Chương I
Nghé ơ nghé
Nghé bông hay là nghé hoa
Như cà mới nở
Mẹ cõng xuống sông
Xem rồng lấy nước
Mẹ gọi tiếng trước
Cất cổ lên trông
Mẹ gọi tiếng sau
Cất lồng lên chạy
Lồng ba lồng bảy
Lồng về với mẹ
Nghé ơ
Mày như ổi chín cây
Như mây chín chùm
Như chum đựng nước
Như lược chải dầu
Cắn cỏ ăn no
Kéo cày đỡ mẹ
Việc nặng phần mẹ
Việc mẹ phần con
Kéo nỉ kéo non
Kéo đến quanh tròn
Mẹ con ta nghỉ
Ông khách hỏi mua
Nhà ta chả bán
Ông khách hỏi hoạn
Nhà ta chẳng cho
Nghé ơ
Bài “Gọi nghé” vùng Thụy Anh- Thái Bình)
Năm ấy, tôi ở một tổ đi thực tế nông thôn, nửa năm về Thái Bình. Tổ tôi có tổ trưởng
Hoàng Trung Thông với các tổ viên: Chu Ngọc, Phùng Quán, Trần Lê Văn, Hoàng Cầm.
Tổ trưởng Thông họp chúng tôi lại, trước khi đi, dịch cái nghĩa chuyến đi dài ngày này là
xuống địa phương tham gia lao động cho thấy được, biết được làng xóm sau cải cách
ruộng đất và sửa sai đương lên hợp tác xã rầm rầm. Tôi hiểu rằng không có yêu cầu về
viết lách, thế là đi cho mở mắt ra. Năm trước, tôi cũng đã về xã ngót hai năm, ba đợt làm
anh đội cải cách rồi anh đội sửa sai. Nghe Thông nói thế, tôi cũng lấy làm thường.
Lên họp tác rầm rầm là nói quen miệng, khoái miệng, chứ thực phong trào hợp tác hóa
nông thôn chỉ mới bắt đầu. Xã chúng tôi tới mới có một thôn này được chọn làm thử- thôn
ít phức tạp khi cải cách ruộng đất thì cho làm thí điểm.
Lại được dặn thêm: lao động tuỳ sức, không như “ba cùng” phải lăn vào bói việc ra mà đổ
mồ hôi “thổ cải". Tổ trưởng phổ biến thế chứ có gay go mấy tôi cũng chẳng ngại. Tôi đã
hai năm với đồng ruộng từ Thanh Hóa ra Hải Dương, hai cuộc tổng kết ở Hậu Hiền, ởQuỳnh Côi, ba đợt công tác từ đội viên chân trắng lên đội phó phụ trách tòa án rồi làm báo
đoàn sửa sai. Trước đấy tôi chưa biết mặt cây lúa. Rồi tôi cũng xắn quần khỏi đầu gối ra
đồng lội ruộng, vai vẫn đeo cái túi sắc cốt da, vẻ cán bộ. Anh đội chúa chỏm một xóm,
ngại ra đồng thì mở túi lấy sổ vờ nghiên cứu, đói thì bảo cô Đăng con ông rễ trưởng xóm
ra chợ mua bánh ngô kẹo bột về ăn, có người đến thì đứng dậy cầm cái chổi đưa mấy
nhát quét nhà, ăn vụng, kể cả ăn vụng người, và làm che mắt thế gian, anh đội tôi nào biết
có ai trên đầu. Tôi chẳng bỡ ngỡ những cuộc đi thế này, kể cả khi đương kháng chiến, ở
Tuyên Quang làm thuế nông nghiệp với Nam Cao, xuống vùng giáp địch ở Việt Trì, công
tác thuế công thương với Xuân Diệu.
Nhưng tôi cũng không đi một lúc với cả tổ. Các anh đã xuống huyện trước tôi. Tôi còn bận
ở lại tổ chức cho các đội đi thực tế các nơi. Bấy lâu ở cơ quan, tôi như con dao pha,
chuyên làm những việc linh tinh và cụ thể.
Ban chấp hành và thường vụ hội đã bầu lại, sau mấy đợt học tập kiểm điểm, trước mắt
hãy đi thực tế, và tôi phải làm những việc này cho xong đã.. Các chuyến đi, trước nhất là
anh em công tác ở cơ quan. Nhưng nhiều văn nghệ sĩ ở Hà Nội chưa có việc làm cơ quan
nào cũng đến nói muốn được đi. Tất cả mỗi người mỗi vẻ, mỗi nỗi. Có những người sẵn
sàng đi xa. Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Văn Cao, Lưu Quang Thuận, Nguyễn Văn
Tý lên huyện Điện Biên trên Lai Châu- rừng xanh núi đỏ quá, chẳng ai tranh, xếp đoàn đi
xong ngay. Các nông trường ở Tây Bắc, Trung Du, miền núi Nghệ An đương là những
vùng đất mới kỳ diệu. Nguyên Hồng, Võ Huy Tâm, Huy Phương, Nguyễn Hải Trừng về nhà
máy và ra mỏ ở Hải Phòng, ở Hồng Quảng. Kim Lân vác xà beng đi đào sông bên Bắc
Hưng Hải...
Trang nhất báo Nhân Dân in ảnh Nguyên Hồng đẩy xe goòng nhà máy xi
măng và Võ Huy Tâm đội mũ thợ, tay xách đèn bão, đi lò. Còn nhiều đoàn, đội nữa, tôi
nhớ đại khái thế. Dẫu cho việc đi là được đi hoặc tự nguyện nhưng đều ý tứ, mỗi người
cũng có tính toán và thu xếp riêng, ai chả thế. Những người bị kỷ luật của Hội về vấn đề
Nhân Văn hay là có hơi hướng với đám này thì coi như nhất loạt thẳng cánh đi.
Nhữngngười trong kiểm điểm có tư tưởng hữu khuynh như tôi phải đi cọ xát thực tế cho thấy
được cái đúng ở đâu. Các người lãnh đạo thì chẳng ai nghĩ các anh ấy phải đi. Nhưng
cũng có người hăng hái với phong trào cứ thấy nay có bài về nông trường Rạng Đông,
mai có bút ký mỏ cọc 6, ngày kia đã có thơ tả cầu Hiền Lương- đi nhanh quá, hăng quá,
chẳng biết bằng ô tô hay bằng xe đạp. Các người bấy giờ đương là những cốt cán vững
như Đồ Phồn, Mạnh Phú Tư, Huyền Kiêu thì ở nhà củng cố cơ quan.
Nhưng các anh ấynói nhún, cũng khoe khéo “tớ ở nhà canh gác cho các cậu đi, khoái nhé". Chúng tôi đã ởViệt Bắc, ở khu Tư, khu Năm hay Nam Bộ thế nào thì cũng đã quen các đợt công tác về
làng xã, nhà máy hay đơn vị quân đội. Nhưng cái khó và cái dễ là đối với anh chị em
trước kia ở Hà Nội sau chín năm kháng chiến. Chẳng mỗi chốc đã được mới đi thực tế,
được vào học trường Đại học Nhân dân, đấy là dấu hiệu rồi may mắn có thể vào biên chế
nhà nước. Lo lo và chờ đợi cái thước tin cậy đo đến mình.
Tôi vướng vô khối những cái bấn này chẳng ra đâu vào đâu. Bởi đây không phải cuộc bắt
đi nhưng ai cũng nên đi. Có người cần, có người ngại, có người thờ ơ, mỗi người mỗi
khác. Bác Tú Mỡ hăng hái đạp xe theo tổ trưởng Đào Vũ mấy tháng ở Vũ La dưới Hải
Dương. Tôi đến Vũ La, bác khoe: “Về nhà quê, khí hậu tốt, lao động một tý, ăn khỏe hẳn
lên". Trên có nhắc tôi rủ ông Phan Khôi, nhưng bố bảo tôi cũng chẳng dám đến cái gác
phố Thuốc Bắc mời ông ấy đi thực tế. Lão quắc mắt lên, hỏi dồn, rồi xỏ cho mấy câu, chỉ
dại mặt.
Họa sĩ Nguyễn Sáng cũng không đi. Tôi đã nói với Hoàng Trung Thông cho Nguyễn Sáng
đi với chúng tôi Về làng mà chỉ trần có mấy anh cầm bút thì nhạt trò. Phải có người múa
hát, người làm xiếc, người biết vẽ thỉnh thoảng làm cái truyền thần cho bà con thì dễ nổi
đình đám. Nguyễn Sáng xua tay: “Vẽ là lao động rồi. Tớ bận vẽ".
Nguyễn Sáng có đương vẽ vời gì đâu. Hồi ấy, Nguyễn Sáng mê ăn kem hiệu Tiến Đạt phố
Yết Kiêu. Kem que thôi, nhưng Tiến Đạt được tiếng quay ra nhiều thứ kem lạ miệng, kem
dứa, kem cốm, lại còn kem mùi ổi, kem mùi mít, mùi na, mùa nào thức ấy. Thật cũng
không phải Nguyễn Sáng khoái kem, mà họa sĩ đương phải lòng các cô bán kem. Nhà có
mấy cô mười ba, mười bảy hay hay mắt, cái anh chàng trên dưới bốn mươi tuổi này cứ
lăn lóc mê tơi.
Hơn mười năm trước, năm 1946, Nguyễn Sáng đã có vợ. Cô Jennen Đobrien, Pháp lai
Đức, cùng sinh viên Mỹ thuật. Nhà ở phố Bùi Thị Xuân bây giờ, tôi thường đến nhờ
Nguyễn Sáng vẽ cho báo Hồn Nước cơ quan Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc
Việt Nam. Jermen nhỏ nhắn, búi tóc, mặc áo cánh nâu, quần láng thâm. Mỗi người đã sẵn
một chiếc ba lô xì cút sửa soạn đi kháng chiến. Hà Nội đương vừa bí mật vừa sôi lên sắp
sửa cho cuộc chiến đấu. Ngoài đường, người quảy gánh và xe bò đồ đạc tản cư đi bên
những hào lũy các đội viên tự vệ sao vuông của khu phố và cơ quan.
Họa sĩ Mai VănHiến, Nguyễn Văn Thiện, Thân Trọng Sự, Nguyễn Tư Nghiêm đã ra Ngã Tư Sở ở địa
điểm tạm, chờ đi. Trụ sở hội Văn Hóa Cứu Quốc gần bờ hồ Thiền Quang không còn ai.
Thâm Tâm đưa vợ con tản cư về Hải Dương, trở lên thì đã nổ ra kháng chiến. Những bài
thơ về đường số 5 trong khói lửa của Thâm Tâm có hơi hướng những việc nhà này. Thâm
Tâm vào bộ đội ở báo Vệ quốc quân của Lê Tất Đắc. Tôi gặp lại trên đồi Đồng Lư bên
sông Đáy gần chùa Trầm, chùa Thày. Nam Cao về quê thu xếp việc nhà rồi ra làm báo
kháng chiến của tỉnh Hà Nam. Tôi có giấy tờ ở lại khu ll (Hà Nội) làm phóng viên mặt trận
của báo Cứu Quốc. Vợ chồng Nguyễn Sáng xắm nắm, không biết rồi sẽ đi thế nào.
Nguyễn Sáng công tác ở nhà in bộ Tài Chính, cơ quan tối mật in giấy bạc, tem và công
phiếu kháng chiến. Làng nào, phố nào cũng đương ráo riết đề phòng việt gian, canh cả
những giếng nước, vòi nước, sợ việt gian bỏ thuốc, bôi thuốc độc vào vòi nước. Chẳng
may ai có bộ quần áo tôpican mép vải viền xanh trắng đỏ tam tài, hay trong túi có cái
gương “ám híệu máy bay” thì bỏ đời rồi. Không thể cơ quan tài chính quan trọng thế mà lại
có con đầm mũi lõ mắt xanh đi theo. Nguyễn Sáng và Jermen phải chia tay. Họ xa nhau
thế nào, tôi không biết, cũng không bao giờ hỏi. Chỉ đến 1954, trở về thành phố, mới hỏi
có tin tức Jermen không. Nguyễn Sáng nói: “Biết đâu mà tìm. Chắc nó về Tây đã lâu". Rồi
đùa: “Mày làm báo hay đi nhiều nơi, dò la hộ tao xem nó ở đâu". Từ đấy, chẳng bao giờ
nhắc đến nữa.
Nguyễn Sáng mê gái hay để ý những cô gái mới lớn. Lý luận vơ vào của anh ta rằng “tình
yêu không có tuổi". Bởi thế hay đến ăn kem que nhà Tiến Đạt. Tôi chẳng còn ở tuổi lăng
nhăng thuở nào đi hộ vệ Đinh Hùng, Nguyễn Bính ngày ngày vào mua phong thuốc lào
Đông Phát trước cửa chợ Đồng Xuân có cô bán hàng bắt mắt rồi lại đảo qua phố Mới
cầm ra quyển Bồng Lai hiệp khách ba xu của ông Tàu Lý Ngọc Hưng viết truyện kiếm
hiệp, để được nhìn mặt, đụng tay cô Sính con ông ấy. Nhưng cũng đôi ba lần tôi đến hàng
kem Tiến Đạt làm khách đứng ngoài quầy, xem Nguyễn Sáng ăn hết mấy que kem mà
vẫn chưa dứt chuyện.
Nguyễn Sáng không đi thực tế là vậy, cũng chẳng ai để ý. Nhưng tôi
thương nhất Nguyễn Khắc Dực viết kịch, xin mấy lần mà không được đi. Tôi quen Nguyễn
Khắc Dực trước 1945. Cái khi ở Hà Nội mọi thứ rối ren, từ miếng cơm đến thời sự. Quân
Nhật đã đánh vào Lạng Sơn, đổ bộ Hải Phòng. Đường tiếp tế ét săng Hải Phờng-Trùng
Khánh, Pháp cho Tưởng Giới Thạch thuê đã bị Nhật chặn phá. Rồi Pháp-Nhật có choảng
nhau to hơn không, ở những đâu nữa. Các đảng viên thân Nhật mọc nhua nhúa.
Trong khicác đoàn thể cứu quốc của Việt Minh đã công khai bán tín phiếu, tổ chức lan rộng, có cả
Việt Nam Cứu quốc hội, nghĩa là bao gồm người cả nước cứu quốc. Trong thanh niên, ở
các tổ chức công khai và cả bí mật liên miên tranh luận lý thuyết, đến cả ở sân trại giam
sở Liêm phóng Bắc Kỳ, mà tôi đã được chứng kiến, người ta cũng sôi nổi cãi nhau chửi
nhau quốc gia hay quốc tế, đệ tam hay đệ tứ.
Tôi cũng quen mấy cha theo đệ tứ áng lứa tôi lúc ấy hơn tuổi một chút có Nguyễn Tế Mỹ,
Nguyễn Xuân Huy, trên nữa có Phạm Ngọc Khuê, em em tuổi tôi đôi chút cỏ Nguyễn Khắc
Dực, Vũ Tăng... Tôi chẳng bao giờ nhớ mạch lạc thế nào, cứ triền miên những câu biện
chứng pháp hạt đậu thành cây đậu... cách mạng thường trực, cách mạng phải lên toàn thế
giới mới đến thế giới đại đồng... Cũng là những câu nhặt trong sách Phan Văn Hùm, Tạ
Thu Thâu nhà xuất bản Tân Việt in. Một thời hoang dại của con người ta, gân cổ cãi cọ
những ngược đời và đam mê. ở quãng không còn tuổi thiếu niên của chúng tôi, cũng
chưa hẳn đã thanh niên, dòng đời còn loăng quăng, cái gì cúng vỗ ngực ta đây, nhưng
thật thì chưa biết mình rồi ra sao.
Có điều, nếu đứa nào làm mật thám Pháp, Nhật ăn
lương tháng hay được trả tiền vụ tiền từng việc, thì là quân trộm cướp, bị khinh, bị chửi và
mọi người xa lánh. Quốc Dân đảng hay Đại Việt mới mọc ra đấy và có quan thày Nhật
cũng coi là lớ quớ, làm tiền, cơ hội. Chúng tôi thiên về quốc tế mới hơn đệ tam quốc tế
mà tôi theo từ thời ái hữu, nghiệp đoàn rồi thành niên phản đế, bây giờ là mặt trận Việt
Nam Độc lập Đồng Minh, nghe có sự tin cậy và quyết tâm. Nguyễn Khắc Dực cũng như
tôi, nhưng nó lại mê cái cách mạng thường trực của tờ-rốt-kít. Cho đến kháng chiến, cũng
không gặp lại. Nghe nói Nguyễn Tế Mỹ bị thủ tiêu ở Thanh Hà và Dực bị bắt ở Sơn Tây.
Ba Vì của tỉnh Sơn Tây. Tôi biết như vậy cũng vì Nguyễn Hoạt. Nguyễn Hoạt người làng
Đông trên Bưởi. Tôi quen Nguyên Hoạt ở làng Đông hay Doãn Quốc Sỹ dưới Cót, những
đứa trạc tuổi, cùng vùng và có chút chữ nghĩa. Làng Đông có mấy thằng cùng tôi, Hóa,
Uẩn với Hoạt. Hòa và Uẩn học với tôi trường Yên Thải. Rồi sau Hòa làm lý trưởng, gọi là
lý Hòa. Uẩn thì đi lính không nghề Ons sang Tây. ấy thế mà năm 1952, trên mặt trận Tây
Bắc, tôi trông thấy thằng Uẩn mặc bộ đội đứng ăn cơm tập thể đổi đầu đũa dưới nhà bếp
địa phương quân tỉnh Sơn La. Tôi không tin mắt tôi. Tôi hỏi, anh em bảo đấy là đồng chí
Đông, sắp lên quân chủ lực. Lúc kháng chiến, ta hay đổi tên, gọi là bí danh, nhưng Đông,
làng Đông thì đích thằng Uẩn rồi. Tôi chưa kịp gặp, Uẩn đã lẩn đâu mất. Chắc nó đã trông
thấy tôi. Không hiểu sao nó lại lánh mặt. Còn Nguyễn Hoạt tôi quen khi tôi đã ra học
trường tiểu học Yên Phụ. Nguyễn Hoạt học trưòng Bưởi, cấp trung học hơn trường tôi. Nó
gãy còm nhom, hay bị trẻ con làng Thụy, làng Hồ bắt nạt, đón đánh mỗi khi đi học qua.
Trong cặp tôi đã trữ săn đá đường tàu điện, gạch củ đậu để ném chó, ném sấu và phòng
nện nhau. Tôi đã mấy lần cứu thằng Hoạt, tôi đánh bọn làng Thụy, làng Hồ chó cậy gần
nhà bắt nạt Hoạt. Thế là chúng tôi thành bạn. Rồi bẵng đi đến 1945, tôi được tin Nguyễn
Hoạt giữ chức “tỉnh chính phủ Quốc Dân đảng” dưới Nam Định. Khi đó, tỉnh nào có quân
Tàu Tưởng đóng thì ở đấy có trụ sở Quốc dân đảng Việt Nam núp bóng treo cờ Tàu có
hình mặt trăng mà chúng tôi gọi là cái cờ “ru líp” xe đạp. Đến kháng chiến, Hoạt bị tù.
Nguyễn Hoạt và Nguyễn Khắc Dực đều bị bắt ở Sơn Tây. Nói là phải tù, nhưng đều làm
công tác- Nguyễn Khắc Dực kể với tôi: “Chúng tớ công tác địch vận. Viết và in đá lăn tay
truyền đơn chữ Pháp cho bộ đội vận động lính âu Phi: Có đến hơn ba năm di chuyển
quanh quẩn trong chiến khu Ba Vì. Rồi hai đứa được thả.
Mỗi người đi mỗi nơi. Nguyễn Hoạt “dinh tê” vào Hà Nội. Nguyễn Khắc Dực tìm lên cơ
quan văn nghệ kháng chiến. ở tận vùng hậu địch khu hai, khu ba, lần mò thế nào, không
biết dòng dã bao nhiêu lâu mà Dực tìm được, tới được nơi chúng tôi đóng cơ quan
quãng cây số 7 trong chân núi Là đường Tuyên Quang-Hà Giang. Thế là Nguyễn Khắc
Dực ở với chúng tôi. Dực lặng lẽ, nghiêm nghị, chẳng còn hung hăng cách mạng lung tung
kỳ củng như xưa nữa. Có lẽ cũng chỉ có tôi biết cái thuở bát nháo ấy của Dực, chứ
Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Ngô Quang Châu, Nguyễn Văn Mãi chẳng biết đâu và tôi
cũng không nói lại với ai là thằng Dực phản động và ở tù ra. Nguyễn Khắc Dực tham gia
phát động giảm tô ở Thái Nguyên, viết kịch Con bò quả thực được giải khuyến khích của
Hội Văn nghệ Việt Nam, năm ấy đặt ra glải thưởng văn học đầu tiên. Dực hăng hái và nền
nếp chẳng khác chúng tôi. Đời người ta ai ngang bằng sổ ngay biết trước bao giờ, -
ngẫm ra thế. Nguyễn Khắc Dực không viết báo Nhân Văn.
Không làm đặc san Giai Phẩm.
Cũng như nhiều anh chỉ mới có tên quảng cáo tác phẩm ở bìa 4 sách nhà xuất bản Minh
Đức “sẽ in, sẽ ra” cũng bị liệt vào cái bị ấy cả. Nhưng Nguyễn Khắc Dực thì không, dù các
anh kia thì cũng ở một cơ quan, hàng ngày gặp. Thế mà Nguyên Khắc Dực cũng chả chơi,
Dực tu tỉnh và biết mình. Cái vạ xảy ra ở trên trời rơi xuống. Bỗng dưng Nguyễn Khắc Dực
nhận được cái thư của Nghyên Hoạt từ Lào gửi về. Không biết Nguyễn Hoạt ở Sài Gòn
sang Lào hay nó ở Sài Gòn nhờ người bên Lào gửi hộ. Hồi đó thư từ Bắc Nam không
mấy ai viết vài chữ gửi đường bưu thiếp theo hiệp định Giơ Ne.
Người ta hay nhờ ngườiquen ở nước ngoài chuyển. Tôi cũng thường có thư cho chị Tư tôi ở miền Nam. Thư sangPháp, cô Thu Trang ở Pari gửi tiếp cho về Sài Gòn. Tôi không được đọc cái thư của
Nguyên Hoạt viết cho Nguyễn Khắc Dực. Nhưng nhiều người đã được đọc, hay là, chỉ
được nghe nói lại rồi thêm râu ria vào thì đúng hơn. Nhưng đã nhiều người biết, có khi
cũng bởi Nguyễn Khắc Dực đã khoe chăng. Cu cậu cũng thú vị chứ, các ông viết lách là
chúa trống mồm, hay bốc.
Cái thư của “phía bên kia” của địch, giao thiệp với địch sờ sờ ra đấy, lôi thôi hơn biết bao
nhiêu những phóng sự “Xiếc khỉ” của Quang Dũng hay bài ký tả chuyện mất xe đạp trước
cửa hàng nhà mậu của Thanh Châu mà lúc ấy có tiếng xì xào. Thư của Nguyễn Hoạt kể
anh ta đương tài danh nhất Sài Gòn và có tiếng ra thế giới, ký bút danh Hiếu Chân, đã viết
báo lừng lẫy lại dịch đăng báo và in Liêu Trai Chí dị. Đi xe hơi có vệ sĩ hộ tống, đương
vận động vào nghị viện. (Khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, Nguyễn Hoạt đã làm nghị sĩ trong
Thượng nghị viện).
Tôi không biết Nguyễn Khắc Dực đã bị kiểm điểm tóe khói hay thế
nào. Dực đã về công tác hội Sân Khấu. Việc Nhân Văn Giai Phẩm đã qua lâu, nhưng việc
này thì như vết tràm trên trán, không xóa được. Cho nên Nguyễn Khắc Dực không được đi
thực tế như mọi ngươi. Nhưng rồi có Vương Lan nhà viết kịch xung phong về giup sân
khấu vùng mỏ, Nguyễn Khắc Dực lại lên xuống xin cơ quan mấy lần mới được đi Hồng
Quảng, công tác biệt phái đề tài công nhân. Đi vào các đề tài sáng tác, chuyện tự nhiên
với chúng tôi, nhưng đã bị mấy phen vấp váp, đến lần tai bay vạ gió này thì quá rồi.
Xuốngvùng mỏ, Nguyễn Khắc Dực đã đi hẳn vào núi, viết về người Dao quần ống chẹt. Một lần,
Nguyễn Khắc Dực về Hà Nội tìm tôi, khoe: cái kịch dài viết về dân tộc Dao của Nguyễn
Khắc Dực sắp được diễn ở thị xã Hòn Gai- tôi không nhớ tên vở kịch. Dực rủ tôi xuống
xem. Nhưng tôi không cố gắng đi được. Bẵng đi, nghe tin Dực ốm rồi qua đời. Còn các
thằng Hiếu Chân Nguyễn Hoạt làm báo Tự Do ở Sài Gòn, đã viết cái thư giết Nguyễn
Khắc Dực kia, tôi được biết nó ở lại Sài Gòn. Có lẽ cũng không ai buồn xách cái tã ấy đi
di tản. Thằng Điều bạn người làng tôi ở Sài Gòn lâu năm, Điều kể gặp Nguyễn Hoạt hỏi
nó có muốn gặp Tô Hoài không. Nguyễn Hoạt lắc đầu. ít lâu sau, nghe tin nó chết bệnh.
Các văn nghệ sĩ ở Việt Bắc, ở khu Năm, ở Nam Bộ ra đều đã quen các đợt công tác thực
tế trong kháng chiến. Cái dễ và cái khó nhất là đối với người đương ở Hà Nội bấy giờ.
Chưa mỗi chốc đã vào làm việc một cơ quan nào, nhưng được bảo đi thực tế, là dấu hiệu
được tin cậy.
Chị Mộng Sơn bảo:
- Tôi xuống lao động nhà máy dệt Nam Định.
Tôi thật tình nói:
- Chị đã quen thuộc thành phố, chị nên...
Mộng Sơn ngắt lời ngay:
- Anh cho là tôi không được đi với công nhân à?
- Không, không... Vâng, vâng... chị đi nhà máy... nhà máy...
ở Nam Định về, mấy tháng sau ở tổ sáng tác, chị không nhờ tôi đọc bản thảo, cũng không
cho tôi những quyển sách của chị mới in, như năm trước chị và anh Uyển Diễm đã tặng
tôi sách của nhà xuất bản Vỡ Đất của anh chị. Chị cho là tôi thành kiến khả năng sáng tác
về công nhân của chị.
Với Hồ DZếnh thì gọn việc. Tính anh cẩn thận, chu đáo, tính toán, người nhà vào nằm bệnh
viện Bạch Mai, anh đi chăm nom, lại xin cái giấy giới thiệu viết bài báo về bệnh viện. Anh
bảo anh thích đi thực tế, nhưng anh bận việc gia đình, nhà có cháu nhỏ, anh đề nghị đi nhà
máy xe lửa Gia Lâm, vừa thâm nhập thẳng vào giai cấp công nhân lại tiện đi về gần nhà.
Nhiều người thiết tha đi, phụ cấp tiền chỉ cái hương cái hoa. ở nhà máy xe lửa Gia Lâm,
Hồ DZếnh làm với tổ sơn toa tàu, được trả tiền công khoán cẩn thận - Hồ DZếnh bảo tôi
thế, tôi cũng lây cái ham thích của anh. Hồi ấy, anh cho tôi những tập thơ Rừng phong của
Vũ Hoàng Chương nhà xuất bản Đông Phương của anh in 1953 và tập thơ thiếu nhi Mâý
vẩn tươi sáng của Trần Trung Phương.Anh nói: “Tôi tặng sách, nhưng tôi không phải
người quị lụy đâu nhé". Tôi hiểu câu anh nói. Trước kia, tôi cũng chỉ biết, không quen Hồ
DZếnh. Khi ấy, anh đã thôi đứng bán hàng tơ lụa cho Thượng Hải thương điếm, nhà Phan
Thái Thành ở Hàng Ngang. Anh đi sửa mo-rát, trông nom nhà in á Châu xuất bản cục phố
Emin Nôly - đường Châu Long bây giờ, chủ nhà in và xuất bản Nguyễn Bá Dĩnh mượn
anh, nhưng Dĩnh cũng là bạn anh. Tập truyện ngắn Chân trời cũ của anh in ở đấy. Những
hôm cạn tiền đi uống, đi ả đào, Vũ Trọng Can và tôi đứng đầu phố đợi Nguyễn Bính vào
nhà in á Châu đả tiền Hồ DZếnh. Anh thường cho chúng tôi tiền, nhưng cũng như Trúc
Đường trong Ngũ Xã, anh không kéo lũ đi đàn đúm với chúng tôi. ý tứ Hồ DZếnh là “tôi
tặng anh sách, nhưng tôi không cầu cạnh anh đâu"..
Nhiều anh em viết trước 1945 ở Việt Bắc về, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Kim Lân... gặp
lại người quen, nhưng cũng mỗi anh một cách. Nguyên Hồng chỉ chăm chú quanh tuần
báo Văn không gặp lại ai. Nguyễn Tuân gặp Đoàn Phú Tứ ở ngã tư Bà Triệu. Vẫy xe đạp
Nguyễn Tuân, Đoàn Phú Tứ nửa đùa nửa thật nói: “Moa là đại biểu Quốc Hội đấy nhé".
Trước kia, Đoàn Phú Tứ là đại biểu Quốc Hội Nam Định thật. Nguyễn Tuân không bắt tay,
đi thẳng.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương II
Tôi thì giao thiệp với các bạn vì công tác cụ thể, và cũng vì tôi có những quen thuộc ngóc
ngách hơn. Dễ thường chỉ tôi biết bút danh Sửu (Nguyễn Ngọc) trước kia có sách cho
thiếu nhi loại Hoa Mai nhà xuất bản Cộng Lực của Bùi Xuân Tuy có ông phụ trách biên tập
Lê Roãn Riệu- cái tên lạ quá, nên cứ nhớ, đã sáng kiến vẽ huy hiệu cái thừng ở bìa sách,
mà chúng tôi thường đùa là cái thừng trói người viết vào người xuất bản.
Thy Ngọc làm
biên tập nhà xuất bản Kim Đồng, một thời gian bị chuyển sang làm mi và vẽ, cái cơ quan
“quyền rơm” của chúng tôi chẳng giúp được gì Nguyễn Minh Lang học xong Đại học Nhân
dân rồi đi dạy học, chúng tôi xin về làm báo, sở giáo dục thành phố không cho, cũng chịu.
Chánh văn phòng Vĩnh Mai đưa các anh Thanh Châu, Hữu Loan, Quang Dũng ở Thanh.
Hóa ra vào biên chế báo thì được, vì các anh ở vùng kháng chiến, nhưng cũng như mọi ai
mới vào biên chế, phải đứng ở lương biên tập hạng khởi điểm. Hồ DZếnh đã dịch và in
một tiểu thuyết Nhật cho nhà xuất bản Thanh Niên. Nhà xuất bản muốn nhận Hồ DZếnh vào
làm. Những cơ quan có trách nhiệm xem xét thấy có thời gian Hồ DZếnh làm đại diện bên
Nhật của báo Thần Chung ở Sài Gòn. Mọi việc báo và xuất bản của các cơ quan khác,
chàng mảy may bận đến hội, nhưng đến lúc có trắc trở thì bù nhìn chúng tôi được khiêng
ra trả lời. Tôi có đọc một bài báo Trần Thanh Địch viết về Hồ DZếnh có câu trách hội cái
sự này. Và Hồ DZếnh sau đó, đi đường gặp tôi, coi như không nhìn thấy.
