Friday, December 12, 2008

GIAI CẤP MỚI 5

===




Milovan Djilas
Giai cấp mới
Phạm Minh Ngọc dịch
Chương V
KINH TẾ GIÁO ĐIỀU

(DOGMATISM IN THE ECONOMY, 103- 123)




Nền kinh tế bao cấp



1.
Trong chế độ cộng sản, quá trình phát triển kinh tế không chỉ là cơ sở mà còn là tấm gương phản chiếu con đường chuyển hoá của chế độ từ chuyên chính cách mạng sang chuyên chế phản động. Quá trình phát triển đầy chông gai và mâu thuẫn đó cho ta thấy đồng thời nhu cầu can thiệp của nhà nước vào kinh tế trong những giai đoạn đầu và dần dần biến thành chính sách liên quan trực tiếp đến quyền lợi của bộ máy quan liêu nắm quyền. Khởi kì thuỷ nhà nước giành tất cả các phương tiện sản xuất: viện cớ là cần đầu tư cho quá trình công nghiệp hoá; và kết quả là sự phát triển kinh tế được quản lí phù hợp với quyền lợi của giai cấp nắm quyền.

Tứ xưa đến nay tất cả những người hữu sản đều làm như thế, họ chỉ quan tâm đến lợi ích của mình mà thôi. Nhưng giai cấp mới khác với các chủ sở hữu cũ ở chỗ họ nắm trong tay tất cả tài nguyên của đất nước, sức mạnh kinh tế được họ tăng cường một cách tự giác hơn và có tổ chức hơn. Tính tổ chức được thực hiện thông qua các tổ chức chính trị, kinh tế và các tổ chức khác cũng đã được các giai cấp cũ áp dụng. Nhưng vì trong các hình thái kinh tế trước đây giai cấp hữu sản là rất nhiều cá nhân riêng lẻ cũng như tồn tại những hình thức sở hữu đối lập nhau cho nên trong điều kiện bình thường nền kinh tế phát triển một cách tự phát.

Nền kinh tế cộng sản cũng không tránh được điều đó mặc dù khác với các nền kinh tế kia, loại bỏ tính tự phát được coi là một trong các nhiệm vụ đầu tiên của nó.

Cách làm đó dựa trên cơ sở lí luận như sau: các lãnh tụ cộng sản tin tưởng rằng họ nắm được các qui luật kinh tế và có thể quản lí sản xuất trên cơ sở các qui luật đó. Nhưng sự thật lại không phải như thế, sự thật là: họ đã chiếm được nền kinh tế và cũng giống như họ đã giành được thắng lợi của cách mạng, một lần nữa điều đó tạo cho họ ảo tưởng dường như tất cả mọi chuyện xảy ra đều là kết quả của phương pháp khoa học tuyệt vời của họ.

Tin vào sự đúng đắn của các lí thuyết của mình, họ đã áp dụng ngay những lí thuyết ấy vào quản lí kinh tế. Đầu tiên những người cộng sản so sánh những biện pháp kinh tế của mình với các luận điểm của Marx và sau đó thì đem áp dụng. Ở Nam Tư, người ta từng tuyên bố rằng kế hoạch hoá là theo Marx, mặc dù Marx không những không phải là một nhân viên kế hoạch và nói chung ông hoàn toàn không phải là chuyên gia trong lĩnh vực này. Nhưng điều quan trọng là lương tâm của các lãnh tụ vẫn trong sáng, và điều quan trọng hơn là sự đàn áp và bóc lột được biện hộ bằng các “mục đích cao cả” và có “cơ sở khoa học”.

Hệ thống cộng sản không thể tránh khỏi các giáo điều trong kinh tế.

Nhưng sẽ là sai lầm nếu cho rằng người ta làm kinh tế theo đúng các quan điểm giáo điều vốn là đặc trưng chủ yếu của hệ thống kinh tế cộng sản, đúng ra đó là một căn bệnh mãn tính. Chính trong kinh tế chứ không ở đâu khác, các lãnh tụ cộng sản đã thể hiện sự khéo léo cực kì trong việc “áp dụng” lí thuyết cho các nhu cầu của mình và nếu cần thì lờ luôn lí thuyết đi.

Ban lãnh đạo cộng sản buộc phải tiến hành công nghiệp hoá nhanh chóng là do nhu cầu lịch sử như đã nói ở trên, nhưng bên cạnh đó họ còn phải xây dựng nền kinh tế bảo đảm cho sự tồn vong của chính mình. Dường như để xây dựng xã hội phi giai cấp và thủ tiêu quan hệ người bóc lột người mà nó đã dựng lên hệ thống quản lí kinh tế khép kín, dựng lên hình thức sở hữu do nó độc quyền thống trị.

Ban đầu chính các nguyên nhân khách quan đã buộc những người cộng sản phải lựa chọn hình thức sở hữu tập thể. Nhưng sau đó việc củng cố hình thức sỡ hữu này (không cần biết có phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế và quá trình công nghiệp hoá hay không) đã trở thành mục đích tự thân và hoàn toàn tuân theo quyền lợi giai cấp của những người cộng sản. Dường như ban đầu người ta đã tiếm đoạt quyền điều khiển nền kinh tế vì lí tưởng, nhưng sau đó họ tiếp tục làm thế nhằm nắm giữ toàn bộ sở hữu và quyền thống trị, đấy chính là thực chất của các biện pháp chính trị đã được tiến hành có lớp lang và rộng khắp; đấy chính là thực chất các biện pháp quản lí kinh tế không phải do nhu cầu của nền kinh tế, cũng không phải do nhu cầu của quốc gia mà hoàn toàn tuân theo các nhu cầu chính trị ích kỉ của tầng lớp nắm quyền.

Trong một cuộc phỏng vấn hồi năm 1956, Tito đã phải công nhận rằng các nền kinh tế phương Tây cũng hàm chứa các “thành tố xã hội chủ nghĩa”, nhưng thiếu cái gọi là “tính tự giác”. Thế là đủ: vì “tự giác” xây dựng chủ nghĩa xã hội trong nước mà những người cộng sản buộc phải chuyên quyền, phải giữ độc quyền sở hữu tài sản. (NC 105)

Việc những người cộng sản gán cho “tính tự giác” trong các tiến trình phát triển kinh tế và xã hội một ý nghĩa to lớn đã cho ta thấy bản chất bạo lực và khát vọng chiếm hữu của họ. Nếu không thế thì họ nhấn mạnh nhân tố này để làm gì?

