Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê
Trần Đức Thảo - Những Lời Trăng Trối
Tài
liệu tham khảo chính yếu : Trần Đức Thảo –
Những Lời Trăng Trối
Tác
giả : Tri Vũ – Phan Ngọc Khuê
Do
Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ ấn hành năm 2014
Sách
dày 428 trang – giấy trắng, khổ chữ 12 – bìa giấy màu vàng.
CỐT LÕI NHỮNG LỜI TRĂNG TRỐI
BẢN VIỆT NAM THƯ QUÁN
SƠN TRUNG
tuyển chọn
Các
anh không cần thấm nhuần các quy luật tư duy triết học ấy, nhưng ít ra
thì các anh cũng nên hiểu rằng quy luật tư duy ấy là phương pháp gạn lọc
những kinh nghiệm, những hành động trong sự vận động của cách mạng
trong thời gian. Việc vừa làm xong, vừa thực hiện được thì không nên coi
nó như đã vĩnh viễn hoàn hảo. Phải coi việc đó, cách làm đó là còn có
thể cải thiện, bằng cách chỉ giữ lại những gì là tốt, và loại bỏ ngay
những gì bị coi là xấu. Nhờ sự cảì thiện thường xuyên ấy, tức là từng
bước phủ định phần xấu mà ta vừa làm, để ta có một cái gì mới tốt hơn
cái đã đạt được. Như vậy là ta luôn luôn phải phủ định một phần những gì
đã làm để đạt tới những cái mới ngày càng tốt hơn, ngày càng sáng sủa,
ít xấu hơn. Quy luật phủ định của phủ định đòi hỏi sự vận hành cách mạng
không được ngưng lại ở một chính sách, hoặc ở một tổ chức, một cơ chế
vĩnh viễn nào cả. Không có cái gì cứ đứng yên một chỗ, bất biến, cố
định, là vĩnh viễn đúng, vĩnh viễn tốt. Tất cả phải diễn biến theo quy
luật phủ định của phủ định trong thời gian. Điều này thật là quan trọng
đối với từng cá nhân, nhưng nó càng quan trọng đối với một chính sách
của “đảng”, của nhà nước… Tôi nói khái quát như vậy, không biết các anh
có chấp nhận được không? (Ch.II)
SỰ CHIA CẮT VÀ HẬN THÙ
BẮT KÊ KHAI LÝ LỊCH
BẢN VIỆT NAM THƯ QUÁN
SƠN TRUNG
tuyển chọn
VỀ VIỆT NAM LÀM CÔNG TÁC GÌ?
Vậy
những bài vở và công trình biên khảo mà bác đã cho xuất bản ở ngoài này
không phải là những công trình chính mà bác đã dày công nghiên cứu ở
trong nước sao? Ở trong nước, bác chỉ được dạy học trong một thời gian
rất ngắn, khoảng gần hai niên học thôi. Vì bác đã bị đỉnh chỉ công tác
sau hai bài báo đụng tới vấn đề dân chủ… Vậy suốt trong mấy chục năm còn
lại, tức là từ năm 1956 cho tới nay, thì bác đã dùng thời gian dài ấy
để làm gì?
-
Anh thắc mắc như vậy là rất đúng. Tôi chỉ được dạy học trong một thời
gian rất ngắn. Sau đó là bị sống quản chế với những canh chừng, rình rập
gắt gao. Muốn công khai nói năng, viết gì thì cứ việc… nhưng quyền lực
cấm tôi tuyệt đối không được đụng tới chính trị, không được đụng tới
cách mạng! Thế nên tôi đã phải câm nín về chính trị, về cách mạng ròng
rã trong hơn ba chục năm.
Trong
thời gian sống như bị lưu đầy, bị ức chế câm nín ấy, cái đầu của tôi
vẫn như một động cơ quay với tốc độ cao. Nó vẫn cứ nghiên cứu, có trải
nghiệm… để nghiền ngẫm, để phác thảo ra một công trình có thể cô đọng
trong một cuốn sách. Có thể nói là tôi sẵn sàng vứt bỏ hết những gì đã
viết từ trước tới nay, để chỉ lưu giữ lại một cuốn sách này… Vì cái phần
nghiên cứu, lý giải trong câm nín, trong im lặng này mới thật là một
công trình súc tích, có trọng lượng, thật là dày công sức của trái tim
và khối óc! Bởi những cái đó đã dằn vặt, nghiền nát tôi hằng ngày. Giờ
đây nó đang bùng nổ, đang được trải ra qua từng trang giấy…
-
Bác đã nhấn mạnh cồng việc quan trọng của bác không phải là nghiên cứu
những cái đã được công bố ở nước ngoài, vậy thì cụ thể là bác đã bỏ công
nghiên cứu cái gì?
-
Là nghiên cứu những cái của thực tại thô bạo, thực tại đau đớn, thực
tại khổ cực của dân chúng, nó đã diễn ra trong quá trình cách mạng xã
hội chủ nghĩa, qua hai cuộc chiến tranh, qua công cuộc đổi mói đang diễn
biến, quay cuồng cho tới nay… Thực tại đó nay vẫn rất tàn nhẫn. Cái
nghiên cứu đó mới thật là quan trọng.
-
Cụ thể những thực tại quan trọng đó là gì? Bác có thể nói thẳng ra vài
thí dụ được không? Chúng tôi vì quý bác, thương bác mà thắc mắc như vậy.
Bởi ai ở đấy cũng đã nghe đồn đại về những nỗi khổ tâm, khổ trí của bác
ở quê nhà, nên cứ nghĩ là sự chọn lựa trở về của bác hồi ấy là một sai
lầm, thật sự là một thất bại. Vì nó đã phá tan sự nghiệp triết học lừng
lẫy đã có của bác. Vậy xin thành thật hỏi bác, bác đã về để phải sống
như thế để làm gì? Sao lúc đó bác không tìm đường bỏ đi, trốn đi?
-
Thật sự là lúc này rất khó giải thích một cách ngắn gọn cho hai anh
hiểu. Tôi đã về nước với mộng ước được tham gia cách mạng, để trải
nghiệm tại hiện trường về những gì mà tôi đã đặt thành mục tiêu, thành
nhiệm vụ nghiên cứu, ngay từ trước khi quyết định trở về tham gia kháng
chiến và cách mạng. Trở về là để có dịp sống trong cách mạng, để so sánh
với những gì đã xảy ra trong cuộc Cách mạng Tháng Mười ở Nga. Với những
hiểu biết phê phán đã có về cuộc cách mạng ấy, tôi tâm nguyện về quê
hương để nghiên cứu thực tại, với hoài bão đóng góp xây dựng ở nước ta
một mô hình cách mạng trong sáng, mà chẳng những dân ta mà là cả nhân
loại mong đợi. Trong thực tế, sách vở có thể mang lại tiếng tăm. Điều
này không quan trọng. Điều quan trọng là sự trở về xứ sở đã giúp tôi
trải nghiệm một thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự đau khổ của con
người bị kìm kẹp bởi ý thức hệ. Nhất là ngay khi đặt chân trở lại trên
mảnh đất quê hương ở ATK (an toàn khu), thì người ta đã tìm đủ cách để
cấm cản tôi làm công việc trải nghiệm quan trọng đó…
- Công việc trải nghiệm quan trọng đó là gì?
-
Cái đó chưa thể nói rõ, nói hết là vào lúc này, vì chưa phải lúc. Hai
anh nên kiên nhẫn chờ cuốn sách mà tôi đang biên soạn. Tôi cam kết với
hai anh là việc hoàn thành cuốn sách nảy sẽ là một sự kiện quan trọng.
Vì nó đáp úng khát vọng lớn nhất của đời tôi. Vì lần này là tôi muốn nói
lên hết những vấn đề then chốt của cuộc cách mạng do lý thuyết và lý
luận Mác-Lê chỉ đường. Nay vì chưa hoàn tất, chưa xuất bản được cuốn
sách, nên tôi rất bồn chồn, lo lắng, nóng lòng. Thôi ta thay đổi đề tài
nói chuyện đi kẻo nó dẫn tới những điều chưa thể nói vào lúc này. Các
anh nên nhớ là tôi về nước là để tham gia cách mạng chứ không hề có ý
làm việc gì khác. Và cho tới nay, tôi vẫn chưa được nói và viết gì về
công tác chính yếu này… trừ hai bài báo và một tập biên khảo nhỏ đã được
xuất bản ở trong nước. Những cái đó cũng đã làm cho tôi khó sống…Ch.
II,
TẠI SAO TRỞ VỀ VIỆT NAM 40 NĂM TRƯƠC
Canh hỏi:
-
Bây giờ muốn hỏi bác tại sao bác quyết định trở về quê hương hơn bốn
chục năm về trước, và cả sự chọn lựa trở lại Paris lần này. Bác có thấy
ân hận gì không? Phải chi hồi ấy bác cứ ở lại Paris, thì bây giờ bác đã
có một địa vị lớn trên diễn đàn triết học thế giới rồi.
-
Hồi ấy, tôi đã trở về xứ sở với một đầu óc hăng hái, đầy lạc quan tin
tưởng của tuổi trẻ. Cứ nghĩ thể nào cụ Hồ cũng phải ngạc nhiên về những
hiểu biết của tôi. Bởi tôi đã có những nghiên cứu sâu rộng về cuộc cách
mạng tháng mười ở Nga, mặt khác, tới đã có một vốn hiểu biết vững chắc
về tư tưởng của Karl Marx. Với lòng hiếu thắng bồng bột, ngông cuồng đến
mức cuồng tín, tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã
đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để
có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh
ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà
loài người mong đợi! Nhưng khốn khổ cho tôi là khi về tới quê hương, thì
tôi đã va chạm vào một thực tại hoàn toàn đóng kín, nó đã làm tôi bị vỡ
mặt và vỡ mộng. Thời gian ấy, tôi đã phải trải qua những giờ phút chao
đảo lập trường. Đấy là giai đoạt tuyệt vọng nhất của đời tôi. Nhưng rồi
tôi bình tĩnh phân tích hoàn cảnh và những nhược điểm của mình, dần dần
nhận biết sự thật, để đặt ra những câu hỏi sát thực tế… Rồi tử chỗ tuyệt
vọng đó, tôi đã lấy lại được thăng bằng, khi ghi nhận rằng nếu không
trở về thì làm sao biết là mình đã có những cái nhìn thiển cận, đã sai
lầm một cách đần độn, cuồng tín đến như thế. Rồi sau thì tôi phải nhìn
nhận rằng sự trở về ấy là cần thiết, là một chọn lựa đúng. Không sống
trong tội ác bế tắc của cách mạng, thì làm sao biết là đã có sai lầm.
Bởi những gì đọc trong sách vở, những gì nghe truyền đạt qua guồng máy
tuyên truyền, thì tất cả những điều ấy đều không phái là trăm phần trăm
sự thật. Cả việc bị đẩy trở lại Paris lần này cũng vậy. Đó là những bước
đường trải nghiệm, tuy thật là gian nan, nhưng đã giúp tôi thức tỉnh để
rồi nhận thức được những sai lầm cơ bản của cách mạng và của chính tôi.
Và từ đó, tôi đã đạt tới một số kết luận cố tính triết học cao và vững
bền. Thật sự là cho tới nay, tôi không hề hối hận gì về việc hồi đó đã
bỏ Paris để về quê hương, và cả bây giờ lại phải trở qua Paris. Tuy có
lúc, ở Hà Nội, tôi đã sống những ngày tháng tuyệt vọng, mất phương
hướng, như đang phiêu lưu, lạc lõng trong tình trạng rối loạn tâm lý, bế
tắc trong tư tưởng. Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất
lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn
tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải
đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng
hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh… Trạng thái đó đã giúp tôi
đứng dậy đươc. Bởi trong thời gian chao đảo, khủng hoảng ấy, trong đầu
tôi luôn luôn có một cuộc tranh cãi bùng lên dữ dội. Một cuộc tranh cãi
giữa cái tôi triết học, cái tôi mác-xít, cái tôi cách mạng, về thực tại
phũ phàng trước mắt. Trước những sự kiện, những hậu quả đen tối, những
lý luận nguỵ biện, những hành động dối trá, độc ác không thể chấp nhận
ấy, thì tôi cứ tự chất vấn tôi:
- Triết học là như vậy sao? Chủ nghĩa Mác là như vậy sao? Mục đích của cách mạng là như vậy sao? Rồi chính tôi đã tự trả lời:
-
Không! Triết học không phải là như vậy. Nhưng có khi chủ nghĩa Mác khi
triển khai như thế thì cách mạng phải là như vậy. Nghĩ như thế, xét cho
cùng, tức là tôi đã bắt đầu có thái độ nghi ngờ mang tính khoa học.
Nhưng tôi vẫn chưa lý giải được rành mạch là tại sao. Những thắc mắc
tích tụ ngày càng nhiều thì chúng càng như tăng sức thúc đẩy tôi phải cố
tìm hiểu tại sao. Khi chưa có lời giải đáp thì tôi lại tự hỏi: Phải
chăng là vì ta chưa biết đặt đúng vấn đề?
Bước
đầu thức tỉnh như thế, đã làm tôi không còn thấy là mình bị lạc lõng
nữa. Vì khi đã biết là chưa đặt đúng vấn đề, tức là chưa nhận ra hướng
để tìm kiếm. Từ đó tôi biết mình sẽ phải dồn tầm trí để làm gì. Tuy công
việc suy tư ấy không dễ dàng vì hàng rào canh chừng rất gắt ở chung
quanh, nhưng tôi vững tin chắc chắn có ngày sự suy nghĩ tìm tòi của tôi
sẽ ra hoa, sẽ kết quả…
- Thế thì từ khi trở về nước tới nay, bác đã biên soạn được gì cụ thể gọi là đáng kể chưa?
-
Thành thật mà nói thì ở trong nước, tôi chưa viết ra được gì là đáng kể
cả. Bởi như các anh đã biết, tôi đã bị gạt ra bên lề sinh hoạt chính
trị ngay từ đầu. Chỉ mới viết hai bài báo đề cập khái quát tới dân chủ
thôi, mà đã bị chúng nó xúm vào đấu tố tưởng đã mất mạng. Thể nên mọi
suy tư, trải nghiệm là phải giấu kỹ trong đầu. Mà những gì tôi làm trong
đầu, đều toàn là những nghiên cứu dựa trên thực tại thật là sống động,
thật là độc lập về mặt triết học thực nghiệm, để hướng về tương lai. Đây
là một công trình nghiên cứu rất cơ bản, rất thực tế. Nếu nói về ảnh
hưởng thì có lẽ tôi cũng đã đóng góp được phần nào khi gián tiếp chỉ ra
cho chung quanh thấy một số sai trái rất nghiêm trọng, cho họ hiểu là
nếu, không chịu thay đổi hẳn tư duy, thấy đổi toàn diện chính sách thì
cả nước sẽ không thoát ra được tình trạng bế tắc tư tưởng, hỗn loạn xã
hội, phải sống túng thiếu, đói khổ triền miên. Nhất là từ sau ngày 30
tháng tư 1975. Cái mốc thời gian ấy đã dánh dấu lúc toàn khối xã hội chủ
nghĩa, vốn đã rệu rã, đã khánh kiệt, nay đang bắt đầu bước dần tới nguy
cơ tan rã. Bởi sau cái ngày 30 tháng tư, 1975 đó, Liên Xô và cả khối
Đông Âu xã hội chủ nghĩa không còn cái chiêu bài chính đáng để bắt dân
chúng phải tiếp tục hi sinh, thắt lưng buộc bụng nhằm chi viện cho các
công cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Mỹ nữa. Dân chúng bắt đầu bạo dạn và
cương quyết xuống đường đòi tự do và bánh mì! Tình trạng khủng hoảng tư
tưởng trầm trọng này bắt đầu đưa tới hỗn loạn ở Đông Âu, Hồng quân đãi
phải trực tiếp nhảy vào can thiệp băng vũ lực, dẫn tới lúc bức tường Bá
Linh sụp đổ, đưa tới kết thúc các cuộc cách mạng theo tư tưởng Mác-Lê…
Chính những sự hỗn loạn ấy đã làm cho khối Liên Xô suy sụp ngay từ bên
trong. Không phải ngẫu nhiên mà Đặng Tiểu Bình đã dứt khoát ngả sang
phía tư bản. Ngay cả ở nước ta, nếu không sớm cố vận động, cố chấp nhận
mọi điều kiện điều đình, để Mỹ nổ bỏ cấm vận, thì ta cũng sẽ rơi vào hỗn
loạn và cùng lắm thì cũng sẽ vẫn cố định trong tình trạng trì trệ, đói
khổ, bế tắc xã hội như ở bắc Triều Tiên hay Cuba thôi. Tỏm lại là nếu
hồi đó tôi không tự ý về quê hương để hiểu rõ thực tại, không được nhìn
thẳng vào sự thật, không sống trong sự thật của cuộc cách mạng đầy mâu
thuẫn, đầy sai lầm ấy, thì làm sao nhận hiểu ra những sai lầm cơ bản của
chính tôi. Và cả khi phải ra đi như lần này. Nếu không chấp nhận ra đi,
thì tôi không thể đạt tới trình độ tu duy để đạt tới thành quả về mặt
triết học như hiện nay. Những trải nghiệm xuyên qua kiểm nghiệm phát
triển cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ kháng chiến và xây dựng
cách mạng ở quê nhà đã tạo cơ hội cho tôi dầu dần thấy rõ sai trái bắt
đầu từ học thuyết, từ ý thức. Sự bế tắc của cách mạng và của chính tôi
là do ý thức giải phóng con người bằng đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai
cấp. Đấy là một mô hình cách mạng không tưởng, không nền tảng duy vật
sử quan!… Không tưởng vì cả tin vào sự đam mê cuồng tín, cả tin vào khả
năng giải phóng bằng bạo lực của hận thù. Cho tới khi bị coi như là một
kẻ phản động, bị nghi là “kẻ do địch cài vào hàng ngũ cách mạng” thì từ
đó tôi mới nhận ra sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do
chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính. Sự chuyên chính
ấy đã đóng kín mọi chân trời, đã không ngừng đẩy những con người chân
thật, không chấp nhận dối trá, sang phía thù địch. Và từ đó tôi nhận ra
đấy là những sai lầm tai hại, bế tắc của chính tôi. Nhờ được chứng kiến,
được sống sát cánh với những con người đau khổ không có ai, không có gì
bảo vệ, như đã thấy trong cuồng phong cải cách ruộng đất… Từ đó, tôi
bắt đầu nhận thức rằng giá trị một ý thức hệ không thể so sánh với mạng
sông của con người, nhất là đối với con người bị oan ức, con người bị
trù dập, bị bóc lột, hoàn toàn bất lực, vô phương tự vệ. Một ý thức hệ,
dù thế nào thì nó chỉ có giá trị của một dụng cụ. Một dụng cụ làm sao nó
có thể so sánh với giá trị của một mạng sống? Nhất là một mạng sống
trong oan ức, đau khổ? Vì vậy mà tôi thấy là không thể hi sinh con người
cho bất cứ một thứ ý thức hệ nào. Trước nỗi đau của con người tuyệt
vọng vì ý thức hệ, thì chính cái ý thức hệ ấy cũng cần phải được rà xét
lại, để cải đổi hoặc để đào thải. Nhờ sự tỉnh thức như vậy, mà bây giờ
tôi đã tìm thấy được con đường đưa tới gần chân lý. Chính những sai lầm
cơ bản về tư duy đã đưa tới những hành động gây đau khổ cho con người,
đã dẫn tới sợ sụp đổ của ý thức hệ, rồi là của khối xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu… Nói rõ ra thì dài dòng lắm! Cảm ơn hai anh đã lo lắng cho hoàn
cảnh của tôi. Tôi luôn luôn thấy mình, trong mọi cơn gian nan, hiểm
nguy, thì đều đã gặp những người tốt. Tôi đã tìm ra chân lý, tôi đã và
đang vượt qua mọi thử thách, nhờ có tình bạn. Vì vậy tôi luôn luôn có
tâm thức lạc quan tin tưởng trước những gian nan mà tôi đã và đang gặp.
Thôi chúng ta hẹn nhau sẽ gặp lại.(Ch.II)
CÁCH ĐÁNH GIÁ CỦA VIỆT CÔNG
-
Tôi biết chỉ cần một sơ hở nhỏ, hé lộ ra một tư tưởng bị đánh giá là
“phản động”, là sẽ mất mạng như chơi. Bởi chung quanh tôi toàn là những
kẻ cuồng tín, sẵn sàng ra tay khi có lệnh của một thế lực nào đó ở “bên
trên. Một góp ý xây dựng của tôi rất dễ bị xuyên tạc dễ bị hiểu khác đi
như một lời công kích. Chỉ vì chính “ông cụ” đã đánh giá tôi một cách
tiêu cực, và đã lưu ý các thuộc cấp, rằng tôi là một “kẻ có vấn đề”!
Cách đánh giá mơ hồ mà độc địa ấy trong thực tế là một bản án vô phương
kháng cáo. Tôi luôn luôn tự nhủ: phải cố làm sao cho những kẻ cuồng tín
này hiểu ra được những hành động sai trái, ác độc, tai hại của họ đối
với tôi. Vì chẳng những tai hại cho tôi, mà còn tai hại cho “đảng”, tai
hại cho cả tương lai của dân tộc. Vấn đề trước mắt là phải phân tích,
phải chứng minh sao cho sáng tỏ sự thật rằng một hành động, một chính
sách, một phương pháp độc ác như thế không thể nào sinh ra được kết quả
tốt. Muốn vậy thì phải xây dựng cho bằng được một lý luận có căn bản
triết học thật trong sáng, thật vững về mặt tư duy, khả dĩ hoá giải được
sự cuồng tín. Một hoài bão như thế đã tạo cho tôi một niềm tin. Niềm
tin ấy trao cho tôi một nhiệm vụ. Phải nêu ra một lý luận có giả trị tư
tưởng vững chắc để sớm muộn gì cũng sẽ đạt tới mục đích là chỉ ra những
sai lầm… Tôi tin rằng nếu không đạt được mục tiêu ấy lúc còn sống, thì
rồi cũng sẽ đạt được sau khi chết. Bởi sức mạnh của sự thật không bao
giờ suy giảm, càng bị che giấu thì nó càng trỗi đậy. Nghĩ như vậy, tin
như vậy, nên tôi đã giữ được tinh thần chịu đựng mọi gian nan, khổ ải.
Tôi vững tin sẽ có ngày tôi đi tới đích. Ít ra thì tư duy của tôi cũng
sẽ dẫn đường cho người sau tôi đi tới đích, tới chân lý. Các anh cũng
nên tin như vậy đi, tôi không lừa dối các anh đâu, Bởi lẽ sống của Trần
Đức Thảo này không phải là để lường gạt một ai, mà chỉ là để tìm cho ra
con đường đưa mọi người tới chân lý, để cùng nhau hiểu rõ mọi vấn đề, để
cùng nhau thấy rõ thảm kịch của dân tộc ta, mà cũng là cả của nhân
loại. (Ch. II)
PHỦĐỊNH
SỰ CHIA CẮT VÀ HẬN THÙ
Tôi
giờ đây là một người vừa bừng tỉnh sau cơn ác mộng dài trong xã hội chủ
nghĩa, nghĩa là tôi đã giác ngộ. Bởi sau khỉ đã sống chìm đắm trong hận
thù, thì rồi tôi mới nhận ra thù hận không phải là một thái độ tỉnh táo
để tìm hiểu, để giải quyết vấn đề. Thù hận chỉ làm cho tình hình thêm
phúc tạp, làm cho chính mình lâm vào bế tắc. Vì hận thù không thể giải
quyết bất cứ vấn đề gì. Nó đã chẳng giải phóng được ai. Nó chỉ gây đau
khổ cho mọi người và chính mình.
- Tại sao bác không như những người cộng sản vẫn tin tưởng thù hận là động cơ cực mạnh để âm hành động cách mạng tới thành công?
-
Tôi đã nghiệm ra rằng cuối cùng những hành động do thù hận không thể
nào đưa tới thành công. Tại vì hận thù là tố chất tâm lý bệnh hoạn rất
truyền nhiễm, rất độc hại. Nó đưa tới tình trạng mù quáng trong nhận
định, nó dẹp bỏ lương tri, nó mở đường hành động cho mọi thủ đoạn gian
xảo và tội ác, nó tạo ra nguyên tắc “cứu cánh biện minh cho phương
tiện”… Nguồn gốc của thù hận trong xã hội ta ngày nay là do tình trạng
đất nước ta đã một thời bị chìm đắm trong bầu không khí cuồng tín, vì
lãnh thổ đã bị chia cắt thành hai chế độ với hai lá cờ, với lời thề
quyết tiêu diệt nhau để thống nhất lạì lãnh thổ…
Sự
chia cắt tàn nhẫn này là một thứ tập tục áp đặt có tính quốc tế, đã có
từ lâu trong lịch sử. Chỉ tính từ sau đệ nhị thế chiến, thì đã có sự
chia cắt vô cùng tàn nhẫn các vùng lãnh thổ, như ở Cận Đông, nó đã gây
ra thảm hoạ Israel-Palestine, như ở vùng Balkan, ở các vùng biên giới
giữa Balan và Đức, giữa Balan và Nga, rồi là sự phân chia lãnh thổ của
Đông và Tây Đức, sự phân chia đã cấu tạo rất gượng ép các phần lãnh thổ
của nước Nam Tư, rồi sự cắt lãnh thổ thành hai ở Triều Tiên, rồi tới
quyết định chia cắt lãnh thổ nước ta cũng vậy… Tất cả những chia cắt
trắng trợn ấy, đều có hậu quả lâu dài, cả trăm năm sau nó vẫn còn tác
hại, dù nói chỉ là tạm thời! Đấy là những dàn xếp tàn nhẫn, do chủ mưu,
mặc cả, chia chác quyền lợi, ảnh hưởng giữa các nước lớn với nhau, để áp
đặt, bất chấp nguyện vọng của các dân tộc trong các vùng, tại các nước
bị chia cắt. Các nước lớn đã chơi trò dựng lên những ý thức, những lý
tưởng, những tâm lý phân biệt hệ chính trị, phân biệt biên giới địa lý,
đi duy trì sự chia rẽ trong đầu thằng dân nhược tiểu một cách lâu dài,
để phe này kiên trì cầm súng bắn giết phe kia, để nuôi dưỡng chiến tranh
cục bộ. Bức tường tâm lý có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất chính là
bức tường ý thức hệ. Bức tường này đã chia hai thế giới: một bên là ý
thức hệ xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên tắc mác-xít đấu tranh giai cấp làm
động lực, bên kia là ý thức tư sản, tư bản, lấy lý tưởng tự do dân chủ
làm động lực. Tất cả các lãnh thổ bị chia cắt, các dân tộc bị chia rẽ
đều do các nước lớn vũ trang, bằng cả tinh thần lẫn vật chất, để trở
thành những ngòi nổ của các cuộc chiến tranh cục bộ, thường là rất đẫm
máu. Thế mà lãnh đạo mỗi phe, của mỗi phần lãnh thổ bị chia cắt ấy, cử
khoe tài, khoe trí, cam kết sẽ “đưa dân tộc, đất nước tới chiến thẳng!”
Đau đớn và mỉa mai nhất là trong lúc các nước nhỏ diễn trò anh em bắn
giết nhau, thì lãnh đạo các nước lớn vui vẻ thăm viếng nhau, mở yến tiệc
khoản đãi nhau, để tìm cách thông cảm nhau, tránh trực tiếp đụng độ
nhau! Đồng thời họ tiếp tục tuôn vũ khí vào các nước nhỏ để nuôi chiến
tranh. Là một nhà triết học như tôi, thì phải tìm hiểu để biết nhìn sâu
và xa hơn qua những cuộc chiến tranh cục bộ, huynh đệ như thế. Vì sau
khi đã chiến thăng, thì còn lại biết bao đau thương mà người dân, ở cả
hai bên chiến tuyến, phải gánh chịu. Do đó tôi phải bỏ công nghiên cứu,
phân tích… để giải mã những độc hại của chính sách chia cắt, chia rẽ mà
người ta đã chụp lên đầu dân tộc. Tôi muốn phổ biến sự hiểu thấu những
độc hại vô cùng của thứ chiến tranh cục bộ. Tôi muốn chỉ ra tính nghiêm
trọng của những quyết định đã đưa tới chiến tranh, hoặc là đã mở lại
chiến tranh. Những quyết định ấy đã tạo ra hoàn cảnh bắt người dân phải
trở thành những nạn nhân của chia cắt, chia rẽ, phải cầm súng bắn giết
nhau… Chúng ta phải thương cảm những người đã phải cầm súng, ở cả hai
phía, vì họ chỉ là những kẻ thừa hành.
Phải
vì tinh thần dân tộc mà kính trọng họ, hiểu họ, dù ở bên này hay bên
kia chiến tuyến, tất cả họ đều đã cầm súng chiến đấu với một lý tưởng,
với một chính nghĩa ở trong đầu, để hăng hái xung phong “giết thù” mà kẻ
thù ấy chính là anh em một nhà!
-
Chính vì trong thực tế đất nước bị chia cắt lãnh thổ, dù chỉ là tạm
thời, nhưng nó đã tạo thành hai chính quyền, hai chủ quyền, hai lý
tưởng, hai lá cờ… Để rồi chung ta hăng say cầm súng giết nhau như giết
“kẻ thù”! Chúng ta đã làm điều phi lý ấy với lờ “thề phanh thây, uống
máu quân thù”! Bên này kết tội bên kia là tay sai của đế quốc. Chúng ta
đã quên hẳn yếu tố tự nhiên của lịch sử là cùng một gốc tổ tiên, dân
tộc, cùng một tiếng nói, cùng một truyền thống văn hoá… Trong khi trước
mắt ta, là những kẻ khác ngôn ngữ, khác lãnh thổ, khác quyền lợi dân tộc
đối với ta, thì họ đã tạo ra sự chia cắt lãnh thổ ta, chia rẽ dân tộc
ta, lợi dụng cơ hội để can thiệp vào nội bộ chủ quyền ta, có khi là để
gậm nhấm lãnh thổ của ta mà ta không nhận ra đấy mới thật là kẻ… thù!
Bác Thảo lắc đầu nhấn mạnh, như cố phân trần:
-
Nay chúng ta phải sáng suốt mà phân tích, mà suy nghĩ về hoàn cảnh và
các yếu tố chia cắt; chia rẽ này, để thấy rõ chúng ta chỉ là những nạn
nhân, đau đớn của những kẻ có trách nhiệm làm lịch sử. Có thể nói họ đã
làm hỏng lịch sử. Họ đây chính là lãnh đạo. Xét riêng về cái ý thức hệ
xã hội chủ nghĩa, do Lenin tuỳ tiện khai triển tư tưởng Marx, chẳng qua
đó cũng chỉ là phương cách để duy trì, để tham lam nắm lại toàn bộ di
sản đế quốc do thời Sa hoàng để lại, để lại giam hãm các dân tộc chư hầu
của thời Sa hoàng vào trong một gông cùm kiểu mới, với cái tên đẹp hơn:
“khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Bây giờ thì mọi người đều thấy
cái khối Liên Xô ấy, thực chất là một đế quốc đỏ, nó kìm kẹp các dân
tộc nhược tiểu quanh nó. Chính Liên Xô cũng đã từng đụng độ với một đế
quốc đỏ khác là Trung Quốc, chỉ vì quyền lợi quốc gia hẹp hòi, để bảnh
trướng đế quốc! Và Bắc Kinh cũng đối xử với Tây Tặng, với Triều Tiên,
với cả ta, theo tâm thức bành trưởng đế quốc như thế, cũng dưới chiêu
bài “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em”, giữa hai “láng giềng hữu
hảo, môi hở răng lạnh”! Thực tế là đã hơn một lần, Liên Xô và Trung Quốc
đụng độ nhau bằng quân sự ở các vùng biên giới của họ. Gần đây thôi,
Trung Quốc cũng đã từng nhiều đợt đánh chiếm, gậm nhấm lãnh thổ Việt Nam
ta. Cái đó nó chứng minh “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” chỉ là
thứ liên minh ma quái, quỷ quyệt, giả dối, một thứ bình phong che giấu
rất vụng về những tham vọng bành trướng của đế quốc đỏ. Tôi còn nhớ rõ
hồi đấu thập niên 60, nhân dịp được tham gia phái đoàn sang thăm Bắc
Kinh, nên đã được nghe Mao chủ tịch cam kết “năm trăm triệu dân Hoa Nam
sẽ là hậu phương lớn để giúp các đồng chí tới khi chiến thắng”. Mọi
người mừng rỡ vỗ tay! Riêng tôi khi nghe lời cam kết ấy mà cảm thấy rợn
tóc gảy! Bởi tôi không bao giờ quên chỉ vài tháng sau khi chiếm được
quyền hành ở Bắc Kinh, Mao đã vội vã xua quân qua chiếm Tây Tạng! Chọn
Mao làm đồng chí, làm đồng minh thì tôi lo lắm. Không biết rồi sau này,
đồng chí, đồng minh này sẽ đưa nước ta đi về đâu... Mao đã thúc ta phải
căm thù bọn đế quốc tư bản Âu-Mỹ, và giúp đỡ rộng rãi vũ khí để ta “đuổi
Pháp, đánh Mỹ ra khỏi lục địa châu Á” để tiến tới mục tiêu của khối xã
hội chủ nghĩa là phải đánh gục khối tư bản theo đúng chiến lược lấy nước
nghèo bao vây nước tư bản, lấy nông thôn bao vây thành thị…
-
Chưa thấy ai nghĩ tới vấn đè nguy hiểm này. Tại sao họ phung phí vũ
khí, công sức như thế mà không lo tới việc nâng dậy đời sống đói khổ của
nhân dân ở trong nước họ, hoặc ở các nước nghèo? Họ nói cung cấp vũ khí
như thế là làm nghĩa vụ quốc tế đối với các nước nghèo anh em. Thực
chất đấy chỉ là sự tranh giành, mở rộng ảnh hưởng và quyền lợi của những
đế quốc! Chẳng làm gì có tình, có nghĩa “anh em”, giữa nước lớn với
nước nhỏ. Ta phải nhớ như vậy để suy nghĩ kỹ về thân phận nhược tiểu của
dân tộc ta và đất nước ta, để tìm cách giải quyết sự thù hận giữa anh
em chúng ta do mấy nước lớn tạo ra. Lãnh đạo thì muốn chăn dãt nhân dân
như một đàn cừu đã đi tới chiến thắng. Đế quốc nói coi ta là một “đồng
minh”, nhưng thực chất là muốn biến ta thành một chư hầu ngoan ngoãn. Có
bao giờ một đàn cừu, một chư hầu mà được nể trọng và thương mến đầu.
Không bao giờ! Chẳng nên cả tín vào những điều không hề có. Chỉ có những
những tay chính trị ngây thơ mới tin vào những điều không hề có ấy…
Câu
nói ấy thật là bất ngờ. Vì lúc mới gặp, chúng tôi chỉ quen nghe bác ca
ngợi tinh đồng chí của khối xã hội chủ nghĩa anh em, ca ngợi chủ nghĩa
mác-xít của giai cấp vô sản, ca ngợi nghĩa vụ giải phóng các dân tộc của
hai anh cả đỏ Liên Xô và Trung Quốc!(II)
Là
một nhà triết học, khi quyết định về nước, tôi mang tham vọng ngông
cuồng là được tận dụng trí tuệ của mình để tranh thủ được tin dùng như
là một trong những lý thuyết gia của cách mạng, để hoàn thành sứ mệnh
cao cả của cách mạng, là giải phóng con người. Vì tôi nghĩ ”ông cụ” cũng
là một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng có cao vọng tận dụng quyền lực tột
đỉnh, bằng mọi phương tiện, bằng mọi giá, để thực hiện cho bằng được
giấc mơ đánh đuổi đế quốc ra khỏi quê hương, để đánh gục tư bản chủ
nghĩa, để cuối cùng là giải phóng người, nhất là giải phóng nhân dân lao
động để cho họ được ưu tiên hưởng ấm no, tự do, hạnh phúc. Nhưng không
ngờ, với thời gian, tôi dần dần nhận ra là lãnh đạo và mình, cả hai đều
lao mình vào cùng một cuộc cách mạng, nhưng với hai quan niệm khác nhau,
với hai tâm thức khác nhau, đến độ đối nghịch nhau, xung đột nhau… Vì
cái nhìn của lãnh đạo chính trị đã ngưng lại, đã cố định trong giai đoạn
cầm quyền. Còn cách nhìn của tôi là đi phải xa hơn, linh động hơn,
nghĩa là phải từng bước tiến tới giai đoạn tối hậu của cách mạng là giải
phóng con người.
- Nhưng cho tới nay, với chính sách đổi mới và mở cửa của “đảng”, thì bác nghĩ sao về sự đóng góp của bác và của lãnh đạo?
-
Thẳng thắn mà xét trong thực tế trước mắt, thì nhà tư tưởng là tôi đã
chẳng đóng góp được gì mấy cho cách mạng. Còn lãnh đạo thì đã để lại một
sự nghiệp bế tắc như dở dang… Cuối cùng chỉ còn lại hư danh những chiến
thắng phù phiếm, mà thực tế là một sự khánh kiệt và suy thoái về mọi
mặt. Đến nỗi nay để cứu “đảng”, cứu nước, đành phải mở rộng cửa rước đế
quốc tữ bản trở lại, để mời vốn tư bản tràn vào. Và thực sự là đất nước
đang bị biến thành một thuộc địa kiểu mới của khối tư bản! Nghĩ mà đau,
đã tốn biết bao nhiêu máu xương để dành độc lập, bảo vệ chủ quyền, mà
này lại đi tới chỗ phải để cho tư bản nước ngoài tràn vào làm mưa, làm
gió, để cho nó tự do tung hoành phát triển theo xu hướng bất chấp mọi
hài hoà, bất chấp trật tự kỷ cương, bất chấp di sản văn hoá do tổ tiên
để lại, để những bước quá trớn của nó phá tan môi trường sinh thái, biến
đất nước thành một xã hội thịnh vượng giả tạo, một thiên nhiên què
quặt, mất hẳn nền tảng hài hoà sinh thái. Càng phát triển theo cuồng
vọng hiện đại giả tạo như thế này, thì sẽ càng ngày càng lún sâu vào bất
công xã hội, vào tham nhũng thối nát, càng huỷ hoại môi trưởng. Vì lối
phát triển này là chỉ chạy theo đồng đô-la Mỹ, không có luật pháp nghiêm
minh, không còn một tinh thần đạo đức gì nữa. Càng nghĩ càng buồn! Đất
nước ta đang bị cuốn vào cơn lốc phát triển điên cuồng, khập khiễng
không gì cản lại được nữa. Cứ như con người đã lún sâu vào con đường
nghiện ngập ma tuý, thứ ma tuý của mãnh lực đồng đô-la, mỗi lúc, mỗi tác
hại trầm trọng hơn! Các anh tin tôi đi, mươi, mười lăm thế hệ nữa, chưa
chắc đã xoả được cái nếp sống gian xảo, sống dối trá, sống cuồng, sống
vội này. Bởi nó đã tự diễn biến thành một hình thức văn minh văn hóã
mang nhãn hiệu “hiện đại” mất rồi. Khổ thế!
Bác
Thảo lấy tay áo chậm nước mắt, khiến chúng tôi cũng xúc động, nghẹn
ngào, vì tin đấy là những lời tâm sự thành thật, đầy tâm huyết.II
Chương 3.Cảnh giác với “Hiện tại sống động”
DANH DỰ
Về
mặt tâm lý và xã hội, danh dự phải được hiểu một cách hét sức sáng
suốt, hết sức thận trọng để tránh xa những mục tiêu của danh vọng. Danh
dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm, không thể mua chuộc nó một
cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc, như người ta vẫn đi tìm
kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới, một cách gián tiếp từ bên ngoài, với
những ai không chủ tâm tìm kiếm nó, nhưng biết sống một cách xứng đáng,
có lương tri, sống tử tế với mọi người, sống ngay thẳng, trong sạch ở
mọi hoàn cảnh, biết làm tròn nhiệm vụ của mình, dù đó là của một công
việc khiêm tốn nhất… sống như thế là sống thật sự có ích cho mọi người,
là làm đẹp cho xã hội. Danh dự do đó quả thật là một nền tảng của đạo
đức. Nhưng khốn nỗi, người đời vẫn thường nham lẫn danh dự với danh
vọng. Do vậy nên danh dự, khi bị hiểu lầm, thì nó lá cái bả khiến con
người chạy theo nó, tìm kiếm nó, mua bán nó… để rồi nó biến xã hội thành
một môi trường giả dối, háo danh, phù du, ưa phô trương cái mẽ bề
ngoài, che giấu cái trống rỗng, kém cỏi, xấu xa bên trong… Không thiếu
gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao khát danh vọng, một xã
hội chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành tích giả tạo một cách
bệnh hoạn. Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là thói
háo danh với bằng cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả
năng. Nhưng nay bằng cấp đã bị coi như là thứ áo mão gấm hoa, loè loẹt
màu sắc, để phô trương. Nó đã tạo ra cái thói trưng diện bằng cấp trước
cái tên của mình. Tự xưng mình là tiến sĩ này, thạc sĩ nọ, thủ trưởng cơ
quan này, giám đốc công sở kia…! Danh dự của một người có học, có tri
thức là biết sống không ồn ào, không khoa trương, biết chứng tỏ trình độ
bằng kết quả của việc làm, khác hẳn với kẻ đã tự đồng hoá mình với danh
dự bằng những hành động khoa trương chức tước, bằng cấp! Từ sự hiểu sai
ý nghĩa của bằng cấp mà nó đã bêu xấu con người, làm hỏng nền giáo dục.
Tình trạng đó có thể phá hoại xã hội. Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh
vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận trong thi cử, mua bán bằng cấp, chạy
chọt chức tước cứ y như mua bán áo mão màu sắc lòe loẹt hào nhoáng để
trưng diện. Bởi khi danh dự bị đồng hoá với danh vọng, thì nó là một cái
bả tâm lý, làm hoen ố nhân phẩm, làm mất tự trọng, mất tỉnh táo nên
không phân biệt được đầu là giá trị nội tại bền vững đích thực của luân
thường đạo lý, đâu là hư danh xấu xa phù phiếm, dối trá khoe khoang bề
ngoài…. Danh dự khi bị nhầm lẫn với danh vọng thì có thể đưa con người
và xã hội đi rất xa về phía tiêu cực.
Sau
khi nêu nhiều bằng chứng về thành tích được coi là danh dự của những
người có cuộc sống khiêm tốn và đã bị đời coi thường, bỏ quên… Thảo nhắc
lại rằng vì những thành tích vinh quang, đầy danh vọng của những kẻ có
quyền lực, mà có người đã được hậu thế ca ngợi, có khi còn được tôn thờ
như thánh nhân. Rồi Thảo đưa ra phản đề khá mạnh mẽ: những thành tích
mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến thắng
kiểu Pyrrhus, cố tạo ra những công trình vĩ dại như Kim Tự Tháp, như Vạn
Lý Trưởng Thành… Và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự. Thực
ra là những công trình vĩ đại ấy không thể là biểu tượng cho danh dự với
đạo đức, đạo lý! Vì chiến thắng như thế là phung phí xương máu quân
lính, vĩ đại như thế phung phí mồ hôi, nước mắt của dân chúng. Chúng
không mang tính đạo đức và nhân bản. Vì vậy mà nhiều nhà lãnh đạo quyền
lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành một nhà đạo đức, càng không
thể là thánh nhân! Thảo nêu ra những trường hợp đời thường, trong đó
không hiếm những lãnh tụ chỉ vì cao ngạo, khát khao được trọng vọng như
những Tần Thuỷ Hoàng, Napoléon… là những kẻ đã sẵn sàng phung phí máu
xương quân lính, coi rẻ tính mạng, công sức lao động của nhân dân. Những
nhà lãnh đạo ấy đã kích thích, thúc ép dân phải trở thành anh hùng,
phải trở thành vĩ đại để tạo ra những thành tích vẻ vang, phi thường…
cho họ. Vì thế mà hành động mưu tìm danh vọng thường là phản công lý,
phản đạo lý. Rồi Thảo kết luận: người ta ưa ca ngợi, một cách nhầm lẫn,
những thành tích vinh quang, vĩ đại… mà bỏ qua, hoặc bỏ quên khía cạnh
vô nhân đạo, bất công của những hành động đã ép buộc nhân dân thấp cổ bé
miệng phải gánh chịu biết bao hi sinh gian khổ để dựng lên nhũng thành
tích ấy. Vì đấy, dù thế nào, thì cũng chỉ là những hành động tàn bạo,
háo danh, thiếu công lý, thiếu đạo lý. Những thành tích vĩ đại ấy, những
kỳ công vinh quang ấy, vì không công lý, không nhân đạo nên nó không
thể là trở thành mẫu mực cho đạo đức! Một danh nhân, một ông vua, trong
lịch sử, do những thành tích chính trị hay quân sự phi thường, thường
được đám nịnh thần tâng bốc, ca ngợi đến mức sùng bái như một vĩ nhân,
một thánh nhân, nhưng thật sự đấy chỉ là một lãnh chúa đầy tham vọng,
đầy mưu trí nham hiểm, tàn nhẫn, độc ác! Người ta yêu thích danh vọng,
tưởng như đó là danh dự. Sự đam mê danh vọng và quyền lực như thế là
thiêu huỷ tính nhân bản trong những con ngườí muốn có sự nghiệp vĩ đại.
Con người bình thường không chỉ sống vì danh vọng! Trong thực tế, thời
có nhiều thành tích, công trình vĩ đại thường là những giai đoạn bi thảm
đen tối, đẫm máu trong lịch sử nhân loại! Vì một lẽ giản dị là nó thiếu
tính nhân bản, thiếu tính đạo lý. Nhân loại bình thường không sống để
đì tìm danh dự trong danh vọng. Nhân loại bình thường không phải toàn là
thánh nhân và anh hùng! Bởi con đường của những thánh nhân, của những
anh hùng, với ý nghĩa cao cả của nó, là con đường tuẫn đạo, là con đường
hi sinh có ý thức vì nghĩa vụ đối với con người. Khác với con đường của
những kẻ u mê cuồng tín lao mình vào những hành động đầy máu và nước
mắt, dù cho đấy là con đường tạo ra vinh quang, vĩ đại, nhưng đấy không
phải là con đường của đạo đức! Trong lịch sứ, cái thời đầy vinh quang,
đầy anh hùng của một dân tộc, thường là thời đau đớn đầy hi sinh, gian
khổ, đầy máu và nước mắt, đầy hận thù và tội ác… rất phản đạo đức, phản
con người… vì thời ấy bắt đám cùng dân phải trà giá bằng mồ hôi, nước
mắt, bằng xương máu và tính mạng! Danh dự và đạo đức thực ra là những
giá trị cộng sinh tự nhiên, chúng không phải là những ỉhuộc tính chỉ
dành cho những vĩ nhân. Trong thực tế, danh dự là một giá trị kín đáo
của con người nói chung, trong những hoàn cảnh sống bình thường, khiêm
tốn trong xã hội, nên người ta không thấy, vì ít được ai để ý tới. Xưa
nay, người đời chi nói tới, chỉ đề cao danh dự của những ông lớn có đầy
danh vọng. Do vậy mà chúng ta dễ ngộ nhận, khi đọc tiểu sử của những vĩ
nhân, mà không thấy được những tấm gương sảng về mặt đạo đức trong đám
người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chính ở nơi những mẫu người khiêm
tốn ấy, ta mới thấy rõ được rằng danh dự quả thật là nền tảng của đạo
đức. Trong giá trị danh dự âm thầm, khiêm tốn đó, mới thấy người đời
sống như thể đích thực là có đạo đức.III
Chương 4. Đãi ngộ hay bạc đãi?
BẠC ĐÃI
sau 1956, cho tới nay bác đã chính thức được giữ những chức vụ gì? Bác đã được đãi ngộ như thế nào?
-
Thật sự ra thì không thể nói tới đãi ngộ. Bởi chỉ toàn là bạc đãi. Bởi
tôi chưa từng được bổ nhiệm vào một chức vụ nào thực sự có trách nhiệm,
chưa từng được giữ một chức vụ có thực quyền để trí óc có thể tích cực
tham gia vào một trách nhiệm chính trị nào cả! Nói rằng tôi đã được đãi
ngộ hay đã có một địa vị gì thì đấy là cả một sự ngộ nhận mỉa mai đầy
cay đắng đối với tôi. Sự “đãi ngộ” hay những chức vị mà người ta nêu ra,
chỉ là một sự huyền hoặc, để che giấu sự thật, che giấu một đối xử
nghiệt ngã và tồi tệ. Tôi mong sau này trong các bạn, sẽ có người trở
lại những nơi tôi đã sống, để thăm hỏi, điều tra qua những nhân chứng
trực tiếp, để thấy rõ ở những nơi ấy, tôi đã sống và làm việc gì, như
thế nào, để thấy đó toàn là những cách “để cho sống” vất vưởng, không
phải là một sự đãi ngộ với một người có tri thức như tôi. Toàn là gắn
cho những danh xưng hão. Toàn là thứ kìm kẹp trá hình, toàn là cấm cản
không cho tôi đụng tới chính trị, tới cách mạng, là những mục tiêu mà
tôi đã chọn lựa khi quyết định trở về quê hương. Ngay cả khi người ta
bảo tôi lãnh trách nhiệm phó giám đốc trường Đại học Văn khoa Sư phạm,
sau khi kháng chiến về tiếp thu Hà Nội, thì tôi cũng chưa hề được tham
dự bàn bạc gì vào công việc tổ chức hay điều khiển bất cứ một công tác
gì của trường ấy, ngay cả đến tham khảo ý kiến giảng dạy cũng chưa hề
có. Sự có mặt của tôi trong một số sinh hoạt của chế độ cũng chỉ là thứ
“bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”, cũng y như sự có mặt của mấy cựu quan lại
hay của hai đảng Dân chủ và Xã hội do cụ Hồ bày đặt ra cho lấy có, để
bên ngoài nhìn vào, tưởng là chế độ có nền tảng đoàn kết quốc gia và dân
chủ rộng rãi! Cụ Hồ là một tay chính trị nhiều thủ đoạn lắm chứ không
phải là một tay hiền từ đâu! Ngay đến cụ Huỳnh Thúc Kháng, tiếng là bộ
trưởng bộ nội vụ trong một thời gian dài, nhưng cụ ấy có quyền hành gì
đâu. Vì thế mà cụ Huỳnh đã phải ở ẩn khuất tại miền Trung, rất xa trung
ương ở ATK! Cụ Hồ còn nêu gương sống thanh đạm, bắt làm nhà gỗ để cụ ở,
nhưng chung quanh và những người thừa kế cụ, có ai theo gương sống thanh
đạm như thế đâu. Bởi chung quanh đều biết tấm gương ấy chỉ là thứ đạo
đức hình thức, bề ngoài, nhưng trong thực tế thì lại khác, “ông cụ” vẫn
sống rất là đầy đủ về mọi mặt, kể cả về vấn đề sinh lý. Những ảnh hưởng
của tấm gương ấy biểu lộ một chính sách nặng tính bí hiểm, ẩn mặt trong
hoạt động, chỉ đậm nét khoa trương bề ngoài. Đạo đức chỉ có ở trong lời
nói, ở bề ngoài như thế thì nó không thực sự có ảnh hưởng tới đời sống
con người trong xã hội. Vì toàn là che giấu, dối trá. Cũng vì những hình
thức “đãi ngộ” với tôi như thế, nên vài người hiểu rõ là tôi bị trù
dập, bị đày ải, nên họ thấy cuộc sống của tôi thật là khốn khổ. Vì thế
mà đã có vải anh em thấy hoàn cảnh tôi như vậy, nên đã giúp tội bằng
cách chia việc làm của họ cho tôi làm như phiên dịch, kể cả khi đưa tôi
vào làm cán bộ cho nhà xuất bản Sự Thật, tất cả chỉ là để tránh cho tôi
khỏi chết đói thôi, chứ không có một chút gì gọi là đãi ngộ. Làm sao
chứng minh những công việc vẩn vơ ấy, những đồng lương chết đói ấy là
một sự đãi ngộ?
- Thật là vô lý quả! Tại sao lại lạ thế?
- Tại vì ngay từ đầu, chúng nó đã không tin tôi!
Những
sự bổ nhiệm vớ vẩn ấy chỉ là việc làm bất đắc đĩ, để tô điểm cho cái
Đại học nhân dân, bằng những bằng cấp của tôi, chứ không phải bằng tài
năng trí tuệ của tôi… Thật sự là từ khi trở về nước, chúng nó đã không
tín và không dùng tới tri thức của tôi… chúng lo sợ đầu óc tôi có dịp
bung ra phê phán, cách mạng của… chúng! Chúng đã từng o ép tôi, bắt phải
đi cải tạo tư tưởng ở nông trường, bắt sống theo lời dạy “phải gắng mà
học tập nhân dân”, nghĩa là phải tập cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời
“đảng”!IV
BỊ THEO DÕI
Trần Lâm ngây thơ hỏi tôi:
- Mộng ước của anh về nước là để làm gì?
Tôi thành thực đáp:
-
Ước mong của tôi là có dịp mang hết tâm trí và khả năng trí tuệ và sự
hiểu biết ý thức hệ của tôi ra làm việc, để góp ý, góp sức tim óc với
“đảng”, nhằm xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng hoàn chính, trong
sáng và nhân đạo mà cả loài người chờ đợi. Nhưng tôi cũng đã thận trọng
nhấn mạnh rằng đấy chỉ là ước mơ thôi, còn trong thực tế thì tôi sẵn
sàng phục vụ theo sự sắp xếp của cách mạng. Tôi không ngờ lời tâm sự đó
đã hại tôi. Và hại cho cả Trần Lâm.
- Tại sao một mơ ước như thế mà lại là có hại?
-
Khoảng mấy tuần sau khi tôi đã về tới chiến khu, mà ở đấy gọi tắt là
ATK, tức là An Toàn Khu, ở đâu đó trong vùng núi rừng giữa Tuyên Quang
và Phú Thọ, thì bỗng Trần Lâm xuất hiện, mặt mày mệt mỏi, rồi kể lể…
Lúc đó Trần Lâm ngồi xuống sát cạnh, tôi, rồi thận trọng, sợ sệt nói nhỏ gần tai cho vừa đủ nghe:
-
Sau khi anh được đưa tới khu quân sự ở gần Nam Ninh làm thủ tục để chờ
đi nhờ xe quân sự về nước, thì em phải ngồi viết báo cáo về chuyến công
tác đi đón anh. Thủ trưởng của em đọc báo cáo ấy, rồi yêu cầu em phải
nêu ra thật chính xác những gì anh và em đã trao đổi với nhau lúc đi
đường. Để không thiếu một chi tiết nào, em phải kể rõ từng giờ, từng
ngày, kể từ khi đón anh tại ga An Huy ở Mãn Châu. Viết đi viết lại mấy
ngày mới xong. Vì thủ trưởng bắt em phải đánh giá anh. Em thành thật
nhận xét rằng anh là người có học thức, có trình độ suy nghĩ cao, rất có
tinh thần yêu nước, có lý tưởng trong sáng, rất mong được phục vụ cách
mạng. Những mẩu chuyện trao đổi đầy kinh nhiệm nghiên cứu về lịch sử các
cuộc cách mạng của anh đều rất là có ích cho em. Cuối cùng em kết luận
rằng anh là người có thành tầm và có khả năng, muốn về phục vụ cách mạng
và tổ quốc. Anh ao ước được góp tim, óc để xây dựng một cuộc cách mạng
huy hoàng ở quê hương, để có thể làm một mẫu mực cho các nước đang tranh
đấu giành độc lập cho tổ quốc và dân tộc của các nước bị trị.
Em
nghĩ bản báo cáo đó có thể làm cho cách mạng chú ý tới tài năng để
trọng dụng anh. Thủ trưởng em cho biết là đã mang bản báo cáo ấy đọc cho
cả đồng chí cố vấn Trung Quốc nghe. Và cán bộ cố vấn có ghi vào đó cảm
nghĩ của đồng chí ấy. Nào ngờ tai hoạ từ đó mà ra! Và cả mấy tháng sau
em mới hiểu ra hết nguyên do những vụ việc đã xảy ra cho anh và cho em!
Chỉ vì em đã ca ngợi anh!
- Tại sao lại ghê gớm đến như vậy? Khi đi đường chúng ta chỉ nói chuyện vãn cho vui thôi, có dính gì tới chính trị gì đâu!
- Vậy mà tất cả đã bị quy vào điều mà bên trên gọi là “ý đồ chính trị độc hại!”
- Sao kỳ lạ quá vậy?
-
Bản báo cáo ấy đã được gửi hoả tốc về Trung ương. Nghe nói chính lãnh
đạo đã đổi ý, thay vì điều anh về trường Đại học Nhân dân ở khu tư, như
dự tính lúc đầu, khi trường Đại học ấy mới được chính thức thành lập…
Sau thì đổi ra lệnh đưa anh về ATK, để ở gần Trung ương… để Trung ương
kiềm chế anh. Vì thế mà đã có lệnh khẩn vào phút chót phải hoãn ngày về
của anh lại tới mấy tuần lễ… Còn em thì được gọi về đây để báo cáo trực
tiếp với lãnh đạo về những gì em đã đánh giá anh. Rồi em bị kiểm điểm về
tội “mất cảnh giác cách mạng, để bị “địch” đầu độc bằng những tư tưởng
phản cách mạng mà không biết”. Em bị khiển trách và lên án rất kịch liệt
là ngu dốt, là cả tin vào một kẻ không phải là người của cách mạng, mà
là do thực dân đào tạo, một kẻ chưa hề sống với cách mạng một ngày mà
dám mưu tính về dạy người của cách mạng làm cách mạng! Rồi lại còn nêu
nghi vấn là có thể anh là người do thực dân gián tiếp đưa về, là một thứ
siêu gián điệp trí thức mà thực dân mưu toan cài vào hàng ngũ cách
mạng… mà vì em thiếu cảnh giác nên đã cả tin anh, nên bị đầu độc tư
tưởng.
- Ai đã buộc tội em? Ai đã nêu ra nghi vấn anh là gián điệp?
-
Chính lãnh đạo đã vạch tội em rằng “chỉ mới được tự do đi ra ngoài vài
ngày mà đã sa vào bẫy địch, để bị địch đầu độc tư tưởng”. Chính lãnh đạo
nói với em rằng rất có thể anh là một thử siêu gián điệp do thực dân
cài vào hàng ngũ cách mạng mà chính bản thân anh cũng không biết.
- Lãnh đạo ấy là ai? Có phải là Hồ chủ tịch không?
-
Không phải là Hồ chủ tịch, mà là đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh!
Những chính đồng chí tổng bí thư nói với em là “Bác Hồ” đã ra lệnh cho
đồng chí tổng bí thư thân chinh điều tra vụ này!
Bác Thảo kể tới đó thì lắc đầu, thở dài, rồi tâm sự:
-
Tiết lộ của Trần Lâm đã làm tôi như bị chết đứng. Vì như vậy là mộng
ước của tôi đã hoàn toàn tan vỡ ngay từ đầu khi chưa đặt chân trở lại
mảnh đất quê hương. Như vậy là sự nghi ngờ của lãnh đạo, khi đi xuống
tới cấp thừa hành, thì nó đã trở thành một xác định.
Thời
gian sống ở ATK, tôi bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi dịch
những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là
theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của
một cây cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới
về tham gia cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một
việc gì hữu ích cả!IV
AN TOÀN KHU-HÁT Ả ĐÀO
Sao
thứ ca dân gian này có thể nghệ thuật đến thế! Hay như vậy sao lại cấm?
Trong đời tôi, tuy đã từng biết thưởng thức những tiếng đào, lời ca cổ
điển vô cùng nghệ thuật của lối hát đại nhạc (opéra) phương Tây, nhưng
đây là lần đầu tiên tôi khám phá ra một lối ca nghệ thuật tuyệt kỹ, vừa
trữ tình, vừa huyền bí, thiêng liêng như của một tôn giáo, nghe mà rợn
cả người, cứ y như bỗng mình được lạc vào cõi thiên thai. Một thứ nghệ
thuật truyền thống quý như vậy, sao lại bắt nó phải chết?
- Tại vì xưa kia nó phục vụ giới quan lại, phú hộ thời phong kiến! - Tuân giải thích - Thôi bây giờ thì ca tiếp đi chứ!
Người
nghệ sĩ chơi đàn, người “quan viên” giữ nhịp trống điều khiển, rồi ca
nương, tất cả đều đắm say diễn tả, như hoà tâm hồn vào mấy bài hát nói
danh tiếng của mấy nhà thơ trứ danh thời trước. Tay đàn, tay trống và ca
nương, tất cả đều biểu diễn, với tất cả sở trường, y như đang làm sống
dậy giây phút thanh bình của đất Hà thành thanh lịch xa xưa!
Thảo giải thích thêm với chúng tôi:
-
Tiếng hát ả đào đúng là hợp với tâm tư, hoàn cảnh của từng người lúc
ấy. Ai ai cũng đang mang nặng một tâm tư u buồn, nên mới hát được như
thế, mời nghe thấu được nỗi niềm của giọng hát, lời ca. Tôi đã từng biết
lối hát đại nhạc (opéra) của phương Tây. Lối hát ấy là dùng sức buồng
phổi đẩy làn hơi qua thanh quản để đưa nốt nhạc vọt lên chói vót như thi
tài với tiếng đàn. Nhưng lối hát ả đào thì tế nhị hơn, vì ca nương phải
kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn hơi qua họng, để
uốn nắn âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến láy, nghẹn
ngào; như than van, nức nở, để bầy tỏ nỗi niềm… Nghệ thuật hát ả đào, do
đó tinh vi, truyền cảm tình tiết cao siêu, sâu sắc, huyền bí hơn hẳn
đại nhạc phương Tây, Tôi không hiểu sao một nghệ thuật tuyệt vời như thế
mà lại nỡ lòng mang vứt bỏ nó đi! Một dân tộc có một nền văn minh cao
độ mới có thể có một lối hát nghệ thuật đậm tính văn hoá dân tộc đến
thế, sao lại chê bai, kết tội nó!
-
Ôi dào! Bây giờ thì cái gì của thời cũ đều bị phá đi, vứt bỏ hết! Bây
giờ người ta tính áp dụng lối tiêu thổ kháng chiến ở Liên Xô, phá sập,
dẹp hết, đốt hết, san thành bình địa ráo, để địch không thể xâm chiếm
được. Nơi nào có tinh thần kháng chiến cao như vùng Vinh, Thanh Hoá,
Nghệ An thì đã bắt đầu có lệnh thi hành chính sách “tiêu thổ”. Với hô
hào “tất cả cho kháng chiến”. Tiếc gì cái lối đa truyền cảm, trữ tình,
nay bị coi là truỵ lạc, là sa đoạ này!
Chầu
hát ả đào dần tới hồi kết thúc. Quan viên cầm trống bỗng đứng dậy, bước
tới trước mặt nhà văn Nguyên Tuân, nghiêm chỉnh cúi đầu nói:
-
Xin kính mời quan bác! Quan bác là người đã nổi tiếng là tài danh cầm
chầu là tài tử lịch duyệt của ca trù, đệ xin trả lại ngôi quan viên cho
quan bác, để quan bác giữ nhịp cho bài ca cuối cùng của chầu hát chui
này. Đệ chọn bài “Tỳ bà hành” để kết thúc, y như trong các buổi ca trù
của các nhà hát trứ danh của Hà thành thanh lịch thủa xa xưa.
Nguyễn
Tuân nghiêm nghị đón nhận chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay
ngắn, đặt trống xuống đúng tầm tay, đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay
đàn và ca nương, đúng cách quan viên sành điệu, như vị nhạc trưởng của
ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh trên một chiếu hát. Mọi người chờ
tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại đặt nhẹ rồi trống xuống và
nói với giọng trầm buồn:
-
Này em Đức ơi! Anh biết em từng là ngôi sao ca nương sáng chói của lò
hát bà Đốc Sao ở Hà Nội. Xưa kia thì phải là cỡ tuần phủ tri huyện trở
lên tới tống đốc mới được nghe tiếng em ca. Thế rồi cách mạng về thì nhà
bà Đốc Sao biến đâu mất tích. Nay được tin em trôi dạt về đây, anh đã
phải bịa chuyện xin đi công tác phương này, cốt là để tìm em, để được
nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết vì bom đạn thì anh cũng
mãn nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây, cái cánh đồng khô
giữa vùng đất núi rừng Tuyên Quang nảy bỗng trở thành một bến Tầm
Dương! Và em Đức sẽ là người đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những
tư mã của thời đại, đang bị thời thế lưu đày về cái đất Giang Châu của
Tuyên Quang này… Em hãy ca thật hay lên, để tiễn đưa chúng anh ngày mai
lại lên ứ… ư đường! Chỉ tiếc ở đây không có rượu ngon để anh ngâm mấy
câu thơ cổ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
(Thơ Vương Hàn, Lương Châu Từ, Trung Quốc)
Rồi Nguyễn Tuân cao hứng, đằng hắng, lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:
Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi
Sa trường say, cười mà chi
Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!
(Người dịch khuyết danh)
Cây roi giơ lên phát lệnh bắt đầu bài hát:
- Tom! Tom! Chát!
Nhưng
tất cả ngạc nhiên vì ca nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc
nức nở! Thảo ngồi đấy cũng long lanh nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm
thấy một nỗi u buồn thấm thìa khó tả, chẳng rõ vì sao. Nức nở, sụt sùi
mọt hồi, ca nương lấy lại bình tĩnh nói:
-
Em xin lỗi! Em xin lỗi! Vì nhìn mấy anh ăn mặc nâu sồng vất vả, mặt mày
hốc hác, em thấy thương mấy anh quá! Mà em cũng khóc cả cho thân phận
em! Thôi để em hát, để tiễn đưa các anh, và cũng là đưa em nữa, vì mai
đây gia đình em sẽ tìm đường về xuôi, vì cái bến Tầm Dương của em là bên
quê ngoại ở mãi vùng Thái Bình cơ!
- Thôi nín đi em! Hát đi em!
Nguyên Tuân lại nổi trống giục:
- Tom! Tom! Tom! Chát!
Ca nương bắt đầu lên giọng ngân nga, luyến láy não lòng:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lạch đìu hiu
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tẩm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi, lạnh lùng
Nghe não ruột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh…
(Trích thơ Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch)
- Tom! Chát! Chát! Tom!
Tiếng
trống vang lên như để khen “Thật tuyệt vời!”, tiếng đàn cùng tiếng hát
ngưng bặt. Cả cái chòi cót giữa cánh đồng không ấy bỗng im lặng hoàn
toàn. Chỉ cỏn tiếng gió, xào xạc, qua một bụi tre, vọng lại từ xa.
Trong
chòi, mọi người, như chết lặng vì quá cảm xúc. Tất cả êm thấm đứng dậy,
chậm rãi thu xếp trống, đàn, từ từ rút lui. Tất cả họ bùi ngùi, câm
nín, ra về trong sợ sệt, nhìn trước, ngó sau, lắng tai, phóng mắt ra
khắp phía xa chung quanh, không ai nói với ai nửa lời. Mỗi người mỗi
nặng một tâm tư luyến tiếc, lo âu, sợ hãi…
Nguyên Tuân ghé tai Thảo:
-
Này ông bạn trí thức của tôi ơi, nhớ cho kỹ là đừng cho ai biết là tôi
đãi ông chầu hát ca trù này đấy nhé! Phải “bem” (giữ bí mật) kẻo lại bị
ngồi viết kiểm điểm thì mệt lắm đấy!
-
Thú thật là ngồi nghe, tuy không hiểu hết ca từ, nhưng tôi cảm thấy
lòng mình chùng xuống y như mình cũng đang khóc cho nỗi niềm u uất của
chính mình. Không thể ngờ là lối ca này nó thấm thía vào tim gan đến
thế!
-
Anh có biết tại sao ca trù nó thấm thía vào tâm hồn mọi người không?
Tại vì đây là một lối ca trữ tình. Bởi lời ca toàn là những bài thơ, bài
hát nói của một nền vãn chương quý phái đã lâu đời. Cách diễn tả lại
càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị ức chế trong lồng ngực để rồi được đẩy
ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức nở, để bầy tỏ những tình cảm
uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn, muốn than van, nuối
tiếc, khóc thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi niềm trong
lòng thì mới thưởng thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi biết
anh cũng đang có nhiều nỗi niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời
anh đi hát hôm nay. Có đúng như vậy không nào?
Thảo nhìn Tuân chằm chăm, rồi ngần ngừ nói:
-
Anh hỏi tôi câu ấy làm tôi chột dạ. Cố phải anh là môn đệ của Freud đã
nhìn thấy tâm can tôi không? Hay anh là cán bộ của “cụ Hồ” đang gài bẫy
để bắt quả tang lập trường chao đảo của tôi đây?
-
Tôi chưa hề đọc Freud. Và anh cũng đã mắc cái bệnh cảnh giác nặng rồi
đấy. Nhưng cứ yên tâm, vì thằng Nguyễn Tuân này dù thế nào thì cũng
không thể hèn mạt đến nỗi bán rẻ tình bạn cho cách mạng đâu. Anh cứ bình
tĩnh mà chịu đựng và chờ đợi, chờ thời… Tôi hỏi thật, anh có hiểu tại
sao ca trù nó lại thấm thấu tâm can chúng ta như vậy không?
- Tại sao vậy anh?
-
Tại vì ca trù toàn chuyên chở âm điệu những nuối tiếc, những tình hận,
những chí cả sinh bất phùng thời của những kẻ bất mãn, bất đắc chí như
anh đấy!
-
Sao anh thấy được tận đáy lòng tôi như thế? Xin cảm ơn anh! Nhưng cũng
xin anh đừng làm tôi sợ vì đúng là anh đã bắt quả tang tôi đang chao đảo
lập trường đối với cách mạng!
-
Anh đừng lo. Tôi hiểu anh vì tôi hiểu tôi. Bởi chúng ta chỉ là bọn
Giang Châu tư mã đang bị giông bão thời cuộc đánh trôi dạt về cái bên
Tầm Dương rừng rú này. Buồn lắm! Thảm lắm anh ơi! Với anh tôi mới dám
thổ lộ tâm sự u buồn của tôi. Bởi tôi biết sợ cũng như anh biết sợ…
Rồi
bác Thảo còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời
bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau
này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô
kệch nghèo nản ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy nữa.
Thấy bác đặc biệt nhớ tới cái đêm hát ả đào ấy nên tôi lại hỏi:
- Sao bác quá chú ý tới cái đêm hát chui ấy giữa lúc dân chúng đang lo chiến tranh lan rộng?
-
Đấy là thêm một hiện tượng làm tôi phải suy nghĩ. Sống trong giai đoạn
cuồng nhiệt phát triển cách mạng, trong lúc chiến tranh đang chuyển động
dữ dội, vậy mà tôi thấy có nhiều điều không thật sự cần thiết cho đời
sống, như làm thơ lãng mạn, hát nhạc trữ tình, như ca trù v v… mà dân
chúng vẫn cứ nuôi dưỡng những thú vui ấy trong lòng. Vì vậy mà đã bị
cách mạng cấm. Tại sao những thứ bị cấm ấy, chúng vẫn cứ sống âm ỉ trong
lòng dân? Rồi tôi nghiệm ra là những sinh hoạt tình cảm và nghệ thuật
ấy là những thú vui, đá thấm nhuần vào tâm can mỗi con người. Rồi nó trở
thành nhu cầu, trở thành sức sống như ngọn lửa thiêng, dù cấm mấy,
nhưng nó vẫn cứ âm ỉ cháy để đợi cơ hội bùng lên… Vì đấy là những điều
mà con người nói chung, con người bền vững thèm khát, ưa thích. Những
thú vui ấy là biểu hiện của sự sống, cấm không được, dù có giết những
con người, nhưng không thể giết được những sở thích, không thê dập tắt
khát vọng đã thấm sâu vào tim gan não trạng con người. Vì đấy chính là…
sức tự do tư tưởng! IV
Chương 5.Thực tại tàn nhẫn chất vấn
BẮT KÊ KHAI LÝ LỊCH
Đồng
chí ngoan cố quá! Cách mạng đã lên án tất cả các kẻ cộng tác với phong
kiến và thực dân, vậy mà đồng chí lại ca ngợi chúng! Thái độ, lập trường
ấy là chống cách mạng chứ coi là giác ngộ cách mạng sao được! Đồng chí
nghe tôi đi! Vì quyền lợi của đồng chí, đồng chí phải làm lại bản tự
khai này!
- Tôi không thể làm một bản tự khai khác, vì làm khác đi là tôi nói dối, là tôi lừa đảo cách mạng.
-
Đồng chí mà không chịu làm lại bản tự khai, thì tôi coi như đồng chí
chưa làm. Chứ tôi không thể nạp bản tự khai không đúng cách thức này vào
hồ sơ lý lịch của đồng chí! Như vậy là đồng chí chưa hoàn thành đứng
thủ tục lập hồ sơ nhập trại để có thể hành, quân về nước! Đồng chí suy
nghĩ lại đi!
Tôi
cảm thấy trong đầu óc người cán bộ hồ sơ này có một cái khoá kiên cố,
không có cái chìa khoá chấp nhận gian dối thì không mở nó ra được. Thế
nên tranh cãi với cái khoá như thế là điều vô ích. Cuối cùng Thảo đưa ra
một đề nghị như một lời an ủi:
-
Thôi bây giờ tôi chấp nhận như chưa làm bàn tự khai, nhưng với điều
kiện là cho tôi viết một bản tự bạch để yêu cầu đồng chí chuyển lên
trên, nếu sau khi bên trên đọc bản tự bạch của tôi rồi, mà vẫn có lệnh
bắt tôi phải làm lại thì tôi sẽ làm lại y như ý hướng dẫn của đồng chí,
nghĩa là tôi chấp nhận nói dối theo lệnh của bên trên. Đồng chí cứ
chuyển bản tự bạch của tôi lên trên, rồi sẽ tính sau, như vậy có được
không? Còn nếu không thì tôi sẽ làm lại bản tự khai với câu mở đầu “Sau
đây là bản tự khai do cán bộ hồ sơ bắt buộc tôi phải làm chứ tôi không
làm theo sự thành khẩn của tôi…” Đồng chí có bằng lòng như vậy không?V
CCRD
Cũng
chính vì suy nghĩ và có lập trường như thế mà sau này tôi đã liều chết
phản đối chính sách xét xử một cách bậy bạ, rồi xử bắn cả những người vô
tội, khi lần đầu tiên, tôi tham gia và chứng kiến một đợt thi hành cải
cách ruộng đất. Lần ấy suýt làm tôi mất mạng. Đợt cải cách khủng khiếp
này đã xảy ra ở huyện Chiêm Hoá thuộc tỉnh Tuyên Quàng…
- Vụ ấy đã diễn ra như thế nào?
Bác
Thảo mau mắn kể lại kinh nghiệm lần đầu tiên, được tham gia một đoàn
chuẩn bị đi trực tiếp phát động một đợt cải cách ruộng đất mới. Nhiệm vụ
của đoàn là xây dựng những “tổ viên đội cải cách”.
Đội
của bác Thảo trước khi đi thì được “học tập” công tác tiến hành phương
pháp “bắt rễ, xâu chuỗi” ngay khi tới địa phương. Nhưng đối với Thảo thì
đây là lần đầu tiên nghe thấy những “công tác” lạ tai ấy.
“Bắt
rễ” là khi tới địa phương, đội viên phải tìm tới sống chung với một gia
đình bần cố nông có tên trong một danh sách thành phần xã hội nghèo
túng, mà chính quyền địa phương đã lập từ trước. Danh sách đó ghi rõ họ
tên từng chủ gia đình với cách sinh sống… như đi làm thuê, nguồn thu
nhập ngày có, ngày không, tải sản riêng không có gì đáng kể, nơi cư ngụ
thì là ở tạm bợ trong một túp lều tranh trên phần đất công điền, công
thổ dễ bị đuổi đi bất cứ lúc nào… Các đội viên phát động cải cách có
nhiệm vụ động viên, giáo dục bần cố nông, tức là dạy cho họ biết các
“quyền” và “lợỉ” của bần cố nông trong và sau khi tham gia cải cách
ruộng đất. Họ có quyền và nghĩa vụ hạch tội, trừng trị những kẻ “đã từ
bao đời liên tiếp cưỡi lên đầu lên cố bần cố nông, đã bóc lột, hành hạ,
đánh đập bần cố nông, đời này qua đời khác”. Lợi là họ sẽ được chia “quả
thực” trong số những ruộng đất, nhà cửa, tải sản tịch thu của những kẻ
giàu có chuyên sống bằng cách đè đầu đè cổ, bóc lột bần cố nông.
-
“Xâu chuỗi” là sử dụng cách sống chung ấy để kết nạp, thúc đẩy và tổ
chức cho bần cố nông ấy trở thành một tổ viên thi hành cải cách, nghĩa
là biết đấu tố, biết hạch tội, biết nhận một thứ nhiệm vụ công tố y như
trong một toà án. Tổ viên này sẽ đứng ra buộc tội, lên án bọn địa chủ,
phú nông, cường hào, ác bá, tức là bọn nắm quyền, nắm lợi trong xóm,
trong làng, trong xã, trong huyện… từ trước tới nay..
Để
kích động tinh thần các bần cố nông đã được bật rễ và xâu chuỗi ấy, để
họ hăng hái ra tay phát động cải cách ruộng đất, thì các đội viên phát
động cải cách phải giải thích cho bần cố nông rõ đây là một dịp trả mối
thù lâu đời của bần cố nông. Phải làm cho họ có tinh thần căm thù cao
độ, để biến hận thù thành hành động, để thẳng tay trừng trị, tiêu diệt,
nghĩa là đòi xử tử những tên nặng tội nhất, ngoan cố nhất, có nợ máu
nhiều nhất với giai cấp bần cố nông. Càng vạch mặt chỉ tên và trừng trị
được nhiều thành phần phản động thì càng tịch thu được nhiều của cải,
ruộng đất, nhà cửa, thì càng thành công, cuối cùng thì bần cố nông càng
được chia nhiều “quả thực”… Và sự trừng trị càng mạnh thì tàn dư phong
kiến, thực dân càng sợ hãi mà không dám ngóc đầu lên để bóc lột như
trước nữa.
Sự
thành công của công tác cải cách ruộng đất tuỳ thuộc vào tài tổ chức,
động viên và huấn luyện bần cố nông thành những nhân chứng luận tội của
nhân dân, để nhân dân biết vùng lên tiêu diệt giai cấp đã bóc lột họ.
Công tác nặng nề và khó khăn này là của các đội viên đi phát động cải
cách. Thực tế là đa sổ bần cố nông đều chưa biết ăn nói, thường rất rụt
rè trước đám đông, nhiều khi còn e nể những chủ cũ, sợ sệt những lý
trưởng, những chức sắc cũ của làng xã! Chỉ thị nêu rõ là phải tận dụng
phương pháp kích thích hận thù qua nhũng bước như kể khổ, hạch tội, xỉ
vả tới những quyết định trừng trị… làm cho bần cố nông mạnh dạn tham gia
cải cách.
Ngồi
nghe giảng dạy nhiệm vụ của một đội viên phát động cải cách như thế,
trong đầu Thảo tự nhiên nảy sinh nhiều thắc mắc về mặt đạo lý, cồng lý.
Có một điều Thảo biết chắc chắn là những phương pháp cải cách này, chính
Marx hay Engels cũng chưa hề đề cập tới một cách cụ thể như thế. Vì cả
hai ông thày của cách mạng vô sản này chưa bao giờ thật sự bắt tay vào
thực tế thi hành lệnh xoá bỏ giai cấp mà cả hai ông hô hào! Những chính
sách đấu tố như vậy là phương pháp mà Lenin và Mao đã tuỳ tiện khai
triển và nó đã đi quá xa với những gợi ý đấu tranh giai cấp của Marx, xa
tới độ trái với ý hướng nhân bản của Marx.
Suy
nghĩ như vậy, Thảo đâm ra hoang mang đến chán nản, nhưng không thể nói
ra. Vì đang mang mặc cảm bị nghi ngờ là kẻ phản cách mạng, phá cải cách,
kẻ đang bị thanh gươm “cảnh giác” treo lơ lửng sẵn trên đầu!
Khoá
tập huấn chuẩn bị cho đoàn viên đi phát động cải cách đã hoàn tất được
hai ngày. Đội của Thảo được phân công đi phát động cải cách ở một địa
điểm cách Phú Thọ không xa, tức là ở huyện Chiêm Hoá thuộc tỉnh Tuyên
Quang kế cận. Đó là một huyện trong vùng an toàn, xa sự đe doạ của các
cuộc càn quét của quân lính Pháp. Dân ở đây thua thớt, đất ruộng ở đây
thuộc loại xấu và rất phân tán vì phần lớn các gia đình nồng dân chỉ có
một vài mẫu cho tới vài sào, sản xuất một lượng thóc gạo đủ ăn cho chín
hay mười tháng. Khi giáp hạt thì dân thường phải ăn độn. Thế nên gia
đình nào có vài mẫu ruộng đủ ăn thì cũng bị xếp vào thành phần phú nông.
Hơn nữa, vùng này có nhiều rừng rậm, giao thông thô sơ, ruộng lúa chen
lấn quanh núi rừng, rất khó làm, cầy cấy rất vất vả.
Việc
đầu tiên phải làm khi về tới địa phương là tìm một gia đình bần cố nông
để “bắt rễ”. Uỷ ban hành chính địa phương, đã lập sẵn danh sách các gia
đình bần cố nông, ít ruộng, không nghề nghiệp hay thu nhập gì rõ rệt.
Các chủ gia đình nghèo ấy khi có người thuê mướn thì đi làm nửa buổi,
khi thì làm cả ngày… làm bất cứ việc gì: từ dọn cỏ, cuốc đất cho tới
quét nhà, dọn vườn, đào mương, móc cống… nghĩa là đủ thứ làm việc vặt
trong nhà. Những ngày không ai thuê mướn, thì cả vợ chồng, con cái phải
đi mò cua, bắt ốc, nhặt củi, hái những thứ rau cỏ hoang, bắt cào cào,
châu chấu… miễn sao có thể nấu lên, nướng lên mà ăn để sống qua ngày. Vì
thế khi được đoàn cải cách về ở chung, họ mừng lắm. Bởi đoàn cải cách
có gạo và góp tiền nhờ họ nấu cơm để cùng ăn. Nhưng cái khó cho mỗi đoàn
viên phát động cải cách là chỉ trong vòng vài ngày, phải huấn luyện
người chủ gia đình bần cố ấy thành một nhân chứng, một “đội viên cải
cách”: biết ăn nói rành mạch, biết tố giác tung tích, kể khổ, rồi hạch
tội các địa chủ, phú nông, các hào lý hách dịch chuyên cậy quyền thế, ỷ
vào “việc quan” để sai khiến, đánh đập, bóc lột người nghèo khổ.
Thảo
được chỉ định tới ở chung trong một túp lều rơm của gia đình bần cố
nông Lê Tư, một vợ đang đau ốm với hai đứa con một đứa đã năm tuổi, một
đứa mới một tuổi rưỡi. Thủ trưởng đoàn giới thiệu với bần cố nông Lê Tư
rằng Thảo là một cán bộ trí thức mới ở bên Tây về với cách mạng. “Ở bên ấy trí thức Tây cũng phải kính phục đồng chí Thảo”, nghe vậy, bần cố Lê Tư cũng nể phục lắm.
Sau
khi đưa phiếu khẩu phần gạo và tiền cho gia chủ nhờ nấu cơm, công việc
bắt rễ khỏi sự bằng cách giảng giải nhiệm vụ của một “bần có nông nổi
dậy”, đứng lên tố khổ bọn nhà giàu, quy tội chúng là thành phần bóc lột,
là kẻ thù của giai cấp công nông… để đòi tịch thu tài sản của chúng,
bắt chúng từ nay phải tự tay láo động, để mà sống… Cuối cùng Thảo hỏi Lê
Tư:
- Lãnh trách nhiệm một bần cố nông nổi dậy là như vậy, đồng chí có làm được không?
- Cháu là thằng vô học, ông bảo cháu làm gì thì cháu sẽ làm y như vậy. Ông dạy cháu nói sao thì cháu sẽ nói y như vậy…
-
Ấy, ấy, không được! Không được! Ở đây không còn có ông, có cháu gì cả!
Chỉ có chúng ta là đông bào, đồng chí, bình đẳng với nhau thôi. Nước nhà
được độc lập rồi, mọi người đều bình đẳng rồi, nên đã cấm không được
gọi ông, xưng cháu với nhau nữa. Đồng chí phải xưng là “tôi” với mọi
người, bởi đồng chí bây giờ là bình đẳng với mọi người rồi, đồng chí nhớ
chưa?
- Dạ vâng!
- Cũng không được nói “dạ vâng” nữa. Từ nay cấm không được trả lời ”dạ vâng”! Đồng chí nghe rõ chưa?
- Dạ…
- Đã bảo là không được “dạ” nữa cơ mà!
- Thế thì phải nói làm sao?
-
Khi trả lời bất cứ câu hỏi nào thì đồng chí phải bắt đầu bằng “tôi” để
trả lời. Thí dụ như ai hỏi, “Đồng chí nhớ chưa?” thì phải trả lời là
“Tôi nhớ!”. Nểu ai hỏi “Đồng chí! có nhất trí không?” thì phải trả lời
là “Tôi nhất trí”. Bây giờ tôi hỏi và đồng chí trả lời nhé!… Đồng chí
tên là gì?
- Dạ…
- Đã cấm không nói “dạ” nữa cơ mà!
- Trong đầu đã tính nói tôi, mà cái mồm nó lại bật ra tiếng “dạ”! Khổ thế!
-
Không có khổ gì ở đây. Ta học tập làm người bình đẳng, sao lại là khổ
được? Thế là sướng chứ! Bây giờ đồng chí mím môi lại, khi tôi hỏi xong
thì đồng chí phải trả lời thật chậm. Bây giờ tôi hỏi lại này. Đồng chí
tên là gì?
- T.. ôi… tên… là… Tư!
- Đúng rồi! Nhớ xưng là “tôi” nhé! Thế là tiến bộ rồi đấy! Vậy đồng chí là người tự do rồi đấy!
- Dạ!
- Sao đồng chí lại vẫn nói “Dạ”?
- Khổ quá…!
- Sao lại là khổ? Học làm người tự do bình đẳng là sướng chứ! Đồng chí không muốn được làm người tự do bình đẳng à?
- Dạ muốn!
- Lại vẫn dạ nữa!
Cả
một buổi huấn luyện mà chỉ nội chỉ dẫn cái cách tự xưng là “Tôi”, bỏ
thói “dạ, thưa” thôi mà vẫn chưa đạt kết quả! Phản xạ khiêm tốn tự nhiên
nó đã in sâu vào óc, vào lưỡi của “đồng chí” Lê. Tư quá nửa già đời
người. Bây giờ muốn xoá bỏ phản xạ đó thật là khó khăn. Mất ba ngày góp
gạo cho gia đình đồng chí Tư rồi mà Thảo vẫn chưa đe cập được tới giai
đoạn học tập tố khổ, hạch tội…
Đêm
đến, trằn trọc khó ngủ, nghĩ lại mấy ngày cố dạy để biến Lê Tư thành
“một bần cố nông nổi dậy” mà chưa được, nên thấy tinh thế thật vừa nguy
nan, vừa khôi hài: một giáo sư tốt nghiệp thạc sĩ một trường sư phạm nổi
danh thế giới, mà nay bất lực không dạy được một bần cố nông trở thành
người bình đẳng với mọi người! Bỗng Thảo bật cười, nhịn không được! Cứ
cười như nổi cơn điên. Cười mãi mới nín được, rôi lại tủi phận mình mà
bật khóc, lấy khăn tay sịt mũi kêu khịt khịt. Làm cho Lê Tư nằm trong ổ
rơm ở góc chòi thức giấc, vừa bực mình, vừa lo sợ nên hỏi:
- Đồng chí Thảo ơi! Sao mà hết cười, rồi lại khóc vậy? Ngủ đi chứ!
Thảo
giật mình khí biết đã phá giấc ngủ của gia chủ nên vội lấy khăn tay bịt
miệng, bịt mũi, cố giữ nín thở, im lặng một lúc, rồi đành phải mở khăn,
thở trở lại, nhưng rồi vẫn không nhịn được cười, cười đến tràn nước
mắt…
Sáng ra, khi ra trụ sở xã để báo cáo công tác, Thảo đành thú nhận một cách buồn thảm với đoàn cải cách:
-
Tôi thật là bất tài, không thể nào dạy đồng chí Lê Tư làm nhiệm vụ
được. Xin cho tôi trở về cứ. Công tác này quả thật là tôi không làm
được.
-
Không sao, đồng chí cứ ở đây với đoàn. Tên Lê Tư nó không chịu làm đội
viên cải cách thì có người khác, không thiếu đâu mà ngại. Xã này nghèo
lắm, thiếu gì bần cố nông muốn được vào đội cải cách.
Chủ tịch xã có mặt ở đó nói xen vào:
-
Cái tên bần cố nông Lê Tư này thì tôi biết nó ngoan cố lắm. Nó đóng
kịch giả câm, giả điếc với đồng chí đấy. Tôi sẽ trừng trị nó, cho bớt
cái thói lẩn tránh không chịu tham gia phong trào. Tôi chỉ doạ phạt nó
một tháng lao động khổ sai là bảo gì nó cũng nhớ và làm ngay.V
Chương 6.Đặt lại vấn đề từ học thuyết
ĐẤU TỐ
Khoảng
hai giờ trưa hôm ấy, trời nắng chói chang. Từ cả tiếng đồng hồ trước,
dân chúng đã được điều động tới ngồi xổm trên nền gạch trước sân đình.
Ông già, bà già, người lớn trẻ con, bồng bế nhau đi coi xử tội địa chủ!
Đám đông nói cười ồn ào, trẻ con khóc inh ỏi.