Cũng như NgọcGiao đã dự đại hội thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam 1957, nhưng đến khi đại hội văn họcnghệ thuật toàn quốc, Ngọc Giao không được mời thì cũng không phải do Hội nhà văn
cứng rắn đến thế. Trong kháng chiến, trên tạp chí Văn Nghệ in ở Việt Bắc, tôi đã đăng
một bài đánh tiểu thuyết Mưa thu viết chửi cộng sản của Ngọc Giao in ở Hà Nội. Đến năm
gặp lại, Ngọc Giao bắt tay tôi, thủ thỉ: “Một đòn rất tốt, rất tốt". Anh lại đã viết báo lời sám
hối về tiểu thuyết đó và kể lại ơn tôi về bài phê bình Mưa thu của anh. Nhưng không được
dự đại hội văn nghệ, Ngọc Giao gửi cho tôi mấy câu thơ chửi mỉa mai, cay cú. Biết làm
thế nào, những “vạ đá” này. Bây giờ cũng ra những chuyện ngày xưa cả rồi.
Nhưng Sao Mai đi thực tế thì khác, có thể là một thiên tiểu thuyết tự truyện kỳ tình, xã hội,
bi hài. Tôi biết tiếng Sao Mai qua mấy mẩu truyện cực ngắn trên tạp chí Văn nghệ in một
kỳ: Uất, Căm, Đi, Đổi mà Nguyễn Huy Tưởng khen rất hay, đã chọn được trong những bài
dưới khu Ba gửi lên và in tạp chí. Đi thực tế người ta đi khắp nơi, Sao Mai xin về làng
quê vợ vùng đồng chiêm Nam Định. Vừa tự nguyện, lại tự giải quyết mọi mặt, nhẹ nhàng
quá. Sao Mai viết khỏe, đã in ngay phóng sự Trại di cư Pagot Hải Phòng- đến lúc tiểu
thuyết Thôn Bàu thắc mắc ra thì “có vấn đề” mà lúc ấy Sao Mai không muốn nhắc đến nữa,
nhưng tôi chắc anh này về làng, thế nào cũng viết được cái gì đây, tôi tin khả năng Sao
Mai.
Một hôm chúng tôi với họa sĩ Phạm Khanh ăn chả cá ở nhà hàng Sơn Hải- có họ hay quen
thế nào với Sao Mai. Trong lúc nhấm nháp, Sao Mai làm vẻ đùa nghiêm: “Báo cáo anh, tôi
đi thực tế thành công rồi". Tôi còn chưa hiểu thế nào, Sao Mai đã cười khà khà: “ ở lại thì
phải sạch sẽ chứ. Tôi cắt được cái nợ, tôi đã cai được". Mới hay Sao Mai vừa cai
nghiện. Sao Mai đã chữa bằng một liều thuốc dân gian, mạnh và dữ, phải có nghị lực mới
cai được. Sao Mai đã nhịn hút. Cái năm 1945, Nguyễn Tuân cũng đã cai. Khi cảm thấy
cồn cào nhớ bữa, Nguyễn Tuân ra đầu ô, làm mấy chén rượu, nằm kềnh cang lơ mơ một
lúc, rồi về. Cơn nghiện biến, không đến hành nữa. Sao Mai có yếu hơn anh chàng phải cố
nhịn, mặc cho cơn nghiền vật dựng người dậy.
Cứ thế đến đứt cơn , rồi hết cơn, rồi quên
. Tôi hỏi thế anh có phải rượu kềnh cang như bác Nguyễn không ? Sao Mai cười không
ra tiếng. Sau này mới biết anh chàng còn uống thuốc tình tang hẳn hoi, không phải chỉ
rượu mà bằng mấy bác Nguyễn ấy. Bài thuốc cai của Sao Mai có gia giảm cả vị phụ nữ.
Anh không kể cho chúng tôi biết. Anh nói lảng chuyện. "Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng
cũng không muốn đi đâu. Nhưng các bố sợ các ông về thì rồi ngoài này không có thuốc. "
Sao Mai đã khỏe, rắn rỏi, trở lên Hà Nội với vợ con và nhà được thêm khẩu bồng bế theo
cả dì hai nó. Anh khéo thu xếp phòng nhất phòng nhì, sở gốc thì cạnh nhà thờ Tin Lành bên
nhà hát thành phố, sở mới ngoài Thanh Trì. Sao Mai đương viết về anh hùng nông nghiệp
Đỗ Tiến Hảo ở đấy. Vừa tiện, lại có chỗ bấu víu hờ. Tôi đã được đọc cái bản thảo người
thật việc thật ấy cho Nhà xuất bản Thanh Niên, có đến ba trăm trang viết.
Nhưng rồi ônganh hùng này đổ vì cái tật hay léng phéng. Ông Hảo đã đến trường Nguyễn ái Quốc nóichuyện về nghề nông, khóa tôi học. Ông nói hay lắm. Một năm tôi vào khu kinh tế mới của
Hà Nội ở Lâm Đồng, ông Hảo bây giờ đã hết anh hùng rồi lại đã có phòng nhì mới đem
vào, đương đào ao thả cá. Chén bữa cá ao nhà ngon tố hảo. Vừa đây, tôi lại có dịp qua
huyện Lâm Hà hỏi thăm thấy bảo rồi lục đục thế nào, Hảo trở ra Thanh Trì đã lâu. Có lẽ lão
cũng đã trên dưới bảy mươi rồi mà cứ chạy loạn trong nhà đến nhược người, thật khổ
thân. Sao Mai thì thao tác tinh thông hơn Đỗ Tiến Hảo một cái đầu. Thành phố đương vận
động người đi kinh tế mới. Thế là bàu đoàn thê tử kéo nhau lên vùng đồi núi Phú Thọ và
trụ lại tới bây giờ. Sao Mai đã được cử về đi khắp các huyện ngoại thành Hà Nội, báo
cáo điển hình thành công gia đình đi kinh tế mới. Quê mới ở làng đồi Văn Luông, cả một
vùng rừng đồi Thanh Sơn, Đồn Vàng đã thuộc làu rồi. Cái hay đã nảy ra từ cái bối rối “thôi
thì lôi nhau lên rừng, có đánh chém nhau ở xó xỉnh ấy thì cứ việc". Cái hôm chè chén ở
quán chả cá Sơn Hải, anh đương đợt, hay vừa xong báo cáo thành tích đi kinh tế mới của
nhà anh cho bà con các làng ngoại thành..
Chốc đã ra quá nửa đời người. Nhưng mà vất vả rồi dần dà lại ăn về hậu vận, kể cả cái
hoạn nạn long đong họ Tân bên Tàu, ông Tân Khải Minh Sao Mai cũng vượt được. Sao
Mai trong hoàn cảnh nào thì việc viết với anh cũng như một đòi hỏi. Bận đến mấy Sao Mai
cũng cầm bút. Cái nghề chân chính đã là quả phúc của ông. Đến lúc trời mở cửa, trời vẫn
thấy ông cầm bút, rồi được tỉnh Vĩnh Phú để mắt đến, anh em kiệu ông ra làm một chân
phụ trách văn nghệ tỉnh. Năm trước, gặp ở thành phố Việt Trì. Sao Mai cười lấp lánh mắt,
lại bốc, bốc thật chứ không phải bốc phét: “Này ông, ở Văn Luông âý mà, nhà vườn của
các con các cháu Sao Mai bây giờ san sát liền một vệt năm bảy quả đồi chứ chẳng vừa".
Tôi mừng bạn một câu rằng: Nhớ đến cái đận ông về dự trại sáng tác ở Quảng Bá, thợ
mộc theo về ăn đọi nằm chờ ông vay tiền ứng sáng tác để trả công làm nhà thì tôi thật
phục cái gan, cái trí của ông. Tôi lại khoái ông có máu đa tình mâ lại chung thủy, léng téng
với ai rồi cũng lấy người ta. Nghe nói ông mới có phòng mới. Ông lại bán cái đất có thật
để ra xây tổ uyên ương trên cành lau ở bờ sông Thao.
Thôi ta trở lại cái hôm chả cá Sơn Hải thời kỳ ấy, uống rồi thì chuyện tử tế bỗng đâm sang
nói nhảm. Phạm Khanh nói nhảm đê mê đến ghê người, sởn gai ốc. Nhưng lúc nói đứng
đắn thì Phạm Khanh khẩn khoản: “Ghi tên tôi vào danh sách đi thực tế, có lao động cải tạo
mới nên con ngưòi, đi đâu cũng được". - Anh đề nghị với hội Mỹ Thuật. Chắc cũng dễ. Tôi
sẽ nói thêm với các anh ấy". Rồi Phạm Khanh lên Lạng Sơn làm đường sắt. Lại thấy nói
đến năm về, họa sĩ hàng ngày ngồi thiền và tập yoga. Một hôm đến miếng cây chuối
ngược, cây chuối đổ rơi từ sân gác thượng xuống. Cũng có người thì thào: anh tự vẫn.
Không biết thế nào.
Thanh Đình đã đứng tuổi, người thấp bé, nói láu táu, hôm nào cũng đến đòi đi thực tế.
Thanh Đình là tay viết truyện kiếm hiệp ba xu Người nhạn trắng từ thời tôi còn học lớp bét,
lớp ba đương mê những Dao bay, Mắt thần của Trường Xuân và Người cá voi của Văn
Tuyền Phạm Cao Củng. Những loại truyện ba xu này không được coi là văn học. Vả lại,
Thanh Đình bỏ viết đã lâu lắm. Hôm nào anh cũng đứng trước cửa nhà xuất bản Văn Học.
Gặp tôi, anh bảo. “Tôi có công tác, đợi anh Thạc". Thạc là tên cúng cơm của Như Phong,
đương làm giám đốc nhà xuất bản này. Thạc và Thanh Đình là bạn học tiểu học trường
Cửa Đông. Thấy Đoàn Phú Tứ đến tìm Như Phong đưa bản thảo dịch kịch Ipsen, Thanh
Đình nói: “Tao vào thằng Thạc, tao với thằng Thạc là bạn nối khố cùng lớp, tao đương viết
cho nó một cái trường thiên tiểu thuyết roman neuve! ! .
Nhưng rồi anh ấy cũng không năn
nỉ đòi đi nữa. Buổi chiều, tôi uống bia hơi cửa hàng ngã tư Bà Triệu-Trần Nhân Tông, thấy
anh xách cái làn to bước vào. Anh bắt tay tôi chặt. Anh không uống bia, cũng không trò
chuyện sáng tác. Anh đi bỏ mối bánh đậu, kẹo lạc cho các hàng nước. Bí nhất cái lần gặp
Nguyễn Hoàng Quân. Quân còn trẻ, không thuộc lớp cầm bút trước kia. ở trên rừng, đôi
khi đọc báo Hà Nội, thấy thơ Nguyễn Hoàng Quân. Người xạm đen, tóc bù xù tổ quạ, mặt
vuông gầy nhưng vóc người có thể lực lưỡng.
Anh tự giới thiệu:
- Thi sĩ Nguyễn Hoàng Quân..
- Chào anh Nguyễn Hoàng Quân.
- Tôi muốn được đi thực tế.
- Vâng, nhiều anh đã đi...
- Anh cho tôi biết các điều kiện đi thực tế...
- Anh có thể xuống lao động nhà máy hoặc...
Nguyễn Hoàng Quân mở to đôi mắt đờ đẫn:
- Đi làm cu li á? Tôi đã bảo với anh tôi thi sĩ...
Hình như tôi còn giải thích dài dòng đi nhà máy, đi nông thôn thế nào đấy, nhưng rồi
Nguyễn Hoàng Quân đứng dậy, đi ra. Cái dáng bước kiêu căng khuệnh khoạng, cái bóng
vía thi sĩ kiểu ốp đồng thế, làm thế nào nói cho anh ấy nghe ra được. Nhưng Nguyễn
Hoàng Quân không trở lại nữa. Tôi có ý tiếc anh còn ít tuổi, vẻ khỏe mạnh. Nhà anh ở trên
gác bên cửa rạp chiếu bóng Hàng Chiếu, cạnh cái ngõ nách vào chợ Đồng Xuân được
tiếng các gánh bún ốc, phở chua và chè sen, lúc nào cũng bề bộn người ngồi. Một lần tôi
đến, lên hết thang thấy các cửa đều đóng khóa trái. Xuống hỏi thăm bà hàng nước ở gốc
nhội vỉa hè, bà ấy nói:
“Anh ấy chết mấy tháng nay rồi, ông không biết à?"
Tôi ngỡ chẳng rõ Nguyễn Hoàng Quân chết thật hay là vì cứ huyênh hoang và to tiếng cãi
nhau với xóm giềng, người ta rủa thế.
Người đi thực tế không ai giống ai, lại nỗi những tin bối rối xa gần về. Ca sĩ ái Loan lội
bùn chết bệnh uốn ván ở Phủ Lý. Có người ở Hòn Gai lên kiện Nguyễn Hải Trừng. Anh đã
lấy vợ ở vùng than. Khi địa phương làm điều tra dân số, anh đi khai giấu nhưng đã lộ ra
có vợ trong Nam, có con ra tập kết, và anh đã rút tuổi thật xuống gần nửa, hôm làm giấy
giá thú. Người nhà nọ cốt báo cho cơ quan biết thôi, không kiện tụng và đòi hỏi gì, cô nạn
nhân ấy đã ra tòa ly dị được rồi. Cũng lại anh ấy về sau sơ tán bom Mỹ vào Mỹ Đức, anh
“nhảy dù” tai tiếng ầm làng, rồi về Hà Nội lại lấy vợ, khi hòa bình lập lại bà ấy ra tòa xin tiêu
hôn, tôi lại phải thay mặt cơ quan đi chứng kiến. Lôi thôi quá..
Mỗi ngày loạn xạ một thứ việc, nhưng tôi lo đã ngớt, tôi sửa soạn đi Thái Bình. Tôi sắm sổ
tay, theo thói quen mỗi chuyến đi và mấy quyển sách đọc: Bàn về thực tiễn và lời nói đầu
sách Điều tra nông thôn của Mao Trạch Đông. Bài của Võ Nguyên Giáp tôi đã nghe mấy
buổi ở câu lạc bộ quân đội Kết hợp lý luận vơi thực tiễn trong cuộc cách mạng ruộng đất
ở nước ta nói về cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức và sửa sai. Những bài cắt ở báo
của Minh Nghĩa (Trần Quang Huy) phân tích sai lầm cải cách ruộng đất. Tôi ghi trên đầu sổ
tay của chuyến đi một câu không biết lấy được ở sách nào: Chân lý là quá trình (Lê Nin).
Và đem theo quyển phóng sự để đọc lại Tan rã (Kaputt, của C. Malaparte một phóng viên
ý trong chiến tranh thế giới lần thứ hai có chương viết về cuộc tàn sát Do Thái ở thành phố
Vacsôvi bị chiếm và các trận tuyến phía quân Đức và ý.
Bấy giờ ở Trung Quốc đã nổ ra cuộc đấu tranh trăm hoa đua nở trong văn nghệ, mà sau
đấy Đinh Linh, Phùng Tuyết Phong đã phải đi lao động cải tạo trồng kê, đào củ cải ở vùng
quê nào. Nhưng chưa phải đảo lộn dữ dội như cách mạng văn hóa mấy năm sau. Còn
chúng tôi đi thực tế thì khác, chúng tôi bấy giờ đi với ý nghĩa rằng đất nước đã sang giai
đoạn mới, phải lao vào mà bắt kịp tầm nhìn. Mặc dầu tôi đã đi làm cải cách ruộng đất và
công tác sửa sai mà khi trở về xảy ra việc Nhân Văn, cái nghĩ và làm của tôi vẫn chất
chưởng, tôi cũng không cắt nghĩa được. Sự tự ti nặng nề bấy giờ đã làm tiêu tan cả suy
nghĩ và nghị lực, lắm điều đã biết, đã nghiên cứu hẳn hoi, thế mà nghe nói lại, đọc lại cứ
thấy như mới, như chưa tỏ tường bao giờ. Tự nguyện hay không, tôi thấy tôi phải đi mới
giải quyết được bế tắc cho mình.
Tôi đáp tàu thủy xuống Thái Bình. ở bến Phà Đen tàu xuôi khi chưa rạng sáng, cho đến lúc
trông ra thấy mặt sông Cái đỏ ngầu mênh mang giữa hai bờ thấp thoáng chân đê, lũy tre,
bãi ngô, làng xóm. Những bụi chuối xơ xác vàng rượi, những ruộng mới vỡ, những lò
gạch- bóng con bò và người cày trên bãi hiện ra gầy cao cao. Mới đi một lúc mà thành
phố và mọi công việc tôi như đã bỏ lại ở đẩu ở đâu rồi. Cái tàu thủy “màn xế” đỗ từng bến
với người các vùng dọc sông quen thuộc đã lâu đời. Người xuống khoang ngồi ràn rạt
đầy các hàng ghế, nhà tàu mới đi đếm đầu phát vé. Năm 1958 đã khác trước, làng xóm
vào tổ đổi công, đương lên hợp tác xã. Chuyến tàu Trung Hưng, tôi đi ngót một ngày về
đến Cầu Bo, người lên xuống các bến nơi nào thì đoán ra quang cảnh ấy. Một bà chít
khăn vuông hoa choạc ngón tay chùi mép quết trầu, nói: “ối dà, chính phủ đương thu
người các nơi về làm ruộng, làng nào cũng đông ơi là đông. Bây giờ mới ra cái thời nhất
nông nhì sĩ, các ông ạ".
Nhưng bà ấy thì đương chạy chợ, buôn chuyến. Những khiêng củ nâu không biết từ bến
đường ngược nào xuôi về. Bà xuống các chợ Thái lùng mua cau. Đến vùng mía Trình
Xuyên thì nhiều quang gánh buôn mật lên bến.
Nhộn nhịp khắp nơi, chẳng phải chỉ có một cảnh người về làng trong tiếng “ối dà” câu nói
lộn lưỡi của mấy mụ hàng chợ. Tôi nghỉ lại thị xã, trọ hàng cơm trên bến Cầu Bo. Tôi đạp
xe lên đầu tỉnh qua phố chính Guyn Pickê ngày trước. Hai bên đường cỏ tranh cao ngập
đầu. Bao nhiêu nãm đã qua, cái trường tiểu học ông giáo Nguyễn Công Hoan dạy ở chỗ
nào. Cái bến ô tô Thái Bình-Nam Định-Hà Nội mà ông lang Dương làng tôi đã từng đứng
đầu du côn tranh khách cho hãng ô tô Mỹ Lâm con thỏ chẳng nhận ra đâu nữa. Đầu phố
huyện Vũ Tiên, nhà hát bà ký Đường, Nguyễn Khắc Mẫn đã viết truyện ngãn Bà ký Đưòng
đăng tuần báo Ngày nay, có đêm ông lang Dương đã dẫn chúng tôi vào hát. Chỉ còn trong
tưởng tượng. Giữa bãi hoang loáng thoáng những vườn dâu.
Hôm sau, đi Thái Ninh sớm. Cái xóm tôi đến là xóm Đồng. Về quê, chỉ những cái tên cũng
đã mường tượng được lai lịch làng xóm. Không phải như bây giờ nhà cửa cứ mọc loang
ra khắp nơi. Những cái tên ngày ấy đã chỉ ra gốc gác. Xóm Đồng, xóm Trại, xóm Mới,
xóm Ao... là những nơi ở mới bên lũy tre rìa làng, bọc quanh các xóm Trung, xóm Giữa,
xóm Đình sầm uất của các nhà có máu mặt, các nhà chức việc. Xóm trong luỹ, ngoài lũy là
nhà thiên hạ đến ngụ cư, nhà mõ, hay là nhà đông người phải san ra, dần dần nhiều năm
mới ấm chỗ, có khói bếp, cây cau, cây rơm và đường cứt trâu.
Đứng trên đê trông xuống mênh mông - cả tỉnh Thái Binh đều bốn phía chân trời, không
nhấp nhô gò đống, không một chấm núi. Chỉ rợn lên những cánh đồng, những con đê,
những bờ tre. Con sông Diêm lừ đừ phẳng lặng. Cái chợ họp hôm họp mai chốc lát đầu
bến cũng gọi là chợ Phố, có lẽ vì cũng có lò rèn, lò may, quán nước. Chốc chốc lại đi qua
một bọn các cô, ống quần gấu váy túm lên tận bẹn, cặp đùi đen nhánh tròn như cái chĩnh.
Đoàn người vác những cái dặm xuống chuôm sâu. ở đồng đất này, đàn bà đi đặt lờ cá,
đánh te, cày bừa chẳng khác đàn ông. Gặp khi một bọn đi dưới đồng lên các cô cứ nồng
nỗng trần truồng ở đầu cống Bắc thì đàn ông cũng không dám bén mảng qua.
Những đồng cao đương làm màu, khoanh bờ cuốc đi cuốc lại, cắm dây khoai. Người
ngâm mình dưới đìa nước vác bùn lên úp vào đầu bờ. Nhưng không phải đắp cho khoai
mà đánh đống phơi ải để ít nữa tãi xuống ruộng mạ. Mấy hôm sau, được biết mỗi xã viên
đương phải quảy ngày năm mươi gánh bùn. Phùng Quán đã đi làm được mấy buổi, mỗi
hôm xong gánh bùn khoán lại vớt lá trang, cỏ năn, dong nước về ủ cái hố phân xanh của
chúng tôi.
Cống Trà Linh ngăn mặn, làng xóm và cánh đồng bên kia lợ nước ra tận biển, đến mùa
nước, những con rươi hiếm hoi vẫn nổi từng đám. Đường ngoằn ngoèo xuống Diêm
Điền có đến mười mấy cây số ngập trong cỏ. Người sang đò về bên Thụy Anh, trong
bóng chiều chỉ nghe ánh ỏi, lao xao như tiếng chim chích choè chặp tối hót về tổ.
Vào xóm càng rõ ra cái xóm trại còn tạm bợ. Nhà nhà đều tường đất, những hốc khoét
vào trong tường đựng mọi thứ, cái điếu cày, bó đóm, nắm giẻ rách, rổ đậu đãi, niêu tép
kho. Cái bùi nhùi rơm lấy dưới bếp lên, tiếng thổi lửa phù phù. Đâu mà có giẻ rách làm
nòm, ở xó xỉnh này cái giẻ cũng được khối việc khác. Một người vục cái bát đàn vào vại
nước, vừa uống vừa nhìn ra xem ai lạ vào xóm. ở cái xe đạp của tôi phát ra tiếng kêu tách
tách cũng kéo được mấy đứa trẻ tò mò chạy ra, trong đám có Hoàng Trung Thông lực
lưỡng cởi trần, râu rậm Trương Phi.
Tôi hỏi:
- Cánh ta ở xóm này a?
- Rải rác các xóm ở ngoài này. Rách một tý, nhưng thoáng mát dễ chịu.
Tôi đùa:
- Lại ôn nghèo gợi khổ, bắt rễ xâu chuỗi à?
Thông cười:
- Không, thích nhà nào ở nhà ấy. Tôi đã chọn cho ông một nhà ít người, kề ruộng kề sông.
Ông vào xem, mà không vừa ý thì đi nhà khác. Có rễ sẵn, rễ cái hẳn hoi.
Tôi nói:
- Có phải bắt rễ tôi cũng xong ngay. Cậu không nhớ tớ đã đội phó cải cách a?
Tôi đi cải cách ruộng đất, hai đợt ở Quảng Xương, ở Nông Cống rồi cả đội chuyển ra Hải
Dương, đã dự hai kỳ tổng kết cả tháng trong Hậu Hiền rồi ra Quỳnh Cơi ở Thái Bình này.
Đến bây giờ vẫn như còn mê ngủ, chưa hết ngạc nhiên, ngơ ngẩn về đợt công tác dài
hạn. Quê tôi, làng nghề thủ công, dệt lĩnh dệt lụa, làm giấy. Tôi không biết ước lượng
được một miếng, một sào, một mẫu rộng hẹp thế nào. Thoạt nhìn, cây ngô cũng như cây
mía, cây lau. Thế mà tôi đã dạy cho nông dân kể khổ, đấu địa chủ, rồi thống kê sào, mẫu,
rồi cắm thẻ chia ruộng, thắc mắc gì cũng giải đáp được tuốt, anh đội phải quán triệt mà,
cứ linh binh, tất bật cả lên.
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương III
Nghĩ lại giật mình vì sự bắt chước kỳ quặc. Cả nước ta bước vào trường kỳ kháng chiến,
có nghĩa là ở đâu cũng có tổ chức của chính quyền, của đảng, được thế mới đánh nổi
giặc ở Điện Biên Phủ chứ. Nhưng bây giờ đi làm cải cách về xã coi như không biết,
không được phép biết, không chào hỏi không bắt tay- không mảy may giao thiệp với tổ
chức sẵn có. Đội viên tôi một mình đeo ba lô lò mò vào xóm. Cứ đoán nhà nào xơ xác
nhất thì vào “bắt rễ". Rễ ấy “xâu chuỗi” sang những nhà cố nông khác, cứ thế tôi lập nên
trưởng thôn, chủ tịch, tổ đảng và chính quyền mới toanh. Người chỉ có miếng ruộng loại
riêng ra mà chẳng có ruộng đất nhưng bị tố là có tội ác với nông dân thì cũng cùm ngay,
gọi là tên cường hào cá biệt. Tài liệu từng chữ dạy thế, khu đoàn ủy Chu Văn Biên lên lớp
dạy thế, lại nghe Trung ương Hồ Viết Thắng ngồi ô tô vôn ga đen mặc quần áo nâu về cắt
nghĩa thế, “Nông dân là quân chủ lực", chúng tôi bắt đầu tự gọi chúng tôi là “quân ông
Thắng". ôi thôi kế hoạch công tác phăm phắp từng ngày, chỉ còn cách trí trá, nói dối mới
sản ra các báo cáo kịp được.
Hôm đầu đến Đồng Tiến ở Nông Cống, tôi lảng vảng một
lượt qua xóm rồi vào liều một nhà không có cổng ngõ- đến cái cổng ngõ cũng không có thì
ăn chắc là cố nông rồi. Trời đã xẩm tối. Nhà chỉ có ba bố con, cởi trần. Thế là hay lắm.
Đến lúc hỏi tỷ tê thì anh ấy nói người ta có cái số, số tôi nghèo, trước kia, cũng có mẫu
ruộng hương hỏa, rồi bán dần. Tôi nghe mà rối ruột, thế là tại lười, tại không ăn nên làm
ra, tại những gì gì nữa, anh này có bị địa chủ đè đầu cưỡi cổ không? Tôi hỏi, anh bảo:
Không. Thế thì không phải bần cố rồi. Gà gáy, tôi đeo ba lô lủi tìm nhà khác, ba bố con còn
ngủ ngáy kho kho.
Cái khi xuống Quảng Xương, nhớ lại vẫn còn hốt. Tôi tìm vào một nhà, cái ang đựng
nước cũng làm bằng một mảnh trôn vại, nghèo quá. Đúng là rễ, mà rễ cái nữa. Thấy anh
đội ba lô vào nhà mình, sướng tỉnh ngưòi, chập tối người chủ nhà cầm ở đâu về một bọc
lá chuối.
- Cái gì thế?
- Cái dái trâu.
Rồi anh nói cho biết:
- Các xóm ngả trâu nhiều lắm, giết hết. Sợ bị lên địa chủ mà. Tôi bảo cho tôi cái này về
thết anh, được ngay. ấy nhờ oai anh mà tối nay nhà tôi mới được ngửi hơi thịt trâu. Tôi cứ
chạy đùng đùng, thằng Tào Tháo đuổi tôi cả đêm. May quanh bờ rào bãi hoang, bĩnh chỗ
nào cũng được. Vào nằm rúm ró thở mà không dám rên.
Tôi bảo:
- Anh đi hái cho tôi mấy cái lá ổi, anh ơi!
- Để cho nó cầm à? Không nên đâu. Chốc nữa ăn cơm thì khắc khỏi.
Tôi lử lả, không còn hơi để hỏi tại sao ăn cơm lại khỏi tháo tỏng. Hãy còn tối đất, anh chủ
nhà đem cái niêu mới bắc ở bếp xuống, tôi sờ tay thấy nóng, nhưng lại ram ráp như bột,
không phải cơm.
Anh ấy nói:
- Đã lâu không biết mặt hạt gạo. Cám đấy. Nuốt cái này thì bụng cứng lại ngay, hết đi ỉa.
Cố ăn một bát, anh ạ.
Cám thì như mạt cưa, mày gỗ, có lẽ cám đã hút tiệt phân lỏng trong bụng. Tôi hết đi ngoài.
ăn hai bữa cám, cả tuần không đi ra được, bụng réo òng ọc, rồi đau cuộn lên, nổi từng
cục. Đến bây giờ trông nhà nào tuềnh toàng, không có bức vách, lại nhớ nhà anh ấy ở
Quảng Xương, tôi còn trợn.
Tổ trưởng Hoàng Trung Thông cắt đặt cho tôi với Phùng Quán, hai người làm một nhóm.
Quán ở nhà khác, thường ngày đến chỗ tôi, lúc ngủ; lúc ngồi chơi, lúc bới ra việc làm.
Quán bảo tôi:
- Anh trông ông lão nhà anh ở có giống ông Phan Khôi không?
Tôi lạ vì cái so sánh của Quán. Một ông đù đờ mù chữ với một ông khinh khỉnh bụng một
bồ chữ, giống thế nào được. Nhưng rồi tôi để ý thấy Quán nói đúng, mặt ông Ngải mai
mái, không trắng, không xạm. Người suốt đời ở ngoài đồng áng mà da không bắt nắng.
Cái nước da nhờn nhợt ấy thì có giống ông Phan Khôi. Quán nhận xét tinh, nhưng chỉ bề
ngoài Phan Khôi, tất nhiên. Về cái ngang ngạnh đốp chát của Phan Khôi thì chúa thằn lằn,
tôi đã nếm mùi. Mấy năm cùng ông một cơ quan, khi Phú Thọ, khi sang Thái Nguyên, khi
trên Tuyên Quang. Còn non tuổi, tôi đã đọc Phan Khôi trên báo Phụ Nữ Tân văn, Phụ Nữ
Thời đàm ở Sài Gòn, ở Hà Nội, tôi nhớ bài thơ dài in cả trang báo Chơi thuyền trên sông
Tân Bình bài này nhớ được, hay hơn bài Tình già, mặc dầu bài viết thể thơ cũ.
Ông ký Phan Khôi, Chương Dân, có khi ký Thông Reo tôi cũng nhận ra. Văn ông khác
thường. Kinh thánh cả Tân ước, Cựu ước của hội đạo Tin Lành, người ta bảo ông dịch
thuê, khi ấy ở Hải Phòng, tôi cũng đã đọc. Có chương Nhã ca lời rất thơ, Phan Khôi lại có
cái tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra in trong Phổ thông Bán nguyệt san nhà xuất bản Tân Dân,
nhưng viết nhạt đọc mãi mới hết, như gà ăn cám phải lắc cổ.
Tôi bảo Quán:
- Tôi thích lời Phan Khôi bình bài thơ Cái thước của Nguyễn Xuân Huy trên Phụ nữ Thời
đàm. Nhưng sao không thấy in vào Chương Dân Thi Thoại. Có lẽ quyển này ra trước khi
ông viết bài đó. Tôi hỏi, ông ý ngồi im không trả lời, chẳng ra khinh ngưòi, chẳng ra điếc.
Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra đọc chán bỏ xừ. Lý luận Phan Khôi chỉ thú vị lúc nào lời lẽ ngang
như cua. Nhưng giáp mặt ông, tôi chỉ nói tâng ông: Văn Phan Khôi ngang tàng. Ông ấy
cũng lặng thinh, chẳng nói sao.
