sưu tập
NHỮNG CON CÁO ĐỎ
74. CÁO TINH VÀ CỌP QUỶ
75.LỰC LƯỢNG NGHĨA QUÂN
76. ÔNG ĐẠO VÀ ĐÀN CÁO
77. ĐÀN CÁO ĐỎ VÀ DÂN LÀNG
78. QUÂN CỜ ĐỎ
79.ÂN TÌNH CÁO ĐỎ
80. LƯƠNG PHU NHÂN
81. LỤC ĐẠO NHÂN
73. QUAN GIÁO THỤ & BANG HỒ LY
Lê cử nhân có tài văn chương thi phú lại chuyên trị về Dịch kinh nên được mời làm quan giáo thụ trường Quốc Tử giám kinh đô. Đây là nơi đào tạo tiến sĩ, là chốn tụ hội của tinh hoa văn học nghệ thuật của đất nước. Lê giáo thụ bây giờ cũng có tài ngoại giao rộng rãi nên quen biết khá nhiều nhân vật triều đình. Quan đã vào ra xướng họa với Đào hoa vương là một thi nhân nổi tiếng thơ hay và có quyền uy trong triều đình.
Quan cũng có học trò học ở trường Quốc tử giám, con quan thượng thư. Cậu Cả học hành không ra gì nhưng nhờ thế cha ông mà vào trường Giám. Cậu và cha cậu không mong gì tiến sĩ, được mang danh là giám sinh cũng đủ vinh dự. Cậu ăn chơi khét tiếng. Cậu quen nhiều đào nương và kỹ nữ. Bang hồ ly biết cậu say mê nữ sắc cho nên cài cho cậu gặp rồi say mê một Hồ ly tinh. Từ hồ ly tinh này, tổ chức móc nối cho một số Hồ ly tinh gặp một số quan lại trong triều. Trước bóng sắc kiều diễm của các Hồ Ly, các quan, trong đó có quan Giáo thọ họ Lê đều say sưa mê mẩn.
Lúc bấy giờ quan đã có một vợ và hai con. Bang Hồ ly cố ý tung tin ra để quan bà nổi cơn tam bành lên rồi chửi mắng quan. Quan tức giận đánh quan bà một trận, và đuổi bà về với mẹ đẻ. Bang Hồ ly thành công, càng ngày cho Hồ Ly đến nhà săn sóc, nấu nướng cho quan.
Lúc bấy giờ dân Tề chạy sang Sở nhiếu lắm. Em trai quan bà làm lớn ở Sở nên bà xin theo sang Sở.Thế là từ nay, Hồ Ly hoàn toàn chiếm hữu quan ông. Sở dĩ có việc này là do bang Hồ Ly lãnh đạo. Họ có hai mục đích. Một là thám thính tình hình trong cung, hai là tổ chức đường giây mua bán vàng và minh châư. Đường giây mua bán này trên là do các Hồ ly tinh đứng đầu, sau là các tay đánh xe hay hầu cận tiếp tay. Các nương nương hay công chúa muốn mua vàng ngọc thì họ đưa vào. Họ cũng tổ chức các việc lấy trộm châu báu trong cung đưa ra để bán ra nước ngoài. Còn các quan quả tình không biết gì cả.
Khi các quan vào trong nội vui chơi thì các Hồ ly dưới vai các cung nữ, thị tỳ ra vui đùa với những anh đánh xe hay cậu tiểu đồng. Họ lén bỏ vào xe hay giao cho các anh đánh xe hay hầu cận mang đồ vật về cho các quan bà.
Hai ba năm trôi qua, Hồ Ly trở thành quan bà, và công việc mua bán ngọc đã phát triển tốt đẹp.Một ngày kia, quan đến nhà Đại Thành vương chơi cờ, lúc ra về thì bị Thị vệ ngăn lại và đòi lục soát. Họ lục soát xe và quần áo của quan thì tìm ra được một xâu chuỗi ngọc quý. Họ bắt quan và đưa vào Hình Bộ giam giữ và điều tra. Quan khai là quan không biết gì cả. Quan Hình Bộ ra lệnh bắt quan bà và người thị nữ trong dinh Đại Thành Vương nhưng khi thị vệ vào tìm bắt thì bọn họ tất cả đều biến hết. Cuộc điều tra cho biết trong cung đã mất nhiều đồ vật quý giá. Các vương phi, hoàng hậu, công chúa liên tiếp bị mất đồ nhưng không biết ai là thủ phạm. Bạch công công được giao cho nhiệm vụ điều tra bí mật. Do đó, họ biết đuợc quan giáo thụ là một chốt quan trọng trong đường giây ăn cắp này. Trên cao là một Hồ Ly già giả dạng Hoàng Hậu, Thái hậu ra vào cung cấm lấy đồ quý. Sau đó giao cho một số quan vào cung cấm mang ra. Các Hồ Ly không dám mang ra vì các nơi bên ngoài thường có chó săn canh gác. Quan vô tình phạm tội ăn cắp, bị Hình bộ thượng thư tuyên án chém đầu.
74. CÁO TINH VÀ CỌP QUỶ
Họ Nguyễn đất Nghệ An có con trai lớn đỗ cử nhân được triều đình bổ vào làm quan huyện ở Bình Định nhưng đã năm năm không gửi thư về. Ông lo lắng không biết làm sao. Ông muốn vào Bình Định tìm con nhưng đường sá xa xôi, hiểm trở mà ông già yếu lại không có tiền đi đường.
Một hôm có Lâm sinh là người cháu về bên ngoại ở tận Bắc Ninh đi qua vùng này bèn ghé thăm ông. Ông kể chuyện về người con trai của ông làm quan ở Bình Định mà năm năm không gửi thư về. Người cháu họ này vốn là một tay đồng thiếp (tức là thầy phù thủy làm phép dẫn hồn người xuống âm phủ tìm thân nhân). Người cháu tỏ ý muốn đưa ông tham quan âm phủ một phen. Ông chỉ cười mà không trả lời vì ông không tin chuyện ma quỷ, cúng bái, cầu hồn, gọi ma...
Người cháu cũng chẳng nói gì. Đêm đó, ông Nguyễn nằm ngủ bỗng thấy mình đi dạo vào một nơi xa lạ, cảnh vật tối tăm. Ông thấy một tòa thành to lớn, cờ xí tung bay, quân lính trong ngoài canh gác nghiêm ngặt. Bỗng nhiên, một đoàn quan binh cưỡi ngựa đi đến, thấy Nguyễn lão là người lạ liền bắt về đồn Quỷ Sứ hỏi giấy tờ và bắt kê khai lý lịch. Họ bắt ông khai lý lịch bốn năm lần. Sau cùng họ đưa ông vào gặp Đại quan. Đại quan hỏi ông đi đâu. Ông khai là ông đi chơi.
-Lao động là vinh quang, tại sao mi không vào Hợp Tác xã làm việc lại đi lang thang như vậy? Mi có giấy đi đường không?
-Thưa không
-Vậy mi là phản động. Cho đi học tập cải tạo.
Thế là Nguyễn ông bị bắt giam.
Người cháu của ông còn lưu lại ở nhà ông, thấy ông nằm thiếp hai ngày thì biết có biến cố. Anh ta là người đi về thông thạo hai cõi âm dương, nhất là anh ta rất rành nghệ thuật sống ở Thiên Đàng Đỏ. Vì vậy, anh ta liền lập đàn tế lễ, đốt ba trăm lạng vàng cho Đại quan để xin Đại quan ký giấy "tạm tha" cho Nguyễn ông. Nguyễn ông được ký giấy "tạm tha" chứ chưa có giấy tha. Sau khi được giấy tha thì mới có hy vọng được giấy "tạm thả", rồi sau đó là "giấy "thả", mới có thể về nhà. Được giấy tha (1), Nguyễn ông bèn ra khỏi đồn Quỷ sứ, đi lang thang với một tên Quỷ nhỏ . Tên Quỷ nhỏ này được ông mời ăn uống no say. Nó chỉ đường cho ông vào các quán bia và nơi tắm hơi. Chơi chán chê, Quỷ nhỏ dẫn ông vào một nơi khác, là một nha môn khá to, có lính canh gác nghiêm nhặt. Thấy quỷ nhỏ đi theo nên quỷ sứ cho Nguyễn ông đi vào.
Quỷ nhỏ bảo ông:
-Cháu ông công tác nơi đây.
Ông ngạc nhiên, không biết cháu ông là đứa nào. Ông ngần ngại, không muốn vào, Quỷ nhỏ cứ đẩy ông vào. Ông vào thì gặp thằng cháu ông thật. Nó là con của ông anh đã chết vào thời Hoàng Ngũ Phúc đánh phá kinh thành Huế. Lúc đó nó làm đội trưởng ngự lâm quân xung trận mà chết, được phong thần. Nay thì làm huyện lệnh ở dưới này.
Gặp nó xong, Quỷ nhỏ dẫn ông ra.Nó lại bảo:
-Đây là cơ quan của Công tử nhà ông, ông vào thăm cho biết.
Nguyễn ông mạnh dạn bước vào thì thấy trong ngoài toàn là Sói và Cáo. Và khắp nơi toàn là xương người chất thành đống. Giữa đường là một con Cáo đỏ rất lớn nằm chắn ngang đường, trên lưng mang thùng tiền có đề bốn chữ " xuất nhập bình an", " nhất bản vạn lợi". Bọn này thấy ông và Quỷ nhỏ bước vào thì không xét hỏi giấy tờ, cứ để cho hai người bước vào.
-Bắt người làm gì?
Con ông trả lời:
-Bọn chúng đem vào bếp để đãi tiệc.
Ông bèn ngăn lại rồi định bỏ ra về nhưng ông không thể bước đi vì bầy sói đã ngăn lối ông. Ông tức giận chưa biết làm thế nào thì bỗng nhiên mấy tiếng chuông gióng lên, bầy sói và cáo bỏ chạy. Bên ngoài một đoàn vệ binh áo vàng bước vào quăng dây trói con ông lại. Con ông ngã xuống biến thành con hổ xám. Quan binh cầm gươm giáo mà đâm con ông . Sau họ lại còn đem nướng trên than đỏ. Con ông khóc rống lên thảm thiết. Tiếng cọp kêu rống khiến ông tỉnh dậy, và biết mình nằm mộng.
Tỉnh dậy, ông bèn kể các việc cho cháu nghe. Lâm sinh thở dài mà bảo rằng:
- Cháu đã xuống âm ty điều tra dùm bác. Anh ấy làm tri huyện rồi ăn hối lộ cho nên dân Bình Định là thứ dữ, họ đã giết anh và vợ con ném xuống sông. Xuống âm phủ, anh lại cướp của, giết người. Anh ấy tích cực phấn đấu cho đạt nhiều thành tích mà vào " tỉnh quỷ" rồi vào " quốc quỷ"(2). Nay anh ấy đền tội rồi. Bác cũng đừng buồn!
____
(1). Tục lệ Âm phủ lúc đó rất phức tạp. Trong âm phủ, có nhiều nơi luật lệ khác nhau .Luật lệ cõi này kẻ bị tù thì gọi là được học hành, nhà tù thì gọi là trường học Thiên Đàng chủ nghĩa. Tha và thả là hai từ khác nhau, và cấp bậc cũng khác nhau.Các xứ khác, tha và thả giống nhau nhưng ở đây rất đặc biệt. Được tha nhưng có thể chưa được thả. Tha nghĩa là tha tội, không còn học tập , không bị coi là sinh viên, học sinh nữa. Tạm tha thì ở trong trại, tha thì được ra ngoài trại nhưng đi đâu cũng có người đi theo dắt lối, chỉ đường y như hướng dẫn viên du lịch. Tạm thả thì được về nhà nhưng mỗi tháng phải trình diện địa phương, ba tháng phải vào trường cũ trình diện và nộp học phí. Thả thì được về luôn nhưng cứ hai tháng phải trình diện địa phương.