Nhưng
rồi từ ngoài, một cán bộ dẫn tải một toán “thanh niên và nhi đồng cải
cách”, sắp xếp cho toán ấy ngồi trước mặt quần chung và bắt đầu công tác
văn hoá tuyên truyền để tạo không khí cách mạng, gồm có hô khẩu hiệu và
ca hát. Cứ hô vài khẩu hiệu đả đảo tàn dư phong kiến thực dân xong, lại
vỗ tay làm nhịp hát một bài. Lối hát cũng đặc biệt vì thực ra đây là
một bài vè ngắn đã thuộc lòng, rồi đọc lên cho có vần, có điệu theo nhịp
vỗ tay, cứ y như cùng nhau niệm kinh theo nhịp mõ trong chùa. Hỏi ra
mời biết đây là kiểu hát dân dã của sắc tộc miền núi bên Trung Quốc, gọi
là “sơn ca”, nội dung bài hát cũng là theo phong cách “đấu tố ca” bên
Trung Quốc. Thảo thấy hay nên cũng lắng tai nghe. Nghe mấy đợt rồi cũng
thuộc lòng một bài, rồi cũng vỗ tay ba nhịp để hát từng câu.
Hát rằng:
Nước chảy dưới dòng sông
Ai múc lên thì uống,
Cũng như là đất ruộng
Ai có công thì hưởng bốn mùa
Mấy câu ca trên đây
Của nông dân Trung Quốc
Anh em ơi, hãy học lấy cho thuộc!
Để vung tay phát động đấu tranh!
Nhưng nay vì quốc gia, vì “đảng”
Vì bước trường kỳ cách mạng
Nên ta còn cho chúng hưởng phần tô
Nếu chúng còn gian dối mưu mô
Thì quyết liệt
Anh em ơi! Đấu mãi!
Đám đông hét xong, một cán bộ tuyên truyền hô lớn: “Đả đảo địa chủ, con đẻ phong kỉén, thực dân!”
Quần chúng cách mạng cũng hưởng ứng hô tiếp:
- Đả đảol Đả đảo! Đả đảo!
- Đả đảo cường hào, ác bá con đẻ phong kiến, thực dân!
- Đả đảo! Đả đảo! Đả đảo!
Rồi lại hát. Rồi lại hô khẩu hiệu. Cứ như vậy khoảng hơn nửa giờ thì ngưng đề bắt đầu “phiên toà án cải cách”.
Bàn
chủ toạ đặt phía trong đình cũng đã bắt đầu đông đủ. Trên bãi sân trước
bàn ngăn cách xa với đám đông bên ngoài là một cột cờ cao sáu thước,
rồi tới hàng cọc tre. Ai cũng biết mấy cọc đó là dành cho những tên phán
động sắp bị mạng ra đấu tố. Nhưng chính mấy cọc tre đó đã làm cho đám
đông hỏi hộp muốn chờ xem những tội nhân bị mang ra đấu tố là ai, sẽ
trừng trị như thế nào. Càng hiếu kỳ hơn nữa là ngay cạnh bên trái đình,
là một mô đất nâu sẫm vì mới được đắp, là một hàng cọc tre khác với một
tấm bảng ghi rõ “trường bắn”! Chưa bao giờ có một cuộc mít tinh đông tới
cả nghìn người mà lại bao trùm bởi một bầu không khí hồi hộp sợ hãi đến
như vậy. Nhiều trẻ em đứng bám chặt vào bố mẹ và khóc la đòi về, vì
chúng cảm thấy ghê sợ quá. Chúng đã nghe người lớn nói người ta sắp bắn
người trước mặt chúng! Cải nắng gay gắt càng làm thêm ngột ngạt khó thở.
Bỗng trống cái trong đình nổi lên ba tiếng: Thùng! Thùng! Thùng!
Bên ngoài, có tiếng quát liên tiếp:
- Tránh ra! Tránh ra! Tránh ra!
Đám
đông tụ tập ngồi trước đình bị sáu dân quân tự vệ cầm súng trường có
gắn lưỡi lê dẹp qua hai bên để mở một đường cho đoàn cán bộ, đội viên
đội cải cách vào đình. Chỉ có năm đội viên cải cách được vào ngồi trước
bàn nhìn xuống hàng cọc tre ở bên trái, và xa hơn là dân chúng. Số cán
bộ đi phát động thì được mời ngồi ở hàng ghế phía sau. Một trong những
cán bộ ngồi đầu bàn bên trái, có vẻ là người nắm công việc tổ chức, lớn
tiếng ra lệnh cho một dân quân:
- Nổi trống lên để làm lễ khai mạc.
Ba
hồi trống rền vang dậy báo hiệu phiên toà án cải cách ruộng đất sắp bắt
đầu. Cán bộ ngồi giữa đứng dậy quật lớn: “Tất cả im lặng!”, nhưng bên
dưới dân chúng vẫn ồn ào, chen lấn nhau, đám thiếu nhi mặc đồng phục
nâu, đầu đội mũ chào mào đứng phía trước cười nói lao xao nên lại có
tiếng quát lớn liên tiếp:
-
Xin đồng bào giữ trật tự! Tất cả im lặng! Các cháu thiếu nhi thôi đừng
nói chuyện nữa! Chuẩn bị làm lễ chào cờ! Xin đồng bào đứng dậy làm lễ
chào cờ!
Sáu dân quân cầm súng ban nãy, giờ dàn ra thành hàng ngang và đứng nghiêm, hai tay giơ súng thẳng ra trước ngực để chào cờ.
Ba
dân quân khác tiến ra: một người hai tay trịnh trọng mang lá cờ còn gấp
vuông vức bước tới cột cờ, theo sau là người kéo cờ và chót hết là
người bắt nhịp hát:
- Tất cả! Nghiêm! Lễ chào cờ bắt đầu!… Tất cả cùng hát: Đoàn quân Việt Nam đi… hai, ba…!
- Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc…
Quần chủng hát lớn tuy không đều, nhưng rất nhiệt tình, mỗi khi nhịp hát lên cao thì tất cả hát như thét lên, rất là có khí thế!
Bài quốc ca được hát vang dậy. Lá cờ được từ từ kéo lên tới đỉnh cột cờ lúc bài ca chấm dứt. Người dân quân lại hô:
- Tất cả! Nghỉ! Tất cả! Ngồi!
Đám
đông lao xao ngồi trên guốc, dép, số còn lại thì ngồi xổm hoặc ngồi bệt
xuống sân gạch. Cán bộ cải cách ngồi chính; giữa trước bàn đứng dậy
tuyên bố khai mạc phiên xử sáu tên ác ôn phản động gồm năm tên đều là
địa chủ, phú nông. Còn một tên là lý trưởng cũ.
Bỗng
có tiếng khóc lóc. Rồi từ bên ngoài hai dân quân dẫn sáu người bị trói
hai tay quặt ra sau lưng. Cả sáu bị buộc thành một chuỗi bằng những khúc
dây thừng to vòng quanh cổ, người nọ tiếp nối người kia, cách nhau
khoảng hai thước. Dân quân đi đầu đeo súng trên vai tay cầm đoạn dây
thừng kéo chuỗi sáu người bị mang ra đấu tố, dần quân thứ nhì cẩm súng
đi bên cạnh. Tội nhân mặc quần ảo xốc xếch, có vét bùn và vết máu, có kẻ
vừa đi vừa khóc lóc. Trong số đó có một bà cụ tuổi ngoài sáu chục, khi
đi ngang qua đám đông thì gào khóc thật to tiếng:
- Con ơi là con ơi! Con ở đâu thì về cứu mẹ với con ơi!
Dân quân đi cạnh bước tới dùng báng súng đánh ngang vào bụng bà giả và quát:
- Con mụ già này có câm mồm đi không? Câm ngay đi!
Bà
cụ bị báng súng phang mạnh vào bụng, ngã chúi xuống kéo hai người đi
trước và sau cùng ngã ra, làm tất cả chuỗi người chùng lại suýt cùng ngã
theo. Hai dân quân vội nắm cổ lôi họ đứng dậy một cách vất vả. Đám nhi
đồng thấy vậy cười khúc khích. Cán bộ chủ toạ đứng đậy quát lớn:
- Các cháu nhi đồng không được cười đùa!
Đám
trẻ con sợ hãi, vội lấy tay bịt miệng lại cho tiếng cười khỏi bật ra.
Khi chuỗi tội nhân bị đưa tới gẩn hàng cột tre, hai dân quân lần lượt
tháo từng khúc giây thừng ra và bắt mỗi người quì xuống, mặt hướng về
bàn chủ toạ, tay bị trói chéo ra sau dính vào một cột. Bà cụ già vẫn
khóc lóc, nhưng không dám khóc to tiếng, vẫn là than van:.
- Con ơi là con ơi! Người ta sắp giết mẹ rồi con ơi là… con ơi!
Cán bộ chủ toạ lại đứng dậy, nói thật to:
-
Hôm nay toả án cải cách ruộng đất huyện ta về đây để mang ra xét tên
phản động ở các xã thôn ta, do đồng bào tố cáo. Chúng thuộc, giai cấp
thống trị đã nổi tiếng là những tên địa chủ, phú nông, cường hào chuyên
đè đầu dân, bóc lột bần cố nông, đánh đập dân nghèo. Vậy tất cả đồng
bào, ai đã bị chúng bóc lột, hành hạ thì nay đều có quyền đứng ra làm
nhân chứng kể tội chúng, rồi sau đó toà sẽ xét xử theo những bằng chứng
và những lời buộc tội của đồng bào. Đồng bào có nhất trí xét xử sáu tên
phản động này không?
Bị hỏi bất ngờ, đám đông đáp lao xao:
- Nhất trí!
Thấy đám đông có vẻ thụ động, cán bộ chủ toạ lại quát hỏi thật to tiếng hơn nữa:
- Đồng bào có nhất trí không?
Hiểu rõ câu hỏi đó là một mệnh lệnh, đám đông vung nắm tay phải lên đáp đồng thanh hơn:
- Nhất trí! Nhất trí! Nhất trí!
-
Bây giờ toà bắt đầu xét xử tên phản động đầu tiên là Nguyễn Văn Minh, y
đã làm lý trưởng từ mười hai năm nay, tên cường hào này là đày tớ của
phong kiến và thực dân, đã nhiều lần ép buộc dân làng đi phu khổ sai, để
đắp đường, đào kinh, lên rừng chặt cây nộp để làm đường xe lửa, chính
tên lý trưởng này đã đốc thúc nhân dân phải nộp đủ các thứ thuế, từ thuế
thân, thuế gạo, thuế muối… cũng chính tên này đã đánh đập những người
cùng khổ vì không đủ sức lao động khổ sai, nghèo túng không nộp đủ thuế…
Vậy nay ai đã từng bị tên lý trưởng Nguyễn Văn Minh này hành hạ, bóc
lột thì cứ xung phong đứng ra làm chứng để hạch tội tên phản động này để
toà căn cứ vào đó mà xét xử.
Từ
nãy, có một toán thanh niên gồm mười hai người, tuổi độ trong khoảng từ
trên hai mươi tới ba mươi, đứng ở hàng đầu của đám đông, bên trái, ngay
cạnh đám nhi đồng, toán này luôn luôn hô hoán mạnh nhất. Khi được hỏi
có ai muốn là nhân chúng hạch tội thì; cả toán đồng thanh, giơ tay đáp:
- Tôi!
- Tôi!
- Tôi!
Chủ toạ ra lệnh:
- Mời nhân chứng số một!
Một người trong toán ồn ào ấy bước tới trước bàn định nói, nhưng cán bộ chủ toạ đưa tay ra lệnh:
- Nhân chúng ra gần chỗ tên lý trưởng để hạch tội!
Khi tới đứng ngay trước người lý trưởng bị trói và quỳ ở cột đầu phía trái, nhân chứng vỗ vào ngực để trần và nói lớn:
-
Mày có biết tao là ai không? Tao là Nguyễn Văn Đê, hai mươi bảy tuổi,
chuyên làm mướn y như bố tao và ông nội tao. Vì vậy, tao là bần cố nông
từ ba đời nay. Thế nên tao biết rất rõ tung tích của mày, là tên lý
trưởng Nguyễn Văn Minh. Vì bố mày trước cũng làm lý trưởng và cả ông nội
mày cũng vậy. Cả bố mày, ông nội mày và mày đều đã được phong kiến ban
thưởng hàm cửu phẩm, vì có công thay mặt thực dân, phong kiến, để đốc
thúc dân đi phu, đốc thúc dân đóng các thứ thuế, và chính mày mới đây
thôi, đã dùng roi mây đánh đập tao đến chảy máu lưng, mang thương tích
còn đên bây giờ vì tội không thu mua đủ số lượng cây gai để mày giao nộp
cho quân Nhật!
Sau
khi vạch lưng ra để lộ mấy đám sẹo mờ mờ, nhưng rõ ràng không phải là
vết của roi mây, Đề tiến tới vung tay đấm mạnh vào mồm lý trưởng, miệng
nói:
- Mày đã đánh, đã chửi tao, đã hà hiếp bao nhiêu đồng bào khác, mày nhớ không?
Thấy
nắm tay vung tới gần miệng, lý trưởng vội né đầu xuống tránh nhưng nắm
đấm đánh trúng vào phía mắt phải, làm bật máu chảy ròng ròng ướt cả một
bên mặt.
Cán bộ chủ toạ thấy vậy, giật mình, can:
- Nhân chứng không được gây thương tích cho bị cáo. Thôi hạch tội thế đủ rõ rồi. Bây giờ đến lượt nhân chứng thứ nhì.
Một người khác, cũng trong nhóm nhân chứng, bước tới trước lý trưởng, kể các tội thật mơ hồ và lung tung:
-
Mày có thói đánh người khi say rượu. Mày đã ép người ta phải bán mấy
sảo ruộng thuộc loại tốt cho mày, rồi ép phải bán cả con trâu khỏe nhất
cho mày, rồi mày vu cáo người ta nấu rượu lậu, để mày phạt tịch thu tài
sản, khiến bao người sạch nghiệp vì mày, rồi phải đi làm thuê, mò cua,
mót lúa mà nuôi gia đình… Tội của mày kể ra không thể hết! Mày có nhận
tội không?
Bi cáo cúi đầu im lặng.
Kể tội xong, nhân chứng tiến tới tát vào má bên trái lý trưởng, miệng nói:
- Chính mày đã dùng thủ đoạn, mưu kế để cướp đoạt hết tài sản của bao gia đình, mày có nhận tội hay không? Mày còn…
Bị hạch tội vu vơ, người lý trưởng không câm nín giữ im lặng được nữa, nên hỏi lại:
- Người ta là ai? Bao gia đình là gia đình nào cơ?
Cán bộ chù toạ thấy buộc tội như vậy là mơ hồ quá rồi, nên quyết định:
- Tội lỗi tên cường hào lý trưởng này như vậy là rõ rồi. Bây giờ xử lý tới tên địa chủ Hoàng Văn Quân. Nhân chứng đâu?
Một người gầy còm tiến tới trước tội nhân bị trói quỳ ở cột thứ nhì, nêu rõ tên họ mình rồi lớn tiếng bắt đầu kể tội:
-
Mày có hơn hai mẫu ruộng, mà cả đời chân không lội bùn, tay không chạm
tới hòn đất, toàn thuê mướn dân nghèo khổ phát canh cho mày thu tô. Làm
xong việc thì mày chê bai để bớt tiền này công nọ. Trong nhà thì vợ mày
đẻ non, mà không nuôi, toàn nuôi vú sữa, mày bắt người vú phải gửi con
về nhà ông bà để nuôi nó bằng cháo trắng…
Cứ mỗi lần kể xong một tội, nhân chứng lại tát vào mặt tội nhân và hỏi:
- Có phải mày đã làm như vậy hay tao nói sai?
Lần
lượt các nhân chứng tới cạnh các tội nhân để hạch tội một cách mơ hồ,
toàn là những lời đồn đại. Thỉnh thoảng lại tát vào mặt các tội nhân
theo cùng một cách, vì đã được huấn luyện như thế. Cả năm tội nhân đều
bị đánh, và phải cúi đầu im lặng. Chỉ có tội nhân nữ là bà cụ Vũ Thị
Thanh là dám cãi lại.
Hai nhân chứng chót lả phụ nữ, nói xoe xoé kể tội:
-
Mày có nhà gạch lớn như dinh nhà quan với vườn rộng mênh, mông, nuôi
tới ba con chó Tây để trông nhà, có đời sống xa hoa sang trọng mà không
nghĩ tới bao gia đình cùng khổ sống ở chung quanh! Mày nuôi hai đày tớ
với lương rẻ mạt… Người nghèo đói đến xin ăn thì mày xua chó đuổi đi, có
khi chó xổng ra cắn người qua đường đến bị thương nặng, mày có nhận tội
không?
Trái với năm tội nhân đàn ông, bà già này cãi lại chứ không nhận tội:
-
Nhà tôi rộng vì con tôi ở Hà Nội gửi tiền về xây cho chứ tôi không bóc
lột ai! Tôi sống ăn chay, tụng kinh niệm Phật chứ không sống xa hoa! Tôi
nuôi chó giữ nhà vì đã bị kẻ trộm vào nhà nhiều lần. Ngày rằm, mùng
mặt, tôi đi chùa vẫn bố thí cho người nghèo. Năm đói Ất Dậu, chính tôi
lo nấu cháo cứu người trong làng. Mỗi khi làng có việc, tôi quyên góp,
tôi là người xung phong ủng hộ nhiều nhất. Khi cách mạng về, tôi đã ủng
hộ tiền mua súng cho đội dân quân của làng! Cả đời tôi không bóc lột ai,
con tôi hiện đi bộ đội đang đánh Pháp ngoài chiến trường…
-
Mày nói láo! Mày không bóc lột ai, nhưng con mày ở Hà Nội có cày sâu,
cuốc bẫm đâu mà có của cải nhiều thế? Của cải ấy không do bóc lột thì nó
trên trời rơi xuống à? Câm mồm đi con đĩ già ngoan cố!
Nhân chứng vừa chửi vừa tiến lại vả mạnh vào mặt bà già! Bà cụ đau quá, càng gào khóc, gọi con cầu cứu:
- Con ơi là con ơi là con ơi! Nó đánh mẹ con ơi! Con về cứu mẹ với con ơi!
Người dân quân đứng đàng sau tiến tới lấy báng súng bổ vào lưng bà già quát:
- Câm mồm ngay. Còn khóc lóc nữa là tao nhét giẻ vào mồm đấy!
Bà già sợ hãi; khỏe nhỏ hẳn đi nhưng miệng vẫn rên rỉ:
- Con ơi là con ơi…!
Lần
đầu tiên trong đời, Thảo được chứng kiến một “phiên toà” đánh đập thô
bạo đến mức khủng khiếp như vậy. Đây là một trò hề công lý, chứ có luật
lệ gì đâu!
Bằng
chứng tội lỗi toàn là do bần cố nông kể miệng như vu oan, chứ không do
một văn bản điều tra nào. Không một điều luật nào được nêu ra làm căn
bản để buộc tội. Bởi có ai biết gì, hiểu gì về công việc xét xử của một
toà án bao giờ đâu! Thế nên đầu óc Thảo bị căng thẳng, tim đập mạnh,
thân thể run lên vì xúc động, hỏi một cán bộ địa phương đúng cạnh:
- Tại sao bà cụ ấy cứ réo gọi con như vậy?
-
Nghe nói mụ già này có con đi bộ đội trong “Trung đoàn thủ đô”, từ hồi
rời bỏ Hà Nội, ra bưng kháng chiến, nay hình như làm tới trung uỷ!
Biết
vậy, Thảo bỗng cảm thấy lo âu: bố mẹ mình cũng là dân làm việc ở Hà
Nội, cũng xây được nhà cửa lớn ở vùng quê thuộc tỉnh Bắc Ninh, chưa biết
chừng bố mẹ mình giờ cũng đang bị đấu tố như thế này! Quan sát là chung
quanh thì thấy đám đông dân chúng cũng có vẻ mặt đăm chiêu căng thẳng,
chỉ có đám nhân chứng và nhi đồng đứng ở hàng đầu là luôn vỗ tay, luôn
hò hét:
- Bắn bỏ mẹ chúng nó đi! Bọn phản động!
- Phải diệt hết lũ Việt gian phản động này!
- Con mụ già ngoan cố! Phải tịch thu nhà cửa của nó!
- Tài sản do bóc lột nhân dâu mà có thì nay phải trả lại nhân dân. Của nhân dân phải trả cho nhân dân!
Toán nhi đồng coi cảnh hạch tội như thế cũng thấy vui nên cười nói vỗ tay theo.
Cán bộ chủ toạ đứng dậy tuyên bố:
- Bây giờ đồng bào có quyền góp ý quyết định án phạt trừng trị các tội phạm.
Đám nhân chứng bên dưới đồng thanh hô to:
- Xử tử! Xử tử! Xử tử!
- Thế còn tài sản của chúng nó?
- Tịch thu! Tịch thu! Tịch thu!
- Đấy là mồ hôi, nước mắt của nhân dân, phải trả lại nhân dân!
Bỗng
từ ngoài, một cán bộ đứng tuổi có vẻ quan trọng, hông đeo sắc-cốt và
súng lục chạy vào sát cán bộ chủ toạ, ghé tai nói điều gì. Rôi hai người
thì thầm bàn luận với nhau có vẻ sôi nổi khá lâu. Cuối cùng cán bộ chủ
toạ đứng dậy lớn tiếng nói:
-
Nay toà long trọng tuyên án: tử hình đối với các tội nhân: Nguyễn Văn
Minh, Trần Văn Lễ, Nguyễn Sắc, Trần Văn Bắc, Đỗ Đỉnh Lang và Vũ Thị
Thanh! Tịch thu tài sản của chúng để chia lại cho nhân dân trong xã.
Đám nhân chứng và nhi đồng vui mừng vỗ tay và hét to:
- Hoan hô! Hoan hô! Hoan hô!
Có lẽ hai tiếng “tử hình” đã làm cho phần lớn đám đông sợ hãi nên họ im lặng. Rồi cán bộ chủ toạ tuyên bố tiếp:
-
Tiếp theo lời buộc tội và đề nghị án trừng trị của nhân dân, và toà đã
tuyên án. Nay vì vừa có lệnh mới, nên toà tuyên bố tạm hoãn thi hành án
tử hình ngay tại chỗ! Vậy xin đồng bào tự động giải tán.
Một
số đông người đứng lại xem cảnh dân quân tới trói lại sáu tội nhân
thành chuỗi giải về nơi giam giữ ở trong xã. Vài thân nhân chạy theo
tính đưa nước cho tội nhân uống nhưng bị dân quân chĩa súng doạ bắn nên
họ đành khóc lóc đi theo!
Dân chúng giải tản trong cảnh lộn xộn mỗi người mỗi ngả và bàn tán ồn ào.
Trở
về nơi tạm trú là túp lều lợp cỏ tranh của gia đình bần cố nông Lê Tư,
Thảo mong được nghỉ ngơi cho đầu óc bớt căng thẳng. Nhưng Lê Tư lại hỏi:
- Sao không bắn ngay đi cho xong chuyện. Bắt phải sống thêm đêm nay thì chỉ thêm đau khổ cho họ và cả cho gia đình họ.
-
Tôi nghĩ tạm hoãn xử bắn là đúng. Vì mang sáu người ra bắn ngay trước
mặt dân, cho mọi người cùng coi thì ghê gớm, khủng khiếp quá. Có thể là
ngày mai mấy tội nhân ấy sẽ bị mang ra bắn vào sáng sớm để tránh cho dân
chúng phải coi cảnh dữ tợn đầy máu me ấy. Mà sao đồng chí không xung
phong đứng ra hạch tội bọn chúng?
- Tôi có biết gì về tội lỗi của bộn chúng đâu! Mà tôi cũng chẳng muốn phải làm việc ấy!
- Được dịp trả thù bọn đã đè đầu đè cổ dân nghèo mà đồng chí không muốn à?
- Tôi không muốn làm việc ác.
- Xử tử hình bọn ác ôn là một việc ác sao?
-
Nói nhỏ đồng chí nghe: tôi không có học, nhưng tôi thờ tổ tiên, trời
phật ở trong đầu. Thế nên tôi không dám làm cái ác giết hại người ta.
- Thế đồng chí cho việc xử án này là ác, là không đúng à?
-
Tôi không có học như các đồng chí, nên tôi không biết thế nào là đúng,
thế nào là sai. Các đồng chí bảo nó là đúng thì tôi cũng chấp nhận nó là
đúng. Nhưng tôi ngại nhúng tay vào việc quá hung ác này, vì tôi muốn
sống hiền lành để phúc cho con… Mấy người đứng tuổi như tôi cũng nghĩ
như vậy nên họ không vỗ tay, chi có mấy cái thẳng như thằng Phèo, mấy
cái con như con Kiến Ghẻ là đã được chọn để đứng ra làm chứng, để hạch
tội, tố khổ là phải vỗ tay hoan hô thôi. Vì mấy cán bộ cải cách bảo phải
làm thế, không làm là cãi lệnh! Nhưng thật ra thì ai cũng sợ trời quả
báo. Tôi tin là trời có mắt đấy ông ơi! Sống gian ác là trời không dung
tha đâu. Đời này mình không phải trả thì đến đời con, đời cháu mình,
chúng nó sẽ phải trả thôi. Tôi thấy tận mắt chung quanh tôi, đứa nào
sống gian ác thì rồi con cháu chúng nó đều bị trời hành cả. Khi cán bộ
bảo làm thì cũng cứ phải làm thôi, chẳng mấy ai dám cãi lệnh cán bộ…
Nhưng làm việc gian ác là tôi sợ lắm!
- Thế cán bộ bảo làm bậy thì dân cũng cứ nhắm mắt mà làm à?
- Mấy ông cán bộ là của cách mạng, của nhà nước, mà có ai dám bảo là cách mạng hay nhà nước là làm sai, làm bậy bao giờ đâu!
- Đồng chí là nhân dân, mà nhân dân cũng có quyền phê phán, góp ý với cách mạng và nhà nước chứ!
-
Quyền gì thì quyền, chứ quyền bảo cách mạng làm sai thì sẽ bị quy chụp
lên đầu cái tội phản cách mạng ngay! Rồi sẽ bị thẳng tay trừng trị!
Chẳng ai dám lãnh cái quyền ấy! Dân chỉ có quyền tuân lệnh cho yên thân
thôi! Đồng chí có giỏi thì lãnh cái quyền dám phê phán làm thế là sai,
là ác ấy đi!
- Thể đồng chí không thấy nhân dân xã này căm thù mấy tên ác ôn đó sao?
-
Trong đám ấy, có lẽ chỉ có tên lý trưởng là ác ôn thôi, còn thì đều là
oan cả. Tôi biết họ đều là dân hiền lành. Tội của họ là có chút của ăn,
của để hơn lũ chúng tôi thôi. Mà họ sống và làm ăn cũng vất vả lắm!
~ Nói vậy là đồng chí không căm thù bọn chúng à?
-
Cả sáu người ấy thì tôi thỉnh thoảng cũng tới làm mướn cho họ, nên tôi
biết họ không hề ở ác với tôi. Con tôi ốm đau, tôi vẫn tới họ để xin
thuốc men, khi quá đói thì xin chút gạo hẩm nuôi lợn của họ về nấu cháo
mà ăn, vì kiếm không ra thứ gì ăn được. Như vậy mà bắt tôi phải căm thù
họ thì thật là khổ cho tôi. Ở cái xã này, trước đây vẫn sống yên vui
giúp đỡ nhau. Ra đường gặp nhau vẫn chào, vẫn hỏi thăm nhau. Chỉ có từ
ít lâu nay nổi lên phong trào học tập đấu tranh giai cấp, thì mới gây
căng thẳng, gặp nhau thì trânh né, không còn ai dám nhìn mặt nhau, không
chào mà cũng không muốn nói chuyện với nhau nữa. Bây giờ thì mọi người
nghi kị, nhìn nhau như kẻ thù giai cấp. Cái nhìn đã trở thành soi mới,
gây hấn, nên khó sống với nhau. Bây giờ có lúc tôi muốn tìm việc làm,
nhưng họ không còn dám thuê mướn tôi làm nữa. Vì sợ mang tiếng là bóc
lột. Khổ thế đấy. Bây giờ họ khổ nhưng chúng tôi cũng khổ hơn chứ có
sung sướng gì đâu!
Nói
chuyện với bần cố nông này, Thảo mới hiểu được tâm trạng của đám dân
trong xã. Họ không có học, nhưng trong họ có một thứ lương tri tự nhiên,
để cảm thấy điều lành điều dữ, điều thiện, điều ác… Họ không biết công
lý là gì, nhưng họ sợ “trời quả báo”! Trước tình trạng như vậy, trí thức
như Thảo mới thấy rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong cái hiện tại
tàn nhẫn này thật là rất nặng nề, rất là khổ tâm, khổ trí. Người biết
suy nghĩ, làm sao ngoảnh mặt làm ngơ trước trò xét xử không có luật lệ,
trước cái “toà án cải cách” không hề biết công lý, pháp lý là gì cả!
Tối
đến, một dân quân tới gọi đi họp khẩn để làm kiểm điểm, rút kinh nghiệm
về phiên toà lúc ban ngày, Thảo dự tính sẽ nêu cảm nghĩ của bần cố nông
Lê Tư ra để chứng minh là dân cũng cảm nhận việc xử này là ác, nhưng h
họ không dám nói ra đó thôi.
Buổi
họp kiểm điểm rút kinh nghiệm được triệu tập ở trong đình làng, dành
cho đoàn viên Trung ương đi phát động cải cách và các đội viên cải cách ở
địa phương, là thành phần chủ động của phiên toà lúc ban ngày. Tất cả
đông khoảng gần năm chục người, ngồi quanh hai chiếc đèn dầu lớn, đủ
sáng cho mọi người thấy tỏ mặt nhau. Đèn đặt chính giữa nền gạch của
gian chính trong đỉnh, chỉ còn bỏ trống một góc nhỏ gần đèn. Mọi người
đều có vẻ mặt đăm chiêu vì đã biết các buổi họp kiểm điểm rút kinh
nghiệm bao giờ cũng rất căng thẳng. Thảo hỏi một đồng chí trong đoàn
trung ương ngồi cạnh:
- Còn chờ ai vậy?
- Chờ hai đồng chí cố vấn!
- Phiên toà lúc ban ngày cũng gay go sôi nổi đấy chứ!
- Gay go, sôi nổi cái gì! Chờ lát nữa, vểnh tai lên mà nghe phê bình!
- Làm dữ thế mà còn bị phê bình sao?
- Không phải chỉ bị phê bình đâu! Lát nữa thì biết!
Hình như ai cũng biết trước điều gì nên đều tỏ ra lo ngại, im lặng chờ đợi một cách nặng nề!
Bỗng
có ảnh đèn pin và tiếng nói ở bên ngoài, tất cả vội đứng dậy: hai đồng
chí cố vấn đi vào theo sau là cán bộ thông ngôn. Tất cả vỗ tay chào, cán
bộ cố vấn cũng vỗ tay theo miệng nói lớn vài câu bằng tiếng Hoa, cán bộ
thông ngôn nói lớn để dịch ra tiếng Việt:
- Chào tất cả các đồng chí! Cám ơn! Cám ơn! Thôi, chúng ta ngồi xuống, cùng làm việc với nhau cho đạt kết quả tốt.
Tất
cả ngồi xuống và im lặng. Cán bộ chủ toạ phiên toà ngồi ngay cạnh một
ngọn đèn, từ từ mở tếp da đeo sau lưng, lấy ra một xấp giấy, ghé vào ánh
đèn để xem những gì đã ghi, rồi ngẩng mặt lên nói mỗi lúc một lớn hơn:
-
Chúng ta họp ở đây để cùng nhau đánh giá phiên toà hồi trưa nay. Chúng
ta phải thành khẩn nhìn nhận rằng đó là một phiên xét xử không đạt tiêu
chuẩn về mọi mặt! (Giọng quát lớn): Có thể nói là chúng ta đã không
thành công! Tôi nhấn mạnh là chúng ta đã không thành công! Vì sao? Vì đã
không quản lý được trật tự, đã để cho đồng bào nói chuyện, cười giỡn,
rồi thì ữẻ con la khóc, thật là vô tổ chức….
Cả
gian đình im lặng tuyệt đối, nên tiếng nói của cán bộ chủ toạ vang ra
tới xa ở bên ngoài. Đồng chí chủ toạ kiểm điểm từng chi tiết để nhấn
mạnh tính vô tổ chức:
-
Dự phiên toà mà sao lại bế con nhỏ theo? Về thái độ từng thành phần
tham dự: chỉ có các nhân chứng là theo dõi phiên toà, còn quần chúng thì
thờ ơ, ồn ào nói chuyện riêng, bàn tán riêng, mấy cháu nhi đồng thì
cười vui như đi dự liên hoan… Khi giải tán ra về thì y như tan hội diễn
văn nghệ, ai cũng vui vẻ cười nói ầm ĩ… Tại sao lại để xảy ra những điều
thiếu sót sai trái ấy? Đó là lỗi của chính mỗi cán bộ chỉ đạo, của mỗi
đội viên cải cách chúng ta!
Sau cả tiếng đồng hồ kiểm điểm, cán bộ chủ toạ hướng về chỗ đồng chí cố vấn:
- Bây giờ kính mời đồng chí cố vấn giúp ý xây dựng cho công tác của chúng tôi!
Một
cán bộ cố vấn đứng dậy, nhìn quanh đám người ngồi dưới ánh đèn, như thể
cố nhận diện vị trí từng người, rồi nói lớn và cán bộ thông ngôn đứng
sát sau lưng cũng dịch lại thật lớn tiếng:
-
Rất tiếc là phiên toà đã không thành công! Đồng chí chủ toạ đã phân
tích đúng những sai sót của mỗi người. Nhưng phải tìm hiểu tại sao tất
cả đều có sai sót như vậy? Lời giải thích nghiêm chính là tại cái đầu
của mỗi người tới hiện trường không nghĩ rằng đấy là phiên họp của toà
án. Không ai hiểu rõ được mục tiêu của phiên toà. Chính bây giờ tôi hỏi
từng đồng chí có mặt ở đây thì chưa chắc đã cố được một lời đáp nhất
trí! Mục đích của phiên toà cải cách ruộng đất có phải là để kết án tử
hình mấy tên phản động, phản cách mạng ấy không? Không! Không phải thế
đâu! Vì chúng ta có thể xử tử, xử bắn mấy tên ấy dễ dàng, bất cứ lúc
nào, mà không cần triệu tập nhân dân đông đảo đến chứng kiến như vậy!
Chúng ta họp phiên toà này chính là vì quần chúng nhân dân! Ta huy động
họ tới tham dự, là để giáo dục, để dứt khoát biến quần chúng ấy thành
quần chúng cách mạng! Vì thế nên chúng ta phải xử sao cho quyết liệt,
sao cho gây chấn động, trong từng cái đầu! Ta phải xử sao cho có khí
thế, để phát huy uy quyền của bạo lực cách mạng trong đầu mọi người. Ta
phải chứng tỏ bạo lực cách mạng là dứt koát, không gì lay chuyển nổi.
Chính Hồ chủ tịch đã nêu gương sáng cho chúng ta về vấn đề ấy, các đồng
chí của biết không? Tôi hỏi thật các đồng chí có mặt ở đây, có đồng chí
nào biết rõ Hồ chủ tịch đã nêu gương sáng như thế nào không? Ai biết xin
giơ tay!
Trong đám cán bộ họp nhau ở đây, không có một cán bộ nào giơ tay! Cán bộ cố vấn đứng đậy, rồi giơ tay thật cao và nói:
-
Rõ ràng là chúng ta chưa xử đúng mức. Chi vì đa số các đồng chí chưa
nắm vững bài học do Hồ chủ tịch đã dạy chứng ta! Một bài học quan trọng
mà các đồng chí chưa biết rõ. Đấy là bài học vô cùng quan trọng của
chính Hồ chủ tịch!
Mọi người hồi hộp chờ cán bộ cố vấn kể tiếp.
-
Hồ chủ tịch đã nêu gương quyết tâm thực thi nghiêm chỉnh chính sách cải
cách ruộng đất bằng một thái độ, một hành động, một lập trường vô cùng
sáng tỏ: đó là việc Hồ chủ tịch vừa mới đây, đã không can thiệp vào đợt
xử đầu tiên trong chương trình cải cách ruộng đất, cũng tại ngay vùng
Phú Thọ này, một tên địa chủ, một nhà giàu khét tiếng; Nhà giàu này là
một đại địa chủ rất có thế lực. Y thị đã nêu ra bằng chứng là có quen
biết rất thân với tất cả các lãnh đạo ta, kể cả với Hồ chủ tịch. Chúng
đã chạy chọt tới chính Hồ chủ tịch để xin can thiệp, và ai cũng nghĩ là
có sự can thiệp này. Chính Hồ chủ tịch cũng muốn can thiệp nhưng vì “uỷ
ban cải cách đã quyết định thì chính cụ Hồ cũng không dám can thiệp”. Và
tên nhà giàu Nguyễn Thị Năm (1) này đã bị mang ra xử bắn để làm gương.
Dù y thị đã kể công lao là đã cất giấu lãnh đạo cách mạng, nào là đã
quyên tặng cách mạng hàng trăm lạng vàng. Nhưng chính Hồ chủ tịch đã
tuyệt đối tôn trọng toà cải cách. Đấy là một mệnh lệnh của Hồ chủ tịch!
Với lập trường cương quyết như vậy thì chỉnh sách cải cách ruộng đất sẽ
thành công mỹ mãn. Hậu phương ta sẽ sạch bỏng tàn dư phong kiến, thục
dân, trước khi đất nước này được sạch bóng quân thù!
(1)
Theo hồi ký của Trần Huy Liệu thì mấy năm sau, gia đình bà Nguyễn Thị
Năm đã nhận được tấm bằng liệt sĩ ghi rõ là bà đã hi sinh trong công tác
ngoại giao (!)
Kể xong, cán bộ cố vấn ngồi xuống và nói tiếp:
-
Vì vậy, nay chúng ta phải mang ra xử lại cho thật có khí thế để trừng
trị mấy tên phản động ấy cho thật ròn rã, vang dội, để dập tắt mọi tư
tưởng phản động trong đầu quần chúng. Phải làm cho tư tưởng phản động,
phản cách mạng không bao giờ có thể bùng lên trong đầu mỗi con người
nữa. Họp phiên toà để xử án là vì quần chúng! Xử tử bọn phản cách mạng
là để giác ngộ tập thể. Cải cách ruộng đất trước hết và sau cùng là vì
xã hội xã hội chủ nghĩa! Tới dự phiên toà mà cứ y như đi coi văn nghệ,
ra về cười nói lung tung, thì dù có xử bắn bao nhiêu tội nhân cũng chẳng
ảnh hưởng gì tới tập thể cả! Có đúng vậy không? Có… đúng… vậy… không?
- Đúng!
- Có thật đúng là như vậy không?
Tất cả như hiểu ý cố vấn nên đông thanh:
- Đúng! Đúng! Đúng!
-
Vì vậy mà tôi đề nghị ta sẽ phải họp lại phiên toà, cái gì ta làm hỏng,
làm sai thì ta phải làm lại. Đồng chí chủ toạ phiên toà có nhất trí như
vậy không?
Cán bộ chủ toạ vội đúng dậy vừa vỗ tay vừa đáp:
-
Nhất trí! Nhất trĩ hoàn toàn! Và tôi tuyên bố toà sẽ phải họp để xét xử
lại! Xỉn cảm ơn các đồng chí cố vấn. Chúng ta có thể giải tán để chuẩn
bị thật kỹ việc triệu tập lại phiên toà này.
Tất cả đứng dậy vỗ tay, rồi giải tán.
Hàng
trăm câu hỏi nổi lên trong đầu, Thảo im lặng đi theo một dân quân cầm
ngọn đuốc nhỏ khét lẹt đưa về lều tranh của Lê Tư. Mệt mỏi cả thân xác
lẫn tinh thần, Thao với bình nhựa đựng nước, uống một bụng rồi leo lên
võng nằm, lấy chiếc khăn mặt phủ lên đầu, lên mặt để chống muỗi. Bỗng có
tiếng Lê Tư nói vọng ra từ góc bếp:
-
Đồng chí đi họp về rồi hả? Cơm của đồng chí tôi để ở trong thúng ấy.
Đồng chí có ăn ngay thì tôi khêu ngọn đèn dầu lạc lên cho sáng mà ăn
nhé?
- Thôi cơm để sáng mai ăn, mệt quả nên tôi ngủ đây.
- Đồng chí đi họp có gì lạ không?
- Trên quyết định toà phải xử lại mấy tên phản động ấy!
- Thế định xử án cho nhẹ hơn à?
- Không! Chắc cũng lại tuyên án tử hình thôi.
-
Đã tuyên án xử từ rồi, còn họp thêm làm gì cho tốn công, mất thời giờ.
Kể cũng khổ thật, ở cái xã này, mọi nhà đang sống yên ổn để lo kháng
chiến thế mà lại bầy ra cái vụ cải cách này, làm nông thôn xáo trộn,
làng xã cũng hết việc làm, mai tôi lại phải đi kiếm củi, tìm hái rau
hoang mà ăn thôi. Nêu còn sức lực thì tôi cũng xin đi bộ đội cho yên
thân. Chứ sau cái vụ cải cách này, còn ai dám nhìn mặt nhau nữa. Từ đây
chỉ có nước nhìn để tìm kẻ thù giai cấp thôi. Đồng chí có thấy nỗi khổ
của người dân chúng tôi không?
Thảo cũng chẳng biết phải trả lời thế nào, bén nói cho xong chuyện:
- Thôi ngủ đi để lấy sức đồng chí ạ. Chuyện gì thì cứ để mai ta tính!
Muỗi
bay vo ve. Thảo kẻo tay áo che kin hai bàn tay, chân thì đã đi bí tất
(vớ), mặt thì đã có chiếc khăn mặt che phủ. Cố nhắm mắt tìm giấc ngủ,
nhưng chỉ nghe thấy tiếng muỗi vo ve và nhịp thở của chính mình, rồi lát
sau nghe tiếng ngáy vang của Lê Tư. Con người chất phác ấy, cứ đặt mình
xuống là ngáy ngon lành. Tuy không được học hành, nhưng con người này
vẫn có một bản năng hiền hoả, muốn tránh làm cái gian ác, “để phúc cho
con. Ôi quê hương ta sao mà khổ thế này!
Còn
ta kẻ “có học” mà chỉ biết trăn trở và thắc mắc! Cho tới nay, ta đã
chẳng làm được việc gì ích quốc, lợi dân cho ra hồn. Ta về nước đâu có
phải là để chạy theo đuôi cách mạng, để làm cái tên trí thức a dua như
thế này! Thấm thoắt đã gần hai năm rồi. Chẳng biết sẽ còn nằm ở đây đếm
thời gian đến bao lâu nữa! Nay là cứ sống cúi đầu, tuân lệnh dập theo
một khuôn mẫu đã có sẵn, bất kể đúng sai, bất kể thiện ác, như thế thì
còn gì là tư duy, còn gì là triết học! Như thế thì đến bao giờ mới xoá
bỏ được giai cấp? Liệu bắn hết phản động ở nông thôn thì có xây dựng
được con người mới xã hội chủ nghĩa hay không? Mà tất cả những gì đang
làm kia có thật là để cải tạo xã hội, giải phỏng con người hay không? Rõ
ràng những điều xảy ra trước mắt kia không thể nào đặt nền tảng cho một
xã hội lý tưởng, một trật tự ổn định! Marx, Ẹngels không hề hô hào làm
những điều xằng bậy, dã man như vậy! Các ông ấy gợi ý đấu tranh giai
cấp- các ông ấy dạy lý luận - nhưng không hề chỉ dẫn những phương pháp
phản công lý và đạo lý như thế. Vì ở tuổi các ông ấy, ở thời các ông ấy,
các ông ấy có thấy ai đã làm như thế đâu! Nay thì lý luận biện chứng
rất mạch lạc, rất lý tưởng, mà hành động thì sai trái mang lại đầy kết
quả tiêu cực đầy mâu thuẫn thô bạo, không ăn khớp với điều mà lãnh đạo
đã hứa, mà mọi người mong ước! Vì sao? Người ta dẫn chứng vanh vách Marx
đã nói… Lenin đã nói Stalin đã nói.., nhất là Mao chủ tịch đã nói…
Nhưng dẫn chứng những lời nói như vạn năng ấy có thể nào bảo vệ cho
những hành động quá trớn, cực đoan, tàn ác như thế!
Thảo
nhận ra rằng tất cả những buổi học tập chính sách, chuẩn bị tư tưởng
một cách máy móc, đã đẩy cán bộ và nhân dân lao vào con đường tuỷ tiện,
đưa nhau tới một nông thôn đầy thủ đoạn, đầy hận thủ và gian xảo. Một
đời sống cảnh giác bệnh hoạn, đầy các biện pháp khủng bố, đe doạ tuỳ
tiện, khiến không ai dám thành thật để lộ suy nghĩ của mình! Ai cũng
phải đóng kịch: “nói và làm theo cách mạng!” Từ đó thái độ giả dối, che
giấu trở thành một phương thức tự vệ. Phải hết sức nguỵ biện mới chứng
minh được rằng thiên đường xã hội chủ nghĩa có íhể xây dựng bằng phương
pháp giả dối, bằng hành động quá trớn của bạo lực, hận thù, bằng máu và
nước mắt của nhân dân như vậy!
Sự
thật phũ phàng đang thử thách những ai có tư duy nhân bản như Thảo.
Chung quanh đều cảm thấy lo sợ vì đang bị bao trùm bởi một không khí
khủng bố tinh thần, bị bao vây bởi cái nhìn cảnh giác rất đe doạ, rất
nghi kị của “quần chúng cách mạng”. Giờ đây phản ứng của Thảo là nhu cầu
phải tìm cách vượt ra khỏi sự bế tắc của bầu không khí khủng bố ấy,
bằng một phương hướng suy tư trong sáng, bằng phương pháp hành động chân
thật khác! Bởi mộng ước, mục đích, và lý tưởng cạo đẹp đã chọn, không
cho phép Thảo cúi đầu chấp nhận cải thứ cách mạng thô thiển, cổ lỗ, tăm
tối như ở thời sơ khai, man rợ. Nhưng giờ đây, trước sự tàn nhẫn của
cảnh giác cách mạng, chỉ còn hai chọn lựa: một là bỏ nơi này ra đi, hai
là phải bám vào đấy để tìm cách cải thiện nó, lái nó về phía nhân đạo,
nhân bản tiến bộ. Rồi Thảo tự nhủ: ta đã vạch cho ta một sứ mạng khi trở
về. Dù thế nào thì ta cũng không thể bỏ cuộc khi gặp nghịch cảnh. Nhưng
trước mắt thì ta chưa biết phải làm gì để cho cách mạng hiểu thiện chí
của ta mà tin ta!
Nghĩ
ngợi trăn trở, thắc mắc đủ điều. Cho tới nay, ta chỉ nói điều phải, tại
sao họ lại sợ ta? Lại nghi ngờ ta? Sự thật là ta đã nói thật với Trần
Lâm ước mơ đẹp và lý tưởng của đời ta… chứ đã có làm gì sai trái đâu!
Nhưng
không sao, với lòng kiên trì, với tất cả thiện phí và lý tưởng cao cả
của ta, thì ta có chính nghĩa, ta cứ vẫn là ta… chắc chắn sẽ có ngày bạo
lực và sai trái phải hiểu thiện chí của ta mà lắng nghe ta! Nghĩ như
vậy, Thảo thấy an tâm và dần đi vào giấc ngủ. Nhưng cũng chỉ hơn tiếng
đồng hồ sau thì lại hốt hoảng giật mình tỉnh dậy, mồ hôi vã ra: vì bỗng
thấy mình đang là một bị cáo, đang run sợ đứng trước một thứ toà án
không luật lệ, không công lý, trước tiếng hò hét: “Xử tử! Xử tử! “ của
đám đông hung dữ.
Từ
đó tâm thần Thảo ngày càng suy yếu, không đêm nào ngủ được một giấc dài
tới sáng. Đêm nào cũng nhiều lần giật mình tỉnh dậy, hốt hoảng bởi mộng
mị kinh hoàng.
Ba
ngày sau, lệnh từ bên trên quyết định phải tổ chức một phiên toà khác
để xử lại sáu tội nhân ở Chiêm Hoá. Địa điểm được chọn lần này là một
bãi đất rộng bao la năm ngay giữa khu rùng nguyên thuỷ nổi tiếng là có
nhiều cây cổ thụ cao bao quanh. Trước đây địa phương thường dàuh bãi này
cho những trận đấu bóng đá lớn liên huyện, liên tỉnh hoặc họp mít-tinh
vào những dịp có lễ lớn của toàn huyện.
Thời
gian họp cũng đã thay đổi: toà án khai mạc vào lúc 8 giờ tối, mát mẻ
hơn. Cách huy động dân chúng tới chứng kiến phỉẽn toà cũng rất đặc biệt:
mỗi phường khóm giờ đây phải tập trung dân lại thành đội ngũ chỉnh tề,
có người đi đầu cầm cờ, có nhi đồng đánh trống dẫn đầu, mỗi người phải
mang theo, một bó đuốc làm bằng thứ nhựa cây có thể cháy lâu. Lúc đi
đường, mỗi đoàn cho đốt một bó đuốc đủ để soi đường, số đuốc còn lại
dành cho lúc xử án, tuyên án… Trong đêm lờ mờ ánh írăng, những đoàn
người vừa đi vừa hô khẩu hiệu đả đảo phong kiến, đả đảo thực dân, đả đảo
địa chủ, đả đảo cường hào, đả đảo bọn phản động… vang dậy núi rừng. Các
đoàn người có ánh lửa của những ngọn đuốc dẫn đầu, tới từ khắp nơi,
luồn lách qua những đám rừng âm u, rồi từ từ tập trung vào một khúc
đường lớn sáng trưng, nhờ những đống củi đang cháy ở hai bên đường. Cả
một vùng núi, đồi như đang thức dậy giữa đêm khuya! Trên khúc đường vào
bãi trống ấy, ở trên những cành cây cao ngang tầm mắt, có treo đầy những
băng-rôn vải trắng, chữ đen, hoặc vải đen, chữ trắng.. Tất cả băng-rôn
ấy đêư cũ kỹ, có cái đã rách. Toàn là khẩu hiệu đả đảo mà đoàn người đã
hô vang lúc di chuyển. Tất cả sự chuẩn bị đã được săp đặt kỹ lưỡng từng
chi tiết, tạo thành một cuộc biểu dương lực lượng rầm rộ thật là uy hiếp
tinh thần, đúng theo khẩu hiệu trên một băng-rôn lớn nền đỏ chữ vàng
“Quyết tâm tiêu diệt tàn dư phong kiến, thực dân!” tại lối vào khu tập
họp.
Phiên
toà lần này diễn ra nghiêm trang và áp đào hơn phiên trước: sáu tội
nhân bị trói quỳ vào hàng cột tre trên một mô đất cao cho mọi người thấy
rõ, dưới ánh lửa bập bùng của những đống củi lớn, lửa cháy rừng rực.
Phía dân chúng cũng được kiểm soát và chọn lọc kỹ hơn: không còn có trẻ
con quá nhỏ, không còn hát mà chỉ hô khẩu hiệu, không còn cảnh ồn ào nói
chuyện lung tung. Một hàng sáu dân quân cầm súng trường đứng canh, mặt
hướng về đám đông. Không một ai dám cười nói gây mất trật tự. Phần hạch
tội cũng dữ dội hơn số nhân chứng đứng ra kể khổ, kể tội cũng đông hơn.
Mỗi nhân chứng đều thuộc bài và tỏ ra hung hãn hơn: vừa kể vừa làm những
cử chỉ xỉa xói: lấy ngón tay dí vào trán tội nhân, thỉnh thoảng lại tát
mạnh vào mặt tội nhân để bày tỏ sự phẫn nộ. Nữ tội nhân già giờ đây chỉ
còn thút thít khóc lóc, nhưng vẫn là tiếng kêu cứu rên rỉ nhỏ: “Con ơi
là con ơi…!”
Trước lúc toà tuyên án, một dân quân cầm chiếc loa lớn bằng bìa để trước miệng ra lệnh:
- Tất cả đốt đuốc lên!… Tất cả tiến ra hai bên pháp trường!
Đám
đông cầm đuốc, chia thành hai hàng người, tiến gần tới hai bên mô đất.
Chỉ còn một số phụ nữ, ông già, bà già không cẩm đuốc là còn đứng lại ở
bên dưới.
Cả
sáu tội nhân nổi bật trước ánh lửa bập bùng của mấy trăm ngọn đuốc làm
cho bầu không khi thêm căng thẳng. Cán bộ chủ toạ phiên toà cầm tờ giấy
tiến tới trước mô đất, giữa đám, đằng hắng chuẩn bị lấy giọng để đọc bản
án…
Cả
một bãi đông nghẹt người dưới ánh lửa bập bùng của rừng đuốc bỗng im
bặt, chỉ còn tiếng lách tách của tre, nứa cháy nổ trong mấy đống củi
lớn. Cán bộ chủ toạ bắt đầu tuyên đọc thật lớn, nhưng tiếng nói như cô
đơn, lạc lõng tan loãng trong khoảng trống hoang vu của núi rừng bao la
chung quanh:
-
Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà, Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, ngày mười bảy,
tháng mười, năm một ngàn chín trăm năm mươi ba, Toà án Nhân Dân Huyện
Chiêm Hoá thi hành chính sách của Uỷ ban Cải Cách Ruộng Đất Trung ương,
đã truy tố những tội phạm có tên sau đây:
-
Lý tnrởng Nguyễn Văn Minh; địa chủ Trần Văn Lễ, phú nông Nguyễn Sắc,
phú nông Trần Văn Bắc, địa chủ Đỗ Đinh Lang, nhà giàu Vũ Thị Thanh. Sau
khi đã được xét xử, với sự tham dự hạch tội của nhân chứng nhân dân,
những tội lỗi cụ thể đã được kể ra, nay toà quyết định với sự đồng ý của
đông đảo đồng bảo có mặt, toà ra phán quyết tịch thu tài sản của các
tội nhân và tuyên án từ hình tất cả sáu tội nhân có tên nêu trên. Án này
được thi hành ngay tại chỗ. Chánh ản ký tên: Khuất Tiến Thắng.
Tiếng loa ra lệnh:
- Tất cả chú ý! Tất cả lùi xa khỏi pháp trường mười mét…. Tất cả! Nghiêm! Yêu cầu đội hành quyết tiến vào pháp trường!
Đám
đông hồi hộp, im lặng, chỉ còn nghe tiếng đếm bước đều của đội hành
quyết, súng trên vai, tiến vào… “Một, hai! Một, hai!… Ngưng… bước! Súng …
xuống! Nghỉ! Tất cả … nghiêm! Tay phải… quay! Tất cả vào vị trí…! Tất
cả sẵn sàng chờ lệnh bắn!”.
Một
dân quân tay cầm một xấp khăn vải đen tiến lên mô đất, lận lượt buộc
khăn vải đen quanh đầu để che mắt mỗi tội nhân. Cảm thấy giờ hành quyết
đã tới, sáu tội nhân, đầu bị thắt khăn đen che kín mắt, bỗng tất cả lên
tiếng cầu kinh.
- Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, cứu khổ cứu nạn…
- Nam mô A Di Đà Phật…!
- Kính mừng María đầy ơn phước… cầu cho chúng con trong giờ lâm tử…
- Con ơi là con ơi… thế là mẹ chết không được gặp lại con rồi… Con ơi…
Toán
dần quân rời xa mồ đất. Chỉ còn tiếng cầu kinh chen lẫn tiếng gào khóc!
Trưởng đội hành quyết nhìn về phía cán bộ chủ toạ chờ lệnh! Thời gian
như ngưng lại. Đám đông im bặt vì hồi hộp. Bỗng cán bộ chủ toạ gật đầu!
Trưởng đội hành quyết chậm rãi hô:
- Tất cả… Vào thế… Tất cả Bắn!
- Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng! Đoàng!…
Loạt
súng nổ vang dội trong đêm như rung chuyển núi rừng. Đám đông, người
thì vội nhắm mắt lại không dám coi tiếp cảnh khủng khiếp, người thì cố
trấn tĩnh, mở mắt thật to để thấy rõ các tội nhân bị trúng đạn, quằn
quại, vật vã một hồi, máu văng ra tung tóe, rồi mới gục xuống dưới chân
cột. Riêng nữ tội nhân, dù đầu đã được bịt mắt bằng vải đen, nhưng vì
đạn trúng đầu nên vỡ ra mất một mảng, trông thật ghê rợn. Trưởng đội
hành quyết bước lên mô đất, súng lục cầm tay, tới sát từng tử thi để
quan sát với vẻ thiện nghệ và bồi vào mỗi đầu một phát “ân huệ” chát
chúa, theo đúng thủ tục đã được huấn luyện từ trước!
Bỗng bên dưới đám đông, lao xao có tiếng ồn ào kêu cầu cứu liên tiếp của nhiều người:
- Báo cáo có một bà cụ bị ngất xỉu! Báo cáo có người bị ngất! Báo cáo…
Dù
đã chuẩn bị sẵn đầu óc để bình tĩnh chờ đợi một cảnh xử bắn chắc chắn
là rất hãi hùng, nhưng khi loạt súng nổ liên tiếp, dưới ánh lửa bập bùng
của mấy đống củi lớn, cả sáu cơ thể quằn quại, trong vũng máu… thì bỗng
thân xác Thảo run lên lập cập vì xúc động, như một cơn sốt rét mãn tính
bất ngờ ập tới, mồi lạnh toát ra từ trán tới chân, nước mắt tuôn trào,
hàm răng run lập cập. Một ý nghĩ hối hận bùng lóe trong đầu: “Chính ta
đang là một đồng loã của cái hành động tàn bạo, phản công lý này! Thảo
ơi! có thể nào mày cũng câm lặng trước một chính, sách cực kỳ thô bạo
đến thế? Im lặng đứng nhìn tội ác thế này thì mày có còn là mày nữa
không hở Thảo ơi!”
Thật
ra thì những tiếng súng chát chúa hạ sát mấy thân xác đồng bào “tội
nhân” ấy đã như bắn vào chính thân xác Thảo, đã vĩnh viễn đập tan tành
giấc mộng trở về góp công sức xây dựng một mô hình cách mạng mà nhân
loại trông chờ! Từ giờ phút ấy, Thảo ý thức rất rõ rằng, lúc này, ở nơi
đây, mình sẽ không có một cơ hội nào để góp một chút gì tốt đẹp cho cách
mạng! Có thể nào cản ngăn được thứ bạo lực thô bạo này, khi nó đang
trong đà phát động với tất cả hăng say, cuồng nộ, cuồng tín như thế? Vậy
thì những ngày còn lại của đời ta sẽ có thể làm gì ở đây? Cứ im lặng
chịu đựng để được sống ngày nào hay ngày ấy? Để cái ác cứ tiếp tục phát
triển như nó vẫn được khai triển trong suốt chiều dài lịch sử? Thế thì
cái triết học của ta còn ý nghĩa gì khi chấp nhận khoanh tay đứng nhìn
cái ác hoành hành? “Chính nghĩa vô sản”, “Hạnh phúc công nông trong một
thế giới đại đồng” là như thế này sao? Dù thế nào cũng phải làm một cái
gì chứ? Nhưng làm gì bây giờ? Làm gì? Mà từ bao giờ, từ đâu, do đâu,
những người lãnh đạo đã thề một lòng vì nước vì dân nay lại chọn lựa con
đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man, tàn bạo, phản nhân đạo như
vậy? Có thể nào coi đấy là hành động, là chính sách vì con người? Một ý
thức hệ không bào vệ được người vô tội thì có còn lý do để tồn tại hay
không? VI
Chương 7.Lương tri trỗi dậy!
Nỗi
kinh hoàng với những chất vấn gay gắt cứ quay cuồng, bùng cháy trong
đầu tôi! Từ đó một thứ mặc cảm đồng loã với tội ác, cứ ám ảnh hành hạ
tôi, không làm sao quên đi được. Thực tại tàn nhẫn đã đặt trong tôi muôn
vàn câu hỏỉ. Từ đó, tôi bắt đầu thấy phải đặt lại toàn bộ vấn đề từ học
thuyết…
- Thế sau đó thì bác làm gì?
-
Từ sau kinh nghiệm đau đớn ấy, tôi như bị lương tri thường xuyên trỗi
dậy chất vấn, đòi tôi phải tỏ thái độ, phải có lập trường rõ rệt; không
thể im lặng a dua đồng loã một cách mù quáng mãi như vậy. Nhưng tôi
biết, mối đe doạ của chính quyền đối với “kẻ có vấn đề”. Bởi
chung quanh tôi là cả một đạo quân cuồng tín đang chờ lệnh! Một lời nói
phản kháng công khai sẽ là một cơ hội để những kẻ ganh ghét buộc tội
tôi, tiêu diệt tôi. Nhưng không phải vì thế mà tôi cứ phải giữ im lặng
trước những sai lầm dã man ấy. Tôi vẫn tìm cách cố nhắn tới tai lãnh đạo
là tôi đau đớn không thể nhất trí với chính sách vô nhân đạo như thế.
Vì vậy tôi thường xuyên ở trong tinh trạng tính mạng bị đe doạ. Đã bao
lần người ta nhắc nhở lời đe doạ công khai rằng cái mạng tôi không có
nghĩa lý gì cả!
Nghe bác Thảo kể tới đó, tôi không khỏi nêu thắc mắc:
- Bị đe doạ như thế thì làm sao bác dám chứng tỏ là vẫn giữ vững lập trường tư tưởng độc lập của bác?
-
Tôi cũng biết thân phận tôi chứ! Bởi thế tôi phải thường xuyên đề
phòng. Lúc căng quá thì cũng phải biết làm ngơ, câm nín trước cái ác để
giữ mạng sống trước đã. Tuy nhiều lúc tôi đinh ninh là phen này sẽ khó
thoát khỏi cái chết. Bởi những ông cán bộ “i tờ” quanh tôi rất hung
hăng, rất cuồng tín, sẵn sàng quy chụp, tội lỗi, sẵn sàng chờ lệnh để
tiêu diệt tôi, để “loại bỏ con giòi trong tay áo cách mạng”!
- Trong thế nguy nan như vậy, làm sao bác giữ được tính mạng?
-
Tôi luôn luôn giải thích với chung quanh rằng những lo âu, bực bội,
không phải là vì quyên lợi hay địa vị của tôi. Vì tôi có mưu tìm quyền
lợi hay địa vị gì đâu. Tôi lo âu, tôi phẫn nộ là vì “đảng”, vì dân, vì
nước. Bởi tôi vững tin rằng những lo âu, thắc mắc của tôi là chính đáng,
không ai có thể bẵt bẻ được.
- Tại sao bác còn có thể tin, có thể hi vọng vào những cán bộ đảng viên cuồng tín bao quanh bác?
- Sự thật là khi nhận thấy những hành động hay chính, sách “có vấn đề”,
vì đã đi quá trớn, quá tàn bạo thì chính trong đám cán bộ ấy cũng như
muốn che giấu những sai trái đã phạm, bằng cách cứ biện bạch một cách
miễn cưỡng, ấu trĩ. Tôi biết đó là một thuận lợi cho tôi. Tôi nói thẳng
với họ rằng họ không nên diệt tôi. Vì rằng tôi không tiếc hận gì cái
mạng sống của tôi, vì tôi đã thề sẵn sàng hi sinh cho lý tưởng của tôi
khi cần. Nhưng khi tôi chết đi thì sẽ không còn có ai dám đứng ra phân
tích những hành động và chính sách sai lầm ấy một cách khách quan, nhất
là về mặt lý luận triết học, nghĩa là về những hậu quả tai hại lâu dài
để lại cho cả dân tộc trong lịch sử. Tôi nhấn mạnh rằng vì họ làm chính
trị nhất thời nên chỉ thấy cái lợi trước mắt cho một giai đoạn lịch sử,
vì tại nước ta đang thường xuyên tận dụng hận thù đấu tố, tận dụng chiến
tranh để bành trướng chủ nghĩa. Còn tôi, với cái nhìn triết học, vì con
người, nên chỉ thấy cái hại của những bước quá trớn trong chính sách
đấu tố như thế là đã đưa cách mạng tới sai trái và tội ác. Lãnh đạo
tuyên bố “sẵn sàng hi sinh đến người dân cuối cùng” để chiến thắng. Còn
tôi thì tôi không muốn phung phí hi sinh, dù chỉ một mạng người, nên tôi
phải lý giải để cho thời nay và thời sau cố tránh con đường dùng hận
thù, dùng chiến tranh để xây dựng, phát huy chủ nghĩa… Bởi thế mà chính
những cán bộ cấp cao có nhiệm vụ theo dõi, quản lý tôi, cũng thưởng tò
mò tới dò hỏi ý tôi, khi chính quyền ban bố những quyết định mà họ thấy
là quá trởn, quá tả… Khi ấy, tôi chỉ cần hỏi lại họ vài câu, thì họ biết
là tôi đã hiểu họ, và họ đã hiểu là tôi nghĩ gì. Sau khi ký kết hiệp
định Genève hay Paris, họ hỏi tôi nghĩ sao về việc ký kết ấy. Tôi hỏi
lại họ: kỷ như vậy là có thật sự mong muốn hoà bình hay không? Hay chỉ
là để câu thời giờ, để tổ chức chuẩn bị chiến tranh cho ác liệt hơn? Ký
như vậy là đã đạt được mục tiêu cuối cùng của cách mạng hay chưa? Liệu
Liên Xô hay Trung Quốc có thật sự muốn ta ký kết như vậy để chấm dứt
chiến tranh cách mạng hay không, trong khi họ vẫn tuôn vũ khí cho ta?
Tôi còn lưu ý họ về một sự kiện rất độc ác, là Liên Xô và Mỹ đã thoả
thuận đặt một đường giây điện thoại nóng để dễ liên lạc với nhau khi
cần, để tránh xảy ra xung đột trực tiếp với nhau… Chủng tỏ bọn họ muốn
sống hoà bình lâu dài với nhau để cùng nhìn chúng ta tiêu diệt nhau. Cả
hai nước lớn ấy cứ tiếp tục tuôn giúp vu khí cho các nước đàn em, chư
hầu của họ giết nhau trong giới hạn chiến tranh cục bộ. Tôi cũng thường
xuyên nhắc nhở “đảng”, nhà nước không nên dối trá trong việc ký kết. Ký
kết do dối trá, về lâu về dài dần sẽ hiểu ra rằng dối trá là chính sách
cai trị của đảng và nhà nước, thì rôi sẽ sinh loạn trong xã hội. Từ đó
sẽ sinh ra tâm ước muốn sống thì phải thường xuyên gian trá. Thế sẽ là
loạn, loạn từ nếp suy nghĩ trong đầu, từ thói quen gian trá trong hành
động ở mỗi người, rồi sẽ lan ra trong khắp xã hội. Những chính sách,
những công trình có cái góc dối trá như thế sẽ là mầm mống gieo hậu hoạ.
Sự thật là khi “đảng” mở lại chiến tranh, là đã cơ bản chủ động xé hai
hiệp định hoà bình đã ký. Tôi đã cảnh báo hậu quả tai hại khi “đảng”
muốn tiếp tục chiến tranh trong những hoàn cảnh nước ta không đủ sức,
nhưng không được lắng nghe. Tuyên truyền thì đổ mọi tội lỗi cho phe
địch. Trong khi “đảng” dùng thủ đoạn gian lận mai phục, khai triển lực
lượng ở lại miền Nam, để rồi sẽ xé bỏ hiệp định. Thế nên chính sách mà
dùng thủ đoạn, dùng dối trá thì rồi sẽ thành nếp ăn sâu vào việc quản lý
xã hội có một ngành quen dùng dối trá như một phương pháp hành động
chính quy, đó là ngành công an. Với những cán bộ chìm, nổi dầy đặc trong
xã hội, miệng thì nói công an là bạn dân, là bảo vệ dân, nhưng thực tế
là công an ngành đã quản thức, quản chế dân băng phương pháp khủng bố
tinh thần, đe doạ tính mạng, đe doạ tài sản. Công an đáng lẽ là lực
lượng giữ gin, bảo vệ trật tự, kỷ cương cho xã hội, mà lại luôn luôn tận
dụng dối trá, thủ đoạn để áp đảo, thống trị xã hội như thế thì làm sao
duy trì được tính lương thiện trong dân, làm sao giữ được trật tự kỷ
cương, được luân thường, đạo lý cho xã hội? Các cụ ta đã dạy “thượng bất
chính, hạ tác loạn”, “gieo gió thì gặt bão”, ngày nay ngành công an
dùng quá nhiều hành động bất chính, gieo toàn là thủ đoạn dối trá, hận
thù… thì rồi chế độ này sẽ gặt được gì? Các dân tộc từng sống trong chế
độ xã hội chủ nghĩa đã có đủ kinh nghiệm để trả lời! Thực tế là guồng
máy công an đã phá hoại lý tưởng, đã bôi đen, bôi bẩn đảng, đã làm ô
danh chế độ, đã ung thối cách mạng nhiều nhất. Dư luận vẫn than sự lộng
quyền của ngành công an là đã hằng ngày đào sâu mồ chôn chế độ.
- Bác thù oán công an lắm phải không?
-
Ây! Ở đây không có vấn đề thù oán! Công an với tôi không hề có ân oán
gì cả. Nếp sống khổ hạnh, cách làm việc âm thầm, câm nín của tôi không
hẳn là đối tượng của công an. Tuy mấy chú công an khu vực luôn bám sát
theo dõi tôi. Nhưng họ đã chẳng bắt bẻ gì được tôi. Bởi tôi đã sống như
một thẳng trí thức hồn đầu hàng rồi cơ mà! Nhưng tôi quan sát chung
quanh tôi, thì sự thật là vì cảnh giác cách mạng, tức là căn bệnh nghi
kỵ coi ai cũng là kẻ thù tiềm ẩn của cách mạng, nên cánh công an đã làm
khổ con người, từ các đảng viên, cho tới giới trí thức, văn nghệ sĩ…
khiến dân luôn luôn phải sóng dối trá, không dám nói ra sự thật… Chính
cái đó đã làm hỏng xã hội, đã gây ung thối chế độ. Những oán than, những
lời tố cáo, vu khống, quy chụp tội phản cách mạng, tội chống chế độ đã
gây bao oan ức trong chế độ này, phần lớn là do ngành công ao, mật vụ
gây ra. Phần còn lại là do tham nhũng thối nát trong hành chính và kinh
tế. Vì vậy mà dân đã phải giả dối trong mọi sinh hoạt, để được sống yên
thân, trong chế độ xã hội chủ nghĩa…
- Vậy phải làm sao mà cải thiện được tình trạng ấy?
-
Tôi thấy cái cấp bách là cần phải can đảm bãi bỏ hẳn mọi phương pháp tổ
chức, mọi chính sách hành động bất chính trong toàn thể guồng máy cai
trị của đảng và nhà nước, cả về mặt tuyên truyền lẫn mặt hành chính.
Đứng đầu là phải thay đổi hẳn cách huấn luyện, phải tổ chức lại ngành
công an. Dùng công an để kiểm soát và đàn áp tư tưởng, là việc làm vô
ích. Công au không thể bịt miệng dân, không thể kiểm soát những suy tư
trong đầu người dân. Chính những người cộng sản lãnh đạo đã có kinh
nghiệm đó hồi bị thực dân, phong kiến đàn áp, cầm tù. Nhà tù, trại cải
tạo luôn luôn là lò đào tạo ý chí phản kháng mạnh nhất. Vậy mà nay chính
quyền lại hành động thống trị còn tệ hơn cả thời thực dân, phong kiến!
Dân chúng cứ ngày càng bị đẩy về phía căm thù chế độ. Chế độ như vậy thì
không thể nào sửa sai, sửa lại mà dùng được. Đấy là nói riêng về chính
quyền. Còn về mặt tư tưởng thì phải gột rửa tầm thức giáo điều, phải bỏ
hẳn trò chơi dân chủ giả hiệu, phải trả lại quyền dân chủ cho dân, phải
tổ chức bầu cử ngay thẳng, phải bãi bỏ sự sùng bái đảng, sùng bái ý thức
hệ một cách quá lố lăng. Sùng bái đảng, sùng bái ý thức hệ cũng như
sùng bái hai “anh cả đỏ” là Liên Xô và Trung Quốc là một sai lầm vô cùng
tai hại. Những sự sùng bái này đã khiến chế độ phạm vào những sai lầm
cơ bản, vào những tội ác tày trời! Sùng bái như thế là làm dân tộc mất
tinh thần tự chủ. Gian dối đã trở thành thói quen, nên trong dân đã có
ngạn ngữ: “làm thì láo, báo cáo thì hay!” Làm y tế mà gian dối là giết
người. Làm khoa học mà gian dối là phản hoại khoa học. Làm giáo dục mà
gian dối là làm hỏng con người. Làm chính trị mà gian dối là làm hỏng
toàn thể chế độ và xã hội! Vì vậy tôi chống thủ đoạn gian dối về mọi mặt
chứ không chỉ về mặt tuyên truyền hay công an… Tôi chống đây là chống
cái gian, cái ác tức là chống một cách xây dựng. Không lắng nghe tôi là
chế độ sẽ ngày càng bị lún sâu vào hư đốn, cho đến khi bị đào thải. Tôi
biết những nhận xét ngay thẳng đó là những liều thuốc đẳng, nhưng không
chịu lắng nghe thì rồi chính lãnh đạo và nhân dân sẽ phải trả giá, có
khi là rất đắt. Lãnh đạo cũng hiểu như vậy nên thưởng khi cũng có những
lo âu thắc mắc như tôi. Tôi luôn luôn cố vận dụng sự trong sáng của
lương tri trong những ý kiến đối kháng, phản biện… Có lẽ chẳng mấy ai có
khả năng làm việc đó bằng tôi, thay tôi. Cũng chẳng ai có thế bắt bẻ
được những việc tôi đã làm. Chính vì vậy mà họ không ưa tôi, họ tìm cách
bịt miệng tôi, nhưng cho tới nay, họ không dám diệt tôi, nhưng họ có
quyền đầy ải, ngấm ngầm trù dập tôi. Tôi chịu đụng được nhờ chung quanh
luôn luôn có người đồng ý với việc tôi làm, nên họ khuyến khích giúp đỡ
tôi trong những lúc nguy kịch nhất. Lúc cùng cực, bị túng đói, vẫn
thường có người lén đưa việc dịch thuật của họ cho tôi làm… Đôi khi họ
còn lén dúi vào tay tôi gói gạo hay nắm… tiền! Vì họ hiểu rõ tình hình
và hiểu tôi. Vì họ đặt hi vọng ở nơi tôi.
- Bác nói như thế là bác lên án tất cái chế độ độc tài, chỉ tồn tại nhờ công an thôi.
-
Cái sự lên án đó là đúng. Vì độc tài chỉ tồn tại được trong một thời
gian là nhờ ngành công an mật vụ. Nạn công an mật vụ lộng hành luôn luôn
là sự gieo mầm cho sự sụp đổ của các chế độ độc tài đảng trị. Có lẽ cho
tới nay chỉ có chế độ độc tài sáng suốt của Lý Quang Diệu ở nước
Singapore nhỏ xíu là trường hợp ngoại lệ. Đấy là nước nhỏ nhưng lại là
một mô hình toàn trị chính trị trong sáng! Đảng Nhân Dân Hành Động của
họ Lý chấp nhận: đối lập hợp pháp, nhưng vẫn nắm vị trí độc tôn, vì đã
thật sự biết đặt quyền lợi của dân trên quyền lợi của đảng. Ở đấy thật
sự hầu như không có tham nhũng. Cách sống liêm khiết của lãnh đạo, của
nhả nước và của người dân ở đấy được cả thế giới khâm phục. So sánh với
sự liêm khiết của họ, thì nước ta còn trong thế thua kém một trời, một
vực.
Khi
Canh, và tôi mời được bác Thảo đi ăn với chúng tôi một cách đều đặn,
vào mỗi trưa thứ bảy hoặc mỗi chiều chủ nhật, trong mấy tuần lễ có các
buổi diễn thuyết, bác đã tỏ ra chân thật khi tâm sự, khiến chúng tôi say
sưa vì những liên tưởng thật sống động cái thời, ở cái nơi mà chúng tôi
chưa hề biết, chưa hề nghe nói tới. Bởi cho tới nay, chưa có một nhân
chứng, một nhà văn, nhả báo nào dám thành thật nêu ra thật chi tiết,
thật tả thực, thật sáng tỏ những mâu thuẫn của thực tại cách mạng và hệ
quả của nó trong cái thời kinh khủng, vì không còn có thể nhận ra đâu là
thật, đâu là giả, đâu là chính nghĩa, đâu là phản chính nghĩa ấy. Rồi
bác Thảo hỏi chúng tôi:
- Hai năm đầu, sau hiệp định. Genève, thì các anh đang ở đâu?
Canh đáp:
- Lúc đó tôi mới mười mấy tuổi và đang ở với ba má tôi ở Quy Nhơn!
- Còn tôi thì đang ở Sài Gòn, chưa biết chú ý về tình hình chính trị.
-
Thế thì các anh không thể nào hiểu được cuộc sống tại Hà Nội trong hai
năm đầu kể từ khi đoàn quân cách mạng về tiếp thu thủ đô nó đã diễn ra
gay go, rối bời như thế nào. Nói chung thì đã có nhiều điều vô cùng bi
thảm mà không sống trong cuộc thì không thể giải thích nổi. Có thể nói
mọi người, kể cả chính tôi, trong hai năm mới có hoà bình ấy, tất cả đều
chao đảo đến mất tin tưởng, mất thăng bằng. Bởi tiếng là Hà Nội đã được
giải phỏng, nhưng thực tế là nó đã bị cả một guồng máy công an quỷ quái
bao vây, kìm kẹp, áp chế, quản thúc. Hiện tại do vậy đã diễn ra vô cùng
tăm tối. Mà tương lai thì cũng thật là mù mịt. Không thấy một viễn ảnh
nào tốt đẹp cả. Toàn là hứa hẹn những điều quá xa với thực tại, nên cứ
chờ mãi mà không bao giờ thấy tới… Những khó khăn, những dối trá vặt cứ
tưởng chỉ là tạm bợ, nhưng rồi chúng đã trở thành lâu dài, vĩnh viễn!
- Tại sao lại bi thảm đến thế?
-
Tại vì sau những bước chuẩn bị mở rộng chiến tranh nhân dân, vừa để
tiến tới thống nhất đất nước, vừa để bành trướng chủ nghĩa, với quyết
tâm một mất, một còn, sẵn sàng hi sinh tới giọt máu cuối cùng của người
dân cuối cùng! Dù là đã có hoà bình trong tay, sau bao năm sống gian
khổ, kiệt quệ vì chiến tranh và cách mạng.
Lúc
ấy, tuy đã được nuôi dưỡng trong lý tưởng cách mạng cao cả với khẩu
hiệu “mình vì mọi người”, nhưng từ khi có được hoà bình, thì từ những
con người kháng chiến và cách mạng ấy, bỗng bung ra bản chất chân thật
thâm sâu của nó, qua những hành động cá nhân vị kỷ, cứ nghĩ đây là lúc
đòi món nợ “mọi người phải vì mình”! Thực tại ấy đã diễn ra thật đau
đớn, tồi tệ. Trong một xã hội túng thiếu, thì toàn là những hành động
nặng tính bon chen, giành giật, cướp đoạt. Từ đó gây ra sự phân biệt đối
xử, gây chia rẽ, thanh toán nhau, trong một cuộc thi thố thủ đoạn bức
hại lẫn nhau để bòn mót, vơ vét tài sản của nhau và của xã hội… Đấy là
thời lạm dụng quyền lực chính trị, như để bù lại thời gian đã chịu hỉ
sinh, đói khổ. Đấy là thời của tâm lý trả thù lúc phải sống gian nan,
vất vả đã qua. Thật sự là lúc đó, các cán bộ cách mạng, nghĩa là các
đảng viên, từ cấp cao nhất cho tới cấp thấp nhất, đã tận dụng quá trớn
bạo lực cách mạng, phát xuất từ ý thức triệt để đấu tranh giai cấp.
Chính quyền vì không hề tin dân, nên đã có chính sách tổ chức đại quy mô
các guồng máy canh chừng, thống trị nhân dân, Đặc biệt là màng lưới
công án, dưới nhiều binh thức công khai và mật vụ. Và ngành công an này
đã thường xuyên, hành động quá trớn đối với dân, để làm tiền, do chính
quyền không kiểm soát nổi. Dân thì không có quyền tự bảo vệ, không có
quyền khiếu kiện những hành động qua trớn ấy. Thật sự là giữa dân và
chính quyền cách mạng chỉ có sự cảnh giác, canh chừng nhau, dối trá, lo
sợ lẫn nhau, chứ không có niềm tin cậy lẫn nhau.. Trong “đảng” và ngoài
dân, không một ai dám nói thật điều mình suy nghĩ trong đầu.
Trong
lúc mới có hoà bình ấy, người người, nhà nhà, đều bung xoay xở, chui
luồn để cố thích nghi, vượt qua cảnh túng thiếu, vì thèm khát đủ thứ. Từ
hình thể can trường gầy còm của một chiến sĩ cách mạng ngoài khu, nay
trở về thành thị thì tha hồ được ăn ngủ thoả thuê, nên con người đã sớm
biển thái thành một thân thể phì nộn, đặc biệt là lãnh đạo, ai cũng mặt
mày dày lên vì mỡ màng, phản ánh rõ cái đà ham ăn, ham chơi, dâm ô vô
độ. Con người bỗng trở thành con vật háo danh, háo quyền, ham ăn, ham
sống. Xã hội bỗng lâm vào cảnh bùng nổ sinh lý, sinh sản. Dân số cứ tăng
vòn vọt, mặc cho tệ nạn phá thai tràn lan, không gì cản lại được!
Cho
tới nay, chưa thấy có cây viết nào dám thành thật nói hết, tả hết những
nỗi đau đớn, thổi tha; thấm đậm mồ hôi, nước mắt và xương máu của cả
một dân tộc, trong cái thời nhiễu nhương, điên đảo, xáo trộn đạo lý trật
tự kỷ cương ấy! Không ai có thể tưởng tượng ra đấy đủ sự thao túng của
những thủ đoạn nham hiểm, độc ác, hừng hực bạo lực hận thù, mà cứ trơ
trẽn giả dối lên mặt lương tri, đạo đức, lý tưởng, nhân danh những giá
trị cao cả của hai nền văn minh, văn hoá Đông Tây, mà lại toàn là ngấm
ngầm bon chen, len lỏi trong những ngõ ngách tăm tối thấp hèn của một xã
hội luôn luôn giao động vì gian trá, vì luôn luôn bị khủng bố tinh thần
vì những thứ luật pháp mơ hồ, trong một xã hội thường xuyên thiếu thốn
về vật chất, với một nếp sinh hoạt tranh tìm miếng ăn như muông thú, với
một thứ luật lệ rừng rú! Mọi sinh hoạt trong xã hội mới này đều bị chi
phối bởi sự đe doạ, đàn áp của ý thức “đấu tranh giai cấp”, đồng thời
cũng bởi thứ mệnh lệnh khủng bố tinh thần đòi dân “phải nói và làm theo
cách mạng”! Vì thế chính quyền và dân chúng cùng đối xử với nhau với
tinh thần giả dối cao độ, trong một Đại Bi Kịch lịch sử mang tên “Nhất
trí” và “Đồng chí”! Từ trong đảng tới ngoài dân, ai ai cóng trở thành kẻ
biết làm xiếc chui luồn, đi giây với luật pháp, với đạo đức và công lý.
Đấy
là cái thời mà đạo lý và chân lý đã bị thách thức tới tận cùng sức chịu
đựng của lương tri. Đấy chính là lúc cái tâm, cái tài, cái mệnh của con
người đã kiên trì đối đầu với quyền lực độc đoán, trong một cuộc xung
đột trường kỳ, phức tạp, tuy âm thầm, nhưng không khoan nhượng..
Điển hình của Đại Bi Kịch đã diễn ra từ hồi ấy…VII
Chương 8.Vẫn chưa được giải phóng-Về Hà Nội
Hồi
ấy, nghĩa là bắt đầu từ sau chiến thắng Điện Biên, lúc chính quyền cách
mạng ồ ạt về tiếp thu Hà Nội, thì công cuộc tiếp quản thành phố đẹp đẽ
này đã diễn ra vô cùng kiêu căng mà cũng vô cùng lúng túng, mò mẫm.
Ngoài mặt thì nói cách mạng là nghiêm minh, là tiên tiến, nhưng trong
thực tế thì chỉ toàn là kiêu ngạo, gian trá, hỗn độn, chia rẽ, bè phái.
Lúc đó chính quyền mang danh nhân dân, khoe khoang mục đích giải phóng.
Nhưng thực tại đã chứng tỏ một điều trái ngược không thể chối cãi: mọi
hành động, mọi chính sách đều có tính tuỳ tiện, rị mọ, nhắm mắt sao chép
từ phiên bản lờ mờ, rối bời của cuộc cách mạng do Mao tuỳ hứng chỉ đạo.
Chẳng hề có chuẩn bị quy củ, chẳng có gì là tổ chức khoa học, là hành
động minh bạch. Chỉ mạnh về tuyên truyền giả dối, về hù doạ. Một chính
quyền như thế đã không tạo ra được một chính sách an dân, không gây ra
một sức bật cho sản xuất. Những tấm gương tiên tiến trong sản xuất chỉ
là do tuyên truyền giả tạo bầy ra. Xã hội “tiên tiến” ấy cứ sống triền
miên trong thiếu thốn, hạn chế, gian lận. Chế độ tem, phiếu của mậu dịch
được khai triển như công tác làm phúc, bố thí. Đen tối, nhem nhuốc như
thế mà tối ngày cứ tự khen “mậu dịch là bà nội trợ đảm đang của xã hội”,
là công lao của “bác”, của “đảng”!
Rõ
ràng những gì đang diễn ra trước mắt, tại cái thủ đô ngày càng tàn tạ
này của xã hội chủ nghĩa, tất cả đều cho thấy rõ là nhà nước không có
khả năng xây dụng được cuộc sống sạch sẽ, an toàn, trật tự, cho dân an
tâm làm ăn, thế nên không có no đủ, không có hoà bình. Vì luật lệ tập
thể nay bao trùm để kiểm soát, trói buộc cá nhân, nên cuộc sống riêng tư
bị nghẹt thở, lao động sản xuất đều bị trói tay bởi những quy định “tập
thể”! Biết là dân chúng bất mãn, guồng máy công an lúc nào cứ phải gồng
mình theo dõi, hù doạ, đàn áp gắt gao. Thật sự là sau chiến thắng, cả
con người và xã hội ở đây đài không hề được giải phóng!
Các
cán bộ chính quyền, lúc mới về thành, miệng thì nói rất hay. Nào là
chính sách cách mạng là “giải phóng” con người, là “giải phóng” xã hội…
Nhưng tay cán bộ cách mạng thì cứ bòn mót, vơ vét, tịch thu mọi thứ, áp
chế con người về mọi mặt. Những chính sách tiếp thu chính quyền, cải tạo
xã hội, thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa như vậy đã để lộ ra tất cả
nhược điểm của cách mạng trong công cuộc xây dựng cuộc sống trong hoà
bình. Thật sự là ghế độ đã không tạo ra được bầu không khí lạc quan tin
tưởng ngay từ đầu kỷ nguyên hoà bình. Nhũng yếu kém về mặt nghiệp vụ,
thiếu vắng tính lương thiện của chính sách, của cán bộ, những thiếu thốn
và gian lận thường xuyên xảy ra trong phân phối hàng hoá, đã làm tiêu
hao hào quang chiến thắng của cách mạng. Rõ ràng đó là cả một bằng chứng
thua kém về mặt sản xuất, một thất bại ê chề trong nếp lưu thông và
phân phối so với các chế độ cũ. Trước những thất bại ấy, rồi cho đến mãi
sau này, guồng máy tuyên truyền chỉ còn cách cứ nhắc đi, nhắc lại cho
đến xói mòn hình ảnh công lao, hi sinh, gian khổ, thẳng lợi vinh quang…
Rồi cứ phải hù doạ khủng bố tinh thần, sẵn sàng chụp lên đầu những kẻ
bất mãn đủ thử tội mơ hồ. Những tội danh mơ hồ như âm mưu “phá hoại”,
“phản cách mạng”, là vũ khí để duy trì uy quyền của guồng máy hành
chính, cai quản.
Thời
chiến, cả nước chỉ mong đợi, chỉ ước ao ngày hoà bình trở lại. Nay hiệp
định đã ký, miền bấc đã có hoà bình, nhưng ai cũng trăn trở: bao hi
sinh, chiến đấu gian nan, kiên cường để nay tiến tới một cuộc sống tăm
tối, hỗn độn, thiếu thốn như thế này sao? Nhà nước nêu ra lý do là còn
phải lo chi viện, giúp đỡ một phần nhân dân “ta” đang bị kìm kẹp và vô
cùng đói khổ ở miền Nam.
Lúc
ấy, chính quyền cách mạng o ép, hù doạ dân chúng phải chấp nhận được
sinh hoạt trong kỷ luật, với tinh thẩn tự túc, tự cường, trước những đổi
thay nhọc nhằn, mà chẳng một ai cảm thấy an tâm để làm ăn sinh sống. Vì
sự kiểm soát cứ lan rộng, cứ len lỏi sâu vào mọi ngõ ngách của mọi sinh
hoạt, kể cả về mặt tình cảm, riêng tư thầm kín nhất của con người. Tai
mắt khắt khe của guồng máy cai quản của cách mạng đã bao trùm lên xã hội
một cách rất thiển cận, kém cỏi. Sau tháng mười 1954, là thời hạn chót
dân hai miền tự do đi lại vào nam hay ra bắc, theo hiệp định Genève.
Nhưng chỉ thấy dân miền Bắc tiếp tục tìm đường lén lút, liều chết di cư
vào Nam. Dân gọi vĩ tuyến 17 chia đôi đất nước là bức màn tre. Nghĩa là
nó cùng một loại chia cách, chia cắt như bức màn sắt mà Liên Xô đã thiết
lập bao quanh khu vực Đông Âu của khối xã hội chủ nghĩa. Đối với Thảo,
đây là một khía cạnh thất bại về cả mặt tư tưởng và hành động của thứ
cách mạng xổi thì này: Giải phóng con người, sao lại làm nó phải bỏ
chạy, sao để đến nỗi phải dùng bạo lực để vây kín nó, giam hãm nó?