- Ông Phan Khôi còn coi ai ra gì! ông ấy đánh giá tôi là thằng con nít. ấy thế mà ông lại
thích bài Lời mẹ dặn của em.
- Chắc vì bài thơ ấy cũng ngang như cua.
Chúng tôi cùng cười. Tôi kể:
- Mình đọc Phan Khôi nhiều đến thế từ thuở bé, ông phải khoái lắm chứ. Thế mà ông ấy
đốp một câu:
"Tôi chưa xem bài nào của anh. Chẳng biết anh viết có ra cái gì. Nghe có người nói anh
viết truyện con giun, con dế".
Chuyện với ông Phan Khôi khi nào cũng ngại, nhưng lại vui và thích được khích ra những
cái ngang ngạnh. Ông tuổi tác, được trên trọng vọng, nhưng ngạo đời, chúng tôi ở liền
phải phục dịch ông và hứng những cái khó chịu. ở trên rừng, không có lĩnh lương tháng,
ông chén tiểu táo- tiểu táo là chế độ cao cấp, còn chúng tôi ăn đại táo lại là hạng cơm
ngữ với muối rang. Khi về Hà Nội ông được đãi tiêu chuẩn nhân sĩ, cả khi xảy ra Nhân
Văn, ông có dính líu nhưng vẫn được hưởng thế, có người phục vụ là bà vợ bé của ông,
cho đến khi ông mất.
Các ông Nguyễn Công Hoan, Tú Mỡ, Hoàng Ngọc Phách còn khuya
cũng chưa bằng. Cụ Ngô Tất Tố, cái khi bị ung thư gan đã nặng nằm nhà ở đồi Cháy trên
Yên Thế còn ngậm ngùi vì chuyện ấy. Anh em xung quanh như tôi, dưới mắt ông, chỉ là
bọn để sai phái “những thơ lại của chế độ", ông dửng dưng như không. ấy thế nhưng ông
lại dễ chuyện các thứ tiếu lâm và có Yến Lan giúp việc thư ký giải thưởng hội Văn Nghệ,
Yến Lan tính cẩn thận thì Phan Khôi cũng cẩn thận và chu đáo thế, ông sốt sắng viết báo
khi tôi hỏi móc ông những chuyện hiểm: “Có phải năm 1946, ông làm Trung ương ủy viên
Quốc Dân Đảng", mặt ông vẫn lạnh lùng nhợt nhạt thế. Rồi lại những chuyện tiếu lâm. Tôi
vẫn trêu:
- Ông Ngô Tất Tố kể là hồi làm báo ở Sài Gôn, ông hay tranh luận sinh sự, nhiều người
ghét muốn lánh ông, cho nên ông đi đâu cũng phải xách theo cái ba toong.
Ông Phan Khôi được gãi vào chỗ khó chịu, cười khẩy:
- Ông Ngô là thằng lý Đình Dù ra tỉnh mới tưởng thế chớ. Tôi cầm cái gậy song nạm bạc,
có đấy. Nhưng cầm ba toong đội mũ phớt là ăn chơi mốt Tây thời ấy chớ đâu ba toong để
đánh nhau, để phòng thân. Đồ nhà quê!
Tôi ngẫm có thể ông Phan Khôi nói đúng. Tận sau này cái thời tôi hai mươi tuổi, ở trong
làng đi chơi chúng tôi cũng nhung nhăng áo pigima xanh trứng sáo, viền tím, tay chống ba
toong song, trong túi có cái đèn Đe mông hai, ba pin.
Vì cái câu Phùng Quán nói ông Ngải giống ông Phan Khôi mà lại lan man. Quả là Hoàng
Trung Thông đưa đến nhà ông Ngải ở xóm Đồng cạnh rìa luỹ, thông thống ra ruộng, xuống
đến lợi nước mới lơ thơ mấy búi tre, búi hóp be bờ phòng mùa lũ khỏi lở.
Ông Ngải lúi húi dưới cầu ao, đương mổ con vịt.
Thông nháy mắt nhìn tôi:
- Thế nào, ở được chứ? ông chủ nhà giết vịt đón khách đấy.
Ông Ngải đã chùi tay vào mỏm cọc cầu ao rồi lên tựa lưng vào bụi tre. Quanh đấy, lỉnh
kỉnh ống điếu cày, ấm nước, mấy mẩu gộc cây làm ghế cạnh cái bát đàn, như bàn uống
nước ngồi chơi ngay bờ ao. Tôi mới để ý cái khóm tre lép. Nói đến tre, người ta tưởng
lũy tre, khoanh tre chằng chịt, lởm chởm gai, trộm cướp và con lợn con gà không lách,
không chui được. Chiều chiều, đàn cô bợ đi ăn về đậu ngất ngưởng trên ngọn.
Đêm gió bấc, những tay tre kẽo kẹt nghiến vào nhau.
Chẳng ai để mắt đến cái giống tre lép, cao hơn đòn gánh, bằng cây sậy mà không có gai,
mọc thành búi trong các xó xỉnh ao chuôm.
Bụi tre lép lá lưa thưa nhợt nhạt. Tên là lép, đã biết là giống tre hèn, vót làm đũa, chẻ cái
lạt cũng không xong. Mỗi búi vài mươi cây đầu xóm, bờ ao, ngõ ngang như bờ rào chỉ
đường. Trẻ con chơi đánh hú rúc vào giữa bụi. Những con trâu, con bò dưới đồng về, đã
thành lệ, bao giờ cũng đứng cọ sườn vào lưng cây. Con đỉa rơi phọt máu tươi, con ruồi
trâu mải hút máu, chết kẹp giữa thân tre. Quanh búi tre, nơi cho người ngồi hóng gió. Ông
Ngải luẩn quẩn quanh bụi tre lép, tha việc ra đấy làm, kể cả cái điếu, ấm nước
Người đi qua, khách vào nhà, cũng ghé xuống, vui chuyện đưa đà ngồi một lúc.
Chẳng biết từ bao giờ, cái búi tre lép ngoài bờ ao đã thành chỗ dừng chân chẳng khác
cái quán dưới cây muỗm đầu làng. Những gộc tre đã lên nước sẫm như củ nâu. Lưng
búi, những bó lạt cật quàng vào đấy. Cái rỏ, cái lờ, cái hom lươn ông Ngải đương đan rồi
gác lên búi, như mái hiên. Ông Ngải nói: “Đêm hè ngủ ngoài này mát, gió hây hẩy bằng
mấy quạt kéo, quạt điện ấy chứ". Cả cái xóm Đồng cũng chưa biết mặt cái quạt điện thế
nào. Cạnh đấy, trên ba hòn gạch chỉ ông đầu rau, nồi nước luộc vịt đã sôi lăn tăn.
Ông Ngải bảo Thông:
- ở đây chốc nữa chén thịt vịt.
Thông cười:
- Ông thánh quá, đã bói được hôm nay nhà có khách.
- Ông khách số đỏ. Tối hôm qua, con cạc này phải rái lên ngoạm mất cái cổ. Tiết đông cả,
mất hãm được tiết canh. May mà nghe tiếng vịt quác, tôi chạy ngay ra, không thì nó tha
mất. Ngoài sông, ở những bờ bụi kia, lắm giống rái cá, cả con rắn hổ mang, hổ lửa nữa.
Nhưng cũng chưa lắm bằng ngày trước.
Ông Ngải cầm chiếc đũa cả lật con vịt trong nồi cho được chín đều. Con vịt cụt cổ, tròn thu
lu như cục thịt
Ông Ngải trỏ xuống bờ ao. Chỗ con rái cá bò trong ráy ra, mặt bùn còn nhẵn dài vệt bụng
trườn
Thông nói:
- Thì bụng con cạp nong cạp nia, con mai gầm bò cũng hệt thế này. Biết sao được, há
ông?
- Khác chứ. Có bận tôi chậm lùa vịt về, chặp tối rái đã ra rình. Ngày trước còn sẵn nữa,
hôm nào giở giói đói mồi, rái nồi lên bơi cả đàn. à cái rượu đậm người ngoài Diêm
mang vào, tôi vẫn để dành các ông, có dịp...
Thông thoái thác:
- Hôm nay ông cho tôi kiếu. Tôi đưa được ông bạn đến mọi khi tôi đã nói với ông. Bây
giờ tôi phải lên xã họp. Chẳng biết việc gì mà mời hỏa tốc.
- Họp thì quanh năm chứ thịt vịt thì chẳng mấy khi...
Thông nói thêm mấy câu bãi ra, rồi mặc áo vào đi luôn, trong khi tôi cởi ba lô trên xe đạp
đặt ghé xuống mép búi tre. Tôi không nghĩ xã có việc gấp. Thằng này phàm ăn phàm
uống, thế mà có lẽ ghê con vịt bị rái cắn - con rái hay con rắn thì cũng nó cả.
Còn tôi chẳng để ý. Ông ngoại tôi có môn thuốc gia truyền chữa rắn cắn, rắn cạp nong
cạp nia độc nhất cũng chữa được, đã cho tôi từ thuở nào cái cảm tưởng không sợ rắn.
Ông tôi mất đã từ nửa thế kỷ rồi, ngày còn bé cũng chỉ được ông sai luyện thuốc, mật mai
gầm trộn với hồng hoàng, nhựa duối rồi viên lại cho người bị rắn cắn nuốt chửng. Chứ tôi
biết bàì thuốc rắn cắn thế nào. Có lẽ đã trông thấy nhiều rắn, lẽ cái không biết sợ từ ngày
dại khờ mùa hạ mùa đông tha thẩn các cánh đồng, cái thuở bé sao mà lâu thế, dài thế.
Bắt châu chấu bán cho người chơi chim hoạ mi.
Bán không hết thì vặt cánh, bóp bụng cứt,
rang khan với muối, ăn vã. Rồi thì kéo bọn đi hun chuột đồng, chuột luộc, chuột rán đều
ngon. Quả sấu, quả nhót dầm nước mắm ớt, bây giờ đến mùa vẫn nhớ thèm và nói đến
còn tứa nước rãi. Hôm nắng hanh thì lùng các bụi tre bắt rắn ráo ra phơi mình, chúng nó là
rắn, nhưng rắn ráo, rắn nước, rắn mòng không có nọc độc, thịt mềm như thịt gà con luộc.
Đến khi đi công tác, những năm ở rừng trên Tây Bắc, ở Mường Than uống rượu bọ hung
sào với Lý Nủ Chu, hôm đến nhà thống lý Mo Chống Lầu ở Háng Chú dưới Phù Yên nhắm
thịt ngựa luộc không muối. Có lần ở Bản phải uống rượu gấu tàu- cái rượu để đổ cho
ngựa uống lấy sức lên dốc, vừa tợp một ngụm, hai môi đã run bần bật. Cũng bởi cái tính
tạp ăn từ tuổi thơ, chẳng phải liều hay nhát, mà cả đời đã ăn tạp, thịt chó dại còn ăn
được, con gà con vịt phải rắn cắn thì xá gì.
ở nhà ông Ngải mấy tháng, lại được chén bữa vịt rắn cắn, lần này thì đích con rắn chứ
không còn ngờ rắn hay rái cá bò lên chuồng. Giữa trưa, đàn vịt đang rúc bèo cạnh bờ ao.
Một con hổ mang trong hang trên bờ lao thẳng ra. Rõ ràng tôi thấy con vịt bỗng dưng như
phải gió, gục cổ xuống, rãy cánh đành đạch trên mặt bèo. Ông Ngải nói: “Anh này số thật
may, toàn được đánh chén, hôm đến thịt vịt, hôm đi lại vịt thịt".
Thông cho biết công tác sinh hoạt của tổ. Hàng tháng đem tem lên kho huyện lấy gạo, tiền
ăn và gạo đưa chủ nhà. Chung với nhà chủ, có gì ăn nấy, việc nào đỡ tay được thì đỡ, nhà
nào cũng vui vẻ cả. Tổ trưởng Thông đi họp xã, họp huyện. Chúng tôi tổ viên chỉ họp tổ
sản xuất với xã viên. Thông với tôi là đảng viên thì họp tổ đảng ở xóm, họp chi bộ trên xã.
Lâu lâu, tổ họp hội ý một lần. Thông la đà rượu nhưng công tác nhanh nhẹn đâu vào đấy,
như tỉnh uỷ viên Hoàng Trung Thông ở Nghệ An năm xưa ra với chúng tôi trên Việt Bắc.
Cuộc nào quá chén mà rồi có họp, Thông nói hăng hái, mạch lạc và dài hơn mọi khi.
Tađây có ngất ngưởng đâu. Riêng vẻ như thường mà khác thường ấy cũng đã là hơi hơi
say rồi. Cuối xóm, lác đác mấy nhà đã ở lan ra ngoài bờ tre, lại sắp lên xóm mới. Đâu đâu
cũng thêm người ra, nhà mọc như bè nghể. Trước kia, những nơi bị cháy, bị chết dịch,
mất mùa, cái năm đói người bỏ đi, cả xóm thành gò hoang, bây giờ thì cứ ngày một chen
chúc. Tôi về chưa được bao lâu, đã thấy chỗ gặt chỗ làm mùa, mặt lúa cao ngang bờ lũy.
Lại ruộng xếp ải đã nỏ, đết uốn cong lên. Mùa màng liên tiếp mấy chiêm, mấy mùa, mấy
màu, chẳng biết thế nào, trong làng ngoài đồng tất tả bộn rộn, không tưởng được mới vài
ba năm trước cũng ở đây đưong yên lành bỗng nhiên sôi sục giảm tô, thổ cải, người chết
bắn, người thắt cổ. Có hỏi đến cũng chẳng ai muốn nói lại cái hồi nhố nhăng ai oán kia.
Về sự tích khi cải cách thì mấy xóm mới này không địa chủ- cộng ruộng đất mà tính ra
không nhà nào đến mức lên địa, mà phú cũng không có. Qui theo tỷ lệ khẩu cứ bổ năm
phần trăm địa cho mỗi xã mà cũng không moi được ra đủ. Anh đội ấy bị đổi, vì bất lực,
bao che, nhưng rồi đưa xã lên trọng điểm, cụm về, đoàn về cũng phân vân không tìm
được đủ địa. Ai cũng tìm ra địa, qui thành địa, không ai nghĩ rằng ở đồng đất này người ta
tự tay cày cuốc khai phá nên cái ăn.
Cả đời ông Ngải cuốc ra miếng ruộng, bây giờ ông vẫn ngồi dưới búi tre lép nhìn ra
những miếng ruộng ấy.
Các tay chức việc mà đội gọi là tổ chức cũ chỉ có mỗi người trưởng thôn chẳng moi ra tội
gì thì đã bị cách chức. Tề ngụy thời Tây vừa qua cũng có người ra làm thư ký xã uỷ. Một
đêm, du kích ta lội sông sang trói lôi đi chắc bị ngỏm ngay đương lúc ấy. Nhưng ở đất tề
gần bốt, lại có người ra làm. Bây giờ khôn, làm hai mang. Ban ngày việc tề, tối bắt mối
làm Việt Minh.
Tôi và cả đoàn cũng phân vân, nhưng rồi quyết bắt xã uỷ Khế. Hai mang, thì một mang
quốc dân đảng thế cũng là phản động cả. Đến hôm du kích chuỗi rễ sắp sẵn thừng chão
đến bắt thì lão Khế hai mang đã lặn mất. Vậy nó là cường hào gian ác cá biệt, tịch thu
miếng vườn, cái nhà lá ba gian, đuổi vợ con nó đi. Thế là đủ số địa, lại có cường hào ác
bá thêm cả quả thực, đội đương lẹt đẹt hóa ra có thành tích.
Đến sửa sai, đội cải cách giải tán, rút đi, đội sửa sai về tuyên bố cởi cái oan, thì lão Khế
lù lù ở đâu về. Hóa ra lão chẳng đi đâu, lão núp ở hầm bí mật ngoài chân tre, như hầm cán
bộ thời kháng chiến. Ngày lão nằm hầm, tối thì xóm giềng xách cơm rượu ra cho lão. Có
đêm mưa to lão vào ngủ gác bếp nhà nọ, người biết cũng mặc, chẳng trình báo ai cho lôi
thôi ra. Lão Khế cười hề hề: “Làm cán bộ, làm tề ngụy, nằm hầm mãi đã cả bồ kinh
nghiệm, đứa nào mà bắt nổi ông! ".
Cũng là khỏi vòng cong đuôi, chứ thật đã bạt vía và nghĩ ngợi lắm. Được trả lại nhà, vườn,
lão gọi vợ con về ở còn lão kêu chán tình nghĩa cái làng này lắm. Rồi lão bỏ cả đảng viên,
lão đi. Lên tỉnh hay đi đâu, có người nói thấy lão dựng cái quán nước ở cầu Bo, lại có
người bảo lão ngồi xem bói chui bên chợ Rồng.
Thỉnh thoảng, lão Khế về, vẫn tươm tất bộ quần áo ka ki xi măng đại cán. Có khi vác cái
rọ nhốt con chó đem về làm thịt, mời các ông đã phúc đức che tội cho lão hồi ấy, đến
đánh chén. Hỏi việc làm ăn, vài chén vào rồi, lão cười ha hả “người làm ra của, còn người
còn của, đâu chẳng kiếm được", rồi lại đi. Từ hồi xảy ra những nhố nhăng cây chuối mọc
ngược, gà mái đạp gà trống, con cái vạch mặt bố mẹ, vợ tố chồng, nhiều người vẫn đăm
chiêu, âm thầm như lão Khế. Nhưng tôi chưa được gặp ông Khế về lần nào.
Cái xóm Đồng lặng lẽ, ông Ngải nhà tôi ở chẳng bận những chuyện rối ren ấy. Từ thời Tây
thì ông Ngải ở dưới ruộng lên, vẫn ngồi bên búi tre lép, rúc điếu thuốc, uống ngụm nước
chè vò. Con sông nhỏ lấp lánh ôm vòng ngoài chân tre. Đến bây giờ có tôi thêm vào, tôi
ngồi không rỗi rãi cả buổi chiều, ông đan hom lươn, tôi nhìn bóng chiều vàng từ mặt nước
lên lan dần vào trong xóm. Đẹp đến ngẩn ngơ, tôi không biết vẽ cũng nghệch ngoạc mấy
nét êm ả vào sổ tay.
Nhà cửa trong làng khang trang hơn các xóm ngoài tre. Hũm ao cạn cấy cần đã xanh om,
gợi những tháng cuối năm sắp đến. Vườn chè loang loáng từng luống. Trong bóng căy đa
ngôi đình có lớp cửa giữa mối xông lên tận nóc suýt bị dỡ bỏ hồi cải cách đã được đóng
mới, uỷ ban cho các cụ phụ lão và ban văn hoá được ngả cây nhãn cổ thụ đầu làng xẻ lấy
gỗ.
Giữa xóm, một ngôi nhà tường xây trên nền cao có thềm bước lên, trông vào thấy lóng
lánh chiếc gương tàu in hình con phượng ngũ sắc trong gương, bên cạnh dán những tranh
cắt ở báo ra, xanh đỏ rợ mắt. Cụ phó- không biết phó gì, cụ mất đã lâu, nhà có ba mẫu,
hai chiêm một mùa, bị lên địa vì nhà tuy ruộng không nhiều nhưng không có lao động
chính. Dũng, con trai cụ phó, làm chi uỷ từ thời bóng tối, bị tố phản động quốc dân đảng
chui vào Đảng, đội bắt giam. Rồi sửa sai, Dũng được tha, xuống thành phần trung nông,
phục hồi đảng viên, nhưng xem chừng Dũng sợ quá, cay quá người ngợm và nhà cửa
chưa lại sức. Nhà ngang đã xiêu, phải chống hai cây tre. Một cót thóc cỏn con quây lại,
như cái chỏm tóc trẻ nít. Ngày trước Dũng học trên tỉnh, lấy vợ rồi mới về làng. Đi gặt,
không biết gánh. Vợ người thiên hạ, dân tỉnh, quấn tóc, răng trắng- trắng tự nhiên, không
phải răng đen mới cạo, phảng phất chút phong lưu còn lại, không biết còn lại ở cái gì.
Chúng tôi gọi với lên: “Ông Dũng ơi! Đi họp".
Dũng ngồi bó gối trong phản nói vọng ra: “Tôi đương lên cơn sốt, không đi được, báo cáo
các đồng chí". Rồi nghe tiếng rũ chiếu phành phạch. Xem chừng còn đau đầu, không biết
thật hay vờ. Quốc bảo tôi thế.
Họp chi bộ buổi tối trong làng. Đi qua bóng tối bóng sáng le lói những cái đèn con đặt
giữa ruộng mạ để bắt bướm, nắc nẻ, sâu đo, xa xa gần gần nhấp nháy chấp chới như ma
trơi ra đêm mưa ngoài tha ma.
Cùng đi, chuyện với Quốc- một đảng viên kết nạp trong cải cách, vừa rồi bàu ban quản trị
được ít phiếu, không trúng. Quốc cho là bị dân thành kiến đảng viên hồi bần cố. Nhưng
Quốc vẫn phụ trách công an xă, lại kiêm công tác phân bón của hợp tác.
Quốc kể trong làng không êm ả như các xóm ngoài ấy mà cũng không phải chỉ có một
mình chuyện ông Khế. Những cánh đồng, những bụi tre thì vẫn đìu hiu như bao đời vậy.
Quốc là người được dìu dắt nên cán bộ mà lúc đó nghĩ lại Quốc còn rùng mình. Và dần
dần Quôc nói tôi mới hay không phải chỉ có một chuyện đảng viên Khế.
Lý trưởng Vạn bị tố phải bắt, tự nhận là bí thư quốc dân đảng cả vùng. Những người biết
nhưng không dám nói. Lý Vạn cũng chẳng đảng phái phản động gì đâu. Tội nó là làm lý
trưởng, cán bộ về, nó không bắt, nhưng nó đuổi không cho vào làng. Lại khoe ầm lên làm
thế để cho làng nước bình yên. Cái hôm đội vừa về địa chủ Lịch đuổi trâu qua sông, ngã
chết đuối. Các tổ rễ chuỗi phân tích phát hiện là lý Vạn giết mụ Lịch để trẩm đầu mối. Mít
tinh mừng chính quyền mới ra mắt, lý Vạn bị đem xử bắn đầu tiên... Nhưng thương nhất
bác Đạt người giữ cống Bắc. Giữ cống, lĩnh lương của bốt, lại được tiền của ta vì đêm thì
mở cống cho cán bộ bơi qua. Việc ấy chẳng mấy người biết, cũng không ai đem tố cho
rắc rối.
Con gái bác Đạt là du kích, được đi canh gác, cứ ngứa tay thúc báng súng vào bụng lão
địa chủ Vạn. Vạn hộc ra một đống máu rồi nói. “Bố mày đã xơi lương của bốt, lại ăn tiền
của Việt Minh, mày về mà đấu đá khảo đả bố mày ấy". Không chỉ có một con gái ông Đạt
mà cả tổ du kích nữ ở đấy. Thế là cái tin, ông Đạt ăn tiền hai mang loang ngay ra. Đến
hôm đấu. Vạn còn rống lên: “Ông nông dân Đạt đã ra cây nhãn đầu làng nhận tài liệu Quốc
dân đảng đem về cho tôi, các ông các bà nông dân có biết không".
Cán bộ đội phụ trách xóm ông Đạt bị gọi về trụ sở đội kiểm điểm để lọt lưới. Đêm ấy, họp
xóm, đã thay cán bộ mới. Mọi người đến đông đủ, anh cán bộ mới quát to: “Địch ngồi lù lù
với bà con, mà không ai biết à?” Hệt chuyện hồi tôi ở Nông Cống, cán bộ Lâm xóm Trúc
không phát hiện ra địch, tôi được điều về thay. Tôi tính toán ra được một địa chủ hệt như
đảng viên Dũng mà Quốc vừa kể, lúc nãy chúng tôi vừa đi qua nhà. Anh này cũng ở tỉnh về
quê trông nom vườn ruộng. Một buổi sớm, dân quân du kích giải anh ta đi. Gặp tôi đầu
xóm, anh ta vái tôi rồi sợ sệt lễ phép hỏi: “Ông cho em lên địa chủ ạ?".
Cả đám họp quay lại nhìn ông Đạt. Ông ấy đứng phắt lên, chạy thẳng ra đâm đầu xuống
cống Bắc.
Mọi cái đều dữ dằn, Quốc bảo Quốc kể lại mà còn sợ, nhưng giọng Quốc lại nhẩn nha,
dửng dưng, tôi không đoán được tâm trạng anh thế nào. Quốc là cốt cán hồi cải cách,
nhưng bây giờ vẫn tích cực và được làm công tác. Quốc phàn nàn làm công an ngày ngày
bắt thuốc lào, bắt rượu, bọn buôn chè tươi, chỉ mua thù chuốc oán. Nhiều lần đã bị ném
gạch vào nhà.
"Chắc rồi tôi cũng không đậu được chân hội đồng nhân dân. Nhiều đứa ghét quá. Có nhà
giết lợn, tôi bảo để lại cho cân thịt. Vợ nó cắp rổ thịt hẳn hoi, nói ráo hoảnh: thưa ông
công an, hết rồi. Thịt này có phiếu người ta đặt, tôi phải đem lên chợ trả người ta. Nó ghét
tôi vì hôm trước tôi hỏi: “Nhà mày không đóng sát sinh à? - Mà nó có đóng bao giờ đâu,
nhiều nhà nấu rưọu lậu, tôi cũng lờ, thế mà...
Chi bộ mười lăm đảng viên, chưa kể hai chúng tôi, ngồi họp trên ổ rơm. Chương trình có
đến một huyện việc, quá nửa đêm cũng chưa xong, phải dừng lại. Trước lúc họp đã bàn
ưu tiên gọi hai mươi người sáu ngày dân công đào sông Diêm chống úng, tiêu chuấn thì
tự túc. Một người nói: Thế thì đả thông khó đấy, điều dân công bảo được tiền thù lao mà".
Bí thư Sự nói bừa đi, nhưng át giọng: “Đấy là đi dân công lúc kháng chiến, bây giờ thời
bình thì khác. Nào bắt đầu họp, chương trình dài lắm. Một người lơ lửng chép miệng một
câu ví von: “Bí thư nói đúng lắm. Sớm đúng, chiều sai, đến mai lại đúng, lúc nào cũng
đúng".
Các việc bàn lần lượt: rút kinh nghiệm họp tác xã thí điểm vụ gặt đương lắm thắc mắc;
cho các liên tổ đổi công học tập chuẩn bị lên hợp tác xã; chuyển thóc lên huyện vấn đề kết
nạp đảng viên trong dịp đông xuân ; tuyên truyền thanh niên nghĩa vụ quân sự đầu 1959 ;
công tác bán thóc vụ này cho chính phủ quản lý thị trường, tăng cường kiểm soát rưọu,
thuốc lào, chè thuế sát sinh; hạn chế ăn uống lu bù đầu mùa, các tổ báo cáo làm phân,
gieo mạ đúng kỹ thuật...
Chủ tịch xã nói chen chẳng vào trật tự mục nào:
- Nhà tôi thì gieo mạ lối cũ, khổ thế.
Nhiều người cười: Ông chẳng quảng bá thì cả làng biết rồi. Bà chủ tịch đã rêu rao khắp
xóm: tôi học thế nhưng tôi không làm thế đâu. Giỏi thế thì ông mới làm được chủ tịch.
Đáng lẽ việc họp tác xã thí điểm và tổ đổi công lên hợp tác xã lắm ý kiến nhất thì lại êm
đềm cho qua vì chẳng ai phát biểu. Có lẽ, ai cũng biết đằng nào rồi cũng lên, nói hay
không cũng phải thí điểm phải lên. Còn mấy mục nữa, nhưng khuya quá, mấy người đã
rúc vào ổ rơm ngáy rền rĩ vang gian nhà họp.
Bí thư Sự kết thúc, trịnh trọng nhấn một câu:
- Ta tiến lên lập hợp tác, vi như cái xe, là cái xe thì việc của cái xe là đi, dù đường còn xấu,
còn gồ ghề, nhưng vẫn là có đường cho cái xe lăn bánh, ta phải cố gắng.
Bí thư đã nhớ câu này ai phát biểu ở cuộc họp nào trên huyện.
Một hôm, tôi sang chơi nhà Sự. Những đống thóc gặt hôm qua đã kéo xong. Sự đã tạm
chia ngay cho mỗi nhà mười cân. Đương có nắng, phơi nhanh. Gặt ăn ngay, bây giờ đâm
ra giáp hạt từng ngày. Trong làng mà biết, chắc lắm người cười thầm.
Vợ Sự người nhỏ con, đôi mắt lẳng đưa đẩy, vẻ như không phải người làng. Hỏi ra cũng
nhà bên kia sông, làng bên.
Chị Sự kể chuyện lúc kháng chiến.
- Nhà tôi chạy giao thông rồi sang bộ đội chủ lực huyện, đi cả tháng, cả năm. Đêm tối trời,
một trung đội đến trạm chờ trong làng đợi anh ấy dẫn sang sông.
Lúc ra sân nghe ngóng, thấy ở các gốc chuối lung lay nhấp nhô như người nấp. Bị động
rồi, làm thế nào báo được vào trong trạm dừng lại. Ra bây giờ thì chúng nó gô cổ ngay.
Tôi mới nói để tôi đi cho. Có lần tôi đã giả làm bà mụ đi đỡ đẻ đi gặp du kích ở xóm
trong.
Lần này tôi làm ngươi đi cho sữa. Tôi cầm đòn gánh, khua cả vào bụi chuối, làu bàu râm
ran: “Con đói sữa mà nửa đêm gà gáy mới gọi thế này, cha tiên nhân nhà mày". Trong bụi
chuối không thấy nhúc nhích, tôi vào báo được cho trạm, lúc về lại cứ quơ đòn gánh, ca
cẩm chửi. Thế là không ai ra đợi sang sông. Nhưng anh ấy vẫn nằm trong nhà, bây giờ
đến đợt sợ nhỡ cái chúng nó sục vào...
"Đến khuya, có tiếng gọi khe khẽ- Bà chủ ơi bà chủ- Đứa nào thế? - Bà làm ơn cho mượn
con dao tôi chặt cây chuối bơi qua sông, pạctidăng nó sắp tuần xuống đây rồi- Cha đẻ mẹ
mày, đêm hôm nhà đàn bà con gái, bà thì.. “ Tôi là bộ đội - Bộ đội, đội thúng đội mẹt cái
con đẻ mẹ chúng mày. Nhà tề đây có cút không thì bà gọi bảo hoàng nó xuống gông lại. Im
lặng. Thế là yên đêm ấy".
Cũng chuyện ngày trước, câu chuyện ma quái này Phùng Quán nghe được có người kể,
không phải chị Sự rỉ tai.
Đêm kia, Sự bơi qua sông về, trời sáng trăng. Sự trèo tường đất vào vạch cửa liếp đăng
sau. Toan gõ vách làm hiệu như mọi khi. Nhưng trông vào chấn song, thấy rõ hai người
nằm dưới đất. Một cái bóng thì đích là vợ Sự. Người kia là một thằng đàn ông, đen sâm
như mặc áo rằn ri trên bốt. Sự nhấc chót cửa vào, lặng lẽ hai tay bóp cổ thằng đàn ông,
lôi ra bờ sông, cho một nhát vỡ đôi đầu, ném xuống nước.
Vợ Sự vẫn nằm ngủ, không biết. Sự dựng con dao bầu vào vách, nằm xuống, vần vợ.
