TỰ ĐIỂN SẤM TRẠNG TRÌNH
Bạch sĩ : răng trắng, chưa rõ
Bảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh). Hoàng giang là Nguyễn Hoàng
Sông Bảo Giang đã định ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng là Bảo Đại?
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230)
Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn?
Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước.
Cưu, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168))
Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản sau này nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954.
cửu ngủ: Quẻ Càn, hào củu ngũ , Hào từ có câu: Cửu ngũ: phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. 九五。飛龍在天,利見大人。Cửu ngũ laf hào đẹp nhất (hào số 5 trong quẻ Càn . Quẻ càn đại diện cho Dương trong âm dương, cho Nhật trong nhật nguyệt, vua chúa. Chi tôn (chí tôn), người có địa vị tối cạo Cửu ngũ chi tôn, nói ngắn gọn là để chỉ hoàng đế, là ngôi vua. Đinh hoàng cửu ngũ: Đinh Bộ Lĩnh làm vua.
Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh 鄭 chữ Trịnh có chữ nhật.
Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
Che nghe : chẳng nghe.
Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.
Doi: noi theo, theo dõi.
Dư đồ chia xẻ: Nước ta nhiều lần chia cắt như thập nhị sứ quân trước thời Đinh Tiên hoàng, rồi Lê Mạc, Trịnh Nguyễn phân tranh. Sau là năm 1954 hiệp định Genève chia đôi đất nước
Đao: Xem Hòa đao mộc lạc, họ Lê
Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi.
Đỉnh Hoành sơn: ( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn tại miền Trung.
Đỗ: ở đỗ, ở nhờ, ở trọ
Đông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
Hoàng Giang: (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng chỉ dòng họ Nguyễn Hoàng ?
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
(Bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh, câu 379-386)
Các bản sau này giải thích việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, và việc Pháp dùng 5 máy bay ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Hải Dương.
Điều đỉnh hộ mai : Điển này ý nói việc chính trị cũng như việc nấu canh nấu cơm phải biết điều hòa củi lửa, nêm nếm. Câu này giống câu Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai 若作和羹, 爾惟鹽梅 (Thuyết mệnh hạ 說命下) Nếu nấu canh ăn, chỉ nên dùng muối và mơ. § Muối mặn, mơ chua làm gia vị cho canh ngon, ý nói việc lương tướng hiền thần giúp vua trị nước. Nay gọi quan Tể tướng là điều mai 調梅 hay hòa mai 和梅 là bởi ý đó.
Kim thời: thời nay.
Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.(Xem Hòa Đao mộc lạc ).
Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.
làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
(Anh Phương 171-174; Trịnh VÂn Thanh, 185-188)
Bản Phùng Thượng Thư Ký và một số có đoạn này. Bản Phùng Thượng Thư không chú rõ. Các bản khác đều cho rằng đioạn này nói kỷ dậu 1945 chấm dứt thế chiến, nhưng điều này khiông đúng vì từ năm dậu 1945 nước ta bắt đầu với đại họa cộng sản chứ không được hưởng thái bình.
Lục thất , hay lục thất nguyệt gian ( hay niên gian):
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ).
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260)
Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo.
Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua thì giòng Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa. họ Nguyễn (hay Hồ) nhà Tây Sơn ở Bình Định, chưa có vua nào ở Sơn Tây.
Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. có đám cháy hay trộm cướp.
Nên lề: nên lề thói, thành thói quen, thành tập quán.
Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn.
Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn HUệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này: không rõ
Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong "(Bản Anh Phương, Trịnh Vân Thanh , 109-116)
Các bản giải thích là sau 1945, cộng sản phá hoại đường giao thông, trong đó có đường sắt. Đường sắt nối lại sau 1975 là lúc Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đều chết.
Sau đó là có chuiến tranh ở Hoàng Sa, Trường Sa...
Phá điền : quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền 田giống chữ Quốc 国, cả hai chữ thuộc bộ vi 囗.Cũng có người giải là năm sửu vì chữ sửu 丑 giống nửa chữ điền, hoặc người tuổi sửu.