Đúng
như lo lắng của Thảo, khi nghe Trưởng ban hành chính khu phố tới giải
thích quyết định cả gia đình bố mẹ Thảo sẽ phải dọn vào ở lâu dài trong
một cái phòng duy nhất, trong chính căn nhà cũ của mình, ông bố đã nổi
cơn điên lên gào thét, để cãi nhau với con. Đây là lần đầu tiên từ khi
gặp lại con, “ông cụ” gọi Thảo bằng “mày” và xung “tao”:
- Chẳng thà đuổi tao ra sống ở vỉa hè còn hơn là bắt tao phải sống trong hoàn cảnh khốn nạn này.
-
Bổ cũng nên hiểu hoàn cảnh của nhiều gia đình làm việc ở ngoài khu của
các cơ quan cách mạng, nay họ phải về làm việc ở Hà Nội này thì gia đình
vợ con hộ sống ở đâu bây giờ?
- Sống ở đâu thì kệ họ, nhưng không thể chịu cảnh bỗng nhiên họ vào xâm chiếm nhà của tao.
Họ
không chiếm, mà do luật lệ cấp phát nơi ở cho họ, thì họ dọn vào ở. Bố
phải tuân theo luật lệ mới của cách mạng, không chống lại được đâu!
- Không chống lại được thì tao ra vỉa hè tao ở! Luật lệ của cách mạng là có quyền trắng trợn cướp của cải của người ta hay sao?
-
Không hẳn là như vậy, nhưng cũng gần là như thế. Cách mạng có quyển lấy
của người có để chia cho người không có! Bố mà phản đối thì tức là bố
phạm tội phản cách mạng. Mà tội ấy có thể bị xử tử hình!
- Tao nuôi mày cho khôn lớn, cho có học hành để mày về làm cách mạng để mưu tính xử tử tao như thế này sao?
-
Luật lệ đó không phải sẽ vĩnh viễn, mà nó sẽ thay đổi khi xã hội đã làm
ra đầy đủ của cải cho mọi người. Nay vì chưa có đủ nên mới phải tạm
thời làm ra những luật lệ trưng thụ, tịch thu như thế. Chỉ vài năm nữa
thì sẽ là mỗi nhà cho mỗi gia đình, không phải sống chung chạ nữa… khi
ta tiến tới thế giới đại đồng!
- Mày nói như thế là mày bênh vực cách mạng phải không? Mày bắt tao phải cúi đầu chịu cảnh bị cướp nhà phải không?
-
Không ai bắt bố cúi đầu tuân theo luật lệ cách mạng. Nhưng phải thông
cảm với hoàn cảnh của đất nước. Nhất là bây giờ họ là kẻ chiến thắng, họ
có quyền áp đặt luật lệ của họ. Chính vì vậy mà lúc vào thành, con mong
muốn chẳng thà bố mẹ cứ tạm thời di tản vào Nam theo phe quốc gia, để
đợi ngoài này ổn định xã hội cho xong, thì rồi ba và con sẽ có cơ hội
đoàn tụ sau… Như vậy mới tránh được những cảnh khổ tâm như thế này.
- Mày nói thế là mày là người cộng sản thật à?
-
Vâng chính vì con là người có lý tưởng cộng sản nên con mới về với cách
mạng! Nhưng có nhiều thứ cộng sản: thứ cộng sản của con là muốn thực
hiện một cuộc cách mạng công bằng bằng luật pháp, bằng lý tưởng, không
gây thù gây oán, một cuộc cách mạng nhân đạo, sạch sẽ, mà toàn thể nhân
loại mơ ước! Các bạn trí thức tiến bộ của con ở Pháp đã thúc giục con
phải trở về tìm cách góp ý, góp sức, để thực hiện ở Việt Nam ta một thứ
cộng sản tiến bộ khác, tốt hơn, sạch hon so với những gì đã thấy trong
cách mạng ở Nga, ở Tàu. Cũng như con, họ muốn thấy xây dựng ở nước ta
một mẫu mực cộng sản không tận dụng bạo lực và hận thù, mà bằng một sự
kết hợp luật lệ nhân đạo tiến bộ, với một nền giáo dục theo đúng lý
tưởng công bằng xã hội… chứ không phải lấy cái bất công mới thay thể cho
cái bất công cũ, cái tàn bạo mới thay cho tàn bạo cũ…
-
Mày bênh vực cho thứ cách mạng của mày, nhưng cái thứ cách mạng đang
diễn ra ở đây thì sao? Nó không phải là thứ cách mạng của mày mà mày về
hợp tác với nó à?
-
Con về hợp tác với thứ cách mạng này là với hoài bão sẽ có ngày thay
đổi, cải thiện được nó, sẽ có ngày tìm ra cách uốn nắn lại được nó, để
nó trở thành thứ cách mạng của con, tức là thứ cách mạng mà mọi người
mong đợi!
-
Máy giỏi thế cơ à? Một mình mày, mà sẽ có ngáy thay đổi được cả một bộ
máy, cả một hệ thống quốc tế cộng sản, cả một ý thức hệ cộng sản cơ à?
-
Cái gì cũng có thể thay đổi, và nó sẽ phải thay đổi, vì nó chưa hoàn
chính. Khi mà, với thời gian, nó đã tỏ ra có sai trái, bất lực, không
tiến bộ, không thật sự giải phóng còn người, và bị mọi người oán ghét,
thì lúc đó không cần phải có một đoàn quân hùng mạnh để thay đổi nó. Chi
cần một người lãnh đạo, một tư tưởng trong sáng, dũng cám nói lên chân
lý, y như mặt trời mọc lên… để mang ánh sáng tới dẹp tan bóng tối, để
ánh sáng soi lối cho thấy con đường tốt đẹp mà đi… để tránh cái sai, cái
ác, để sụ sống sinh sôi, nảy nở, trong hoà bình, ấm no, tự do, hạnh
phúc!
-
Nghe mày nói tao thấy mày khừng, mày điên rồi! Rõ ràng là mày học nhiều
quá nên trở đã thành kẻ không tưởng, kẻ sống trong mộng ảo! Mày tưởng
một mình mày về đây là sẽ cải đổi, cải thiện được cái thứ cách mạng tàn
nhẫn này, cái thứ cộng sản thô lỗ, trói buộc con người như thế này à?
Tao nói thật cho mày biết sự thất vọng của tao khi tao nghe tin mày đã
về với cách mạng, với cộng sản! Về như vậy là mày tự giết mày rồi! Mà
cũng là giết cả mẹ mày và tao nữa! Thảo ơi! Phải chi mà mày học được cái
nghề gì như thợ nề, thợ máy, thợ mộc gì… thì đỡ khổ cho tao biết mấy!
Phải chi mày cứ ở bên Pháp làm việc, mỗi tháng gửi về cho tao vài chục
đồng Francs thì cũng đủ cho tao vui sống cảnh già! Mày nói mấy cái thằng
bạn tiến bộ của mày ở bên ấy hối thúc mày về trong khi đất nước này
đang khổ sở vì chiến tranh, vì cộng sản, thì mấy cái thằng ấy cũng chỉ
là một lũ điên thôi! Chúng nó đã xúi mày đi vào chỗ chết. Có là điên mới
nghe theo chúng nó! Mày về đây là mày giết mày, mày giết cả tao đấy
Thảo ơi là Thảo ơi!
-
Thôi, bố đừng than van, khóc lóc nữa! Cả cái Hà Nội này sống được thì
tại sao gia đình ta không sống được? Bố khóc làm gì! Không ai thương
mình đâu mà khóc, mà than!
-
Tao không cần ai thương tao cả! Tao khóc vì chính mày cũng không thương
mày nữa thì thương gì tới mẹ mày và tao! Tao hi vọng trông cậy vào mày
lúc về già, mà mày lại dại dột về đây như thế này! (Ông bố lấy tay áo
chấm nước mắt) sống như thế này thì khác gì chết? Chết còn tránh được bị
chứng kiến cảnh sống kìm kẹp, ức hiếp như thế này!
Thảo
không chịu nổi tiếng rên rỉ, than van của ông bố nên vùng vằng đi ra.
Bước thoát nhanh ra bên ngoài cho khuây khoả! Nhưng ở ngoài, nhìn đâu
cũng thấy những cảnh đau lòng của một thủ đô đang bị lột xác một cách
miễn cưỡng và nhọc nhằn… Phố xá nhà nào cũng đóng cửa vì sợ đủ thứ. Ở
một góc ngã tư rẽ xuống Hô Gươm, có vài người đang bu quanh một bà ngồi
bán vài bó rau muống. Thảo nảy ra ý kiến mua một mớ rau về xào để ăn với
cơm có lẽ cũng làm cho ông bố vui. Tới gần, quan sát, thì bà bán hàng
mời:
- Chỉ còn đúng một mớ rau muống thôi ông cầm lấy đi, muốn trả bao nhiêu thì trả. Tôi đi về đây.
Thảo
cầm bó rau muống hơi dập nát lên tay trái, tay phải móc túi quần ra một
nắm giấy “tiền cụ Hồ”, chìa ra trước mặt bà bán hàng và nói:
~ Thì đây bà muốn lấy bao nhiêu thì lấy, trong túi tôi chỉ còn bấy nhiêu thôi!
Bà bán hàng chọn lấy vài tờ giấy bạc còn khá mới rồi nói:
-
Ai mà cũng mua như ông thì đòi tôi đỡ vất vả! Mấy bà ấy mặc cả, thêm,
bót từng cọng rau! Rồi còn chê rau già, rau héo nữa! Thời buổi này có
còn ai muốn buôn bán nữa đâu!
- Tại sao vậy? Bây giờ hoà bình rồi thì tha hồ mà buôn bán chứ?
-
Tha hồ gì đâu! Ồng không vào chợ mà xem các sạp bị bỏ trỏng trơ ra đấy.
Mấy ông cách mạng về ra lệnh kiểm kê, bắt các người buôn bán phải gia
nhập hợp tác xã, để buôn bán tập thể. Từ nay không ai được buôn bán cá
thể nữa. Việc buôn bán bây giờ là do các ông, các bà “mậu dịch” độc
quyền. Tôi vì nghèo quá nên ra ao sau nhà hái ít rau muống mang ra bán
liều chứ không vào hợp tác hay mậu dịch gì cả. Để lấy tiền về đong gạo
nuôi con. Gạo thì bây giờ phải mua chợ đen, giá không phải là gấp đôi mà
là gấp bốn, gấp năm, mà cũng không kiếm ra người bán. Vì đã có lệnh bán
gạo là độc quyền của “mậu dịch” nhà nước… Bây giờ cái gì cũng khan
hiếm, cũng khó khăn lắm mới kiếm ra. Khó sống lắm ông ơi!
Thảo
mang bó rau muống về. Vào nhà thấy cửa căn phòng vẫn đóng kín mít. Ông
bố cũng năm trùm chăn ngủ trên chiếc giường bên trái, còn bà mẹ thì nằm
rên trên chiếc giường bên phải, ở góc trong cùng thì có kê cái chõng tre
trên đó có để hành trang của Thảo. Bầu không khí trong “nhà” thật nặng
nề.
Lặng
lẽ lục iọi, Thảo tìm ra chiếc nồi đồng nhỏ, rồi lấy gạo, đi ra sân, vào
nhà bếp có sẵn vài thanh củi, nhóm lửa nấu cơm, rồi xào rau. Bữa cơm
dọn ra trên cái chõng tre, trong ”nhà”, trông thật thiểu não, thật là
không bình thường, bởi Hà Nội đang sống trong không khí ngột ngạt không
bình thường. Cái không bình thường của một thay đổi theo hướng mò mẫm
khắc khổ, quá đột ngột và trắng trợn. Thảo đứng nhìn bữa cơm chỉ có một
đĩa rau muống duy nhất, bên cạnh nồi cơm nhỏ trơ trọi y như bơ vơ, như
thiếu vắng, nhớ tiếc một cái gì vừa mất! Y như Hà Nội đang nhớ, tiếc một
thời chưa xa, nhưng nay không còn nữa! Thảo lớn tiếng:
- Mời bố mẹ dậy xơi cơm!
Lời
nói lễ phép, thật lạc lõng trong căn phòng chật trội. Ồng bố vẫn năm im
không trả lời… Năm im lặng thêm một lúc, không biết nghĩ sao, ông bố
ngồi dậy, từ từ đi sang ngồi một góc chiếc trõng tre rồi nói:
- Mẹ ăn cháo chứ chưa ăn được cơm. Lát nữa bố sẽ nấu cháo cho mẹ.
Thảo
cũng lặng lẽ ngồi xuống, mở nồi, múc cơm ra hai cái bát sứ men trắng
tinh. Hai bố con lặng lẽ ăn cơm. Ông bố đứng dậy, lục lọi dưới gậm
giường, lấy ra một cái đĩa nhỏ, rót ra một chút nước mắm từ một chiếc
bình bằng sứ men trắng tinh: Thảo phân trần:
- Con quên là rau muống xào phải chấm với nước mắm.
- Thể ở chiến khu thì chấm với cái gì?
- Chấm với chút nước muối dầm với ớt cay xè!
- Nhờ vậy mà chiến thắng đấy! Nhờ chiến thắng ấy mà có cảnh này đây.
- Thôi bố đừng mỉa mai nữa! Mọi sự rồi cũng sẽ qua đi… Và với thời gian thì mọi sự sẽ được cải thiện.
- Thời gian qua đi, và mọi sự rồi sẽ mất hẳn, chứ cải thiện sao được những gì đang tốt đẹp, nay đã bị đạp đổ tan tành.
Ông
bố ngồi ăn cơm một cách khó khăn, như nuốt không trôi. Vừa ăn, vừa nhìn
chung quanh. Thảo nhìn bố và hiểu trong đầu ông bố đang tiếc nhớ những
thứ đang chìm mất vào dĩ vãng.
Mấy
hôm sau, nghe tiếng lích kích, ồn ào ở phía nhà trên. “Người ta” đang
dọn tới ở. Mãi sau mới biết là có hai gia đình đã dọn tới. Họ tránh
không “quan hệ” với cái gia đình chủ cũ của nhà này. Không gian gia đình
đã bị co lại, bữa ăn phải ăn trong căn phòng ngủ. Đến nhà bép, nhả xí
nay cũng là của tập thể! Sự chung đụng căng thẳng không thể tránh được
khi cùng chia nhau sử dụng cái sân, cái bể chứa nước mưa, cái nhà bếp.
Rồi bắt đầu kẻ này trách người kia là không chịu “kỷ luật” quét dọn sau
khi làm bếp xong! Không biết “kỷ luật” vệ sinh! sống chung như thế không
tài nào phân chia nhau thời gian sử dụng tiện nghi nhà vệ sinh. Sáng
tinh sương, mọi người ùa ra sân, ra đường để rửa mặt đánh răng. Gia đình
được chia cho căn ở mặt đường thì mở cửa ra vỉa hè, đàng trước nhà mà
làm mọi sinh hoạt buổi sáng. Dần dần hầu như khắp nơi, vỉa hè đàng trước
các căn nhà, nay trở thành nơi sinh hoạt nội trợ, vì trong nhà chứa quả
nhiều gia đình mới “vào”… Chỗ này đặt cái thau nước, chỗ kia đặt cái bô
cho trẻ con ngồi ị, chỗ khác thì kê cái bếp than, bếp củi, nấu nướng
khói um… các gốc cây nay đều khai um mùi nước tiểu… Vỉa hè nay là nơi
sinh hoạt tương đối thoáng khí nhất của mọi gia đình!
Hoàn
cảnh chung đụng, chật chội, đã gây ra đủ thứ cãi cọ. Nhiều lúc người Hà
Nội cũ và người Hà Nội mới xỏ xiên, mia mai, nhau, bên này gọi bên kia
là “bọn quen sống trong rửng rú”, và bên kia gọi lại bên này là “bọn đầy
tớ phong kiến thực dân còn nhớ tiếc chủ cũ!”… Có lúc công an được mời
tới vì những lời tố cáo, vu khống lẫn nhau: “nó chửi kháng chiến!”, ”nó
gọi tôi là Việt gian!”, “nó tích trữ nhiều hàng hoá dưới gậm giường!”,
“nó buôn lậu thuốc Tây”, “nó là Quốc Dân đảng!”, nó “phản động”.., nó
thế này, nó thế nọ…
Chính
cụ Tiếu, bố Thảo cũng bị một cán bộ trung uý công an mới dọn tới, tố
cáo và đe doạ: “Mày là cái thằng cả ngày hết chửi cách mạng, rồi là lên
án kháng chiến… mày mà còn tiếp tục là tao sẽ đưa mày ra toà án nhân
dân!”.
Bị
đe doạ một cách tàn nhẫn, nên “ông cụ” phải im lặng, phải thay đổi cách
sống, phải câm nín. Rồi tinh thần và sức khỏe ngày càng sa sút. Chẳng
những vì thiếu thốn, chung đụng, mà vì chính vì nỗi buồn bực tích tụ, vì
chứng kiến sự thay đổi tồi tệ của cuộc đời mình và cả của cải thành phổ
thân yêu của mình. Nó ngày càng xuống cấp, ngày càng xấu xí. Từ sáng
sớm, để thoát ra khỏi những va chạm ti tiện, cụ Tiến chỉ còn một phương
cách là đi rá ngoài tản bộ để ngắm cảnh phố phường… để thấy những đổi
thay đang làm tàn tạ, từ đường phố tới con người, một cách thê thảm và…
quá nhanh!
Thảo
cố sức giảng giải cho ông bố hiểu là mọi thứ xấu xa, tính tình chòm xóm
tồi tệ, sự chen lấn khi đi đường, tệ nạn lén ném rác ra đường làm mất
vệ sinh;.. Tất cả là do thiếu thốn, do chung đụng, chật chội… “Thủ phạm
của tất cả những tệ nạn đó là do cái nghèo và cái thiếu trình độ tổ chức
mà ra cả!”
Dần
dần, dân Hà Nội cũ phải quen với cảnh chia chác, tranh giành với dân Hà
Nội mới, từ cách sử dụng vỉa hè, lấn choán cả lòng đường, cứ y như ở
trong nhà mình. Vì nhà nhà lấn ra vỉa hè lấy chỗ sinh hoạt, tạm thời đặt
cái lu nước, tạm thời để cái bếp than, bếp củi ra vỉa hè ngoài trời cho
nó thoáng. Cái gì cũng tưởng chỉ tạm thời, nhưng rồi nó đã thành nếp
sống vĩnh viễn của thời mới, thời xã hội chủ nghĩa! Những cái lúc đầu
khó coi, khó chấp nhận, nay được giải thích, để bào chữa rằng rồi đây sẽ
tiến lên thế giới đại đồng của xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng tiến bộ
Mác-Lê, thì những cái đó sẽ được dẹp đi. Nhưng cái thế giới đại đồng ấy
chờ cả mấy chục năm sau vẫn chưa thấy tới! Mà cái “tạm bợ” khó coi kia
đã dần dần được chấp nhận, để trở thành cái vĩnh viễn.
Rồi
ai cũng cứ nghĩ như thế, những sinh hoạt mua bán, dịch vụ, dù công khai
hay là chui luồn, thì cũng cứ bầy cái bàn nhỏ với dăm ba cái ghế con ra
vỉa hè thành một quán ăn, quán nước. Thậm chí lu nước, tủ kính nhỏ cũng
nhảy xuống chiếm lòng mặt đường. Chỗ đắc địa được mọi người ưa chuộng
nhất là ở trên mặt nắp cống công cộng ở mỗi đầu vỉa hè, vì nó bằng
xi-măng nhẵn và kiên cố! Vì chỗ ấy bằng phẳng! Vì chỗ ấy để thoát nước,
rất tiện cho việc mổ gà, mổ vịt, kể cả mổ lợn!
Từ
đấy, Hà Nội lột xác toàn diện. Hà Nội trở thành thủ đô của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, tràn ngập cờ đỏ và cả rừng khẩu hiệu ca ngợi chiến thắng
vinh quang, vì lý tưởng, vì hi sinh của những chiến sĩ anh hùng cách
mạng! Nhưng sự thực là trong đầu mọi người, khái niệm xã hội chủ nghĩa
hiện ra rất mơ hồ. Bởi việc thực thì xã hội chủ nghĩa đã diễn ra quá
lúng túng. Một mặt chính quyền ép buộc mọi thứ kỷ luật bằng hù đoạ. Mặt
khác là dân tuân theo rất miễn cưỡng. Họ vỗ tay hoan hô và ca hát, nhưng
trong lòng họ không thật sự chấp nhận vì nó không mang lại ấm no, hạnh
phúc như họ mong đợi. Từ đấy cho tới mấy chục năm sau Hà Nội cứ như thế
mà phát triển trong sự dung túng, tuỳ tiện, trong sự miễn cưỡng phải
thoả hiệp với những sai trái về mọi mặt, từ vấn đề vệ sinh, từ cả về mặt
ứng xử của con người:.. Cứ phải thoả hiệp với những sai trái, với những
vì phạm luật pháp thô sơ, dung túng, nhất về mặt trật tự kỷ cương!
Chính trong thời giàu sống và quan sát những ngày đầu xây dựng xã hội
chủ nghĩa tại Hà Nội, đã cho phép Thảo nhận ra rằng quá trình cách mạng
như vậy là một sự áp đặt từ bên ngoài, bằng tuyên truyền gian xảo, bằng
bạo lực. Trong khi lý luận và sách vở thì nhấn mạnh tới tinh thần tự
giác. Đấy là một mâu thuẫn cơ bản mà lý luận chưa biết làm sao giải
quyết.
Với
sự phát triển xã hội mới rất luộm thuộm, rất mò mẫm như thế, Hà Nội đã
mau chóng biến thành một thành phố cổ lỗ: ngày càng chật chội, ồn ào,
chen lấn, ngày cảng nhem nhuốc, mốc meo, dơ bẩn… Và với thời gian không
dài, Hà Nội êm đẹp tàn dư của “thời thực dân, phong kiến”, nay chỉ còn
được nhắc tới, như là một kỳ niệm êm đềm; Hà Nội thanh lịch của thủa xã
xưa ấy đã xuống cấp tiêu điều, kể như nó đã mất đã chết hẳn. Chi trừ ra
vài con đường hiếm hoi còn sạch sẽ, vì có nhiều trụ sở, dành cho các cơ
quan, nhiều dinh thự của bác ông lớn cách mạng. Hà Nội, sau nhiều năm
được giải phóng, đã để lại những đường phố đen tối, xô bồ, dơ bẩn vô tổ
chức, không xứng đáng với một dân tộc có văn minh văn hoá.
Cùng
với Hà Nội cũ không còn nữa, con người thanh lịch, đài các của Hà Nội
xưa cũng dần dần biến mất một cách tệ hại. Người lịch sự, đài các trở
thành một mẫu loài quý hiếm, đi dần dần tới tuyệt chủng. Người tứ xứ nay
tiến về làm chủ Hà Nội có những khu-trước-đây là của công chức cao cấp
chế độ thực dân, phong kiến cũ, nay dân ngụ cư lúc nhúc ở đó đều toàn là
dân “Hà Nội mới”, nói giọng đặc sệt các địa phương xa xôi, không mang
tính chính giọng và chính tả (từ cách viết tới cách phát âm). Đến nỗi ở
đó đã hình thành lần đầu tiên hàng loạt các hội ái hữu của các nhóm dân
gốc ở tận đẩu đâu! Nay khi nói tới nét thanh lịch của người Hà Nội, thì
người ta liên tưởng tới những đường phố có vỉa hè ngăn nắp, sạch sẽ, với
những thiếu nữ, thiếu phụ mặc áo dài kiểu mới, kiểu “Lơ-muya”, nói năng
nhẹ nhàng, đi đứng thướt tha… Còn khi nói tới người Hà Nội mới thì làm
người ta liên tưởng tới cái thời Hà Nội nhem nhuốc, với đường phổ lúc
nhúc, chen lấn, lộn xộn, nói năng ầm ĩ, lỗ mãng y như trong giữa một
phiên chợ, có khi là những lời lẽ cục cằn, tục tĩu… Tại sao lại xuống
cấp như thế? Tại vì quy luật sinh vật luôn luôn mang ảnh hưởng, dấu ấn
của môi trường.
Trong
thực tại, con người mới xã hội chủ nghĩa, sản phẩm của chế độ mới, là
con người mưu mẹo, khéo xoay xở, biết chui lách qua quy định và luật
pháp, ngoài mặt thì có vẻ nể nang chế độ, nhưng trong đầu thì chẳng sợ
cái gì, chẳng sợ ai, chỉ tin vào tài tháo vát, nghĩa là chẳng nể phục
một ai. Đấy có thể là con người bất mãn, mà không dám phản kháng, trăn
trở mà không dám nói ra, cứ ấm ức, dồn nén đến mức phải văng một câu tục
cho nó hả! Phản ánh cái sự ấm ức không nể phục ấy là những hành động
bất tuân luật lệ vụn vặt, nói năng thô lỗ, chửi chó, mắng mèo, “ba que;
xỏ lá”, đểu cáng. Có những bà, những cô bán hàng vừa bán vừa như xua
đuổi khách:
- Chỉ có vậy thôi, mua thì mua, không mua thì cút!
- Ông cút thì ông “đ. mua!
- Mày về mà đ. mẹ mày ấy!
Nhưng
đa số là người cần, cứ phải nuốt nhục mà mua. Vì dù đi chỗ khác xa hơn,
thì cũng vẫn là thứ hàng thiếu phẩm chất, bị cân thiếu, bị rút ruột, bị
nhồi độn… gian dối như thế.
Trong
Hà Nội mới xã hội chủ nghĩa này lần đầu tiên xuất hiện cảnh vừa bán,
vừa mắng chửi; mà vẫn cứ có người mua! Hiện tượng ấy, Thảo cho đó là một
biểu hiện thô bạo phản ánh sự bực bội của xã hội. Chứ nếu cuộc sống êm
thắm, vui vẻ, bình thường thì đâu có ai lại chửi đổng bâng quơ như thế.
Hà Nội mới nay là nơi không còn chú ý tới thanh lịch, nói chi tới đức
hạnh. Lịch sự, lê phép là điều xa xỉ, lạc, hậu. Một cử chỉ kính trên,
nhường dưới bị coi là đã lỗi thời. Không còn ai dám nói tới nhân phẩm,
đạo đức nữa. Cứ như thế, cả một nền “văn hoá đểu giả” phát triển, với
thời gian đã tạo ra một xã hội tàn nhẫn đến mức thô bạo. Vậy mà chưa một
ngòi bút tả thực của nhà văn nào dám đụng tới. Họ biết đụng tới nó là
đụng tới chế độ. Vì ai cũng dư biết trách nhiệm đối với tình trạng thô
bạo ấy là của chế độ, nhưng đối với Thảo, chỉ cần có sự phân tích sáng
suốt để đi sâu hơn, đi xa hơn. Vì chính chế độ cũng không hề muốn để xảy
ra sự suy thoái đạo đức như thế vấn đề là phải tìm ở đâu cho ra thủ
phạm đã gây ra tình trạng suy đồi nhân cách, suy đồi phong tục xã hội
này?
Những
món ngon của Hà Nội thủa nào, nay nó bị xuống cấp, bị dọn ra bày ra bán
vô trật tự, ở những chỗ thô thiển, nhem nhuốc, kệch cỡm, nên nó không
còn ngon đúng với những hương vị thanh tao của nó như xưa.
Món
có thể ngon, nhưng nay chỗ ngồi không ngon, con người này cũng không
ngon, không còn mấy ai sành sỏi về hương vị thổ ngơi của Hà Nội, câu
chuyện nay thì đậm mùi “quê ta” ở những nơi xa lạ… nên cũng không phải
là những chuyện ngon lành, dí dỏm, tế nhị của người Hà Nội chính gốc
nữa!
Cũng
cái Bờ Hồ ấy, cũng cái Tháp Rùa ấy, nhưng nay chung, quanh lúc nào cũng
lúc nhúc, láo nháo như họp chợ! Mà thật sự là ở bất cứ đâu, kể cả ở “bờ
Hồ”, nay cũng đã biến thành chợ. Không còn ai nhớ tớ cảnh nên thơ của
tháp cổ! Của hồ xưa!
Cũng
vẫn còn có những lúc chiều tà, khi hoàng hôn xuống, lòng người dễ trở
thành lãng mạn, nhưng nay những chiếc áo dài đã bị thay thế bằng loại áo
kaki lai áo cánh, lai sơ-mi cụt cỡn, thô kệch, với màu nâu, màu xanh bộ
đội là chính, trông thật ảm đạm! Thỉnh thoảng cũng có mấy bà mấy cô
thuộc gia đình cách mạng cao cấp, khi cao hứng, cũng diện áo dài ra lượn
bờ hồ để chụp ảnh. Nhưng thứ áo dài gì mà tà áo loe ngang, viền gấu to
đùng như viền quần áo lính. Đường cắt may thô thiển, tà không còn úp,
không còn ôm cuốn theơ thân mình, nên khi gặp gió nó bay lộng lên như
cánh buồm đứt giây, trông thật nhức nhối con mắt, tạo thành đường nét
hỗn tạp cho cái hồ từng một thời nổi tiếng có vẻ đẹp của ngàn năm văn
vật, lãng mạn của thủa, xa xưa.
Người
Hà Nội mới chê lối sống cũ là truỵ lạc, cổ hủ. Còn dân Hà Nội cũ chê
dân mới là dân “cả quýnh”, có nghĩa là vừa quê mùa, vừa rừng rú, có lần
công an đã tới hỏi cả giấy giá thú khi thấy cặp tình nhân khoác vai
nhau, ngồi ngắm trăng bên bờ hồ. Vì công an coi ngồi tình tứ với nhau
như thế là “truỵ lạc”!
Trong
tâm tư người Hà Nội cũ, nay chỉ còn một nỗi niềm cay đắng, tiếc nhớ âm
thầm! Nhớ những tà áo dài thon thả bay lượn bên bờ hồ thanh vắng, trong
gió chiều thơ mộng. Họ chỉ còn biết nhớ thương, nhớ tiếc cái Hà Nội lãng
mạn xa xưa ấy, qua những âm điệu du dương thầm hát trong đầu của những
nhạc điệu tiền chiến! “Tiền chiến” là dư âm, là vang bóng một thời của
Hà Nội nên thơ, Hà Nội đẹp, Hà Nội thanh lịch nay đã mất, đã chết!
Người
Hà Nội mới hôm nay lúc nào cũng gồng mình lên để tỏ ra cái vẻ kiêu
binh, tiên tiến của những anh hùng chiến thắng… lúc nào cũng sẵn sàng để
hoan hô. Hoan hô Hà Nội cách mạng! Hoan hô Hà Nội anh hùng!
Dân
Hà Nội cũ cũng phải hoan hô theo, nhưng trong lòng thì u buồn, lo lắng
vô cùng. Lo lắng vì trật tự mới không, đúng như lời nói, lời hứa: lý
luận cái gì cũng rất lý tưởng, nhưng trong việc làm thực tế cái gì cũng
hỗn loạn, cũng tham lam, gian dối, tranh giành… ti tiện. Các khẩu hiệu
vang dội từ loa, bằng những chữ to trên pa-nô chỉ là những trống rỗng
khổng lồ. Trật tự mới kiểm soát đủ thứ, cấm cản đủ kiểu, nhưng cứ đút
lót chút đỉnh thì cái gì cũng thoát, cũng qua. Luật lệ cách mạng rất
nghiêm minh, rất khó sống, nhưng nhờ đồng tiền khôn, biết chui, biết
luồn, nên luật lệ nghiêm minh ấy cũng rất dễ qua mặt.
Thảo
đau lòng nhận ra tất cả đây chỉ là sự vận hành lệch lạc của một thứ tư
tưởng cách mạng ấu trĩ, xổi thì: những người chiến thắng, trong tư thế
kiêu binh, nay thấy mình có quyền làm bất cứ đieu gì gỡ gạc, để vơ vét
những gì họ đã quá thèm khát, đã quá kiêng nhịn trong thời gian chiến
tranh. Những dồn ép nay bung ra, không gì cản lại được. Đặc biệt là bùng
nổ về mặt siịnh lý: chẳng những số đám cưới gia tăng mạnh, mà số vụ phá
thai càng ngày càng tăng vọt. Dĩ nhiên là dân số cũng tăng lên đến mức
báo động. Lần hồi, chính quyền bắt buộc phải hô hào phát động kế hoạch
hoá gia đình, phải hạn chế sinh đẻ và tung ra phong trào đặt vòng xoắn
một cách đại trà. Chính đại tướng Võ Nguyên Giáp, với uy thế chủ tịch uỷ
ban khoa học nhà nước, là vị chủ trì phong trào hạn chế sinh đẻ này.
Nhưng tỉ lệ sinh đẻ cứ tăng lên đều chứ không giảm. Nhà nước đã tỏ ra
hoàn toàn bất lực về mặt trật tự xã hội, nhất là về mặt bùng phát, bùng
nổ sinh lý, kéo theo bùng phát dân số! Dân số tăng vọt, hàng hoá, của
cải thì ngày càng khan hiếm, càng kém phẩm chất… mà giá cả cứ tăng đều.
Do vậy, sự nghèo túng, thiếu thốn cứ như vô phương cứu chữa. Cả xã hội
phải trông nhờ vào các cửa hàng mậu dịch: cảnh mua bán ngày càng diễn ra
như bố thí, với chế độ phân phối hạn chế theo tem, phiếu. Mà hàng thì
xấu và hiếm, đến nỗi chế độ “xhcn” (xã hội chủ nghĩa) bị biếm giễu là
chế độ “xếp hàng cả ngày”!
Sự
thật là trong cái thủ đô cách mạng “tiên tiến”, “anh hùng”, đang sôi
sục một sự tranh giành, lấn chiếm, tranh thủ, tước đoạt một khoảng không
gian sống, một vị trí cho riêng mình, cho gia đình mình. Hà Nội sôi sục
một làn sóng vận động ngấm ngầm, rất tích cực, để giành một chức vụ
trong guồng máy hành chính đang được phát triển ngày càng phình ra để
kiểm soát toàn bộ xã hội và nhất là để có the thoả mãn những gửi gấm của
các đồng chí “bên trên”…
Ai
cũng nghĩ trong đầu: hoà bình rồi, nay là thời cơ để tranh thủ một chút
địa vị, một chút của cải cho riêng mình! Chẳng lẽ chiến đấu gian khổ
trong bao nhiêu năm, mà nay chiến thắng trở về tay trắng lại hoàn trắng
tay?
Tranh đấu là để có một cái gì chứ, chẳng lẽ tranh đấu để rồi không được một cái gì sao?
Một
đồng chi mà Thảo biết từng là một cán bộ cách mạng xuất sắc ở ATK, nay
cũng vui vẻ khoe vừa đưa gia đình về Hà Nội, và vừa được cấp một phòng
lớn, trong một biệt thự sang trọng. Thảo hỏi:
-
Đồng chí có thấy đáng lo ngại về tình hình thiếu thốn, tranh giành việc
làm và nơi ở, đang diễn ra sôi nôi tại thủ đô xã hội chủ nghĩa như thế
này không? Đồng chí có nghĩ là tinh thần cách mạng vô sản đang bị biến
chất không?
Người cán bộ cách mạng ấy đáp rất tự nhiên:
-
Chúng ta đã kháng chiến, đã đấu tranh trong hi sinh gian khổ, nay chúng
ta cũng có quyền được hưởng một chút thành quả của cách mạng chứ! Thật
sự là không ai nghĩ tranh đấu để rồi trở thành cái anh vô sản. Đồng chí
không thấy như vậy là công bằng sao? Bây giờ là hoà bình rồi mà! Bây giờ
phải tới lượt chúng ta hưởng chứ!
Thảo
im lặng không trả lời. Vì không biết trả lời sao cho đúng. Thật sự là
nay, khi ngưng tiếng súng, ai cũng nghĩ tới cái riêng trước, sau mới tới
cái chung. Nghĩ tới cá nhân, bản thân gia đình trước, rồi mới tới cái
tập thể.
Rồi
Thảo cũng phải thay đổi cách nhìn: họ không phải là thứ cán bộ cách
mạng đang biến chất. Họ chỉ là những con người đang bộc bạch những nhu
cầu tự nhiên, bộc lộ ra cái bản chất chân thật của mình: vì ai ai cũng
mong tìm cái no, cái ấm mà thôi.
Tuy
trong lời nói, nhất là trong các buổi học tập thì vẫn luôn luôn vang
lên lý luận, biện chứng đề cao cái tập thể, cái chung! Trong học tập thì
nói: Dân hưởng trước, cán bộ cách, mạng hưởng sau. Nhưng rồi cán bộ
cách mạng cao cấp thì có chợ riêng, gia đình, con cái cách mạng nay
thuộc “diện” ưu tiên. Còn nhân dân thì trở ra cái thân phận bị phân biệt
đối xử… nên nhìn những đặc quyền, đặc lợi của “diện gia đình cách
mạng”, nhất là ở cấp cao, mà tức, mà thèm!
Bác
Thảo còn vui miệng kể khi Tô Hoài, một nhà văn cán bộ “đảng viên” cấp
cao, không chịu nổi cảnh nhức nhối trước mắt, nay cũng đã viết để giễu
chế độ: một bà mẹ xếp hàng để mua thực phẩm, nhưng tới lượt mới biết là
thứ hàng này chỉ bán cho “diện chính sách cán bộ đảng viên”, nên bà mẹ
tức bực đứng ra trước đám đông, vỗ cửa mình bồm bộp mà chửi “Cha tiên sư
mày! Không đẻ ra cán bộ, mà đẻ toàn một lũ nhân dân”!
Dân còn đặt vè như loại:
Tôn Đản là chợ vua quan.
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng!
Thảo
quan sát những thực tại bực bội này, và bình tĩnh lý giải rằng những
khát vọng thầm kín của cá nhân, của cái riêng tư là một bản chất, một
bản năng tự nhiên, không thể mang những lý luận biện chứng từ sách vở ra
mà bác bỏ hay lên án nó. Triết học không thể phản bác những hiện tượng
tự nhiên, những khát vọng tự nhiên và chính đáng. Đó là một nhận thức
mới mẻ mà Thảo đã khám phá ra sau rất nhiều suy tư, dằn vặt khi theo dõi
những sinh hoạt của các “đồng chí cách mạng” tử khi họ rời chiến khu về
tiếp thu Hà Nội.
Nhìn
những người “đồng chí”, một thời rất can trường trong lý luận triệt để
đấu tranh cách mạng, nay họ hớn hở khoe một gian nhà vừa mới được cấp,
một chiếc xe đạp Phượng Hoàng mới tinh, một chức vụ có uy quyền… và có
lúc, quên cả bà vợ cũ, để khoe hạnh phúc mới với một cô vợ trẻ và một em
bé sơ sinh. Thảo tự nhủ:
-
Ta không thể dùng lý luận xơ cứng mà lên án họ là một chiến sĩ vô sản
đã bị biến chất. Chính ta, khi thấy họ khoe ra những thứ ấy, cũng cảm
thấy, đối với họ, đó là một niềm hạnh phúc chân thật, rất sống thật, rất
có thật, rất là xứng đáng cho tất cả mọi người, nhất là sau một thời
gian dài chiến đấu và hi sinh. Cái sự thật này, ta không thể vin vào
giáo điều để lên án hay bác bỏ. Cũng không thể tìm thấy lời giải đáp từ
trong sách vở, trong lý thuyết, như khi ngồi đọc Marx, suy nghĩ về Marx ở
Paris! Cách mạng ở đây, hiện thực ở đây, rõ ràng là nó đã vượt rất xa
khỏi khả năng suy diễn, mô phỏng về cái thế giới đại đồng nêu ra trong
sách vở…
Nhờ
thải độ cảm thông với những khát vọng nhỏ và lương thiện của mọi người,
Thảo không tỏ ra bực bội, oán trách, không gây gổ với ai, trong lòng
lúc nào cũng thanh thản và độ lượng: xã hội đang trên đà thay đổi một
cách tồi tệ như thế, ai cũng như bị đẩy vào hoàn cảnh sống khó khăn như
thế, nên thật sụ là phải tội nghiệp họ chứ không thể oán trách, ghét bỏ
họ. Sự thật là họ cũng như ta, đều không phải là thủ phạm gây ra cảnh
sống luộm thuộm, khắc khổ, thiếu thôn, cục cằn, thô lễ, kho hạnh này!
Lỗi là ở trên cấp cao kia.
Chung
quanh không ai hiểu, được lý do của thái độ thanh thản, thông cảm ấy,
nên họ thấy Thảo lúc nào cũng cứ thản nhiên, lúc nào cũng mỉm cười như
khùng khùng, điên điên, cứ ngơ ngơ, ngác ngác trước cuộc đời gian nan
vất vả với hai mặt mâu thuẫn nhau: mặt phải cao cả của lý luận, mặt
trái, mặt thật phủ phăng của thực tại!
Kỳ
thực là trong hoàn cảnh rất tàn nhẫn, rất hiện thực ấy, Thảo đang vận
động trí tuệ, đáng rất tỉnh táo để phân tích, để nhận định về sự vận
hành, diễn biến của cách mạng trước mắt. Nó càng phức tạp thì lại càng
như tăng sức bật cho Thảo trong công cuộc trải nghiệm, để tìm ra giải
đáp cơ bản cho câu hỏi: tại sao những điều dự báo tốt đẹp của Marx về
một thế giới đại đồng kia đã không diễn ra như mong đợi? Tại sao lý
thuyết quá hay mà kết quả này lại tồi tệ như thế? Tại sao? Có cái gì đó
mà Marx đã không thấy, không hiểu chăng?
Gặp
giáo sư Đặng Thai Mai trong buổi họp đầu tiên tại trụ sở nguy nga của
“Viện Đại học Đông Dương” cũ do thực dân Pháp xây dựng từ thời xa xưa…
Thảo hỏi:
- Tại sao anh không phải là khoa trưởng “doyen” hay viện trưởng “recteur” của viện Đại học, mà chỉ là “phó giám đốc” của trường Đại học Văn khoa?
-
Ôi cái đó thì là do ông đồng chí Hồng Cư, trường ban tổ chức của bộ
giáo đục, ông ấy tự ý quyết định tất tật cả. Ồng ấy hỏi tôi: anh nắm
trường Văn khoa được không? Tôi đáp: Được! Thế là ông ấy phán: vậy thì
anh sẽ làm giám đốc trường đấy nhé! Và thế là tôi thành giám đốc! Tôi
cũng chẳng biết tại sao tôi được gọi là giám đốc mà không phải là khoa
trưởng hay viện trưởng. Tôi cũng chẳng thấy ai đứng ra lập sơ đồ tổ chức
các phân khoa Đại học cho ranh mạch, chỉ có gốc gác nền tảng Đại học
quốc tế. Có lẽ ông ấy coi việc tổ chức Đại học y như bên hành chính, một
phân khoa Đại học y như một sở, nên đứng đầu sở dĩ nhiên là một giám
đốc! Chứ ông ấy có biết gì về cách tổ chức một trường Đại học theo khuôn
mẫu kinh điển quốc tế đâu! Ông ấy không để ý tới nghĩa gốc của danh từ
Đại học là Université hay University! Tưởng chỉ cần thêm hai chữ Đại học
vào các phân khoa. Thành ra sau này có sự trùng lặp ý nghĩa trong danh
xưng “Đại học Tổng hợp”, đã là Đại học là đa khoa rồi, còn tổng hợp làm
cái gì nữa. Còn hiểu Đại học là một trường lớn chuyên về một khoa, cao
hơn bậc Trung học thì đã có trường Cao đẳng… mấy cái đó rắc rối, ông ấy
cho qua luôn, không cần biết. Người ta giễu cách mạng là vì ông ấy!
Nhưng anh có biết tại sao anh cũng như anh Nguyễn Mạnh Tường chỉ được cử
làm phó giám đốc thôi không?
- Cái đó thì chúng tôi cũng mù tịt.
-
Tại vì trong tổ chức “đảng”, chức vị đứng đầu như thủ trưởng, như
trưởng ban, cũng như giám đốc thì luôn luôn phải là “đảng viên”. Vì hai
anh chưa phải là “đảng viên” chỉ có thể làm phó giám đốc thôi!
- À thì ra thê!
-
Nhưng anh có được tham khảo ý kiến về cách tổ chức và chương trình
giảng dậy của khoa anh không? Anh có biết là anh sẽ được giảng dậy môn
gì, tiết gì không?
-
Từ khi về nước tới nay, ở ngoài khu cũng như bây giờ ở Hà Nội này, tôi
không hể được tham khảo ý kiến về công việc tổ chức bất cứ một ban, một
ngành nào bao giờ cả! Đôi khi tôi có ý góp ý kiến, nhưng họ bỏ ngoài
tai. Họ bảo tôi không có đủ trách nhiệm để góp ý! Họ chỉ thông báo cho
tôi biết là tôi sẽ phụ trách làm cái này, thì tôi làm cái ấy. Bảo đi
thanh tra cái kia thì tôi đi! Nay họ bảo phải dạy cái này, thì tôi tuân
thủ dạy cái ấy. Họ bảo tôi sẽ dạy lịch sử triết học Tây phương, nhưng
chỉ tới Marx thôi. Còn từ Marx thì do người khác dậy, mà môn ấy được
giảng dạy ở tất cả các lớp, các trường. Thế nên tôi tìm tư liệu để soạn
giáo án đại khái để dạy như một môn phụ thôi.
-
Như vậy là anh chỉ phụ trách một tiết thôi! Và anh có biết tại sao anh
lại không được dạy môn chính là môn “chủ nghĩa mác-xít” không?
-
Cái đó thì có lẽ tôi chỉ được biết một nửa lý do thôi! Tại vì họ không
tín nhiệm tôi, họ nghi ngờ trình độ hiểu biết về Marx của tôi!
-
Đúng là anh chỉ biết được một nửa lý do thôi. Bởi người ta coi anh như
là chỉ biết có tư tưởng của Marx, chứ chưa biết tư tưởng của Lenin, của
Stalin. Vì thiếu hai ông tổ sư thực hành lý thuyết ấy, thì tư tưởng của
Marx cũng chỉ là ý niệm suông trong sách vở thôi. Chính nhờ có hai lý
thuyết gia tổ sư ấy khai triển; nên môn chủ nghĩa mác-xít mới thành hiện
thực, môn ấy chỉ dựa trên khái niệm tư tưởng của Marx, chứ không hoàn
toàn chỉ là của Marx.
-
Nghe anh nói như vậy tôi mới biết tại sao tôi không phải là một người
mác-xít! Chỉ vì tôi không coi trọng phần nghiên cứu về Lenin, về Staiine
là chính!
- Đúng vậy! Vấn đề gian nan của anh ở đây là như thế!
- Cảm ơn anh!
-
Không có gì để mà cám ơn! Tôi nói rõ ra điều ấy là vì tôi nghe đồn anh
đã gặp nhiều gian nan căng thẳng ngay từ sau khi về nước. Tất cả là vì
anh đã coi nhẹ phần công lao của Lenin và Stalin!
- Công lao hay tội lỗi?
- Cái khổ của anh là ở trong câu hỏi ấy đấy!
~ Nhưng nhìn chung thì anh thấy nền giáo dục cách mạng hiện nay là thế nào? Nó có hoàn chỉnh thông?
-
Tôi không hiểu quan niệm giáo dục của anh là thế nào, nhưng riêng sự
quan sát của tôi, qua mấy lần đi thanh tra mấy trường học, thì tôi thấy
vì thiếu hiểu biết, thiếu tri thức nên các cán bộ “đảng” và nhà nước
đang thực hiện một nền giáo dục què quặt, để biến mỗi con người thành
một chiến sĩ cách mạng của “đảng”, để phục vụ công cuộc tranh đấu do
“đảng” lãnh đạo, theo tinh thần đấu tranh nói là của Marx… Đây thực ra
là một nền giáo dục có tính dụng cụ hoá con người, chứ không phải là một
sự phát triển có tính mở rộng tầm suy nghĩ và tầm nhìn xa, nhìn rộng
của con người. Vì vậy nền giáo dục này không phải là khai phóng. Tôi đọc
thấy đó đây những nội quy, những quy định, những nhắc nhở các thành
viên của xã hội đều phải là của “nhân dân”, nghĩa là của Bác Hố, của
“đảng”… Con người trong cuộc cách mạng này không được phép suy nghĩ ra
bên ngoàỉ những gì đã được giảng dạy, không được nhìn ra bên ngoài những
gì được phép nhìn, để có thể so sánh những gì mình đang có, đang biết,
đang làm, với những gì mình chưa có, chưa biết, chưa làm…
Nhưng
Thảo vẫn tin rằng trong tư tưởng Marx, còn có một khía cạnh nhân bản mà
cách mạng ở đây không chú ý tới! Vì không chú ý tới vấn đề nhân bản,
nên rất nguy hại cho sự xây dựng con người. Guồng máy tuyên truyền nêu
ra những tấm gương để giáo dục tuổi trẻ. Đây thật sự là đã có nhầm lẫn
giữa mưu trí với trí tuệ. Những tấm gương mưu mẹo, lừa gạt, trí trá để
phá địch, diệt địch là quỷ kế, là thủ đoạn chứ không phải là trí tuệ.
Một hành động của trí tuệ là một việc làm có tính chính nghĩa, chính
đạo, trong sáng. Mưu trí tin tưởng vào con đường thủ đoạn, tiêu diệt của
chiến tranh. Thế nên nồ đề cao những thành tích ám sát, đặt min, gài
bom… đó là mưu mẹo, là thủ đoạn quỷ quyệt gian ác chứ nó không phải là
trí tuệ.
Trí
tuệ là biết cách thay ác bằng thiện, biến thù thành bạn, không làm
những điều dối trá, độc ác, phù phiếm, mà cố gắng làm những điều trong
sạch, hài hoà, bền vững. Trí tuệ tin tưởng vào con đường tiến lên của
nhân cách, của đạo lý nên nó tin vào các giải pháp hoà bình. Nhầm lẫn về
mặt này, nên giáo dục cách mạng đã vô ý thức thiên về xu hướng tạo dựng
một mẫu người thủ đoạn, láu cả, lưu manh chỉ đắc dụng trong chiến
tranh, chứ không phải một mẫu người ngay thẳng, chân thật của trí tuệ để
xây dựng nhũng giả trị bền vững. Trong một xã hội đầy những con người
mưu trí, thủ đoạn thì xã hội ấy không còn lương tri, không còn biết luân
thường, đạo đức và lý tưởng là gi nữa.
Thảo
rất lo âu về nhược điểm này của nền giáo dục cách mạng. Thế nên khi
được mời đi thanh tra mấy trường học; Thảo ngậm ngùi và tâm can bị dày
vò khi thấy trường học nêu ra những tấm gương có tính mưu trí, lừa dối
địch, nêu ra để kích động hận thù, để biến hận thù thành hành động… Một
nền giáo dục nằư vậy là dạy cách mài còn dao cho sắc chứ không phải dạy
cách dùng con dao. Nó không khai phóng mà là nó công cụ hoá, nó nô lệ
hoá con người!
-
Sự quan sát và nhận định của anh là rất đúng đấy, nhưng, nó không hợp
thời, hợp thế đâu! Anh nên coi chừng! Anh mà cứ nói ra sự thật ấy ở đây
thì sẽ bị lên án là phản bác chính sách, phản bác chế độ, nguy hiểm lắm
đấy.
- Vậy thì cái sự hiểu biết sự thật ở anh, ở tôi dùng để làm gì?
-
Cái đó là chỉ dùng cho riêng mình mà thôi, chứ không nên nói ra “vì”
người khác. Tôi biết anh muốn chia sẻ và phổ biến cái sự thật của anh
với mọi người, nhưng đây không phải là lúc để làm việc đó, anh hiểu chứ?
-
Điều đó thì tôi hiểu từ khi mới trở về nước! Nhưng tôi không muốn giữ
sự thật ấy cho riêng tôi! Không biết anh có thông cảm cái tâm tư bị
giằng xé của tôi không? Ta không bắt đầu bằng cái tốt, cái tử tế thì
chừng nào ta có được cái tốt, cái tử tế, có cần phải học nhiều, học cao
để hiểu ra nhu cầu ấy đâu. Các cụ ta xưa đã chẳng dạy “tiên học lễ” đấy
sao?
-
Tôi rất thông cảm với anh, nhưng tôi không muốn chia sẻ cách sống, cách
nghĩ của anh bây giờ và ở đây. Anh là con người của triết học, nên nó
suy tư, nó duy lý, còn tôi chỉ là con người thường của thực tiễn, trong
lúc này… Nhưng thôi, chúng ta nên chấm dứt sự chia sẻ tâm tình giữa
chúng ta ở đây thì tốt hơn.
- Thế thì anh khôn quá!
- Khôn quá hay hèn quá? Anh nghĩ sao cũng được. Ha! Ha! Ha!
Tiếng
cười hồn nhiên của vị giáo sư Đại học có uy thế làm Thảo khó chịu, vì
bàn một vấn đề nghiêm túc như thế mà vui cười được sao? Thấy ông bạn
thản nhiên cười như vậy mà Thảo muốn khóc!
Gặp
vài cán bộ cấp cao của Trung ương, Thảo than thở về những trăn trở của
mình, họ cũng chỉ mỉm cười! Họ khuyên Thảo cứ lạc quan tin tưởng. Mọi
điều tốt đẹp rồi sẽ tới. Hỏi chừng nào sẽ có những điều tốt đẹp mà ngay
cả ở Liên Xô, Trung Quốc cũng chưa thấy có? Họ chỉ lắc đầu, chê Thảo là
kẻ chỉ suy nghĩ đâu đâu! Cứ làm như mình là kẻ có trách nhiệm…
Viện
Đại học Hà Nội lúc này tấp nập sinh viên tới lui để ghi danh… tuy còn
thiếu vắng phân khoa Luật. Hỏi tại sao không có trường luật? Được trả
lời: “Vì không cần”!
Đây
là thói không cần luật pháp. Xã hội đề cao kẻ “dám nghĩ, dám làm” thì
cần gì luật! Họ còn khoe: chỉ cần trình độ biết làm bốn phép toán, là có
thể điều khiển guồng máy nhà nước xã hội chủ nghĩa!
Và
phân khoa Sư phạm, nay được gọi là trường Đại học Văn khoa Sư phạm, là
nơi thu hút đông đảo sinh viên nhất. Và các “trường Đại học” thường mang
thêm danh xung sư phạm là vì chỉ có mục đích đào tạo cán bộ giảng dạy
các môn ấy. Không ai nghĩ học xong là có thể được hành nghề tự do, chứ
không chỉ đi dạy học.
Vừa
thoát ra khỏi những hoàn cảnh sống tạm bợ trong rừng, trong thời chiến,
nay về lại Hà Nội, ai cũng nghĩ tới nhu cầu phải thay đổi cuộc sống để
có nền nếp lý tưởng tốt đẹp, chân thành, tử tế, nêu cao tinh thẩn nhân
bản, trong luân thường, đạo lý. Nhưng thực tại thì trộm, cướp, đĩ điếm
cứ gia tăng! Chỉ vì vẫn còn tình trạng quá nghèo. Và nay ai cũng thấy
chìa khoá của một sự thay đổi có tính cơ bản và lý tưởng phải là dựa
trên hai mũi nhọn: là nâng cao đời sống vật chất no đủ tối thiểu cho dân
và mở rộng, mở sâu nền giáo dục cho toàn dân. Chính quyền cũng nghĩ như
vậy nên dành ưu tiên dễ dãi cho việc phát triển trường Đại học Văn khoa
Sư phạm, bằng cách tiếp thu đông đảo sinh viên ghi danh. Nhưng giáo
dục, mà chỉ là tuyên truyền suông, thì tự nó đâu có thể giải quyết vấn
đề quá nghèo, quá khổ, quá thiếu thốn của dân!
Tuy
nhiên chính quyền cách mạng vẫn lo tập trung những giáo sư có trình độ
Đại học về trường Đại học Văn khoa Sư phạm. Nhưng nếu xét về trình độ
của các giáo sư Đại học thì cũng rất khó, vì khá nhiều người nổi tiếng
là có kiến thức Đại học đã vẫn từng được cách mạng sử dụng trong việc mở
các lớp Đại học tại Khu Tư, nhưng họ lại không có bằng cấp rõ rệt. Lúc
ấy, trong ban giảng dạy Đại học người ta chỉ thấy có hái người thật sự
có bằng cấp Đại học thực thụ là Nguyễn Mạnh Tường và Trần Đức Thảo. Thế
nên không thể loại trừ hai ông này. Nhưng trong thực tế, cả hai chỉ được
đánh giá và tin dùng như những giảng viên phụ, để dạy những môn không
quan trọng trong chương trình. Bằng cấp của hai ông chỉ để trang trí cho
ngành Đại học xã hội chủ nghĩa. Còn về môn lịch sử chủ nghĩa mác-xít
thì đó là một môn chính trong tất cả các khoa và ở trường nào học sinh
cũng phải học và thi môn ấy. Môn học “chủ nghĩa mác-xít” là môn có điểm
loại, môn này mà bị dưới trung bình thì bài thì các môn khác sẽ không
được chấm.
Lúc
được biết sẽ chỉ được trao cho dạy phần lịch sử triết học phương Tây
trước Marx, thì Thảo có hơi ấm ức. Vì tự hỏi trong ban giảng dạy, ai đã
đọc kỹ Marx? Nhưng sau được ông Mai giải thích thực tại, Thảo mới ngộ ra
là tư tưởng Marx chỉ xuất hiện mờ mờ, ảo ảo trong chủ nghĩa mác-xít.
Nhờ vậy mà Thảo bình tâm và vui vẻ giảng dạy cái phần lịch sử triết học
Tây phương dành cho mình. Trong giảng dạy, Thảo thường nhấn mạnh ở ngoài
lề môn dạy, trong khi đứng giảng, để nêu một điều: từ trước kia với
Platon hay Sócrate, rồi từ Descartes cho tới Husserl hay Hegeỉ ngày nay,
mỗi nhà tư tưởng ấy chỉ có một thời nổi bật như là rất hiện đại, nhưng
do tư tưởng con người biển hoá theo hoàn cảnh lịch sử và xã hội, nên
xuất hiện những nhà tư tưởng khác sinh ra sau, tư tưởng của họ phản ánh
sát thực tại hơn, nên hiện đại hơn… Ý của Thảo là tạo cho người nghe một
nếp suy nghĩ tìm hiểu về các hệ thống tư tưởng kinh điển với một tinh
thần phê phán, tức là phải có thái độ phóng khoáng, không dừng lại để
sùng bái một tư tưởng nào như là vĩnh viễn, là duy nhất đúng. Tứ tưởng
cũng phải biến hoả theo thời gian để nhường chỗ cho những tư tưởng sinh
sản ra sau nó, mới mẻ hơn, hiện đại hơn vì phù hợp với nguyện vọng của
con người hơn… Thảo muốn gây dựng một tầng lớp người trẻ có tư duy bớt
giáo điều cởi mở hơn, tôn trọng sự chuyển biến, chứ không chấp nhận dậm
chân tại chỗ như cố định, như thế cứ vùi đầu trong một ý thức hệ, để
trốn tránh những sụ thật phũ phàng đang chuyển biến không ngừng trước
mắt. Đôi lúc Thảo phấn khởi trước những câu hỏi của sinh viên… vì họ
muốn hiểu sâu và xa hơn những gì vừa được giảng dạy! Có khi Thảo gợi ý,
để thúc đẩy: Các, anh, các chị nên có sinh hoạt báo chí như tại các Đại
học văn minh hiện đại trên thế giới; Các anh, các chị phải có một tờ báo
riêng của sinh viên Đại học để nói lên khát vọng của mình... Chính từ
những gợi ý tự nhiên ấy, mà một số sinh viên đã vùng lên với tờ Đất Mới!
Nhưng vùng lên sao được… vì nó đã bị trấn áp ngay.
Thảo
có biết đâu lối giảng dạy mở rộng tầm nhìn, nâng cao tầm tư duy như vậy
đã thu hút sự chú ý của hai loại người không phải là sinh viên! Họ là
một số văn nghệ sĩ trí thức đang khao khát có được tự do nghệ thuật của
thời bình, không còn quá nhiều cấm kỵ của thời chiến, để nâng cao dân
trí. Họ nghĩ: nay về Hà Nội là trở lại thời bình thì phải được sống thật
với chính mình, được hướng về một tương lai đẹp đẽ, được hưởng thứ tự
do sáng tác mà mình mong ước! Một số họ đã đứng dậy, sau khi tự thấy đã
bị kìm kẹp, trong thời binh, một cách quá “lính tráng”: như trong “đội
ngũ văn nghệ quân đội” thời chiến.
Loại
người thứ nhì thì nguy hiểm hơn: đó là mấy cán bộ của các ban, các cục
tuyên huấn, các cục bảo vệ văn hoá tư tưởng”. Mấy ông “quan công an văn
hoá” này trong thực tế là nhũng ông cảnh sát chỉ rõ con đường một chiều
của tư tưởng chính thống của… “đảng”. Mấy ông cảnh sát tư tưởng ấy không
chấp nhận quyền phê phán đối với tư tưởng một chiều chính thống và duy
nhất. Và các ông ấy không bao giờ quên những báo cáo, những hồ sơ đen và
mật về đối tượng Trần Đức Thảo, một kẻ bị đánh giá mơ hồ là “có vấn đề
về mặt tư tưởng”, dù kẻ ấy đã cố tỏ rõ có lòng thành muốn về với cách
mạng, muốn sống trong cách mạng để học tập! (Ấy là Thảo nói thế, nhưng
“đảng” vẫn không tin!).
Trước
một Hà Nội đang nhọc nhằn lột xác, tuy luôn luôn bị dằn vặt bởi những
tin đồn gian xảo, vu khống, Thảo cố giữ thái độ bình tĩnh, khách quan,
vô tư, cố tỏ ra có thành tâm để bảo vệ và bênh vực cách mạng. Rằng tất
cả những gì khó coi, gây khó chịu, đôi khi ai cũng thấy đó là sai lầm…
thì tất cả đều là do hoàn cảnh bất đắc dĩ và thiếu kinh nghiệm của cán
bộ, chứ chúng không hề mảy may xuất phát từ tư tưởng cách mạng: Marx đã
có nói hay viết như thế bao giờ đâu! Đấy chỉ là cái thói “bảo hoàng hơn
vua” của những con người “hợm hĩnh, tham lam, tuỳ tiện” muốn làm cách
mạng ữiệt để và ngay lập tức! Bởi các hình thức kìm kẹp, đàn áp ấy không
phải là của một thế giới đại đồng! Thảo biết chắc, nếu cứ duy trì đầu
óc giáo điều, thói quen tuỳ tiện, cứ tưởng mình có dư khả năng làm được
bất cứ điều gì, trong bất cứ hoàn cảnh nào… thì cái ngày mai tươi đẹp ấy
nó sẽ vẫn như ngày hôm nay. Nghĩa là nó sẽ cứ mò mẫm, rị mọ, rối bời…
mà không thể có gì mới, nghĩa là nó sẽ vẫn mù mờ, tăm tối, nguỵ biện.
Những đầu óc kiêu ngạo thường phải gồng mình lên mà nói dối, để chống đỡ
mọi phản biện có lý và sát với hiện thực. Nghĩa là tình hình sẽ vẫn
lủng củng, luộm thuộm như cũ! Nhưng Thảo luôn luôn đưa ra kết luận để
cho mọi người có được sự lạc quan và tin tưởng vào cách mạng. Vì trong
lịch sử loài người, có một quy luật bất di bất dịch là với thời gian
luôn luôn có sự đào thải! Còn nhanh, hay chậm là do dân trí. Tư tưởng
cách mạng rị mọ của con người hôm nay, sẽ lần lượt bị đào thải bởi những
tư tưởng cách mạng mới mẻ theo cách khác của ngày mai. Phải hi vọng thế
mà sống.
-
Những gì mà người ta thấy nó là vô lý, không muốn nó tồn tại thì rồi
sớm hay muộn, nó cũng sẽ bị đào thải mà thôi. Chỉ có cái gì được mọi
người thành tâm chấp nhận thì mới là bền vững lâu dài. Vì cái đó được
quần chúng coi là có lý.
Tuy
nhiên, là một nhà triết học, Thảo rất bực mình trước những cán bộ muốn
tự che giấu sai lầm và dốt nát bằng cách mở miệng ra là cứ thuộc lòng
câu: “Marx đã nói… Lenin đã nói… Stalin đã nói… Thảo khuyên mọi người
nên “lấy kinh nghiệm thực tiễn mà sửa chữa sai lầm, chấn chỉnb tổ chức,
cải tiến chính sách”.
Thảo
còn có một bí quyết làm cho giới Đại học, cả ban giáo sư, cũng như các
sinh viên, phải quý trọng, coi Thảo như một cánh của mở ra thế giới bên
ngoài: bởi Thảo thỉnh thoảng trưng ra cho họ thấy vài tờ bảo Pháp, có
hình ảnh thời sự như tờ Le Nouvel Observateur, tờ L’Humanité, tờ Le Monde hoặc là tập san Les Pensẻes Modemes,
mà bên toà đại diện Pháp thưởng ưu tiên cho Thảo mượn. Vì giới ngoại
giao nói tiếng Pháp ở Hà Nội biết Thảo là một trí thức đã một thời danh
tiếng, nên thường ưu tiên cho Thảo mượn nhiều sách báo tiếng Pháp. Chính
nhờ những tờ bảo nước ngoài ấy mà giới trí thức Hà Nội lúc ấy, cũng như
cả về sau này, có cơ hội đọc được, thấy được cả hình ảnh vả những lời
bình bàn của thế giới, về cái chết của Stalin, mà người cộng sản ở châu Á
luôn coi như một vị thánh tổ vĩ đại của cách mạng, ngang hàng với
Lenin.
Rồi
là cả về sự chuyển mình của Đông Âu, tử Balan, cho tới Hungari, từ
Varsovie, tới Budapest… Tất cả những thõng tin của phương Tây ấy đều đã
gây ra những tiếng vang dội âm ỉ trong đầu óc của giới trí thức ở Hà
Nội, và rồi nó trở thành một thứ “tội lỗi” của Thảo vì là nơi phát xuất
những thứ thông tin bị cấm!
Đối
với dân Hà Nội cũ, cũng như với ông bố của Thảo, là người có xu hưởng
thường xuyên chê bai, buộc tội cách mạng, buộc tội cộng sản, Thảo luôn
luôn bảo vệ cách mạng, bênh vực cộng sản với lập luận rằng có những việc
làm, có những chính sách không hay, không đẹp đang diễn ra trước mắt,
những cái đó nó chẳng có liên quan gì tới tư tưởng cách mạng hay cộng
sản chút nào cả! Những cái đó không có gì là cộng sản cả! Người không
biết, hay chỉ biết võ vẽ về cách mạng và cộng sản, thì thường tưởng rằng
đã là cách mạng hay cộng sản thì cứ nghĩ mọi sự đều là của chung. Kể cả
cái riêng tư thầm kín nhất. Đây là một sự hiểu lầm rất ấu trĩ, rất tai
hại, mà mấy ông cán bộ “cộng sân” i tờ cũng thường mắc phải!
Khi
đưa cả một guồng máy cách mạng ồ ạt về tiếp thu Hà Nội cùng một lúc,
thì đương nhiên là đã tạo ra một nhu cầu lớn về nhà ở. Mà Hà Nội làm sao
có đủ nhà để cấp cho mỗi gia đình cách mạng một căn! Thế nên phải có
lệnh cưỡng bách, trưng thu! Sự thiếu hụt ấy không phải là do tư tưởng
cách mạng hay cộng sản gây ra, mà là do những người điều khiển guồng máy
nhà nước cộng sản gây ra. Họ không biết rằng nếu mang cả guồng máy cách
mạng về Hà Nội ngay một lần, thì đương nhiên sẽ không đủ chỗ ở cho tất
cả các cán bộ. Nên họ quyết định chỉ tuần tự đưa về Hà Nội một thành
phần tối thiểu để tiếp thu đúng các cơ sở của chính quyền cũ bỏ lại, thì
đâu cần tới sự ồ ạt trưng thu cướp đoạt nhà cửa của dân! Sai lầm to lớn
gây tai tiếng cho cách mạng là ở chỗ đó. Bởi nếu cứ giữ đại đa số guồng
máy cách mạng ở ngoài bưng, cứ tạm để các cơ quan ở nhà tranh, nhà lá…
ngoài bưng, chờ cho tới khi cách mạng xây dựng xong các cơ ngơi, cơ sở
cần thiết rồi mới mang cơ sở nhân sự về… thì tốt đẹp và hợp lý biết bao.
Mà nhân dân mến phục biết bao! Mà còn là tránh tạo ra cơ hội cho cán bộ
nổi lòng tham lam, tranh giành, vơ vét và dễ bị hủ hoá thành tham
nhũng!
Thảo
cho rằng trong lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Mười ở Nga, tuyệt đại đa số
những vấp váp, sai lầm và tội ác đã xảy ra không phải là do tư tưởng
của Marx mà là do sự vụng về, ngu dốt và tuỳ tiện về mặt tổ chức và hành
động của các cấp cán bộ, từ Stalin lãnh đạo trở xuống, cho tới các cán
bộ thừa hành. Bây giờ tại Hà Nội đang lột xác này, ahững sai lầm ấy lại
đang tái diễn y như vậy, nền đã gây tai tiếng cho cách mạng! Phải đi sát
nhân dân, hiểu rõ nỗi khổ và suy nghĩ của dân thì mới thấy là lý luận,
lý thuyết và ngay cả ý thức hệ đều “có vấn đề”, có quá nhiều mâu thuẫn
giữa lời nói và việc làm.
Nhưng
phía lãnh đạo thì vẫn tin tưởng và hứa hẹn rằng từ những bước nhọc
nhằn, đau khổ ấy sẽ đưa tới ngày mai tươi sáng, sẽ dẫn tới thế giới đại
đồng! Tất cả chỉ vì những người lãnh đạo cách mạng xưa và nay rất giỏi
về đánh và phá, nhưng lại tỏ ra tồi tệ, lúng túng về dựng và xây! Vì là
đang dựng và xây theo một mô hình chỉ thấy trong mơ ước chứ chữa hề thấy
tận mắt bao giờ! Đúng ra là chỉ thấy trong tưởng tượng một cách đại
khái, qua nhũng chỉ đạo áp đặt của ban cố vấn Trung Quốc! Chính “bác Hồ”
cũng đã căn dặn: phải tuân thủ sự chỉ đạo của ban cố vấn. Này thì dựng
và xây đang đặt ra nhiều vấn đề thật là chi tiết và thực tế. Đấy là hành
động mò mẫm theo một lý luận thiếu thực tế, nên nó trái với ước mơ,
trái với điều mà mọi người mong chờ.
Thảo cố thuyết phục ông bố:
- Bây giờ là cách mạng chiến thắng! Ba nên có chịu đụng, để tránh phải đối đầu căng thẳng.
-
Ba không chịu đựng thì cũng chả biết làm gì! Ba buồn không phải vì mất
nhà cửa vì có những người còn mất nhiều hơn, mất những cơ ngơi, tài sản
lớn hơn gấp bội. Nhưng ba buồn vì thấy tương lai tăm tối của con. Ba
buồn vì biết thành phố Hà Nội một thời đẹp như một bài thơ này từ nay sẽ
mất, sẽ chết, chết vĩnh viễn!
Ngày
tháng trôi qua, Hà Nội càng trở nên chật hẹp: đường phố càng ngổn
ngang, chen chúc, luộm thuộm. Những biệt thự xưa kia thoáng mát với
những vườn có xanh tươi bao quanh, nay được cắt ra chia cho nhiều gia
đình. Mỗi gia đình sử dụng một cách: kẻ cuốc lên trông chút rau; kẻ quây
phên cót làm nơi nuôi gà, nuôi lợn; kẻ che mái lá làm nhà bếp riêng!
Có
những gia đình ở chung một căn nhà mấy tầng, họ không có vườn để được
chia. Nhưng mỗi cửa sổ là một không gian có thể khai thác: họ dùng ván
để khơi ra một thứ ban-công chừng nửa thước để đặt lên đó một vài chậu
cây cảnh, cây ớt, nhưng cũng có khi là chậu nước hay chai lọ của nhà
bếp. Mỗi biệt thự, mỗi căn nhà chứa đựng nhiều gia đình, nay nó bị biến
hình, biến dạng thành méo mó, theo từng góc, nhưng về mặt tập thể nó y
như là nhà vô chủ: không ai thấy có bổn phận bảo trì, sửa chữa hay sơn
phết lại khi đã quá cũ kỹ, mốc meo!
Nói
chung thì cuộc sống vất vả ở Hà Nội, về mặt phố phường, nhà cửa và sinh
hoạt, thì từ ngày cách mạng về, nó ngày càng xuống cấp! Con người vì
càng ngày càng phải chen chúc, tranh giành nên ngày càng mất đi tính
tình nhã nhặn, lịch sự, lương thiện. Con người Hà Nội ngày càng thiếu đi
sự vui vẻ, yêu đời, càng vắng tiếng cười hôn nhiên. Dần dà con người Hà
Nội hôm nay trở nên cục cằn, thô lỗ đến mức lưu manh, thô bạo, ăn nói
đểu cáng, khác xa với những ứng xử lịch sự, chân thật, chất phác của
người Hà Nội thủa nào.
Kẻ
thiếu suy nghĩ thì đổ hết lỗi cho cộng sản! Sự thật đó là lỗi, là tội
của một thiểu số cán bộ cộng sản cầm quyền, vừa tham lam, vừa ôm đồm,
vừa kiêu ngạo mà không hề có kinh nghiệm: họ muốn “cách mạng hoá” ngay,
muốn có ngay tất cả các thứ “tiên tiến” cùng một lúc! Nhưng kết quả chỉ
là cả một mớ tơ vò rắc rối, xấu xí gỡ ra không nổi, mà giải quyết cũng
không xong!
Tình
hình chung bên ngoài Hà Nội cũng không khá hơn. Vì sau chiến thắng Điện
Biên, guồng máy cải cách ruộng đất lại tiếp tục chuyển động, để bước
vào “đợt năm”! Nhưng việc triển khai không “dễ” như trước khi chiến
thắng. Bởi bây giờ ở một số nơi, con cái một số địa chủ từng có công
trong chiến thắng, từng mang thương tật trên người, nay nghe tin bố mẹ ở
nhà bị đấu tố, những người con chiến thẳng ấy đã phẫn nộ sách súng trở
về liều mạng can thiệp!
- Thằng nào, con nào đã tố khổ, đã hạch tội, đã hành hạ bố mẹ tao tới chết?
Vài
trường hợp súng đã nổ! Những kẻ từng hùng hổ tố oan, tố điêu, tự biết
tội tày trời của mình nên đã phải bỏ làng bỏ xã mà chạy! Và bọn chúng
không được luật pháp bảo vệ! Trước những bước “cải cách” quá trớn, sự
phẫn nộ có tính tập thể thành hình. Dư luận thì thắc mắc: một khi thanh
toán hết các cán bộ có vấn đề lý lịch “thực dân, phong kiến” thì xã hội
sẽ ra sao? “Đảng”, nhà nước sẽ ra sao? Một khi cách mạng ta tuân thủ rập
theo khuôn mẫu của cách mạng Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ ra sao? Không
ai dám công khai trả lời những thắc mắc đó. Nhưng trong đầu thì ai cũng
đã có những lời giải đáp rất rõ rệt!
Chỉ có Thảo là dám nói thẳng.
Thảo
bảo tình hình này là cánh tay phải đang cố tình chặt đứt cánh tay trái!
Đó là nguy cơ những cán bộ cách mạng chủ chốt có vấn đề lý lịch, nay lo
sẽ bị loại bỏ! Là nguy cơ bao nhiêu công lao đóng góp của thành phần
không cộng sản, tức là của tuyệt đại đa số nhân dân, nay đang bị chối
bỏ! “Đảng” làm như vậy là cướp công của nhân dân, là sẽ dần trở thành
đứa con đẻ kiêu căng của “đảng” cộng sản Trung Quốc!
Những
“ông quan cách mạng” của các cục “bảo vệ” văn hoá, tư tưởng của “đảng”
cũng không dám công khai phản bác và kết tội Thảo! Họ chỉ nói Thảo là
một kẻ ngông cuồng, một tên khùng! Nhưng họ cũng như dư luận lại thầm
nghĩ tên khùng này rất nguy hiểm, vì những gì nó nói ra đều có lý! Cũng
đáng lo ngại những gì nó cảnh báo. Và ai cũng ngầm cảm phục “tên khùng”
ấy! Nhưng không ai dám bênh nó, tới gần nó, làm thân với nó! Vì sợ bị vạ
lây.
Nhưng
rồi từ đấy một huyền thoại bắt đầu thành hình. Trí thức, văn nghệ sĩ
thích thú ngầm tìm gặp Thảo để nói chuyện, để được nghe những lời tiên
tri của tên khùng! Thảo cung thích thú được thủ vai trò của một tên
khùng được kính nể, một thằng khùng hay nói thẳng vì không biết sợ! Nói
khơi khơi những gì người khác nhìn thấy mà không dám nói ra! Bởi thế mà
“thằng khùng” lại được mọi người thông cảm, nên nó cám thấy bớt cô đơn!
Vì sự thật là trong xã hội xã hội chủ nghĩa, vẫn còn có những người
không hèn, vẫn còn giữ được tư duy độc lập.
Hồi
ở chiến khu, để tỏ lòng trung thành với chế độ, Thảo ý tứ không bao giờ
thổ lộ điều gì phê phán về chính sách với người bên ngoài “đảng” hoặc
với những “đảng viên” cấp thừa hành. Thảo chỉ trình bày một cách xây
dựng, từ tốn những gì là sai trái, xấu xa với vài cán bộ cấp cao, thân
cận giới lãnh đạo mà thôi. Nay khác: Thảo liều lĩnh nói thẳng ra những
trăn trở với những ai muốn nghe.
Thảo
bỗng vui mừng trong lòng khi nhận thấy mình đang trong lúc đi tìm ra
con đường dẫn tới nhũng sự thật tốt đẹp mà loài người mơ ước, tức là tới
chân-thiện-mỹ, tuy là thật khó. Vì đã có ai thấy được chân-thiện-mỹ bao
giờ đâu!
Trước
mất mọi người, xã hội đang sinh hoạt theo một đường hướng toàn là mò
mẫm, nhưng chính quyền lại cứ khăng khăng đó là những chính sách đúng,
vì xuất phát từ những tư tưởng duy nhất đúng. Cái đúng ấy thật là vất vả
để chứng minh, để bảo lưu, bảo vệ. Vì nó đầy mâu thuẫn trong lý luận.
Vì nó làm mọi người khó sống.
Lúc
ấy, Thảo nhận ra là chính quyền đang rất lúng túng, nhưng cứ phải hô to
và hứa hẹn. Còn chính mình thì cũng đang bị chao đảo, không biết vịn
vào đâu để tin tưởng, không biết phải làm gì để thoát ra khỏi tâm tư bế
tắc, trong đầu vẫn bị ám ảnh bởi những sai trái, tội ác của chính sách,
cải cách ruộng đất, mà mình đang là một thứ đồng loã, theo đuôi!
Kể tới đó bác Thảo lắc đầu than:
-
Lúc đó mọi người đều chỉ còn tin vào một phương cách sống, là phải biết
xoay sở, phải biết tuỳ tiện chui luồn mà sống. Những sự khôn khéo,
những mưu mẹo gian manh đã bóp méo những quy định, những luật lệ, để
sống sót trong thời buổi đầy khó khăn hạn chế, cấm cản: chợ đen, chợ đỏ
phát triển ra trò… Khẩu hiệu thực tiễn là “cái khó nó bó cái khôn”, phải
mưu trí, lanh lợi, phải tháo vát, nghĩa là phải biết dối trá để mà…
sống!
Nghe kể tới đó, tôi bèn hỏi:
- Sống khó khăn như thế thì chính quyền lúc đó có chao đảo không?
-
Trong đầu ai cũng chao đảo, nhưng bố ai dám nói ra. Thật sự là lúc đó
họ chỉ biết nhắm mắt sao chép nguyên bản những gì đang được thi hành ở
Trung Quốc! Lúc đó những gì đã được làm ở Trung Quốc là nhất. Mà thực ra
là ở Trung Quốc lúc đó cũng là thời kỳ trì trệ về kinh tế và xã hội.
Mao rất lúng túng trước những bế tắc về mọi mặt nên đang ra sức thử
nghiệm những mô hình kinh tế phải nói là ấu trí thô thiển mà cứ được
tâng bốc lên là tiên tiến. Cái đầu của Mao lúc đó đang biến đổi từ thực
tiễn đấu tranh, sang giai đoạn phát triển cách mạng hoang tưởng “đại
nhảy vọt”, “hiện đại hoá”, “gang thép hoá” cả nước! Mao một mặt tìm cách
củng cố địa vị, nghi ngờ và cảnh giác đối với mọi người xung quanh, kể
cả với người mà chính Mao đã chuẩn bị cho kế vị mình là Lâm Bưu, nên đã
tìm cách loại trừ chính tay chân của mình. Một mặt chuẩn bị kế hoạch
nhảy vọt về kinh tế, lập chương trình nắm vững tư tưởng quần chúng băng
một cuộc cách mạng văn hoá… “Bọn trí thức luôn luôn là bọn bất mãn, đây
là đối tượng trừng trị của cách mạng”, Sự thật là lúc ấy ở Trung Quốc
đang tạo thêm những bước khủng bố tinh thần dân chúng để bước dần tới
thời kỳ Mao mạt.
-
Nhìn sang Trung Quốc tôi thấy tình hình bế tắc như vậy, thế mà “đảng”
và nhà nước ta thì cứ nhắm mắt sao chép theo, nên tôi thật sự thất vọng,
hoàn toàn thất vọng, nhưng vẫn không dám có phản ứng mạnh. Sùng bái một
mẫu mực như thế thì thật là không còn lối thoát ra khỏi vũng lầy hận
thù và chiến tranh. Trong tâm tư thất vọng từ chiến khu về, rồi lại thấy
thêm sự bất lực của chính quyền trước một xã hội mới không no đủ và
không ổn định, rất dối trá về mặt tư tưởng. Bởi đảng và nhà nước không
biết, không dốc toàn lực ra kiến thiết đất nước, mà vẫn duy trì nỗ lực
mở lại chiến tranh, vẫn lưu ngũ quá nhiều binh lính… Thế nên, chẳng thấy
ấm no ở đâu cả, ngoại trừ tầng lớp cán bộ cấp cao, chỉ thấy “đảng” và
nhà nước cứ kiêu căng tự đắc, vì quả tin tưởng vào kinh nghiệm và sự trợ
giúp của cách mạng Trung Quốc, mà tôi biết rõ là nó cũng đang rất bế
tắc. Chính đang trong tâm tư lo buồn như thế, mà một số anh em văn nghệ
sỹ trẻ của cách mạng đã tìm tới tôi và đề nghị tôi giúp họ, bằng cách
viết cho họ vài bài báo! Tôi đã mừng rỡ tường rằng lớp trẻ này sẽ là
những người tiên phong mở đường cho đất nước thoát ra khỏi những bước mò
mẫm bế tắc này. Nào ngờ họ đã lôi tôi vào một cuộc phiêu lưu lớn, để
rồi kết thúc một cách nhục nhã! Đó là vụ Trần Đức Thảo bị gán cho cái
tội làm đầu não của cái gọi là bọn “Nhân Văn - Giai Phẩm”!VIII
Chương 9.Phản biện là hướng nghiên cứu mới
Đầu
óc người dân lúc ấy thường xuyên bị ám ảnh bởi nỗi sợ bị quy cho một
tội rất mơ hồ là tội “phản cách mạng”. Đồng thời họ bị khuất phục bởi
guồng máy tuyên truyên tối ngày đề cao lãnh tụ và đảng “không bao giờ
sai”, để rồi bắt buộc phải sùng bái lãnh tụ, sùng bái chủ nghĩa, sùng
bái đảng. Sùng bái ấy là vì sợ, là phải chấp nhận điều ác. Sùng bái như
thế là đẩy con người xuống hàng muông thú, vì nó làm con người mất tự
chủ, mất tự do.
Sự sùng bái vì sự sợ hãi là nguồn gốc sâu xa… đã dẫn dắt con người tới chủ nghĩa ngu tín (obscurantisme) và cuồng tín (fanatisme)…
Từ đó, người dân bị sống trong cái vòng lẩn quẩn: vì ngu tín, vì cuồng
tín, nên mất hẳn tự do, nên ngả theo xu hướng sùng bái! Sùng bái cúi đầu trước sự hãi và tội ác là tự hạ mình thành dụng cụ, thành kẻ nộ lệ của những tín điều hoang tưởng…
tức là đã đẩy mình ra rất xa khỏi chân-thiện-mỹ!, Con người ngu tín,
cuồng tín như thế là con người có mắt như mù, có đầu mà mất lý trí. Con
người như thế là đã bị nô lệ hoá chứ không phải là đã được giải phóng!
Để
chứng minh rõ nguồn gốc sâu xa của cái sai, cái khổ xuất hiện trong đời
sông con người, Thảo bắt đầu thể hiện trong trí tưởng một sơ đồ phát
triển từ sự hình thành của ý thức: từ cử chỉ… rồi tới tiếng nói… rồi tới
khả năng truyền thông, lý luận, để rồi đẩy mạnh lý luận qua thực tại,
để bước tới một giai đoạn tư duy lúc thì theo hình thức, lúc thì theo
biện chứng lúc thì thật sát với thực tế, lúc thì chỉ là không tưởng! Đấy
là bắt đầu bước có sai lầm trong trong phương pháp tư duy, rồi từ đó
bước tới sai lầm trong chính sách trong hành động…
Đấy
là cả một quá trình tư duy chưa thật vững, nên đã dẫn tới một phương
pháp hành động tuỳ tiện và một phương hướng phiêu lưu, không tưởng chỉ
vì thiếu nền tảng hiện thực!
Do
thiếu phương tiện ghi chép, lưu trữ, việc phác hoạ lộ trình quá độ hình
thành sai lầm trong tư duy ấy phải vận dụng tối đa trí nhớ. Suy nghĩ kỹ
cho thật nhuần nhuyễn, thật ăn khớp với thực tại! Rồi phải vắn tắt ghi
ra, viết lại, rồi thì phải đọc lại, suy nghĩ thêm, rồi lại sửa, lại ghi,
lại viết, lại sửa tiếp… Vì thế mà Thảo rất bận rộn và thấy thời gian
luôn luôn thiếu.IX
GIAI CẤP MỚI
Có
một hiện tượng đáng chú ý là trong cuộc sống càng thiếu thốn, thì con
người càng nghĩ tới quyền lợi cá nhân, tới tư sản nhiều hơn là tới vô
sản và quyền lợi tập thể. Bởi quyền lợi tập thể đã hạn chế, ức chế quyền
sống cá thể. Mà ngân sách nhà nước xã hội chủ nghĩa dành cho phúc lợi
của mỗi cá thể của công dân thì rất là hạn chế, hầu như không đáng kể.
Trừ ra và trái lại, thì đã có một ưu tiên về mặt phúc lợi dành cho diện
đảng viên, nhất là cho cấp lãnh đạo! Đảng viên trở thành một thứ giai
cấp mới có nhiều đặc quyên, đặc lợi hơn nhân dân. Đảng vẫn có thái độ,
dù là tạm thời, ngoảnh mặt đi trước những nỗi quả khổ cực của nhân dân,
cho rằng nhân dân phải biết hi sinh, phải chấp nhận gian khổ… Từ đó nảy
sinh một vấn đế mới. Phải chăng trước măt đang hình thành một giai cấp
đầy đặc quyền, đặc lợi, được ưu tiên hưởng thụ thành quà cách mạng, và
một giai cấp có nghĩa vụ gánh vác mọi hi sinh? Thắc mắc này bỗng lóe lên
như một sự thật không thể chối cãi, mà cho tới nay chưa ai dám nêu ra
công khai: một giai cấp thống trị mới đang hình thành! Giai cấp ấy đang
giữ độc quyền chính trị, trong khi, người dân trở thành giai cấp bị trị,
không được ai che chở, không có cơ chế nào bảo vệ!
Vì
vậy mà vấn đề cần phải nêu ra, cần phải cứu xét trong một xã hội xã hội
chủ nghĩa là: liệu có thể xoá bỏ giai cấp? Liệu có thể tồn tại một xã
hội không có giai cấp như mong muốn? IX
Chương 10.Hai chuyến di chuyển “đổi đời”
SAIGON
Mới
đặt chân xuống cái thủ đô của miền Nam này, mọi sự đã làm tôi kinh
ngạc. Qua bao nhiêu năm chiến tranh gian khổ mà sao Sài Gòn nó lại khang
trang hiện đại như vậy? Tôi cứ ngỡ cả miền Nam đói khổ vì bị Mỹ - Nguỵ
bóc lột đến nỗi miền Bắc đã phải “cắn hạt gạo làm tư” để cứu giúp miền
Nam cơ mà… Và mọi người ở đây sao mà nói năng cởi mở thoải mái quá vậy?
Ngay những cán bộ của “đảng” ở đây cũng có thái độ tự do quá. Họ đãi
đẳng tôi, họ giễu cợt tôi, coi tôi cứ như anh mán, anh mường ở làng mới
được về thành phố. Phải nói thẳng ra là có một điều của Sài Gòn đã làm
tôi bàng hoàng đến cùng cực. Đó là những bài hát của một anh chàng nhạc
sĩ trẻ của miền Nam, nói đúng ra là của “Mỹ-Nguỵ” chứ không phải của
“đảng”. Tên anh ta là Trịnh Công Sơn. Các bài hát của anh ta mang nỗi
niềm day dứt, oán trách chiến tranh. Cứ như anh ta khóc than thay cho cả
dân tộc ở cả hai miền Nam Bắc. Giữa những năm tháng chiến tranh một mất
một còn ác liệt như thế mà sao anh ta dám cất lên tiếng kêu than như
vậy. Những lời ca của các bản nhạc đã làm tôi xúc động bồi hồi không cầm
được nước mắt. Những lời của những bái hát ấy đã lay động tâm hồn tôi.