Việc người cộng sản kiên quyết phủ nhận tất cả các hình thức sở hữu khác ngoài hình thức mà họ cho là xã hội chủ nghĩa trước hết nói lên sự hám quyền và lòng tham vô đáy của họ. Nhưng họ sẵn sàng từ bỏ thái độ như thế nếu nó không đáp ứng quyền lợi, họ coi lí thuyết của mình chẳng khác gì một cái giẻ lau có thể xài hoặc quẳng đi bất cứ lúc nào. Thí dụ ở Nam Tư người ta đã thành lập các hợp tác xã nông nghiệp, nhưng sau đó lại giải tán (vì sự trong sáng của chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội) và hiện nay quan niệm về vấn đề này rất mù mờ. Những thí dụ tương tự như vậy có thể tìm thấy ở tất cả các nước cộng sản khác. Nhưng xu hướng tiêu diệt tất cả các hình thức sở hữu, trừ hình thức do họ dựng lên vẫn là mục đích bất di bất dịch của những người cộng sản.

Mọi đường lối kinh tế đều thể hiện ý chí của những lực lượng kinh tế nhất định và là ước muốn quản lí các lực lượng này. Ngay những người cộng sản cũng không thể đặt được quyền thống trị tuyệt đối đối với quá trình sản xuất. Nhưng họ thường xuyên áp bức, luôn luôn buộc nó phải tuân thủ những mục đích chính trị và tư tưởng của mình. Đấy là khác biệt của họ với tất cả những đường lối khác.

2.

Tính chất toàn trị của sở hữu cũng như hệ tư tưởng thường đóng vai trò quyết định trong chính sách kinh tế còn do vị trí đặc biệt của người sản xuất trong chế độ cộng sản nữa. Ở Liên Xô, quyền tự do lao động đã bị hạn chế ngay sau cách mạng. Nó đã không bị bãi bỏ hoàn toàn ngay cả khi nhu cầu công nghiệp hoá là rất cao. Điều đó chỉ xảy ra sau khi cuộc cách mạng công nghiệp đã hoàn thành cũng như vị trí của giai cấp mới đã được củng cố. Luật pháp qui định mọi người đều phải làm việc theo sự phân công của “tổ chức” được áp đặt vào năm 1940. Trong giai đoạn này cũng như sau chiến tranh đã xuất hiện các trại lao động, thực chất là một hình thức bóc lột nô lệ. Lao động trong các nhà máy và lao động khổ sai gần như không còn sự cách biệt nào.

Các trại lao động và những hình thức lao động “tình nguyện” khác chính là những hình thức lao động khổ sai nặng nề nhất. Các trại lao động hoặc phong trào tình nguyện có thể chỉ mang tính giai đoạn nhưng sự mất tự do trong lao động kiếm sống là hiện tượng cố hữu ở Liên Xô.

Trong các nước cộng sản khác sự mất quyền tự do lao động không đạt đến mức như vậy nhưng hoàn toàn tự do lao động thì cũng không nước nào có cả.

Mất quyền tự do lao động trong các chế độ cộng sản là hậu quả của việc chiếm hữu tất cả hay hầu như tất cả nguồn lực quốc gia. Người lao động bị đặt trước một sự kiện là sức lao động, cũng là hàng hoá duy nhất của anh ta, phải được bán cho chỉ duy nhất một người, theo những điều kiện bất khả tương nhượng vì không còn người mua nào khác. Nếu chỉ có một người mua là nhà nước thì người công nhân chỉ còn một cách là chấp nhận mọi điều kiện nếu không muốn chết đói. Thị trường sức lao động xấu xa, bỉ ổi của giai đoạn tiền tư bản đã bị quan hệ sở hữu độc quyền của giai cấp mới tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng người lao động thì không vì thế mà được tự do hơn.

Người lao động trong chế độ cộng sản (kể cả ở các trại lao động khổ sai) không phải là người nô lệ thời cổ đại, không bị coi là một loại đồ vật. Ngay một nhà tư tưởng vĩ đại thời đó cũng cho rằng một số người được sinh ra là người tự do, còn số khác là nô lệ. Dù luôn kêu gọi cải tạo hệ thống chiếm nô và đối sử nhân đạo với nô lệ, ông cũng chỉ coi nô lệ như một loại công cụ lao động. Không thể nào đối xử với một người công nhân hiện đại có kiến thức khoa học kĩ thuật và tay nghề như vậy được. Lao động cưỡng bức trong chế độ cộng sản khác với thời cổ đại và cũng khác với mọi thời đại khác. Nó không liên quan (hoặc rất ít liên quan) với trình độ kĩ thuật mà là kết quả của một chính sách và quan hệ sở hữu nhất định.

Trong khi đó trình độ kĩ thuật hiện nay lại cần những người công nhân tự do cho nên anh ta luôn luôn mâu thuẫn, khi thăng khi giáng, với chế độ lao động cưỡng bức, với độc quyền sở hữu và chế độ chính trị toàn trị cộng sản.

Về mặt hình thức thì người công nhân trong chế độ cộng sản là người tự do, nhưng mức độ tự do của anh ta vô cùng hạn chế. Nói chung, về mặt hình thức chế độ cộng sản không hạn chế tự do. Nó làm điều đó trên thực tế. Lao động và sức lao động cũng chịu cảnh tương tự.

Trong một xã hội khi mà tất cả tài sản đều nằm trong tay một nhóm người thì sức lao động không thể có tự do. Nó cũng là một loại tài sản gián tiếp của nhóm đó mà thôi. Dĩ nhiên là nhóm cầm quyền không thể sở hữu một trăm phần trăm sức lao động của con người vì mỗi người lao động là một cá thể, mỗi người làm chủ sức lao động của mình; nhưng đến lượt nó cái sức lao động ấy lại chỉ là một nhân tố của toàn bộ nền sản xuất xã hội. Giai cấp hữu sản mới sử dụng sức lao động ấy cũng bằng một cách thức như với tất cả các nguồn lực quốc gia và các phương tiện sản xuất khác.