Phụ nguyên: họ Nguyễn.阮. Chữ Nguyễn là do chữ nguyên元 với bộ Phụ 阝 (阜)
Quốc ngữ , Quốc Âm : chữ nước ta, tiếng nước ta tức là chữ nôm.
Rau, rới: có bản ghi "giới". Rau, rới, giới, rưới đều có nghĩa là rau. Có lẽ do từ Giới 芥 là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)
Rạo (rảo, tháo): chạy trốn
Song thiên : chữ Song và chữ thiên hợp lại thành chữ quý 癸, tuổi quý, năm quý
Tái binh: binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc: Chỉ quân Mãn Thanh.
Tam hiểm ( Tìm nơi tam hiểm mà hầu lánh thân): Ba nơi hiểm trở có đủ yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Quyển Phùng Thượng Thư Ký cho biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên, Tản Viên (Sơn Tây), và Vị Khê ( không rõ ở đâu ).
Tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ khí của tuần phu ngày xưa.(Tay thước là tay cầm thước, cầm vũ khí bằng gỗ như là một loại gậy gộc)
Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch.
Ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt.
Tháo, rão: chạy trốn
Thập bát tử: họ Lý 李 . Chữ Lý chiết tự là Thập bát tử.
Thầy Nhân Thập : trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?
Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ 午
chiết tự thành nhân thập)
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.(Sở Cuồng, 482-483)
Không rõ họ Trần nào, xuất hiện vào lúc nào? Nước ta từ Lê Lợi đên nay có Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm... . .làm vua, và các nhà chính trị nổi danh như Đào Duy Từ,
Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim nhưng chưa có vua nào họ Trần.
Xe nhật : chưa rõ nghĩa.
Vĩ tinh: sao chổi. Cổ nhân cho rằng sao chổi xuất hiện là bào hiệu nước loạn.
Bảo Giang (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh). Hoàng giang là Nguyễn Hoàng
Sông Bảo Giang đã định ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng là Bảo Đại?
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
(Sở Cuồng, 426-429; TVThanh,227-230)
Nói về kinh đô Thăng Long và kinh đô Phú Xuân hay thủ thủ đô Hà Nội và thủ đô Sàigòn?
Bận: vướng bận, bận bịu; còn vướng bận, không thể ra cứu nước.
Cưu, nhạn : chim cưu và chim nhạn, nói nhân dân.
Cửu cửu càn khôn dĩ định,
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trực đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường An.
(Bản Anh Phương, 151-154; bản Sở Cuồng, 410-413, Trịnh Vân Thanh, 165-168))
Bản Phùng Thượng Thư nói về quân Mãn Thanh sang Việt Nam kỷdậu 1789 còn các bản sau này nói Cộng sản vào Hà Nội năm giáp ngọ 1954.
cửu ngủ: Quẻ Càn, hào củu ngũ , Hào từ có câu: Cửu ngũ: phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân. 九五。飛龍在天,利見大人。Cửu ngũ laf hào đẹp nhất (hào số 5 trong quẻ Càn . Quẻ càn đại diện cho Dương trong âm dương, cho Nhật trong nhật nguyệt, vua chúa. Chi tôn (chí tôn), người có địa vị tối cạo Cửu ngũ chi tôn, nói ngắn gọn là để chỉ hoàng đế, là ngôi vua. Đinh hoàng cửu ngũ: Đinh Bộ Lĩnh làm vua.
Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh 鄭 chữ Trịnh có chữ nhật.
Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc莫, vì trong chữ Mạc có chữ nhật.
Che nghe : chẳng nghe.
Chưng: cũng như chi, sở là hư tự. Chưng ở đây là ở.
Doi: noi theo, theo dõi.
Dư đồ chia xẻ: Nước ta nhiều lần chia cắt như thập nhị sứ quân trước thời Đinh Tiên hoàng, rồi Lê Mạc, Trịnh Nguyễn phân tranh. Sau là năm 1954 hiệp định Genève chia đôi đất nước
Đao: Xem Hòa đao mộc lạc, họ Lê
Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi tranh để tuần phu ngồi trong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh làng xóm để xem xét kẻ gian phi.