Cho đến bây giờ, người ta còn thì thào đoán với nhau. Không biết cái thằng bị beng cổ
chết mất xác là thằng nào. Chắc lính trên bốt. Hồi ấy làng không thấy thiếu người. Ai cũng
đoán con mụ vờ ngủ. Chuyện đã lâu và cứt trâu đã hóa bùn, con quạ mổ vẫn đĩ tính, chua
ngoa, chẳng ai dám dây. Nó chửi cả xóm, cả họ. Vợ Sự bảo chồng: “Nhà là đảng viên, là
bí thư, là chủ nhiệm thì phải vào hợp tác cho có thành phần. Tôi ở ngoài, bao giờ làng này
lên hợp tác xã hết thì mẹ con tôi cũng lên".
Việc lao động của các nhóm chúng tôi thì cứ nghĩ ra mà làm, hay đôi khi làm đỡ bà con tổ
sản xuất
Không thì đi chơi, nằm đọc sách, đào giun cho vịt ăn. Cũng chẳng khi nào trò chuyện sáng
tác tối tác ra sao.
Tổ trưởng đã bảo đợt đi này không có kế hoạch sáng tác, nhưng chúng tôi như có ý tránh
những cái đã qua.
Kể cũng tế nhị, cùng một tổ, nhưng mỗi người mỗi nhẽ. Có anh chỉ dính với tập san Giai
phẩm có tên ở cái quảng cáo trên bìa bốn của nhà xuất bản Minh Đức. Có anh không viết
một chữ sai trái, nhưng bỏ đôi ba câu nói ngang. Tôi đã viết kiểm điểm trên báo để nông
nỗi tình hình văn học xảy ra thế thì tôi câm như hến là đành một bề rồi. Nhưng tổ trưởng
Hoàng Trung Thông vừa qua với bút danh Hồng Vân đã tả xung hữu đột những bài đao
búa cùng những bài của nhà sử học Nguyễn Văn Phùng đã phang từ lý lịch Phan Khôi
xuống. Trần Lê Văn thường kể những năm về sau, Hoàng Trung Thông đã rượu và yếu
nhiều, mỗi khi gặp, hay hỏi: “Ngày ở Thái Bình, mình thế nào, có vấn đề gì không". Kể ra
chẳng có vấn đề gì, nhưng mà lại có vấn đề, có mà không cái hồi ấy nó thế đấy.
Ngoài đồng có ruộng đã cày vỡ, đương cữ nắng, nhiều xứ đồng cao ở gần chân tre đã
xếp ải. Vùng này làm ruộng có thói quen xếp ải - luống đất đã được cày lật, bê lên đặt
từng dãy, phơi nắng ít lâu rồi tháo nước vào bừa. Làm thế, đất khô thoáng như bón phân.
Chúng tôi ngày ngày ra đồng xếp từng tảng đất lên quanh bờ.
Có một việc tôi chỉ nghe kể lại. Khi tôi về Thái Ninh thì đã xong, đã vứt bỏ xó rồi. ấy là tổ
trưởng Thông có sáng kiến thử cấy dày, hưởng ứng nước bạn đại nhảy vọt. Mỗi chân mạ
không cắm hai ba dảnh, mà nhét bảy dảnh, mười dảnh một cụm. Có báo đã đăng tấm
ảnh bên Trung Quốc, trẻ con trèo lên chạy chơi trên mặt thóc ruộng lúa cấy dày đã chín.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương IV
Năm sau, tôi học trường Nguyễn ái Quốc, cùng tổ với kỹ sư canh nông Ngô Tấn Nhơn.
Anh Nhơn là người đã cùng đoàn cán bộ đi tham quan Quảng Tây. Bạn đưa đến một
cánh đồng thí điểm cấy dày. Nhưng ruộng đã gặt, được nghe báo cáo xem ảnh và trông
gốc rạ chi chít liền như trải chiếu. Bạn trình bày có kỹ thuật mới sang năm bình quân mẫu
sẽ trăm tấn, bây giờ cho ruộng luân canh bỏ hóa để đất được ngủ, được thở vụ sau càng
tốt hơn nữa.
Anh Nhơn cười hiền lành: “Các đồng chí ấy và chúng tôi đều ước vọng như người nông
dân xưa nay ước vọng. Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên nhận xét con
số chỉ tiêu còn thấp còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến nhất, không thể xoàng thế.
Tôi nâng 4 triệu lên 6 triệu tấn gẩn gấp ba. Ra hội nghị, nống lên nữa, thành 7 triệu ở các
cuộc họp xóm, xã, tổ sản xuất, tôi đã dự lắm cuộc thi đua đặt mức. Cũng như các cuộc
họp anh Nhơn kể lại, làm ăn còn trông vào ngày mưa ngày nắng mà đâu cũng thế, cứ sôi
nổi nhận văng mạng thật cao, càng cao, ở xã, rồi lên huyện, lên tỉnh lại đun lên. Thả sức
ganh nhau, rồi chẳng làm được cũng thôi. Bỏ vì được hạt thóc còn “trông trời, trông đất,
trông mây” cứ ước thế vầy, mất gì.”
Tổ ông Thông mượn được miếng ruộng vài thước vuóng rồi xin mạ về cắm liền tù tì. Ngày
ngày tát nước, bỏ phân, ú phân xanh, cả phân tươi. Cây lúa chen chân lên, cũng xanh mỡ
mượt mà, nhưng lúa xít gốc, nóng hầm hập, hút nước tợn quá. Phải kế hoạch quạt cho lúa
mát, vào làng mượn chiếc quạt thóc cánh phẳng nặng như cái cùm- ở trên báo đã nói lúa
cấy dày lên, nóng phải quạt, kinh nghiệm canh tác đấy. Quạt vài hôm, lay thử, cả khóm lúa
bềnh ngã ngửa, lá vàng ỏng, thối rễ.
Ông Ngải kết luận hộ. “Các anh chơi trò trẻ ranh".
Rồi những năm sau, Phùng Quán còn đi lao động dài hạn, ngắn hạn ở những nông trường
Đông Hiếu, Tây Hiếu và đâu đâu nữa không biết, nhưng mà đợt này một nhóm có hai
chúng tôi, kể ra tổ trưởng Thông cũng khéo xếp. Một mình tôi thì nên cơm cháo sao được,
lại chỉ mồm miệng đỡ chân tay. Nhớ hôm ấy có mấy chén rượu suông. Hồi này Thông
cũng chưa uống mấy, nhưng máu nát rượu thì sẵn, không vì uống nhiều hay ít, chỉ cầm
chén ngùi hơi men đã ngà ngà rồi.
Thông đứng dậy, chân la đà. Phùng Quán giơ tay: Anh để em đỡ. Thông quắc mắt: “Tao
vừa công bố mày với ông Hoài một nhóm, tao có say đâu".
- “Anh cứ vịn vai em cho chắc". Thông quát: “Ông mà phải để cho Nhân Văn giắt à?” Tôi
nhớ một hôm ở cơ quan 84 Nguyễn Du, có liên hoan cuối năm, bấy giờ chỉ có rượu mùi,
chẳng biết Thông uống thế nào, đến lúc ra cửa, Quán dìu một bên. Thông vùng tay ra, cũng
nói một câu ấy: Tao mà... tao mà... Chẳng biết Thông nhớ không. Chắc là không, nên mới
nói lại đúng thế. Quán ngồi lặng im, vẻ mặt buồn, nhìn Thông đi ra. Chúng tôi bàn việc làm
hố phân. Cái sự người say không cho là mình say, mà cũng không hẳn là say, bởi vì sáng
kiến do tổ trưởng Thông nảy ra bảo tôi và Quán làm một hố phân, không phải chúng tôi đã
nghĩ ra.
Hai người một hố phân xanh. Các nhóm khác hình như cũng làm thế. Hố phân chúng tôi
đào ngoài góc vườn chè. Ông Ngải hỏi: “Các anh làm gì đấy?”
- Hố phân xanh ạ!
Ông Ngải không nói gì. Quán đi mượn thêm một chiếc mai về cho tôi.
Quán nói:
- Anh thì trình độ hon em, anh là nhóm trưởng.
Nhưng việc này thì em xin chỉ huy anh. Lệnh của em là: em đào, anh hất đất lên.
Đúng quá, vừa sức chân tay tôi, không thể còn ý kiến vào đâu được. Quán phạt cỏ, làm
dấu xới một vòng tròn to bằng cái miệng giếng, rồi bắt đầu thúc lưỡi mai, nhanh nhẹn điệu
nghẹ. Hai tay nhấc cán, bàn chân dận lên thành lưỡi, bầy đất lên. Nhưng đất vụn ra, tôi
không lùa mai hất được. Tôi lấy tay bốc, nhưng một lúc vẫn chưa được bốc, chỉ đất cằn
lăn ra nham nhở từng đám. Quán bảo: “Không cần bốc vội, đợi dào quành thế này cho
thành miệng hố đã".
Thì tôi cũng biết thế và ngồi tỳ khuỷu tay lên đầu gối, đợi.
Ông Ngải đi đâu về, ra vườn, đứng nhìn Quán cởi trần hì hục đào. Ông Ngải chép miệng:
- Đào thế thì đến hai phiên chợ Diêm cũng chưa được cái hố đâu.
Quán hỏi lại, giọng rụt rè, không rành rõ tự tin như lúc nay giảng cho tôi:
- Ông bảo phải đào thế nào?
Hố ủ phân chỉ như miệng cái thúng, đào đâu to như cái giếng thế. Khoét hũm trước, bằng
cái đấu thôi. Xắn ra từng phía mới được.
Rồi ông Ngải cầm mai, đẩy chân một cái, chỉ ba bốn nhát, đất đã lên từng vốc. Quán
đứng nhìn ông Ngải, gật gù: “Được rồi, cháu sáng mắt ra rồi, cụ ạ.
Không phải chỉ anh mới có năm xe chữ, em chẳng mẹt chữ nào mà cũng suông cả. Trí
thức tiểu tư sản không bằng cục cứt thật. Cụ ra ví dụ thế đủ rồi, để cháu làm tiếp.
Nhưng ông Ngải đương thuận tạy cứ đào, hai chúng tôi bốc liền liền lên. Quán cứ tắc
lưỡi: trí thức, trí thức...
ông Ngải thúc mai phăm phăm, vừa chuyện vừa hỏi: ông phó cạo ngoâi đê bảo ông Ngọc
mới được sang nước Tiệp Khắc về.
Đã mấy năm trước, hội sân khấu cử Chu Ngọc đi tham quan nước Tiệp. Chắc Chu Ngọc
đã khoe với ông phó cạo.
- Vâng ạ.
- Thảo nào, ông ấy đi cả ngày, không xếp ải, không đào hố phân như các anh. Cán bộ to
mới được thế.
Quán nói:
- Không phải đâu. Ông ấy cũng bằng cháu thôi.
- Cán bộ cốp là bác Thông, bác Thông chúng cháu cũng lao động cả ngày đấy. Lao động
là vinh quang, ông Ngọc ông ấy lười ạ.
- Thế hai bác đã được đi nước Tiệp Khắc chưa?
Quán cười to:
- ồi, ăn thua gì. Chỉ đi nửa buổi đã đến nước Tiệp Khắc, bằng từ đây xuống Diêm, à xa
hơn một tý. Bác Thông ngồi tàu bay nửa tháng mới sang đến nước Liên Xô. Hôm nào cụ
cứ hỏi chuyện bác ấy xem..
- Ô là vậy! ôi a ồ...
Chẳng mấy lúc đã rõ ra cái hố sâu, tròn vành vạnh ông Ngải vào lấy cái sảo cho chúng tôi
khiêng đất đổ đắp vào cáe gốc cây chè. Ông Ngải nói: “Đất tường, đất vách ám khói bồ
hóng ủ phân chóng ngấu. Sẵn cái mai, bếp nhà tôi có mảng tương ám khói đã đổ một vì,
tôi đợi có rơm thì lấy bùn ao đắp tường mới, các anh đem đất ấy ra mà lót hố phân.”
Quán xua tay:
- Không, không, cụ ạ.
- Đất có hơi bếp, ngưòì ta gánh ra ruộng tốt như bỏ phân ấy mà.
- Thôi, thôi. Tổ trưởng đi kiểm tra lại bảo chúng cháu ăn gian đem lót đất dưới đáy cho
chóng đầy hố thì chết cha.
- Đất vách bếp khác...
- Các ông cán bộ to không biết đất nào vách bếp vách chuồng trâu đâu. Cháu lạy cụ.
Tôi chen vào:
- Mà hố chóng đầy thì chóng hết việc, lại phải đào hố khác, vẽ chuyện.
Chán chuyện chúng tôi. Ông Ngải cười hiền lành, không nói nữa. Ông ra ngồi hút thuốc
bên búi tre lép.
Ông quay mặt vào bảo: “Nghỉ tay ra uống nước". Rồi ông vào trong bếp bưng ra nồi nước
chè buổi sáng còn ông ăn ngữ ba bát cơm. Ông chỉ nghiện thuốc lào và nước chè vò.
Sáng sớm, ông làm hết hai ấm chè tươi đặc rồi ra làm đồng, đến trưa về mới ăn cơm.
Mặc cả nhà ăn sớm, từ thuở trẻ, ông Ngải cơm nước thế, đã quen lệ.
Chặp tối, từ trên đê lộc cộc xuống một cái xe ba gác người đẩy người kéo, người bắt
bánh chờ đồ đạc và máy “chớp phim”. Đội chiếu bóng huyện được lệnh cho ưu tiên về
phục vụ hơp tác xã thí điểm. Hai cái xe phủ bạt ni lông xanh, dây chằng như buộc con trâu,
phía dưới hở ra một hàng đít phuy xăng sơn hắc ín và những cạnh hòm gỗ vuông. Ngoài
nóc bạt cài chiếc loa thiếc to bằng cái thùng và một bu gà, tiếng nhiếp nhiếp cả gà con,
không biết là để thịt hay gà đàn nuôi.
Mỗi xe, một người xách lúc lắc cái đèn bão, cứ hô tiến lên, tiến, tiến lên mỗi chỗ đường lồi
lõm ổ trâu.
Đội chiếu bóng của huyện, của tỉnh lưu động qua các làng, đem đến những máy móc và
phim ảnh các nơi mà nhiều người trong làng chưa bao giờ được xem và cái gì mới cũng
thấy là lạ.
Hôm vừa rồi, hiệu chụp ảnh ở chợ Diêm bán được mấy chục chiếc anh một nữ diễn viên
Liên Xô, ông thợ dã khêo tô mặt mộc thành mạt son phấn, váy áo sặc sỡ. Thanh niên bá
vai hỏi nhau: “Mua ảnh em chăn ngựa chưa", ý nói ảnh cô giáo trong phim Tiếng hát
người chăn ngựa mới chiếu mấy đêm ở bãi chợ.
Ba tối liền, các phim Tống Cảnh Thi, Tiếng hát người chăn ngựa, người các làng về xem
ngồi kín mặt ruộng đồng cao. Ông Ngải đi xem, còn tôi nằm trong chõng cạnh bụi tre lép,
dưới ánh trăng suông, ngoài chân đê.. nghe loa hát đồng ca Hò kéo pháo, tiếng máy
phành phạch, tiếng người thuyết minh sang sảng, thánh thót.
Giữa mấy đêm vui, ngoài đồng nhiều thửa ruộng vẫn đương gặt và ban quản trị họp khuya
bàn những chuyện gấp. Khi giáp hạt, cái đói và cái ăn kề nhau, nhà nào cũng nháo nhác,
nhưng năm nay có hợp tác, có tổ, cái lo được đem ra đình, ra trụ sở.
Hai cái xe ba gác của đội chiếu bóng lạch cạch chuyển sang làng khác rồi. Xẩm tối, các
xã viên đã đến đông đủ Chúng tôi đi họp, có tổ trưởng Thông và một cán bộ ban công tác
nông thôn không biết huyện hay tỉnh cũng dự. Mỗi một cái đèn hoa kỳ trên đầu bàn đằng
kia, cả gian nhà hũ nút tối lem nhem như trong chuồng trâu. Các bà, các chị bó gối ngồi lố
nhố dưới đất. Một anh dáng chừng thông tin xã, nói to:
- Các bác văn nghệ ra cho một bài nào.
- Phải đấy! Ai đi hò lờ..
Bí thư Sự hét:
- Đây là các bác nhà văn, nhà báo, không phải văn công.
- Thì cũng là văn báo, văn công cả!
Một người ngồi đằng giáp tùờng bỗng lên một câu hò lơ lẩy Kiều.
- Nhà báo à? Báo cô báo cậu! Đội trời đạp đất ở đời, Ai đi hò lờ. Họ Từ tên Hải vốn
người ăn không Hò lơ hó lơ hò lừ...
Quán ghé tai tôi:
- Tên ấy xỏ chủng mình. Tôi phải ra trổ một bài đập lại.
Tôi kéo Quán ngồi xuống. Bí thư Sự tinh ý quát:
- Không được hát mất lập trường. Câm cái mồm!
Nhiều ngườì vỗ tay, cười ầm. Không biết cười cái gì. Thật quái, rồi cái năm tôi học
trường Nguyễn ái Quốc, đi với anh Thử cùng tổ về tìm hiểu một hợp tác xã nông nghiệp ở
Trôi Gối vùng các huyện Đan Phượng và Hoài Đức. Chúng tôi qua cánh đồng, Thử có cái
đài Orion đeo bên nách, hát eo éo. Một anh đương cuốc ruộng, ngẩng đầu lên, hát đúng
cái câu lẩy Kiều có chữ “ăn không". ở đâu cũng có người làm, người chơi, những ví von
xỏ xiên sao khéo bay xa thế.
Rồi vào cuộc họp ngay ngắn. Bí thư kiêm chủ nhiệm bắt đầu nói, giọng đều đều như đọc
giấy: thóc đương gặt, chưa lên sổ sách, không được hoang mang. Thóc chưa về nhà
nhưng thóc đã được quảy về sân kéo đá, thóc chạy đâu, thóc mất đâu mà nháo lên.
Một bà vừa bước vào, nói ngay: “Mua xi măng chưa, trám xi măng vào mồm người ta ấy
à? Thấy mùa màng thóc lúa không ra sao thì phải sốt ruột chứ".
Chủ nhiệm lại nói, xung quanh lại to nhỏ lầm bầm.
Có lúc ồn lên như sắp cãi nhau, nhưng không, cứ vừa to tiếng lại vừa pha trò thế thôi.
Đảng viên Quốc trình bày cái thắc mắc của mình, nhưng nay đã ổn. Trong góc nhà có tiếng
chép miệng, kháy:
- Anh chẳng ổn thì ai ổn. Anh ổn là phải.
Chủ nhiệm Sự nói:
- Năm nay, chắc rồi tôi cũng thiếu, nhưng...
Cái bà nói mua xi măng lúc nãy, đốp ngay:
- Anh thiếu, đố anh dám thắc mắc.
- Tôi không thắc mắc lung tung!
- Tưởng tôi thắc mắc lung tung a? Có ở đây đông đủ cả nhà, là trong nhà, tôi nói toạc ra
thế chứ làm người phải có ăn có nghĩ chứ. Nhà tôi ngay bên đường cái, ai đi qua chẳng
tạt vào nhờ điếu thuốc, chén nước vờ xem con gà con qué dò la. Người kẻ bãi hỏi tôi
năm nay thế nào, tôi chỉ vào đống thóc thuế anh Sự gửi, tôi bảo thóc nhà được chia đợt
đầu, chưa kịp cân lại.
Còn nữa, còn nữa. ối, đầu vụ mà hợp tác tống đến lắm thế. Đứa nào bảo tôi ăn nói phá
hoại, hả? Thời này, không phải thời cải cách, vu oan giá họa cho người ta không được
đâu.
Lắm cái biết rồi, hỏi không để làm gì, cũng cứ hỏi, như phải có thắc mắc, có hỏi mới là đi
họp.
- Chia cho vài hạt thóc thế thì làm sao tôi nuôi con tôi. Không nuôi trẻ con nữa à?
- Nhà ai chẳng cõ trẻ con, chưa có hợp tác thì vẫn phải nuôi trẻ con chứ!
Bà ấy còn làu bàu nói một mình. Có người thì thào bà lão ban chiều dắt cháu vào ăn cỗ
cơm mới nhà ông đảng viên Dũng vừa xuống thành phần không vào hợp tác, chắc lại mới
nghe ông ta thổi cho mấy câu bất mãn bất mèo.
Mấy khi có cán bộ trên về và thế nào ông cán bộ cũng phát biểu và nói dài. Đã quá mười
giờ, lại giơ tay hùng hổ sang mục đích ý nghĩa đông xuân năm nay quan trọng đến kinh tế,
chính trị ra sao. Cả loạt người ngồi xa đã tựa vào tường, ngủ từ bao giờ. Có bà ngủ gật
giật mình ngồi chồm hỗm lên, hỏi:
- Ông này lắm lời nói đến sáng chắc?
Cán bộ nói:
- Không nói đến sáng đâu. Điều thứ năm là...
Cán bộ làm vẻ bình tĩnh nhưng bị câu hỏi sống sượng trắng trợn, cũng mất đà thao thao,
nhụt giọng dần, rồi đột nhiên ngồi xuống.
Cuộc họp cũng phải gác mấy việc, chỉ còn bàn làm mạ. Lại cãi cọ lao xao. Việc làm, việc
thi đua bao giờ cũng nói hăng, dẫu đương còn thắc mắc bề bề. Và ồn nhất là lúc gắp
thăm chia ba chiếc lưõi cày 51 chủ nhiệm mới sắm về.
Cái hố chúng tôi đã đào xong, sâu bằng chiếc vại, bây giờ đến công tác làm phân. Quán
hỏi:
- Thế nào?
Anh chàng hỏi cốt để khơi ra rồi lại nói:
- Việc này lại đến Quán ra tay thôi. Hôm nọ xuống Diêm đấy, Quán đã cắt nghĩa cho mọi
người biết ngọn nguồn hạt muối và nghề làm muối. Anh lại quên rồi.
Không phải chỉ tát nước biển lên phơi nắng thì ra muối. Tháo nước mặn vào, vừa phơi
vừa pha, đến lúc bỏ hạt cơm vào mặt nước, hạt cơm chìm là được. Lấy nước cái chan
lên mặt ruộng xi măng, hơi nước bay dần đi còn lại hạt muối, hạt vuông mặt nhỏ là muối
tốt, thế, thế...
- Quán nói thạo thế, chúng ta sẽ ở lại Diêm Điền, xin đi thực tế đợt nữa làm công nhân
nghề muối.
Quán cười hố hố.
Doạ chơi đấy thôi. Để anh thấy Quán lãnh đạo làm hố phân này là đích đáng. Ngày ở bộ
đội, làm cả một trăm hố phân cho đại đội, chả là tăng gia đơn vị riêng mà.
- Tớ vẫn làm theo Quán phân công đấy thôi.
Được rồi. Thế thì bây giờ, tính...
Chúng tôi ngồi hai bên hố, ngắm nghía, còn khoái cái công trình mới, đã quên mất nếu
ông Ngải không đào thử và chỉ vẽ cho thì còn loay hoay đến sang năm cũng chưa chắc
được cái hố nhép.
- Bây giờ tính... Theo lệnh tôi. Nhóm ta thi đua với các nhóm. Sáng mai triển khai ngay hai
công tác: đi gắp phân và bẻ lá ủ phân. Nhặt phân, gắp phân, gánh phân không phải việc
của anh, mà anh cũng không làm nổi. Tôi phân công anh đi các bờ bụi bẻ lá ủ. Nhớ cái lá
nào ngấu được, lá rền đất, dây mảnh bát, lá xoan. Đừng rước về lá tre, lá duối ủ một năm
không ngấu không tơi thì chết dở.
- ừ mà tớ không biết gánh. Tớ như anh cu đảng viên Dũng trong làng đem hai cái vai thờ
ở tỉnh về.
- Ai sinh ra mà đã biết gánh, lại gánh phân. Nhưng Quán đã sinh ra là bộ đội thì biết hết,
làm hết.
Rồi Quán về, vừa đi vừa hát thật to. Như diễu cợt, như quá vui, không biết bài chòi hay hát
dặm, chắc lại một câu Quán vừa nặn ruột ra- giọng Huế nghé ngọ lai lai.
Trời mưa, trời gió đùng đùng
Cha con ông Sùng đi gánh cứt trâu...
Sớm hôm sau, tôi ra ngoài tha ma cuối đồng. Đã để ý trên bụi móc diều ở đấy leo bùm
tum chằng chịt những dây lá mảnh bát, mảnh cộng, dây tơ hồng. Ngày còn ở làng, tôi hay
đi ngắt lá mảnh bát về nấu canh láo nháo, canh cua, tôi vẫn thuộc rau má, rền cơm, rau
sam, mùng tơi- những lá nào người ăn được thì chắc chóng ngấu, không như lá tre, lá
duối dai hơn giấy dầu bọc xi măng. Quán ở trong xóm đằng kia đi ra, gánh đôi quang lồng
một, hai thanh tre gắp phân đặt trên mặt sọt.
- Không được hả?
- Không được là thế nào! Kết quả buổi khai trương vượt mức. Đổ vào hố rồi. Ra giúp ông
anh đây. Bỏ đống lá vào sọt này, tôi quảy về cho.
Mỗi buổi sáng, công việc nhóm tôi như vậy. Có hôm Quán xong việc ra sớm, tôi còn
đương leo trên bụi duối, cắt dây mảnh bát. Quán quăng cái quang gánh, ngồi phệt xuống
đám cỏ trên nấm mả nhà người ta. Quán kể nông nỗi đi gắp phân như là đọc một mẩu
chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo trong xóm trổ ra cổng đồng còn tối đất. Những
con trâu, con bò ra ruộng làm sớm, thói quen tự nhiên tới rệ cỏ ven hào nước thì đứng lại
ỉa. Đến khi sáng hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt mở lốc nhốc kéo ra, ngồi bĩnh đấy.
Hai thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt cả phân trâu, phân người. Tìm ra những con
đường phân này cũng chẳng phải tài giỏi riêng Quán, mà sáng nào cũng có người nhặt
phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng, đi muộn có khi hết.
- Lá khoai lang ủ phân tốt, xuống lấy thêm vài nắm.
Quán xua tay:
- Đừng mó dái ngựa! Rau lang người ta cho lợn.
Anh chưa bị vố nào à? Cục cứt ở trong ruộng người ta cũng không được đụng vào. Sáng
nay thôi, tôi hót bãi phân dưới ruộng, một tên đến sừng sộ ngay. Con trâu hay thằng
người ỉa ruộng tôi làm là phân của nhà tôi, anh lên đường cái mà hót. Luật đất đai đã nói
đất của nhà nước, thằng cha lạc hậu thế mà mình phải chịu.
Chúng tôi làm hố phân cùng lúc với mọi bộn bề của những buổi gặt chính vụ. Rồi ra cái
xóm Đồng này hay hay dở không chỉ vì niêu cơm mỗi nhà trông vào, mà cả xã, cả hàng
huyện đương nghe ngóng, tọc mạch về cái hợp tác xã thí điểm. Đã lên kế hoạch gặt trước
trên ba mươi mẫu. Trời nắng thuận, lúa chín già mặt hạt thóc, đã được mấy mẫu sớm.
Đợt này thu tiếp một lèo trên mười mẫu, còn bọn ruộng hom muộn để đến cuối tháng gặt
nốt, chỉ ra đồng vài ba ngày là cùng. Công điểm gặt không sổ sách như công cày bừa đầu
vụ mà cân thóc trả tạm ngay cuối ngày.
Cả nhà cơm nước xong từ lúc còn tối đất. Ông Ngải thì ngồi uống nước, hai ấm đã kiệt.
Đòn càn, đòn xóc, dây dợ, thừng chão đã cắm sẵn từ hôm qua ngoài ruộng.
Giá như các năm trước chưa có tổ thì đã đi từ lúc sao mai còn lóng lánh đầu ngọn tre.
Bây giờ các nhà gọi nhau i ới, đến sáng bạch ngoài mặt ruộng mới dần dần rộn tiếng
cười nói rồi tiếng tay lúa chuyển rào rào.
Tôi cũng ra ruộng với ông Ngải. Ông Ngải dạy tôi gặt như bảo trẻ con chơi. Ông Ngải bảo
cách vun cây lúa, cắt quơ liềm, tôi nhận ra lý luận cái liềm, cái hái là những tay máy đầu
tiên thay tay người. Hình như ăng Ghen nói tương tự thế. Tôi cười thầm tôi chưa đổ mồ
hôi đã ra lý luận. Rồi tôi lại bực tôi tủn mủn hay chế diễu cả những việc giản dị. Đến những
động tác phức tạp nữa thì tôi cũng im cắt nghĩa, tôi lại cười tôi Tôi gặt với ông Ngải, anh
Sự và một lũ các cô Lẻn, cô Dăm, cô Vĩnh. Tay con gái thoăn thoắt, không quờ quạng như
tôi. Nhưng tôi cũng không thấy ngượng.
Tôi vơ bốn khóm lúa, hai đầu gối khuỳnh đỡ như kiệu quì. Tôi phải nhớ: tay cắt cất cao,
chân cụp lại, duỗi ra, từng hiệp, từng hiệp. Có cô ngoảnh sang tôi, cười như nắc nẻ: “Anh
Tư đừng lo, ông Ngải mà dạy cắt lúa thì chỉ nửa buổi anh đã hơn đứt chúng em". Các cô
đùa như nói trêu trẻ con, chứ đòi nào tôi ví được với các cô gặt khoan thai như văn công
múa. Tôi nhớ năm trước vào giải phóng Tây Bắc, ngẩn ngơ nhìn các cô gái Thái gặt ở
Phù Yên, lưỡi dao cắt từng bông lúa nếp thu vào ống tay áo chàm, như nhìn cô tiên trên
trời sa xuống.
Hôm sau, gặt lúa dâu. Quán lại dạy tôi bài học khó hơn. “Biết gặt, biết bó, biết gánh, gánh
không đổ, làm được ba cái biết ấy mới là thợ gặt". Tôi hỏi:
- Quán thạo mấy biết?
- Gặt và gánh. Còn bó thì chân đạp và đầu gối tỳ còn đuối, bó chưa chặt.
- Tớ thì ông Ngải mới cho học quơ liềm.
- Anh đích thực “họ Từ tên Hải vốn người ăn không” đã lâu rồi, chính phủ miễn cho anh
chức nông dân.
Chuyện vui, chuyện cười lao xao trong ruộng, chẳng mấy lúc đã cao ngộn những xếp lủa
đầu bờ. Quán bỏ gặt lăng xang lên chen vào đám gánh. Quán nhanh nhẹn quơ mấy cây
lúa thành một khóm, ba bốn khóm ra một gồ, ba gồ một lượm, ba lượm một bó. Một đòn
xóc hai bên sáu bó, khỏe thì tám. Một mạch thẳng về đến sân- gánh thóc không được đỗ,
đỗ thì thóc rụng.
Quán gánh con cón, như trai làng, hệt thợ gặt. Chẳng quẩn chân ai chút nào. Ông Ngải
nói: “Anh Quán ở đây được. Đã vợ con chưa?
Cô Hến kể: Bố tôi yếu rồi, chứ ngày trước ấy a! Nhà ăn thế anh đã bảo sớm, chứ khi
chưa vào hợp tác, mẹ tôi thổi cơm từ canh hai. Hôm nào đi gặt mướn thì đến ruộng mới
tỏ mặt người. Bố tôi ra đơm đó, nhấc lờ về, uống xong vò chè rồi đứng dậy ra ruộng còn
tối đất.
Buổi gặt về, chiều đứng im. Dòng sông và bóng bụi tre, bụi chuối lẫn vào nhau. Sao hôm
vừa lặn, sao vược lên cùng chùm sao tua rua như một quang đèn treo trên đầu khoanh tre.
