dân và tạo
cho họ một cuộc sống hạnh phúc.
Quê hương tôi đó
với tình lâng bang lối xóm lúc nào cũng thể hiện tròn đầy, láng lai chân thật
qua phong cách hiếu khách được thăng hoa. Không bao giờ thắc mắc lo lắng về
những tốn kém hay thiệt hại vật chất.
Do vậy, miếng nhớ
miếng thương non sông xứ sở giàu đẹp, hữu tình cứ mãi ngăn ngắt trong tôi.
Ông bà xưa thường nói:
Chí quân tử cửu châu lập nghiệp
Đại trượng phu tứ hải vi gia.
Phong cách sống của người xưa quả vời vợi trong sáng.
Nhưng tôi vốn không phải là bực quân tử. Cũng không phải
là hàng trượng phu. Tôi chỉ là kẻ phàm phu tục tử, lục lục thường tình, chân
quê chí nghĩa. Tôi gắn bó với quê hương tôi cục bộ và hẹp hòi chăng?
Bỗng dưng tôi lại bâng quơ buồn cho vận nước vẫn còn
nghiêng ngữa khổ nghèo trong kiếp trầm luân miên mang do một chế độ vô thần cai
trị dân bằng súng đạn và hận thù. Trong khi cả thế giới đã tiến nhanh vạn dặm
theo với đà kỹ thuật tân tiến phục vụ nhân sinh, tôn trọng dân chủ nhân quyền.
Miếng nhớ miếng thương nơi xứ sở phát triển dư thừa đã
dẫn dắt tôi luôn trở về với quê cha đất tổ, cội nguồn cách ngăn diệu viễn đã
đành nhưng cũng đặt tôi trước một cảnh ngộ éo le bồn chồn, một thực tế đau xót
phũ phàng. Xứ sở tôi hãy còn quá nghèo khổ áp bức. Người dân mất tất cả tự do
và quyền làm người. Nạn tham nhũng có hệ thống đã đẩy đất nước tôi đến cạn kiệt
đói nghèo.
Chăn nuôi trì trệ.
Sản xuất què quặt, không đủ cung ứng cho những nhu cầu chánh đáng hằng ngày của
bà con tôi. Ngày nay họ vẫn còn bữa đói bữa no lưng lững bụng, nhứt là nơi thôn
quê hẻo lánh triền miên bất hạnh như nơi thôn làng chôn nhau cắt rún của tôi!
Bà con tôi vẫn còn mơ ước ở những bữa cơm chiều sau một
ngày làm việc lao nhọc được điểm thêm một ít miếng thịt gà bắt cơm ngon miệng.
Niềm mơ ước đó tưởng chừng như ở tầm tay mọi người vốn cần cù, hăng say làm
việc, thách thức thời tiết gió mưa. Niềm mơ ước đó được xem như biểu tượng sự
giàu sang thịnh vượng của đất nước tôi, nhưng buồn thay nó vẫn chập chờn mù mờ
sau hơn hai mươi mấy năm hòa bình thống nhất đất nước.
Trong thực tế, đất
nước quả tình thống nhứt từ Nam chí Bắc, từ ải Nam Quan nay đã vào tay bọn
cường quyền phương Bắc cho chí đến Cà Mau cuối mũi quê hương nhưng vẫn không
bao giờ và chẳng bao giờ thống nhứt được trên phương diện tâm tư tình cảm và ý
hướng xây dựng một nước Việt Nam dân chủ hòa bình, tự do và hạnh phúc. Chỉ vì
do chánh sách bạo tàn, độc tài độc đảng xã hội chũ nghĩa.
Hai mươi mấy năm hơn trong cay đắng tủi hờn, dây dưa lặn
hụp dưới chế độ nghiệt ngã xã hội chủ nghĩa.
Hai mươi mấy năm
hơn đã đưa bà con tôi xuống hố thẳm xô bồ của bần cùng và đất nước tôi đi vào
ngỏ cụt nghèo đói ngột ngạt, mất hẳn tự do.
Một thảm họa trong
lịch sử dựng nước và giữ nước chưa từng thấy bao giờ.
Tôi thẫn thờ hồi nhớ con ếch bà đổ ruột lòi gan, con lươn
miệng đầy móc câu rĩ xám, con gà chạy xởn xơ mổ lúa đổ trong sân lúa, ngoài
vườn. Tôi nhớ xóm Rạch Rít.
Tôi nhớ quê hương
tôi. Quê hương ngăn cách bàng bạc qua những hình ảnh khắc sâu tuyệt vời đó.
Những hình ảnh này đã có một ma lực
lôi cuốn, vỗ về và an ủi tôi hơn lúc nào hết. Hình ảnh một mất mát lớn lao
trong đời, một tiếc nuối lai láng không nguôi.
Nhưng chính đó cũng là một sức mạnh Phù Đổng chấp đôi
cánh giang rộng giúp tôi nhận rõ và hành động theo hướng đi của con người Việt
Nam tỵ nạn cộng sản, có nhiệt tâm và có trách nhiệm.
Võ Phước
Hiếu
No comments:
Post a Comment