(2). Tỉnh quỷ, quốc quỷ: Đời sau viết sai hoặc đổi mới, người ta gọi Tỉnh quỷ là tỉnh ủy, còn quốc quỷ thì gọi là ủy viên trung ương.
Ninh Bình ngày xưa là cố đô của Việt Nam vào đời Đinh Tiên hoàng. Vì vậy, nơi đây có nhiều bậc thế gia vọng tộc. Từ sinh vốn thuộc giòng cố gia, mẹ mất sớm, cha lấy vợ kế. Mẹ kế chỉ yêu con riêng của bà mà đày đọa sinh. Các em của ông, được mẹ cưng chiều cũng sinh ra hỗn láo và coi khinh anh. Sống trong khung cảnh như vậy, sinh cũng cố gắng học tập. Người ta bảo học tài thi phận quả là đúng. Sinh học giỏi nhưng thi cử bao phen mà chỉ đậu tú tài. Chán nản đường thi cử, sinh xin đi làm thư lại. Kết cuộc, sinh cũng làm được thư lại ở huyện trong tỉnh.
Làm việc ở huyện ít lâu, sinh cũng chán nản, vì thấy quan lại tham ô, nhũng lạm trong khi dân chúng đói khổ. Chính bản thân sinh làm nha lại lương cũng thiếu trước hụt sau trong khi giá gạo, cá ngày càng gia tăng. Nghe đồn đền Ngọc Đế trong núi có Thanh Hư đạo trưởng từ phương xa đến lập đạo quán, kinh điển tinh thông, đạo hạnh vô song, pháp thuật cao cường, sinh bèn tìm đến xin làm đệ tử. Gặp đạo sư, nghe đạo sư thuyết giảng về vô vi, vô tranh, Trang Chu hồ điệp thì sinh thích chí xin từ việc quan ở lại đạo quán tu hành.
Đạo trưởng nghe lời cầu xin thì lòng khấp khởi mừng thầm. Từ trước, trong đạo quán chỉ có hai đứa tiểu đồng ngu ngốc phục vụ. Nay lại có một thư lại tú tài tới làm nô bộc thì danh tiếng ông hẳn lên mây xanh. Sinh được đạo trưởng cho ở một thư phòng. Công việc của sinh là thay mặt đạo trưởng tiếp khách và coi sổ sách và thư viện của đạo quán..
Nói xong, bà già và hai tỳ nữ cầm đèn bỏ đi.
Sinh nhìn cô gái, thấy lộng lẫy như tiên, trong lòng rất thích nhưng thẹn mình xấu xí, không thể cất lời suồng sã. Cô gái cười nói mà nói:"-Chàng xưa nay chưa hề gần đàn bà hay sao mà lại e lệ như thế?
Nói xong nàng ôm chàng. Cả hai vui vẻ với nhau đến sáng thì hai cô thị tỳ lại đến dẫn nàng về.Khi nàng ra về, nàng hứa hẹn tối nay lại đến.Tối hôm sau quả nhiên cô gái lại tới, cười nói: "Anh chàng ngây ngô này mà lại có cô vợ xinh đẹp, không biết đã tu hành bao nhiêu kiếp?
Sinh vui cười bày cuộc rưọu trong phòng để cả hai cùng uống, suốt đêm say rượu và say tình. Có lúc hai người ôm nhau nằm ngủ đến sáng. Có lúc, hai bên sau cuộc vui còn thức, nàng hỏi thân thế chàng, học vấn chàng.
Nàng hỏi:
-Chàng thích dạy học hay làm quan?
-Chàng thích nhà giàu hay nhà nghèo?
-Chàng thích công nhân hay nông dân?
-Chàng nghĩ gì về xã hội hiện nay?
-Chàng mơ ước gì về tương lai nhân loại?
Chàng bèn thành thực kể sơ cuộc đời của chàng và tâm tư, tình cảm của chàng cho nàng nghe.
-Gia đình thiếp phải chuyển đi nơi khác vì phụ thân thiếp được lệnh vào Nghệ An chống giặc.Tình duyên đôi ta giang dở, xin hẹn còn ngày gặp lại nhau. Xin chàng đừng buồn. Số chàng là số đào hoa, sau này sẽ gặp giai nhân khác, xin đừng quên thiếp.Nói xong, nàng khóc, từ biệt mà đi.
Từ hôm đó, đêm nào chàng cũng tưởng nhớ nàng, và chàng chỉ biết dùng rượu để phá thành sầu.Một hôm,vừa uống rượu, vừa đang giở sách ra đọc, bỗng một cô gái đứng ngoài song cửa nhìn vào mà khen:
- Chàng chăm học quá!
Sinh tự nghĩ ở chốn núi sâu làm gì có con gái. Chắc là ma hoặc Hồ ly. Còn đang nghi ngại, cô gái kia đã đẩy cửa bước vào cười bảo:
- Sao chàng không ngước lên nhìn thiếp?
Sinh sửng sốt đứng dậy, nhìn xem thì thấy một nàng áo xanh, váy dài, mềm mại xinh xắn không ai sánh được. Sinh cố vặn hỏi quê quán, tên tuổi. Nàng đáp:
- Chàng đâu phải nha sai mà tra hỏi kỹ lưỡng thế?
Nàng xưng là Thanh Hương, nhà trong núi, đi qua đây thấy đèn sáng nên vào chơi.
Sinh đã lâu không gần đàn bà, vài thấy nàng mỹ miều, bèn ôm nàng hôn và ngủ chung. Sau cuộc vui, một hôm, sinh hỏi nàng:
-Tại sao nàng dám trêu ghẹo ta? Nàng không sợ ta chăng?
Nàng đáp:-
- Hồ ly không sợ người mà sợ Hồ Ly. Người cũng không sợ Hồ Ly mà nên sợ ngườì.
Sinh hỏi:
-Nàng là yêu hồ mà không sợ Thái Thượng Lão quân sao mà dám đến đây?
-Giống Hồ chúng em sợ Thái thượng Lão quân nhưng Ngài ở trên trời chứ có ở đâu đây mà sợ!
- Thanh Hư đạo trưởng pháp thuật cao siêu mà nàng không sợ sao?
-Ối dào! Chúng nó toàn là một lũ ăn cướp đội lốt thầy tu! Chàng không tin thì ra sau núi, trong một hang động phía đông toàn là đàn bà con gái. Còn bên động phía Tây là kho vàng bạc do chúng ăn trộm, ăn cướp về. Ở đời này rất hiếm chân tu, đa số đi tu mà lòng trần chưa dứt. Thiếp chỉ nhổ một sợi lông, ném vào mặt lũ áo đen, áo vàng, áo đỏ, áo xám. . . là chúng mê man ngay!
Vài hôm sau, nhân đạo trưởng vân du miền xa, sinh ra sau núi, thì khám phá ra động đàn bà và động châu báu đúng như lời Thanh Hương chỉ báỏ. Tuy nhiên, sinh vẫn im lặng làm như không biết gì cả. Một hôm, sinh hỏi đạo trưởng rằng người tu hành có nên gần nữ sắc hay không.
Đạo trưởng đáp:- Phải diệt dục, phải giữ giới mới có định! Có định mới có tuệ! Người tu hành là bậc thánh, hy sinh hạnh phúc của riêng mình để mong đạt lý tưởng cao siêu là lên Thiên Đàng nước Chúa hoặc Niết Bàn của Phật Quốc hoặc phục vụ nhân dân!
Sinh lại hỏi:-Người tu hành có nên dùng tiền bạc không?
Đạo trưởng xua tay mà đáp:
-Không! Không! Đã đi tu là phải diệt dục. Người tu hành không được cầm tiền bạc. Luật Thánh đã quy định như vậy. Đi tu là hiến thân cho Thượng Đế, chỉ cầu Thiên Đàng Cực Lạc, chứ không cầu vinh hoa phú quý của thế gian. Người tu hành chỉ lo làm việc Chúa, việc Phật, ăn thì có nhân dân lo, Thượng Đế lo, sống tập thể, không tư hữu, không vợ con thì cần gì tiền bạc! Trên nước Thiên Đàng, vàng bạc, kim cương chỉ dùng để lót cầu tiêu!
Sinh nghe mà khâm phục ông đạo này rất gian và rất khôn ngoan, mồm miệng lanh lợi trơn tru như bôi mỡ. Chẳng trách nhiều kẻ xưng tụng là thánh là thần.
Năm sau, khi hai bên ân ái mặn nồng, nàng bảo:
- Thiếp là người của Hồ Thánh Quân biệt phái về vùng này thay cho Bạch Nga. Hiện nay thế đạo suy đồi, phong tục hủ lậu, vua quan áp chế, nhân dân đói khổ. Khắp nơi nghĩa quân đã nổi dậy làm cách mạng. Trong các đám nghĩa binh, chỉ có lực lượng cách mạng của Hồ Đại Thánh là mạnh nhất , được nhân dân trong nước và thế giới ủng hộ. Hồ Đại Thánh đã đi chu du năm châu bốn biển, pháp thuật cao siêu, tài năng cao thâm, anh minh đạo đức. Anh nên vào chiến khu hoạt động cách mạng.
Sinh nghĩ mình từ nhỏ đã bị đời hành hạ, lớn lên gặp cảnh nhà nghèo, không tiền hối lộ cho nên học hành lận đận, ra làm việc quan cũng không tiền đút lót cho nên phải việc nơi rừng núi xa xôi, nghèo đói. Chàng đã thấy xã hội bất công, thối nát. Trong làng thì lý tổng bòn rút. Nơi phủ huyện thì quan và sai nha đều là quạ diều. Sinh đã bao lâu nuôi mộng đội đá vá trời, thế thiên hành đạo. Nay nghe mỹ nhân khích lệ, chàng bèn hăng hái nhận lời. Tháng sau thì chàng giã từ đạo quán mà vào chiến khu.
Tại đây, sinh được đưa vào trường huấn luyện. Mỗi tháng, chàng phải làm bản khai lý lịch và bản kiểm điểm. Sinh và đồng bọn được phát mỗi người một quyển " Kách Mệnh Bí Kiếp". Nói nôm na ra là " Sổ Tay Kách Mệnh". Trong đó có nhiều chương.
Các chương đầu nói về lý thuyết "Kách Mệnh", gồm các điểm phê phán xã hội vua quan thối nát, bất công giàu nghèo, giai cấp vô sản bị bóc lột và mất tự do, dân chủ.
Chương hai nói về chủ trương "Kách Mệnh".Chương này gồm có nhiều tiết. Tiết đầu nói về việc quan trọng là phân biệt bạn thù. Tiết thứ hai nói về cải tạo xã hội. Đường lối là giết sạch giai cấp thống trị và bóc lột. Tiết ba nói về giết. Muốn Kách Mệnh thắng lợi phải giết nhiều quân thù. Phải giết thật nhiều, giết cho hết. Ai không theo mình tức là kẻ thù. Giết không cần bằng chứng. Giết người một cách quyết liệt, không nhân nhượng dù là cha mẹ, anh em. Ai giết nhiều thì được triều đình tín nhiệm, giao cho chức trọng quyền cao.
Ngoài giết người, cách mạng còn chủ trương phải nói dối, phải tuyên truyền.Trong thời gian ở trường huấn luyện, sinh nhận ra rằng các trại sinh, các tân binh đều là thanh niên đã được các nữ hồ ly dụ dỗ vào chiến khu, trong đó có chàng. Hồ ly đã dùng sắc đẹp và mê dược làm cho con người quên mẹ, quên cha, quên chánh nghĩa, chỉ biết vâng lệnh cờ đỏ mà tiến tới. Hồ Đại Thánh là một người khôn ngoan. Tất cả nam hồ thì vào quân đội chiến đấu, còn nữ thì công tác dân vận, địch vận, ẩn trong các chợ búa, quán ăn, nhà trọ, chùa chiền, trường học.