Phải thú nhận là trong đời tôi, có hai lần bị thúc đẩy phải thoát khỏi
thái độ sợ hãi đến hèn nhát đã ngự trị trong đầu óc bao trí thức, văn
nghệ sĩ… của Hà Nội. Lần thứ nhất là do nhà thơ trẻ Trần Dần, khi anh ta
tới mời tôi tham gia vào nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm! Lần thứ nhì là khi
được nghe mấy bài hát thẩm thía của Trịnh Công Sơn! Đấy là thứ âm nhạc
phát ra từ trái tim của dân tộc. Những lời ca đau đớn trước cuộc chiến
tranh của “một lũ điên”, của câu hỏi bão lòng: “tại sao một đất nước đói
nghèo mà vẫn còn chiến tranh”… Những lời ca như thế đã lôi kéo tôi ra
khỏi mặc cảm sợ hãi vì đang bị kìm kẹp, đang bị coi như “kẻ có vấn đề”.
Dám cất lên tiếng hát phản chiến, giữa lúc cả hai phía đang đam mê “thề
phanh thấy, uống máu quân thù” như thế, chứng tỏ Trịnh Công Son là một
con người đũng cảm, không sợ ngục tù… Không hiểu sao chính quyền miền
Nam lại để cho anh ta tự do sáng tác những bài ca làm mất tinh thần
chiến đấu như thế? Điều này khiến phải suy nghĩ tới trình độ dân chủ rất
khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc. Một chế độ để cho người nghệ sĩ được
tự do cất tiếng hát lên những nỗi niềm như thế, không phải là một chế độ
tồi tệ. Xét chung thì miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt. Cả giới
trí thức lẫn dân chúng của miền Nam đều bàn chuyện chính trị cởi mở,
phê phán lãnh đạo và đảng rất tự nhiên. Ở miền Bắc thì không thể. Miền
Bắc là cái lò của giáo điều, của chiến tranh. Không có chỗ cho một Trịnh
Công Sơn, điều đó dễ hiểu. Vì thế tôi không ngạc nhiên khi nghe tin
Dương Văn Minh đã ra lệnh buông súng… và đã được nghe theo. Vì có lẽ dân
đã thấm mệt với bao nỗi đau khổ, chết chóc. Tôi cảm ơn miền Nam vì đã
sinh sản được một Dương Văn Minh, một Trịnh Công Sơn. Người nhạc sĩ trẻ
ấy đã góp phần vào giờ phút thiêng liêng buông súng, thôi băn giết nhau…
Đấy thật sự là một anh hùng của hoà bình, chính anh ta đã nêu gương can
đảm cho Trần Đức Thảo này! Chi tiếc rằng người cán bộ sĩ quan của “bộ
đội cụ Hồ”, khi tiến vào dinh Độc Lập gặp Dương Văn Minh, thì đã có thái
độ thô bạo rất đáng tiếc… Riêng tôi thì thú thật là tôi rất cảm ơn cái
lệnh buông súng ấy. Vì nó đã giải thoát được hàng vạn thanh niên miền
Bắc ra khỏi rừng núi đầy bom đạn và muỗi, mòng… Vì nó đã cứu hàng vạn
thanh niên với sổ phận “sinh bắc, tử nam”! Vậy mà cách mạng đã có chính
sách miệt thị, người sĩ quan bộ đội ấy đã có cách hành xử thô bỉ quá kém
cỏi với một lãnh đạo chính quyền miền Nam như thế!
- Bác nói kém cỏi là như thế nào?
-
Tại vì cách mạng đã hứa với nhân dân, hứa với anh em kháng chiến miền
Nam, hứa với quốc tế là sẽ giải quyết chiến tranh bằng chính sách dân
chủ hoà bình, hoà giải, hoà hợp dân tộc… sau khi có ngưng bắn. Sự tôn
trọng những cam kết, tiếp theo việc chính quyền Việt Nam Cộng Hoà ra
lệnh buông súng, thì sau đó đáng lẽ phải có nghi lễ ký kết hạ quốc kỳ
VNCH, kẻo quốc kỳ Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam lên, rồi là bàn giao chính
quyền cho người của chính phủ lâm thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam đúng
theo những cam kết có ghi trong hiệp định hoà bình Paris… Như vậy thì
nước ta đã tránh được cái cảnh tiếp thu thô bạo, tránh được mười năm cải
tạo tàn nhẫn xã hội miền Nam, tránh được sự đánh lừa anh em kháng chiến
miền Nam… Với chính sách ngay thẳng, không trả thù theo tinh thẩn hoà
giải, hoà hợp dân tộc… thì nước ta đã tránh được thảm cảnh thuyền nhân,
tránh được mười năm cải tạo quá tàn nhẫn ở miền Nam, đã làm đất nước
kiệt quệ, để rồi cuối cùng sau này đã phải lạy van Mỹ bỏ cấm vận, phải
bãi bỏ hoàn toàn nền kinh tế xã hội phủ nghĩa, để chấp nhận nền kinh tế
thị trường của chủ nghĩa tư bản, như đang thấy! Tiếc thay trong giây
phút phút lịch sử vô cùng thiêng liêng trọng đại, chính thức chấm dứt
cuộc chiến tranh huynh đệ này, thì người sĩ quan “bộ đội cụ Hồ” ấy đã có
ứng xử kém cỏi hung hăng quát nạt, nhục mạ cả ban ỉãnh đạo chính quyền
miền nám, gọi Dương Văn Minh là “mày” và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu,
chứ không cho ngồi… để nhận cái lệnh nhục nhã là “phải đầu hàng vô điều
kiện”. Sự nhục mạ này, với chính sách tù cài tạo… đã làm cho nhiều công
viên chức sĩ quan và binh lính miền Nam đến nay vẫn chưa nguôi hận, thề
không đội trời chung với “Việt cộng”, với cờ đỏ sao vàng! Và họ còn thù
cả Dương Văn Minh vì đã chịu cúi đầu lãnh nhục. Có lẽ biết trước như
vậy, nên một số tướng tá quân đội miền Nam đã tự sát chứ không chịu đầu
hàng cách mạng! Việc kẻ thắng trận nhục mạ kẻ bại trận là việc làm tầm
thường quá dễ, nhưng kẻ thắng trận mà biết chinh phục lòng tôn kính của
kẻ hại trận bằng tấm lòng quảng đại, bằng trình độ trí tuệ đậm nét vãn
minh văn hoá… thì đó là một việc làm rất khó. Trường hợp nước Đức thống
nhất sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Đức sụp đổ, mà đã không có
cảnh nhục mạ, trả thù, cải tạo như ở ta… mà rồi còn cho phép nhiều nhà
chính trị cộng sản của Đông Đức cũ được trọng dụng, có người đã trở
thành lãnh đạo của nước Đức tự do thống nhất… Hiện tượng sáng ngời này
đã xảy ra là do dân tộc Đức có trình độ dân chù, có vốn trí tuệ và văn
minh văn hoá cao chứ không kém cỏi như ở ta. Trong trường hợp nước ta,
việc ứng xử thô bỉ như vậy đúng vào giây phút chiến tranh chấm dứt như
thế, đã làm cho sự tuyên truyền chính sách đại nhân, đại nghĩa “hoà
giải, hoà hợp dân tộc” bỗng nhiên tự nó tố cáo nó là một quỷ kế để đánh
lừa kẻ thù buông súng, chứ không phải là một sự dàn xếp nhân bản cao
thượng giữa anh em trong một nhả. Mấy anh em cách mạng miền Nam còn than
phiền với tôi về việc có những bộ đội miền Bắc, khi tiếp quản Sài Gòn,
đã nhục mạ dân chúng về tội “ăn mặc lố lăng, bắt họ phải cạo sơn móng
tay, bắt cắt quần ống loa” … Rồi lại còn cảnh trả thù cả người đã chết
bằng cách đập phá nghĩa trang của chế độ “nguỵ” nữa! Thải độ ấy thật là
thô lỗ quá trớn. Thú thật, khi nghe tin Dương Văn Minh ra lệnh buông
sủng thì tôi vô cùng vui mừng và biết ơn. Nếu ông ta quyết tâm tử thủ
như một số tướng lãnh “nguỵ” chủ trương, thì chiến tranh còn kéo dài và
ác liệt hơn nữa. Trận đánh Sài Gòn sẽ tạo thêm cảnh đổ nát với sông máu,
núi xương… chứ không có cảnh êm thấm mà vào dinh Độc Lập dễ dàng đẹp đẽ
như vậy. Chính vì những hành động thô bạo của kẻ chiến thắng như thế mà
“đại thắng mùa xuân” mới chỉ thống nhất được lãnh thổ chứ nó không
thống nhất được dân tộc… Trong cái đại thắng kết thúc chiến tranh mà
giảm được phần hao tổn xương máu, thì cũng phải kể công của kẻ đã ra
lệnh và cả những kẻ đã chịu buông súng chứ. Tại sao lại trả thù thô bạo
như thế? Tôi nói cái sự kém cỏi là như thế. Sau này, các nhà sử học phải
phân tích cho công bằng cái ý nghĩa tốt đẹp của cái lệnh buông súng ấy.
Chẳng lẽ phải lên án, sỉ nhục sự buông sủng để dận tộc bớt đổ máu?
-
Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy một người cộng sản như bác mà lại có
nhận định lạ đời như vậy. Không it người miền Nam đã kết tội Trịnh Công
Sơn là kẻ đã “đâm sau lưng chiến sĩ”, và đã lên án Dương Văn Minh là kẻ
hèn nhát vì đã ra lệnh buông súng để tạo ra sự đầu hàng nhục nhã như
thế…
-
Cung dễ hiểu tại sao lại có thái độ kết tội như vậy. Bởi mỗi người
chiến sĩ khi cầm súng ra trận là với niềm tin vào chính nghĩa của mình.
Nhưng phải suy nghĩ cho thật thấu đáo để thấy tẩm mức lợi hại. Như
trường hợp Nhật hoàng Hirohito, khi ra lệnh cho binh lính Nhật buông
súng… Lệnh đó là do thương dân. Tỉnh thần võ sĩ đạo bất khuất của dân
Nhật cao là thế, vậy mà vua nước Nhật đã chấp nhận sự nhục nhã đầu hàng.
Và dân Nhật đã không lên án Nhật hoàng. Họ còn tiếp tục biết ơn và kính
trọng vua Nhật cho tới ngày nay. Còn Mỹ là kẻ chiến thắng, cũng không
hề lên án Nhật hoàng là kẻ đã chủ trương chiến tranh bành trướng để
quốc, Mỹ cũng vẫn kính trọng Nhật hoàng vì cái lệnh buông súng ấy, vẫn
kính trọng dân tộc Nhật vì đã chịu buông súng… Đáng buồn là trong giai
đoạn lịch sử chiến tranh và hoà bình, cả hai miền của một đất nước từng
hãnh diện với ngàn năm văn hiến, mà đã để xảy ra quá nhiều hành động độc
ác, côn đồ bất xứng, nên đã không thể có được sự kính trọng lẫn nhau…
Bi kịch của đất nước và dân tộc ta hiện nay là do trong chính trị, trong
xã hội vẫn có quá nhiều điều bất xứng.
-
Trường hợp nước ta thì rất khác. Đây thật sự là một cuộc chiến tranh
huynh đệ, vì cuồng tín ý thức hệ giữa hai phe quốc cộng, một mất, một
còn… Mà sau lưng mỗi bên lại là sự chi phối, của hai khối thế lực quốc
tế. Bác nghĩ thế có lẽ là chưa thấy hết sự di hại về phân biệt ý thức
hệ…
-
Đấy không phải là những ý nghĩ của tôi. Mà đấy chính là những nhận định
của một số anh em cách mạng miền Nam. Họ đã phê phán chính sách cải tạo
xã hội, họ cho tôi biết đã xẩy nhiều điều nhức nhối, khi quân cách
mạng, giải phóng vào tiếp thu Sài Gòn và miền Nam. Đến nỗi sau đó đã làm
cho miền Nam lâm vào cảnh đói khổ kéo dài cả chục năm… Mấy anh em kháng
chiến ấy thì sau này đều bị gạt ra bên lề chính trị. Thật là đáng buồn.
Họ đã chất vấn tôi, họ chê trách trí thức miền Bắc, cứ y như chúng tôi
phải chịu trách nhiệm về tất cả những sai trái đã xảy ra trong chế độ.
Biết tôi là nhà triết học, nên họ trách móc tôi, họ bắt bẻ:
-
Bảo rằng “đảng” không bao giờ sai lầm là nói biện chứng duy tâm. Nói tư
tưởng cách mạng là duy nhất đúng là nguỵ biện, là gian dối trong lý
luận. Tại sao một người có trình độ lý luận như đồng chí mà lại chấp
nhận, tình trạng phổ biến nguỵ biện lý luận tồi tệ như thế!
-
Tôi đã phải giải thích cho họ hiểu sự thật rằng tôi đã chấp nhận tình
trạng sai trái ấy là vì tôi sợ, là vì chúng tôi hèn. Trước những nỗi đau
của dân, đám trí thức chúng tôi ở Hà Nội đã im lặng, đã có những ứng xử
đồng loã với sai lầm và tội ác như thế đấy! Tôi hứa sẽ có ngày phải
thẳng thắn đề cập tới những khúc mắc vô cùng tai hại như vậy. Tôi đồng ý
là nếu không tháo gỡ hết những khoảng tối, những khúc mắc của lịch sử
đương đại, thì không thể nào nâng cao được dân trí, không thể nào hoá
giải được tình trạng ngu tín đang tiếp tục nhấn chìm chế độ này vào vũng
lầy thối nát, xã hội ngày càng hỗn loạn, con người ngày càng suy đồi về
tinh thần, càng sa đoạ về mặt luân thường, đạo đức, trật tự kỷ cương…
- Nhưng làm sao mà giải quyết được những vấn đề phức tạp ấy?
-
Tất cả những vấn đề ấy phát xuất từ tình trạng vẫn có bất công trong
đói nghẻo, mà lại phải gánh vác chiến tranh kéo dài, trong khi chính
sách thì đầy ắp mưu mô, lý luận thì gian xảo nguỵ biện. Từ những ứng xử
lật lọng của chính quyền, của guồng máy tuyên truyền nặng tính giáo
điều, vừa ngu tín, vừa cuồng tín… Tất cả đều bắt nguồn từ cái ý thức hệ
hung hăng “đấu tranh giai cấp”: nhu cầu đấu tranh đã sinh ra muôn vàn
tội ác, đã gieo rắc hận thù, đã phát triển bạo lực, đã chìa rẽ dân tộc
rất là nặng nề và tai hại. Không đưa ra ánh sáng những sai trái ấy để
phân tích, để lý giải, để thanh toán chúng thì dân tộc còn bị chia rẽ
lâu dài, xã hội sẽ ngày càng bế tắc, chính quyền ngày càng ung thối.X
Kết quả của sự ra mắt tập sách nhỏ với nhan đề “Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người” thật
là bất ngờ. Đây là một mốc sinh hoạt tư tưởng có ý nghĩa quan trọng
trong cuộc đời nghiên cứu triết học của Thảo từ khi về mrớc. Đây là lần
đầu tiên một tập sách mang tính lý luận, triết học không chịu sự chi
phối của “đảng”, đã được phép công khai xuất bản tại Việt Nam. Mà tác
giả của nó lại là Trần Đức Thảo, một nạn nhân, một tội nhân trong vụ
“Nhân Văn - Giai Phẩm”! Tập sách nhỏ này ra đời đúng vào lúc mọi người
đang náo nức bàn luận về một xu hướng đòi hỏi phải thay đổi cả về tư duy
lẫn đường lối chính sách. Đó là đòi hỏi phải có chính sách thật sự là
mới và cỏi mở cho hợp với thời đại, đo chính Việt Nam chù động! Cuốn
sách được trí thức miền Nam đánh giá là một văn bản phản bác giáo điều,
chống tệ nạn sùng bái cá nhân của thời “đảng” bao cấp, “đảng” thống trị!
Bác Thảo, khi nói về tình trạng “lúng túng trong lý luận siêu hình”
một cách vô ý thức mà chính bác cũng đã phạm phải, và bác nhấn mạnh
rằng điều này đã được nêu ra rất rõ trong cuốn sách ấy. Rồi bác giải
thích:
-
Tuy nhiên trong đó tôi chỉ mới xét vấn đề ở một khía cạnh hạn chế, chưa
đẩy sự phân tích lý luận tới tận cùng. Khi nêu ra những mâu thuẫn trong
lý luận của Althusser của Mao và rồi cả của Pol Pot thì tôi chỉ kết
luận là những lý luận ấy đều có mâu thuẫn, đều là sai lệch. Thực ra thì
ngày nay tôi đã có thể đẩy sự phân tích đi xa hơn nữa, để thấy những mâu
thuẫn, sai lệch ấy đều xuất phát từ cùng một gốc gác là tư tưởng
Mác-Lenin! Bàn về tính lỗi thời của tư tưởng ấy thì đã cũ. Nhưng phân
tích, chứng minh bằng lý luận biện chứng rằng tư tưởng ấy đã gợi ra, đa
làm nảy sinh những chính sách đầy mâu thuẫn và độc ác… thì đây là một
điều mới mẻ và táo bạo. Trong tiểu luận nêu trên, tôi đã đề cập tới vấn
đề con người bị bỏ quên, cốt chỉ muốn bảo vệ một số giá trị sẵn có trong
còn người nói chung, nên đã bị quy oan là có xu hướng thù địch “chống
đảng”, phá cách mạng! Và rồi bị đẩy ra khỏi hàng ngũ “nhân dân”! Sự sai
lệch ấy phát xuất từ lý luận hình thức một chiều, không biện chứng. Đấy
là một vấn đề thường xảy ra khi đảng cộng sản ở trong vị thế cầm quyền.
Đây là thái độ cửa quyền về mặt tư tưởng. Và vấn đề này luôn luôn là một
vấn đề rất thời sự cần phải giải quyết để một đảng cộng sản cầm quyền
không bị giam hãm, thụ động dặm chân tại chỗ trong tình trạng giáo điều,
bảo thủ và bế tắc. Và cách giải quyết để thoát ra khỏi bế tắc, thụ động
ấy là phải vận dụng lý luận đặt nặng cả hai mặt vừa biện chứng, vừa
hình thức. Với một “lô-gích” vừa hình thức, vừa biện chứng mới mẻ như
vậy, thì sẽ có thể thống nhất được lý luận với hành động, lý thuyết với
thực tại, chính sách với sự thật. Làm cách mạng là phải tôn trọng cả hai
mặt của sự thật, vừa biện chứng, vừa hình thức. Như vậy mới không còn
sợ sự phản biện của sự thật.
Đang
lúc rảo bước trên một hẻm gần đường Cô Bắc, cách nơi ở của Thảo chừng
năm chục mét, thì thấy mấy người qua đường cản lại và nói:
- Đừng đi quá đấy, có thẳng thương binh nó đang xin đểu đấy! Quay lại đi! Nó hung dữ lắm đấy!
Thảo
chột dạ, tính quay lại vì chưa hiểu có chuyện gì nguy hiểm ở phía
trước. Nhưng nhìn kỹ phía trước mặt, tuy hởi xa, là một hình dáng khá
quen: ai như là Long! Đúng là Long, người bộ đội trẻ lái xe quân sự, đã
đưa Thảo từ Nam Ninh về Việt Nam. Và sau đã trở nên thân thiết ở ATK,
Long thường gọi Thảo bằng “bọ Thảo”! Nay thì Long ăn mặc lôi thôi, vóc
dáng tiều tuỵ, tay cầm một cái ống tiêm (chích), đang đi tới với nét mặt
hung dữ.
Thảo gọi lớn:
- Long! Long! Thảo đây!
Long
giật minh ngưng lại, tính quay đầu chạy, nhưng Thảo đã chạy lại quá
gần! Long vừa vứt vội cái ống chích xuống đất thì Thảo đã tới ôm chầm
lấy Long:
- Làm sao mà xanh xao, vàng vọt thế này, hả Long? Làm sao mà ra nông nỗi này?
Long ôm lấy Thảo và oà khóc:
-
Bô Thảo ơi! Đời con tàn rồi! Con bị sốt rét mãn tính quá nặng, nên đã
bị cho rã ngũ ở trong này! Sống túng quẫn quá nên tụi lính rã ngũ như
con phải đi ăn xin! Hu! Hu! Hu!
Thảo cũng không cầm được nước mắt, kéo Long về nhà ngay gần đó, Thảo nói:
-
Thôi bây giờ gặp nhau đây thì ở lại đây. Tôi cũng chỉ sống có một mình,
nhưng được thành uỷ Sài Gòn chu cấp nên cũng đủ sống. Bây giờ Long cứ
coi tôi như chú Đa của Long, cứ coi căn nhà bé nhỏ này là của Long, của
chúng ta nhé!
Long
lấy lại bình tĩnh, vừa kể lể vừa khóc xụt xịt, về cảnh khổ của đám
thương bệnh binh bị rã ngũ… Rồi lấy tay áo rách lau mặt, ngồi im lặng
hồi lầu, bỗng đứng dậy, lại gần Thảo. Thảo lục lọi trong túi quần có mấy
chục đồng đưa cả cho Long:
- Đây có chút này biếu Long cầm lấy mà tiêu…
Long cảm thấy tủi thân, xấu hổ quá nên gạt đi và nói:
-
Bọ Thảo ơi, ốm đau như thế này thì cứ giữ lấy mà sống, con xoay sở được
mà! Thôi bây giờ biết nhà rồi lúc khác con sẽ trở lại thăm bọ!
Nói rồi bước vội ra ngoài, chạy thẳng một mạch như sợ bị Thảo đuổi theo!
Thảo bước ra ngoài, nhìn theo, thì Long đã chạy quá xa. Bước trở vào, Thảo cũng ôm mặt ngồi khóc, miệng lẩm bẩm:
- Tại sao lại có thể có nông nỗi này? Tại sao? Tại sao?
Cả
những ngày sau đó, cũng không thấy Long trở lại. Thảo cứ như người mất
tinh thần, cứ lẩm bẩm nói một minh. Cũng may là sau đó có nhiều người xa
lạ tới thăm để bàn chuyện tình hình đất nước, khiến Thảo phải bậu tâm
vào những suy nghĩ khác.
Tới
với Thảo giờ đây, là cánh kháng chiến cũ của miền Nam, từng bị gạt ra
bên lề chính trường ngay sau ngày chiến thắng. Giới này bao gồm hai
thành phần: thành phần có uy thế văn chương, văn hoá, có bằng cấp, đã
được dùng như đồ trang trí trong Phong trào hoà bình, hoà giải dân tộc
và trong Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam, nay thì họ lên tiếng phê
bình “đảng” một cách ngậm ngùi cay đắng vì bị lâm vào cảnh “vắt chanh bỏ
vỏ”. Còn thành phần “đảng” viên, gốc miền Nam chính cống, thuộc lực
lượng vũ trang, từng trực tiếp đóng góp xương máu cho sự nghiệp thống
nhất, thì nay phẫn nộ ra mặt, để phản kháng chính sách phản bội anh em,
đồng chí miền Nam của “đảng”.
Cả
hai thành phần này tìm thấy ở Thảo một nhả phân tích tình hình chính
trị sắc bén, với những dự báo khả tín. Những gì Thảo đã phê phán và lo
ngại, thì rồi nó cứ tiếp tục xảy ra, rất rõ nét, thật bi đát, thật kinh
hoàng.
Thảo giải thích và nhấn mạnh:
-
Để phục hồi sản xuất, sau những đợt cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh
tế ở miền Nam thất bại, đã đưa đất nước tới tình trạng kiệt quệ hoàn
toàn, nên nay đành phải ngả theo khối tư bản, phải dựa vào vốn tư bản
nước ngoài, để phát triển “theo hướng kinh tế thị trường”. Do vậy mà
trước tiên là phải phá bỏ những nút thắt đã có trong kinh tế xã hội chủ
nghĩa. Cái đang có và đáng tự hào là một cuộc cách mạng mới về mặt chính
trị và xã hội. Cái thứ nhì đáng hãnh diện là cả một đất nước thiên
nhiên, còn đầy tài nguyên chưa khai thác. Nay đứng trước xu hướng đổi
mới kinh tế, ngả theo khối tư bản, thì nền tảng chính sách cách mạng
kiểu cũ phải dẹp bỏ hoàn toàn. Nhưng nay ta đang đứng trước nguy cơ
thiên nhiên đang bị tàn phá, vì những phát triển quá trớn… quá bừa bãi!
Giới kháng chiến cũ của miền Nam hỏi Thảo:
- Anh nhận định ra sao về tương lai của những người kháng chiến cũ như chúng tôi?
-
Dĩ nhiên là người ta đã và sẽ dứt khoát dẹp các anh qua bên lề, vì nay
sẽ không còn là thời kỳ cách mạng nữa, mà là thời kỳ “đổi mới” với khẩu
hiệu chính thức “đổi mới hay là chết”! Nay là phải thay đổi, bãi bỏ một
số điều kiện để “đảng và chế độ” trụ lại được, sau khi đã cơ bản thất
bại vì bế tắc cả về chính trị lẫn kinh tế trong giai đoạn kiêu binh ấu
trĩ, hung hăng thừa thẳng tiến lên chế độ “Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa”!
Từ sau 1976 cho tới 1985, tức là nay “ta” đã phải đau đớn dứt khoát bỏ
hết các nguyên tắc quản lý xã hội chủ nghĩa đã quá lỗi thời, theo một
lập trường mới, phương pháp mới, là ngả hẳn theo khối kinh tế tư bản, là
nơi duy nhất có dư tiềm lực giúp đất nước ta đứng dậy. Và do vậy, các
anh là người của thời cũ, nên nay bị đẩy ra bên lề!
- Thế thì chính sách “đổi mới” này là tốt hay xấu?
Thảo lại phải giải thích thêm:
-
“Đổi mới” trước hết là sự thú nhận một số chính sách cũ về kinh tế sản
xuất và tổ chức xã hội là sai trái, nay phải dứt khoát dẹp bỏ. Như vậy
là một điều tốt, vì nó hợp với thực tại đã thấy được rất rõ ở miền Nam
này. Vì dù bị trói tay, dân miền Nam vẫn cố sản xuất chui để sống còn.
Nay chỉ có cởi trói cho dân được bung ra tự do sản xuất thì mới thoát
khỏi cuộc khủng hoảng vì quá đói khổ, thiếu thốn này. Nhưng do điều kiện
kiệt quệ về vốn liếng và về chuyên môn kỹ thuật, nên đổi mới đòi phải
hoàn toàn dựa vào khối tư bản đứng đầu là Mỹ. Vì khối xã hội chủ nghĩa
nay đã hoàn toàn kiệt quệ, bị bế tắc cả về kinh tế; lẫn chính trị. Chỉ
còn lối thoát là dựa hẳn vào khối tư bản, chắc chắn là sẽ sớm thoái ra
khỏi nghèo nàn, tụt hậu về kinh tế. Vì một khi tư bản nó đổ vốn vào, thì
nó sẽ ồ ạt xây dựng và phát triển cơ sở sản xuất hàng hoá, cơ sở du
lịch… đế phục vụ cho thế giới tư bản. Kết quả sẽ thấy ngay trước mắt:
dân có công ăn việc làm, sẽ có hàng hoá để tiêu dùng và xuất khẩu, du
lịch sẽ phát triển… nền kinh tế sẽ đạt lợi nhuận nhanh và cao. Du khách
và vốn khối tư bản sẽ tràn vào như nước, làm cho xã hội sẽ phải lột xác
để phục vụ những thế lực có dư tiền bạc của khối tư bản…
Tóm
lại là đổi mới như vậy, đất nước sẽ trở thành một mắt xích kinh tế của
khối tư bản. Nhưng đi với tư bản, tức là đi với đồng đô-la Mỹ, mà không
có tự do dân chủ, thì chỉ có đường làm đầy tớ cho nó thôi. Bởi chỉ có
sức mạnh của tự do dân chủ, tức là khi dân có quyền phản đối, có quyền
đảo thải, bằng lá phiếu, một chính quyền thối nát bị dân chán ghét, thì
mới cản lại được những bước phát triển phá phách quá trớn do sức ép của
đồng vốn tư bản! Còn ở ta vì không có tự do dân chủ, nên bọn tư bản sẽ
cấu kết, mua chuộc chuyên chính, để lũng đoạn, thao túng kinh tế. Do
vậy, trong thực tế, vì thiếu vắng dân chủ, nên Việt Nam sớm muộn thì sẽ
trở thành “một thuộc địa kiểu mới” của khối tư bản. Những ai nằm trong
sự vân hành của nền kinh tế tư bản này sẽ giàu lên nhanh chóng, vì chủ
nghĩa tư bản có nguyên tắc “vỗ bò cho béo, rồi mới vắt sữa”. Tham nhũng
sẽ là con bò được vỗ béo rất nhanh! Các anh tuy đã bị loại ra khỏi chính
quyền, nhưng nay phải ý thức về một nghĩa vụ mới; Đó là cùng với nhân
dân, các anh phải đứng ra ngăn cản những bước phát triển quá trớn của
một chính quyền nhắm mắt chạy theo đồng đô-la Mỹ, đo thế lực tư bản man
rợ giật giây. Chính sách “đổi mới” này chỉ là một thứ xét lại về kinh
tế, sau thất bại về mặt này. Đổi mới thực ra chỉ là về mặt sản xuất kinh
tế, còn về mặt chính trị, thì vẫn dùng khuôn phép cũ, nhưng vận hành
theo một cách chú trọng tới đồng tiền, tới lợi nhuận… Đây là thời kỳ
bùng phát của tham nhũng… vì là một thứ bình mới, vỏ mới nhưng trong vẫn
là thứ rượu cũ! Tức là trong chính trị thì vẫn là cai trị độc đoán theo
kiểu xã hội chủ nghĩa, nhưng về mặt kinh tế thì buông thả để cho tư bản
nước ngoài tung hoành, lũng đoạn. Vì tư bản nước ngoài sẽ là nguồn lực
chính giúp “đảng” và chế độ sống còn…
Khi
tư bản phát triển, người ta nhận ra là không còn sợ bị chia thiếu công
bằng, mà chỉ sợ mọi người không có tiền dư dả để mà mua! Muốn vậy thì
phải cố sức sản xuất và nhập khẩu hàng hoá đến mức dư thừa! Đây là một
nguy cơ để cho tư bản man rợ đào sâu vực thẳm chia cách giàu và nghèo
trong xã hội, đưa sản xuất và thị trường vào chu kỳ luẩn quẩn: sau phát
triển thịnh vượng giả tạo hàng hoá tràn đầy nhưng dân không có tiền mua,
tình trạng này đưa tới nạn lạm phát, tới nạn suy thoái kinh té vì hàng
hoá ế ẩm, sản xuất phải đỉnh lại, gây ra thất nghiệp rồi sinh ra khủng
hoảng xã hội… Nếu không đề ra một chính sách tự chủ, bảo vệ chủ quyền,
bảo đảm một sự phát triển hài hoà và đồng bộ, bảo vệ giới lao động, thì
nguy cơ lạm phát, bội chi, thất nghiệp, bất công xã hội, chênh lệch giàu
nghèo sẽ ngày càng trầm trọng! Tư bản thế giới càng đổ vốn vào đầu tư,
thì chúng sẽ càng làm chủ nền kinh tế nước ta, chúng càng ra sức thao
túng phát triển bừa bãi, thì xã hội càng mất trật tự kỷ cương, môi
trường thiên nhiên càng bị tàn phá gây mất cân bằng sinh thái… Đất nước
ta sẽ trở thành cơ xưởng sản xuất, cơ sở du lịch của khối tư bản. Dân
tộc ta sẽ là kẻ làm công, làm đĩ để phục vụ chúng… Chúng sẽ ra lệnh phả
rừng này để xây nhà máy, phá bãi biển kia làm khu du lịch, phá ruộng này
làm sân “gôn”, phá khu nhà kia để xây sòng bạc, khu giải trí… Chủng sẽ
bảo ta cần rất nhiều thứ phồn vinh giả tạo chạy theo nhu cầu giả tạo như
điện hạt nhân, như xe lửa cao tốc, như khách sạn năm sao… nghĩa là ta
phải cần tất cả những nhu cầu giả để phục vụ thành phần giàu có như
thường thấy trong khối tư bản. Những nơi đã phát triển hoành tráng, lộng
lẫy, thì dân nghẻo sẽ bị đuổi đi, bị cấm lui tới đó. Đấy sẽ là chế độ
của bọn nhà giàu, chứ không còn gì là xã hội chủ nghĩa của giai cấp công
nông nữa!
Bọn
tư bản sẽ không bao giờ biết ngưng tham lam. Mọi sự phát triển đều sẽ
bị đẩy tới mức quá trớn: đã xây cất thì phải xây cất nhiều hơn nữa. Đã
nhiều hàng hoá thì sẽ phải sản xuất thêm nhiều và đa dạng hơn nữa. Đã
cạnh tranh thì không khoan nhượng. Và một khi vốn tư bản đổ vào, kinh tế
tư bản đã bao trùm, lợi nhuận tăng vọt, thì bọn tư bản sẽ đòi phải mở
của rộng hơn; phải sủa lại luật lệ để chiều theo yêu cầu của chúng một
cách triệt để hơn, lộng hành hơn. Nền kinh tế quốc gia sẽ bị cuốn hút
vào những chu kỳ khủng hoảng liên tiếp, cứ tăng rồi giảm, giảm rồi lại
tăng. Lúc kinh tế tăng trưởng thì bọn nhà giàu hưởng lợi. Khi kinh tế
giảm thì chủng sẽ sa thải công nhân. Chung quy là giai cấp công nông sẽ
luôn luôn bị thiệt thời, vì là giới phải trả giá cho những cuộc khủng
hoảng.
Nguy
cơ kinh tế thường xuyên bị lũng đoạn cũng sẽ nặng nề hơn. Một nền kinh
tế dựa trên vốn nước ngoài và thị trường nước ngoài thì đương nhiên đất
nước ta là con bò đang được vỗ béo, đang bị vắt sữa, nghĩa là càng phát
triển như thế, dân lao động càng bị bóc lột, thiên nhiên càng bị tàn phá
nhiều hơn. Chủ quyền của ta sẽ teo đi! Hướng đấu tranh tới đây của trí
thức các anh là sẽ phải ra sức chống lại một chính quyền tham nhũng với
những bước phát triển vô tổ chức và quá trớn ấy. Phát triển quá trớn ấy,
ngoài sự tàn phá cân bằng sinh thái của thiên nhiên, nó còn là nguy cơ
phá hoại mọi truyền thống, mọi nghĩa vụ, làm mất bản sắc dân tộc, cơ bản
là sẽ mất tinh thần tự chủ…Nếu không bảo vệ chủ quyền, chống sự phát
triển quá trớn thì dân ta sẽ sống như kẻ làm mướn cho ngoại bang và phải
sống nhờ trên chính đất nước của mình! Vì lúc đó các khu chế xuất lớn,
các khu du lịch sang trọng, các hệ thống công nghệ tiên tiến, hiện đại
là do vốn tư bản nước ngoài và tham nhũng làm chủ, sẽ ưu tiên phục vụ
cho tham nhũng và thế giới đại tư bản! Các anh nên nêu vấn đề luật lệ
bảo đảm các nghĩa, vụ phục vụ dân chúng, bảo vệ dân lao động.
-
Giờ đây là những vấn đề bảo vệ chủ quyền của quốc gia, đòi thêm quyền
lợi cho công nhân trong các xí nghiệp do nước ngoài thao túng, đòi kiểm
soát, bằng một đạo luật, để minh bạch hoá sự phân chia lợi nhuận kinh tế
cho công bằng, nghĩa là để một mức lợi nhuận quan trọng dành cho phục
lợi của nhân dân lao động, cho những ai đang sống trong một xã hội tư
bản do đồng tiền chi phối, ít ra là đòi cho được một nền giáo dục và y
tế mang tính nghĩa vụ, tức là được miễn phí. Thật không có sự bất công
xã hội nào bằng tình trạng lợi nhuận trong cả nước tăng lên vòn vọt, mà
dân ốm đau không có tiền đi chữa bệnh! Con trẻ đang tuổi học hành nhưng
không có tiền đóng học phỉ! So với thời chế độ cũ của miền Nam trước đây
thì thật là một sự thua kém rất xa! Thật là vô lý và nhục nhã, khi ta
nói là đã giải phóng miền Nam, mà nay đưa miền Nam tới tình trạng con
người bị nô lệ vào đồng tiền hơn trước! Không tiền là ốm đau không thuốc
men, không tiền là con em không được học hành! Giải phóng miền Nam là
như vậy sao? Sự thật là miền Bắc đã mang cái chuyên chính, cái đói nghèo
vào cho xã hội miền Nam! Và rồi nếp sống văn minh văn hoá cởi mở ấm no
của miền Nam đã tràn ra giải phóng ngược lại miền Bắc, lôi miền Bắc ra
khỏi lối sống hủ lậu “tự túc tự cường” cứ ngoan cố tự hảo về thành tích
bưng bít chính trị, về hạn chể tiêu dùng! Nay thì miền Bắc cũng được
bung ra tự do làm ăn… theo gương miền Nam. Nhưng trong cái đà bung ra
làm kinh tế ấy, tham những đã phát triển tối đa, không gì ngăn chặn
được!
-
Thế nên nay phải đòi kiểm soát thật chặt chẽ các nguồn lợi nhuận đến từ
tham nhũng. Mọi chi tiêu dùng “vốn chết”, như xây nhà cửa quá khang
trang, mua xe cộ lớn, chi tiêu xa xỉ v.v… sẽ phải bị kiểm soát nguồn gốc
hợp pháp, sẽ bị đán thuế thật cao để bù đắp vào sự thiệt thòi của nhân
dân lao động. Phải đòi truy gốc hợp pháp của các món tiền tiêu xài xá xỉ
đó, để cho bọn tham nhũng lộ mặt, để kiểm soát các nguồn thu nhập gian
lận của chúng, để thu lại tài sản tham những dùng nó làm quỹ phục vụ
phúc lợi miên phí cho nhân dân. Phải tranh đấu đòi và bảo đảm phần lớn
lợi nhuận là dành cho phúc lợi của toàn dân. Phải hoàn thành cả một hệ
thống kiểm soát, cấm cản, truy thu có tính hồi tố tất cả tài sản có gốc
tham nhũng. Đặc biệt là phải cho phép thành lập công đoàn tự do đề bảo
vệ công nhân, phải đòi có tự do báo chí để phanh phui bằng hết và kịp
thời mọi hành vi tham nhũng đã qua, hiện tại và trong tương lai. Phải
chấm dứt cảnh độc quyền cai trị và độc quyền kinh tế. Vì tư bản mà làm
chủ nhà nước, thì nó sẽ làm chủ mỗi người chúng ta qua sự cai trị chuyên
quyền! Tương lai của chúng ta đang lâm nguy! Vì nguy cơ trước mắt là
bao nhiêu quyền dân chủ tối thiểu cần thiết ở ta sẽ bị xoá bỏ! Ưu tiên
là phải đòi cho dân được tự do ứng cử và tự do bầu cử trực tiếp bằng lá
phiếu của dân. Đó là hướng tranh đấu mà chúng ta phải theo đuổi để có
một nền độc lập thật sự; để cho dân ta, bằng là phiếu tự do, thật sự làm
chủ nước ta! Có như vậy thì khồi tư bản mới kính trọng ta, không thao
túng được ta vả không nô lệ hoá được ta.
Nghe
bác Thảo trình bầy và hô hào như vậy, nhiều trí thức trẻ miền Nam nay
như đã thêm tự tin đã nhìn thấy còn quá nhiều công việc phải làm. Và có
nhiều người vì có niềm tin mạnh mẽ, nên đã vén tay áo, đúng dậy nhận
trách nhiệm… để công khai tranh đấu minh bạch như những nhà dân chủ, và
dù một số người đã bị trù dập, giam giữ, nhưng họ không còn sợ nữa!
Những lý luận như những lời tiên tri của Thảo đã chính phục được nhiều trí thức chẳng những của miền Nam, mà của cả nước! X
Họ
trăn trở về điều gì? Có phải họ than thở với anh về tình trạng các cán
bộ miền Bắc vào đây quá đông nên đã chiếm chỗ làm của họ không?
-
Không phải vậy. Đấy là điều lần đầu tiên tôi được anh cho biết có tình
trạng đó. Họ tới với tôi là để bàn về hiện tượng hủ hoá tràn lan của các
cấp cán bộ cách mạng của ta ở trong này. Đại khái họ nêu ra những cách
thức làm giàu, vơ vét của cải quá lộ liễu của các cán bộ cấp cao cũng
như cấp thấp, ở khắp mọi nơi… Họ dùng quyền lực xin nhà, cấp nhà đất cho
họ hàng, gia đình, thậm chí cho cả bạn bè hay người bên ngoài “đảng”
nữa, để cấu kết với nhau, kinh doanh bất hợp pháp đất đai rất trắng
trợn. Xin nhà rồi thì đòi hợp thức hoá. Hợp thức hoá xong là mang bán
cho tư nhân, rổí xin đổi đi tỉnh khác, lại xin cấp nhà vì lý do chưa có.
Cứ như vậy, con cháu họ bị thuyên chuyển đi nhiều tỉnh làm việc là cuối
cùng họ giàu lên quá nhanh. Còn xin đất để phát triển công nghiệp,
nhưng vừa được cấp xong là bị xẻ nhỏ ra để nhượng lại cho dân xây nhà ở.
Có nơi vùng ven biển thì nhắm mắt cho phép ké gian lập bãi đáp cho dân
đi chui di tản ra nước ngoài: chúng thu mỗi đầu người ra đi như vậy là
từ năm tới mười mấy “cây” vàng! Anh thử tính coi từ bao nhiêu: năm nay,
có cả mấy trăm ngàn người đã bằng lòng “mua bãi” để được đi chui an
toàn, và chứng đã thu được hàng mấy tỷ đô-la Mỹ, tôi nghe họ tính toán
mà kinh hãi quá. Hôm nọ cả hai anh Trần Bạch Đẳng vả Trần Văn Giàu tới
thăm tôi, hai anh ấy than là “đảng” và chế độ ta bị tai tiếng nhiều là
do cánh tư tưởng văn hoá và cánh công an: cả hai cánh ấy đều quen thói
vu khống, chụp mũ, chế tạo bằng chứng giả, sử dụng côn đồ, rồi toa dập
với toà án tạo ra những án oan… để đánh trí thức và làm tiền bọn nhà
giàu, bịt miệng giới tranh đấu đòi các quyền dân chủ… Nhà nước mà làm ăn
thám lam, đầy thủ đoạn lộ liễu như thế thì còn gì là chính nghĩa, là
công lý nữa! Dân làm sao kính trọng một “đảng”, một nhà nước đầy thủ
đoạn và thối nát như thế! Hai anh ấy hỏi tôi làm sao chấm dứt tình trạng
này? Anh có biết gì về những tệ nạn ấy không?
-
Tôi biết chứ! Đui mù cũng phải thấy chứ! Nhưng nay tệ nạn cán bộ “biến
chất” tràn lan ra đều khắp, dẹp hết không nổi, mà dẹp hết thì sẽ không còn cán bộ mà sai khiến. Khó khăn, nan giải lắm, chứ không dễ thanh toán đâu.
-
Thế anh có biết tại sao hiện nay cánh văn hoá tư tưởng, cánh công an cứ
tự do thao túng, và tệ nạn làm giàu bất hợp pháp lại trắng trợn và tràn
lan như vậy không? Theo tôi thì lỗi là do chính quyền cứ bưng bít,
không dám công khai hoá những vụ việc bất lương ấy ra trước ảnh sáng dư
luận. Nên bọn chúng cứ hoành hành như là vẫn được bóng tối che giấu, ít
ai biết đến tội lỗi của chúng. Nhưng nhân dân đã thấy hết. Nếu cho báo
chí của ta tự do khui các vụ ấy ra, thì tham những sẽ phải chùn tay.
Trước sau gì, muốn thắng tụi nó là phải có tự do báo chí! Tự do báo chí
là để ánh sáng soi rọi vào những nơi có sai trái, tội lỗi!
-
Không được! Không được đâu! Vì có tự do báo chí là sẽ loạn ngay; Tụi
thù địch sẽ nhảy vào lợi dụng. Chúng sẽ quậy nát chế độ ta ngay. Vì chỗ
nào mà chẳng có tham nhũng. Chúng nó sẽ dùng tự do báo chí để đẩy mạnh
diễn biến hoà bình là ta sẽ sụp đổ y như ở Liên Xô trước đây thôi. Cái
gì chứ, tự do báo chí là tuyệt đối không thể được đâu.
-
Tôi: thấy sự sụp đổ ở Liên Xô là không phải do có tự do báo chí. Vì lúc
đó phần lớn báo chí ở khắp nơi vẫn ở trong tay “đảng” cơ mà! Sự sụp đổ
ấy có nguyên nhân nội tại, nó đã tới từ nội bộ hoang mang, rối loạn
trong “đảng”. Từ những sai lầm chồng chất, tích luỹ từ lâu…
-
Thôi anh đừng bận tâm về những chuyện chính trị phức tạp ấy. Nó khó
giải thích lắm! Và có lẽ là không thể giải thích được, ta nên tạm gạt nó
qua một bên.
- Vậy sự thật là anh tới thăm tôi hôm nay có mục đích gì?
-
Đúng như anh dự đoán, tôi tới anh với một mục đích rõ rệt, đã được suy
nghĩ rất kỹ. Tôi tới là để đề nghị với anh một giải pháp có lợi cho anh
về mọi mặt. Tôi yêu cầu anh không trả lời tôi ngay, mà cứ để suy nghĩ
cho thật kỹ rồi hãy trả lời.
- Đề nghị gì mà ghê gớm thế?
-
Tôi để nghị anh nên trở qua Pháp nghỉ ngơi, tìm thuốc men chữa bệnh cho
thật khỏe rồi sau lại về đây. Lúc đó chúng ta sẽ tính với nhau một sự
cộng tác triệt để và lâu dài. Vì tới đây sẽ là thời kỳ đất nước ta phải
lột xác để thành một con rồng của châu Á, ít ra cũng có thể sánh với Đại
Hàn hay Đài Loan! X
Chương 11.Một bản án vô phương kháng cáo!
GẶP BÁC
Bác
Thảo thú nhận là minh lúc đầu vì còn trẻ, quá ngây thơ, nên đã kỳ vọng
nhiều vào tình cảm của “ông cụ”. Cứ tưởng đấy là một con người bình
thường, dễ kết thân, mà không hiểu được là trong thực tại cách mạng, đã
có một khoảng cách khó vượt qua để tới gần được lãnh tụ! Bởi chung quanh
lãnh tụ là cả một thành luỹ bè phái vây quanh, bao phủ, với những con
mắt, nhũng cái tai, những bàn tay của những thế lục nghỉ kỵ nhau, kình
chống nhau rất phức tạp. Trong chế độ tương tự, trong đường lối hành
động và tổ chức cứ như vậy, ngay từ thời Lénỉne, cho tới Stalin, cho tới
Mao và nay tới thời “bác Hồ”, đã hình thành cả một truyền thống đối xử
rất nghiệt ngã giữa các “đồng chí” ở cấp lãnh đạo, ở cấp Trung ương. Họ
đã từng hạ bệ nhau, từng chèn ép nhau không chút nương tay, không chút
thương hại, để qua mặt nhau, để gạt bỏ nhau! Nói chi tới những kẻ bị xếp
vào loại “đối thủ tiềm ẩn”, loại “có vấn đề”, loại phản động, kẻ
thù…XII
Lần
ấy, khoảng cuối năm 1952, lúc tôi đang vô cùng hoang mang thắc mắc, bực
bội trong lòng vì tôi biết là đảng đang triệu tập một hội nghị rộng rãi
cấp cao quan trọng tại Tân Trảo, ở ÀTK này, mà tôi lại không được mời
tham dự. Nhưng rồi xảy ra một vụ việc ìàm tôi cực kỳ xúc động: có lệnh
truyền xuống để chuần bị đưa Trần Đức Thảo đi chào “Bác”! Thật là hồi
hộp và mừng! Tâm trí lúc ấy tràn đầy hi vọng nên quên hẳn những dấu hiệu
đang bị phân biệt đối xử!
Rồi
giờ phút của sự thật, giữa “ông cụ” và tôi, đã tới: một cán bộ đặc biệt
được phái tới. Đây là một cán bộ giao liên đã đứng tuổi, chẳng những tỏ
ra am hiển về địa hình, địa lý của vùng ATK này, mà còn rất thông thạo
về lễ tân trong “đảng”. Vì đấy là cán bộ chuyên đảm trách việc đưa, đón,
hướng dẫn khách quý của “Trung ương”! Cán bộ này trịnh trọng cho tôi
biết ông ta là chuyên viên “ban lễ tân (protocole) của bộ ngoại giao”,
nghĩa là cán bộ cấp cao của Trung ương, chuyên hướng dẫn, chuẩn bị thật
kỹ những ai sẽ được đưa tới gặp “Hồ chủ tịch”, mà cán bộ lễ tân này nói
một cách kính cẩn là sẽ được hướng dẫn về một số nghi thức phải tuân thủ
khi được diện kiến “Người”!
Cán bộ lễ tân này dặn dò từng chi tiết rất tỉ mỉ, chứng tỏ một sự tôn vinh, sùng bái tuyệt đối:
-
Yêu cầu của ban lễ tân là đồng chí phải thận trọng trong từng cử chỉ,
từng lời nói khi gặp “Người”. Thứ nhất là cần nhớ rằng khi gặp thì phải
đứng xa “Người” ít ra là ba mét! Chỉ khi “Người” ra dấu, ra lệnh, mới
được lại gần hơn. Thứ nhì là không được tự ý nói leo, “Người” có hỏi câu
gì thì mới được phép trả lời. Mà phải trả lời đúng vào câu hỏi đó,
tuyệt đối không được tự ý nói thêm, nói ra ngoài câu hỏi. Thứ ba là
không được chào trước, nói trước. Thứ tư là không được xưng “tôi”, y như
là ngang hàng với “Người”.
- Nếu không được xưng tôi thì xưng bằng gì?
-
Đồng chí có thể xưng bằng “con”, hay bằng “cháu”, và phải gọi Người
bằng “bác” như đồng bào vẫn gọi… Những mệnh lệnh này là quan trọng, đồng
chí phải ghi nhớ cho kỹ, kẻo làm hỏng cuộc diện kiến với “Người” là tai
hại lắm đấy. Không phải ai ở đây cũng đã được tới gần để chào “Người”
đâu.
Sự chuẩn bị kỹ như vậy làm Thảo rất bồn chồn, nhất là lúc giao liên tới dẫn đi gặp “Người”.
Lúc
đó là sáng sớm tinh sương, con đường mòn xuyên rừng, xuyên núi còn đẫm
sương đêm, chưa nhìn rõ những hiểm trở dưới chân. Đi khoảng hơn một
tiếng đồng hồ sau, trời hửng sáng, thì tới một trậm giao liên khác, cũng
là trạm kiểm soát. Vì khi ngồi chờ ở trạm này, thì thấy có hai giao
liên khác dẫn hai đoàn người vừa ở hội nghị về. Tại đây, giao liên của
mỗi đoàn phải trình giấy chứng minh thư của từng người trong đoàn, để
cán bộ thường trực của trạm ghi vào sổ. Rồi hai đoàn người, ấy mới được
đi qua.
Băn
khoăn đợi ở trạm này mãi đến gần trưa, bỗng từ xa có một hồi còi tu
huýt đài tiếng, như loại tu huýt của các hướng đạo sinh, vẳng tới. Lát
sau một sĩ quan bộ đội “tiền phương”, mặc quân phục gọn gàng, vai đeo
“tếp” vải, bên sườn, đeo súng ngắn K54, đi rất nhanh tới rồi chỉ về phía
Thảo hỏi gay gắt như quát, rất hách:
- Ai đấy? Đã nghe thấy còi báo rồi, sao lại còn có người ngồi ở đây?
Giao liên của Thảo vội trình ra một tờ giầy, rồi nói:
- Báo cáo đồng chỉ, tôi được lệnh đưa đồng chí này mời ở bên Tây về, tới đây chờ để được kính chào “Bác”.
- Đồng chí đã chuẩn bị kỹ đối tượng chưa? Đã tập huấn những quy định để gặp “Bác” chưa?
- Báo cáo đồng chí, tôi đã chuẩn bị, chỉ dẫn đầy đủ rồi.
Chở
khoảng mười lăm phút sau, lại một hồi còi tu huýt như tiếng sáo thật
dài nữa vẳng tới, một toán bộ đội gồm bốn người, trong quân phục y như
người tiền trạm, tay cầm súng trường Tiệp Khắc, đi tới vả nhìn ngó chung
quanh, rồi nói câu gì với người tiền trạm rồi lại đi ngay. Bây giờ thì
tất cả người làm việc trong tiền trạm phải đi ra xa. Chỉ có một giao
liên cùng Thảo là được ngồi đó chờ.
Lát
sau nữa, lại một toán bộ đội đi tới gần khoảng năm mét, dừng lại, ghim
súng trường chĩa về phía trạm giao liên, sẵn sàng can thiệp… Rồi lặng lể
từ trong rừng sâu, xuất hiện một cụ già gày còm, khô khóc, lất phất
chùm râu cằm, bước chân nhanh nhẹn, quần áo bạc mầu nâu nông dân, quần
xắn lên gần đầu gối, tay cầm một khúc tre giả làm gậy, vai khoác tấm vải
nhựa rộng như áo mưa màu xanh lá cây xậm, đầu đội mũ “cát” kiểu thuộc
địa bọc vải, như loại công chức Tây thường đội, nhưng là màu xanh lá
cây. Người ấy đi ngang qua, nhìn vào chòi lá của trạm giao liên rồi cất
tiếng hỏi, giọng đặc sệt Nghệ Tĩnh:
- Đồng chí nào ở trong ấy đấy?
Giao liên của Thảo chạy ra, đứng thật, nghiêm cách khoảng ba mét, kính cẩn nói:
- Xin báo cáo Bác, con được lệnh đưa đồng chí Thảo mới ở bên Tây mới về, tới chào Bác!
Nói
rồi, tay ra hiệu vẫy. Thảo vội bước ra, đi gần tôi, đúng khoảng ba mét
thì dừng lại, rồi cũng đúng rất nghiêm, im lặng chờ chứ không dám chào
trước. Rồi “Người” tiến lại gần Thảo còn chừng một mét, nhìn chằm chằm
vào Thảo, như lục soát trí nhớ, tìm kiếm điều gì, rồi nói:
- À! Chào chú Thảo! Chú về đây đã được bao lâu rồi?
Lúc đó Thảo mới dám đáp lại:
- Cháu xin kinh chào Bác! Cháu về đây đã được năm hôm rồi.
Người
đưa tay phải tới, hai tay Thảo vội đỡ lấy bàn tay ấy. Bàn tay “lãnh
đạo” thật nóng ấm. Thảo cúi đầu, nắm chặt bàn tay ấy một hồi, rồi ngửng
mặt lên nhìn kỹ “Người”, và nói với giọng run run vì xúc động:
- Cháu rất vui mừng được về quê hương và được gặp Bác ở đây.
Nỏi
xong mới buông bàn kia tay ra, nhưng vẫn đúng nghiêm và cố nhìn thêm
cho kỹ khuôn mặt xương xương, khắc khổ, con mắt tinh anh, sắc bén, cũng
đang chăm chú nhìn Thảo. Cái nhìn thật soi mói. Hai bên nhìn thẳng vào
mặt nhau giây lát, Thảo bỗng rùng mình, cảm thấy như bị một luồng khi
lạnh truyền khắp thân thể, nên hơi run.
Rồi hơi ngầu ngừ, Người nói, với vẻ mặt thật nghiêm:
-
À này chú Thảo! Bác biết ở bên Tây, chú đã đọc nhiều sách vở, nhưng bây
giờ về đây thì chú phải gắng mà học tập nhân dân, nghe không! Thôi bác có hẹn nên phải đi kẻo trễ.
- Vâng, cháu xin tuân lời bác. Và cháu xin chào… Bác!
Nhưng
“Người” đã quay mặt, rảo bước thật nhanh, đi ngay, không chú ý tới lời
chào của Thảo. Cả đoàn tuỳ tùng, từ nãy đứng tạo thành vòng tròn ở xa
chung quanh, cũng vội vã đi như chạy theo.
Kể tỉ mỉ tới đó rồi bác Thảo tâm sự:
-
Trên đường trở về, đầu óc tôi bị xúc động mạnh, cứ bối rối. Vì cuộc gặp
gỡ chớp nhoáng, quá ngắn ngủi vừa rồi, không còn để ý tới cảnh vật
chung quanh. Đi bộ xuyên rừng núi trở về tới “nhà” thì đã gần tối. Giao
liên phải ngủ lại đó, để sáng mai cuốc bộ trở lại trạm gốc.
Riêng
Thảo thì vẫn liên miên nghĩ ngợi, phân vân, cố ôn lại xem mình đã có
cảm giác như thế nào khi đã gặp “Người”! Mà tại sao “Bác” đã dặn đò minh
một câu như thế?
-
Đêm ấy nằm mà cứ trăn trở, cứ chợp ngủ, rồi chợt thức, chợp mắt một lúc
là đầy mộng mị kéo tới. Lúc tỉnh dậy mà vẫn còn bàng hoàng, toát mồ
hôi. Sáng ra, tôi cố ổn định tâm thần, lấy lại bình tĩnh để suy nghĩ tìm
hiểu về cuộc gặp gỡ vừa qua. Dĩ nhiên là “người” đã biết trước, đã cho
phép, đã chấp nhận cho gặp, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ.
Hai
thắc mắc chính cứ dằn vặt trong đầu: Sự gặp mặt ngắn ngủi như vậy là có
ý nghĩa gì? “Người” là thế nào? Sao mọi người bắt phái kính cẩn gọi
“người” là “bác”? Sao “bác” lại nói với mình câu ấy? Nó có nghĩa gì?
Thảo nhớ lại lúc “bác” im lặng chằm chằm nhìn mình, có lẽ “bác” lục lọi
trí nhớ xem kẻ đứng trước mặt là người như thế nào, để suy nghĩ xem cần
phải nói gì với nó. Sau chỉ ba mươi giây, mà sao như quá dài. Thảo không
thể quên cái cảm giác thấy ớn lạnh, như chịu không thấu cái nhìn soi
thấu tâm can, vào thân phận minh như thế. Cái nhìn ấy đã làm cho Thảo
bỗng cảm thấy minh là một đối tượng “có vấn đề”! “Vấn đề” đây là
đã bị nhiễm tư tưởng phương Tây, bởi đã đọc nhiều sách vở của phương
Tây! Đúng là như vậy! Bởi thế mà “bác” không muốn hỏi han hay tỏ ra thận
mật với một kẻ “có vấn đề đã bị nhiễm tư tưởng phương Tây”, dù là kẻ ấy
mới từ bên kia địa cầu trở về! Và có lẽ vì vậy mà phải nhắc nhở bằng
một câu ngụ ý răn đe có ý chê “sách vở ở bên Tây” là vô giá trị, nên về
đây là phải “học tập nhân dân”!
Mà dĩ nhiên “nhân dân” đây là “đảng”, là “bác”, chứ không phải là thứ
dân thường vất vả vẫn gặp ngoài đời: Mặc dù lần gặp gỡ ngắn ngủi này đã
diễn ra hoàn toàn riêng tư, âm thầm, bí mật giữa “ông cụ” và Thảo, nhưng
rồi sau nó đã được phổ biến rộng rãi ở khắp nơi! Càng suy nghĩ về lần
gặp gỡ, càng nghiền ngẫm lời khuyên bảo như một mệnh lệnh, càng tìm ra ý
nghĩa một sự kiện chỉ dành riêng cho Thảo, vậy mà nó đã được rao giảng
rộng rãi trong giới trí thức… Tất cả vụ việc đó đã khiến Thảo nhận ra
mình đã bị lãnh đạo dùng làm bài học: “đọc nhiều sách vở bên tây” có
nghĩa là đã bị đầu độc (!?) nên bị nghi kỵ, kỳ thị, bị ghi vào một thứ
sổ đen, trong danh sách những “kẻ có vấn đề”! Từ đó nảy sinh nơi Thảo mặc cảm là một “kẻ có vấn đề”.
Mặc cảm này càng về sau càng được minh chứng bởi những khó khăn đã gặp
trong cuộc sống hằng ngày, nó cứ đau đáu đeo đuổi, thường xuyên hành hạ,
đe doạ tâm thần Thảo tới cuối đời. Càng suy nghĩ càng thấu cái đòn nghi
kỵ của “bác Hồ”. Vì câu nói ấy, tuyệt đối chỉ có “bác Hồ” và Thảo biết
thôi, vậy mà sau này nó đã được phổ biến rộng rãi khắp dân gian! Điều đó
chứng tỏ giây phút gặp gỡ chớp nhoáng ấy là cả một sự chuẩn bị để làm
bài học răn dậy đám trí thức ỷ mình có học, có bằng cấp của tây!
Rồi bác Thảo thú nhận:
-
Từ đó tôi đã cố công gom góp những giai thoại, những nhận định của mọi
người từng có dịp quan sát vị lãnh đạo, lãnh tụ này, để có một cái nhìn
biện chứng về “ông cụ”, về “bác Hồ”.
- Vậy theo bác, “ông cụ”, “bác Hồ” ấy là người thế nào? Có gì là đặc biệt khác thường không?
-
Có lẽ sẽ chẳng có ai có thể đưa ra một lời giải đáp giản dị về một nhân
vật vô cùng phức tạp, vô cùng ẩn hiện với quá nhiều huyền thoại đã được
thêu dệt nên này. Những lời kể của mấy người có trình độ, từng có kinh
nghiệm về “ông cụ” mà tôi đã gặp và tôi thấy tin được, thì đều nhấn mạnh
rằng đấy là một nhà chính trị “hư hư, thực thực” rất khó hiểu! Người
thì định nghĩa vị lãnh đạo này là “bốn chục phần trăm sự thật và sáu
chục phần trăm huyền thoại”. Người thì giải thích sở dĩ không thể có một
cái nhìn chính xác, cụ thể về “bác Hồ” là vì hành tung, hành trình của
“người” thì đầy hoả mù, đầy mâu thuẫn. Chi tiết này phản bác chi tiết
kia. Cuộc đời ấy là một hành trình thành đạt rất gập ghềnh, đầy bí mật,
khác lệ thường! Phải biết thật rõ từng bước thành đạt ấy, thì mới hiểu
được những quyết định lịch sử của “ông cụ”. Đó là cả một ý chí cương
quyết vươn lên đỉnh cao quyền lực bằng bất cứ giá nào, với bất cứ phương
tiện nào, với quyết tâm thoát ra khỏi số phận một con người bình
thường. Từ ý định rất thực tiễn của lá đơn xin vào học trường Hành chính Thuộc địa,
là trường dạy ra để làm quan phục vụ phong kiến, thực dân, nhưng lá đơn
ấy đã không được chấp thuận. Rồi sau là những bước lưu lạc muôn nơi,
muôn nẻo, phải thay tên đổi họ cả trăm lần, từ bước sinh hoạt trong đảng
xã hội Pháp để rồi tham gia vào việc thành lập đảng cộng sản Pháp,
nhưng cũng đã không mang lại lợi lộc gì… Sau thì ngả hẳn sang phía Đệ
Tam Quốc tế… nhưng rồi cũng tới những lúc bị bỏ rơi, bị nghi kỵ, bị tống
khứ khỏi Liên Xô… Biết bao đoạn đường khó khăn, bao lần thất bại, bị
ruồng bỏ, bị lên án, bị khai trừ… Tất cả những chướng ngại ấy cuối cùng đã
tác thành một con người có tung tích bí ẩn, có tâm thức đa nghi, có
phản xạ đa diện, nhạy bén, sẵn sàng chụp bắt kịp thời mọi cơ hội, dù là
mâu thuẫn với lý tưởng, với học thuyết, đối nghịch với lương tri, nhưng
điều cốt yếu là để đạt tới mục tiêu. Với những kinh nghiệm của cuộc
sống muôn mặt, muôn hướng, lúc thì vịn vào bên này, lúc bám vào bên kia,
cuối cùng “ông cụ” đã đạt tới vị thế tột đỉnh của quyền lực! Và những
bước tiến thân khác thường ấy đã tạc ra một vóc dáng chính trị ly kỳ,
muôn mặt, muôn vẻ….
-
Nhưng về mặt tư tưởng thì bác thấy cụ Hồ mang nặng những ảnh hưởng nào?
“Ông cụ” có đúng là một nhà vô địch về tư tưởng mác-xít không?
-
Bản thân “ông cụ” lúc thiếu thời thì đã chứng tỏ ảnh hưởng rất sâu sắc
của giáo lý Khổng, Mạnh như một nhà nho… Trái lại, dù đã dấn thân vào
con đường cách mạng, rất ít khi nào ông cụ đi sâu vào lý luận, giảng
giải về tư tưởng Mác-Lê. “Ông cụ” vẫn thường có những liên tưởng hồn
nhiên tới đạo đức Khổng, Mạnh khi răn dậy cán bộ, khi làm thơ, làm vè.
Làm thơ không phải do ngẫu hứng vì hoàn cảnh để giết thời giờ, mà luôn
luôn là do cuồng vọng và mục tiêu chính trị, để ca ngợi mình, để tuyên
truyền cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, ca ngợi thế giới đại đồng
và nhất là để hô hào quyết chiến… Không thấy khi nào “ông cụ” đi sâu vào
học thuyết, vào tư tưởng của Mác. Có lẽ “ông cụ” chỉ chú ý tới cách
khai triển chủ nghĩa Mác của Lẻnine, của Stalin, của Mao nhiều hơn. Tôi
không thấy có luận chứng chỉ rõ “ông cụ” là một người mác-xít. Nêu nói
về tư tưởng cách mạng thì “ông cụ” đã chịu nhiều ảnh hưởng của Lenin,
của Stalin, của Mao, nhất là Mao. Phải nói thẳng ra là Mao đã như trực
tiếp bẻ lái “ông cụ”. Cái mảng tối nên tìm hiểu là lúc được bố trí vào
làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Tàu, với quân hàm thiếu
tả thì “ông cụ” đã tuyên thệ gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc vào lúc
nào, do ai đỡ đầu? Tuyên thệ như thế thì có phải từ bỏ quốc tịch Việt
Nam hay không? Ngay sau khi vào tiếp thu Hà Nội, tôi đã được nghe kể
nhiễu về “sự ưu ái của Mao chủ tịch vĩ đại” đối với “bác Hồ”. Một cán bộ
từng là đảng viên kỳ cựu của đảng cộng sản Trung Quốc, sau cũng về theo
phục vụ “bác Hồ đã khoe rằng Mao chủ tịch có con mắt tinh đời nên đã
nhận ra tài lãnh đạo của “đồng chí Lý Thuỵ”, lúc đó vừa bị Đệ Tam Quốc
tế đuổi khéo về lại Viễn Đông. Chính Mao chủ tịch đã thu xếp, đề bạt để
“bác” gia nhập đảng cộng sản Trung Quốc và đưa vào làm việc trong Bát Lộ
Quân, rồi chỉ đạo “bác” đứng ra thành lập đảng cộng sản Việt nam để kết
nghĩa anh em với đảng cộng sản Trung Quốc. Và sau này chuẩn bị về cướp
chính quyền ở Việt Nam… Câu chuyện này tôi đã có dịp hỏi đồng chí Hoàng
Văn Hoan, từng được coi như là “gạch nối giữa “bác Hồ với Mao chủ tịch”,
thì được trả lời gián tìêp rất mơ hồ rằng “bác Hồ là đảng viên của đảng
cộng sản Trung Quốc từ lúc đầu, ngày nay Mao chủ tịch và bác Hồ, tuy là
hai nhà lãnh đạo hai đảng, nhưng cả hai chỉ là một, vì cùng một lý
tưởng, một mục tiêu”! Bởi thế nên mới xảy ra vụ quân Tưởng xét giấy và
khám thấy trong người “ông cụ” mang quá nhiều đô-la, khiến “ông cụ đi bị
bắt…”. Những ràng buộc giữa “ông cụ” với đảng cộng sản Trung Quốc trong
giai đoạn này cho ta hiểu về sau tại sao đảng cộng sản Việt Nam đã được
đảng cộng sản Trung Quốc tận tình trợ giúp đến như vậy. Và tại sao
“đảng” đã chấp nhận phát động chính sách cải cách ruộng đất y hệt chính
sách “thổ cải” của Mao ở Trung Quốc, mặc dù lúc đó chiến tranh bắt đầu
bước vào giai đoạn quyết liệt, cần tới sự hi sinh của mọi thành phần dân
tộc. Ai cũng biết “sự hi sinh là không phân biệt giai cấp”, tại sao lại
phát động “phân biệt giai cấp” vào lúc ấy? Tại sao có sự tuân phục
tuyệt đối đến mức ấy? Vì nhu cầu xin súng đạn? Vì lòng khâm phục tư
tưởng Mao Trạch Đông? Khi được hỏi tại sao “bác” không viết sách tư
tưởng, thì “bác” trả lời “…Tại vì bác Stalin, bác Mao đã viết cả rồi”!
Chẳng những thế, “ông cụ” còn khoe khéo rằng ngoài tư tưởng của Stalin,
của Mao, “bác” còn am hiểu cả tư tưởng của Chúa, của Phật và cả của
Mahomet nữa.. Nhưng lúc khuyên răn cán bộ, đảng viên, thì “ông cụ”
thường quen miệng nhắc đi nhắc lại những đức tính của đạo nho như “cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư… “ông cụ” tỏ vẻ thấm nhuần đạo lý
Khổng, Mạnh vì biết xã hội ta chịu ảnh hưởng ấy. Theo tôi chiêm nghiệm
thì ông cụ không đọc kỹ sách vở của Marx, nhưng đã đọc cuốn “Le Prince
“ (Ông Hoàng tử) của Machiavel… Vì cách “cầm quyền tuỳ cơ ứng biến” của
ông cụ là đúng theo Machiavel, tức là tận dùng mọi cơ hội, mọi thứ
quyền lực có thể có, lợi dụng mọi thứ có thể lợi dụng, để tỏ ra là kẻ có
uy lực khiến người ta nể và sợ, để người ta phải sùng bái…
- Nhưng trong đời tư thì “ông cụ” là người có tính tình, tình cảm thế nào?
-
Về mặt tình cảm, theo tôi nghe kể, thì “ông cụ” tỏ ra kín đáo khó hiểu.
Các nhà nghiên cứu hàn lâm khi nghiên cứu vị lãnh tụ này, thường nhìn
“ông cụ” qua những Văn bản tuyên truyền của “đảng”. Các văn bản trong
hành chính thì chỉ mang tính giai đoạn. Mà văn bản chính thức của “đảng”
thì đã tô hồng nhiều, không mấy tôn trọng sự thật. Vì thế nên không thể
hiểu nổi tính tình, cách hành xử trong đời tư của “ông cụ”. Vì thế nên
rất khó mà có thể hiểu rõ được con người “ông cụ” về mặt chính trị, nhấi
là về nhũng chọn lựa quyết định có tính cơ hội, giai đoạn vào những lúc
dầu sôi lửa bỏng…
-
Về mặt đời tư thì chẳng hề thấy tư liệu nào dám đề cập tới một cách
trung thực, thấu đáo. Bới về mặt tình cảm, gia đình thì đã có nhiều điều
bị che giấu!
-
Thật ra thì ông cụ luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài khô khan, sắt thép,
nặng lý trí đến vô cảm. Một cán bộ từng phục vụ gần cụ Hồ kể rằng “ông
cụ” rất xa cách, lạnh nhạt với gia đình họ hàng thân thích, không mấy
khi nhắc tới nơi chôn rau, cắt rốn của mình, muốn giấu kỹ gốc gác, chỉ
vì cái gốc của ông cụ không phải là họ Nguyễn…. Lúc đã thành danh, “ông
cụ” cũng không tỏ ra thiết tha với những ràng buộc thân thiết với ông
anh Nguyễn Sinh Khiêm và bà chị Nguyễn nhị Thanh… “ông cụ” chỉ miễn
cưỡng vài lần chính thức về thăm lại quê cũ. Những lần gặp lại ông anh
và bà chị cũng chỉ diễn ra kín đáo, rất ngắn ngủi như gặp những người
dưng.
Những
giai thoại về “cụ Hồ” thì cũng đều chứng tỏ sự khô khan về mặt tình cảm
gia đình. Về mặt đối tác, cộng tác cũng vậy, trong những việc lớn hay
nhỏ, ngoài ảnh hưởng tối cao của Marx, của Mao ra, chưa một lần “ông cụ”
chứng tỏ đã nghe, đã chấp nhận ý kiến của một ai. Nói chi tới tình cảm,
tình thương, tình nghĩa đối với một đứa con của tổ quốc, vừa từ bên kia
địa cầu trở về, như trường hợp của tôi! Vì thế mà cho tới nay, chưa có
ai đã khám phá ra hết mặt thật, hết những hậu ý của những quyết định mà
“ông cụ” đã thực hiện trong bước đường tiến thân, trong chiến tranh,
trong cách mạng!
Chương 12.Giải mã lãnh tụ
CHẾ ĐÔ ĐỘC TÀI
CHẾ ĐÔ ĐỘC TÀI
-
Tôi về nước với mộng ước được tham gia làm cách mạng, góp ý giúp dân,
giúp nước, chứ không mưu tìm một địa vị trong quyền lực. Tôi nghĩ mình
phải giữ sao cho cái đầu và con tim như của mọi người, để có thể chia sẻ
niềm vui, nỗi buồn của mọi người! Nhưng “ông cụ” thì khác. Bởi “ông cụ”
có cuồng vọng làm lãnh tụ, muốn tận tay mình dẫn dắt dân tộc từ thân
phận nhược tiểu đi lên thế giới đại đồng. Muốn vậy, thì phải nắm cho
bằng được uy thế tột đỉnh, quyền lực trong tay, để chung quanh phải kính
nể, kính phục mà tuân lệnh, mà sùng bái. Làm lãnh tụ không thể là một
người bình thường, càng không thể tỏ ra là tầm thường.
Nay nghĩ lại lúc gặp “Người” lần đầu tiên, mà tôi thấy lúc ấy mình ngốc
quá. Bạch diện thư sinh mà dám tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ! Đấy là tôi chưa bàn tới những bàn tay của bao phe phái quỷ quái, của cả ngoại bang… đang bao vây lãnh tụ!
- Nhưng lần tỏ ra là tay ngang với lãnh tụ là thế nào?
-
Tôi nhớ rất rõ hôm ấy là ngày mùng 5 tháng sáu, năm 1946. Lúc đó, trùng
buổi chiêu đãi “phái bộ cụ Hồ” vừa tới Paris để lo việc điều đình với
Pháp, vì sự bồng bột của tuổi trẻ, nên tôi hồn nhiên vui mừng, thân mật,
vồn vã chạy tới nắm chặt tay “ông cụ” một cách nồng nhiệt và nói: “Tôi
rất hân hạnh được gặp cụ chủ tịch!” Cụ Hồ cũng vui vẻ đáp: “Chào chủ
Thảo!” Nghe vậy, tôi rất cảm động, nghĩ rằng Hồ chủ tịch đã thân mật coi
mình như đứa em trong gia đình…
Cuối
bữa ăn, Hồ chủ tịch kêu gọi anh em Việt kiều về nước tham gia kháng
chiến, thì tôi hăng hái, xin được trở về ngay để được phục vụ cách mạng
và quê hương.
Tôi còn tỏ ra là mình hơn hẳn các anh em Việt kiều khác khi khoe rằng tôi
cũng đã bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl Marx và về cuộc Cách mạng
tháng Mười ở Nga… Tôi “tôi cũng đã bỏ công nghiên cứu về tư tưởng Karl
Marx và về cuộc Cách
mạng tháng Mười ở Nga… Tôi rất mong ước được về nước cùng cụ xây dụng
thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp… tại quê hương ta”! rất mong
ước được về nước cùng cụ xây dụng thành công một mô hình cách mạng tốt
đẹp… tại quê hương ta”!
- Nghe vậy, thì cụ Hồ đã có phản ứng như thế nào?
-
Ông cụ lúc ấy chỉ mỉm cười nhạt, nhưng nét mặt thì vẫn lạnh lùng khi
nhìn tôi. Tới lúc Hồ chủ tịch lần lượt bắt tay từ biệt mọi người. Khi
bắt tay tôi thì “ông cụ” nói với tôi một cách nghiêm nghị:
- Còn chú Thảo này thì cách mạng chưa cần tới chú lúc này đâu. Chú cứ ở lại Paris thì có lợi cho cách mạng và cho chú hơn.
Tôi
hơi bị bất ngờ trước lời khước từ đột ngột như thế. Tôi đã kể lại lần
gặp gỡ này cho một người bạn mới quen ở ATK, tên là Đa, một trí thức có
vẻ cởi mở hiếm thấy.
Nghe kể xong, Đa lè lưỡi, lắc đầu, khoát tay tỏ vè lo sợ đến lớn tiếng:
-
Thế thì chết! Chết thật đấy! Tôi không doạ anh đâu. Anh khôn hồn thì
tìm cách lặn cho sâu, tránh cho xa lãnh tụ đi! Không nên nán lại ở ATK
này nữa. Phải xin đổi công tác đi. Nói câu ấy ra là “Người” đã khai trừ
anh rồi đấy. Tỏ thái độ ngang hàng như thế là anh đã tự tuyên án tử hình
cho chính mình rồi đấy!
-
Sao mà anh sợ hãi, hốt hoảng quá vậy? Chuyện ấy xảy ra cũng đã lâu rồi,
năm, sáu năm rồi. Chứ có phải mới hôm qua đâu. Mà có gì khiến anh hoảng
sợ quá vậy?
Đa lại lắc đầu nói:
-
Vậy là anh chẳng hiểu gì về “ông cụ” và đám người chung quanh “ông cụ”
cả sống ở gần “trung ương” mà không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm
lắm đấy! Vì
trong đầu “ông cụ” đầy ắp cuồng vọng quyền lực tối cao. Anh phải biết
là cho tới nay, những ai đã từng coi thường “Người”, từng tỏ ra ngang
hàng với “Người”, thì sau đều đã vinh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt
của “Người”. Không ít người đã mất mạng, mất cả xác vì dám có ứng xử tay
ngang như thế đấy.
- Tôi không hiểu nổi tại sao lại có thể tàn nhẫn khủng khiếp đến thế?
-
Vì vậy mà phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng “ông cụ” có tâm
thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng, luôn luôn
toả sùng bái một thứ hào quang thần thoại đúng với truyền thuyết lịch sử
“con rồng, cháu tiên”… Và đám quần thần chung quanh “ông cụ” không tha
thứ cho một ai dám tỏ mình là ngạng hàng với “Người”. Từ những tay trí
thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm… cho tới kẻ
được đào tạo chính quy như Trần Văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có
uy tín khác nữa… đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế.
Tất cả đều đã bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta ưa kể
cho nhau nghe rằng Tạ Thu Thầu đã chết mất xác vì cầu nói: “Ngoài bắc có
cụ, trong nam có tôi”!
Rồi bác Thảo giải thích thêm:
-
“Ông cụ” có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân
tộc đi tới thế giới đại đồng. Phải hiểu ý chí ấy, cuồng vọng ấy của “ông
cụ;” Dù khó khăn mấy, hao tổn mấy thì cũng phải hoàn thành cho bằng
được. Vì thế nên “ông cụ” quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh
cao, để củng cố quyền lực bằng mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của
lương tri của đạo lý… cứ như theo sách vở của Machiavel mà tôi nghĩ ông
cụ đã đọc, và đã thuộc lòng! Vì thế “ông cụ” thấy con dường chuyên chính
vô sản của xã hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất. Các nhà nghiên nước
ngoài đã không chú ý nhiều tới “cuồng vọng lãnh tụ” ấy khi họ tìm hiểu
“ông cụ”! Họ thấy phong cách lãnh đạo của “ông cụ” như thế là do bản
năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy đã mang sẵn trong đầu những
định kiến chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói loà bởi những huyền
thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã vô tình sử dụng
quả nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của “đảng”. Họ đã không hiểu
những hành động cực đoan của cuồng vọng. Như vậy thì làm sao họ hiểu hết
được mặt trái, mặt phải “ông cụ”.
Phải
biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của “bác Hồ” là tác phẩm của
cả một công trình nghệ thuật hoá trang cao độ, một công trình điểm tô,
dàn dựng, để công kênh “ông cụ” lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt
xuất, như là bậc thần, bậc thành, để dân chúng một lòng tin tưởng mà
sùng bái. Tất cả phải bày tỏ lòng lòng kính trọng; bằng tâm thức hãnh
diện tự nguyện làm vật sở hữu của lãnh tụ như một vinh dự, một mẫu mực
giá trị… “Ông cụ” được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân
tiêu chuẩn lý tưởng: cái gì có giá trị thì cũng phải là của “bác Hồ”,
của “cụ Hồ!” Nào là “cháu ngoan bác Hồ”, cây vú sữa “bác Hồ”, “nhà sàn
bác Hồ” cho tới anh “bộ đội cụ Hồ”! Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp
suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị… thì cái đó phải
là của “bác”, của “đảng”. Trong tuyên truyền có cả một “huyền thoại về
quả cam” của bác Hồ: có cán bộ thơ, cán bộ chính trị, quan lại triều
Nguyễn đã kể về thành tích được “bác Hồ” tặng một quả cam! Quả cam ấy đã
được trân trọng đón nhận như một “ơn thánh thiêng liêng”, được mang ra
chia sẻ cho cả gia đình… Giai thoại “quả cam” được coi như biểu tượng
cuồng tín của một “thứ phong kiến cộng sản”!
Trong
tuyên truyền, người dân được dạy bảo phải một lòng kính cẩn những gì
liên quan tới đòi sống “bác Hồ”, nhưng thực tế thành công thì trong hành
động, người dân lại hiểu rõ kinh nghiệm linh động muôn mặt, muôn hướng,
muôn phương cũng như hành tung bí mật, phức tạp của “bác Hồ”!
Đau
đớn cho một nhà văn, khi vừa hoàn thành một tác phẩm, một bài báo ưng
ý, hí hửng tới đưa cho chủ nhiệm đọc thì bị chê: “Bài này thiếu tính
bác, tính đảng, chỉ vì trong tác phẩm, trong bài báo thiếu vắng cái phần
không thể thiếu là phần công thức ca ngợi công ơn của “bác Hồ”. Tại sao
một đảng cách mạng, lấy việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu,
mà lại muốn biến tất cả thành sở hữu của ỉãnh tụ, của đảng cầm quyền?
Đấy không phải là tâm thức của con người đã được giải phóng, mà đấy là
tâm thức của con người đã bị dụng cụ hoá, nghĩa là đã mất tự do. Bởi
phải tỏ ý nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tế, cho nhóm quyền lực “lãnh
đạo”! Đấy là do tình trạng đã của kẻ đã quá sùng bái, đã quá tin. Đấy
là căn bệnh của chủ nghĩa “ngu tín”, chủ nghĩa “cuồng tín”. Phải giải mã
cho cặn kẽ những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ
thì mới mong thoát ra khỏi tình trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Khi
muốn nghiên cứu kỹ về “cụ Hồ”, cũng phải tìm hiểu tất cả những công
việc bố trí của “guồng máy” bao trùm, liên quan tới một sinh hoạt đời
sống công và tư, tuỳ thuộc tính tình, tuỳ cách xử sự trong gia đình… tới
cả các biện pháp tổ chức phục vụ, bảo vệ “bác Hồ”. Phải thấy cách dàn
dựng lên những giai thoại, tạo ra những khung cảnh huyền bí chung quanh
”bác Hồ”. Phải hít thở không khí tôn sùng, thờ kính, phục tùng lãnh tụ
như thế, thì mới có thể tương đối hiểu phần nào cung cách hoạt động, ý
hướng chính sách, giá trị của những chọn lựa của lãnh tụ. Tất cả phải là
tạo cho quần chúng một niềm tin tuyệt đối vào lãnh tụ. Từ những quyết
định lớn tới những việc nhỏ nhặt, tất cả đều mang dấu ấn nhũng phương
pháp tâm lý tinh vi tôn sùng lãnh tụ. Chính vì sự sùng bái tuyệt đối này
mà đã đưa tới những đánh giá không ăn khớp với thực tại đầy tiêu cực và
tích cực của lịch sử. Vì khi khen quá, hay chê quá, thì phải chối bỏ
cái phần tiêu cực, hoặc tích cực. Sự chối bỏ như thế thì không còn gì là
sự thật lịch sử nữa, mà chỉ còn là… huyền thoại đã đượt thêu dệt theo
hướng sùng bái. Dĩ nhiên khi đã thêu dệt huyền thoại thì không còn giá
trị khoa học của nghiên cứu nữa. Lịch sử luôn luôn chứa đựng cả cái tốt
lẫn cái xấu. Nói chỉ có tốt thôi, hoặc chỉ có xấu thôi thì không được.
Mà khi muốn cân nhắc tỉ lệ tốt xấu, tức là phải xét vấn đề công, tội.
Việc làm này dễ gây căng thẳng bi thảm. Vì dễ sa vào thái độ cực đoan!
Cực đoan và sự thật không bao giờ đi đôi được với nhau.
- Cứ
theo thực tại mà xét, thì “ông cụ” là một con người cực kỳ vị kỷ, mang
mặc cảm tự tôn tuyệt đối. Từ cách mang đôi dép râu bình dân, từ cách để
hở ra cái áo lót nâu đon sơ, thủng vài lỗ bên trong, tưd cách không cài
hết khuy áo sơ-mi, tới cách khoác hở cái tấm nhựa bên ngoài, đó là những
cách thức phô diễn đá được chọn lựa, cân nhắc rất kỹ. Những chi tiết ấy
tạo ra một thứ vương bào siêu vật chất, đầy hào quang của cách mạng vô
sản! Vương miện của “Người” chính là chiếc mũ “cát” vải có vẻ tầm
thường, nghèo nàn. Nhưng nó biểu hiện tính khỉnh mạt, bất chấp thời
trang quyền quý, quan cách, như thách thức cái lối ăn mặc sang trọng,
hiện đại theo kiểu Tây phương. Phong cách ăn mặc như thế là sự phỉ báng
những thứ áo gấm, áo thụng kiểu phong kiến. Lối ăn mặc cố ý tạo vẻ “bình
dân” trong đám người chính trị, hoặc giữa dân chúng như vậy là một cách
tự tôn rất cao siêu! Từ cách cầm điếu thuốc cháy dở, cách mỉm cười lạnh
lùng, khinh bạc, cách nhìn thẳng vào mặt đối tượng như một thách thức,
cách hỏi han đám đông kiểu bề trên chăm sóc bề dưới.,.. Tất cả những
dáng điệu, cử chỉ trong mỗi tấm hình, trong từng bối cảnh, trong từng
trường hợp… đều có cùng một mục đích: luôn luôn chứng tỏ vị thế thượng
đỉnh của một vị lãnh tụ tối cao sáng ngời, phi thường! Tất cả chi tiết
ngoại cảnh đều là những nét chấm phá đã được gạn lọc, đã được nghiên
cứu, dàn dựng tỉ mỉ từ trước, để hình ảnh “Người” không bị chìm lẫn
trong đám nhân loại tầm thường chung quanh! Đấy là vóc dáng của một thần
tượng vượt trội, đứng trên một bệ đá uy quyền tột đỉnh trong lịch sử!
“Người” không để hé lộ một một kẽ hở nào, để có thể bị coi thường một
cách nhầm lẫn, không để một mưu toan tìm tòi khám phá nào có thể thẩm
thấu vào những suy tư, vào những hậu ý, vào tư tưởng của “Người”![...].
.
Thật sự là, khi đã đạt tới đỉnh quyển lực, thì ông cụ đã phải sống trên
đỉnh tháp ngà, không có bạn hữu thân tình, tri âm, tri kỷ nào cả. Không
người thân thương để tâm sự, không người chân thành để đối thoại vui vẻ
trong tóc nhàn rỗi, bông đùa khi trà dư, tửu hậu. Không bạn thơ, không
bạn rượu; không cả bạn đời tâm tình thẩm kín riêng tư. Tất cả chỉ là
những dụng cụ, cuộc đời khô khan của lãnh tụ lịch sử, không có chỗ cho
bạn tâm giao, tâm tình… mà cũng chẳng hề có đồng môn, đồng chí! Chỉ có
những kẻ tỏ ra sự trung thành của đám bầy tôi, khúm núm chờ lệnh dưới
ngai vàng của quyền lực, chỉ có những đối tác officiel (chính
thức) trong chốn cung đình, chính trường… Đa số những người được chọn
đều là mấy nhà văn, nhà thơ, mấy nhân vật chính trị, mấy nhà văn hoá
nước ngoài đã được guồng máy tuyên, truyền ca ngợi… Điển hình cho sự đề
cao, đề bạt; một cách phi thường là trường hợp của nhà thơ Tổ Hữu, một
cán bộ không có thành tích chính trị hay cách mạng gì xuất sắc nào
ngoài, mấy bài thơ ca ngợi lãnh đạo cách mạng. Đặc biệt là một bài thơ
đã được đưa vào chương trình giáo dục vì nó hết lòng ca ngợi, tôn thờ
“bác Hồ”! Và vì vậy mà “đụng tới Tố Hữu” là đáng tội phản động cách
mạng.
-
Nhưng khi đã ông cụ lên tới đỉnh vinh quang như thế thì tại sao không
thấy lưu lại một tác phẩm nào về mặt tư tưởng hay lý luận nào của “ông
cụ”?
-
“Ông cụ” đã giải thích rằng “vì bác Stalin, bác Mao… đã viết cả rồi!”.
Sự khiêm tốn của lời tuyên bố ấy đã làm cho máy tay trí thức có xu hướng
sùng bái hiểu lầm. Với lời tuyên bố ấy, thật ra là ông cụ muốn nói rằng
tư tưởng của “Người” là bao hàm, là gom thâu tất cả tư duy của các nhà
tư tưởng lớn của cách mạng. Chẳng nhũng thế mà còn là của cả nhân loại,
qua tất cả mọi thời đại của sử sách. Đã hơn một lần “Người” khoe khéo tư
tưởng của Người là cả một kho tàng tư tưởng của các bậc tổ tiên, của
các nền văn hoá xuất phát từ Khổng Tử, Trang Tử của Trung Quốc, cho tới
Phật Thích Ca của Ấn Độ, cho tới Chúa Ki-tô của nền văn minh phương Tây!
