Mùa Xuân Lang
Thang Ngày Cũ
Tháng chạp đang lấp ló trước ngưởng cửa mọi gia đình Việt Nam từ trong nước đến hải ngoại. Cái tháng giáp năm âm lịch đối với người Việt Nam không phân biệt tôn giáo hay giai tầng xã hội, giàu nghèo, già trẻ bé lớn như nhau, đều bận rộn tập trung với trăm ngàn công việc dồn dập không ngưng, thúc hối bù đầu bù tóc nhằm đúc kết tính sổ cuối năm và cũng để chuẩn bị bước sang năm mới với ước mơ sẽ được tốt đẹp hơn năm vừa qua. Giờ đây không còn bao lâu nữa sẽ là mùa Xuân. Mùa Xuân rạo rực trông chờ. Mùa Xuân truyền thống dân tộc mong đợi. Trông chờ, mong đợi dù trong tâm tưởng. Nhưng thật oái oăm cay đắng làm sao, lại thêm một cái Tết ly hương trên đất tạm dung đối với chúng tôi cũng như đối với những người tỵ nạn chánh trị Việt Nam, hơn ba thập niên trước đã quyết tâm vứt bỏ tất cả không chút luyến tiếc để chọn lấy hai chữ Tự Do. Một sự chọn lựa từ chối sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa độc tài đảng trị khắc nghiệt, đã xô đẩy đất nước và dân tộc vào thảm cảnh khốn đốn bần cùng, gieo rắc tang tóc tủi nhục khắp nơi. Một quyết định cực kỳ khó khăn với biết bao hiểm nguy giăng mắt trên từng bước đi, khi đã đoán trước lắm lúc phải đánh đổi mạng sống của chính mình và cả gia đình. Cũng may, nhờ nuôi trong lòng một niềm tin mãnh liệt và một hy vọng trong sáng khiến họ nghĩ chắc rằng việc lén lút trốn chạy, dù trong uất hờn nhục nhã, không chỉ là một sự ra đi vĩnh biệt nhói tim mà chính là sẽ dẫn dắt họ đến một nơi nào đó không định trước nhưng thực sự an bình, thoải mái và hạnh phúc đậm đà hơn. Cũng như hằng năm, Xuân về giữa lúc cộng đồng Việt Nam chúng ta nơi hải ngoại vẫn cặm cụi làm việc quần quật hằng ngày vì mang nặng gánh đời nơi đất lạ. Họ phải trả nợ áo cơm, gia đình vợ con níu kéo suốt tháng quanh năm, chưa kể trách nhiệm của người tỵ nạn cộng sản nguyện liên tục đấu tranh do ngọn lửa quật khởi thúc giục cứ hừng hực không ngưng trong lòng, sau ngày Quốc Hận 30 tháng Tư năm 1975. Đây quả là niềm đau ray rứt, mãi mãi quặn thắt đay nghiến nơi kẻ lưu vong, xa quê hương xứ sở, xa mẹ xa cha, xa tổ tiên ông bà, bỏ lại bà con thân bằng quyến thuộc, bỏ lại chòm xóm bạn bè dở sống dở chết nơi xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa. Nhứt là khi họ mất đi một dịp quí hiếm có ý nghĩa trong năm để được cùng nhau hân hoan trầm mình trong niềm vui hạnh phúc vô bờ, qua những tập tục và nếp sống cổ truyền của dân tộc. Một mất mát thuộc lãnh vực tâm linh tinh thần không sao tìm lại được. Tuy nhiên, dù bận bịu đến đâu, tôi vẫn nao nao xao xuyến trong lòng, mỗi khi có được đôi phút hoài hương, hồi hướng vọng tưởng những mùa Xuân thanh bình bất diệt nơi quê cha đất tổ, đã một thời lưu lại trong tôi bao nhiêu kỷ niệm khó có thể nhạt nhòa. Giờ đây tôi chỉ còn biết an ủi vỗ về trong tâm tưởng:
"Không Xuân trang điểm xác pháo hồng
Không mai vàng thắm trải non sông
Không câu đối đỏ rồng phượng múa
Lòng vẫn vương mang nỗi nhớ nhung!"...
Thật vậy. Dù thực tế phũ phàng
trong cuộc sống tất bật khó khăn và con người tha phương vốn dĩ cô đơn cô độc
vào những ngày Tết Nguyên Đán ở đất nước người, "không xác pháo hồng"
vương vãy tràn ngập các lối đi trước thềm nhà để cuồn cuộn bay theo gió sớm mưa
chiều, "không mai vàng thắm" đua chen nở bừng hừng hực trước sân hay
nơi đầu ngõ gọi mời đôi mắt thưởng ngoạn của khách thập phương, "không câu
đối đỏ rồng bay phượng múa" làm đẹp những căn nhà cổ kín, ba gian hai chái
với bàn thờ ông bà tổ tiên óng ánh lư đồng, rực rỡ hoa quả vườn nhà thơm thơm
hương đồng vị đất... Dù thiếu tất cả những gì không thể thiếu được ở ba ngày Tết
dân tộc, nhưng sao tôi vẫn thấy như mình đang nghinh Xuân, rước ông bà cùng về
hòa nhập sum hợp như thuở xa xưa nơi quê hương êm đềm thạnh mậu. Thời gian dù
có tàn nhẫn bẽ bàng trôi qua nhanh chóng, kéo theo bao nhiêu mất mát, đổ vỡ phũ
phàng, nhưng không thể nào bôi xóa được dấu vết hằng sâu của những bậc tiền bối
đã tận tụy hy sinh cả một kiếp người cho hậu thế. Mới hay, con người dù do nghịch
cảnh oái oăm ngang trái đến độ nào phải xa rời, từ bỏ nơi chôn nhao cắt rún,
thôn ổ xóm quê, bảng làng cố thổ… vẫn không sao và chẳng bao giờ quên được gốc
rễ cội nguồn của mình. Cái căn cơ thiêng liêng bất diệt này, cái niềm hãnh diện
và tự hào về nơi chốn xuất xứ của mình không thể thiếu vắng nơi con người còn
có chút ít lương tâm, sĩ diện và trách nhiệm. Niềm thương nhớ quặn thắt, gắn bó
khắng khít không rời bảng làng thôn ấp của tôi ở giây phút ý nghĩa và trọng đại
này xét ra không có gì là lạ. Nó không khác chi những suy nghĩ và cảm nhận đối
với mọi người Việt Nam còn có quả tim đập mạnh theo từng nhịp thở hằng ngày. Với
tôi có thể nói, nó bắt nguồn một cách quá đơn sơ, quá giản dị. Giản dị vì nó khởi
sự từ những ngày bình thường nhứt, như bao nhiêu ngày bình thường khác trong
năm. Và đơn sơ khi hồi hướng tưởng nhớ những việc làm quá quen thuộc của ông bà
cha mẹ tôi, của bà con láng giềng chòm xóm, khi họ cùng nhau vui vẻ xúm xít,
quây quần đôn đốc nhằm chuẩn bị đón Xuân vào những ngày cuối tháng Chạp.
Tôi nhớ những làn hương nếp màu
trắng tinh tuyền cứ thoang thoảng vương dài rất dễ chịu khắp gian nhà bếp rộng
thênh thang với mái lá dừa nước dầy cui và phên tre già óng ánh láng o. Tôi nhớ
màu lá chuối hột xanh tươi mơn mởn, mềm mại nõn nà... cứ vấn vương đeo đuổi để
chung cuộc đọng mãi trong tâm thức tôi. Chỉ có thế nhưng những làn hương và màu
lá thơm thơm hương đồng vị đất đó lại có một ma lực huyền bí bắt tôi phải nhớ
nhung, réo gọi để tìm về. Dù trong giấc mơ hay qua một thoáng suy tư ngắn ngủi
nơi đất lạ. Tôi nhớ những ngày cực kỳ vui nhộn đó, bà và mẹ tôi mãi lăn xăn lít
xít ngày đêm gói bánh tét để mừng Xuân, phối hợp cùng với một vài bà con trong
thôn xóm, tuy họ đứng tuổi, rám mùi phong trần nhưng trông còn nhanh lẹ bặt thiệp
lắm. Việc làm hằng năm rấp Tết quá quen thuộc nầy, chẳng có gì mới lạ để mọi
người phải quan tâm để ý đến cho thêm mệt. Nó xuất phát và tái diễn liên tục
không sót một năm nào, ngay từ thuở ông bà tổ tiên, tằng tổ huyền tổ xa xưa của
tôi, nhưng bây giờ vẫn được gia đình và bà con tôi chú tâm chăm lo sắp xếp, chuẩn
bị rất mực chu đáo từ những ngày trong năm. Các bà xem đây như một trong số những
công việc quan trọng hàng đầu thuộc lãnh vực tâm linh tình cảm mà họ tự xét có
trách nhiệm của người nội trợ gương mẫu phải duy trì phong tục tập quán lâu đời,
cố tình hoàn tất cho tốt đẹp vào dịp tháng tận năm tàn.Tôi không thể nào quên
được những khi tâm hồn lắng đọng, hồi nhớ các bà cùng một lúc xúm xít nhau gói
xong bao nhiêu đòn bánh tét rồi đem chất ngùn ngụt ở đầu ván ngựa hay treo tòn
teng, lòng thòng nơi giàn tre ngay trên bếp lò. Bánh tét đòn nào đòn nấy to cỡ
bắp chân người lớn lực lưỡng, thon thon dài dài khoảng bốn năm tất tây, lá chuối
xanh mượt với những nuộc dây lác hay dây chuối phơi khô dôn dốt ngoái rất khéo
léo và đều tay. Không biết bánh ngon dở
đến mực nào khi chưa được dịp nếm thử. Nhưng chỉ cần ghé mắt trông dáng vẻ bên
ngoài cũng đủ bắt mắt và quyến rủ gọi mời.
Để việc hoàn thành được đảm bảo
tối đa và nhanh chóng cho kịp giờ kịp ngày, các bà phân công việc làm cho từng
người, để ý săn sóc, o bế kỹ lưỡng từng cử chỉ một. Người nào có phận sự nấy,
tùy theo sự đánh giá của bà tôi về khả năng và kinh nghiệm của họ đã được thể
hiện từ trước. Tuyệt nhiên, không ai nạnh họe, tránh né lánh nặng tìm nhẹ, dẫm
đạp lên nhau làm tổn thương tình đoàn kết vững chắc lân bang lối xóm. Họ làm
trong tự nguyện, vui vẻ nói cười huyên thuyên qua những câu chuyện tào lao
tràng giang đại hải, không lúc nào dứt. Người thì phụ trách việc chọn nếp ngon
một màu trắng ngần đồng nhứt, đổ ra sàn ra nia ở hiên nhà trước, rồi bệ vệ đeo
cặp mắt kiếng lão lặc lìa lặc lọi trệ xuống sóng mũi để lựa sạch trấu nát, nhứt
là cát sạn. Miệng thì luôn luôn quát tháo to tiếng để xô đuổi mấy bầy gà con dạng
dĩ liếng thoáng cứ chực xôm thẳng vào mổ lén vài hột nếp. Người thì lo bốc đãi
vỏ đậu xanh ở cây cầu nước rửa chén quanh năm gụt đầu chúi nhủi nơi bến sông,
dưới bóng mát của cây gừa cổ thụ tua tủa những rễ lộ thiên thon dài, ẻo lả lòng
thòng. Đậu đã được bà tôi ngâm nước từ đêm trước, trông vàng thắm mượt mà. Đám
trẻ lục lăn lục lữa, ngày ngày sau những giờ học ở lớp vỡ lòng trong xóm,
chuyên đi phá làng phá xóm, lang bạt khắp đầu sông cuối rạch, chúng tôi cũng được
bà tôi giao cho nhiệm vụ đi rọc lá chuối hột. Loại lá nầy vừa đẫy đà to lớn, vừa
chắc và dầy nên ít khi bị tưa hay rách. Hoặc chúng tôi thi đua chẻ dây lác vừa
được người lớn cắt ở bưng ở biền chất đầy xuồng ba lá chở về lẫm trại còn ráo hổi.
Sau đó, chúng tôi mang ra phơi rải rác nơi sân phơi lúa thênh thang sát bên hè.
Chúng tôi còn được bà tôi hết lời dặn dò phải ghé mắt dõi theo trông chừng mấy
con chó Cò chó Vện rậm đám. Chúng cắc cớ hay tinh nghịch, thình lình nổi hứng
dám hách chân lên tỉnh bơ rồi tè bất tử lắm. Mẹ tôi được bà tôi tín nhiệm giao
cho việc ướp muối sương thịt heo để làm nhưn theo kỹ thuật gia truyền. Một bí mật
mà bà tôi ít khi ưng phổ biến rộng rãi cho một ai dù là người thân tín, do tục
lệ giấu nghề của người xưa. Thái độ hẹp hòi nầy của những thế hệ trước đưa đến
sự may một đáng tiếc những phương thức ẩm thực ngày nay khó tìm lại được. Thuở
xa xôi đó, bánh tét nếu thiếu nhưn thịt, nhứt là loại thịt ba rọi mà bà con quê
mùa cục mịch nơi xóm tôi nôm na gọi thịt ba chỉ, là một thiếu sót lớn không thể
tha thứ được. Nhứt định sẽ bị chê là cái chắc. Trái hẳn với thời buổi bây giờ,
người ta sợ ăn thịt mỡ gây béo phì khó coi, còn tăng tỷ số mỡ trong máu gây nên
những bệnh tim mạch tai hại có thể đưa đến chết người. Lúc đó, thịt đã được ướp
cả mấy ngày trước trở nên trong bóng, tươm mỡ láng mướt, chưa ăn chưa biết
hương vị thơm ngon đậm đà đến độ nào, nhưng có một điều chắc chắn là nó rất hấp
dẫn nhãn quan, bắt mắt lắm...
Các ông chủ gia đình cũng không
rỗi rãnh cho lắm. Ngày ngày họ chí thú tận lực làm lụng, quần quật đến mệt phờ
râu, không một giây một phút hở tay nơi đồng không mông quạnh, cả ngày đội nắng
dầm mưa thách thức thời tiết. Chỉ trừ những lúc quá ngắn ngủi, họ tạm nghỉ trưa
giải khuây để phì phà thưởng thức một vài điếu thuốc rê Gò Vấp, sau khi ăn vội
vàng bữa cơm đạm bạc với rau cỏ, mắm muối cá tép ngay trên bờ ruộng bờ ao hay
mô đất, đồi trọc hoặc gò hoang sầm uất gần đó.
Phận sự quan trọng, xem như quyết định của các ông là lo chuẩn bị thật đầy
đủ củi đuốc cả mấy tháng trước. Một phong cách phòng xa có thể xem như di truyền
từ nhiều thế hệ trước. Họ không để đến lúc bất cập, chờ đến nước tới chân trở
tay không kịp, củi không khô đúng mức. Nếu càng dư thừa càng tốt, qua đó các bà
an tâm vững bụng hơn. Vẹt, gừa, trâm bầu, mù u chắt thịt, gốc tre khô, chà dừa,
nan cau, những nhánh cây chết hay mục... được các ông kéo xuống hay đốn gọn ngọt
tay. Sau đó vần công cùng thanh niên khỏe mạnh trong xóm kéo về chất cẩn thận
như núi ở gốc vườn cạnh nhà hay nơi chòi củi, sau khi phơi nắng xuyên suốt nhiều
ngày.
Bánh tét phải nấu thật chín và
chín đều nên phải tốn công, mất nhiều thì giờ. Thường thường, bà con tôi bắt đầu
nấu bánh lúc chập choạng tối, khi trời đã nhá nhem, nhà nhà đều đồng loạt lên
đèn le lói. Cảnh u trầm tĩnh lặng nầy nơi thôn quê eo óc đối với họ rất quen
thuộc, không hề gây một chấn động nhỏ nhoi nào trong tâm hồn họ. Trái lại, dường
như họ rất bằng lòng qua niềm vui và hạnh phúc ẩn giấu trọn vẹn mà chỉ riêng họ
cảm nhận được mà thôi. Nấu bánh không chín hoặc lỡ bỏ quên lửa củi, không trở đều
tay để bánh sượng trân từng nơi từng chỗ, ba mươi Tết tét ra rước ông bà kể như
là điềm xui xẻo đáng trách. Các bà âu lo canh cánh trong lòng và nhứt định phải
cố gắng tránh cho bằng được. Vì sao? Vì các bà vốn được sinh ra đời và trưởng
thành xuyên suốt ở làng quê hẻo lánh cùng cốc, cách ngăn với thế giới văn minh
tân tiến bên ngoài lũy tre rậm rì ngất nghểu, cách ngăn bởi con sông con rạch
trầm lặng uốn éo làm ranh giới thôn xóm làng bên. Cuộc đời vĩnh viễn ‘bế môn’,
mãi mãi lúc thúc quẩn quanh trong ngôi nhà ‘tứ đại đồng đường’ của họ được đóng
khung như vậy từ thuở mới lọt lòng mẹ buông tiếng khóc đầu đời cho chí đến hôm
nay. Họ đã chịu ảnh hưởng sâu đậm khó thoát ra được của người xưa, nặng óc mê
tín dị đoan, bằng lòng với định mệnh đã an bày, dù định mệnh đó có khắc khe
nghiệt ngã đến mức độ nào. Họ tin vào Trời, trọng vào Phật, kính sợ người khuất
mày khuất mặt. Họ nể trọng những đấng thiêng liêng tối cao uy quyền, nên đinh
ninh chắc như đinh đóng cột, năm tới họ sẽ gặp toàn những điều bất hạnh, không
suông sẻ trơn tru. Trái hẳn với những lời chúc lành được đãi lọc nhứt, khi bà
con đến xông nhà xông đất những ngày đầu Xuân mới. Nếu lỡ họ có đem biếu xén
theo tập tục «có qua có lại mới toại lòng nhau» với những nơi thân quen láng giềng,
họ hàng dòng tộc hay đền ơn trả nghĩa bà con lối xóm, từng giúp đỡ nhau suốt
trong năm qua, càng phiền phức hơn. Món quà cáp truyền thống đó vốn gói ghém một
ý nghĩa tâm linh và tinh thần trong sáng không thể thiếu sót trong ba ngày Tết,
nhưng chẳng may sượng sùng hay sống nhăn từng chỗ sẽ làm vẩn đục thiện ý
"mang thóc nếp ngon tới nhà mừng chủ gia suốt năm mới ấm no thừa
thãi".
Như đã nói, lũ nhỏ lóc chóc bạt
mạng chúng tôi năm nào cũng được người lớn giao cho nhiệm vụ đi rọc lá chuối,
nhứt là lá chuối hột. Cây chuối hột cao nghều nghệu, thân to lá lớn, được đa số
người dân ở nông thôn trồng những nơi hẻo lánh tận cuối vườn hay cạnh bến nước
bến sông sầm uất vắng vẻ, nơi nầy năm khi mười họa mới thấy dấu chân người.
Nghĩa là trồng càng xa nhà từ đường chừng nào càng tốt chừng nấy. Vì bà con
tôi, do ảnh hưởng của một tập quán lâu đời khắc cốt ghi tâm vào thời buổi phong
kiến trên đà tàn tạ, mạt vận, không thể nào rứt bỏ nhanh chóng và dễ dàng được.
Họ cứ chuyền nhau nghĩ rằng cây chuối hột sum xuê cao lớn, chuối con lại mọc
nhun nhúc, nhiều đến đỗi chen chúc quấn quýt nhau, không biết cơ man nào mà kể,
là nơi quến người khuất mặt khuất mày, tệ hại hơn nữa là quến ma quến quỷ. Sự
thực có lẽ vì lá chuối hột quá to lớn, mỗi lần va chạm vào nhau nghe xột xạt… xột
xạt… liên hồi, nhứt là vào những đêm u tối mù mịt, mưa to gió lớn dây dưa. Vì lẽ
đó, những người nhẹ bóng vía mới tưởng tượng nghĩ xằng, nghĩ bậy nhiều điều lắm
chuyện khó tin chăng? Vả lại, ông bà tổ tiên xưa rất chí lý thường hay nói: những
thói hư tật xấu, mê tín dị đoan lỗi thời đáng trách, những chuyện hoang đàng
chi địa… luôn tiệm tiến gia tăng mãi khi người ta trở về già, song hành với những
nếp nhăn nheo trên vầng trán hay nơi khóe mắt. Thật khó cho họ mà bỏ được. Do
đó, khi đi rọc lá chuối, chúng tôi thường rủ nhau thật đông, ít ra cũng năm ba
đứa cùng lứa tuổi để hỗ trợ tinh thần cho nhau. Dù sao qua đám đông cũng vững bụng
hơn đối với một đứa cu ki, quay qua quay lại chung quanh lạnh tanh như ngôi
chùa cổ. Chúng tôi luôn luôn cười giỡn, nói năn đối đáp, chẳng qua để lùa xa trong
tâm trí bao nhiêu sợ hãi vô lý. Dù vậy, trong bối cảnh thanh tú êm đềm của giồng
liếp vườn tược rậm rạp vắng vẻ, thỉnh thoảng có đứa lớn gộc ba trợn thuộc hàng
ôn quàng yêu quái, bong đùa la hoảng, bài hãi thất thanh để nhát ma nhát quỷ.
Nó cốt làm teo ruột teo gan cả đám chúng tôi. Công việc rọc lá này xem ra cũng
khá nhẹ nhàng, vừa vặn với sức vóc ốm yếu nhỏ thó và khả năng giới hạng của
chúng tôi. Nhưng có đứa vẫn kênh kiệu quá đà, cứ bô bô liền miệng, cất tiếng
khoe tài cho là quá dễ dàng như ăn cơm sườn nướng lửa than, mặc dù từ khi cha
sanh mẹ đẻ, nó chưa hề nhìn thấy miếng sườn nướng hình thù lớn nhỏ, hương vị
thơm ngon ra sao. Nhưng dù gì việc làm nầy cũng phải có kỹ thuật tối thiểu nhờ
kinh nghiệm tích lũy của các bực cha ông chỉ bảo truyền lại. Nếu rọc bừa bãi
không theo nguyên tắc đảm bảo sự trưởng thành, chuối sẽ mất sức là điều hiển
nhiên khó tránh. Nhứt là chuối sứ chuối già, loại chuối ngon có thể đem lại nhiều
huê lợi, sau này sẽ không cho quày dài, trái to, nãi lớn. Cho dù là cây chuối hột
cũng phải quan tâm để ý tới, vì sẽ cho những trái chuối chát to lớn dùng ăn đệm
với mắm chưng mặn mòi hay kèm với các loại rau ghém tập tàng. Trước đó, ông tôi
bước tréo ra phía sau hè, ngay cạnh bên hàng lu vú năm bảy cái đầy nhóc nước
mưa, bụng to bình rĩnh chang bang, chuẩn bị đầy đủ dụng cụ ‘nhà nghề’ để lo mài
dao. Cục đá mài to tổ bố nằm ì vững chắc nơi đây không biết từ thuở nào. Con
"dao con chó", loại dao sản xuất tận "mẫu quốc Pháp" xa xôi
mà bà tôi cắc ca cắc củm ép bụng trút ruột tượng, sai người thân tín tìm mua
cho bằng được tận Chợ Lớn Mới hay Chợ Cũ Sài Gòn. Bà dùng nó chỉ để bổ cau ăn
trầu hằng ngày, chớ không bao giờ dùng vào một việc nào khác. Xong việc, bà cẩn
thận đem đặt nó ngay trên bàn thờ ông bà sừng sững uy nghi nơi chính giữa nhà,
lúc nào cũng trong tầm mắt quan sát dõi theo của bà. Bà tôi xem ra quý nó lắm.
Quý vì đắc tiền và hiếm hoi. Bà tưng tiu gìn giữ cẩn thận, tránh không khi nào
cho chúng tôi lân la thái mái, tò mò mó tay vào. Bà sợ chúng tôi vô ý sẽ đứt
tay đã đành, nhưng thật ra cũng lo chúng tôi vô tình đánh mất.
Hôm nay, ông tôi đem con dao đó ra mài. Ông mài tận lực lắm, mồ hôi
tươm lấm tấm trên vầng trán. Không mấy chốc, nó trở nên bén ngót, lưỡi sáng hoắc
óng ánh, thỉnh thoảng phản chiếu những tia chói chan làm lòa khó chịu đôi mắt
ti hí giản nở của chúng tôi. Mài xong, ông tôi ngừng một chút rồi lấy trong hồ
bao một điếu thuốc đã vấn sẵn, phì phà vài hơi giải nghễ. Sau đó, ông ung dung
vén một ống quần lên đến quá đầu gối, rồi chầm chậm duổi chân thẳng ra phía trước.
Chúng tôi đứng chung quanh bất động, quá đỗi ngạc nhiên chưa biết ông sẽ làm gì
nên trừng trừng đôi mắt bám riết theo cử chỉ lạ lùng chưa từng thấy bao giờ đó.
Trông ông lúc ấy bệ vệ đạo mạo hơn lúc nào hết, làm như ông sắp làm một việc gì
quan trọng lắm. Mà thật vậy, chỉ vài phút sau ông từ từ lấy dao, chăm chú cạo
phơn phớt lông chân xem thử con dao bén đến mức độ nào. Để cho chắc ăn, ông cạo
tới cạo lui vài lần, dường như để xác nhận có thật sự vừa ý mình chưa? Lũ chúng
tôi trông thấy cử chỉ rất chăm chú, quá thận trọng của ông lúc đó, không đứa
nào bảo đứa nào nhưng tất cả đều đồng loạt lặng thinh, nhăn mặt, nhíu mày, nổi
da gà ơn ớn. Chúng tôi tiếp tục đứng im re bất động, làm như ba hồn chín vía
chúng tôi bay tận nơi chốn huyền bí nào, biến đâu mất. Ngay như mấy con ong bầu
no tròn đen huyền thấp thoáng đâu đó trên giàn bầu giàn bí sai trái sai bông cạnh
đó, chúng tôi còn nghe rõ ràng tiếng nó đang bay vù vù… vù vù… hút nhụy. Sau
đó, có đứa chắc vừa mới hoàn hồn, không dứt tắt lưỡi, nhìn ông thom lom không
nháy mắt, tỏ ra càng sợ hãi, rờn rợn tóc gáy. Nó sợ con dao sẽ khứa sâu vào thịt
vào da làm đổ máu ông tôi chăng? Tiếp theo, ông tôi buộc con dao đã mài xong
dính chặt vào đầu một cây sào tre, loại tre già thon thon, suôn đuột vàng óng,
không mấy nặng lắm, rất vừa với sức vóc chúng tôi. Ông tôi kiểm soát tới lui kỹ
lưỡng, còn căn dặn, hết lời nhắc không biết bao nhiêu lần, chúng tôi phải để ý
rọc những cây chuối tơ đang thời kỳ sung mãn và nhứt là rọc mỗi cây độ năm ba lá tối
đa. Không nên bộp chộp, hàm hồ rọc loạn xạ cào cào làm chuối mất sức. Hơn nữa,
chúng tôi phải nhớ nằm lòng, chỉ rọc một bên lá, chừa lại cọng ở giữa và phần
lá bên đối ứng để chuối thở, tiếp tục trưởng thành đều đặn. Chuối sẽ không khựng lại
tai hại. Đặc biệt đối với các loại chuối già lùn hay chuối cau vốn yếu
đuối lại kén đất đai phân phướng, thường chết yểu nơi vùng đất mặn phèn chua lờ
lợ của quê hương tôi. Con dao ‘con chó’ đó bén ngót đã đành, nhưng công việc chẳng chút dễ
dàng như chúng tôi hời hợt lầm tưởng lúc chưa bắt tay nhập cuộc. Lời hứa hẹn
nơi đầu môi chót lưỡi lúc nào cũng dễ, nhưng khi bắt tay vào việc mới biết đá
biết vàng. Các bậc trưởng thượng hay ví von: ‘nói trước bước không qua’ là vậy.
Trong ngôi vườn rậm rạp, nhiều chỗ tối tăm ĩ òm lạnh ngắt, những bụi
chuối hột tơ thường cao lớn dình dàng lắm. Lá chuối thì nhiều, chỉa thẳng đứng
lên tầng không, không ngớt lung lay run chuyển theo từng cơn gió mạnh. Cây sào
tre dài cứ ngoắc ngoải ngả nghiêng nghiêng ngả, bật tới bật lui liên hồi. Chúng
tôi rất đỗi bực mình. Dù sao, chúng tôi cũng phải cố gắng chớ không thể bỏ cuộc
ngang xương nửa chừng được. Lúc nào chơi thì chơi nhưng đến khi vào việc thì phải
làm đến nơi đến chốn. Dù gì chúng tôi cũng phải giữ lời hứa chắc nịt đối với
người lớn, nhứt là đối với bà tôi mà tôi rất thương yêu kính mến. Vì lúc ấy, bà
tôi đang trông ngóng từng phút, đợi chờ có lá để sớm lau chùi, rửa ráy sạch sẽ.
Còn phải mất thêm thì giờ để lá khô. Chúng tôi vất vả khổ nhọc lắm, luôn níu chặt,
gồng cả hai cánh tay, cố kềm giữ cây sào phiền phức nầy được ngay thẳng mới
mong rọc ngon tay. Bấy giờ lá chuối tha hồ rơi lạch tạch nằm la liệt trên mặt đất
gồ ghề lởm chởm cỏ dại. Dĩ nhiên, niềm vui của lũ chúng tôi bất tận. Nó không dừng
lại ở việc rọc lá chuối mà người lớn cho là quá đơn giản. Chúng tôi vui không
phải vì có đóng góp một chút ít công khó gì đó trong việc chuẩn bị cùng với gia
đình nghinh đón Xuân mới. Thật ra, chúng tôi không quên, nhân những lúc tạm nghỉ
xã hơi, tự do thoải mái hái ổi, hái mận, hái xoài và nhứt là mãn cầu ta chín
cây... ăn tỉnh bơ. Hoặc tinh ranh hơn, chúng tôi len lén vặn cổ không tiếc
thương cả loạt hột điều ở những trái chín đỏ au hay vàng mơ hoặc những trái vừa
mới chớm già, nhởn nhơ lòng thòng đúng tầm tay vói hái. Chúng tôi nhanh tay bỏ
gọn vào túi áo khỉ, dự trữ mang kè kè đi xạt bài cào, kéo dà dách hay đánh cắt
tê sát phạt ăn thua đủ ở hiên sau Nhà Hội hay dưới mái ngôi chùa thâm u cổ kín,
những nơi ít người lớn tới lui kiểm soát. Thật tình, tệ nạn bạc bài tai hại nầy
chẳng ai dạy một phút một giờ, nhưng không biết sao bọn chúng tôi lại rành sáu
câu, chắt nhịp.
Nhưng nhiệm vụ chính yếu của
chúng tôi sau đó vẫn là việc canh chừng nấu những nồi bánh tét, có khi hai đợt
trong một đêm. Hằng năm, chúng tôi thức đến trắng dờ con mắt để canh nấu bánh.
Nói nghe cho rôm, cho oai vậy mà! Nhưng thực ra chúng tôi chỉ được giao cho mỗi
một việc ruồi bu kiến đậu là đôn củi vào lò, trông coi để lửa được luôn luôn điều
hòa, không để cháy phừng phừng phí uổn than củi hay tắt ngủm bếp lò lạnh tanh.