Đỉnh Hoành sơn: ( Đỉnh Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.) nói về chiến tranh giữa Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn tại miền Trung.
Đỗ: ở đỗ, ở nhờ, ở trọ
Đông A :là nhà Trần 陳. (Trong chữ Trần có chữ Đông và bộ phụ của chữ A 阿). Âm vị là con gái. Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền ngôi cho chồng.
Hòa đao mộc lạc chỉ họ Lê 梨, 棃.có chữ đao .Họ Lê lên thay họ Đinh.
Hoàng Giang: (Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang đã (thiên) ai hay): không rõ nghĩa. Phải chăng chỉ dòng họ Nguyễn Hoàng ?
Kìa cơn gió thổi lá rung cây
Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
(Bản Sở Cuồng, Mai Lĩnh, câu 379-386)
Các bản sau này giải thích việc Nguyễn Thái Học khởi nghĩa năm 1930, và việc Pháp dùng 5 máy bay ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Hải Dương.
Điều đỉnh hộ mai : Điển này ý nói việc chính trị cũng như việc nấu canh nấu cơm phải biết điều hòa củi lửa, nêm nếm. Câu này giống câu Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai 若作和羹, 爾惟鹽梅 (Thuyết mệnh hạ 說命下) Nếu nấu canh ăn, chỉ nên dùng muối và mơ. § Muối mặn, mơ chua làm gia vị cho canh ngon, ý nói việc lương tướng hiền thần giúp vua trị nước. Nay gọi quan Tể tướng là điều mai 調梅 hay hòa mai 和梅 là bởi ý đó.
Kim thời: thời nay.
Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên ngôi.(Xem Hòa Đao mộc lạc ).
Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại. Các bản khác ghi là hư.
làm vày : làm tầm bậy, sai lầm. Vày trong nghĩa giày vò, vày vò, tà vạy.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tận,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
(Anh Phương 171-174; Trịnh VÂn Thanh, 185-188)
Bản Phùng Thượng Thư Ký và một số có đoạn này. Bản Phùng Thượng Thư không chú rõ. Các bản khác đều cho rằng đioạn này nói kỷ dậu 1945 chấm dứt thế chiến, nhưng điều này khiông đúng vì từ năm dậu 1945 nước ta bắt đầu với đại họa cộng sản chứ không được hưởng thái bình.
Lục thất , hay lục thất nguyệt gian ( hay niên gian):
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
(Ngôn Nguyễn thị sanh ư bắc phương, cư tại Sơn Tây xứ).
Phụ nguyên ấy thực ở miền (rày) Tào khê (SC. 260)
Bản Phùng Thượng Thư Ký chú là họ Nguyễn ở Sơn Tây . Tuy nhiên Tào Khê ở tỉnh Quảng Đông, là nơi Lục tổ Huệ Năng truyền đạo.
Lục thất 六七 ám chỉ họ Nguyễn vì Lục Thất có đồng âm 陸 室. Lục là họ Nguyễn vì trong chữ lục có chữ Nguyễn. Thất là nhà. Lục thất là nhà Nguyễn. Họ Nguyễn làm vua thì giòng Nguyễn Gia Miêu là ở Thanh Hóa. họ Nguyễn (hay Hồ) nhà Tây Sơn ở Bình Định, chưa có vua nào ở Sơn Tây.
Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn quê ngày xưa dùng báo hiệu. có đám cháy hay trộm cướp.
Nên lề: nên lề thói, thành thói quen, thành tập quán.
Nhân Doãn: 允 :( Nhân Doãn tức là ngươi Doãn, Duẫn, hoặc người tên Doãn, Duẫn) chỉ vua Lê Chiêu Thống 黎昭統 .Trong chữ Thống có chữ Duẫn cũng đọc là Doãn.
Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống 黎昭統, 1765 – 1793), tên thật là Lê Duy Khiêm 黎維謙 tên là Duy Khiêm. Chữ Khiêm 謙 trong có chữ Kiến 毽 , 建 . Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau đó thì Nguyễn HUệ đem binh đánh tan quân Thanh, và một thời gian nữa thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất nước.
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này: không rõ
Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông.
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch,
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng.
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
100.Ngưu xuất Lam điền nhật chính Ðông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong "(Bản Anh Phương, Trịnh Vân Thanh , 109-116)
Các bản giải thích là sau 1945, cộng sản phá hoại đường giao thông, trong đó có đường sắt. Đường sắt nối lại sau 1975 là lúc Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh đều chết.
Sau đó là có chuiến tranh ở Hoàng Sa, Trường Sa...
Phá điền : quốc phá, là nước mất bởi vì chữ điền 田giống chữ Quốc 国, cả hai chữ thuộc bộ vi 囗.Cũng có người giải là năm sửu vì chữ sửu 丑 giống nửa chữ điền, hoặc người tuổi sửu.
Phụ nguyên: họ Nguyễn.阮. Chữ Nguyễn là do chữ nguyên元 với bộ Phụ 阝 (阜)
Quốc ngữ , Quốc Âm : chữ nước ta, tiếng nước ta tức là chữ nôm.
Rau, rới: có bản ghi "giới". Rau, rới, giới, rưới đều có nghĩa là rau. Có lẽ do từ Giới 芥 là rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)
Rạo (rảo, tháo): chạy trốn
Song thiên : chữ Song và chữ thiên hợp lại thành chữ quý 癸, tuổi quý, năm quý
Tái binh: binh ngoài biên cương, binh ngoại quốc: Chỉ quân Mãn Thanh.
Tam hiểm ( Tìm nơi tam hiểm mà hầu lánh thân): Ba nơi hiểm trở có đủ yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Quyển Phùng Thượng Thư Ký cho biết ba nơi là vùng sơn động Thái Nguyên, Tản Viên (Sơn Tây), và Vị Khê ( không rõ ở đâu ).
Tay thước : Thước là thanh gỗ dài hơn một thước, rộng khoảng 3 hay bốn cm.Thước là vũ khí của tuần phu ngày xưa.(Tay thước là tay cầm thước, cầm vũ khí bằng gỗ như là một loại gậy gộc)
Tấn chước: đưa ra mưu kế, kế hoạch.
Ti hào: ti là sợi tơ, hào là sợi lông, nói những điều nhỏ nhặt.
Tháo, rão: chạy trốn
Thập bát tử: họ Lý 李 . Chữ Lý chiết tự là Thập bát tử.
Thầy Nhân Thập : trước đây các vị đã giải đoán là chữ Tản 傘 vì có chữ Nhân 人 và 4 chữ Nhân nhỏ với chữ Thập 十 thành chữ Tản 傘 . Ba chữ Thầy Nhân Thập đọc và viết theo pháp âm chữ Nho là Thập Nhân Tử 人十子 (chữ Tử còn gọi là Thầy như Lão Tử, Trang tử, Khổng Tử …). Chữ Thập Nhân Tử còn có nghĩa là chữ Lí 李 (họ Lý). Ông này tên Tản hay tên Lý? Hay tên gì?
Theo lời chú trong bản Phùng Thượng Thư Ký, ông này tuổi ngọ giúp vua trị vì dài lâu ( Chữ 午
chiết tự thành nhân thập)
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du.(Sở Cuồng, 482-483)
Không rõ họ Trần nào, xuất hiện vào lúc nào? Nước ta từ Lê Lợi đên nay có Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Hồ Chí Minh, Ngô Đình Diệm... . .làm vua, và các nhà chính trị nổi danh như Đào Duy Từ,
Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Trần Trọng Kim nhưng chưa có vua nào họ Trần.
Xe nhật : chưa rõ nghĩa.
Vĩ tinh: sao chổi. Cổ nhân cho rằng sao chổi xuất hiện là bào hiệu nước loạn.
No comments:
Post a Comment