Một số các quan lại, các thầy giáo, các viên chức, các sư sãi, đạo sĩ, linh mục đều bị đám nữ Hồ ly mê hoặc cho nên phải cúi đầu tuân lệnh. Nếu ai không tuân lệnh, họ sẽ giết hoặc làm cho thân bại danh liệt. Thanh Hư đạo trưởng ở miếu Ngọc Đế tại Ninh Bình cũng chỉ là một tay sai của cách mạng Hồ ly .
Sau mấy tháng học quyền cước, đao kiếm và cung tên, sinh được đưa ra mặt trận chống quân đội triều đình. Vì lập được nhiều công trạng, sinh được đưa về mật khu để bảo vệ trung ương Khu. Vì có tú tài, sinh được giao nhiệm vụ sổ sách. Ngày đến làm việc, tối thì về trại binh ở gần đó. Sinh lửng thửng đi sâu vào mật khu mới biết triều đình mạnh mẽ và giàu sang vô kể.
Trong mật khu mà rượu, thịt, vàng bạc, lụa là ê hề, quân lính và tôi tớ cả mấy chục ngàn người chỉ để phục vụ cho vài chục người cao cả. Và ở trong khu, sinh mới biết cuộc sống thực nơi đây. Binh sĩ chỉ ăn cơm độn khoai sắn với muối. Trong trung ương khu, các quan ngày nào cũng yến tiệc. Họ có nhà riêng, lầu các sang trọng dù là bằng gỗ. Sàn gỗ trải thảm của xứ Ba Tư, Ấn Độ. Rượu đủ hạng của Trung Quốc, Anh Cát Lợi, Bồ Đào Nha. . .Đại quan ăn riêng, mỗi người có đầu bếp, lính đánh xe, quân hộ vệ. Chiều hay tối đều có mỹ nữ đấm bóp, rửa chân và hầu hạ.
Một hôm, buồn tình, sinh vào kho rượu, lấy một chai ra uống. Uống quá say, sinh nằm ngủ quên trong kho. Tỉnh dậy thì đã nửa đêm. Sinh biết mình đã phạm luật triều đình vì luật cấm các nhân viên không phận sự không được ở lại cơ quan sau buổi chiều tan sở. Ai vi phạm sẽ bị coi là gián điệp và bị xử tử.
Quá nửa đêm, sinh nghe bước chân dồn dập từ xa đi tới. Té ra trung ương Khu mở cuộc họp bí mật trong kho hàng. Ngồi trên cao là Hồ lão làm chủ tọa. Dưới chia ra hai hàng, nam hồ và nữ hồ. Sinh thấy Bạch Nga và Thanh Hương của chàng ngồi gần Hồ lão chủ tịch đoàn. Hồ lão tuyên bố hay mặt Hồ Đại Thánh truyền lệnh cho các đệ tử:
Nay, ngày tổng phản công sắp đến. Để giành phần thắng lợi, triều đình đưa ra hai kế sách căn cứ trên tinh thần đấu tranh chủng tộc.
-Một:Phải huy động tất cả cán bộ, quân đội gốc loài người phải ra trận tiền để mượn tay người giết người!
-Hai:Những ai còn sống sót, triều đình sẽ kết tội nặng, giết, bỏ tù hoặc làm cho thân bại danh liệt rồi sa thải ra khỏi các tổ chức triều đình.
Các cơ quan, bộ viện, các chỉ huy quân đội cách mệnh phải thì hành mệnh lệnh này kể từ ngày rằm tháng sau!
Sinh nghe xong sợ hãi. Chàng nằm im cho đến hôm sau thì bò ra khỏi khu trung ương Chàng bèn ra bờ sông, bỏ lại áo quần, giày dép, khăn, nón giả như ra tắm sông chết đuối rồi trốn về quê cũ. Chàng bán nhà cửa, ruộng vườn ở quê nhà mà ra thành thị, mua một cái nhà nhỏ, mở lớp học dạy trẻ đồng ấu, còn mẹ và vợ thì xuất vốn mở cửa hàng buôn bán lẻ mà sống qua ngày! Ngoài việc dạy học, chàng không giao thiệp với ai. Và từ đó chàng không còn hận đời, nuôi mộng cải tạo xã hội, thế giới đại đồng nữa!
Trong vùng có tên vô lại đem rượu tới xin truyền phép cho, nhưng đạo nhân không chịu. Đạo nhân nói rằng phép tiên chỉ truyền cho người hiền, không truyền cho kẻ ác. Gặp lúc đạo nhân tắm sông, y tới vơ hết quần áo để bắt ép. Đạo nhân chắp tay vái, nói "Xin trả lại áo quần, ta rất tiếc là không thể truyền pháp thuật cho người vì tổ sư không cho phép."
Tên vô lại không chịu đưa trả. Đạo nhân hỏi “Thật không chịu trả phải không?”
Y đáp “Đúng thế!". Đạo nhân im lặng không nói gì nữa. Tên vô lại chợt thấy chiếc dây lưng màu vàng biến thành con rắn to vài gang tay, quấn quanh sáu bảy vòng, trừng mắt cất đầu thè lưỡi nhìn y. Y hoảng sợ ngã khuỵu xuống đất, tái mặt đứt hơi xin tha mạng. Đạo nhân cầm lấy thì chiếc thắt lưng mà đi. Vì thế đạo nhân càng nổi tiếng, các nhà quyền quý nghe chuyện lạ đều mời mọc giao du.
Từ đó đạo nhân thường qua lại nhà các bậc tai mắt, quan lại trong hạt nghe danh, mỗi khi hội họp yến tiệc cũng mời đi cùng. Một hôm, đạo nhân mời các quan ăn tiệc ở thủy đình để đáp lễ. Đến ngày hẹn, người nào cũng nhận được thư mời đặt trên bàn, nhưng không biết từ đâu tới. Khách khứa tới nơi hẹn, đạo nhân cung kính ra đón, nhưng vào trong, thấy thủy đình trống không vắng vẻ, bàn ghế cũng chưa kê, có người ngờ là dối trá. Đạo nhân nói với các quan rằng "Bần đạo không có người hầu, xin các ông cho mượn vài vị tùy tùng giúp đỡ chút việc." Các quan đều ưng thuận.
Đạo nhân vẽ hai cánh cửa lên vách rồi lấy tay gõ bên trong có tiếng người đáp, bèn mở then nâng cửa lên. Mọi người chen lên nhìn ngó, thấy bên trong nườm nượp người đi lại, ghế bàn màn trướng đều đầy đủ, kế có người chuyển tất cả ra ngoài cửa. Đạo nhân sai bọn người hầu của các quan đón lấy bày ra trong đình, lại dặn đừng nói chuyện với những người bên trong, bên trao bên nhận, chỉ nhìn nhau cười mà thôi. Giây lát mọi thứ bày ra khắp đình, vô cùng xa hoa lộng lẫy.
Kế đó là rượu ngon thơm phức, chả nướng nóng bỏng đều từ trong vách đưa ra, khách không ai không ngạc nhiên hoảng sợ. Ngôi thủy đình vốn kề bên hồ, cứ đến tháng sáu hàng năm thì hoa sen trải khắp vài mươi khoảnh, nhìn không thấy bờ. Nhưng bấy giờ đang giữa mùa đông, ngoài cửa sổ chỉ có khói xanh mịt mờ. Một viên quan chợt thở dài nói: "Hôm nay vui vẻ thế này, mà tiếc là không có hoa sen tô điểm?"Mọi người cùng ồ lên tán đồng. Giây lát một người hầu chạy vào bẩm lá sen đã mọc đầy hồ rồi. Cả tiệc đều kinh ngạc, đẩy cửa sổ nhìn, quả thấy màu xanh ngút mắt, trong có những nụ sen chen lẫn. Trong chớp mắt, muôn cành ngàn đóa nhất tề nở rộ, gió bấc thổi tới, hương sen thấm vào tới tận tim óc, mọi người đều lấy làm lạ lùng.
Quan Quan sát sứ An Giang thích lắm, đưa đạo sĩ về dinh, hàng ngày trò chuyện vui chơi với nhau. Một hôm, quan cùng khách uống rượu. Quan vốn có thứ rượu ngon gia truyền, mỗi lần chỉ lấy ra một đấu. Hôm ấy khách uống thấy ngon, nài nỉ dốc vò uống cho hết, quan nhất định không nghe, chối từ là hết rồi. Đạo nhân cười nói với khách "Các ông muốn uống cho đã thèm, cứ hỏi bần đạo là được". Khách xin đưa ra. Đạo nhân cầm cái bầu bỏ vào tay áo, giây lát lấy ra rót cho tất cả khách khứa, so với rượu của quan thì không có gì khác. Từ đó, danh tiếng của đạo nhân vang lừng khắp nơi. Quan trở vào thì thấy còn giấu niêm phong nhưng rượu trong bình thì cạn sạch. Quan rất căm giận đạo sĩ.
Đạo nhân cũng giỏi pháp thuật, thường cầu hồn, gọi đồng thiếp. Trong vùng, có Lưu sinh một hôm nằm chết ba ngày. Tỉnh dậy, sinh nói xuống âm ty có gặp ông đạo. Ông làm nhiều việc dưới đó. Lúc thì ngồi ghế Biện Lý, Thẩm phán xét án; lúc thì ngồi ghế luật sư biện hộ cho thân chủ. Cũng có khi ông làm người lo lót, giải cứu các người bị quỷ sứ bắt giam.
Trong vùng có Lý Mao là một nho sinh cương trực. Sinh thường chỉ trích mọi nhân vật đương thời. Sinh bảo:
Một vũng nước trong,
Mười dòng nước đục,
Một trăm người tục,
Mới được một người thanh!
Thời này ma quỷ hiện hình,
Chẳng phải Chồn, Cáo cũng yêu tinh lộng hành!
Biết ai là kẻ hiền lành ?
Sinh cũng có bài thơ khác ngụ ý khinh thế ngạo vật:
Thời này hiếm kẻ chân tu,
Chẳng qua một lũ "bú dù" mà thôi!
Chúng giả ông đạo,
Chúng đội lốt đức cha,
Chúng mang danh Sư Bà
Toàn quân nói láo!
Toàn lũ giặc Cáo
Trong vùng Thất Sơn, Châu Đốc có nhiều rừng núi, có nhiều hang chồn. Bọn này đã thành tinh, pháp thuật nhiệm màu. Bọn chúng rất ghét Lý Mao.
Một hôm Lý sinh ngồi đọc sách, chợt thấy một cô gái thò tay vào dằng sách sinh. Sinh chẳng nói gì, bèn quay sang đánh đàn. Cô gái lại mở cửa bước vào, ngồi vào lòng sinh, rồi ôm sinh, thúc giục sinh lên giường, sinh vẫn thản nhiên. Cô gái tức giận bỏ đi.
Hôm sau có hai thiếu nữ mặc áo hồng cùng đến đưa rượu thịt mời mọc, sinh từ chối. Hai nàng cả giận ra về. Hôm sau, đang ngồi đọc sách, thấy tự nhiên trên bàn có 20 lượng vàng, sinh bèn đem nộp quan trên.
Bạn sinh là Vương Hữu mua nhà mới , thường bị hồ quấy phá, mọi thứ thức ăn vật dụng đều bị hủy hoại, lại có lúc bỏ cả đất cát vào cơm canh. Bàn ghế để bên đông thì thấy bên tây, gia nhân ngủ trong nhà, sáng dậy thấy nằm ngoài vườn. Một hôm, Vương mời sinh lại chơi. Khi sinh đến thì Vương Hữu đi vắng. Do việc cần cấp, Vương dặn vợ ở nhà phải tiếp bạn tử tế, rồi Vương sẽ về. Khi sinh đến, vợ Lương Hữu ra chào và xin sinh ở lại đợi chồng mình về. Hồ ly đã bỏ thuốc kích dâm vào chén cháo của vợ Vương Hữu cho nên không chịu nổi độc dược, bèn tỏ vẻ lả lơi với sinh.