Việc làm nầy cũng đã quá quen thuộc từ mỗi cái Tết Nguyên Đán những năm trước
nên chẳng lạ lẫm gì đối với chúng tôi. Phần trở bánh cho đều rất quan trọng,
quyết định sự thành công hay không và do người lớn đảm nhận. Tuyệt nhiên không
thể giao cho đám lóc chóc ba chớp ba nhoáng chúng tôi mó tay vào vì nguy hiểm,
không khéo sẽ bị phỏng tay phỏng chân, phỏng cả mặt mày. Hơn nữa vì chúng tôi vốn
thiếu kinh nghiệm và làm việc tùy hứng. Chập chập, họ thức giấc ra trở bánh
theo thời khoảng nhứt định. Nồi bánh quá to lớn với cái bụng bình rĩnh chang
bang được dễ dàng nhận diện qua lớp lọ nghẹ dầy cui, đen xì i ỉ, hằng ngày được
bà tôi cất giữ cẩn thận lắm, sợ chúng tôi tay chân thái mái, chạy giỡn, lỡ va
chạm mà mang họa. Bà đem úp nó kỹ lưỡng sợ bể ở buồng trong, nơi quanh năm tối
om om, lạnh ngắc. Nơi này, cả một hai tháng trường hay dám chắc còn lâu hơn nữa,
chúng tôi chưa hề thấy bóng dáng bà tôi hay một gia nhân nào tò mò đặt chân tới
bao giờ. Riêng chúng tôi chẳng hề bạo gan léo hánh tới, chỉ dám hó hé lóng
ngóng đứng nhìn trộm từ khe cửa buồng lúc nào cũng khóa chặt. Hôm nay, nhân dịp
chuẩn bị Tết nhứt rình rang tưng bừng, cái nồi đất đen xì ĩ ồm lọ nghẹ đó mới
được bà tôi lôi ra cầu ao sau hè lau chùi rửa rái sạch sẽ để dùng. Bà tưng tiu rất nhẹ tay, trông thận
trọng lắm, miệng bà không ngớt rầy la xua đuổi khi trông thấy chúng tôi léo
hánh gần đó. Dường như bà sợ nó ể mình hay sao hoặc đau đớn nhức nhói không bằng.
Vì bà chỉ sợ nếu chẳng may lơ đễnh, hay vụng về, sơ ý xãy tay làm bể cái nồi
quý ấy, bà không thể nào mua lại nồi mới thay thế cho kịp. Lý do là đường nước
từ nhà ra quận ra tỉnh quá xa xôi, nhiêu khê cách trở đã đành lại thêm lúc đơn
chiếc người, và nhứt là ghe xuồng được ưu tiên tập trung vào việc đồng áng chạy
đua rắp tết. Tôi có cảm tưởng như cái nồi độc đáo đó được xử dụng chỉ một lần
duy nhứt trong năm mà thôi. Tôi dè dặt nói mình có cảm tưởng nhưng thực ra chắc
cũng không xa sự thật bao nhiêu. Ngay những đám giỗ lớn trong gia đình, bà tôi
vẫn một mực không cho dùng tới. Bà để dành chỉ xử dụng vào dịp Tết mà thôi. Ngoài
ngôi vườn rộng thênh thang, nơi một chéo liếp khang trang rộng rãi, ông tôi chọn
để ung đốt rác rưởi, vật dụng phế thải, lá tre khô, chà nhánh, cây mục làm bổi...
cốt lấy tro ung làm phân trồng trọt. Loại phân ung này nếu đem pha trộn, phối hợp
với các thứ phân chuồng trâu bò, gà vịt, heo cúi… bón cây ăn trái và rau xanh rất
tốt. Ngay như bón phân ở ruộng, ông tôi cũng có ý thức. Ông cương quyết chỉ
dùng loại phân ung phân chuồng này theo một tỷ lệ phải phải phân phân, nhằm bảo
vệ môi sinh để nói theo ngôn từ hiện đại. Tuyệt nhiên, ông nhứt định không hề
mó tay dùng đến các loại phân hóa học tân tiến bày bán trong quận trong tỉnh
như phân hiệu "Con Cò" chẳng hạn. Loại phân này một thời được nông
dân dùng bón ruộng, lâu ngày làm hư hại đất đai, ngay cả cua đồng, cá tôm, sò ốc,
đỉa vắt… cũng không sống được. Ông tôi có thói quen trong tính toán thiệt hơn,
làm một công hai việc. Do đầu óc nông dân thiết thực từ xưa ông cha lưu truyền
lại. Ông lựa một cái khạp khá to, thứ khạp rẽ tiền, lâu năm từng cúc cung tận tụy
phục vụ chủ nhà, giờ đây sắp tới ngày phế thãi đập xà bần hay đem bỏ một xó ở gốc
đa cạnh Miễu Bà thâm u hay nơi Miễu Thần Hoàng vắng vẻ. Ông đổ vào đó gạo đỏ và
bo bo với lượng nước theo một tỷ lệ đã được ông tôi tính trước vừa vặn. Sau đó,
ông đậy nắp lại kỹ lưỡng rồi trùm phủ lên đủ mọi thứ vật dụng tạp nhạp để ung. Ung
xong, ông vừa có phân tro bón ruộng bón vườn, vừa có một khạp cháo đầy đặn để
pha trộn với cám xay cám giả hay thân chuối cây xắt nhuyển, để giành cho heo ăn
năm bảy ngày liền. Hết đống ung nầy đến đống ung khác, liên tiếp như vậy suốt
năm, mãi đến lúc bán xong bầy heo Thuộc Nhiêu mới dứt hẳn. Và cũng nhờ vậy, vườn
liếp nhà ông tôi màu mỡ thêm, cây trái tốt tươi xanh um trĩu cành, hoa quả to lớn
hơn nhiều so với các nơi khác, bắt mắt người ngắm nhìn. Nay, cũng chính tại nơi
nầy, ông kê lên ba tảng đá xanh lớn đại, vừa vững vàng, vừa chắc chắn nhằm làm
ông táo, trông sích sao để đội nồi bánh tét.
Bánh tét gói ở nhà ông bà tôi vốn
đã nhiều, mỗi đòn to cở bắp chân người lớn, chặt chịa tròn trịa, trông đồng
thanh đồng thủ. Chúng được bà tôi cột chung chụm lại nhau, cứ hai đòn thành một
cặp. Bà tôi cột như vậy với thâm ý thiết thực giúp những lúc trở bánh sẽ được dễ
dàng và mau chóng hơn. Việc này hẳn là do kinh nghiệm bà từng nhún tay mình vào
mọi việc lớn nhỏ trong nhà trong cửa, chớ không phải ngồi không chỉ tay năm
ngón ra lệnh. Vậy mà vài bà con lối xóm qua nhà gói bánh phụ với bà tôi còn xin
nấu ké cho đỡ tốn công và tốn tiền củi lửa.
Họ gởi
mỗi người một
đòn, hai ba đòn không lớn lắm, ăn Tết nghèo theo kiểu tượng trưng cho có
hương vị ba ngày Xuân kẻo Xuân tàn. Chúng tôi cũng xin được gởi chêm thêm vào nồi
đã chật nức, mấy đòn bánh đèo, thon thon nho nhỏ chưa bằng cườm tay con nít mới
biết đứng chựng. Loại bánh tét tí hon này chúng tôi tập tành bắt chước gói vụn
về với nếp đậu và lá chuối còn thừa lại, lúc mấy bà uể oải, luôn miệng kêu lên
kêu xuống đau lưng, mệt mỏi nhức vai, không còn tha thiết tới nữa. Vả lại, đối
với bà tôi, ngần ấy bánh tét gói xong cũng đã quá đủ cho gia đình rồi. Như đã
nói, chúng tôi được người lớn cắt đặt giao cho nhiệm vụ trông nom đôn củi lửa.
Các bà căn dặn kỹ lưỡng lắm, cứ nhắc đi nhắc lại mãi vì chỉ sợ chúng tôi hứa tiều
hứa quảng cho vui miệng qua truông, nhằm làm vừa lòng những người tín nhiệm
mình. Họ cẩn thận là phải vì chúng tôi khét tiếng bạt mạng lắm. Thỉnh thoảng,
chúng tôi đến bên lò canh chừng, thay phiên nhau đẩy củi vào lò, giữ ngọn lửa
thường xuyên hừng hực, phừng phực càng tốt. Củi đuốc chất thành đống ngùn ngụt
ngoài sân hay trong lẫm trại không sợ thiếu. Đêm Tết, canh chừng nồi bánh tét đối
với chúng tôi cũng tưng bừng đáo để. Vả lại được người lớn giao cho một nhiệm vụ
là chúng tôi hãnh diện trong lòng. Thì ra chúng tôi được đánh giá không còn là
con nít nữa.
Phần bà tôi, bà rất chu đáo do bản tánh cố hữu trời ban cho, biết tính
toán trước, biết lo sau đâu ra đấy, không để sơ suất mảy may. Bà đã bảo gia
nhân lo nấu sẵn một nồi cháo gà khá to, tương ứng với dân số chúng tôi, ngay từ
lúc chạng vạng tối đỏ đèn. Cháo nấu dĩ
nhiên với gạo nàng hương gốc Rạch Đào Rạch Kiến thơm ngon hiếm có. Hiếm có vì
loại gạo nầy năng suất không cao, huê lợi kém nên ít người trồng. Nhưng mùa nào
ông bà tôi cũng trồng vài ba công tối đa cạnh nhà để dành riêng cho gia đình
dùng suốt năm. Gạo giả vừa sạch cám được bà tôi cho thêm một ít nếp trắng tinh
tuyền vào nên cháo mau chóng trở nên nhừ nhừ như tương đâm ở cối đá, nhờn nhờn
quyện vào nhau, thêm lấp lánh nhờ lớp màn màn mỡ gà vàng mơ. Con gà giò, loại
gà trống tốt mã mới biết gáy, vừa tập tành o mái, thỉnh thoảng cao hứng nhảy
lên nhảy xuống đạp trật vuột chưa ra hồn. Nó không to lớn lắm đối với đám đông
chúng tôi năm bảy đứa choi choi đang thời kỳ nhổ giò nhổ cẳng, cơ thể thèm khát
đòi hỏi như tằm ăn lên trước khi kéo kén. Nhưng có điều chắc chắn là những giờ
phút tới đây chúng tôi sẽ được yên tâm no bụng. Nồi cháo to lớn, trông có vẻ lỏng
lẻo lắm, nhưng bà tôi có biệt tài nấu nướng trong đại gia đình ông tôi, nêm nếm
lúc nào cũng vừa miệng, khỏi phải chê trách. Thêm gia vị và hành hương xanh mướt
xắt nhỏ nổi lềnh bềnh, trông cũng bắt mắt. Bà có kinh nghiệm ở lãnh vực ẩm thực
truyền thống dân tộc, vì thuở bươn chải đôn đáo lập nhiệp đã từng xoăn tay áo
phục vụ đôi ba chục công cấy mỗi bữa trưa vào ngày mùa, kết quả rất mỹ mãn. Quả
bà tôi chú tâm về lượng hơn là về phần phẩm. Cũng may, mấy bà lối xóm có gởi nấu
bánh ké cũng có mang đến biếu chúng tôi một vài loại bánh ngọt mấy bà tự làm lấy
theo phương pháp cổ truyền, hoặc vài loại trái cây chín vườn nhà, vàng hườm hay
đỏ mộng vừa mới hái vội vàng lúc sáng sớm tinh mơ, khi trời vừa mới đủ tỏ. Việc
này cốt để chúng tôi mua vui hỉ hạ cho đỡ buồn ngủ lúc về khuya.
Bà tôi quả thật quá lo xa. Nồi
cháo nấu xong xuôi, bà đậy nắp kỹ càng vẫn để nằm im trên giàn bếp củi lửa liu
riu liu riu. Bà ngăn ngừa chó mèo thính mũi đánh hơi dám kéo đến lôi ra ăn hổn
hào. «Chó treo, mèo đậy» cho vững tâm vậy mà! Trước khi đi ngủ, bà còn cẩn thận
ra lệnh cho gia nhân chờ đúng lần trở bánh cuối cùng lúc quá nửa đêm mới ưng
bưng đem ra tưởng thưởng công khó nhọc của chúng tôi. Bà tôi sợ lúc đầu hôm ăn
uống hả hê no bụng, chúng tôi đâm ra làm biếng làm nhát, và tệ hơn nữa còn bật
ra nằm ịch ngủ khì, bất biết trời đất, bất biết đến củi lửa thì hỏng hết mọi việc.
Ngày thường, chúng tôi vốn liếng thoáng, cứ rong chơi phá phách từ đầu làng đến
cuối xóm, không sót nơi nào khiến nhiều bà khó tánh bất bình rủa lên rủa xuống
trùng đầu, mỗi khi các bà tình cờ đụng mặt chúng tôi. Dĩ nhiên những lần bất cập
đó chúng tôi không kịp lánh mặt tránh né. Nhiều khi các bà còn phát biểu búng rẩy
kiểu móc họng vô trách nhiệm, nghe qua phát tức đến lộn gan lộn ruột. Các bà
khó tánh giàn trời nầy thường gọi chúng tôi là mấy "ông thần nước mặn"
hay đám "tiểu yêu bạt búa" lăng xăng lích xích như "khỉ mắc
phong, mắc gió" không bằng. Coi có buồn không? Nay cũng chính mấy bà ấy chớ
có ai khác vào đây đâu lại trở giọng lãng xẹt, bắt đầu khen chúng tôi nức nở,
khen hết lời làm cho chúng tôi đâm ra bẽn lẽn ngượng ngùng. Các bà không ngại mồm
ngại miệng tâng bốc chúng tôi lên tận mây xanh mây trắng. Họ xem chúng tôi như
người quan trọng có tầm cỡ trách nhiệm nặng nề, không thua gì người lớn, tức mấy
anh mấy chú có tiếng cần mẫn tháo vát và hiền hòa dễ thương nhứt xóm. Bỗng
dưng, chúng tôi thấy mình được trọng vọng, dù trong nhứt thời, nhưng sau đó
cũng không bỏ cơ hội ngàn vàng nầy tỏ ra hiu hiu nở mày nở mặt.
Chiếc đệm cũ tưa rìa, có vài nơi
thủng rách một lổ to cỡ bàn tay người lớn do được chủ nhân liên tục dùng vào
nhiều việc tạp nhạp trước đây. Bốn gốc đệm cuốn kèn đủ bốn, bà tôi bảo gia nhân
đem nó ra trải ở dưới gốc cây bưởi chua, cheo chéo "ông lò" nấu bánh.
Ý bà tôi muốn giúp chúng tôi có một nơi khô ráo sạch sẽ ngồi nghỉ chưn hay ngã
lưng về khuya khi thấm đòn, mỏi mệt rã rời. Chúng tôi phải chia nhau ra từng
toán nhỏ vài ba đứa, lò dò ráp chạy tứ táng, tìm kiếm những thỏi gạch tiểu bể
đôi bể ba hay mảnh vụn bếp lò đất nung, tỉnh nước mắm… nằm la liệt chung quanh
nhà. Cùng lắm là những tảng bể đá xanh lượm mót ở đình làng hay Nhà Hội. Chúng
tôi đem dằn lên bốn gốc để đệm được căng thẳng, bằng phẳng ngay ngắn. Sở dĩ bà
tôi chọn gốc cây bưởi chua để trải chiếc đệm, cũng có cái lý của bà. Vì nếu cây
bưởi to lớn sum xuê nầy có bị háp lửa, nám cháy rũ lá và về sau có chết hẳn đi
cũng không sao. Bà chẳng mảy may tiếc nuối chi cả, vì thực ra nó đứng đó cũng vô
ích, chỉ choáng đất trồng, không đem đến một chút huê lợi nào. Nhiều lần ông và
bà tôi có ý định đốn nó phứt đi, nhưng cứ mỗi lần không biết sao lại thôi. Có lẽ
vì hằng năm lúc vào xuân nó cho trái rất to, ruột lại đỏ au, chỉ có cái vỏ mà mắt
hấp dẫn bên ngoài để chưn dĩa quả tử vào dịp Tết Nguyên Đán mà thôi. Kỳ dư
không ai có can đảm mó tay đến. Bánh trái được bày biện ngay chính giữa đệm.
Chúng tôi bắt đầu ngồi xếp bằng chùm nhum xúm xích chung quanh, hãnh diện được
dịp bắt chước các bậc cha ông quây quần nhâm nhi trà Thiết Quan Âm đậm đặc thơm
phức hay nhậu rượu đế quê hương nồng cay ngoài sân, những lúc thức khuya đập
lúa trăng.
Bà tôi cẩn thận chất những đòn
bánh tét vào nồi chật nức như nêm để tiện tặn củi lửa tối đa. Củi đuốc chất
ngùn ngụt đầy sân đầy chòi, dư dả thừa thải, nhưng tánh bà tôi vẫn như thế,
không hề thay đổi: "ăn cây nào rào cây nấy", không hề phung phí. Bà tôi hay nói phung phí sẽ mang tội. Chúng
tôi ngây ngô không biết mang tội gì và mang tội đối với ai, nhưng mỗi lần nghe
qua cũng động lòng. Xong xuôi đâu vào đó, sau khi kiểm soát cẩn thận ba tảng đá
xanh đội nồi bánh, bà ra lệnh bảo chú Thặm, người bà con giúp việc nhà lâu đời
từ thuở còn nhỏ hếu, chẹt hộp quẹt nhóm lửa đốt lò. Lửa bắt hừng hực nhờ mấy ki
đầy nhóc lá tre khô và tàu dừa tàu cau tăng cường làm bổi, nóng rang mặt mày đỏ
hồng của chúng tôi. Chúng tôi chăm chú nhìn những tàn lửa li ti bay vung vít
lên thẳng không trung, len lỏi tránh né mấy nhánh cây chung quanh. Tiếng nổ dòn
tai cứ lạch tạch lạch tạch trầm trầm. Thỉnh thoảng vài tiếng xẹt đùng chát chúa
của những ống tre khô làm hú hồn hú vía cả đám chúng tôi, nhưng nghe cũng vui
tai đáo để. Tiếp theo là những tiếng vỗ tay lốp bốp và tiếng cười ròn rã bật gọng.
Rõ là cảnh tượng pháo Tết của lũ con nhà nông cù lần lữa vui chơi hỉ hạ ăn cái
tết đạm bạc trong khó nghèo. Chú Thặm còn căn dặn chúng tôi đừng quên theo dõi
đôn củi lửa đều đặn, tai phải lắng nghe tiếng gà gáy mỗi lần sang canh, ba chân
bốn cẳng chạy u nhanh vào nhà đánh thức chú ra trở bánh. Còn lại lúc ấy chỉ có
bọn chúng tôi giở giọng trật thượng, làm vua làm tướng đường đường lẫm liệt một
cõi nên tha hồ tự do đấu láo tràng giang đại hải với nhau. Chúng tôi thi đua
tranh kể chuyện trời trăng mây gió, tán hươu tán nai, cười lăn chiêng, nghiêng
ngửa. Chúng tôi chẳng sợ có sự hiện diện của người lớn kiểm soát rầy la quở phạt.
Thỉnh thoảng, chú Thặm mang ra thêm vài cái ghế cây, loại ghế đẩu lặt lìa lặt lọi
mà ông bà tôi vứt bỏ chúng ở một kẹt nào đó nơi trang trại không biết bao nhiêu
đời rồi, thêm mấy cánh cửa chuồng heo chuồng gà mối ăn gần rệu, vài vật dụng
linh tinh lỉnh kỉnh chất chứa ở chòi kho… để chúng tôi làm mồi, những khi củi
to hay củi ướt không kịp bắt lửa. Chú cũng ghé mắt bắt bợm xem chúng tôi có ham
chơi lơ đểnh hoặc ngủ quên để củi tắt ngủm hay không.
Bọn chúng tôi vốn tinh ma ranh mảnh
lắm. Làm sao chúng tôi ngủ yên được, dù có đói rát ruột đến độ nào đi nữa vẫn
phải cầm lòng đợi chờ, khi nồi cháo gà còn lờn vờn trong trí, đang nằm im re
phăng phắt ở giàn bếp. Chúng tôi nói với nhau, đứa nào ngủ sớm cũng tốt thôi:
"Chết một con đoạn một mũi". Nhưng sao đêm hôm đó, chúng tôi chẳng đứa
nào buồn ngủ cả. Ngay cả ngủ gà ngủ gật giây lát cũng chẳng có. Có lẽ do bối cảnh
vui nhộn và tự do hiếm hoi nhứt trong năm khiến chúng tôi thức để tận dụng nó hết
mức chăng? Chúng tôi tiếp tục nói cười, chuyện trò huyên thuyên không lúc nào dứt.
Có đứa bong đùa, đoan quyết nhờ uống trà nước dảo hiệu Thái Đức của người lớn
nên chúng tôi "thức đái" liên hồi và suốt cả đêm? Thực ra, từ lúc đầu
hôm còn tỉnh táo, thằng Sáu Be giang ca nhiều đề tài hài hước dí dởm, nghe cũng
vui vui ngồ ngộ nên chúng tôi cứ vãnh tai chăm chú nghe nó kể vô điều kiện. Nó
thuộc hàng trời đánh thánh đâm lớn gộc trong xóm, hai ba lần thay danh tánh đổi
tên họ, phần lớn do các người đứng tuổi trong xóm khoác lên cho nó, chớ nào nó
có biết nguyên nhân xuất xứ ra sao. Riêng cái tên Tây Rô Be (Robert) ‘‘chính cống
con nai vàng’’ của nó do ông già nó lúc say xỉnh cao hứng đặt cho, được bà con
chơn chất quê mùa ở xóm tôi, để tránh bẻ mồm bẻ miệng, nên gọi nó ngắn gọn với
cái tên là Sáu Be cho dễ nhớ. Từ dạo đó, chúng tôi không ngớt chọc quê trêu ghẹo,
cứ bám riết đeo theo gọi đùa nó là "thằng be he" hay "ông thầy".
Chúng tôi bắt chước một cách máy móc theo người lớn, không cần đắn đo suy nghĩ
phải trái chi cả, chớ thật tình trong thâm tâm, chúng tôi chẳng có đứa nào biết,
dù man mán đi nữa, "ông thầy" vang danh này là con quái con quỷ gì. Nhưng
có một điều chúng tôi không chối cãi được là thằng Sáu Be rất mực thông minh, học
giỏi nên nó được ông thầy giáo già sắp về hưu nơi làng tôi đề nghị cho đi học
tiếp ở trường quận Bến Lức. Đây là chuyện không có gì lạ đến phải ngạc nhiên.
Chẳng những không ngạc nhiên, chúng tôi còn hết lời khâm phục nó nữa. Hôm nay,
nó nghỉ lễ về ăn Tết nơi quê hương cố thổ, trong khi lũ chúng tôi, đứa nào đứa
nấy còn lẹt đẹt, è ạch, bị cột chưn cột cẳng ở trường làng trường xóm. Chỉ mỗi
một lớp năm lớp ba thôi mà có đứa học đến hai ba năm vẫn tiếp tục dậm chưn tại
chỗ, không chút nhút nhít. Dù vậy, chúng tôi coi đó là chuyện thường tình như hằng
ngày ăn cơm với mắm, tép. So với sự lanh lợi bặt thiệp của nó, chúng tôi rõ là
bọn cục mịch quê mùa. Quê mùa cục mịch đến đỗi lố bịch nực cười làm sao, mỗi
khi có một chủ điền giàu sụ nứt trứng, kiểu những vị tiếng tâm nổi như cồn, ruộng
vườn cò bay thẳng cánh, "dưới sông ca nô, trên đường ô
tô"... tạt ngang qua thôn ấp để kiểm tra điền đất, thâu lúa ruộng.
Hoặc họ ghé mắt xem qua đàn trâu năm bảy chục con được ký thác giao cho bà bé
hay bà vợ hờ trông nuôi để cày mướn lấy huê lợi còn đầy đủ hoặc có được mạnh khỏe
hay không? Chỉ nghe tiếng máy ’ca nô’ nổ
lạch tạch xình xịch dòn tai là chúng tôi thi nhau đâm đầu chạy u ra bến sông
đón xem thích thú, mãn nhãn. Còn nói gì khi có một chiếc tàu khói mà nhiều bậc
trưởng thượng gần đất xa trời có thói quen trăm tiếng Tây bồi ‘xăn đá’ (soldat)
gọi là «xà lúp» (chaloupe) kéo còi inh ỏi đôi ba tiếng
cũng là dịp để chúng tôi nở mắt.
Cho đến cái bánh tét truyền thống của dân tộc, chúng tôi quá quen mắt,
hằng năm quen hương vị, từ lúc còn ở truồng chồng võng, cứ chiều chiều hú gọi
kéo nhau tắm sông tắm rạch, trưa trưa lang bạt bập bũng nơi ao hồ đầm vũng đến
khét nắng hôi trâu mà thằng Sáu Be vẫn dong dài lên lớp chúng tôi cho bằng được.
Làm như chúng tôi thuộc hàng ngu ngơ trật búa hay sao. Nó bày vẽ tỏ ra như nó là
người hiểu sâu biết rộng, lão thông sành điệu bài bản về sự tích cái bánh dân
gian nầy. Nó
khẳng định thầy giáo dạy nó ở trường tiểu học Bến Lức vừa mới kể cho bạn bè
cùng lớp nó nghe trong tuần lễ trước buổi Tất Niên, khi chúng nó sắp sửa chia
tay tạm biệt nhau để về quê ăn Tết. Nó tin tưởng tuyệt đối ở những lời kể mạch
lạc của thầy giáo, làm cho tôi bỗng bồi hồi nhớ lại những lời ông tôi thường
hay nói với các bác các chú tôi: "Tử viết..., Thầy Mạnh dạy..." như
khuôn vàng thước ngọc làm chuẩn mực trong việc xử sự ở đời vậy. Nào bánh tét nguyên thủy là bánh Tiết do tích xưa lâu đời, Thái tử Tiết
Liêu, con vua Hùng Vương thứ Tám dùng nếp đậu làm bánh cúng, hiến dâng Trời Đất
để nhà nhà trăm họ được an cư lạc nghiệp, làm ăn phấn chấn, đất nước được thái
bình thịnh trị bền lâu. Nó nói năn có căn cơ ngọn ngành
quá, có chứng tích lịch sử đàng hoàng. Chúng tôi mở tròn xoe đôi mắt, không tin
cũng không được. Rồi nó lại dứt khoát như để tranh thủ lòng tin của chúng tôi,
giải thích rành mạch chữ "Tét" là do người xưa đọc trài trại chữ
"Tiết" mà ra. Nó cũng không quên nhắc thêm mấy chữ Nho với những nét
ngang nét phẩy, sổ đứng sổ nghiêng... rối nhùi tâm trí khù khờ quê kệch của
chúng tôi nữa. Không biết nó có bày vẽ hoặc cường điệu quá đà hay không, mà dù
trúng dù trật ra sao chúng tôi nghe như ‘‘đàn khảy tai trâu’’, như ‘‘vịt nghe sấm’’
không bằng. Rồi nào Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, vị anh hùng lừng lẫy của dân tộc
vừa mới lên ngôi Hoàng Đế lấy niên hiệu là
Quang Trung, đích thân thống lĩnh đại quân thủy bộ trực chỉ Bắc Tiến,
quyết tâm đánh đuổi quân xâm lược, bành trướng bá quyền nhà Thanh ra khỏi bờ
cõi nước nhà, đem lại tự do và nền độc lập quốc gia vẹn toàn. Với một lòng một
dạ sắc son như nhứt, Ngài nguyền giữ vững lời thề ăn Tết chiến thắng ngay giữa
Thăng Long thành. Đại quân của vị anh hùng áo vải đất Tây Sơn, Bình Định đã
dùng bánh tét lúc tiến quân Bắc phạt. Quân binh, tướng lảnh vừa ăn vừa di chuyển
xuyên suốt đêm ngày nhằm cướp thời gian và nhứt là để bảo mật một cách hữu hiệu
nữa...
Đến đây thằng Bảy Nu, một đứa
trong bọn ngu ngơ khờ khạo chúng tôi, từng dậm chưn ba bốn năm liên tiếp ở lớp
ba, ngồi lâu nóng đít, nghe hoài nhàm chán hay sao, khi nghe thằng Sáu Be giang
ca dong dài quá đà tiếp thu hiểu biết của nó nên nó đâm ra ngoe ngoải bực dọc.
Nó cất lớn tiếng cự nự cằn nhằn làm cho bầu không khí bỗng chốc bớt vui. Nó bảo
thằng Sáu Be ỷ mình đi xa, học được một ‘sàn khôn’ về quê vẽ vời lắm lời lắm
chuyện:
- Bánh "Tiết" là cái
quái quỉ gì? Tui nghe sao mà rắc rối quá. Bánh "tét" thì cứ gọi là
bánh tét, cần gì phải giải thích lôi thôi rối nhùi làm chi cho thêm mệt tâm mệt
trí. Theo tầm hiểu biết đơn sơ giản dị của
tui đã được tiếp thu lâu nay ở ông bà cha mẹ hay bà con lối xóm mình thì bánh
tét là do mỗi lần ăn, mấy bà tháo gỡ lá chuối ra lòng thòng để trơ đòn bánh nếp
dẻo màu xanh lá cây thơm mùi chuối chín. Xong rồi họ dùng một sợi chỉ may áo quần
cắn một đầu, còn đầu kia lấy tay níu chặt, vòng một vòng, tét ra từng khoanh nhỏ
đều đặn, tuần tự rơi trên dĩa. Tét bánh như vậy nên gọi là bánh tét.
Nó kết thúc:
- Đơn giản quá mà!
Không hiểu nó suy nghĩ ra sao nhưng lại tiếp lời:
- Có gì là lạ đâu? Thực tế và giản dị vô cùng. Xưa nay ai cũng biết.
Xưa nay ai cũng hiểu như vậy mà. Có ai trong xóm mình nói khác đâu? Thử hỏi thằng
Cu Tèo, con bác Hai Chắc làm từ ở đình mình, hiện còn ở truồng chòng nhọng...
xem nó trả lời cho mà nghe! Có khác chi với tui cho tui chết đi.
Nó cao hứng ỏn ẻn thêm:
- Bo bo thì cứ nói là bo bo. Chớ
nói chi là cao lương mỹ vị mà làm gì cho thêm cầu kỳ khó nghe. Loại bo bo nầy
bà con ở đây ăn ngán tràn bản họng!
Câu chuyện lịch sử về chiếc bánh
truyền thống chưa ngã ngũ trắng đen rạch ròi nhưng cũng chóng qua như bao nhiêu
phút giây vui sướng hạnh phúc ngắn ngủi
trên đời. Về sau, chúng tôi cầm cự mãi cho đến khuya nhờ có bộ bài cào giúp
chúng tôi quây quần xạt cắt tê, kéo dà dách ganh đua ăn thua không nhường nhịn
nhau một nước. ‘Tháng giêng là tháng ăn chơi’… là tháng rượu chè, bài bạc.
Nhưng hôm nay chưa vào tháng giêng mà không biết sao chúng tôi lại bày ra trò đỏ
đen nầy. Đứa muốn ăn thêm sát phạt đối thủ chẳng nương tay, còn chọc quê nói
năn xóc óc, mách qué nữa là khác. Đứa muốn gỡ, lấp ló trổ mòi bợm bãi, ăn vùa
thua giựt, nhưng còn nể nan chưa dám làm ngang trắng trợn. Mỗi lần cần phải
châm thêm củi là một vấn đề nan giải. Thằng nào cũng mê bạc bài, lỡ ăn lỡ thua,
dù là ăn thua bằng hột điều. Do vậy nên sau cùng, chúng tôi chọn giải pháp dĩ
hòa di quí, tạm nghỉ xã hơi. Nồi cháo gà cứu tinh lúc quá nửa khuya cũng vừa được
chú Thặm bưng ra bày biện trang trọng trên đệm cùng mấy cái tô đá to nhứt nhà,
loại tô đã khờn miệng hay rạn nứt chút ít chưa đến đỗi phải đem phế bỏ ở Miễu
Thành Hoàng. Vì bà tôi không tin tưởng chúng tôi mấy. Bà chỉ sợ chúng tôi vô ý
vô tứ làm bể tô kiểu đắc tiền. Chú thừa cơ hội này liền tay trở bánh lần chót
trông điêu luyện lắm. Bánh trông có vẻ
đã mềm mại sắp chín, màu lá chuối trở nên xanh sẫm, mùi thơm lan tỏa theo những
cột khói và hơi nước. Những làn hơi sương mong manh trăng trắng nầy cùng với
khói bếp cay nồng mắt chúng tôi cứ cuồn cuộn tuông thẳng trực chỉ lên không
trung đục đục mờ mờ, giữa những hàng cau hàng dừa hay hàng chuối sứ, nhứt là
tàng nhánh của cây bưởi chua xụ lá như ngáy ngủ buồn hiu. Mấy con chim ăn đêm sợ
hãi trước cảnh lạ lùng bất thường nầy, ngơ ngác hoảng hốt đập cánh vút nhanh biến
mất ngay trên đầu chúng tôi. Để sau đó thỉnh thoảng chúng kêu lên vài tiếng đau
thương rờn rợn xa xa trong cảnh vắng lặng tột cùng của đêm khuya, hòa lẫn với
tiếng lách tách lách tách… trầm buồn của chà nhánh củi khô. Nồi cháo gà bà tôi
nấu dầu có ngon ngọt cách mấy cũng không đủ ma lực lôi kéo đánh động sự tỉnh
táo của chúng tôi vào giờ phút khuya lơ khuya lắc đó. Quả bà tôi dạng dầy kinh
nghiệm sống. Bà dự đoán không sai mảy may. Ăn uống xong no nê, chúng tôi chui
rút vào nhau, quến một cục, sau khi thằng Sáu Be tài khôn tài khéo thuật cho
chúng tôi nghe một loạt chuyện yêu ma quỉ quái làm cho đứa nào đứa nấy cảm thấy
ớn lạnh teo cả ruột gan. Chúng tôi không đứa nào bảo đứa nào cứ thập thò dè dặt,
nhìn dáo dác chung quanh mình, đâu đâu cũng thấy toàn bóng đen oan hồn uổng tử
nhảy múa, chập chờn ẩn hiện trên cành cây khóm lá. Cuộc vui bỗng nhiên lụi tàn.