Vì vậy nhà nước, đúng hơn phải nói bộ máy đảng, có thể giữ độc quyền ấn định điều kiện lao động, quyết định mức lương và những vấn đề liên quan khác. Nắm giữ độc quyền tài sản, thực thi chuyên chế trong lĩnh vực chính trị, bộ máy đảng đã nắm giữ luôn quyền quyết định điều kiện làm việc của người lao động.

Như vậy là đối với bộ máy quan liêu chỉ có khái niệm sức lao động trừu tượng, chỉ có những người công nhân như là một nhân tố của quá trình sản xuất. Điều kiện làm việc trong từng nhà máy, trên từng công trường, trong từng lĩnh vực cụ thể, việc gắn tiền lương với lợi nhuận của xí nghiệp, đối với bộ máy quan liêu, tất cả những điều đó đều không tồn tại và không thể tồn tại được.

Khi toàn bộ sở hữu đã nằm trong tay của một nhóm người thì kết quả và ý nghĩa của nền sản xuất cũng trở thành vô giá trị đối với ngay chủ nhân của nó. Tiền lương và điều kiện lao động cũng như sức lao động trở thành những khái niệm trừu tượng, vô hồn, chỉ là các định mức và hệ số mà thôi. Kết quả hoạt động của từng xí nghiệp hoặc lĩnh vực không có hoặc có rất ít ý nghĩa đối với thu nhập của người lao động. Đấy là nói chung, tuỳ vào điều kiện và nhu cầu, dĩ nhiên là có những trường hợp ngoại lệ. Cách đặt vấn đề như thế nhất định sẽ dẫn tới sự bàng quan của người lao động và cuối cùng là dẫn đến chất lượng kém, lãng phí tài nguyên, v.v... Những người cộng sản luôn luôn kêu gọi nâng cao năng suất lao động nhưng họ đã bỏ qua không thèm nghĩ đến việc sử dụng có hiệu quả sức lao động nói chung.

Trong tình hình như thế cần phải có rất nhiều biện pháp khen thưởng. Người lao động bàng quan được động viên bằng mọi cách. Nhưng nếu không thay đổi toàn bộ hệ thống, nếu vẫn nắm giữ toàn bộ tài sản và quyền lực, họ không thể tạo được sự quan tâm thường trực của từng người công nhân và của tất cả người lao động đối với kết quả sản xuất nói chung.

Ngay những cố gắng nghiêm túc nhằm chia cho công nhân một phần lợi tức, như ở Nam Tư và các nước Đông Âu khác, cũng đã kết thúc, bị bộ máy quan liêu chiếm đoạt, lấy cớ là do lạm phát và để hợp lí hoá đầu tư cơ bản. Người lao động chỉ được nhận một phần mang tính tượng trưng và quyền được phân phối số tiền nhỏ nhoi đó thông qua các tổ chức đảng hoặc công đoàn mà thực chất vẫn là thông qua bộ máy quan liêu đó. Không được quyền đình công cũng như quyền sở hữu, người công nhân không được nhận và không được tham gia vào việc phân chia lợi nhuận. Tất cả những quyền này liên quan mật thiết với nhau cũng như liên quan mật thiết với tự do chính trị, không thể có cái này mà thiếu cái kia được.

Trong hệ thống như thế không thể tồn tại tổ chức công đoàn độc lập, còn các cuộc đình công là những hiện tượng cực kì đặc biệt, là biện pháp chẳng đặng đừng, là sự bùng nổ của bất bình của quần chúng lao động (Đông Đức năm 1953, Poznan – Ba Lan năm 1956)

Người cộng sản giải thích việc không được tự do bãi công như sau: giai cấp công nhân nắm chính quyền và thực hiện quyền làm chủ thông qua nhà nước, bãi công thì hoá ra tự chống lại mình à! Quá trẻ con, dĩ nhiên rồi. Người ta lấy cớ là không có tư hữu, nhưng thực tế là người chủ sở hữu thật sự đã khoác lên mình một cái mặt nạ tập thể và không được xác định một cách chính thức.

Lí do chính của việc không được bãi công là chủ sở hữu, dù khoác nhiều bộ mặt, vẫn chỉ là một chủ thể duy nhất, nắm toàn bộ tài nguyên mà chủ yếu là nắm sức lao động cho nên mọi hành động chống lại nó, nếu không mang tính toàn diện, đều rất khó thực hiện. Bãi công trong một hoặc một vài xí nghiệp, đấy là giả sử chế độ toàn trị cho phép, cũng không tạo ra một mối nguy nào cho chủ sở hữu vì tài sản của nó không nằm trong một xí nghiệp cụ thể mà là toàn bộ nền sản xuất nói chung. Mất một vài xí nghiệp không phải là vấn đề, hơn nữa chính người sản xuất nghĩa là toàn bộ xã hội sẽ phải làm bù. Như vậy là đình công, nếu có, cũng chỉ là vấn đề chính trị chứ không phải là vấn đề kinh tế.



Những cuộc đình công lẻ tẻ trên thực tế là không tổ chức được và cũng không có ý nghĩa, điều kiện chính trị lại không cho phép tổng đình công. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt đã từng xảy ra đình công. Các cuộc đình công lẻ tẻ thường biến thành tổng đình công và mang ý nghĩa chính trị.

Ngoài ra chế độ cộng sản còn tiến hành đấu tranh chống lại các biểu hiện bất mãn, chia rẽ phong trào công nhân bằng cách thăng tiến cho các cán bộ từ chính công nhân. Những cán bộ này sẽ thực thi việc “giáo dục”, “rèn luyện tư tưởng” và “hướng dẫn” quần chúng.

Các tổ chức công đoàn và các tổ chức nghề nghiệp khác thực chất chỉ là những người giúp việc bộ máy đương quyền, và cũng là ông chủ duy nhất của tất cả mọi loại tài sản. Điều đó quyết định các xu hướng chủ yếu trong hoạt động của các tổ chức này: thúc đẩy việc “xây dựng chủ nghĩa xã hội” nghĩa là nâng cao năng suất lao động cũng như tuyên truyền ảo tưởng và lòng trung thành trong giai cấp công nhân. Nâng cao trình độ văn hoá của công nhân có thể coi là điểm tích cực duy nhất của các tổ chức này.