Sinh tức giận lớn tiếng mắng chửi rồi bỏ ra về. Người đàn bà hổ thẹn, lui vào phòng nằm nghỉ . Nằm một hồi thì thuốc hết công hiệu, trăn trở hồi lâu thì gần sáng, lòng, hối hận và xấu hổ bèn cởi dây lưng tự treo cổ. Người tớ gái hay được cứu xuống thì đã tắt thở. Vương Hữu về nhà, thấy vợ chết, bèn hỏi nữ tì thì nữ tì cho biết có nghe sinh lớn tiếng cãi cọ. Vương cho là sinh cưỡng bức vợ của Vương rồi đem treo cổ. Vương bèn đầu đơn kiện quan huyện.
Đêm đó, sinh nằm ngủ thì thấy sai nha đến bắt dẫn đi. Đi quanh co một hồi thì đến Địa phủ. Té ra Diêm vương đã bắt chàng xuống tra vụ án. Sinh thực tình kêu oan nhưng Vương Hữu đổ tội cho sinh. Phán quan ra lệnh giam sinh để cho nhân viên đi điều tra tiếp.
Hôm sau, quỷ sứ dắt vợ Vương Hữu và ông đạo Râu đến. Đạo Râu chứng thực sinh là người cương trực. Hỏi đến vợ Vương Hữu thì y thị nhận tội của mình và tố cáo bàn tay thâm độc của yêu hồ. Thế là sinh được tha.
Sinh buồn sự đời, bỏ đi vân du, chiều tối ghé vào một ngôi chùa vắng. Thấy tăng phòng đóng chặt, bèn trải tấm bồ đoàn ra ngồi dưới hành lang. Đêm khuya chợt nghe tiếng mở cửa, thấy một nhà sư bước ra, toàn thân đẫm máu, nhưng như không nhìn thấy sinh, sinh cũng làm như không nhìn thấy. Nhà sư đi thẳng tới Phật điện, lên chỗ tòa sen, ôm đầu tượng Phật mà cười, hồi lâu mới đi. Đêm hôm đó, dân lân làng nghe tiếng rú vang ở chùa.
Đến sáng người ta tới chùa thì thấy nhà sư bị giết nằm trên mặt đất, nệm chiếu trong phòng xáo trộn vương vãi, biết là bị kẻ cướp vào giết. Họ báo lên quan và quan bắt giam sinh vì nghi sinh là thủ phạm. Quan khám xét khắp nơi thì thấy có 10 lượng vàng giấu trong tượng Phật, và 20 lượng vàng trong hành lý của sinh. Nhưng vàng ở tượng Phật và vàng ở tay nãi của sinh là vàng của kho nhà nước. Sinh bị hai tội là giết người và cướp kho vàng triều đình. Quan định tội xử chém sinh.
Vợ con sinh bèn nhờ ông Đạo cứu giúp. Ông xuống âm phủ điều tra thì biết sinh không liên quan gì đến vụ án. Nguyên do là bọn Cáo thấy sinh vào chùa bèn tìm kế hãm hại. Chùa này là hang ổ của Hồ ly. Chúng đã từng ăn trộm kho vàng của triều đình. Chúng có một kho vàng ở tại một sơn động, và nhà sư kia thật ra là một con Cáo biến hóa mà thành. Triều đình bèn sai quân vào sơn động thì thấy quả là hang Cáo, là nơi chứa vàng ăn trộm kho triều đình. Đào xác nhà sư lên thì đấy là xác một con chuột chù. Vì vậy mà sinh được phóng thích.
Bọn Cáo hai lần thất bại, bèn căm thù sinh. Chúng bèn cho tiền, cho kẹo bọn trẻ khắp nơi và dạy chúng câu đồng dao. Câu đồng dao như sau:
Bắc thang lên hỏi thằng Trời,
Sao mày quấy phá cho đời đảo điên?
Thằng trời, hãy đứng một bên,
Lý Mao ta sẽ tiến lên thay trời!
-Ăn trộm hàng tỷ bạc, giết chết hàng triệu người, có thể xin được nhưng phạm tội phản động thì không thể xin được!
Vợ của sinh năn nỉ:
-Xin đạo trưởng rủ lòng thương, cứu chồng con. Anh ấy bất mãn với Đời nhưng không dám chống Trời Xin đạo trưởng tìm cách minh oan cho chồng của con.
Ông Đạo cay đắng mà nói:
-Đã bị tình nghi phản động là giết, không cần chứng minh là có tội hay không có tội. Đó là chính sách " giết lầm hơn bỏ sót" của Thiên Đình. Ta là con dun, con dế, con kiến làm sao minh oan cho chồng chị đuợc! Con ta hay cha ta mắc tội phản động, ta cũng chỉ đứng nhìn hay bỏ chạy, nhiều khi còn phải vu oan cho cha, cho con, làm sao có thể xin xỏ và năn nỉ được trong hoàn cảnh này?
Trong một miền núi, tại một sơn động, có một đàn cáo đỏ cư ngụ. Chúng là những con hồ ly tu luyện hàng năm đã thành yêu tinh. Chúng có thể biến ra thiên hình vạn trạng, mê hoặc vạn thú và loài người. Chúng thường biến ra sư bà, đạo cô, thiếu nữ, phú gia và quan lại.
Trong miền, có Thiên Bảo đạo quán do Hắc Xà đạo trưởng chủ trì và mấy đứa tiểu đồng hầu hạ. Gần bên có chùa Kim Cương do nhà sư Kim Tiền trụ trì và một đám tiểu yêu vốn là những tên đầu trộm đuôi cướp trong vùng thường đêm đến nhậu nhẹt với sư và làm bạn với sư. Thật ra sư vốn là tướng cướp, bị triều đình vây bắt, ông phải chạy về nơi này ẩn trốn. Gặp một ngôi nhà hoang, ông bèn sửa sang thành chùa. Nhiều Phật tử nghe ông khoác lác nên tin vào ông, đem tiền bạc ruộng vườn cúng cho ông.
Hắc Xà đạo trưởng chuyên cúng quải và trừ tà ma nhưng không đắt khách, thầy trò nhiều ngày phải uống nước lã cầm hơi. Chúa hồ ly thường hiện hình Tề Thiên đại thánh, dạy ông rằng Thượng Đế có thế cứu rỗi nhân loại, ai cầu gì cũng được. Nếu ông có đức tin vào thượng đế thì ông sẽ không bao giờ túng thìếu. Hơn nữa ông có thể tăng thêm tiền tài, danh vọng. Đạo trưởng hỏi Đại thánh phải làm gì cụ thể đế tỏ lòng tôn kính thượng đế. Đại Thánh bảo là ông và các đệ tử phải vận động tín đồ nộp tiền và thực phẩm dâng thượng đế. Do vậy, ngày ngày, tháng tháng, đạo sĩ và đồ đệ vân động tiền phước thiện rồi nộp cho Đại thánh. Cũng nhờ sự quyên góp này mà thầy trò Hắc Xà đạo trưởng cũng no ấm.
Trong miền, có một nho sinh, ngày đêm luôn trau dồi kinh sử để chờ khoa thi Hương. Một đêm đang ngồi học, sinh thấy bên ngoài cửa có một giai nhân đứng nhìn vào mà cười. Sinh bèn mở cửa mời vào. Hai bên chuyện trò thân mật, sinh cầm lòng không đặng nên ôm lấy thiếu nữ. Từ đó, đêm nào thiếu nữ cũng đến , hai bên hoan lạc đến sáng thiếu nữ mới tạ từ. Càng ngày sinh càng xanh xao, biếng học hành.
Về sư Kim Tiền, tình trạng cũng không khả quan. Gặp mùa bão lụt, dân chúng đói rét, không ai có tiền , có gạo cúng dường cho sư. Đã hai, ba tháng trôi qua, sư không kiếm nổi vài trăm đô la tiền cứu trợ. Một hôm, sư phải đến trạm liên lạc để gặp Xich đồng tử xin khất món hụi chết. Trong nhà không có ai, ông đi quanh ra phía sau, nhìn qua khe hở, thì thấy một đám hồ ly đang ngồi ăn thịt mấy xác trẻ con và người lớn. Sư sợ hãi, âm thầm trốn ra ngoài, và từ đó sư biệt tích. Cũng có những tin đồn khác nhau. Người thì bảo cũng như Hắc Xà đạo trưởng , Kim Tiền giả sư đã hy sinh. cho Ma vương. Có người bảo giả sư có lẽ đang " học tập" tại một trường đại học Bách niên nào đó.
Một hôm có vị cao tăng đi vân du khắp miền, bỗng nhiên qua đây, thấy yêu khi đầy trời mà rõ rệt nhất là ngôi nhà của nho sinh. Sư giả làm người ăn mày, bước vào . Gặp sinh ngồi ở sân, sư bước vào nói chuyện và quan sát mặt mày nho sinh. Sư biết sinh đã bị yêu tinh hút hết nguyên khí. Sư khuyên sinh không nên gần nữ sắc. Sinh cười mà bảo rằng:
-Kẻ tu hành chưa chắc đã xa lánh nữ sắc, làm sao một người đang tuổi xuân xanh mà nói chuyện diệt dục!
Nói xong, sinh đuổi khách ra ngoài và cấm khách trở lại.
Ít lâu sau, sinh và một số trai làng lăn ra chết. Dân làng bèn đi tìm các đạo sĩ và cao tăng để hàng ma, phục yêu nhưng ông nào cũng nói rằng họ là bậc chân tu, yêu hòa bình, giữ trăm điều răn, ngàn giới cấm nên không thể tham gia việc bắt yêu. Các ông này còn khuyên mọi người thực thi từ bi, bác ái, yêu kẻ thù, đừng phân biệt thiện ác, người và ma quỷ, hãy cầu nguyện cho kẻ thù, nếu ma quỷ cướp một thánh đường thì dâng cho chúng nó hai ba thánh đường, phải cộng tác với ma quỷ để xây dựng hoà bình cho thế giới.
Khách đến rất đông và thỉnh thoảng có cả đàn hồ ly giả dạng dân chúng nam nữ đến ăn uống. Một hôm, sư cho vào rượu một ít thuốc mê. Đoàn hồ ăn uống say sưa ra về nửa đường thì lăn ra ngủ say và hiện nguyên hình đoàn cáo đỏ. Dân làng đổ ra giết hết và lột da bán cho cửa hàng lông thú.
Đỗ Văn Minh quê ở Thái Bình làm nghề thợ mộc. Cha mẹ mất cả, để lại cho hai con hai cái nhà gần nhau trong một ngôi vườn khá rộng rãi. Thỉnh thoảng chàng theo thợ lên rừng đốn cây. Nhiều khi chàng cũng chở bàn ghế lên thành phố mà bán cho các cửa hàng. Một buổi chiều tà, từ thành phố về nhà, chàng thấy có một bà già nằm rên ở đường, chàng bèn xuống ngựa hỏi thăm. Thấy bà đi không nổi, nói không được, chàng bèn mang bà về nhà cho ăn uống và mời thầy chữa bệnh. Tháng sau bà già bình phục. Bà nói:
-Tôi gặp nạn, may được cậu cứu , xin cảm ơn cậu. Cậu mong muốn điều gì, cứ nói thật may ra có thể giúp được chăng.
Đỗ cười mà nói:-Tôi chẳng muốn gì, chỉ muốn đủ cơm ăn ngày ba bữa.
Bà già bèn bảo cậu sẽ được như ý rồi ra về.
Sáu tháng sau, Đỗ Văn Minh lên rừng đẵn gỗ. Ngày đêm ở lại trong rừng suốt hai ba tháng. Một hôm thơ thẩn trong rừng, đi vào một xóm lạ, Đỗ bèn gõ cửa vào xin nước uống. Một thiếu nữ áo xanh bước ra thấy chàng là người lạ, liền thẹn thùng bỏ chạy vào nhà.