Tiếng nói cười không mấy chốc tắt hẳn làm tắt luôn cả trách nhiệm canh nồi bánh
chót đã hứa hẹn lúc ban chiều với bà tôi.
Tưng bửng sáng, nhưng trời vẫn
còn tối om chưa sáng hẳn, mấy bà đi chợ sớm nói chuyện lao xao không ngớt ngoài
bờ tre hay trên đường đê xa xa. Chúng tôi tiếp tục ngủ say sưa nồng nàn như chết
dưới gốc cây bưởi chua. Khi đó cũng là lúc chú Thặm bệ vệ đem rổ quảo ra lui
cui vớt đợt bánh chót. Củi lửa đã rụi tàn từ lâu. Bếp lò trở nên lạnh tanh. Chú
giở nắp ra, ngạc nhiên chỉ thấy còn lại một hai tấc nước vẩn đục, lềnh lềnh đọng
sâu dưới đáy nồi. Chú hoảng hồn, vội vàng lên tiếng tri hô. Thì ra lúc chúng
tôi ngủ bất biết đất trời, một tay trộm đạo vặt nào đó trong xóm chơi cửa cha.
Nó canh chừng lúc giờ tý canh ba không người kiểm soát nên ra tay trộm hết bánh
rồi âm thầm biến dạng. Bà tôi và bà con được báo động, lật đật xúm nhau đồng
thanh tỏ ra thất vọng, chỉ còn có nước kêu trời như bọng. Tội nghiệp các bà lối
xóm có gởi bánh nấu ké ở nồi bánh chót nầy quả thực thuộc số con rệp. Các bà đã
"nghèo lại mắc cái eo". Họ mất hết bánh, còn chi để cúng kiếng, rước
ông bà ngày Xuân. Ông bà về vui Xuân ăn Tết sẽ quở mắng trách móc đã đành,
nhưng các bà còn canh cánh lo âu, năm mới sẽ gặp bao nhiêu là chuyện trục trặc,
không ‘‘xuôi chèo mát mái’’ như năm vừa qua. Họ sẽ làm ăn khó khăn trật vuột là
cái chắc, mùa màng thất bát tệ hại, con cái và gia đạo liên miên xào xáo... Tết
nhứt không có bánh tét kể như thiếu hẳn mùa Xuân. Vì nghĩ như vậy và nghĩ tình
bà con, bà tôi biếu cho mỗi người một đòn tượng trưng rước
ông bà về ăn Tết. Trong khi chúng
tôi buồn xo thất vọng, không nhìn thấy để thưởng thức mấy đòn bánh tý hon chúng
tôi o bế nắn nót ngày hôm trước. Thằng ăn trộm cắc cớ này tham hết mức tưởng tượng.
Nó táo vét sạch sành sanh, không chừa một đòn gọi là lợi nồi cho phải điệu nghệ
giang hồ.
**
Mỗi người trong sâu thẳm tâm hồn mình đều có một chỗ trang trọng để giữ ít nhiều kỷ niệm về quê hương xứ sở. Tôi chọn cho tôi cái đòn bánh tét truyền thống dân gian lâu đời nhứt của dân tộc, để qua hình ảnh luyến lưu đó gắn bó không rời với bản làng thôn ổ, với nơi chôn nhao cắt rốn của tôi. Cái gì đã qua trong đời là cái gì mình không thể giữ được trong thực tế của cuộc sống. Nhưng thiết nghĩ cái phần còn lại trong lòng mình sẽ giúp mình hướng về tương lai với những bước đi vững chắc và đầy tin tưởng. Tôi có dịp đọc đâu đó một câu của kịch tác gia lừng lẫy của Anh Quốc, William Shakespeare: «Quá khứ là một giáo đầu tuồng» (Le passé est un prélude). Vì quá khứ sẽ dẫn dắt chúng ta bước dần vào những lớp lan oái oăm phức tạp, những tình tiết éo le ngang trái của cuộc sống hiện tại. Để rồi từ đó kết thúc qua những dự phóng ở tương lai mai sau. Mà đối với tương lai, chúng ta chỉ nhìn dưới một khía cạnh duy nhứt, trong khi quá khứ luôn biểu lộ và cống hiến cho chúng ta rất nhiều bình diện đa dạng hơn. Hôm nay, nhân mùa Xuân sắp về, một dịp để được hồi hướng nhắc nhớ những chuyện đã qua, tôi đã mượn một vài kỷ niệm êm đềm nên thơ thuở ấu thời nơi thôn làng ngăn cách cả nửa vòng trái đất để được thêm một lần nữa sung sướng trầm mình trong hoa thơm suối mát, trong hương đồng vị đất bất tận của quê hương. Nhờ đó mà quên đi phần nào những dằn xé bệnh hoạn, những chật vật hao gầy của cuộc đời lưu vong tạm bợ hiện nay.
Người ta thường nói kỷ niệm là
trạng thái tâm hồn làm suy giảm trầm trọng đà tiến, hướng về tương lai. Nhưng đối
với tôi, kỷ niệm, dù vui dù buồn, vẫn là một thần dược hiệu nghiệm, có mãnh lực
xoa dịu vỗ về và cứu rổi tâm hồn phiêu bạt, trôi giạt của tôi nơi đất tạm dung
phứt tạp, lắm ưu phiền. Tôi có may mắn đọc được một câu nói trong nhiều câu nói
bất hủ khác của ông Winston Churchill, một nhà chánh trị sáng chói của Anh Quốc
trong thế chiến thứ hai và cũng là một vĩ nhân trên thế giới: «Càng biết
nhìn xa về dĩ vãng, càng sẽ thấy xa hơn trong tương lai». (Plus vous saurez
regarder loin dans le passé, plus vous verrez loin dans le futur). Gần đây, tôi cũng có dịp ngưỡng mộ, nhưng quên hẳn xuất xứ
nơi nào, do năm tháng xoi mòn phũ phàng bộ nhớ của tôi, một câu nói
tôi rất mực tâm đắc. Và nếu tôi không lầm thì tác giả chính là Simone Weil: «Chúng
ta khắng khít với hiện tại. Chúng ta sáng tạo ra tương lai trong sự tưởng tượng
của chúng ta. Chỉ duy nhứt quá khứ, khi chúng ta không tái tạo được nó, nó là một
thực tế tinh ròng».
Tôi không biết mình có diễn đạt
đầy đủ và trọn vẹn ý nghĩa sâu sắc của câu nói hay không, nên thiết nghĩ xin
ghi lại nơi đây nguyên văn Pháp văn để các bực thức giả và khoa bảng không bận
tâm phiền hà:
«Le présent, nous y sommes
attachés. L’avenir, nous le fabriquons dans notre imagination. Seul le passé,
quand nous ne refabriquons pas, est réalité pure».
Trong niềm tin ấy, nhân Tết Nguyên Đán, những bạn đã để chút thì giờ
quý báu đọc những dòng hoài niệm nầy, tôi hy vọng các bạn sẽ bắt gặp ở đây vài
phút thoải mái cho riêng mình. Mà hy vọng, có một bực thức giả Pháp gọi là sự vai
mượn của hạnh phúc. Đó cũng là ước mong sâu thẳm của tôi.
-***-
Chỉ Là
Kỷ Niệm
1954. Hiệp định đình chiến Genève (Thụy Sĩ) được ký kết vào giờ chót ngày 20 tháng 7 chia đôi nước Việt Nam làm hai miền Nam Bắc, lấy con sông Bến Hải nơi vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Về phía Việt Nam Quốc Gia, chánh phủ dứt khoát không chấp nhận việc chia đôi đất nước nên từ chối đặt bút ký kết hiệp định nhằm cực lực phản đối cộng sản Bắc Việt cấu kết với những thế lực quốc tế vì quyền lợi riêng tư, không tôn trọng chủ quyền thống nhứt tròn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Nhưng sau cùng vì áp lực của quốc hội Pháp và của các cường quốc nhập cuộc ở bàn hội nghị nên đình chiến cũng được tôn trọng, chờ đợi hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhứt hai miền Nam Bắc sau hai năm. Theo tinh thần hiệp định, các lực lượng võ trang và cán bộ dân sự các cấp của cộng sản đều phải tập kết về Bắc theo thời hạn qui định ở nhiều địa điểm trong Nam, mà lâu nhứt là ba tháng như ở điểm tập kết Cà Mau. Với bản chất gian dối, lưu manh lật lộng cố hữu, vào giờ chót Bộ Chính trị cộng sản chủ trương gày lại Miền Nam một số lớn cán bộ đảng viên nồng cốt, cũng như bí mật chôn giấu vũ khí ở những sào huyệt cũ nhằm chờ cơ hội và thời điểm thuận lợi ngốc đầu dậy đánh phá cướp chính quyền bằng vũ lực. Dù sao, thời gian ngắn ngủi mấy năm dưới sự giám sát của Ủy hội Quốc tế, Miền Nam cũng được tạm thời hưởng cảnh êm ấm thanh bình sau chín năm dài chinh chiến liên tục, gây ra biết bao cảnh tang tóc đổ vỡ, máu xương khắp nơi. Người dân từ thành thị phồn hoa đông đảo đến tận thôn quê hắc hiu hẻo lánh bắt đầu góp công chung sức làm lại cuộc đời mới trên điêu tàng tang tóc đó. Và chánh phủ trung ương cũng đã tích cực xây dựng những cơ chế tối cần thiết của một quốc gia độc lập pháp trị trên tinh thần tự do dân chủ, tôn trọng nhân quyền. Mọi người được ấm no hạnh phúc theo đúng truyền thống ông bà tổ tiên dày công dẫn dắt, chan chứa tính nhân bản, thăng hoa giá trị vĩnh cửu của gia đình, nền tảng vững chắc của xã hội. Quốc gia Việt Nam từ đó trở thành một quốc gia tiêu biểu hàng đầu trong vùng Đông Nam Á và được các nước Âu Mỹ nể trọng, lần lượt nhìn nhận cùng tích cực giúp đỡ về mọi mặt.
Thời
gian mấy năm ngắn ngủi trong bối cảnh lịch sử thanh bình và ổn định xã hội ấy
trùng hợp với sự vừa thi ra trường của Quách Thanh Ba, một thanh niên đầy cao vọng,
phấn khởi và mạnh dạng lao vào cuộc sống theo một hướng đi hoàn toàn thuận lợi
hơn những thế hệ cha anh ngày trước, vốn
bị khựng lại vì thảm họa tai hại của chiến tranh. Vừa đổ xong bằng tú tài đôi
nhưng Thanh Ba, ngoài ý muốn và ước mơ trân quý của mình, không thể tiếp tục học
lên cấp đại học do hoàn cảnh gia đình bẩn chật không cho phép. Anh chẳng may mồ
côi cha rất sớm ở tuổi còn quá trẻ, ngày ngày chỉ biết nô đùa vui chơi cùng bạn
bè trang lứa, ngoài những buổi cặm cụi vùi mài nơi trường ốc. Mẹ là cô giáo
làng với cuộc sống khiêm nhường, biết đủ biết thiếu chừng mực ở vùng thôn quê
ruộng rẫy, nơi chôn nhao cắt rún của bà. Nhiệm vụ chánh, hầu như duy nhứt của
bà là gõ đầu trẻ do cấp trên qui định vào mỗi đầu niên khóa mới. Con người vốn
cần cù, mộc mạc chân quê, bà không có mảy may cao vọng thăng tiến nào ngoài lủy
tre xanh ngất nghểu bao bọc xóm làng. Bà chỉ quan tâm và tận tụy dạy dỗ, dắt
dìu trẻ con những gia đình kham khổ bất hạnh nơi thôn xóm bản quán mình để mong
về sau chúng trở nên người hữu dụng, ích nước lợi dân. Bà tâm niệm khắc ghi âm
thầm trong lòng sứ mệnh vô danh đó, xem như một sứ mệnh của muôn thuở muôn đời.
Cuộc đời thanh bạch “an bần lạc đạo”, bằng lòng và vui sống với cảnh khó nghèo
đạo nghĩa của bà đã giúp con là Thanh Ba học nốt đến phần tú tài, quả là một cố
gắng vượt bực hiếm có trong làng trong tổng thời buổi ấy, một hy sinh bao la trời
biển của người đàn bà góa khi còn rất trẻ, chưa bước qua khỏi tuổi ba mươi mà
ngày xuân thắm thoát đi qua phũ phàng không hay. Thanh Ba cũng ý thức được sự
hy sinh của hiền mẫu nên chàng không một chút đắn đo suy nghĩ. Sau khi dứt ban
tú tài toàn phần và có mảnh bằng trong tay, cái phao để hy vọng làm bàn đạp lập
thân, chàng ngược xuôi tìm kiếm việc làm giữa đô thành Sài Gòn hoa lệ, tuy mênh
mông cực kỳ đông đúc, nhưng đối với người cô đơn vô thân, không nơi nương tựa,
không người đỡ đầu hướng dẫn như trường hợp của chàng, quả nó trông nhỏ hẹp hơn
bao giờ hết. Cũng may lúc ấy cơ quan Y Tế Quốc Tế (Organisation Mondiale de la
Santé) được gọi tắc là O.M.S. có triển khai một trụ sở ngay tại trung tâm đô
thành nhằm giúp đỡ về mặt y tế cho nước Việt Nam son trẻ vừa mới thu hồi nền độc
lập trên tay người Pháp và đang tiến hành con đường dân chủ hóa. Trong chương
trình giúp đỡ tích cực nầy, cơ quan có mở những khóa huấn luyện nhằm đào tạo những
chuyên viên trung cấp ở lãnh vực y tế xã hội. Thanh Ba rất vui mừng, chộp ngay
thời cơ ngàn năm một thuở đó, chạy đôn chạy đáo lập hồ sơ hành chánh ghi tên
xin theo học. Nhờ anh có cấp bằng tú tài đôi lại là tú tài Pháp, trong khi tiêu
chuẩn để thu nhận chỉ đòi hỏi có trình độ tối thiểu là bằng thành chung hay
Brevet của Pháp (tương đương với cấp bằng Trung học Đệ Nhứt cấp của Việt Nam
sau nầy). Trong thời gian thụ huấn, anh được hưởng một số tiền trợ cấp hằng
tháng, tuy không to lớn lắm nhưng dù sao cũng đủ giúp anh đỡ vất vã trong cuộc
sống bươn chải hằng ngày. Anh chọn theo học ngành huyết thanh học và côn trùng
học, hai môn học mới mẻ lúc bấy giờ. Chương trình lý thuyết kéo dài sáu tháng rồi
sau đó tiếp tục học vừa lý thuyết vừa thực tập ở Viện Pasteur nơi đường Pasteur
Sài Gòn.
Ở đời
việc may rủi lập thân thường xảy ra từ một sự tình cờ. Tình cờ theo như nhận
xét của nhà văn Nhật Bản Haruki Murakami là những mối dây ràng buộc từ những kiếp
trước. Có lẽ ông vốn là một Phật tử thuần thành nên thấm nhuần thuyết nhân quả
chăng? Tình cờ ở đây là Bộ Y Tế cũng vừa mới thành lập Chương trình Diệt Trừ Sốt
Rét rất qui mô, phối hợp giữa Bộ Y Tế cùng Cơ quan Y Tế Quốc Tế và do sự đài thọ
hoàn toàn về mặt tài chánh của phái bộ viện trợ USOM của Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Chương trình rầm rộ nầy với tầm hoạt động rộng rãi trên toàn quốc, từ cầu Hiền
Lương đến mũi Cà Mau, được đặt dưới quyền điều khiển của thiếu tướng Trần Tử
Oai trong quân lực Việt Nam với chức vụ Tổng quản trị. Trụ sở chánh đặt tại số
20 đường Ngô Quyền trong Chợ Lớn, ngoài một chi nhánh quan trọng khác nơi bệnh
viện Nguyễn Văn Học bên Gia Định. Cùng lúc vừa dứt khóa học ở cơ quan Y Tế Quốc
Tế, Thanh Ba hào hứng đệ đơn xin vào làm việc ở đây với tư cách là chuyên viên.
Chương trình Diệt Trừ Sốt Rét lúc khởi thủy chia ra làm hai nha. Nha Hành chánh
và Nha Chuyên môn. Nha Hành chánh do một ông đại tá sắp về hưu đảm nhận trong
khi Nha Chuyên môn do một bác sĩ chịu trách nhiệm điều hành. Nha Chuyên môn lại
chia ra làm hai sở: sở Công tác và sở Dịch học. Sở Dịch học cũng do một bác sĩ
đảm nhiệm gồm hai phòng: Phòng Khảo Sát và Thí Nghiệm. Chính trong Phòng Khảo
Sát nầy, Thanh Ba được bổ nhiệm làm việc xuyên suốt từ đó đến ngày Mặt trận Giải
phóng Miền Nam, công cụ bù nhìn của cộng sản Bắc Việt được thành lập và thường
xuyên gây xáo trộn, đánh phá làng xã cùng các thị trấn khiêm nhường, anh mới
ngưng việc hẳn do đúng tuổi động viên. Chương trình không lâu sau đó bắt buộc
phải thu gọn lại do tình hình an ninh nơi vùng nông thôn quận huyện nhỏ không
được đảm bảo, nhứt là về đêm. Việt cộng bắt đầu phát động chánh sách hận thù
giai cấp, triển khai mật lệnh “diệt tề phản đế”, gây tang tóc máu lệ khắp nơi, ở
những vùng xa xôi hẻo lánh đó, nơi mà dân tình cô thế đêm đêm bị chúng rúng ép,
hăm dọa và khủng bố. Dĩ nhiên, chúng không từ bỏ việc bắt cốc hay bắn giết cán
bộ của chương trình vì chúng hàm hồ gán cho cán bộ thừa hành là công cụ của CIA
Mỹ. Nên nhớ trong thời gian thanh bình sau hiệp định đình chiến 1954, một số sĩ
quan cấp úy, đại đa số là trung úy hay thiếu úy được chánh phủ thời Đệ nhứt Cộng
hòa cho giải ngũ và trở thành những trưởng đoàn của chương trình. Còn phần lớn
cấp trưởng ban đều là những cựu hạ sĩ hay trung sĩ. Có thể nói, Thiếu tướng Tổng
Quản trị điều khiển chương trình như một đại đơn vị trong quân đội. Thanh Ba
thường xuyên đi công tác hầu hết nơi các quận huyện, khi thì đi riêng lẻ với
phái đoàn gồm phần đông là cán bộ người Việt và một ít người Thượng, những trưởng
ban được huấn luyện cấp tốc vài tháng. Thỉnh thoảng, anh tháp tùng đi chung với
một bác sĩ cố vấn người Pháp, chuyên viên Y Tế Quốc Tế cùng với các bác sĩ và Kỹ
sư Y tế của Hoa Kỳ, đại diện cơ quan USOM, chủ quản đài thọ mọi kinh phí của
chương trình. Nhiệm vụ chính yếu của những lần đi khảo sát sâu rộng nhưng quá vất
vả nầy nhằm định bịnh sốt rét, qua việc khám lá lách trẻ con, định mức lá lách
to tính từ mức 1 tới 5 để làm thống kê, cùng với việc lấy máu, bắt muỗi đòn sóc
và lăng quăng ở ao hồ, mương rảnh, ruộng rẫy cùng những nơi nước đọng để nghiên
cứu. Nhờ vậy có thể nói chỉ trong thời gian mấy năm thanh bình chóng qua, anh
đã có dịp viếng thăm hầu hết các tỉnh quận ở trên toàn quốc, từ Quảng Trị tuyến
đầu tổ quốc đến Cà Mau cuối mũi quê hương, kể cả các địa danh hoang dả nơi đèo
heo hút gió vùng cao nguyên Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, không quên Côn Đảo và
Phú Quốc. Có nhiều quận anh đi khảo sát hầu như khắp các thị trấn đông cư dân
và làng xã đèo heo thưa người. Cái thời mà anh luôn hãnh diện được biết qua với
những kỷ niệm khó nhạt nhòa để lưu luyến mãi trong anh…
**
Mười năm dài bó thân bị đày ải làm thân trâu ngựa trong lao tù của cộng sản từ Nam ra đến Bắc, được kẻ chiến thắng gạt gẫm khoác cho cái tên mỹ miều là “trại học tập cải tạo” đã giúp cho Thanh Ba thấm thía về ý nghĩa của cuộc sống và phong cách cùng sĩ diện của con người trong hoàn cảnh ngang trái éo le. Cũng may đối với những con người giàu ý chí và nghị lực, càng lỡ bước sa chân vào hố sâu thăm thẳm của đau khổ bao nhiêu thì họ càng trở nên lớn mạnh và vững tin ở sức mình bấy nhiêu. Sau khi rời khỏi Chương trình Diệt trừ Sốt rét, Thanh Ba được động viên vào trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức do nhu cầu chiến trường sôi động đòi hỏi khẩn trương lúc bấy giờ. Từng lớp thanh niên nhập ngũ khoác áo lính như anh để thi hành nghĩa vụ công dân thời đất nước ngửa nghiêng binh lửa. Việt cộng đã bắt đầu đấu tranh võ trang sau thời gian mấy năm trường kỳ mai phục chờ thời cơ ở Miền Nam với sự chi viện nhân lực và vật lực ngày càng ồ ạt của tập đoàn miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ra trường, đáng lý ra anh được chuyển về phục vụ ở cục Quân Y, nhưng do một sự réo gọi của lương tâm và ý thức mãnh liệt về nhiệm vụ của người trai trước viễn ảnh sống còn của đất nước, anh xin tình nguyện phục vụ một đơn vị tác chiến. Bản chất của anh rất năng động. Những năm phục vụ ở Phòng Khảo sát thường xuyên đi công tác khắp các nẻo đường đất nước đã giúp anh thỏa mãn với mộng ước phóng túng khám phá của mình. Anh không thích ngồi bó gối ở các phòng nghiên cứu buồn tênh, ngày hai buổi sớm đi chiều về. Anh được bố trí đến bổ sung cấp số sĩ quan thuộc sư đoàn 7 Bộ binh thuộc Vùng IV chiến thuật. Nơi đây, anh đã từng lập được nhiều thành tích lẫy lừng ở cấp đại đội qua những địa danh địa thế anh từng đi qua suốt tháng năm lặn lội khảo sát tận tường trong Chương trình Diệt trừ Sốt rét trước đây. Cũng nhờ vậy, một thời anh góp công lưu dấu cùng đồng đội trong trang sử bi hùng của sư đoàn. Đến 30 tháng tư năm 1975, trong đau khổ và tủi nhục tột cùng, anh cam đành rã ngũ theo lệnh buông súng chờ bàn giao cho cộng sản của cố Quốc trưởng Dương Văn Minh. Để sau đó cùng chung số phận hẩm hiu trái ngang trong uất hận của đồng đội các cấp chỉ huy nơi các “trại học tập cải tạo” mà không bút mực dù tài tình thế nào cũng khó tả hết được. Lúc đó anh mang cấp bậc trung úy. Mấy năm sau, được tạm thời tự do, một sự tự do tạm bợ trên văn bản hay nơi mồm mép dối gian lật lộng của cộng sản qua những cái loa treo nơi đầu đường phố hay phường khóm cứ chát chúa quảng bá những điệp khúc tuyên truyền vô duyên, trơ trẻn bất tận chán ngấy, anh tiếp tục sống vất vơ vất vưởng không ngày mai nơi xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa. Hằng ngày anh bị tên công an răng đen mã tấu khu phố theo dõi kiểm soát nơi ăn chốn ở cũng như những lần di chuyển khỏi nhà. Chúng còn làm nhục anh qua những công tác chà đạp nhân phẩm con người không thể tưởng tượng được. Hằng tuần anh phải trình diện ở phường để được quản lý chặt chẽ qua những bản tự phê bình đánh giá mức tiến bộ để hội nhập vào xã hội mới.
Thanh
Ba vẫn là một người sống bên lề của phường khóm, bên lề của xã hội loài người
vì không được đảng nhìn nhận là một công dân chính thức. Lý do là anh chưa được
tổ dân phố trả quyền công dân trong một buổi hợp khoáng đại mà các thành viên lần
lượt kẻ trước người sau đứng lên phê bình tác phong và thái độ phục thiện của
anh, xem có xứng đáng hay không. Một khi chưa được trả quyền công dân, anh
không thể xin một việc làm, dù là việc làm chân tay nơi các các cơ sở công tư hợp
doanh, chớ không dám mơ ước ảo vọng nơi các xí nghiệp quốc doanh do nhà nước tiếp
thu quản lý. Nơi nầy chi bộ xí nghiệp không chấp nhận thu nhận quân nhân các cấp
thuộc chế độ cũ qua bảng sơ yếu lý lịch kê khai gia đình trải qua ba bốn thế hệ
cả bên nội lẫn bên ngoại. Không công ăn việc làm chắc chắn, anh là đối tượng bị
đưa đi sản xuất tự túc ở những vùng kinh tế mới nơi cùng cốc hẻo lánh, núi rừng
hoang vu “chó ăn đất gà ăn đá”. Bây giờ đối với anh chỉ còn con đường duy nhứt,
tạm thời giải thoát mình khỏi những khổ ải vật chất và tinh thần hằng ngày là
chạy đôn chạy đáo tìm kiếm một nơi trú thân ở những tổ hợp hay hợp tác xã. Đô
thành Sài Gòn lúc bấy giờ mọc lên như núm không biết cơ man nào mà kể cho xiết
những hợp tác xã loạn xà ngầu, nhan nhản hầu như phường khóm nào cũng có. Đại
khái là những tổ hợp hay hợp tác xã may mặc, sơn mài, rèn những dụng cụ nông
nghiệp, làm tương chao, sản xuất đường mía mở gà, đường tán, hớt tóc… toàn là
những việc làm lêu bêu không đảm bảo, do chánh sách “ngăn sông cách chợ”, xóa bỏ
cào bằng tư hữu, khiến người dân vốn dĩ đói rách trơ xương từ ngày cờ đỏ lên
ngôi càng thêm bần cùng xơ xác hơn lúc nào hết. Cộng sản thay đổi chủ trương và
chánh sách như chong chóng theo nhu cầu dối gian gạt gẫm của chúng. Nếu nói
chánh quyền dốt nát lạc hậu, bít bôi ngu đần trong việc quản lý đất nước thì
không hẳn đúng lắm. Chỉ đúng một phần vào thời buổi tiếp quản đó. Nhưng chủ
đích của chúng là cố tình tạo ra những khó khăn trong việc điều hành để những tổ
hợp và hợp tác xã thất bại, khánh tận nhằm khóa tay xua đuổi người dân ra khỏi
thành phố. Qua đó, chúng mới có lý do chiếm hữu tài sản, nhà cửa đất đai cung cấp
cho cán bộ rách bươm từ trong R đang tập tành nếp sống mới nơi đô thị. Tuy
nhiên có còn hơn không, ít ra cũng giải quyết được những bế tắc trong thời khoảng
nhứt định hòng mưu tìm con đường cứu rổi khác ở những ngày tới. Suy đi nghĩ lại,
Thanh Ba không thể thấy được con đường tự cứu nào hơn là tìm phương hướng ra
khơi, vượt biển Đông. Tin tức bạn bè, thân nhân quyến thuộc tới tắp đưa về sau
khi họ đến được đất liền ở Thái Lan, Mã Lai Á hay Nam Dương quần đảo cũng như tận
Phi Luật Tân giúp anh càng thêm phấn chấn, tự tin, càng quyết tâm mạnh bước bôn
ba kiếm tìm con đường giải thoát. Cho dù con đường hạnh phúc ước mơ đó quá đắc
giá, giăng mắc những nguy hiểm không lường trước được. Nhưng ác nghiệt thay,
tình trạng bế tắc chưa được trả quyền công dân của anh là một trở ngại lớn lao
khó vượt qua. Việc di chuyển về những vùng ven biển bị tên công an khu vực kiểm
soát gắt gao còn hơn cả những tên lại ngục hắc ám, vô tâm vô hồn thời thực dân
Pháp thịnh trị quản lý tù nhân không bằng.