Rồi còn là tư tưởng của nền văn minh Ả Rập với đấng Tiên tri Mahomet,
đấng đã hứa mang vào thiên đàng, những ai dám hi sinh ôm bom lao vào kẻ
thù… Bởi các đặc công của “Người” cũng thường hi sinh, ôm bom
lao vào… kẻ thù trong chiến tranh cũng như trong hoà bình, ở nông thôn
cũng như ở thành thị như thế! Tự tôn là một căn bệnh tâm lý thường thấy
nơi các lãnh tụ độc tài trong lịch sử. Lãnh tụ luôn luôn chứng tỏ mình
là đỉnh cao chót vót trong thiên thu lịch sử của tất cả các nhà tư tưởng
cổ kim! Sự khiêm tốn, sự bình dân của lãnh tụ chỉ là sự dàn dựng của
một thứ mặc cảm tự tôn siêu đẳng! Nên nhớ là có khả nhiều tác phẩm đã
hết lời ca tụng “ông cụ”, mà tác già cũng chính là “ông cụ”! Chính ông
cụ đã tự xưng tụng minh là “Ái Quốc” là “Vương”, là “Chí Minh” cơ mà!
Sau khi dài dòng nêu ra những đặc tính của lãnh tụ như thế, bác Thảo nhấn mạnh:
- Thực
tế mà nói thì “ông cụ” biết rằng về trình độ tư tưởng, lý luận cách
mạng, thì mình làm sao so được với những Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy
Tập, Nguyễn Văn Cừ là những người đã được đào tạo chính quy, ngay cả
với Trường Chinh cũng vậy… Thế nên phải tìm cách chế ngự các đối thù ấy.
Phải cố nêu gương, nêu phong cách sống cao thượng, thanh đạm của một
chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách mạng chân chính. Vì một lẽ giản dị
là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt, muôn vẻ rất ly
kỳ, đầy bí mật của “cụ Hồ”, lúc “xuất quỷ”, lúc “nhập thần” như thế nên
không ai có thể sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân “Phải sống và làm việc theo gương bác Hồ”.
Nhưng làm sao một người bình thường có thể sống với tung tích không rõ
rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành
động muôn mặt như “bác Hồ” được! Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có
khả năng dựng nên những huyền thoại của một cuộc đời phiêu bạt, nay đây,
mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau, làm nhiều nghề sang, hèn
khác nhau… Hành trình gập ghềnh, khúc khuỷu của ”bác Hồ” thì khó ai có
thể đi theo. Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học trò
nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan Thiết, từ một
anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thuỷ, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở
Paris, từ một kẻ mượn danh một nhóm ái quốc “An-nam” viết báo, viết kiến
nghị gửi hội nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng
xuất hiện ở Nga, mai lại là một cán bộ ở bên Tầu, nay bị Đệ Tam Quốc tế
loại trừ vì có đầu óc “quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi”, mai lại thấy chạy về
ẩn náu ở Trung Quốc, ở Xiêm… rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên
Xô, nhưng chỉ được chầu rìa bên lề đại hội thứ V của Đệ Tam Quốc tế, chứ
không được làm thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào
cộng sản Đông Dương… Rồi sau lại thấy “bác” xuất hiện với bộ áo cà sa ở
Xiêm, rồi là trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận
vào làm việc trong “Bát Lộ Quân” của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc
thì sống y như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng
Khánh, Côn Minh… Sau biết bao truân chuyên, thì rồi bỗng “bác” nổi bật
như một nhà chính trị của mọi cơ hội, một lãnh tụ của cách mạng! Một con
người đa năng, muôn mặt, muôn ý, muôn hướng phức tạp như thế, ai mà làm
theo, noi theo tấm gương ấy được!
Kể tới đó, bác Thảo thú nhận:
-
Nhiều lúc cứ nhớ lại lúc ở Paris, với đầu óc non nớt bạch diện thư
sinh, mà dám ăn nói lỗ mãng như đã thân quen với “ông cụ” ngay lần đầu
gặp gỡ! Nay nghĩ lại mà thấm thía ý nghĩa câu ngạn ngữ của Pháp: “có
những lời nói đã tuyên án tử hình ngay kẻ vừa phát ngôn ra nó!” Sao mà
đã dám hỗn xược, láo lếu, phạm thượng coi trời bằng vung đến thế! Vì cái
tội phạm thượng ấy, mà hồi đó tôi đã bị bỏ lại Paris! Rồi sau này, khi
về tới quê hương, thì đã bị xếp ngay vào diện “có vấn đề”, nên cuộc sống
đã gặp đầy khó khăn, vất vả như thế… Tất cả là do cái tội “đã đọc nhiều
sách vở ở bên tây”! Rồi là kèm theo một lời dạy bảo như một mệnh lệnh
“Phải… gắng mà học tập nhân dân!” Thật không có một đòn “chỉnh huấn”
nào, không có một sự hạ tầng công tác hào nặng nề hơn cái lời nghiêm
khắc ấy. “Gắng mà học tập nhân dân!”. Phải mở mắt, mở tai ra mà “học tập nhân dân!”. Đấy không phải là một lời khuyên, đây là một lời xỉ vả kẻ ngu xuẩn cứ tưởng mình đã đọc nhiều sách vở bên Tây là hay, là giỏi!
[..].-Và
chính học thuyết ấy, giáo điều ấy đã tạo ra cái bóng ma quyền uy của
Lenin của Stalin, của Mao và cả của Pol Pot nữa… Nhưng trên tất cả các
lãnh tụ ấy, lại là tư tưởng Marx! Thủ phạm gốc chính là Marx!
Vì thế mà tôi phải phân tách những khía cạnh thực tế của con người “ông
cụ”, để tìm hiểu cội nguồn, của những ảnh hưởng, những lập trường,
những quyết định trầm trọng có tính lịch sử của “ông cụ”. Đối với những
gì mà ta nhìn thấy, thì những quyết định ấy, bắt nguồn từ tham vọng
quyện lực, từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được… Tới lúc vui
mừng gập được tía sáng của học thuyết “giai cấp đấu tranh”! Rồi chấp
nhận học thuyết ấy lấm kim chỉ nam để đi tới… Tất cả những bước đi theo
hướng ấy đều tạo cợ hội để thành danh, thành lãnh tụ. Để nắm bắt cơ hội
ấy, thì phải suy tư vô cảm, coi những đau khổ của con người là những hi
sinh cần thiết. Những bước “cơ hội” vô cảm ấy chó phép tung hoành muôn
mặt, muôn hướng, không biết thế nào mà lường. Chính “ông cụ” cũng biết,
có những điều ông cụ làm, là điều không hay, nên “ông cụ” vẫn thường bảo
những “đồng chí” chung quanh, những kẻ thân cận rằng “Bác làm gì kệ
bác”
- Như vậy thì tại sao bây giờ lại có phong trào kêu gọi noi theo gương “bác Hồ”?
-
Xét rộng ra mối thấy tầng lớp lãnh đạo sau này chỉ là cái đuôi… của
tuyên truyền giáo điều máy móc, thiếu biện chứng, phản biện chứng! Vấn
đề là không thể bắt buộc noi gương “bác Hồ”. Bởi cách sống muôn mặt,
muôn phương, đa nguyên của “bác” đâu có phải là gương sáng! Bởi những
điều “bác” đã làm nó rất khác, rất trái ngược với những lời “bác” dạy. Bởi đảng, nhà nước đã hành động muôn mặt như “bác” nên xã hội đã loạn!
Trong thực tế đâu có ai sống theo lời dạy của “bác”! Tôi còn được biết
rõ mỗi lần sắp xếp những ai được tháp tùng bác đi gặp các nhân vật nước
ngoài, thì bác thân chinh dặn dò thật là chi tiết, từ cách ăn mặc, cách
nói năng, cách ứng xử phải như thế này, thế nọ. Và lời dặn dò luôn luôn
được kết thúc bằng câu: “Các chú phải ăn mặc, nói năng, ứng xử thật đúng
cách, còn bác ăn mặc ra sao, “bác làm gì kệ bác”. Thật sự là “ông cụ”
biết việc mình làm, thái độ giai đoạn, các quyết định cơ hội của mình
thường là không trong sáng, nên không muốn bất cứ ai được phép hành xử
như… mình, được phép bắt chước mình! Khi gặp khách nước ngoài, đặc biệt
là khi gặp người Pháp, thì “ông cụ” ra lệnh đoàn tuỳ tùng phải ráng ăn
mặc văn minh, sạch sẽ, hợp thời… Còn “ông cụ” thì mặc theo kiểu lãnh tụ
cách mạng Trung Quốc. Thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh trước khi được tháp
tùng đi Pháp, thì “ông cụ” đã bảo ông cứ mặc “complet”, thắt “cravate”
cho thật đàng hoàng! Còn “ông cụ” thì vẫn cứ mặc theo kiểu cách mạng!
Khi qua Trung Quốc thăm Mao chủ tịch, thì “ông cụ” lại mặc một cách hơi
khác đi một chút, với cái áo khoác pardessus bên ngoài cho có vẻ Tây
phương, khác hẳn lối mặc của “bác Mao”. Khi sang Pháp để gặp các nhà
lãnh đạo Pháp, “ông cụ” còn phong ông Vũ Đình Huỳnh làm đại tá “vì ở bên
tây, lãnh đạo luôn luôn có aide de camp (sĩ quan tuỳ tùng) đi hầu cận!” Và từ đó ông Huỳnh cũng phải chịu khó tập chào cho đúng kiểu “bộ đội cụ Hồ”!
Về
cách “bác” nể nang và bênh vực ông Vũ Đình Huỳnh, có giai thoại do
chính đương sự đã khoe ra rằng khi bị mấy uỷ viên trong bộ chính trị
mách rằng “ông Huỳnh vẫn giữ thói ngông tiểu tư sản, lúc nào cũng quần
áo ủi là thật thẳng, lúc nào cũng xức nước hoa “Rêve d’Or”, thì ông cụ bênh ngay: “Ông ấy thích vậy thì kệ ông ấy”. Việc
Vũ Đình Huỳnh được gọi bằng “ông” tức là đa có sự phân cách để cho thấy
Vũ Đình Huỳnh không phải là một “đồng chí”, nghĩa là không phải người
của cách mạng, nên sẽ có ngày bị hất xuống vực thẳm một cách không
thương tiếc. Và sau này thì sự việc đã xảy ra đúng như vậy. Phải chi
được “ông cụ” coi như con cháu, như gia nhân trong nhà thì tương li, hậu
vận mới khá được.[...]
-
Khi đã biết lãnh tụ là như vậy, ai ai cũng phải chấp nhận là như vậy,
thì tôi đã có phản ứng đối phó. Một là cố gắng đổi dạng, học cách sống
theo cách mạng, nghĩa là cũng áo quần nâu sồng, cũng ăn uống đạm bạc, cố
tạo ra cái vỏ ngoài sống lam lũ như một nông dân bần cố. Cứ sống trong
những điều kiện “vô sản”, để cố xoá đi những phô trương lỗ mãng thời
trẻ. Phải bằng cách này, cách khác, biết “cải thiện” mình trước cái nhìn
của đối tác, đối phương cực kỳ sắt thép, đối phương tức là “ông cụ”.
Nhưng thật ra tất cả đều là vô ích. Bởi “ông cụ” đã có cái nhìn phân
biệt, cái nhìn định kiến đối với tôi ngay từ lúc đầu như thế mất rồi.
“Ông cụ” đã sắp hạng con người tôi như thế, tức là đã mặc nhiên tuyên
một bản án bất thành văn, vô phương kháng cáo. Cách nhìn như thế không
phải là của trí tuệ. Thật là đáng tiếc đối với một lãnh tụ. Vì nó quá
hẹp hòi. Bởi cách mạng đã quen nếp hành động “chẳng thà bắt lầm chín
đứa, để không cho một đứa chạy thoát”. Khổ thế đầy! Pascal, một nhà tư
tưởng Pháp có viết: “Con người vừa là thiên thần, vừa là thú vật.
Kẻ muốn làm thiên thần, thì lại là làm thú vật”. Cách mạng muốn làm ông
thành giải phóng con người, thì lại là làm con quỷ bạo lực của hận thù
để nô dịch con người. Lối hành động ấy là phản thần thánh, vì là phạm
tội ác!
Không
giấu được phẫn nộ khi kể ra những kỷ niệm cay đắng về hai lần gặp gỡ
đầy ấn tượng1 bế tắc với “cụ Hố” hồi ấy, bác Thảo nhái giọng Sài Gòn,
nói với chúng tôi y như tự chế nhạo mình:
-
Hồi năm 1946, ở Paris, với vị thế từng được bầu làm “Đại diện cho kiều
dân Đông Dương”, tưởng thế là mình “ngon lành” lắm, sau lại còn dám to
ra ngang hàng với lãnh tụ, rồi có lúc còn ngoan cố toan tính đấu lý với
đám cố vấn Tàu… Bây giờ nghĩ lại mới thấy “nói zậy” mà chưa mất mạng là
may lắm!
- Theo bác thì tại sao bác không bị thanh toán như những kẻ đã dám tỏ ra mình ngang hàng, là đối trọng với “bác Hồ”?
-
Cái đó là do tôi đã sớm đề phòng; Vì thế mà tôi mới sống sót cho tới
ngày nay. Thứ nhất là tôi giữ ý, cố tỏ ra là tuyệt đối không mưu tìm một
vai về chính trị nào, tuyệt đối không mưu tìm gặp gỡ, kết thân với
những trí thức, để tránh bị coi là có ý gây phe phái ở chung quanh. Bởi
chung quanh ông cụ đã có quá nhiều phe phái rình rập nhau. Lúc nào tôi
cũng cố tỏ ra kính phục “ông cụ”. Vì tôi biết quanh tôi toàn là những
con mắt rất cuồng tín, rất nghi kỵ, rất cảnh giác… của các cục “bảo vệ A
này, A nọ”. Sống trong một xã hội ngu tín, của thời cuồng tín như thế
không phải là dễ, sơ hở một chút là dễ… chết như chơi!
-
Lúc có dịp nêu những ý kiến mới mẻ, có nội dung phản biện, thì tôi luôn
luôn phải nhấn mạnh phủ đầu rằng nói như thế là tôi muốn “xây dựng
đảng”. Đã nhiều lần tôi nói công khai với mọi người chung quanh rằng tôi
chỉ ước ao được học tập, theo gương “bác Hồ”. Đấy là để công khai chứng
tỏ một sự đầu hàng “lãnh tụ” với điều kiện để tôi có thể sống sót…
Nhưng cũng phải nhắc tới và biết ơn tới một thế lực đã bảo vệ tôi, đó là
sự quan tâm, chăm sóc của mấy nhà trí thức Pháp, đứng đầu là Sartre. Họ
đã tận tình tỏ ra chăm sóc, theo dõi hoàn cảnh và sức khỏe của tôi khi
họ biết tôi đang bị kìm kẹp. Họ thường xuyên viết thư thăm hỏi và đôi
khi gửi cả thuốc men cho tôi. Có lúc họ còn đòi qua tận Việt Nam để thăm
tôi… Sartre và tôi tuy có vài mâu thuẫn trong tư duy triết học, nhưng
ông và đám bạn bè của ông rất quý trọng tôi, muốn bảo vệ tôi. Vì thế,
tuy bị cánh tuyên huấn ghét bỏ, nhưng tôi nghĩ nhờ sự quan tâm, kính nể
của trí thức của thế giới bên ngoài, mà “ông cụ” đã có sự e nể đối với
tôi. Lúc tôi lâm nguy tới tính mạng trước thái độ quá khích của đám cán
bộ cải cách, khi tôi dám đối đầu với đám cố vấn Trung Quốc, nhóm cán bộ
cực đoan đã chụp lên đầu tôi cái tội đáng tiêu diệt là “có đầu óc phản
cách mạng của bọn đệ tứ”! Nhưng vì “bên trên” chưa ra lệnh, nên cấp dưới
chưa dám ra tay đó thôi. Họ vẫn phải để cho tôi sống. Tuy là sống vất
vưởng như một con thú dữ cần phải canh chừng, “để xem nó còn ra những trò gì”.
Cứ như con mèo vờn con chuột, chưa muốn cắn cổ cho nó chết hẳn. Hơn
nữa, những nhận xét phê bình của tôi, chính “ông cụ” và mấy tay lý
thuyết của đảng cũng không bắt bẻ được, nhưng vì địa vị thượng đỉnh của
“ông cụ”, vì cố giữ “chuyên chính vô sản”, nên họ không thể chấp nhận ý
kiến phản biện có tính dân chủ của tôi. Ngay trong lúc có cải cách ruộng
đất, dân kêu than, khóc lóc quá thì “ông cụ” cũng biết đấy. Vì thế mà
“ông cụ” đã khôn khéo ra chỉ thị “không được dùng nhục hình”, nhưng chỉ
thị ấy đã bị cất xó, để sau này làm sử liệu, chứ nó không hề được phổ
biến, rộng rãi. Bởi còn ý kiến có tính mệnh lệnh của Ban cố vấn, là phải
thẳng tay “phát động đấu tố để tạo khí thế cách mạng”…
-
Khổ thế đấy! Và vì vậy mà tôi muốn nhấn mạnh tới hoàn cảnh phải chịu
sức ép cũng không mấy vinh quang của “cụ Hồ” trong suốt thời gian phát
động chiến tranh! Muốn qua sông phải luỵ đò! Muốn có vũ khí làm chiến
tranh thì phải nghe người ta, phải kiêng nể cố vấn, nên cũng đành phải
hi sinh một phần uy quyền, chủ quyền. Chứ mình có tự chủ hoàn toàn như
mình muốn đâu. Lúc đó lãnh đạo đang bận tâm vì chiến tranh, không ai
nghĩ tới chuyện phát động cải cách ruộng đất dã man như thế. Nhưng, như
tôi đã nói, trên mỗi thân phận đều có một bỏng quyền lực ma quái hơn nó
bao trùm, nó ép, nó đè… Trên
thân phận. Trần Đức Thảo là cái bóng ma quyền lực Hồ Chí Minh, nhưng
trên thân phận Hồ chí Minh lại là cái bóng ma đế quốc bành trướng vô
cùng độc đoán, lấn át của Mao! Nhưng xét cho cùng, thì trên tất cả những
thân phận lãnh tụ cộng sản, đều có cái bóng ma vô cùng vĩ đại, vô cùng
áp đảo của Marxí [..]. Đó cũng là những đau khổ vô cùng của
con người trong các cuộc cách mạng bằng bạo lực của hận thù ở Nga, ở
Trung Quốc, ở ta, ở Campuchia… Chính vì đã đẩy tầm nhìn lên thượng tầng
của tư tưởng, đưa lý luận, lý giải tới tận cùng của lương tri như vậy,
thì phải nhìn thấy rõ cái gốc của mọi sai lầm và tội ác của cách mạng và
của chính mình! Muốn phân tích rõ mọi sự thì phải là một cuốn sách vĩ
đại… Bây giờ thì chỉ có thể bàn trong giới hạn của một vài chi tiết, một
vài khía cạnh mà thôi.
-
Như mọi người đã thấy đấy, chỉ vì ảnh hưởng của ý thức hệ mà chưa bao
giờ ở đất nước này lại thấy có một chính quyền, một đảng chính trị lại
vâng lời, lại phục tùng, lại sùng bái con đường hùng bạo của đáng cộng
sản Trung Quốc đến mức đó. Cứ như mình là con đẻ của đảng cộng sản Trung
Quốc. Mà sự thực là như thế! Dĩ vãng ngàn năm Bắc thuộc đâu dễ gì xoá
đi được. Rồi với hàng vận cán bộ của “đảng ta” đo Trung Quốc đào tạo về
mặt ý thức hệ nữa… Vì hiểu rõ tình trạng ấy, nên tôi cố gắng tìm luận
chứng phản biện thật sáng tỏ, để thuyết phục lãnh đạo, để tránh những
bước mù quáng quá trớn tai hại trong giai đoạn bị thôi thúc phải chuẩn
bị mở lại chiến tranh. Vì làm chiến tranh thì phải nhờ vả, quỵ luỵ bên
ngoài, tức là phải sùng bái anh cả đỏ Trung Quốc, chứ tay không thì đánh
ai được. “Ông
cụ” cứ tưởng có thể làm chủ tình hình trên đất nước của mình, cứ tưởng
có thể tung hoành áp đảo dư luận quốc tế… nhưng kỳ thực là trên bàn cờ
quốc tế, ở thời nào cũng vậy, một lãnh tụ nước nhỏ luôn luôn hứng chịu
sự khuynh đảo tàn nhẫn của các thế lực nước lớn. Đang lúc chiến tranh
sôi động trên đất nước, mà phải chấp nhận khuyến cáo của Trung Quốc phát
động cải cách ruộng đất theo y như lối “thổ cải” dã man của Mao ở Trung
Quốc như thế, thì đó là một nỗi nhục, nỗi đau của “ông cụ”. Khi phải
mang bà Nguyễn Thị Năm, một ân nhân của cách mạng ra mà bắn như thế, mà
chính “ông cụ” đã nhìn nhận là mình không muốn như vậy, thì đấy là một
thú nhận nỗi bất lực, một mối nhục lớn của “ông cụ”! Chung quy chính
“ông cụ” cũng bị chi phối bởi những thế lực luôn luôn có cái nhìn quyền
lợi, cái nhìn chiến lược toàn cảnh, toàn cầu, cái nhìn “ảnh hưởng”, “thế
lực” của họ. Trung Quốc nó muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm
của Trung Quốc. Tôi đã hơn một lần nhắn nhủ, cảnh giác cấp lãnh đạo cách
mạng rằng trong lịch sử thế giới, chưa hề thấy có trường hợp một nước
lớn nào có chính sách chịu hi sinh, để mà giúp đỡ vô tư, để chi viện vô
vụ lợi cho một nước nhỏ bao giờ đâu. Các nước lớn không bao giờ quên
quyền và lợi của họ… Trong lịch sử nước ta từ trước tới nay, và cả về
sau này, Trung Quốc đã, đang và vẫn sẽ là cái bóng ma quái vĩ đại, mãi
mãi đè nặng lên đất nước, lên lãnh đạo, lên lãnh thổ của chính chúng
ta![...].
Rồi
bác Thảo ôn lại tâm trạng mình ở Paris hồi ấy. Lúc thấy phái đoàn Hồ
Chí Minh về nước… cùng bốn trí thức Việt kiều, mà mình thì bị bỏ lại!
Thật là mất mặt cho kẻ cứ tưởng mình là một tay mác-xít có hạng, tràn
trề hi vọng, tưởng mình sẽ rất là tâm đầu ý hợp với nhà lãnh đạo kháng
chiến và cách mạng ấy!1
Bác
Thảo cho biết bốn Việt kiều cùng về với Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay
chuyến ấy là ba kỹ sư: Phạm Quang Lễ, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, và bác
sĩ Trần Hữu Tước. Phạm Quang Lễ là kỹ sư cơ khí hàng không, nhưng có
nhiều kiến thức về vũ khí nên đã được tin dùng đặc biệt. Và đã được “cụ
Hồ” đặt cho một tên mới là Trần Đại Nghĩa, rồi sau được phong quân hàm
thiếu tướng, trông nom quân xưởng đầu tiên của chiến khu, rồi sau được
ca ngợi như là người đã sáng chế ra loại súng chống tăng, mang tên SKZ
(Súng Không Zật). Nhưng bác Thảo cũng chế giễu khéo:
- Thứ súng ấy sau chỉ thấy trong ảnh, chứ không thường thấy trên các trận địa. Vinh quang là như thế. Sự thật là như thế.
Kể
tới đó, bác Thảo lại mỉm cười tề tái! Trên mặt khô héo của nhà triết
học luôn toát ra nỗi buồn, nhưng vẫn cứ giấu nó sau nụ cười mỉm. Đấy
không phải là thứ cười vui, mà chỉ là một thứ cười đã phai bạc, đầy gian
truân, đắng cay… muốn khóc! Đấy là thứ cười cố hữu của con người khổ
ải, thường để che giấu thân phận tủi nhục, u buồn của mình. Nụ cười héo
hắt ấy rất thường gặp trên môi mỗi con người cùng khổ. Đến nỗi dân ta đã
nổi tiếng là “cái gì cũng cười”, lúc đau khổ cũng vẫn cứ… cười!
Rồi bác Thảo còn thành thật thú nhận:
- Hồi
ấy, không được cùng về với phái đoàn “cụ Hồ”, tôi cảm thấy bị coi
thường, nên tự ải bị va chạm nặng. Vì vậy lại càng có quyết tâm mưu tính
cho bằng được sự trở về sau này! Nay nghĩ lại mới hiểu rõ vì sao lúc đó
tôi đã bị bỏ lại, và rồi không được tin dùng sau này: chỉ vì đã lỗ mãng
phạm thượng, nhưng có lẽ công và tội nặng nhất của tôi là đã có những
suy nghĩ, nhận định nghiêm trọng trước mấy vấn đề lớn. Vì thế mà đã vô
tình đụng tới những tính toán của lãnh đạo, của “đảng”! Đó là việc tối
kỵ không ai dám làm. Nhưng vì tính nghiêm trọng ấy mà tôi thấy phải nói
ra. Chung quạnh ông cụ người ta chỉ quen khen nịnh thôi. Tôi muốn thay
đổi cách làm việc như vậy. Bởi đằng sau những vụ việc được đề cao là
những hậu quả nặng nề và lâu dài có những chọn lựa tưởng là tốt đẹp,
nhưng với thời gian, nó sẽ mang lại những tai hại lớn lao. Dù là chọn
lựa hay quyết định của lãnh đạo thì cũng có lúc sai. Tôi không thể giữ
im lặng trước những cái sai ấy. Vì thế người ta không muốn cho tôi tiếp
cận lãnh đạo một cách thân cận. Luôn luôn có một bức tường ngăn cách.
- Thế thì bác chỉ được gặp “cụ Hồ” có hai lần ấy thôi à?
-
Còn nhiều lần gặp mặt sau này nữa chứ, nhưng những lần gặp ấy thì là sự
tham dự ở vòng ngoài, nghĩa là do sự sắp đặt, để trang trí theo ý muốn
của quyền lực, của cơ quan, cơ chế, chứ không phải là được mời để có
tiếp xúc riêng, để tạo quan hệ thân mật với lãnh tụ. Trong những lần gặp
theo chương trình đã sắp xếp của “tổ chức”, nên giữa “bác” và tôi,
chúng tôi không hề trao đổi với nhau một câu nào có tính thân tình, tâm
sự về một sự cố hay vấn đề nào đó… Như tôi đã được tập huấn ngay từ đầu,
trước mặt “bác” tôi không được tự ý nói câu nào “ngoài chương trình”,
ngoài lễ tân!
- Như vậy là những lần gặp gỡ ấy, thật ra cũng là vô ích!
Cũng
không hẳn là vô ích đâu. Bởi mỗi dịp nêu ra được một điều của lê phải,
của sự thật, để rồi nó lọt đến tai lãnh đạo hay ai đó thì cũng như mình
gieo trồng được một mầm tốt. Nhưng nếu cái hạt mà minh gieo đó bị coi là
hạt xấu thì mình sẽ phải trả giá. Tôi còn nhớ một lần gặp gỡ rất bí
mật, không thể nào quên. Lúc đó là cuối năm 1964, tức là hoà bình sau
hiệp định Genève đã gần mười năm, nhưng cả miền Bắc thì đang sôi sục
ngầm chuẩn bị mở chiến tranh nổi dậy một cách quy mô ở miền Nam. Bỗng
một cán bộ Trung ương tên là Sông Trường, tới bảo “bác” ngỏ ý muốn nghe
tôi phát biểu về đề tài “chiến tranh và hoà bình”, tại phủ chủ tịch.
Và tôi được biết rõ là buổi thuyết trình này chỉ dành riêng cho một số
người rất hạn chế, rất thân cận của “bác”. Lệnh đó đã làm tôi suy nghĩ
rất kỹ. Bởi lúc đó trong dân chúng, nhất là tại nông thôn, nơi không có
tai mắt của quốc tế, đang dấy lên phong trào hô hào thanh niên thi hành
nghĩa vụ quân sự. Các địa phương đang thi đua thành tích “giao quân”.
Khắp nơi tràn đầy bích chương, pa-nô kêu gọi “vì yêu nước, yêu xã hội
chủ nghĩa, phải hăng hái lên đường làm nghĩa vụ quân sự”!
Thật
tế là lúc ấy, trong mỗi gia đình dân chúng, đang rạo rực mối lo “đảng”
chuẩn bị mờ lại chiến tranh quy mô xuống miền Nam. Bởi trong dân chúng
những tin tức Trung Quốc đang ùn ùn chở vũ khí nặng vượt qua biên giới
vào cho ta, rồi lệnh gấp rút thu gom thanh niên đi làm “nghĩa vụ”… Do đó
tôi cố tìm hiểu tại sao “bác”, là người chẳng ưa gì tôi, mà nay lại
muốn nghe tôi thuyết trình về một đề tài đang làm cho dân chúng lo âu,
đang được bàn tán, tuy âm thầm nhưng rất là sôi nổi, trong thời sự.
Cán
bộ phủ chủ tịch cho biết “bên trên” ra lệnh cho tôi phải chuẩn bị kỹ
bài nói chuyện, và yêu cầu tôi đưa trình bài đã soạn để “trên” duyệt
trước. Thế nhưng tôi cố ý chỉ đưa trước một dàn bài tóm lược đại cương
với hai phần chính. “Một lá cách đánh giá nhu cầu và di sản của chiến
tranh. Hai là cách đánh giá nhu cầu và di sản của hoà bình, Và phần kết
luận: cách đánh giá thắng và bại qua những di sản của chiến tranh và của
hoà bình”. Tôi không đi sâu vào chi tiết trong dàn bài đưa trình, là có
ý để không gặp cấm cản những điều mà tôi muốn nói, mà có lẽ “bác” và
những người chung quanh cũng không muốn tôi nêu ra. Trong bài thuyết
trình, tôi đã cố phân tích thật sâu sự kiện “chiến tranh” và sự kiện
“hoà bình”, qua quá trình lịch sử đương đại, với cách nhìn triết học phê
phán đối với ỉịch sử. Tôi ôn lại những bài học của lịch sử, để nhấn
mạnh tới sự độc hại không thể nào kể xiết của chiến tranh. Bởi nhu cầu
chiến tranh đòi hỏi thật nhiều mưu trí, thủ đoạn. Còn hoà bình bền vững
đòi hỏi phải có trí tuệ thật là trong sáng, minh bạch. So sánh con người
của chiến tranh với con người của hoà bình về mặt lương tri đạo đức thì
sẽ thấy rõ đâu là giá trị đích thực của chiến tranh, của hoà bình. Hơn
nữa, hai cuộc đại chiến tranh thế giới đã kết thúc với thắng lợi của phe
cắc nước dân chủ tư bản ở châu Âu, đã để lại những bài học đắt giá.
Bởi
sự thật là sau mỗi lần chiến thắng, châu Âu đã thụt lùi một bước về mặt
uy thế đối với thế giới, vì suy yếu, vì đã kiệt sức đến phải nhờ vả,
phải vịn vào Mỹ để đứng dậy! Từ đó, nhất là từ sau đệ nhị thế chiến, Mỹ
đã trở thành cường quốc số một, một cách không thể chối cãi, còn châu Âu
thì đã vĩnh viễn mất hẳn vị trí đứng đầu thế giới. Các nhà sử học và xã
hội học còn ghi nhận, về mặt văn hoá, nhân văn, về mặt trật tự, kỷ
cương và đạo lý, thì còn người thời hậu chiến đã bị suy thoái về tất cả
các mặt ấy. Hai nước chiến bại là Đức và Nhật đã vươn lên thành hai
cường quốc kinh tế nhờ họ là nước thua trận, không có quyền thành lập
quân đội. Do đó dân của họ không bị gánh vác nặng nề những chi phí quốc
phòng trong một thời gian dài. Nghiên cứu về hiện tượng ấy cho phép đánh
giá cái hại lâu dài của chiến tranh, dù là đã đại thắng. Bởi cái giá
phải trả sau khi chiến thắng thì rất là đắt. Những chiến công hiển hách,
có thể mang ra ca ngợi trong hàng ngàn trang sách.. Nhưng nỗi đau, nỗi
khổ mà các dân tộc phải chịu do hậu quả chiến tranh thì lâu dài, không
có giầy bút nào có thể kể ra cho hết. Cụ thể cho thấy cái lọi về cách sử
dụng hoà bình một cách tuyệt đối, nghĩa là không phải dồn nỗ lực vào
guồng máy chiến tranh đã cho phép các dân tộc quanh ta tránh được bao
đau khổ, không bị trong tình trạng thua kém, tụt hậu như nước ta, dân
ta. Vả lại nhờ chính sách tận dụng hoà bình mà Đức và Nhật đã qua mặt
những nước chiến thắng như Anh, như Pháp. Kinh nghiệm ấy là một bài học
quý cho nước ta.
Thực
tế là tình trạng miền Bắc ta, cho tới lúc này (1964), cũng chưa xoá bỏ
được nghèo khổ, dù là việc ký kết hiệp định hoà bình ở Genève đã mười
năm. Đời sống nhân dân ta còn vô cùng tối tăm về mọi mặt. Thế mà nay ta
lại phải lo mở lại chiến tranh trong những ngày sắp tới đây. Mà nước ta
vẫn chưa làm ra được súng đạn, thì dĩ nhiên phải nhờ vả trầm trọng vào
nước ngoài, về mặt vũ khí, về lương thực… Sự nhờ vả ấy sẽ là món nợ vô
cùng nặng nề. Nó sẽ là một di sản lâu dài của chiến tranh. Bởi chiến
tranh, đối với loài người, là một độc dược với muôn vàn “hậu quả độc hại
từ bên trong”, về lâu về dài. Chiến thắng chỉ mang lại phần thưởng vinh
quang cho một thời gian nhất định. Nhưng di sản tai hại trầm trọng của
nó, ngoài những thiệt hại về nhân mạng, về đổ vỡ trên lãnh thổ, còn là
sự đổ vỡ thấm sâu trong tinh thần, trong nếp sống, trong nếp suy nghĩ,
trong đầu óc con người. Bởi chiến tranh lâu dài sẽ tồn đọng trong đầu
óc, thành một thứ văn hoá chiến tranh. Nó làm cho con người trở thành
hung bạo hơn, gian xảo hơn, tàn nhẫn hơn trong suy nghĩ, trong hành
động, trong nếp sống hằng ngày. Bởi con người chiến thắng sẽ khoe
khoang, sẽ thành kiêu binh, sẽ tin tưởng vào những xảo trá, quỷ quyệt đã
dùng để đánh gục quân thù! Nhưng rồi nó tồn đọng như những món nợ vật
chất và tinh thần, trong thể xác và đầu óc con người và xã hội. Đó là
những món nợ văn hoá trong lối sống… lối suy nghĩ, mà các thế hệ mai sau
không thể nào thanh toán cho hết được. Vì thế mà người xưa, sau chiến
thắng, thì đã phải vội ra chính sách “an dân”, để cố tẩy xoá ngay lối
sống, lối suy nghĩ của chiến tranh, để cho người dân an tâm mà làm ăn…
Ta thì sau khi thắng xong, là lại lo áp đảo tinh thần đề huy động dân
chúng, để phát triển “xã hội chủ nghĩa”, rồi tiếp tục cổ vũ hận thù
triệt để, để chuẩn bị mở lại chiến tranh!
(Cũng
nhân đây, phải lưu ý rằng ở châu Âu, có hai nước đã coi nhau như kẻ thù
truyền kiếp, quyết không đội trời chung là Đức và Pháp. Nhưng những
lãnh đạo có trỉ tuệ, biết nhìn xa, đã hoá giải được moi thù truyền kiếp
ấy bằng hoà giải, để rồi Pháp và Đức ngày nay đã trở thành cột trụ của
nền hoà bình và thịnh vượng của châu Âu, do châu Âu chứ không còn là do
Mỹ cho châu Âu! Đấy là một kinh nghiệm, là một bài học hoà bình và thịnh
vượng, mà chìa khoả là sự công nhận giá trị của nhau, kính trọng nhau
để cộng tác với nhau mà đi tới).
-[...].
Chúng ta cũng nên chú ý rằng nhờ bao tổn thất và hi sinh của ta trong
chiến thắng Điện Biên, mà Trung Quốc đã có cơ hội lên mặt kẻ cả của một
đại cường quốc ở hội nghị Genève khi bàn về ngưng bắn ở Việt Nam. Bởi
Trung Quốc đã từng bị mất mặt khi phải ký kết chấp nhận đình chiến ở
Triều Tiên… Thế nên Trung Quốc đã có ý đồ phục thù trong chính sách giúp
ta đánh đuổi Pháp, để gỡ danh dự. Cứ xem như việc Mao chủ tịch, vừa mới
thắng Tưởng Giới Thạch, vừa mới nắm được chính quyền tại Bắc Kinh năm
1949, thì đã vội xua quân qua chiếm Tây Tạng năm 1950! Rồi sau đổ đã
thúc Bắc Triều Tiên mở chiến tranh để xoá ảnh hưởng Mỹ ở Nam Triều Tiên.
Nhưng rồi Trung Quốc đã thất bại sau khi phải xua quân qua cứu Bắc
Triều Tiên, và rồi đã phải ký một cách khiêm tốn hiệp định đình chiến
tại Bàn Môn Điếm, phải chấp nhận để Mỹ đóng quân lâu dài ở Nam Triều.
Tiên… Mà Nam Triều Tiên đứng vững không chỉ do Mỹ, mà còn là do dân ở đó
không ưa “cộng sản”. Đó là những điều ta phải suy nghĩ cho kỹ để rút
kinh nghiệm cho tương lai của ta. Ta phải cân nhắc kỹ lại về việc ký kết
và thi hành hiệp định Genève mà ta đã ký năm 1954. Tôi muốn gợi ý ở
phần kết luận bài thuyết trình với kinh nghiệm của vùng Đông Nam Á này:
chiến tranh không phải là một giải pháp tốt. Mà những hậu quả tai hại
của chiến, tranh thì không thể lường hết được, mà cũng không thể nào
thanh toán hết được.
Vì
đã ý thức nỗi lo sợ của dân chúng trước viễn ảnh và nguy cơ mở lại
chiến tranh, nên tôi buộc lòng phải nhấn mạnh tới hậu quả tai hại, với
hi vọng mỏng manh là nếu không thể ngăn chặn, thì ít ra cũng trì hoãn
được thêm một thời gian nữa dự tính mở lại chiến tranh xuống miền Nam.
Vì đứng trên quan điểm của con người trong lịch sử mà xét, những tiếng
gào khóc của hàng triệu sinh linh trong chiến tranh và sau chiến tranh,
dù cho có bao nhiêu bia tượng, đền đài miếu mạo ghi công, tưởng nhớ đến
muôn đời sau, thì cũng không thể nào an ủi được những nỗi đau, không thể
nào đền bù được những mất mát và tàn phá do chiến tranh gây ra, mà dân
chúng đã phải gánh chịu mãi mãi cho tới sau này.
Để chấm dứt bài thuyết trình, tôi đã chậm rãi nói dằn từng chữ:
-
Có một sự thật có thể gây tranh cãi, nhưng không thể nào chối cãi được,
là chiến tranh luôn mang theo những hậu quả vô cùng tai hại. Vì nó làm
băng hoại xã hội, vì nó phá hoại hạnh phúc con người… Chỉ có hoà bình
mới tạo cơ hội xây dựng được no ấm và hạnh phúc, tạo ra được một xã hội
có căn bản luân thường đạo đức, trật tự kỷ cương.
Nghe
tới câu ấy, “bác” thay đổi thái độ: đang ngồi nghe một cách vô cảm, với
dấu hiệu mệt mỏi, bỗng cau mặt, đứng phắt dậy, mím môi, chau mày, có vẻ
không vui ra mặt, rồi vỗ tay sơ sài, lẹt đẹt, làm như thế “bác” chỉ chờ
cho tôi chấm dứt. Gần chục người chung quanh, hình như đa số là của “bộ
chính trị”, cũng phải vội vã đứng đậy vỗ tay hời hợt theo cho phải
phép. Rồi “bác” vừa đi ra, vừa ngoảnh mặt nói vọng lại với tôi:
- Chú Thảo nói hay lắm. Cám ơn chú! Bây giờ bác phải về làm việc.
Tôi
đã cố quan sát thật kỹ thái độ, dáng điệu lúc bác ngồi nghe. “Bác” đã
giữ vẻ mặt trầm tĩnh cho tới lúc đứng dậy, đổi ra mặt cau có, rồi vứt
lại một lời cảm ơn, như miễn cưỡng, để vội vã đi ra, bước thật nhanh,
không vui chút nào khi rời phòng hội. Những người chung quanh cũng phải
vội vã chạy theo. Chỉ có một người bước lại gần, tươi cười nói khẽ và
vội một câu, như để an ủi tôi, đó là tướng Giáp:
- Được “bác” khen như thế là tốt lắm. Thế là thành công đấy!
Nhưng
tôi thì đứng lại đó, bơ vơ, lo âu, suy nghĩ về câu khen “nói hay lắm”
mà “bác” vứt lại khi bước ra khỏi nơi họp. Tối cứ bãn khoăn ngẫm nghĩ về
thái độ của lãnh tụ với câu “khen” ngắn ngủi ấy. Chờ mãi hồi lâu, cho
tới khi một cán bộ của phủ chủ tịch bước tới để dẫn tôi ra về bằng cổng
sau…
Đấy
là thêm một lần, tôi đã có dịp tìm hiểu cách ứng xử của “ông cụ” đối
với tôi. Thật sự là cuộc gặp gỡ, buổi thuyết trình ấy đã không làm “ông
cụ” vui. Vì nội đung bài thuyết trình đã nhấn mạnh tới nhũng hậu quả vô
cùng tai hại của lá bài chiến tranh! Và rồi tôi cũng không vui với lời
khen mỉa mai “nói hay lắm!” (nhưng ý không hay?) ấy. Bởi tôi biết việc
ký và thi hành hiệp định Genève như thế, là để chuẩn bị mở lại chiến
tranh, tức là vĩnh viễn xé bỏ hiệp định! Bởi trong hiệp định, có các
khoản cam kết của các nước chù trì hội nghị dùng đế bảo vệ cách thi
hành, nhưng chẳng thấy ta dùng tới những cam kết ấy. Ngoài ra, tôi còn
nhắc khéo tới ý đồ bành trướng của Trung Quốc trong vụ vội vã “giải
phóng” Tây Tạng… Nhất là trong lúc toàn miền Bắc ta còn nghèo khổ mà đã
lăm le mở lại, mở rộng chiến tranh xuống miền Nam! “Ông cụ”, với nét mặt
nghiêm trang, lạnh lùng, có vẻ đã mỏi mệt, nên đã không giấu được thái
độ bực bội, như là vừa làm một thử nghiệm không vừa ý, với một kẻ “có
vấn đề”, nên nét mặt đã chuyển ngay sang cau có, khó chịu vào phút chót
ấy. Và câu “Chủ Thảo nói hay lắm!” đã như một gáo nước lạnh hắt vào mặt
tôi. Bởi nếu thật sự đồng ý với tôi, dù là chỉ một phần nhỏ thôi, thì ít
ra cũng lại gần tôi mà trao đổi vài câu, và bắt tay để nói lời khen ấy.
Nhưng đây lại là một câu nói miễn cưỡng vứt lại phía sau, trong khi vội
vã bước ra khỏi phòng hội. Chung quanh tưởng đấy là một lời khen, nhưng
kỳ thực chỉ có tôi hiểu đấy là một lời phê phán nặng nề: “Nói thì hay
lắm, nhưng ý tứ thì không hay chút nào”! Chỉ có tôi là người trong cuộc,
đang sống trong vòng cương toả của “Người”, mới cảm nhận, mới hiểu rõ ý
nghĩa thâm thuý của từng câu, từng chữ của “Người”! Rồi tôi lại nghĩ
cho dù “ông cụ” có muốn kéo dài thêm thời gian hoà bình để kiến thiết xử
sở, nhưng còn có uy lực của Mao nó ép phải mở lại chiến tranh thì sao?
Vấn đề nó thâm sâu, tàn nhẫn và phúc tạp vô cùng!
- Thế sau lần gặp đặc biệt ấy, bác còn được gặp lại cụ Hồ nữa không?
-
Cũng còn, nhưng những lần gặp sau này thì thật ra là chỉ thấy “ông cụ”
thôi chứ không được tới gần. Bởi những lúc đó, tôi chỉ là kẻ tháp tùng ở
vòng ngoài, như một cán bộ tới góp mặt trong một buổi tiếp tân, chứ
không phải là tới để có thể trao đổi vài câu với “ông cụ”. Vả lại, vì
tôi không biết a dua, tâng bốc, nịnh nọt như mọi người, nên không khi
nào được bố trí để “ông cụ” tỏ vẻ thân thiện, nói chuyện với tôi. Nhưng
tôi cũng đã biết, trong nhiều buổi tiếp tân, lễ hội, lúc “ông cụ” xuất
hiện, tươi cười đảo mắt nhìn nhanh mọi người, nhưng cái nhìn ấy bỗng trở
thành nghiêm nghị, ngập ngừng, dừng lại đôi chút, rồi quay quá chỗ khác
khi thấy tôi: Có lẽ lúc đó “ông cụ” nhận ngay ra “kẻ có vấn đề” là tôi cũng có mặt ở đây. Cảm nhận do kinh nghiệm đã trải qua, tôi biết đối với ban lãnh đạo sau này, do nhận định tôi vẫn là “kẻ có vấn đề”,
nên các lãnh đạo khác cũng dị ứng, luôn luôn giữ khoảng cách, tránh
không tới gần tôi để trở chuyện, dù chỉ là xã giao, khi họ nhận ra tôi
ngay trong đám đông. Sở dĩ tôi thường được mời tới dự các buổi họp mặt
có tính tuyên truyền và ngoại giao, như vài trí thức khác, vì Trung ương
có ý dùng sự có mặt của chúng tôi như một yếu tố trang trí, ra điều có
đông đủ các thành phần trí thức. Trong những dịp đó, chỉ có vài vị khách
nước ngoài là muốn lại nói chuyện với tôi, vì họ đã biết tôi từ trước…
Đã hơn một lần, tôi được nghe mấy trí thức khoa bảng than rằng “ông cụ” rất cảnh giác với những kẻ có bằng cấp.
Chỉ những kẻ khiêm tốn, tạng khúm núm vâng lệnh, ngoan ngoãn đi theo
phục vụ “bác” từ thủa hàn vi, thì sau này mới được tin dùng, và được đề
bạt cất nhắc lên. “Ông cụ” là một mẫu lãnh đạo còn mang nặng tâm thức
thời phong kiến phương Đông cổ xưa, cũng y như Mao Trạch Đông, rất tự
tin vào tài đa mưu, túc trí của mình, nên coi đám học thức “không bằng
một cục phân”. Hơn nữa, “ông cụ” rất ghét cánh Tây học.
Trong vòng thân cận “ông cụ”, không hề có một chuyên viên tri thức nào
cố bằng cấp tốt nghiệp Đại học cả. Chỉ toàn là những hầu cận, cận vệ ít
học được “ông cụ” đào tạo, để phục tùng, thì sau đều được “ông cụ” đề
bạt lên thành tướng, thành giám đốc, thành bí thư v v… Còn giới học thức
chỉ được làm việc ở vòng xa bên ngoài. Bởi “tổ chức” muốn bố trí để
“ông cụ” nổi bật trong đám người ít học, y như một đại bàng chúa tể, bày
lượn trên đỉnh Thái Sơn của quyền, lực, ngó xuống chốn sơn lâm chính
trị thấp kém bên dưới với con mắt nghi kỵ, khinh mạn, với cái nhìn vô
cùng sắc bén, thấu hiểu đầu óc từng người… để dễ phân biệt kẻ cận thần,
với những đối thủ tiềm ẩn. “Ông cụ” có tâm thức cảnh giác của một lãnh
tụ cách mạng như Stalin, như Mao… Khốn nạn cho kẻ nào bị “tổ chức” đánh
giá như là một địch thủ tiềm năng đối với “ông cụ”! Tôi nhận thấy các
nhà sử học khi nghiên cứu về “bác Hồ”, đã chỉ căn cứ trên những tư liệu
của đảng cộng sản, nên không thể nào nhìn rõ sự thật; không thể nào hiểu
rõ cái biện chứng duy tâm, duy ý chí của lãnh tụ, nên họ không thể hiểu
nổi “ông cụ”. Bởi họ chỉ nhìn thấy “lãnh tụ” qua lăng kính đẹp đẽ, sáng
chói của bộ máy tuyên truyền. Không biết nên đánh giá như thế nào đối
với nhũng bộ óc thông thái, uyên bác “kinh điển” mà cứ trích tư liệu
tuyên truyền của đảng cộng sản như là trích ra từ một thử thánh kinh! Họ
chỉ là những ông thầy bói mù được sờ vào, không phải là một con voi, mà là một con khủng long ba đầu, chín đuôi!
Có
một điều rất đảng tiếc là các nhà sử học khi tìm hiểu về “cụ Hồ” đã bỏ
qua một thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc lộ, rất chân thực do chính
đương sự là tác giả… Đó là ý nghĩa của những biệt hiệu hay những tên giả
mà chính “cụ Hồ” đã tự đặt cho minh qua từng giai đoạn mưu tìm con
đường hoạt động, lúc thiếu thời, khao khát tìm cách tiến thân, tìm đường
hoạt động chính trị. Có những cái tên theo tiếng nước ngoài khá ngộ
nghĩnh! Nhưng đáng cầu ý là từ khi tự đổi tên là Tất Thành (1911)
(với khát vọng khiêm tốn là sẽ là kẻ hành đạt…), rồi cho tới, sau này
thì bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái
tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc Chí Minh! (1945). Nói chung
là với cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế đã phản
ánh một cách chân thực, những bước chuyển biến trong đầu óc của “ông
cụ”. Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước, có ý nghĩa trong hành trình
vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đấy là quá trình diễn biến của sự
hình thành một cuồng vọng. Phải phân tích cặn kẽ từng cái biệt danh ấy
như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành
đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh
của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân
chính (“Ái Quốc”), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ
(Chí Minh)! Thật ra thì trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ
có thể là do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử mà được
người đời sau công nhận là xuất sắc, là xứng đáng mang những danh hiệu
ấy. Nhưng đây lại là do chính “đương sự” ngay trong hiện tại đầy vấp
váp, mà đã tự mình “tặng” cho chính mình! Một nhà túc nho, một người trí
thức có đầu ốc tinh táo, có liêm sỉ, một bộ não minh triết thì không
bao giờ dám tự ý xưng mình là “Vướng”, là “Ái Quốc”, là “Chí Minh”… như
thế. Thật khó mà giải thích một kẻ tự coi minh là “ông vua”, là bậc
“quân tử” siêu phàm, mà lại có hoài bão làm một nhả cách mạng, một chiến
sỹ vô sản, cộng sản! Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách quá
trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí
thánh…! Đây chỉ là những biểu hiện của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ
mãng, một thứ bệnh tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lí trí,
liêm sỉ, đạo lý… Khi tự xưng tụng minh một cách thượng đỉnh, tối cao như
thế thì chỉ có thể là vì đã quá khao khát danh vọng. Đấy rõ ràng là một
khát khao hành động của một cuồng vọng. Ngoài ra còn có thể tìm hiểu
nội tâm, chỉ hướng của nhân vật lịch sử này qua một công trình phân tích
mang tính phân tâm học của từng chữ, từng cầu mang nặng một khát vọng
trong hai tập sách tuyên truyền “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện”
để thấy rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được nhận vào
học Trưởng Thuộc Địa của “mẫu quốc Pháp” với hi vọng được ra làm quan,
cho tới lúc quyết tâm trở thành một lãnh tụ cách mạng. Nhờ những phát
tiết lỗ mãng của cuồng vọng như thế, mà “ông cụ” đã tạo ra một thời
chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo, một thời mà mọi người đều thấy
rằng phải đạp lên lương tri, đạo lý để ”cướp quyền”, để thành công, để
chiến thắng! Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi hài kịch
của lịch sử! Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái mình
như thế, chúng ta có thể hiểu “lãnh tụ” là người cố đầu óc, có tâm trí,
có đạo lý như thế nào! Napoléon, Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có
tâm thức tự cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tinh quái như
thế! Bởi họ còn thua “bác Hồ” ở chỗ họ không biết tự ngồi viết sách để
tự đề cao chính mình! Thật tình, một người hết lòng vì nước vì dân, một
chính danh quân tử, một trí thức lương thiện, thì không thể tự khoe
mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách ngông cuồng lộ liễu như vậy.
Không ít người bênh vực nói “nhờ vậy mà “ông cụ” đã làm nên lịch sử”.
Xét tới tận cùng lý luận trên những cơ sở như thế, cho phép ta giải
thích những điều đã định hướng cho những hành động, những chọn lựa “khó
hiểu, khó chấp nhận” của “bác Hồ”! Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham
vọng, một mưu trí tột đỉnh tự tôn như thế. Hậu thế, phải đặt trên cơ sở
phân tích thực tại đó, để mà có thể hiểu rõ vấn đề công tội, đạo đức của
”ông cụ”…
-
Cứu xét như thế, thì bác thấy những chọn lựa nào, những phán quyết định
nào của “ông cụ” là thuộc về công, phần nào là thuộc về tội?
-
Không thể dễ dàng đưa ngay ra một lời đáp thoả đáng cho câu hỏi rất
quan trọng này. Có lẽ; phải nhiều thế hệ sau, có khi phải hàng trăm năm
sau, qua những công trình nghiên cứu tập thể nghiêm túc, khách quan thì
may ra mời có thể đưa ra một kết luận có giá trị. Nhưng tôi nêu ra vấn
đề là muốn mỗi người chúng ta, tự xét xem dân tộc đất nước đã thự hưởng
những gì, đã chịu đựng như thế nào những di sản, những hậu quả mà sự
chọn lựa lịch sử của “cụ Hồ” đã mang lại… rồi từ đó mà tự đưa ra lời
giải đáp chân thực cho riêng mình. Khi cân nhắc những chọn lựa, những
quyết định có tính lịch sử của “cụ Hồ” thì, về lâu, về dài, sẽ thấy phần
lợi, phần hại là như thế nào. Tôi tin chắc rằng mỗi người dân, từng
trải nghiệm đầy đủ những hậu quả của những chọn lựa hay quyết định ấy,
sẽ có thể rút ra một kết luận công bằng để mà luận công tội cho “ông cụ”
mà sẽ không cần phải tranh cãi với ai… Cái đó là tuỳ mỗi trải nghiệm
của mỗi người, tuỳ theo những vui sướng, những đau khổ hôm qua và hôm
nay, của mỗi người.
- Nhưng bác có thể nêu ra chọn lựa nào, quyết định nào đã mang tính lịch sử trọng đại của cụ Hồ được không?
-
Thú thật là tôi đã từng có nhận xét phê phán về những chọn lựa và quyết
định tốt và xấu có tính lịch sử của “ông cụ” trước vài cán bộ cao cấp
trong “đảng”, khi nêu ra những thắc mắc lớn như dựa vào ý thức hệ cộng
sản để giành dộc lập thì là tốt hay xấu, nhất là khi so sánh với những
nước đã giành được độc lập quanh ta mà họ đã không dùng tới ý thức hệ
ấy… Nhưng chung quanh đã can tôi, đã khuyên tôi không nên đụng tới những
điều nguy hiểm nhậy cảm, có thể bị mất mạng đó. Có người đã bỏ chạy
không dám ngồi nghe tôi phân tích vì sợ liên luỵ… Kể lại chuyện này để
cho các anh thấy việc đánh giá công tội ông cụ là việc làm vô cùng nguy
hiểm, vô cùng khó khăn. Trong hoàn cảnh hiện nay ở trong nước, đó là
điều không thể nào làm được…
- Nhưng ít ra thì bác cũng có thể nêu ra vài thí đụ chứ?
-
Như tôi đã nói, đánh giá sự chọn lựa này là tuỳ theo người, tuỳ theo
hoàn cảnh. Những cán bộ đảng viên nhờ “đảng” mà đã có cuộc sống giàu
sang, có và địa vị thì dĩ nhiên họ sẽ nói tốt cho “bác Hồ”. Những người
phải gánh chịu phần thiệt thời và đau khổ vì những chính sách của “bác
và đảng” thì họ sẽ nói là xấu. Riêng trường hợp của tôi thì lúc đầu tôi
cho đó là một chọn lựa tốt, là đúng, nhưng rồi càng về sau, tôi càng
nhận ra rằng chọn lựa ấy đã đưa tới tình trạng không thể sửa đổi, không
thể thích nghi với xã hội ta, với văn hoá của tổ tiên ta, vì cứ dập
khuôn theo đúng mô hình nước ngoài, nhất là của Mao, thì đó thật sự là
một chọn lựa xấu, rất xấu, vì nó hoàn toàn sai, sai từ cái gốc học
thuyết, sai từ lý luận… Tôi chỉ mới hé mở, nêu ra sơ sơ như thế mà đã bị
vĩnh viễn đẩy ra bên lề chính trị. Nhưng vì thế mà “ông cụ” vẫn muốn
theo dõi đầu óc tư tưởng, lý luận của tôi… Nếu cứ bảo lưu cái ý thức hệ
“duy nhất đúng” này thì dĩ nhiên sẽ có ngày nó bị đào thải bẵng sự đổ vỡ
thảm khốc! Và cho tới nay, ở vài nơi, ta đã thay nhiều lần xảy ra những
đổ vỡ như vậy.
- Thế còn các lãnh đạo khác, sau “bác Hồ”, thì họ có chú ý tội tư tưởng của Trần Đức Thảo không?
-
Vẫn có chứ! Vì họ lúc nào cũng e ngại, nghi ngờ tôi. Vì tôi lúc nào
cũng cố bắc cầu, bắn tiếng, tìm cách truyền đạt những điều hay, lẽ phải
của sự thật, Thế nên lúc náo họ cũng muốn theo dõi xem ý kiến của tôi là
như thế nào, tuy họ rất e ngại và không ưa những ý kiến ấy. Vì những
góp ý của tôi luôn luôn hướng về chân thiện mỹ, nên đôi khi họ cũng đồng
ý cho tôi gặp một cách miễn cưỡng.. Tôi còn nhớ lần gặp gay go với tổng
bí thư Trưởng Chính, sau cái vụ tôi vùng lên muốn đấu lý với cố vấn
Trung Quốc. Sau này cánh Lê Đức Thọ, Lê Duẩn thì rất gờm tôi, vì biết
tôi muốn ngăn cản mở lại chiến tranh. Còn một lần gặp riêng ông Lê Duẩn
thì rồi ông ấy cũng không ưa tôi, vì lúc ấy, trong cương vị Tổng bí thư,
ông ta muốn tôi chấp bút viết hồi ký cho ông ấy. Nhưng sau khi ngồi cả
tiếng đồng hồ để nghe ông ta giảng giải tư tưởng của ông, tôi đành trả
lời thẳng là tôi nghe ông nói mà không hiểu gì cả! Vì thế sau này ông ấy
cũng cay ghét tôi, đến nỗi không muốn sự có mặt của tôi ở những nơi ông
đi qua… Lúc tôi vào Sài Gòn thì được nghe những câu chuyện ly kỳ của
phe chủ chiến đến cùng, mà đứng đầu là cánh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ…
Phe này đã gây bè phái, rồi nắm được đa số trong bộ chính trị, đến mức
đã chèn ép, cô lập được chính cả “cụ Hồ” trong giờ phút nghiêm trọng.
Bởi lúc ấy “ông cụ” hình như muốn xây dựng một miền Bắc xã hội chủ nghĩa
cho thật là ấm no trước đã. Võ Nguyên Giáp là người “nhất trí” với “ông
cụ”. Vì thế mà cánh Lê Duẩn đã phê phán, phao ra lập luận là “Giáp sợ
Mỹ”. Chính cánh này còn tìm cách triết hạ uy tín của Giáp bằng cách tung
tư liệu chứng minh Giáp là con nuôi tên trùm mật thám Marty, Giáp thắng
trận Điện Biên là nhờ mấy tướng Trung Quốc “bày binh bố trận”. Trong
giới đảng viên cao cấp có cả một giai thoại ly kỳ về “âm mưu cất cái mũ
phớt”, vì Giáp là đảng viên duy nhất vẫn ưa đội mũ phớt kiểu công tử Hà
Nội khi đi tìm cách mạng! Giai thoại này chứng tỏ chung quanh “ông cụ”
có nhiều phe cánh lình chống nhau, ngầm hạ uy tín của nhau rất là tản
nhẫn: Vả điều đó cho thấy “ông cụ” lúc lên tới đỉnh cao quyền lực thì đã
lâm vào hoàn cảnh của một phù thuỷ không còn điều khiển được đám âm
binh hung bạo, tuỳ tiện, hỗn xược đo chính mình đã tạo.
Chương 13.Thân phận những con rối!
LÊ ĐUC THỌ
Lúc
đó dân chúng đã kể cho nhau nghe để mà cười cay đắng với nhau, Đó là
vào đầu năm 1973, khi vừa ký kết hiệp định Paris để kết thúc việc Mỹ
tham chiến ở Việt Nam. “Đảng” rầm rộ tuyên truyền là ta đã buộc được Mỹ
phải ký kết hiệp định để rút hết quân ra khỏi miền Nam Việt Nam. Đảng
nói đấy là cuộc đấu trí “thần kỳ” giữa hai bộ óc được coi là mưu trí
nhất của thời đại! Phe ta là đồng chí Lê Đức Thọ, phe Mỹ là Henry
Kissinger. Tại Hà Nội, một số trí thức bên ngoài “đảng” và tôi đã hết
sức tò mò, theo dõi, tìm hiểu các điều khoản bí mật đã được thoả thuận
ngầm với nhau của hiệp định tái lập hoà bình tại Việt Nam đã được ký kết
ở Paris năm 1973 có một số bí mật của phía ta, thì rồi chúng tôi cũng
đã biết phần lớn về phía Mỹ thì dĩ nhiên là phải dựa trên những tiết lộ
rất phong phú của báo chí Mỹ và thế giới. Chúng tôi có hai thắc mắc lớn
trong chính sách của Mỹ lúc ấy. Một là tại sao cuộc tổng tấn công nổi
dậy do ta bí mật phát động thật là bất ngờ, hồi Tết Mậu Thân 1968, ở
miền Nam, nhưng ta đã hoàn toàn thất bại, lực lượng của ta tại miền Nam
bị kiệt quệ, bị tổn thất nặng nề vì nhân dân miền Nam không nổi dậy tiếp
tay với ta như ta đã trù liệu. Vậy mà Mỹ lại nhương bộ, chấp nhận các
điều kiện của ta, đặc biệt là điều kiện phải để cho Mặt trận Dân tộc
Giải phóng do ta chủ động ở miền Nam được tham dự hội nghị ngang hàng
với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, gọi là Việt Nam Cộng Hoà. Thắc mắc lớn
thứ nhì là cuộc oanh tạc của Mỹ vào miền Bắc năm 1972, lúc đó ta vô
cùng bối rối, đến mức nếu nó đánh bom kéo dài thêm vài tháng nữa thì ta
sẽ phải nhượng bộ trong bất cứ điều kiện nào. Vậy mà bỗng Mỹ ngưng ném
bom, để cho cuộc thương thảo ở Paris bước vào giai đoạn kết thúc, mà cả
thế giới đều thấy là có lợi cho ta. Phía ta thì khoe đó là do tài trí
của trưởng đoàn Lê Đúc Thọ.
Bác Thảo kể thêm:
-
Trong dân gian lúc đó, có giai thoại được phổ biến rất rộng rãi, rằng
đồng chí Lê Đức Thọ đã tiết lộ với vài nhà báo thân cận một thành tích
đấu trí với Kissinger, khiến hắn từ đó phải nể mặt đồng chí Thọ. Mẩu
chuyện đấu trí vui ấy đã được phổ biến trong các tầng lớp nhân dân, như
một thành tích “thắng lợi vẻ vang” của “ta”!
Chuyện
kể rằng lần đầu tiên bí mật gặp riêng Kissinger ở vùng ngoại ô Paris,
Lê Đức Thọ chìa tay trước để bắt tay Kissinger, tên này cũng vui vẻ chìa
tay ra và hai bên xiết tay nhau. Sau đó, Kissinger chơi trò khinh bỉ
ta, y thò tay vào túi lấy khăn “mù-xoa” lau bàn tay vừa bắt tay Lê Đức
Thọ, rồi bỏ lại khăn tay vào túi quần! Đồng chí Lê Đức Thọ liền có phản
ứng tức thì, đồng chí cũng rút khăn ra lau tay, nhưng sau đó vứt bỏ luôn
khăn tay xuống đất chứ không bỏ lại vào túi! “Kissinger từ đấy về sau
không dám giở trò gì nữa”.
Kể xong câu chuyện “đấu trí” kiểu trẻ con ấy, bác Thảo nói:
-
Sự khoe thành tích đấu trí như vậy, đã làm anh em trí thức Hà Nội nực
cười. Trí tuệ gì, ngoại giao quốc tế gì cái trò láu cá vặt đó. Vì sự
thật, ở bên lề hội nghị, toàn là những nhân nhượng quan trọng rất bí mật
trong cuộc thương thảo giữa hai bên, mà phần quyết định trọng điểm là
do thoả hiệp giữa Trung Quốc với Mỹ! Sau này có lần gặp riêng nhà báo
cộng sản người Úc Winfred Burchett, ông này giải thích tận tình cho tôi
hiểu về chính sách thực dụng rất nguy hiểm của Mỹ trong việc giải quyết
“vấn đề” Việt Nam! Theo Burchett thì Mỹ nhúng tay vào miền Nam Việt Nam
vì coi đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bế quyết tâm bảo
vệ Nam Việt Nam, vì đấy là một “tiến đồn của thế giới tự do”. Điều này
có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng này không để nó lọt vào trong bức màn sắt
của khối cộng sản. Nhưng Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt “Bắc Việt
Cộng sản” để tiến tới thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh đối với Mỹ luôn luôn nằm trong sách lược của kinh tế thị trường toàn cầu.
Cuộc chiến tranh bảo vệ thị trường Nam Việt Nam đã bị sa lầy vì tốn kém
và bị dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ,
đứng đầu là Kissinger, đã đề xa một giải pháp khác. Vì đã không bảo vệ
được thị trường miền Nam Việt Nam bằng chiến tranh, thì phải quay qua
giải pháp tìm thị trường thay thế bằng con đường hoà bình: cách này ít
tốn kém mà bền vững hơn. Bởi Mỹ, trên nguyên tắc, không hề tính tiêu
diệt chế độ Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, nên khi thấy cuộc tổng tiến
công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân, 1968, đã làm cho “cộng sản” kiệt sức, thì
đó là lúc tốt nhất để đưa “địch” ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi
thấy cuộc oanh tạc miền Bắc Việt Nam hồi 1972, đã đủ cho Hà Nội thấm
đòn, thì Mỹ liền ngừng ném bom, rồi đưa ra những điều kiện, thuận lợi cụ
thể, để Hà Nội chịu kỷ kết chấm dứt chiến tranh, để Mỹ rút chân ra khỏi
miền Nam Việt Nam. Tất cả là dùng lá bài hoà bình thay thế cho lá bài
chiến tranh. Cũng để tỏ rõ chính sách của Mỹ như thế, liên hạm đội 7 rất
hùng hậu quả Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo ở ngoài khơi Việt Nam, vậy mà
lực lượng hùng hậu ấy đã đứng ngoài nhìn hải quân Trung Quốc đánh chiếm
đảo Hoàng Sa (Paracels) của Nam Việt, hồi 1974. Sự án binh bất động này
có nghĩa rõ là Mỹ không coi Nam Việt Nam là tiền đồn nữa. Ngay từ khi
đại quân Mỹ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, Mỹ đã chỉ đánh cầm chừng để giữ
đất, để dung hoà chứ không hề có ý đẩy chiến tranh đến tận cùng ra miền
Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng sản ở miền Bắc. Dù là đã oanh tạc miền
Bắc, nhưng chiến lược của Mỹ là chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá
bài hoà bình, nhằm đánh địch băng kinh tế hậu chiến. Và quả thật ván bài
đó sau này đã làm cho Hà Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới
lúc Hà Nội, tuy đạt chiến thắng, nhưng lại phải chấp nhận mọi điều kiện
để Mỹ nó bỏ cấm vận. Rồi sau đó là Hà Nội lại trải thảm đỏ long trọng
đón rước lãnh đạo Mỹ trở lại. Từ đó, chính thức mở cửa cho vốn của khối
tư bản tràn vào tự do tung hoành trên toàn bộ nước Việt Nam thống nhất
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ này không chấp nhận các cuộc
đình công đòi quyền lợi của các công đoàn thợ thuyền. Một chế độ như thế
thật là lý tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi hơn hẳn
dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Bây giờ thì kết cuộc đã
rõ rệt của ván bài “ai thắng ai” trong cuộc đấu trí ấy. Bây giờ đã lộ rõ
ai là mưu trí, ai là trí tuệ. Nực cười và bi thảm là như thế.
MỸ HÓA
Kể tới đó, tâm sự tới đó, bác Thảo bật cười, nhưng rồi lại nghiêm nét mặt, thở dài chán nản:
- Công
cuộc phát triển cách mạng vô sản, với giấc mơ xây dựng thế giới đại
đồng… như vậy là đã hoàn toàn tan vỡ, sau khi đã hi sinh tính mạng của
hàng bao nhiêu vạn bộ đội! Bây giờ thì không còn phải chống Mỹ cứu nước
nữa. Giờ đầy là phải tìm lối thoát ra khỏi chế độ bao cấp, dẹp bỏ mục
tiêu tự tức tự cường, phải bám theo Mỹ để cứu nước. Cả một nền kinh tế
toàn cầu dưới sự áp đảo của đồng đô-la Mỹ, cả một nền văn hoá sống
cuồng, sống vội, hừng hực sinh lực thực dụng của văn hoá Mỹ, nay nó tự
do tràn vào như thác đổ, nhậu một xứ sở đã bị kiệt quệ đến xương tuỷ vì
chiến tranh và cách mạng. Một nền văn hoá nông nghiệp rệu rạo đã bị kiệt
sức đến trống rỗng, sau bao năm chiến đấu “tự lực tự cường”, chỉ biết
hỉ sinh và chịu đựng, nay làm sao cưỡng lại lối sống no nê, phè phỡn
kiểu Mỹ như thế! Tương quan lực lượng giữa một nền kinh tế lạc hậu với
nền văn hoá nghèo túng và kìm kẹp như vậy thì làm sao cưỡng lại trước
sức tràn ngập của nền kinh tế dư thừa và của nền văn hoá tự do sống
cuồng, sống vội của Mỹ! Tới đây ta, sẽ thấy tuổi trẻ nông thôn cũng thì
đua “quần bò, áo phông”, cũng son, cũng phấn lòe loẹt như ở bên Mỹ thôi!
Giờ
đây cả nước đều “phấn khởi hồ hởi” vì được “hoà nhập”! Cửa đã rộng mở
để cho vốn kinh tế thị trường tư bản tràn vào! Giờ đây, trước mắt mọi
người, tên Thảo này bỗng chỉ còn là thân phận của một con rối, đã lỗi
thời về tư tưởng, đã quá cổ hủ vì không biết làm “con phe, con phẩy” để
“kinh doanh”. Tôi nay chỉ mang thân phận một con rối đau đớn. Bởi đã
thấy rõ trước tất cả nguy cơ tai hại của sự phát triển quá trớn, không
giới hạn của khối tư bản. Giờ đây quê hương ta đang cuồng nhiệt lao vào
đà phát triển xổi thì theo ý hướng của đồng USD, của những thế lực siêu
đẳng về phương pháp bóc lột tinh vi. Sự thật là đằng sau các đại công ty
mang danh hiệu là của Đài Loan, của Đại Hàn, của Singapore thì đều là
của đồng đô-la Mỹ! Thế là thiên nhiên giàu, đẹp của ta đã và đang bị tàn
phá không thương tiếc. Tôi rất đau lòng đứng nhìn sức mạnh tung hoành
của đô-la Mỹ trên đất nước ta. Dân ta nay mừng rỡ được hội nhập kinh tế
tư bản. Các nước quanh ta, cùng khởi sự tranh đấu giành độc lập sau thể
chiến thứ hai cùng với ta, nhưng do họ không có thứ “lãnh đạo thần
thánh”, nên họ không phải hi sinh như ta, không phải đổ ra nhiều xương
máu như ta. Và họ đã giành được độc lập và ấm no trước ta cả nửa thế kỳ…
Như vậy cái công lao, cái tài lãnh đạo thần thánh ấy, sự thật chúng là
công hay là tội? Rốt cuộc nay thì đã phải trải thảm đỏ đón mời Mỹ trở
lại! Trong khi đó Tàu đang ức hiếp ta, đang gậm nhấm vùng đất, vủng biển
của ta, vẫn đang công khai tiếp tục trắng trợn lấn chiếm một số hải đảo
ở vùng Trường Sa, Hoàng Sa của ta! Và ta vẫn cứ kiêu hãnh hát vang bài
ca “đại thắng”! Đại thẳng gì mà giang sơn gấm vóc tổ tiên để lại nay đã
bị tiêu hao vào tay mấy “đồng chí vĩ đại” như thế? Đau lòng lắm! Đau
lòng lắm!
-
Con một thắc mắc này nữa muốn hỏi bác, có phải Mỹ vẫn đang duy trỉ ván
bài lá cờ vàng ở Mỹ để sau này tìm cách đánh phá, lật đổ ta phải không?
-
Tôi tin chắc là không phải vậy. Vì nước ta nay hoàn toàn là một thị
trường vững chắc của phe tư bản rồi, thì nó tính đánh phá ta làm gì cho
phí công sức, cho xáo trộn thị trường của nó. Vấn đề lá cờ Vàng là một
phản ứng hoàn toàn do ta gây ra. Phải nhớ rằng lúc đầu, cuộc cách mạng
tháng tám đã thành công hoàn toàn, thì lúc đó đã làm gì có lá cờ vàng.
Lúc đó cả nừớc đều vui mừng trung lên cờ đỏ sao vàng: Đó là giai đoạn cả
nước đồng lòng đứng lên cướp chính quyền để giành độc lập… Nhưng sau đó
là giai đoạn tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, bắt đầu trưng cờ đỏ
búa liềm tràn lan ra ở khắp nơi. Bắt đầu chính sách loại trừ thành phần
“con đẻ của thực dân phong kiến”, loại trừ “các đảng phái phản động”.
Chính từ lúc này là bắt đầu triệt để phân loại, phân chia dân tộc ra làm
nhiều thành phần… vì cuồng tín chủ nghĩa đã đẩy ra bên ngoài xã hội một
số đông người yêu nước nhưng không yêu xã hội chủ nghĩá! Và là cờ vàng
đã phát sinh ra từ đó, rồi đã trở thành một biểu tượng “quốc gia” để đối
đầu với lá cờ đỏ sao vảng “của cộng sản”! Sự chia rẽ dân tộc, sự đối
đầu ấy là do đâu? Tại ai? Ngày nay vấn đề nhậy cảm này, thực chất là rất
dễ thấy và rất dễ hiểu. Việc cả triệu người di tản vào miền Nam năm
1954, rồi sau ngày 30 tháng tư, 1975 là cuộc tháo chạy của cả triệu
người liều chết lao ra biển, và đã trở thành phong trào “thuyền nhân” đã
làm cả thế giới xúc động. Những hình ảnh cho thấy đấy là một thảm hoạ
của dân tộc mà mỗi người chúng ta trực tiếp có trách nhiệm. Nói rõ ra
thì đau đớn lắm…
Vấn đề lá cờ vàng này không ai có thể giải quyết ngoài những người Việt
chúng ta với nhau. Nhưng là phải giải quyết hết sức trí tuệ, chứ không
thể dùng mưu kế dối gạt, cũng không thể giải quyết bằng bạo lực và hận
thù. Phức tạp và khổ tâm lắm! Đau lòng lắm!
- Bác nói ngoài chúng ta ra không ai có thể giải quyết vấn đề lá cờ vàng, là sao?
-
Thì như tôi đã nói, chỉ có chúng ta mới hiểu rõ vấn đề ấy. Vì thế mà đã
tới chính sách “hoà giải, hoà hợp dân tộc”… Nhưng chỉ là nói thôi chứ
chưa hề làm, thực tế là chưa hề có nỗ lực hành động “hoà giải” nào cả!
“Hoà hợp” thì lại càng không có. Chỉ toàn là những cú phá hoà giải, phá
hoà hợp thôi. Hoà giải là phải nhìn nhận nhau, tôn trọng nhau. Ngay sau
tháng tư 1975, cách mạng đã khẳng định bằng lời tuyên truyền rằng trong
cuộc chiến tranh giành độc lập, thống nhất đất nước của đại gia đình dân
tộc ta, giữa chúng ta không có kẻ thắng, người thua, chỉ có nước Mỹ
thua thôi. Tổng thống Dương Văn Minh của miền Nam đã ra lệnh
cho quân lính của miền Nam buông súng, để tiết kiệm xương máu. Tuy vậy
trong thực tế cho tới nay, người của chế độ cũ ở miền Nam vẫn bị đối xử
như là địch, là thù, là nguỵ… với biện pháp giam giữ hàng loạt, trong
một chính sách trả thù đại trà, với kế hoạch ”học tập cải tạo tập
trung”. Bao nỉiiêu vạn công chức và sĩ quan của miền Nam đã bị giam giữ
vô hạn định rất tàn nhẫn, trong nhiều năm, trong các trại tập trung bị
che giấu trong các vùng rừng sâu, nước độc như vậy thì làm sao coi đó là
hòã giải hay là hoà hợp được!
Tây
Đức đã thống nhất với Đông Đức, có xảy ra cảnh tù đày hàng loạt như thế
đâu! Gần ta hơn thì việc Trung Quốc, sau khi cố dùng sức ép của vũ lực
để đánh phá triệt hạ Đài Loan, làm mãi mà không được, nay thì họ đành có
chính sách thật sự hoà giải, hoà hợp với Đài Loan bằng sự công nhận, sự
tôn trọng Đài Loan rồi đó! Cờ ”thanh thiên bạch nhật” trên các phi cơ
thương mại Đải Loan đã tự do bay vào Trung Quốc đấy! Bài học tốt đẹp ấy,
sao chúng ta không học hỏi? Tại sao ta cứ cố duy trì tình trạng thù
hận, rất trái với tinh thần thống nhất dân tộc như vậy? Đây là thảm kịch
nan giải của người Việt Nam chúng ta! Mà tôi coi đó như là thảm kịch
của riêng những người ưa suy tư như tôi và dĩ nhiên là của cả đám môn đệ
“bác Hồ”!
Nói
tới đó, rồi bác Thảo im lặng hồi lâu. Lúc này chúng tôi thấy bác Thảo
nổi bật như một người, lúc cuối đời, đầu óc trĩu nặng tâm tư, đầy ân
hận, hối hận rất u buồn, đau đớn, và đang tìm cách gì đó để giải toả
thảm kịch của chính mình!
Mà
bác Thảo khi nói tới bi kịch Việt Nam, thảm kịch Việt Nam thì thường
liên tưởng tới “bác Hồ”. Thấy cứ nhắc hoài tới “bác Hồ”, nên tôi hỏi:
- Nghe bác nói thế, tối vẫn có cảm tưởng là bác mang tâm tư oán trách “cụ Hồ” và đảm đàn em lắm phải không?
-
Tôi đã nói rồi. Nêu ra thảm kịch này không phải là để gây thêm oán,
thêm thù. Khi kể ra những trải nghiệm vui, buồn của của dân tộc, của hôm
qua và hôm nay, thì không thể không nhắc tới “ông cụ”. Khi nhắc tới
nhũng “thắng lợi vẻ vang”, không thể quên được những mất mát những đau
đớn mà nhân dân vẫn còn phải gánh chịu dài dài như không bao giờ kết
thúc. Rõ ràng là trong bi kịch của đất nước ta, chiến thắng là công,
nhưng chiến tranh là tội. Công và tội gắn liền với nhau. Đối với một
thời đau khổ, đối với một lãnh tụ có trách nhiệm, thì nói tới công lao
của lãnh tụ, thì đương nhiên cũng phải nhắc tới tội lỗi của lãnh tụ. Vì
vậy mà phải phân tích, tìm hiểu cho cặn kẽ đâu là công, đâu là tội đích
thực của lãnh tụ, để tìm hiểu giới hạn trách nhiệm của những quyết định
nặng nể hậu quả nghiêm trọng trong lịch sử cận đại. Vì thế nên phải tìm
hiểu cặn kẽ “ông cụ”, phải nghiên cứu, phân tách những chuyển biến tư
tưởng qua từng bước thay đổi, từ những giai đoạn đổi tên, đổi họ, từ
những tính toán khởi nghiệp, từ lúc đã tự chọn cho mình những cái tên
như “Tất Thành”, rồi là “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí
Minh”…! Nội việc bỏ họ Nguyễn, lấy lại họ gốc là Hồ cũng là cả một chứng
nghiệm tâm lý chính trị cần được nghiên cứu. Phải chỉ ra cho dân, cho
chế độ, cho cả “đảng”, thấy rõ, hiểu rõ “ông cụ” là người thế nào, đã bị
tham vọng đam mê chi phối từ trong nội tâm, tới ở bề ngoài ra sao.., để
từ đó nhận ra những giá trị tương đối, hiểu rõ trách nhiệm hạn chế của
“ông cụ”…
- Như thế là bác muốn đả phá tham vọng của “bác Hồ “ phải không?
- Tôi không đả phá, nhưng tôi chỉ ra đấy là do tham vọng, do cuồng vọng không gì lay chuyển nổi của “ông cụ”.
Bởi đã sống trong nỗi đau của dân tộc, đã có trăn trở của con người
triết học trong triển khai bạo lực cách mạng, nhất là sau kinh nghiệm
tàn nhẫn của cải cách ruộng đất, nên tôi đã ý thức được rằng chính “ông cụ” đã phải cố ý sa vào sai lầm lớn khi tuyệt đối tuân theo sự thúc đẩy của Mao,
nên tôi thấy phải can đảm, phải thẳng thắn, phải có tham vọng nêu ra
tất cả sự thật lịch sử rất tàn nhẫn liên quan tới “ông cụ”!
- Trời đất! Bác mà cũng có tham vọng, thật sao? Tham vọng ấy có lớn không? Có sánh được với tham vọng của “bác Hồ” không?
- Nói về tham vọng của tôi thì thật sự là tham vọng của “bác Hồ” không tham vào đâu cả!
- Bác giỡn đùa hay lắm. Như vậy là bác cũng là bậc tổ sư kiêu ngạo đấy!
- Tôi không giỡn, tôi không kiêu ngạo, nhưng sự thật là tôi có tham vọng cao hơn của “bác Hô” nhiều lắm!
- Bác giễu còn hay hơn cả chú hề trong rạp xiếc rồi đấy!
- Tôi không giễu! Đây là tôi nói thật. Mà thằng hề cũng có tham vọng của nó chứ.
- Thế tham vọng của bác là cái gì? Là bác sẽ làm gì?
- Là tôi sẽ xây dựng tại Việt Nam một lâu đài.
- Lâu đài ấy bao lớn?
- Phải nói đó là một lâu đài vô cùng vĩ đại sống ở đâu cũng thấy nó.
- Ai sẽ sống trong lâu đài ấy?
-
Ai cũng có quyền, sống trong lâu đài ấy. Cả nhân loại đều có thể tới
sống trong lâu đài ấy. Tham vọng của tôi là lo tìm hạnh phúc đích thực
cho toàn thể nhân loại!
- Trời đất! Bác định xây lâu đài ấy ở đâu?
-
Ở ngay trong đầu mỗi con người. Đó là một lâu đài tư tưởng. Cho tới
nay, không một người Việt Nam nào đã có một tham vọng toàn diện như vậy,
kể cả “bác Hồ”. Mưu đồ phát triển một cuộc cách mạng mà cả nhân loại
mong chờ thì đấy không phải là một tham vọng vĩ đại sao? Cuộc sống gian
khổ của dân ta và của tôi đã chuẩn bị vật liệu để tôi xây cất ngôi lâu
đài ấy. Đấy là một lâu đài của tinh thần và lý tưởng dân chủ, của một
nền công bằng xã hội chân chính, nền móng của lâu đài ấy là công lý
nghiêm minh, thắp sáng bởi đạo lý. Lâu đài ấy sẽ không chấp chứa những
gì thuộc về xảo trá, hận thù, thủ đoạn ma quỷ. Sống trong lâu đài ấy con
người sẽ khai triển một cuộc cách mạng lý tưởng bằng lương tri, trí
tuệ, bằng luật pháp nghiêm minh, với sức mạnh của công lý, công bằng,
chứ không phải bằng bạo lực của hận thù. Trong lịch sử loài người, chưa
có ai xây được một lâu đài như vậy. Đã có vài nhà lãnh đạo nỗ lực xây
dựng một vài lâu đài kiểu ấy. Nhưng khi xây, thì đã đúng tới những động
lực của hận thù, dùng tới phương pháp của sự độc ác, gian xảo, nên đã
làm hư hỏng hết cả. Bởi trong một xã hội lạc hậu, con người tốt thì
hiếm, nhưng con người xấu xa, hư hỏng thì nhiều. Những lâu đài kiểu ấy,
khi xãy dựng xong thì luật pháp của nó đã bị biến thành luật rừng, xã
hội của nó chỉ là gian trá, quỷ quyệt… Những thứ lâu đài ấy chỉ làm cho
con người thêm khổ, xã hội thêm loạn. Lâu đài của Trần Đức Thảo sẽ là
thứ lâu đài trong đó toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống của
mình, quyền dân chủ băng lá phiêu của mình… Một lâu đài như vậy không
phải là vĩ đại sao? Ha! Ha! Đấy không phải là một cuồng vọng cao hơn,
lớn hơn, đẹp hơn, trong sáng hơn là cuồng vọng của “bác Hồ” rất nhiều
hay sao? Các anh thử trả lời tôi đi!
- Chi có thể hỏi lại bác là lâu đài ấy có phải là cũng không tưởng, cũng là quả duy tâm, quá siêu hình hay không?
-
Không hể có gì là không tưởng hay duy tâm, siêu hình gì đâu. Nền tảng
của lâu đài ấy: toàn là những đòi hỏi của tình trạng thực tế xã hội đen
tối, bế tắc của cách mạng hiện nay. Những gì tôi quan sát hằng ngày,
trong cái hiện thực đau đớn của cuộc cách mạng trước mắt, thì tất cả
những cái đó đã chất vấn tôi, đã quy trách nhiệm cho tôi. Tôi không thể
thờ ơ trước những nhức nhối của con người, của xã hội, Những chất vấn
ấy, những thôi thúc ấy bắt tôi phải hành động theo khả năng lương tri và
tri tuệ của tôi. Do đó lâu đài của tôi là do hiện thực xã hội đòi hỏi
và đặt nền tảng. Nghiệm sinh thực tại tàn nhẫn đã đặt nền móng cho cuồng
vọng của tôi, để cho lâu đài ấy thật sự là có nền tảng duy vật sử quan.
Còn tham vọng của “bác Hồ” thì khác hẳn. Tham vọng của “bác Hồ” thì một
phần do học thuyết sách vở chưa đọc kỹ, tư duy xổi thì chưa tiêu hoá
được, một phần còn là do mưu trí chính trị cực kỳ cơ hội mà ra… Đây là
tôi nói và làm sự thật. Không có lâu đài ấy thì loài người còn khổ, còn
lâu mới tìm được hạnh phúc… Tôi đã nghiền ngẫm, thiết kể cho ngôi lâu
đài ấy từ lâu rồi. Bởi hàng ngày trong đầu luôn luôn có cuộc xung đột
giữa cái tôi khao khát hành động với cái tôi lo sợ sẽ bị xử tiêu nếu lộ
ra ý hướng phản biện. Một bên là quyết phải làm một cái gì cho đất nước
và dân tộc, chẳng lẽ cứ im lặng như đầu hàng… một bên là sự khôn ngoan
muốn bảo vệ tính mạng, nói thẳng ra là cái sự hèn vì sợ. Trong suốt bốn
chục năm qua, tôi không sợ sống vất vả về điều kiện vật chất, mà tôi đã
sống rất căng thẳng vì trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc xung đột với
chính tôi giữa cái tôi triết học với cái tôi khôn ngoan sống hèn trong
chế độ đầy sai trái này. Cuộc xung đột ấy đã bước tới phần kết thúc khi
tôi được vào sống ở Sài Gòn, chịu ảnh hưởng của người Sài Gòn…
-
Khi nhìn nhận có một cuộc xung đột như vậy, với mộng ước xây dựng một
toà lâu đài như vậy, thì có phải là bác đã quá không tưởng và kiêu ngạo
không thua gì Cụ Hồ hay không?
-
Tôi cũng xin thành thật trả lời rằng mỗi khi nghĩ tới công việc của một
nhà triết học, thì tầm cỡ của mộng ước là rất cao, rất sâu, rất rộng…
nên nó dễ bị hiểu lầm là một thứ kiêu ngạo, ngông cuồng không tưởng. Tôi
vì triết học mà nghĩ, mà làm, chứ không phải vì kiêu ngạo! Nếu kiêu
ngạo thì đã không bị cái sợ chi phối gần cả đời người!
- Nhưng một lâu đài như thế thì nó có tính khả thì hay không?
- Nó rất có tính khả thi!
- Trong thực tế thì bác sẽ xây dựng nó bằng cách nào?