Không phải ngẫu nhiên mà công nhân luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của chế độ nhưng đây không phải là vấn đề tư tưởng hay nhân đạo hoặc các vấn đề nào khác tương tự, mà chỉ bởi vì công nhân chính là người sản xuất ra của cải vật chất, sự thịnh suy, thậm chí tồn vong của giai cấp mới phụ thuộc trực tiếp vào họ.



3.

Dù lao động mang tính nô lệ, dù không có các tổ chức công đoàn độc lập, việc bóc lột trong chế độ cộng sản cũng có một giới hạn nhất định. Đây là vấn đề rất lớn, chỉ xin khảo sát những điểm quan trọng nhất. NC 111

Bên cạnh lí do chính trị, thí dụ nỗi sợ trước sự bất bình của quần chúng, người ta vẫn phải xác định các giới hạn bóc lột: những hình thức có thể đe doạ sự tồn vong của chế độ trước sau cũng bị huỷ bỏ hoặc hạn chế.

Thí dụ ngày 25 tháng 4 năm 1956 Liên Xô đã ra nghị định bãi bỏ việc truy tố người có hành vi đi muộn về sớm. Các trại lao động, nơi con người bị đối xử không khác gì tội phạm và là một hình thức bóc lột lao động nô lệ rẻ tiền, đã dần dần bị bãi bỏ. Sức lao động không phải nhờ thế mà thành tự do hơn, nhưng dù sao đây cũng một bước thay đổi tích cực to lớn sau cái chết của Stalin. NC111

Lao động nô lệ cưỡng bách không chỉ tạo cho chế độ nhiều khó khăn về mặt chính trị mà còn vô cùng tốn kém. Sau khi Liên Xô có những máy móc phức tạp thì lao động cưỡng bách trở thành gánh nặng. Dù chi phí cho một người lao động cưỡng bách là không đáng kể nhưng bộ máy hành chính để quản lí anh ta lại quá cồng kềnh, lao động của người đó trở thành vô giá trị và vì thế mà bị xoá bỏ.

Nền sản xuất hiện đại cũng đặt ra những giới hạn cho sự bóc lột: người lao động kiệt sức không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng trên những máy móc hiện đại. Tương tự như vậy, nếu muốn có sản phẩm người ta phải đáp ứng cả các yêu cầu khác như về văn hoá, y tế, vệ sinh, v.v...

Trong chế độ cộng sản bên cạnh việc bóc lột, do bản chất quyền lực và sở hữu mà sức lao động còn bị hạn chế tự do. Khi chưa có sự thay đổi về quyền lực và sở hữu thì sức lao động không thể nào có tự do, dù ít dù nhiều nó vẫn nằm dưới sự áp chế về kinh tế hoặc hành chính.

Đồng thời, do nhu cầu của sản xuất, chế độ cộng sản có thể tiến hành thay đổi điều kiện lao động, thay đổi vị trí của người công nhân bắng những biện pháp mạnh như: thời gian lao động, quyền nghỉ ngơi, học hành, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động nữ, lao động trẻ em. Nhiều biện pháp sẽ nằm trên giấy, nhưng đôi khi cũng sẽ có những biến đổi tích cực.

Xu hướng cải thiện quan hệ sản xuất, hướng đến sự ổn định và trật tự trong sản xuất là công việc thường xuyên của các chính quyền cộng sản. Người chủ sở hựu tập thể duy nhất giải quyết vấn đề một cách tổng thể. Hình thức sở hữu không chấp nhận “vô chính phủ” trong lĩnh vực này. Sức lao động cũng như mọi thành tố khác của quá trình sản xuất phải “luôn ổn định”. Quyền lợi sống còn của người lao động chỉ đóng vai trò thứ yếu.

Nếu xem xét kĩ thì ta thấy việc người ta vẫn tuyên truyền rằng trong chế độ cộng sản mọi người đều có việc làm cũng chứa đựng nhiều khiếm khuyết.

Ngay khi toàn bộ tài sản vật chất được tập trung vào tay chỉ một nhóm người thì lập tức xuất hiện nhu cầu kể hoạch hoá, kể cả nhu cầu về sức lao động. Các đòi hỏi về chính trị nhất định sẽ dẫn đến việc một số lĩnh vực bị lạc hậu và sống bám vào những lĩnh vực khác. Thất nghiệp trên thực tế được che giấu bằng cách đó. Nếu các lĩnh vực được tự do sản xuất không có sự can thiệp của chính quyền trong việc nâng đỡ ngành này làm thiệt hại cho ngành khác thì thất nghiệp sẽ xuất hiện ngay lập tức. Việc liên kết chặt chẽ với thị trường thế giới sẽ làm cho quá trình này càng rõ ràng và mở rộng thêm.

Như vậy việc mọi người đều có việc làm không phải là kết quả của chủ nghĩa xã hội mà là một chính sách kinh tế, nó chỉ chứng tỏ sự mất cân đối và năng suất lao động thấp mà thôi. Nó không phải là mặt mạnh mà chính là điểm yếu của nền kinh tế bao cấp. Nếu Nam Tư chuyển sang nền kinh tế có hiệu quả hơn thì tình trạng thất nghiệp sẽ xuất hiện và nền kinh tế càng hiệu quả thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ càng tăng.

Trong chế độ cộng sản việc ai cũng có việc làm che giấu hiện tượng thất nghiệp. Sự nghèo khổ chung làm mờ đi hiện tượng thất nghiệp của một bộ phận dân chúng, cũng như sự phát triển nhanh của một vài lĩnh vực che đậy sự lạc hậu của những lĩnh vực khác.

Tương tự như vậy, hình thức sở hữu đó cũng như hình thức chính quyền đó giữ cho nền kinh tế không bị phá sản nhưng không thể cứu nó khỏi cuộc khủng hoảng trường kì. Sự độc quyền sở hữu tạo điều kiện xử lí để tránh đổ vỡ toàn diện nhưng quyền lợi ích kỉ của giai cấp mới cũng như bản chất của nền kinh tế không thể làm cho nó trở thành lành mạnh và cân đối được.