Bây giờ
anh mới nghĩ đến giải pháp cuối cùng là phối hợp với một vài người bạn đồng ngũ
và đồng cảnh tù tội cảm thông và tín nhiệm nhau đứng ra thành lập tổ hộp sản xuất
xà bông thông dụng qua chiêu bài thời thượng phục vụ lớp nghèo thành thị, phục
vụ giai cấp công nông. Nhờ vậy, việc xin phép tắc được tiến hành xuôi chèo mát
mái do tên phường trưởng được tận tình chiếu cố
“bồi dưỡng” xứng đáng, một khi hắn đổi lốt nghèo mạt từ đường để tập
tành làm giàu và hưởng thụ với những tiện nghi xa hoa do Mỹ Ngụy để lại. Việc sản
xuất xà bông thủ công nầy đòi hỏi nguyên liệu chánh yếu là cái dừa khô để nấu
thành dầu. Anh hồi nhớ thuở làm việc ở Phòng Khảo Sát Chương trình Diệt Trừ Sốt
Rét từng đi khảo sát những vùng ven biển như Bình Đại, Thạnh Phú, Ba Động, Hộ
Phòng, Năm Căn, Cái Nước, Đầm Đơi, Hòn Chòng, Miệt Thứ... chưa kể những bãi biển
quến khách du lịch ngày xưa như Bà Rịa, Long Hải, Vũng Tàu, Cần Giờ, Tân Thành,
Vàm Láng Gò Công v.v… Bao nhiêu địa danh quen thuộc một thời lưu dấu nơi anh,
bây giờ trong giây phút chán chường cùn đường đã giúp đem đến cho anh bao niềm
vui hy vọng và tin tưởng. Ngày xưa, mỗi lần hoàn thành xong công tác, nhà chức
tranh địa phương ở các tỉnh quận miền Nam thường rộng rãi, chịu chơi lắm. Họ đều
có tổ chức tiệc tùng linh đình, thếch đãi trọng hậu, mọi người vui chơi thả cửa
quên đời. Và qua những lần đó, anh đã thành công nối sợi dây tình nghĩa với nhiều
người tai mắt có thế lực và điều kiện. Nay chính những người nầy có thể giúp
anh một tay đắc lực hay ít ra cũng cố vấn anh bằng những kinh nghiệm thiết thực
giữa những người thật tình thương yêu nhau trong cảnh khốn cùn. Anh thầm nghĩ
như thế. Nguyên liệu dừa khô vốn được nông dân khai thác thừa thải ở các tỉnh
phương Nam, bây giờ không được quyền bày bán tự do. Khác hẳn với ngày xưa, nơi
chợ nào ở đô thành dưới hai chính thể Cộng hòa đều dẫy đầy, người mua kẻ bán tấp
nập. Cộng sản kiểm soát gắt gao việc chuyển vận hàng hóa vào thành phố nhằm biến
người dân đến mức ngất ngư kiệt quệ nhằm xua đuổi họ đi vùng kinh tế mới. Trong
giai đoạn đầu mới thành lập, để uyển chuyển chủ trương ve vản bịp bợm, tổ hợp
được tạm thời cho phép đi thu mua dừa ở các tỉnh nổi tiếng trồng dừa qui mô. Chẳng
những được phép di chuyển đi đường mà anh còn được ủy ban phường cấp giấy giới
thiệu với địa phương nhờ giúp đỡ. Nhờ vậy không những anh đi thoải mái đến những
tỉnh ven biển ven sông như Bến Tre, Định Tường, Vĩnh Long… mà còn lợi dụng cái
quyền được đi lại hiếm hoi đó để đặt chân đến các quận xa xôi hẻo lánh của những
tỉnh ngày xưa anh từng đặt chân tới như Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau, Rạch Giá…
nhằm dò dẫm, mầm mò nghiên cứu tình hình. Hy vọng bỗng dưng đã lóa lên sáng
trưng trong anh…
**
Bến bắc Rạch Miễu một buổi sớm mai trời trong gió mát. Khách qua bắc không được đông đảo lắm, trừ những người đàn bà khắc khổ buôn gánh bán bưng lén lút nhanh chân, đôi mắt dáo dác láo liên để sớm phát hiện bóng dáng bọn công an áo vàng hầu trốn lánh kịp thời. Nếu chẳng may hôm nào rủi ro bị chúng chộp thì kể như vốn liếng sạch sành sanh, gia đình trở nên sa sút không sao cất đầu lên được. Thanh Ba đội lụp xụp cái nón nĩ xám dợt đã ngã màu năm tháng, nơi chóp nón thủng một lổ to bằng ngón tay cái người lớn. Anh đang lầm lũi, chậm rãi đi trên con đường ngắn ngủn dẫn xuống bến bắc, con đường nầy anh rất quen thuộc những lần hành quân tiểu trừ Việt cộng trong phong trào “đồng khởi” ở Bến Tre. Bao nhiêu kỷ niệm của một thuở súng gươm hào hùng với lớp lớp bạn bè đồng ngũ sống chết có nhau nay kẻ mất người còn xiêu lạc khắp bốn phương trời bỗng vụt đến với anh trong ngẩn ngơ tiếc nuối. Trước mặt anh, chiếc bắc ngày xưa vẫn còn đó, chẳng chút đổi thay, đang đậu lạnh lùng nơi cầu nổi, dường như cũng buồn lây với vận nước đang buổi ngã nghiêng “đổi đời” tai hại. Con đường tuy quá ngắn nầy ngày xưa tấp nập kẻ xuống người lên, ông đi qua bà đi lại như mắc cửi với hàng quán xan xác được trang hoàng màu sắc lộng lẫy gọi mời, nay hoàn toàn mất hẳn vẻ vui nhộn sung túc của thuở nào. Tiếng nói cười, đùa giởn, miệng tranh nhau rao hàng dẽo nhẹo của các cô gái trẻ bán buôn duyên dáng để mời khách thập phương, giờ đây cũng nhường chỗ cho những gương mặt âu lo già trước tuổi, qua lớp y phục một màu đen, cái màu đồng nhứt buồn thảm chán chường của chế độ mới. Trừ con đò, con đò xưa vẫn y vậy, cứ âm thầm lặng lẽ không ngớt tới lui, lui tới đưa rước khách theo nhịp độ vô tư, không màng đếm xỉa đến những thay đổi trầm trọng ngoài xã hội. Thanh Ba bỗng dưng đứng khựng lại, trố mắt nhìn trân trân một người đang thư thả đi về hướng đối nghịch với anh. Chỉ trong một phút định thần ngắn ngủi, anh không ngần ngại, quýnh quíu vội thốt lên:
-
Dương! Phải Đại Dương không?
Có tiếng
đáp lại nhanh gọn:
- Chèn
ơi! Tao có lầm người không? Mầy lò dò đi đâu đây vậy Thanh Ba? Trời đất, ngọn
gió lành nào đưa mầy đến gặp tao ở bến bắc nầy? Lâu quá rồi, mầy có khoẻ không?
Gia đình con cái ra sao rồi?
Hai
người ôm chầm lấy nhau trong niềm vui gặp lại tình cờ, không ước mơ mà đã là sự
thật, bất chấp những cặp mắt hiếu kỳ hay tò mò của những người xuôi ngược chung
quanh. Cũng đã vài năm qua rồi, từ ngày hai người bạn chí thiết được cộng sản
trả tự do trước sau không lâu, họ chưa một lần được đối diện nhau. Tin tức cũng
bặt tăm luôn từ dạo đó. Con đường từ Bến Tre, quê hương xứ dừa của Đại Dương dẫn
đến thành phố Sài Gòn đã thay tên đổi họ sau tháng Tư Đen, nơi Thanh Ba bị địa
phương quản lý, tuy ngăn cách không bao xa, chỉ non bảy mươi lăm cây số ngàn,
nhưng đối với hai người như xa vạn dậm. Chỉ vì việc di chuyển khó khăn, phép tắc
quá khắc khe, phải thông qua quyết định tối hậu của tên công an khu phố. Tên nầy
từ miền Bắc mới “điều” vào, trơ trơ tình cảm, ngày đêm kiểm soát chặt chẽ từng
người, nhứt là những sĩ quan “cải tạo”, kẻ thù của giai cấp vô sản vừa được trả
tự do. Hơn nữa, phương tiện vận chuyển ngày càng hiếm hoi bệ rạc, mua được một
vé đã đắc giá ngoài khả năng tài chánh của họ, còn phải chầu chực xếp hàng nối
đuôi rồng rắn cả buổi trời, dưới những cơn mưa dầm hay nắng cháy bỏng da.
Đại
Dương, Phạm Đại Dương trước ngày cờ đỏ lên ngôi là bạn đồng ngũ cùng chung một
tiểu đoàn với Thanh Ba ở Sư đoàn 7 Bộ binh. Đến ngày 30 tháng Tư năm 1975 cũng
mang cấp bậc trung úy như anh nên trở thành đôi bạn đồng tù qua nhiều trại
chung thân từ Nam chí Bắc. Cùng chung nhau chịu cảnh kham khổ đói khát và lao động
khổ sai như súc vật trong lao tù, cả hai trở thành anh em tâm đồng ý hiệp, anh
em kết nghĩa huynh đệ thủy chung, sống chết có nhau. Họ nguyện không vì hoàn cảnh
éo le ngang trái bị giam cầm làm thân trâu ngựa, ngày đêm đói khát triền miên
mà nhụt chí chiến đấu, đánh mất hào khí và niềm hãnh diện của một quân nhân
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa bao giờ. Những bậc thức thời xuất chúng hay nói,
thông thường những người đã từng nếm trải tủi nhục và cay đắng mùi tù, đã từng
chịu đựng bao nhiêu cảnh hành hạ quá sức tưởng tượng của con người trần thế, đã
từng uất hờn ê chề tận dưới đáy sâu địa ngục mà vẫn không cúi mặt đi bằng đầu gối
để đầu hàng hoàn cảnh, vẫn không khuất phục ác nhân bạo tàn quả là người siêu
việt đáng kính phục. Con người gan lì đó luôn đứng thẳng, ngẩng cao đầu, xem mạng
sống có sanh có tử, có đi có về, nếu cần phải hy sinh vẫn vui vẻ bằng lòng chấp
nhận hy sinh trực diện với trục ác. Cái phong thái của những hạng người kiên cường
khí phách nầy được thể hiện tròn đầy giữa bốn bức rào kẽm gai nhọn hoắt giam
hãm, hủy hoại thể chất lẫn tinh thần của họ. Nhưng một khi họ được ra khỏi nhà
tù, hít thở không khí tự do, bạn bè cũ nơi chốn lao lung khổ ải ngày xưa còn bỏ
công sức chạy đôn chạy đáo cố tìm kiếm mong được gặp lại nhau để tâm tình, giúp
đỡ hay chia xẻ buồn vui ngọt bùi, chứng minh hùng hồn tư cách đứng đắn sáng rực
của họ trong thời gian bị cùm chân, mất tự do. Trường hợp trái lại, họ không được
những bạn tù tới lui thăm hỏi mà còn bị ngoảnh mặt làm ngơ, cố tình tránh né
như cùi như hủi, chắc chắn người đó trong khi ở tù hẳn nhiên có vấn đề hệ trọng
đối với người đồng chung hoàn cảnh với mình. Họ đã phạm một lỗi lầm không thể
tha thứ được là đánh mất tư cách của con người đúng với ý nghĩa thâm trầm trong
sáng của nó.
Thanh
Ba và Đại Dương vui mừng được gặp lại nhau chẳng qua nhờ vào cảnh ngộ oái oăm
và những thử thách trong lao tù đã hun đúc họ trước đây. Con người ở vào thời
buổi “đổi đời” tai hại nhứt của lịch sử, lúc nào cũng bị ám ảnh ở sự trở mặt trở
lòng phản phúc qua chủ trương khuyến khích chỉ điểm hay đấu tố của cộng sản,
không thể dễ dàng đến với nhau, nếu không có sự tin tưởng và yêu thương thật sự,
thể hiện tròn đầy trong kham khổ. Đại Dương vụt nắm chặt tay, kéo Thanh Ba vào
một quán nghèo nơi vĩa hè trên con đường dẫn xuống bến bắc:
- Vào
đây một chút cái đã. Bỏ qua mọi sự đời đi. Vội vàng lắm cũng chẳng đi đến đâu.
Việc gì tới, nó sẽ tới. Cứ quên mà sống. Cứ uống một tách cà phê giải nghể giải
khuây. Anh em mình đã lâu rồi ông Trời rộng rãi mới cho có dịp nầy gặp nhau, chắc
thế nào mình cũng có nhiều điều trao đổi.
Ngừng
một giây ngắn ngủi, anh tiếp lời không chờ phản ứng của Thanh Ba:
- Mầy
làm gì mà gấp gáp quá vậy? Từ từ rồi mọi việc sẽ tính sau, đâu cũng vào đó. Thật
tình mình có tương lai đâu mà lo, mầy mà lo thêm ốm o gầy mòn, tổn sức tổn thọ.
Bôn ba lắm cũng chẳng qua thời vận mầy à! Mà thời vận của mình bây giờ mầy có
thấy không, nó đen thui còn hơn trời ba mươi.
Cái
quán nghèo nói là quán cho có vẻ phong lưu quan trọng để nhớ nhung những ngày
tháng huy hoàng xa xưa. Chớ thực ra nó chỉ là một cái bàn cây tạp nhạp, dường
như là dên dên hay cây dầu gì đó, vuông vức độ nửa thước tây, cao chừng ba bốn
tất là cùng với hai ba cái ghế đẩu lè tè lùn tịt cũng nhuốm mùi phong sương thế
sự, lên nước đen xì. Mà hình như chủ nhân, một người đàn bà xồn xồn có nụ cười
như mếu, không màng lau chùi để tỏ ra xác xơ cho phù hợp thời thượng, cho đúng
với tiêu chuẩn mẫu mực của giai cấp vô sản. Hình như ở thời buổi nhiễu nhương
thượng vàng hạ cám bây giờ mọi người trong cuộc sống mới xã hội chủ nghĩa,
không phân biệt giai tầng và tuổi tác đều tự nguyện biến mình trở thành giai cấp
nghèo sặc máu. Như vậy họ mới mong tạm thời được yên thân yên phận. Trên bàn trống
trơn, chỉ có hai tách cà phê đen đang bốc hơi uể oải, một màu thê thảm cũng như
số phận của hai người khách đong đầy tâm sự. Làm như họ không buồn để ý đến
hương vị của hai tách cà phê đang hiện diện lạnh lùng ngay trước mặt họ. Đại
Dương nói nhỏ nhẹ vừa đủ cho hai người nghe:
- Mầy
bây giờ làm gì để sinh sống ở thủ đô? Tao lo cho tao thì ít, mà nhiều lúc bâng
quơ buồn buồn, nghĩ vẩn nghĩ vơ, tao luôn nhớ đến mầy, đến gia đình vợ con mầy
đã kiệt quệ sau những năm tháng thăm nuôi, ngồi không ăn mãi không một đồng
vào, núi non chót vót bao nhiêu cũng lở. Còn tao thì độc thân, thí mạng cùi, nhằm
nhò gì những thay đổi ngoài đời. Hôm nay mầy lơn tơn đi đâu đây?
Thanh
Ba đáp:
- Câu
chuyện dây dưa dong dài lắm. Mình có đủ thì giờ để kết thúc câu chuyện hay
không? Hay là sẽ chờ một dịp khác có thì giờ rộng rãi và thuận lợi hơn. Tao đã
biết địa chỉ của mầy rồi, lo gì. Còn mầy, hôm nay tại sao lại tà tà ở bến bắc nầy?
Gia đình hai bác ra sao rồi?
- Như
tao đã nói hồi nãy, tao vẫn còn độc thân như ngày nào. Tao lo cho cái mạng của
tao còn chưa xong, đâu giám đèo bồng thêm một miệng ăn nữa. Cái đó mới là một
gánh nặng khó vượt qua lúc nầy.
Gương
mặt anh bỗng trở nên dàu dàu:
- Hôm nay tao qua chợ Mỹ Tho lặn lội cố tìm
mua một vài bộ phận của cái máy Yamaha. Cái máy vừa mới được tân trang nầy thỉnh
thoảng nó cứ làm trận làm thượng muốn phá rầy tao, dở chứng phiền phức lắm. Bây
giờ tao sống với cái nghề bất đắc dĩ vì thời cuộc đẩy đưa là đánh cá ở ngoài
khơi. Bây giờ cái quá khứ, dù vui hay buồn của tao đã bị xòa nhòa không thương
tiếc và tông tích đích thực được biến đổi, chính tao cũng không ngờ đến nhanh
chóng như vậy. Nhưng là sĩ quan ngụy như mầy chớ có hơn kém gì đâu, cũng vừa ở
trại học tập ra, nhưng tao may mắn hơn ra trước mầy năm bảy tháng là cùng nên
được trả quyền công dân xong xuôi cả. Cũng nhờ thành viên trong tổ đều là bà
con xa gần và bạn bè của cha tao.
Trầm
ngâm một đỗi, Đại Dương hớp một ngúm cà phê tiếp lời:
- Bây
giờ đầu óc tao bệ rạc quá. Tao ra tù chắc cùng một năm với mầy mà mới đó tao lại
ngỡ ra trước mầy cả mấy năm. Mầy thấy đó, giá nếu cứ tiếp tục kéo dài trong chế
độ bần cùn thất nhân tâm nầy, sớm muộn gì tao cũng trở thành người mất trí,
không điên điên cũng khùng khùng là cái chắc. Thôi bỏ qua câu chuyện bực mình đó
đi. Mình nên bước qua những đề tài thời sự hấp dẫn hơn.
Gương
mặt anh trở nên nghiêm trọng như những lần đi hành quân đụng trận:
- Cộng
sản, tụi nó thằng nào thằng nấy làm như có máu nghi kỵ lưu thông trong huyết quản
còn hơn Tào Tháo. Chúng nó kiểm soát gắt gao, kỹ lắm, nhứt là những ghe đánh cá
ngoài khơi qua sưu tra lý lịch ba bốn thế hệ những thành phần công nhân đi biển.
Tao có cái may là được sự đỡ đầu của ông chú họ xa mấy đời, từ thuở ông sơ ông
sẩm… gì đó mà tao thì mù tịt, chỉ nghe ba tao thỉnh thoảng nhắc nhở kẻo tao
quên tông tộc họ hàng. Ông nầy từng bám đất bám trụ trong “phong trào đồng khởi”
của tỉnh ủy Bến Tre dạo trước. Tao chắc cũng do bất đắc dĩ mà thôi để ông an
tâm giữ đất giữ vườn sinh sống, chớ nào ông có lý tưởng, ham hố làm vua làm tướng,
làm ông làm cha thiên hạ đâu.
Ngừng
hít một hơi dài thuốc rê, Đại Dương đưa mắt nhìn khói thuốc nhợt nhạt lững lờ
cuộn tròn trực chỉ thẳng lên không trung, vỗ vai Thanh Ba trang trải:
- Giữa
anh em mình với nhau, tao nghĩ chắc mầy sáng dạ lắm. Tao nói như vậy chắc mầy
đã rõ và đừng hiểu lầm tao. Trông mầy còn phong độ lắm, chưa có “lục” đâu... Đi
biển thời buổi nầy đa số chỉ nuôi trong lòng thời điểm sơ hở của cộng sản để vượt
biên thôi. Nói xa nói gần không bằng nói thật. Nhứt là giữa tao với mầy. Bây giờ
mầy nghe qua rồi chắc mầy phải suy nghĩ. Hay cần tao xác nhận thêm.
Anh ta cười khoái chí:
- Tao mà đánh cá cái
quái quỷ gì. Chỉ là cái nghề chẳng đặng đừng. Chẳng qua những chuyến ra khơi chỉ
là những lần thực tập cho quen với sóng gió, thử thách nắng mưa và tập tành tìm
phương hướng mà thôi. Có những buổi đánh bắt chẳng có một mống nào cả vì mình
chẳng có chút kinh nghiệm cần thiết giữa biển trời mênh mông bao la. Những lúc
đó tao bèn đâm đầu ghe trực chỉ vào mấy cái đáy lớn bề thế ngoài khơi hỏi mua một
ít cá tôm đem về để mà mắt công an biên phòng và cán bộ địa phương. Lớp nào
dùng trong gia đình, lớp còn lại tao đem biếu xén cho bọn nó, mua lòng mỗi nơi
chút ít tượng trưng. Chúng nó phấn khởi, mở cờ trong bụng. Vì lúc đó, chúng còn
đang sống lơ lửng lửng lơ trên trời với cái lý tưởng ‘’thiên đường xã hội chủ
nghĩa’’, cào bằng tư hữu, chưa biết hay chưa dám nhún tay móc ngoặc tham nhũng
nên cũng đói meo không thua gì người dân.
Thanh Ba nghe bạn vừa kể
xong câu chuyện, trong lòng lâng lâng phấn chấn. Cuộc gặp gỡ tình cờ mở cho anh
một hướng thoát tràn đầy ánh sáng hy vọng. Có thể đây là con đường vững tin nhứt
đối với anh. Đến lượt anh vui vẻ trình bày hoàn cảnh mình:
- Mầy có cái may trời
cho của mầy, ít người có được trong lúc vàng thau lẫn lộn nầy. Về phần tao, tao
không được may mắn như mầy đâu. Ở thành phố, tụi nó kiểm soát gắt gao khắc khe
lắm. Những biện pháp của chúng đều thần sầu quỷ khóc cả. Tao là tổ viên của một
hợp tác xã sản xuất thủ công xà bông ở phường Đa Kao Đất Hộ. Hôm nay, tao đón
chiếc bắc sớm để qua Bến Tre thu mua dừa như mọi khi. Vì còn phải trở về Sài
Gòn cho kịp ngày. Tao đã đi lần nầy tính ra cũng được năm bảy lần rồi. Lần nào
cũng xuôi chèo mát mái. Vì tao được giấy giới thiệu đi đường của phường ủy có
đóng con dấu với ngôi sao năm cánh đỏ lói đành rành.
Nói đến đây, Thanh Ba
rút trong túi áo trao cho Đại Dương xem cái bùa hộ mạng của mình rồi ôn tồn:
- Tình cờ gặp mầy rồi
nghe mầy kể chuyện đánh cá ngoài khơi tao phấn khởi lắm. Tao cùn đường rồi, mọi
tính toán đều bế tắc, mầy có thể giúp tao tháp tùng làm ăn qua cái nghề sinh tử
của mầy không?
Đại Dương nhíu mày suy
nghĩ giây phút rồi vỗ vai Thanh Ba thân tình:
- Việc mầy nhờ xem ra cũng khó khăn lắm đấy.
Tao sẽ hết sức cố gắng nghiên cứu để mầy không thất vọng. Mình đã từng sống chết,
tận tình giúp đỡ nhau trong lao tù nghiệt ngã để bảo toàn sự sống. Bây giờ chẳng
lẽ tao tìm đường sống cho tao lại đành để mầy và gia đình chịu chết trong xứ tù
chung thân xã hội chủ nghĩa hay sao? Tao ngập ngừng suy nghĩ chỉ vì một lẽ duy
nhứt. Đối với mầy thì có khó nhưng cũng vượt qua được. Chỉ riêng vợ con mầy tao
nghĩ mãi không biết phải giải quyết ra sao.
Anh vò trán:
- Đưa cả một bè thê tử của
mầy xuống Bình Đại nầy không khéo sẽ bị đổ bể tùm lum tà la làm hỏng hết mọi việc
lớn. Mầy suy nghĩ xem có cách nào không? Đưa mầy cùng đi với tao cu ki chỉ một
mình mầy, tao đau lòng khó xử lắm. Vợ con mà, không thể rứt bỏ dễ dàng để thoát
thân một mình được. Tàn nhẫn và ích kỷ quá, không thể chấp nhận. Sống có nhau
mà chết cũng phải bên nhau. Ông bà xưa của mình thường hay nói sống có thủy
chung là vậy.
Bỗng đôi mắt Đại Đương
giản nở, bừng sáng lên:
- Tao có ý nầy mầy xem
ra có được không? Tao sắp xếp cho mầy một chân làm công trong tổ hợp đánh cá của
tao. Vợ mầy thỉnh thoảng xin xuống đây đôi ba tuần lễ trong mùa thu hoạch dừa
khô. Công việc cũng không ít đâu, đại khái như cại cái dừa phơi khô, nấu nước dừa
làm nước màu, sản xuất kẹo dừa, quay xơ dừa làm giây luộc v.v… Cứ xin đi đi về
về liên tục như vậy để giữ chân căn nhà cho mấy đứa cháu ở ấm cúng chờ đợi ngày
trọng đại quyết định. Mà tao báo cho mầy biết vì thương mầy từng vào sanh ra tử
với nhau nên tao không ngần ngại giúp mầy. Chớ thật ra tao không muốn tổ chức
rình rang để thâu tiền bỏ túi như bao người đánh mất lương tâm đã làm không biết
cơ man nào mà kể vào thời buổi hỗn man, móc túi được ai cứ móc, lột da ai được
cứ lột, không đắn đo suy nghĩ. Mầy cẩn thận kín miệng hay ngậm câm như hến là tốt
nhứt vì lỡ đổ bể lần nầy kể như đi tù rục xương.
Anh dứt khoát:
- Tao hạn chế tối đa đôi
ba gia đình trong thân tộc. Nay thêm gia đình mầy cũng vừa đủ cho chiếc ghe non
mười hai thước bề dài với cái máy Yamaha tao đang đi mua phụ tùng phòng hờ
phòng khi nguy biến. Thôi mình bắt tay O.K. phần ai nấy lo, mình sẽ tiếp tục
liên lạc với nhau sau. Bây giờ mầy qua Bến Tre còn tao trực chỉ thẳng vào chợ Mỹ
Tho lo tìm mua bộ phận tăng cường cái máy Yamaha.
Hai người bạn siết chặt
tay nhau giã từ trong luyến tiếc thời gian tâm tình trôi qua rất nhanh, chưa
nói hết nỗi lòng nhau. Trong ánh mắt long lanh đỏ hoe của họ phản phất tình bằng
hữu vừa thấm thiết, vừa cao đẹp của truyền thống dân tộc lâu đời.
**
Chiếc ghe đánh cá còn có nét lắm, trước mũi nổi bậc hai con mắt thật to màu đỏ chói chan với tròng đen huyền, mang số đăng ký B.T (Bến Tre) đang từ từ lướt sóng trực chỉ hướng thẳng về đất liền. Đại Dương đứng phía sau lái, miệng không thôi hò hét, thúc hối đôn đốc mọi người, chẳng khác chi cái thuở xa xưa anh chịu trách nhiệm chỉ huy một đại độ tác chiến của sư đoàn 7 Bộ Binh. Anh và Thanh Ba trong lòng nôn nóng muốn sớm trở về Bình Đại sum hợp gia đình, sau cả tuần lễ hơn, ngày đêm vất vả lênh đênh ngoài biển khơi lúc nắng lúc mưa bất thường. Bây giờ trông hai người rất rắng rỏi, sạm nắng, màu da ngà ngà bánh mật, không thua gì đồng bào thiểu số ở các sóc đìu hiu trên cao nguyên chập chùng đồi núi Trung Việt. Giá nếu có người quen cách mặt lâu ngày trông thấy, dám chắc họ sẽ nhìn không ra. Nhờ được tập trung thực tập thường xuyên bấy nay nên cả hai lần lần không còn say sóng, trái lại rất thoải mái trong những công tác khá nặng nhọc do cái nghề mới, bất đắc dĩ đòi hỏi. Họ đã làm quen với gió biển, với nắng mưa dông bão, giờ đây đi đứng gọn gàn, không còn xửng vửng trên ghe và ăn uống bình thường những lúc ghe chồng chành nhồi lên hụp xuống không ngưng. Nhưng quan trọng hơn hết đối với họ là mục tiêu của họ đã đạt. Họ đã biết định hướng, biết chấm tọa độ, biết trông sao trời rành rẽ ban đêm giữa biển khơi, nhờ sự giúp đỡ chỉ dẫn, dắt dìu tận tường của người anh họ từng sống lâu năm trong nghề đi biển. Hôm nay, họ xem như khá thành thạo trong việc đánh bắt cá tôm, tuy không trúng hẳn như trường hợp những bậc lão làng thành thạo trong nghề, nhưng tuyệt nhiên họ không còn ép lòng ghé mua tôm cá nơi các đáy lớn như mọi khi, tức khoản thời gian họ mới tập tành ra khơi. Thành tích ngoài sức tưởng tượng nầy để chứng minh thiện chí làm ăn lương thiện của họ trước những cặp mắt soi bói, nghi ngờ rình rập của công an biên phòng và nhứt là những cán bộ “ba mươi” vô tâm, muối mặt trở cờ, tìm kiếm sơ hở nhằm lập thành tích dâng đảng. Họ bồn chồn nóng hơ, náo nức mong sao ghe sớm cập bến nhà vì đã có hẹn trước với gia đình sẽ đến tham dự buổi kỵ cơm ông nội Đại Dương, dự trù được tổ chức tại nhà của người bác ruột. Ông nầy tục danh Năm Rồng, Phạm Văn Rồng, trong khi cha của Đại Dương được người trong thôn xóm thân mật gọi là ông Tám Long, Phạm Văn Long. Hai anh em ruột nầy đều có cơ ngơi vững vàng, cùng sinh sống chung trong một xã ở Bình Đại. Họ thuộc gia đình cố cựu lâu đời nhứt trong xã, có giây mơ rể má chằng chịt, bà con trong tông tộc đông đúc vô số kể, nhà cửa quây quần trong tầm hú gọi.
Ông
Năm Rồng hiền như cục bột, chưa hề biết làm phiền lòng một ai, dù lớn hay nhỏ,
nhưng không biết sao trong xã mỗi lần con nít khóc la nhỏng nhẻo hay bốc đồng
làm trận làm thượng là bị người lớn nhát: “Nín đi, kẻo ông Năm Rồng tới kia
kìa”. Chúng nó bỗng nhiên ngưng khóc ngay. Riết rồi như một thói quen, bà con
trong xã cứ nhờ vào cái tên Năm Rồng để răn đe con nít. Có lẽ cái tên Rồng của
ông với âm thanh là lạ và hình ảnh con rồng huyền thoại qua màu sắc lóng lánh rực
rỡ cùng hình thù dị hợm làm cho con nít khiếp sợ chăng? Bữa nay ông tổ chức giỗ
cha mình. Theo tập tục lâu đời còn được áp dụng vào thời đại phong kiến đang
trên đà tàn tạ, người con trai trưởng hay con trai lớn nhứt trong gia đình được
phân chia trách nhiệm trọng đại giỗ cha, tức người có công gầy dựng tộc họ.
Trong khi người con trai út giữ ngôi nhà từ đường cũng được người dân nơi thôn
quê ruộng rẫy nom na gọi là nhà thờ và thừa hưởng trọn vẹn đất đai hương hỏa
ngoài phần thực nên giỗ mẹ. Nay ông vẫn tiếp tục giữ tập quán lâu đời đó. Nhưng
gặp thời buổi khó khăn, kinh tế bế tắc do chủ trương đần độn và hận thù giai cấp
của những “đỉnh cao trí tuệ của loài người” nên ông chỉ gói ghém sai vợ con làm
vài mâm đơn sơ, gọi là có lòng đối với người quá cố. Tiện thể ông cũng muốn nhắc
nhớ con cháu về công đức biển trời lai láng và tác phong đạo hạnh của người tạo
dựng nên dòng tộc. Ông không dám làm rình rang rườm rà như ngày xưa, thuở ông
làm xã trưởng đương nhiệm, vì e ngại tai mắt cú vọ hiểm sâu, sớm tối rình rập
chung quanh mình. Ông đành tiện tặn tối đa, một mực chẳng se sua, xa hoa phí phạm
không cần thiết nhằm dành dụm hộ thân mai sau. Thời buổi bấy giờ tương lai bấp
bênh không biết ngày sau sẽ ra sao. Ông chỉ mời đôi ba bậc thổ công thân tính,
còn kỳ dư là con cháu trong gia đình cũng đông đảo xôm tụ lắm. Thanh Ba từ ngày
rời thành phố Sài Gòn nhập cuộc đi biển với Đại Dương được gia đình bạn mình
xem như người trong nhà nên không thể nào vắng mặt ở buổi kỷ niệm hằng năm đầy
ý nghĩa nầy. Ông Năm trước đó mấy ngày cũng gồng mình lén lút, thận trọng dè dặt
nấu được vài lít đế nếp than, màu mè hấp dẫn lắm, chưa kể nồng độ phải phải
phân phân, ngon tuyệt vời. Thỉnh thoảng ông cao hứng hay sao nên cười khề khà,
tay vuốt nhẹ chòm râu bạc, khẳn quyết những bậc sành sõi thuộc hàng đệ tử lưu linh
khét tiếng còn sót lại sau năm 1975, hẳn nhiên không thể chê vào đâu được. Ông
nhứt định quyết không hề mua loại đế quốc doanh, do thời gian mấy năm gần đây
thiếu nguyên liệu trầm trọng, mấy xí nghiệp do nhà nước tịch thâu và quản lý, bất
lương nấu loạn xạ càu càu châu chấu, uống vào nóng rang ngực, thiếu điều bể gan
bể phổi. Cho dù họ có chữa cháy bằng nước dừa xiêm mà nhà nhà đều có trồng năm
ba cây làm cảnh, cũng chẳng giải quyết được gì. Việc sản xuất thiếu lương tâm
trầy truột nầy làm di hại cả một thế hệ đám trẻ mới tấn lên. Chúng trở nên nghiện
ngập, cùn đường không tương lai, đi tìm an ủi vỗ về trong giấc ngủ qua chất nồng
cay để rồi chết non chết yểu ở tuổi thanh xuân, phí uổng đời trai, làm băng hoại
cả một thế hệ.
Mời
mọc lời qua tiếng lại không ngớt cũng nhờ vào một mớ bộn bàng cá tôm to lớn,
tươi rói, có con còn nhảy soi sói vừa đánh bắt được ngay sang sớm hôm nay do Đại
Dương mang đến, trước để cúng dâng ông nội mình, dĩ nhiên sau đó làm mồi ngon hấp
dẫn đánh chén cũng xôm. Câu chuyện dần lân lan qua không biết bao nhiêu đề tài
thời sự, nhứt là chung quanh cuộc “đổi đời” nghiệt ngã sau tháng Tư Đen, qua cuộc
sống thắt lưng buộc bụng, trần thân khổ ải hiện tại. Vì toàn là thành viên tin
cậy và tín cẩn trong tộc họ nên họ trút tâm sự qua cái nhìn thực tế của mình
không chút ngại ngần e dè. Nhiều lần ông Năm Rồng lên tiếng nhắc nhở mọi người
phải tự kềm chế mình, không nên uống quá đà đến say sưa mất hết phẩm hạnh không
tốt. Ông cẩn thận như vậy theo thói quen, nhưng thực sự dung tích rượu hôm đó
có hạn, đâu nhiều như ngày xưa mà uống say mèm bò càn đến mức đo đất bao giờ.