-
Bằng một cuốn sách. Và tôi đang hoàn thành cuốn sách ấy. Marx cũng đã
xây dựng một lâu đài như thế, và cũng bằng một cuốn sách, chỉ tiếc là có
nhiều người từ cuốn sách, từ trong lâu đài ấy của Marx, khí bước ra,
thì họ đã trở thành ác quỷ. Cuốn sách của tôi là một món nợ mà tôi phải
trả cho triết học, cho nhân loại, chẳng những thế mà còn là món nợ mà
tôi phải trả cho dân tộc, vì cái mộng về nước lúc đó của tôi của tôi là
xây dựng một mẫu mực, một mô hình cách mạng mà dân ta mong đợị. Bởi thế
mà lâu đài của tôi, tức là cuốn sách của tôi, trong đó, nhân dânh chân
lý, tôi sẽ đặt nặng những vấn đề nhân bản, công lý và dân chủ, bằng
những cơ chế ưu tiên kiểm soát quyền lực, với những cơ sở lý luận và
pháp lý, để những ai từ đó đi ra sẽ không thể trở thành ác quý. Chính vì
lâu đài tư tưởng của Marx, mà từ đó đi ra, những lãnh tụ đã đã thành
những ác quỷ tuỳ tiện, lộng hành quyền lực, khiến hàng vạn chiến sĩ cộng
sản đã bị hi sinh một cách oan uổng, vô ích… và ở nước ta đã có hàng
triệu người bỏ làng mạc, bỏ mồ mả tổ tiên để di tản vào Nam năm 1954, và
rồi cũng đã có hàng triệu người đã liều chết bỏ nhà bỏ của chạy ra biển
gây thảm cảnh “thuyền nhân” sau năm 1975 … làm cả thế giới rơi lệ.
Thành phần dân chúng khốn khổ ấy, vì đã hiểu, đã nếm mùi lâu đài “thế
giới đại đồng” của Marx, nên họ đã liều chết bỏ chạy! Là vì họ muốn đi
tìm nơi có công bằng, bác ái, có tự do và hạnh phúc thật sự!
- Bộ bác cũng băn khoăn với khát vọng đi tìm tự do và hạnh phúc sao?
-
Ai mà không có khát vọng đi tìm tự do và hạnh phúc! Khổ nỗi là con
người không biết làm sao tìm. Và đã có bao dân tộc, đã bị lãnh tụ, theo
chỉ dẫn của Marx, mà đã dẫn dân vào con đường bế tắc chứ khỡng tiến tới
được thế giới đại đồng!
- Theo bác thì có thể tìm tự do hạnh phúc ở đâu?
-
Tìm ở nơi không có con quỷ quyền lực và con quỷ chiến tranh nó ám. Tìm ở
nơi có nhà nước biết dùng phần lớn ngân sách để lo cho phúc lợi của
nhân, dân, chứ không dùng ngân sách nhà nước để củng cố đảng cầm quyền,
để chuẩn bị những cuộc chiến tranh phiêu lưu, để làm những điều không
tường để củng cố cho một “đảng” được vĩnh viễn cầm quyền, để phát triển
triệt để guồng máy đàn áp để đảng tồn tại, mà coi nhẹ việc tạo phúc lợi
cho nhân dân! Người ta bỏ đi vì họ không muốn bị hi sinh, mà là họ muốn
tìm tự do hạnh phúc, ở nơi công an không canh chừng dân chúng như canh
tù, không làm khổ nhân dân vì thủ đoạn vu khống, chụp mũ. Phải biết
rằng: chỉ có quỷ mới kiêu căng, mới vui khi làm khổ, làm nhục con người.
Kẻ vênh váo, cảm thấy vui khi làm khổ, làm nhục con người thì không
phải là người mà là quỷ, là kẻ bị con quý quyền lực nó ám trong đấu. Mà
quỷ ấy là ai? Là gì? Quỷ ấy là thứ đầu óc đầy ý đồ gian xảo, hung bạo
của quyền lực. Quỷ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp, là thứ cuồng tín của
bạo lực và hận thù, là những khái niệm sai trái, độc ác ở trong đầu con
người, nó thúc đẩy con ngườì lao vào đam mê tìm thắng lợi bằng mọi thủ
đoạn của tội ác, bằng đủ thứ quỷ kế, để mưu đồ cùng cố cho chế độ độc
tài, độc đảng. Những vinh quang độc tài, độc đảng ấy đều là phù phiếm,
vì chúng đã làm khổ con người! Xét như vậy là thấy rõ là quỷ nó vẫn ở
với người, vẫn ở trong trong con người lãnh đạo. Bàn sâu vào thực tại
của quỷ ở quanh mình thì bi thảm lắm! Vì chính trị và chiến tranh cách
mạng là cơ hội thao túng của quỷ. Quỷ nó quậy trong đầu những người nắm
quyền lực để làm chính trị, làm chiến tranh. Quỷ lộng hành vì không cơ
chế nào kiểm soát được nó! Nó bảo đảm với con người chính trị, con người
chiến tranh là mau trí của nó sẽ mang lại chiến thắng để tồn tại lâu
dài. Bi kịch của ta là do nó đã tạo ra niềm tin tất thắng khi tận dụng
bạo lực và hận thủ! Chính cái niềm tin tất thắng ấy đã đầy đoạ con
người, đã xoá đi tính nhân bản trong chính sách! có lúc phải mở chiến
tranh, như để giành độc lập, là đúng. Nhưng dùng con đường chiến tranh
cách mạng một cách trường kỳ, vô hạn… để bành trướng chủ nghĩa, để giải
quyết các vấn đề, để mưu tìm thế độc quyền, độc tôn cho ý thức hệ, tức
là cho đảng nắm toàn quyền yêu nước, toàn quyền ban phát tự do hạnh phúc
cho con người là sai. Vì đó là con đường của thảm hoạ, của tội ác…,
Khi
thấy bác Thảo đang trong cơn phẫn uất, thao thao giải thích gay go, sôi
nổi như thế, tôi muốn lái qua những đề tài khác có tính bình tĩnh hơn,
liên quan tới bản thân bác hơn, nên tôi hỏi:
- Bác nghĩ sao khi bị chung quanh chê bai, chế giễu bác là người khùng, cứ như kẻ sống ngơ ngác trước cuộc đời?
-
Tôi đã nói rồi, chẳng thà làm thằng khùng hơn là làm thằng đểu, thằng
ác, thằng lưu manh, thằng gian dối. Tôi làm thằng hề ngơ ngác trước cuộc
đời vì không hiểu nổi tại sao có nhiều kẻ sống gian dối, lưu manh, độc
ác, quỷ quyệt mà họ cứ vênh váo tự đắc? Và tại sao chung quanh biết thế
là sai, là ác, mà không dám có phản ứng, lại còn hùa nhau vào nịnh nọt,
tâng bốc cho cái ác, cái gian dối cứ tiếp tục? Nịnh nọt như thế là đồng
loã với cái gian ác. Tôi nghĩ đã không thể làm thằng nịnh nọt, thì chẳng
thà cứ làm thằng khùng, thằng hề thì ít tội hơn… Vả lại thẳng khùng,
thằng hề cũng dễ thoát chết hơn dưới bàn tay của kẻ ác.
-
Nghe nói có lúc bác bị “đi thực tế” để cải tạo tư tưởng, bằng cách phải
đi cắt cỏ, đi chăn bò, rồi lại còn đánh mất bò nữa, phải không?
Nghe
câu hỏi, nét mặt bác Thảo biến sắc, má ửng đỏ lên, như bị nhắc tới một
điều làm bác xấu hổ! Có vẻ như bác không muốn nhắc tới những chuyện như
thế. Ngẩn ngừ, im lặng, như nhớ lại điều gì. Rồi bác đáp với giọng bực
bội:
-
Hừ! Giai thoại Trần Đức Thảo bị đi chăn bò ở nông trường Ba Vì đã được
loan truyền rộng rãi. Đấy thật là một điều đáng xấu hô! Mà không phải là
xấu hổ cho Trần Đức Thảo đâu. Xấu hổ là xấu hổ cho cả nước ấy chứ! Làm
nhục một trí thức như thế, là lối hành xử của một nước man rợ, không có
văn minh văn hoá! Đấy chung quy chỉ là sự ganh tức của đám người, vì ít
học, nên căm thù trí thức, coi trí thức toàn là con đẻ của giai cấp bóc
lột, của bất công xã hội… Họ đã thuộc lòng câu “trí thức không băng một
cục phân”, thì làm sao họ đối xử tốt với tôi được! Mà một con bò lúc ấy
là quý hiếm, đắt tiền lắm! Ai có bò mà dám để cho Trần Đức Thảo chăn! Mà
có nơi nào có nhiều bò đâu mà đánh mất dễ dàng như thế được. Cứ y như
cái anh ăn mày rêu rao bị mất của! Có thể là mấy ông cán bộ báo cáo lên
trên như vậy để có cơ hội mà ngả bò đánh chén với nhau thôi. Ha! Ha! Ha!
Các anh không thể ngờ rằng ở nông thôn lúc ấy, người ta chỉ rình trong
chăn nuôi của tập thề có dấu hiệu dịch gà, dịch heo để vội giết cả
chuồng cho không gây lây truyền. Thế là cả vùng bỗng vui lên vì có thịt
mà ăn, mà lại rẻ! Ha! Ha! Ha! Khốn khổ và vui thế đấy!
Vẫn
với một nụ cười nhạt nhẽo, bạc phếch, cay đắng, không chứa một chút gì
vui. Thật sự là mỗi lần thấy bác Thảo cười, tôi lại cảm thấy đau lòng,
thấy bác thật là đáng thương hại… Vì đấy chỉ là thứ cười đau đớn!
- Còn
chuyện này nữa: Phạm Huy Thông, hồi ở Pháp cũng là bạn thân của bác
phải không? Sao trong vụ Nhân Văn - Giai Phẩm, ông ta đấu tố bác nặng
quá vậy?
-
Anh chàng ấy hồi ở Pháp thì tôi có biết nhưng không thân có khi y còn
ganh ghét tôi nữa. Vì lúc tôi được bầu làm Đại diện Kiêu dân Đông Dương,
để đọc diễn văn bênh vực quyền lợi cho dân mình, thì có nhiều kẻ, nhiều
phe ganh tị lắm. Có phe cộng sản đệ tứ trốt-kít, có phe cộng sản đệ
tam, có cả phe thân Đức, thân Nhật nữa. Trong khi đó thì Thảo này không
thuộc phe cánh nào, mà lai được bầu. Thế nên sau này, nhân vụ đấu tố
nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm) thì Phạm Huy Thông đã ngả theo phe Tố Hữu để
tố khỗ tôi một cách hằn học thật là tồi tệ bất ngờ. Cách thức tố cáo,
buộc tội tôi như thế đã làm cho y sau này bị xấu mặt, chứ tôi thì chẳng
hề gì. Có thể nói là những lời lẽ đấu tố nhóm Nhân Văn - Giai Phẩm đã
làm xấu mặt cả đám văn nghệ sĩ cán bộ. Bởi lúc ấy, những gì mà mỗi trí
thức đã viết ra, thì đều phơi bày cái mặt trái, mặt thật xấu xa, hèn kém
của nó. Sau này Thông còn bị khinh bi và bị chụp lên đầu tội làm gián
điệp cho Nhật. Bởi bị quy cho tội là đã viết bảo cáo tình hình cách mạng
Việt Nam gửi qua Tòkyo, cho thằng cháu ở bên ấy. Rồi thằng cháu ấy gửi
tiền về cho. Nghe nói Nhật Bản nó gửi nhiều tiền đến nỗi bị cướp vào nhà
nên đã mất mạng…
- Vậy là bác nói xấu Phạm Huy Thông rồi đấy!
- Con người đã có hành động như thế thì làm sao nói tốt cho được, phải không?
LY DỊ VỢ
LY DỊ VỢ
-
Bây giờ xin lỗi bác để hỏi về một chuyện tế nhị và không vui, là tại
sao gia đình bác bị tan vỡ? Có phải là đã có sự bạc tình, phụ nghĩa bỏ
nơi bị túng quẫn, để về nơi có ấm no phải không?
-
Chuyện buồn đó cũng đã gây nhiều thắc mắc: Thật ra thì chúng tôi quen
nhau và đã hứa hôn với nhau từ hồi còn trẻ ở Paris. Đấy là mối tình
trong sáng giữa chúng tôi. Rồi khi có hoà bình ở miền Bắc, thì cô ấy tự
động về, và cứ nằng nặc đòi cưới ngay. Bất chấp điều kiện, sống của cả
hai đứa lúc đó đang bị đối xử rất miệt thị như là kẻ thân Pháp. Vì thế
mà phải sống trong những hoàn cảnh rất vất vả, chật chội, túng thiếu,
khổ sở. Bởi lúc Nhất về thì trong xã hội vẫn đang kỳ thị rất tồi tệ với
những ai bị coi là kẻ dính líu đến Pháp, từ Pháp về, do Pháp đào tạo!
Lúc đó cái gì mang màu sắc của Pháp đều bị tẩy chay nặng. Chính tôi lúc
đó cũng đang bị xua đuổi, kiềm chế rất khốn khổ. Thể mà cô ta cứ nằng
nặc đòi làm đám cưới… Nên kết hôn với nhau xong là rất khó sống. Đến khi
Nhất xin đứa con nuôi về thì như giọt nước tràn li. Vì đã khó khăn,
chung đụng, chật chội, nay với đứa con nuôi ốm yếu khóc lóc cả đêm, nên
lại càng khốn khổ. Do vậy đã khiến Nhất phải mang con ra ở riêng. Rồi vì
thương tôi mà đòi li dị.
- Sao lạ vậy? Vì thương mà lại đòi li dị à?
-
Nhất đã phân trần, giải thích trong nức nở nghẹn ngào là do đã chia sẻ
và đã hiểu rố lý tưởng của tôi. Rằng sự trở về quê hương của tôi là vì
tự do hạnh phúc của dân tộc, của nhân loại, chứ không phải vì tự do hạnh
phúc của riêng tôi. Sự thật là Nhất ra đi và đòi li dị, là muốn trả tự
do cho tôi, để tôi tiếp tục đi cho trọn con đường lý tưởng của tôi, để
tránh cho tôi cái gánh nặng gia đình. Bị gia đình tan vỡ như vậy tôi rất
buồn. Nhưng cuộc li hôn của chúng tôi mang tính thần lý tưởng mà người
bên ngoài không thể hiểu. Bởi chúng tôi đã chia tay nhau không do phụ
tình, phụ nghĩa gì cả, Sau này thì Người Khắc Viện ở Pháp về, có điều
kiện gia đình may mắn hơn tôi, nên đã tìm gặp lại Nhất. Và hai người
cũng đã từng biết nhau ở Paris. Khi hai người quyết định lấy nhau, thì
Viện có lại nói chuyện với tôi. Tôi đã cám ơn Viện là người có điều kiện
để lo cho Nhất. Và tôi chúc Viện và Nhất sẽ được hạnh phúc; Nếu phải
quy trách nhiệm về sự đổ vỡ này, thì hoàn toàn là do tôi. Tôi đã không
có khả năng làm nhiệm vụ một chủ gia đình… Đấy là một đổ vỡ, một thất
bại lớn trong đời tôi. Do sự kém cỏi không biết tháo vát, xoay sở trong
cái xã hội này. Bởi khi đi hiến thân cho một lý tưởng thì gánh nặng gia
đình là một trở ngại lớn. Và biết vậy nên sau này tôi vĩnh viễn chọn
cảnh sống cô đơn. Trở ngại ấy thì chính “cụ Hồ” cũng đã gặp, nhưng cách
trút bỏ gánh nặng gia đình của “ông cụ” thì khác với trường hợp của tôi…
- Khác là như thế nào?
-
Thì mọi ngưồd đều dư biết là “ông cụ” đã lần lượt ăn ở với nhiều phụ nữ
một cách nghiêm túc, từng đã chính thức lập gia đình, từng đã có con ở
Âu, ở Á, nhưng “ông cụ” đã vì cuồng vọng chính trị, mà phải chứng tỏ
mình là người thanh khiết thanh cao, cộ đức độ “cách mạng” (cách mạng có
cấm ai lấy vợ đâu!…) nên “ông cụ” đã phải phủi tay từ bỏ tất cả vợ con!
Dù vào lúc đỉnh cao quyền lực cho phép, thì “ông cụ” cũng đã tử bỏ việc
tìm kiếm, không muốn nhìn nhận lại gia đình vợ con đã có. Do đấy mà đã
sinh ra bi kịch của bản thân “ông cụ”. Vì buộc phải chấp nhận thân phận
sống cô đơn cho tới chết. Chỉ vì muốn tự tạo ra huyền thoại của một lãnh
tụ thần thánh, nên ”ông cụ” đã bị tai tiếng; vì đã phạm ba tội: một là
mạo nhận minh là bậc chân nhân chỉ biết nói thật và làm thật, điều này
không một nhà chính trị nào có thể giữ được. Hai là “ông cụ” đã tự coi
minh là một thứ quân tử của thời phong kiến, chứ không phải là một chiến
sĩ cách mạng vô sản thời hiện đại! Ba là muốn đội lôt một thánh nhận để
nêu gương sống thanh cao khắc khổ như tu hành, đã biết hi sinh hạnh
phúc gia đình! Những sự thận thánh hoá giả tạo đó là do tâm thức vẫn
mang nặng ảnh hưởng của thời phong kiến, nó vừa lạc hậu, vừa dối trá.
Chính vì vậy mà “ông cụ” thường dặn đám cán bộ thân cận rằng: “bác làm gì kệ bác!”
Và do đó mà việc hô hào “sống theo gurơng bác Hồ” là một việc làm sai
trái rất ngớ ngẩn, vì cuộc sống muôn mặt của “bác” không thể là một tấm
gương. Nhưng sự thật là cả “đảng” và cả dân, cho tới nay, chưa hề có ai
sống thanh cao theo tấm gương giả tạo ấy. Mà họ chỉ chọn cách sống như
con người xoay sở muôn mặt, muôn hướng của ”bác Hồ”!
- Bác nói về cụ Hồ như vậy, thì là bác muốn bênh hay bác muốn chống?
-
Ấy đấy, các anh lại muốn hiểu lầm tôi! Thì tôi đã nói rõ nhiều lần rồi!
Khổ lắm! Tôi đã kể nhiều về ”ông cụ”, đấy chính là muốn phân tích khía
cạnh số phận bi thảm của lãnh tụ chính trị trong con người “ông cụ”. Dĩ
nhiên là tôi không nói nhiều thêm về những gì người ta đã nói quá mức để
tâng bốc “ông cụ”. Còn tôi thì muốn nhấn mạnh tới những khía cạnh bi
thảm, tiêu cực đã bị che giấu trong những quyết định, chọn lựa của “ông
cụ”. Những khía cạnh ấy là thuộc về mặt trái, lề trái. Khi nhắc lại
những vụ việc huy hoàng, vĩ đại thì họ đều nói “đấy là nhờ có công lao
của “ông cụ”!” Tâm thức cuồng tín, ngu tín thường ưa nghe kể về những
huyền thoại đã thần thánh hoá “ông cụ”. Nhưng khi ôn lại bao di sản, hậu
quả tai hại, gian nan, khổ ải của chiến tranh mà nhân dân phải gánh
chịu, thì họ không dám chỉ ra rằng những cái ấy cũng đều phát xuất từ
những chọn lựa, những tính toán rất quỷ quái của “ông cụ”. Bởi đấy toàn
là những hành động trí trá, muôn mặt của “ông cụ”. Những sự chọn lựa ấy
đã gây ra nhiều thống khổ… Thế nên bây giờ mà bàn luận về công và tội
của “cụ Hồ” thì sẽ dễ biến thành tranh cãi, có thể đi tới xung đột. Tình
trạng đó không phải là do lỗi của bên bênh lẫn bên chống.
- Vậy thì là lỗi do đâu?
-
Ta phải hiểu hoàn cảnh kẻ sùng bái cũng như kẻ oán hận. Vì cả hai đều
là nạn nhân đáng thương hại của những bài toán lịch sử, của sự chia cắt
đất nước do chính lãnh đạo đã ký kết với ngoại bang. Như tôi đã nói: là
trên thân phận “bác Thảo”, thì có cái bỏng ma của “bác Hồ”, nhưng trên
thân phận “bác Hồ” lại có bóng ma của các bác Lenin, bác Stalin, và nhất
là của bác Mao. Mà trên thân phận bác Mao, lại cỏn có cái bóng ma vĩ
đại rất ám ảnh, rất thúc đẩy của cụ tổ Marx…! Nói riêng về
thân phận nước ta, thì ngoài bắc đã bị hai cái bóng ma bao trùm, là hai
anh cả đỏ Liên Xô và Trung Quốc, chúng thúc bách chế độ chuyên chế phải
tận lực phát triển xã hội chủ nghĩa để đi giải phóng miền Nam, dù là cả
miền Bắc còn đang chìm trong tình trạng nghèo đói! (Sự thật là khi bộ
đội miền Bắc ta đánh chiếm được miền Nam, thì là ta đã nuốt vào bụng
“con ngựa thành Troa” của khối tư bản… để rồi khi ta kiệt quệ nên lâm
cảnh tự diễn biển thành chư hầu của khối tư bản!) Còn ở miền Nam thì
cũng bị cái bóng ma kinh khủng của bàn tay lông lá Mỹ. Nó đã khuynh đảo
toàn điện, nó giết lãnh tụ, nó liên tiếp thay đổi lãnh đạo, gây ra hỗn
loạn đến mức tan rã chính trị, rồi thì nó nản chí, phủi tay, bỏ đi.
Nhưng rồi ta đã phải khổ công điều đình xin “hội nhập”, để mời nó quay
lại làm ông chủ toản diện…! Đấy là thảm cảnh của ta, của cả hai miên đất
nước ta, của dân tộc ta. Tất cả đất nước ta nay đã trở thành con mồi
cho đế quốc nước lớn xúm vào cắn rỉa, gậm nhấm, trước thì bằng cách chia
cắt lãnh thồ ta chia rẽ dân tộc ta, nay thì bằng cách biến ta thành một
thứ thuộc địa của khối tu bản của các nước lớn. Suốt trong thời chúng
ta đánh nhau, thì mấy đế quốc lớn ấy đã trắng trợn họp mặt vui vẻ với
nhau để mặc cả, để chia vùng ảnh hưởng trên đầu chúng ta. Tựu trung thì
chúng ta đã phải chịu toàn là những giải pháp, những chọn lựa ngoài ý
muốn của dân tộc ta, nhưng hoàn toàn là theo ý muốn của mấy thế lực nước
lớn! Nêu ra thảm kịch này, không phái là để gây thêm thù oán nước lớn,
mà là để hiểu rõ hoàn cảnh và vấn đề giữ vững chủ quyền, bảo vệ quyền
lợi của ta, một nước nhược tiểu, trước các thế lực nước lớn. Bởi dĩ
nhiên những nước lớn luôn luôn lo phát triển quyền lợi của họ.
.
Xét cho cùng thì đằng sau những chiến thắng vang dội, là biết bao nhiêu
sai lầm và tội ác đã bị che giấu. Bởi thế, tôi thấy nay cần phải can
đàm, thẳng thắn giải mã chính “ông cụ”. Vì “ông cụ” là người luôn luôn
ẩn mặt sau những đường lối, chính sách, quyết định tai hại như chọn thể
chế xã hội chủ nghĩa Mác-Lê, như chọn lối cải cách ruộng đất của Mao,
như quyết định dùng chiến tranh xé bỏ cả hai hiệp định hoà bình… Ngay
trong bản thân và trong cuộc đời tư và đời công, “ông cụ” đã từng bước,
qua mặt, loại bỏ được tất cả đối thủ tiềm năng cạnh tranh, có thể đối
đầu với “ông cụ”, để gạt ho ra khỏi địa bàn chính trị ở quốc nội và quốc
tế. “Ông cụ” đã từ vị trí lu mờ ở trong nước, từ tình trạng đã bị Đệ
Tam Quốc tế dứt khoát loại bỏ ra bên lề, không cho phép giữ vai trò lãnh
đạo trong phong trào cộng sản Đông Dương. Vậy mà “ông cụ” đã lật ngược
lại mọi tình huống, qua mặt tất cả những “trở ngại” trong đảng như Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, kể cả Trường Chính… để
rồi vẻ vang vươn lên làm tổng bí thư kiêm chủ tịch nước năm 1945! Đây là
một sự kiện lịch sử, cho tới nay, chưa có tư liệu nào làm sáng tỏ những
phương cách mà ông cụ đã dùng để qua mặt tất cả các đối thủ từng có hậu
thuẫn của Đệ Tam Quốc tế… để vươn lên đỉnh cao quyền lực như vậy. Có
khá nhiều giai thoại về những quỷ kế của ông cụ, để qua mặt những lãnh
đạo các phong trào. Họ là kẻ đã cả đời vào tù ra khám ở trong nước, đã
từng được đào tạo chính quy, với hậu thuẫn của Đệ Tam Quốc tế… vậy mà
cuối cùng họ cũng bị đẩy vào hàng thứ yếu, chôn vùi vào quên lãng, như
trường hợp cay đắng của Trần Văn Giàu. Tôi đã gặp được vài cán bộ lão
thành đã từng sống và làm việc ở Trung Quốc lúc ấy. Và họ dã kể ra những
điều cạnh tranh, thanh toán bí ẩn này.
- Bí ẩn là như thế nào?
-
Đại khái họ kể rằng khi biết mình đã bị Đệ Tam Quốc tế, tức là phía
Liên Xô loại ra, “ông cụ” đã khôn khéo mưu tìm sự tiến cử mình bằng cách
khác, nghĩa là tạo cơ hội cho mình được chính thức đưa về bởi một thế
lực tại chỗ, tức là bởi “Mao lãnh tụ”. Bởi ông cụ biết Mao có đầu óc
muốn làm thủ lãnh các phong trào cộng sản của châu Á. “Ông cụ” bắt đầu
bằng bước nhẫn nhục vào làm việc cho Bát Lộ Quân của đảng cộng sản Trung
Quốc, để rồi từ đó tạo điều kiện được phong trào cộng sản Trung Quốc
tấn phong, ủng hộ đưa trở về, để ép các khu uỷ, xứ uỷ từ trong nước ra,
phải chấp nhận “ông cụ” làm lãnh đạo duy nhất của phong trào cách mạng
Việt Nam sau các đại hội ở Ma Cao và Hồng Kông… Cho dù bước tiến thân
thực tế này đã gặp phản ứng gay gắt từ phía “Đệ Tam”. Nhưng rồi do Mao
dàn xếp, nên đã qua mặt những sự phản đối này. Bởi các cấp lãnh đạo
phong trào ở trong nước thì đa số đều là những kẻ từng được đào tạo,
từng sống trong một thời gian dài nhờ sự nâng đỡ của đảng cộng sản Trung
Quốc. Đấy là một bằng chứng cho thấy “ông cụ” là một nhà chính trị
“thần sầu, quỷ khốc” về mặt tư tưởng, thì do ảnh hưởng của thời nho học
lúc trẻ, nó đã ăn sâu vào tiềm thức, nên “ông cụ” luôn luôn chứng tỏ
phong cách, hành động, mang nặng tư tưởng phong kiến nho giáo nhiều hơn
là tư tưởng cách mạng Mác-Lê. “Ông
cụ”, tuy ca ngợi tư tưởng Mác-Lê, chưa bao giờ thấy “ông cụ” bàn sâu về
lý luận và tư tưởng Mác-Lê. Vậy mà ông cụ lại nổi danh và được sùng bái
như một lãnh tụ cách mạng mác-xít! Bởi ông cụ luôn luôn là người biết
chụp bắt đúng cơ hội. Nhiêu người không hiểu được điều này, nên họ cứ
tưởng rằng “ông cụ” luôn luôn đi trên con đường chính đạo, chính quy! vì
thế mà họ đã tin vào cồng đức liêm khiết của “ông cụ”, để rồi phong
thánh, phong thần cho “ông cụ” Họ cứ lẫn lộn mưu kế, quỷ kế chính trị
với trí tuệ, với đạo lý. Họ còn cổ võ dân chúng lập đền thờ “bác Hồ” đế
cúng bái, khói hương cứ y như đối với một ông bụt! Việc thần thánh hoá
này thật sự là một việc làm có tính duy tầm phong kiến vừa ngu tín, vừa
phản cách mạng. Phải lưu ý rằng “ông cụ” là một nhà chính trị đã làm
những điều mà không một người cộng sản nào dám lám là đã dám chính thức
xoá tên “Đảng Cộng Sản”, để đổi thành “Đảng Lao Động”… không một nhà
tranh đấu giành độc lập nào dám ký hiệp định “sơ bộ” chấp nhận để cho
binh lính Pháp chính thức được trở lại Bắc bộ, để êm thấm đuổi được đám
quân Tường ra khỏi Bắc bộ. Vì quân Tưởng lúc ấy là lực lượng của Đồng
Minh sang giải giới quân Nhật, nhưng có ý đồ hậu thuẫn cho cánh Nguyễn
Hải Thần, Nguyễn Tưởng Tam, Vũ Hồng Khanh của Việt Cách, Việt Quốc… Hành
động này đã làm cho nhân dân cả nước kinh ngạc. “Bác Hồ” còn mưu trí
công khai cho lập thêm hai đảng chính trị khác là đảng Xã Hội và đảng
Dân chủ… Đấy chỉ là quỷ kế che mắt dư luận íhé giới, đi tạo hình thức đa
nguyên, đa đảng, cứ như thật sự có tự do dân chủ. Thực tế thì khác. Vụ
này đã làm cho chính Stalin bực minh sửng sốt, nhưng nhờ đó mà đã lừa
được một vài lãnh đạo của khối “Đồng Minh”, lừa được đám trí thức, quan
lại ngây thơ ở trong nước, làm cho họ lầm tưởng, rằng “cụ Hò” chỉ mưu
tính thành lập một chế độ dân chủ đa đảng thật sự như kiểu của phương
Tây!
Phải
ghi nhận rằng lãnh tụ Hồ Chí Minh là một nhà chính trị “mưu thần chước
quỷ”, chuyên hành động muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền
thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc! Một bậc chân nhân, quân tử không
ai dám có những hành động trái sự thật một cách nham hiểm như thếl Nhưng
đấy lại là những thứ mưu trí cao siêu về chính trị. Đạo đức không phải
là vấn đề được đặt ra trong chính trường. Nhưng những người cộng sản ít
học thì không hiểu, nên lại muốn nêu giá trị đạo đức ra: để thần thánh
hoá “ông cụ”, nên họ đã làm “ông cụ” bị bêu xấu, lật tẩy! Những ca ngợi
thần thánh ấy đã gây ra hiểu lầm tai hại về di sản đạo đức thuần hình
thức “của ông cụ”. Bởi người dân ai cũng biết giá trị đạo đức của “ông
cụ” rất là hạn chế. Ai
cũng nghĩ rằng những đòn chính trị muôn mặt độc đáo của “bác Hồ” như
thế là một như cầu để thành công! “Bác” từng đánh lừa được dư luận
Âu-Mỹ, khi chép lại câu mở đầu bản tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, rồi
ngay sau khi cướp được chính quyền lúc đầu, thì đã cho thành lập một
chính phủ đại đoàn kết quốc gia rất đẹp mắt, gồm đại diện của phong
kiến, của các đảng phái đối lập và mời cựu hoàng đế Bảo Đại làm cố vấn.
Nhưng chính phủ đại đoàn kết ấy chỉ là cái vỏ, và cũng chỉ tồn tại được
có vài tháng. Bởi sau đó; thì đã có lệnh ngầm cho bộ trưởng bộ nội vụ Võ
Nguyên Giáp thẳng tay dẹp bỏ các đảng phái, coi họ như những “đảng phản
động”. Bảo Đại thì bị lừa đưa sang Côn Minh rồi bị vứt lại ở đó v v…
Tất cả những đòn chính trị xảo trá vô cùng nham hiểm ấy, cuối cùng thì
đã thu quyền lực vào trong tay một người, một đảng, khiến thiên hạ phải
khiếp phục. Nay thì “đảng” cứ gượng ép dạy dân về thứ “đạo đức Hồ Chí
Minh”. Từ kinh nghiệm cực kỳ cơ hội, cực kỳ muôn mặt đó, người dân rút
ra bài học rằng muốn sống, muốn thành công như “bác Hồ” thì phải biết
sống muôn mặt: vừa nói đạo đức, vừa làm thủ đoạn, để thành đạt. Đấy là
lối “đạo đức” thực tiễn của cách mạng, xu hướng ấy nay cũng vẫn còn rất
phổ biến và rất phát triển trong chế độ xã hội chủ nghĩa theo định hướng
kinh tế thị trường! Kết quả là người dân cũng nói năng, lý luận thật có
vẻ là đạo đức cách mạng, nhưng đồng thời lại cứ hành động với đủ thứ
mưu mẹo gian xảo kiểu “tư bản man rợ”, trong mọi ngành, đặc biệt là
trong giáo dục, trong y tế, cả trong thoa học và xây dụng…! Thế nên nay
chỗ nào cũng “có vấn đề”, cũng hỏng! Vì thế mà ngày nay mọi giá
trị đều suy đồi. Phâiĩ tích kỹ về cách làm lịch sử của “bác Hồ” thì thấy
có sự hiểu lầm trầm trọng về bài học “đạo đức” của “bác”. Và từ đó mới
nhận ra do đâu mà có tình trạng nhân tình thế thái suy đồi tồi tệ như
ngày nay. Bởi “bác Hồ” chỉ có thể coi như một mẫu mực thành đạt về chính
trị, chứ thật sự là “bác” không thể nào là một mẫu mực về mặt đạo đức.
Sự tôn sùng “ông cụ” như thánh nhân đã tạo ra thứ đạo đức giả, rất tai
hại cho hậu thế. Bởi “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc
thì biến có thành không, lúc thì biến không thành có.
Với
cái nhìn của ý thức hệ, chúng ta đã quên hẳn rằng tiềm lực của mỗi quốc
gia, là ở trong ý thức thuộc về cùng một dân tộc, cùng một lịch sử,
cùng một ngôn ngữ, cùng một đất nước! Không thể quên rằng nội lực một
dân tộc là nền tảng đạo lý ngay thẳng do lổ tiên để lại. Nhưng lịch sử
nước ta thì đã trải qua những giai đoạn đau buồn dẹp bỏ di sản đạo đức
của tổ tiên để đón nhận thứ “đạo đức cách mạng mác-xít”. Chấp nhận việc
chia cắt lãnh thổ dù chỉ là tạm thời, nhưng việc đó thực sự đã chia rẽ
dân tộc, đã tạo ra sự phân biệt đối xử vì khác “ý thức hệ” mà coi nhau
như kẻ thù. Rồi thời gian qua đi, ta mới nhận ra rằng cả hai bên thù
địch nhau ấy đều là cùng chung giống nòi, cùng chung một truyền thống
văn hoá.[..]… Ta đã vẽ ra hình ảnh “nguỵ” với nét mặt của ác quỷ. Ta đã
quên hẳn rằng: “nguỵ” ấy là cùng một chủng tộc, cũng là anh em trong
huyết thống của một đại gia đình dân tộc! Sự độc ác luôn luôn hiện diện
trong thái độ thù địch, đối địch. Sự thật cho thấy khi đã coi nhau là kẻ
thù thì rất dễ phạm tội ác. Có lo-gích của chiến tranh nào, của cách
mạng nào mà không hề gây tội ác? Lén lút ném lựu đạn, ám sát nhau ở
thành thị và nông thôn không phải là tội ác sao? Đấu tố, chụp mũ những
tội danh mơ hồ như “tội phản cách mạng” không phải là tội ác sao? Vậy mà
nay, “đảng” đã công khai khoe thành tích ám sát, ném lựu đạn ở vùng
địch, khoe lén lút đưa đại quân, len lỏi rừng già Trường Sơn vào nam, để
xé hiệp định Genève, xé hiệp định Paris…. Để rồi bị mưa bom, trải chất
độc da cam…! Hành động như thế là gây hoạ lên đầu dân vậy mà coi đó là
những thành tích vinh quang! Khi đã chấp nhận, con đường chiến trành thì
đừng oán than cái ác mà chính mình đã chọn và dân đã phải gánh chịu.
Người ta bảo chiến tranh cũng có những quy luật quốc tế của nó. Chi có
những kẻ dại khờ mới tin vào những quy luật ấy. Như khi “đảng” ký hiệp
định Genève, là biết sẽ chẳng thể tôn trọng nó. Vì thế “đảng” chỉ rút ra
bắc một phần lực lượng, phần còn lại, để mai phục, sẵn ở miền Nam, chờ
cơ hội ra tay mở lại… chiến tranh. Lúc ký hiệp định Paris cũng vậy,
“đảng” đã ra tay trước, bằng cách lén lút ngầm tuôn vũ khí và bộ đội vào
Nam bằng mọi cách. Hai hiệp định Genève và Paris theo định nghĩa là để
chấm dứt chiến tranh, là để duy trì hoà bình, nhưng “đảng” đã ký để dùng
chúng chuẩn bị mở lại chiến tranh cho rộng hơn, ác liệt hơn! Tôi đã
nhìn thấy những bước mưu trí quá trớn ấy rất là độc hại. Vì là quá tham
lam nguy hiểm, nên tôi đã cố bám theo “bác” và “đảng” để chỉ ra những
hậu quả vô cùng tiêu cực của việc tái phát động chiến tranh như thế.
Chung quanh ta, ở khắp vùng Đông Nam Á, chẳng có một nước nào đi theo
con đường chiến tranh trường kỳ và triệt để như thế.. Họ đã cố tránh
hiểm hoạ của chiến tranh.
Chiến
tranh bao giờ cũng là giải pháp tồi tệ nhầt đế giải quyết vấn đề. Giải
pháp chiến tranh chỉ là cơ hội để thi thố mưu mẹo lừa gạt. Giải pháp hoà
bình mới là cơ hội để triển khai trí tuệ, xây dựng những cái tốt đẹp,
vững bền. Hậu quả của hai giải pháp chiến tranh và hoà bình là rất khác
nhau. Lúc thay “bác và đảng” quá kiêu căng tin vào chiến tranh, tin vào
bạo lực, tôi đã tìm cách nói thẳng rá rằng trong nhiều lãnh vực, do
chiến tranh, chúng ta đã không thật sự làm chủ tinh thế mà chỉ là những
con rối, những thằng hề đáng thương hại trên bàn cờ quốc tế.
Đẩy
lý luận cho tới tận cùng của trải nghiệm, càng về lâu về dài, càng thấy
rõ có ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử: đối với đất nước và
dân tộc, bởi nó đã để lại di sản vô cùng trầm trọng, lợỉ bất cập hại. Đó
là chọn chủ nghĩa xã hội của Marx để xây dựng chế độ, chọn chiến tranh
xoá hiệp định hoà bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất
nước, chọn Mao và đảng cộng sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí…
Vì nhận thấy như thế mà tôi nguyện sẽ không tiếp tay để gây chiến tranh
trường kỳ, để gây oán thù triền miên. Với nguy cơ làm gẫy đổ nền tảng
đạo đức và lương tri trong xã hội. Vì thế mà tôi phải tỉnh táo để giữ
vững bản chất trí tuệ. Khai triển sự thù hận để hành động thì dễ, nhưng
đấy là con đường đầy hậu quả bi thảm! Nêu ra tội lỗi, độc ác của đối
phương thì dễ, những nhìn ra tội lỗi, sai lầm của chính mình thì rất
khó.[..].
-
Không có gì là quá bi quan cả! Đấy không phải, là những lời tiên tri
của tôi. Đây chỉ là những ghi nhận hiện tượng đã và đang diễn ra trước
mắt. Sự thật là ngày nay, ta đang thấy tình trạng suy vi tinh thần, đạo
lý như thế. Từ hồi trở về nước, tôi đã tâm nguyện làm cách mạng là sẽ
phải tìm cách cố tránh những sai lầm bi thảm của cuộc cách mạng ở Nga.
Rồi khi Stalin chết, tội ác của ông ta bị tố cáo, tôi lại càng kỉên trì
với lập trường là phải làm sao cho cuộc cách mạng ở nước la sạch sẽ hơn,
lương thiện, khác hẳn với cuộc cách mạng cuạ Nga, khác với cuộc cách
mạng của Trung Quốc của Mao. Tôi đã không ngừng gợi ý là phải cố tránh
chiến tranh và củng cố hoà hình cho miền Bắc thật sự được có đỏi sống ổn
định, thật sự ấm no, hạnh phúc trước đã… Vì thế mà tôi lại càng bị phe
cánh hiếu chiến nghi ngờ, ghét bỏ!
- Vậy là bác cũng là kẻ phản chiến hay sao?
-
Thực ra ai biết suy nghĩ sâu và xa thì rồi cũng sẽ phải là người phản
chiến. Vì biết rằng sau mỗi cuộc chiến tranh, tuy con người sẽ khôn hơn,
nhưng chắc chắn là nó cũng sẽ quỷ quyệt, gian xảo hơn. Nó sẽ coi nhẹ
lương tri, đức hạnh, mà coi nặng phần mưu trí, thủ đoạn. Vì mưu trí và
thủ đoạn đã đưa tới chiến thắng. Xã hội do tin vào mưu trí và thủ đoạn
nên nó sẽ suy đồi. Đó là quỷ luật tâm lý xã hội. Tôi muốn tránh việc gây
thù, gây oán là vì vậy. Công việc của tôi phải là công việc của trí
tuệ, không thể dùng thủ đoạn, dùng mưu trí! Tôi không đi tìm chiến
thắng, tôi đi tìm con đường đưa tới gần sự thật và công lý. Triển khai
bạo lực thù hận lẫn nhau thì luôn luôn là một bi kịch. Đạt tới sự thật
và công lý mới là thắng lợi bền vững. Người ta làm công tác hồì tưởng
những đau khổ của chiến tranh là để tránh cho chiến tranh không tái
diễn, chứ không phải để hâm nóng lại tâm thức thù hận, để dùng nó làm
ngòi nổ cho một cuộc chiến tranh khác, sẽ bùng lên ác liệt hơn, tàn nhẫn
hơn. Ở ta tình hình thù hận cho tới nay thì vẫn nặng nề lắm. Vẫn có
nhiều người cứ như tin rằng chỉ có thể tồn tại, chỉ có thể sống còn nhờ…
thù hận, biết nhận diện kẻ thù. Họ luôn luôn thấy mình bị bao vấy bởi
đủ thứ kẻ thù! Họ tin rằng kẻ thù nào họ cũng có thể đánh thắng. Họ tin
rằng muốn tiến tới, thì phải đánh thắng những kẻ thù. Nhưng có một thứ
kẻ thù mà họ không bao giờ thắng nổi, đó là tâm thức tự giam chính mình
trong vòng thù hận, thù địch, cứ để con quỷ thù hận làm chủ trong đầu.
Mý đã coi ý thức hệ cộng sản là kẻ thù. Nhưng Mỹ đã biết ngưng những
hành động tàn phá của chiến tranh đúng lúc.
Dù còn dư dã sức mạnh tàn phá để chiến thắng, nhưng Mỹ đá không tìm
thắng lợi bằng cách tận diệt chế độ cộng sản ở Việt Nam, mà Mỹ đã đổi
chiến lược là sẽ tìm thắng lợi trong hoà bình, khi nước ta bước tới giai
đoạn kiệt quệ về kinh tế. Rồi từ đó, sẽ ép ta phải mở cửa mời Mỹ trở
lại… Mưu trí khác với trí tuệ là ở chỗ đó. Khi ta xé hai hiệp
định đã ký, thì ta khoe là đã dùng sự mập mờ của chữ nghĩa, “phong ba
bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam”, dùng hiệp định để chuẩn bị mở
rộng chiến tranh! Tôi thấy lối suy nghĩ ấy là trò choi không thông minh
chút nào, mà còn là rất có hại cho tương lai của đất nước và dân tộc.
Chơi trò nuôi oán, nuôi thù để lúc nào cũng thấy thù trong, giặc ngoài…
Tưởng đó là sự khôn ngoan, sáng suốt! Duy trì một tâm thức phản hoà bình
bằng chữ nghĩa là tự gieo hoạ trong đấu mình, tự phá hoại trong tâm hồn
của mình. Nguy hại là như vậy. Nay thì đất nước mang đầy thương tích,
lãnh thổ bị gậm nhấm một phần đảng kể, xã hội thì cứ ngày càng hỗn loạn
vì kỷ cương, đạo đức cứ suy đồi như tuột dốc! Dân nay thụ động trong nếp
sống gian xảo, thấp hèn, chỉ cố chạy theo đồng đô-la. Chính quyền thì
luôn luôn hô hoán; phải cảnh giác trước nỗi sợ “diễn biến hoà bình” mà
Trung Quốc đã cài vào đầu ta! Rốt cuộc là ta đã làm được một việc mà
Trung Quốc muốn, nhưng Trung Quốc đã không làm được ở Triều Tiên, đó là
muốn đẩy Mỹ ra khỏi Đông Dương! Khi
có ký hiệp định Paris thì tôi biết rồi Trung Quốc nó sẽ tiếp thêm vũ
khí để thúc ta tiếp tục đánh để đẩy Mỹ ra khỏi Nam Việt Nam để trả thù
Mỹ như nó muốn…! Và ta đã làm theo nó, nhưng rồi sau vì quá kiệt quệ nên
ta đã phải mở cửa mời cả Pháp lẫn Mỹ trở lại… Với
bao máu xương đã đổ ra cho chiến thắng, rốt cuộc là ta chỉ làm trò múa
rối mang danh mang lợi về cho Trung Quốc! Giải quyết vấn đề bằng chiến
tranh như thế chỉ là mắc mưu, mắc bẫy của Trung Quốc! Các nước quanh ta
đã không chấp nhận chơi cái trò tai hại ấy của Trung Quốc. Và nay thì ta đang cố chạy theo để bất kịp những thành tựu no ấm, thịnh vọng của các nước quanh ta!
.
Ngay từ hồi ấy, chỉ có luật sư Nguyễn Mạnh Tưởng và tôi là đã dám công
khai lên án, đã dám phản đối lãnh đạo. Bởi thế, cái đám cán bộ tuyên
huấn, tuyên giáo lếu láo, bảo hoàng hơn vua, đã làm đủ cách để đàn áp
tinh thần tôi, và còn mưu tính sẵn sàng tiêu diệt tôi. Nhưng chủng còn
chờ lệnh.
Nghe
câu kết luận buồn thảm như vậy, chúng tôi không khỏi suy nghĩ về thân
phận của chính mình. Chúng tôi muốn đưa bác trở về sớm, vì hôm sau, bác
còn phải chuẩn bị thuyết trình tiếp một chương khác trong cuốn sách của
bác. Nhưng không ngờ rằng chiều thứ ba ấy lại là thêm một khúc rẽ vô
cùng bi thảm trong cuộc đời của bác.
Chương 14.Nêu đích danh thủ phạm!
TỘI AC CỦA MARX
Chính
tôi, trong những bước đầu nghiên cứu, đã thấy giai đoạn mình tự nguyện
làm môn đệ của Marx, sùng bái Marx với tất cả lòng nhiệt thành của tuổi
trẻ, là giai đoạn cuồng tín, cứ nghĩ mình phải một lòng đi theo Marx như
một tín đồ tin theo vị chúa cứu thế trên con đường giải phóng con người
khỏi sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Bởi cuộc cách mạng này đã
dựng lên cả một hệ thống chính trị chuyên quyển giam hãm, kim kẹp con
người. Hệ thống chính trị ấy lại còn bóc lột giai cấp lao động gấp bội
phần so với sự bóc lột của giai cấp tư sản, tư bản. Mà quyền lực chuyên
chính lại không cho phép công nông phản đối sự bóc lột ấy. Tạĩ sao kỳ lạ
vậy?
-
Nay già rồi tôi mới nhận ra là tất cả những sai trái ấy đều là do sự
cuồng tín vào lý thuyết, vào ý thức hệ nên đã dẫn lối tới những bước quá
trớn… Thế rồi các lãnh tụ, từ Lenin trở đi, đều đã tuỳ tiện theo cảm
hứng mà suy diễn, mà đề ra nhưng chính sách, những phương pháp triệt để,
những hành động tuyệt đối, để rồi gây ra những tội ác của cách mạng!
Khởi
đầu, nhà tư tưởng đã tung ra một học thuyết thật hấp dẫn, thật là cuốn
hút nhân loại, nhất là thành phần nhân loại lao động nghèo khổ… Nhưng
rồi học thuyết ấy, ý thức hệ ấy đã làm khổ con người, đã nô dịch con
người, đã phản bội con người và đã không hề giải phóng con người!
-
Cuốn sách của tôi chứng minh rõ rằng chính cái phần xây dựng mô hình
thế giới đại đồng của Marx đã làm hỏng học thuyết. Trừ ra khi phê phán
chủ nghĩa tư bản, Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử
đương đại, trong xã hội đương thời, để đả kích xã hội tư bản. Cách phê
phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bất bẻ. Nhưng bước
qua phần lý luận căn bản để xây dựng xã hội mới bằng cách nêu mô hình
thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì Marx bắt đầu lúng túng trong
biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp,
không có bóc lột. Nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ý thức “đấu
tranh giai cấp”. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở
đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong
tương lai! Làm như vậy trong lý luận, là Marx đã mang cái tương lai ảo
ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã
thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng siêu hình, đúng là thứ biện
chứng của Hegel! Biện chứng đó không còn có chút gì là duy vật sử quan
nữa.
Từ
khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx
đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để
đạt tới thắng lợi, để xoá bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội
không còn giai cấp! Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, một ý
niệm siêu hình của một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trải đất.
Trong mô hình ảo ấy, giới công nông được giải phóng, được làm chủ chính
mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lenin khai triển một chủ nghĩa xã hội
mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để đem động lực đấu tranh của
giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cuộc cách mạng tạo ra sự đổi
đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông! Với một đảng
cầm quyền “là đại diện cho giai cấp công nông”, tức là “đảng cộng sản”.
Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ
nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, “sẽ” không còn cảnh người bóc lột
người vì quyền tư hữu đã bị bãi bỏ, thay thế nó bằng quyền sở hữu tập
thể. Đặc điểm là tập thể sở hữu tư liệu sản xuất! Nghe lý luận như công
nông nào mà không mê.
Như
vậy là khi cách mạng thành công, giai cấp công nông sẽ sống và làm việc
một cách sung sướng: vì mình sẽ không còn bị bóc lột, mình sẽ làm chủ!
Con người từ đây được giải phóng! Sung sướng thay! Phấn khởi thay cái xã
hội không còn giai cấp “sẽ” thành hình trong tương lai! Lời hô hào “vô
sản thế giới hãy đoàn kết lại!” đã vang dậy khắp trái đất rồi vang lên
khúc ca: “Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian”, đã thôi thúc giai cấp bị
bóc lột đúng dậy, quyết tâm vùng lên tiêu diệt giai cấp tư sản! Hoan hô
con người mới xã hội chủ nghĩa, là con người vô sản chân chính. Lúc đó,
các dân tộc đều là anh em một nhà. Và toàn thế giới sẽ là một tổ quốc vô
sản duy nhất! Hoan hô tinh thần vô sản quốc tế! Hoan hô xã hội mới
trong đó “mọi người sẽ làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu
cầu”! Sáng kiến của Marx lập tức bùng lên như một ngọn đuốc trong đầu
mọi giới lao động. Nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã náo nức ủng hộ; đã sùng
bái Marx. Đây là bình minh của một kỷ nguyên quyền lực chuyên chính của
giai cấp lao động! Đây chính là con đường vinh quang, con đường cứu rỗi
của cả nhân loại.
Cả
thế giới đã bị lung lạc vì luồng tư tưởng mới đầy hứa hẹn này, với niềm
hi vọng tràn trề của nhân dân lao động, với lòng cằm thù “giai cấp bóc
lột” sôi sục trong đầu. Người người đều muốn đứng lên phá tan xiềng xích
của xã hội tư bản!
Rồi bác Thảo lắc đầu giải thích, trong nước mắt;.
-
Biến khái niệm, biến học thuyết “đấu tranh giai cấp” chống bóc lột
thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù giai cấp làm nền tảng phát động một
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý
thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi! Bởi nó có một sức bùng phát phi
thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn
là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù! Lý thuyết cách mạng hay hận
thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu, diệt giai cấp bóc lột làm vũ
khí! Không cần lý luận sâu xa, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ
người dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế là sẽ thắng, sẽ
là đại thắng!
Với
niềm tin tất thắng, ai cũng có thể tưởng tượng ra đủ thứ kết quả tốt
đẹp… Để rồi cuồng tín đến độ sùng bái ý thức hệ ấy như là một thứ thánh
kinh, “đảng” trở thành linh hồn của cách mạng, là “hội thán”, lãnh tụ là
vị giáo hoàng! Khát vọng phát triển cuộc cách mạng xã hội theo ý thức
hệ ấy làm cho con người sẵn sàng hi sinh tất cả cho nó! Vì nó!
Thế
nhưng cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành
cách mạng do Lenin phát động, do Stalin triệt để khai thác, do Mao hò
hét vận động… đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh
“đảng của giai cấp công nông”, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm
quyền… Tất cả mọi người đã được thấy tận mắt, đã được tận tay tham dự
vào công cuộc xây dựng “con người mới xã hội chủ nghĩa” là như thế nào!
Thực tế là tất cả đã nhận ra một cách khách quan và đau đớn rằng việc
xay dựng xã hội mới ấy gây ra quá nhiều vấp váp, phạm quá nhiều tội ác,
vì đã trắng trợn dẫm lên quyền sống của con người, đã trói buộc, giam
hãm con người. Kết quả là con người trong công cuộc đấu tranh giai cấp,
khi kết thúc, thì nó đã không hề được giải phóng! Đau đớn hơn hết là
trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới
này, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thời nhất!
Kết
quả là “thế giới đại đồng” ấy đã không hiển hiện trong một chế độ xã
hội chủ nghĩa nào cả. Sau này thì “cuộc cách mạng long trời lở đất ấy”
đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín! Và bộ mặt thật của ý
thức hệ ấy là đã dụng cụ hoá, đã nô lệ hoá con người bởi đủ thứ kim kẹp,
giam hãm, tuyên truyền xảo trá, chứ chẳng phải là đã giải phóng con
người! Con người lao động đã chẳng hề được làm chủ, kể ca làm chủ bản
thân minh. Vì mình cũng là của… “đảng”!
Vì
trong thực tại của xã hội chủ nghĩa mới, vẫn còn giai cấp bóc lột. Đó
là giai cấp chuyên chính, chuyên quyền của đáng cộng sản cầm quyền! Đó
là giai cấp tư sản đỏ phát, sinh từ tinh thần vô sản vùng lên đấu tranh
cướp lại quyền lực trong tay giai cấp tư sản thống trị! Lớp người vô sản
vùng lên cướp đoạt chính quyền, đồng thời nó cũng đã cướp đoạt tài sản
của giai cấp tư sản để tự nó trở thành một nhà nước tham lam sở hữu toàn
bộ đất đai, toàn bộ tư liệu sản xuất, nắm toàn bộ guồng máy quản lý xã
hội, vừa nặng tính chuyên quyền, vừa toàn quyền lũng đoạn kinh tế! Trước
mắt giờ đây, là một nhà nước tư bản đỏ độc quyền bóc lột kiểu mới, mang
danh hiệu là “chế độ dân chủ nhân dân”, được quảng bá là “dân chủ gấp
ngàn lần dân chủ tư sản”! Mà rồi mãi sau này người ta đặt cho chế độ ấy,
cho thời ấy một cái tên có tính khinh thị là “Chế độ bao cấp! Thời bao
cấp”.
Đặc
biệt là ngay ở trong chế độ “vô sản” mới này, con người vô sản ở khắp
nơi, đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản! Họ gậm nhấm, xâm chiếm
của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai
của nông dân… làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ đo làm ăn cần cù, do tích
luỹ lâu dài mà có được, này đã bị xoá bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu
mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với
quyền lực. Con người vô sản cầm quyền nay tha hồ bòn mót của công, cướp
đoạt của tư, để tạo cho minh một tài sản vừa nhiều, vừa nhanh! Vì cái gì
cũng là của chung, đặc biệt là “đất đai là sở hữu của toàn dân”, nên ai
cũng nghĩ rằng toàn dân có quyền nhúng tay vào cái sở hữu chung ấy! Bởi
là của chung nên, trong thực tế, nó không được bảo vệ như của riêng.
Rừng, núi, sông ngòi, ao hồ… bị con người mới trong xã hội vô sản mới ấy
phá phách, lấn chiếm vô tội vạ! Con người vô sản đã tỏ ra là con người
tham lam, phá phách, gậm nhấm, xâm chiếm những gì là của chung bất kể
luật pháp! Vì là của chung nên ai cũng nghĩ là mình cũng có quyền xâm
phạm, nhưng không thấy ai có nhiệm vụ phải bảo vệ, bảo trì! Trong thực
tế trước mắt, con người, vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để
chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, đã trở thành nhà tư
sản kiểu mới. Đấy là thứ tư sản đỏ, do tham nhũng, do hối mại quyền thế
mà có: họ chia chác tài sản tập thể của xã hội cho gia định, họ hàng,
cho đồng chí, đảng viên, bằng chữ ký của quyền lực trong tay họ!
Khi
thấy của công, của tập thể bị xâm phạm, người ta không có phản ứng
quyết liệt và nghiêm chỉnh như khi thấy sự xâm phạm của tư! Thói thường
của xã hội, và nay đã thành một thứ tư duy phổ biến, một suy nghĩ tự
nhiên rằng “lấy của tập thể, lấy của nhà nước không phải là ăn cắp”! Vì
đấy là của chung!
Marx
đã không ngờ rằng một giai cấp tư bản đỏ sẽ ra đời ngay trong xã hội xã
hội chủ nghĩa như thế. Giai cấp tư bản độ ấy đã phát triển một cách
lộng hành, nó xâm chiếm, do cướp đoạt vừa nhiều, vừa trắng trợn, gấp bội
lần thứ tư bản tư sản cổ điển! Một điều khủng khiếp nữa mà Marx không
thể ngờ là bởi tham lam quyền lực và quyền lợi, chính các lãnh đạo trong
“đảng”, cũng đã trắng trợn triệt hạ nhau, quy chụp cho nhau những tội
lỗi tày trời để diệt nhau, để tranh nhau địa vị, để được sống đế vương
trên đầu nhân dân, để rồi tìm cách truyền ngôi, truyền gia tài cho con
cái!
Thực
tại cho thấy trong xã hội mới “xã hội chủ nghĩa”, các phe cánh vô sản
kình chống nhau. Trong khi đó, giai cấp công nông vẫn còn bị bóc lột,
thật là trái ngược với biện chứng và hứa hẹn của Marx! Và kẻ bóc lột đây
lại là những người của “đảng”, của nhà nước, một nhà nước nắm toàn bộ
vốn liếng, tư liệu sản xuất và mọi hình thức sinh hoạt khác trong xã
hội, nhất là về mặt kinh tế! Trong thực tế, tất cả mọi thứ, từ đất đai
cho đền con người, tất cả đều là “của đảng”! Các cá nhân, hội đoàn, các
thành viên của nhà nước, các định chế như toà án, viện kiểm soát, các tổ
chức tập thể… tất cả đều phải thề trung thành với “đảng”! Trong chế độ
vô sản nay có một ông chủ toàn quyền, toàn năng! Bởi nay “đảng” là ông
chủ lớn nhất, duy nhất, sở hữu tất cả, từ vật chất tới tinh thần! “Đảng”
đứng trên hết mọi quyền lực, trên cả công lý! Và ”đảng” tự tuyên xưng
“đảng” là nhân dân! Những ai chống lại “đảng” là chống lại nhân dân! Cụm
từ “nhân dân” từ đây là nhãn hiệu độc quyền của nhà nước cộng sản!
“Đàng” còn ngang nhiên tuyên bố: “Yêu xã hội chủ nghĩa là yêu nước”
Quan
sát những hiện tượng đã xảy ra trước mắt, ngay tại Hà Nội sau nhất là
tại Sài Gòn sau năm 1975, là nhũng nơi chế độ tư bản, tư hữu kiểu cũ đã
bị đánh gục bằng bạo lực cách mạng, người dân bừng tỉnh, và kinh ngạc
trước hiện tượng phát sinh và bành trướng một tư bản đỏ: chưa bao giờ
thấy xuất hiện những đảng viên cao cấp, cùng phe cánh, đã trở thành
những nhà giàu mới, vơ vét nhiều và nhanh đến thế. Những cơ ngơi bất
động sản không lồ đã lọt vào tay “giai cấp tư sản đỏ”, nó thống trị một
cách trắng trợn, như chưa từng thấy ở đất nước nghèo nàn, lạc hậu này.
Mà những cơ ngơi và vốn liếng của giai cấp mới ấy đã được đánh giá hàng
bao nhiêu tỉ đô-la Mỹ!
Đó là những hiện tượng kinh khủng mà Marx đã không hề tiên liệu.
Sai
lầm cơ bản của lối lý luận ấy là đã mang cái mô hình ảo của tương lai,
đặt nó lên trước hiện tại, coi nó như là kinh nghiệm lịch sử. Thế là
từ một học thuyết mơ hồ, siêu hình ấy, Lenin muốn suy diễn ra sao cũng
được, Stalin cũng mặc sức tuỳ tiện khai triển nó, rồi đến Pol Pot lại
càng tuỳ tiện khùng khiếp hơn nữa!
Rồi bác Thảo nhấn mạnh:
-
Tôi ra đi kỳ này, là với dự tính qua Paris để công bố, trong cuốn sách,
những lý luận chứng minh sự sai lầm bất đầu từ lý luận siêu hình của
Mars, rồi từ đó bước tới sai lầm trong phương pháp hành động dùng hận
thù làm đòn bẩy, để từ đó tuỳ tiện xúc phạm quyền sống của con người.
Thế
nhưng trong sáu tháng vừa qua tại Paris, sau những trao đổi với vài nhà
tư tưởng tiến bộ hiện đại, trong đó đáng kể nhất là những góp ý của
giáo sư Boudareỉ, thì tôi đã đẩy lý luận truy lùng thù phạm gây ra “sai
lầm và tội ác” ấy tới điểm tột cùng: chẳng những sai lầm do lý luận, do
phương pháp hành động, mà trước cả những điểm đó là sai lầm của khái
niệm, của học thuyết, của ý thức “đấu tranh giai cấp”! Đó là cái gốc của
mọi sai lầm, cái gốc của mọi hành động quá trớn, cái gốc của bế tắc. Vì
đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai cấp bóc lột, nhưng rồi lại nảy sinh
một giai cấp bóc lột mới. Chính cái học thuyết; cái ý thức “đấu tranh
giai cấp” ấy đã dẫn tới tình trạng con người vẫn bị bóc lột. Và con
người không hề được “cách mạng” giải phóng.
Ỷ thức đã sai vì nó kìm kẹp con người, dụng cụ hoá con người. Con người mới” ấy đã bị chủ nghĩa cuồng tín (fenatisme) và chủ nghĩa ngu tín (obscurantisme)
xỏ mũi lôi vào con đường của giáo điều, theo một thứ “tín ngưỡng cộng
sản… Vì thế trên đường đấu tranh giai cấp để đi tới tương lai và hạnh
phúc, nhưng cứ đi hoài mà không bao giờ tới đích! Đấy là thảm kịch lớn
nhất của thế kỷ XX, tức là của chính chúng ta. Tác giả của học thuyết,
của ý thức hệ ấy chính là ông Marx. Chính Marx là thủ phạm đã gây ra mọi
sai lầm và tội ác!XIV
Thủ
phạm, kẻ gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai cấp cho các
nhà lãnh đạo, trong: đó có cả Poi Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến
đẫm máu ấy chính là Marx! Lời tiên tri sẽ “xoá bỏ giai cấp” của Marx đã
mê hoặc nhiều thế hệ. Và họ đã lao mình vào tội ác! Tại những nước đã
có chính quyền vô sản triệt để “của giai cấp công nông” (Sự thực là của
“đảng” cầm quyền, của nhà nước do đảng cộng sản nắm giữ), chính giai cấp
công nông trung thực, tại các chế độ ấy đã bị bóc lột và đàn áp một
cách vô tội vạ! Vì đã không còn được ai bảo vệ, nên giai cấp công nông
đã ngậm ngùi, nguyền rủa Marx, coi Marx là một nhà tiên tri khốn nạn, đã
lừa đảo, lấy cái khát vọng thế giới đại đồng không có bóc lột làm bả
lừa dối công nông!
Cách
mạng ta đã hứa với dân rằng: “đảng” là đày tớ của nhân dân, lo trước,
vui sau dân”. Nhưng mặt trái của lời hứa ấy là “đày tớ” nay đã giành hét
đặc quyền, đặc lợi, ngang nhiên vui sướng trên đầu nhân dân. Tình trạng
này vẫn còn kéo dài dài cho tới nay. Đó là một chính sách hết sức trơ
trẽn, chướng mắt, công khai, trong thời buổi khó khăn, mà “đảng” giành
hết đặc quyền, đặc lợi cho cán bộ đảng viên cấp cao, cho các “diện”
thuộc “gia đình cách mạng”! Người trong gia đình của “đảng”, của quan
chức cách mạng thì được ưu tiên sống no ấm, được mua hàng tốt, hàng ngon
ở cửa hàng riêng (Nổi tiếng đã đi vào ca dao là chợ Tôn Đản ở Hà Nội).
Chết thì được chôn tại nghĩa địa riêng! (Nghĩa trang Mai Dịch). Con cái
của “đảng” đi thì được ưu tiên cho điểm cao, được ưu tiên vào học trong
các trường tốt… Được ưu tiên nhận học bổng du học nước ngoài!
Thực
tế là nhà nước vô sản cứ tuỳ tiện tiêu xài công quỹ, cấp phát bừa bãi
đất đai để phục, vụ riêng cho phe, cánh của “đảng”, cứ thực thi chính
sách tiêu xài hoang phí ấy rất tự nhiên, coi đấy là “công bằng xã hội”.
Vì bao công lao đi tới chiến thắng là do “đảng”! Khi dân chúng tỏ ra
công phẫn thì “đảng” hứa sẽ sửa sai, sẽ đọc lại Marx để sửa sai… Nhưng
rồi vẫn cứ mang ông Marx ra làm bình phong…
Đến
nay tôi phải thành thật thú nhận là mình đã một thời đam mê, mù quáng
coi Marx là người dẫn đường không bao giờ sai lầm! Giờ đây thì phải
thoát ra khởi sự u mê, bằng cách chứng minh, lý giải, theo phương pháp
triết học, qua một “lô-gích vừa biện chứng, vừa hình thức”, để hiểu rõ
tại sao sai, sai lầm đã bắt đau từ đâu, từ khâu nào, vào lúc nào và do
ai!
-
Thật là nhục nhã cho sự ngu tín ấy, vì trong thê giới ngày nay, phần
lớn nhân loại đã biết sống theo ý thức sinh tồn, theo lương tri của trực
giác, với khả năng thực tế nghiệm sinh, biết phân biệt thiện ác, đúng
sai. Con người đã biết sống theo luân thưởng đạo lý tự nhiên do truyền
thống tổ tiên, ông bà truyền dạy, mà không cần học tập, lý luận theo một
chủ nghĩa hay một ý thức hệ chuyên chính nào cả.
Thực
tại cho thấy không một ai muốn phấn đấu để trở thành con người vô sản,
không một ai bằng lỏng với cuộc sống trong chế độ kinh tế nhà nước độc
quyền, qua sự phân phối hách dịch như bố thì bởi tập thể. Phải xếp hàng
cả ngày để mua những thứ hàng rất tồi về phẩm chất, rất hạn chế về số
lượng, thường thiếu hụt về cân, đo, tại các cửa hàng “mậu dịch” nhà
nước. Vậy mà cứ tuyên truyền đề cao “mậu dịch là bà nội trợ đảm đang của
toàn xã hội”, coi đấy là công cụ nuôi dân của “bác và đảng”! Thật ra là
ai cũng muốn phấn đấu để thoát ra hoàn cảnh vô sản túng thiếu như thế,
để trở thành con người hữu sản, có quyền tư hữu, quyền sống, quyên tự do
sản xuất, tự do kinh doanh! Dân giễu gọi chế độ bao cấp và hạn chế đó
là chế độ Xếp Hàng Cả Ngày!
Vả
lại, chính lãnh tụ các đảng cộng sản cầm quyền, cũng sống theo băn năng
của những con người đại tư sản, với sự hưởng thụ những đặc quyền, đặc
lợi. Họ dẫm lên chủ nghĩa tập thể mà sống, nhưng họ bắt dân phải tôn thờ
chủ nghĩa ấy! Tư duy cách mạng đâu phải là làm như vậy? Vô sản gì cái
lũ gian dối, tham lam ấy! Công nông gì cái lũ cán bộ mang ban chất nhà
giàu kếch sù, ưa sống xa hoa hỗn xược ấy! Chúng chỉ là những tay chính
trị gian tà quý quái, tận dùng thủ đoạn dối trá, đội lốt công nông, để
giữ chuyên quyền chính trị cho phe, cho “đảng” và cho chính chúng mà
thôi.XIV
Nghĩa
là ngày nay “đảng” vẫn duy trì hình thức cai trị của chế độ chuyên
chính, nhưng là theo một thứ chủ nghĩa tư bản mới rất tàn nhẫn, nhưng
vẫn là thử lý luận của xã hội chủ nghĩa. Thứ chủ nghĩa tư bản mới dã man
này ở Mỹ không có. Vì ở đó dân có quyền của dân, dân được phép phê
phán, thay đổi đảng cai trị không vừa ý dân, bằng lá phiếu. Còn ở nước
ta, thực sự là sự “đổi mới” này, là đang theo một thứ chủ nghĩa tư bản
rất mới so với thời bao cấp trước đây, nghĩa là nay cái gì cũng bị coi
là hàng hoá, cái gì cũng có thể rao bán: từ lý thuyết, nghĩa vụ, từ con
người, tử trẻ thơ tới thanh niên, phụ nữ, cái gì cũng có thể bán, bán cả
tài nguyên, cả đất đai, lãnh thổ, cả sức lao động cho nước ngoài, cốt
để thu đô-la về!… Vì tất cả đối tượng đều được coi là hàng hoá để kinh
doanh buồn bán, để sinh lợi nhuận… Vì thế mà trong thực tế, nay đồng
đô-la Mỹ đang làm chủ nước ta! Độc hại của sự định hướng theo kinh tế
thị trường này là đã coi các nghĩa vụ cao quý, thiêng liêng chất như
giáo dục để phát triển con người, như y tế để cứu chữa coin người. thì
nay những nghĩa vũ đó cũng đều là hàng hoá, cũng phải chịu luật hạch
toán kinh tế, cũng phải tính lời, tính lỗ. Do vậy mà nghĩa vụ chức năng
thiêng liêng, thuần tuý phục vụ con người, nay đã hoàn toàn bị phả sản.
Phát triển xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường như hiện
nay là sự thống trị của tư bản man rợ, là một sự phá hoại tinh thần về
mọi mặt, từ lương tri tới lý tưởng, từ trật tự kỷ cương tới truyền thống
văn minh, văn hoá của tổ tiên… Tất cả nay đều bị đồng đô-la lũng đoạn,
hoạch định, xỏ mũi lôi đi vào một cuộc sống cuồng nhiệt quá trớn. Bây
giờ là thời tự do sa đoạ, tự do chui luồn luật lệ. Để cho giới trẻ mặc
sức bị cuốn hút theo lối sống phù phiếm, sống cuồng, sống vội, sống giả.
Và cứ tưởng thế là văn minh, là hiện đại, ai ngờ đó chỉ là thử phản văn
minh, là đi tụt lùi, là thứ phản văn hoá vì nó mất gốc, mất lý tường,
mất trật tự kỷ cương mà tổ tiên đã dày công xây dựng… Tại các nước dân
chủ như ngay tại nước Mỹ, chính sách kinh tế thị trưởng luôn luôn bị
quyền tự do dân chủ kiềm chế, bị tự do báo chí canh chừng, nên nó không
thể tự do tung hoành phá phách được, vì ở đó có sức phản bác của người
dân. Vì dân ở đó có quyền dùng lá phiếu của mình để lật đổ một chính phủ
không tôn trọng và bảo vệ quyền dân. Ở nước ta cho tới nay, lá phiếu
chỉ là trò đùa dân chủ của “đảng”, để tô đẹp bề ngoài cho chế độ. Thực
tế là chế độ ta nay đã không hề bảo vệ dân. Thực chất của lá phiếu ở ta
là nó không có quyền lực gì cả. Nó chẳng thể đào thải được một chính
quyền tham nhũng thối nát đã bị dân chúng oán ghét, nguyền rủa.
Ghi Nhận
rong quá trình biên soạn, để tái bản cuốn sách này mà tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn, chúng tôi ở nhà xuất bản đã nhận được khá nhiều sự trợ giúp:
- Của chính tác giả Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê đã cho phép chúng tôi đổi tên sách thành TRẦN ĐỨC THẢO: Những lời trăng trối để có lẽ dễ nhận ra hơn đối với những ai quan tâm đến triết gia và đề tài.
- Của nhà văn Vũ Thư Hiên ở Pháp đã sốt sắng và mau mắn tìm cho chúng
tôi một số hình và ảnh về giáo sư Trần Đức Thảo. Theo ông, khi lời kêu
gọi của Tổ Hợp đưa ra thì không ít bạn đã đáp ứng và nhờ nhà vãn chuyển
cho chúng tôi.
- Của hoạ sĩ Vũ Tuân, tác giả của một bức hoạ xuất sắc mà chúng tôi có in lại nơi trang 9.
Của Luật sư Dương Hà đã chuyển cho chúng tôi thủ bút bài thơ “Nhà triết học” của Huy Cận.
- Của cả một số tác giả vô danh (chỉ vô danh đối với chúng tôi ở Tổ Hợp
vì không được biết rõ) mà chúng tôi xin mạn phép dùng hình vẽ hay hình
chụp nơi trang bìa và trang 8.
-
Của giáo sư Shawn McHale thuộc Đại học George Washington DC, một trong
những người đầu tiên nhìn ra tầm quan trọng của cuốn sách.
- Của nhà báo Nguyễn Minh Cần ở Moscow là người khuyến khích và cổ võ
cho việc chúng tôi tái bản cuốn sách để phục hồi danh dự cho một nhà tư
tưởng lớn của Việt Nam, bị dập vùi chỉ vì đã khảng khải lên tiếng trong
mấy bài đòi tự do tư tưởng trên Nhân Văn - Giai Phẩm cách đây gần 50 năm
- tóm lại để trả lại sự thật cho lịch sử.
- Và của một số bạn rất mong mà không có dịp đọc ấn bản nguyên sơ của tác giả Tri Vũ - Phan Ngọc Khuê.
Lời mở đầu để tái bản
Sách được xuất bản lần đầu với số lượng ít, chỉ là để thăm dò ý kiến
thân hữu và bạn đọc. Nhưng đã nhận được những lời phê bình khích lệ.
Truyện kể về hành trình một nhà triết học, trong quá trình trở thành
một triết gia, qua những trải nghiệm vỡ mộng đau đớn phũ phàng của thực
tại. Cuối cùng triết gia nhận thấy mình đã sai, “lãnh đạo” cũng đã sai…
Đây chính là Bi Kịch Thời Đại. Bởi chẳng những sai lầm ấy có tính sinh
tử đối với một đời người, mà còn thê thảm hơn đối với cả vận mệnh dân
tộc…
Tiếp cận với suy nghĩ của một bộ óc thông minh, có năng khiếu suy tư
tới mức thông thải, là một kình nghiệm hữu ích trong sinh hoạt tư tưởng,
đảng được phổ biến.
Suy tư là một khả năng bẩm sinh của còn người, nhưng không phải lúc
nào, ở đâu… ai ai cũng biết, cũng có phương pháp suy tư để đạt tới cái
nhìn nhân quả của mỗi hành động, mỗi sự kiện, mỗi hoàn cảnh, mỗi thân
phận…
ồi
ấy ở Hà Nội, ông tham Tiến được thiên hạ chú ý cả nể là vì ông là công
chức sở bưu điện, mà dân quen gọi là “nhà giây thép”. Đấy là một công sở
chuyên môn, do giám đốc tây điều khiển. Mặc dù chỉ là một thư ký, nhưng
được dân gọi là “quan tham sở giây thép”! Vì ông tham được hưởng quy
chế, ngạch trật, lương bổng của công chức tây. Thời ấy ở Hà Nội, trong
giới công chức, có sự phân biệt khinh nể giữa hai chế độ lương bổng, một
của “Nam triều”, một là ngạch “công chức Tây”.
Tôi
nhớ rất rõ trường hợp tôi tiếp cận lần đầu tiên với chiến tranh. Bởi
gia đình tôi lúc đó đang sống trong một căn nhà lớn có một tầng gác mà
bên dưới là cửa hàng bán thực phẩm cao cấp còn mang tên Pháp là Mazoyer,
vì là vừa mua lại của ông Mazoyer, toạ lạc ngay giữa phố Tràng Tiền
(tên cũ là Paul Bert), số nhà 52. Đằng sau nhà là đối diện công sở bộ
giáo dục, tức ngay cạnh phía sau Bắc Bộ Phủ, tức là nơi ớ và làm việc
lúc đầu của “cụ Hồ” và chính quyền “Việt Minh”… Và hôm ấy, đúng ra là
tối ấy, khoảng gần tám giờ, cả nhà vừa ăn cơm xong thì bỗng nghe nổ cái
đùng, ù tai, nhức óc! Nhà cửa rung chuyển. Chai lọ trên kệ nhảy tung
lên, rơi xuống đất, vỡ loảng xoảng. Sau tiếng nổ long trời ấy, các thứ
súng lớn nhỏ liên tiếp đua nhau nổ ran như trời rung, đất chuyển, không
ngưng lại được nữa.
Trận
đánh ác liệt diễn ra với những tiếng nổ rền trời suốt đêm. Đến sáng thì
ngớt hẳn tiếng súng nhỏ, chỉ còn tiếng nổ lớn vọng lại từ xa. Lén ra
phía kho hàng ở trên gác, sau nhà, nhìn hé qua khe cửa sổ, tôi thấy
nhiều xác lính Pháp còn nằm sát cạnh hàng rào sau Bắc Bộ Phủ. Đến trưa
thì rõ ràng là quân Pháp đã làm chủ khu phố tây. Bắc Bộ Phủ im tiếng
súng. Như vậy là sau chỉ một đêm giao tranh dữ dội, hình như quân trong
đó đã rút sang phía các phổ cổ, giữa lòng Hà Nội, để rồi đã cùng các lực
lượng tự vệ cố thủ trong gần hai tháng, trong một khu trung tâm từ phố
Cầu Gỗ, phía bắc bên kia hồ Hoàn Kiếm, lên cho tới khu phố Hàng Đậu, sát
cầu Long Biên…
Thực
ra, đối với tôi, chung cuộc, thứ chiến tranh ấy, chỉ là do anh em một
nhà bắn giết nhau! Bởi lúc đầu tôi thấy là đã có tuyên bố độc lập ở Huế,
nhưng rồi sau lại thấy toàn dân một lòng hào hứng dưới ngọn cờ của
“Việt Minh”, cùng nhau vùng dậy cướp chính quyền và rồi cũng tuyên bố
độc lập với lá cờ đỏ sao vàng ở Hà Nội. Nhưng rồi quân Tàu tràn sang,
nói là để tước vũ khí quân Nhật đã đầu hàng… Rồi tiếp theo là cũng chính
“Việt Minh” ấy đã ký kết “hiệp định sơ bộ” để quân Pháp được quyền từ
trong nam kéo ra bắc, thay thế quân Tàu… Bi kịch bắt đầu khi lá cờ đỏ
sao vảng rút toàn lực lượng ra bưng, để trường kỳ kháng chiến chống
Pháp… Rồi ở “trong thành” xuất hiện một chính quyền với lá cờ vàng ba
sọc đỏ, để chống lại “cộng sản Việt Minh”… rồi tới lúc có ký kết hiệp
định hoà bình ở Geneve, thì đất nước đã, dù là tạm thời, nhưng là đã
chính thức bị chia cằt ra thành hai miền, hai chế độ với hai lá cờ: Cờ
đỏ sao vàng ở miền Mắc, còn lá cờ vàng ba sọc là ở miền Nam. NgườiNgười
dân thì phân biệt bên này với bên kia là “vùng quốc gia”, là “vùng cộng
sản”. Sự phân chia lãnh thổ này, cho đến nay vẫn là một cuộc cãi vã đổ
lỗi, quy trách nhiệm, chưa kết thúc, về tội chia rẽ dân tộc. Nhưng trong
thực tế thì rõ ràng, là đã có chia cắt, chia cách, trên văn bản, và
chia rẽ trong lòng mỗi người, ở mỗi vùng, mỗi miền!Những
thực tế nhức nhối ấy đã làm cho tôi không ưa những nghiên cứu “vô tư”,
thuần sách vở do Trần Đức Thảo công bố ở Pháp… Tử đó tôi có một định
kiến đối với những kẻ có may mắn du học ngoại quốc, không bị nếm trải
thực tại phũ phàng của thời cuộc, nên không hiểu được nỗi đau của những
người trong cuộc. Du học ở Pháp, họ chịu ảnh hưởng của “trí thức cánh
tả” mà chỉnh dân Pháp cũng mỉa mai gọi họ là “cánh tả caviar”(cảnh
tả nhà giàu). Họ nói năng, lý luận cứ như những ông thánh ngồi ít trên
trời… Bởi họ không có cơ hội gặm khoai sủng, nhai bắp già, không biết
thế nào là cảnh “mặt xanh, nanh vàng” vì cả tháng trời ăn độn rau lang,
không từng liều mạng chạy giặc đến táng gia, bại sản… nên không thể hiểu
nổi hoàn cảnh của nhiều người, như của chính bố mẹ đẻ ra họ, anh em
ruột của họ, đã phải bỏ nhà bỏ của chạy tháo thân ra nước ngpài xin tỵ
nạn chính trị! Họ không hiểu nổi tại sao “nước nhà đã thống nhất rồi,
độc lập rồi”, mà vẫn hàng vạn, hàng triệu người liều mạng bỏ nước ra đi,
mà kể cả họ nữa cũng không chịu về để xây dựng chế độ! Giữa kẻ bỏ xứ
với kẻ không dám về xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, đã không thể có
sự thông cảm, Tệ hơn nữa là đã có thái độ khinh miệt, thù oán nhau. Đấy
là điều không xứng với danh xưng trí thức. Bởi là thiếu hiểu biết, vì
không nhận ra mình cững chỉ là thứ nạn nhân của sự chia cắt lãnh thổ,
chia rẽ dân tộc… Tất cả chỉ là thảm cành của đám nạn nhân thời cuộc
nhưng không thấy mình là nạn nhân, thường là do thái độ của những người
có cái nhìn thiển cận, đứng ngoài thực tại, thiếu trải nghiệm, nên thiếu
dữ kiện để suy nghĩ cho tận tường, để có thể hiểu nhau, thông cảm nhau,
kính trọng nhau. Tình trạng này sẽ còn kéo dài. Vì đấy là sự bể tắc. Bế
tắc cho tới khi chế độ không còn coi nhũng người bất đồng chính kiến là
kẻ thù. Nghĩa là cho tới khí có tinh thần dân chủ trong chế độ và trong
lòng mọi người. Vì thế mà phải tiếp tục tranh đấu cho tự do dân chủ…
Bạn đọc đã chỉ ra, ở lần xuất bản đầu
này, nhiều lỗi gõ, lỗi chính tả… Hơn nữa tờ bìa và tựa đề cũng bị chê
là có vẻ tiểu thuyết quá, lãng mạn mơ hồ quá. Mục “đôi lời” mở đầu thực
ra cũng không cần thiết vì chẳng giới thiệu rõ được tình thần cũng như
nội dung cuốn sách.
Một cuộc đời tốt, xấu, có đủ khen, chê, nếu để nó rơi vào quên lãng thì
đâu có ích gì? Nhưng khi được đưa ra ánh sáng dư luận, được phân tích
khách quan, như một trải nghiệm sống, thì cuộc đời ấy cũng có giá trị
thử nghiệm của nó. Suy nghĩ thấu đáo về một thực tại bế tắc của cá nhân
chao đảo lập trường, của dân tộc bị nhận chìm trong chia rẽ, đã phải
hứng chịu bao di sản nặng nể của chiến tranh, bao hệ quả đau đớn của
cách mạng… thì đây cũng là một cách đi tìm lối thoát ra khỏi bế tắc.Ở lần tái bản này, sách đã được chinh sửa lại. Mong nó có thể gợi ra một
cách nhìn lại thấu đáo giai đoạn lịch sử đương đại. Và biết đâu, từ
cách nhìn lại ấy, mà có cơ may băng bó lại những vết thương, hàn gắn
những rạn nứt, đổ vỡ của lịch sử, để anh em, dù “đỏ” hay “vàng”, vì tình
thương dân tộc, mà sẽ có ngày lau nước mắt cho nhau, để rồi vui vẻ sum
họp lại một nhà. Đấy có thể là một kết quả quá viển vông chăng?
Chương 1
Định kiến với thứ triết học sách vở
Lúc đó, cậu Phương, em ruột mẹ tôi, cùng với cậu Thảo, con ông bà tham
biện Trần Đức Tiến, cả hai đều học trường trung học tây Albert Sarraut ở
Hà Nội, một trường nổi tiếng, rất khó xin vào học. Cuối bậc trung học,
cả hai đều học chung lớp triết. Cậu Thảo nhờ giỏi môn triết, mà sau được
học bổng đi Pháp tiếp tục học Đại học. Còn cậu Phương tôi, trượt tú tài
triết, nên phải “đúp” lại (lưu ban) lớp ấy, nhưng rồi chỉ học thêm đến
nửa năm, thì mắc bệnh tâm thần: tính tình thay đổi, ban ngày cũng thắp
nến ngồi học, vì sợ ánh sáng mặt trời! Dù đã được chính đốc-tờ Tây chữa
trị, nhưng không khỏi, nên chết yểu. Vì thế cả họ bên ngoại tôi đều dị
ứng với triết học. Con cháu, trong đó có tôi, được khuyên can rằng lớn
lên không nên học triết. Vì môn triết khó lẳm, học nó rất dễ bị điên cái
đầu, không điên thì cũng khùng, không gàn dở thì cũng thành lẩm cẩm!
Định kiến “học triết dễ điên, dễ khùng” ấy sau này cứ ám ảnh tôi.
Rồi
lịch sử xoay vần, quân Nhật kéo vào Hà Nội đánh tan quân Pháp, chiếm
toàn bộ Đông Dương. Rồi chiến tranh thế giới chấm dứt, quân Nhật đầu
hàng. Việt Minh nổi dậy cướp chính quyền. Quân Tàu sang giải giới quân
Nhật. Nhưng sau thì cụ Hồ ký hiệp ước để quân Pháp được phép trở lại…
rồi chúng gây căng thẳng. Chiến tranh lộ dạng. Rồi từ đó gia đình tôi,
cùng với cả dân tộc, đã sống trôi nổi triền miên trong chiến tranh và
hoà bình, với hai chế độ cách mạng và Quốc gia … Đại khái lịch sử, đối
với tôi, đã diễn ra như thế.
Lúc
ấy tôi mới mười tuổi, còn đang hãnh diện mặc bộ quần áo mới màu kaki
vàng, trông cứ như tự vệ của khu phố Lò Đúc: Nhưng tối ấy, toàn thân tôi
đã run lên, hàm răng đánh lập cập vì hoảng sợ. Bởi đấy là lần đầu tiên
bị sống trong muôn vàn tiếng súng chát tai, nhức óc. Tôi trách bố mẹ tôi
đã mang tôi về lại Hà Nội sau nhiều đợt tản cư.
Bởi
trước đó, mỗi khi có tin đồn chắc nịch “Đêm nay sẽ nổ súng!” thì cả gia
đình tôi lại tản cư, tạm lánh về quê bà trẻ, em bà ngoại tôi, ở làng
Xâm Dương, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, bên bờ sông Hồng… Nhưng rồi
sau vài ngày nghe ngóng, thấy yên lại kéo nhau trở về lại phố Tràng
Tiền, sẵn tiện nghi, thoải mái hơn vì “có điện, có nước máy”.
Cứ
lo chạy như thế vài lần, hễ thấy yên lại trở về nhà. Chính cái đêm
tưởng yên ấy, bỗng súng đã nổ thật. Vậy là chiến tranh đã chính thức bắt
đầu vào cái đêm cuối năm 1946 ấy, sau này được gọi một cách kiêu hãnh
là đêm “Hà Nội ròn rã nổ súng đánh Pháp”.
Quân
Pháp, ngày hôm sau, ầm ầm gố cửa nhà tôi, ra lệnh phải mở cửa bán hàng
như bình thường. Nhưng ngày hôm ấy, ai mà dám ra đường, nên cửa hàng mở
mà không bán được gì. Đến ba hôm sau nữa, những gia đình bị kẹt lại
chung quanh phố Tràng Tiền, thấy bên ngoài đã im hẳn tiếng súng, nên kéo
nhau đi mua tất cả những thực phẩm gì có thể mua được để dự trữ. Cửa
hàng của gia đình tôi chỉ trong vòng hai ngày là bán hết sạch hàng,
nhưng vẫn phải mở cửa để cho thấy trong cửa hàng không còn gì để bán.
Tôi còn nhớ rõ một chi tiết “tức cười” là trong hai tháng bị quân Pháp
lặng lẽ bao vây (nhưng không tấn công), thỉnh thoảng sáng ra lại thấy
trên đỉnh Tháp Rùa, một lá cờ đỏ do quân cố thủ đã lén bơi ra để cắm lên
trong đêm. Cuộc bao vây kết thúc sau hai tháng, với việc điểu đình qua
trung gian của “Toà Lãnh sự Trung Hoa Dân quốc”, để quân Pháp mở vòng
vây cho các gia đình người Hoa di tản ra khỏi khu phố Hàng Buồm… Và ban
đêm hôm ấy lực lượng cố thủ đã rút đi êm thấm qua ngả bên dưới gầm cầu
Long Biên, lúc đó mùa nước sông Hồng đang ở mức thấp nhất…
Như
vậy là gia đình tôi đã bị kẹt lại lâu dài “trong thành” để chứng kiến
“trận đánh Hà Nội”, từ đầu đến cuối, ở vị trí ngay sát cạnh Bắc Bộ Phủ!
Từ
sau cái đêm nổ súng bất ngờ ấy, cho tới cả chục năm sau, cả gia đình
tôi cứ vất vả liên tiếp chạy xuôi, lội ngược trong cái vòng luẩn quẩn
giữa vùng chiến tranh và vùng hoà bình.
Rồi
với thời gian, tới phiên tôi lớn lên, bị “động viên”, phải ra cầm súng
để tham dự chiến tranh. May mà tôi chưa bắn được tên quân thù nào, và
cũng may là chưa bị quân thù nào bắn trúng. Tuy có phen cũng đi phục
kích, rồi cũng từng bị lọt ổ phục kích. Nhưng may mắn nhất cho cả địch
lẫn tôi, vì có lẽ chúng tôi đều là những tay súng dở ẹc. Nhờ vậy mà tôi
sống sót sau chiến tranh, sau cách mạng, mà không mang mặc cảm tay đã
nhúng vào máu của đồng bào tôi.