Đỗ vào thấy nhà thấp nhỏ, chật hẹp. Trong nhà có hai ông bà già. Ông già mời chàng ngồi , rồi bước vào nhà trong hỏi bà già có gì ăn thì đem lên mời khách. Bà già bước ra chào khách, Đỗ ngước lên nhìn thì té ra bà già năm xưa chàng đã cứu. Bà lão cũng vui vẻ gặp lại Đỗ. Bà nói:
-Ông ơi! lại đây. Đây là ân nhân của ta đấy.
Cả hai ông bà vui vẻ đón chào Đỗ.
Bà đi lại khó khăn, lớn tiếng gọi:
- Bình Minh, mau dọn rượu ra!
Lát sau cô gái bưng mâm vào rồi đứng cạnh ông già, đưa mắt liếc trộm khách. Đỗ nhìn lên thì té ra thiếu nữ áo xanh. Đỗ biết tên nàng là Bình Minh. Nhìn kỹ thấy là mặt trái xoan, da trắng trẻo, mịn màng , xinh đẹp như tiên giáng trần. Đỗ hỏi lão trượng là ai, ông già đáp :-"Lão phu họ Hồ, bảy mươi tuổi chỉ có một đứa con gái đó.
Đỗ hỏi :- Thế cô ấy đã có chồng chưa?
Ông già đáp còn chưa có ai.
Đỗ luôn miệng khen cô gái xinh đẹp thông minh, ông già đang khiêm nhường đáp :
-Con gái tôi ở trong hang núi, quê mùa, xấu xí, đâu dám trèo cao! Già chỉ mong nó có được một tấm chồng bình thường, săn sóc, thương yêu nó là đủ!
Ông già uống rượu một hồi thì bỗng nhiên bà già cất tiếng gọi. Ông bèn bỏ đũa, xin phép khách chạy vào. Cô gái phải tiến ra rót rượu mời khách và chuyện trò với khách. Cô gái dần dần quen thuộc, cười nói vui vẻ chứ không thẹn thùng, e ngại như trước nữa. Đỗ thấy không có ai, bèn cầm tay cô gái. Nàng không gạt tay chàng ra, im lặng mà cười đáp.
Chàng nói:- "Thấy nàng xinh đẹp, dễ thương, ta muốn cưới làm vợ, nàng có bằng lòng không?
Nàng cười mà cúi đầu e thẹn.
Tối hôm đó, Đỗ lén vào phòng nàng định ôm ấp tấm thân người đẹp. Cô gái đứng lên nghiêm mặt nói:- "Chàng vào phòng định làm gì? Chàng không được vô lễ! Chàng là ân nhân của mẹ ta nên thiếp nể nang, kính trọng và thân mật chứ không phải là thiếp có lòng tà ."
Đỗ phải xin lỗi mà trở ra. Suốt đêm, Đỗ không ngủ được, chưa sáng đã đến chào ông già mà ra về.
Về tới nhà, sinh lập tức nhờ bạn thân tới cầu hôn, nhưng họ đi trọn ngày trở về mà không tìm được nhà cô gái. Đỗ bèn sai đầy tớ thắng ngựa tìm đường lần tới. Tới nơi chỉ thấy vách núi cao ngất không có xóm làng nào, hoi thăm thôn xóm gần đó thì có rất ít người họ Hồ. Đỗ thất vọng ra về, bỏ cả ăn ngủ, từ đó mắc bệnh choáng váng, gượng húp chút nước cháo thì nôn nao muốn mửa, lúc mê sảng cứ gọi tên Bình Minh. Người nhà không hiểu ra sao, chỉ suốt đêm vây quanh chăm sóc nhưng bệnh tình ngày càng nguy ngập. Một đêm những người chăm sóc mệt mỏi ngủ cả, sinh mơ màng thấy có người lay, hé mắt nhìn thì thấy Bình Minh đứng ngay bên giường, bất giác tỉnh táo hẳn, nhìn nàng chằm chằm ứa nước mắt.
Cô gái nghiêng đầu cười nói :-"Chàng làm sao mà ra nông nỗi này?”. Nói đoạn nàng leo lên giường ngồi cạnh Đỗ, lấy thuốc bôi vào thái dương, ngực và bụng cho chàng. Đỗ nghe mùi thuốc thơm và da thịt nàng thơm, thấm suốt cơ thể mà vào tận tâm can. Đỗ chợt thấy trán đổ mồ hôi, dần dần thân thể chân tay cũng thế.
Nàng nói nhỏ:
- "Trong phòng có nhiều người, thiếp ở lại không tiện, ba ngày nữa sẽ tới thăm chàng". Lại lấy trong tay áo thêu ra mấy cái bánh đặt lên đầu giường rồi lặng lẽ ra đi. Đến nửa đêm , Đỗ ra hết mồ hôi thấy đói bèn lấy bánh ăn, không biết nhân gì mà thơm ngon lạ thường, ăn liền ba cái rồi lấy áo đậy lên chỗ còn lại thiếp đi. Trời sáng hẳn mới tỉnh giấc, thấy như trút được gánh nặng. Ba ngày ăn hết bánh, tinh thần càng sảng khoái bèn cho người nhà ra hết. Lại sợ cô gái tới không vào được bèn lén ra chỗ sân thông vào thư phòng mở hết then cửa.
Không bao lâu quả nhiên cô gái tới, cười nói:-Chàng lành bệnh chưa? Chàng không tạ ơn bà lang à? Đỗ mừng quá ôm lấy nàng nhưng nàng chối từ. Nàng bảo:
-Thiếp là giống Hồ lại tu theo Tiên đạo , không thể cùng chàng kết duyên chồng vợ. Chàng nên lấy vợ, sinh con. Tuy xa cách, khi cần, thiếp sẽ đến giúp chàng. Nói xong, nàng khóc mà ra đi.
Đỗ thương nhớ nàng song chú bác thúc dục, Đỗ phải cưới vợ là người bà con xa ở trong làng. Mười năm sau, cửa hàng của Đỗ buôn bán phát tài, Đỗ xây nhà, mua ruộng trở thành một bậc phú gia. Các con đã khôn lớn.
Năm ất dậu mất mùa, thiên hạ đói kém, gia đình người anh lâm cảnh túng thiếu, Đỗ Văn Minh hết lòng giúp đỡ. Đỗ cũng đem cơm cháo phát chẩn cho mọi người. trong làng xóm. Người anh khen Đỗ có lòng tốt. Người vợ chề môi mà nói:
-Tốt chi mà tốt! Nếu nó tốt thì đã chia cho mình nửa gia sản!
Người anh biết vợ ghen tức với em, nhưng im lặng.
Cùng năm này, giặc cướp nổi lên. Bọn cướp đi thuyền vào nhà dân cướp phá. Nhà Đỗ Văn Minh cũng trở thành đối tượng cướp bóc. Bốn năm tên cướp phá cửa xông vào. Người anh định nhảy tường sang cứu, nhưng người vợ ngăn lại:
-Anh em ai đầy nồi nấy, hà tất phải liều mình bị thương hay chết thì ai nuôi vợ con?
May mắn thay, năm cha con Đỗ tinh thông võ nghệ lại được làng xóm chạy tới cứu giúp nên đánh đuổi được bọn cướp. Người anh nằm trong nhà cảm thấy xấu hổ vô cùng. Vài tháng sau, có bọn cướp khác lại đến cướp nhà Đỗ. Lần này lực lượng hùng hậu, chúng đã bắt trói Đỗ và định dùng sắt nướng lên đốt da thịt Đỗ mà tra tấn vàng bạc. May thay giữa lúc đó một con hổ vàng xông vào nhăn nanh há miệng, bọn cướp chạy mất.
Sang năm bính tuất, bọn thảo khấu từ phương Bắc vào xâm lấn biên cương. Chúng tiến đánh toàn xứ Bắc mà triều đình cũng bó tay. Chúng vốn là người Tàu nhưng giả người Việt Nam và dùng người Việt Nam để đánh người Việt Nam. Chúng gồm bốn đạo quân dùng bốn màu cờ để phân biệt là cờ xanh, cờ đen, cờ tím và cờ đỏ, nhưng mạnh nhất là quân Cờ Đỏ. Sách kinh điển, luật lệ, hiệu lệnh của họ đều dùng bìa đỏ cho nên gọi là Sách Đỏ. Họ chủ trương dân vi quý và thế giới đại đồng. Các quan binh Đỏ coi thiên hạ là của chung cho nên tha hồ vào nhà dân chúng lấy lụa là vàng ngọc, tha hồ chiếm đất công, đất tư và nhà cửa của dân chúng. Họ xưng là chiến binh của Thượng đế, có nhiệm vụ thế thiên hành đạo, thưởng thiện phạt ác. Vợ chồng Đỗ Văn Minh bị kết tội là đại gian, đại ác.
Bọn Cờ Đỏ muốn gây căm thù trong dân chúng nên xúi dục và bắt buộc người nghèo phải tố người giàu, con phải tố cha, vợ phải cáo chồng, đầy tớ phải đấu chủ. Ai bất tuân thì cũng liệt vào hàng ngũ đại gian, đại ác. Vì sợ hãi, vì tham lợi, vì sự sống, một số đã quên luân thưòng đạo lý, cúi đầu tuân lệnh quân Cờ Đỏ mà làm điều bất nhân, bất nghĩa.
Bọn Cờ Đỏ xui dục vợ người anh đứng ra tố em cướp của nhà anh và hãm hiếp vợ anh. Nếu anh chị bất tuân thì bị giết. Còn như vâng lời thì được nửa tài sản của em, và chồng sẽ được cử làm tri huyện. Người vợ xưa nay ghen ghét em, nay đưọc hứa hẹn quyền lợi cho nên tích cực tố cáo em chồng. Vì vậy mà Đỗ Văn Minh và rất nhiều gia đình bị bắt giam, nhà cửa bị tịch thu, bao vàng bạc trong xứ đều được mang về Tàu.
Trước khi Đỗ gặp nạn hai tháng, Bình Minh đã lén về gặp riêng Đỗ. Nàng khóc mà bảo:
-Số chàng và dân tộc này đang lâm vào điêu linh. Chàng phải chôn cất giấu vàng bạc, châu báu thật kín. Không được tin ai, phải im lặng, và không được chống đối ai.
Sau đó, cơn đại hồng thủy đã đến. Nhiều quan lại và nhà giàu có bị giết. Vợ con chàng bị giam. Họ tra khảo vàng bạc. Đỗ khai là nhà đã đem tiền bạc phát chẩn, và bị cướp hai lần cho nên hết sạch. Vì vậy mà nhà Đỗ chỉ bị bắt giam và tịch thu gia sản chứ không bị giết. Đêm khuya vắng vẻ, có con mèo đen, lén mang cơm, nước, thuốc men cho vợ chồng Đỗ. Nhờ vậy mà không ai bị bệnh hoạn hoặc chết chóc.
Ba năm sau, triều đình đem quân tiểu trừ giặc Khách, quân Cờ Đỏ tan rã, vợ chồng Đỗ trở về quê cũ. Đỗ được trả nhà cửa, ruộng đất. Người ta trả thù, tuyết hận, núi xương, sông máu lại tràn dâng.
Đỗ không thù hận, nhưng chán tình đời. Nghe tin trong Nam đất đai phì nhiêu, cỏ mọc cao bằng đầu người, củ khoai, củ sắn to bằng bắp vế, ruộng đồng cò bay thẳng cánh, trong ruộng, ngoài sông đầy tôm cá. Đỗ bèn bán nhà cửa, ruộng đất, rồi thu vén vàng bạc di cư vào Nam.