Ông chỉ nấu ít lít tượng trưng để cúng cha, vì giỗ chạp mà không có rượu ra lễ
thì không còn ý nghĩa tôn kính người khuất mày khuất mặt. Thừa lúc mọi người
đang vui vẻ trao đổi với nhau rùm beng không thua gì giữa chợ chòm hỏm đông người
trong xã thuở thanh bình, ông Năm gọi Thanh Ba bước tréo qua chái hiên bên trái
nơi vắng người để tâm sự:
- Bác xem cháu như con
cháu trong đại gia đình của bác. Giờ đây, qua bao nhiêu thăng trầm xáo trộn
ngoài xã hội, mọi thành viên lớn nhỏ trong tộc họ còn biết tôn ti trật tự, trọng
kính người trên trước, thương yêu nhau, quả là một đức tính của truyền thống
ông bà để lại. Bác quý cháu chẳng qua qua phong thái xử sự của cháu đúng với mẫu
mực hiếm hoi đó. Cái tình của bác đối với cháu thâm trầm đậm đà không khác chi
đối với thằng Đại Dương, con trai trưởng của người em ruột thứ Tám của bác. Bác
thương hai đứa bây vô vàn và tình thương nầy cứ vầy vò đeo đẳng bác không thôi.
Trông thấy hai đứa tâm đồng ý hợp, tín cẩn trong thống nhứt tâm nguyện, bác vui
mừng biết bao, nhưng càng vui mừng thì nỗi lo âu canh cánh trong lòng bác cứ dấy
lên, tràn dâng cao bấy nhiêu.
Ông Năm vuốt vuốt tới
lui chòm râu bạc trắng, tắc lưỡi:
- Bác biết hai đứa bây
đang nuôi trong âm thầm cái ngày tốt trời ra đi rời khỏi Việt Nam, tìm con đường
vượt thoát khỏi nhà tù xã hội chủ nghĩa. Con đường sinh tử sống chết trong đường
tơ kẽ tóc nầy, hai đứa một lần can đảm chấp nhận chọn lựa để cứu lấy đời mình
và vợ con. Phải ra đi thôi vì bác thấy bây không còn con đường nào khác cả. Ra
đi chỉ vì lý do duy nhứt không thể sống chung với đám quỉ ma yêu tinh bít bôi,
bần cùn ngu dốt bỗng dưng trở thành lãnh đạo lãnh địa xứ sở mình. Chánh nghĩa
quốc gia sáng trưng đã thua trục ác vô thần. Nghĩ có buồn không? Chúng nó đã
nhuộm đỏ quê hương trong chết chóc máu lệ. Chúng nó tàn nhẫn ác đức, chẳng lùi
một bước, không lời lẽ nào nói cho hết.
Ngừng một đỗi lấy hơi
lên do tuổi già sức yếu đã đành, nhưng chắc cũng do quá xúc động khi ông muốn
nhắc nhớ cái quá khứ đầm đìa nước mắt mà chính ông là nạn nhân khốn đốn. Ông muốn
nhắc để trút đi những uất ức u ẩn trong lòng đã đành, mà cũng có ý nhắc khéo để
khuyến khích, thúc đẩy Thanh Ba mạnh bước lên đường càng sớm càng tốt:
- Hồi trước, bác làm xã
trưởng ở đây, cũng đường đường một đấng chớ có phải chơi đâu. Bác chăm lo hạnh
phúc và an sinh của bà con, không phân biệt thân sơ, già trẻ bé lớn hay giàu
sang nghèo khổ. Mọi người ai ai cũng thương mến trọng nể bác, mãi cho đến tận
bây giờ, dù vật đổi sao dời nhưng họ vẫn không thay đổi mảy may. Ấy thế đến lúc
cộng sản thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam rồi sau đó chắc cháu còn nhớ,
chúng phất lên đấu tranh võ trang, đánh phá, đưa đến hỗn loạn khắp nơi. Tỉnh Bến
Tre thân yêu, quê hương muôn thuở của bác có một thời được tập đoàn Việt cộng
tuyên truyền quá đà, thổi phồng không ngượng mồm ngượng miệng là “xứ đồng khởi”,
tiến hành chủ trương “diệt tề phản đế” không nhân nhượng, “thề phân thây uống
máu quân thù” chẳng gớm tay, gây ra biết bao nhiêu tang tóc đổ vỡ.
Ông thao thao rút ruột,
khi ký ức tuần tự hiện về:
- Chúng bắt đầu uy hiếp,
rúng ép, hăm dọa, truy bức, đêm đêm khủng bố những làng xã xa xôi hẻo lánh, những
nơi nầy chỉ được bảo vệ vỏn vẹn với vài ba cây súng trường cổ lổ xỉ của thời thế
chiến thứ hai do quân đội viễn chinh Pháp trao lại cho chính phủ Việt Nam trước
khi cuốn gói lên tàu hồi hương. Đồn bót thì lẻ loi, cách ngăn nhau có khi cả
năm ba cây số, hệ thống lưu thông trắc trở, việc phòng thủ do thiếu hẳn phương
tiện trở thành sơ sài, không mấy kiên cố. Hơn nữa nhân viên trong ban bệ hội tề
cùng nghĩa quân, nhân dân tự vệ và cán bộ xây dựng nông thôn đếm trên đầu ngón
tay chưa giáp, không được huấn luyện thành thục. Dù vậy, họ rất can đảm, tự lực
trong nhiệm vụ cấp trên giao phó.
Ông đăm chiêu:
- Dù khó khăn trăm bề,
bác cũng cương quyết không hề chấp nhận đào ngũ bỏ nhiệm sở, ích kỷ trốn lánh về
vùng an ninh quận huyện để riêng lo cho bản thân mình cùng gia đình. Bác thương
cái xã hẻo lánh buồn tênh, nơi chôn nhao cắt rún của bác biết dường nào. Bác mến
cư dân lớn nhỏ trong xã, tuy lưa thưa không bao nhiêu người nhưng thực sự quê
mùa cục mịt, như hòn đất củ khoai, chưa hề biết tính toán hơn thua. Mà ở đời, nếu
chẳng may mình không có những người thật thà chơn chất như vậy chung quanh mình
thì khi chết mình làm sao có được những nhân chứng trung thực. Hơn nữa làm như
ông trời đã định sẵn, không thể trốn tránh đâu được là đời bác toàn là những
chuỗi ngày trắc trở, khổ đau. Do vậy, bác vẫn tiếp tục đảm trách công cuộc trị
an, bình định phớt tỉnh, bất chấp nhiều lần bị bọn du kích cộng sản, đám cốc
nhái giấu mặt cảnh cáo đủ điều. Bác nhớ có một đêm nọ, chúng còn hăm dọa, lén
dán bản án tử hình ngay trước cửa chánh nhà bác nữa.
Ông mỉm cười bí hiểm:
- Bây giờ nghĩ lại không
biết tại sao lúc ấy bác lại đặt nặng trách nhiệm của mình trên hết như vậy,
không đếm xỉa chi đến những hiểm nguy chập chùng, giăng mắc chung quanh mình.
Rõ là bác như người điếc không biết sợ súng. Hay là bác mình đồng da sắt vậy.
Có lẽ do bác chủ quan hay khinh thường, quên hẳn lời khuyên răn dạy bảo quý giá
của người xưa: trong mọi hiểm nguy gặp phải ở đời, cái nguy hiểm đáng sợ nhứt
là sự coi thường hoặc đánh giá không đúng mức đối thủ hay kẻ thù của mình. Mà
cũng có lẽ lúc đó bác còn quá trẻ, chưa vợ bận bịu, chưa con quến chân quến cẳng
nên không biết sợ hãi chăng? Hay nói như thời buổi bây giờ là bác trung thành với
trục thiện, trung thành với sự réo gọi của lương tâm và ý thức trách nhiệm?
Đôi mắt ông bỗng hực lửa
bi phẫn khiến Thanh Ba bất động lắng tai nghe:
- Rồi cũng một đêm tối
trời, cái thời khoảng lý tưởng để cộng sản cấu kết khai thác, chường mặt ra gây
tội ác. Lúc đó bất thần quá trở tay không kịp, nhưng bác còn tỉnh táo đoán chừng
chúng nó độ năm mười đứa trá hình mặt rằn mặt rắn, võ trang dao mác gậy gộc xầm
xầm đến gõ cửa rồi hầm hừ xông vào nhà bắt trói thúc ké và bịt mắt bác dẫn đi
biền biệt. Cái đồn canh bé nhỏ sừng sững kế bên nhà bác hoặc không hay biết, hoặc
vì đánh giá sai lệch, nghĩ mình yếu thế trước đám đông, không dám phản ứng
chăng? Sau một thời gian giam cầm tra khảo dồn dập ngày lẫn đêm, chúng nó họp
nhau nhứt trí biểu quyết đi đến kết tội bác là “Việt gian ác ôn”, tay sai của tập
đoàn cường hào ác bá địa phương và chính quyền tỉnh quận, làm tay mắt của lực
lượng quốc gia son trẻ. Cái đó mới chết, chẳng khác nào chúng lên án tử hình
bác vậy.
Ông nói tiếp trong xúc động:
- Bây giờ thời gian đã lắng
động phần nào, bác bình tỉnh hơn mới nghiệm ra rằng ở cái xứ sở chiến chinh
không dứt, thống khổ triền miên của mình, quả thực khó cho người dân lương thiện,
chí thú làm ăn biết ai là “Việt gian ác
ôn”, ai là người thực sự yêu nước. Nhưng kẻ nào không biết nhục, quỳ gối dâng đất
bán biển của ông cha để lại, cam tâm hy sinh bao nhiêu thế hệ trai trẻ để ngông
cuồng mù quáng phục vụ một chủ thuyết ngoại lai đầy hận thù, đày đọa đồng bào
ruột thịt đang cùn đường cuối ngõ để làm lao nô nơi xứ người… hẳn không phải là
người yêu nước thương nhà. Mà chúng mới chính là “Việt gian ác ôn” đích thực
đó.
Ông mỉa mai:
- Mà có điều nầy bác cần
nói thêm để cháu hiểu rõ và thấm thía hơn về cộng sản, một đám gian manh hiệp đảng
cùn hung cực ác, trong đầu chỉ biết chém giết tận diệt mầm móng đối lập để nắm
độc quyền lãnh đạo xứ sở nầy, đồng thời lập mưu bóc xương lột da, lật lưng không
chút tiếc thương người dân hiền hòa trong vùng chúng tạm thời kiểm soát, nhứt
là về đêm. Nhưng chúng nó lẻo mép già mồm lắm, khéo léo tuyên truyền gian dối lật
lộng với những lời lẽ và giọng điệu đường mật để gạt gẫm nhiều người nhẹ dạ non
lòng khiến họ đâm ra nghe bùi tai rồi cứ lầm tưởng chúng nó có chánh nghĩa, nhắm
mắt đi theo chúng không chút đắn đo suy nghĩ.
Ông lấy
tay che miệng đằng hắng:
- Thật
tình mà nói là chúng nó giam cầm bác, chứ thực ra chúng nó xác xơ nghèo sặc
máu, thiếu thốn đủ mọi phương tiện, lấy gì để giam cầm bác lâu ngày được. Chúng
nó chưa chắc ăn uống đủ no kia mà. Cứ nhìn chúng nó xanh xao vàng vọt đủ hiểu
cuộc sống của chúng ra sao, khi bị những lực lượng an ninh của mình liên tục
bao vây, phong tỏa. Chúng bèn bán cái theo như lũ cờ gian bạc lận, điếm bảy da
ăn quỵt ăn lường nơi các tỉnh quận ăn chơi nhộn nhịp. Chúng đem bác gởi nơi nhà
nầy vài ba ngày rồi chuyển sang nhà kia năm bảy ngày… liên tiếp như vậy khắp
thôn xóm thuộc quyền làm trời làm đất của chúng. Mà những khổ chủ vốn mạt từ đường
còn phải chịu thêm một gánh nặng là nuôi ăn nuôi ở bác. Tưởng như vậy là xong
đâu, là dứt nợ rồi, nào dè chúng nó còn giao thêm cho họ trọng trách để mắt dòm
ngó, theo dõi, trông giữ bác từng bước đi sợ bác bỏ trốn, chẳng khác chi một tên
lại ngục không lương nữa. Như vậy chúng nó không phải tốn một cắc bạc, một đồng
xu con.
Ông thở
dài:
- Bác
nhắc lại, những gia đình nông dân hiền lành, chơn quê lương thiện nầy thật ra
nghèo chí tử, hằng ngày làm lụng cật lực vẫn đói meo, cơm ngày hai buổi cháo
rau đạm bạc nhưng vẫn phải nai lưng gồng gánh thêm một miệng ăn. Mà làm sao họ
dám từ chối được, một khi sự sợ hãi và kinh hoàng cực độ thường xuyên làm bại
hoại cân não họ, làm tê liệt mọi mầm móng phản ứng hay chống đối. Một tiếng thở
than nhẹ nhàng còn không có nữa kìa.Từ chối là khổ cho gia đình, hại tấm thân,
không thể sống nổi với chúng nó, khi họ nằm gọn trong vòng tay kiểm soát đẫm
máu vô tiền khoán hậu của đồng bọn. Thật đau buồn khi con người muốn được sống
yên thân để làm ăn sinh sống, không bị trù dập phiền hà hoặc cách ly đối xử hay
bị thanh toán oan uổng, phải tự dối mình phục tùng vô điều kiện hệ thống tha
hóa tàn bạo và trở thành những kẻ tòng phạm đáng tiếc của trục ác.
Đến
đây dường như ông đang hồi nhớ một tình huống não lòng đang chợt đến trong tâm
trí hay sao khiến ông dịu giọng qua nét mặt xương xương, buồn buồn thảm não:
- Một
đêm nọ, chúng nó lại cũng bịt mắt bác dẫn đi băng qua không biết bao nhiêu ruộng
gò ruộng bưng ngập nước lấp xấp, chân bác luôn dẫm đạp lên năn sậy cao hơn đầu
gối. Im lặng lạnh lùng quá, đôi tai bác chỉ nghe tiếng xột xạt… xột xạt rờn rợn
khi cả bọn vượt lên cỏ lác rậm rì. Vả lại, chúng nó không hề nói gì với nhau,
trên suốt lộ trình, thỉnh thoảng bác nghe thằng chỉ huy giở giọng thân mật nhắc
nhở đồng bọn, thúc hối chúng nó nhanh bước hơn kẻo trễ giờ đã định trước. Phần
bác, bác tưởng tượng một kết thúc bi thảm cận kề không thể tránh khỏi. Linh
tính thường không lầm cháu à. Bác chỉ còn biết cầu nguyện, âm thầm kêu cứu với
Phật Trời và những người khuất mày khuất mặt trong tộc họ. Bác cố gắng xua đuổi
sợ hãi vì bác nghĩ rằng sợ hãi lúc nầy chỉ làm băng hoại, hư hao tinh thần.
Nhưng lúc ấy đôi tay bác bị trói ghịt đến tê liệt như các lái buôn đi mua heo
mua gà ở thôn quê, trói heo trói gà chịu chết. Mắt bác thì bị bịt chặt tối thui
tối thủi như những con bò thịt hiền khô ngơ ngác trước lúc bị đập đầu được hưởng
một chút ân huệ cuối cùng không cho thấy cái búa tài xồi của tên đồ tể xán mạnh
lên trán nó. Bác chỉ còn nước tập trung nội lực cuối cùng, đôi chân bám đất lầm
lũi đi theo một thằng trẻ măn dắt bác ở một đầu sợi dây luộc chắc nịt. Ác thay,
đôi chân bác thường mất thăng bằng, nhiều lần thiếu điều chúi ngã và khuỵu xuống.
Nhưng sự tập trung nội lực để khỏi phải té giúp bác quên đi phần nào những ám ảnh
chết chóc trong đầu.
Dường
như ông còn dai sức lắm hay sao, mặc dầu đã trọng tuổi lại dầy dạng phong trần
nên vẫn chưa chịu kết thúc nhanh chóng câu chuyện. Có lẽ những tình tiết sống
thực ông đã trải qua trước đây không cho phép ông bỏ lở dở nửa chừng chăng?
- Mấy
tháng trường bị giam cầm, bác ăn uống thiếu thốn thất thường nơi những gia đình
nông dân rất mực nghèo khổ. Hơn nữa, những ngày dài lê thê đứng ngồi không yên
trông chờ mòn mỏi và uất hận tột cùng khiến bác còn lòng dạ nào để ăn uống, nên
bác mất sức, mau thấm mệt lắm. Chân cẳng rã rời mỏi mệt, bác đi như người mộng
du. Trong khi trước đây, ngày nầy tiếp nối ngày nọ, bác đi bộ xuyên suốt vài ba
tiếng đồng hồ, vượt sông rạch, băng gò băng đồng… mà có thấm thía nhằm nhò gì đối
với bác. Bác xem như một chuyến ngao du nhàn nhã nơi thiên nhiên trong lành. Hồi
đó, bạn bè nối khố thân mật cứ bảo sức khoẻ của bác như trâu cui trâu cổ không
bằng.
Tiếng
thở dài của ông khiến Thanh Ba thêm trầm ngâm chú ý hơn:
- Đến một cái gò đất không cao lắm nhưng khá rộng,
cây cối lùm buội chơm chởm, dây mây dây choại nhỏng nhảnh, dứa gai sầm uất nhọn
lễu, mả mồ xan xác ngổn ngang… bác biết nhờ chúng nó cũng vừa tháo gỡ bịt mắt
cho bác. Bác tập trung định thần ngay, tuy còn quờ quạng nhìn ba chớp ba sáng
nhưng không khó khăn nhận ra là cái gò ở xã nhà quá quen thuộc đối với bác từ
thuở bác còn nhỏ hếu, rong chơi khét nắng hôi trâu với bạn bè cùng lứa tuổi mấy
mươi năm về trước. Nơi đây thuộc đất công thổ, hồi trước do ban bệ hội tề quản
lý và trở thành nghĩa địa công cộng từ bao nhiêu đời, nơi an nghỉ của nhiều thế
hệ gia đình dòng tộc bác, cũng như của bà con chòm xóm mà bác biết rõ hơn ai cả
họ hàng nội ngoại, gốc nguồn cội rễ của từng người. Lúc đó, bác rất ngạc nhiên,
trong bóng đêm lờ mờ chẳng nhìn rõ được mặt nhau, nhiều người nhứt là đàn bà
con nít đang lục tục kéo về đứng lúp xúp dáo dác trong im lặng. Dường như họ bị
bọn du thủ du thực, du kích cóc nhái cưởng ép bắt tập trung lố nhố trước khi
bác bị đưa đến đây.
Đôi mắt
đỏ hoe, ông chau mày cố nén xúc động đang đè nặng trong lòng:
-
Chúng nó mở trói bác, hằn hộc quát tháo, ra lịnh bắt bác đứng thẳng tựa lưng
vào mộ bia một mả đá vôi, cái mả khá đồ sộ của một đại điền chủ duy nhứt trong
xã, lại là vị hương cả đầu đàn trong ban bệ hội tề ngày xưa. Chúng xem bác như
một kẻ thù chẳng đội trời chung qua thái độ hóng hách ghê tởm đó. Xong, một thằng
tương đối có học hơn đồng đội ngu dốt bắt đầu đứng lên tiến về phía trước mặt
bác dõng dạt đọc bản án tử hình bác với lý lẻ vu oan giá họa hàm hồ của kẻ nắm
trong tay súng đạn và quyền lực. Sau đó, nó cất lời hỏi bác tới giờ phút cuối
cùng nầy có phục thiện để nhìn nhận những tội lỗi của mình gây ra không? Bác một
mực giữ im lặng, không trả lời trả vốn chi cả. Bác điếc rồi, không biết sợ
súng. Mà thật tình không phải bác gờm tởm khinh khi chúng nó để phản đối thụ động
theo kiểu cách của người yếu thế bất lực. Đã đến nước nầy rồi, một khi đang đứng
trước bạo lực độc đoán, một khi đối diện với bọn người sắt đá vô tâm, lạnh lùng
tình cảm và tình người, mọi lời bào chữa kêu oan ức dong dài chẳng có chút giá
trị nào. Chỉ kéo dài thêm sự phẫn uất và đợi chờ nặng nề, vô ích thôi. Bác thừa
biết chúng nó đã quyết định cái chết của bác trước rồi, khi chúng nó kết tội
bác là “Việt gian ác ôn”.
Ông
rung động nói chẫm rãi hơn:
-
Trong đầu bác lúc đó lờn vờn tiếp nối bao nhiêu hình ảnh trân quý thương yêu của
vợ con bác, của đại gia đình bác, những hình ảnh khó quên đó đến rất nhanh, người
nầy không ngớt lướt qua người kia, đôi khi trùng lấp nhau không được rõ ràng.
Lúc ấy không biết sao bác còn bình tĩnh, sáng suốt lắm. Hay là trong thống khổ
tột cùng trước chết chóc, con người trở nên lớn mạnh hơn và tình thương yêu đã
giúp bác đứng vững vàng hơn. Bác cũng thoáng nghĩ, con người có sanh có tử, có
sống có chết, ai ai cũng phải chết, mà chết chỉ một lần. Chết già cũng chết, chết
trẻ cũng chết, giàu nghèo, vua quan dân dả cũng thế thôi, không ai tránh khỏi
điểm hẹn cuối cùng nầy của một đời người. Mà chết trong ấm cúng, êm đềm giữa những
người thân thương ruột thịt trong bối cảnh ấm êm của ngôi nhà từ đường cũng chết.
Chẳng may số trời đã định phải chết nơi cái gò hoang vu lạnh lẽo nầy, bơ vơ trơ
trọi một mình thì cũng chết.
Giọng
ông khẳn quyết:
- Chết
là hết, thế thôi. Quan trọng là tư cách của mình trước khi chết. Đã nghĩ như vậy
nhưng bây giờ bác nói mà cháu đừng cười bác nhé. Bác cũng là con người trần thế
với đầy đủ đức tính và tật xấu. Mình có phải thánh thần gì đâu. Trong lúc bác
nghĩ sự sống chung cuộc chẳng ra cái quái gì, nhưng đồng thời bác lại tiếc nuối
không có gì quý bằng sự sống cả. Cháu coi có buồn và mâu thuẩn hay không?
Ông tỏ
ra càng cân nhắc thận trọng từng lời ăn tiếng nói. Câu chuyện đã cũ mèm, đối với
đại đa số những người bàng quan lục lục thường tình, họ bảo còn xưa hơn trái đất,
còn cũ hơn thời ông Nhược ỉa cứt su, hơi sức đâu mà nhắc tới nhắc lui nghe hoài
thêm mệt hai cái lổ tai và thêm mất thời giờ quý báu. Riêng đối với ông, ông phải
nói để trút bớt những u uất cứ thôi thúc dầy vò mãi không thôi:
- Cộng
sản thường khích động lấy đám đông làm áp lực để răn đe trấn áp và khủng bố não
cân người sống. Những bà con lớn nhỏ được chúng lùa đến đây không biết trong
lòng họ như thế nào, có còn giữ nguyên vẹn tình cảm tốt đẹp đối với bác như xưa
hay không? Giờ đây họ có tán thành hay phản đối ra sao không ai biết được, chỉ
biết họ đúng là những chứng nhân bất đắc dĩ của thảm kịch giết người nơi làng
xã hẻo lánh được núp dưới chiêu bài dàn dựng tinh vi là tòa án nhân dân của cộng
sản. Lúc nầy bác không còn thiết gì nữa, chỉ mong được kết thúc nhanh chóng mà
thôi.
Ông
dàu dàu kết thúc:
- Một
phát súng chát chúa bưng tai rồi bác không còn biết gì nữa. Xong một kiếp người
nơi trần thế nhiễu nhương lắm sự. Đến khi bác tỉnh dậy thì trời cũng bắt đầu mờ
mờ với ánh sáng yếu ớt nhưng được điều kiện thuận lợi là ráo hoảnh, giúp bác dễ
dàng định được hướng đi. Tuy đau đớn cực độ do từng cơn nó cứ nhéo điếng người
đến thốn cả tim óc bác. Chiếc áo bà ba bạt màu dơ bẩn bác mặc trong mình lâu
nay suốt thời gian dài bị giam giữ quản thúc đã ĩ máu thấm lạnh, có nơi máu đã
khô cứng. Chắc nhờ cái lạnh đó mà bác mới tỉnh lại, hồi sinh chăng? Bác cố gắng
tập trung nội lực còn sót lại để lần mò, lếch thếch đi khó khăn từng bước một về
đến nhà cách đó cũng chẳng xa gì. Gia đình được báo hung tin, hoảng hồn mất
vía, lật đật xúm xít nhau băng bó tàm tạm vết thương của bác chờ đến tưng bửng
sáng nhờ hai đứa cháu họ lực lưỡng ì ạch võng bác ra tận tỉnh lộ đón chuyến xe
đò sớm đưa bác đi qua Mỹ Tho săn sóc.
Gương
mặt ông giờ đây bỗng loé lên một niềm vui vừa chợt đến:
- Tại
bệnh viện Mỹ Tho, bác sĩ trực và nhân viên có trách nhiệm lật đật cho chở bác
trên chiếc xe hồng thập tự, cứ hụ còi inh ỏi từng chập khi lướt qua những nơi tụ
tập đông người để chuyển thẳng bác lên tận nhà thương Chợ Rẫy ở Chợ Lớn điều trị
khẩn cấp. Tình người ở phía quốc gia mình cao thượng là vậy đó cháu. Nó cao đẹp
thiêng liêng biết dường nào. Nó tôn trọng sự
sống, thể hiện lòng nhân đạo bao la vô bờ bến, trong khi bọn cộng sản
không gớm tay, chẳng ngừng chém giết bừa bãi người vô tội. Bác sĩ sau khi khám
bệnh tỷ mỷ tận tình và chụp ảnh quan tuyến đi đến quyết định không thể giải phẫu
được. Vì nếu giải phẫu sẽ nguy hiểm, tánh mạng không thể đảm bảo. Viên đạn đồng
nằm quá cận kề tủy sống, nhưng thật may mắn phước đức cho bác là nó không chọc
thủng bàng quan hay quả tim hoặc não bộ bác. Nếu đúng như vậy thì kể như rồi đời
bác, ngay từ đêm bị chúng xử tử. Bác sĩ đề nghị với bác cứ bằng lòng chấp nhận
để nó nằm y nguyên ở vị trí như thế, chỉ chú tâm tập trung chữa trị cho mau
chóng lành vết thương. Bác sĩ còn quả quyết, cứ nhắc tới nhắc lui mỗi buổi sáng
khi đến thăm bệnh định kỳ để bác an tâm là sau khi lành bệnh, bác vẫn sống và
làm việc bình thường như mọi người bình thường khác trong xã. Mặc dù viên đạn
oan nghiệt còn ngủ yên tỉnh bơ trong cơ thể bác.
Ông
chúm chím cười sản khoái, nheo nheo đôi mắt ranh mảnh của tuổi thanh xuân đã mất
húc từ lâu:
- Hiện
bác còn giữ như một kỷ vật quý báu trong đời là tấm phim cho thấy rõ viên đạn nằm
chình ình, chúi mũi chệch khá sâu nơi
xương sống. Từ dạo đó bác vẫn làm việc sinh hoạt nông trang như không có chuyện
gì xảy ra, chỉ trừ khi tiết trời lập đông, cái lạnh thấu xương lúc đó làm cho
bác hơi đau lưng, nhức nhức một chút nơi vết thương cũ.
Ông gật
gật đầu đắc chí:
- Cũng may cho cái mạng bác, đám cóc keng nhóc
con du kích cứ ngỡ một khi nắm trong tay cây súng là xem thiên hạ như cỏ như
rác, vênh vênh lên mặt ông trời con muốn làm gì thì làm. Và cũng may, chúng nó
có lẽ mới tập tành, vụng về bóp cò súng hay chúng lúng túng chết nhát, sợ lính
tráng đồn bót kế bên phát hiện hay sao nên bắn trật lất, không trúng vào chỗ
nhược. Tưởng là chúng xử tử hình bác, nhưng bác sống nhăn đến hôm nay như cháu
thấy đó. Trong khi mấy thằng tiểu yêu lênh tênh lếch thếch làm “cách mạng” cách
miệng, phá làng phá xóm bắn bác để “cứu quốc”, để “đánh cho Mỹ cúc, đánh cho Ngụy
nhào” chỉ không đầy một năm sau đều rã đám tan bèo, chết tên hết, không còn sót
một con đỏ. Đồng bọn bị đại đội địa phương quân phục kích bao vây, ria cho cả
đám xuống địa ngục chầu Các Mác. Những kẻ hung dữ ác bạo, ông trời trên cao có
mắt nào để chúng sống để ăn hại báo đời, gieo rắc tang khó bao giờ đâu.
Câu
chuyện năm xưa giữa ông Năm Rồng và Thanh Ba cứ tuần tự tiếp diển không nhàm
chán, trái lại là khác, trong khi mấy bàn nhậu vẫn ồn ào rậm đám, dây dưa chén
anh chén em chưa tàn. Dường như ông Năm còn hậm hực ấm ức trong lòng sao đó nên
nằng nặc níu kéo Thanh Ba ở lại thêm giây phút nữa. Ông xác nhận để Thanh Ba an
tâm, dễ dầu gì đám trẻ nơi bàn nhậu rã hàng sớm được. Tụi nó lợi dụng buổi gặp
gỡ hiếm hoi nầy để trút bớt cảm nghĩ của từng đứa đã bị dồn nén lâu ngày. Ông
tiếp tục ký gởi gọn bâng, thông thoáng một mạch những trắc ẩn còn tồn đọng
trong lòng mình:
- Bác
đoán mò nhưng cũng không sai hẳn đâu, hai đứa bây chắc chắn sẽ rời cái đất Bình
Đại yêu quí nầy của bác chỉ trong vài ngày tới đây thôi. Thiên thời đã thuận lợi
rồi. “Tháng ba bà già đi biển” mà! Đài Khí Tượng Sài Gòn hằng ngày loan báo những
tin tức khả quan lắm. Dường như họ gián tiếp nhắn nhe khuyến khích những người
đang tìm đường ra khơi chăng? Phải triệt để khai thác cái tháng trời êm biển lặng
nầy kẻo không còn kịp. Do vậy, bác lợi dụng những ngày cuối cùng còn ở bên nhau
để gởi gấm đến cháu một ít cảm nghĩ của bác. Bác mong rằng một khi đến được bến
bờ tự do, cháu hãy cố gắng viết lên phơi bày sự thật, sự thật lịch sử chớ không
cãi sửa hay bôi bẩn theo nhu cầu chính trị đen tối, xuyên tạc của cộng sản vốn
cố tâm. Cháu cố gắng ghi lại những gì bác sẽ trình bày sau đây hầu banh đôi mắt,
vạch con ngươi, ngoái hai lỗ tai những kẻ còn u mê ngu muội, mãi vọng tưởng hướng
về cộng sản, vô tình hoặc cố ý biến họ trở thành những kẻ đánh mất lương tâm và
lương tri, a dua xua nịnh, đồng lỏa với trục ác. Và bác cũng mơ ước để những
nhà viết sử chân chính Việt Nam, kể cả ngoại quốc có thêm những bằng chứng sống,
dù muộn màng, để viết trung thực hầu đánh bạt những quan điểm sai lầm hay cố ý
trét đen hình ảnh tốt đẹp của tổ quốc
mình những thập niên trước năm 1975. Dù muộn màng và nếu có phải nói đi nói lại
trăm ngàn lần bác nghĩ không phải vô ích đâu. Cộng sản toàn là một lũ dối gian
chỉ có nước tuyên truyền gian dối. Chúng nói tới nói lui, nói xuôi nói ngược,
trở đen thay trắng xuôi rót.