Kể
sơ sơ như vậy để giải thích thái độ thờ ơ đến vô cảm, đến dị ứng (vì
mặc cảm thua thiệt?) với mấy cái công trình nghiên cứu triết học cao
siêu, thuần sách vở đã được công bố trên mấy tạp chí Pháp của “cậu
Thảo”. Tôi nghĩ đấy là thứ triết học của những kẻ nhàn cư, may mắn được
du học nước ngoài, được sống yên ổn để được bằng cấp cao, làm được những
nghiên cứu này nọ, nhưng thường toàn là những đề tài vớ vẩn, linh tinh…
Vì máy cái công trình triết học ấy hoàn toàn phi thực tế, phi thời sự,
chẳng mang dấu vết gì của biết bao thống khổ mà dân tộc đã hằng ngày
phải gánh chịu mà chính tôi vẫn thường thấy trước mắt quanh tôi, trong
hơn ba mươi năm… Đúng vậy, phải là thứ người điên khùng, gàn bướng mới
có thể an tâm ngồi giữa giông tố của xã hội, trong địa ngục của chiến
tranh và cách mạng, để viết ra những thứ nghiên cứu trời ơi, đất hỡi ấy.
Có điên mới có thể sống giữa những biển động đổi đời ấy, mà cứ thản
nhiên suỳ tư, thai nghén ra mấy cái biên khảo triết học (cao siêu?), về
cái thời con người lông lỗ đang biến hoá, đang phát sinh ra dấu hiệu của
ý thức, từ chỉ trỏ tới lời nói của thời kỳ biến hoá nguyên thuỷ như
thế.
Trong
thực tại cuộc sống tha hương, ngay tại Paris này, tôi đã bao phen phải
chứng kiến những kích động tuyên truyền thù hận, phô trương vinh quang
của bạo lực chiến tranh, của cách mạng. Nhớ lại có lúc tưởng đã phải mất
xác trong trận phục kích này, hoặc bỏ mạng trong cuộc đấu tố kia. Nỗi
đau ấy khó tỏ với những người ngoài cuộc. Vì là cả “ta” lẫn “thù”, nay
vẫn đang phải sống chung hoà bình với nhau tại Paris, quên hẳn rằng “ta”
vả “thù” đều cùng chung một tổ tiên, một tiếng nói, một truyền thống
văn minh, văn hoá!
Những trí thức “yêu nước từ xa” ấy, cứ vô tư ca ngợi vinh quang, cứ khơi
khơi rao giảng “hận thù nên khép lại. Cái gì của quá khứ thì trả lại
cho quá khứ”, để cùng nhau xây dựng tương lai… với tinh thần “hoà giải,
hoà hợp dân tộc”… Họ mỉa mai, chê bai: “chẳng lẽ cứ chống cộng đến
chiều?” Những lời lẽ hô hào lãng mạn đẹp đẽ và vô tư ấy đã được phát
ngôn quá dễ dàng, chỉ vì người nói câu ấy đã không thấy, không hiểu thấu
được những cái, tuy thuộc về quá khứ, nhưng nó vẫn còn đang tác yêu tác
quái trong hiện tại. Làm sao có thể hoà giải, hoà hợp giữa bầy cừu với
bầy sói? Giữa kẻ bị trị với kẻ thống trị? Giữa những kẻ vẫn gờm nhau,
rình nhau như kẻ thù? Do đó, công cuộc tranh đấu tìm đòi tự do dân chủ
cho quê hương không thể ngưng lại, dù là đã “đến chiều”, mà là phải tiếp
tục tới hơi thở cuối cùng! Bởi công cuộc tranh đấu chống lại bạo luật
của rừng rú không phải là nghĩa vụ của riêng quá khứ. Tóm lại là không
“được” trải nghiệm tới từng hơi thở, từng thở thịt của thân xác, những
nỗi đau đớn của dân tộc, thì khó mà thấy, mà hiểu đủ mỗi hoàn cảnh con
người đau khổ! Dĩ nhiên, cái nhìn hạn hẹp bằng lý trí, chỉ thấy những
nỗi đau qua khái niệm, nên dễ bắt buộc con người phải chấp nhận đề đì
tới chiến thắng… Người đã sống nỗi đau, nỗi nhục bằng tất cả thân xác và
tinh thần mình thì cảm xúc cũng sâu hơn, khác hẳn với lối lý luận về
nỗi đau nỗi nhục bằng lý trí. Do đó cách tranh đấu của Mahatma Gandhi và
cách tranh đấu của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì dĩ nhiên là khác nhau, rất
khác nhau… Khác nhau ở cách cảm thấu nỗi đau hay cách suy tư về nỗi đau,
mà khác cả về hệ quả tốn ít hay nhiều xương máu, về mức độ tha hoá,
băng hoại lương tri con người qua những cách tranh đấu ấy. Do sự khác
nhau này mà đã không tạo ra được sự thông cảm. Vì vậy rất khó có thể
hiểu nhau, nói chi tới hoà giải! Hoà hợp thì lại càng xa vời! Cho tới
nay, vì chưa thống nhất được lòng người nên nhiều vấn đề cốt lõi cần bàn
bạc, tranh luận cho xuyên suốt thấu đáo, nhưng hễ đụng tới là y như đổ
thêm dầu vào lửa! Do vậy sự tái xuất hiKhác
nhau ở cách cảm thấu nỗi đau hay cách suy tư về nỗi đau, mà khác cả về
hệ quả tốn ít hay nhiều xương máu, về mức độ tha hoá, băng hoại lương
tri con người qua những cách tranh đấu ấy. Do sự khác nhau này mà đã
không tạo ra được sự thông cảm. Vì vậy rất khó có thể hiểu nhau, nói chi
tới hoà giải! Hoà hợp thì lại càng xa vời! Cho tới nay, vì chưa thống
nhất được lòng người nên nhiều vấn đề cốt lõi cần bàn bạc, tranh luận
cho xuyên suốt thấu đáo, nhưng hễ đụng tới là y như đổ thêm dầu vào lửa!
Do vậy sự tái xuất hiện của một Trần Đức Thảo ở Paris lúc này là rất
khó gặp thông cảm, vì không ai chờ đợi, vì không hoặc chưa phải lúc mà
thời gian đã gạn lọc được hết đam mê, ngu tín, cuồng tín… Có người cay
đẳng nói: với trình độ dân trí của ta cứ như thế này, thì phải chờ vài
trăm năm nữa.
Thế rồi một hôm, Canh, bạn tôi, một giáo sư dạy toán ở Đại học, gọi điện thoại rủ:
- Chiều nay có rảnh đi nghe ông Thảo nói chuyện ở Đại học Paris VII không?
- Thảo nào nhỉ?
- Trần Đức Thảo, giáo sư triết học ấy mà…
Bỗng
cái tên Thảo quen thuộc từ gốc gác xa xưa ấy làm tôi nhớ lại đôi lần đã
cùng anh em bình bàn, trách móc, mỉa mai về mấy bài khảo cứu cứ như
đang sống ở trên mây, đã được phổ biến hạn hẹp trong mấy tạp chí chuyên
về triết học xuất bản ở Paris.
Từng
nghe kể hồi đó, ông ta đã trở về xứ tham gia kháng chiến và làm cách
mạng. Nhưng rồi lại được biết là ông ấy đã không được trọng dụng, mà còn
bị trù dập, đầy ải, đến nỗi bị cô lập, phải sống thiếu thốn, khốn khổ,
lúc đói, lúc no, ốm đau không thuốc men… Cứ tưởng ông ta đã chết từ lâu
rồi. Nay có tin ông triết gia ấy vẫn còn sống, và vừa trở lại Paris với
tình trạng tâm thần bất an, sợ sệt, khiến nhiềunhiều người thắc
mắc: ở tuổi gần đất xa trời, không lo chuẩn bị trở về với cát bụi, mà
còn mang thân già và tâm thần bệnh hoạn như vậy qua Paris nảy để tính
làm trò gì nữa đây?
Thế
nên nghe bình bàn từ những “nghiên cứu” cao siêu, tới những hô hào “hoà
giải, hoà hợp”… như thế, chẳng khác nào, người ta đã vô tình kể chuyện
“giây thừng” trong gia đình đã có người bị treo cổ.
Vào
một buổi chiều khá đẹp trời và mát mẻ, chúng tôi tới trường Đại học
Paris 7, nằm cạnh trạm tàu điện ngầm Jussieu ở quận 5, vì đã có thông
báo về một buổi nói chuyện của Trần Đức Thảo, đd ban Việt học của Đại
học Paris 7 tổ chức.
Lúc
Canh lái xe đưa tôi đến trước trạm métro ấy, thì thấy lác đác vài Việt
kiều, trẻ có, già có, đang hỏi đường đến chỗ của ban Việt học.
Khu
Đại học khá lớn, cạnh bờ sông Seine này, có nét kiến trúc thuộc loại
phản mỹ thuật bậc nhất Paris, có thể là nhất cả thế giới. Là giáo sư
khoa học ở đó, Canh đã thành thạo đường đi, nước bước, nên đã tận tình
đưa dẫn bà con đi loanh quanh, hết hành lang này, tới thang máy nọ, rồi
leo lên cái tầng thứ mấy của một toà nhà cao vọt như ngôi tháp ngay giữa
khu Đại học ấy… Khi rời thang máy bước ra là thấy ngay cửa vào phòng
lớp của ban Việt học. Những người vừa tới như chúng tôi, đều phải đứng
ngoài hành lang, bởi trong lớp đã hết chỗ. Hoá ra cũng có nhiều người
hiếu kỳ chứ không phải chỉ có chúng tôi. Vì đã hẹn nhau sau khi “nghe
diễn thuyết”, sẽ cùng nhau đi ăn phở, nên tôi kiên nhẫn đứng ngoài ngóng
vào, cho nó thoáng, vì đã quá đông. Là người của trường, nên chỉ có
Canh được mời vào bên trong phòng lớp.
Buổi
nói chuyện bắt đầu: có tiếng nói lớn ở trong lớp, như đang giới thiệu,
nhưng chỗ tôi đứng, chỉ nghe vọng ra mấy lần nêu tên “Trần Đức Thảo”,
sau là những tiếng vỗ tay có vẻ nồng nhiệt.
Chừng
hơn tiếng đồng hồ sau, lại vang lên một loạt vỗ tay lẹt đẹt, tôi mừng
thầm vì biết buổi nói chuyện đã chấm dứt. Mọi người xô nhau ra về y như
cảnh học trò tan học. Đám người cuối cùng rời lớp là ba người cùng dạy
học với Canh, bao quanh một người gầy gò, tầm vóc nhỏ thó, mặt như sạm
nắng, mặc một áo vét cũ kỹ, quá dài và quá rộng. Nhân vật nhỏ thó được
hộ tống như vậy, khiến tôi đoán đấy là Trần Đức Thảo mà đây là lần đầu
tiên tôi gặp lại tận mặt. Tôi tránh qua một bên để mấy giáo sư Đại học
này đi qua. Canh vẫy tôi đi theo. Ra tới bậc thềm sân sau trưởng Đại
học, Canh xã giao:
-
Nếu bác Thảo chưa có hẹn với ai thì xin mời bác và các bạn, ta cùng
nhau đi ăn phở ở quận 13, cũng gần đây thôi. Vì tôi có rủ anh bạn đây
(tay chỉ về phía tôi đang bước theo phía sau) là sau khi nghe bác nói
chuyện xong, sẽ đi ăn phở.
Ngoảnh,
lại, thấy tôi là người lạ mặt đứng phía sau, bác Thảo nhìn tôi thật kỹ,
rồi ngần ngừ tiến lại đưa tay ra bắt tay tôi với vẻ vồn vã nhưng không
tự nhiên, miệng nói:
- Chào đồng chí!
Cả mấy bạn của Canh đều ngạc nhiên nhìn tôi, tôi vội đáp một cách trịnh trọng:
- Kính chào bác, chắc bác nhầm tôi với ai rồi, chứ tôi không phải là một đồng chí đâu ạ! Tôi chỉ là một thường dân thôi.
Canh phá lên cười:
-
Anh bạn tôi đây không phải là một đồng chí. Mà quanh bác đây, cũng
chẳng có ai là đồng chí cả! Vì ở cái đất Paris này, chúng tôi quen gọi,
một cách tự nhiên, mấy người của “đảng” là các “đồng chí”.
Bác Thảo nhìn tôi, mỉm cười bẽn lẽn, và giải thích:
-
Từ nãy, tôi cứ tưởng anh là người của sứ quán. Vì sứ quán đã dặn tôi
sau buổi nói chuyện thì phải chờ, để sẽ có người của sứ quán đưa tôi về.
Mấy anh bạn cũng cười và tiếp tục nêu thêm nhiều câu hỏi bên lề cuộc nói chuyện hồi nãy. Nhưng những câu đáp đều ấp úngmơ hồ:
Những
điều các anh hỏi thì chưa thể nói hết, nói rõ ngay lúc này được… Cũng
phải có thời gian thì mới có thể trình bày vào chi tiết các vấn đề… về
thời sự ở trong nước thì ở đây cũng khó nói rõ cho sáng tỏ được… Tôi tới
đây, tính là để nói về một đề tài lịch sử mang tính triết học, mà toàn
bị hỏi về các vấn đề có tính thời sự chính trị nhạy cảm ở trong nước…!
Tôi
nhận thấy nhà triết học già này đã không mấy chú ý nghe các câu hỏi, mà
chỉ lần lượt chăm chú quan sát thật kỹ từng người đặt câu hỏi. Rồi lại
lấm lét quay ra nhìn tôi. Bỗng khi nhận ra ở phía xa, người mà bác đang
chờ đợi, nên vội vã nói.
- À mà thôi, đã có đồng chí Hào đến kia rồi, xin lỗi, thôi tôi phải về. Cảm ơn các bạn. Và xin hẹn gặp lại vào dịp khác nhé!
Rồi
bác Thảo (tôi bắt đầu quen lối gọi “bác” theo cách gọi của Canh, bạn
tôi) rảo bước về phía “đồng chí” Hào, đang chạy tới. Và cả hai củng quay
nhanh ra đi về phía khác, như muốn tránh cái đám người đã nêu quá nhiều
thắc mắc là chúng tôi. Nhìn bác Thảo bị dẫn đi, Canh lắc đầu hỏi mọi
người:
- Các bạn nghe nhà triết học của chúng ta nói chuyện như vậy, thì có cảm tưởng thế nào?
- Ông ta đã có cái vẻ lẩm cẩm của tuổi già rồi!
-
Ông ta nói để mà nói, cứ lặp đi, lặp lại về một đề tài đã cũ rích về
nội dung. Bởi cái chủ nghĩa xít-ta-lin-nít ấy thì chính ông ta cũng đã
viết ra thành sách cả chục năm nay rồi. Bây giờ lại mang ra nhai lại,
nên nó nhàm chán. Còn trong phần trao đổi, ông nói loanh quanh rằng ông
sang đây là để vận động quốc tế ủng hộ Việt Nam. Nhưng rồi ông không
chịu trả lời rõ là vận động những ai, vận động về những vấn đề gì, vận
động như thế nào… Ông bảo chừng nào xong nhiệm vụ thì sẽ về. Biết thế
nào là xong nhiệm vụ? Thời gian thi hành nhiệm vụ ấy là trong bao lâu?
Một tuần? Một tháng? Một năm? Hay vài năm như một nhiệm kỳ của nhân viên
ngoại giao? Thật là mơ hồ, quẩn quanh.
Mà khi nói, mắt ông cứ lấm lét nhìn mấy người của sứ quán như có vẻ vị
nể, ngại ngùng lắm. Vì vậy mấy tay trong nhóm khoa học nhân văn chê bai
ông. Họ bảo ông ta thật sự đã bước vào tình trạng lẩm cẩm vì bệnh tật
tâm thần và tuổi già. Cái thời nổi tiếng sắc sảo tranh luận với Sartre
xưa kia không còn nữa. Thật là đáng tiếc! Đi nghe ông nói chuyện mà thấy
phí mất cả buổi chiều.
Sau khi chia tay mấy người bạn, Canh kéo tôi đi và nói:
-
Họ cũng sẵn xe vì có chỗ đậu dành riêng cho người dạy ở trong trường.
Tôi tính mời ông ấy lên xe đi ăn để có dịp nói chuyện riêng cho vui,
nhưng người của sứ quán kèm ông ta sát quá.
Ra quán phở, tôi hỏi Canh:
- Tôi không ở bên trong để nghe, nên không dám bình bàn, chê bai như mấy ông bạn kia. Bộ bác ấy đã lẩm cẩm thật rồi à?
Canh lắc đầu giải thích:
-
Đấy là mấy tay chuyên dạy về khoa học nhân văn, người dạy sử, kẻ dạy
vãn chương… Mấy bố ấy lúc nào cũng gồng minh lên ra vẻ trí thức hơn mọi
người! Các ông khoa bảng ấy mắc cái bệnh cocorico của con gà
trống gô-loa rất nặng. Ông nào cũng cho tiếng gáy của mình là nhất. Ít
khi thấy họ khen nhau. Chưa gặp Trần Đức Thảo lần nào mà đã dám dè bỉu:
hết chê triết của ông ấy cũ rích, rồi lại tố mấy cái bài đăng trong các
tờ báo chuyên về triết ấy thì có ai đọc đâu, chỉ mấy tay dạy triết đọc,
rồi ngồi binh bàn với nhau thôi! Các ông ấy bảo, ở bên này, đầy tài
liệu, đầy ban nghiên cứu chuyên ngành, đầy giáo sư chuyên môn để tham
khảo; đấy phương tiện thử nghiệm, mà còn chưa ai dám mổ xẻ những vấn đề
cơ bản của triết học và nhân chủng học như thế. Vậy mà ở Hà Nội, thân
cô, thế cô, không tài liệu, không có ban nghiên cứu chuyên ngành để tham
khảo, mà ông đã dám viết khơi khơi theo trí nhớ mấy bài nghiên cứu,
toàn là dựa theo những gì đã đọc ở Paris mười mấy năm về trước! Thật là
chủ quan khinh thường thiên hạ quá!
Canh nhấn mạnh tiếp:
-
Tôi biết, mấy tay trí thức này ít phục ai. Vì thế nên tôi không chú ý
tới những lời chê bai của họ. Sự thật là tôi thấy bác Thảo trở lại Paris
lần này với nhiều uẩn khúc rất khó hiểu. Lúc vắng người, tôi đã mời bác
bữa nào rảnh rỗi đi ăn
Mà khi nói, mắt ông cứ lấm lét nhìn mấy người của sứ quán như có vẻ vị
nể, ngại ngùng lắm. Vì vậy mấy tay trong nhóm khoa học nhân văn chê bai
ông. Họ bảo ông ta thật sự đã bước vào tình trạng lẩm cẩm vì bệnh tật
tâm thần và tuổi già. Cái thời nổi tiếng sắc sảo tranh luận với Sartre
xưa kia không còn nữa. Thật là đáng tiếc! Đi nghe ông nói chuyện mà thấy
phí mất cả buổi chiều.
Sau khi chia tay mấy người bạn, Canh kéo tôi đi và nói:
-
Họ cũng sẵn xe vì có chỗ đậu dành riêng cho người dạy ở trong trường.
Tôi tính mời ông ấy lên xe đi ăn để có dịp nói chuyện riêng cho vui,
nhưng người của sứ quán kèm ông ta sát quá.
Ra quán phở, tôi hỏi Canh:
- Tôi không ở bên trong để nghe, nên không dám bình bàn, chê bai như mấy ông bạn kia. Bộ bác ấy đã lẩm cẩm thật rồi à?
Canh lắc đầu giải thíchĐấy
là mấy tay chuyên dạy về khoa học nhân văn, người dạy sử, kẻ dạy vãn
chương… Mấy bố ấy lúc nào cũng gồng minh lên ra vẻ trí thức hơn mọi
người! Các ông khoa bảng ấy mắc cái bệnh cocorico của con gà
trống gô-loa rất nặng. Ông nào cũng cho tiếng gáy của mình là nhất. Ít
khi thấy họ khen nhau. Chưa gặp Trần Đức Thảo lần nào mà đã dám dè bỉu:
hết chê triết của ông ấy cũ rích, rồi lại tố mấy cái bài đăng trong các
tờ báo chuyên về triết ấy thì có ai đọc đâu, chỉ mấy tay dạy triết đọc,
rồi ngồi binh bàn với nhau thôi! Các ông ấy bảo, ở bên này, đầy tài
liệu, đầy ban nghiên cứu chuyên ngành, đầy giáo sư chuyên môn để tham
khảo; đấy phương tiện thử nghiệm, mà còn chưa ai dám mổ xẻ những vấn đề
cơ bản của triết học và nhân chủng học như thế. Vậy mà ở Hà Nội, thân
cô, thế cô, không tài liệu, không có ban nghiên cứu chuyên ngành để tham
khảo, mà ông đã dám viết khơi khơi theo trí nhớ mấy bài nghiên cứu,
toàn là dựa theo những gì đã đọc ở Paris mười mấy năm về trước! Thật là
chủ quan khinh thường thiên hạ quá!
Canh nhấn mạnh tiếp:
-
Tôi biết, mấy tay trí thức này ít phục ai. Vì thế nên tôi không chú ý
tới những lời chê bai của họ. Sự thật là tôi thấy bác Thảo trở lại Paris
lần này với nhiều uẩn khúc rất khó hiểu. Lúc vắng người, tôi đã mời bác
bữa nào rảnh rỗi đi ăn cơm để nói chuyện nhiều. Bác đã vui vẻ nhận lời
ngay. Nhưng khi tôì nhắc lại lời mời ấy trước mặt tay Hào ban nẫy, thì
bác ấy tỏ ra sợ hãi, vội vã làm ra vẻ dứt khoát từ chối, bảo rằng “không
được đâu! Vì lúc này chưa rảnh rỗi, vì còn nhiều chuyện đang phải làm
gấp chưa xong!” Thế có khó hiểu không?
- Nhưng nghe bác Thảo nói chuyện hồi nãy thì sao? Có còn minh mẫn không?
-
Thật ra thì bác ấy nói năng rất khôn ngoan, thận trọng. Bác rỉ tai cho
tôi biết là buổi nói chuyện vừa rồi chỉ là cái cớ để bác tìm gặp lại mọi
người. Các câu chất vấn gay go về tinh hình chính trị “mở cửa” ở bên
nhà đã được bác trả lời nhanh, gọn, nhưng không xác định một điều gì.
Toàn là những dự đoán dự tính, những chuẩn bị phải cần thời gian để khai
triển. Khi trả lời bằng tiếng Pháp thì rất tế nhị, hỏm hỉnh. Tất cả
chứng tỏ bác vẫn có một tâm trí thông minh, một thái độ dè dặt, một ngôn
từ kín đáo không để lộ ra một sơ hở nào để có thể bị hiểu lầm. Nghĩa là
bác ấy còn tinh anh lắm, chứ không lẩm cẩm đâu. Như khi nhìn anh ban
nãy, bác làm bộ bắt tay anh như đã quen thân, và cố ý chào anh là “đồng
chí”, chính là để thử xem anh có phải là người của sứ quán cử ra để theo
dõi hay không! Khôn thế đấy! Khi thấy “đồng chí” Hào chạy tới, bác đã
vội vã rời xa tụi mình, đ
để không ai kịp nói câu gì, sợ tay Hào nghe thấy. Rồi hấp tấp đi ngay,
chứng tỏ là bác biết mình bị kiểm soát chặt chẽ chứ không được buông
lỏng. Ta phải tìm cách mời riêng nhân vật này này đi ăn với nhau vài
bữa, để tỉm hiểu sự thật.
- Chừng nào có cơ hội gặp lại bác ấy thì nhớ tới tôi nhé.
Thế rồi cả nhiều tháng sau, khi tôi đã quên hẳn câu chuyện Trần Đức Thảo trở lại Paris, thì Canh điện thoại:
- Đến thứ bẩy tới, tôi đã mời được Trần Đức Thảo đi ăn trưa riêng đấy, anh có rảnh không?
-
Thật là một cơ hội hiếm có, bận mấy thì tôi cũng dẹp hết để mà đi chứ.
Nhưng chỉ sợ có thêm tôi, thì bác ấy sẽ ngại ngùng khi nói chuyện.
-
Không sao đâu, tôi đã nói trước với bác Thảo là sẽ có cả anh nữa. Tôi
trấn an bác, bằng cách giới thiệu anh là một người ngưỡng mộ bác, nên
bác vui vẻ nhận lời chứ không do dự, e ngại như hồi mớì qua. Bác ấy lúc
này đã tỏ ra mạnh dạn như dân Paris rồi, dám một mình tự do đi ra ngoài,
dám tiếp xúc riêng rồi vấn đề là ta nên bàn nhau sẽ đề cập tới những đề
tài gì khi gặp bác ấy.
-
Theo tôi thì trong những lần gặp đầu, ta chỉ nên hỏi vè những vụ việc
dễ trả lời thôi. Chừng nào đủ tin nhau thì mới hỏi về các vấn đề chính
trị nhạy cảm.
-
Cái đó thì dĩ nhiên rồi. Nhưng ta cũng nên chuẩn bị trước những câu hỏi
để tuỳ cơ ứng biến, kẻo uổng phí mất cơ hội. Tôi đã chuẩn bị ghi sẵn
một số câu hỏi để thử nghiệm đương sự, để phanh phui những bí mật mà
trước đây bác đã thoái thác không chịu nói rõ.
Đến
ngày hẹn, Canh lái xe chở tôi tới ngã tư của hai phố Rennes và Le
Verrier, quận năm, lúc gần trưa. Xe tới nơi đã thấy bác Thảo đứng chờ
ngay ở đầu phố.
Tôi vội mở cửa xe, bác leo lên rất nhanh gọn, rồi nói:
-
Tôi biết chỗ này đông xe, không ngưng lâu được nên phải ra đứng chờ
trước kẻo làm khổ các anh phải lái xe chạy loanh quanh kiếm chỗ đậu.
- Vậy là bác vẫn là dân Paris chính hiệu, bác chưa quên đời sống vội vã, tấp nập ở đây.
-
Thì tôi biết, Paris nay có khác gì xưa đâu. Mà có lẽ cả trăm năm sau nó
sẽ vẫn là vậy. Vì cái thủ đô này đã có nét kiến trúc cổ kính và ngăn
nắp, đẹp đẽ, hoàn chỉnh quá nên sẽ khó mà thay đổi, mở mang thêm để bớt
cảnh chen lấn…!
Canh đề nghị:
- Bây giờ để bác Thảo chọn, nếu bác thích đi ăn phở thì có quán phở Sài Gòn ở quận 13, rất được bà con ta ở đây ưa chuộng…
-
Ta gặp nhau cốt là để nói chuyện tâm tình cho đỡ buồn. Tới chỗ đông
kiều bào ta thì không tiện, tôi đề nghị đi ăn ở chỗ nào kín đáo, ít
người tọc mạch, thì mới dễ nói chuyện thoải mái hơn, thuận lợi hơn..
-
Thế thì ta đi ăn cơm tàu, ở nhà hàng “Chez Tang” mới mở, đầu bếp mới từ
Hồng Kông qua, sạch sẽ và nhiều món mới lạ, ăn được lắm. Tôi thích nhất
là những món cháo ở đấ, cứ y như là ở một tiệm chuyên bán cháo ở Chợ Cũ
của Sài Gòn thủa trước…
- Tôi cũng thích ăn cháo, món đó dễ tiêu.
- Vậy thì chúng ta tới tiệm “Chez Tang”.
Đậu xe ở một con đường xa phía sau, rồi đi bộ tới tiệm ăn. Canh bắt đấu mào chuyện và cũng là để thử tìm hiểu:
- Bác đi thế này có bị “ai” để ý không?
-
Tôi dậy từ sáng sớm, uổng café xong là ngồi viết, tay Hào là nhà trưởng
có ghé hỏi hôm nay tôi có muốn đi đâu thì hẳn đưa đi. Tôi nói chẳng
muốn đi đâu cả, đến trưa thì có lẽ chỉ ra phố mua khúc bánh mì jambon là
đủ. Thế là hắn dông luôn. Vì hôm nay là thứ bẩy, ai cũng nghỉ để sống
với gia đình chứ. Nếu ngày thường thì hắn cũng dòm ngỏ ra cái điều chăm
chỉ làm nhiệm vụ ấy mà. Nhưng mà bây giờ thì tôi cũng chẳng cần giữ ý
như lúc trước nữa. Tôi cũng có tự do của tôi chứ!
Thấy bác Thảo tỏ vẻ cởi mở như vậy, tôi bắt đầu tạo thân mật:
- Bộ sống ở giữa Paris mà bác cũng còn ngại cảnh bị theo dõi canh chừng sao?
- Cũng vẫn có chứ! Nhưng tế nhị, kín đáoTa
gặp nhau cốt là để nói chuyện tâm tình cho đỡ buồn. Tới chỗ đông kiều
bào ta thì không tiện, tôi đề nghị đi ăn ở chỗ nào kín đáo, ít người tọc
mạch, thì mới dễ nói chuyện thoải mái hơn, thuận lợi hơn..
-
Thế thì ta đi ăn cơm tàu, ở nhà hàng “Chez Tang” mới mở, đầu bếp mới từ
Hồng Kông qua, sạch sẽ và nhiều món mới lạ, ăn được lắm. Tôi thích nhất
là những món cháo ở đấ, cứ y như là ở một tiệm chuyên bán cháo ở Chợ Cũ
của Sài Gòn thủa trước…
- Tôi cũng thích ăn cháo, món đó dễ tiêu.
- Vậy thì chúng ta tới tiệm “Chez Tang”.
Đậu xe ở một con đường xa phía sau, rồi đi bộ tới tiệm ăn. Canh bắt đấu mào chuyện và cũng là để thử tìm hiểu:
- Bác đi thế này có bị “ai” để ý không?
-
Tôi dậy từ sáng sớm, uổng café xong là ngồi viết, tay Hào là nhà trưởng
có ghé hỏi hôm nay tôi có muốn đi đâu thì hẳn đưa đi. Tôi nói chẳng
muốn đi đâu cả, đến trưa thì có lẽ chỉ ra phố mua khúc bánh mì jambon là
đủ. Thế là hắn dông luôn. Vì hôm nay là thứ bẩy, ai cũng nghỉ để sống
với gia đình chứ. Nếu ngày thường thì hắn cũng dòm ngỏ ra cái điều chăm
chỉ làm nhiệm vụ ấy mà. Nhưng mà bây giờ thì tôi cũng chẳng cần giữ ý
như lúc trước nữa. Tôi cũng có tự do của tôi chứ!
Thấy bác Thảo tỏ vẻ cởi mở như vậy, tôi bắt đầu tạo thân mật:
- Bộ sống ở giữa Paris mà bác cũng còn ngại cảnh bị theo dõi canh chừng sao?
-
Cũng vẫn có chứ! Nhưng tế nhị, kín đáo hơn một chút thôi, không tàn
nhẫn trắng trợn như ở nhà. Cái bà giúp việc quét dọn trong căn nhà khách
đớ đã ngầm báo cho tôi biết: tay nhà trưởng Hào này là tai mắt của sứ
quán. Hắn cũng tò mò lắm. Lúc tôi đi ra phố là hắn lẻn vào phòng tôi để
đọc những gì tôi đang viết…
- Sao bác biết?
- Mỗi lần phải vẳng mặt là tôi có làm dấu, nên về là tôi biết ngay đã có người lục vào các tư liệu, bài vở đang viết của tôi!
- Như vậy làm sao bác giấu được những bài vở riêng tư của bác?
-
Những gì tôi đang viết là sẽ được công bố nay mai… nên chẳng có điều gì
phải giấu cả. Mà những gì tôi dang viết, nó có đọc cũng c
Những
gì tôi đang viết là sẽ được công bố nay mai… nên chẳng có điều gì phải
giấu cả. Mà những gì tôi dang viết, nó có đọc cũng chẳng hiểu được gì.
Đến thủ trưởng của nó đọc chưa chắc đã hiểu.
- Bác viết để vận động dư luận ở bên này phải không?
-
Không! Tôi đang soạn một số luận chứng nhằm giới thiệu nội dung một
cuốn sách mà tôi đang gấp rút biên soạn để được xuất bản nay mai…
- Thế bác không lo làm công tác vận động sự ủng hộ cho chính sách của “đảng” và nhà nước à?
-
Lúc mới qua thì buộc lòng phải nói thế thôi! Chứ có vận động khỉ gì
đâu. Hôm ấy cứ bị chất vấn: vận động cái gì, vận động như thế nào, vận
động những ai… làm tôi bối rối. Mấy chục năm bị hạn chế tiếp xúc, giao
thiệp với bên ngoài, bây giờ qua đây, bao nhiêu quan hệ xưa cũ chẳng còn
mấy ai. Phần thì những bạn bè có uy tín trong xã hội mà tôi quen biết,
nể phục nhau, thì đều đã qua đời, có còn chỗ nào thân thiết có thể nhờ
cậy nữa đâu để mà vận động. Trong buổi tiếp xúc đầu tiên của tôi với trí
thức Paris, tôi đã thất vọng vì chẳng thấy còn một khuôn mặt nào quen
có uy thế để có thể làm chỗ dựa cho tôi. Nói là mang sứ mạng đi vận
động, thật ra đấy chỉ là cái cớ của chuyến đi mà thôi. Chẳng lẽ lại nói
tôi trở qua Paris là không có mục đích gì sao? Hoặc nói là qua đây để
ngồi viết sách, để người ta cười cho à?
-
Bác viết thứ sách gì mà không thể viết được ở quê nhà? Mà sách ấy viết
cho ai đọc? Tôi hỏi vậy, vì những bài báo, những cuốn sách bác đã viết
và xuất bản ở Pháp này thì tôi thấy nó quá xa vời thứ quần chúng vất vả
như tôi…
-
Không! Không! Lần này thì khác. Lần này là tôi viết cho mọi người. Sách
này là một công trình phân tích, để những nút thắt, những trói buộc con
người trong lịch sử đương đại, trong xã hội ta hiện nay, nghĩa là từ
lúc nó được hình thành tới lúc nó phải chịu thảm hoạ của những diễn biến
của cách mạng, sẽ được mở gỡ ra cho bằng hết. Lịch sử của xã hội ấy
phát xuất từ cả một chuỗi biến hoá sinh thái, từ con người thượng cổ tới
con người hiện đại, từ con người nguyên thuỷ man rợ tới con người có ý
thức làm cách mạng, tới con người mất hết tự do khi rơi vào tình trạng
ngu tín, sùng bái… Bởi có những thứ sùng bái tai hại khiến con người mất
tinh thần tự chủ, mất hết sáng kiến. Sùng bái tới mức tự nô lệ hoá mình
về mặt tư tưởng. Tôi viết để chỉ ra cái hại vô cùng đó… Ai cũng cần đọc
sách này để thấy, để hiểu thảm hoạ đã đến với mỗi con người chúng ta
như thế nào. Sách như thế thì làm sao có thể viết được ở quê nhà. Chúng
nó thì đánh cho vỡ đầu ấy chứ! Ha! Ha! Ha…!
Sự cởi mở vui vẻ và thẳng thắn ấy thật là táo bạo, thật là bất ngờ. Khủng khiếp nhất là cụm từ “chúng nó”. Canh và tôi nhìn nhau kinh ngạc. Tôi vội hỏi:
- Thế thì chuyến đi này của bác là đầy bí ẩn đấy. Và không rõ cuốn sách của bác sẽ làm sao giải toả hết những điều khó hiểu đây?
-
Đúng là có nhiều điều khó hiểu. Nhưng rồi tới hồi kết cuộc thì rồi mọi
người sẽ hiểu. Lúc ấy tất cả khúc mắc, các nút thắt gây thắc mắc sẽ được
tháo gỡ tung ra… để tất cả sự thật được phơi bày ra ánh sáng.
- Chừng nào thì sẽ tới hồi kết cuộc ấy?
-
Chừng nào cuốn sách của tôi được in ra thì tất cả những thắc mắc mà các
bạn ở Paris này nêu ra từ trước tới nay sẽ được giải đáp cho bằng hết.
Và tôi đang gấp rút biên soạn nó…
-
Vậy là bác qua Paris lần này là để ngồi viết sách thật sao? Cuốn sách
này sẽ là kết luận của các bài vờ mà bác đã cho đăng lai rai trên mấy
tạp chí triết học ở Paris này trong mấy năm qua phải không?
-
Ấy không phải vậy đâu! Mấy cái bài báo, mây cái biên khảo ấy chỉ là thứ
sinh hoạt nghiên cứu bên lề, chúng chỉ đáp ứng nhu cầu thị hiếu ở bên
này thôi. Chứ ở bên nhà, trong cuộc sống sôi động từng ngày, đầy đau
khổ, đầy máu và nước mắt, thì chẳng có ai chú ý tới những đề tài như vậy
đâu. Trải qua hai cuộc chiến tranh, sống sót sau mấy đợt đấu tố trong
cải cách ruộng đất, trong mấy đợt chỉnh huấn, chỉnh phong, chống xét
lại, rồi tiếp theo là những đợt cải tạo xã hội để bước vào chế độ xã hội
chủ nghĩa. Biết bao bão tố như thế, mà chỉ ngồi viết được mây cái
nghiên cứu đó để đăng báo ở bên này thì thật là điên khùng. Chẳng qua
phải viết như thế ở bên nhà là để chứng tỏ cho lãnh, đạo và cho thế giới
bên ngoài thấy là Trần Đức Thảo vẫn còn đó, cái đầu của nó vẫn còn hoạt
động. Mà viết thế cũng, là để kiếm sống… Vì các bài viết ấy được trả
nhuận bút cao. Vả lại cũng chính những tiếng vang của các biên khảo ấy,
nó đã bảo vệ tôi khi phe cánh cuồng tín, giáo điều của cách mạng đã manh
tâm tiêu diệt tôi. Sự thật, là tôi về nước đâu có phải là để viết ra
mấy cái thứ nghiên cứu thuần sách vở như thế. Các anh tưởng tôi về tham
gia kháng chiến, tham gia cách mạng là để ngồi viết mấy cái nghiên cứu
“chỉ chỏ” ấy à? Các anh nghĩ sự nghiệp của Trần Đức Thảo là chỉ cỗ máy
cái biên soạn vớ vẩn ấy thôi sao? Bao nhiêu trải nghiệm đau đớn, gian
khổ cùng dân tộc trong chiến tranh, trong cách mạng thì tôi đã vứt chúng
vào đâu?
Chương 2
Tiếp cận thực tại đau đớn
Bác Thảo ngưng kể, bùi ngùi im lặng hồi lâu. Chúng tôi thì vô cùng xúc động và ngạc nhiên. Mấy câu hỏi ấy đã kéo chúng tôi ra khỏi cõi mơ hồ, như đã đánh thức chúng tôi dậy sau cơn u mê dài. Rồi bác lại tiếp:
- Những trải nghiệm đau đớn của thực tại cách mạng đầy máu và nước mắt, diễn ra hằng ngày trước mắt, đã thường xuyên chất vấn tôi… Chẳng lẽ chúng không để lại dấu vết gì trong đầu óc tôi sao? Nếu chỉ viết mấy cái bài nghiên cứu có tính nhân chủng học như vậy, thì chẳng thà hồi đó tôi cứ ngồi lại Paris này để đề ra những thứ ấy thì dễ dàng và thuận lợi hơn!
- Vậy những bài vở và công trình biên khảo mà bác đã cho xuất bản ở ngoài này không phải là những công trình chính mà bác đã dày công nghiên cứu ở trong nước sao? Ở trong nước, bác chỉ được dạy học trong một thời gian rất ngắn, khoảng gần hai niên học thôi. Vì bác đã bị đỉnh chỉ công tác sau hai bài báo đụng tới vấn đề dân chủ… Vậy suốt trong mấy chục năm còn lại, tức là từ năm 1956 cho tới nay, thì bác đã dùng thời gian dài ấy để làm gì?
- Anh thắc mắc như vậy là rất đúng. Tôi chỉ được dạy học trong một thời gian rất ngắn. Sau đó là bị sống quản chế với những canh chừng, rình rập gắt gao. Muốn công khai nói năng, viết gì thì cứ việc… nhưng quyền lực cấm tôi tuyệt đối không được đụng tới chính trị, không được đụng tới cách mạng! Thế nên tôi đã phải câm nín về chính trị, về cách mạng ròng rã trong hơn ba chục năm.
Trong thời gian sống như bị lưu đầy, bị ức chế câm nín ấy, cái đầu của tôi vẫn như một động cơ quay với tốc độ cao. Nó vẫn cứ nghiên cứu, có trải nghiệm… để nghiền ngẫm, để phác thảo ra một công trình có thể cô đọng trong một cuốn sách. Có thể nói là tôi sẵn sàng vứt bỏ hết những gì đã viết từ trước tới nay, để chỉ lưu giữ lại một cuốn sách này… Vì cái phần nghiên cứu, lý giải trong câm nín, trong im lặng này mới thật là một công trình súc tích, có trọng lượng, thật là dày
công sức của trái tim và khối óc! Bởi những cái đó đã dằn vặt, nghiền nát tôi hằng ngày. Giờ đây nó đang bùng nổ, đang được trải ra qua từng trang giấy…
- Bác đã nhấn mạnh cồng việc quan trọng của bác không phải là nghiên cứu những cái đã được công bố ở nước ngoài, vậy thì cụ thể là bác đã bỏ công nghiên cứu cái gì?
- Là nghiên cứu những cái của thực tại thô bạo, thực tại đau đớn, thực tại khổ cực của dân chúng, nó đã diễn ra trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, qua hai cuộc chiến tranh, qua công cuộc đổi mói đang diễn biến, quay cuồng cho tới nay… Thực tại đó nay vẫn rất tàn nhẫn. Cái nghiên cứu đó mới thật là quan trọng.
- Cụ thể những thực tại quan trọng đó là gì? Bác có thể nói thẳng ra vài thí dụ được không? Chúng tôi vì quý bác, thương bác mà thắc mắc như vậy. Bởi ai ở đấy cũng đã nghe đồn đại về những nỗi khổ tâm, khổ trí của bác ở quê nhà, nên cứ nghĩ là sự chọn lựa trở về của bác hồi ấy là một sai lầm, thật sự là một thất bại. Vì nó đã phá tan sự nghiệp triết học lừng lẫy đã có của bác. Vậy xin thành thật hỏi bác, bác đã về để phải sống như thế để làm gì? Sao lúc đó bác không tìm đường bỏ đi, trốn đi?
- Thật sự là lúc này rất khó giải thích một cách ngắn gọn cho hai anh hiểu. Tôi đã về nước với mộng ước được tham gia cách mạng, để trải nghiệm
tại hiện trường về những gì mà tôi đã đặt thành mục tiêu, thành nhiệm vụ nghiên cứu, ngay từ trước khi quyết định trở về tham gia kháng chiến và cách mạng. Trở về là để có dịp sống trong cách mạng, để so sánh với những gì đã xảy ra trong cuộc Cách mạng Tháng Mười ở Nga. Với những hiểu biết phê phán đã có về cuộc cách mạng ấy, tôi tâm nguyện về quê hương để nghiên cứu thực tại, với hoài bão đóng góp xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng trong sáng, mà chẳng những dân ta mà là cả nhân loại mong đợi. Trong thực tế, sách vở có thể mang lại tiếng tăm. Điều này không quan trọng. Điều quan trọng là sự trở về xứ sở đã giúp tôi trải nghiệm một thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự đau khổ của con người bị kìm kẹp bởi ý thức hệ. Nhất là ngay khi đặt chân trở lại trên mảnh đất quê hương ở ATK (an toàn khu), thì người ta đã tìm đủ cách để cấm cản tôi làm công việc trải nghiệm quan trọng đó…
- Công việc trải nghiệm quan trọng đó là gì?
- Cái đó chưa thể nói rõ, nói hết là vào lúc này, vì chưa phải lúc. Hai anh nên kiên nhẫn chờ cuốn sách mà tôi đang biên soạn. Tôi cam kết với hai anh là việc hoàn thành cuốn sách nảy sẽ là một sự kiện quan trọng. Vì nó đáp úng khát vọng lớn nhất của đời tôi. Vì lần này là tôi muốn nói lên hết những vấn đề then chốt của cuộc cách mạng do lý thuyết và lý luận Mác-Lê chỉ đường. Nay vì chưa hoàn tất, chưa xuất bản được cuốn sách, nên tôi rất bồn chồn, lo lắng, nóng lòng. Thôi ta thay đổi đề tài nói chuyện đi kẻo nó dẫn tới những điều chưa thể nói vào lúc này. Các anh nên nhớ là tôi về nước là để tham gia cách mạng chứ không hề có ý làm việc gì khác. Và cho tới nay, tôi vẫn chưa được nói và viết gì về công tác chính yếu này… trừ hai bài báo và một tập biên khảo nhỏ đã được xuất bản ở trong nước. Những cái đó cũng đã làm cho tôi khó sống…
- Vâng xin đồng ý đổi qua vấn đề khác. Nay điều mà anh em ở đây muốn biết là sức khỏe của bác bây giờ ra sao?
- Như mọi người đều biết, ở ngoài bưng, tôi bị bệnh đau gan mãn tính. Ở nhà một số anh em bác sĩ, vì thương tôi, nên vẫn theo dõi chăm sóc tôi miễn phí. Sang đây thì tôi không có bảo hiểm y tế như người dân ở đây. May mà có hai bác sĩ Việt kiều khám bệnh không lấy thù lao mà lại còn cho thuốc tôi uống. Nhưng việc chăm sóc, theo dõi là phải thường xuyên làm thử nghiệm, như làm échographie (soi âm) lá gan, và thử máu theo từng định kỳ, làm những cái đó ở đây rất tốn, mà tôi ra đi thì chỉ mang theo một ít tiền, nay thì chỉ dành để lo cho việc ăn uống thôi.
- Thế sứ quán không lo cho bác sao?
- Sứ quán đã miễn cưỡng cho tôi ở nhờ trong nhà khách số 2 Le Verrier ấy là quá tốt rồi, chứ tôi có quy chế cán bộ hoặc có ở trong biên chế ngoại giao, như họ đâu mà họ lo chu cấp cho tôi. Vả lại khi tôi qua đây thì họ rất đè dặt, cứ tưởng rằng sau khoảng vài tuần hay vài tháng thôi, rồi tôi sẽ trở về hoặc sẽ dọn đi chỗ khác.
- Như vậy thì tương lai của bác…
- Về tương lai của tôi thì thật sự là lúc này đang đầy khó khăn mà tôi chưa có cách giải quyết! Đây đang là một cuộc khủng hoảng lớn của đời tôi! Nếu ở nhà, nhất là ở Sài Gòn, thì dễ giải quyết. Ở đây thân cô, thế cô, áp lực tứ bề, nên cuộc khủng hoảng này là một bế tắc vô cùng nan giải…
- Như vậy thì việc cần phải làm lúc này là tìm phương cách giải quyết việc ăn và ở, để bác còn an tâm mà viết sách chứ?
- Chính thế!
- Thành thật xin lỗi bác, hỏi câu này hơi thiếu tế nhị, liệu bác còn đủ lực tài chánh… tới bao lâu nữa?
- Tôi cũng thú thật với hai anh là hiện tôi đang lâm vào cảnh sống nay lo mai. Mấy tờ báo và nhà xuất bản Pháp đã hiểu rõ hoàn cảnh của tôi nên họ đã ứng trước như tiền đặt bài, mà tôi cũng chưa viết gì cho họ cả. Chỉ mới cho họ phỏng vấn mấy buổi thôi. Nhờ đó mà tôi chịu đựng được tới hôm nay. Bây giờ thì các món tiền ứng trước ấy cũng đã cạn kiệt. Vì vậy mà tôi phải cấp tốc soạn ra một số bài làm đề tài thuyết trình, tôi hi vọng sẽ bán vé tượng trung cho các buổi diễn thuyết ấy, để tôi sống qua ngày, Tôi đã xin sứ quán cho mượn nơi để tổ chức nói chuyện, tức là để trình bày về nội dung cuốn sách của tôi… Và từ tuần tới, mỗi chiều thứ ba hoặc thứ năm thì tôi sẽ bắt đầu các buổi thuyết trình tại “Nhà Việt Nam” ở đường Cardinal Lemoine, quận 5, Paris. Và trước mỗi buổi nói chuyện thì tôi tính sẽ bán những tập tóm lược về đề tài nói chuyện ấy. Hi vọng là các anh em sẽ ủng hộ tôi trong lúc chở một số bạn bè Pháp tìm cách giúp đỡ tôi đều đặn và lâu dài hơn… như họ đã hứa.
Bữa ăn trưa hỡm ấy, tưởng là sẽ vui vẻ, nào ngờ sự cởi mở tâm tư u buồn về tình trạng vật chất của bác Thảo đã làm cho buổi gặp gỡ kết thúc một cách buồn thảm. Canh và tôi đều rất xúc động khi phải chứng kiến cảnh một vị giáo sư từng một thời vang danh ở Paris, mà nay phải hạ mình bàn cách bán tiếng nói, bán chữ để kiếm sống qua ngày.
Trước khi chia tay, tôi làm vẻ tự nhiên và nói vài câu để bác Thảo lên tinh thần:
- Bác đừng lo, tôi tin là thể nào anh em ở đây cũng dư sức lo cho bác, riêng hôm nay thì xin có chút quà nhỏ này gửi biếu bác như là lòng thành. Thật không thể ngờ hậu vận của bác lại vất vả thế. Nhưng có như vậy, thì khi vượt qua được khó khăn, mới là vinh quang, phải không bác?
Canh cũng bỏ vào túi áo nhà triết học một chút tiền. Chúng tôi rất ngạc nhiên và cũng rất ái ngại khi nhìn thái độ ngượng ngùng của bác Thâo khi tiếp nhận sự trợ giúp ấy. Phải cố cầm nước mắt, để gượng cười với nhau.
Những tâm sự buồn ấy đã làm chúng tôi im lặng khá lâu khi cùng nhau đi ra xe. Lúc ngồi trên xe đưa bác Thảo về tới nơi tạm trú, Canh hỏi:
- Bây giờ muốn hỏi bác tại sao bác quyết định trở về quê hương hơn bốn chục năm về trước, và cả sự chọn lựa trở lại Paris lần này. Bác có thấy ân hận gì không? Phải chi hồi ấy bác cứ ở lại Paris, thì bây giờ bác đã có một địa vị lớn trên diễn đàn triết học thế giới rồi.
- Hồi ấy, tôi đã trở về xứ sở với một đầu óc hăng hái, đầy lạc quan tin tưởng của tuổi trẻ. Cứ nghĩ thể nào cụ Hồ cũng phải ngạc nhiên về những hiểu biết của tôi. Bởi tôi đã có những nghiên cứu sâu rộng về cuộc cách mạng tháng mười ở Nga, mặt khác, tới đã có một vốn hiểu biết vững chắc về tư tưởng của Karl Marx. Với lòng hiếu thắng bồng bột, ngông cuồng đến mức cuồng tín, tôi tin rằng với những nghiên cứu và kiến thức mà tôi đã đạt được, tôi tự thấy mình như là hiện thân của ý thức hệ mác-xít, để có thể trở về làm nhiệm vụ như một trong những lý thuyết gia bên cạnh ông cụ. Để tôi góp sức xây dựng ở quê hương một mô hình cách mạng mà loài người mong đợi! Nhưng khốn khổ cho tôi là khi về tới quê hương, thì tôi đã va chạm vào một thực tại hoàn toàn đóng kín, nó đã làm tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng. Thời gian ấy, tôi đã phải trải qua những giờ phút chao đảo lập trường. Đấy là giai đoạt tuyệt vọng nhất của đời tôi. Nhưng rồi tôi bình tĩnh phân tích hoàn cảnh và những nhược điểm của mình, dần dần nhận biết sự thật, để đặt ra những câu hỏi sát thực tế… Rồi tử chỗ tuyệt vọng đó, tôi đã lấy lại được thăng bằng, khi ghi nhận rằng nếu không trở về thì làm sao biết là mình đã có những cái nhìn thiển cận, đã sai lầm một cách đần độn, cuồng tín đến như thế. Rồi sau thì tôi phải nhìn nhận rằng sự trở về ấy là cần thiết, là một chọn lựa đúng. Không sống trong tội ác bế tắc của cách mạng, thì làm sao biết là đã có sai lầm. Bởi những gì đọc trong sách vở, những gì nghe truyền đạt qua guồng máy tuyên truyền, thì tất cả những điều ấy đều không phái là trăm phần trăm sự thật. Cả việc bị đẩy trở lại Paris lần này cũng vậy. Đó là những bước đường trải nghiệm, tuy thật là gian nan, nhưng đã giúp tôi thức tỉnh để rồi nhận thức được những sai lầm cơ bản của cách mạng và của chính tôi. Và từ đó, tôi đã đạt tới một số kết luận cố tính triết học cao và vững bền. Thật sự là cho tới nay, tôi không hề hối hận gì về việc hồi đó đã bỏ Paris để về quê hương, và cả bây giờ lại phải trở qua Paris. Tuy có lúc, ở Hà Nội, tôi đã sống những ngày tháng tuyệt vọng, mất phương hướng, như đang phiêu lưu, lạc lõng trong tình trạng rối loạn tâm lý, bế tắc trong tư tưởng. Nhưng rồi thực tại tàn nhẫn và những giao động mất lý tưởng của những người quanh tôi, tất cả đã hằng ngày như chất vấn tôi, khiến tôi phải từng bước đặt lại vấn đề, hằng ngày tìm cách giải đáp cho những chất vấn ấy. Những cái đó đã làm cho đầu óc dần dần sáng hơn, dần dần chuyển biến, dần dần thức tỉnh… Trạng thái đó đã giúp tôi đứng dậy đươc. Bởi trong thời gian chao đảo, khủng hoảng ấy, trong đầu tôi luôn luôn có một cuộc tranh cãi bùng lên dữ dội. Một cuộc tranh cãi giữa cái tôi triết học, cái tôi mác-xít, cái tôi cách mạng, về thực tại phũ phàng trước mắt. Trước những sự kiện, những hậu quả đen tối, những lý luận nguỵ biện, những hành động dối trá, độc ác không thể chấp nhận ấy, thì tôi cứ tự chất vấn tôi:
- Triết học là như vậy sao? Chủ nghĩa Mác là như vậy sao? Mục đích của cách mạng là như vậy sao? Rồi chính tôi đã tự trả lời:
- Không! Triết học không phải là như vậy. Nhưng có khi chủ nghĩa Mác khi triển khai như thế thì cách mạng phải là như vậy. Nghĩ như thế, xét cho cùng, tức là tôi đã bắt đầu có thái độ nghi ngờ mang tính khoa học. Nhưng tôi vẫn chưa lý giải được rành mạch là tại sao. Những thắc mắc tích tụ ngày càng nhiều thì chúng càng như tăng sức thúc đẩy tôi phải cố tìm hiểu tại sao. Khi chưa có lời giải đáp thì tôi lại tự hỏi: Phải chăng là vì ta chưa biết đặt đúng vấn đề?
Bước đầu thức tỉnh như thế, đã làm tôi không còn thấy là mình bị lạc lõng nữa. Vì khi đã biết là chưa đặt đúng vấn đề, tức là chưa nhận ra hướng để tìm kiếm. Từ đó tôi biết mình sẽ phải dồn tầm trí để làm gì. Tuy công việc suy tư ấy không dễ dàng vì hàng rào canh chừng rất gắt ở chung quanh, nhưng tôi vững tin chắc chắn có ngày sự suy nghĩ tìm tòi của tôi sẽ ra hoa, sẽ kết quả…
- Thế thì từ khi trở về nước tới nay, bác đã biên soạn được gì cụ thể gọi là đáng kể chưa?
- Thành thật mà nói thì ở trong nước, tôi chưa viết ra được gì là đáng kể cả. Bởi như các anh đã biết, tôi đã bị gạt ra bên lề sinh hoạt chính trị ngay từ đầu. Chỉ mới viết hai bài báo đề cập khái quát tới dân chủ thôi, mà đã bị chúng nó xúm vào đấu tố tưởng đã mất mạng. Thể nên mọi suy tư, trải nghiệm là phải giấu kỹ trong đầu. Mà những gì tôi làm trong đầu, đều toàn là những nghiên cứu dựa trên thực tại thật là sống động, thật là độc lập về mặt triết học thực nghiệm, để hướng về tương lai. Đây là một công trình nghiên cứu rất cơ bản, rất thực tế. Nếu nói về ảnh hưởng thì có lẽ tôi cũng đã đóng góp được phần nào khi gián tiếp chỉ ra cho chung quanh thấy một số sai trái rất nghiêm trọng, cho họ hiểu là nếu, không chịu thay đổi hẳn tư duy, thấy đổi toàn diện chính sách thì cả nước sẽ không thoát ra được tình trạng bế tắc tư tưởng, hỗn loạn xã hội, phải sống túng thiếu, đói khổ triền miên. Nhất là từ sau ngày 30 tháng tư 1975. Cái mốc thời gian ấy đã dánh dấu lúc toàn khối xã hội chủ nghĩa, vốn đã rệu rã, đã khánh kiệt, nay đang bắt đầu bước dần tới nguy cơ tan rã. Bởi sau cái ngày 30 tháng tư, 1975 đó, Liên Xô và cả khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa không còn cái chiêu bài chính đáng để bắt dân chúng phải tiếp tục hi sinh, thắt lưng buộc bụng nhằm chi viện cho các công cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Mỹ nữa. Dân chúng bắt đầu bạo dạn và cương quyết xuống đường đòi tự do và bánh mì! Tình trạng khủng hoảng tư tưởng trầm trọng này bắt đầu đưa tới hỗn loạn ở Đông Âu, Hồng quân đãi phải trực tiếp nhảy vào can thiệp băng vũ lực, dẫn tới lúc bức tường Bá Linh sụp đổ, đưa tới kết thúc các cuộc cách mạng theo tư tưởng Mác-Lê… Chính những sự hỗn loạn ấy đã làm cho khối Liên Xô suy sụp ngay từ bên trong. Không phải ngẫu nhiên mà Đặng Tiểu Bình đã dứt khoát ngả sang phía tư bản. Ngay cả ở nước ta, nếu không sớm cố vận động, cố chấp nhận mọi điều kiện điều đình, để Mỹ nổ bỏ cấm vận, thì ta cũng sẽ rơi vào hỗn loạn và cùng lắm thì cũng sẽ vẫn cố định trong tình trạng trì trệ, đói khổ, bế tắc xã hội như ở bắc Triều Tiên hay Cuba thôi. Tỏm lại là nếu hồi đó tôi không tự ý về quê hương để hiểu rõ thực tại, không được nhìn thẳng vào sự thật, không sống trong sự thật của cuộc cách mạng đầy mâu thuẫn, đầy sai lầm ấy, thì làm sao nhận hiểu ra những sai lầm cơ bản của chính tôi. Và cả khi phải ra đi như lần này. Nếu không chấp nhận ra đi, thì tôi không thể đạt tới trình độ tu duy để đạt tới thành quả về mặt triết học như hiện nay. Những trải nghiệm xuyên qua kiểm nghiệm phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ kháng chiến và xây dựng cách mạng ở quê nhà đã tạo cơ hội cho tôi dầu dần thấy rõ sai trái bắt đầu từ học thuyết, từ ý thức. Sự bế tắc của cách mạng và của chính tôi là do ý thức giải phóng con người bằng đấu tranh giai cấp để xoá bỏ giai cấp. Đấy là một mô hình cách mạng không tưởng, không nền tảng duy vật sử quan!… Không tưởng vì cả tin vào sự đam mê cuồng tín, cả tin vào khả năng giải phóng bằng bạo lực của hận thù. Cho tới khi bị coi như là một kẻ phản động, bị nghi là “kẻ do địch cài vào hàng ngũ cách mạng” thì từ đó tôi mới nhận ra sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính. Sự chuyên chính ấy đã đóng kín mọi chân trời, đã không ngừng đẩy những con người chân thật, không chấp nhận dối trá, sang phía thù địch. Và từ đó tôi nhận ra đấy là những sai lầm tai hại, bế tắc của chính tôi. Nhờ được chứng kiến, được sống sát cánh với những con người đau khổ không có ai, không có gì bảo vệ, như đã thấy trong cuồng phong cải cách ruộng đất… Từ đó, tôi bắt đầu nhận thức rằng giá trị một ý thức hệ không thể so sánh với mạng sông của con người, nhất là đối với con người bị oan ức, con người bị trù dập, bị bóc lột, hoàn toàn bất lực, vô phương tự vệ. Một ý thức hệ, dù thế nào thì nó chỉ có giá trị của một dụng cụ. Một dụng cụ làm sao nó có thể so sánh với giá trị của một mạng sống? Nhất là một mạng sống trong oan ức, đau khổ? Vì vậy mà tôi thấy là không thể hi sinh con người cho bất cứ một thứ ý thức hệ nào. Trước nỗi đau của con người tuyệt vọng vì ý thức hệ, thì chính cái ý thức hệ ấy cũng cần phải được rà xét lại, để cải đổi hoặc để đào thải. Nhờ sự tỉnh thức như vậy, mà bây giờ tôi đã tìm thấy được con đường đưa tới gần chân lý. Chính những sai lầm cơ bản về tư duy đã đưa tới những hành động gây đau khổ cho con người, đã dẫn tới sợ sụp đổ của ý thức hệ, rồi là của khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu… Nói rõ ra thì dài dòng lắm! Cảm ơn hai anh đã lo lắng cho hoàn cảnh của tôi. Tôi luôn luôn thấy mình, trong mọi cơn gian nan, hiểm nguy, thì đều đã gặp những người tốt. Tôi đã tìm ra chân lý, tôi đã và đang vượt qua mọi thử thách, nhờ có tình bạn. Vì vậy tôi luôn luôn có tâm thức lạc quan tin tưởng trước những gian nan mà tôi đã và đang gặp. Thôi chúng ta hẹn nhau sẽ gặp lại.
Nghe nhà triết học phân tích những sai lầm như một lời thủ tội, chúng tôi hết sức kinh ngạc. Bởi khi nhà triết học bị coi là già nua, lẩm cẩm này phải nói ra điều đó thì nó chứng tỏ đấy là một tâm trí còn rất minh mẫn, và đang cố trỗi dậy, vì nó đã hiểu thấu sự bi thảm của quê hương và của chính mình. Đấy là một chuyển biến trầm trọng. Trong những lần tâm sự như thế, bác Thảo thường (nhắc tới cuốn sách mà bác “đang biên soạn” như một ám ảnh thường xuyên. Chỉ tiếc rằng rồi sau cuốn sách đó đã không may mắn được xuất hiện dưới ánh sáng mặt trời! Nhìn bác Thảo chậm chạp, lom khom cúi đầu bước vào toà nhà cổ kính ở số 2, đường Le Verrier, chúng tôi nhận ra đây là một con người dày dạn kinh nghiệm cách mạng, nên cảm thấy thật là thương bác vô hạn. Chính sự chân thành và can đảm của những lời tâm sự ấy đã cuốn hút chúng tôi.
Lúc đó Canh nói nhỏ với tôi:
- Tại sao bác Thảo lại nói rằng “buộc phải ra đi”? Việc bác trở lại Paris trong lúc chẳng có ai chờ đợi này là một sự ép buộc của quyên lực hay sao? Mà theo như những gì bác vừa nói, thì bác đang ở trong giai đoạn đau đớn trong nội tâm, khó khăn trong đời sống vật chất. Có lẽ vì vậy mà hôm nay bác đả tỏ ra hết sức cởi mở, để chúng ta hiểu rõ những nỗi đau lòng ấy mà tìm cách giúp đỡ bác. Chẳng lẽ cả một cộng đồng Việt kiều ở đây thản nhiên đứng nhìn bác bị đói khổ như vậy sao?
Tôi có cảm tưởng là bác Thảo đang cố nán lại Paris để mưu làm một việc rất quan trọng, có thể việc ấy là chính cuốn sách mà bác đang hoàn thành, để mang ra ánh sáng những gì không thể công bố ở trong nước, chứ viết sách như bình thường thì ở đâu mà chẳng làm được, ở đâu mà chẳng in ra được, cần gì phải vất vả qua đây.
Mấy ngày sau, tôi điện thoại cho mấy người bạn nổi tiếng hay hoạt động xã hội, thường sẵn sàng giúp đỡ đồng hương. Lúc đó tồi mới khám phá ra là chuyện Trần Đức Thảo đang gặp khó khăn và căng thẳng với sứ quán, thì nhiều người ở vùng Paris đã biết từ lâu rồi. Họ còn kể rõ rằng phía sứ quán đang muốn rũ trách nhiệm khi thấy bác Thảo đã cạn tiền. Sứ quán đang thu xếp để ép buộc bác phải trở về xứ, trong khi chính bắc tiết lộ là chính quyền ở nhà đã muốn tống đuổi bác đi! Nhưng bác cho sứ quán biết là chưa về được vì chưa hoàn thành được mục tiêu là xuất bản một cuốn sách quan trọng khả dĩ giâi mã cuộc cách mạng. Vì thế mà đang có căng thẳng giữa sứ quán và bác, và viên bí thư sứ quán tên là Hào, người quản lý nhà khách ấy đã nhiều lần to tiếng, gây gổ, muốn đuổi bác ra khỏi nhà.
Trong một quán café tĩnh lặng, ấm cúng, bác Thảo đã miệt mài kể lể, như có cơ hội được cởi mở tấm lòng, để xả ra những gì đang đè nặng trong đầu. Bác nói mà mắt cứ chằm chằm nhìn chúng tôi, như muốn phân trần, muốn tìm một sự thông cảm, muốn chia sẻ với chúng tôi nỗi niềm tâm tư, hoàn cảnh buồn thảm của mình!
Nhìn nhà trí thức già nua, với nét mặt u buồn, trong thân phận khiêm tốn, đã làm chúng tôi vô cùng xúc động. Bác Thảo lúc ấy nổi bật như một biểu tượng, một hiện thân bi thảm của một đất nước, một dân tộc bất hạnh. Làm sao có thể làm ngơ trước những điều đau lòng đang được trải ra một cách tủi nhục như vậy. Một nhà tư tưởng, một thời danh tiếng, mà nay phải ngửa tay cầu cứu tới những kẻ bình dân như chúng tôi để mưu sinh!
Trước thảm cảnh đó, mấy anh em chúng tôi đã không do dự mà định kêu gọi âm thầm thành lập một tổ chức nhỏ, trong vòng thân mật, để cùng nhau giúp bác về vật chất và phương tiện để hoàn thành cuốn sách ấy. Anh em gọi tổ chức đó là “Nhóm thân hữu Trần Đức Thảo” (Amicale Trần Đức Thảo). Tất cả bạn bè khi hay biết câu chuyện đều hăng hái đi hô hào đóng góp cho sự trợ giúp này. Chính nhờ sự xuất hiện của tổ chức ấy mà phía sứ quán bớt sách nhiễu, bớt gây gổ, chèn ép bác. Và tôi cũng được biết
lúc đó anh Lê Tiến là một trong những Việt kiều tận tuỵ đứng ra trực tiếp lo cho bác Thảo.
Tôi đã vận động khá dễ dàng được vài người tham gia đóng góp. Mấy bạn tôi khi nghe tôi nói về hoàn cảnh khó khăn, của nhà triết học, thì chẳng những họ không do dự mà còn vui vẻ mở ví (bóp) ra ngay. Tôi đã trao cho anh Tiến khoản đóng góp thu được rất mau lẹ ấy. Nhưng đấy là lần trao tiền đầu tiên và cũng là lần cuối cùng. Vì sau đó thì vấn đề trợ giúp không còn cần đặt ra nữa!
Anh Tiến, một khuôn mặt quen biết của giới Việt kiểu, rất ưu ái bác Thảo, nên đã tạo điều kiện để lui tới dễ dàng nhà khách số 2 Le Verrier. Tại đây anh đã nhờ được một bà giúp việc có trách nhiệm quét dọn trong căn nhà ấy để ngầm chăm sóc bác Thảo. Tôi cũng đã có dịp gặp gỡ bà này vài lần. Đấy là bà Bích Hồng, một thiếu phụ từng có một dĩ vãng vất vả của một “con hát” thời xa xưa..
Bà Bích Hổng hồi trẻ là một ca nương, có lẽ cũng có nhan sắc. Bà biết kéo nhị và biết hát các thứ ca dân gian của miền bắc, như quan họ, chầu văn, hát chèo, hát xẩm… Có dịp họp văn nghệ thân mật ở Paris, bà Bích Hồng cũng thích trưng diện bộ áo diêm dúa, ngoạn mục đầy màu sắc của một ca nữ trên sân khấu, để kéo nhị tự đệm cho mình hát. Bà có tình tình vui vẻ, hay giúp đỡ mọi người, rất tốt bụng. Có lúc bà tâm sự: vì lấy chồng rồi theo chồng về Pháp. Nhưng ít lâu sau, thì ông chồng qua đời. May là bà được một người giới thiệu, nên bà tìm được việc làm quét dọn ở đây, để sống cho qua ngày.
Công việc ấy bà làm để đổi lấy miếng cơm và chỗ ở cho yên thân thôi, chứ không có lương.
Từ khi tới ở trong nhà khách ấy, bác Thảo đã tìm thấy nơi bà Bích Hồng một nguồn tin tức về sinh hoạt và tính tỉnh từng người đáng sống tại đấy. Đó là một mảng xã hội Việt Nam đương đại, đã được tách ra với nguyên vẹn các sắc thái phức tạp, để mang sang đặt vào trong căn nhà này. Vì ở đã có đủ các thói xấu hạch sách, “cửa quyền” của cách mạng. Kẻ hơi có hơi hướng quyền hành, thì ỷ mình là “người của sứ quán”, kẻ thì quen thói chui luồn qua quy định, luật lệ, kẻ thì ganh ghét nhau, tố cáo nhau và ưa bàn, ưa nghe chuyện miệng tiếng thị phi. Ngoài mặt thì ai cũng nặng tình nghĩa đồng bào cùng máu mù đang sống nơi quê người, nhưng hành xử thì tàn nhẫn, kinh chống nhau như kẻ chợ với người dưng. Bà Bích Hồng khuyên bác Thảo: “Sống ở đây là bác phải cảnh giác: cái gì cũng có thể bị báo cáo lên sứ quán!” Khi nghe thấy lời khuyên ấy, bác đã phải buột miệng than: “Ở đây mà cũng có vấn đề sợ bị báo cáo sao?”
Chính bà Bích Hồng này, trong nhiều trường hợp khẩn cấp, đã trở thành người lẻn ra ngoài gọi điện thoại báo cho chúng tôi biết, khi bác Thảo bị đau ốm, cần sự giúp đỡ cấp bách của chúng tôi.
Cho tới khi bị sứ quán gây áp lực tới mức không cỏn lối nào thoát, thì ngoài mặt bác Thảo đành tỏ vẻ chấp nhận bỏ dở dự tính công bố cuốn sách ở Paris, để được tạm yên… Đồng thời bác gấp rút đi tìm sự trợ giúp ở bên ngoài, nơi những bạn bè mới quen biết qua mấy buổi diễn thuyết tại Nhà Việt Nam, cố tìm ra một lối thoát. Do vậy mà bác đã có thái độ thành thật cởi mở với chúng tôi. Bác gây ngạc nhiên khi tiết lộ rằng vụ Nhân Văn - Giai Phẩm là đo chính “lãnh đạo tối cao” đã ra lệnh phải nhắm mũi dùi vào bác mà “đánh”. Bởi đối tượng phải triết hạ chính là Trần Đức Thảo! Từ đó trở về sau, cuộc đời Trần Đức Thảo đã trở thành sự đối đầu âm thầm, bất đắc đĩ, vô cùng phức tạp với “lãnh tụ”, với “đảng”. Phức tạp vì thường xuyên phải sống như đi dây giữa hai thế lực: phe này muốn dứt khoát loại bộ bác, phe kia là những tay ít cuồng tín, họ e ngại làm như thế thì sẽ có phản ứng ồn ào, gây tai tiếng trong dư luận quốc tế, chi bằng cứ ngầm quàn thúc bác ở gần trung ương, cứ giam lòng bác ở Hà Nội, nhưng sẽ không để cho có một hoạt động nào có ảnh hưởng về mặt chính trị. Vì vậy mà đã có nhiều lần, bác Thảo được mời tham dự những buổi tiếp tân có khách nước ngoài, được tham gia phái đoàn đi tham quan Trung Quốc, Liên Xô, Cộng Hoà Dân Chủ Đức… Trong những chuyến đi này, người ta đã tạo cơ hội để bỏ bác ở lại, sau khi phái đoàn về nước. Nhưng bác đã nhất định không chịu ở lại nước ngoài. Do vậy, bác Thảo trở thành một đối tượng bị chính quyền vừa canh chừng, vừa muốn đuổi đi, vừa bị sử dụng như một món đồ trang trí cho cách mạng và chế độ. Nhưng trong thực tế thì bác Thảo vẫn không ngừng tìm cơ hội để nêu lên nhưng suy nghĩ của mình trước các hành động quá trớn của “đảng”, tức là của lãnh đạo.
Và bác nhấn mạnh:
- Thật sự là luôn luôn có mâu thuẫn, có xung đột ngầm, đôi lúc cũng khá gay go, giữa “lãnh đạo”, tức là giữa “ông cụ” và tôi. Chỉ vài cán bộ cấp cao đặc trách cộng tác quản lý tôi là biết rõ có tình trạng đối đầu này. Họ cai quản tôi với hai mục tiêu do “bên trên” đề ra: phải canh chừng không cho tôi gây ảnh hưởng với những người chung quanh, đồng thời thường xuyên tìm hiểu, theo dõỉ chặt chẽ những chuyển biến trong đầu óc tôi về mọi vấn đề. Bởi tôi chăm chỉ dùng thời giờ để quan sát, suy nghĩ và ghi chép những trải nghiệm của tôi. Tuy nhiên tôi không dám đưa ra công khai tất cả việc tôi làm. Thực tế là lãnh đạo, tuy đúng xa, tuy là gián tiếp, nhưng vẫn luôn luôn chú ý tới từng bước chuyển biến tư tưởng của tôi. Có lúc tính mạng tôi bị đe doạ nặng nề do sự bướng bỉnh của tôi, nhưng lãnh đạo đã kịp thời phái cán bộ cấp trung ương tới cứu tôi. Thủng thẳng tôi sẽ kể cho các anh nghe những va chạm của tôi với chính sách, với các hành động của cách mạng. Thực ra chỉ là với lãnh đạo. Mà các anh cũng nên biết rằng trong vấn đề đối xử với tồi, chính “ông cụ” cũng luôn luôn chịu sức ép của một thế lực lớn lao, nên “ông cụ” cũng rất e ngại tay chân tai mắt của thế lực ấy. Đấy là cả một guồng máy thống trị của ý thức hệ mà trọng tâm của nó nằm ở Bắc Kinh hay ở Mátxcơva!
Những lời lẽ chân thành, giảng giải li kỳ như thế đã làm cho sự hiếu kỳ của chúng tôi lại càng tăng. Sau này thì tôi hiểu rằng bác Thảo rất cao tay về mặt tâm lý: bác đã biết cách gây ảnh hưởng nơi chúng tôi. Bác cố ý, nhưng cứ úp mở, để chúng tôi hiểu rằng đối thủ tư tưởng của bác trong bao nhiêu năm sống như bị quản thúc tại gia ở quê nhà, chẳng phải ai xa lạ mà chính là “ông cụ”! Mà ông cụ thì cũng chẳng tự do sung sướng gì, vì trên đầu “ông cụ” cũng luôn luôn cô một bóng ma quái ác nó đè lên thân phận ông cụ.
Rồi bác Thảo nói dằn từng tiếng để lưu ý chúng tôi:
- Chính vì vậy mà cái mạng Trần Đức Thảo này lúc nào cũng sống như vừa có một thiên thần hộ mạng, vừa có một thanh kiếm độc ác treo lơ lửng ở trên đầu!
Rồi bác Thảo lại giải thích tiếp:
- Tôi biết chỉ cần một sơ hở nhỏ, hé lộ ra một tư tưởng bị đánh giá là “phản động”, là sẽ mất mạng như chơi. Bởi chung quanh tôi toàn là những kẻ cuồng tín, sẵn sàng ra tay khi có lệnh của một thế lực nào đó ở “bên trên. Một góp ý xây dựng của tôi rất dễ bị xuyên tạc dễ bị hiểu khác đi như một lời công kích. Chỉ vì chính “ông cụ” đã đánh giá tôi một cách tiêu cực, và đã lưu ý các thuộc cấp, rằng tôi là một “kẻ có vấn đề”! Cách đánh giá mơ hồ mà độc địa ấy trong thực tế là một bản án vô phương kháng cáo. Tôi luôn luôn tự nhủ: phải cố làm sao cho những kẻ cuồng tín này hiểu ra được những hành động sai trái, ác độc, tai hại của họ đối với tôi. Vì chẳng những tai hại cho tôi, mà còn tai hại cho “đảng”, tai hại cho cả tương lai của dân tộc. Vấn đề trước mắt là phải phân tích, phải chứng minh sao cho sáng tỏ sự thật rằng một hành động, một chính sách, một phương pháp độc ác như thế không thể nào sinh ra được kết quả tốt. Muốn vậy thì phải xây dựng cho bằng được một lý luận có căn bản triết học thật trong sáng, thật vững về mặt tư duy, khả dĩ hoá giải được sự cuồng tín. Một hoài bão như thế đã tạo cho tôi một niềm tin. Niềm tin ấy trao cho tôi một nhiệm vụ. Phải nêu ra một lý luận có giả trị tư tưởng vững chắc để sớm muộn gì cũng sẽ đạt tới mục đích là chỉ ra những sai lầm… Tôi tin rằng nếu không đạt được mục tiêu ấy lúc còn sống, thì rồi cũng sẽ đạt được sau khi chết. Bởi sức mạnh của sự thật không bao giờ suy giảm, càng bị che giấu thì nó càng trỗi đậy. Nghĩ như vậy, tin như vậy, nên tôi đã giữ được tinh thần chịu đựng mọi gian nan, khổ ải. Tôi vững tin sẽ có ngày tôi đi tới đích. Ít ra thì tư duy của tôi cũng sẽ dẫn đường cho người sau tôi đi tới đích, tới chân lý. Các anh cũng nên tin như vậy đi, tôi không lừa dối các anh đâu, Bởi lẽ sống của Trần Đức Thảo này không phải là để lường gạt một ai, mà chỉ là để tìm cho ra con đường đưa mọi người tới chân lý, để cùng nhau hiểu rõ mọi vấn đề, để cùng nhau thấy rõ thảm kịch của dân tộc ta, mà cũng là cả của nhân loại.
Quả thật là chúng tôi đã bị cuốn hút bởi những lời tâm sự chân thật, đầy tự tin như thế. Nó đã gây chấn động mạnh nơi chúng tôi. Bởi đấy là những phân tích đã hướng dẫn, đã soi sáng chúng tôi, đã tạo ra khát vọng tìm hiểu nguồn gốc của mọi vấn đề. Thế nên, càng nghe bác kể, đầu óc càng như được đánh thức dậy, càng học hỏi thêm được nhiều điều. Trước đó, qua mấy buổi diễn thuyết, chúng tôi thấy bác Thảo có cái vẻ một giáo sư triết học đã già nua hơi lẩm cẩm, đã lỗi thời. Hơn nữa, từ cái “lý thuyết của hiện tại sống động” do bác truyền đạt, tới cái “lô-gích hình thức và biện chứng”, nghe vậy thì biết vậy, nhưng vẫn thấy nó quá trừu tượng, quá triết học, quá sách vở, nghĩa là khá xa với cuộc sống vất vả của chúng tôi ở Paris, nơi mà “các vấn đề của tư tưởng”, đối với kẻ phàm phu, ngoại đạo như chúng tôi, chỉ là những món ăn khó tiêu ít ai ưa chuộng, ít ai muốn tìm hiểu: “tìm hiểu làm gì cho nó mệt óc vô ích”!
Có lúc tôi không dấu thái độ hoài nghi của tôi với vấn đề triết học của bác nên tôi hỏi:
- Bác có thể vắn tắt giải thích cho chúng tôi hiểu tại sao lại phải cần tới phương pháp tư duy theo quy luật “phủ định của phủ định” như vậy không?
Bác Thảo trầm ngâm im lặng một lúc rồi đáp:
- Các anh không cần thấm nhuần các quy luật tư duy triết học ấy, nhưng ít ra thì các anh cũng nên hiểu rằng quy luật tư duy ấy là phương pháp gạn lọc những kinh nghiệm, những hành động trong sự vận động của cách mạng trong thời gian. Việc vừa làm xong, vừa thực hiện được thì không nên coi nó như đã vĩnh viễn hoàn hảo. Phải coi việc đó, cách làm đó là còn có thể cải thiện, bằng cách chỉ giữ lại những gì là tốt, và loại bỏ ngay những gì bị coi là xấu. Nhờ sự cảì thiện thường xuyên ấy, tức là từng bước phủ định phần xấu mà ta vừa làm, để ta có một cái gì mới tốt hơn cái đã đạt được. Như vậy là ta luôn luôn phải phủ định một phần những gì đã làm để đạt tới những cái mới ngày càng tốt hơn, ngày càng sáng sủa, ít xấu hơn. Quy luật phủ định của phủ định đòi hỏi sự vận hành cách mạng không được ngưng lại ở một chính sách, hoặc ở một tổ chức, một cơ chế vĩnh viễn nào cả. Không có cái gì cứ đứng yên một chỗ, bất biến, cố định, là vĩnh viễn đúng, vĩnh viễn tốt. Tất cả phải diễn biến theo quy luật phủ định của phủ định trong thời gian. Điều này thật là quan trọng đối với từng cá nhân, nhưng nó càng quan trọng đối với một chính sách của “đảng”, của nhà nước… Tôi nói khái quát như vậy, không biết các anh có chấp nhận được không?
Những mẩu chuyện tâm tình cứ xen kẽ với những suy tư, lý giải như thế, đã dần dần tác
động vào đầu óc lười suy nghĩ của chúng tôi. Vì nó gợi ý, nó gây cảm xúc, vì cái sức truyền đạt ưu tư rất mãnh liệt của một khối não đang trong thể sôi sục đến độ sắp nổ tung ra, làm cho người nghe phải từ bỏ thái độ vô cảm, thờ ơ, xa lạ, dửng dưng, để cảm nhận một sự thật nhức nhối, vừa khai sáng, vừa thúc giục, làm nảy sinh một ý chí liên đới với thời cuộc, thời sự… gây thành một ý thức trách nhiệm cao đòi hỏi phải có phản ứng trước thời cuộc, phải hành động… Những gian truân đã nếm trải của bác Thảo như thế đã khuấy động tâm tư của những kẻ chán nản thời cuộc, đã muốn bỏ cuộc để mưu tìm cuộc sống tha hương yên ổn như chúng tôi.
Những nhận định thời cuộc, những tâm sự luôn luôn căng thẳng như thế, đã làm cho mối liên hệ giữa bác Thảo với chúng tôi trở thành gắn bó hơn, như những đứa con trong một gia đình đang hết sức lo âu trước một nguy cơ đang tới, vì mái nhà sắp sập đổ. Từ đó, chúng tôi thấy như có bổn phận phải chăm sóc con người trí thức giầu từng trải, đang trong con bão lốc suy tư này… Bởi bác Thảo đang tỏ ra là một tâm trí rất ân hận, u uất về cái dĩ vãng câm nín của mình: Bởi tuổi tác đã cao, thân xác tiều tuỵ, hoàn cảnh bế tắc, túng quẫn, nên nay như vội vã, hấp tấp muốn xả ra tất cả những gì đã hung nấu, tích luỹ trong cái thời câm nỉn ấy. Những lần gặp gỡ để tâm sự dần dần tăng, mức độ căng thẳng của câu chuyện cũng tăng: mới đầu mươi ngày một lần, sau thành hai lần một tuần. Bởi càng gặp bác càng muốn nghe tiếp những những trải nghiệm nghiệt ngã của bác. Gặp bác Thảo là bị bác dẫn đi lùi vào dĩ vãng phức tạp, li kỳ khó hiểu, qua những con đường chằng chịt của suy tư triết học. Sa vào những ưu tư ấy y như bị cuốn hút vào một phim trinh thám, mà nhân vật chính đang mắc kẹt trong một tình thế nguy hiểm, đang cố tìm lối vượt thoát… mà khán giả hồi hộp thấy rõ nguy nan, không chắc gì sẽ tìm được lối ra.
Chúng tôi thấy bác Thảo lúc ấy rất thảm thương, đang trong tình cảnh một cái xác tả tơi của một con tàu đã bị bầm đập bởi bao giông bão, nay bị sóng gió thời gian đánh trôi giạt vào đất liền và đang bị mắc cạn tại cái đất… Paris này, mà thuyền trưởng đang như bất lực không còn có thể lái đưa con tàu trở ra khơi! Không còn dấu vết gì của cái thời đã từng tranh luận tay ngang với Jean Paul Sartre!
Sau bốn chục năm vắng mặt ở Paris, nay bác Thảo trở lại đây như một cái bóng mờ của một nhà triết học. Bởi khi gặp chúng tôi lần đầu, bác tỏ ra dè dặt nghi ngại, nói năng ý tứ, khá lúng túng, cứ như muốn giấu giếm mình, chứ không thảnh thơi, thoải mái, tự nhiên như mọi người. Nhất là việc bác đã nóng nẩy gây căng thẳng bất ngờ qua mấy lần gặp gỡ đầu tiên với một số bạn bè cũ, và với một tờ tập san chuyên về triết học, chuyên luận bàn về cầc vấn đề cách mạng… Đến nỗi dư luận đã có nhận xét rằng bác đang mang nặng một tâm thần hoảng loạn của kẻ đang bị ám ảnh bởi một nguy cơ đe đoạ tính mạng, đang bị truy lùng bởi một thế lực hung bạo…
Nhưng rồi qua những buổi tâm sự, bác dần dần bộc lộ cả một ý chí muốn vùng dậy để hành động, với một ký ức trải nghiệm với những lý luận, lý giải tới tận cùng của suy tư, nó tích tụ từ một thời câm nín kéo dài suốt mấy chục năm, sống như bị lưu đày ở chính quê hương mình.
Toàn là những sự thật sôi động được khui ra, càng lúc càng kinh khủng! Chúng tôi không thể không chú ý tới những gì thuộc về cuộc đời và sự nghiệp của cụ già đau khổ này, nhất là vào lúc người hiệp sĩ đang trong tư thể vươn vai đứng dậy để quyết đánh một trận cuối cùng ở… trước mắt chúng tôi…
Ngay từ lúc đó, chúng tôi bị cuốn hút vào giòng thời sự, vào những sôi động của chế độ chính trị, của cung cách cai quản xã hội ở quê hương. Chúng tôi chú ý nhiều hơn tới thời sự, tới những tương quan chính trị thế giới với vận mệnh của những dân tộc nhược tiểu, rồi là vào cả những vấn đề của triết học và… con người! Rồi những điều đó bắt buộc chúng tôi phải suy nghĩ nhiều hơn về thân phận của của chính chúng tôi.
Trước những tiết lộ cay đắng của bác Thảo, tôi đã hỏi thẳng:
- Bị ngược đãi như thế thì bác có oán thù họ không?
Bác phản ứng rất mạnh, trợn mắt, lắc tay lia lịa:
- Ấy chết! Đừng bao giờ nghĩ rằng tôi sang đây là để tìm cách trả oán, trả thù, hoặc để reo rắc thêm chia rẽ. Xưa kia thì quả thật có lúc tôi đã mù quáng, vì bị hận thù chi phối, có lúc đã viết, đã dùng ngôn từ của thù hận, để xỉ vả kẻ này, đả kích bọn kia. Lúc ấy tôi chỉ là một người cộng sản có đầu óc đấu tranh cuồng nhiệt đến mức cuồng tín, do hận thù chủ động. Nhưng bây giờ khác rồi, giả rồi, đã có kinh nghiệm trong thực tại cách mạng, nên đã thức tỉnh. Tôi giờ đây là một người vừa bừng tỉnh sau cơn ác mộng dài trong xã hội chủ nghĩa, nghĩa là tôi đã giác ngộ. Bởi sau khỉ đã sống chìm đắm trong hận thù, thì rồi tôi mới nhận ra thù hận không phải là một thái độ tỉnh táo để tìm hiểu, để giải quyết vấn đề. Thù hận chỉ làm cho tình hình thêm phúc tạp, làm cho chính mình lâm vào bế tắc. Vì hận thù không thể giải quyết bất cứ vấn đề gì. Nó đã chẳng giải phóng được ai. Nó chỉ gây đau khổ cho mọi người và chính mình.
- Tại sao bác không như những người cộng sản vẫn tin tưởng thù hận là động cơ cực mạnh để âm hành động cách mạng tới thành công?