4. (NEWCLASS 113 )

Marx không phải là người đầu tiên cho rằng nền kinh tế tương lai sẽ là nền kinh tế kế hoạch hoá. Nhưng ông là người đầu tiên hoặc một trong những người đầu tiên nhận thấy rằng nền kinh tế hiện đại có xu hướng tiến đến kế hoạch hoá vì bên cạnh các nguyên nhân xã hội còn có nguyên nhân nữa: nó dựa trên công nghệ tiên tiến. Các công ty độc quyền chính là các công ty đầu tiên thực hiện kế hoạch hoá trên bình diện quốc gia và quốc tế. Ngày nay kế hoạch hoá là hiện tượng chung, là thành phần quan trọng của chính sách kinh tế của nhiều chính phủ các nước đã phát triển và đang phát triển, dù được thực hiện với những đặc thù khác nhau. Kế hoạch hoá là kết quả của trình độ sản xuất nhất định, của những điều kiện xã hội và quốc tế cũng như những điều kiện khác, không liên quan gì đến một lí thuyết cụ thể nào, đặc biệt là lại càng không liên quan đến chủ nghĩa Mác, vốn được xây dựng trên cơ sở quan hệ kinh tế - xã hội thấp hơn.

Liên Xô, dưới sự lãnh đạo của những người mac-xít, là nước đầu tiên thực hiện kế hoạch hoá trên toàn quốc, những người mac-xít còn đánh đồng Liên Xô với kế hoạch hoá và với chủ nghĩa Marx nữa. Trong thực tế học thuyết của Marx, cơ sở tư tưởng của cuộc cách mạng Nga bị biến thành tấm bình phong che đậy cho những hành động của các lãnh tụ Liên Xô.

Tất cả những nguyên do lịch sử của việc kế hoạch hoá nêu trên sau đó đều được củng cố bằng lí luận mà lí luận của Marx là gần gũi và dễ được chấp nhận nếu tính đến cơ sở xã hội và lịch sử của phong trào cộng sản.

Bên cạnh nguyên lí mac-xit, kế hoạch hoá trong chế độ cộng sản còn dựa trên cơ sở vật chất to lớn và cơ sở tinh thần sâu sắc hơn nhiều. Nếu không có kế hoạch thì làm sao có thể quản lí được nền kinh tế đã hoặc đang chuyển vào tay chỉ một nhóm người? Thiếu kế hoạch thì làm sao có thể đầu tư những khoản tiền to lớn như vậy vào một nền công nghiệp đang phát triển như vũ bão? Trước hết hãy là một nhu cầu rồi sau sẽ trở thành lí tưởng. Kế hoạch hoá của cộng sản diễn ra đúng như thế. Đầu tiên là hướng vào những lĩnh vực có tác dụng củng cố chế độ. Đấy chỉ là nguyên tắc chung vì trong mỗi nước cộng sản, đặc biệt là những nước độc lập với Moskva, đều có những đặc thù và cách làm khác nhau. Nhưng nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các nước.

Dĩ nhiên là phát triển kinh tế nói chung có ý nghĩa sống còn đối với chế độ và sự phát triển của ngành này không thể tách rời với ngành khác. Nhưng trung tâm kế hoạch hoá trong tất cả các nước cộng sản bao giờ cũng nằm trong các lĩnh vực có ý nghĩa quyết định đối với sự ổn định chính trị của chế độ. Và trước hết là các lĩnh vực đảm bảo sức mạnh, vai trò và đặc quyền đặc lợi của giai cấp mới. Chúng đồng thời củng cố chế độ trong lĩnh vực đối ngoại và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá. Cho đến nay đấy là các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp quốc phòng. Dĩ nhiên là trong từng nước có thể có những khác biệt. Hiện nay tại Liên Xô ta có thể thấy nền công nghiệp năng lượng nguyên tử đang là lĩnh vực đầu tầu: có thể đấy là do các tính toán về đối ngoại và quân sự mà ra.

Tất cả đều phải phục vụ cho các mục đích do cấp trên quyết định. Vì vậy mà có nhiều lĩnh vực lạc hậu, hoạt động không hiệu quả, mất cân đối, chi phí sản xuất cao và lạm phát định kì là những hiện tượng thường thấy. Theo các số liệu của Andre Philip đầu tư vào công nghiệp nặng của Liên Xô đã tăng từ 53,3% vào năm 1954 lên 60% vào năm 1955. Đầu tư vào công nghiệp năng chiếm 21% GDP trong khi nó chỉ làm tăng có 7,4% GDP trên đầu người, trong đó có đến 6,4% tăng trưởng là do đầu tư mới. NC 115

Trong tình hình như thế, mức sống của người dân không làm lãnh đạo phải bận tâm mặc dù theo Marx thì con người là nhân tố sản xuất quan trọng nhất. Theo ông Krankshown, một đảng viên cộng đảng, thì lương 600 rub một tháng phải được coi là không đủ sống, trong khi Harrie Shvars, một nhà báo Mĩ lại cho rằng có đến 8 triệu người chỉ được nhận dưới 300 rub một tháng [1] . Tribune, một tờ báo của Công đảng, các số liệu tôi dẫn đếu lấy từ báo này, nói thêm: nhiều phụ nữ phải làm các công việc năng nhọc không phải do nhu cầu bình đẳng giới. Việc tăng khoảng 30% lương gần đây ở Liên Xô chính là liên quan đến tầng lớp có thu nhập thấp nói trên. (NC 115)

Đấy là nói về Liên Xô. Các nước cộng sản khác, ngay cả Tiệp Khắc, nơi có cở sở kĩ thuật cao hơn, tình hình cũng tương tự. Nam Tư trước đây từng là nước xuất khẩu nông phẩm thì nay phải nhập. Theo các số liệu thống kê chính thức thì mức sống của công nhân viên chức Nam Tư hiện nay thấp hơn thời trước chiến tranh mặc dù lúc đó nước này được coi là một nước tư bản kém phát triển.

Các lí do chính trị và tư tưởng đóng vai trò quan trọng hơn nhu cầu kinh tế và thường là động lực của nền kinh tế kế hoạch hoá cộng sản. Chính các lí do này đóng vai trò chủ đạo mỗi khi chế độ cần lựa chọn giữa sự tiến bộ kinh tế, mức sống của người dân và quyền lợi chính trị của giới cầm quyền.

Kế hoạch hoá và chuyên chính vô sản (toàn trị) bổ sung cho nhau. Chính những tính toán về chính trị đã thúc đẩy những người cộng sản tập trung đầu tư vào những lĩnh vực nhất định nào đó. Tất cả kế hoạch đều tập trung cho những lĩnh vực này. Chính điều đó đã gây ra mất cân đối mà thu nhập cướp được từ việc quốc hữu hoá các nhà tư sản cũng như địa chủ lớn không thể bù đắp được, giai cấp công nhân phải trả giá bắng mức lương chết đói, còn nông dân thị bị cướp bóc bằng lao động cưỡng bức.