Năm đó, gặp lúc mất mùa, quanh vùng nhiều nhà thiếu ăn, Châu theo người làng sang Lào làm thợ mộc ở Savannakhet. Quê người đất khách một mình, làm việc được vài tháng, Châu lâm bệnh, bèn xin vào trú ngụ trong một ngôi chùa. Sư cụ là người theo Phật, hết lòng giúp đỡ Châu. Đêm nằm một mình trong liêu, gần cửa sổ, bỗng nhiên có một tiếng cười khúc khích và một thiếu phụ hiện ra. Nàng thò tay qua song cửa vuốt ve Châu. Thấy người Châu nóng ran, nàng bèn bước vào, cầm tay Châu bắt mạch Châu. Nàng lấy trong người ra một ve dầu, đổ dầu vào tay rồi thoa vào đầu mình Châu. Nàng săn sóc Châu một lúc rồi bỏ về.
Hôm sau, nàng lại đến, cùng sinh ôm ấp. Châu nhìn kỹ thì nàng tuổi ngoài ba mươi, lớn hơn Châu mười tuổi nhưng nhan sắc rất mặn mòi. Nàng bảo:
-Chàng lâm trọng bệnh, khí huyết suy nhược, tinh lực cạn kiệt, sắp phải rời dương thế. Thiếp tên là Hồng Hoa, vốn giống Hồ Ly, có phép thần thông, có tài cải tử hoàn sinh. Nếu chàng thật tâm yêu thiếp và trung thành với Hồ Đại Tiên thì thiếp sẽ vì chàng xin linh đơn cứu bệnh.
Chàng thề thốt sẽ lấy nàng làm vợ và trung thành với Hồ Thánh giáo. Hôm sau nàng trở lại, bảo chàng thề lần nữa. Chàng xin tuyên thệ. Nàng bảo chàng há miệng ra, nhả vào miệng nàng một viên linh đơn. Nuốt viên linh đơn, chàng cảm thấy toàn thân khoan khoái, bách bệnh tiêu tan. Từ đó, chàng lấy Hồng Hoa làm vợ. Cả hai ra ngoài . Hồng Hoa đem tiền của mua nhà cửa, trang trại, và lập một xưởng mộc cho Châu làm bàn ghế mà bán. It lâu sau, xưởng mộc phát triển, Châu trở nên giàu có.
Lúc bấy giờ khắp loạn lạc, nhiều đảng cướp nổi lên. Đất Lào cũng như thôn quê Quảng Trị đều có giặc giã nổi lên, chàng không thể về quê. Một hôm có giặc cướp xông vào bắt chàng phải nộp vàng bạc của cải. Vợ chàng nổi giận, cầm đao múa may cự địch. Một mình nàng chém chết năm tên khiến cả bọn bỏ chạy. Từ đó, bọn cướp không dám dòm ngó nhà nàng nữa. Và dân làng cũng như bọn hương lý đều kính trọng hai vợ chồng của chàng.
Đã phú phải có quý mới song toàn. Hồng Hoa đã lo lót các quan trong kinh đô Vạn Tượng để cho chàng làm Vệ Úy trông coi lính trong kinh đô. Vì vậy, trong khi Châu Hộ phải lên kinh đô làm việc, còn nàng thì vẫn ở lại Savannakhet trông coi gia sản.
Nàng bảo chàng sống ở đời phải làm bậc anh hùng chứ không nên làm tên cướp vặt. Minh Đức thánh giáo là một giáo phái lớn quy tụ anh hùng trong võ lâm, có mục đích cứu nhân độ thế. Hồ giáo chủ xứng đáng lãnh đạo quần hùng để đưa nhân loại tiến lên Thiên Đàng. Vì lòng chàng cũng muốn xây dựng một thế giới hạnh phúc, mở rộng nước Thiên Đàng cho nên chàng hăng hái gia nhập Minh Đức Thánh giáo. Hơn nữa, trước đây, vì muốn cứu mạng mình, chàng đã hứa hẹn trung thành với Hồ giáo chủ. Hồng Hoa chính là một nữ quan trong Thánh giáo. Nàng đã bố trí cho chàng làm việc trong kinh đô. Công việc trước mắt của chàng là phải báo cáo danh tánh các quan lại trong triều, và số quan binh trong cung cho Thánh giáo biết.
Vì làm quan khá cao cho nên Châu Hộ quen biết nhiều quan to trong triều đình và giao thiệp khá rộng rãi. Bọn họ thường la cà các tửu quán, trà đình và phòng ca vũ. Nơi đây, Châu Hộ quen thân một mỹ nữ, tên là Minh Châu. Say mê nàng, Châu Hộ lấy nàng làm tiểu thiếp.
Hồng Hoa có pháp thuật mà vẫn luôn cho bộ hạ theo dõi chàng cho nên nàng biết rõ mọi hành động của chồng. Nàng bèn lên Vạn Tượng thăm chàng, nhưng chàng tuyệt tình không gặp mặt Hồng Hoa. Nàng căm tức, nguyền trả thù chàng về tội phản bội. Nàng biết luật lệ nội cung và quân trại cấm ban đêm đưa người lạ vào. Ban ngày, muốn tiếp thân nhân và bạn bè, các quan binh phải xin phép ra ngoài khách xá mà tiếp họ. Để qua mặt quan trên, Châu Hộ cho Minh Châu giả làm lính mà ở lại với chàng suốt đêm trong quân trại. Chờ một đêm, Minh Châu vào trại quân trại ăn nằm với Châu Hộ, nàng bèn lén bỏ danh sách quan binh và quan lại quan trọng vào người Minh Châu.
Khi Minh Châu và Châu Hộ ăn nằm thì một tên lính thấy có một thiếu nữ áo đỏ chạy vào quân dinh, ngay trước phòng của Châu Hộ. Quân lính đuổi theo và trình thượng cấp. Thượng cấp bèn ra lệnh phá cửa phòng mà vào. Họ thấy Châu Hộ và nữ nhân đang nằm lõa lồ trên giường. Xét thiếu phụ thì thấy có một danh sách quan lại và võ tướng. Triều đình kết tội Châu Hộ làm gián điệp và đem ra xử tử cả hai người.
Hồng Hoa bí mật trở về Savannakhet. Sau khi nghe tin Châu Hộ chết, nàng khóc lóc thảm thiết và báo cáo cho Hồ giáo chủ là Châu Hộ đã hy sinh vì nhiệm vụ. Châu Hộ được Thánh giáo ban cho danh hiệu liệt sĩ.
Lương Đức Ngôn ở đất Bố Chánh, trấn Nghệ An là người cương trực, đỗ tú tài nhưng văn chương, thi phú khiến cho các bậc cử nhân không dám khinh nhờn. Chàng có chút lãng mạn, hay làm thơ ca tụng tình yêu, và hay say sưa rượu trà. Chàng lại còn say mê thú cô đầu. Buổi sáng, sinh đi tập làm văn ở trường đại tập của quan nghè, thấy một giai nhân mặc áo đào, thắt giây lưng lụa tím, cưỡi lừa đi chợ phiên, đàng sau lại có một a hoàn mang đi theo. Chàng giục ngựa theo giai nhân một đoạn đường dài rồi trở về lớp học kẻo trễ giờ.
Một tối nọ, ở xóm cô đầu ra về rượu say, đi qua một ngồi chùa bỏ hoang đã lâu, thấy một cô gái từ trong đi ra, chính là người đẹp sáng hôm nọ. Nàng vừa thấy sinh tới, lập tức quay người trở vào. Sinh nghĩ thầm người đẹp như thế sao lại ở trong chùa, không hiểu nàng là người, hay ma, hay hồ ly. Chàng bèn cột ngựa lại, rồi liền xô cỗng mà vào trong tìm hiểu cô nàng là ai..
Vào thấy tường rào đổ nát, cỏ mọc đầy thềm, còn đang ngần ngừ thì một ông già tóc bạc đi ra, áo mũ chỉnh tề hỏi khách tới đây làm gì. Sinh đáp "Ngẫu nhiên đi ngang thấy ngôi chùa cổ nên muốn vào lễ Phật, còn ông tới đây làm gì?”. Ông già đáp “Lão phu nhà ở làng bên, thấy chùa đổ nát, nhân nhà cũ bị bão làm hư hao sụp đổ, bèn đem gia đình đến đây xin ngụ cư. Nay được công tử quang lâm, thật là tam sinh hữu hạnh, xin mời công tử vào tệ xá uống chén trà thơm tạm thay rượu .
Sinh bèn theo chủ nhân bước vào trong. Thấy hậu điện có gian nhà, đường đi lát đá sáng bóng không có chút rêu cỏ, vào nhà thì rèm cửa màn giường đều thơm phức. Ngồi xuống hỏi họ tên, ông già nói là họ Thái. Sinh nhân say hỏi "Nghe nói ông có một cô con gái chưa gả cưới, ta không xét mình, tình nguyện làm rể được không?”. Thái ông cười nói "Để ta bàn lại với bà ấy", sinh lập tức hỏi lấy giấy bút làm một bài thơ rằng:
Qua đây thấy cảnh, mến người,
Cầu xin cho được lấy người ta yêu.
Người tiên xinh đẹp mỹ miều,
Ta say, ta đắm, sớm chiều khôn nguôi!
Thái ông đọc thơ xong trao cho a hoàn mang vào trong. Thái ông nói:
-Ta có năm con gái, đã gả chồng ba đứa, nay còn hai đứa chưa chồng, thế công tử định ngắm ai?
Sinh nói:- "Tiểu sinh chỉ muốn hỏi cưới người con gái yếm thắm, áo đào, cưỡi lừa đi chợ phiên sáng hôm qua thôi".
Thái ông vẫn không đáp. Chàng nói dù không lấy được, ta cũng muốn gặp mặt một lần. Nói xong xông vào nhà trong. Thái ông sai người nhà kéo sinh ra ngoài cửa đóng lại. Nằm một hồi tỉnh rượu, thấy con ngựa còn đó, bèn lên ngựa mà đi ngoằn ngoèo trong hang núi. Vào trong núi , sinh rợn tóc gáy vì trời tối tăm, đường sá gập ghềnh, cú rúc, vượn kêu, cọp gầm. Sinh buông cương, mặc cho con ngựa bước đi. Nhìn xa xa, có bóng đèn, sinh bèn thúc ngựa vào gõ cửa xin tá túc một đêm.
Bên trong có người hỏi :-"Chàng ở đâu mà nửa đêm tới đây?",
Sinh đáp là lạc đường. Người ấy nói:- “Chờ ta thưa với chủ nhân".
Sinh đứng đợi chồn cả chân, chợt nghe tiếng then lạch cạch rồi cánh cổng mở ra, một người tớ trai khỏe mạnh bước ra đỡ dây cương ngựa cho sinh..
Sinh vào, thấy nhà cửa hoa lệ, trên sảnh thắp đèn sáng trưng. Ngồi giây lát thì có người đàn bà ra hỏi tên họ khách, sinh nói rõ. Hồi lâu có mấy tỳ nữ đỡ một bà già ra, nói :-“Thái phu nhân tới." Sinh đứng lên định vái lạy, bà già ngăn lại bảo ngồi rồi hỏi :- “Ngươi là cháu nội của Lương Vân Long ỏ phủ Minh Linh phải không? Sinh đáp "Thưa phải". Bà già nói “Vậy thì ngươi là cháu gọi lão thân bằng bà mợ. Thân ta già nua tuổi tác, đến cuối đời họ hàng ruột thịt cũng không ai lui tới”. Sinh nói:- "Cháu lúc nhỏ mồ côi cha, cho nên không ai chỉ bảo cho, nên không nhận ra bà".
Bà già hỏi:- "Sao cháu lại nửa đêm tới đây?”
Sinh bèn kể chuyện mình say mê con gái Thái lão ở ngôi chùa hoang nhưng lão không chịu gả, rồi đuổi chàng ra ngoài. Đêm tối thành ra đi lạc đường, cũng nhờ thế mới gặp được bà mợ.
Bà già tức giận mà nói:-Cháu là danh sĩ một vùng, gia đình ta danh giá, sao cái lão hồ ly kia dám khinh khi gia đình ta. Cháu đừng lo, để ta thu xếp cho".