Ông hớp
một ngúm trà nóng do mấy đứa nhỏ vừa châm vào bình:
- Hồi
bác còn làm xã trưởng đương nhiệm, bác nhớ có một lần bác tiếp một bậc thức giả,
dường như là ký giả cấp tiến có uy tín đang hoạt động ở Sài Gòn thì phải. Lâu
năm quá bác quên hẳn tên. Ông nầy đến Bình Đại điều tra, lắng nghe nguyện vọng
của bà con nông dân thấp cổ bé miệng kêu ca vì bị thực dân tước đoạt đất đai ruộng
vườn mà không bồi thường xứng đáng. Ông có nói một câu để đời, bác ghi nhớ mãi
trong long đại ý, chớ hơn hai mươi năm qua không tài nào nhớ hết nội dung. Ông
nầy có một ưu điểm rất thành thật, trong sáng. Ông bảo ông dẫn lời của một nhà
đại tư tưởng Pháp ở thế kỷ trước, chớ không phải của ông: “Ở đời con người có
can đảm là phải biết cố gắng tìm hiểu sự thật, dù phải đối đầu với hiểm nguy và
nhứt là phải mạnh dạng dám nói lên sự thật đó”.
Ông
nói tiếp:
- Cháu
dám vượt cả một đại dương, bác biết là cháu có thừa can đảm. Bác tin tưởng ở
cháu. Bác ký gởi ở cháu câu chuyện nầy. Bác vẫn còn nhớ như in cũng hồi cái thời
bác đang làm xã trưởng. Việt cộng phát động “chiến dịch đồng khởi” vào cao trào
những năm 1959-60. Lúc đó, chúng nó chủ trương “diệt tề phản đế”, đêm đêm ám
sát, bắt cốc, thủ tiêu hay xử tử hình với bản án nguệch ngoạt như cua bò cài
trên thi thể nạn nhân khốn đốn. Mà nạn nhân hàng đầu là những xã trưởng ở những
làng nhỏ vùng sâu như trường hợp bác, các ủy viên quan trọng trong xã phụ trách
an ninh công cộng chẳng hạn và nhứt là những cảnh sát, nghĩa quân, nhân dân tự
vệ đắc lực, tích cực. Mục đích của chúng là làm tê liệt những hoạt động của
chính quyền ở hạ tầng cơ sở là xã ấp và gây khủng khiếp trong dân lành nhằm cưởng
bức thanh niên đi theo chúng, cũng như bức bách họ đóng thuế má, cung cấp lúa gạo
giúp đảng nuôi quân. Mà hồi mới ngốc đầu dậy sau mấy năm ẩn mình, lực lượng
chúng nó có là bao. Như ở xã bác chỉ có vài thằng du kích cóc keng, ban ngày trốn
chui trốn nhủi dưới hầm bí mật chờ đến đêm tối chui ra xách động dân chúng thế
cô, thường xuyên quấy phá, dán những lá cờ “giải phóng” nhỏ hếu, tháo gỡ ván cầu,
đào đường, đắp mô gây trở ngại giao thông…
Ông cười
khinh bỉ:
- Thỉnh
thoảng chúng phối hợp với một tiểu đội cơ động cấp tỉnh, nói cấp tỉnh nghe cho
sướng hai cái lỗ tai, nhưng thực tình chỉ le ngoe vài tên đến phục kích, bắn lẹt
xẹt bừa bãi các đồn bót nghĩa quân lẻ tẻ, sau khi rúng ép làm áp lực xô đẩy dân
làng vô tội tập họp đánh mõ làng, đập thùng thiếc, đốt pháo tre bằng hơi khí đá
rồi la ó xung phong nhưng chẳng thấy xung phong, làm như chúng nó đông đảo lắm.
Chẳng qua chúng triệt để áp dụng chiến thuật biển người của quan thầy Trung cộng
thời Mao, chết ai nấy chịu, miễn chúng bảo tồn được mạng sống.
Ông
phân tách thêm:
-
Nhưng chuyện bác sẽ nói sau đây mới là quan trọng và hi hữu, có một không hai,
còn hơn chuyện một ngàn lẻ một đêm. Một khi lực lượng Việt cộng còn trong phôi
thai hay yếu thế như trường hợp những tháng năm đầu của “chiến dịch đồng khởi”,
chúng dựng đứng, tưởng tượng, phịa ra những câu chuyện đâu đâu nhưng nhứt loạt
phải là những chuyện giựt gân, thu hút tính hiếu kỳ, tác động mạnh mẽ vào tánh
tò mò của người nghe. Chúng nghiên cứu tận tường lắm làm cho quần chúng nhân
dân dễ tin cứ ngỡ là chuyện có thật, rồi từ cửa miệng người nầy chuyền sang người
khác và cứ như thế lan tỏa sâu rộng một cách tai hại. Do vậy chúng đạt được mục
tiêu tuyên truyền, làm tê liệt phần nào ý chí đấu tranh của những lực lượng võ
trang và hành chánh địa phương, đồng thời người dân đâm ra hoang mang trở nên
thụ động hay ơ thờ, chưa nói đến việc một số không ít thiếu ý thức, kém hiểu biết,
không chịu xét suy nên chẳng ngần ngại từ bỏ gia đình thoát ly theo chúng. Cái
tỉnh Bến Tre của bác tiếc thay là tỉnh trội hẳn ở miền Nam nhun nhúc cán bộ cộng
sản.
Đến
đây trông ông phẫn nộ trước những sự việc nóng hổi làm như vừa mới xảy ra đầu
hôm sớm mai, chớ không phải được làm sống lại sau hơn mấy mươi năm chôn vùi
trong quá khứ đau buồn:
- Bác
kể cho cháu nghe một thí dụ điển hình mà một thời bác đã trả một cái giá quá đắc
là viên đạn đồng đến nay còn nằm gọn hơ trong cơ thể bác. Tụi Việt cộng những
năm đó chỉ le hoe vài đứa làm sao đủ lực lượng và nhân sự để phát động sâu rộng
phong trào, một khi chúng nó chỉ có vài vây súng trường cổ lổ rĩ sét vừa đào
lên hồi chôn giấu vũ khí mai phục sau
ngày tập kết năm 1954. Nhưng chúng cũng làm được việc gớm. Cái hay và cũng là
cái gian manh của chúng là biết dùng áp lực cưởng bách, huy động một số không
nhỏ dân chúng vùng chúng kiểm soát về đêm. Dưới ánh trăng lờ mờ và qua vài ngọn
đuốc bập bùng như ma trơi, dân chúng phần thì lo sợ bị lực lượng mình pháo
kích, phần thì chắc cũng không tha thiết cho lắm, miễn sao cái trò hề nầy sớm
chấm dứt để họ vững tâm ra về an toàn. Họ chỉ thấy vài thằng cán bộ nồng cốt
mang kè kè mấy khẩu súng trường, súng thật, cứ
nhởn nhơ tới lui, lượn qua lượn lại không ngớt làm như
chúng nó đông cả năm ba chục người vậy. Trong khi một đám cảm tình viên mang những
khẩu súng cây sơn màu đen đứng lố nhố xa xa làm cảnh. Chúng còn đôn đốc hô hào
dân chúng ra sức đào những hầm hố cá nhân, càng nhiều càng tốt trong những vườn
dừa xan xác nhau với cành lá rậm rạp tối trời. Ấy vậy đến sáng hôm sau, bọn cán
bộ nằm vùng hay cảm tình viên của chúng đồng loạt bung ra đồn rùm trời rùm đất
là đêm qua Việt cộng kéo về xã nhà biểu dương lực lượng đến cả tiểu đoàn mấy
trăm người, lại được trang bị đầy đủ vũ khí tối tân. Bằng cớ là cứ đếm hầm hố
cá nhân thì biết. Tiếng đồn từ đó tung ra khắp làng xã, tỉnh quận qua cửa miệng
của những người vô trách nhiệm, làm bất lợi cho chính nghĩa quốc gia. Chẳng qua
đây chính là một trong những thủ thuật đưa đẩy đến ngày tan hàng rã ngũ 30
tháng tư 1975.
Ông
còn muốn nêu lên nhiều thí dụ khác nữa nhưng không biết nghĩ sao ông lại thôi,
sau khi thuật một việc động trời:
- Có
việc nầy bác không thể không nói ra đây. Làm như bác có bổn phận nào đó đối với
cháu, một người sắp từ bỏ thôn ổ xóm làng dấn thân vào con đường chết để tìm sự
sống. Mà bác tin tưởng những người ăn hiền ở hậu như cháu không thể chết tức tưởi
được. Cháu phải sống, sống để nói lên một sự thật lịch sử để mọi người cùng
nghe và hành động. Vì chỉ có sự thật và tình yêu thương chân chính mới giúp
mình chiến thắng được gian dối và bạo tàn. Hồi thời kỳ “đồng khởi” ở Bến Tre
quê hương bất hạnh của bác, nơi bác tự xét đã mang trong mình một vết nhơ thế kỷ
không thể gội rửa được trước lịch sử xây dựng nước nhà, chắc cháu đã nghe Việt
cộng to mồm huênh hoang tuyên truyền hết lời về “cây súng ngựa trời”, một phương
tiện của quốc sách đấu tranh. Thật không gì lố bịch cho bằng. Cây súng đúng là
cây súng chúng dùng để giết người, đàn áp đồng bào, đơn giản như vậy, chớ thêm
hai chữ “ngựa trời” là cái quái quỷ gì.
Ông nhìn thẳng Thanh Ba với đôi mắt sáng quắc:
- Lại
tuyên truyền gian dối, không hơn câu chuyện bé Lê Văn Tám hay những chiến sĩ
tiên tiến, bộ đội anh hùng nhun nhúc của chúng như Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót,
Út Tịch, Nguyễn Thị Định v.v… mà ai cũng thừa biết là những chuyện phịa một
trăm phần trăm hoặc chúng phóng đại lý lịch mạo nhận, tác phong ma, thành tích
tưởng tượng quá đà được giàn dựng trong những chiến dịch thúc đẩy vào chỗ chết.
Sau nầy dù bị phát hiện đưa ra ánh sáng nhưng chúng vẫn trơ trơ mặt địa, chẳng
biết hổ thẹn là gì. Với “cây súng ngựa trời” thực ra là cây súng không giựt được
chúng nghi trang trên chiếc xe “cúc kít” cũ xì đủ thứ cành lá tạp nhạp rồi những
đêm tụ tập biểu tình, đập bồn đập bát, chúng hè hụi đẩy tới đẩy lui làm cảnh.
Trong khi đó đồng bọn hổ trợ hà hơi rĩ tai, hết lời thêu dệt cường điệu để
thiên hạ tin bằng lời là cây súng dị hợm nầy có thật.
Ông
nói thẳng và nói thật:
- Có
điều nầy bác cần nhấn mạnh ở đây để lưu ý cháu. Việt cộng, chúng nó chủ trương
tôn thờ chủ nghĩa tam vô: vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo. Gia đình của
chúng là đảng cộng sản đệ tam quốc tế, tổ quốc của chúng là chế độ xã hội chủ
nghĩa, còn tôn giáo của chúng là lý thuyết Mác-Lê nin. Đối với những người yêu
chuộng tự do, tôn trọng tình người và giá trị vĩnh cửu của sự thật, gia đình là
nền tảng vững chắc của truyền thống gốc rễ cội nguồn không thể phũ nhận được, tổ
quốc thiêng liêng trên hết, tiêu biểu niềm hãnh diện và tự hào của dân tộc trước
thăng trầm của lịch sử, còn tôn giáo là lãnh vực tâm linh hướng thượng dẫn dắt
con người phân biệt phải trái, ác bạo và nhân nghĩa. Đối với bác một người vốn
ít học, tròn trèm chữ nghĩa vừa đủ để làm làng nơi cùn cốc và cũng vì nhận thức
như trên nên bác từng dấn thân, mạnh dạng làm tròn vai trò của mình đối với xã
hội suýt bỏ mạng. Khác với những bực học cao hiểu rộng, khoa bảng nghiên cứu
sâu rộng những gì liên đới đến cộng sản nhưng an thân trùm chăng, ngại khó ngại
nguy, bác thiết nghĩ chẳng ít gì.
Ông tiếp
tục giải thích:
-
Nhưng để tranh thủ tâm lý và khích động lòng yêu nước của người dân, cộng sản
luôn luôn khai thác những sự kiện lịch sử nào có lợi cho chúng. Chúng thừa biết
người dân trong quảng đại quần chúng luôn tôn thờ, kính trọng trời phật. Chúng
khoác cho cây súng hai chữ “ngựa trời” chẳng qua là để tận dụng khai thác cái
tinh thần trong sáng ngàn đời đó của dân tộc mình. Trong thực tế, chúng là kẻ
vô thần ngang ngạnh làm gì mà tin tưởng, đừng nói chi thờ phượng trời phật. Chúng đã từng gian manh nguyền rủa ông trời,
gọi là “thằng trời” nầy, “thằng trời” nọ kia mà. Cũng như chúng nào có tổ quốc
nên việc chúng cao giọng rêu rao đấu tranh cho tổ quốc chỉ là một sự mánh mung.
Ông từ
từ tháo gỡ cái vỏ bọc sắc màu hực hỡ, hấp dẫn quyến rủ bên ngoài để phơi trần
chất độc hại khéo léo ẩn giấu bên trong:
- Lúc
đó trong giai đoạn cần thiết, chúng muối mặt đề cao “ông trời”, có lẽ chúng đã
nghiên cứu tường tận tích xưa Phù Đông Thiên Vương sau khi đánh thắng giặc Ân,
Ngài cởi ngựa sắt trực chỉ biến mất trên trời cao. Giờ đây chúng có “cây súng
ngựa trời”, nhứt định phần thắng sẽ về với phía chúng. Nực cười cho “cây súng
ngựa trời”, nhưng một thời cũng đã gây điêu đứng cho chánh quyền địa phương.
Đau đớn thay một thời kỳ đáng tiếc.
**
Quách Thanh Ba, Thanh có nghĩa là xanh còn Ba là sóng, trong khi Phạm Đại Dương, Đại là lớn mà Dương là biển, sóng xanh réo gọi ra biển lớn. Một sự tình cờ của định mệnh khiến hai người bạn chí thiết, cùng quyết tâm, chung một lòng đã thành công đến được bến bờ tự do. Dù họ đã trải qua hơn tuần lễ lênh đênh trên biển khơi lặng im sóng gió. Từ sau khi được chấp nhận cho định cư ở tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ, Thanh Ba và Đại Dương luôn tích cực dấn thân tham gia vào những phong trào tranh đấu của người Việt tỵ nạn cộng sản hay những công tác ái hữu giúp đỡ đồng hương lưu vong vô thân. Cả hai hứa với lòng mình tuyệt đối tôn trọng tinh thần tỵ nạn, nhứt quyết không bao giờ cúi mặt trở về Việt Nam, một khi cờ đỏ vẫn còn phất phới ngạo nghễ tung bay trên quê hương đau khổ, mặc dầu cha mẹ và thân nhân vẫn còn kẹt lại. Riêng Thanh Ba luôn ghi nhớ những lời ký gởi của lão nông Phạm Văn Rồng kính mến ngày xưa. Ông từng dẫn lời của một nhà tư tưởng ngoại quốc trứ danh: “Thói thường, oán hận để đi đến trả thù dưới mọi hình thức là một hành động bỉ ổi đáng chê trách và lên án, nhưng một khi nó có mục đích chánh đáng và cần thiết thì mình phải chấp nhận, xem như một sự công bằng”.
Lời nói đó hẳn là một trong những động lực chấp
cánh cho anh tự nguyện dấn thân mãi mãi đến hơi thở cuối đời. Như anh thường hứa
trước lương tâm. Như anh từng nguyện sẽ không bao giờ thay đổi. Còn những bài
viết, dù là quan điểm lập trường hay sáng tác văn thơ hoặc hồi ký, ký ức dài
dòng của anh được đăng tải rải rác trên các báo chí tự do ở hải ngoại bấy nay
không phải để thể hiện tấm lòng quả cảm của anh như có lần ông Năm Rồng nhắc nhở
trước khi anh vượt biên. Mà chính là bổn phận thúc đẩy anh tuyệt đối trung
thành với ý nguyện của một người tuổi tác giàu kinh nghiệm sống, là phải mạnh dạng
nói lên sự thật lịch sử. Còn vấn đề có can đảm hay không chỉ là phần phụ thuộc,
đối với anh không mấy quan trọng, do nó xuất phát từ trái tim biết thổn thức và
nhận định. Hơn nữa, anh cũng nghĩ thêm rằng những kỷ niệm khắc cốt ghi tâm tích
lũy từ phong cách của ông Năm Rồng năm xưa chính là sức mạnh anh thừa hưởng hôm
nay. Hoàn cảnh lưu vong cùng những tin tức đau buồn đến từ quê hương khắc khổ
được anh ví như đang giữa đêm đen, con người còn có ý thức phải có trách nhiệm
làm sống lại những tháng ngày trọng đại bi hùng, xem như mình đang góp công góp
sức nhóm lên ngọn đuốc hy vọng sáng trưng vậy. Và cũng qua đó để anh hồi hướng
tưởng nhớ một bậc trưởng thượng nhiệt huyết có lòng, nay chắc đã nằm yên đâu đó
trên quê hương Bình Đại dấu yêu của ông.
24/12/2012
-***-
Hoài niệm Học giả Giáo sư Lê Thọ Xuân
Một buổi chiều trời trong nắng ấm vào tháng giêng năm 1972, trong không khí tưng bừng rộn rịp những ngày vui Tết Nguyên đán, chúng tôi lái xe đến rước anh Thanh Ba Bùi Đức Tịnh nơi nhà anh tọa lạc ở đường Tự Đức, phường Đa Kao thuộc Quận Nhứt Đô Thành đối diện với viện bào chế của dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều để cùng nhau đến tận sân trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn đón giáo sư học giả Lê Thọ Xuân. Chúng tôi cẩn thận đến sân trường Đại học trước độ năm mười phút, đứng trò chuyện lang bang và lóng ngóng cho qua giờ. Vì nghĩ rằng thà chúng tôi đợi chờ còn hơn lỡ trễ giờ hẹn mà phạm lỗi với bực đàn anh kính mến và nể trọng, so với tuổi tác lớn hơn chúng tôi nhiều, chắc cũng một kỷ tròn hay hơn. Hôm đó, chúng tôi đã có hẹn trước với Cụ cả tuần lễ sẽ đến đón Cụ sau khi Cụ dứt giờ giảng dạy nơi Ban Sử ở đây. Anh Bùi Đức Tịnh ngoài bút hiệu Thanh Ba còn có bút hiệu khác là Ngao Châu (?), tác giả tập truyện chuyển ngữ “Đường Lên Cõi Bắc” của thời “Văn Chương Nam Bộ Kháng Chiến”. Anh vốn là một nhà văn nhà báo và nhà nghiên cứu văn học Nam Kỳ Lục Tỉnh. Nhưng theo tôi biết, anh không phải là người cầm bút chuyên nghiệp sống trọn thời gian với nghề tim óc đầy dẫy vinh nhục nầy. Vì ngoài duyên văn nghiệp bút, anh còn sinh sống qua vai trò giảng sư thỉnh giảng ở các đại học Miền Nam, lúc bấy giờ đang trên đà phát triển mạnh mẽ ở các tỉnh thành lớn và đô thị quan trọng như Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh, Đà Lạt, Huế v.v... Anh thuộc một trong những bực đàn anh lâu năm của chúng tôi và được nhiều người biết tiếng ở lãnh vực nghiên cứu Văn học đặc thù Miền Nam, qua những công trình có giá trị được công nhận vượt thời gian và không gian sau khi được anh long trọng trình làng trước tháng Tư Đen năm 1975 qua nhiều nhà xuất bản khác nhau. Trong những tác phẩm đánh dấu thời đó, chúng tôi có thể kể ra đây tựa sách “Văn Học Và Ngữ Học” gồm hai quyển 1 & 2 (Lửa Thiêng, Sài Gòn xuất bản), cũng như những biên khảo rất công phu nhằm đóng góp làm sống dậy giai đoạn phôi thai rất quan trọng của nền báo chí và tiểu thuyết ở dãy đất phương Nam vào đầu thế kỷ XX, ít người biết tới lúc bấy giờ. Chúng tôi lại có một thời gian đôi ba năm tuy ngắn ngủi nhưng rất may mắn được gần gũi anh do một hoàn cảnh tế nhị và đặc biệt của lịch sử đẩy đưa mà có. Dĩ nhiên, do sự gần gũi tình cờ và thân tình, có một không hai trong đời tôi, anh đương nhiên trở thành một đàn anh quý hiếm đã có nhiều ảnh hưởng quyết định trong mối đam mê văn chương chữ nghĩa và báo chí nơi chúng tôi. Ảnh hưởng đó của anh không kém phần quan trọng nếu chúng tôi so sánh với tác động của anh Phi Vân Lâm Thế Nhơn, tác giả các tập truyện Đồng Quê, Dân Quê, Cô Gái Quê… trong những chuyện về đồng quê của chúng tôi những năm về sau nầy. Hôm nay, lại chính anh Thanh Ba là người tự nguyện đứng ra làm môi giới giúp chúng tôi đến gặp cụ Lê Thọ Xuân. Cụ là một cây bút, đúng hơn là một học giả tên tuổi đương thời mà chúng tôi từng mến mộ như một thần tượng, lúc tuổi đời vừa mới ngấm nghé bước qua khỏi ngưởng cửa trường trung học.
Lúc bấy
giờ cụ Lê Thọ Xuân đảm nhiệm chức vụ giáo sư thỉnh giảng của Ban Sử thuộc trường
Đại học Văn Khoa Sài Gòn do giáo sư thạc sĩ Nguyễn Thế Anh, tác giả quyển “Việt
Nam Dưới Thời Pháp Thuộc” (Lửa Thiêng, Sài Gòn) cùng với nhiều tác phẩm nghiên
cứu và sách giáo khoa bậc đại học thuộc hai bộ môn sử ký và địa lý làm Trưởng
ban. Tháng Tư năm1975, Cộng sản cưỡng chiếm hoàn toàn Miền Nam, giáo sư Nguyễn
Thế Anh cùng với đông đủ gia đình rời khỏi Việt Nam vào những ngày cuối cùng bằng
đường hàng không của Hoa Kỳ từ phi trường quốc tế Tân Sơn Nhứt và sang tỵ nạn
chính trị tại Pháp. Nơi đây ông tiếp tục dạy học và có thời gian chúng tôi được
biết ông giảng dạy ở Đại học đường Toulouse (Pháp). Đồng thời ông sinh hoạt rất
tích cực ở hai lãnh vực nghiên cứu lịch sử và báo chí hải ngoại. Chính ông là
người có công khám phá ra một oái oăm lịch sử được tập đoàn cộng sản Bắc Việt
đã khéo léo bưng bít che đậy, ém nhẹm nhằm đánh lạc hướng ròng rã từ nhiều thập
niên qua. Ông công bố ra trước dư luận cộng đồng Việt Nam lưu vong và cả đồng
bào trong nước bức thư viết tay của Nguyễn Tất Thành (về sau là Hồ Chí Minh, Tổng
Bí thư đảng Cộng sản và Chủ tịch nước Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa) đề ngày 15
tháng 9 năm 1911 lúc “bôn ba đi tìm đường cứu nước!”. Thư gởi ông Bộ trưởng Bộ
Thuộc địa Pháp để xin một đặc ân được nhận vào nội trú trường Thuộc Địa, với
mong ước sẽ trở nên hữu ích cho nước Pháp. Nhưng đơn xin nầy bị bát và nay chứng
tích và bút tích vẫn còn lưu trữ đành rành trong văn khố, một sự thật phũ phàng
không thể lấp liếm chối cãi được. Một sự thật đánh bạt lập luận “yêu nước” và ý
hướng “làm cách mạng” của lãnh tụ cộng sản từng được tập đoàn bồi bút ca tụng
như thần thánh quá đà.
Hôm ấy,
hai anh em chúng tôi rước cụ Lê Thọ Xuân đưa thẳng về hướng đường Trương Tấn Bửu
thuộc vùng Ngã Tư Bảy Hiền, không xa mấy nơi nhà Cụ đang ở cùng với gia đình.
Và lúc đó trời cũng đã xế chiều khá lâu rồi nên anh Thanh Ba và chúng tôi quyết
định ngỏ ý mời Cụ nhân tiện ghé vào một quán nhậu để giải nghể và cũng để cùng
nhau trò chuyện dong dài thoải mái hơn. Sự thực chúng tôi đã dự tính mời Cụ
nhưng không tiện báo trước với ý định dành cho Cụ một sự ngạc nhiên. Từ cái
quán lâu đời nầy vốn nổi tiếng đối với giới ăn nhậu ở thủ đô Sài Gòn thích khám
phá thưởng thức những món ăn lạ, nếu phải đến nhà Cụ chỉ độ chừng vài trăm thước
bách bộ thông thả là cùng. Chúng tôi áng chừng như vậy nhưng thực tế hẳn không
xa ức đoán của chúng tôi là bao. Do sau nầy nhiều lần chúng tôi thường đến viếng
thăm Cụ ở nơi đây. Cụ rất vui vẻ nhận lời ngay không chút đắn đo ngần ngại, chẳng
qua do bản tánh và phong thái xử sự của con người “Nam Kỳ Lục Tỉnh” rặc nòi, rất
lè phè dễ dãi, tự nhiên và cởi mở ngay tình, ăn nói thẳng như mực tàu, không cầu
kỳ bay bướm. Nhứt là một khi có sự ưu ái giới thiệu giữa những bằng hữu tin cậy,
tâm đồng ý hợp thì không còn xa lạ, trái lại xem như anh em tình nghĩa gắn bó
đã quen biết hoặc qua mối giao tình từ lâu lắm rồi. Mục đích chủ yếu của chúng
tôi đã bàn tới tính lui năm lần bảy lượt trước đó với anh Thanh Ba là muốn được
dịp trực tiếp gặp Cụ để khẩn khoản nhờ Cụ vui lòng chấp thuận viết giúp chúng tôi một bài báo. Chúng tôi dự trù sẽ
trang trọng đăng nơi trang nhứt trong số ra mắt của tập san nghiên cứu văn học
nghệ thuật mà chúng tôi vừa mới được Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi cấp giấy
phép xuất bản. Việc nầy chúng tôi đang trên đà âm thầm nhưng tích cực xúc tiến
liên tục cả mấy tháng qua, dù chúng tôi quá bận rộn với công việc chính là in ấn
và xuất bản. Nơi đây, chúng tôi xin phép được mở một dấu ngoặc đơn để sơ lược
nhắc lại một thực tại lịch sử về ngành báo chí truyền thông Miền Nam vào thời
khoản cố định đó. Đặc biệt là trong hoàn cảnh thủ đô Sài Gòn thời buổi chiến
tranh tiếp diễn sục sôi khốc liệt ở khắp bốn vùng chiến thuật, toàn dân cùng
quân cán chính các cấp đang tập trung mọi nổ lực nhằm dằn co sinh tử để sống
còn trong mặt trận gay go và phức tạp đấu tranh ý thức hệ chống cộng sản hiếu
chiến miền Bắc. Lúc nào chúng cũng chủ trương xâm lăng trọn vẹn Miền Nam bằng mọi
giá, bằng vũ lực xe tăng đại pháo và biển người như những lời khích động qua miệng
lưỡi ngọt lịm bùi tai của Hồ Chí Minh: “Miền Nam luôn trong trái tim tôi”.
Nguyên
lúc bấy giờ, Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi có ký một sắc lệnh cấm chỉ tuyệt đối
sẽ không cấp phát thêm giấy phép mới để xuất bản báo chí, dù dưới hình thức
nào, dù là báo hằng ngày hay tạp chí, tuần báo, nguyệt báo... Giữa tình thế xem như hoàn toàn bế tắc như vậy,
nhằm đối phó với những thành phần phản chiến, thành phần thứ ba hay cán bộ ngoại
vi, đảng viên nằm vùng trường kỳ mai phục của cộng sản lợi dụng tự do báo chí,
tự do ngôn luận, tự do hội hợp… để đâm sau lưng chiến sĩ quốc gia làm lợi cho cộng
sản, nhưng chúng tôi cũng có được giấy phép ra báo hợp lệ là cả một trường hợp
đặc biệt đầy may mắn và ân sủng. Thực ra đây cũng nhờ vào sự can thiệp nhiệt
tình và hữu hiệu, vừa cảm thông vừa giúp đỡ của cố giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn
Ngọc Huy, lúc đó là Tổng Thư Ký của Phong Trào Quốc Gia Cấp Tiến (Chủ tịch là cố
giáo sư Nguyễn Văn Bông). Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy là tác giả của rất nhiều tác
phẩm chính trị cũng như nghiên cứu bậc đại học, trong số đó chúng tôi xin được
kể đại khái vài tác phẩm như “Đề Tài Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời (Cấp Tiến, Sài Gòn xuất bản) và hai quyển
Hàn Phi Tử 1 & 2 (Lửa Thiêng, Sài Gòn), trước 1975 rất được giới văn chương
chữ nghĩa và độc giả bốn phương đón nhận nồng hậu. Phần khác chúng tôi nghĩ chẳng
qua cũng nhờ chúng tôi khẳn định chủ trương rõ rệt nghiên cứu thuần túy văn hóa
nên chung cuộc đã thành công chinh phục được sự rộng lượng của ông Bộ trưởng Bộ
Thông Tin chăng? Thêm vào đó, chúng tôi cũng được sự ưu ái ủng hộ vô điều kiện,
đồng ký tên trong đơn xin phép ra báo của chúng tôi nhằm liên đới đảm bảo trách
nhiệm của hai khuông mặt rất quen thuộc trong giới đại học Miền Nam. Đó là giáo
sư tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, Trưởng ban Địa Lý Đại học Văn Khoa, có lúc giữ chức
vụ Tổng thư ký Viện Đại Học Sài Gòn (Viện trưởng lúc đó là giáo sư Phạm Hoàng Hộ).
Và một người bạn học cũ những năm cuối cùng ở cấp trung học, rất chân thật hiền
hòa, dễ mến dễ thương là kỹ sư Nguyễn Kim Môn, chuyên viên Sở Khí Tượng Sài
Gòn, tác giả quyển “Khí Tượng Canh Nông” (Lửa Thiêng, Sài Gòn). Quyển sách khá
đồ sộ, có thể nói là sách đầu tiên ở lãnh vực mới mẻ nầy, rất được các giới
chuyên ngành cũng như sinh viên Canh Nông, Sài Gòn và Nông Lâm Súc, Bảo Lộc
hoan nghinh học hỏi xem như sách giáo khoa rất hiếm hoi thời ấy. Giáo sư Liêm tỵ
nạn chánh trị tại Pháp, còn kỹ sư Môn định cư cùng gia đình tại Hoa Kỳ. Nơi đây
trong khi viết những dòng nầy, chúng tôi xin có lời chân thành cám ơn cả hai
anh qua sự nhắc nhớ tuy muộn màng nhưng không ngoài việc hoài niệm, hồi nhớ một
kỷ niệm tốt đẹp khó phai trong lòng tôi. Anh Nguyễn Kim Môn, hơn ba mươi lăm
năm qua chưa một lần chúng tôi có dịp gặp lại, kể từ khi chúng tôi vượt biển
tìm tự do năm 1979, trừ những lần thư từ qua lại thăm hỏi nhau và để nhắc nhớ
những kỷ niệm buồn vui những năm nhục nhằn nơi xứ tù chung thân xã hội chủ
nghĩa. Mặc dầu giấy phép đã được cấp hợp lệ, nhưng để tránh mọi dị nghị và tai
tiếng, nhứt là phản ứng bất lợi, lắm phiền hà nhưng chánh đáng của giới chuyên
nghiệp chân chính có lập trường quốc gia dân tộc trong sáng, sống duy nhứt với
nghề cầm bút chung quanh lãnh vực báo chí và xuất bản nên Bộ Thông Tin khi cấp
giấy phép có lời khuyến cáo chúng tôi. Chúng tôi không nên đánh “Số” thứ tự
trên các bìa báo theo thông lệ trong giới, như “Số 1”, “Số 2”, “Số 3”… mà chỉ
ghi đơn giản tập san “1”, “2”, “3”… với ngày tháng phát hành ngay bên dưới.