- Tôi đã nghiệm ra rằng cuối cùng những hành động do thù hận không thể nào đưa tới thành công. Tại vì hận thù là tố chất tâm lý bệnh hoạn rất truyền nhiễm, rất độc hại. Nó đưa tới tình trạng mù quáng trong nhận định, nó dẹp bỏ lương tri, nó mở đường hành động cho mọi thủ đoạn gian xảo và tội ác, nó tạo ra nguyên tắc “cứu cánh biện minh cho phương tiện”… Nguồn gốc của thù hận trong xã hội ta ngày nay là do tình trạng đất nước ta đã một thời bị chìm đắm trong bầu không khí cuồng tín, vì lãnh thổ đã bị chia cắt thành hai chế độ với hai lá cờ, với lời thề quyết tiêu diệt nhau để thống nhất lạì lãnh thổ…
Sự chia cắt tàn nhẫn này là một thứ tập tục áp đặt có tính quốc tế, đã có từ lâu trong lịch sử. Chỉ tính từ sau đệ nhị thế chiến, thì đã có sự chia cắt vô cùng tàn nhẫn các vùng lãnh thổ, như ở Cận Đông, nó đã gây ra thảm hoạ Israel-Palestine, như ở vùng Balkan, ở các vùng biên giới giữa Balan và Đức, giữa Balan và Nga, rồi là sự phân chia lãnh thổ của Đông và Tây Đức, sự phân chia đã cấu tạo rất gượng ép các phần lãnh thổ của nước Nam Tư, rồi sự cắt lãnh thổ thành hai ở Triều Tiên, rồi tới quyết định chia cắt lãnh thổ nước ta cũng vậy… Tất cả những chia cắt trắng trợn ấy, đều có hậu quả lâu dài, cả trăm năm sau nó vẫn còn tác hại, dù nói chỉ là tạm thời! Đấy là những dàn xếp tàn nhẫn, do chủ mưu, mặc cả, chia chác quyền lợi, ảnh hưởng giữa các nước lớn với nhau, để áp đặt, bất chấp nguyện vọng của các dân tộc trong các vùng, tại các nước bị chia cắt. Các nước lớn đã chơi trò dựng lên những ý thức, những lý tưởng, những tâm lý phân biệt hệ chính trị, phân biệt biên giới địa lý, đi duy trì sự chia rẽ trong đầu thằng dân nhược tiểu một cách lâu dài, để phe này kiên trì cầm súng bắn giết phe kia, để nuôi dưỡng chiến tranh cục bộ. Bức tường tâm lý có ảnh hưởng sâu rộng và mạnh mẽ nhất chính là bức tường ý thức hệ. Bức tường này đã chia hai thế giới: một bên là ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên tắc mác-xít đấu tranh giai cấp làm động lực, bên kia là ý thức tư sản, tư bản, lấy lý tưởng tự do dân chủ làm động lực. Tất cả các lãnh thổ bị chia cắt, các dân tộc bị chia rẽ đều do các nước lớn vũ trang, bằng cả tinh thần lẫn vật chất, để trở thành những ngòi nổ của các cuộc chiến tranh cục bộ, thường là rất đẫm máu. Thế mà lãnh đạo mỗi phe, của mỗi phần lãnh thổ bị chia cắt ấy, cử khoe tài, khoe trí, cam kết sẽ “đưa dân tộc, đất nước tới chiến thẳng!” Đau đớn và mỉa mai nhất là trong lúc các nước nhỏ diễn trò anh em bắn giết nhau, thì lãnh đạo các nước lớn vui vẻ thăm viếng nhau, mở yến tiệc khoản đãi nhau, để tìm cách thông cảm nhau, tránh trực tiếp đụng độ nhau! Đồng thời họ tiếp tục tuôn vũ khí vào các nước nhỏ để nuôi chiến tranh. Là một nhà triết học như tôi, thì phải tìm hiểu để biết nhìn sâu và xa hơn qua những cuộc chiến tranh cục bộ, huynh đệ như thế. Vì sau khi đã chiến thăng, thì còn lại biết bao đau thương mà người dân, ở cả hai bên chiến tuyến, phải gánh chịu. Do đó tôi phải bỏ công nghiên cứu, phân tích… để giải mã những độc hại của chính sách chia cắt, chia rẽ mà người ta đã chụp lên đầu dân tộc. Tôi muốn phổ biến sự hiểu thấu những độc hại vô cùng của thứ chiến tranh cục bộ. Tôi muốn chỉ ra tính nghiêm trọng của những quyết định đã đưa tới chiến tranh, hoặc là đã mở lại chiến tranh. Những quyết định ấy đã tạo ra hoàn cảnh bắt người dân phải trở thành những nạn nhân của chia cắt, chia rẽ, phải cầm súng bắn giết nhau… Chúng ta phải thương cảm những người đã phải cầm súng, ở cả hai phía, vì họ chỉ là những kẻ thừa hành.
Phải vì tinh thần dân tộc mà kính trọng họ, hiểu họ, dù ở bên này hay bên kia chiến tuyến, tất cả họ đều đã cầm súng chiến đấu với một lý tưởng, với một chính nghĩa ở trong đầu, để hăng hái xung phong “giết thù” mà kẻ thù ấy chính là anh em một nhà!
- Chính vì trong thực tế đất nước bị chia cắt lãnh thổ, dù chỉ là tạm thời, nhưng nó đã tạo thành hai chính quyền, hai chủ quyền, hai lý tưởng, hai lá cờ… Để rồi chung ta hăng say cầm súng giết nhau như giết “kẻ thù”! Chúng ta đã làm điều phi lý ấy với lờ “thề phanh thây, uống máu quân thù”! Bên này kết tội bên kia là tay sai của đế quốc. Chúng ta đã quên hẳn yếu tố tự nhiên của lịch sử là cùng một gốc tổ tiên, dân tộc, cùng một tiếng nói, cùng một truyền thống văn hoá… Trong khi trước mắt ta, là những kẻ khác ngôn ngữ, khác lãnh thổ, khác quyền lợi dân tộc đối với ta, thì họ đã tạo ra sự chia cắt lãnh thổ ta, chia rẽ dân tộc ta, lợi dụng cơ hội để can thiệp vào nội bộ chủ quyền ta, có khi là để gậm nhấm lãnh thổ của ta mà ta không nhận ra đấy mới thật là kẻ… thù!
Bác Thảo lắc đầu nhấn mạnh, như cố phân trần:
- Nay chúng ta phải sáng suốt mà phân tích, mà suy nghĩ về hoàn cảnh và các yếu tố chia cắt; chia rẽ này, để thấy rõ chúng ta chỉ là những nạn nhân, đau đớn của những kẻ có trách nhiệm làm lịch sử. Có thể nói họ đã làm hỏng lịch sử. Họ đây chính là lãnh đạo. Xét riêng về cái ý thức hệ xã hội chủ nghĩa, do Lenin tuỳ tiện khai triển tư tưởng Marx, chẳng qua đó cũng chỉ là phương cách để duy trì, để tham lam nắm lại toàn bộ di sản đế quốc do thời Sa hoàng để lại, để lại giam hãm các dân tộc chư hầu của thời Sa hoàng vào trong một gông cùm kiểu mới, với cái tên đẹp hơn: “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em”. Bây giờ thì mọi người đều thấy cái khối Liên Xô ấy, thực chất là một đế quốc đỏ, nó kìm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó. Chính Liên Xô cũng đã từng đụng độ với một đế quốc đỏ khác là Trung Quốc, chỉ vì quyền lợi quốc gia hẹp hòi, để bảnh trướng đế quốc! Và Bắc Kinh cũng đối xử với Tây Tặng, với Triều Tiên, với cả ta, theo tâm thức bành trưởng đế quốc như thế, cũng dưới chiêu bài “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em”, giữa hai “láng giềng hữu hảo, môi hở răng lạnh”! Thực tế là đã hơn một lần, Liên Xô và Trung Quốc đụng độ nhau bằng quân sự ở các vùng biên giới của họ. Gần đây thôi, Trung Quốc cũng đã từng nhiều đợt đánh chiếm, gậm nhấm lãnh thổ Việt Nam ta. Cái đó nó chứng minh “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” chỉ là thứ liên minh ma quái, quỷ quyệt, giả dối, một thứ bình phong che giấu rất vụng về những tham vọng bành trướng của đế quốc đỏ. Tôi còn nhớ rõ hồi đấu thập niên 60, nhân dịp được tham gia phái đoàn sang thăm Bắc Kinh, nên đã được nghe Mao chủ tịch cam kết “năm trăm triệu dân Hoa Nam sẽ là hậu phương lớn để giúp các đồng chí tới khi chiến thắng”. Mọi người mừng rỡ vỗ tay! Riêng tôi khi nghe lời cam kết ấy mà cảm thấy rợn tóc gảy! Bởi tôi không bao giờ quên chỉ vài tháng sau khi chiếm được quyền hành ở Bắc Kinh, Mao đã vội vã xua quân qua chiếm Tây Tạng! Chọn Mao làm đồng chí, làm đồng minh thì tôi lo lắm. Không biết rồi sau này, đồng chí, đồng minh này sẽ đưa nước ta đi về đâu... Mao đã thúc ta phải căm thù bọn đế quốc tư bản Âu-Mỹ, và giúp đỡ rộng rãi vũ khí để ta “đuổi Pháp, đánh Mỹ ra khỏi lục địa châu Á” để tiến tới mục tiêu của khối xã hội chủ nghĩa là phải đánh gục khối tư bản theo đúng chiến lược lấy nước nghèo bao vây nước tư bản, lấy nông thôn bao vây thành thị…
Chưa thấy ai nghĩ tới vấn đè nguy hiểm này. Tại sao họ phung phí vũ khí, công sức như thế mà không lo tới việc nâng dậy đời sống đói khổ của nhân dân ở trong nước họ, hoặc ở các nước nghèo? Họ nói cung cấp vũ khí như thế là làm nghĩa vụ quốc tế đối với các nước nghèo anh em. Thực chất đấy chỉ là sự tranh giành, mở rộng ảnh hưởng và quyền lợi của những đế quốc! Chẳng làm gì có tình, có nghĩa “anh em”, giữa nước lớn với nước nhỏ. Ta phải nhớ như vậy để suy nghĩ kỹ về thân phận nhược tiểu của dân tộc ta và đất nước ta, để tìm cách giải quyết sự thù hận giữa anh em chúng ta do mấy nước lớn tạo ra. Lãnh đạo thì muốn chăn dãt nhân dân như một đàn cừu đã đi tới chiến thắng. Đế quốc nói coi ta là một “đồng minh”, nhưng thực chất là muốn biến ta thành một chư hầu ngoan ngoãn. Có bao giờ một đàn cừu, một chư hầu mà được nể trọng và thương mến đầu. Không bao giờ! Chẳng nên cả tín vào những điều không hề có. Chỉ có những những tay chính trị ngây thơ mới tin vào những điều không hề có ấy…
Câu nói ấy thật là bất ngờ. Vì lúc mới gặp, chúng tôi chỉ quen nghe bác ca ngợi tinh đồng chí của khối xã hội chủ nghĩa anh em, ca ngợi chủ nghĩa mác-xít của giai cấp vô sản, ca ngợi nghĩa vụ giải phóng các dân tộc của hai anh cả đỏ Liên Xô và Trung Quốc!
Từ lúc này, trước mặt chúng tôi, nổi bật một Trần Đức Thảo với những luận chứng vững chắc, soi sáng, với ngôn từ sáng sủa, mới mẻ. Mà đấy lại là những tiết lộ thẳng thắn, động trời, không còn úp mở, khác hẳn với những thái độ lo sợ của một Trần Đức Thảo rụt rè khiêm tốn, nói năng mệt mỏi… mà chúng tôi đã thấy mấy lúc gặp mặt lầu đầu, lúc bác vừa mới trở lại Paris. Do vậy mà chúng tôi rất hiếu kỳ muốn biết rồi bác Thảo sẽ nói thêm những gì trong các buổi thuyết trình sau đó. Khi bác nói để chuẩn bị giới thiệu nội dung của một cuốn sách rất đặc biệt, thì chúng tôi lại càng nóng lòng chờ đợi sự ra mắt của cuốn sách ấy. Vì tác giả của nó đang chứng tỏ một tâm trạng phẫn nộ, vùng dậy, y như người đang bồn chồn mưu đồ một điều gì không phải là bình thường, như đang chuẩn bị cho một biến động lớn… Và lúc ấy, bác Thảo bỗng mất hẳn cái vẻ tầm thường, cái nếp thụ động của những trí thức chỉ biết có “bác và đảng”, lúc nào cũng tụng câu kinh “nhớ ơn bác và đảng”, y như mấy cán bộ đảng viên “giáo điều”, được cử đi ra hải ngoại để đề cao chiến thắng, để tuyên truyền vận động dư luận bên ngoài ủng hộ “đảng” và chế độ!
Nhưng nay thì con người ấy đang phải đi tìm chỗ nương thân, đang thành thật giãi bày tâm tình để cuốn hút người nghe, để gợi lòng thương cảm!
Theo như tự sự thì lúc còn rất trẻ, bác rất tự tin vì đã có chút danh vọng trên diễn đàn triết học ở Paris. Và không ngờ rằng, vì cái trình độ tri thức xuất sắc đã lãnh hội ở Pháp, vì tính tình ngay thẳng bộc trực của mình, mà ngay sau khi về nước, bác đã mặc nhiên bị lãnh đạo coi như là một đối thủ tiềm năng nguy hiểm. Và hai con người đó đã coi nhau là kẻ có đầu óc xuất chúng, cùng mang nặng một tham vọng đam mê thực hiện lý tưởng cách mạng của mình, nhưng là theo hai phương cách khác nhau.
Nghe kể tới đó, tôi gặng hỏi:
- Trước khi về nước, bác có dự tính việc làm gì cụ thể cho quê hương không?
Bác đáp ngay:
- Là một nhà triết học, khi quyết định về nước, tôi mang tham vọng ngông cuồng là được tận dụng trí tuệ của mình để tranh thủ được tin dùng như là một trong những lý thuyết gia của cách mạng, để hoàn thành sứ mệnh cao cả của cách mạng, là giải phóng con người. Vì tôi nghĩ ”ông cụ” cũng là một nhà lãnh đạo chính trị, nhưng có cao vọng tận dụng quyền lực tột đỉnh, bằng mọi phương tiện, bằng mọi giá, để thực hiện cho bằng được giấc mơ đánh đuổi đế quốc ra khỏi quê hương, để đánh gục tư bản chủ nghĩa, để cuối cùng là giải phóng người, nhất là giải phóng nhân dân lao động để cho họ được ưu tiên hưởng ấm no, tự do, hạnh phúc. Nhưng không ngờ, với thời gian, tôi dần dần nhận ra là lãnh đạo và mình, cả hai đều lao mình vào cùng một cuộc cách mạng, nhưng với hai quan niệm khác nhau, với hai tâm thức khác nhau, đến độ đối nghịch nhau, xung đột nhau… Vì cái nhìn của lãnh đạo chính trị đã ngưng lại, đã cố định trong giai đoạn cầm quyền. Còn cách nhìn của tôi là đi phải xa hơn, linh động hơn, nghĩa là phải từng bước tiến tới giai đoạn tối hậu của cách mạng là giải phóng con người.
- Nhưng cho tới nay, với chính sách đổi mới và mở cửa của “đảng”, thì bác nghĩ sao về sự đóng góp của bác và của lãnh đạo?
- Thẳng thắn mà xét trong thực tế trước mắt, thì nhà tư tưởng là tôi đã chẳng đóng góp được gì mấy cho cách mạng. Còn lãnh đạo thì đã để lại một sự nghiệp bế tắc như dở dang… Cuối cùng chỉ còn lại hư danh những chiến thắng phù phiếm, mà thực tế là một sự khánh kiệt và suy thoái về mọi mặt. Đến nỗi nay để cứu “đảng”, cứu nước, đành phải mở rộng cửa rước đế quốc tữ bản trở lại, để mời vốn tư bản tràn vào. Và thực sự là đất nước đang bị biến thành một thuộc địa kiểu mới của khối tư bản! Nghĩ mà đau, đã tốn biết bao nhiêu máu xương để dành độc lập, bảo vệ chủ quyền, mà này lại đi tới chỗ phải để cho tư bản nước ngoài tràn vào làm mưa, làm gió, để cho nó tự do tung hoành phát triển theo xu hướng bất chấp mọi hài hoà, bất chấp trật tự kỷ cương, bất chấp di sản văn hoá do tổ tiên để lại, để những bước quá trớn của nó phá tan môi trường sinh thái, biến đất nước thành một xã hội thịnh vượng giả tạo, một thiên nhiên què quặt, mất hẳn nền tảng hài hoà sinh thái. Càng phát triển theo cuồng vọng hiện đại giả tạo như thế này, thì sẽ càng ngày càng lún sâu vào bất công xã hội, vào tham nhũng thối nát, càng huỷ hoại môi trưởng. Vì lối phát triển này là chỉ chạy theo đồng đô-la Mỹ, không có luật pháp nghiêm minh, không còn một tinh thần đạo đức gì nữa. Càng nghĩ càng buồn! Đất nước ta đang bị cuốn vào cơn lốc phát triển điên cuồng, khập khiễng không gì cản lại được nữa. Cứ như con người đã lún sâu vào con đường nghiện ngập ma tuý, thứ ma tuý của mãnh lực đồng đô-la, mỗi lúc, mỗi tác hại trầm trọng hơn! Các anh tin tôi đi, mươi, mười lăm thế hệ nữa, chưa chắc đã xoả được cái nếp sống gian xảo, sống dối trá, sống cuồng, sống vội này. Bởi nó đã tự diễn biến thành một hình thức văn minh văn hóã mang nhãn hiệu “hiện đại” mất rồi. Khổ thế!
Bác Thảo lấy tay áo chậm nước mắt, khiến chúng tôi cũng xúc động, nghẹn ngào, vì tin đấy là những lời tâm sự thành thật, đầy tâm huyết.
Riêng về buổi diễn thuyết đầu tiên của bác Thảo, sau khi trở lại Paris được hơn một năm, thì đã diễn ra khá đông vui tại Nhà Việt Nam, ở đường Cardinal Lemoine, quận 5 Paris. Đây là trung tâm văn hoá của Liên Hiệp Việt Kiều (Sau được gội là Hội Người Việt Nam tại Pháp) do một nhóm trí thức trung thành với chế độ điều hành, nhưng do sứ quán tài trợ. Vì kinh phí thuê căn nhà ấy khá cao. Cơ sở sinh hoạt văn hoá này gồm một văn phòng ở bên ngoài, bên trong là một phòng kính lớn được trang trí như phòng hội, có thể chứa khoảng gần trăm chỗ ngồi. Nơi đó cũng có thể dùng làm phòng triển lãm hoặc trình diễn văn nghệ. Trên gác là một cửa hàng sách báo tiếng Việt xuất bản ở trong nước. Trên lý thuyết thì cơ sở văn hoá này do một giám đốc, là người của nhóm trí thức “Việt Kiều Yêu Nước” được sứ quán chọn để trông nom. Trong thực tế thì sứ quán, kẻ chi tiền thuê nhà, nên trực tiếp nắm quyền quản lý, Nhưng vì tình trạng lúc ấy, viên giám đốc lại là người chủ biên tờ Đoàn Kết, vừa mới sa vào tình trạng bất đắc dĩ, phải ly khai với sứ quán từ khi nảy sinh mâu thuẫn về lập trường biên tập tờ báo của hội.
Từ 1986, sau đại hội VI của đảng cộng sản cầm quyền ở Việt Nam, Hà Nội, theo chân Trung Quốc, đã bắt đầu dò dẫm chuyển mình sang chính sách “đổi mới” có vẻ cởi mờ. Ở Paris, nhóm trí thức làm tờ Đoàn Kết cũng đã thức thời theo đuổi một chủ trương biên tập mới, có tinh thần tranh đấu cho sự cởi mở tự do dân chủ ở trong nước, với thoả hiệp bất thành văn là vẫn ủng hộ một “chế độ dân chủ độc đảng”. Họ muốn biến tờ báo thành một thứ diễn đàn đối lập dân chủ hợp pháp. Lập tức cảm tình và uy tín của tờ Đoàn Kết tăng lên. Trước đó thì số độc giả của tờ báo rất là lèo tèo, nay nó tăng vọt lên và tạo thành một luồng gió dân chủ trong dư luận của hội Việt kiều. Nó cùng với hai tờ báo tương tự của các nhóm Việt kiều tiến bộ khác, một ở Bi, một ở Canada, cũng đang nổi danh vì lập trường tranh đấu kêu gọi mở rộng dân chủ. Đó là thời mà bộ trưởng ngoại giao ở Hà Nội, là ông Nguyễn Cơ Thạch. Lúc đó có dữ luận rằng ông Thạch hứa sẽ đề bạt để cho ông giám đốc tờ Đoàn Kết ấy về giữ một giữ chức vụ quan trọng trong bộ ngoại giao. Nhưng rồi cái mùa xuân nở rộ ở Bắc Kinh ấy bỗng bị kết thúc đẫm máu, thật bi thảm ngay sau đó. Cuộc đàn áp ở Bắc Kinh đã khiến Hà Nội cũng lập tức có bước ngoặt “xiết lại”. Hậu quả là sứ quán ta ở Paris cũng phải trở mặt theo làn gió bấc thổi vào Hà Nội, không chấp nhận bất cứ đường lối “tranh đấu đòi dân chủ” nào, dù là “dân chủ độc đảng”. Vì vậy nhóm trí thức Việt Kiều làm tờ Đoàn Kết, bị ép buộc phải trả lại cái tên báo (manchette) Đoàn Kết cho Liên Hiệp Việt kiều, do sứ quán chỉ đạo, để li khai ra thành lập một tập san mới lấy tên là Diễn Đàn, Toàn bộ danh sách độc giả của tờ Đoàn Kết “bộ mới” ấy do ban biên tập nắm giữ, nay được chuyển qua cho tờ Diễn Đàn. Và từ đó ảnh hưởng tờ Diễn Đàn vươn lên tới đinh cao nhất của nó (cho tới tình trạng co cụm hiện nay chỉ còn là “tờ báo tài tử trên mạng”, vì tinh thần tranh đấu nay cũng phai nhạt dần). Lúc đó tờ báo càng thêm nổi tiếng khi ban biên tập công bố chủ trương dân chủ tiến bộ hợp thời đại, với phong trào vận động sưu tầm chữ ký vào một “bức tâm thư” kêu gọi mở rộng dân chủ thật sự ở Việt Nam, Với hi vọng một mùa xuân dân chủ sẽ nở rộ tại Hà Nội..
Hậu quả khôúg gây ngạc nhiên là vì cả nhóm trí thức của tờ Diễn Đàn lúc ấy đã bị thất sủng, bị cấm về Việt Nam! Và rồi tờ Diễn Đàn còn bị đưa ra trưng bày trong nhả bảo tàng “tội ác Mỹ-Ngụỵ” ở trong nước. Phải hiểu rõ tình hình lùng củng, cay đắng trong nội bộ của “Nhà Việt Nam” lúc này là như vậy, để thấy khó khăn và bế tắc mà bác Thảo đã gặp khi dùng nơi ấy làm diễn đàn cho các buổi diễn thuyết… để giới thiệu “một cuốn sách quan trọng” đang được biên soạn.
Buổi diễn thuyết đầu tiên đã thu hút khoảng gần một trăm khán thính giả, mà đề tài là “La Logique du Present Vivant”. Tiếp theo sau là mấy buổi thuyết trình về các đề tài: “Pour line Logique. Formelle et Dialectique”; “La pialectique Logique comme Dynamique Générale de la Temporỉsation”; “La Théorie du Présent Vivant comme la Théorie de rindividuaiité”… (Tôi không dịch mấy đề tài này ra tiếng Việt, vì ngại bị mắc kẹt với thứ ngôn từ triết học còn rất lỏng lẻo của tôi! Đây là để lưu ý quý độc giả thông triết học).
Những buổi diễn thuyết nối tiếp nhau này, thường cách quãng vào những chỉeu thứ ba hoặc thứ năm. Nhưng số thính giả cứ giám dần đi vì có lẽ đề tài quá khô khan, nặng tính triết học thuần tuý.
Đặc biệt là ở buổi thuyết trình áp chót, số khán thính giả chỉ còn trên hai chục người. Hình như ai cũng băn khoăn với những đề tài có vẻ quá lý thuyết như vậy thì nội dung và mục tiêu của cuốn sách sắp hoàn thành e sẽ xa vời thực tại như những gì bác Thảo đã công bố trên diễn đàn triết học ở Paris những năm trước đây. Khản thính giả trung thành tỏ ra nóng ruột. Họ bắt đầu nêu thắc mắc về giá trị thực tiễn của mấy buổi thuyết trình, và cả của cuốn sách. Cái lý thuyết “hiện tại sống động” được mang ra phân tách tỉ mỉ như thế để làm gì? Thấy rõ đám khán thính giả trung thành ấy bắt đầu mệt mỏi, bởi họ chờ đợi một cái gì cụ thể, mới mẻ hợp với bầu không khí bắt đầu “đổi mới” đang sôi sục lên ở trong nước, vì thế, nay những thính giả tỏ ra đã mất dần kiên nhẫn.,.
Để giữ người nghe cho các buổi thuyết trình kế tiếp, trong những phút giải lao, diễn giả đã khéo léo tâm sự, để hé lộ điều mà mọi người chờ đợi, rằng mục tiêu của các buổi diễn thuyết này là sẽ đi tới “việc đánh giá lại một cách cơ bản triết học” hệ thống tư tưởng của vị tổ sư cách mạng là “ông Marx”! “Vì cho tới nay ở Việt Nam, chưa có ai dám đụng tới ông Marx, bởi họ không dám, hoặc không có trình độ để phê phán phương pháp phát triển cách mạng xã hội chủ nghĩa như tôi đã từng trải nghiệm ở Việt Nam!”
Tiết lộ này đã được khán thính giả vỗ tay vui mừng. Ai cũng hài lòng, y như vừa được chích cho một mũi thuốc bổ, chặn đứng căn bệnh mỏi mệt vì đã bị nghe hơi nhiều diễn giải chung quanh cái “lý thuyết hiện tại sống động”!
Nhưng sự hé lộ sớm mục tiêu của các buổi diễn thuyết và nhất là của nội dung cuốn sách đang được gấp rút soạn thảo ấy đã làm cho vài thính giả bị bất ngở đến kinh ngạc. Đó là mấy tai mắt “của sứ quán” và của đảng cộng sản Pháp.
Liền sau đó bác Thảo đã tâm sự với chúng tôi và cho biết bác đã “được” đại sứ Trịnh Ngọc Thái mời đến một cách khẩn cấp. Phía đảng cộng sản Pháp cũng có phản ứng tức thì: Tổng bí thư Georges Marchais, tuy đang bệnh nặng, cũng ra lệnh lập một tiểu ban điều tra và cho mời Trần Đức Thảo tới… để chất vấn!
Mấy hôm sau, bác Thảo gặp lại chúng tôi, và bực bội tiết lộ rằng hai cuộc gặp gỡ này đã diễn ra rất căng thẳng. Đấy là hai cuộc tranh luận đã đưa tới một sự đổ vỡ sinh tử, một quyết định thảm khốc bất ngờ… đối với bác Thảo. Thế nên về sau, có thắc mắc là phải chăng sự tiết lộ quá sớm ấy, đã đưa nhà triết học tới chỗ… “lâm nguy tới tính mạng”?
Mọi sự đảng lẽ sẽ diễn ra xuôi xẻ tới lúc chót. Nhưng do bác Thảo tiết lộ sớm rằng phần kể tiếp sẽ đi tới sự đánh giá lại “biện chứng duy vật sử quan” của Marx, nhất là khi Marx đề ra những phương pháp xây dựng xã hội mới, con người mới… rồi thì sẽ là phần kết luận để giới thiệu một phương pháp tư duy mới do diễn giả để xuất…
Nghe phong phanh về tiết lộ ấy, sứ quán tỏ ra rất cảnh giác và mời Thảo tới để thảo luận. Sau khi nghe trình bầy cặn kẽ, đại sứ Trịnh Ngọc Thái nói một cách quyết liệt:
- Tôi không đồng ý với mục tiêu nghiên cứu và kết luận trái với đường lối của “đảng” như thế! Đồng chí tính sao thì tính.
Thảo cố thuyết phục:
- Xin cứ để tôi công bố lý thuyết ấy ra. Chắc chắn giới triết học, đặc biệt là phái mác-xít ở Paris này, sẽ xúm nhau vào phê phán nó. Lúc đó mới có thể thấy phần giá trị của nó là như thế nào. Dù sao thì đây cũng chỉ là một lý thuyết của tôi, nghĩa là nó chưa có một uy tín, uy lực nào cả. Hơn nữa nó không tính phá hoại hệ tư tưởng mác-xít. Vì kết luận của tôi sẽ là một sự tăng cường cho phép biện chứng, chứ không bác bỏ hay xoá bỏ hẳn nó. Công trình nghiên cứu của tôi hoàn toàn có tính xây dựng cho một quan niệm cách mạng mới, chứ không phải chỉ là đả kích hay phá hoại.
Cuối cùng, đại sứ Trịnh Ngọc Thái đứng dậy, bước ra khỏi văn phòng rồi nói vọng lại:
- Thôi! Việc đó là tuỳ ở đồng chí. Tôi không cấm cản đồng chí, nhưng tôi dứt khoát không đồng ý với việc đồng chí đang làm. Tôi không thể nhất trí với lập trường đi ngược lại với tư duy chính thống của đảng ta như vậy. Đồng chí tính sao thì tính.
Khi rời sứ quán, Thảo vô cùng bối rối và than rằng: “Ngay tại Paris này, tự do tư tưởng cũng khó thế sao?”
Về vụ tranh luận thứ nhì thì đã diễn ra giữa mấy tay lý luận của đảng cộng sản Pháp và Thảo. Theo như chính bác Thảo kể lại một cách đầy do dự, vì bác không muốn nêu đích danh những người có mặt trong cuộc chất vấn ấy. Theo bác Thảo thì đấy là một cuộc tranh luận quyết liệt, mang dáng dấp đe doạ, thanh trừng, đã làm bác buồn bực, thất vọng đến sợ hãi.
Tôi cố hỏi:.
- Ai đã tranh luận quyết liệt với bác? Có phải là tổng bí thư Georges Marchais của đảng cộng sản Pháp không?
- Không phải, vì tổng bí thư Marchais lúc đó đang đau ốm nên không dự. Trong buổi tranh luận với mấy người hôm ấy, có một tay đã tranh cãi rất gay go. Y lớn tiếng, tỏ ra rất quá khích. Y đã viện dẫn một lời phê bình đả kích mạnh mẽ lý luận của tôi, rồi y đã buông lời doạ nạt tới tính mạng tôi.
- Hắn là ai?
- Hắn không có uy tín gì trong đảng cộng sản Pháp, nhưng lời phê bình mà y nêu ra là của Balibar!
- Balibar là ai, làm chức vụ gì mà ghê gởm thế?
- Balibar là một giáo sư triết học cánh tả, còn tương đối trẻ, cũng nổi tiếng chuyên về tư tưởng Marx, y có lập trường mác-xít cực đoan còn hơn cả Marx nữa. Vì thế mà y đã bị trục xuất ra khỏi đảng. Nhưng ảnh hưởng của y trong đảng vẫn còn mạnh. Khi nghe phong phanh tin tôi muốn phê phán, đánh giá lại tư tưởng Marx, thì Balibar cho rằng tôi “có ý phản bội cách mạng khi nêu ra sai lầm cơ bản của Marx”!
- Trong tranh luận mà họ nói như vậy thì đâu có gì làm bác buồn bực đến thất vọng?
- Cuối cùng buổi chất vấn, có một tên lớn tiếng kết tội tôi là kẻ phản bội cách mạng, rồi y chỉ vào mặt tôi mà doạ nạt bằng câu: “Mày muốn làm thằng phản bội thì mày hãy coi chừng cái mạng mày đấy!”
- Mà tại sao bây giờ bác thấy cần phải làm cái công việc đánh giá lại tư tưởng của Marx? Marx đã mất hết ảnh hưởng trên thế giới từ lâu rồi mà…!
- Nhưng ở nước ta thì nó vẫn còn mạnh. Ta đã trồng cây tư tưởng của Marx, và cho tới nay thì cây đó vẫn cho toàn quả đắng. Phải tìm cho ra những tố chất nhân quả của vị đắng ấy chứ. Tại sao lại cam chịu ăn quả đắng ấy mãi sao?
Rồi bác Thảo thú nhận là lời đoạ nạt ấy đã làm cho mình mất tinh thần! Vì cách thanh trừng những kẻ phản bội trong các đảng cộng sản luôn luôn rất tàn nhẫn. Nghe tới đó, tôi hỏi bác:
- Như vậy thì ở Paris này, không có một người bạn Pháp nào bênh vực bác, ủng hộ việc bác muốn đánh giá lại tư tưởng Marx sao?
- Có chứ! Có nhiều chứ! Nhưng họ không phải là những nhân vật có vai vế trong đảng cộng sản hoặc trong giới triết học. Chính mấy người bạn Pháp, khi hiểu hoàn cảnh và ý hướng của tôi, đã hứa sẽ tìm cách giúp tôi phương tiện để hoàn thành cho bằng được cuốn sách này. Nhưng về mặt tinh thần và triết học thì chỉ có một người là đã tỏ ra rất nồng nhiệt, rất ủng hộ và động viên tinh thần tôi, đã thôi thúc và khuyến khích tôi. Ông ta bảo:
- Anh phải làm cho xong cuốn sách. Vì đó là một nhiệm vụ lớn cuối cùng của anh. Anh mà nàn chí bỏ cuộc là anh có tội với triết học, với cách mạng, với cả quê hương và dân tộc anh.
- Ông bạn đó là ai?
- Đó là một người Pháp từng hết lòng ủng hộ cách mạng Việt Nam. ông ta đã từng bỏ dạy học ở Sài gòn ra bưng sống và làm việc nhiều năm trong hàng ngũ cách mạng ta, rồi ra tới chiến khu ở miền Bắc ông là nhân chứng đã đưa ra ánh sáng dư luận Pháp vụ Nhân Văn - Giai Phẩm qua mấy cuốn sách rất được chủ ý. Từ đó ông ta bị chính quyền cộng sản Việt Nam tẩy chay không cho về thăm lại Việt Nam. Tên ông ta là Boudarel. Ông ta cũng từng có hoàn cảnh như tôi. Vì ông ta đã từng bị dư luận Pháp coi là kẻ phản quốc, vì tội đã đi theo ủng hộ Việt Minh…
Sau đó, bác còn cho biết là cũng đã tìm gặp một vai vế trong giới triết học tiến bộ cánh tả là ông Paul Ricoeur, giáo sư triết ở Đại học, để than thở và phân trần với tất cả sự thất vọng và nỗi lo sợ của mình, và cũng là để cầu cứu…
Sau nảy giáo sư Paul Ricoeur đã thuật lại cho nhiều người biết về tình trạng vô cùng hoảng loạn tâm thần của Thảo lúc gặp ông. Ông mô tả: “Thảo lúc ấy là kẻ đang bị ám ảnh bởi sự đe doạ tới tính mạng, nhưng chẳng ai coi sự than thở ấy là một điều cầu cứu cấp bách. Mấy người “bạn” Pháp ấy chỉ coi đó là tình trạng tiếp nối tự nhiên của một kẻ đã bị guồng máy cai trị độc đoán nghiền nát tư tưởng trong mấy chục năm bị kìm kẹp, bị đầy ải thân xác ở trong nước. Họ cho rằng giờ đây dù đã ra được nước ngoài rồi, nhưng Thảo vẫn sống trong sự sợ hãi. Đó chỉ là dấu hiệu căn bệnh tâm thần đã tới thời kỳ quá nặng, thần kinh bị suy yếu trầm trọng đến mức tâm thần hoảng loạn… với ý nghĩ có kẻ đang rình giết mình!
Nhờ sự chăm sóc ân cần và thái độ chân thành của chúng tôi, nên ngoài những buổi thuyết trình về những đề tài thuần tuý triết học, bác Thảo như tìm lại được niềm vui khi gặp riêng chúng tôi, để giãi bầy tâm sự thường hơn, Và bác cũng đã hiểu rằng chúng tôi không mấy quan tâm tới những đề tài nặng tính triết học. Bởi chúng tôi chỉ hỏi bác về những gì đã xảy ra cho bác, suốt mấy chục năm về sống ở quê nhà. Tại sao trong thời gian dài dặc kháng chiến và triển khai cách mạng như thế, mà bác chỉ viết được một số bài chẳng liên quan gì tới kháng chiến và cách mạng? Những lời giải thích đã làm chúng tôi thích thú. Bởi đấy là những tiết lộ độc đáo, những chuyện bên lề chính trị chưa thấy ai nêu ra. Thế nên sau mỗi buổi diễn thuyết, bác thường đành cho chúng tôi những giây phút cởi mở tâm sự đầy những tiết lộ li kỳ, liên quan tới những thực tại bác đã trải qua từ khi trở về quê hương.
Càng nghe kể, sự hiếu kỳ của chúng tôi càng tăng. Vì đấy là lúc đầu óc, trí nhớ của bác chứng tỏ một trí tuệ trong sáng, tế nhị; rất linh động đang phải đối phó với thực tại tàn nhẫn. Những lời kể bộc trực ấy đã xoá hết những định kiến đã có do bề ngoài khiêm tốn của một nhà triết học già nua, có vẻ đã lẩm cẩm.
Cứ như vậy, vào các ngày nghỉ cuối tuần, chúng tôi đều tìm cách mời bác Thảo đi ăn cơm trưa, hoặc ăn tối ở đâu đó, xong kéo nhau ra một quán café để ngồi nghe kể chuyện cho tới khuya.
Thoạt đầu chúng tôi tính hỏi thật khéo lẻo, tế nhị để bác Thảo chịu nói cho rõ điều mà bác vẫn muốn tránh né, tức là về những nội dung chính của cuốn sách sắp hoàn thành. Nhưng nhà triết học của chúng tôi tinh ranh hơn chúng tôi, nên đã đánh hơi ngay thấy hậu ý của chúng tôi, ông buồn rầu nói:
- Tôi biết các anh cũng như nhiều người bồn chồn muốn đốt giai đoạn để được biết ngay kết luận của cuốn sách. Nhưng xin đừng nóng vội. Tiết lộ sớm nội dung vắn tắt là một điều khó vì phải giải thích cặn kẽ mới có thể hiểu. Vả lại đấy là một điều cực kỳ nguy hiểm cho tôi. Các anh có biết là tính mạng tôi đang bị đe doạ không? Các anh có thể nào ngờ rằng tôi đang sống trong căng thẳng nội tâm vì nguy cơ có thể sẽ bị cưỡng bách áp tải trở về nước hay không? Mà các anh có biết việc tôi trở lại nước Pháp kỳ này là vì người ta muốn vĩnh viễn tống đuổi tôi ra khỏi quê hương hay không?
- Sao lại có chuyện lạ đời như vậy? Tôi cứ tưởng chuyến đi này của bác là chuyến đi vinh quạng, vui vẻ vì là đi làm công tác ngoại giao, đi để vận động dư luận quốc tế ủng hộ chế độ cơ mà?
- Vui vẻ, vinh quang cái gì! Tôi đã bị tống đi biệt xứ, Với cái vé một lượt, chứ không phải vé khứ hồi! Có dịp tôi sẽ kể rõ cho các anh thấy tại sao tôi đã bị đuổi khỏi Sài Gòn, buộc phải đi Pháp mà không phái là để trở về Hà Nội! Thành ra bây giờ ta mới có cơ hội gặp nhau ở đây. Thủng thẳng tôi sẽ kể rõ mọi chuyện ít ai biết, chứ các anh đừng quá chú ý tới cuốn sách. Tôi muốn kể để xả bớt ra những ức chế đang sôi sục trong tôi những ấm ức đã tích luỹ quá nhiều trong đầu… Đây là những những kinh nghiệm sống động để có thể hiểu rõ nguồn gốc của thảm kịch vẫn đang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên đất nước ta. Nó đã đưa tới tình trạng suy đồi đạo lý trong xã hội ta ngày nay. Một xã hội đang bị ung thối bởi căn bệnh trầm kha bất trị, căn bệnh xảo trá, căn bệnh thủ đoạn của “đảng”. Rồi đây các anh sẽ khám phá ra những bất hạnh của dân tộc và quê hương chúng ta. Các anh cứ để tôi được tự do kể, nhớ tới đâu, kể tới đó được không?
- Dĩ nhiên là chúng tôi hoàn toàn đồng ý với bác.
- Vậy thì ta nên bắt đầu bằng điều gì bây giờ?
Để đánh tan cảm tưởng bị chúng tôi bị gò ép, tôi nêu ra với bác Thảo một câu hỏi thật là xa lãnh vực chính trị:
- Tôi thắc mắc là tại sao hồi ấy bác đã chọn môn triết? Sau này có lúc nào bác hối hận vì đã chọn con đường triết học nó đưa cuộc đời bác không tới biết bao nhiêu là gian nan, vất vả không?
Anh hỏi câu ấy thật là hay. Vì ở trong nước nhiều anh em thân thiết, và cả những kẻ ganh ghét tôi, kình chống tôi, họ đã hơn một lần mỉa mai, chửi rủa tôi rằng với cái tính lẩm cẩm gàn bướng của tôi mà lại đèo thêm môn triết học nữa, nên đời tôi đã khổ mà còn gây khổ cho cả người chung quanh. Thật vậy, chỉ vì tại tôi mà không ít người đã bị vạ lây. Nhưng xin trở lại với thắc mắc của anh.
Bác Thảo ôn lại thời niên thiếu, rồi phân tích cho thấy mọi sự đã như được cấy vào trong tiềm thức từ lúc còn non trẻ. Lúc ấy, sau khi đã đậu tú tài phần một, học sinh phải chọn một trong ba ban để chuẩn bị thi tú tài phần hai tức là chọn một trong ba lớp học cuối của bậc trung học: hoặc ban toán, hoặc ban khoa học tự nhiên, hoặc ban triết. Thảo đã chọn lớp triết, tức là dự tính sau này sẽ theo học ban văn chương ở bậc Đại học. Bởi đã có chút thành tích về luận văn, Thảo có dự tính sau này sẽ học chuyên về những khoa nhân văn mà mình ưa thích.
Nhớ lại lúc thi môn viết của tam cá nguyệt cuối niên học, giáo sư Ner, trả lại bài luận triết vừa chấm. Bài của Thảo đứng đầu như thường lệ, nhưng với điểm cao không ngờ: 16 trên 20! Thông thường Thảo chỉ đứng đầu với điểm 13 hay 14 điểm là cùng. Lần ấy, Thảo còn nhớ rõ, đề thi là bình giải một câu của Léon Bourgeois: “Danh dự cũng có thể là một nền tảng của đạo đức”.
Cả lớp, trừ Thảo, đều dài dòng tìm cách minh chứng câu đó với những bằng chứng, điển tích, nêu ra các hành động mưu tìm danh vọng qua các công trình vĩ đại, các chiến thắng vinh quang của những vĩ nhân thường thấy trong lịch sử thế giới. Tất cả như đã hành động vì danh dự để mang lại vinh quang cho xứ sở. Riêng chỉ có Thảo là đã bình bàn theo hướng khác hẳn.
Thảo chuẩn bị vào để bằng cách định nghĩa, phân tích kỹ khái niệm danh dự về mặt tâm lý và xã hội để chỉ ra rằng danh dự là một thuộc tính được ban tặng cho con người, từ bên ngoài, nghĩa là một giá trị do người đời khen tặng, chứ bản thân không thể trực tiếp đi tìm… mà lấy được. Danh dự chỉ đến với những con người sống đức hạnh, có lương tri, biết hoàn thành trọn vẹn công việc của mình, dù đấy là một công việc khiêm tốn; Như thế thì mọi người đều có thể có danh dự, chứ danh dự không phải là riêng của những kẻ có chức, có quyền trong xã hội. Nhưng do ngộ nhận mà danh dự đã bị coi là một khả năng kích thích con người có hành động đẹp đẽ, vĩ đại, theo xu hướng khoa trương, phù phiếm bề ngoài, để tạo ra “danh dự”, hay vinh dự cho chính mình. Bởi khi đó danh dự đã bị đồng hoá với danh vọng, vinh dự mà người Pháp gọi là ”les honneurs”. Thông thường, danh vọng có khả năng kích thích tâm lý, có thể làm cho con người u mê đến mức sa đoạ, y như là một thứ thuốc phiện! Người ta đam mê chạy theo danh vọng, tìm vinh dự, rồi tự biến mình thành kẻ khoe khoang, kiêu ngạo, hoang tưởng chạy theo những trò trang trí phù phiếm, hào nhoáng bề ngoài. Tranh đua nhau trên con đường danh vọng thường làm cho mình thành ích kỷ, thấp hèn: muốn dìm mọi người chung quanh xuống, để đề cao mình lên. Danh vọng đã đẻ ra một cấp trên kiêu ngạo, một cấp dưới nịnh nọt… Tệ nạn nịnh nọt cấp trên thường là phải bóp méo, xuyên tạc sự thật. Nó có thể cải trang một người bình thường thành kẻ kiêu căng tự đắc, một nhà chính trị thành một lãnh tụ độc tài, đam mê quyền lực, điên cuồng khao khát danh vọng, quan liêu cửa quyền đến mức hành động, nói năng như cha mẹ của dân, rồi muốn được tôn vinh làm cha dân tộc!
Về mặt tâm lý và xã hội, danh dự phải được hiểu một cách hét sức sáng suốt, hết sức thận trọng để tránh xa những mục tiêu của danh vọng. Danh dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm, không thể mua chuộc nó một cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc, như người ta vẫn đi tìm kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới, một cách gián tiếp từ bên ngoài, với những ai không chủ tâm tìm kiếm nó, nhưng biết sống một cách xứng đáng, có lương tri, sống tử tế với mọi người, sống ngay thẳng, trong sạch ở mọi hoàn cảnh, biết làm tròn nhiệm vụ của mình, dù đó là của một công việc khiêm tốn nhất… sống như thế là sống thật sự có ích cho mọi người, là làm đẹp cho xã hội. Danh dự do đó quả thật là một nền tảng của đạo đức. Nhưng khốn nỗi, người đời vẫn thường nham lẫn danh dự với danh vọng. Do vậy nên danh dự, khi bị hiểu lầm, thì nó lá cái bả khiến con người chạy theo nó, tìm kiếm nó, mua bán nó… để rồi nó biến xã hội thành một môi trường giả dối, háo danh, phù du, ưa phô trương cái mẽ bề ngoài, che giấu cái trống rỗng, kém cỏi, xấu xa bên trong… Không thiếu gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao khát danh vọng, một xã hội chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành tích giả tạo một cách bệnh hoạn. Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là thói háo danh với bằng cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả năng. Nhưng nay bằng cấp đã bị coi như là thứ áo mão gấm hoa, loè loẹt màu sắc, để phô trương. Nó đã tạo ra cái thói trưng diện bằng cấp trước cái tên của mình. Tự xưng mình là tiến sĩ này, thạc sĩ nọ, thủ trưởng cơ quan này, giám đốc công sở kia…! Danh dự của một người có học, có tri thức là biết sống không ồn ào, không khoa trương, biết chứng tỏ trình độ bằng kết quả của việc làm, khác hẳn với kẻ đã tự đồng hoá mình với danh dự bằng những hành động khoa trương chức tước, bằng cấp! Từ sự hiểu sai ý nghĩa của bằng cấp mà nó đã bêu xấu con người, làm hỏng nền giáo dục. Tình trạng đó có thể phá hoại xã hội. Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận trong thi cử, mua bán bằng cấp, chạy chọt chức tước cứ y như mua bán áo mão màu sắc lòe loẹt hào nhoáng để trưng diện. Bởi khi danh dự bị đồng hoá với danh vọng, thì nó là một cái bả tâm lý, làm hoen ố nhân phẩm, làm mất tự trọng, mất tỉnh táo nên không phân biệt được đầu là giá trị nội tại bền vững đích thực của luân thường đạo lý, đâu là hư danh xấu xa phù phiếm, dối trá khoe khoang bề ngoài…. Danh dự khi bị nhầm lẫn với danh vọng thì có thể đưa con người và xã hội đi rất xa về phía tiêu cực.
Sau khi nêu nhiều bằng chứng về thành tích được coi là danh dự của những người có cuộc sống khiêm tốn và đã bị đời coi thường, bỏ quên… Thảo nhắc lại rằng vì những thành tích vinh quang, đầy danh vọng của những kẻ có quyền lực, mà có người đã được hậu thế ca ngợi, có khi còn được tôn thờ như thánh nhân. Rồi Thảo đưa ra phản đề khá mạnh mẽ: những thành tích mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến thắng kiểu Pyrrhus, cố tạo ra những công trình vĩ dại như Kim Tự Tháp, như Vạn Lý Trưởng Thành… Và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự. Thực ra là những công trình vĩ đại ấy không thể là biểu tượng cho danh dự với đạo đức, đạo lý! Vì chiến thắng như thế là phung phí xương máu quân lính, vĩ đại như thế phung phí mồ hôi, nước mắt của dân chúng. Chúng không mang tính đạo đức và nhân bản. Vì vậy mà nhiều nhà lãnh đạo quyền lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành một nhà đạo đức, càng không thể là thánh nhân! Thảo nêu ra những trường hợp đời thường, trong đó không hiếm những lãnh tụ chỉ vì cao ngạo, khát khao được trọng vọng như những Tần Thuỷ Hoàng, Napoléon… là những kẻ đã sẵn sàng phung phí máu xương quân lính, coi rẻ tính mạng, công sức lao động của nhân dân. Những nhà lãnh đạo ấy đã kích thích, thúc ép dân phải trở thành anh hùng, phải trở thành vĩ đại để tạo ra những thành tích vẻ vang, phi thường… cho họ. Vì thế mà hành động mưu tìm danh vọng thường là phản công lý, phản đạo lý. Rồi Thảo kết luận: người ta ưa ca ngợi, một cách nhầm lẫn, những thành tích vinh quang, vĩ đại… mà bỏ qua, hoặc bỏ quên khía cạnh vô nhân đạo, bất công của những hành động đã ép buộc nhân dân thấp cổ bé miệng phải gánh chịu biết bao hi sinh gian khổ để dựng lên nhũng thành tích ấy. Vì đấy, dù thế nào, thì cũng chỉ là những hành động tàn bạo, háo danh, thiếu công lý, thiếu đạo lý. Những thành tích vĩ đại ấy, những kỳ công vinh quang ấy, vì không công lý, không nhân đạo nên nó không thể là trở thành mẫu mực cho đạo đức! Một danh nhân, một ông vua, trong lịch sử, do những thành tích chính trị hay quân sự phi thường, thường được đám nịnh thần tâng bốc, ca ngợi đến mức sùng bái như một vĩ nhân, một thánh nhân, nhưng thật sự đấy chỉ là một lãnh chúa đầy tham vọng, đầy mưu trí nham hiểm, tàn nhẫn, độc ác! Người ta yêu thích danh vọng, tưởng như đó là danh dự. Sự đam mê danh vọng và quyền lực như thế là thiêu huỷ tính nhân bản trong những con ngườí muốn có sự nghiệp vĩ đại. Con người bình thường không chỉ sống vì danh vọng! Trong thực tế, thời có nhiều thành tích, công trình vĩ đại thường là những giai đoạn bi thảm đen tối, đẫm máu trong lịch sử nhân loại! Vì một lẽ giản dị là nó thiếu tính nhân bản, thiếu tính đạo lý. Nhân loại bình thường không sống để đì tìm danh dự trong danh vọng. Nhân loại bình thường không phải toàn là thánh nhân và anh hùng! Bởi con đường của những thánh nhân, của những anh hùng, với ý nghĩa cao cả của nó, là con đường tuẫn đạo, là con đường hi sinh có ý thức vì nghĩa vụ đối với con người. Khác với con đường của những kẻ u mê cuồng tín lao mình vào những hành động
đầy máu và nước mắt, dù cho đấy là con đường tạo ra vinh quang, vĩ đại, nhưng đấy không phải là con đường của đạo đức! Trong lịch sứ, cái thời đầy vinh quang, đầy anh hùng của một dân tộc, thường là thời đau đớn đầy hi sinh, gian khổ, đầy máu và nước mắt, đầy hận thù và tội ác… rất phản đạo đức, phản con người… vì thời ấy bắt đám cùng dân phải trà giá bằng mồ hôi, nước mắt, bằng xương máu và tính mạng! Danh dự và đạo đức thực ra là những giá trị cộng sinh tự nhiên, chúng không phải là những ỉhuộc tính chỉ dành cho những vĩ nhân. Trong thực tế, danh dự là một giá trị kín đáo của con người nói chung, trong những hoàn cảnh sống bình thường, khiêm tốn trong xã hội, nên người ta không thấy, vì ít được ai để ý tới. Xưa nay, người đời chi nói tới, chỉ đề cao danh dự của những ông lớn có đầy danh vọng. Do vậy mà chúng ta dễ ngộ nhận, khi đọc tiểu sử của những vĩ nhân, mà không thấy được những tấm gương sảng về mặt đạo đức trong đám người thấp cổ bé miệng trong xã hội. Chính ở nơi những mẫu người khiêm tốn ấy, ta mới thấy rõ được rằng danh dự quả thật là nền tảng của đạo đức. Trong giá trị danh dự âm thầm, khiêm tốn đó, mới thấy người đời sống như thể đích thực là có đạo đức!
Khi chấm bài, bên lề phần kết luận, giáo sư Ner đã phê: “Có nhiều ý triết lý!” Bài của Thảo được đọc cho cả lớp nghe. Sự khen ngợi đó đã vĩnh viễn in sâu vào trí óc non nớt của Thảo. Người thày dạy triết còn nhấn mạnh thêm: ai cũng có thể cố học để trở thành bác sỹ, kỹ sư. Nhưng không phải ai cũng có thể học để trở thành một triết nhân. Đạt đỉnh cao trong triết học đòi hỏi phải có bộ óc minh triết, mẫn tuệ hơn người. Trong nhân loại, suốt trong chiều dài lịch sử, triết nhân chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ở Pháp kẻ theo học ban triết ở Đại học đều được nể trọng vì có bộ óc minh triết hơn người. Thảo nghe vậy, khoái lắm, nớ mãi.
Kể tới đó, Thảo thú nhận một cách khiêm tốn:
- Chính ông Ner, thày dạy triết của tôi, đã can thiệp xin học bổng cho tôi sang Pháp học. Trước khi đi, ba tôi dặn: sang đó phải cố học. Và việc đầu tiên phải tránh là không được lấy vợ đầm, vì má không nói được tiếng Pháp, nên không ưa có con dâu đầm. Việc thứ nhì là lúc trở về ít ra cũng phải có cái bằng bác sĩ hay kỹ sư… Nhưng khi sang tới Paris, tôi nhất định chọn học triết, mà phải là ban triết của trường Cao đẳng Sư phạm phố Ulm, là ngôi trường danh tiếng bậc nhất của nước Pháp. Tôi đã phải theo học hai lớp dự bị rất vất vả mới thi được vào trường ấy. Sự chọn lựa học triết lúc đó chỉ là do tính kiêu ngạo, bồng bột của tuổi trẻ, muốn được mọi người nể phục, muốn chứng tỏ mình là người có đủ sức mạnh trí óc để học triết. Sự thật giản dị và tầm thường của tính kiêu ngạo là đáng ghét như vậy. Nhưng rồi càng đi sâu vào môn triết, càng thấy giá trị của nó, thì tôi càng muốn mình trở thành một người biết đi tìm chân lý trong cuộc đời đầy những sai trái và tội ác này.
- Thực ra thì ngay tử nhỏ, tôi đã có thói quen ưa suy nghĩ qua nhiều khía cạnh khác nhau, để từ đó tìm hiểu và đánh giá mọi sự. Đên khi gia nhập môn triết học thì cái thói quen đó lại được mài sắc, được bồi dưỡng phương pháp, với óc hoài nghi mang tính khoa học, nên nó đã phát triển như một năng khiêu tự nhiên… Cái gì tôi đã thu thập hoặc đã viết ra, khi đọc lại, thì tôi cố sửa lại với xu hưởng đánh giá lại xem lúc đó mình nghĩ như vậy, viết như vậy đã thật sự là chín chắn, là đầy đủ hay chưa (Cho tới nay, tuy đã già rồi mà khi đọc lại những gì đã viết, những gì đã in ra thành sách, thì tôi vẫn thấy cần phải sửa lại, cần phải bổ sung cho rỡ hơn cho lý luận tương đối vững hơn. Đối với tôi không một điếu gì do con người truyền đạt hoặc diễn đạt ở một thời điểm nào đó, mà nó có thể là cố định, là vĩnh viễn đúng, duy nhất đúng, bất chấp thời gian và thời đại.
hết: Chương 3, xem tiếp:
|
Chương 4
Đãi ngộ hay bạc đãi?
Vì hoàn cảnh con người, vì xã hội loài người luôn luôn chuyển biến, luôn luôn đi tới, nên lý luận cũng phải luôn luôn diễn biến, luôn luôn phải đổi mới không ngừng. Sống trong sự vận động của thời gian, con người và sự nghiệp của nó, phải luôn luôn cần được đánh giá lại, với cách nhìn khách quan hơn, với cách đặt lại vấn đề sát thực tế hơn, để cho nó luôn luôn sống động tích cực trong hiện tại… Sống và tư duy như thế là biết trải nghiệm… Trải nghiệm là biết quan sát cái đang biến hoá, cái đang trở thành cái đã cũ, xuất phát từ những di sản mang tính cổ hủ của dĩ vãng… Vì trong thực tế, vũ trụ, xã hội và con người là những thực thể luôn luôn chuyển biến: Cách mạng cũng vậy, nó không thể ngưng lại ở một trạng thái cố định, ở một thời điểm cố định, mà phải là một thực thể diễn tiến, chuyển biến thường xuyên, không ngừng cách tân sao cho phù họp với những khát vọng không ngừng đổi mới của con người.
Nghe giảng giải triết lý như vậy, Canh lại hỏi để thay đổi đề tài:
- Cho đến bây giờ, như tôi được biết, từ khi về nước, bác chỉ dậy học trong một thời gian rất ngắn, sau đó, tức là sau 1956, cho tới nay bác đã chính thức được giữ những chức vụ gì? Bác đã được đãi ngộ như thế nào?
- Thật sự ra thì không thể nói tới đãi ngộ. Bởi chỉ toàn là bạc đãi. Bởi tôi chưa từng được bổ nhiệm vào một chức vụ nào thực sự có trách nhiệm, chưa từng được giữ một chức vụ có thực quyền để trí óc có thể tích cực tham gia vào một trách nhiệm chính trị nào cả! Nói rằng tôi đã được đãi ngộ hay đã có một địa vị gì thì đấy là cả một sự ngộ nhận mỉa mai đầy cay đắng đối với tôi. Sự “đãi ngộ” hay những chức vị mà người ta nêu ra, chỉ là một sự huyền hoặc, để che giấu sự thật, che giấu một đối xử nghiệt ngã và tồi tệ. Tôi mong sau này trong các bạn, sẽ có người trở lại những nơi tôi đã sống, để thăm hỏi, điều tra qua những nhân chứng trực tiếp, để thấy rõ ở những nơi ấy, tôi đã sống và làm việc gì, như thế nào, để thấy đó toàn là những cách “để cho sống” vất vưởng, không phải là một sự đãi ngộ với một người có tri thức như tôi. Toàn là gắn cho những danh xưng hão. Toàn là thứ kìm kẹp trá hình, toàn là cấm cản không cho tôi đụng tới chính trị, tới cách mạng, là những mục tiêu mà tôi đã chọn lựa khi quyết định trở về quê hương. Ngay cả khi người ta bảo tôi lãnh trách nhiệm phó giám đốc trường Đại học Văn khoa Sư phạm, sau khi kháng chiến về tiếp thu Hà Nội, thì tôi cũng chưa hề được tham dự bàn bạc gì vào công việc tổ chức hay điều khiển bất cứ một công tác gì của trường ấy, ngay cả đến tham khảo ý kiến giảng dạy cũng chưa hề có. Sự có mặt của tôi trong một số sinh hoạt của chế độ cũng chỉ là thứ “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”, cũng y như sự có mặt của mấy cựu quan lại hay của hai đảng Dân chủ và Xã hội do cụ Hồ bày đặt ra cho lấy có, để bên ngoài nhìn vào, tưởng là chế độ có nền tảng đoàn kết quốc gia và dân chủ rộng rãi! Cụ Hồ là một tay chính trị nhiều thủ đoạn lắm chứ không phải là một tay hiền từ đâu! Ngay đến cụ Huỳnh Thúc Kháng, tiếng là bộ trưởng bộ nội vụ trong một thời gian dài, nhưng cụ ấy có quyền hành gì đâu. Vì thế mà cụ Huỳnh đã phải ở ẩn khuất tại miền Trung, rất xa trung ương ở ATK! Cụ Hồ còn nêu gương sống thanh đạm, bắt làm nhà gỗ để cụ ở, nhưng chung quanh và những người thừa kế cụ, có ai theo gương sống thanh đạm như thế đâu. Bởi chung quanh đều biết tấm gương ấy chỉ là thứ đạo đức hình thức, bề ngoài, nhưng trong thực tế thì lại khác, “ông cụ” vẫn sống rất là đầy đủ về mọi mặt, kể cả về vấn đề sinh lý. Những ảnh hưởng của tấm gương ấy biểu lộ một chính sách nặng tính bí hiểm, ẩn mặt trong hoạt động, chỉ đậm nét khoa trương bề ngoài. Đạo đức chỉ có ở trong lời nói, ở bề ngoài như thế thì nó không thực sự có ảnh hưởng tới đời sống con người trong xã hội. Vì toàn là che giấu, dối trá. Cũng vì những hình thức “đãi ngộ” với tôi như thế, nên vài người hiểu rõ là tôi bị trù dập, bị đày ải, nên họ thấy cuộc sống của tôi thật là khốn khổ. Vì thế mà đã có vải anh em thấy hoàn cảnh tôi như vậy, nên đã giúp tội bằng cách chia việc làm của họ cho tôi làm như phiên dịch, kể cả khi đưa tôi vào làm cán bộ cho nhà xuất bản Sự Thật, tất cả chỉ là để tránh cho tôi khỏi chết đói thôi, chứ không có một chút gì gọi là đãi ngộ. Làm sao chứng minh những công việc vẩn vơ ấy, những đồng lương chết đói ấy là một sự đãi ngộ?
- Thật là vô lý quả! Tại sao lại lạ thế?
- Tại vì ngay từ đầu, chúng nó đã không tin tôi!
Những sự bổ nhiệm vớ vẩn ấy chỉ là việc làm bất đắc đĩ, để tô điểm cho cái Đại học nhân dân, bằng những bằng cấp của tôi, chứ không phải bằng tài năng trí tuệ của tôi… Thật sự là từ khi trở về nước, chúng nó đã không tín và không dùng tới tri thức của tôi… chúng lo sợ đầu óc tôi có dịp bung ra phê phán, cách mạng của… chúng! Chúng đã từng o ép tôi, bắt phải đi cải tạo tư tưởng ở nông trường, bắt sống theo lời dạy “phải gắng mà học tập nhân dân”, nghĩa là phải tập cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời “đảng”!
Tâm sự đầy tính nhẫn nhục ấy đã làm hai chúng tôi quá đỗi kinh ngạc, và nhìn nhau! Vì đây là lần đầu tiên chúng tôi thấy bộc lộ sự phẫn nộ của bác Thảo, kẻ cho tới nay luôn luôn tỏ vẻ sợ sệt, kính nể mỗi khi nhắc tới “cách mạng”, tới “đảng”! Vậy mà nay bác lại dám hạ một câu thật là bất ngờ khi gọi cả chế độ bằng một cụm từ mang ý nghĩa xa cách, vừa ghét, vừa khinh: là “chúng nó”!
- Tại sao bác biết là họ không tin bác? Mà lại là không tin ngay từ đầu?
- Mới về tới chiến khu Việt bắc thì tôi đã cảm thấy mình bị cách ly bởi một vòng vây kín đáo. Sau tôi mới biết rõ là sự nghi kỵ đến bệnh hoạn ấy là có thực.
- Làm sao bác biết chắc chắn là sự nghi kỵ ấy là có thực?
- Thì chính người của “đảng”, đã cho tôi biết như vậy.
Chuyện đó là như thế này: một cán bộ đang làm việc thông ngôn cho ban cố vấn ở Nam Ninh, vì nói giỏi cả tiếng Quảng Đông và Quan thoại nên đã được cử đi đón tôi khi tôi mới đặt chân lên đất Trung Quốc. Bởi tôi trở về bằng đường xe lửa xuyên Á của Liên Xô. Rồi chuyển qua một tuyến xe lửa khác tới ga An Huy ở Mãn Châu của Trung Quốc. Anh này tên là Trần Lâm. Trong thời gian đi đường từ ga An Huy ở bắc Mãn Châu về tới Nam Ninh, lúc thì đi xe ô tô chở khách, lúc thì dùng xe lửa. Dọc đường, chúng tôi đã nói chuyện rất nhiều với nhau, nên đã coi nhau thân thiết như anh em. Cuối cùng Trần Lâm ngây thơ hỏi tôi:
- Mộng ước của anh về nước là để làm gì?
Tôi thành thực đáp:
- Ước mong của tôi là có dịp mang hết tâm trí và khả năng trí tuệ và sự hiểu biết ý thức hệ của tôi ra làm việc, để góp ý, góp sức tim óc với “đảng”, nhằm xây dựng ở nước ta một mô hình cách mạng hoàn chính, trong sáng và nhân đạo mà cả loài người chờ đợi. Nhưng tôi cũng đã thận trọng nhấn mạnh rằng đấy chỉ là ước mơ thôi, còn trong thực tế thì tôi sẵn sàng phục vụ theo sự sắp xếp của cách mạng. Tôi không ngờ lời tâm sự đó đã hại tôi. Và hại cho cả Trần Lâm.
- Tại sao một mơ ước như thế mà lại là có hại?
- Khoảng mấy tuần sau khi tôi đã về tới chiến khu, mà ở đấy gọi tắt là ATK, tức là An Toàn Khu, ở đâu đó trong vùng núi rừng giữa Tuyên Quang và Phú Thọ, thì bỗng Trần Lâm xuất hiện, mặt mày mệt mỏi, rồi kể lể…
Lúc đó Trần Lâm ngồi xuống sát cạnh, tôi, rồi thận trọng, sợ sệt nói nhỏ gần tai cho vừa đủ nghe:
- Sau khi anh được đưa tới khu quân sự ở gần Nam Ninh làm thủ tục để chờ đi nhờ xe quân sự về nước, thì em phải ngồi viết báo cáo về chuyến công tác đi đón anh. Thủ trưởng của em đọc báo cáo ấy, rồi yêu cầu em phải nêu ra thật chính xác những gì anh và em đã trao đổi với nhau lúc đi đường. Để không thiếu một chi tiết nào, em phải kể rõ từng giờ, từng ngày, kể từ khi đón anh tại ga An Huy ở Mãn Châu. Viết đi viết lại mấy ngày mới xong. Vì thủ trưởng bắt em phải đánh giá anh. Em thành thật nhận xét rằng anh là người có học thức, có trình độ suy nghĩ cao, rất có tinh thần yêu nước, có lý tưởng trong sáng, rất mong được phục vụ cách mạng. Những mẩu chuyện trao đổi đầy kinh nhiệm nghiên cứu về lịch sử các cuộc cách mạng của anh đều rất là có ích cho em. Cuối cùng em kết luận rằng anh là người có thành tầm và có khả năng, muốn về phục vụ cách mạng và tổ quốc. Anh ao ước được góp tim, óc để xây dựng một cuộc cách mạng huy hoàng ở quê hương, để có thể làm một mẫu mực cho các nước đang tranh đấu giành độc lập cho tổ quốc và dân tộc của các nước bị trị.
Em nghĩ bản báo cáo đó có thể làm cho cách mạng chú ý tới tài năng để trọng dụng anh. Thủ trưởng em cho biết là đã mang bản báo cáo ấy đọc cho cả đồng chí cố vấn Trung Quốc nghe. Và cán bộ cố vấn có ghi vào đó cảm nghĩ của đồng chí ấy. Nào ngờ tai hoạ từ đó mà ra! Và cả mấy tháng sau em mới hiểu ra hết nguyên do những vụ việc đã xảy ra cho anh và cho em! Chỉ vì em đã ca ngợi anh!
- Tại sao lại ghê gớm đến như vậy? Khi đi đường chúng ta chỉ nói chuyện vãn cho vui thôi, có dính gì tới chính trị gì đâu!
- Vậy mà tất cả đã bị quy vào điều mà bên trên gọi là “ý đồ chính trị độc hại!”
- Sao kỳ lạ quá vậy?
- Bản báo cáo ấy đã được gửi hoả tốc về Trung ương. Nghe nói chính lãnh đạo đã đổi ý, thay vì điều anh về trường Đại học Nhân dân ở khu tư, như dự tính lúc đầu, khi trường Đại học ấy mới được chính thức thành lập… Sau thì đổi ra lệnh đưa anh về ATK, để ở gần Trung ương… để Trung ương kiềm chế anh. Vì thế mà đã có lệnh khẩn vào phút chót phải hoãn ngày về của anh lại tới mấy tuần lễ… Còn em thì được gọi về đây để báo cáo trực tiếp với lãnh đạo về những gì em đã đánh giá anh. Rồi em bị kiểm điểm về tội “mất cảnh giác cách mạng, để bị “địch” đầu độc bằng những tư tưởng phản cách mạng mà không biết”. Em bị khiển trách và lên án rất kịch liệt là ngu dốt, là cả tin vào một kẻ không phải là người của cách mạng, mà là do thực dân đào tạo, một kẻ chưa hề sống với cách mạng một ngày mà dám mưu tính về dạy người của cách mạng làm cách mạng! Rồi lại còn nêu nghi vấn là có thể anh là người do thực dân gián tiếp đưa về, là một thứ siêu gián điệp trí thức mà thực dân mưu toan cài vào hàng ngũ cách mạng… mà vì em thiếu cảnh giác nên đã cả tin anh, nên bị đầu độc tư tưởng.
- Ai đã buộc tội em? Ai đã nêu ra nghi vấn anh là gián điệp?
- Chính lãnh đạo đã vạch tội em rằng “chỉ mới được tự do đi ra ngoài vài ngày mà đã sa vào bẫy địch, để bị địch đầu độc tư tưởng”. Chính lãnh đạo nói với em rằng rất có thể anh là một thử siêu gián điệp do thực dân cài vào hàng ngũ cách mạng mà chính bản thân anh cũng không biết.
- Lãnh đạo ấy là ai? Có phải là Hồ chủ tịch không?
- Không phải là Hồ chủ tịch, mà là đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh! Những chính đồng chí tổng bí thư nói với em là “Bác Hồ” đã ra lệnh cho đồng chí tổng bí thư thân chinh điều tra vụ này!
Bác Thảo kể tới đó thì lắc đầu, thở dài, rồi tâm sự:
- Tiết lộ của Trần Lâm đã làm tôi như bị chết đứng. Vì như vậy là mộng ước của tôi đã hoàn toàn tan vỡ ngay từ đầu khi chưa đặt chân trở lại mảnh đất quê hương. Như vậy là sự nghi ngờ của lãnh đạo, khi đi xuống tới cấp thừa hành, thì nó đã trở thành một xác định.
Thời gian sống ở ATK, tôi bị sai khiến làm mấy việc vơ vẩn như ngồi dịch những tài liệu cũ kỹ, mà rồi sau chẳng dùng được vào việc gì! Hoặc là theo chân mấy phái đoàn Trung ương đi thanh tra này nọ với vai trò của một cây cảnh: đi tới đâu cũng được giới thiệu là trí thức ở bên Tây mới về tham gia cách mạng! Rồi được vỗ tay, hoan hô. Chứ chẳng làm được một việc gì hữu ích cả!
- Sống như thế thì tẻ nhạt quá, làm sao bác chịu nổi?
- Ấy trong quãng thời gian sống ở bên lề chính trị như thế không hẳn là tẻ nhạt đâu. Thinh thoảng cũng có những giây phút rất thú vị, rất vui. Bởi sống ở hậu phương thời kháng chiến, luôn luôn được chứng kiến những ngang trái xảy ra thật là bất ngờ, làm bật cười, cười đến chảy nước mắt. Trong cách mạng mà cũng có lúc ăn chơi lén lút, đáng ghi nhớ về cái “thời bao cấp” ấy. Những thú vui chui lén như vậy cũng làm cho mình phải suy nghĩ, tìm hiểu hiện tượng cách mạng và những khát vọng của con người…
- Thú vui lén lút đáng nhớ ấy là gì?
Bác Thảo kể có một lần, “không thể nào quên được”. Đó là lần được nhà văn Nguyễn Tuân mời đi ăn một bữa cơm Tây, tại một xóm dân Hà Nội tản cư về sống gần ATK. Khi vào tới xóm ấy, là phải chui qua mấy hàng giây thép, trên phơi đầy quần áo màu mẻ sặc sỡ khác hẳn với quần áo nâu sồng của nông thôn, được giặt để cất đi, ở sân sâu bên trong một căn nhà cổ, để tới cái quán ăn chui lậu hiếm hoi ở hậu phương. Chủ nhân tự khoe mình từng là đầu bếp của cựu thống sứ Bắc kỳ Graffeuil! Bữa ăn hôm ấy có cả món thịt bò. Chateaubriand, có cả rượu vang Bordeaux. Thịt tươi là do cánh công an vừa săn được mật con nai! Còn rượu cũng là do cánh công an mang từ Hà Nội ra! Ăn xong, Tuân chửi vui: “Sư bố chúng nó! Tàn dư phong kiến, thực dân mà sướng thế đấy!”. Thảo ngơ ngác không biết Tuân chửi ai? Ăn uống ngon lành thế sao lại chửi?
Sau bữa ăn, Tuân còn cao hứng dẫn Thảo đi hát “cô đầu”! Dĩ nhiên cũng là hát chui, hát lậu. Địa điểm là một căn nhà chòi có cót che kín mít, dùng để chứa nông cụ thúng, mẹt, cày bừa… ở ngay giữa một cánh đồng lớn mới gặt xong. Thảo được đưa tới chờ ở đó, nên rất lấy làm lạ. Ngồi một mình ngắm trăng mười sáu sáng ngời, chung quanh là một cánh ruộng bàng bạc màu vàng khô khốc của những gốc rạ mới gặt xong, xa xa là những luỹ tre xanh vi vu gió thổi. Cảnh thật đẹp và buồn.
Mãi sau, Tuân trở lại lố nhố với năm, sáu người lạ mặt, trong đó có một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mỗi người ôm một cái túi khá lớn. Họ vào trong căn chòi rồi cài cài mấy tấm cót cho kín đáo. Một ngọn đèn dầu hoả được thắp lên cho vừa đủ sáng để thấy tỏ mặt nhau. Họ mở túi lấy ra, người thì một cái trống cơm nhỏ, người thì một cây đàn đáy. Chị phụ nữ cung lấy ra hai que gỗ và một cái phách. Tuân nói thật trịnh trọng:
- Hôm nay tôi lén tổ chức chầu hát này là để đãi ông bạn trí thức ở tận bên tây mới về. Yêu cấu em Đức hát cho thật đạt chỉ tiêu đấy nhé!
Cô ca nương nhìn Thảo rồi đáp:
- Anh Tuân ơi! Anh ép, thì vì nể anh em cũng cố mà ra đây hát thôi. Bởi em đã giải nghệ từ mấy năm nay rồi. Nêu cồng an mà biết thì em sẽ bị đi tù mất. Hát ả đào bây giờ bị coi là thứ nhạc sa đoạ của thời phong kiến, nó đã bị khai tử từ lâu rồi!
- Không sao đâu, anh đã lo lót hết rồi. Tuân này bảo đảm mà!
- Cứ hát đi, đã có ông chủ tịch xã kiêm trưởng công an ngồi nghe đây thì còn sợ gì!
- Thôi đừng khách sáo nữa! Ta bắt đầu đi, kẻo đã quá canh khuya rồi. Đàn lên! Xin mời quan viên giữ trống ra tay! Bắt đầu “Hồng, Hống, Tuyết Tuyết” đi em!
Vài tiếng đàn chậm rãi vẳng lên, trầm bổng, thánh thót day dứt trong đêm khuya thanh vắng. Rồi một giọng ca trong vắt, ngân nga, luyến láy vang lên giữa cánh đồng vằng vặc ánh trăng.
Rồi tiếng trống vào nhịp:
- Tom! Chát! Chát! Tom!
- Hồng, hồng, tuyết, tuyết ứ ư ừ mới ư ừ ngày nào chửa… ư biết cái chi chi…
- Tom, tom, chát…
Tiếng hát, tiếng đàn nhịp trống bỗng đưa mọi người nhập vào một thứ nghi lễ tôn giáo linh thiêng… gợi cảm, trữ tình của nghệ thuật!
Bác Thảo vui vẻ, thích thú kể lại thật chi tiết về một chầu
hát ca trù lén lút vô cùng cảm xúc, trong đêm khuya ấy, giữa một cánh đồng khô, trong lúc tình hình chiến tranh sôi động, mọi người lo âu, bồn chồn không biết ngày mai sẽ ra sao!
Bởi đấy là lần đầu tiên trong đời bác Thảo được nghe tiếng hát “trong như pha-lê, luyến láy ngân nga, thấm nhập tâm can, làm rung động toàn thân xác.,.”. Bác say sưa khen:
- Ôi! Lúc ấy, tiếng đàn, tiếng hát, sao có thể thuần khiết, âm vang sâu thẳm đến thế! Tiếng trống bắt nhịp thật lịch duyệt, như thúc dục, như khuyến khích ca nương!
Bài ca vừa chấm đứt, Thảo không nhịn được phản ứng ngạc nhiên, nên hỏi:
- Sao thứ ca dân gian này có thể nghệ thuật đến thế! Hay như vậy sao lại cấm? Trong đời tôi, tuy đã từng biết thưởng thức những tiếng đào, lời ca cổ điển vô cùng nghệ thuật của lối hát đại nhạc (opéra) phương Tây, nhưng đây là lần đầu tiên tôi khám phá ra một lối ca nghệ thuật tuyệt kỹ, vừa trữ tình, vừa huyền bí, thiêng liêng như của một tôn giáo, nghe mà rợn cả người, cứ y như bỗng mình được lạc vào cõi thiên thai. Một thứ nghệ thuật truyền thống quý như vậy, sao lại bắt nó phải chết?
- Tại vì xưa kia nó phục vụ giới quan lại, phú hộ thời phong kiến! - Tuân giải thích - Thôi bây giờ thì ca tiếp đi chứ!
Người nghệ sĩ chơi đàn, người “quan viên” giữ nhịp trống điều khiển, rồi ca nương, tất cả đều đắm say diễn tả, như hoà tâm hồn vào mấy bài hát nói danh tiếng của mấy nhà thơ trứ danh thời trước. Tay đàn, tay trống và ca nương, tất cả đều biểu diễn, với tất cả sở trường, y như đang làm sống dậy giây phút thanh bình của đất Hà thành thanh lịch xa xưa!
Thảo giải thích thêm với chúng tôi:
- Tiếng hát ả đào đúng là hợp với tâm tư, hoàn cảnh của từng người lúc ấy. Ai ai cũng đang mang nặng một tâm tư u buồn, nên mới hát được như thế, mời nghe thấu được nỗi niềm của giọng hát, lời ca. Tôi đã từng biết lối hát đại nhạc (opéra) của phương Tây. Lối hát ấy là dùng sức buồng phổi đẩy làn hơi qua thanh quản để đưa nốt nhạc vọt lên chói vót như thi tài với tiếng đàn. Nhưng lối hát ả đào thì tế nhị hơn, vì ca nương phải kiềm chế làn hơi, rồi từ từ vừa đẩy, vừa níu lại làn hơi qua họng, để uốn nắn âm thanh qua thanh quản, làm nó uyển chuyển, luyến láy, nghẹn ngào; như than van, nức nở, để bầy tỏ nỗi niềm… Nghệ thuật hát ả đào, do đó tinh vi, truyền cảm tình tiết cao siêu, sâu sắc, huyền bí hơn hẳn đại nhạc phương Tây, Tôi không hiểu sao một nghệ thuật tuyệt vời như thế mà lại nỡ lòng mang vứt bỏ nó đi! Một dân tộc có một nền văn minh cao độ mới có thể có một lối hát nghệ thuật đậm tính văn hoá dân tộc đến thế, sao lại chê bai, kết tội nó!
- Ôi dào! Bây giờ thì cái gì của thời cũ đều bị phá đi, vứt bỏ hết! Bây giờ người ta tính áp dụng lối tiêu thổ kháng chiến ở Liên Xô, phá sập, dẹp hết, đốt hết, san thành bình địa ráo, để địch không thể xâm chiếm được. Nơi nào có tinh thần kháng chiến cao như vùng Vinh, Thanh Hoá, Nghệ An thì đã bắt đầu có lệnh thi hành chính sách “tiêu thổ”. Với hô hào “tất cả cho kháng chiến”. Tiếc gì cái lối đa truyền cảm, trữ tình, nay bị coi là truỵ lạc, là sa đoạ này!
Chầu hát ả đào dần tới hồi kết thúc. Quan viên cầm trống bỗng đứng dậy, bước tới trước mặt nhà văn Nguyên Tuân, nghiêm chỉnh cúi đầu nói:
- Xin kính mời quan bác! Quan bác là người đã nổi tiếng là tài danh cầm chầu là tài tử lịch duyệt của ca trù, đệ xin trả lại ngôi quan viên cho quan bác, để quan bác giữ nhịp cho bài ca cuối cùng của chầu hát chui này. Đệ chọn bài “Tỳ bà hành” để kết thúc, y như trong các buổi ca trù của các nhà hát trứ danh của Hà thành thanh lịch thủa xa xưa.
Nguyễn Tuân nghiêm nghị đón nhận chiếc trống nhỏ, sửa lại thế ngồi cho ngay ngắn, đặt trống xuống đúng tầm tay, đưa roi trống lên cao, rồi nhìn tay đàn và ca nương, đúng cách quan viên sành điệu, như vị nhạc trưởng của ban đại hợp tấu, chuẩn bị phát lệnh trên một chiếu hát. Mọi người chờ tiếng trống phát ra. Nhưng Nguyễn Tuân lại đặt nhẹ rồi trống xuống và nói với giọng trầm buồn:
- Này em Đức ơi! Anh biết em từng là ngôi sao ca nương sáng chói của lò hát bà Đốc Sao ở Hà Nội. Xưa kia thì phải là cỡ tuần phủ tri huyện trở lên tới tống đốc mới được nghe tiếng em ca. Thế rồi cách mạng về thì nhà bà Đốc Sao biến đâu mất tích. Nay được tin em trôi dạt về đây, anh đã phải bịa chuyện xin đi công tác phương này, cốt là để tìm em, để được nghe em hát thêm một lần, cho dù mai sau có chết vì bom đạn thì anh cũng mãn nguyện là đã tận hưởng cuộc đời. Bởi hôm nay đây, cái cánh đồng khô giữa vùng đất núi rừng Tuyên Quang nảy bỗng trở thành một bến Tầm Dương! Và em Đức sẽ là người đưa tiễn anh với anh Thảo đây, đều là những tư mã của thời đại, đang bị thời thế lưu đày về cái đất Giang Châu của Tuyên Quang này… Em hãy ca thật hay lên, để tiễn đưa chúng anh ngày mai lại lên ứ… ư đường! Chỉ tiếc ở đây không có rượu ngon để anh ngâm mấy câu thơ cổ:
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!
(Thơ Vương Hàn, Lương Châu Từ, Trung Quốc)
Rồi Nguyễn Tuân cao hứng, đằng hắng, lấy giọng ngâm thật thống thiết tiếp:
Rượu ngon thơm ngát chén ngà
Chén chưa kịp cạn, tỳ bà thúc đi
Sa trường say, cười mà chi
Xưa nay chinh chiến, mấy ai trở về!
(Người dịch khuyết danh)
Cây roi giơ lên phát lệnh bắt đầu bài hát:
- Tom! Tom! Chát!
Nhưng tất cả ngạc nhiên vì ca nương không cất tiếng hát mà lại ôm mặt khóc nức nở! Thảo ngồi đấy cũng long lanh nước mắt. Vì trong lòng cũng cảm thấy một nỗi u buồn thấm thìa khó tả, chẳng rõ vì sao. Nức nở, sụt sùi mọt hồi, ca nương lấy lại bình tĩnh nói:
- Em xin lỗi! Em xin lỗi! Vì nhìn mấy anh ăn mặc nâu sồng vất vả, mặt mày hốc hác, em thấy thương mấy anh quá! Mà em cũng khóc cả cho thân phận em! Thôi để em hát, để tiễn đưa các anh, và cũng là đưa em nữa, vì mai đây gia đình em sẽ tìm đường về xuôi, vì cái bến Tầm Dương của em là bên quê ngoại ở mãi vùng Thái Bình cơ!
- Thôi nín đi em! Hát đi em!
Nguyên Tuân lại nổi trống giục:
- Tom! Tom! Tom! Chát!
Ca nương bắt đầu lên giọng ngân nga, luyến láy não lòng:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lạch đìu hiu
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tẩm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi, lạnh lùng
Nghe não ruột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh…
(Trích thơ Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch)
- Tom! Chát! Chát! Tom!
Tiếng trống vang lên như để khen “Thật tuyệt vời!”, tiếng đàn cùng tiếng hát ngưng bặt. Cả cái chòi cót giữa cánh đồng không ấy bỗng im lặng hoàn toàn. Chỉ cỏn tiếng gió, xào xạc, qua một bụi tre, vọng lại từ xa.
Trong chòi, mọi người, như chết lặng vì quá cảm xúc. Tất cả êm thấm đứng dậy, chậm rãi thu xếp trống, đàn, từ từ rút lui. Tất cả họ bùi ngùi, câm nín, ra về trong sợ sệt, nhìn trước, ngó sau, lắng tai, phóng mắt ra khắp phía xa chung quanh, không ai nói với ai nửa lời. Mỗi người mỗi nặng một tâm tư luyến tiếc, lo âu, sợ hãi…
Nguyên Tuân ghé tai Thảo:
- Này ông bạn trí thức của tôi ơi, nhớ cho kỹ là đừng cho ai biết là tôi đãi ông chầu hát ca trù này đấy nhé! Phải “bem” (giữ bí mật) kẻo lại bị ngồi viết kiểm điểm thì mệt lắm đấy!
- Thú thật là ngồi nghe, tuy không hiểu hết ca từ, nhưng tôi cảm thấy lòng mình chùng xuống y như mình cũng đang khóc cho nỗi niềm u uất của chính mình. Không thể ngờ là lối ca này nó thấm thía vào tim gan đến thế!
- Anh có biết tại sao ca trù nó thấm thía vào tâm hồn mọi người không? Tại vì đây là một lối ca trữ tình. Bởi lời ca toàn là những bài thơ, bài hát nói của một nền vãn chương quý phái đã lâu đời. Cách diễn tả lại càng trữ tình hơn. Vì làn hơi bị ức chế trong lồng ngực để rồi được đẩy ra thành tiếng luyến láy nghẹn ngào, nức nở, để bầy tỏ những tình cảm uất ức khó diễn tả, nên ca mà cứ như nấc nghẹn, muốn than van, nuối tiếc, khóc thương một thời hạnh phúc đã mất… Ai mà có nỗi niềm trong lòng thì mới thưởng thức hết được cảm xúc sâu thẳm của ca trù. Tôi biết anh cũng đang có nhiều nỗi niềm bị ức chế ở trong lòng nên tôi mới mời anh đi hát hôm nay. Có đúng như vậy không nào?
Thảo nhìn Tuân chằm chăm, rồi ngần ngừ nói:
- Anh hỏi tôi câu ấy làm tôi chột dạ. Cố phải anh là môn đệ của Freud đã nhìn thấy tâm can tôi không? Hay anh là cán bộ của “cụ Hồ” đang gài bẫy để bắt quả tang lập trường chao đảo của tôi đây?
- Tôi chưa hề đọc Freud. Và anh cũng đã mắc cái bệnh cảnh giác nặng rồi đấy. Nhưng cứ yên tâm, vì thằng Nguyễn Tuân này dù thế nào thì cũng không thể hèn mạt đến nỗi bán rẻ tình bạn cho cách mạng đâu. Anh cứ bình tĩnh mà chịu đựng và chờ đợi, chờ thời… Tôi hỏi thật, anh có hiểu tại sao ca trù nó lại thấm thấu tâm can chúng ta như vậy không?
- Tại sao vậy anh?
- Tại vì ca trù toàn chuyên chở âm điệu những nuối tiếc, những tình hận, những chí cả sinh bất phùng thời của những kẻ bất mãn, bất đắc chí như anh đấy!
- Sao anh thấy được tận đáy lòng tôi như thế? Xin cảm ơn anh! Nhưng cũng xin anh đừng làm tôi sợ vì đúng là anh đã bắt quả tang tôi đang chao đảo lập trường đối với cách mạng!
- Anh đừng lo. Tôi hiểu anh vì tôi hiểu tôi. Bởi chúng ta chỉ là bọn Giang Châu tư mã đang bị giông bão thời cuộc đánh trôi dạt về cái bên Tầm Dương rừng rú này. Buồn lắm! Thảm lắm anh ơi! Với anh tôi mới dám thổ lộ tâm sự u buồn của tôi. Bởi tôi biết sợ cũng như anh biết sợ…
Rồi bác Thảo còn cho biết sau khi về tiếp thu Hà Nội, Nguyễn Tuân còn mời bác đi nghe hát ca trù chui lậu thêm hai lần nữa, nhưng những lần sau này thì không còn xúc động mạnh như lần đầu, trong cái chòi tranh thô kệch nghèo nản ở giữa cái cánh ruộng khô, đêm trăng ấy nữa.
Thấy bác đặc biệt nhớ tới cái đêm hát ả đào ấy nên tôi lại hỏi:
- Sao bác quá chú ý tới cái đêm hát chui ấy giữa lúc dân chúng đang lo chiến tranh lan rộng?
- Đấy là thêm một hiện tượng làm tôi phải suy nghĩ. Sống trong giai đoạn cuồng nhiệt phát triển cách mạng, trong lúc chiến tranh đang chuyển động dữ dội, vậy mà tôi thấy có nhiều điều không thật sự cần thiết cho đời sống, như làm thơ lãng mạn, hát nhạc trữ tình, như ca trù v v… mà dân chúng vẫn cứ nuôi dưỡng những thú vui ấy trong lòng. Vì vậy mà đã bị cách mạng cấm. Tại sao những thứ bị cấm ấy, chúng vẫn cứ sống âm ỉ trong lòng dân? Rồi tôi nghiệm ra là những sinh hoạt tình cảm và nghệ thuật ấy là những thú vui, đá thấm nhuần vào tâm can mỗi con người. Rồi nó trở thành nhu cầu, trở thành sức sống như ngọn lửa thiêng, dù cấm mấy, nhưng nó vẫn cứ âm ỉ cháy để đợi cơ hội bùng lên… Vì đấy là những điều mà con người nói chung, con người bền vững thèm khát, ưa thích. Những thú vui ấy là biểu hiện của sự sống, cấm không được, dù có giết những con người, nhưng không thể giết được những sở thích, không thê dập tắt khát vọng đã thấm sâu vào tim gan não trạng con người. Vì đấy chính là… sức tự do tư tưởng!
No comments:
Post a Comment