Sinh vâng dạ cám ơn, bà già quay lại hỏi tả hữu :-"Ta không biết con gái họ Thái lại có đứa xinh đẹp như thế đấy".
Một tỳ nữ nói:- “Y có năm con gái, người nào cũng xinh xắn, không rõ quan nhân định hỏi người nào?”.
Sinh đáp: “Là người khoảng mười lăm tuổi".
Người tỳ nữ nói "Vậy là cô Út, tên là Hồng Sương. Tết nguyên đán năm nay , từng theo mẹ tới đây chúc thọ Thái Thái. Thái thái quên rồi sao?"
Bà già cười nói :- " Có phải là đứa con gái cầm cái quạt hồng thắt dây lựng lụa đào, đeo xà tích bạc không?
Người tỳ nữ đáp:- "Thưa phải".
Bà già nói :-"Con nhãi ấy biết làm ra vẻ quyến rũ khéo lắm, nhưng quả là xinh đẹp, cháu ta thưởng lãm không sai". Ngày mai, Thanh Lan sang nhà nó, gọi nó đến đây cho ta dạy việc.
Sáng hôm sau, a hoàn Thanh Lan tuân lệnh chủ triệu cô út Hồng Sương. Khi ngưòi a hoàn trở về, vào bẩm Thái phu nhân:-"Đã gọi được cô út Hồng Sương đến rồi ạ.
Sinh thấy thấy cô gái áo đỏ bước vào phủ phục làm lễ, bà già kéo dậy nói :“-Sắp làm vợ cháu ta, không nên làm lễ như tỳ nữ thế nữa".
Cô gái thướt tha đứng lên, hai tay áo đỏ rủ xuống, bà già sửa mái tóc cho, sờ đôi hoa tai của nàng hỏi:- "Gần đây cháu ở nhà làm gì?”.
Nàng đáp khẽ :-"Lúc rảnh con chỉ thêu thùa” rồi quay đầu thấy sinh, có vẻ ngượng ngập bối rối.
Bà già nói: -"Đó là cháu ta, nó có ý tốt muốn kết duyên với con, sao lại để nó lạc đường, đêm khuya thất thểu trong khe núi thế?”.
Nàng cúi đầu im lặng. Bà già nói:- "Ta gọi con tới đây không có chuyện gì khác, chỉ là muốn làm mai cho cháu ta đấy thôi”.
Nàng vẫn im lặng. Bà già sai quét giường trải nệm để làm lễ thành hôn lập tức, cô gái thẹn thùng nói :- “Xin cho con về thưa với cha mẹ".
Bà già nói:- "Ta làm mai cho con thì còn có gì sai sót chứ?”.
Nàng thưa -"Thái thái ra lệnh thì cha mẹ con phải vâng lời chứ đâu đám trái, nhưng qua quít thế này thì con dù chết cũng không dám vâng mệnh".
Bà già cười nói:- “Con bé này chí khí cứng cỏi, thật xứng đáng làm vợ cháu ta".
Bèn rút một chiếc thoa vàng trên tóc nàng đưa cho sinh làm tin, rồi quay vào trong bảo a hoàn nhờ Tổng quản chọn ngày. Lát sau viên Tổng quản bước ra cúi đầu trình hai tấm thiệp ghi ngày lành tháng tốt . Bà đưa cho sinh một tấm, Hồng Sương một tấm bảo về lo việc lễ cưới. Rồi sai tỳ nữ đưa nàng về, nghe xa xa có tiếng gà gáy lại sai dắt ngựa tới tiễn sinh ra.
Sinh đi được vài bước, ngoảnh lại thì nhà cửa xóm làng đã biến mất, chỉ thấy cây cối um tùm, cỏ hoang mộ lở mà thôi, định thần ngẫm nghĩ hồi lâu mới nhớ ra chỗ đó là mộ quan Tuần Vũ họ Lê vốn là em trai của bà nội. Thái thái là vợ của Tuần Vũ họ Lê cho nên sinh phải gọi bằng bà mợ. Lúc ấy sinh biết mình đã gặp ma. Bèn than thở quay về, theo ngày ghi trong thiệp mà chuẩn bị lễ cưới nhưng vẫn thầm nghĩ cảnh tượng thật giả khó phân. Chàng lại tới ngôi chùa cổ xem thì trong ngoài vắng tanh, hỏi thăm thì người ở đó nói trong chùa thường có hồ ly. Sinh nghĩ thầm nếu được vợ đẹp thì có là hồ cũng tốt.
Đến ngày đã định liền cho dọn phòng quét ngõ, sai người nhà thay phiên nhau ra ngóng, đến nửa đêm vẫn yên lặng, sinh đã hết trông chờ. Giây lát nghe ngoài cổng ồn ào, lật đật ra xem thì kiệu hoa đã ngừng ở sân, hai a hoàn đỡ cô gái vào phòng, của hổi môn không có gì đáng giá chỉ có hai người tớ trai khiêng một cái bồ lớn ghé vai đặt xuống góc phòng khách. Sinh mừng được vợ đẹp, không nghĩ gì tới việc khác loài, nhân hỏi cô gái :
-"Một người đã chết như vậy sao nhà nàng quá phục tùng thế?”.
Nàng đáp:- “Quan Tuần Vũ họ Lê hiện làm Tiết Độ sứ Âm cung, hồ ly, ma quỷ trong vài trăm dặm đều phải theo lệnh".
Sinh nhớ cái ơn làm mối, hôm sau tới tế mộ ông bà, lúc về thấy hai tỳ nữ đem tới một tấm gấm hồng tới mừng, đặt lên bàn rồi đi. Sinh kể lại cho Hồng Sương nghe, nàng xem tấm gấm rồi nói "Đây là tặng vật của thái thái đấy".
-“Hôm trước công tử tới, thiếp nhìn trộm qua kẽ vách thấy người ấy mắt lươn, mũi ưng không thể thân cận, chàng đừng đi", sinh nghe theo. Hôm sau công tử tới trách sinh lỗi hẹn, nhân khoe bài văn mới làm. Sinh bình phẩm có ý giễu cợt, công tử cả thẹn không vui, kế chia tay. Sinh vào phòng cười kể lại, cô gái buồn bã nói:- “Công tử độc ác như sài lang, không nên trêu chọc. Chàng không nghe lời thiếp thì sắp gặp tai vạ ”. Sinh cười xin lỗi nàng.
Rượu được vài tuần, dàn nhạc ra tấu dưới thềm, tiếng đàn sáo tưng bừng, chủ khách đều rất vui vẻ. Bỗng công tử nói với sinh: “Lời ngạn có câu :Trong trường thi và trong cuộc rượu chớ bàn văn chương hơn kém", nay mới rõ câu ấy là sai. Sở dĩ mới rồi tiểu sinh may mắn đỗ trên ông là nhờ vài câu khởi đề cao hơn một bực mà thôi".
Công tử nói xong, cả tiệc đều cất tiếng khen ngợi. Sinh đang say không nhín được, cười rộ nói :-“Mãi đến nay ông mới nhờ văn chương mà thành đạt tới mức ấy à?"
Khi tỉnh rượu hối hận bèn kể lại cho vợ, nàng không vui, nói :
-"Chàng thật là kẻ quê mùa, thô lỗ. Phàm lấy thái độ khinh bạc đối xử với bậc quân tử thì tổn đức, đối xử với kẻ tiểu nhân thì hại thân, tai họa sắp tới cho chàng không còn xa đâu. Thiếp không nỡ thấy chàng lưu lạc, từ nay xin giã biệt".
Sinh lo sợ sa nước mắt tỏ ý ăn năn, nàng nói "Nếu muốn thiếp ở lại thì chàng phải hứa là từ nay trở đi đóng cửa tuyệt hết bạn bè, không uống rượu say sưa nữa”. Sinh kính cẩn theo lời.
-Chàng được quan tổng đốc mời tham dự hội đồng tư vấn là một vinh dự. Nhưng tính chàng hiếu thắng, ăn nói không giữ gìn, làm mất lòng nhân sĩ, sinh ra thù oán. Thiếp lấy làm lo lắng. Xin chàng ra nơi hội họp, nên uốn lưỡi bảy lần trước khi nói, hoặc im lặng là vàng thì mới bảo toàn tính mạng!
Hội đồng tư vấn mở ra rộng rãi. Sĩ, nông, công, thương, đương chức hay hưu trí đều có thể được mời tham dự, cứ sáu tháng họp một lần tại dinh tổng đốc, bàn về kinh tế, văn hóa, chính trị, công, nông, nghiệp trong trấn. Trong triều đình có Ngự sử đài gồm mười hai viên Ngự sử chuyên việc phê bình những sai trái của vua quan. Hội đồng tư vấn trấn cũng có nhiệm vụ tương tự để phê phán hoặc góp ý về các công việc trong trấn và trong nước.
Nhân dân trong trấn ta thán nhiều điều. Quan Huấn Đạo nghe được bèn phát biểu trong hội đồng Tư Vấn. Ngài chỉ trích quan Tổng trấn bất lực. Quan Tổng trấn đã xuất hàng trăm lượng vàng cho bọn thủ hạ đứng ra xây cầu, làm đường. Bọn chúng chỉ bỏ ra vài lượng vàng mua gỗ tạp, và vôi xấu, làm cầu vài tháng thì cầu sập. Đường sá làm xong qua một mùa mưa thì hư hại. Cứ làm mãi như thế mà quan Tổng trấn không hề trừng phạt kẻ gian dối mà còn bao che. Quan cũng chỉ trích các quan trong trấn tham ô, chiếm công vi tư. Nhiều Tri phủ, tri huyện, Đề Đốc phá núi rừng bán gỗ, bán đất và cướp tài sản nhân dân. Quan cũng phê phán gay gắt giáo dục trong trấn và trong nước. Trong nước lúc bấy giờ cần tiền, triều đình ra lệnh ai nộp ba trăm quan tiền gọi lả lệ "thông kinh" thì được đi thi, khỏi khảo hạch gì cả. Ai nộp trăm lượng vàng hoặc đại thần, hoặc con cha cháu ông, hoặc con phú thương đều đỗ tiến sĩ mặc dầu các tiến sĩ này không biết chữ nhất là một. Quan cũng chỉ trích triều đình nhường mười hai châu miền Bắc cho Trung Quốc.
Thái độ cương trực của quan Huấn Đạo được nhân dân trong nước hưởng ứng. Trên tường trắng, gốc cây khắp nơi đã có những bài thơ chế riễu vua quan. Chẳng hạn như bài thơ Vịnh Vườn Bách Thú sau đây:
Dưới đám cây xanh một dãy chuồng,
Mỗi chuồng nuôi một thú chim muông .
Khù khì vua cọp no nằm ngủ,
Nhớn nhác đàn hươu đói chạy cuồng .
Lũ khỉ được ăn , bày lắm chuyện ,
Đàn chim chực miếng hát ra tuồng .
Lại còn gấu dại vài ba chú ,
Hì hục tranh nhau một cục xương!
Dân chúng càng hoan hô thì hai ông bà càng buồn rầu. Bà bảo ông:-Tai họa đến rồi!
Ông than thở với bà:
-Ta một đời trung quân ái quốc, thề diệt lũ phản quốc, sâu dân mọt nước. Ta theo chính đạo một lòng nhân, nghĩa, dũng, đảm, dù chết cũng cam lòng. Chỉ hận rằng ta đã phụ nàng, ta không được cùng nàng trăm năm đầu bạc!