Chúng tôi chấp hành đứng đắn lời khuyến cáo trên đây, nhưng nếu người đọc tinh
mắt hoặc để ý mới thấy cách trình bày khá tế nhị nầy. Để chuẩn bị chu đáo cho số
ra mắt, chúng tôi có mời được anh Nguyễn Văn Xuân, nhà văn tên tuổi miền Trung,
sinh sống ở Đà Nẵng (Quảng Nam), tác giả quyển nghiên cứu lịch sử “Ông Ích
Khiêm” viết bài “Nhất Linh đã đóng góp những gì cho Văn học Việt Nam?”. Dĩ
nhiên hai bậc đàn anh đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc hình thành
tập san không thể thiếu được là anh Thanh Ba Bùi Đức Tịnh có bài “Một đặc điểm
của Văn chương Miền Nam: Tinh thần Tranh đấu” và giáo sư Hùng Nguyên Nguyễn Ngọc
Huy với bài “Lược khảo về lịch sử các định chế chánh trị Trung Quốc”, một trong
những lãnh vực chuyên môn của giáo sư. Ngoài ra còn các vị học giả cũng như nhà
văn nhà báo tên tuổi sau đây cũng đồng thanh tán thành chủ trương và nhiệt tình
ủng hộ việc làm khó khăn đầy tốn kém của chúng tôi trong lúc nền kinh tế nước
nhà gặp nhiều khó khăn. Hôm nay, trong hơi hướm hoài niệm cụ Lê Thọ Xuân và
nhân đó nhắc nhớ một mảng đời chập chững làm báo của chúng tôi nơi quê nhà trước
1975, chúng tôi không thể nào quên tri ân các vị đã góp mặt trong số tập san ra
mắt nầy. Đại thể, chúng tôi có thể kể và không hề quan tâm đến thứ tự hoặc tiêu
chuẩn nào. Đó là giáo sư bác sĩ Trần Ngọc Ninh, từng là Tổng trưởng bộ Quốc Gia
Giáo Dục hiện định cư ở Hoa Kỳ với bài:
“Ngữ lí học - Cơ cấu Dạng vị học so sánh của Danh từ trong các Ngôn ngữ
Đông Á - Hệ thống loại danh và số danh”. Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, cựu Tổng Trưởng
và cựu Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn hiện định cư ở Pháp qua bài “Rong và việc
giảng dạy”. Giáo sư Lâm Thanh Liêm, Trưởng ban Địa lý Đại học Văn Khoa Sài Gòn
với bài “Cơ cấu nông nghiệp tại Nam Kỳ dưới thời Pháp thuộc” v.v…
Chúng
tôi xin được phép nói qua về bước khởi đầu quá vất vả chật vật của tập san,
trong khi tiếng súng xâm lăng của cộng sản đêm đêm rền vang xa xa đó đây và đạn
pháo kích của chúng thỉnh thoảng nổ ụp bừa bãi vào giữa Đô Thành bất kể mục
tiêu, gieo rắc biết bao tang tóc đổ vỡ cho dân lành vô tội. Chúng tôi dong dài
chỉ do một tiếc nuối khó khuây trong lòng. Đến nay dù thời gian đã lắng đọng
nhưng vẫn còn ngăn ngắt ray rứt khó tả. Vì lý do sau khi “Số 1” của tập san ra
mắt khá muộn màng vào tháng 12/1974 và vừa phát hành xong “Số 2” tháng 2/1975,
chúng tôi đang trên đà chuẩn bị hoàn tất “Số 3” do tập san phát hành mỗi hai
tháng một số, nhưng chưa kịp phát hành thì tình hình Miền Nam bắt đầu chìm sâu
trong dầu sôi lửa bỏng cực kỳ nguy hiểm. Các sư đoàn, đại đoàn chính qui cộng sản
Bắc Việt bất chấp Hiệp định Đình chiến Paris năm 1973, vượt vĩ tuyến 17, phối hợp
với bọn du kích trong Mặt trận Giải phóng Miền Nam đang ồ ạt tập trung những
mũi vùi ngấp nghé ngưởng cửa Đô thành Sài Gòn. Thành phố rộn rịp huy động mọi nổ
lực cuối cùng còn lại để đối phó tình hình khẩn trương với lòng quả cảm và can
trường của chiến sĩ các cấp giữa cảnh lo âu, sợ hãi hoang mang của dân chúng. Rồi
ngày 30 tháng Tư Đen ập đến trong kinh hoàng của toàn dân Miền Nam, kéo theo sự
sụp đổ tang tác giấc mộng trân quý ấp ủ bấy nay của chúng tôi. Nơi đây, để được
đầy đủ trong niềm ôn cố hoài niệm, chúng tôi xin ghi lại một vài tựa bài trong
“Số 2” mà thiết tưởng nhiều độc giả lúc Miền Nam đang thời hổn loạn ấy chưa có
dịp đọc hay chưa kịp đọc qua, vì tâm trí tập trung vào việc đối phó tình hình
khẩn trương cực độ, đang tìm một giải pháp ổn thỏa cho gia đình. Đại khái bài của
anh Nguyễn Văn Xuân: “Ông Ích Khiêm và việc giết vua Hiệp Hòa”; anh Bùi Đức Tịnh
qua bài “Những kinh nghiệm Ngữ học trong các sáng tác của Văn học Miền Nam ở
giai đoạn đầu của Báo chí và Tiểu thuyết”; giáo sư Trần Ngọc Ninh, tác giả các
quyển ‘Cơ Cấu Việt Ngữ’ (Lửa Thiêng, Sài Gòn): “Từ pháp học so sánh”; anh Trần
Kim Thạch, giáo sư Trưởng ban Địa Chất trường Đại học Khoa Học Sài Gòn: “Đóng
góp địa chất học trong mười năm qua 1964-1974”; anh Hoàng Trọng Miên: “Từ nguồn
gốc dân tộc Việt đến lịch sử chữ Nôm”; anh Nguyễn Văn Xung, tác giả ‘Phạm Thái
Và Sơ Kính Tân Trang’ (Lửa Thiêng, Sài Gòn): “Vấn đề căn bản của Mỹ học: Chân
lý Khoa học và Cái đẹp trong Nghệ thuật”; anh Nguyễn Khuê, giảng sư Đại học Văn
Khoa Sài Gòn, tác giả ‘Hồ Biểu Chánh’ và ‘Hán Văn Tân Khóa Bản’ (cả hai đều do
Lửa Thiêng, Sài Gòn xuất bản) với bài: “Trịnh Hoài Đức và Cấn Trai thi tập”;
anh Phạm Trường Giang: “Chương Chu Nguyễn Thần Hiến, một chiến sĩ cách mạng Việt
Nam chết trong lao tù thực dân giữa ngày Tết Nguyên Đán”…
Bao
nhiêu tim óc. Bao nhiêu công khó. Bao nhiêu khuôn mặt thân quen đáng kính ngày
nào, nay kẻ còn người mất, kẻ sống nhục nhằn cơ cực nơi quê nhà, người trôi nổi
với niềm đau vong quốc nơi xứ lạ quê người. Khi nhắc nhớ đến, lòng chúng tôi bỗng
chùn lại, càng thêm xao xuyến bùi ngùi khôn tả. Như đã nói,
tháng Tư Đen 1975 làm gãy đổ một dự án, làm tiêu tan thành mây khói một ước mơ.
Một dự án trân quý, một ước mơ đam mê của riêng chúng tôi. Đối với chúng tôi còn
nỗi buồn nào hơn, khi những gì mình đã trìu mến, trân trọng ấp ủ từ lâu nay và
đang trên đường thực hiện tốt đẹp bỗng dưng buông xuôi trong tưởng tiếc tức tưởi
vô bờ bến. Tôi lại nhớ đến bao nhiêu nhà văn
nhà báo, bao nhiêu nhà nghiên cứu văn chương học thuật, bao nhiêu giáo sư đại học
nặng tình với chữ nghĩa, nói tóm lại những người cầm bút đã gởi bài đóng góp
hay đã hứa cộng tác định kỳ với chúng tôi đã tan tác xác xơ, gãy bút nơi quê
hương thống khổ. Hoặc định mệnh hẩm hiu xuôi khiến bất hạnh vùi thây trong hải
trình thập tử nhất sanh hay nơi rừng sâu trùng điệp, lúc mạo hiểm quyết tâm đi
tìm tự do, hạnh phúc... Tôi sẽ cảm thấy có thiếu sót lớn đáng trách nếu hôm nay
không nhắc nhớ để chân thành tri ân và cảm tạ những bực văn nhân và học giả đầy
thiện chí, gọi là một chút kỷ niệm tốt đẹp khó có thể phôi pha trong lòng chúng
tôi, dù vật đổi sao dời, dâu biển lắm phen suốt những thập niên qua. Đó là các
anh Nguyễn Nam Hà, Cao Thu Hiền, Trần Vương Hòa (Đài Bắc), Nguyễn Kim Môn, Nguyễn
Văn Ngôn, Thuần Phong, Đặng Phùng Quân, Nguyễn Quang Quýnh, Nguyễn Hải, Nguyễn
Văn Sâm, Phi Vân, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Đang, Nguyễn Thiên Thụ, Đông
Tùng, Nguyễn Hiến Lê, Vương Hồng Sển, Vũ Hoàng Chương, Quách Tấn, Hoàng Ngọc
Thành, Nguyễn Văn Hầu, An Khê Nguyễn Bính Thinh v.v… để kể sơ lược theo trí nhớ.
Tôi
nghe danh cụ Lê Thọ Xuân từ lâu, ngay từ những ngày còn mài đũng quần ở ghế nhà
trường trung học Petrus Trương Vĩnh Ký Sài Gòn. Chính trong thời gian thần tiên
nhưng quá ngắn ngủi trong đời nầy, tôi đã chắt mót ky cỏm chút ít tiền mẹ tôi
cho dằn túi hằng tháng để mua cho bằng được quyển “Phan Thanh Giản” bày bán nơi
nhà sách Văn Đàn, lúc đó tọa lạc ở chợ cũ Sài Gòn. Tác giả là Nam Xuân Thọ, một
trong những bút hiệu của cụ Lê Thọ Xuân và tựa sách đã đóng góp làm phong phú tủ
sách Việt Nam Chí Sĩ do nhà xuất bản Tân Việt, một nhà xuất bản rất nổi tiếng,
trụ sở ở đường Courbet in ấn và phát hành trong toàn quốc vào tháng 7 năm 1950.
Quyển sách dầy chỉ tròn trèm một trăm hai mươi trang giấy đã được chúng tôi rất
trân quý nên chính chúng tôi có ký tên lưu niệm ở trang đầu sách với chữ ký nay
nhìn lại thật tình quê trơ quê trớt của mình lúc ấy. Mãi về sau, khi có chút
thành công trên thương trường, chúng tôi có phương tiện tài chánh tương đối dồi
dào hơn thuở mới bắt tay vào nghề theo kiểu cách “cò con lặn lội tìm mồi” nên
có mướn thợ chuyên môn đóng bìa da cứng với gáy sách mạ chữ vàng óng ánh rất đẹp.
Cũng như đối với một số sách quý khác do chúng tôi đứng ra đảm nhận việc xuất bản
hay do các bạn văn gởi tặng để lưu một kỷ niệm có ý nghĩa giữa nhau. Mơ ước của
chúng tôi là với thời gian tập trung công sức làm việc liên tục sẽ tạo dựng một
tủ sách gia đình xứng đáng với công trình tim óc của người viết. Đến lúc sống
cuộc đời lưu vong tỵ nạn nơi miền Bắc nước Pháp, vào khoản đầu thập niên 80, mẹ
chúng tôi lúc ấy còn kẹt bên nhà có lau lách tìm cách gởi qua cho chúng tôi một
ít sách trong đó rất may mắn có quyển “Phan Thanh Giản” nói trên. Những sách nầy
mẹ tôi đã lén lút thành công cất giữ được sau những trận đòn nghiệt ngã truy
quét “văn hóa phẩm đồi trụy” do cộng sản hàm hồ chủ trương nơi thành Hồ. Và
chúng tôi vẫn trân trọng lưu giữ kỹ nó trong tủ sách gia đình cho đến ngày nay.
Ngoài ra chúng tôi cũng biết thêm cụ Lê Thọ Xuân được người đương thời đánh giá
là một học giả chân chính, rất dè dặt thận trọng trong khi cầm bút, một sử gia
tiếng tăm của thời nhiễu nhương tranh chấp “huynh đệ tương tàn", “gà nhà
bôi mặt đá nhau” giữa Hoàng đế Quang Trung và vua Gia Long, người dựng nên triều
Nguyễn năm 1802 và chấm dứt năm 1945 qua biến cố thoái vị của vua Bảo Đại, vị
vua cuối cùng. Cụ là một chuyên gia của thời đại nầy, cũng như sau đó của những
giai đoạn về “Lịch Sử Bang Giao Pháp Việt” và “Nam Bộ Nghĩa Dõng Quân Kháng Chiến”
mà những bài nghiên cứu công phu thường thấy đăng trên các báo chí ở Sài Gòn, đặc
biệt nhứt là báo Tân Văn...
Chúng tôi nhớ rõ
có một lần chúng tôi theo chân đám bạn bè trang lứa năm ba đứa cao hứng kéo
nhau đến thăm viếng một người bạn cũ trước đây cùng học chung trường chung lớp,
nhà ở ngay dưới dốc cầu Tân Thuận bên Nhà Bè. Cầu Tân Thuận sau nầy được nhắc
nhớ trong lịch sử nước nhà qua cái chết của tướng Cao Đài Trình Minh Thế trong
cuộc tranh chấp võ trang giữa chính quyền quốc gia dưới sự lãnh đạo của cụ Ngô
Đình Diệm và tập đoàn các giáo phái đứng đầu là lực lượng võ trang Bình Xuyên của
tướng Lê Văn Viễn, người nổi tiếng ở Miền Nam với danh xưng Bảy Viễn. Anh bạn nầy
đã nghỉ học và lập gia đình rất sớm, chúng tôi không có dịp gặp cũng khá lâu. Nơi
nhà anh bạn nầy có lưu trữ rất nhiều báo chí cũ, có báo xưa, xưa lắm, xưa đến đỗi
giấy ruột đã trổ màu vàng sẫm lại tưa rìa dễ rách, nếu người lật báo xem không
cẩn thận và nhẹ tay. Báo đã nhiều lại được kỹ lưỡng bảo quản đúng mức do ông
thân của bạn chúng tôi là một công chức cao cấp trong ngành công chánh Sài Gòn,
ngoài phương tiện tài chánh dư giả đã đành nhưng ông lại có tinh thần hiếu học
và ham mê chữ nghĩa ngoại hạng. Nơi đây chúng tôi bắt gặp nhiều báo Pháp văn
vào thời kỳ phôi thai của nền báo chí Miền Nam và khám phá nhiều tranh vẽ công ốc
đồ sộ và dinh thự nguy nga xây cất bằng gỗ quý của các tướng Charner, Bonard,
de Lagrandière… cùng những con đường của Sài Gòn thuở đó. Chẳng hạn như con đường
Tân Định (route de Tan Dinh) chỉ là một con đường đất nhỏ hẹp thẳng băng, hai
bên lề đường le hoe đây đó cách khoảng
nhau vài ngôi nhà lá lụp xụp xác xơ với một ít bộ hành mặc quốc phục áo dài
khăn dóng, đầu chít khăn, đi chân trần chen lẫn với đám con nít đôi ba đứa trần
truồng, mặt mày ngơ ngác… mà thêm thương nước Việt Nam thân yêu của chúng tôi
thuở xa xưa, mà thêm bùi ngùi xúc động phần số hẩm hiu của đồng bào ruột thịt bất
hạnh. Riêng trong chồng báo Việt ngữ cũ đã được chủ nhân gìn giữ trong những tập
bìa cứng, có báo Mai với đầy đủ các số theo thứ tự phát hành. Chúng tôi lần giở
nhẹ nhàng, trân trọng từng trang, đưa mắt lướt nhanh các tựa bài vì thì giờ
không cho phép. Dầu vậy chúng tôi cũng bắt gặp không khó một ít bài của cụ Lê
Thọ Xuân viết về giai đoạn lịch sử đau buồn Tây Sơn. Lâu lắm về sau, chúng tôi
vẫn nhớ kỷ niệm khó phai nầy nên trở lại ngỏ lời mượn về để khai thác. Việc nầy
cũng không khó khăn mấy vì lúc ấy ông thân sinh của bạn chúng tôi đã qua đời
trước đó đôi ba năm. Nếu không, chúng tôi nghĩ chắc cũng phải khó khăn trầy vi
tróc vẫy lắm. Lý do là ông rất quý trọng sách báo cũ, càng cũ càng hiếm, mà
trong thực tế người có lòng và điều kiện lưu giữ sách quí không nhiều. Ông rất
sợ thói thường bạn bè ông đến mượn đỡ để xem qua, nói là chỉ trong vòng tối đa
vài ba con trăng ngắn ngủi thôi, nhưng thực tình họ vô tình hay cố ý không bao
giờ đem trả lại. Họ giả đò quên nhưng chắc chắn trong thâm tâm họ cố tình muốn
giữ làm của riêng một cách bất chính. Mà nếu ông có nhắc nhở đòi lại sẽ sanh
chuyện mếch lòng, có khi còn hờn giận không nhìn mặt nhau nữa. Chúng tôi vội
đem chồng báo về nhà bỏ công đi làm phóng ảnh đầy đủ để gởi đến biếu cụ Lê Thọ
Xuân. Nhận được, Cụ rất đỗi ngạc nhiên và vui mừng, gọi điện thoại ngay, hết lời
cám ơn chúng tôi. Đồng thời, Cụ cho biết còn nỗi sung sướng nào hơn đối với người
viết khi bắt gặp lại những dòng chữ mình đã nạo óc vắt tim tạo ra, nhưng giờ
đây chính mình là tác giả nhưng chẳng
may không còn lưu giữ được chứng tích. Cụ cho biết sẽ đọc kỹ và hẳn
nhiên sẽ khám phá ra những sai sót, lỗi lầm, những cái “dốt” của Cụ thế nào
cũng có, không sao tránh khỏi.
Do
lòng cảm mến và trọng quý từ lâu của chúng tôi đối với Cụ và nhứt là cũng do uy
tín của Cụ trong chốn văn chương chữ nghĩa thời bấy giờ, chúng tôi cố nài nĩ
cho bằng được mong Cụ vui lòng giúp cho một bài để chúng tôi trang trọng giới
thiệu nơi số báo ra mắt. Hôm trong quán, khi nghe chúng tôi trình bày sơ lược về
đường hướng chủ trương và ý muốn thiết tha của mình, Cụ mỉm cười cởi mở rất dễ
thương và không ngần ngại nhận lời ngay, không chút đắn đo suy nghĩ. Việc nầy
cũng nhờ anh Bùi Đức Tịnh làm nhưn làm nhụy tiếp lời chinh phục Cụ giúp chúng
tôi không ít. Chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm, vui miệng bắt qua những câu chuyện
vui buồn về lãnh vực văn học nghệ thuật cũng như về tình nghĩa xử sự ở đời
trong suốt buổi ăn đó. Cụ Lê Thọ Xuân xuất thân từ gia đình tân học (em là bác
sĩ Lê Văn Ngôn) lúc ấy trọng tuổi, có thể nói rất gần móc hẹn về hưu để thanh
thản hưởng thú vui cuối đời. Con người cao ráo dong dỏng, ốm yếu mảnh khảnh
nhưng trông dáng thể ngoại hình còn mạnh khoẻ. Nói khác đi, dưới mắt chúng tôi
Cụ còn tráng kiện không thua lớp trung niên trong tuổi mộng sinh động, tha thiết
làm việc và yêu đời. Cụ từng đứng vững trên bục giảng xuyên suốt cả mấy tiếng đồng
hồ. Cụ đi đứng gọn gàng và có thói quen mặc áo ngoài bốn túi, ngắn tay. Cụ lại
ăn nói chậm rãi trong ấm, rõ ràng, có ngần có lớp nhưng đôi lúc cũng dậm thêm một
chút hóm hỉnh đùa vui, trí nhớ đúng và dai, hiếm có người ở vào trạc tuổi Cụ
khó mà bì được. Tôi có quá lời lắm không? Không hẳn như vậy. Vì trong câu chuyện,
mỗi khi nhắc đến một địa danh hay một nhân vật lịch sử cận đại nào, chúng tôi
có cảm tưởng như Cụ giống một người vừa bắt trúng băng tầng nên thao thao tuông
trào, từ nguồn cội gốc tích xa xưa đến những cảnh huống cùng tình tiết độc đáo
có thể ít người biết đến bao giờ. Ngay cả anh Thanh Ba và chúng tôi cũng hết lời
thán phục.
Có những tình tiết
hấp dẫn lôi cuốn khiến chúng tôi ngồi say mê tập trung theo dõi đến quên ăn
quên uống. Mà thực tình tửu lượng của Cụ yếu lắm, hay vì Cụ gặp đúng tri âm tri
kỷ, đồng hội đồng thuyền, đồng tâm đồng chí nên Cụ giành hết thì giờ để phơi trải
những gì đang dấy lên trong lòng Cụ chăng? Quán nhậu đông khách ra vào không ngớt
lúc ban chiều, vui nhộn tiếng nói cười thách thức nhau rùm beng cưa đôi cưa ba…
lượt tao lượt mầy ồn ào không dứt… giờ đây bắt đầu thưa vắng lần lần. Nhìn
chung quanh còn lại vỏn vẻn đôi ba bàn như nuối tiếc khung cảnh đầm ấm thân
tình làm cho chủ quán luôn tới lui không ngớt xốn xan, trong lòng thầm mong được
đóng cửa quán sớm. Ba anh em chúng tôi cũng dợm sắp sửa nói lời giã từ chia tay
nhau. “Dùn dằn nửa ở nửa về”… Cụ suy nghĩ giây lâu rồi như để chúng tôi được an
tâm thanh thản ra về, Cụ hứa sẽ viết ngay một bài về vua Lê Thánh Tông. Sau nầy
chúng tôi mới biết đây là một đề tài Cụ sẵn có trong giáo trình, vì Cụ đang
dùng để giảng dạy ở trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Tuy nhiên, Cụ vẫn dè dặt bỏ
một câu thòng hình thức chiếu lệ nhằm đề phòng mọi trắc trở bất thình lình có
thể xảy ra ngoài ý muốn của Cụ. Cụ yêu cầu chúng tôi vui lòng để cho Cụ thư thả
một thời gian cho chín muồi. Nhưng Cụ đã hứa thì nhứt định bằng mọi giá Cụ sẽ
giữ lời như bản tánh trước sau như một của Cụ từ trước đối với các văn hữu bạn
bè đến nhờ Cụ viết giúp bài vở. Không khi nào Cụ quên hay giao bài trễ làm phiền
lòng người chủ trương bao giờ. Nói thế, nhưng Cụ vẫn bắt tay làm việc khẩn
trương lắm. Việc nầy Cụ đã xác nhận với chúng tôi, mỗi lần chúng tôi có dịp ghé
thăm Cụ. Tiếng là ghé thăm, nhưng trọng tâm của chúng tôi không ngoài việc
nhóng xem việc tiến triển của bài viết như thế nào. Vả lại, vốn là người trong
nghề, có thời gian Cụ từng giữ nhiệm vụ “thầy cò” nơi các tòa soạn để sửa các lỗi
chính tả trước khi báo được lên khuôn ấn hành. Tóm lại có thể nói Cụ chuyên sống
trọn vẹn với ngòi bút như ‘cây cần câu cơm’ chính thức để nuôi gia đình, ngoài
cái nghề tay trái là dạy học, dù cho cái nghiệp văn chương chữ nghĩa có trải
qua lắm bầm dập, thăng trầm cay đắng. Cụ hiểu rõ hơn ai hết sự cấp bách và thận
trọng của người chủ trương qua số ra mắt của một tờ báo hay tập san. Sự thành
công hay thất bại, có chiếm được cảm tình và sự ủng hộ rộng rãi của người đọc
hay không, một phần lớn tùy thuộc vào số đầu tiên nầy. Do vậy chỉ đôi ba tháng
sau, chính Cụ đích thân mang đến trao cho chúng tôi bài: “Quanh việc Lê Thánh
Tông với bài thơ Vịnh Làng Chế”, một bài nghiên cứu văn học và lịch sử mà chúng
tôi cho là một công trình nghiêm chỉnh, vừa chính xác vừa công phu với những
tài liệu phong phú, cùng bản đồ chỉ dẫn và bảng phụ chú rất chi tiết đính kèm
theo. Nhưng việc Cụ đích thân mang bài đến trao tận tay chúng tôi tại gác lửng
nơi chúng tôi đang làm việc hằng ngày khiến chúng tôi vô cùng cảm kích xúc động,
mãi đến giờ phút nầy không biết nói sao cho hết cảm nghĩ của lòng mình. Chỉ vì
một lẽ Cụ lớn tuổi hơn chúng tôi rất nhiều, và lẽ khác do thói thường trong giới
viết lách, chính những người xin bài phải mang xác đến tận nhà các tác giả để
nhận bài. Chớ ít khi chúng tôi thấy trường hợp ngược lại.
Trong
bài viết đánh máy có ghi số thứ tự cẩn thận nầy, có rất nhiều nhân danh và nhứt
là địa danh đã thay đổi danh xưng cùng vị trí nhiều lần qua các triều đại tiếp
nối nên việc tra cứu của Cụ rất nhiêu khê. Cụ mất quá nhiều thì giờ tìm kiếm
tài liệu để so sánh, nhận xét, thẩm định hầu rút ra kết luận hợp lý. Cụ lại là
người rất thận trọng, cân nhắc khi phê phán từng tài liệu một, trước khi đặt
bút viết. Dù vậy, trước đây đôi khi Cụ vẫn phạm những lầm lỗi hay sơ sót ngoài
ý muốn, nhưng được một cái là khi đối đầu những trường hợp nầy, Cụ thể hiện rõ
ràng tính phục thiện, biết sửa sai, không hề có sĩ diện hay tự ái không đúng chỗ
để giấu giếm che đậy cái “dốt” của chính mình. Cái chữ “dốt” thật thà chơn chất
nầy chúng tôi để ý thấy Cụ thường hay dùng đến khá nhiều lần rải rác đó đây,
không một chút mặc cảm kém cõi thiên hạ để chỉ những sai sót hay thiếu chính
xác mà Cụ đã nhầm lẫn gây ra. Có phải vì Cụ quá khiêm nhường mà phát biểu như vậy
hay không? Nhưng chúng tôi nghĩ kỹ, chắc không phải như vậy, mà chính do tánh Cụ
nghiêm khắc với chính mình. Và Cụ cũng muốn nhân những dịp đó đính chánh những
gì cần phải đính chánh để những người đi sau khỏi phải đi theo vết xe cũ tai hại
của Cụ nhằm tránh những nhầm lẫn mà Cụ đã trải qua trước đây. Gặp những địa
danh hoài nghi về xuất xứ hay những đoạn hốc búa tối nghĩa đầy dẫy trong bài Cụ
đang viết, Cụ không ngần ngại biên thư ngay sau đó đến cầu cứu với giáo sư
Hoàng Xuân Hãn, thuở ấy rất được trọng vọng, đang làm việc và sinh sống tại thủ
đô ánh sáng Paris, Pháp. Cả hai, Cụ và giáo sư Hãn vốn là hai học giả tương đắc
nhau trong các công trình nghiên cứu văn học cùng sử học, thường hay trao đổi với
nhau về những khám phá mới của mình.
Giáo sư Hãn là một
bực khoa bảng ưu tú hiếm hoi của Việt Nam, đổ đạt nhiều học vị cao cấp ở Pháp.
Ông nổi tiếng ở các lãnh vực văn chương, lịch sử, khoa học và chánh trị. Ông
thông suốt Hán văn, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ và dĩ nhiên các sinh ngữ Pháp, Anh.
Ông từng giữ những chức vụ quan trọng như Bộ trưởng Bộ Giáo Dục-Mỹ Thuật và quyền
Bộ trưởng Bộ Công Chánh trong chánh phủ ngắn ngủi do cụ Trần Trọng Kim lãnh đạo,
sau khi Nhựt Bổn bại trận thê thảm kết thúc Thế chiến Thứ hai. Ông còn là Chủ tịch
Thượng Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Đông Dương cũng như từng làm Trưởng ban
Chánh trị tại Hội nghị Trù bị Đà Lạt trong Phái đoàn đàm phán giữa hai chánh phủ
Việt Nam và Pháp năm 1946, sau khi Pháp tái chiếm toàn quốc Việt Nam. Ngoài ra
ông là tác giả “Danh Từ Khoa Học” (1942) và những quyển “Lý Thường Kiệt”
(1949), “La Sơn Phu Tử” (1952), “Một Vài Ký Vãng Về Hội Nghị Đà Lạt” (1996),
ngoài rất nhiều tác phẩm nghiên cứu quan trọng khác đăng trên báo chí thời bấy
giờ ở Pháp và ở Việt Nam. Với những kinh nghiệm giá trị dồi dào như thế, cụ Lê
Thọ Xuân quả đã gõ cửa đúng chỗ đúng người. Và để được minh bạch, danh chánh
ngôn thuận, Cụ không ngần ngại ghi ngay ở phần đầu bài viết của mình: “Bài của
Lê Thọ Xuân – Tài liệu của Hoàng Xuân Hãn”.
Như đã nói, cụ Lê
Thọ Xuân là một sử gia, một học giả rất thận trọng. Cụ lại rất quý trọng, nâng
niu những tài liệu đã giúp Cụ trên đường tìm hiểu, truy nguyên hoặc khám phá một
sự kiện lịch sử, một thực tế lâu nay chưa được sáng tỏ. Tôi thiết tưởng nên
theo dõi sau đây tấm lòng hoài cổ sâu đậm và sự đam mê trân quý ấy của Cụ về vấn
đề nầy:
“…Nhắc đến họ Hồng Bàng thì tôi thuật một dịp may phi thường giúp tôi tìm được đôi đối của chúa Trịnh Sâm đề khi viếng Đền Hùng, một đôi đối vì sơn đã phai, gỗ đã cũ bị bỏ ở một xó, nhường chỗ trịnh trọng trong Đền cho những đôi long trụ mới tinh, sơn son tươi, thếp vàng đẹp của các vị quan lớn Tuần Vũ, Bố Chính đương thời. Các đôi đối kia hoặc kể họ Hồng Bàng có mười tám đời vua, hoặc kể hiện nay hai mươi triệu cháu con Bắc Trung Nam của Tổ Quốc… thì hay rằng cũng là hay, nhưng người ngồi nhà đọc sách đều có thể làm được, đến như đôi đối của chúa Trịnh Sâm thì ít nhứt cũng bao gồm: Phải có đến đây ngắm cảnh
1. Phải có lòng ham học quốc sử. Phải có văn tài thực sự. Phải có tâm hồn thi sĩ.
“Bởi mến quốc sử và chịu khó đến đây - trong thời chúa Trịnh đường sá khó đi, nào phải dễ như về sau - để chiêm bái Đền Thờ Quốc Tổ, hỏi biết cổ tích, ra đứng nhìn: kìa là Ngã Ba Hạc (Bạch Hạc Thành, Tam Giang Thành) với Hồng Hà đỏ ngầu, Lô Giang trong xanh, thêm Đà Giang đen đục; bên nây Tam Đảo trùng trùng, bên nọ Tản Viên vọi vọi… rồi nguồn thơ lai láng, xuống bút thành văn:
Vấn lai dĩ sự tu vi sử,
Tế nhận dư đồ dục mệnh thi.
(Tạm dịch :
Hỏi lại việc xưa muốn chép sử,
Nhìn kỹ như tranh khiến nên thơ).