Người ta có thể cãi rằng nếu Liên Xô không thực hiện kế hoạch hoá, không đẩy nhanh công nghiệp hoá thì sẽ buộc phải tham gia chiến tranh thế giới thứ II với hai bàn tay không và sẽ là mồi ngon cho nước Đức phát-xít. Nhưng sự thể không hoàn toàn như vậy. Sức mạnh của quốc gia không chỉ tính bằng số xe tăng và đại bác. Nếu Stalin không theo đuổi những mục tiêu đế quốc về đối ngoại và không tạo ra một chế độ đàn áp toàn diện về mặt đối nội thì đã không có tình trạng là nước đó phải một mình trực diện với quân xâm lược.

Nhưng những câu chuyện theo lối trà dư tửu hậu như vậy thì biết nói đến bao giờ cho xong.

Có thể khẳng định một điều: để có thể phát triển công nghiệp quốc phòng không nhất thiết phải sử dụng phương pháp kế hoạch hoá và phát triển kinh tế mang tính chính trị như thế. Những kẻ hữu sản nắm quyền áp dụng phương pháp đó là do nhu cầu không chịu phụ thuộc vào các lực lượng khác ở cả trong và ngoài nước, mà nhu cầu quốc phòng lại là tác nhân bắt buộc phải có. Liên Xô có thể tiến hành kế hoạch hoá theo cách khác mà vẫn có số vũ khí như thế.

Trong trường hợp đó nó phải liên kết mật thiết với thị trường bên ngoài, phụ thuộc vào thị trường này và như thế có nghĩa là phải có chính sách đối ngoại khác. Trong điều kiện đan xen một cách chằng chịt các quyền lợi quốc tế như hiện nay, khi chiến tranh mang tính tổng thể như hiện nay, thì dầu mỡ cũng quan trọng chẳng kém gì súng đại bác. Điều này được khẳng định ngay với Liên Xô: sự giúp đở cũa Mĩ về lương thực thực phẩm cũng có ích không khác gì vũ khí.

Như vậy là kế hoạch hoá Xô Viết là một loại kế hoạch hoá đặc biệt. Nó không phải được tạo ra bởi trình độ kĩ thuật và tính tự giác “xã hội chủ nghĩa”, mà được tạo ra bởi các điều kiện lịch sử, bởi một hình thức chính quyền và hình thức sở hữu nhất định. Ngày nay đã là thời đại của các nhân tố khác, nhưng các nhân tố nêu trên vẫn đóng vai trò quan trọng. Phải nắm được điều đó thì mới hiểu được tính chất của kế hoạch hoá và khả năng của nền kinh tế cộng sản.

Kết quả của nền kinh tế và kế hoạch hoá là khác nhau trong các lĩnh vực.

Việc tập trung toàn bộ phương tiện sản xuất vào tay một nhóm người đã tạo điều kiện cho những tiến bộ cực kì nhanh chóng trong một vài lĩnh vực. Thế giới phải ngạc nhiên trước một số thành tích của Liên Xô. Nhưng sự lạc hậu trong những lĩnh vực khác lại làm cho thành tích thành ra không thể biện hộ được về mặt kinh tế.

Nước Nga Sa Hoàng lạc hậu nay đã trở thành nước đứng thứ hai trong nhiều lĩnh vực. Nó đã là nước có lực lượng bộ binh mạnh nhất thế giới. Có giai cấp công nhân đông đảo, một lực lượng cán bộ khoa học kĩ thuật hùng hậu, có cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng mạnh mẽ.

Nhưng nền chuyên chính thì vẫn như xưa và không có cơ sở để nói rằng mức sống đã được nâng lên phù hợp với khả năng kinh tế.

Với quan hệ sở hữu và quyền lực chính trị như thế, kế hoạch chỉ là phương tiện, việc nâng cao mức sống người dân cũng như nới lỏng chuyên chính là điều không thể xảy ra. Sự độc quyền tuyệt đối của một nhóm người cả trong kinh tế và chính trị, kế hoạch hoá chỉ với mục đích củng cố sức mạnh của nhóm đó ở trong và ngoài nước nhất định sẽ dẫn tới sự tăng thêm đặc quyền đặc lợi và sự phình lên của chính nhóm đó; mức sống của người dân cũng như sự hài hoà của nền kinh tế chỉ đóng vai trò thứ yếu. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là sự mất tự do.

Tự do trong chế độ cộng sản trở thành vấn đề kinh tế quan trọng.

5. (NC.118)

Nền kinh tế kế hoạch hoá của cộng sản hàm chứa trong mình nó sự hỗn loạn. Mặc dù có kế hoạch nhưng ta có thể nói một cách dứt khoát rằng đây là một nền kinh tế lãng phí nhất trong lịch sử loài người. Điều đó mới nghe có vẻ kì quặc, nhất là nếu ta thấy sự phát triển nhanh trong một vài lĩnh vực và cả nền kinh tế nói chung. Nhưng khẳng định trên hoàn toàn có căn cứ.

Ngay cả trong trường hợp mà nhóm người nắm quyền không lãnh đạo tất, kể cả lãnh vực kinh tế, chỉ trên cơ sở những tính toán về tư tưởng và sở hữu hạn hẹp của mình, thì cũng không thể nào tránh được những mất mát khủng khiếp, những mất mát không thống kê nổi.

Liệu những người ấy, ngay cả khi họ không nhìn mọi sự từ đỉnh cao quyền lực của mình, có thể quản lí một cách tiết kiệm và hữu hiệu nền kinh tế hiện đại phức tạp, dù với những kế hoạch hoàn thiện nhất, nhưng vẫn luôn luôn xuất hiện những xu hướng đối nghịch nhau hay không?

Việc thiếu không những sự phê phán mà thiếu ngay những “gợi ý” từ bên ngoài nhất định sẽ dẫn tới trì trệ và tổn thất không thể chấp nhận được.