Khéo nhỉ, sao tua rua mọc như thắp đèn đến sang canh đêm kéo lúa.
Ngày trước, nhà giàu thuê thợ hay treo giải gặt đầu mẫu. Chủ ruộng đếm từng quảy về
trước. Ai chẳng may cắt với ông Ngải thì biết trước là mất giải. Ông Ngải đã ăn giải cả
chục gánh một buổi. Làm ruộng giỏi như ông Ngải, ngày ấy, khi ở xóm Đồng về, tôi đã viết
một bài học văn cho học sinh lớp phổ thông miêu tả “Ông Sóng vò lúa”. Bàn chân to
ngoàm nghiến từng lượm. Người làm ruộng không cày, không trâu, không kéo đá, cả đời
chỉ cái cuốc và hai bàn tay, hai bàn chân với những nét ác liệt". Đến bây giờ tôi vẫn nhớ
mùa gặt ấy- mà cô Hến nói bố tôi già yếu rồi, nhưng tôi trông ông vẫn như pho tượng đá
không có tuổi, tay liềm thoăn thoắt, một chốc đã ôm cả hàng lúạ ra xếp xòe đuôi cá. Rồi
ông lên bó, chân đạp đầu gối ấn, chiếc đòn xóc đâm ngọt xuống, nhắc lên, hai bó lúa ôm
tròn hai đầu đòn như hai thớt cối đá.
Buổi gặt chiều, nắng nhạt nhuộm phớt vàng lên ngọn tre rồi mờ dần như khói. Phía bờ
sông đã ngấn lên một vảy mồng trăng đầu tháng. Ngoài đồng vãn người thì trong sân, mùi
lúa chín, mùi hôi gà vịt ra rúc xốc thóc rụng, trong vách lom đom lửa bếp. Cơm xong lại hối
hả đổ đi vò lúa, kéo lúa.
Tập gặt, quẩn chân người ta, nhưng tôi đã xếp được, hai tay hai bên đặt bó lúa đều, kiểu
vẫy đuôi cá vược cũng như ai. Nhưng chịu không bó được và thử nhấc cái đòn xóc, hai
vai như sắp sụn xương. Thế đã là được, cũng không nghĩ thêm được câu lý luận nào nữa.
Vừa buông tay liềm, nhìn xa đằng cánh đồng sâu đã thấy như chênh lên, mép ruộng nước
loang loáng nổi hình người vai đeo thừng, tay chống gậy gò lưng kéo bừa. Các xứ đồng
cao lại làm màu trồng khoai tây, Có mảnh đã xanh nhu nhú. Tiếng chuông chùa bên sông
bỗng ngân lên giữa lặng im. Hai chiếc thuyền bỏ mui trong bến, lửa bếp ánh đỏ mặt nước.
Những mẹt cau bà Ngải mới bổ phơi ngoài sân đã được cất vào nóc chạn. Miếng cau
xếp dựng hạt cho nhựa chảy, mai nắng lại bưng ra. Trong bóng chiều mỗi lúc một sẫm lại,
tiếng gọi đò, tìếng trẻ cười, tiếng trống báo họp tốí, tiếng xe lúa về, bánh xe lạo xạo trên
đường ẩm hơn sương. Đến khi đã tối thui thì như có cái vung úp xuống một trời sao long
lanh ưỡn rợn lên.
Dẫu thế nào thì những ngày gặt hái được trông thấy hạt thóc, đâu cũng rộn rã nhất vụ.
Người lo các thứ cho mọi công việc. Hũ mỡ nấu nướng cơm nước ngoài đồng, chai dầu
thắp kéo lúa khuya, cân chè hạt, nụ vối, xó thuốc lào... Và có hạt thóc, con chim gáy trong
búi tre trong giọng hơn, con gà con chó mỡ màng, con người quần quật làm bất kể đêm
ngày, nhưng ra được hạt gạo mới, mặt mũi dúờng như có phổng phao hơn. Cô Vinh nói
đùa, mà thật: “Em như con gà, quanh năm gày so vai, đến ngày mùa lại béo ú".
Chúng tôi bộn rộn ra đồng, nhưng vẫn chăm hố phân. Có cái hố phân xanh mà không nên
hồn thì còn ra sao- Phùng Quán bảo thế. Cái việc khó nhọc nhất vẫn là quang gánh Quán
đi gắp phân sớm, lỡ muộn là bị nhặt tranh hết. Thế mà hôm nào Quán cũng về trước, lại
đem quang sọt ra bờ rào giúp tôi khiêng đống dây dợ, lá lẩu về đắp xuống hố. Chúng tôi
vừa trễ nải lại như siêng năng, cứ lầm lũi, tuần tự và thờ ơ tha thẩn như thế. Quán phải
quang gánh đi tư tờ mờ nhưng chưa chắc đã dậy sớm hơn tôi. Chẳng phải tôi mất ngủ
bận bịu đọc hay viết khuya mà bởi ông Ngải đã ra búi tre lép từ lúc sương đêm còn lùa
vào nhà, gà vừa gáy tan canh. Lịch kịch, lỉnh kỉnh ông Ngải dựng cánh liếp lên, đem cái
nồi, rổ chè trong bếp ra ngoài bờ ao. Cả đời cạnh búi tre, đã ngồi đấy rồi.
Tôi tan mất giấc, ra với ông Ngải. Ông chẳng quan tâm, chẳng khách sáo. Ông nói cái
đêm chỉ làm lười con người, dạy sớm thế mới phải. Đã thuộc việc, tôi lấy rổ hái chè ngoài
vườn từ chiều hôm trước vàó gác trên bờ tre. Hôm đầu, ông cầm rổ rồi nói: “Chưa biết
hái. Phải vứt lá già, ngắt lá đương lứa thì chè mới dậm, mới sánh nước. Ông nhặt bỏ đi
đến nửa rổ những lá còi, lá sần sùi mà tôi tiện tay đã tuốt trụi cả cảnh.
Chẳng làm nổi cái thớ đút bếp. Trong đời, có mấy lúc ủ hố phân xanh để chơi mà cũng lo,
cũng không làm nổi. Thế thì tôi còn biết làm gì, tôi là ai, tôi là thằng thế nào. Việc ấy cũng
áy náy một thoáng nghĩ.
Bút mực, bút bi làm trò trống gì. Lởn vởn những câu Nguyễn Bỉnh Khiêm tự mỉa, mà là thật
như ông ấy ngồi trong bụng mình, - năm thế kỷ trước, thánh thật.
Không có tài mà được ngộ nhận, ban khen
Nhởn nhơ mà cứ dối là mình vất vả
Vốn học chưa đủ thỏa lòng mong mỏi
Chỉ chuốc lấy hư danh cho người đời chê cười
“Người đời” trước mắt tôi chỉ là ông Ngải thôi mà đã cảm thấy ngượng ngùng, ngượng
mà trơ ra không tự biết, nghe như thơ chửi người khác. Bàn tay ông Ngải ngoàm ra, vò
nắm chè như mớ rơm rửa bát. Bỏ chè vào rổ, ông Ngải dội nước sôi “luộc” rồi cho vào
ấm. Nhấp ngụm nước chè xanh rợn, đắng tê đầu lưỡi. ấy thế mà rồi cái đắng ấy dân dà
hôa ra ngọt đậm quen từ hôm nào, không biết. Mỗi sớm đi làm, chỉ bát nước chè đã no -
ông Ngải bảo vậy. Tôi cũng bắt đầu cảm thấy thế.
Vầng trăng cuối tháng còn vệt sáng xiên ngang giữa nhà, bà Ngải đã gọi cô Hến dậy thổi
cơm. Cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng trăng, ông Ngải dửng dưng. Ba mẹ con quanh cái
chõng, lâu nay có thêm tôi, nhà vẫn sớm mai cơm nước giờ giấc thói quen thế. Thường
thì cơm khan, chỉ chan nước mưa, nước vối, ít bữa nấu canh. Có đêm ông Ngải đi họp
hợp tác về, hỏi tôi mấy giờ tôi bảo ba giờ sáng. Ông Ngải không đi nằm, nhóm lửa đun
nước ngồi uống đến gả gáy tan canh rồi đứng lên ra bờ sông đặt đó. Hai bàn chân bàn
cuốc, bước huỳnh huych. Đời ông chỉ cuốc, xắn mai, làm vai con trâu kéo. Từ cái năm xây
cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ hoang được chín miếng thành ruộng rồi
ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác cũng kéo ra, cái xóm to dần.
Gặt đã vãn rồi ông Ngải dò dẫm lại từng góc ruộng, rồi đi nhấc lờ cá. Mẹ con cô Hến thì
bắt con chạch, con cua đến nhạt nắng mới về. Con tép bỏ vào chĩnh nước cáy. Mớ chạch
vùi nồi kho được thức ăn mai rồi.
Cu ốc thì đi tập dân quân, nằm vạ vật ngoài đình, sớm hôm ra ngay ruộng.
Bên kia sông, trên mặt đê kéo dài nền trời xám chẳng. ra chiều ra sớm. Những quảy lúa
nhấp nhô, chiếc xe bò lạch cạch, tiếng vọng xuống nước nghe vời vợi. Còn khô thoáng thế
này mà chỉ tháng sau đã đến cữ mưa dầm, gió bấc cho đến khi cánh đồng kiệt đã lên
sâm sấp nước thì có lứa rươi đầu ngoi lên ngọ ngoạy chân cỏ.
Hôm ấy phiên chợ Thượng. Nhà có buồng chuối dấm, bà Ngái đem bán. Chịu khó đi chợ
xa quả chuối được tiền hơn quanh quẩn xó chợ Phố của rẻ như rác.
Đò ngang đằng sau chân tre mới gà gáy đã nghe tiếng mái chèo gạt nước sớm hơn
thường ngày. Bà Ngải trõ vào giường gọi: “Trỗi! Trỗi! Một lát, bà cũng lại đi ngả lưng rồi
cái Hến mới ầm ừ ngồi lên. Ông Ngải đã gật gù ngoải hiên với ấm nước. Hến vào bếp
bắc nồi, thổi lửa. Cơm đã cạn, Hến ghế nồi, quấn mồi rơm rác quanh miệng kín nắp nồi
rồi lại mò vào giường.
Bà Ngải cứ như cái máy lại ngồi lên, ra ngả chiếc mâm chõng, lại cất tiếng réo “Trỗi, Trỗi”
gọi thằng ốc, cái Hến ra ăn cơm. Tôi đương uống nước với ông Ngải cũng vào mâm. Tối
mò, chẳng đèn đóm, vẫn cơm chạch kho lại thêm món muối rang như mọi sớm.
Tiếng cút kít, cót két cái lăn đá kéo lúa đã ánh ỏi ngoài đầu xóm. Ông Ngải uống cạn ấm
nước vẫn cằn nhằn đêm qua ra sân coi lúa, không biết bọn con đĩ dại nào kéo đá cờn như
ngựa bật cương, đú đởn nhau đùa nhau để lỏi thóc, sứt cả cái tai lăn.
Sáng bạch thì cả nhà đã đi hết...
Quán ra bảo tôi: “Bận sau anh chớ có trèo lấy lá xoan ủ phân, cành xoan không có thớ, nó
mà khấc một cái rơi thẳng xuống đất, chỉ có gãy xương. Để xem chỗ nào có bèo ong. Cái
bèo ong lợn không chén, có khi còn". Quán nói để khoe nó biết cành xoan ròn chứ tôi có
trèo xoan bao giờ. ừ thì mày đi mà tìm bèo ong. Ông đã chén cơm từ tám hoánh với cả
nhà, bây giờ tức bụng chỉ muốn nằm khểnh, mặc dầu tôi vừa mắng thằng tôi là ai, tôi là ai
thì tôi biết quá chứ.
Tôi ngắm lên cái nhà ông Ngải mới làm năm ngoái chưa xong hẳn. Một tay ông lo toan
cặm cụi, chăm chút từ lúc trồng vườn xoan tơ cho đến năm những cây xoan đầu lứa được
ngả xuống cưa, đẽo rồi ngâm vào bùn ao. Ông Ngải lại cẩn thận đi lùng cái thuốc bom,
thuốc bom chống được mối mọt, ông hòa loãng ra quết vàng khè khắp kèo cột ba gian
nhà. Cái sân còn đất nện, nhưng đã lên tường xây gạch con kiến bao quanh. Sau cổng
trồng hai cây cau lùn. Vài năm nay nhà được đủ bữa, đã khác. Một đời người chỉ cầm
cuốc, dần dà lên được cái nhà tươm thế này.
Hồi Pháp chiếm, ông Ngải không bị bắt đi dõng, đi bảo an, vì đã hom hem râu ria. Lão
xếp bốt hương binh quát ra lệnh: “Râu dài quá rốn cùng mặc mẹ nó. Cứ thấy đứa nào vẫn
hau háu mắt cú thì biết nó còn nhòm ăn, nhòm gái được thì cứ bắt cạo râu rồi giải cả về
đây”. Nhưng không phải ông Ngải nuôi râu chống càn như nhiều người trong vòng tuổi ba
mươi, mà hai con mắt ông Ngải từ trẻ đã lèm nhèm viền vải tây điều. Thế là thoát chân
lính tráng. Nhưng ông Ngải cũng không đi Việt Minh. Cũng như bây giờ, ông vẫn nói một
câu lừng khừng “chẳng ôm rơm nặng bụng".
Lúc cải cách, cả làng nháo nhào, ông đứng yên. Không ai đụng đến mấy miếng ruộng tay
ông cuốc nên. Ông Ngải chẳng tỵ nạnh với đứa nào. Bây giờ có hợp tác ông vào ngay.
Cái lý của ông cũng như người ta hiểu. “Cái ruộng nó trần trần ra đấy, làm thì ra thóc chứ
ra gạch a? Có ruộng thì có thóc, hợp tác cũng là ta cả thôi". Ông nói thế, nhưng thật cũng
không ai đoán nổi tại sao ông vào hợp tác nhanh vậy.
Ông Ngải được bầu làm chân kiểm soát trong ban quản trị. Ông Ngải hỏi kiểm soát có
phải là “củ soát tế vật” như ngày xưa các cụ đi tế ngoài đình. Sự bảo: “Kiểm soát là đứa
nào làm sai thì kiểm soát, uốn nắn người ta”, ông Ngải chỉ “ừm” một tiếng.
Tôi cũng lấy làm lạ cái tích cực bất thường của một người chỉ chăm chăm việc làm quanh
cái mai, cái cuốc. Một hôm, ông nói tôi mới nghĩ ra. Thì lại thật dễ dàng cái sự nhận làm
kiểm soát và vào hợp tác của ông. Ông tính: “Vợ chồng tôi già rồi. Con cái thì có nhớn mà
chẳng có khôn. Thì phải dựa vào trên chứ dựa vào ai, trên bảo làm thế thì làm”. Ông vào
hợp tác ngay cũng đơn giản cái nghĩ thế. Ông lại cắt nghĩa rằng vào hợp tác ai cũng phải
lao động. Lao động được chấm công, ăn thóc, không làm thì nhịn há mồm ra. Ông thích rõ
ràng như thế. Ông Ngải ghét nhất đứa lười, quân lười thối thây. Năm trước, có người
được chia ruộng, lại ôm đống quả thực cả giường chiếu, chum vại, quần áo hẳn hoi, thế
mà rồi nhai hết, bán cả lúa non, lại cởi trần nằm ổ lá chuối khô. Ông chửi ầm lên, ông bảo
cho nó chết. Ông Ngải chửi đứa người lười cũng khác người ta. “Không phải nó chịu hèn
nằm ngửa ăn sẵn đâu, những đứa quân thâm hiểm lắm chứ chẳng vừa". Bọn chúng thâm
hiểm thế nào thì ông không nói.
Có việc trên khuyến khích làm bèo hoa dâu bón ruộng. Bàn ở ban quản trị, ông Ngải nói:
“Đừng nuôi bèo dâu mà công toi. Bên Quỳnh Côi làm được, còn ở ta đất bãi nên đồng,
không hợp bèo dâu". Chủ nhiệm Sự nhăn nhó: “Tôi họp cả ngày nghe huyện dạy làm rồi
bảo cho hợp tác xã thí điểm được lên huyện lĩnh một sọt bèo"- “Các ông ấy dạy làm chứ
các ông ấy có làm đâu". Sự nói: “Thôi thì ta cứ đem về thả, có hỏng cũng chẳng chết ai”.
Ông Ngải chẳng găng nữa, mà lại nói hôm nào có bèo để ông đi lĩnh. Sự thì đa nghi, nói
khéo: "Bèo là phân bón, công tác phân bón của đồng chí Quốc, bố ạ".
Ông Ngải lặng im. ấy có lẽ ông lại tơ tưởng với những mảnh ruộng bãi tay ông cuốc. Cứ
ai bàn làm ăn, cả lúc ngồi yên dễ thường ông cũng nghĩ về nó. Tôi đã nghe ông nói không
biết cơ man nào lần, tôi cứ thành kiến về ông như thế. Nhưng mà một tay một đời làm nên
tác phẩm công trình thế, tự hào như ông là phải chứ. Cả cái thung này ngày trước hoang
mặn, chỏng trơ. Từng tảng cuốc lên rồi nhiều người trong làng ra kéo đỡ nhau dần dà
vượt qua được cái đất chua đất ác. Cũng bởi mọi nhà sàn sàn, lại quen vất vả tối ngày,
người ta cũng dễ một bụng, đổi công hay hợp tác thì cũng ra hạt thóc ăn chia cả.
Nhưng các nơi khác soi mới nhìn vào tò mò và lo lo. Cũng có người rì rầm: “Vừa được
chia miếng ruộng, chưa ăn xong bát cơm đã lại cộng lại, rồi còn vần xoay thế nào". Nhưng
những băn khoăn ấy không biết đến đâu, rồi im. Bởi vì chính phủ đã dựng cái hợp tác thì
rồi ở đâu cũng phải bước vào. Dạo này, Quán lên tận gần chợ Phố lấy phân. Chẳng biết
có trâu bò xóm nào ra đồng đằng ấy, nhưng Quán đã cáo lắm, đi tìm đồng vắng nơi đã bỏ
phân chuồng, đến thuổng một ít. Một hôm, đã chẳng được gắp phân nào, lại bị tẽn, Quán
kể:
Người trong xóm ra hỏi:
- Hợp tác trên ấy gặt hết chưa? Nghe nói họp thắc mắc suốt đêm không xong mà? à, à,
đến lấy phân ruộng nhà người ta, không được đâu. Hợp tác trên ấy ăn hết phân rồi á?
Quán lại chuyện:
- Chưa hết, chưa hết, đểu lắm. Còn có những đứa ra ngắm tôi rồi chép miệng: hôm mới
về các anh trắng trẻo béo tròn thu lu như ông cố đạo, bây giờ nhô vai gầy đen nhẻm. Chân
tay học trò của người ta thế kia mà các ông các bà hợp tác bắt con người ta làm con mẹ
mũi thung đi gắp phân. Dân ở bờ bãi quen xơi cả cứt có khác. Chúng nó nói nặng hơn
chửi, tôi không dám đối đáp lại.
Quán tong tả với cái quanh gánh sọt không. Chúng tôi nhìn nhau cười, chẳng hẳn cười.
Quán hay chửi bọn mỏ quạ ác khẩu. Rõ cái bụng ghét thì con mặt méo nhìn người ta. Làm
gì đâu mà đen nhẻm. Bữa nào cũng đánh mấy bát cật lực, ít thức ăn càng tốn cơm gạo
mới. Có về đây mấy đốt xương, khớp xương trong người tôi mới được đụng đến. ở cái
xóm lam làm đầu tắt mặt tối này, chuyện trong mọi nhà vui buồn chan hoà với mình. Chúng
tôi dường như ai cũng cảm thấy thế. Ngày rộng tháng dài tôi cũng không sốt ruột về thành
phố.
Tôi thích thú mọi chuyện nhà ông bà Ngải. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi kéo cày
mướn thay trâu. Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi năm sào ruộng
dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp rưỡi người khác mà
các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đâu năm. Rồi lại việc sông nước,
đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai.
Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều
ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc,
đất ngấu như bãi bồi. Thế là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn
tháu lăn lóc cả đồng.
Vừa sửa sang vườn ruộng, trồng rào hóp ra men sông thì xã ủy lập chòi hương dũng, rồi
Tây về đóng bốt, đuổi không cho người ở gần. Thế là phải chạy trở vào làng. Nhưng
chẳng bỏ vụ nào, vẫn lẻn ra đánh luống, chỉ phải cái không được ăn. Nhớ làm thì ra làm
thôi. Dưa hồng chín vàng bờ.. sông. Hai bốt Trả, bốt Cầu Sắt chúng nó đem xe cam nhông
ra khuân tiệt.
Năm bình yên rồi mới làm nhà, làm dần, tưởng như xong mà bây giờ vẫn chưa xong.
Sang năm xẻ gỗ mít, đóng cửa bức bàn. Mọi thứ ông đều làm tất tật. Bà Ngải lại kể với
tôi: “Buồn cười quá, khinh cả con trâu cũng chẳng bằng ông ấy, ăn thịt thì còn được chứ
kéo lúa thì chỉ biết kéo. Hai bàn chân tôi đây vò lúa khéo bằng mấy trâu kéo đá. Cả lượm
tôi vò chẳng rơi vãi một hạt".
Nhiều cụ già khác ngày trước như thế cả, như mẹ tôi khi sinh thời, người không ăn cháo,
có mệt mỏi cũng chỉ ăn cháo nấu như cơm nát. Ông Ngải nói người mà ăn cháo thì liệt
giường chầu trời đến nơi. Có lần ông Ngải đương lên cơn sốt rét mà nhà còn sào ruộng
chưa bừa, đã hẹn cấy. Ông dậy, đùng đùng vác bừa đi. Ông đặt nghiêng răng bừa trên
mặt nước, rồi quàng thừng kéo. Bừa xong cả thửa ruộng, ngồi xuống bờ, không đứng lên
được nữa. Ông nghĩ: phen này chết mất.
Không đi được, ông khoác bừa lên vai, lội xuống lạch nước, ông quờ quạng bơi bò về tận
bờ rào hóp sau nhà. Ông vào nằm đắp hai cái chiếu, đến nửa buổi, mồ hôi toát ra như
tắm, thế là tan cơn sốt. Ông lại ra chỗ ruộng mới bừa xem thợ cấy đã đến chưa.
Người ta hay nói vui với ông Ngải: “Cái lão khọm này thì phải bao giờ cho đi Liên Xô xem
máy cày, máy gặt đập, cái tàu hoả, tàu bay thì may ra lão mới biết sợ. Chứ con trâu con
bò thì chỉ để mổ thịt, được cái bộ gì phải không?” Ông Ngải cười: "Đúng đấy, nhưng mà
biết đến năm thằng ốc, cái Hến lấy vợ lấy chồng thì tôi còn sống mà được nhìn thấy cái
máy cày chưa?"
Ông Ngải nói ví thử thế cho vui miệng chứ cái Hến chỉ khoảng tuổi mười lăm, mà đã sắp
về nhà chồng. Chú rể Toàn ở trong làng, cũng học lớp hai lớp ba cho biết mặt chữ như
Hến rồi ở nhà. Toàn chắc nhỉnh tuổi hơn Hến, dáng chững chạc. Mỗi lần ra nhà Hến, Toàn
đội cái mũ nan lá cọ bóng dầu, áo sơ mi trắng, quần phăng ka ki xanh nhạt, trong túi quần
có cái khăn mùi xoa.
Bố vợ sai xới luống rau, chữa cầu ao, đánh cây rơm. Toàn cởi trần, mạc độc cái quần
cộc. Thói tục đất này tự nhiên, mới ăn hỏi mà chàng rể đã năng đến nhà vợ. Nhưng tôi
chẳng thấy hai đứa trò chuyện, đùa nghịch khi nào. Chiều cơm nước xong thì Toàn về.
Hôm ấy, Toàn với Hến ra vườn cắt hai buồng chuối tây mỗi buồng hơn mười nải. Một góc
vườn có đến mấy chục cây chuối, chuối dấm chuối chín chẳng mấy phiên chợ Phố, chợ
Diêm không có chuối ra chợ. Mà tôi không thấy nhà ăn quả chuối nào bao giờ. Mai đi chợ
Diêm từ lúc sao chưa lặn, thế mà khi Toàn về trong làng, tối mẹ con Hến lại đi kéo lúa như
mọi khi đến khuya ngủ một lúc gà đã gáy dồn. Bà Ngải lại gọi: “Hến! Hến.! Trỗi! Trỗi! ”.
Tinh mơ ông Ngải đã ngồi đầu chõng với cái vò nước, cái điếu cày.
Cô Hến trở mình,ngái ngủ. Phải vài ba lần bà Ngải quát gọi, cô Hến mới ậm ự ngồi lên. Lại ra nhóm bếp,
bắc nồi, tra gạo bà Ngải đã vo sẵn, lúc quấn cơm xong lại vào gường lăn ra. Đến lượt bà
Ngải bày mâm bát, bắc cơm, lại hò: “Trỗi! Trỗi! ” Cô Hến trở mình, chép miệng, ú ớ. Phải
mấy câu giật lên nữa cô mó thật ngồi dậy được và ra chỗ mâm chõng. Rồi vẫn chỉ có ba
mẹ con và tôi ăn thầm trong bóng tối.
Tôi nói:
- Tôi cũng đi chợ Diêm. Lúc nào Toàn ra đây?
- Bây giờ thôi.
Bà Ngải đã ăn xong, đứng dậy. Tôi ra mái hiên nhìn trời chỉ còn ông sao mai sáng rợn
sau bụi tre. Toàn chưa ra, tôi lại vào uống nước. Ông Ngải kể chuyện ngày trước quãng
trời này ông đã đi “đón công” ở chợ Phố. Chủ ruộng đến chọn người mướn đưa ra ruộng,
cắt được một gánh, xóc đòn quảy về sân nhà người ta, trời mới sáng.
Ông Ngải vẫn gật gưỡng, lại hút điếu thuốc. Sớm mai mừ mờ, lạnh đầu ngón tay. Ông
Ngải đã đặt đó lúc chặp tối qua, bây giờ đợi con rể ra, chúng nó đem chuối xuống chợ thì
ông xuống rệ sông nhấc đó. Nhưng ngại đi trễ nhỡ tuột cứ cá ra, ông Ngải đứng lên. Đặt
đó cũng không phải cứ quăng xuống cửa rãnh, phải bôi đất thó nhẵn mép nước, cá bống
vào mới không trợn. Đến lúc Toàn ở trong làng ra, ông Ngải vừa xách đó về đã lại ngồi
ngoài bụi tre lép chẻ lạt. Chỉ được một con răn mòng không cá nào dám bén mảng, ông
Ngải đem đó về ngay. Quay đi quay lại, mới tinh mơ bảnh mắt ông Ngải đã được ối việc.
Toàn vác đến cái đòn ống. Hai buồng chuối buộc túm cuống lại, như trói con lợn, mỗi
người một đầu đòn. Cái đòn lắc lư đi một quãng, tôi bảo để tôi đỡ một vai. Toàn bảo:
“Nhẹ như bấc, có gì đâu". Từ nhà xuống Diêm, hơn mười cây, đi đã mất ngót buổi. Mọi
thứ mua bán đều gồng gánh trên vai, chẳng biết thế nào nặng, thế nào xa.
Hai bên cánh đồng lác đác những đầu bờ cắm đòn xóc, treo cái mồi rơm, ấm nước.
Nhiều nơi còn gặt muộn. Nhưng nhiều chỗ đã làm mùa, đương cày dầm.
Rồi có ruộng cày xếp ải quanh bờ, đất đã nỏ, sắp tháo được nước. Chỗ làm mùa, chỗ
sang màu, đồng áng chẳng còn phân biệt mùa vụ, lúc nào cũng lật đất kiếm cái ăn.
Đã trông xa xa những bãi sú xanh xanh ngang mặt biển. Rễ sú to hơn thân cây, trồng từng
hàng làm bờ rào ngăn sóng. Trên những vùng cỏ bằng phẳng mặt nước lợ, lốm đốm
những con cò trắng mỏ ngà, chốc lại bay vồng lên. Đàn vịt nhà hàng trăm con lạch bạch, à
à vỗ cánh đùa quẩn trên mặt nước.
Phố Diêm giữa đường cát, nổi lên lơ thơ tháp nhô mái lá như những chóp nón úp. Nhà
cửa, hàng quán vách quét vôi vàng như phố nửa thời tản cư. Một kho gạo, một hiệu bách
hóa nhà mậu thì tường gạch trần, lợp ngói.
Ngoài cửa sông, những đống lưới cao như gò. Mấy cánh buồm nâu. Không biết thuyền
sắp ra khơi hay thuyền buôn vào chợ. Nhà ai phơi cá, phơi moi ngay mặt đường. Những
đàn nhặng xanh bay từng đám chụm lại, tưởng như vốc tay được. Mùi cá, mủi mắm thum
thủm khắp nơi.
Xóm thưa thớt lẫn với cánh ruộng muối trắng. Biển tít mù ngoài bãi sú bạt ngàn, những
mái tôn, mái lá càng ẹp xuống dưới những tảng đá chặn lên ngăn gió thổi bay. Không một
bóng chim. Một vùng tiêu sơ ngày ấy, bây giờ đọc báo được tin đương xây cảng hiện đại
Diêm Điền cho tàu viễn dương hàng nghìn tấn ra vào được. Không cắt nghĩa được mà lại
thấy ra được, như hồi đầu thế kỷ, ở nơi chơ vơ sóng gió, ăn còn không có lấy đâu ra chữ
nghĩa và hiểu biết, thế mà ở đây đã sinh ra người thanh niên Nguyễn Đức Cảnh xuất
dương đi hoạt động từ khi cách mạng còn trong trứng nước..
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương IV
Năm sau, tôi học trường Nguyễn ái Quốc, cùng tổ với kỹ sư canh nông Ngô Tấn Nhơn.
Anh Nhơn là người đã cùng đoàn cán bộ đi tham quan Quảng Tây. Bạn đưa đến một
cánh đồng thí điểm cấy dày. Nhưng ruộng đã gặt, được nghe báo cáo xem ảnh và trông
gốc rạ chi chít liền như trải chiếu. Bạn trình bày có kỹ thuật mới sang năm bình quân mẫu
sẽ trăm tấn, bây giờ cho ruộng luân canh bỏ hóa để đất được ngủ, được thở vụ sau càng
tốt hơn nữa.
Anh Nhơn cười hiền lành: “Các đồng chí ấy và chúng tôi đều ước vọng như người nông
dân xưa nay ước vọng. Đi tham quan về, tôi làm báo cáo và kế hoạch. Trên nhận xét con
số chỉ tiêu còn thấp còn bảo thủ. Vừa đi tham quan nơi tiên tiến nhất, không thể xoàng thế.
Tôi nâng 4 triệu lên 6 triệu tấn gẩn gấp ba. Ra hội nghị, nống lên nữa, thành 7 triệu ở các
cuộc họp xóm, xã, tổ sản xuất, tôi đã dự lắm cuộc thi đua đặt mức. Cũng như các cuộc
họp anh Nhơn kể lại, làm ăn còn trông vào ngày mưa ngày nắng mà đâu cũng thế, cứ sôi
nổi nhận văng mạng thật cao, càng cao, ở xã, rồi lên huyện, lên tỉnh lại đun lên. Thả sức
ganh nhau, rồi chẳng làm được cũng thôi. Bỏ vì được hạt thóc còn “trông trời, trông đất,
trông mây” cứ ước thế vầy, mất gì.”