«Xin thưa ngay với quý bạn rằng khi mới thấy đôi đối nầy, tôi nào có biết nó hay hay nó dở làm sao đâu, tôi chỉ thấy nó bị bỏ trong xó, bàn hư, ghế gãy lấp phía dưới, lộng rách tàn te khuất phần trên, chỉ cho thấy bốn, năm chữ viết với lối thảo rất đẹp. Vì vậy tôi cùng em tôi khiên bàn, dẹp lọng để ‘rinh’ đôi đối ra hầu đọc toàn câu. Mà đọc sao nổi lối thảo như rồng bay phụng múa! Có nhiều chỗ, gỗ đã bị mọt ăn, chữ đã bị tróc sơn nhưng còn đọc rõ được. Tôi muốn coi lạc khoản đề về năm nào: không có. Tôi muốn coi may ra có tên người viết: tôi bỗng vui mừng vô hạn cho là ‘đáng đồng tiền bát gạo’ để bươi móc ra, vì có bốn chữ tại lạc khoản ở vế sau: ‘Tĩnh Đô Vương thơ’. Chúng tôi kính cẩn đem đôi đối ra mé hiên đủ ánh sáng để ghi trọn mười bốn chữ - chữ đọc được thì chép rành, chữ không đọc được (như chữ ‘Sự’ giống chữ ‘Liễu’) thì ‘nhái’ giông giống - và chụp hình kỹ lưỡng. Về tới Hà Nội, tôi nhờ anh Long Điền Nguyễn Văn Minh tìm một cụ túc nho chép rõ lại cho chúng tôi đôi đối nầy của Tĩnh Đô Vương Trịnh Chúa».
Sự thận trọng và nỗi đam mê đáng
kính của Cụ không những ở lãnh vực tài liệu tra cứu, mà còn ở ngay cả tấm lòng
hoài cổ, trọng kính những bậc tiền bối lưu dấu một thời, ở cả lối hành văn bay
bướm thuyết phục, đi sâu vào lòng độc giả khắp bốn phương. Còn nhớ thuở thiếu
thời, chúng tôi rất thích thú và ngưỡng mộ Cụ, vì lúc ấy chúng tôi từng đọc đi
đọc lại không biết bao nhiêu lần đoạn văn trong quyển ‘Phan Thanh Giản’ Cụ ghi
lại để mô tả và tường thuật cảnh tỉnh Hà Tiên thất thủ vào ngày 24 tháng 6 năm
1867, sau khi quân Pháp vừa chiếm xong các tỉnh Vĩnh Long (mất ngày 20) và Châu
Đốc (mất nửa đêm 21 rạng 22) nhằm Tự Đức năm thứ 22.
Tôi xin trích nguyên văn đoạn văn đó
để minh chứng nhận xét của chúng tôi:
«24 tháng 6…
«24 tháng 6 năm 1867!
«Ngày hôm ấy!...
«Tang tảng sáng hôm ấy, lớp sương mù còn nặng nề bao trùm vũ trụ, trên mặt hồ đông thoạt hiện ra con mãnh xà đen vừa dài vừa lớn. Hầm hầm hừ hừ, đương phóng mình về tỉnh Hà Tiên, mãnh xà bỗng hét lên một tiếng long trời lỡ đất, đồng thời, hơi độc tua túa bay lên che kín nước hồ lẫn dãy Tô Châu…
«Dưới tầng khói mây, rắn to đã tới. Tán đởm kinh tâm, nhân dân nhìn nhau hồi hộp.
«Cửa nẻo đóng kín mít. Không dám thở mạnh.
«Một tiếng hét thứ hai… Đại, Tiểu lưỡng Tô Châu đưa tiếng dội ghê xương, mọi người càng rùng mình nhởm gáy!...
«Dẫu run rẫy, sợ sệt, nhưng theo kẹt vách, lỗ hở, con mắt tò mò dòm ra.
«Thì chẳng phải Mãng Xà Vương nào, mà là một đoàn chiến thuyền; đi trước có chiếc Flamberge và một pháo hạm, theo sau hai mươi chiếc ghe to chở đầy quân lính.
«Sau mấy tiếng thị oai, quan ba Galey nện gót sắt trên đất Phương Thành
(Hà Tiên cũng gọi là Phương Thành
hay Trúc Thành).
«Toán hùng binh rần rộ theo sau chủ soái.«Người ta chẳng còn nghe một tiếng súng nữa.
«Thỉnh thoảng, người ta chỉ nghe những tiếng reo mừng đắc thắng không nhọc sức của đoàn chiến sĩ da trắng, da đen.
«Và nếu lắng tai cho kỹ, người ta còn nghe rõ những tiếng thở dài của dân chúng da vàng!
«Chín giờ sáng ngày 24 tháng 6 năm 1867 cờ Tây đã treo cao ở khắp dinh thự trại đồn thành Trúc.
«Thế là ‘ba tỉnh lại chầu ba!’.
«Thế là sáng hôm sau 25 tháng sáu 1867, nhằm ngày 24 tháng 5 năm Đinh Mão, Thủy sư Đề đốc De Lagrandière tuyên bố nắm trong tay vận mạng Nam Kỳ Lục Tỉnh, và Legrand de la Liraye được lệnh ra Huế… báo tin mừng».
Tả một thế trận, phân tách một sự thất
thủ, không cảnh chém giết chết chốc, đổ vỡ thê thảm trong tủi nhục quốc thể, với
lời văn như trên, chúng tôi cho là một tuyệt bút, một ‘ngòi bút tài tình’. Ngòi
bút đó chính là của cụ Lê Thọ Xuân, chớ không phải một ai khác. Giờ đây, sau
bao nhiêu thập niên dâu biển của dòng sử mệnh, đọc lại đoạn văn trên chúng tôi
vẫn không sao che giấu được nỗi bùi ngùi xúc động về sự bất lực trầm thống của
tổ tiên ngày trước, cũng như niềm đau thôi thúc khiến Cụ để trào vọt ra đầu
bút, chắc hẳn phải trong ngấn lệ. Năm 1979, chúng tôi chọn con đường ra biển để
tìm chút sinh khí tự do. Chúng tôi chẳng mang theo được gì, mà nếu may mắn có
mang theo cũng chẳng còn, vì khi lênh đênh bồng bềnh cả tuần lễ đêm ngày trên đại
dương, chúng tôi bị bọn cướp biển Thái Lan vơ vét sạch sành sanh. Cũng may, khi
đến định cư ở Pháp và chỉ mấy năm sau khi ổn cư, chúng tôi có chủ trương tập
san song ngữ Pháp-Việt, Văn Hóa (France Vietnam Culture) vào đầu thập niên 90.
Nhờ vậy, chúng tôi có dịp tiếp xúc với nhiều bậc đàn anh khả kính trong chốn
văn chương chữ nghĩa ở đất người, nhứt là những người từng hợp tác với chúng
tôi bao năm qua ở quê nhà trước ngày cờ đỏ lên ngôi. Trong số các bậc văn hữu,
đối với chúng tôi đa số đều vong niên nhưng thân tình nầy vẫn còn tích cực tiếp
tục triển khai, thực hiện tròn đầy vai trò và trách nhiệm của mình trong mặt trận
văn hóa đối kháng sống còn ở hải ngoại, chúng tôi hân hạnh được sự tiếp tay đắc
lực của nhà văn nhà giáo Võ Long Tê. Anh cũng vừa mới định cư ở Gia Nã Đại, sau
một thời gian dài bị cộng sản độc đoán bắt đi tù cải tạo và sau khi được trả tự
do lại kẹt khá lâu ở Việt Nam. Với anh Võ Long Tê, chúng tôi giữ nhiều kỷ niệm
và là những kỷ niệm tốt đẹp nhớ đời. Anh vốn là nhà văn hoạt động liên tục trước
1975 đến khi ra hải ngoại, có rất nhiều công trình song ngữ Việt Pháp được công
bố trên báo chí ở Việt Nam cũng như ở Pháp. Anh là chuyên viên dịch thuật ra
Pháp văn những sáng tác của Hàn Mặc Tử, của Đinh Hùng và đã được chúng tôi lần
lượt trang trọng giới thiệu trên tập san Văn Hóa. Năm 1997, anh có xuất bản tuyển
tập thơ (1975-1991) bằng Pháp văn với nhan đề ‘L’Univers Sans Barreaux’ do cơ sở
Ciel Nouveau et Terre Nouvelle ấn hành ở Calgary, Gia Nã Đại. Hôm nay, chúng
tôi cũng thừa dịp ít ỏi hiếm hoi nầy xin chân thành cám ơn anh đã ưu ái chuyển
dịch ra Pháp văn những sáng tác thi ca của chúng tôi. Trong đó có hai bài “Hiên
Ngang” (La Fierté De Tout Braver) và “Lòng Vẫn Vương Mang” (Mais Pour Toujours)
đã được anh giới thiệu rộng rãi một thời trên các tập san văn học nghệ thuật ở
Gia Nã Đại, Hoa Kỳ và nhứt là ở Pháp, Bỉ. Nhưng chúng tôi đặc biệt cám ơn anh,
qua mối giao tình nồng nàn từ lâu giữa anh và chúng tôi, anh đã vui vẻ và sốt sắng
làm phóng ảnh hai tập san “Số l” và “Số 2” mà chúng tôi đã thực hiện, nhưng cuộc
đổi đời nghiệt ngã làm mất dấu từ dạo chúng tôi ly hương biệt xứ. Anh đã đến
Gia Nã Đại theo diện đoàn tụ gia đình nên mang theo được một số sách chọn lọc
trong đó có hai số của tập san nói trên cũng như quyển hồi ký ‘Đốt Lò Hương Cũ’
của cố thi sĩ Đinh Hùng do chúng tôi chịu trách nhiệm xuất bản trước 1975. Nhờ
vậy, anh đã cụ thể giúp chúng tôi có trong tay bài viết của cụ Lê Thọ Xuân để
thêm ngậm ngùi hồi nhớ trong luyến tiếc một thời huy hoàng được tự do sáng tác
và in ấn đã qua. Anh còn ưu ái ghi trên phóng ảnh dòng chữ tình nghĩa nầy:
“Thân tặng văn hữu Võ Đức Trung để cùng nhớ học giả Lê Thọ Xuân. Khải gia lỵ, 22/10/1998”.
Trong
thư đề ngày 08/10/1998, anh viết cho tôi những lời sau đây:
“Tôi thích bài ‘Hiên Ngang’ của anh nên gác lại các việc, dịch thành thơ luật Pháp, gởi anh để tỏ lòng hâm mộ một bài thơ mà tôi xem là điển hình cho khuôn mặt kiên cường của người chiến sĩ quốc gia. Trong bài thơ tạm biệt độc giả tuần báo ‘Quân Đội’ năm 1955, tôi có in một bài thơ ngắn mở đầu:
Gặp nhau trong cuộc
trường chinh
Vẫy vùng trận bút
vui tình cảm thông.
“Đó là tình cảm nổi bật lúc tôi được giải ngũ. Đến năm 1966, giải ngũ lần thứ hai, tôi lại viết:
Cứu nguy non nước
đau thương
Đi đâu vẫn một nẻo
đường ước mơ.
“’Đường ước mơ’ của chúng ta đã dang dở, nhưng đối lại chúng ta có niềm vui gặp lại nhau và thêm hiểu nhau. Đó là một hồng ân, phải không anh?”.
Phải. Sống sót sau
những biến cố bi thống của nước nhà và gặp được nhau, hiểu nhau nơi đất lạ quê
người, lại còn tiếp tục đeo đuổi nỗi đam mê văn chương chữ nghĩa ngày nào trên
quê hương, quả là một hồng ân, không ai chối cãi, phũ nhận được. Chính cái hồng
ân hiếm hoi ấy giúp chúng tôi bỗng nhớ những lời của anh Chín Lang, tức nhà văn
Cửu Lang, An Khê Nguyễn Bính Thinh, khi anh vừa mới đặt chân đến Pháp, sau những
năm dài sống lây lất không ngày mai nơi xứ tù chung thân xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm đen tối bế tắc nầy, anh bị chánh quyền mới độc đoán cấm không
cho hành nghề cũ, nên anh buộc lòng phải rời khỏi Đô Thành về quê cày cấy, cuốc
đất trồng cây tìm miếng ăn qua ngày. Nhưng đêm đêm, sau một ngày làm việc chân
tay nặng nhọc, anh vẫn nằm mơ thấy mình vẫn tự do viết văn thoải mái bên cạnh
các bạn bè đồng điệu say mê với nghiệp dĩ, mặc dù đôi lúc anh cũng bị các chủ
báo phiền hà do đưa trễ bài, thợ nhà in chực chờ thúc hối cho kịp giờ lên khuôn
đúc... Nhưng khi tỉnh ra, đối diện với thực tế phũ phàng hằng ngày, anh chỉ ước
mơ trong âm thầm sẽ có một ngày nào đó anh được cầm lại cây bút nhưng đúng ra
là cái máy đánh chữ năm xưa. Và cũng qua hồng ân được dịp gặp lại nhau nầy, anh
không ngừng khuyến khích và thôi thúc người em kết nghĩa vong niên là họa sĩ
nhà văn Hiếu Đệ (tên thật Nguyễn Tánh Đệ) cố gắng ghi lại những ngày tháng khổ
nhục trầm thống nơi các trại tù cải tạo, cũng như sau nầy hồi ký về kinh tế mới
U Minh mà anh đã để công nhuận đính rất công phu. Nhờ sự nâng đỡ và thương mến
tiếp tay của anh nên những bài viết của anh Hiếu Đệ đượm nét lãng mạn tình tứ,
cái sở trường hấp dẫn câu khách của những người viết tiểu thuyết đăng báo hằng
ngày như anh. Và cũng nhờ anh khuyến khích và giới thiệu nên chúng tôi mới mạnh
dạng lao mình vào lãnh vực xuất bản tác phẩm của mình, khởi sự là hai quyển
“Phá Sơn Lâm Đâm Hà Bá” và “Hùm Chết Để Da” do nhà xuất bản Làng Văn Canada in ấn
và phát hành đầu năm 2000 và 2001. Lại cũng nhờ cái duyên gặp gỡ đầy hồng ân
trên đây, chúng tôi mới có trong tay bài viết độc đáo của cụ Lê Thọ Xuân. Việc
nầy khiến tôi nhớ lại bức thư anh Võ Long Tê viết cho chúng tôi đề ngày
22/10/1998 từ thành phố Calgary, Ontario Gia Nã Đại, nơi anh chọn định cư từ
ngày lưu vong đến nay:
“Thư 13/10/1998 của anh đến dưới mắt tôi sáng 19 vừa qua. Tôi xin chung vui với anh đã khắc phục bệnh cảm cúm. Biết anh cần nên tôi vội sao chụp ngay đính kèm bài “Quanh việc Lê Thánh Tông và bài Vịnh Làng Chế” của Lê Thọ Xuân. Hẳn anh đã rõ tác giả tên thật là Lê Văn Phúc, còn Lê Thọ Xuân là tên tự. Trước năm 1945, Lê Quân, một chuyên gia nổi tiếng về “Phan Thanh Giản” (ký Nam Xuân Thọ) là văn hữu vong niên của tôi. Chúng tôi gặp nhau mỗi tháng một lần trong phiên họp thường lệ của Ban Quản Trị Hội Société des Études Indochinoises (Hội Nghiên Cứu Đông Dương). Ra khỏi tù năm 1981, tôi rất đau đớn được tin buồn, Lê quân đã qua đời”.
Lâu lắm về sau khoảng
năm 2008, tôi có liên lạc với nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Vy Khanh đang định
cư ở Gia Nã Đại qua sự ưu ái giới thiệu của nhà văn Nguyễn Văn Sâm ở Hoa Kỳ,
tác giả “Văn Học Nam Hà (Lửa Thiêng, Sài Gòn xuất bản trước 1975) và nhiều tập
truyện như “Câu Hò Vân Tiên”, “Ngày Tháng Bồng Bềnh” do Nhà xuất bản Gió Việt ấn
hành ở hải ngoại v.v… Anh Nguyễn Vy Khanh là tác giả của nhiều sách nghiên cứu
văn học trong đó có quyển đồ sộ, công phu “Văn Học Việt NamThế Kỷ 20 - Một Số
Hiện Tượng Và Thể Loại” do nhà Đại Nam, Hoa Kỳ xuất bản tháng 1 năm 2004. Anh
đã giúp tôi làm phóng ảnh những bìa các tập san chúng tôi đã phát hành ngày trước
mà anh còn giữ được, đồng thời kèm theo những lời khuyến khích thân tình đôn đốc
chúng tôi nên viết lại những kỷ niệm liên quan đến thời kỳ “huy hoàng” của Miền
Nam tự do sáng tác và in ấn. Và bài hoài niệm nầy về cụ Lê Thọ Xuân là một bước
khởi hành ở đoạn đường dài đầy khó khăn nhưng ý nghĩa và phải mất khá nhiều
công sức để cụ thể hóa sự nhắc nhớ của anh.
Đã nói về bài thơ
“Vịnh Làng Chế” trên đây, chúng tôi không thể không ghi lại dưới đây nguyên bản
của nó để giới thiệu cùng bạn đọc bốn phương một bài thơ hay, một bài thơ quý
hiếm chắc ít người ngày nay có dịp đọc qua. Bài thơ được cụ Lê Thọ Xuân dẫn lại
trong “Thi Văn Việt Nam” (từ đời Trần
đến cuối đời Mạc), các lớp Trung học do học giả Hoàng Xuân Hãn biên tập và
trích dẫn, cụ Nghiêm Toản chú thích, nhà sách Sông Nhị Hà Nội xuất bản lần thứ
nhất năm 1951. Cụ có tự tiện sửa vài chữ ở Lời Dẫn trên bài thơ như sau:
“Vịnh Làng Chế ở Nghệ An
“Làng có tên là Tam Chế, ở hữu ngạn sông Lam, cạnh núi Hồng Lĩnh, nay thuộc về huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tỉnh. Làng có chợ xưa rất lớn và có xưởng đóng thuyền. Xưa là một địa điểm đô hội bậc nhất trên đường bộ và thủy đi vào Nam. Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành dừng thuyền ở đó vào buổi chiều ngày mồng 8 tháng chạp năm canh dần (1470-1471). Làm bài thơ sau tả cảnh thật:
Bóng ác non đoài
ban xế xế,
Bỗng đâu đã tới miền
Tam Chế.
Mênh mang khóm nước
nhuộm mầu lam,
Chận ngất đỉnh non
lồng bóng quế.
Chợ họp bên sông gẫm
có chiều,
Thuyền bày trên đất
xem nhiều thể.
Cảnh vật bằng đây
họa có hai,
Vì dân khoan giản
bên tô thuế.
(Trích ở Thiên Tải Nhàn Đàm).
Qua bài thơ trên
đây, cụ Lê Thọ Xuân đã dẫn dắt đưa chúng ta cùng theo chân vua Lê Thánh Tông
khi Ngài đích thân thống xuất đại quân đi chinh phạt Chiêm Thành. Ngài đã trải
qua rất nhiều địa danh mà Cụ đã để công khó tìm hiểu, tra cứu, đối chứng và
đính chánh một số thói quen nhầm lẫn của những người đi trước. Cụ cũng không
quên lưu ý người đọc về chữ “Tông” trong tên vua Lê Thánh Tông có chữ “G”. Vì
bây giờ không còn phải tị quốc húy bởi cái tên “Miên Tông” của vua Thiệu Trị
triều Nguyễn. Nhưng quan trọng hơn cả là Cụ dẫn giải những lý do và tài liệu để
đính chánh danh xưng của những nhân vật lịch sử hay địa danh rải rác trong bài.
Đại thể như vua Chiêm Thành lúc đó là Trà Toàn chớ không phải là Trà Đồng do thợ
khắc bản đồ sót một “ngang ruột”. Kinh đô Chiêm Thành lúc ấy là Chà Bàn chớ
không phải là Đồ Bàn do phiên âm sai. Cửa biển vào đất Chà Bàn là Thi Nại, chớ
không phải Thị Nại vì theo Cụ do dịch sai tai hại. Chúng tôi thiết nghĩ nên ghi
lại dưới đây những lời giải thích thâm sâu của Cụ về danh xưng “Thi Nại”, xem
như một tiêu biểu về công trình nghiên cứu để thấy “cái tài” sử học uyên bác
nơi Cụ:
“… Muốn công hãm Chà Bàn Thành thì Lê Thánh Tông phải phá cho được cửa Thi Nại, một cửa biển hiểm trở vô cùng về mặt quân sự, tức cửa Qui Nhơn ngày nay, cách Chà Bàn Thành hai mươi sáu cây số… Cách nay mấy năm, một hôm bỗng có một nhà thông thái dạy đời trên đài Sài Gòn rằng ‘Thị Nại do tiếng Thị của Trung Hoa là Chợ và tiếng Nại của Chiêm Thành, nghĩa là Muối. Vậy Thị Nại là Chợ Muối vì cửa biển nầy có nhiều muối’. Hỡi ôi! Tôi không biết tiếng ‘Nại’ có phải là của người Chiêm không và có nghĩa là ‘Muối’ không, chỉ nghĩ rằng đem chữ ‘Thị’ (là Chợ) của người Trung Hoa mà ghép cho có nghĩa lý thú như vậy thì chẳng khác nào chọc lét người Hán tộc mà không cho cười. Vì theo lối Hán văn mà muốn chỉ ‘Chợ mới’ thì nói ‘Tân thị’, chợ làng Chế là ‘Chế thị’. Và nếu ‘Nại’ quả là ‘Muối’ thì ‘Chợ muối’ phải là ‘Nại thị’, chớ không ‘Thị Nại’, ‘Thị Tân’, ‘Thị Chế’ giống tên ba phụ nữ Thị Nghè, Thị Vãi, Thị Thuông”.
[Nhân đây xin trích một ghi chú thích thú:
(Sông Nhà Bè, Núi Bà Vãi, Cầu Bà Thuông… thì các nhà viết sách xưa - phần nhiều
là các quan lớn - đổi chữ Bà ra chữ Thị - vì ‘cho’ các Bà là hạng dân giả. Cầu
Bà Thuông chép ra Thị Thông Kiều, tức Cầu Xóm Chỉ ở Chợ Lớn ngày nay. Cụ Kha
Văn Dưỡng bảo: đúng ra là ‘Trĩ’, thứ cây sác - ở rừng nước mặn, rừng sác như
dà, đước nhỏ dùng để bện rào, nhưng đọc trại ra ‘Chỉ’)].
“Vã lại, nhớ như khoảng 1930, từ Paris có gởi qua Sài Gòn một tác phẩm - hiện nay hiếm có ở nước ta - có viết về Thi Nai, Binh Dinh (chữ Pháp không bỏ dấu) và giải: ‘Thi Nai, le marché des salines’. Thế thì người Pháp kia quả đúng là thầy của nhà thông thái nói trên. (Xin thêm: người Pháp nầy viết rõ là ‘salines’ chớ không phải ‘sel’). Tiếng Việt ta quả có danh từ ‘Nại Muối’ là ‘Chỗ Làm Muối’, chớ không phải ‘Nại’ là ‘Muối’… Theo tôi nghĩ thì đây là do phiên âm chớ không phải dịch nghĩa: ‘Thi Nại’ chắc là do tiếng Chiêm mà người Âu đã âm theo thành ‘Cri Vini’, còn các sách Hán văn của ta xa xưa như Cương Mục thì viết chữ ‘Thi’ là ‘Thây’, gần sau như Đại Nam Nhứt Thống Chí thì viết chữ ‘Thi’ là ‘Bày ra’. (Ở đây chúng tôi - người viết bài hoài niệm nầy - xin cáo lỗi cùng độc giả vì lý do kỹ thuật, chúng tôi không thể ghi những chữ Hán mà cụ Lê Thọ Xuân đã dùng để minh chứng sự phân biệt những chữ trên đây)”.
Đến đây, quý vị độc giả đã thấy cái tình cảm
quý mến và sự ngưỡng mộ trước sau như một của chúng tôi đối với cụ Lê Thọ Xuân
như thế nào. Cho nên khi nghe anh Bùi Đức Tịnh móm lời cho biết Cụ đang trên
đà hoàn thành một quyển khá dày khoảng vài trăm trang
viết về địa danh và thổ nhưỡng của Miền Nam, nên trong buổi hợp mặt thân tình ở
đường Trương Tấn Bửu năm đó, chúng tôi có ngỏ ý khẩn khoản xin Cụ vui lòng tín
nhiệm giao cho chúng tôi được cái vinh hạnh đặc biệt thực hiện quyển sách giá
trị lịch sử nầy. Vì quyển sách là một lưu dấu nhằm phát họa việc phát triển dãy
đất phương Nam, mà ít người có vị trí và khả năng cũng như hy sinh công sức
cùng thì giờ thực hiện được. Trước đây, chúng tôi đã từng say mê thích thú đọc
quyển “Đất Việt Trời Nam” của anh Hương Giang Thái Văn Kiểm cũng như sau đó quyển
“Xứ Trầm Hương” của thi sĩ Quách Tấn ở Nha Trang mà chúng tôi từng được hân hạnh
thực hiện cống hiến độc giả Miền Nam quyển “Đời Bích Khê” của thi sĩ ghi lại cuộc
đời của một nhà thơ miền Trung đầy triển vọng nhưng lại bạc mệnh. Nay được dịp
ngửi mùi quyển sách của Cụ, còn gì sung sướng đối với chúng tôi khi được Cụ tín
nhiệm giao phó tác phẩm tim óc của mình mà chắc chắn Cụ đã để ra biết bao nhiêu
năm tháng tra cứu sưu tầm công phu. Lúc đó, Cụ không chối từ hẳn lời yêu cầu của
chúng tôi, nhưng tỏ ra có chút dè dặt không hứa hẹn điều gì cụ thể. Cụ viện dẫn
lý do chưa biết chắc ngày hoàn thành tác phẩm vì Cụ cần phải để thêm thì giờ thẩm
tra tận tường hơn. 30 tháng tư 1975, một trang đời tan tác đổ ụp xuống anh em cầm
bút chúng tôi. Cuộc đổi đời trầm thống đó khiến kẻ còn người mất hay trôi dạt tứ
tán khắp nơi trên thế giới cũng như nơi quê nhà. Tôi cũng không còn dịp liên lạc
với Cụ cho đến khi chúng tôi ly hương để thấm thía nhận được tin Cụ qua đời. Một
đời người đã tận tụy hy sinh cho văn hóa dân tộc, nhứt là nền sử học cận đại Miền
Nam. Chúng tôi cũng bặt tin, không biết số phần của quyển nghiên cứu dở dang mà
Cụ đã ký gởi bao nhiêu công sức và cả một tấm lòng. Hay đã chịu chung phần số hẩm
hiu của bao nhiêu sách báo và bản thảo của các tác giả Miền Nam trong phong
trào “truy quét văn hóa phẩm đồi trụy” mà cộng sản đã độc đoán và hàm hồ gán
cho. Nếu quả thật đúng như vậy thì là một mất mát đáng tiếc vô cùng và ngày nay
dù có tìm đỏ con mắt không bao giờ và chẳng bao giờ gặp lại được một tác phẩm độc
đáo tầm cở đó. Việc nầy đã làm nhức nhối thốn tim chúng tôi mỗi lần nhắc nhớ đến
Cụ!
Sau cùng, chúng
tôi được biết Cụ Lê Thọ Xuân là một nhà giáo mẫu mực, vui tánh lại khiêm nhường.
Tác phong đạo đức và chức năng của người dẫn dắt các thế hệ con cháu hậu sinh
nơi Cụ đáng là tấm gương trong sáng cho những người đến sau. Chúng ta thử đọc
những lời vàng ngọc của Cụ để càng khâm phục một nhà trí thức có tâm hồn khoán
đạt:
“HỌC để BIẾT, không phải để GIỎI. Nuôi chí hướng ‘học để biết’ thì thấy nay biết thêm một chút, mai biết thêm một chút, mình sẽ vui vẻ phấn chấn học hành hầu được biết nhiều biết rộng, không rõ đến chừng nào cùng tận trong biển thánh rừng nhu; những mong ‘học để giỏi’ thì càng học càng thấy càng dốt, càng thấy còn thua nhiều người, mình sẽ sanh chán, hoặc tự nghĩ là đã giỏi thì sẽ sanh NGU. Còn khi mình học mà ‘khám phá’ được chỗ lầm độc đáo - và độc hại của mình! - thì mình đừng mắc cỡ, hãy thẳng thắn tỏ cho người khác thấy rằng mình đã lầm (đặng khỏi để người khác lầm theo) và hãy tự hào là mình có tiến bộ…”.
Cụ Lê Thọ Xuân mất
chỉ mấy năm sau khi đất nước bỗng nhiên đổi đời nghiệt ngã. Cụ thanh thản ra
đi, thân xác vùi chôn dưới ba lớp đất quê hương, nơi mà lúc sanh tiền Cụ đã để
suốt một đời hết lời tụng ca, thăng hoa với tất cả cái đẹp, cái thơ mộng, cái
ví von, cái thẩm mỹ của ngôn ngữ dân tộc, của hồn thiêng sông núi, của tiếng
réo gọi thiêng liêng của lương tâm và của quả tim đối với tổ quốc. Dù đã ra đi
nhưng những bút tích, những dòng chữ qua mấy pho tuyệt phẩm, những lời vàng ngọc
của Cụ vẫn còn y nguyên đó, vẫn cứ ngân nga dài lâu trong tâm khảm của những thế
hệ tiếp nối hôm nay. Chúng tôi xin trang trọng chấm dứt bài hoài niệm nầy với
những lời khuyên nhủ chí tình chí lý, đầy thương yêu lo lắng trên đây nói lên
trách nhiệm cao đẹp ‘trồng người’ nơi Cụ. Một việc làm trong âm thầm, không
huênh hoang kèn to trống lớn, nhưng kết quả hợp với tình người và truyền thống
tốt đẹp ngàn đời của dòng giống Lạc Long Tiên Rồng. Nhưng rồi đến đây tôi bỗng
dưng nhớ đến những dòng chữ tình nghĩa văn chương và bạn bè chí thiết của nhà
văn nhà cổ ngoạn, cụ Vương Hồng Sển trong “Lời
nói đầu” của quyển “Tầm ,Nguyên Tự Điển
Việt Nam” của tác giả Lê Ngọc Trụ, nguyên giáo sư diễn giảng Đại học Văn
khoa Sài Gòn do giáo sư Trần Thượng Thủ tái bản năm 1993. Ngày 03 tháng 07 năm
1992, cụ Sển, tác giả “Thú Chơi Sách”, “Sài Gòn Năm Xưa”, “Thú Chơi Cổ Ngoạn”,
“Sài Gòn Tạp Pín Lù”, “Hơn Nửa Đời Hư” v.v… viết như sau:
“… Trước đây, tôi có vài người bạn, nay đều quá cố, đều thâm nho, biết nhiều, tỷ như:
- Bạn gốc người Bắc, là Vi Huyền Đắc và Nguyễn Hiến Lê, tự Lộc Đình. Đối với Vi tiên sinh, tôi thường giểu cợt vì tánh ông vui và cho phép tự do: ‘Cụ Vi mà ông Đắc’, và cấm nói lái ‘Cụ Đắc’, ‘Cụ Vi’. Đối với Lộc Đình, tôi trọng và nể như bực thầy, và tôi chưa bao giờ lạy người nào, thế mà đã lạy hai lạy trước xác anh chở từ dưỡng đường đem về nhà để lo việc táng sự. Hai lạy để tỏ biết ơn chỉ bảo nhiều điều.
- Bạn gốc miền Nam như tôi là Lê Thọ Xuân và Lê Ngọc Trụ. Anh Tư Xuân cũng là người ơn, anh giỏi về chính tả, lúc làm thầy cò nơi nhà in Maurice đường Nguyễn An Ninh, thì các sách in ra đều rất sạch và không có lỗi. Anh Xuân lại giỏi về sử Miền Nam, và anh đã từng ra Bắc và biết nhiều về cổ tích ngoài ấy (Đền Hùng)”.
Thiết tưởng đó
cũng là phần tóm lược tròn vẹn cuộc đời phục vụ văn chương chữ nghĩa của cụ Lê
Thọ Xuân thốt ra từ ngòi viết thận trọng của một học giả nổi tiếng. Giờ đây, cụ
Lê Thọ Xuân đã thanh thản nằm yên trong lòng đất mẹ. Thân xác của Cụ ra đi
nhưng quả tim của Cụ vẫn ở lại với chúng ta để nói theo nhận xét tế nhị của thi
sĩ Pháp Chrétien de Troyes (1135-1185): “Le corps s’en va, le coeur séjourne”.
24/07/2013
No comments:
Post a Comment