Đấy là những tổn thất không thể tránh được, dù có muốn. Do thái độ của những người cộng sản đối với nông dân nên cả một dân tộc đã coi thường nông nghiệp và đầu tư quá mức vào công nghiệp nặng thì hậu quả sẽ như thế nào? Bao nhiêu đồng vốn đã đầu tư một cách lãng phí vào những ngành kém hiệu quả? Việc coi thường nhu cầu giao thông sẽ đưa đến đâu? Tiền lương thấp dẫn đến lãn công và sản phẩm hỏng, kém chất lượng. Không có cách và không một kế toán viên nào có thể tính được tất cả các khoản đó.

Coi thường ngay cả lí thuyết của chính mình, không có lĩnh vực nào mà các lãnh tụ cộng sản lại có thái độ chủ quan như đối với lĩnh vực kinh tế. Thái độ duy ý chí gây ra nhiều tai hoạ nhất trong lĩnh vực này. Những nhà lãnh đạo cộng sản dù có muốn (nhỡ chuyện ấy xảy ra thì sao?) cũng không thể tính toán được hết các lợi ích khách quan của toàn bộ nền kinh tế. Vì những toan tính chính trị, lúc nào họ cũng sẵn sàng tuyên bố một vấn đề nào đó là “quan trọng sống còn”, “có ý nghĩa quyết định” (đối với họ có thể là như thế thật), nhưng đồng thời không gì có thể cản trở họ thực hiện những điều đã định vì họ đâu có sợ mất quyền lực và quyền sở hữu.

Những khi công việc quá trì trệ hoặc có những tổn thất rõ ràng thì họ lại làm cái việc gọi là phê bình và tự phê bình, rút kinh nghiệm. Khrushchev phê phán chính sách nông nghiệp của Stalin, Tito phê bình chế độ của mình vì đầu tư sai và lãng phí hàng tỉ đồng. Nhưng bản chất thì vẫn thế. Vẫn những người đó, vẫn những phương pháp đó và vẫn hệ thống đó; vấn đề chỉ còn là lúc nào thì lại xuất hiện các “lệch lạc” mà thôi. Không thể nào tìm lại tài sản đã mất, nhưng đảng và chế độ lại chẳng phải chịu trách nhiệm gì. Họ đã “rút kinh nghiệm” và “hứa sửa chữa”. Tóm lại, “hãy nhìn việc họ làm, chớ nghe lời họ nói”...

Không một lãnh tụ cộng sản nào từng bị trừng phạt vì lãng phí những nguồn tài sản khổng lồ, song có rất nhiều người đã bị lật vì “lệch lạc” về tư tưởng.

Ăn cắp và lãng phí khối tài sản khổng lồ trong các chế độ cộng sản là việc không thể nào tránh được. Mọi người đều được phép thò tay vào khối tài sản này không phải vì nhu cầu mà đơn giản nó gần như là tài sản vô chủ. Giá trị dường như không còn là giá trị nữa và đấy chính là điều kiện thuận lợi cho việc ăn cắp và lãng phí. Ở Nam Tư năm 1954 đã phát hiện 20 ngàn trường hợp ăn cắp “tài sản xã hội”. Các lãnh tụ cộng sản nắm giữ tài sản quốc gia như tiền của mình nhưng đồng thời lại phung phí nó như tiền chùa vậy. Bản chất của sở hữu, của quyền lực trong chế độ cộng sản là như thế đấy.




Nhưng việc lãng phí lớn nhất chính là lãng phí lao động.

Hàng triệu người làm việc một cách uể oải, không hề quan tâm đến kết quả lao động của mình, sự cấm đoán những hoạt động bị dán nhãn “phi xã hội chủ nghĩa” ngay cả khi đó không phải là lao động bóc lột là những lãng phí không thể thống kê nhưng vô cùng lớn mà không một chế độ cộng sản nào có thể tránh được. Học thuyết của Smith, được Marx chấp nhận, coi lao động sống là cội nguồn của mọi giá trị, nhưng các lãnh tụ cộng sản lại ít quan tâm đến lao động sống nhất, họ lãng phí nó như một vật chẳng có giá trị gì, hoặc coi như nguồn lực lúc nào cũng có thể bổ sung được.

Nỗi hoảng loạn của những người cộng sản trước viễn cảnh “phục hồi chủ nghĩa tư bản”, các biện pháp kinh tế mang màu sắc chính trị và quyền lợi giai cấp hẹp hòi đã gây ra những mất mát khủng khiếp cho các dân tộc, kìm hãm sự phát triển của các quốc gia nằm dưới quyền thống trị của họ.

Bao nhiêu ngành nghề đã chết vì nhà nước không thể bao cấp được cho hoạt động của những ngành này; chỉ “quốc doanh” mới được coi là xã hội chủ nghĩa. Đúng như câu châm ngôn: “Chó già giữ xương”.

Dân tộc làm sao chịu đựng và có thể chịu đựng điều đó đến bao giờ? Liệu đã tới lúc khi mà chính nền công nghiệp - ban đầu nó đã dựa vào những người cộng sản để phát triển - sẽ có khả năng giúp thủ tiêu cả quyền lực, cả hình thức sở hữu này?

Biết bao tiền của đã bị lãng phí vì sự cô lập của các nền kinh tế cộng sản.

Tất cả các nền kinh tế cộng sản về thực chất đều là tự cấp tự túc. Nguyên nhân cũng là vì tính chất của quyền lực và hình thức sở hữu của chúng. Không có nhà nước cộng sản nào, kể cả Nam Tư, do mâu thuẫn với Moskva mà buộc phải mở rộng quan hệ với các nước phi cộng sản, vượt qua được trao đổi hàng hoá truyền thống trong quan hệ kinh tế đối ngoại.

Kế hoạch hoá cộng sản khởi kì thuỷ không hề quan tâm đến nhu cầu của thị trường thế giới và quá trình sản xuất ở các nước khác. Một phần vì lí do đó và cũng vì những lí do chính trị mà các nhà lãnh đạo cộng sản không hề quan tâm đến việc tạo điều kiện thuận lợi tự nhiên cho việc phát triển sản xuất. Các xí nghiệp thường thiếu cơ sở nguyên vật liệu, người ta không bao giờ quan tâm tới giá và giá thành của từng sản phẩm trên thị trường thế giới. Một sản phẩm nào đó có thể đắt gấp mấy lần giá trên thị trường quốc tế vẫn được đầu tư sản xuất, trong khi lĩnh vực khác có hiệu quả cao hơn, có khả năng cạnh tranh thì lại bị bỏ bê. Có những ngành mới được thành lập mặc dù trên thị trường quốc tế sản phẩm trong lĩnh vực này đã tràn ngập từ lâu. Nhân dân phải trả giá hết: các nhà lãnh đạo chỉ cần độc lập mà thôi.