Vua quan trong triều và ngoài trấn đều tức giận Lương đã động chạm đến thế lực và quyền lợi của phe nhóm họ. Văn tri huyện bèn tập họp những người chống lại Lương Huấn Đạo. Văn cùng đồng bọn viết sớ đồng ký tên tâu vua về những hành động phản động của Lương Huấn Đạo. Cùng lúc đó, trong trấn và các nơi đều gửi đơn lên tổng trấn và triều đình tố cáo Lương Huấn Đạo tham nhũng, đã thu của dân hàng ngàn lượng vàng. Cũng có hàng chục đơn tố cáo quan Huấn Đạo hãm hiếp hoặc sách nhiễu tình dục. Một đêm nọ, quan Huấn Đạo đương ở nhà thì quan quân ập đến bao vây nhà. Họ xét thấy trong nhà quan có hàng đống dao, mác, côn, chùy, cung tên, và thấy hàng ngàn lượng vàng, trong đó có vàng của ngân khố hoàng gia. Quan bị bắt giải lên trấn, trấn giải lên kinh đô. Quan thượng thư bộ Hình xét án, kết án Lương Huấn Đạo, trong đó những tội là:
-Hãm hiếp và sách nhiễu phụ nữ,
-Ăn cướp, ăn cắp ngân khố
-Tham ô, ăn hối lộ
-Chống triều đình, âm mưu phản loạn.
Bộ Hình xử tội chém, tịch thu gia sản, vợ con thì sung làm quan nô, quan tỳ. Quan có vợ mà chưa có con. Văn tri huyện nhân cơ hội này xin triều đình thu nhận Lương phu nhân làm quan tỳ nhưng khi lính đến nhà thì Lương phu nhân biệt tích. Đêm đó, Văn tri huyện ngồi uống rượu với đồng bọn thì bị cái xà nhà của tửu quán rớt xuống trúng đầu mà chết.
Nói về Lương phu nhân, khi nghe tin chồng bị bắt giam thì bà tỏ ra không sợ hãi. Dân trong trấn cho bà là người bội bạc. Có người nói rằng bà có tư tình với Văn tri huyện, âm mưu hãm hại chồng mình. Sự thật thì bà đã thắp hương cầu cứu Thái Cực Tiên ông. Tiên ông bảo:-Để ta xem, nếu kiếp trước và kiếp này nó lương thiện thì ta sẽ cứu. Nếu nó làm ác thì ta đây cũng bó tay.
Ngày xử chém đã đến. Quan hình bộ đã ném thẻ "trảm quyết", và đao thủ đã hươi đao. Bỗng từ đâu hai con bạch hổ chạy đến, cắn giây trói và tha quan chạy đi, pháp trường rối loạn.
Ít lâu sau, có người nói thấy hai vợ chồng quan ở động Phong Nha. Lại có người thấy hai ông bà ở chùa Thiên Mụ. Cũng có kẻ nói thấy hai ông bà trong núi Hồng Lĩnh. Lại có người bảo gặp hai ông bà ở núi Tản Viên. Ai cũng cho rằng hai ông bà đã thành tiên, tháng ngày tiêu dao, lánh xa cuộc thế!
Từ đó, hai chàng xa cách nhau và cũng it thư từ qua lại. Vài năm sau, Mai Thế Hòa thi đỗ tú tài, làm lại viên trong dinh quan Bố Chánh, cưới vợ là con quan huyện sở tại. sinh được ba trai, hai gái.
Ông tú Hòa say mê ca nhạc, tửu sắc. Ngài thường cùng các quan viên trong phủ, huyện lân cận nghe hát ả đào. Nhà hát mà ông hay lui tới do một ả đào già cai quản, tên là Mai bà. Không ai biết bà quê quán ở đâu, nghe giọng nói của bà, người ta đoán là người Bắc. Dưới tay bà có năm cô đào thanh sắc tuyệt vời. Ông tú mê nhất là cô đào Mai Hoa. Ông đã đưa nhiều bài thơ cho nàng ca, lời lẽ tha thiết, như bài sau:
Nhớ Người
Giai nhân nan tái đắc
Trót yêu hoa nên dan díu với tình
Mái Tây hiên nguyệt gác chênh chênh
Rầu rĩ bấy xuân về, oanh nhớ
Phong lưu tài tử đa xuân tứ
Trường đoạn tiêu tương nhất chỉ thư
Nước sông Tương một dải nông sờ
Cho kẻ đấy, người đây mong mỏi !
Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi !
Chữ chung tình biết nói cùng ai ?
Trót vì gắn bó một hai ....!
Hai bên gắn bó với nhau. Bỗng một hôm Mai Hoa buồn bã. Nàng khóc mà nói:
-Tình duyên giữa chàng và thiếp đến nay phải đứt đoạn , thiếp xin bái biệt.
Ông tú ngạc nhiên hỏi tại sao. Nàng thưa rằng mẹ già ở quê bệnh nặng, gửi thư gọi nàng về. Ông tú hỏi nàng bao giờ trở lại. Nàng nói thân gái tuỳ lệnh mẹ cha, nàng không quyết định được. Ông tú lúc đó mới thấy ông rất cần nàng, ông van xin nàng ở lại. Nàng thưa rằng vì chữ hiếu phải về, không thể trái lệnh mẹ cha. Ông tú bèn nói:
-Ta rất yêu nàng. Nếu nàng trở lại thì ta sẽ cưới nàng làm hầu thiếp.
Mai Hoa bằng lòng, nàng hứa hẹn ba tháng hay nửa năm sau sẽ trở lại.
Quả nhiên, ba tháng sau nàng trở lại. Ông tú giữ lời hứa thu nạp làm thiếp. Gia đình của ông tú vui vẻ thuận hòa. Nhưng ba năm sau, vợ cả của ông và con trai đầu của ông lăn ra chết đột ngột. Ông đau khổ vô cùng.
Một hôm, ông tú nghe trẻ vào báo tin có Trương tiên sinh đến. Hai bạn cũ gặp nhau vui vẻ. Ông tú sai trẻ mang trà rượu ra mời bạn. Ngồi một hồi, Trương nói:
-Nhà của bạn có yêu khí mà hoạ diệt gia sẽ xảy ra không lâu.
Ông tú không tin lời bạn vì xưa nay ông vẫn không thích chuyện bói toán, ma quỷ. Nể bạn, ông hỏi:-Tại sao anh biết được?
Trương đáp:-Tôi có học qua thuật phong thủy, thấy nhà bạn đầy sát khí, nếu không lo cho mau thì vài tháng, hoặc một năm sẽ liên tiếp có người bệnh hay chết.
Ông tú hỏi:-Theo ý bạn thì phải làm sao? Bạn có thể ra tay trừ yêu quái không?
Trương đáp:-Tôi chỉ biết thuật phong thủy. Còn việc trừ tà phải nhờ đến Lục chân nhân, thầy tôi thì mới được.
Ông tú hỏi:-Lục đạo nhân ở đâu?
Trương đáp:-Thầy tôi ở đền Bát Quái trên Ngũ Hành Sơn.
Nghe theo lời Trương, hôm sau ông tú cùng Trương âm thầm đi Quảng Nam. It hôm sau, hai người rước Lục chân nhân về. Lục chân nhân bước vào cửa đã lắc đầu mà nói:
-Ở đây yêu khí nặng nề. Trong nhà này chắc chắn có yêu tinh hay hồ ly ẩn náu. Và trong nhà, nhiều người đã trúng tà.
Lục đạo nhân đi khắp nhà xem xét. Đoạn ông yêu cầu được gặp mặt hết mọi người trong nhà. Ông tú theo lời, gọi tất cả con trai con dâu, thiếp, gia nhân tới sảnh đường. Lục đạo nhân nhìn kỹ từng người, tới Mai Hoa thì đạo nhân ngửa mặt cười lớn không thôi. Mọi người đang kinh hãi thì thấy Mai Hoa nhảy tới cào vào mặt đạo trưởng, và phun khí đen vào mặt đạo trưởng. Đạo trưởng cầm phất trần đánh tới, trúng đầu, Mai Hoa ôm đầu, run rẩy tái mặt, thân hình chợt co rúm lại chỉ còn bằng con chó con. Lăn lộn một lát, nàng hiện hình thành con cáo lông đỏ, mặt trắng, đuôi vàng. Đạo trưởng nắm đầu cô ta xem sau gáy, thấy có một dãy kim nhọn như là lông nhím. Đạo trưởng bèn nhổ hết. Con Cáo run rẩy, khóc lóc. Đạo trưởng bèn bỏ nó vào hồ lô.
Tiếp theo đó, đạo trưởng cùng tú tài vào phòng riêng. Đạo trưởng lần lượt khám từng người. Lúc này, trong nhà còn hai người con trai, một cô dâu, còn hai con gái đã xuất giá. Người đầu tiên được khám là con thứ của tú tài. Nhìn sắc diện, đạo sĩ nói:
-Cháu bị trúng độc nặng. Hãy cởi áo ra. Người con thứ vâng lời cởi áo thì mọi người thấy trên lưng hiên hai ngôi sao đỏ to bằng hạt đậu xanh.
Đạo trưởng bảo:- Cháu trúng độc nặng, ba tháng nữa thì chết.
Đến người con trai thứ ba thì đạo trưởng xem mạch, rồi bảo:
-“Cháu nhẹ hơn anh cháu. Hãy cởi áo ra. Người con trai thứ ba bèn cởi áo , thì thấy có một ngôi sao đỏ màu nhạt.
Đến lượt người con dâu, đạo trường bảo:
-Cháu bị tà khí nặng lắm, hãy cởi áo cho ta xem. Người con dâu xấu hổ không chịu vén áo lên, con trai của tú tài phải ép vén lên, thấy trên lưng có ba ngôi sao đỏ đậm.
Đạo trưởng bảo:- Trong một tuần nữa thì không thoát tai nạn.
Xem đến con dâu thứ hai, đạo trưởng nhìn mặt và xem mạch thì cười bảo:
-Cháu không trúng độc.
Đạo trưởng bảo nàng cởi áo ra thì không thấy dấu vết gì đặc biệt.
Đạo sĩ bèn làm phép trừ tà, và cho mọi người uống thánh dược. Đạo sĩ bảo từ nay không còn lo hoạn nạn nữa.
Đạo sĩ quay lại tìm hồ lô thì thấy hồ lô nhẹ tênh. Đạo sĩ bảo con này pháp thuật cao cường đã bỏ trốn rồi nhưng đã bị nhổ độc châm nên không thể làm hại ai và cũng không còn pháp thuật. Nó chỉ loanh quanh đây thôi. Đạo sĩ bèn cùng gia nhân đi tìm kiếm khắp nơi. Khi đến chuồng gà thì thấy có một con gà lông đỏ, đuôi trắng mà lại chân cáo. Đạo sĩ bèn hô to:
-Nó đây rồi.
Đạo trưởng bèn bắt ấn trói chồn tinh, dùng lửa tam muội đốt chết nó.
Công việc trấn trừ và trị tà xong xuôi, chủ nhân mời đạo sĩ dùng cơm chay. Trong khi ăn, tú tài hỏi đạo trưởng:-Thưa đạo trưởng giống hồ này sao lại muốn giết người như vậy?
Đạo trưởng đáp:
-Loài yêu này không phải tầm thường. Đây là loại mới từ địa ngục lên. Chúng nó sinh ra từ các xứ phía bắc Trung Quốc, sau tràn vào Trung Quốc mà qua Việt Nam. Các thứ ma quỷ chuyên hút tinh khí người để bồi dưỡng nguyên thần và nâng cao công lực. Còn thứ này khác hơn, cao hơn, ác hơn. Chúng giết hàng triệu người để trừ những thế lực chống đối và những ai bất tuân. Chúng giết người không cần có tội hay không có tội mục đích là khủng bố. Còn lại thì chúng dùng mê dược làm cho điên đảo tâm thần, mất lương tri, tin vào bọn Cáo và coi Cáo như là thần thánh, cam tâm làm nô lệ cho chúng.
May phước nhà ông mới chết hai người, nếu để lâu thì nhà ông bị bọn Hồ ly chiếm, bản thân ông, dâu con ông bị giết, bị làm nô lệ cho yêu hồ!
*
No comments:
Post a Comment