Tổ ông Thông mượn được miếng ruộng vài thước vuóng rồi xin mạ về cắm liền tù tì. Ngày
ngày tát nước, bỏ phân, ú phân xanh, cả phân tươi. Cây lúa chen chân lên, cũng xanh mỡ
mượt mà, nhưng lúa xít gốc, nóng hầm hập, hút nước tợn quá. Phải kế hoạch quạt cho lúa
mát, vào làng mượn chiếc quạt thóc cánh phẳng nặng như cái cùm- ở trên báo đã nói lúa
cấy dày lên, nóng phải quạt, kinh nghiệm canh tác đấy. Quạt vài hôm, lay thử, cả khóm lúa
bềnh ngã ngửa, lá vàng ỏng, thối rễ.
Ông Ngải kết luận hộ. “Các anh chơi trò trẻ ranh".
Rồi những năm sau, Phùng Quán còn đi lao động dài hạn, ngắn hạn ở những nông trường
Đông Hiếu, Tây Hiếu và đâu đâu nữa không biết, nhưng mà đợt này một nhóm có hai
chúng tôi, kể ra tổ trưởng Thông cũng khéo xếp. Một mình tôi thì nên cơm cháo sao được,
lại chỉ mồm miệng đỡ chân tay. Nhớ hôm ấy có mấy chén rượu suông. Hồi này Thông
cũng chưa uống mấy, nhưng máu nát rượu thì sẵn, không vì uống nhiều hay ít, chỉ cầm
chén ngùi hơi men đã ngà ngà rồi.
Thông đứng dậy, chân la đà. Phùng Quán giơ tay: Anh để em đỡ. Thông quắc mắt: “Tao
vừa công bố mày với ông Hoài một nhóm, tao có say đâu".
- “Anh cứ vịn vai em cho chắc". Thông quát: “Ông mà phải để cho Nhân Văn giắt à?” Tôi
nhớ một hôm ở cơ quan 84 Nguyễn Du, có liên hoan cuối năm, bấy giờ chỉ có rượu mùi,
chẳng biết Thông uống thế nào, đến lúc ra cửa, Quán dìu một bên. Thông vùng tay ra, cũng
nói một câu ấy: Tao mà... tao mà... Chẳng biết Thông nhớ không. Chắc là không, nên mới
nói lại đúng thế. Quán ngồi lặng im, vẻ mặt buồn, nhìn Thông đi ra. Chúng tôi bàn việc làm
hố phân. Cái sự người say không cho là mình say, mà cũng không hẳn là say, bởi vì sáng
kiến do tổ trưởng Thông nảy ra bảo tôi và Quán làm một hố phân, không phải chúng tôi đã
nghĩ ra.
Hai người một hố phân xanh. Các nhóm khác hình như cũng làm thế. Hố phân chúng tôi
đào ngoài góc vườn chè. Ông Ngải hỏi: “Các anh làm gì đấy?”
- Hố phân xanh ạ!
Ông Ngải không nói gì. Quán đi mượn thêm một chiếc mai về cho tôi.
Quán nói:
- Anh thì trình độ hon em, anh là nhóm trưởng.
Nhưng việc này thì em xin chỉ huy anh. Lệnh của em là: em đào, anh hất đất lên.
Đúng quá, vừa sức chân tay tôi, không thể còn ý kiến vào đâu được. Quán phạt cỏ, làm
dấu xới một vòng tròn to bằng cái miệng giếng, rồi bắt đầu thúc lưỡi mai, nhanh nhẹn điệu
nghẹ. Hai tay nhấc cán, bàn chân dận lên thành lưỡi, bầy đất lên. Nhưng đất vụn ra, tôi
không lùa mai hất được. Tôi lấy tay bốc, nhưng một lúc vẫn chưa được bốc, chỉ đất cằn
lăn ra nham nhở từng đám. Quán bảo: “Không cần bốc vội, đợi dào quành thế này cho
thành miệng hố đã".
Thì tôi cũng biết thế và ngồi tỳ khuỷu tay lên đầu gối, đợi.
Ông Ngải đi đâu về, ra vườn, đứng nhìn Quán cởi trần hì hục đào. Ông Ngải chép miệng:
- Đào thế thì đến hai phiên chợ Diêm cũng chưa được cái hố đâu.
Quán hỏi lại, giọng rụt rè, không rành rõ tự tin như lúc nay giảng cho tôi:
- Ông bảo phải đào thế nào?
Hố ủ phân chỉ như miệng cái thúng, đào đâu to như cái giếng thế. Khoét hũm trước, bằng
cái đấu thôi. Xắn ra từng phía mới được.
Rồi ông Ngải cầm mai, đẩy chân một cái, chỉ ba bốn nhát, đất đã lên từng vốc. Quán
đứng nhìn ông Ngải, gật gù: “Được rồi, cháu sáng mắt ra rồi, cụ ạ.
Không phải chỉ anh mới có năm xe chữ, em chẳng mẹt chữ nào mà cũng suông cả. Trí
thức tiểu tư sản không bằng cục cứt thật. Cụ ra ví dụ thế đủ rồi, để cháu làm tiếp.
Nhưng ông Ngải đương thuận tạy cứ đào, hai chúng tôi bốc liền liền lên. Quán cứ tắc
lưỡi: trí thức, trí thức...
ông Ngải thúc mai phăm phăm, vừa chuyện vừa hỏi: ông phó cạo ngoâi đê bảo ông Ngọc
mới được sang nước Tiệp Khắc về.
Đã mấy năm trước, hội sân khấu cử Chu Ngọc đi tham quan nước Tiệp. Chắc Chu Ngọc
đã khoe với ông phó cạo.
- Vâng ạ.
- Thảo nào, ông ấy đi cả ngày, không xếp ải, không đào hố phân như các anh. Cán bộ to
mới được thế.
Quán nói:
- Không phải đâu. Ông ấy cũng bằng cháu thôi.
- Cán bộ cốp là bác Thông, bác Thông chúng cháu cũng lao động cả ngày đấy. Lao động
là vinh quang, ông Ngọc ông ấy lười ạ.
- Thế hai bác đã được đi nước Tiệp Khắc chưa?
Quán cười to:
- ồi, ăn thua gì. Chỉ đi nửa buổi đã đến nước Tiệp Khắc, bằng từ đây xuống Diêm, à xa
hơn một tý. Bác Thông ngồi tàu bay nửa tháng mới sang đến nước Liên Xô. Hôm nào cụ
cứ hỏi chuyện bác ấy xem..
- Ô là vậy! ôi a ồ...
Chẳng mấy lúc đã rõ ra cái hố sâu, tròn vành vạnh ông Ngải vào lấy cái sảo cho chúng tôi
khiêng đất đổ đắp vào cáe gốc cây chè. Ông Ngải nói: “Đất tường, đất vách ám khói bồ
hóng ủ phân chóng ngấu. Sẵn cái mai, bếp nhà tôi có mảng tương ám khói đã đổ một vì,
tôi đợi có rơm thì lấy bùn ao đắp tường mới, các anh đem đất ấy ra mà lót hố phân.”
Quán xua tay:
- Không, không, cụ ạ.
- Đất có hơi bếp, ngưòì ta gánh ra ruộng tốt như bỏ phân ấy mà.
- Thôi, thôi. Tổ trưởng đi kiểm tra lại bảo chúng cháu ăn gian đem lót đất dưới đáy cho
chóng đầy hố thì chết cha.
- Đất vách bếp khác...
- Các ông cán bộ to không biết đất nào vách bếp vách chuồng trâu đâu. Cháu lạy cụ.
Tôi chen vào:
- Mà hố chóng đầy thì chóng hết việc, lại phải đào hố khác, vẽ chuyện.
Chán chuyện chúng tôi. Ông Ngải cười hiền lành, không nói nữa. Ông ra ngồi hút thuốc
bên búi tre lép.
Ông quay mặt vào bảo: “Nghỉ tay ra uống nước". Rồi ông vào trong bếp bưng ra nồi nước
chè buổi sáng còn ông ăn ngữ ba bát cơm. Ông chỉ nghiện thuốc lào và nước chè vò.
Sáng sớm, ông làm hết hai ấm chè tươi đặc rồi ra làm đồng, đến trưa về mới ăn cơm.
Mặc cả nhà ăn sớm, từ thuở trẻ, ông Ngải cơm nước thế, đã quen lệ.
Chặp tối, từ trên đê lộc cộc xuống một cái xe ba gác người đẩy người kéo, người bắt
bánh chờ đồ đạc và máy “chớp phim”. Đội chiếu bóng huyện được lệnh cho ưu tiên về
phục vụ hơp tác xã thí điểm. Hai cái xe phủ bạt ni lông xanh, dây chằng như buộc con trâu,
phía dưới hở ra một hàng đít phuy xăng sơn hắc ín và những cạnh hòm gỗ vuông. Ngoài
nóc bạt cài chiếc loa thiếc to bằng cái thùng và một bu gà, tiếng nhiếp nhiếp cả gà con,
không biết là để thịt hay gà đàn nuôi.
Mỗi xe, một người xách lúc lắc cái đèn bão, cứ hô tiến lên, tiến, tiến lên mỗi chỗ đường lồi
lõm ổ trâu.
Đội chiếu bóng của huyện, của tỉnh lưu động qua các làng, đem đến những máy móc và
phim ảnh các nơi mà nhiều người trong làng chưa bao giờ được xem và cái gì mới cũng
thấy là lạ.
Hôm vừa rồi, hiệu chụp ảnh ở chợ Diêm bán được mấy chục chiếc anh một nữ diễn viên
Liên Xô, ông thợ dã khêo tô mặt mộc thành mạt son phấn, váy áo sặc sỡ. Thanh niên bá
vai hỏi nhau: “Mua ảnh em chăn ngựa chưa", ý nói ảnh cô giáo trong phim Tiếng hát
người chăn ngựa mới chiếu mấy đêm ở bãi chợ.
Ba tối liền, các phim Tống Cảnh Thi, Tiếng hát người chăn ngựa, người các làng về xem
ngồi kín mặt ruộng đồng cao. Ông Ngải đi xem, còn tôi nằm trong chõng cạnh bụi tre lép,
dưới ánh trăng suông, ngoài chân đê.. nghe loa hát đồng ca Hò kéo pháo, tiếng máy
phành phạch, tiếng người thuyết minh sang sảng, thánh thót.
Giữa mấy đêm vui, ngoài đồng nhiều thửa ruộng vẫn đương gặt và ban quản trị họp khuya
bàn những chuyện gấp. Khi giáp hạt, cái đói và cái ăn kề nhau, nhà nào cũng nháo nhác,
nhưng năm nay có hợp tác, có tổ, cái lo được đem ra đình, ra trụ sở.
Hai cái xe ba gác của đội chiếu bóng lạch cạch chuyển sang làng khác rồi. Xẩm tối, các
xã viên đã đến đông đủ Chúng tôi đi họp, có tổ trưởng Thông và một cán bộ ban công tác
nông thôn không biết huyện hay tỉnh cũng dự. Mỗi một cái đèn hoa kỳ trên đầu bàn đằng
kia, cả gian nhà hũ nút tối lem nhem như trong chuồng trâu. Các bà, các chị bó gối ngồi lố
nhố dưới đất. Một anh dáng chừng thông tin xã, nói to:
- Các bác văn nghệ ra cho một bài nào.
- Phải đấy! Ai đi hò lờ..
Bí thư Sự hét:
- Đây là các bác nhà văn, nhà báo, không phải văn công.
- Thì cũng là văn báo, văn công cả!
Một người ngồi đằng giáp tùờng bỗng lên một câu hò lơ lẩy Kiều.
- Nhà báo à? Báo cô báo cậu! Đội trời đạp đất ở đời, Ai đi hò lờ. Họ Từ tên Hải vốn
người ăn không Hò lơ hó lơ hò lừ...
Quán ghé tai tôi:
- Tên ấy xỏ chủng mình. Tôi phải ra trổ một bài đập lại.
Tôi kéo Quán ngồi xuống. Bí thư Sự tinh ý quát:
- Không được hát mất lập trường. Câm cái mồm!
Nhiều ngườì vỗ tay, cười ầm. Không biết cười cái gì. Thật quái, rồi cái năm tôi học
trường Nguyễn ái Quốc, đi với anh Thử cùng tổ về tìm hiểu một hợp tác xã nông nghiệp ở
Trôi Gối vùng các huyện Đan Phượng và Hoài Đức. Chúng tôi qua cánh đồng, Thử có cái
đài Orion đeo bên nách, hát eo éo. Một anh đương cuốc ruộng, ngẩng đầu lên, hát đúng
cái câu lẩy Kiều có chữ “ăn không". ở đâu cũng có người làm, người chơi, những ví von
xỏ xiên sao khéo bay xa thế.
Rồi vào cuộc họp ngay ngắn. Bí thư kiêm chủ nhiệm bắt đầu nói, giọng đều đều như đọc
giấy: thóc đương gặt, chưa lên sổ sách, không được hoang mang. Thóc chưa về nhà
nhưng thóc đã được quảy về sân kéo đá, thóc chạy đâu, thóc mất đâu mà nháo lên.
Một bà vừa bước vào, nói ngay: “Mua xi măng chưa, trám xi măng vào mồm người ta ấy
à? Thấy mùa màng thóc lúa không ra sao thì phải sốt ruột chứ".
Chủ nhiệm lại nói, xung quanh lại to nhỏ lầm bầm.
Có lúc ồn lên như sắp cãi nhau, nhưng không, cứ vừa to tiếng lại vừa pha trò thế thôi.
Đảng viên Quốc trình bày cái thắc mắc của mình, nhưng nay đã ổn. Trong góc nhà có tiếng
chép miệng, kháy:
- Anh chẳng ổn thì ai ổn. Anh ổn là phải.
Chủ nhiệm Sự nói:
- Năm nay, chắc rồi tôi cũng thiếu, nhưng...
Cái bà nói mua xi măng lúc nãy, đốp ngay:
- Anh thiếu, đố anh dám thắc mắc.
- Tôi không thắc mắc lung tung!
- Tưởng tôi thắc mắc lung tung a? Có ở đây đông đủ cả nhà, là trong nhà, tôi nói toạc ra
thế chứ làm người phải có ăn có nghĩ chứ. Nhà tôi ngay bên đường cái, ai đi qua chẳng
tạt vào nhờ điếu thuốc, chén nước vờ xem con gà con qué dò la. Người kẻ bãi hỏi tôi
năm nay thế nào, tôi chỉ vào đống thóc thuế anh Sự gửi, tôi bảo thóc nhà được chia đợt
đầu, chưa kịp cân lại.
Còn nữa, còn nữa. ối, đầu vụ mà hợp tác tống đến lắm thế. Đứa nào bảo tôi ăn nói phá
hoại, hả? Thời này, không phải thời cải cách, vu oan giá họa cho người ta không được
đâu.
Lắm cái biết rồi, hỏi không để làm gì, cũng cứ hỏi, như phải có thắc mắc, có hỏi mới là đi
họp.
- Chia cho vài hạt thóc thế thì làm sao tôi nuôi con tôi. Không nuôi trẻ con nữa à?
- Nhà ai chẳng cõ trẻ con, chưa có hợp tác thì vẫn phải nuôi trẻ con chứ!
Bà ấy còn làu bàu nói một mình. Có người thì thào bà lão ban chiều dắt cháu vào ăn cỗ
cơm mới nhà ông đảng viên Dũng vừa xuống thành phần không vào hợp tác, chắc lại mới
nghe ông ta thổi cho mấy câu bất mãn bất mèo.
Mấy khi có cán bộ trên về và thế nào ông cán bộ cũng phát biểu và nói dài. Đã quá mười
giờ, lại giơ tay hùng hổ sang mục đích ý nghĩa đông xuân năm nay quan trọng đến kinh tế,
chính trị ra sao. Cả loạt người ngồi xa đã tựa vào tường, ngủ từ bao giờ. Có bà ngủ gật
giật mình ngồi chồm hỗm lên, hỏi:
- Ông này lắm lời nói đến sáng chắc?
Cán bộ nói:
- Không nói đến sáng đâu. Điều thứ năm là...
Cán bộ làm vẻ bình tĩnh nhưng bị câu hỏi sống sượng trắng trợn, cũng mất đà thao thao,
nhụt giọng dần, rồi đột nhiên ngồi xuống.
Cuộc họp cũng phải gác mấy việc, chỉ còn bàn làm mạ. Lại cãi cọ lao xao. Việc làm, việc
thi đua bao giờ cũng nói hăng, dẫu đương còn thắc mắc bề bề. Và ồn nhất là lúc gắp
thăm chia ba chiếc lưõi cày 51 chủ nhiệm mới sắm về.
Cái hố chúng tôi đã đào xong, sâu bằng chiếc vại, bây giờ đến công tác làm phân. Quán
hỏi:
- Thế nào?
Anh chàng hỏi cốt để khơi ra rồi lại nói:
- Việc này lại đến Quán ra tay thôi. Hôm nọ xuống Diêm đấy, Quán đã cắt nghĩa cho mọi
người biết ngọn nguồn hạt muối và nghề làm muối. Anh lại quên rồi.
Không phải chỉ tát nước biển lên phơi nắng thì ra muối. Tháo nước mặn vào, vừa phơi
vừa pha, đến lúc bỏ hạt cơm vào mặt nước, hạt cơm chìm là được. Lấy nước cái chan
lên mặt ruộng xi măng, hơi nước bay dần đi còn lại hạt muối, hạt vuông mặt nhỏ là muối
tốt, thế, thế...
- Quán nói thạo thế, chúng ta sẽ ở lại Diêm Điền, xin đi thực tế đợt nữa làm công nhân
nghề muối.
Quán cười hố hố.
Doạ chơi đấy thôi. Để anh thấy Quán lãnh đạo làm hố phân này là đích đáng. Ngày ở bộ
đội, làm cả một trăm hố phân cho đại đội, chả là tăng gia đơn vị riêng mà.
- Tớ vẫn làm theo Quán phân công đấy thôi.
Được rồi. Thế thì bây giờ, tính...
Chúng tôi ngồi hai bên hố, ngắm nghía, còn khoái cái công trình mới, đã quên mất nếu
ông Ngải không đào thử và chỉ vẽ cho thì còn loay hoay đến sang năm cũng chưa chắc
được cái hố nhép.
- Bây giờ tính... Theo lệnh tôi. Nhóm ta thi đua với các nhóm. Sáng mai triển khai ngay hai
công tác: đi gắp phân và bẻ lá ủ phân. Nhặt phân, gắp phân, gánh phân không phải việc
của anh, mà anh cũng không làm nổi. Tôi phân công anh đi các bờ bụi bẻ lá ủ. Nhớ cái lá
nào ngấu được, lá rền đất, dây mảnh bát, lá xoan. Đừng rước về lá tre, lá duối ủ một năm
không ngấu không tơi thì chết dở.
- ừ mà tớ không biết gánh. Tớ như anh cu đảng viên Dũng trong làng đem hai cái vai thờ
ở tỉnh về.
- Ai sinh ra mà đã biết gánh, lại gánh phân. Nhưng Quán đã sinh ra là bộ đội thì biết hết,
làm hết.
Rồi Quán về, vừa đi vừa hát thật to. Như diễu cợt, như quá vui, không biết bài chòi hay hát
dặm, chắc lại một câu Quán vừa nặn ruột ra- giọng Huế nghé ngọ lai lai.
Trời mưa, trời gió đùng đùng
Cha con ông Sùng đi gánh cứt trâu...
Sớm hôm sau, tôi ra ngoài tha ma cuối đồng. Đã để ý trên bụi móc diều ở đấy leo bùm
tum chằng chịt những dây lá mảnh bát, mảnh cộng, dây tơ hồng. Ngày còn ở làng, tôi hay
đi ngắt lá mảnh bát về nấu canh láo nháo, canh cua, tôi vẫn thuộc rau má, rền cơm, rau
sam, mùng tơi- những lá nào người ăn được thì chắc chóng ngấu, không như lá tre, lá
duối dai hơn giấy dầu bọc xi măng. Quán ở trong xóm đằng kia đi ra, gánh đôi quang lồng
một, hai thanh tre gắp phân đặt trên mặt sọt.
- Không được hả?
- Không được là thế nào! Kết quả buổi khai trương vượt mức. Đổ vào hố rồi. Ra giúp ông
anh đây. Bỏ đống lá vào sọt này, tôi quảy về cho.
Mỗi buổi sáng, công việc nhóm tôi như vậy. Có hôm Quán xong việc ra sớm, tôi còn
đương leo trên bụi duối, cắt dây mảnh bát. Quán quăng cái quang gánh, ngồi phệt xuống
đám cỏ trên nấm mả nhà người ta. Quán kể nông nỗi đi gắp phân như là đọc một mẩu
chuyện trên báo. Các đường ngoắt ngoéo trong xóm trổ ra cổng đồng còn tối đất. Những
con trâu, con bò ra ruộng làm sớm, thói quen tự nhiên tới rệ cỏ ven hào nước thì đứng lại
ỉa. Đến khi sáng hẳn, trẻ con trong xóm mắt nhắm mắt mở lốc nhốc kéo ra, ngồi bĩnh đấy.
Hai thanh tre của Quán mở ra gắp lên sọt tuốt cả phân trâu, phân người. Tìm ra những con
đường phân này cũng chẳng phải tài giỏi riêng Quán, mà sáng nào cũng có người nhặt
phân từ các ngõ xóm ra cổng đồng, đi muộn có khi hết.
- Lá khoai lang ủ phân tốt, xuống lấy thêm vài nắm.
Quán xua tay:
- Đừng mó dái ngựa! Rau lang người ta cho lợn.
Anh chưa bị vố nào à? Cục cứt ở trong ruộng người ta cũng không được đụng vào. Sáng
nay thôi, tôi hót bãi phân dưới ruộng, một tên đến sừng sộ ngay. Con trâu hay thằng
người ỉa ruộng tôi làm là phân của nhà tôi, anh lên đường cái mà hót. Luật đất đai đã nói
đất của nhà nước, thằng cha lạc hậu thế mà mình phải chịu.
Chúng tôi làm hố phân cùng lúc với mọi bộn bề của những buổi gặt chính vụ. Rồi ra cái
xóm Đồng này hay hay dở không chỉ vì niêu cơm mỗi nhà trông vào, mà cả xã, cả hàng
huyện đương nghe ngóng, tọc mạch về cái hợp tác xã thí điểm. Đã lên kế hoạch gặt trước
trên ba mươi mẫu. Trời nắng thuận, lúa chín già mặt hạt thóc, đã được mấy mẫu sớm.
Đợt này thu tiếp một lèo trên mười mẫu, còn bọn ruộng hom muộn để đến cuối tháng gặt
nốt, chỉ ra đồng vài ba ngày là cùng. Công điểm gặt không sổ sách như công cày bừa đầu
vụ mà cân thóc trả tạm ngay cuối ngày.
Cả nhà cơm nước xong từ lúc còn tối đất. Ông Ngải thì ngồi uống nước, hai ấm đã kiệt.
Đòn càn, đòn xóc, dây dợ, thừng chão đã cắm sẵn từ hôm qua ngoài ruộng.
Giá như các năm trước chưa có tổ thì đã đi từ lúc sao mai còn lóng lánh đầu ngọn tre.
Bây giờ các nhà gọi nhau i ới, đến sáng bạch ngoài mặt ruộng mới dần dần rộn tiếng
cười nói rồi tiếng tay lúa chuyển rào rào.
Tôi cũng ra ruộng với ông Ngải. Ông Ngải dạy tôi gặt như bảo trẻ con chơi. Ông Ngải bảo
cách vun cây lúa, cắt quơ liềm, tôi nhận ra lý luận cái liềm, cái hái là những tay máy đầu
tiên thay tay người. Hình như ăng Ghen nói tương tự thế. Tôi cười thầm tôi chưa đổ mồ
hôi đã ra lý luận. Rồi tôi lại bực tôi tủn mủn hay chế diễu cả những việc giản dị. Đến những
động tác phức tạp nữa thì tôi cũng im cắt nghĩa, tôi lại cười tôi Tôi gặt với ông Ngải, anh
Sự và một lũ các cô Lẻn, cô Dăm, cô Vĩnh. Tay con gái thoăn thoắt, không quờ quạng như
tôi. Nhưng tôi cũng không thấy ngượng.
Tôi vơ bốn khóm lúa, hai đầu gối khuỳnh đỡ như kiệu quì. Tôi phải nhớ: tay cắt cất cao,
chân cụp lại, duỗi ra, từng hiệp, từng hiệp. Có cô ngoảnh sang tôi, cười như nắc nẻ: “Anh
Tư đừng lo, ông Ngải mà dạy cắt lúa thì chỉ nửa buổi anh đã hơn đứt chúng em". Các cô
đùa như nói trêu trẻ con, chứ đòi nào tôi ví được với các cô gặt khoan thai như văn công
múa. Tôi nhớ năm trước vào giải phóng Tây Bắc, ngẩn ngơ nhìn các cô gái Thái gặt ở
Phù Yên, lưỡi dao cắt từng bông lúa nếp thu vào ống tay áo chàm, như nhìn cô tiên trên
trời sa xuống.
Hôm sau, gặt lúa dâu. Quán lại dạy tôi bài học khó hơn. “Biết gặt, biết bó, biết gánh, gánh
không đổ, làm được ba cái biết ấy mới là thợ gặt". Tôi hỏi:
- Quán thạo mấy biết?
- Gặt và gánh. Còn bó thì chân đạp và đầu gối tỳ còn đuối, bó chưa chặt.
- Tớ thì ông Ngải mới cho học quơ liềm.
- Anh đích thực “họ Từ tên Hải vốn người ăn không” đã lâu rồi, chính phủ miễn cho anh
chức nông dân.
Chuyện vui, chuyện cười lao xao trong ruộng, chẳng mấy lúc đã cao ngộn những xếp lủa
đầu bờ. Quán bỏ gặt lăng xang lên chen vào đám gánh. Quán nhanh nhẹn quơ mấy cây
lúa thành một khóm, ba bốn khóm ra một gồ, ba gồ một lượm, ba lượm một bó. Một đòn
xóc hai bên sáu bó, khỏe thì tám. Một mạch thẳng về đến sân- gánh thóc không được đỗ,
đỗ thì thóc rụng.
Quán gánh con cón, như trai làng, hệt thợ gặt. Chẳng quẩn chân ai chút nào. Ông Ngải
nói: “Anh Quán ở đây được. Đã vợ con chưa?
Cô Hến kể: Bố tôi yếu rồi, chứ ngày trước ấy a! Nhà ăn thế anh đã bảo sớm, chứ khi
chưa vào hợp tác, mẹ tôi thổi cơm từ canh hai. Hôm nào đi gặt mướn thì đến ruộng mới
tỏ mặt người. Bố tôi ra đơm đó, nhấc lờ về, uống xong vò chè rồi đứng dậy ra ruộng còn
tối đất.
Buổi gặt về, chiều đứng im. Dòng sông và bóng bụi tre, bụi chuối lẫn vào nhau. Sao hôm
vừa lặn, sao vược lên cùng chùm sao tua rua như một quang đèn treo trên đầu khoanh tre.
Khéo nhỉ, sao tua rua mọc như thắp đèn đến sang canh đêm kéo lúa.
Ngày trước, nhà giàu thuê thợ hay treo giải gặt đầu mẫu. Chủ ruộng đếm từng quảy về
trước. Ai chẳng may cắt với ông Ngải thì biết trước là mất giải. Ông Ngải đã ăn giải cả
chục gánh một buổi. Làm ruộng giỏi như ông Ngải, ngày ấy, khi ở xóm Đồng về, tôi đã viết
một bài học văn cho học sinh lớp phổ thông miêu tả “Ông Sóng vò lúa”. Bàn chân to
ngoàm nghiến từng lượm. Người làm ruộng không cày, không trâu, không kéo đá, cả đời
chỉ cái cuốc và hai bàn tay, hai bàn chân với những nét ác liệt". Đến bây giờ tôi vẫn nhớ
mùa gặt ấy- mà cô Hến nói bố tôi già yếu rồi, nhưng tôi trông ông vẫn như pho tượng đá
không có tuổi, tay liềm thoăn thoắt, một chốc đã ôm cả hàng lúạ ra xếp xòe đuôi cá. Rồi
ông lên bó, chân đạp đầu gối ấn, chiếc đòn xóc đâm ngọt xuống, nhắc lên, hai bó lúa ôm
tròn hai đầu đòn như hai thớt cối đá.
Buổi gặt chiều, nắng nhạt nhuộm phớt vàng lên ngọn tre rồi mờ dần như khói. Phía bờ
sông đã ngấn lên một vảy mồng trăng đầu tháng. Ngoài đồng vãn người thì trong sân, mùi
lúa chín, mùi hôi gà vịt ra rúc xốc thóc rụng, trong vách lom đom lửa bếp. Cơm xong lại hối
hả đổ đi vò lúa, kéo lúa.
Tập gặt, quẩn chân người ta, nhưng tôi đã xếp được, hai tay hai bên đặt bó lúa đều, kiểu
vẫy đuôi cá vược cũng như ai. Nhưng chịu không bó được và thử nhấc cái đòn xóc, hai
vai như sắp sụn xương. Thế đã là được, cũng không nghĩ thêm được câu lý luận nào nữa.
Vừa buông tay liềm, nhìn xa đằng cánh đồng sâu đã thấy như chênh lên, mép ruộng nước
loang loáng nổi hình người vai đeo thừng, tay chống gậy gò lưng kéo bừa. Các xứ đồng
cao lại làm màu trồng khoai tây, Có mảnh đã xanh nhu nhú. Tiếng chuông chùa bên sông
bỗng ngân lên giữa lặng im. Hai chiếc thuyền bỏ mui trong bến, lửa bếp ánh đỏ mặt nước.
Những mẹt cau bà Ngải mới bổ phơi ngoài sân đã được cất vào nóc chạn. Miếng cau
xếp dựng hạt cho nhựa chảy, mai nắng lại bưng ra. Trong bóng chiều mỗi lúc một sẫm lại,
tiếng gọi đò, tìếng trẻ cười, tiếng trống báo họp tốí, tiếng xe lúa về, bánh xe lạo xạo trên
đường ẩm hơn sương. Đến khi đã tối thui thì như có cái vung úp xuống một trời sao long
lanh ưỡn rợn lên.
Dẫu thế nào thì những ngày gặt hái được trông thấy hạt thóc, đâu cũng rộn rã nhất vụ.
Người lo các thứ cho mọi công việc. Hũ mỡ nấu nướng cơm nước ngoài đồng, chai dầu
thắp kéo lúa khuya, cân chè hạt, nụ vối, xó thuốc lào... Và có hạt thóc, con chim gáy trong
búi tre trong giọng hơn, con gà con chó mỡ màng, con người quần quật làm bất kể đêm
ngày, nhưng ra được hạt gạo mới, mặt mũi dúờng như có phổng phao hơn. Cô Vinh nói
đùa, mà thật: “Em như con gà, quanh năm gày so vai, đến ngày mùa lại béo ú".
Chúng tôi bộn rộn ra đồng, nhưng vẫn chăm hố phân. Có cái hố phân xanh mà không nên
hồn thì còn ra sao- Phùng Quán bảo thế. Cái việc khó nhọc nhất vẫn là quang gánh Quán
đi gắp phân sớm, lỡ muộn là bị nhặt tranh hết. Thế mà hôm nào Quán cũng về trước, lại
đem quang sọt ra bờ rào giúp tôi khiêng đống dây dợ, lá lẩu về đắp xuống hố. Chúng tôi
vừa trễ nải lại như siêng năng, cứ lầm lũi, tuần tự và thờ ơ tha thẩn như thế. Quán phải
quang gánh đi tư tờ mờ nhưng chưa chắc đã dậy sớm hơn tôi. Chẳng phải tôi mất ngủ
bận bịu đọc hay viết khuya mà bởi ông Ngải đã ra búi tre lép từ lúc sương đêm còn lùa
vào nhà, gà vừa gáy tan canh. Lịch kịch, lỉnh kỉnh ông Ngải dựng cánh liếp lên, đem cái
nồi, rổ chè trong bếp ra ngoài bờ ao. Cả đời cạnh búi tre, đã ngồi đấy rồi.
Tôi tan mất giấc, ra với ông Ngải. Ông chẳng quan tâm, chẳng khách sáo. Ông nói cái
đêm chỉ làm lười con người, dạy sớm thế mới phải. Đã thuộc việc, tôi lấy rổ hái chè ngoài
vườn từ chiều hôm trước vàó gác trên bờ tre. Hôm đầu, ông cầm rổ rồi nói: “Chưa biết
hái. Phải vứt lá già, ngắt lá đương lứa thì chè mới dậm, mới sánh nước. Ông nhặt bỏ đi
đến nửa rổ những lá còi, lá sần sùi mà tôi tiện tay đã tuốt trụi cả cảnh.
Chẳng làm nổi cái thớ đút bếp. Trong đời, có mấy lúc ủ hố phân xanh để chơi mà cũng lo,
cũng không làm nổi. Thế thì tôi còn biết làm gì, tôi là ai, tôi là thằng thế nào. Việc ấy cũng
áy náy một thoáng nghĩ.
Bút mực, bút bi làm trò trống gì. Lởn vởn những câu Nguyễn Bỉnh Khiêm tự mỉa, mà là thật
như ông ấy ngồi trong bụng mình, - năm thế kỷ trước, thánh thật.
Không có tài mà được ngộ nhận, ban khen
Nhởn nhơ mà cứ dối là mình vất vả
Vốn học chưa đủ thỏa lòng mong mỏi
Chỉ chuốc lấy hư danh cho người đời chê cười
“Người đời” trước mắt tôi chỉ là ông Ngải thôi mà đã cảm thấy ngượng ngùng, ngượng
mà trơ ra không tự biết, nghe như thơ chửi người khác. Bàn tay ông Ngải ngoàm ra, vò
nắm chè như mớ rơm rửa bát. Bỏ chè vào rổ, ông Ngải dội nước sôi “luộc” rồi cho vào
ấm. Nhấp ngụm nước chè xanh rợn, đắng tê đầu lưỡi. ấy thế mà rồi cái đắng ấy dân dà
hôa ra ngọt đậm quen từ hôm nào, không biết. Mỗi sớm đi làm, chỉ bát nước chè đã no -
ông Ngải bảo vậy. Tôi cũng bắt đầu cảm thấy thế.
Vầng trăng cuối tháng còn vệt sáng xiên ngang giữa nhà, bà Ngải đã gọi cô Hến dậy thổi
cơm. Cơm đèn, cơm đóm, cơm sáng trăng, ông Ngải dửng dưng. Ba mẹ con quanh cái
chõng, lâu nay có thêm tôi, nhà vẫn sớm mai cơm nước giờ giấc thói quen thế. Thường
thì cơm khan, chỉ chan nước mưa, nước vối, ít bữa nấu canh. Có đêm ông Ngải đi họp
hợp tác về, hỏi tôi mấy giờ tôi bảo ba giờ sáng. Ông Ngải không đi nằm, nhóm lửa đun
nước ngồi uống đến gả gáy tan canh rồi đứng lên ra bờ sông đặt đó. Hai bàn chân bàn
cuốc, bước huỳnh huych. Đời ông chỉ cuốc, xắn mai, làm vai con trâu kéo. Từ cái năm xây
cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ hoang được chín miếng thành ruộng rồi
ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác cũng kéo ra, cái xóm to dần.
Gặt đã vãn rồi ông Ngải dò dẫm lại từng góc ruộng, rồi đi nhấc lờ cá. Mẹ con cô Hến thì
bắt con chạch, con cua đến nhạt nắng mới về. Con tép bỏ vào chĩnh nước cáy. Mớ chạch
vùi nồi kho được thức ăn mai rồi.
Cu ốc thì đi tập dân quân, nằm vạ vật ngoài đình, sớm hôm ra ngay ruộng.
Bên kia sông, trên mặt đê kéo dài nền trời xám chẳng. ra chiều ra sớm. Những quảy lúa
nhấp nhô, chiếc xe bò lạch cạch, tiếng vọng xuống nước nghe vời vợi. Còn khô thoáng thế
này mà chỉ tháng sau đã đến cữ mưa dầm, gió bấc cho đến khi cánh đồng kiệt đã lên
sâm sấp nước thì có lứa rươi đầu ngoi lên ngọ ngoạy chân cỏ.
Hôm ấy phiên chợ Thượng. Nhà có buồng chuối dấm, bà Ngái đem bán. Chịu khó đi chợ
xa quả chuối được tiền hơn quanh quẩn xó chợ Phố của rẻ như rác.
Đò ngang đằng sau chân tre mới gà gáy đã nghe tiếng mái chèo gạt nước sớm hơn
thường ngày. Bà Ngải trõ vào giường gọi: “Trỗi! Trỗi! Một lát, bà cũng lại đi ngả lưng rồi
cái Hến mới ầm ừ ngồi lên. Ông Ngải đã gật gù ngoải hiên với ấm nước. Hến vào bếp
bắc nồi, thổi lửa. Cơm đã cạn, Hến ghế nồi, quấn mồi rơm rác quanh miệng kín nắp nồi
rồi lại mò vào giường.
Bà Ngải cứ như cái máy lại ngồi lên, ra ngả chiếc mâm chõng, lại cất tiếng réo “Trỗi, Trỗi”
gọi thằng ốc, cái Hến ra ăn cơm. Tôi đương uống nước với ông Ngải cũng vào mâm. Tối
mò, chẳng đèn đóm, vẫn cơm chạch kho lại thêm món muối rang như mọi sớm.
Tiếng cút kít, cót két cái lăn đá kéo lúa đã ánh ỏi ngoài đầu xóm. Ông Ngải uống cạn ấm
nước vẫn cằn nhằn đêm qua ra sân coi lúa, không biết bọn con đĩ dại nào kéo đá cờn như
ngựa bật cương, đú đởn nhau đùa nhau để lỏi thóc, sứt cả cái tai lăn.
Sáng bạch thì cả nhà đã đi hết...
Quán ra bảo tôi: “Bận sau anh chớ có trèo lấy lá xoan ủ phân, cành xoan không có thớ, nó
mà khấc một cái rơi thẳng xuống đất, chỉ có gãy xương. Để xem chỗ nào có bèo ong. Cái
bèo ong lợn không chén, có khi còn". Quán nói để khoe nó biết cành xoan ròn chứ tôi có
trèo xoan bao giờ. ừ thì mày đi mà tìm bèo ong. Ông đã chén cơm từ tám hoánh với cả
nhà, bây giờ tức bụng chỉ muốn nằm khểnh, mặc dầu tôi vừa mắng thằng tôi là ai, tôi là ai
thì tôi biết quá chứ.
Tôi ngắm lên cái nhà ông Ngải mới làm năm ngoái chưa xong hẳn. Một tay ông lo toan
cặm cụi, chăm chút từ lúc trồng vườn xoan tơ cho đến năm những cây xoan đầu lứa được
ngả xuống cưa, đẽo rồi ngâm vào bùn ao. Ông Ngải lại cẩn thận đi lùng cái thuốc bom,
thuốc bom chống được mối mọt, ông hòa loãng ra quết vàng khè khắp kèo cột ba gian
nhà. Cái sân còn đất nện, nhưng đã lên tường xây gạch con kiến bao quanh. Sau cổng
trồng hai cây cau lùn. Vài năm nay nhà được đủ bữa, đã khác. Một đời người chỉ cầm
cuốc, dần dà lên được cái nhà tươm thế này.
Hồi Pháp chiếm, ông Ngải không bị bắt đi dõng, đi bảo an, vì đã hom hem râu ria. Lão
xếp bốt hương binh quát ra lệnh: “Râu dài quá rốn cùng mặc mẹ nó. Cứ thấy đứa nào vẫn
hau háu mắt cú thì biết nó còn nhòm ăn, nhòm gái được thì cứ bắt cạo râu rồi giải cả về
đây”. Nhưng không phải ông Ngải nuôi râu chống càn như nhiều người trong vòng tuổi ba
mươi, mà hai con mắt ông Ngải từ trẻ đã lèm nhèm viền vải tây điều. Thế là thoát chân
lính tráng. Nhưng ông Ngải cũng không đi Việt Minh. Cũng như bây giờ, ông vẫn nói một
câu lừng khừng “chẳng ôm rơm nặng bụng".
Lúc cải cách, cả làng nháo nhào, ông đứng yên. Không ai đụng đến mấy miếng ruộng tay
ông cuốc nên. Ông Ngải chẳng tỵ nạnh với đứa nào. Bây giờ có hợp tác ông vào ngay.
Cái lý của ông cũng như người ta hiểu. “Cái ruộng nó trần trần ra đấy, làm thì ra thóc chứ
ra gạch a? Có ruộng thì có thóc, hợp tác cũng là ta cả thôi". Ông nói thế, nhưng thật cũng
không ai đoán nổi tại sao ông vào hợp tác nhanh vậy.
Ông Ngải được bầu làm chân kiểm soát trong ban quản trị. Ông Ngải hỏi kiểm soát có
phải là “củ soát tế vật” như ngày xưa các cụ đi tế ngoài đình. Sự bảo: “Kiểm soát là đứa
nào làm sai thì kiểm soát, uốn nắn người ta”, ông Ngải chỉ “ừm” một tiếng.
Tôi cũng lấy làm lạ cái tích cực bất thường của một người chỉ chăm chăm việc làm quanh
cái mai, cái cuốc. Một hôm, ông nói tôi mới nghĩ ra. Thì lại thật dễ dàng cái sự nhận làm
kiểm soát và vào hợp tác của ông. Ông tính: “Vợ chồng tôi già rồi. Con cái thì có nhớn mà
chẳng có khôn. Thì phải dựa vào trên chứ dựa vào ai, trên bảo làm thế thì làm”. Ông vào
hợp tác ngay cũng đơn giản cái nghĩ thế. Ông lại cắt nghĩa rằng vào hợp tác ai cũng phải
lao động. Lao động được chấm công, ăn thóc, không làm thì nhịn há mồm ra. Ông thích rõ
ràng như thế. Ông Ngải ghét nhất đứa lười, quân lười thối thây. Năm trước, có người
được chia ruộng, lại ôm đống quả thực cả giường chiếu, chum vại, quần áo hẳn hoi, thế
mà rồi nhai hết, bán cả lúa non, lại cởi trần nằm ổ lá chuối khô. Ông chửi ầm lên, ông bảo
cho nó chết. Ông Ngải chửi đứa người lười cũng khác người ta. “Không phải nó chịu hèn
nằm ngửa ăn sẵn đâu, những đứa quân thâm hiểm lắm chứ chẳng vừa". Bọn chúng thâm
hiểm thế nào thì ông không nói.
Có việc trên khuyến khích làm bèo hoa dâu bón ruộng. Bàn ở ban quản trị, ông Ngải nói:
“Đừng nuôi bèo dâu mà công toi. Bên Quỳnh Côi làm được, còn ở ta đất bãi nên đồng,
không hợp bèo dâu". Chủ nhiệm Sự nhăn nhó: “Tôi họp cả ngày nghe huyện dạy làm rồi
bảo cho hợp tác xã thí điểm được lên huyện lĩnh một sọt bèo"- “Các ông ấy dạy làm chứ
các ông ấy có làm đâu". Sự nói: “Thôi thì ta cứ đem về thả, có hỏng cũng chẳng chết ai”.
Ông Ngải chẳng găng nữa, mà lại nói hôm nào có bèo để ông đi lĩnh. Sự thì đa nghi, nói
khéo: "Bèo là phân bón, công tác phân bón của đồng chí Quốc, bố ạ".
Ông Ngải lặng im. ấy có lẽ ông lại tơ tưởng với những mảnh ruộng bãi tay ông cuốc. Cứ
ai bàn làm ăn, cả lúc ngồi yên dễ thường ông cũng nghĩ về nó. Tôi đã nghe ông nói không
biết cơ man nào lần, tôi cứ thành kiến về ông như thế. Nhưng mà một tay một đời làm nên
tác phẩm công trình thế, tự hào như ông là phải chứ. Cả cái thung này ngày trước hoang
mặn, chỏng trơ. Từng tảng cuốc lên rồi nhiều người trong làng ra kéo đỡ nhau dần dà
vượt qua được cái đất chua đất ác. Cũng bởi mọi nhà sàn sàn, lại quen vất vả tối ngày,
người ta cũng dễ một bụng, đổi công hay hợp tác thì cũng ra hạt thóc ăn chia cả.
Nhưng các nơi khác soi mới nhìn vào tò mò và lo lo. Cũng có người rì rầm: “Vừa được
chia miếng ruộng, chưa ăn xong bát cơm đã lại cộng lại, rồi còn vần xoay thế nào". Nhưng
những băn khoăn ấy không biết đến đâu, rồi im. Bởi vì chính phủ đã dựng cái hợp tác thì
rồi ở đâu cũng phải bước vào. Dạo này, Quán lên tận gần chợ Phố lấy phân. Chẳng biết
có trâu bò xóm nào ra đồng đằng ấy, nhưng Quán đã cáo lắm, đi tìm đồng vắng nơi đã bỏ
phân chuồng, đến thuổng một ít. Một hôm, đã chẳng được gắp phân nào, lại bị tẽn, Quán
kể:
Người trong xóm ra hỏi:
- Hợp tác trên ấy gặt hết chưa? Nghe nói họp thắc mắc suốt đêm không xong mà? à, à,
đến lấy phân ruộng nhà người ta, không được đâu. Hợp tác trên ấy ăn hết phân rồi á?
Quán lại chuyện:
- Chưa hết, chưa hết, đểu lắm. Còn có những đứa ra ngắm tôi rồi chép miệng: hôm mới
về các anh trắng trẻo béo tròn thu lu như ông cố đạo, bây giờ nhô vai gầy đen nhẻm. Chân
tay học trò của người ta thế kia mà các ông các bà hợp tác bắt con người ta làm con mẹ
mũi thung đi gắp phân. Dân ở bờ bãi quen xơi cả cứt có khác. Chúng nó nói nặng hơn
chửi, tôi không dám đối đáp lại.
Quán tong tả với cái quanh gánh sọt không. Chúng tôi nhìn nhau cười, chẳng hẳn cười.
Quán hay chửi bọn mỏ quạ ác khẩu. Rõ cái bụng ghét thì con mặt méo nhìn người ta. Làm
gì đâu mà đen nhẻm. Bữa nào cũng đánh mấy bát cật lực, ít thức ăn càng tốn cơm gạo
mới. Có về đây mấy đốt xương, khớp xương trong người tôi mới được đụng đến. ở cái
xóm lam làm đầu tắt mặt tối này, chuyện trong mọi nhà vui buồn chan hoà với mình. Chúng
tôi dường như ai cũng cảm thấy thế. Ngày rộng tháng dài tôi cũng không sốt ruột về thành
phố.
Tôi thích thú mọi chuyện nhà ông bà Ngải. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi kéo cày
mướn thay trâu. Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi năm sào ruộng
dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp rưỡi người khác mà
các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đâu năm. Rồi lại việc sông nước,
đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai.
Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều
ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc,
đất ngấu như bãi bồi. Thế là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn
tháu lăn lóc cả đồng.
Vừa sửa sang vườn ruộng, trồng rào hóp ra men sông thì xã ủy lập chòi hương dũng, rồi
Tây về đóng bốt, đuổi không cho người ở gần. Thế là phải chạy trở vào làng. Nhưng
chẳng bỏ vụ nào, vẫn lẻn ra đánh luống, chỉ phải cái không được ăn. Nhớ làm thì ra làm
thôi. Dưa hồng chín vàng bờ.. sông. Hai bốt Trả, bốt Cầu Sắt chúng nó đem xe cam nhông
ra khuân tiệt.
Năm bình yên rồi mới làm nhà, làm dần, tưởng như xong mà bây giờ vẫn chưa xong.
Sang năm xẻ gỗ mít, đóng cửa bức bàn. Mọi thứ ông đều làm tất tật. Bà Ngải lại kể với
tôi: “Buồn cười quá, khinh cả con trâu cũng chẳng bằng ông ấy, ăn thịt thì còn được chứ
kéo lúa thì chỉ biết kéo. Hai bàn chân tôi đây vò lúa khéo bằng mấy trâu kéo đá. Cả lượm
tôi vò chẳng rơi vãi một hạt".
Nhiều cụ già khác ngày trước như thế cả, như mẹ tôi khi sinh thời, người không ăn cháo,
có mệt mỏi cũng chỉ ăn cháo nấu như cơm nát. Ông Ngải nói người mà ăn cháo thì liệt
giường chầu trời đến nơi. Có lần ông Ngải đương lên cơn sốt rét mà nhà còn sào ruộng
chưa bừa, đã hẹn cấy. Ông dậy, đùng đùng vác bừa đi. Ông đặt nghiêng răng bừa trên
mặt nước, rồi quàng thừng kéo. Bừa xong cả thửa ruộng, ngồi xuống bờ, không đứng lên
được nữa. Ông nghĩ: phen này chết mất.
Không đi được, ông khoác bừa lên vai, lội xuống lạch nước, ông quờ quạng bơi bò về tận
bờ rào hóp sau nhà. Ông vào nằm đắp hai cái chiếu, đến nửa buổi, mồ hôi toát ra như
tắm, thế là tan cơn sốt. Ông lại ra chỗ ruộng mới bừa xem thợ cấy đã đến chưa.
Người ta hay nói vui với ông Ngải: “Cái lão khọm này thì phải bao giờ cho đi Liên Xô xem
máy cày, máy gặt đập, cái tàu hoả, tàu bay thì may ra lão mới biết sợ. Chứ con trâu con
bò thì chỉ để mổ thịt, được cái bộ gì phải không?” Ông Ngải cười: "Đúng đấy, nhưng mà
biết đến năm thằng ốc, cái Hến lấy vợ lấy chồng thì tôi còn sống mà được nhìn thấy cái
máy cày chưa?"
Ông Ngải nói ví thử thế cho vui miệng chứ cái Hến chỉ khoảng tuổi mười lăm, mà đã sắp
về nhà chồng. Chú rể Toàn ở trong làng, cũng học lớp hai lớp ba cho biết mặt chữ như
Hến rồi ở nhà. Toàn chắc nhỉnh tuổi hơn Hến, dáng chững chạc. Mỗi lần ra nhà Hến, Toàn
đội cái mũ nan lá cọ bóng dầu, áo sơ mi trắng, quần phăng ka ki xanh nhạt, trong túi quần
có cái khăn mùi xoa.
Bố vợ sai xới luống rau, chữa cầu ao, đánh cây rơm. Toàn cởi trần, mạc độc cái quần
cộc. Thói tục đất này tự nhiên, mới ăn hỏi mà chàng rể đã năng đến nhà vợ. Nhưng tôi
chẳng thấy hai đứa trò chuyện, đùa nghịch khi nào. Chiều cơm nước xong thì Toàn về.
Hôm ấy, Toàn với Hến ra vườn cắt hai buồng chuối tây mỗi buồng hơn mười nải. Một góc
vườn có đến mấy chục cây chuối, chuối dấm chuối chín chẳng mấy phiên chợ Phố, chợ
Diêm không có chuối ra chợ. Mà tôi không thấy nhà ăn quả chuối nào bao giờ. Mai đi chợ
Diêm từ lúc sao chưa lặn, thế mà khi Toàn về trong làng, tối mẹ con Hến lại đi kéo lúa như
mọi khi đến khuya ngủ một lúc gà đã gáy dồn. Bà Ngải lại gọi: “Hến! Hến.! Trỗi! Trỗi! ”.
Tinh mơ ông Ngải đã ngồi đầu chõng với cái vò nước, cái điếu cày.
Cô Hến trở mình,ngái ngủ. Phải vài ba lần bà Ngải quát gọi, cô Hến mới ậm ự ngồi lên. Lại ra nhóm bếp,
bắc nồi, tra gạo bà Ngải đã vo sẵn, lúc quấn cơm xong lại vào gường lăn ra. Đến lượt bà
Ngải bày mâm bát, bắc cơm, lại hò: “Trỗi! Trỗi! ” Cô Hến trở mình, chép miệng, ú ớ. Phải
mấy câu giật lên nữa cô mó thật ngồi dậy được và ra chỗ mâm chõng. Rồi vẫn chỉ có ba
mẹ con và tôi ăn thầm trong bóng tối.
Tôi nói:
- Tôi cũng đi chợ Diêm. Lúc nào Toàn ra đây?
- Bây giờ thôi.
Bà Ngải đã ăn xong, đứng dậy. Tôi ra mái hiên nhìn trời chỉ còn ông sao mai sáng rợn
sau bụi tre. Toàn chưa ra, tôi lại vào uống nước. Ông Ngải kể chuyện ngày trước quãng
trời này ông đã đi “đón công” ở chợ Phố. Chủ ruộng đến chọn người mướn đưa ra ruộng,
cắt được một gánh, xóc đòn quảy về sân nhà người ta, trời mới sáng.
Ông Ngải vẫn gật gưỡng, lại hút điếu thuốc. Sớm mai mừ mờ, lạnh đầu ngón tay. Ông
Ngải đã đặt đó lúc chặp tối qua, bây giờ đợi con rể ra, chúng nó đem chuối xuống chợ thì
ông xuống rệ sông nhấc đó. Nhưng ngại đi trễ nhỡ tuột cứ cá ra, ông Ngải đứng lên. Đặt
đó cũng không phải cứ quăng xuống cửa rãnh, phải bôi đất thó nhẵn mép nước, cá bống
vào mới không trợn. Đến lúc Toàn ở trong làng ra, ông Ngải vừa xách đó về đã lại ngồi
ngoài bụi tre lép chẻ lạt. Chỉ được một con răn mòng không cá nào dám bén mảng, ông
Ngải đem đó về ngay. Quay đi quay lại, mới tinh mơ bảnh mắt ông Ngải đã được ối việc.
Toàn vác đến cái đòn ống. Hai buồng chuối buộc túm cuống lại, như trói con lợn, mỗi
người một đầu đòn. Cái đòn lắc lư đi một quãng, tôi bảo để tôi đỡ một vai. Toàn bảo:
“Nhẹ như bấc, có gì đâu". Từ nhà xuống Diêm, hơn mười cây, đi đã mất ngót buổi. Mọi
thứ mua bán đều gồng gánh trên vai, chẳng biết thế nào nặng, thế nào xa.
Hai bên cánh đồng lác đác những đầu bờ cắm đòn xóc, treo cái mồi rơm, ấm nước.
Nhiều nơi còn gặt muộn. Nhưng nhiều chỗ đã làm mùa, đương cày dầm.
Rồi có ruộng cày xếp ải quanh bờ, đất đã nỏ, sắp tháo được nước. Chỗ làm mùa, chỗ
sang màu, đồng áng chẳng còn phân biệt mùa vụ, lúc nào cũng lật đất kiếm cái ăn.
Đã trông xa xa những bãi sú xanh xanh ngang mặt biển. Rễ sú to hơn thân cây, trồng từng
hàng làm bờ rào ngăn sóng. Trên những vùng cỏ bằng phẳng mặt nước lợ, lốm đốm
những con cò trắng mỏ ngà, chốc lại bay vồng lên. Đàn vịt nhà hàng trăm con lạch bạch, à
à vỗ cánh đùa quẩn trên mặt nước.
Phố Diêm giữa đường cát, nổi lên lơ thơ tháp nhô mái lá như những chóp nón úp. Nhà
cửa, hàng quán vách quét vôi vàng như phố nửa thời tản cư. Một kho gạo, một hiệu bách
hóa nhà mậu thì tường gạch trần, lợp ngói.
Ngoài cửa sông, những đống lưới cao như gò. Mấy cánh buồm nâu. Không biết thuyền
sắp ra khơi hay thuyền buôn vào chợ. Nhà ai phơi cá, phơi moi ngay mặt đường. Những
đàn nhặng xanh bay từng đám chụm lại, tưởng như vốc tay được. Mùi cá, mủi mắm thum
thủm khắp nơi.
Xóm thưa thớt lẫn với cánh ruộng muối trắng. Biển tít mù ngoài bãi sú bạt ngàn, những
mái tôn, mái lá càng ẹp xuống dưới những tảng đá chặn lên ngăn gió thổi bay. Không một
bóng chim. Một vùng tiêu sơ ngày ấy, bây giờ đọc báo được tin đương xây cảng hiện đại
Diêm Điền cho tàu viễn dương hàng nghìn tấn ra vào được. Không cắt nghĩa được mà lại
thấy ra được, như hồi đầu thế kỷ, ở nơi chơ vơ sóng gió, ăn còn không có lấy đâu ra chữ
nghĩa và hiểu biết, thế mà ở đây đã sinh ra người thanh niên Nguyễn Đức Cảnh xuất
dương đi hoạt động từ khi cách mạng còn trong trứng nước..
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương V
Chợ lèo tèo ngay giữa phố, gió lùa đùng đùng. Bánh ngô, bánh đúc bị táp cát, ăn nhai cả
sạn, thì vẫn ăn thế. Một chốc chợ tan, các cọc lêu được nhổ lên, đàn vịt lại uà vào rúc cái
bãi trống. Chỉ còn lại một hiệu ảnh người xúm đông xúm đỏ xem bác phó nháy lúi húi tô
màu. Khách chụp ảnh thích ngồi ghế, môi má tô màu đỏ, áo hồng sau lưng có phông chậu
hoa và hồ Hoàn Kiếm.
Trong khángchiến, bộ đội tỉnh đã tấn công san bằng bốt Diêm Điền, không biết bốt ở chỗ
nào. Chắc hỏi thì cái Hến, thằng Toàn cũng chẳng biết. Tây về đóng lại, xây đồn sang
Quang Lang. Một lần xuống khu Ba công tác hậu địch đồng bằng sông Hồng, Hoàng
Trung Thông- tổ trưởng Thông của chúng tôi đã đi với đoàn cán bộ vào tận Quang Lang
này. Thông kể: Quang Lang có tề hai mang, ngày ở hầm, tối lên gặp và họp với cán bộ cơ
sở, ngay cạnh đồn. Trông ra biển, ngọn hải đăng Hòn Dáu và đèn điện bên Đồ Sơn nhấp
nháy. Hoàng Trung Thông đã bí mật ở Quang Lang cả tháng. Khi trờ ra, đóng vai người
thuyền buôn các nơi về chợ Diêm.
Đã toan kể cho Toàn và Hến nghe chuyện bác Thông hồi còn bốt Tây, đã công tác bí mật
vào Quang Lang, Diêm Điền. Nhưng lại thôi. Bấy giờ chúng họ chắc mới chập chững biết
đi, hay là chưa sinh. Cái lạ, chúng nó sắp cưới mà từ lúc đi đen xẩm tối về, toàn nói trống
không, nhát gừng rồi lẳng lặng, như phải khó chịu đi với nhau. Hay là tôi không hiểu và tôi
làm chúng nó ngại. Tôi về kể cho ông Ngải nghe tổ trưởng Thông đã vào công tác tận bốt
Quang Lang. Ông Ngải nói: “Việt Minh cao cấp đi bợm nhỉ? "
Bỏ một buổi lấy lá ủ phân, hôm sau lại ra gò ngoài tha ma sớm. Quản đã về nhanh hơn
mọi khi, Quán ra bờ ràọ đỡ tôi ngắt lá, cắt dây. Các bờ rào gần đã kiệt lá, phải đi kiếm
những gò xa.
Tôi hỏi Quán:
- Gặp may thế nào mà về sớm thế?
Quán quẳng cái gánh không xuóng tử nãy.
- May rủi quái gì, ra muộn, hết sạch.
- Thức đêm mò mẫm ả nào, con Vĩnh hay con Răm?
- Cái con khỉ khô. Ngủ say quá, sáng nào cũng phải nhờ chủ nhà gọi. Không khí trong lành
mà.
Rồi Quán kể lể:
- Anh không biết cái lệ trong làng chỉ có ông già, bà già mới đi gắp phân. Các cố ít ngủ, từ
gà gáy đã chực đấy. Con trâu vừa cho ra, các cố chiếm ngay. Mấy bãi thì cắm que giữ
sẵn. Thanh niên ở đây không đi hót cứt, dù là cứt trâu.
Tôi lên giọng:
- Chúng ta đi lao động thì việc nào cũng bằng nhau.
Tôi nghĩ sẵn: Thằng này lại sắp chơi mình một câu đại khái anh thử đi gắp cứt như tôi xem
việc bằng nhau thế nào. Nhưng Quán giơ tay, cười cười:
- Mưu Gia Cát! Gia Cát Khổng Minh Phùng Quán đương tính ra một kế tuyệt diệu.
Những hôm sau, tôi cũng không hỏi Quán có tranh được phân trâu hay không. Cái hố gần
đầy, được hay chẳng được cũng thế, chúng tôi đủng đỉnh buổi đực buổi cái. Quán gánh
về hai sọt nhoe nhoét bủn.
Tôi hỏi thờ ơ:
- Bùn à?
Quán đặt gánh, giơ tay cắt nghĩa: .
- Anh đừng coi bùn là xoàng nhé. Bùn khác đất vách, bủn mà ngấu với lá làm phân xanh thì
tốt bằng mười đất vách bồ hóng nhà ông Ngải.
- Sao cậu biết?
Quán trợn mắt:
- Anh viết văn phải giàu tưởng tượng lăm, mà anh chưa phân tích được bùn là cứt tháo
tỏng của ông trời, cứt của trời ném xuống thì nhất định hảo hạng rồi. Nói đùa chứ tôi đã đi
hỏi nhiều người bảo bùn khá.
Rồi Quán lại lấy phân của trời hay phân trâu, phân giun dế, không biết. Những cái dây leo
mà mỗi hôm tôi ôm về, dây mồng tơi, dây tơ hồng, dây lạc tiên, dứt mãi cũng quang cả.
Ngoài tha ma gò đống mồ mả trụi hết, phải ra bờ tre đầu đồng. Cái hố của chúng tôi đã
cao lùm lùm, lổn nhổn nhoét bùn, đắp ôm lá lên, xanh rã rượi như cái mả mới. Tôi bàn
phải đào cái bố khác.
Nhưng Quán gàn:
- Khoan, khoan đã. Hố này cũng chưa biết tiêu thụ thế nào. Hẵng đợi chỉ thị của tổ trưởng.
Mà gặt hái xong, hợp tác còn khối việc mó. Ta giúp bà con làm gì hơn là làm mãi cái con
khỉ này.
Quả là Quán thạo và thiết thực nhiều. Sáng kiến của tôi đem bỏ sọt ngay được. Những dự
định tìm hiểu vùng này cho ra tấm ra miếng, tôi đem cả sổ tay đi mà đã làm được đâu.
Vào bên búi tre lép tôi đứng lại. Giống như ông Ngải. Và ông Ngải ngồi tựa lưng vào thân
tre từ bao giờ. Hai ống chân lấm bùn đã cọ đen nhoáng. Ông này chân tay bắt nắng mà
mặt lúc nào cũng bềnh bệch, nắng không bắt, tôi lại so sánh. Như da mặt ông Phan Khôi
thật. ở trong bếp, cái Hến đưong vùi nồi cá kho, món ăn làm tốn cơm nhất với tôi. Không
đâu kho cá ngon bằng đây. Kể cả món cá chuối kho khan, rắn đanh lại lúc ăn phải vắt
chanh, như ở Đại Hoàng quê Nam Cao ngày trước, cũng không dễ ăn hơn.
Hay là vì cả
tháng độc có cơm với muối rang mỡ ngỡ thế. Người đi làm đồng về, trong cái rỏ đeo
lưng, được con săn sắt, con lươn, con rắn nước, mùa mưa thì xuống ruộng tràn chộp con
rô., con chạch, đem mổ moi ngoài câu ao rồi bỏ và o cái nồi đất với củ riềng để cả tảng
ướp muối một lượt. Nồi chát bùn miết kín mép vung. Gạt mấy ông đầu rau ra, đặt nồi giữa
bếp, quấn rơm rồi đắp ụ tro quanh. Ninh suốt đêm, đến bữa mới bưng ra, con cá, con rắn
xương đã nục nhủ bột.. Thơm thế, bùi thế.
ông Ngải hỏi:
- Hôm qua xuống chợ Diêm mua được gì không?
- ăn cái bánh đúc ngô.
ông Ngải lại hỏi:
- Đám lá phân xanh đã trương lên mặt hố. Bao giờ ông Thông đến thu? .
- Chẳng thu đâu, ông ạ.
- Thế thì các anh ủ phân làm gì?
- Học tập lao động ấy mà.
Rõ buồn cười.
- Thật đấy ạ.
- Vậy để cho tôi. à hỏi xin ông Thông đã chứ.
Tôi nói:
- Bác Thông cũng chẳng biết đổ đi đâu. Ông cứ lấy.
ông Ngải rỡ đất tường bồ hóng ra san lấp lên đống lá mùng tơi đã óp xuống rồi xúc thêm
bùn ao phủ lên, như miết bùn nồi cá kho. Ông bảo làm thế cho thật kín, phân ngấu đều, ra
giêng hai ông đem một gốc chè chiết cắm vào, chỉ một năm nhất định ra lá. Thế là nhóm
tôi xong được công tác cái hố ủ phân.
Kể ra thì khối việc của hợp tác, ngày nào chả có việc, như Quán nói- nghề nông quánh
năm lắm việc, nghĩ ra mà làm chứ đâu có nông nhàn trong tưởng tượng, trong sách vở.
Nhưng bây giờ toàn việc chẳng bận đến chúng tôi. Các tổ hợp tác vẫn gay go cung cách
chia bôi. Gặt hết rồi, chỉ còn một ít dự. Nhưng những đống thóc đã kéo xong vẫn còn chất
rải rác, ngày ngày có người đến phơi rồi vun lại, vạch vôi đánh dấu. Lão “củ soát” Ngải
đảo lại mấy lần nhòm nhòm ngó ngó. Thóc phơi sân nhà mình mà không phải của mình,
nghĩ tức lộn ruột. Đã đành được cân tạm về ăn, nhưng chưa tính rành rẽ, những thắc mắc
cứ nặng nề thêm. Các bà nhiều lo hơn, cứ nhà nọ thậm thụt sang nhà kia. Chẳng biết có
phải người chồng đã nhòm trộm sổ kế toán, về bảo vợ: “Vài ba điểm được mấy cân thóc
chết tiệt, phen này bán sới, bị gậy đi kiếm phương khác thôi! ”.
Chủ nhiệm Sự nói ang
áng: “Số công điểm là thế, là thế, lo con bò trắng răng a! ”. Người ta vặn là thế là thế, là
thế nào... Sự cũng lúng túng không biện bạch kiểu “đến mai lại đúng” được. Vợ chi uỷ
Quốc chì chiết chồng thâu đêm. Mọi năm, quây cót chật buồng ra kín thềm hè, năm nay
thóc đi đâu, thóc còn lang thang sân nhà người ta. Đến tối, Sự vào nhà kế toán, mở sổ ra,
cộng trừ tính, càng rối xoè mù mịt. Vợ Sự vẫn giữ một miếng ruộng ngoài, nhưng chẳng
dứt nghiến ngả chồng: bỗng dưng sinh ra cái hợp tác, chỉ phá rối.
Từ hôm có kế hoạch đổ thóc ra phơi nốt một nắng rồi dồn lại sắp chia thì cũng đỡ ồn.
Nhưng lúc nào cũng lại nẩy ra lắm cái lôi thôi, lung tung khác. Mấy con gà của nhà Sự ăn
thóc đến nghẹn tắc cổ. Sự tưởng gà lên cơn giật chết dây. Đến lúc con gà trống cong cổ
ựa ra rãi lẫn thóc, mới biết. Chẳng ai nhìn thấy con gà mổ trộm, vợ Sự cũng cứ bô bô nói
trống không: “Ngày mùa, cúng cho con gà con qué kiếm miếng, mất của ai”. Sự gánh thóc
về, đổ ra sân, đánh dấu chen giữa một hàng gạch. Hai chị em thằng con ở nhà xúc trộm.
Sự xem lại thấy mất dấu, chửi toáng lên rồi vào buồng bê thúng thóc nhà ra toan đổ bù.
Thằng con với đứa con gái giằng lại, vợ Sự lăm lăm cầm cái đòn gánh, trợn mắt, mắm
môi. Sự đành đứng ơ. Nhà nào cũng lục đục. Chồng đi làm mạ, về hỏi: “ ở nhà nắng thế
mà không trang thóc a?”. Vợ chao mặt một cái: "Thóc của thiên hạ đâu vẫn đấy, ai dám
mó vào, con hùm chưa vồ mất hạt nào đâu". Không thổi cơm tối, vợ bảo chưa có thóc thì
đi cướp gạo ở đâu mà thổi.
Nhiều điều tiếng rên rỉ rêu rao: “Cốc mò, cò xơi"- ý nghi ngờ người này người kia ở ban
quản trị, ở những nhà có sân cho phơi nhờ.
Các nơi quanh đấy và trong làng vẫn lảng vảng, dò hỏi. Người ta đồn thế nào nơi nào rồi
cũng phải lên hợp tác, lại càng hãi những đồn đại. Cán bộ kỹ thuật về hướng dẫn chống
bệnh toi gà, cũng xúm lại hỏi đủ thứ. Anh cán bộ quen giải thích tào lao buông một câu: “ôi
dào, tôi đi nhiều nơi đã biết hợp tác nào lúc đầu cũng nát như tương, ấy vậy mà rồi đâu lại
vào đấy. Yên chí”. Yên chí thế nào, người ta rủa anh cán bộ gà chỉ biết ăn như mỏ khoét.
Trong làng, mỗi xóm, mỗi nơi một khác. Các nhà làm riêng, nhất là những nhà được
xuống thành phần mấy năm nay, lặng lẽ êm ả gặt hái rồi đợi mai kia đến Tết. Tổ đổi công
thì nhộn nhịp gánh thóc về nhà như chọc tức, trêu ngươi. Thóc rơm còn đánh đống vàng
rực ngoài sân, mỗi tổ đã ăn mung đụng ăn chia một con lợn. Còn để vào vụ cày xong mổ
con nữa rồi có phải lên hợp tác mới lên. Có lúc nói: “Sào ruộng tôi đổi công năm nay kém
năm ngoái ba gánh, thật đấy” Nhưng lại rỉ tai người khác: nói thế để hợp tác thấy họ hơn,
cho họ sướng. Nhưng ta lại cứ ăn, cứ mừng.
Những nhà làm đổi công thì tiếc ruộng tốt, không muốn cộng ruộng vào hợp tác. Cứ rối
xoè lên.
Lại vẫn lôi thôi cấy dày cấy thưa. Cái dạo tổ trưởng Thông thử mấy thước cấy dày, bị cả
xóm cười làm trò trẻ con. Còn hợp tác đi trên huyện học cấy dày kỹ thuật mới. Cả Quốc
với Sự lên hội nghị. Hôm về, Quốc nói: “Ban kỹ thuật huyện đi ngắt một bông thóc ruộng
đổi công, một bông ruộng hợp tác. Ruộng cấy thưa được một trăm hai mươt hạt. Ruộng
hợp tác mới cấy dày nửa vời, đếm đã được một trăm tám mươi, tuy hạt nhỏ nhưng đều
mặt, cân lên nặng hơn bên kia. Cũng không phải lúa cấy thưa ngon cơm hơn. Cái ấy là tại
giống". Người ta nghe tai nọ sang tai kia, cũng chẳng ai để ý hỏi cặn kẽ cái kỹ thuật mới.
Dường như cả chân trong và chân ngoài đều cứ chờ đợi thế nào.
Những đêm sương sa, sáng ngày ra nắng đã hoe nhạt. Chớm vào thu rồi. Cây cau trước
sân bỗng rơi xuống nghe ình một tàu lá vàng óng. Ông Ngải nói:
- Tàu cau đã rụng thế vầy chỉ mùa sang năm thì bói được.
Gió giải đồng rạt rào, miên man. Nước sông Diêm trong veo thấp thoáng lưa thưa sau
rặng hóp đá, nhìn ra mới ngắm được cái tài tình của những chữ “nước chảy lơ thơ".
Bắt đầu tính hết công điểm chia thóc từng nhà. Chưa chia đã rắc rối, bây giờ lại rẽ sang
những nói ra nói vào khác. Bà Ngải phàn nàn mớ thóc, mớ rơm như cái chổi cùn. Cứ thấy
quảy lúa về kéo rồi phơi ở sân nhà mình rồi lại cùn cụt đội thóc đi đâu.
- Tôi đi chợ, người ta hỏi. Có phải một mình bà phải chăm mười con trâu? Được ăn bao
nhiêu công điểm?
- Thế bà nói hoang mang a? - Không, tôi bảo tôi lên hợp tác rồi thì tôi không biết hoang
mang, thắc mắc cái gì cả. Thế là chẳng đứa nào mở mồm hỏi khích bác nữa.
ông Ngải thì hăng hái một cách rạch ròi. Ai vào bên búi tre lép ăn thuốc nhờ, ông nói như
đọc trong báo ra:
- Có muốn biết thì tôi dẫn cho mà biết. Thóc thuế đóng rồi, phân than, công trâu bò gác ra
rồi, tính cộng lại thì sản lượng được chia nhỉnh hơn mọi khi. Có thế mới lên hợp tác xã
chứ. ấy là năm nay còn chưa làm có kinh nghiệm, mà cái dự, cái di, cái hom cấy vặt vãnh
chưa tính. Con gà con qué ngày mùa nhặt vài hạt thóc đã chết ai mà chúng nó đồn láo hợp
tác phải giết hết gà vịt để khỏi thắc mắc. Những đứa nào ăn nói phản động thế?
Ông râu vểnh nhả khói thuốc:
- Ông dẫn ra vầy thì tôi hiểu ngay. Sắp lên hợp tác cả rồi, tôi phải hiểu biết chứ. Nhưng thế
nào, mùa này sao mức thu nhà ông chỉ nhỉnh thôi. Như mọi khi, mình làm mình ăn cả, thì
nhà ông được bao nhiêu ấy cơ.
Nó nói ngóc ngách, ông Ngải im. Rồi sang câu khác:
- Vào hợp tác thì phần tăng phần giảm trông vào lao động. Bao giờ chẳng như vầy, người
chịu khó thì chẳng lo. Chết những thằng ngay xương, bây giờ hợp tác làm ăn có chúng có
bạn, thằng lười trơ mặt ra. Tôi sướng nhất cái ấy.
ông nọ cũng không còn hỏi vặn vẹo vào đâu, lảng chuyện.
- Rõ rồi. Tối qua, trong làng có đám suýt cháy nhà. Tình nghi đứa ném bùi nhùi, cháy từ
ngoài nóc vào, ông biết không?
Sự ở đâu vào, nói chen:
- Lúc đương tiến lên thế này, phải cảnh giác. Thù nhau đốt nhà, bắt đứng ở đổi công a?
Không được. Mỗi người lại kéo mồi thuốc, rồi mỗi người đi mỗi việc. Người lùa vịt ra
đồng cho xốc thóc mót, người vào tổ cân thóc chia. Người lên quán nước trên đê...
ông Ngải tính nhẩm hình như công điểm nhà ông có dôi ra. Dôi ra thì lợi chứ sao, nhầm
lõm vào mới là thiệt. Nhưng không, nhà mình được, nhà khác mất, rồi người ta moi đến thì
lôi đuôi. Cứ phân minh trước sau. “Cả đời tôi chẳng ăn không của ai bao giờ". Suốt đến
chặp tối, ba bố con xướng lần lượt từng điểm, tôi ngồi làm tính cộng, cộng đi cộng lại.
Thấy cái lúa dua hom, con số công gặt của cái Hến vào sổ hai lần, không biết đúng không.
ông Ngải xách cái đèn chai đến ngay nhà kế toán.
Anh kế toán đương bò chổng mông tính sổ dưới ánh cái đèn cày. Kế toán đã vẫy mấy chú
bé đương ngồi học bài ngoài hiên vào soát các sổ cho nhanh. Xem đến sổ nhà ông Ngải
thấy thừa ra mười công ở sổ điểm cô Hến. Ông Ngải gật gù bảo kế toán: “Tôi thế đấy anh
biết chưa?”
ông Ngải yên tâm. Nhưng ông Ngải còn băn khoăn:
“Cái bụng mình như chiếc bánh bóc ra mà thiên hạ cứ bảo quản trị ăn cắp. Chẻ hoe ra
đấy nhé". Bà Ngải cằn nhằn: "Thèm nhạt đâu vài điểm công với xá. Ngày trước kéo lúa
ủng hộ bộ đội cả năm đấy sao". Nhưng cũng lắm cái cứ bực mình. Lúa ruộng tốt ruộng
của nhà chia đi đâu, toàn gánh về cái táp nham của những nhà đứa nào ấn cho.
ông Ngải nói khe khàng với tôi, như tiếng thở dài:
- Thì cũng chỉ vì thằng ốc, cái Hến. Cứ như chúng tôi cả ngày một niêu cũng xong, chứ vào
hay ra làm gì cho mỏi chân, có phải không anh?
Mỗi khi ông Ngải dường như nghĩ nỗi sau này, hay nói với tôi tương tự câu ấy.
Cũng không nhờ tổ chúng tôi còn ở xóm Đồng bao nhiêu lâu, rồi cả bọn về một lúc hay đi
lẻ tẻ dần. Bởi tôi lại một mình trở về, chẳng biết đã ai về trước chưa. Cũng chẳng vì công
tác cơ quan gọi. Đợt đi này không có hạn ngày, không biết Hoàng Trung Thông có phải về
vì công tác chờ đợi thế nào, còn thì lắm lúc nghĩ tôi cảm thấy tôi cũng như cái đinh long,
đóng vào cũng được để vậy cũng thôi- cái nghĩa bề nổi, không chữ nghĩa thâm thuý như
câu chèo cổ “nát ván, long đinh” đâu.
Tôi đương muốn lên mấy nơi trên Hải Dương có
những tổ các anh Bùi Hiển, Đào Vũ rồi về. Tổ trưởng Thông bảo: “ừ, về thì về". ở lâu, tuy
chẳng có gì giữ chân, mà cũng ngại đến lúc rời đi cũng nhớ. Anh em biết tôi sắp về, đi
qua, tạt vào, mỗi hôm lại hỏi: “Khi nào về?”- "Cũng chưa định". Nhưng thấy người cứ hỏi,
tôi cũng đâm sốt ruột. Thế là quyết định mai đi. Quán sang chơi. Ông Ngải với tôi đương
mổ, làm lòng con vịt dưới cầu ao. Quán tựa lưng búi tre, hút thuốc, hỏi:
- Gà hay vịt đấy?
Tôi nói:
- Hay quá. ở đây làm vài chén “trường đình".
ông Ngải vẫn cúi, té nước lên lưng con vịt.
- Thịt vịt, con vịt bị rắn cắn. Anh Tư trông thấy con hổ mang trong hang bờ ao vừa nhoài ra.
Còn đánh tiết canh được cơ mà. Xong hết rồi, chỉ còn bỏ nồi luộc. Vơ hộ nắm lá tre dóm
bếp. Quét qua chỗ ấy rồi vào bảo cái Hến dọn mâm bát ra. à hũ rượu trong gâm giường
hãy còn.
ông Ngải đều quí hai chúng tôi. Nhưng xem ra ông ý tứ với mỗi người một vẻ. Như cung
cách và người ngợm tôi, ông Ngải trọng như một ông giáo làng, ông thầy đồ ở trọ. Ông
nói thời Tây có cái trường học trên chợ Phố có thày giáo trông cũng giống tôi, nên ông
nhớ. Còn Quán thì mồm miệng chân tay đều xốc vác, có hôm ông bảo Quán vần trả cái cối
đá to bằng cái vại ông Ngải mượn trong làng. Lại chỉ có cái súng gỗ, mà Quán đẽo răng
cưa, gọt mổ cò dạy dân quân ốc như bắn súng thật. Ông bà Ngải thân tình với Quán như
người trong nhà, như thằng Toàn con rể.
Quán bần thần nói:
- Tiếc quá, cháu đã hẹn đụng chó với anh em rồi.
- Bao giờ?
- Chốc nữa chén.
- Nhà ai đấy?
- Nhờ lão quán nước chợ Phố. Ông Ngải biết đấy, lão này chùm chó. Cháu đi nhé. Cái thịt
chó là hết cỡ, không thịt nào địch được, đừng để phần cháu.
Rồi Quán đi luôn. Tổ trưởng Thông “chạy” con vịt rái cá cắn hôm trước đã “lặn” đi họp
cũng nhanh như thế. Tôi với Quán ra đầu ngõ. Quán nháy mắt, phân trần:
- Có chó má nào ở đâu. Tôi đã đánh nhau giáp lá cà với các thứ Tây ở mặt trận Huế.
Nhưng cái giống gà vịt bị rắn mổ này thì tôi khiếp, anh ạ.
Tôi cười:
- Thôi, đi đi.
Tôi trở vào bắc bếp. Ông Ngải nói như vạch bụng anh chàng ra: .
- Chú Quán sợ thịt vịt rắn cắn. Sợ quái gì!
Tôi không vào chuyện với ông Ngải mà tán về rắn:
- Cái rượu ngâm tam xà, ngũ xà chữa bách bệnh, đau xương thấp khớp, liệt âm liệt
dương, khỏi hết.
Rượu rắn bổ nhất trần đời. Ngoài bờ sông bờ ao sẵn rắn, ông nên ngâm vài vò, rồi hũ
chôn hũ uống, dùng cả năm.
- Biết thế, mà tôi bỏ rượu đã lâu. Giờ, đứng gần người say ngửi hơi rượu cũng lợm
giọng.
Rồi ông Ngải cười khà khà xách ngược con vịt đã rửa sạch bóng.
- Anh xem, da dẻ nó hon hỏn thế này. Dại quá, cái nhà chú Quán...
Những ngày ấy, xa gần mịt mờ như chiêm bao chắp nối trong giấc ngủ đêm qua. Tiếng
rằng ở Thái Bình về Quán công tác ở phòng Văn hoá Quần chúng, nhưng cũng là làm vì và
dông dài chẳng khác khi ở xóm Đồng.
Rồi lại đi, lại đi. Bị kỷ luật ba năm không hội viên hội nhà văn, nhưng rồi ba mươi năm mới
có lời làm lễ giải hạn. Không cấm sáng tác, nhưng viết thì không đâu in. Những nơi này có
cán bộ cơ quan khác đến làm công tác theo dõi, những câu nói cuối cùng của ông theo
dõi này về bài báo, về quyển sách, nhất là nếu lại dẫn chứng cấp trên “anh ấy, anh ấy đã
bảo thế” thì còn sinh sát hơn quyền hành những người phụ trách nhà xuất bản và tờ báo
ấy.
Tôi đã xem mấy bài các bạn Quán viết về Quán tập câu cá rồi câu cá hồ Tây vào loại tay
nghề. Một Lã Vọng bất đắc dĩ, trò chơi mà hoá thật. ở thành phố, những năm ấy chẳng
phải chỉ có mình Phùng Quán câu cá đợi thời. Khối các ông Lã Vọng khác nhau. Những
ông chủ bỗng trắng tay, thất nghiệp và biết bao những nông nỗi thế nảo nữa, chỉ còn trông
vào đống rác, cái cần câu, bắt cóc, bắt chuột... và những cung cách kiếm cơm không nói
hết thành tên được. Ông Kỷ cậu họ tôi, nhà buôn sơn ngoại lâu năm có tiếng trong thành
phố. Mấy hôm ấy, Tây ở Hà Nội chỉ còn ngồi đợi rút xuống Hải Phòng. Người được tự do
vào thành phố, nhưng có trật tự. Lính Pháp thờ ơ gác, tôi đứng trên đường Mai Lĩnh, trông
thấy dòng người nghìn nghịt qua cánh đồng Văn Quán lên thị xã Hà Đông.
Ông bà Kỷ lái
xe riêng lên thị xã Sơn Tây- tôi đương làm phóng viên báo Nhân Dân đi xuống nhà thờ
Phúc Nhạc viết bài về tình hình bà con công giáo di cư vào Nam. Tôi ghé lại Sơn Tây, ông
bà lên chơi. Năm sau, Hà Nội cải tạo tư sản, ông âm thầm bán ô tô, bán biệt thự, còn
huyến hàng sơn cuối cùng ở Pháp về thì vướng lại cảng Nhà Rồng trong kia. Hết của, ông
Kỷ thành tay sát cá hồ Tây. Những thung thổ cá mú vòng hồ chẳng chỗ nào ông không
thuộc. Lại các ông Ba, ông Tư trong làng nội, các người hôm qua chủ lò bánh mỳ giàu có
chất của lên được, bây giờ mất cửa hàng, mất lò, nhà dọn xuống ở bãi Nghĩa Dũng. Hai
ông đóng khố, vác chũm đi đơm đó ven sông, thực sự kiếm miếng hàng ngày.
Những tâm sự trầm uất và cái sức viết đương bởi của lứa tuổi Quán đã vẩn vương tôi.
Tôi mà còn bải hoải nữa là. Đi lâu thế, tôi cũng thao tác mọi việc viết, thế mà chẳng tả nổi
về cái xóm Đồng một chữ. Phùng Quán vẫn chịu khó cặm cụi mà sau này bè bạn đã tổng
kết sáu chữ cho cái giai đoạn bi đát ấy: câu chui, rượu chui, viết chui. Những năm này
Quán đương sức viết Không đâu in, nhưng Quán vẫn viết. Nhà xuất bản Kim Đồng in
truyện thiếu nhi Tâm Trọc về thăm nhà. Có tiếng xì xào của Phùng Quán ký tên khác.
Chẳng biết nhà xuất bản có ai bị kiểm điểm, bị hạ bậc lương, bị mất việc không. Chắc
không. Vì quyển sách mỏng và viết về kháng chiến chống Pháp, mà vốn Phùng Quán xưa
nay sở trường tráng ca, anh hùng ca. Phùng Quán gửi bài thi viết về Lê Nin. Truyện của
Quán - tất nhiên, lại ký tên khác, được xếp giải nhất. Cũng chẳng biết tác giả có đi lĩnh
thưởng không và làm thế nào nhận được cái đồng hồ báo thức quà tặng.
Con người
chăm viết, viết khoẻ mà chỉ đôi khi in ra được dăm ba chữ. Tâm trạng bức bối kéo dài
còn đau hơn sự cấm đoán. Mấy năm gần đây, Phùng Quán làm nhiều thơ, viết báo và đưa
in những bộ truyện đồ sộ như hồi ký Tuổi thơ dữ dội vẫn là nối tiếp một Phùng Quán ba
mươi năm trước, một tay sử thi có hạng. Nhưng người thì chưa bao giờ trẻ, mà chẳng
còn trẻ trung đâu nữa. Phùng Quán đã vào năm mươi rồi. Thân hình bơ phờ mảnh khảnh,
lại ăn mặc kiểu các cụ áo năm thân rộng nhuộm cậy màu hoa hiên, bộ râu chuột lưa thưa.
Làng văn đã có Nguyên Hồng xống áo và râu ria cũng tương tự. Nhưng tôi chẳng bao giờ
nhận ra Nguyên Hồng đã lão thế và không thể thấy cụ Phùng Quán lụ khụ nâu sồng này
khác hồi cụ Phùng Quán chạc hai mươi tuổi ở xóm Đồng. Quần áo và bộ râu có việc của
nó. Có phải vì tôi hơn Quán cả con giáp cứ thấy người không bằng tuổi mình thì lúc nào
cũng vẫn tưởng như ngày xưa. Có thể vậy, tôi cứ nhớ như vừa mới đây. Thật thì chốc đà
đã là hơn ba mươi năm qua - những cách quãng phi hoài đời người của Phùng Quán.
Những lần gặp giữa phố, Phùng Quán bảo tôi:
“Anh lên chơi nhà tôi. Có cái rượu uống được". Tôi không lên. Chẳng vì ngại đi, mà cứ thế
nào. Tôi đánh chén thịt chó Hàng Bè với Lê Đạt mà không lên hồ Tây, dù cái máu rượu
ông phó bí thư chi bộ cũ của tôi thì chán chết, khề khà với Phùng Quán thú vị nhiều. Rượu
vui, rượu buồn đều cần, nhưng phải tuỳ lúc. Cho mãi đến hôm mừng Nguyễn Hữu Đang
thượng thọ tám mươi tuổi - hai ông em kết nghĩa Phùng Quán, Phùng Cung của Đang bảo
tôi, tôi mới lên nhà Quán. Gặp lại bạn Đang già mình vốn qui trọng, thế mà lại buồn.
Nhưng cái nhà vườn bên hồ Tây của vợ chồng Phùng Quán hôm ấy đông khách đến
mừng cụ Đang quá, có đám đông thì tôi cảm thấy mất vui. Đành vào nhấc hũ rưọu, làm
một chén chia vui rồi về.
Tôi ở xóm Đồng đi nửa buổi đến cầu Phú Lương. Tổ của Đào Vũ ở thôn Vũ La ven đê
bên kia cầu. Buổi tối nhìn lên thấy quầng đèn sáng thành phố Hải Dương. Bác Tú Mỡ
ngày ngày chăm chút lau cái xe đạp rồi buộc thừng treo lên, không để bánh xe chịn đất.
Lâu nay chỉ còn trông thấy người có tuổi lau xe đạp. Cả Sỹ Ngọc, không nhớ các anh ở
cùng nhà hay đến chơi.
Vũ La nhộn nhịp, đông nhộn. Bên trong khoanh tre, những khoảnh vườn mơn mởn cà
chua đương vào lứa phấn mỡ. Khác làng mạc Thái Bình, chỉ có mấy cây chè khẳng khiu
sau bờ tường đất u ám như tổ mối.
Vũ La cũng đương xếp ải. Nhiều chỗ đất phơi đã được nắng trắng nhạt như làn sóng đất
lăn tăn. Các chủ nhiệm hợp tác xã toàn tỉnh đương về họp ở đây.
Cả hội nghị với lớp kế toán hôm ấy cũng đi xếp ải giúp hợp tác xã. Tiếng trống tom tom
gọi xã viên đi làm đồng. Cửa hàng hợp tác xã mua bán mở sớm. Vải xanh Sỹ Lâm, vỏ áo
bông, chăn bông tiết kiệm trần ô trám. Còn sớm mà người đã ra vào xúm xít. Cả tổ Đào
Vũ cũng trong nhộn nhịp này. Tôi cảm như chúng tôi ở dưới kia chểnh mảng chẳng nên trò
gì. Nghe chuyện cánh Kim Lân đi công trường thủy lợi Bắc Hưng Hải bên Hưng Yên, cả
ngày đào đất, gánh đất bằng dân công.
Đào Vũ đi làm đồng trong tiếng trống giục đầu xóm. Đào Vũ khoác bừa lên vai, tay cầm
thửng dắt con trâu. Như những người đi cày và mấy con trâu vừa đi qua cổng. Tôi bỗng
nhớ Quán, lẩn thẩn đoán con trâu này bĩnh trong chuồng chưa, nếu ra đường đồng mới ỉa
thì Quán gắp được.
Nhà văn Đào Vũ, một người làm ruộng. Không ngẫu nhiên mà sau chuyến đi ấy Đào Vũ ở
lại Vũ La, bắt đầu bộ tiểu thuyết Cái sân gạch miêu tả cuộc đấu tranh sản xuất và con
người ở Vũ La những ngày đầu hợp tác hoá.
Nghĩ lại, mình lêu têu ghê. Nhưng biết thế thôi, cũng chẳng ân hận. ở đời mỗi người một
mánh, một tật. Tôi nghỉ lại Hải Dương, Hải Dương cũng tương tự các thị trấn khác, lỗ đỗ
lốm đốm dấu vết thời sự và thời gian: những dãy phố, những cãn nhà bị rỡ cái năm tiêu
thổ kháng chiến đã được vá nham nhở các bức tường và cửa hàng mặt tiền quét vôi, ốp
mấy hàng gạch hoa duyên dáng như cô gái trong làng diện áo phin trắng mà lại đi chân
đất. Các phố nhỏ, khúc khuỷu vẫn lặng lẽ quê quê. Đương có đợt đăng ký lại các hộ công
thương. Đồn ầm lên rồi những nhà nào không được cấp môn bài lại thì phải dọn về quê
làm nông dân.
ở đầu tỉnh, đồ sộ một nhà máy làm đồ sứ. Năm trước, đây còn là một bãi hoang. Trong
cải cách ruộng đất chỗ ấy là nơi các làng xung quanh lên mượn làm mít tinh đấu địa chủ.
Đội tôi ở Cẩm Bình đã đưa dân đi dự nhiều lần. Những chuyện đấu tố chỉ chợt nhớ đến
đã thấy sượng mặt.
Nhưng tôi nhờ có lần ấy Nguyễn Công Hoan rủ tôi về Hải Dương, Nguyễn Công Hoan nói:
“Trong tiều thuyết Đống rác cũ của tôi anh bảo anh thương cái người đàn bà phải đi làm
dâu khổ cực trăm bề, tôi đưa anh về nhà nhân vật ấy". Chúng tôi xuống tàu hoả rồi qua
phố chính vào một cái ngõ lát gạch nghiêng như đường làng. Căn nhà một tầng, mái ngói
rêu phủ đen xì. Lỗ tròn mắt bò mở hé, sau cánh cửa, một ông cũng trạc Nguyễn Công
Hoan ra mời chúng tôi vào. Ông không cao lớn, mà thấp người, mặt tai tái đến độ không
trông rõ bộ ria mép, như một cụ làng bẹp ngày trước. Phản giữa trải chiếu, chủ nhà mở
chiếc lồng bàn úp trên mâm đồng thau. Một mâm cỗ thịt gà thịnh soạn. Chủ nhà cười.
“Mười giờ chưa thấy các xừ, chưa nghe còi tàu về, đã lo lo". Ra chủ khách đã có hẹn, và
cách nói thân tình.
Trong bữa chén, hai ông toàn nói chuyện dạy học ở Kinh Môn, ở Vũ Tiên, ở Lào Cai. Ông
ấy ngày trước cũng là nhà giáo trường huyện. Đến chiều về cũng không thấy anh Hoan trò
chuyện gì với tôi về nhân vật người đàn bà bạc phận. Anh Hoan hay tư lự những cái anh
đương nghĩ, có khi hỏi thì lại trả lời lạc sang điều khác.
Nhưng rồi tôi cũng phải hỏi. Thì anh nói:
- Tôi đã bảo rồi mà. Nhà người ta đấy.
Chẳng hiểu ra sao, nhưng tôi cũng không hỏi thêm.
Hỏi anh lại nói khác nữa, thì chịu, rồi tôi phải đoán lấy Nhưng cũng không nghĩ ra được
đấy là nhà người ấy khi còn con gái hay là nhà chồng, hay là nhà ai.
Cứ cho đấy là nhà người ấy trước khi về nhà chồng. Cho đẹp và buồn những kỷ niệm của
người viết.
No comments:
Post a Comment