Đấy là một phần vấn đề phải nói là chung cho mọi chế độ cộng sản.

Vấn đề khác, cuộc chạy đua của nước xã hội chủ nghĩa mạnh nhất, tức là Liên Xô, với các nước tư bản phát triển khác để nhằm “đuổi kịp” và “vượt” họ. Cái giá phải trả là bao nhiêu? Và điều đó sẽ dẫn đến đâu?

Có thể Liên Xô sẽ đuổi kịp các nước tư bản phát triển trong một hoặc một số lĩnh vực nào đó. Cái giá phải trả là sự hao phí sản xuất cực kì khủng khiếp, đồng lương công nhân thấp và sự tụt hậu của những ngành khác. Biết bao nhiêu hi sinh và cố gắng, về mặt kinh tế có đáng giá hay không lại là một câu hỏi khác.

Các kế hoạch như vậy tự chúng đã có tính chất gây hấn. Phía bên kia sẽ nghĩ gì: trong khi mức sống nhân dân còn thấp, chính phủ Liên Xô muốn dẫn đầu thế giới về sản xuất than và dầu khí để làm gì? Cùng tồn tại hoà bình và hợp tác hữu nghị sẽ như thế nào nếu đấy là kết quả của cuộc chạy đua về công nghiệp nặng trong khi trao đổi hàng hoá lại rất nghèo nàn? Làm thế nào để hợp tác nếu các nền kinh tế cộng sản đều đóng kín trong khi trên trường quốc tế họ chỉ tranh chấp về lĩnh vực tư tưởng?

Các kiểu kế hoạch và quan hệ như thế, sức lao động và các nguồn lợi khác của nước mình và các nước khác bị phí phạm như thế không thể biện minh được dù đứng trên quan điểm nào, ngoại trừ quan điểm của những thủ lĩnh cộng sản. Sự tiến bộ về mặt kĩ thuật và nhu cầu luôn luôn thay đổi của đời sống sẽ đẩy khi thì lĩnh vực này, khi thì lĩnh vực khác thành ra lĩnh vực quan trọng không chỉ trên bình diện quốc gia mà trên bình diện quốc tế nữa. Nếu 50 năm nữa thép và dầu không còn là những lĩnh vực quan trọng nhất thì sao? Chuyện này và nhiều chuyện khác nữa không phải là mối bận tâm của các lãnh tụ cộng sản.

Mức độ tương tác của các nền kinh tế cộng sản, trước hết là Liên Xô, với thế giới bên ngoài, ước muốn làm sâu sắc thêm các mối quan hệ đó tụt hậu rất xa so với các khả năng, kể cả khả năng về kĩ thuật. Ngay trình độ hiện thời đã cho phép một sự hợp tác rộng lớn hơn rất nhiều.

Không sử dụng các điều kiện hiện có để hợp tác với các nước khác trong khi lại đẩy mạnh các quan hệ với thế giới bên ngoài dưới góc độ tư tưởng là hậu quả tất yếu của sự độc quyền của những người cộng sản trong lĩnh vực kinh tế và ước muốn duy trì quyền lực của họ. Bản chất hệ thống của họ là như thế.



Lenin đã đúng khi cho rằng chính trị là “kinh tế cô đặc”. Trong chế độ cộng sản mọi thứ dường như đều lộn ngược: kinh tế trở thành chính trị, chính trị đóng vai trò quyết định trong kinh tế. NC 122

Cô lập với thị trường quốc tế, bảo vệ một cách mù quáng khái niệm “hệ thống thị trường quốc tế xã hội chủ nghĩa” mà thực chất vẫn là tự cấp tự túc của khối xã hội chủ nghĩa, là một trong những nguyên nhân, nếu không nói nguyên nhân quan trọng nhất của tình trạng căng thẳng quốc tế cũng như lãng phí các nguồn tài nguyên trên bình diện quốc tế.

Độc quyền về sở hữu, các phương pháp sản xuất lạc hậu, ai sở hữu hay phương pháp nào không quan trọng, quan trọng là điều đó mâu thuẫn với nhu cầu của nền kinh tế quốc tế. Tự do và quyền sở hữu đã trở thành vấn đề quốc tế.

Không nghi ngờ gì rằng việc xoá bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa trong các nước cộng sản lạc hậu đã tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, dù là sự phát triển mất cân đối. Đã xuất hiện những nhà nước mạnh, có sức chịu đựng cao, đầy sinh lực. Các nhà nước đó được một giai cấp tự tin và cuồng tín, một giai cấp vừa được nếm vị ngọt của quyền lực và quyền sở hữu dẫn dắt. Nhưng điều đó đã không giải quyết (và với hình thức sở hữu và chính quyền hiện nay thì không thể giải quyết) được những vấn đề mà phong trào xã hội chủ nghĩa thế kỉ XIX hoặc Lenin đặt ra, nó cũng không thể đảm bảo được sự phát triển kinh tế một cách bình thường, không bị những khó khăn và chao đảo.

Nhưng đây là vấn đề cần thảo luận riêng.

Hệ thống kinh tế cộng sản có sức mạnh vì được tập trung vào tay một nhóm người, hấp dẫn vì có tính mới mẻ và đạt được những thành tựu, dù là thiếu cân đối, trong một thời gian ngắn. Nhưng đồng thời nó cũng cho thấy những vết rạn nứt và mặt tiêu cực ngay từ khi hình thái kinh tế này bao trùm lên toàn xã hội. Mặc dù vẫn giữ được một số tiềm năng cũ, hệ thống kinh tế đã bắt đầu có vấn đề. Tương lai của nó rất mù mờ, muốn sống còn nó sẽ phải chiến đấu một cách quyết liệt với cả kẻ thù bên trong lẫn bên ngoài.





--------------------------------------------------------------------------------
[1]Đây là mức lương trước vụ đổi tiền năm 1961. Sau này tương ứng là 60 và 30 rub.

No comments: