Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương VI
Nhiều chuyện với Nguyễn Công Hoan cũng lắm bất ngờ tức cười chua chát như những
cái kết truyện ngắn của anh. Dự quốc khánh, lễ lạt ở sứ quán nào, Nguyễn Công Hoan đi
đôi giày da bóng lộn, tôi chưa thấy khi nào. Tôi tò mò:
- Giày luých này chắc Tết anh mới diện?
Anh giơ tay cắt nghĩa kiểu thày giáo trịnh trọng giảng bài:
- Dự tiệc đứng thì hay đi đi lại lại, người ta cứ phải nhìn giày mình, cho nên cần có giày tử
tế.
Tôi đùa:
- Rồi về lại đánh xi đạt cẩn thận, bọc giấy bóng, cất đi.
Anh còn nói lạ hơn:
- Không, giày này tớ đi mượn. Cậu nhận xét cũng xoàng. Có là giày đi mượn thì mỗi tiệc
mới một đôi khác nhau chứ.
Đã có lần anh kể anh có một người anh em con chú con bác làm nghề vá giày ngồi ở bờ
tường cạnh chợ Hàng Da. Người vá giày vỉa hè, trên tường đóng đanh treo bán những
đôi giày cũ được mông má lại.
Tôi nhớ chuyện anh kể, nhưng không chắp nối lại được trong tưởng tượng, Nguyễn Công
Hoan đã đến mượn trong đám những đôi giày treo bán ấy vào dịp long trọng. Nguyễn
Công Hoan có lắm nhân vật bất ngờ trong đời thường như thế. Anh dẫn tôi đến ăn bún
chả nhà một ông ở đầu phố Nhà Thương Khách cũ. Nhà ông làm vàng hồ, trang kim hài
hán, nhuộm giấy thẻ hương. Hồi ấy còn ngặt về lễ bái lắm, vợ con ông làm hàng mã phải
ngồi làm dấm dúi dưới bếp. Ông ấy xoa xoa tay, kính cẩn: “Các bác làm việc dương gian,
nhà em thì công tác đường âm, thưa phải không ạ".
ồ, kể mọi ly kỳ về Nguyễn Công Hoan thì vô số, vô cùng như những truyện ngắn có kết bất
ngờ của ông.
Nhà trọ bến xe Hải Dương chẳng khác dãy lều lá dưới cầu Bo. Cũng thế, người ra vào
thậm thụt, người gánh người đội, người đeo, không biết trong tải đựng gì, không đoán
được người đi buôn hay quân đầu trộm đuôi cướp, lúc chặp tối càng đông.
Cô ấy tóc cún, răng vàng. Mấy cô khác ngồi góc giường trong đương đố nhau tuổi. Có cô
nói bô bô:
"Cái quyển Đồi thông hai mộ hay bằng vạn các quyển mới bây giờ". Một lúc sau thì đoán
ra những cô này có những bao tải dép râu nhét dưới gầm giường. ả răng vàng thì buôn
cau khô lên chợ Đồng Xuân. Những thứ ấy, chẳng kiếm được mấy nả tiền, ắt trong thúng
mủng kia có thuốc lào, thuốc phiện. Những cô này mới nứt mắt nảy nòi mà sao giống
những mụ nạ dòng già đời đi buôn chuyến hôm tàu thuỷ xuôi, mà tôi trông thấy và đụng
chạm từ thời Pháp thuộc đã từ lâu chết xuống âm ty. Cách nói, dáng điệu, áo cánh trắng
quần thâm mới, vẻ trễ tràng, vừa ta đây vừa bất cần đời, tay các ả đeo nhẫn, cổ dây
chuyền vàng, - chắc vàng tây. Tưởng như đàn bà con gái nhà chúng nó đã mây đời cha
truyền con nối đi buôn chuyến thế này.
Nhà trọ một dãy ngăn từng gian, vách dán giấy dầu, ba trăm thì giường chung ba người.
Mụ chủ chứa đã hơi luống tuổi, nửa tỉnh nửa quê, cổ tay đeo cái vòng xanh xanh, chẳng
biết vòng nhựa hay đá thật.
Cô người làm áo cánh hồ thuỷ đưa người trọ vào buồng, giao cái màn tận tay. Những của
chua này, khuya tý nữa, có thể nháy vào được. Mụ chủ rền rẫm phàn nàn: “Cái nghề chứa
trọ không biết tội tình ra sao mà các ông công an cứ bắt vác sổ sách lên đồn xuống ải khai
báo cũng đủ hết đêm". Tôi nằm một giường, nhưng thuê cả ba chỗ. Tôi lấy cái dây cao su
trong ba lô ra buộc dóng khung xe đạp vào thành giường ngay cửa màn, nếu với tay ra có
thể nắm được thằng kẻ trộm.
Hôm sau, đạp xe la cà dọc đường, chiều mới về tới ga Hàng Cỏ. Chỉ ra khỏi thành phố ít
lâu, trở lại đã có cảm tưởng vắng mình thì phố xá khang khác, rồi một lúc hay vài hôm mới
quen dần và thấy lại chẳng có gì khác cả. Sương mờ thành làn trong ánh đèn đường,
người người tấp nập, hối hả. Đi bộ, xe đạp cầm cuốc, cầm xẻng, miệng mũi bịt khẩu
trang miếng vải trăng, nhiều người quần xắn cao, ống chân bê bết bùn. Tôi trông thấy
Hoàng Văn Tiến, đại sứ ở Ba Lan về làm thứ trưởng, năm trước tôi đã quen trên chuyến
xe lửa Hà Nội- Bắc Kinh. Tiến cũng ống quần móng lợn, dọc khung xe buộc cái xẻng, đạp
veo veo ngược đường hàng Lọng. Những người ấy ở công trường hồ Bảy Mẫu ra. Cả
thành phố đương đào đắp vùng ao bùn làm công viên Thống Nhất.
Tôi vào quán phở Hậu, phía trên dốc Hàng Kèn.
Chặp tối khách kín các bàn. Ông chủ quán tóc muối tiêu, gầy gùa, nhanh nhẹn vừa bốc
bánh vừa nói vằn vèo như vi von rồi tâm sự một câu, mà tôi là khách quen nghe đã thuộc:
“Làm lắm thì chày vảy ra chứ ăn thua gì. Thời buổi này, đổ mồ hôi nước mắt đủ hai bữa
tọng vào họng, được phục vụ nhân dân thế là độc lập tự do, hạnh phúc rồi".
Trên tường treo bức ảnh phóng to một chiến sĩ mũ ca lô, thắt lưng da to bản, áo kẻ ô trám “binh sĩ
mùa đông” năm 1946. Tôi hỏi, ông bảo: “Cậu em nó". Cũng không muốn hỏi thêm ngưòi
chiến sĩ ấy đã hy sinh hay còn sống. Mấy năm sau, ông hàng phờ khó nhọc mới được hai
bữa tậu ngôi nhà hai tầng khang trang tĩnh mịch trong ngõ Tràng An. Hai cô áo dài xanh
liễu, vét dạ Hồng Công óng ánh kim tuyến. Tóc đợt đợt sau gáy, đen nhánh, có thể khinh
được mọi mốt tóc đương thòi của phụ nữ Hà Nội. Câu chuyện hai người to nhỏ mà như
khoe cứ lọt tự nhiên vào tai người bên cạnh chẳng ra vô ý, ra khoe hay không coi ai ra gì.
Qua chuyện, biết một cô đã có hai con, một cô có một con. Bây giờ còn hàng nào ăn
được, phở Hói hay Tân Tân? Cũng khó ngon lắm. Cái phở thịt trâu thịt “ngầu pín” cuối phố
Huế thì mới nghe nói đã mất vía.
Không dưng, bỗng cau có:
- Đáng nhẽ đi Hồng Công rồi. ở đấy sang Anh như đi chợ. Mình đã có passe- port. Chỉ vì
sắp ở cữ, cậu mình bảo rồi tính sau, mẹ tròn con vuông đã. Thế là ông bô tính chệch giờ.
Bây giờ thì gác hết.
Một tiếng thở dài:
- Cậu mợ mình cũng thế, nếu không tớ đã không được ngồi với đằng ấy ở đây
- Mua được một lúc ngồi với nhau thế này giá đắt quá.
Hai người nhăn mũi cười nhếch mép.
- Này táo hay lê ngon hơn?
- Lê được cái thơm, nhưng hơi chua.
- Bây giờ lê táo nước nào?
Câu chuyện của hai con đĩ ngựa cong cớn không cơn cớ cũng cạn dần với bát phờ tái giò
hành tây.
Quán cà phê ông lão 81 mọi khi vẫn thế. Mới tối, hàng quán các vỉa hè vừa dọn, nhấp
nhoáng đèn đường trong bóng vòm lá cây sữa. Quanh chiếc bàn thấp, đợi ăn uống cái gì
mà lố nhố người. Dưới lòng đường gánh cháo ông Chữ, tiếng thổi lửa cái ống nứa pho
pho. Giờ này chưa phải buổi cháo gà.
Lão 81 ngẩng lên, vồn vã:
- Ông đi tận những nước nào mà lâu không thấy?
- Nước nào, nước nhà quê nhà ông đấy.
Ông lão cũng hỏi cho có chuyện, lại cắm cúi thái rồi nghiêng cái chảo, tiếng mỡ xèo xèo.
Chiếc đèn hoa kỳ lom đom trên nóc tủ hàng, ánh điện lao xao trong bóng lá không hắt tới.
Chẳng trông rõ gì cả, nhưng chắc bọn khách đợi món này.
- Gì thế?
- Ngầu pín ông ạ. à, dạo này mới lại có.
- Trâu hay bò?
- Dê hẳn hoi, còn non, tuyệt bổ. Ông xơi...
Tôi hãy còn mất vui về hai con đỏng đảnh ở hàng phở Hậu, tôi uể oải giọng đổng vu vơ:
- Lâu nay ở nhà quê, ăn dái dê, dái chó, nhiều bổ quá rồi. Xin một cái cà phê đen thôi.
Cho giải phiền, bớt mỡ. Ông nghe rõ chưa?
- Rõ, rõ. Nhà cháu đương dở tay, ông ngồi chơi một mảy.
- Mấy mảy cũng được, thưa ông bếp Tây.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương VII
Tôi được giấy gọi đi học trường Nguyễn ái Quốc khoá 1961..
Không biết khoá này khối văn nghệ được mấy người, hôm khai giảng chỉ thấy mình tôi.
Khoá sau, có Trọng Hứa đương làm chánh văn phòng. Chẳng rõ được chọn hay Trọng
Hứa xin đi, hay Trọng Hứa đi “thế mạng” cho ai. Dự lớp dài hạn trường trung cao cấp của
Đảng là một vinh dự và nhiệm vụ. Người muốn cũng không được. Nhưng cũng có người
trách nhiệm cao tự coi như đương nhiên chỉ ngồi bàn bạc và cử người khác đi học. Có
những người như Nguyễn Tuân, không thấy giấy gọi đi học bao giờ mà không biết được
mời thì ông có đi không, chẳng thể đoán được. Năm 1950 ở Thái Nguyên, Nam Cao và
tôi đổi công tác từ báo Cứu Quốc về hội Văn Nghệ. Trước khi về cơ quan mới, chúng tôi
được đi học trường Nguyễn ái Quốc - bấy giờ khoá học lâu nhất cũng chỉ ba tháng.
Nhưng rồi chỉ có Nam Cao được đi. Tôi cứ tiếc mãi.
ý nghĩ đi học của tôi cũng giản dị. Có dịp sắp xếp lại mọi cái biết lõm bõm chẳng đâu ra
đâu. Từ khi mới cầm bút tôi đã phú cho Dế Mèn, Dế Trũi cái tư tưởng thế giới đại đồng
không tưởng của tôi. Chẳng là bấy giờ đương tuổi mới lớn trong thời kỳ Mặt trận Bình dân
1938, chúng tôi hăng hái liên miên tranh luận đệ tam, đệ tứ. Cho đến ngày nay tôi cũng
chẳng hiểu gì hơn. Cũng chịu khó đọc bản dịch Chống Đuyrinh, và nhiều cái khác, có ghi
cẩn thận những câu, những ý cảm thấy hay. Nhưng mà từ đấy vận vào thực tế, vào sáng
tạo thế nào. Tôi đi cải cách ruộng đất thì cứ kế hoạch bốn bước mà làm, khi được chỉ ra
như thế là sai, lại sang đội đi sửa sai. Tự mình cả đời làm theo, thấy ra, nhận thức, phân
tích đều lờ mờ sai đúng đúng sai mù mịt. Tôi thật sự thèm được trình độ hệ thống hoá về
lý luận và vận dụng được sự liên hệ và sáng tạo.
Sau vụ Nhân Văn mà tôi có sai sót, tôi đã đề nghị cho đi học trường dạy viết văn Gorky ở
Matxcơva. Nguyễn Khải được chấm đi, còn tôi thì xin đi. Tôi nghĩ chỉ bỏ ra ít năm ăn chắc
một ngoại ngữ lại đưa hiểu biết và nhận thức của mình tới được một bước mới. Nhưng
rồi dự định ấy trên không chấp nhận. Lý do: người sáng tác thì nắm thực tế đời sống đất
nước là cần hơn.
Năm sau, Nguyễn Minh Tấn ở viện Văn học được đi học viện Gorky. Tôi thắc mắc thì nghe
giải thích: anh ấy làm nghiên cứu, cần đi. Nguyễn Minh Tấn công tác ban tuyên huấn, về
khối văn nghệ làm chính trị viên trường Mỹ thuật sau lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Cũng như
Đặng Đình Hưng về đoàn Văn Công Trung ương.
Tôi cũng dự chỉnh huấn theo phương pháp Hoa Nam cùng Đặng Đình Hưng, Nguyễn Minh
Tấn, tôi được biết trước kia Nguyễn Minh Tấn ở tỉnh đội dân quân Vĩnh Yên. Tôi làm nghề
chữ nghĩa hẳn hoi, sao tôi không đi học. Nghĩ thế thôi, thói quen thấy mọi cái trên cắt nghĩa
đều rồi là phải cả, tôi im. ý nghĩ đi học của tôi cứ vừa trẻ thơ vừa đứng đắn.
Tôi sửa soạn cái bàn chải răng, quyển sổ tay mới và sách, như sắp đi đợt công tác dài
ngày.
Trường Nguyễn ái Quốc bây giờ vẫn hai tầng dáng dấp ngày ấy. Có thể liệt váo một khu
di tích lịch sử văn hoá: cơ quan đào tạo và bổ túc cản bộ chính trị qui mô nhất nước sau
hoâ bình lập lại. Nhà hai ba tầng, kiến trúc nửa lưu luyến hội trường trong rừng, nửa đại
lầu Trung Quốc. Đến bây giờ mà xung quanh vẫn vắng không mấy bóng cây lâu đời.
Mới biết các cụ ta xưa nền nếp xây cất đình đền, miếu mạo khi đặt viên gạch móng đã nghĩ
ngay hạ thổ trồng cây: những cây đa, cây đề, cây chôi mấy trăm năm trường thọ với toà
nhà cho đời sau, như cây mọc trong cổ tích. Kiến trúc sư Hoàng Như Tiếp - người sáng
tạo hầu hết các hội trường tre nửa trong rừng thời kháng chiến ở Thái Nguyên, ở Tuyên
Quang. Hoàng Như Tiếp nói thế tôi mới biết. Những năm các kiến trúc sư ở với chúng tôi
chỉ thấy những bản vẽ nhà tranh nông thôn kiểu nhà ánh Sáng trong cặp các anh Nguyễn
Cao Luyện, Võ Đức Diên, Tạ Mỹ Duật... Anh Hoàng Như Tiếp thì làm quản trị lo liệu nơi
ăn chốn ở cho các gia đình tản cư, quanh năm đạp xe từ Phú Thọ sang Bắc Giang, vào
Thanh Hoá.
Tôi gặp Hoàng Như Tiếp ở ô Chợ Dừa, Tiếp hỏi:
- Cậu đi đâu sớm thế? Tôi đáp: - Đi học - Học trường Đảng a? Tôi gật đầu. Hoàng Như
Tiếp níu tôi lại, khoe:
- Tớ kiến trúc trường ấy đấy. Qui mô nhất Hà Nội. Được không?
Tôi nói:
- Tự dưng trên mái hội trường choang xuống một hòn gạch chỉ. May nó rơi ở mép tường,
không vào đầu ai. Điều tra thì ra những hòn gạch thợ xây bỏ quên trên đầu tường. Việc
người vôi vữa chẳng bận đến nhà kiến trúc.
Câu nói đùa không phải lúc. Hoàng Như Tiếp đẩy vai tôi một cái. Tôi chưa tha:
- Nhà vệ sinh, nhà tắm nước thấm tường mốc rêu rồi vỡ từng mảng. Các ống trong tường
lắp chốt gỗ, nó mục ra.
Hoàng Như Tiếp quát:
- Cậu này dốt bỏ mẹ, lẫn lộn kiến trúc với xây dựng. Tớ không phải thằng thợ nề, biết
chưa?
Chúng tôi học môn triết cho đén hết tháng giêng. Ba tháng mùa đông ngôi trong cửa sổ
họp tổ và đọc tài liệu. Xa kia, những ngôi nhà năm tầng nhô lên như đánh đai quanh ngoài
khoanh tre. Cánh đồng làng tôi đương thành phường phố, dàn giáo và bụi đỏ lầm lên cao
ngất. Những ý nghĩ và mắt tôi nhìn lẫn lộn thấy cả những cái không còn nữa. Con đường
đất trong cầu Điều ra, sáng sớm người quảy cẳng ngô chỉ trông thấy hai bàn chân đất
lướt trên đám lá và hoa bánh khúc vàng long lanh ướt sương. Những gánh cẳng ngô đã
phơi nỏ ở trong làng Noi đưa ra bán cho các nhà nghề giấy trên Yên Thái, làng Thọ tra bồi
can giấy.
Những việc seo can, cái tàu seo, cái bồi, cây ép uốn, cái cối giã bìa, đãi bìa mà trong
sách và tài liệu tôi đương nghiên cứu gọi là lao động giản đơn, công cụ và lao động thời
kỳ này, thời kỳ này, những cung cách làm ăn cổ sư nghìn năm ấy phải chết đi thì công
nghiệp mới lột xác được thành công cụ mới lao động phức tạp và tinh vi, những cái cũ tôi
vẫn thấy trong tưởng tượng mà công cụ mới đã hiện ra đâu. Vẫn cây đa bên sân đình làng
Nghè, mùa hạ từng đàn yểng bay đến rỉa quả đa chín vàng. Cây đề cổ thụ gốc to mấy
người ôm đứng cạnh cầu chợ Bưởi, lá nõn đỏ hây một góc trời. Có bà hàng bánh đa ướt
dưới cống Cót lên, thuở bé tôi theo u đi chợ được ăn bánh với hai miếng đậu rán phồng.
Cảnh ấy không còn nhưng cây đề thì vẫn ngày trước, cổ thụ cứ trơ trơ đấy.
Chẳng còn đâu yên tĩnh nữa nhưng mọi cái cứ biến đổi và không biến đổi. Nếu là nơi xa
lạ nào chắc tôi không thể nghĩ vẩn vơ quanh quẩn. Ngồi đây, tôi nhắm mắt cũng vẫn nhìn
được những cái không còn. Bên kia, Kẻ Cáo, Kẻ Đàn, bên này sông Tô Lịch, trước mặt
mép nước hồ Tây. Đường cổng đồng gốc gạo, hai bờ tre xóm Giếng và làng Dâu vào cầu
Điều. Cái cầu, cái quán cho người qua đường, người làm dưới đồng sâu lên nghỉ trưa.
Kìa, lại hiện về thời sự của thành phố bị chiếm. Một boong ke xi măng cốt sắt, nửa chìm
nửa nổi cao như gò, lỗ châu mai bốn mắt dõi ra dưới hàng cây sồi lẻo khoẻo, vành đai lô
cốt phòng thủ Hà Nội của tướng Đờ Tasinhi.
Trong tôi vẫn nguyên cái tò mò hồn nhiên như thuở bé buổi sáng cắp sách lên trường đình
Yên Thái mà thật ra thì tôi đương mờ ảo trong khu vườn và nhà trường Nguyễn ái Quốc
trước kia chỗ này là xưởng làm pháo của chủ hãng pháo điện quang Phú Mỹ. Đã có lần
tôi vào đây xin việc làm, nhưng không có việc bàn giấy, đây nhà kho và xưởng pháo giáp
ranh các xứ đồng Nghĩa Đô và Cổ Nhuế. Đường trong Noi ra, người quảy đồ may thuê
trong thành đem trả, đi một dãy dài lên bến tàu điện Cầu Giấy. Cái đêm 9 tháng ba 1945
Nhật đảo chính Pháp, các làng xung quanh cánh đồng kéo vào hôi của kho giấy hợp tác
vạc làng Hồ và nhà pháo Phú Mỹ. Kho thuốc nổ, làng tôi có thằng Cửu và thằng con cậu
ba Phát phải bỏng khiêng được về nhà, nằm kêu khóc mấy đêm thì chết. Ngày ấy tôi mà
xin được việc vào làm nhà pháo, không khéo tôi cũng toi mạng rồi.
Tôi trông ra cửa sổ bây giờ. Không dứt được ám ảnh những Trăng thề còn đó..., những
Dám xa xôi mặt... phảng phất trên đầu lúa rì rào. Lại vừa năm nào, tôi đi với Nguyễn Tuân,
Kim Lân và anh Ba Hĩ trong làng ra mùa tháng mười đi bắt chuột, xách những rọ, thuổng,
mồi rơm, lồng sắt và hai con chó đen. Chúng tôi vào hun tổ chuột tận gò đất đồng Lỗ
Vàng, buột mất con “ti ù” to bằng bắp chân thoát vào bờ rào nhà trường này. Thước phim
những ngày qua cứ chồng chất, chồng chất.
Học viên các tỉnh ô tô đưa về trường suốt tuần - học viên bộ, thứ trưởng ở Hà Nội có xe
đưa đón. Chế độ xe qui định ngặt, cơ quan chúng tôi chẳng ra bộ, thứ bộ, chỉ có thủ
trưởng Nguyễn Tuân và thường vụ Nguyễn Huy Tưởng được phát chiếc xe đạp công gắn
số biển xanh, nhất hội rồi.
Mỗi lần về thành phố tôi đi đường Cầu Giấy - ô Chợ Dừa, hai bên đường này xưa kia
tường thành đất, Tây bạt thấp xuống làm đương, tử mặt đất lên mép đường vẫn cao bằng
con sào, một quãng lại thấy tun hút giứa luỹ tre một lối, trổ xuống vào các làng trại ở trong
xa. Thỉnh thoảng mới thấp thoáng một quán nước chè tươi, cái lều chữa xe đạp. Bây giờ
nhà và người đã mọc ra ở túi bụi, quang cảnh xưa ấy đã vào cổ tích rồi.
Quãng đường trống gió rét căm căm qua cái bia đá nơi quan ba Phờrăngxi Gacnhiê
1874 chết trận cạnh toà nhà thờ họ đạo vắng hoe. Ngày trước, mộ lão ấy dưới cánh đồng
- chắc chỗ lão ngã xuống, không biết đã được đưa lên ven đường thời nào. Và tên lão thì
Tây đã đem gắn biển oách nhất vào cái phố vòng hồ Gươm, bây giờ là phố Đinh Tiên
Hoàng.
Rồi qua chỗ quan hai Ban Ny cũng chết trong trận ấy ở cửa đền Voi Phục. Người Pháp
cũng đặt cho một tên phố, lại cắm cái cọc xi măng trước cổng đền Voi Phục, xây một cái
bảng to đề là “Chùa Ban Ny". Có lẽ chẳng ai để ý cái ngang ngược, cái dốt ấy, chỉ có tôi
tò mò.
Cái mộ giả quan tư Hăng ri Rivie bị giết 1884 ở trận Cầu Giấy. Ngôi mộ sắt thép nguy
nga giờ chỉ còn một tảng đá to bằng con trâu kềnh. Bà hàng nước bày chõng hàng lên
mặt đá lởm nhởm. Tôi ghé uống bát nước chè tươi, hỏi bà hàng: “ ở đây xa chùa Trầm,
chùa Thầy mà ai khiêng hòn đá to thế này về làm gì". Bà hàng nói: “Thấy bảo ngày trước
nó là cái nắp mả Tây ấy mà”. Thật thì chỗ này xưa là phố nhà trò phủ Hoài, khách chơi
ngồi trong tiếng hát, tiếng đàn trông ra “mả ông Năm” dưới bóng cây bàng, thấy cái mũi
ông bằng đồng sáng nhoáng nhọn hoắt đâm lên trong bờ rào sắt.
Khoá học của tôi theo chương trình hai năm lần lượt có các môn và các hoạt động đã
được thông báo:
Một- Triết học Mác. Duy vật biện chứng.
Hai- Duy vật lịch sử.
Ba- Chính trị kinh tế học.
Bốn- Sự tất yếu của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa đối với những nước kém phát triển
nói chung và đối với Việt Nam nói riêng.
Năm- Các vấn đề kinh tế và cụ thể.
Sáu- Đi thâm nhập thực tế ở một hợp tác xã đã cải tiến quản lý (hoặc nhà máy) để kiểm
tra, đối chiếu các môn đã nghiên cứu.
Bảy- Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam.
Tám- Thu hoạch và tổng kết.
Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các môn chính trị kinh tế học, kinh tế cụ thể có hai
thày Liên Xô và thày ta phụ giảng ngoại khóa. Khóa này, khóa học cuối cùng có chuyên
gia giảng viên Liên Xô. Chỉ những đầu bài nghe đã vừa hấp dẫn vừa ngại. Lại thấy bảo
đến mục thu hoạch tổng kết câu hỏi và trả lời đều phải viết ra giấy. Cũng chẳng lo vì không
phải thi lên lớp, không làm được bài chắc chỉ ngượng ti chút, ôi thôi có người cô ta và
không thể đoán trước được cái câu học tài thi phận. Cái năm xưa thi vào trường Bưởi,
tôi nộp giấy trắng thì biết trước phải trượt rồi, nhưng những đi thi lấy bằng Sơ học, bằng
Cao đẳng tôi làm bài, viết cóc nhảy cho kịp giờ, và rồi vào vấn đáp, một bà đầm hỏi, tôi
đứng đực ra không trả lời được. Thế mà đến hôm xem bảng cũng thấy đỗ.
Nhiều bài ngoại khóa, tôi nhớ hơn vì thày ta nói dễ hiểu. Những báo cáo điển hình minh
họa bài học của anh hùng nông nghiệp Đỗ Tiến Hảo, của một công nhân kể khổ... Viện
trưởng viện triết Hoàng Minh Chính, nhà kinh tế học Minh Chi thuyết về khoanh vùng kinh
tế. Nhanh thật, các anh ấy đã có chuyên môn thành các nhà triết, nhà kinh tế lúc nào.
Hoàng Minh Chính giơ tay, cất giọng hùng biện. Mặt anh nghiêm nghiêm, lừ lừ kiểu thủ lĩnh
bẩm sinh. Từ lâu tôi đã phục Hoàng Minh Chính tổ chức trận tập kích sân bay Gia Lâm
đêm đầu toàn quốc kháng chiến, mà tôi nghe hơi đã viết một tin viết lên trang nhất báo
Cứu Quốc là quân ta xung phong chất rơm hỏa thiêu 25 máy bay địch ở sân bay Gia Lâm.
Dáng vẻ Hoàng Minh Chính tự tin một cách hồn nhiên. Chứ không thấy dơ như mấy ông
tỉnh ủy bắt chước anh Ba mặc áo lụa bà ba ống tay rộng, phe phẩy cái quạt giấy. Minh Chi
tôi quen từ trước kia cùng cánh phật tử với bác sĩ Thuyết, bè bạn đồn vì anh phải lòng con
gái bác sĩ Lê Đình Thám mà thành phật tử. Dường như Minh Chi là người lúc nào cũng có
vẻ vui, đọc khỏe và viết đủ các sách chính trị, kinh tế, lịch sử phổ thông, sơ giải từ thời mồ
ma nhà xuất bản Minh Đức 1946. Tóc Đinh Văn Vinh bạc sớm quá. Bây giờ anh giảng về
kinh tế khoanh vùng, đúng sở trường hiểu biết mênh mông của anh chưa. ít lâu sau có
người bảo tôi là anh này “xét lại". Anh mới mượn tôi một tiểu thuyết Moravia, Cô gái Rô
ma.
Chẳng hiểu thế nào. Rồi lại thấy anh dịch kinh Lăng Nghiêm. Đã lâu Minh Chi chuyển vùng
vào miền Nam.
Không biết anh có ở chùa với cụ Minh Châu không, nhưng anh viết báo Giác Ngộ, ký cư sĩ
Minh Chi.
Tôi chẳng nhớ tên ông thày Nga nào, mà nhớ tên anh Đậu Ngọc Xuân, người dịch các bài
triết và kinh tế cực khó đối với tôi. Thày triết Xéptôlin khóa trước giảng chức năng mỹ học
là tiêu chuẩn hàng đầu của văn nghệ rồi mới đến chức năng giáo dục vân... vân...
Đến thày dạy tôi thì lại bảo chức năng giáo dục mới là số một. Nguyễn Văn Bổng tha cái
chức năng mỹ học vào khu giải phóng trong chiến trường B, thế là bị tai nạn. Tôi thì chức
năng giáo dục, chính qui quá, nhưng tôi cũng chẳng phát huy được hơn câu giảng.
Khó lắm, tưởng là đến nghe giảng về kinh tế cụ thể rồi về nhà máy liên hệ, kiểm tra sẽ vỡ
ra, nhưng càng ù ù cạc cạc vịt nghe sấm.
Mà chỉ nhớ, chỉ hãi những vớ vẩn. Có anh kể: Khóa trước có một thày Nga già dạy kinh tế
cụ thể vừa lên bục hội trường đã dọa: “Tôi ghét những người ngồi nghe mà nhổ râu. Ai
nhổ râu thì hoặc là người ấy hoặc là tôi ra khỏi đây ngay”. Thày lớp tôi không nói thế.
Nhưng tôi nhỡ sờ lên cằm, lại rụt tay lại.
Tôi nhìn quanh xem có thấy ông Hoàng Trung Thông nào đương vặt râu không. Hoàng
Trung Thông hay nghiêng mặt phồng má nhổ râu. Tôi quá hoang tưởng, Hoàng Trung
Thông không học khóa này.
Thế thì những cái được của tôi cũng vẫn lại chỉ là chắp vá, khâu rúm, khâu đụp. Tôi chịu
khó cóp nhặt nhưng biết đến bao giờ mới được cỗ máy. Vừa học vừa nhớ lăng nhăng,
làm thế nào cho có trí thức. Có lẽ chẳng bao giờ. Tôi vẫn chỉ là tôi vậy, vậy thôi.
Thế nhưng tôi đã tỉ mỉ, cẩn thận sửa soạn hai loại sổ. Không bắt chước và cũng chẳng
biết thành nếp bởi đâu, từ bao giờ tôi vẫn làm tương tự thế mỗi chuyến đi. Một sổ chép
bài giảng, với những ý kiến trao đổi ở tổ. Một sổ những ý nghĩ liên hệ đến cái nghề cầm
bút. Bài giảng được phát, tôi đóng thành bộ. Hết khóa học, tôi cho Nguyễn Bá Chính bạn
tôi giảng viên Đại học Kinh tế Tài Chính. Chính đỗ tú tài thời Pháp, người mực thước như
sinh ra để làm thày giáo, chắc chắn những tài liệu và sổ tay ghi chép của tôi Chính dùng
có ích hơn tôi. Anh đã đến nhà tôi ôm cả cái cặp giấy về.
Trước nay, tôi hay ghi thoắng cho tôi đọc. Nhưng lần này, sổ ghi tôi viết nắn nót không trốn
nét. Chỉ vì ở bàn trên tôi có một chị ở cấp ủy địa phương lên học, chị ghi không kịp thày
giảng, phải mượn sổ tôi để chép. Chị đã trả ơn, biếu tôi chai dấm làm bằng chuối chín và
chị dạy tôi cách làm dấm chuối. Quí lắm, các cửa hàng nước chấm nhà mậu không mấy
khi bán dấm. Nếu có chỉ bán ngữ một góc lít, không chua mà nhạt như nước lã. Đằng này,
có cốt nước sôi tinh khiết, cắt quả chuối chín bỏ vào, nút kỹ để một tuần lấy ra ăn, cũng
chua mà lành. Có người bảo tôi ngày trước chị ấy bán rau ở chợ tỉnh, thạo rau cỏ, mắm
muối. Chị mặc áo vét ka ki đeo túi tài liệu, nào ai đoán được ai.
Tôi nhớ những dớ dẩn. Tôi không có vốn học cơ bản. Tôi đi học cũng chẳng hơn chẳng
khác chị bao nhiêu, chị không biết đấy thôi. Cũng như không rõ mấy trăm học viên tuổi tác
lổn nhổn, có các cụ thâm niên Thanh niên Cách mệnh Đồng chí hội, có người học Tây, học
Nho, có người đến tháng tám 1945 mới tập ngoáy chữ ký. Nghe giảng thế nào, làm bài
kiểm tra ra sao.
Chẳng ai hỏi ai, mà rồi hình như cũng xong xuôi cả.
Cái hôm kiểm tra tổng kết tôi nhận một mớ câu hỏi: triết học, kinh tế cụ thể, lịch sử Đảng...
Bấn cả lên.
Nhưng tôi không còn là trẻ con nộp giấy trắng như cái năm thi trượt vào trường Bưỏi. Tôi
cũng không hiền lânh chép bài như chị bạn dạy tói làm dấm chuối. Thế mà rồi tôi cũng viết
được kín vài trang giấy.
Nghe nói khóa trước, nhà sử học Minh Tranh giám đốc nhà xuất bản Sự Thật đã không
làm bài kiểm tra. Không phải Minh Tranh không làm nổi. Mà anh không bằng lòng cái cách
thi cử hỏi đáp kiểu trường tiểu học vừa trẻ con lại vừa hình thức không đi đôi với điều
kiện. và trình độ mọi mặt khác nhau của những người đi học đầu đã bạc, đương bạc.
Không biết những cán bộ mấy chục năm vùi đầu mọi công tác, khi phụ trách chung, khi
dân vận rồi nông nghiệp, thương nghiệp, thuế vụ... mà anh ấy xưa kia cũng như từ khi
cách mạng, chưa bước chân vào một lớp văn hóa, chính trị nào bao giờ làm thế nào.
Có hôm ngồi chuyện tếu, chúng tôi điểm mặt những ông này bà này, ở Trung ương ở các tỉnh
thì thấy nhiều người khéo trốn học lắm.
Trốn đến tài, công tác lên đến bí thư tỉnh, phó ban trưởng ban, công tác to thì càng lắm lý
do thoái thác vì đột xuất, đột xuất, tiếc quá không được đi học đợt này, nhưng mà bận, đợt
sau lại đột xuất. Cho đến tận ngày về hưu mà vẫn đàng hoàng cao cấp không lòi đuôi.
Ghê không.
Tôi gặp chăng hay chớ, không táo tợn như Nguyễn Công Hoan ngày xưa đã nhờ bạn vào
thi vấn đáp hộ bây giờ thì nhờ viết hộ. Tôi cũng không dám cứng cựa như Minh Tranh. Hết
khóa học trở về, Minh Tranh cũng rời bỏ mọi công tác đương làm, hình như để ngồi chơi
xơi nước. Nhà Minh Tranh ở khu phố tôi. Tôi lại làm trưởng ban đại biểu khối, mỗi năm
ngày Tết chúng tôi đến chúc năm mới nhiều nhà bà con. ít khi tôi được gặp anh ở nhà
trong dịp ấy. Nhưng thường thấy anh tha thẩn quanh hồ Thiền Cuông. Già đi nhiều, anh
vốn nhỏ ngưòi, bây giờ càng lủi thủi mình hạc xác ve. Lớp tôi, về tuổi tác, thì tuổi ai phần
nhiều cũng đã cứng. Có những vị trong ngoài bảy mươi, các bà Nguyễn Thị Thập, ông Lò
Văn Hặc, ông Kha Vạng Cân, ông Lê Văn Hiến... Đi học, ban tổ chức thông báo tiêu
chuẩn, chế độ học viên. Cơ quan đảng của ngành đề nghị rồi nhà trường triệu tập.
Các cơquan là cơ sở đưa người đi học. Người thì được đi trau dồi kiến thức, chuẩn bị lên cấp.
Người đến trường vài ba tháng lại phải về, vì công tác khẩn ở chiến trường B, ở nước
ngoài. Có người lão quá, đi học là một ưu đãi tinh thần rồi về hưu. Nhiều nơi cơ quan hục
hặc nhau làm mẹo đảy đi học, tạm hòa hoãn. Có cán bộ chẳng sắp việc nào cho êm, thì
hãy gửi đi học cái đã. Bao nhiêu đoạn trường, mỗi người đến đây mỗi tâm sự, mỗi nỗi,
làm sao mà tò mò cho thấu.
Ông Canh sáu mươi lăm tuổi. Người cao lớn nhưng béo bệu, không khỏe. Ông làm thanh
tra hay nội chính, không biết. Học hết khóa thì về hưu, ông kể thế. Không cùng tổ, nhưng
ông hay trò chuyện với tôi. Ông Canh quê Thái Bình. Ông hoạt động từ năm mười lăm
tuổi. Ông bị bắt, bị giam Hỏa lò rồi phải phát vãng lên Bắc Mê. Ông bị giam ở Hà Giang
không biết bao nhiêu năm. Nó bỏ quên ông ở chỗ ma thiêng nước độc, nếu không có năm
1945, chắc ông đã bỏ xác ở đấy. Ông đọc cho tôi nghe những bài thơ ông làm trong tù.
Ông Canh nói những bài thơ ca cách mạng của ông đem đóng lại được mười một tập
giấy. Có thể, vì ông làm thơ, thấy tôi nghề văn thì ông làm quen.
ông Canh nói:
- Xong đây thì tôi về nghỉ.
- Trông anh khỏe, minh mẫn lắm.
- Tôi tổ chức cơ quan đoàn kết và công tác đâu ra đấy. Tôi về hưu không phải vì chuyện
đấu đá. Hoàn cảnh tôi khó lắm. Cả thời trẻ ngồi tù, lấy vợ muộn quá. Bốn thằng con trai,
mà nhóc đầu mới mười một.
- Thế chị ở nhà...
- Nội trợ, làm linh tinh. ở tổ đan len, hết việc thì tổ hợp tác lại gọi đi đẩy xe than cho cơm
nồi nước sôi...
- Vậy cũng gay.
- Gay lắm. Tôi ở nhà còn đi chợ, vào bếp, hò hét lũ trẻ, chúng nó đánh nhau cả ngày. Chứ
cứ đi biền biệt, không xong.
Tôi thở dài, thương ông Canh, lại nói:
- Thế thì gay thật.
ông Canh chỉ ăn bữa trưa ở bếp nhà trường, chiều tan lớp ông Canh cắm cúi đạp xe về.
Nhà ông ở gần chợ Hôm. Có họp tối ông Canh cũng không ngủ lại.
Cả những tối có phim Liên Xô, phim Trung Quốc hay có văn công vào, ông Canh coi như
không biết.
ông Canh bảo tôi:
Tôi về kể chuyện, mấy thằng con tôi bảo anh viết quyển “Dế mèn” hay lắm, phải không?
- Vâng.
Nó bảo tôi hỏi mượn hay là xin anh một quyển.
Anh có làm thơ không?
Tôi đã thấy đầy đủ hơn cái cớ ông Canh làm quen với tôi. Một hôm ông Canb trả lại tôi
quyển Dế mèn phiêu lưu ký. Ông Canh nói:
- Tôi chẳng thấy hay ở chỗ quái nào. Trẻ con bây giờ trình độ không ra sao.
Tôi đành cười ngơ ngẩn: “ừ, trẻ con ấy mà. Tôi viết cho trẻ con, anh đọc làm gì.
- “Trẻ con thì đọc sách cũng phải có mục đích. Anh viết quyển sách này có mục đích thế
nào?”. Tôi đưa đẩy qua loa rồi sang chuyện khác. Chúng tôi vẫn trò chuyện bình thường,
cũng chăng lần nào ông nói lại cái chuyện viết sách có mục đích, trẻ con bây giờ chẳng
hiểu gì. Việc nhà ông rối canh hẹ, còn hơi sức đâu mà nhở con dế, con cào cào... Người
ta sợ, người ta xấu hổ “được” nghỉ hưu, còn chạy chọt và giả mạo giấy má để chậm về,
ông Canh thì không.
Ông mong chóng học xong. Có khi ông nghỉ cả tuần không có lý do. Đến lớp thì ông kể bà
ấy nhức đầu, ông phải ở nhà đẩy xe than, Tết sắp đến, tổ hợp tác thêm việc nấu bánh
chưng.
Một hôm, ở phòng thường trực nhắn tôi ra có người gặp. Tôi trông thấy một người mặc
bộ đại cán màu xi măng đã phai nhợt nhạt, ngồi đợi tôi trong phòng khách. Tôi đã nhận ra
Mùi Cá. Tôi chơi với vài bạn làm an ninh. Có người tôi quen biết từ hồi vụ Nhân Văn. Có
khi tình cờ. Không phải tôi quen thuộc vì các anh nhờ làm tai mắt, tôi cũng không có thói
quen rỉ tai khoe khéo tôi là cá, cá chuyến, cá việc, cá vụ.
Có lần, Trọng Hứa hỏi: “Người ta
bảo ông làm cá, phải không? Tôi nói: “Công an nhân dân thì ai cũng làm cá được”. Những
người đã nghi thì chẳng biết nói xuế xoá thế có đủ tin hay không, nhưng chơi với cá tôi
cũng học được miếng võ còm. Là vào quán cà phê Phúc Châu trên Hàng Giày thường
chọn góc ngồi có thể nhìn bao quát. Muốn quan sát được nhiều thì cách ghi nhớ của nghề
văn cũng đòi thế.
Không nhớ Nguyễn Tuân hay Nguyễn Minh Lang giới thiệu tôi quen Hùng Cá, rồi với Lý
Béo khách sạn Thắng Lợi, lại dây mơ rễ má quàng đến Khải cà phê. Còn Kim Sơn thì
Nguyễn Sáng đã bạn từ trước, Kim Sơn hay rủ đến nhà đánh chén. Kim Sơn công tử Sài
Gòn đã cùng Hoàng Đạo lặn vào hoạt động Sài Gòn
- Hà Nội mà chiến công kết thúc lúc nửa đêm đánh đắm tàu chiến Amiô Đanhvin ngoài
khơi Sầm Sơn. Năm trước, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng về sự tích anh hùng trên, tôi
đọc biết Kim Sơn con nhà giàu khi ấy mới lấy vợ mà bỏ Sài Gòn đi làm công tác quyết tử,
tôi thật bồi hồi... Tôi có nhờ Hùng Cá mua củi, bấy giờ củi đun và mữ nhà mậu đều bán
phiếu, nhưng Hùng Cá cũng chưa mua hộ được củi lần nào. Chỉ thỉnh thoảng đi chè chén
thì có. Hùng Cá hay đưa sách Pháp cho Nguyễn Tuân mượn. Người ta thì thào Hùng Cá
theo dõi Nguyễn. Tôi nghĩ cũng cứ đồn to chuyện ra thôi.
Mà Nguyên Tuân nói có lý: tao không đi họp việc quan trọng, tao không biết bí mật quốc
gia thế nào, chỉ thỉnh thoảng nói đổng chơi, cá theo tao làm gì cho tốn cơm. Hùng hoạt
động nội thành thời Hà Nội bị chiếm. Các khácb sạn lớn, khách sạn Mê Tô Pôn là nơi đi
về, ăn ở an toàn của Hùng. Bây giờ Hùng thường đưa chúng tôi đến khách sạn ấy, mà
anh em nhà bếp, nhà bàn.. đều là cơ sở cũ, chúng tôi đánh chén giá nội bộ không có giá
nào. Lưu Thiệu Lý chúng tôi quen gọi là Lý Béo quản lý Thống Nhất rồi lên Thắng Lợi.
Cứ đàn đúm cả chủ lẫn khách thật thuận tình cho bộ mặt văn nhân tài tử mà những cái túi thì
lép xẹp còm cõi của chúng tôi. Cũng còn hơn bao nhiêu lâu nay đi qua Mê tô pôn Sôphitel
chẳng buồn ném vào cái đuôi mắt, mày con dây mơ rễ má gì trong ấy nữa mà nhìn!
Chỉ còn cà phê Khải. Cái hàng cà phê trong hẻm chợ Hôm, bây giờ đã thành cao lâu đặc
sản bít tết 202 phố Huế của tỷ phú Khải. Đôi khi, Hùng Cá và tôi đến lấy một bàn khuất,
ngồi nhấm nháp lại những mơ màng đã qua. Hùng Cá đương được lo liệu viết lịch sử
ngành ở thành phố. Những lần xưa đến đây, còn có Nguyễn Sáng, Nguyễn Tuân, nhưng
rồi cũng chán không tới nữa. Bởi vì nhà hàng này độc đáo có cái bít tết, mà hai ông này thì
chỉ trệu trạo món cua nhồi “phá xí”. Răng đau, răng rụng cả rồi.
Khải vốn là một thày giáo hồ lơ ở ngoại ô Thanh Nhàn. Rồi lái xe, có xe hàng chạy và cũng
có làm đôi ba vụ việc cho an ninh thành phố bị chiếm 1954 rồi lái xe sứ quán Pháp.
Nhưng cái ham muốn của lão này lúc nào cũng đinh ninh, cả những khi khốn khó chìm nổi
vật lộn với tem phiếu và nhà mậu, Khải vẫn đuổi theo cái mộng và thực của mình. Cũng
chẳng khác kỳ vọng sáng tạo của người cầm bút. Có điều Khải toại nguyện, tác phẩm
nghệ thuật hoài bão lớn của anh đã xây dựng thành công.
Cà phê pha lấy cho khách. Phở thì Khải nấu nước dùng và đứng chan từng bát đến bây
giờ Khải đã có nhà hàng bốn tầng lầu, mà mỗi sáng Khải vẫn len chợ Đồng Xuân, tự tay
mua lấy bó hành hoa, mớ cần tây và chọn từng súc thịt bò quẳng ra xích lô rồi lẽo đẽo đạp
xe theo về. Không phải thân làm tội đời, mà cái đam mê của con người ta thì không cắt
nghĩa được.
Cũng như hồi phở Khải đông khách nức tiếng phở bò, nhưng Khải không đụng một
miếng. Anh hàng phở hay thèm rau muống, đằng này môi sáng xong hàng Khải lên phở
Hải con lão Chi làm bát phở cánh gà.
Khải cực khó tính và nền nếp với người làm. Một dạo, mụ vợ lẽ chủ rạp Mê Linh cũ cũng
làm bưng bê ở đây. Trên tạp chí ảnh Châu á ở Singapo có hình ông chủ 202 đứng với cô
nhà bàn này, tôi những tưởng anh ta chộp được. Nhưng rồi có ngườiViệt kiều “khách
biên đình sang chơi” đến đây, đã bê mụ ấy về Mỹ.
Thỉnh thoảng mụ vẫn về và đến chơi. Số phận và may rủi biết thế nào là cùng nhỉ?
Có việc đến công an hay công an gặp thì chẳng mấy khi chuyện vui, nhất là anh công an
Mùi này.
Mùi không chơi bời, Mùi không phải kiểu những ông cá chìm cá nổi, cá ươn, cá nửa mùa
bè bạn tiêu dao của tôi. Tôi biết Mùi vì công việc. Mùi chất phác. Chuyện với Mùi, tôi đùa:
“Cậu làm công tác tbuế. đi bắt rượu lậu hợp hơn và chắc là thành công hơn ở ngành văn
hóa". Mùi lành, chỉ cười, không biết giận, lại thật thà hỏi tại sao anh lại nghĩ thế. Tôi bảo
tôi quen một anh khu Năm bộ đội phục viên lấy vợ làng Giá. Anh làm cán bộ thuế huyện,
trông nom thu thuế chợ Sấu, chợ Giá. Vợ con, nhà cửa, vườn cây, ao cá tươm tất lắm.
Chúng tôi chạy máy bay Mỹ, trại sáng tác thiếu nhi của nhà xuất bản Kim Đồng mở ở làng
Giá. Người xa cứ tưởng Sấu, Giá một làng, nhưng là hai làng ở gần nhau. Chỉ rượu bên
Sấu cô tiếng ngon, nhưng đương cấm rượu. Anh cán bộ thuế đi bắt rượu bên Sấu, thỉnh
thoảng đem một hai bi đông rượu về, đi cửa sau vào bán cho tôi. Tôi thấy anh ấy làm việc
phải sức mà ung dung và tôi quen anh vì thế - tôi bảo Mùi. Mùi cười, lúng túng nói: “Tôi
không biết uống rượu, anh ạ”
Mùi ít chữ, được cái chịu khó, không lên điệu vừa khoe vừa giấu dốt, như một số cán bộ
tôi hay gặp luôn.
Bấy giờ tuyển công an không lấy người thành phố, mà đưa người quê Vĩnh Phúc vào và ở
Thanh Hóa ra, có anh chưa trông thấy, chưa ngồi vào cái ghế sa lông bao giờ. Nhiều khi
họ tỏ hăng hái nhất lại do một mưu mẹo khác. Cái dạo Kim Lân mấp mé phải lên thớt vì
tập truyện ngắn Con chó xấu xí, Mùi hỏi tôi: - Anh có quen nhà văn Kim Lân không?
- Có.
- Hàng xóm tố cáo anh ấy nuôi con chó đặt tên là con chó xấu xi, cứ chửi cả ngày, như
chửi người, thế thì chửi ai. Nhiều vấn đề lắm.
Tôi bảo:
- Không phải. Ông ấy viết một cái truyện ngắn tên là Con Chó Xấu Xí.
- Truyện ngắn chứ không phải người à?
- ừ
- Anh có truyện ngắn ấy không?
Cái người hàng xóm đi bô báo Kim Lân nuôi chó, chửi chó thì không phải bây giờ Mùi nói
tôi mới biết.
Mà tôi biết cán bộ ấy trong nhiều cuộc họp đã phân tích và lên án dữ dội Con chó xấu xí.
Anh là em sinh viên Nhung - người mà báo chí hôm đảo chính Nhật ca tụng Nhung đã cùng
quân Nhật đánh thành Hà Nội, bị hy sinh. Em Đại Việt mà bây giờ là cán bộ ta phải gĩư
bùa hộ mệnh thì chưa biết chính anh ta sẽ làm cho Con chó xấu xí đánh chết được thằng
viết ra nó.
Chẳng thiếu những kẻ lý lịch phức tạp, dối trá công tác lôi thôi đứt đoạn đã lên gân đấu
người khác hết cỡ hồi xảy ra việc Nhân Văn. Cũng là vậy thôi. Mùi còn ít tuổi. Tôi thương
Mùi vì thật thà. Mùi cũng quen vợ tôi và biết tất cả các con tôi. Mùi đã hỏi tôi những cái mà
chắc Mùi không dám hỏi ai. Phố xá đương nhộn lên chơi phong lan, cá vàng. Con cá vàng
thì biết rồi, vì con Mùi hay mua cá vàng ở chợ về chơi. Nhưng phong lan thì chưa biết là
cái gì. Mùi hỏi. Tôi không thạo chơi phong lan, nhưng ít ra tôi cũng cắt nghĩa cho Mùi về
phong lan, lan gió, lan đất được.
Một hôm, Mùi giơ cho tôi nhìn cái đầu mục một tờ báo
Sài Gòn in to dòng chữ Phần văn luận trên đầu trang. Mùi băn khoăn: “Cái thằng Phần
Văn Luận nghe quen quen, anh có biết nó không". Tôi nói: “Nó là tên mục, tên bài văn luận,
xã luận, không phải tên người đâu”. Mùi lặng lẽ ghi vào sổ tay. Không biết thì hỏi, có
người tin cậy để Mùi hỏi, Mùi lễ phép, tự nhiên. Thỉnh thoảng Mùi còn nhờ tôi nói về văn
học nước ta, văn học thế giới, Mùi lại mở sồ tay và chăm chú nghe.
Mùi hay đóng bộ ka ki đại cán 1954 vàng xẫm may ở Thái Nguyên về tiếp quản Hà Nội,
màu đã nhạt trắng. Việc gì cũng chỉ ngồi đến gần mười giờ, Mùi xem đồng hồ rồi đi. ở
cửa hàng bia hơi phố Hàng Khay ra, tôi thấy Mùi đứng sắp hàng trưóc cái xe tải rau
muống, rau dền, rau bí đương rỡ xuống hè phố Bà Triệu. Vợ Mùi làm nhà máy hoa quả,
chắc là giờ đi làm của Mùi cao su hơn, có thể đỡ đần vợ được.
Mùi cười cười bắt tay tôi. Thấy công an cười, thế chắc chuyện vui thôi.
- Tôi đến xin hỏi anh một việc.
- Việc gì thế?
- Anh có quyển sách Bác sĩ Givago...
- ừ, nhưng không phải của tôi, mà cơ quan bảo giữ hộ.
- Vâng, cơ quan bảo anh giữ.
Tiểu thuyết đốc tờ Givago của Patecnăc dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Galima hay
nhà Laphông, tôi không nhớ. Patenăc đã bị gạch tên hội viên hội nhà văn Nga và hội nhà
văn Liên Xô. Patecnăc được giải Nôben văn học, nhưng không được ra nước ngoài dự
lễ nhận thưởng. Lại ra tuyên bố báo chí “không thèm đi nhận". Những cái rắc rối ở bên
Liên Xô, dẫu chưa tỏ tường ất giáp thế nào, nhưng cứ coi thế là có cái phải canh chừng
ở đây. Cơ quan tôi được nhận một quyển tiểu thuyết Đốc tờ Givagô do trên phân phối.
Tự dưng lĩnh một quả bom, phải cất giấu sao cái của nợ này đây. Để ở thư viện không
tiện, mà cái thư viện con con, không có tiêu chuẩn tiền mua sách, đâu biếu quyển nào thì
có, cộng với một số quyển đem trên rừng Việt Bắc về đã cũ nát. Đôi khi, sứ quán Pháp
cũng tặng sách, ôtô đưa đến cả ôm. Nhưng họ tinh ý, chỉ biếu các tuyển tập cổ điển
Vônte, Coocnây... Không có sách mới, bây giờ bày của lạ này ra thì chắc thu hút tò mò
ngay. Không để ở thư viện, mà cũng không thể cất ở đấy. Nhỡ mất thì khốn. Không biết ai
đã có sáng kiến dưa cho tôi đem về giữ ở nhà.
Quyển Đốc tờ Givago li ti chữ dày năm sáu trăm trang, tôi cũng rọc vài tờ rồi bỏ trên giá
sách. Vừa dài lại đọc khó, phải tra từ điển luôn.
Anh Mùi kể cho tôi biết:
- Hiện ở Hà Nội có một quyển Bác sĩ Đivago đương truyền tay nhiều người ở đâu ra, bọn
phản động đưa lén lút trong Nam ra hay ở vali ủy ban Quốc Tế, tôi đi tìm...
Bây giờ hỏi tôi, chắc có ý nghi ngờ. Tôi nói:
- Tôi giữ quyển ấy đấy, nhưng tôi không cho ai mượn.
- Anh cho tôi mượn nhé.
Rõ ràng cách nói không tin và muốn kiểm tra. Tôi về nhà, hôm sau đưa quyển tiểu thuyết
Đốc tờ Divagô cho Mùi. Quyển sách đã lâu để trên giá, bụi bậm cóc cáy mép sách như
ám khói. Giấy búp phăng, không xén, tôỉ mới rọc mấy tờ đầu. Tôi gật gù khoái ngầm cái
nghi kỵ của Mùi, nhưng cũng cẩn thận mở cho Mùi biết và cắt nghĩa thế nào là quyển sách
chưa rọc và sách rọc giấy lờm xờm, lại qui hơn sách xén nhẵn.
Mùi nói:
- Cho tôi mượn quyển này vài hôm, anh nhé.
Mùi không biết tiếng Pháp, mà phải báo cáo, cho nên anh cẩn thận kỹ lưỡng hỏi tôi, chứ
anh biết làm thế nào. Mấy hôm sau, Mùi đem sách đến trả tôi. Mùi nhìn quanh, trong phòng
khách chỉ có hai chúng tôi, Mùi thì thào:
- ở Hà Nội chỉ có hai nơi được cỏ quyển sách này.
Cái quyển Bác sĩ Divago đương nhiều người truyền tay ấy là quyển sách ở thư viện
trường Nguyễn ái Quốc này đấy, anh ạ.
Thế mới quái. Nhưng trước nhất chúng tôi bị nghi ngờ đã - không thể trường Đảng cẩn
mật vững chãi lại để lọt sách xấu ra được. Mùi đưa trả tôi quyển sách chưa rọc. Mùi đã
cho tôi biết rõ vậy, mà tôi nhìn mặt Mùi dường như ngờ ngợ chưa hẳn Mùi tin tôi. Có thể
lắm. Hay chỉ là cảm tưởng thành kiến và hoang tưởng của tôi. Cũng như, ông cán bộ lập
trường cứng cáp đương sửa soạn bài bản đánh truyện ngắn Con chó xấu xí mà tôi lại
mách ông ấy là em thằng sinh viên phản động thân Nhật thì ai tin được tôi bởi không thể
cái người vững vàng thế lại có liên quan xấu thế, thiếu lô dích tợn.
Mấy năm sau, có những dịp qua Matxcơva, các bạn chỉ cho tôi thấy cụ Patecnăc đến câu
lạc bộ Hội Nhà Văn. Cụ già nhỏ nhắn, gầy gùa, đội mũ phớt, bước nhanh nhẹn. Cụ uống
bia và vào phòng chơi bi a. Về khuya, các người đều chơi bi a ăn tiền. Nhớ đến chuyện
vu vơ chúng tôi bị liên lụy vì tiểu thuyết của cụ, lại nghĩ cười, cười buồn. Suýt nữa chẳng
phải đầu phải tai, chuyện ở xa thế, cụ không bao giờ có thể tưởng ra được.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương VIII
Những chuyện bâng quơ đâu đâu đến quàng vào đời người. Có khi thoảng qua, có khi tự
dưng mà đổi đời. Năm 1947, chúng tôi làm báo Cứu Quốc ở châu Bạch Thông trên Bắc
Cạn, có hôm chủ nhiệm Xuân Thủy kể với tôi: “Hồi bí mật, có thời kỳ báo Cứu Quốc đóng
ở núi Thầy, gần vùng quê cậu. Chúng tớ định tìm cậu đưa đi thoát ly làm báo. Về thăm dò
cơ sở Việt Minh ở làng cậu, mấy cô phụ nữ cứu quốc báo cáo cậu giăng hoa lắm” Cũng
lại một tình cờ đã xảy ra và không xảy ra. Nếu ngày ấy tôi đi thoát ly, rồi thế nào, tôi có vẫn
theo đuổi viết văn không và sau này tôi lên chức gì, tôi là ai, biết được.
Năm trước, gặp cô Phương ở nhà nghỉ Đầm Vạc. Phương hỏi:
- Anh có em gái là Ngọc?
- Vâng. Nhưng Ngọc ốm mất đã lâu.
- Cái ngày tôi với Ngọc sang Quảng Châu chữa bệnh, hai chị em ở với nhau mấy tháng.
Ngọc hay kể chuyện về anh, bây giờ mới gặp anh mà tôi ngỡ như đã thuộc cả nhà cửa
nhà anh và ngõ giếng, luỹ tre quen biết đã lâu. Lạ nhỉ.
Năm ngoái, tôi đến thành phố Quảng Châu, chợt nhớ đã có khi hai cô Ngọc, cô Phương
đến đây và ở tòa nhà bên trong bờ tường bệnh viện y học dân tộc kia, hai người bạn gái
đã trò chuyện những ngày xa quê. Tôi không có tơ vương gì cô em họ ngoại. Khi được tin
Ngọc ốm nặng vợ chồng tôi tới thăm. Ngọc nằm nhìn đi đâu rồi nói: “Sao em sắp chết rồi,
anh mới đến?
Hay là cái cô Việt Minh Ngọc ngày ấy đã mách với Xuân Thuỷ rằng tôi hoa lá. Ôi chao,
những tình cờ, những tình cờ chắp nối...
Ngọc có người em trai. Chung làm đội xếp ngoài bóp cảnh sát hàng Trống. Chung đã vào
tổ chức cảnh binh cứu quốc thời kỳ bí mật. Sau Tổng khởi nghĩa. Chung được điều về làm
trưởng ty công an tỉnh ở Phủ Lý. Một lần, Chung về nhà ăn giỗ mẹ. Có người đến bảo:
“Anh về cơ quan ngay, có công tác khẩn". Chung đi và từ đấy không bao giờ về nữa.
Đã hơn năm mươi năm qua. Khi còn sống, bố Chung và chị Ngọc đã đi nhiều cửa hỏi.
Đến bây giờ, thằng em út không biết mặt anh mà nhà tản cư đi kháng chiến, cũng không
còn giữ được cái ảnh nào, thằng em vẫn đi kêu cứu và dò la về cái chết của anh. Việc ấy
ở Hà Nam có còn ai biết, và ai có can đảm nói ra giải cái oan này?
Chung chết có phải cũng lại là một tình cờ. Trong khóa tôi học, còn có những tình cờ như
con muỗi mắt chàng màng bề ngoài, mà rồi hóa oan gia và chẳng ra mặt mũi thể thống
thế nào. Có một chuyện người khác kể. Bệnh ăn cắp vặt của người ta khi đã thành một
thói quen, một tính xấu thì chẳng cứ ai và không phải chỉ vì túng thiếu. Có một học viên,
mỗi hôm sau bữa ăn trưa, ông đi từ phòng ăn ra chỗ căng tin mua chuối tráng miệng. Nhà
hàng bày chuối cắt rời từng quả, tãi ra đến hai ba cái bàn, cho người mua đỡ phải xúm
xít. Khách học viên ra mua hàng ngày là những người tuổi tác và đứng đắn cả. Lấy mấy
quả trả tiền đưa tay hay đông quá thì đặt tiền xuống bàn như nải chuối, củ sắn luộc, quả
soài treo trên gốc cây của những quán “tự giác! không người bán hàng thường ngày
trước gặp trên dọc đường Sơn La - Lai Châu đầu các ban mường người Thái. Ông học
viên nọ đến bàn nẫng một quả chuối rồi quay ra, bóc ăn.
Ông không bỏ tiền xuống bàn. Ông mua quên không trả tiền từ hôm nào không biết, một
học viên khác tình cờ để ý. Người ấy hơi lạ và tò mò thấy mỗi hôm ông chen vào thón một
quả chuối rồi chen ra, vừa đi vừa bóc vỏ. Rồi tổ trưởng, rồi chi ủy lặng lẽ nhìn cả tháng vẫn
thấy sau bữa trưa ông ấy lách vào lách ra nhặt một quả chuối. Đến hôm tôi hỏi để đi xem
mặt ông có bệnh ăn cắp vặt ấy thì được biết nhà trường đã đuổi học ông rồi. Nghe nói ở
cơ quan ông cũng làm cấp vụ, cấp cục thế nào đó. Ai túng đói đâu quả chuối, ấy là người
có tính tắt mắt mà lại có tuổi, chân tay đã rề rà quềnh quàng lại ngỡ không ai nhìn thấy.
Cũng không may phải cái ông khác tình cờ trông thấy mà thôi.
Lại vẫn những tình cờ. Lê Lựu là binh nhì ở đơn vị Chiến sĩ Lê Lựu chịu khó lam làm
khiêng bàn, quét nhà như mọi người. Chứ không cả ngày ngồi thừ mặt, một tay đỡ vừng
trán đương nặng trĩu những suy tư giả vờ, thế thì có khi còn công tác bàn ghế thau chậu
đến tận năm nao ông Bành Tổ sống lại mới nhoi ra hay là không bao giờ có được nhà văn
Lê Lựu. Lại cũng ở đơn vị như Lê Lựu, Vũ Anh Khanh miền Nam tập kết.
Vũ Anh Khanh là cây bút trẻ ở Sài Gòn rồi vào chiến khu. Đoàn nhà văn Việt Nam đi thăm ấn Độ Lưu Qui Kỳ giớt thiệu với tổ chức và Vũ Anh Khanh được đi cùng Nguyễn Công Hoan. ở ấn Độ về,
Vũ Anh Khanh lại trở về đơn vị. Nhưng cái anh tiểu đội trưởng đội phó Vũ Anh Khanh đã
mờ mờ đi đâu mất rồi. Người ta được Thủ tướng Nêru tiếp, người ta dong thuyền chơi
sông Hằng. Về đơn vị cảm thấy đây chật chội quá, đây không phải đất dung thân. Nửa
đêm, Vũ Anh Khanh đã bơi qua sông Hiền Lương. Vũ Anh Khanh gặp nước cường bị
chết đuối hay Vũ Anh Khanh mới ra đến cái bãi cát giữa dòng đã bị dân quân tóm được.
Không biết, việc thì tình cờ, nhưng không tình cờ ở con người. Tôi cũng gặp biết bao
những tình cờ ở lớp. Rắc rối thật và lôi thôi hơn không phải đại khái như cái tiểu thuyết
Đốc tờ Divagô. Năm ấy được nghỉ hè, tôi đi biển Sầm Sơn.
Tôi đương tranh thủ viết kịch
bản phim Kim Đồng, đã hẹn ngày tháng giao cho Điện ảnh. Loay hoay đến hôm đã khai
giảng vẫn chưa xong. Tôi vìết thư về ban giám hiệu xin phép được ở thêm. Lý do bịa “tôi
đi nghỉ muộn". Nửa tháng sau, tôi về. Tôi “trình diện” với bí thư chi bộ Kim Ngọc. Kim
Ngọc người hom hem, lim dim mắt nhìn tôi: “Hôm nay mới đến à? Tớ tưởng cậu vẫn đi
học". Thì ra ban giám hiệu cũng không báo xuống chi bộ việc tôi về muộn. Tôi ngại nhất
nhà trường soát sổ cơm thì lòi ra người vắng mặt. Nhưng thấy yên. Tôi lại ngày ngày
nghiên cứu, thảo luận tổ, lên hội trường và vẫn nhiều tối chuồn về nhà, sáng hôm sau gò
cổ đạp xe vào. Yên trí, mọi cái đều bình thường. Một buổi, Kim Ngọc gọi tôi ra ngoài hiên.
- Tại sao đồng chí...
Lôi thôi rồi. Giọng Kim Ngọc vẫn nho nhỏ như mọi khi, nhưng hai tiếng “đồng chí” ấy là
không phải mọi khi.
“Đồng chí về muộn quá. Ban giám hiệu yêu cầu báo cáo lý do.”
Thái độ êm ả của Kim Ngọc khuyến khích tôi chẳng tội vạ gì mà phải giấu. Nói dối nhỡ
quên chi tiết, lần sau nói lại không đúng thì đâm phiền phức. Tôi kể cho Kim Ngọc nghe tôi
ở nán lại viết cho xong cái phim Kim Đồng đã đến hẹn đưa cho xưởng phim truyện.
Kim Ngọc không nói gì. Vẻ như thờ ơ chẳng để tâm..
Rồi hỏi:
- Cậu có viết thư xin phép ban giám hiệu?
- Có chứ, có thì nhà trường mới biết tôi về chậm.
Kim Ngọc cười: .
- Chẳng viết thư thì cũng biết. Xem sổ báo cơm thì ra ngay.
Tôi nghĩ thầm “ờ nhỉ”.
- Thế cậu có báo cáo như vừa kể không?
- Tôi nói tôi đi nghỉ muộn, về chậm.
- Thôi nhé. Ban giám hiệu bảo hỏi, tớ hỏi thôi
Tôi đã quay đi, Kim Ngọc hỏi với:
- Cậu có biết Nguyễn Bùi Vợi?
- Tôi biết. Mới về đài phát thanh...
- Cậu ấy ở với chúng mình hợp hơn.
Những năm ấy Nguyễn Bùi Vợi dạy học trên Vĩnh Phú. Kim Ngọc là bí thư tỉnh ủy. Câu
chuyện tôi về muộn không thờ ơ như chuyện với Kim Ngọc và chưa êm ả trong cuộc họp
chi ủy. Học viên bí thư Đảng đoàn bộ Nông nghiệp Trương Hùng, một chi ủy căng nhất.
Hùng cho là “không thể dung thứ văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ nghĩa” cần họp cạo một
trận cho chừa.
Hôm sau tôi đã biết cái ý kiến sắt thép ấy. Tôi đợi, tôi nghe. Nhưng lặng im. Rồi tôi đoán
có thể nhờ cái nhẹ nhàng của bí thư Kim Ngọc như câu nói và thái độ hôm Kim Ngọc gặp,
tôi đã thoát một trận bị riềng tới số.
ở nhà tầng trên tầng dưới, tôi hay gặp Trương Hùng. Dường như Trương Hùng cảm thấy
tôi biết cuộc họp chi ủy mà lão chủ trương đả tôi. Sắp giáp mặt, tôi chưa kịp lờ thì Hùng
đã chăm chắm bước đi như không trông thấy tôi. Lão hay mặc quần áo nâu - màu nâu non
mới. Để ai cũng phải biết lão công tác nông nghiệp.
Tôi đã đi cải cách, đi sửa sai, tôi đã loạn mắt những bộ quần áo nâu dởm mà Hồ Viết
Thắng khoác tưng bừng mỗi khi cắp cặp bước xuống ô tô. ấy là chưa kể tôi làm anh đội
cũng đã đánh một bộ nâu lên ngôi như thế, bây giờ trông thấy cán bộ mặc quần áo nâu tôi
còn ngán và tởm.
Dương Văn Đàm bảo tôi: “Hùng là lớp chánh lý trẻ, học hết lớp nhất trường huyện. Nhà là
cơ sở của các cụ, nhờ thế mà thành con nhà nòi. Có cậu với tớ lờ đờ thôi, các bà phụ nữ
ở lớp ta tinh lắm. Các bà đã để ý hắn mặc nâu nhưng may ô trắng nõn, đi qua sực nức
mùi nước hoa". Hùng khoảng ngoài năm mươi, vẻ mặt và dáng điệu ấy như sinh ra chỉ để
chỉnh đốn người ta
Dương Văn Đàm biết kỹ, làm sao mà cái ông luật sư này cái gì cũng biết, có lẽ đấy là thói
quen nghề nghiệp. Nhưng Đàm đã nói như cắt nghĩa cho tôi:
- Cái nghề thầy kiện cãi kiện cúa tờ phải thạo về tò mò và chi tiết. Tiếc tớ không có khiếu
làm văn. Ngày trước, mới tốt nghiệp, tờ tập sự mấy năm ở văn phòng mét Trần Văn
Chương, những chuyện loạn luân ở nhà ấy, từ con Lệ Xuân, đến mẹ nó thì khủng khiếp..
Dài dài những ngày xưa của Đàm không bao giờ cạn. Tôi hỏi chuyện hôm nay. Đàm cũng
nói được ngay.
Dương Văn Đàm nói:
- Tớ đã đến nhà Trương Hùng chơi. Nhà hai tầng, chỉ có hai vợ chồng. Vợ hắn nhai trầu
bỏm bẻm, người trong làng thì trông già thế thôi chưa chắc đã nhiều tuổi hơn hắn. Chả là
người anh thỉnh thoảng đến có ý nghi cái cách ở một mình của hắn, mới về quê bàn khéo
ra ở với chú ấy cho vui cửa vui nhà". Thế là khuân được bà em dâu ra chặn cửa. Nhưng
bà ra ở được ít lâu, thấy tẻ lạnh thế nào, lại đòi về quê.
Nguyên do ả nọ làm ở một văn phòng cơ quan, có việc nhà khó khăn phải chạy. Chao ôi,
cũng lại một tình cờ. Đến nhờ hắn, thế là đôi bên bập vào nhau. Nhiều năm rồi. Đi công
tác các tỉnh hắn đều tha ả theo. Cửa hàng cao cấp bách hóa, thực phẩm, phiến a, phiếu
b, bệnh viện Việt Xô, khoa tai mũi họng Bạch Mai hôm xử đều phải ra tòa làm chứng. Hắn
đã đưa ả vào các nơi ấy.
Người vợ già chán chường sự lạnh nhạt, thờ ơ của người chồng. Thì cái ả cứng nhân
ngãi non vợ chồng kia lại càng sốt ruột vì năm qua tháng lại đã nhiều. Con gái có thì. Anh
tính cho em thế nào?
Tôi triết lý vụn với Đàm: .
- Thử thách hai luồng tư tưởng đây. Tư sản bảo: bỏ vợ, vứt công danh vào sọt rác. Ta ra
đi hai trái tim vàng... “xây nhà bên suối. Suối mơ... Bên rừng thu vắng...”.
Dương Văn Đàm cười hề hề:
- Đằng ấy vận dụng lý luận khá đấy, lại văn chương tơ lơ mơ nữa. Nhưng không đúng với
trái tim con lợn chứa cả hai thằng tư sản và thằng phong kiến. Tư sản bảo: tình yêu vạn
vạn tuế. Đế quốc phong kiến hét: Giữ cái ghế! Giữ cái ghế muôn năm! Tiêu diệt con nái
xề, “đưa nàng về dinh". ấy thế, ấy đấy! ”
Hắn mưu giết vợ. Mấy chục viên thuốc ngủ nêprôbamat đã trữ được. Bà váng vất đầu,
hắn pha cả vỉ thuốc cho uống. Bà ấy ngủ, nhưng thuốc nội không ăn thua, ngủ rồi lại dậy
được. Ghê gớm, kẻ rắp tâm giết người lại sửa soạn keo khác, lần này mua được thuốc
ngoại của Việt kiều bên Thái Lan về. “ừ thôi, đi chơi biển chuyến giối già rồi về quê”
Xuống đến bãi Cháy thì chặp tối. Cả một ngày đường bà lão say xe lại hâm hấp sốt. Hắn
pha một cốc thuốc ngủ cho bà ấy. Bà lão uống thuốc. Quá nửa đêm vẫn li bì. Đổ cho cốc
nữa, tắt thở.
Chẳng may phải cái cảm dọc đường - người chồng kêu lên. Mọi nơi mọi chỗ đều những
công tác, những việc bộn bề. Tang ma chôn cất ngay đấy, mọi cái đều người chồng và
người lái xe lo liệu..
Chỉ mấy hôm sau, an ninh đã chụp được ảnh tay đôi ngồi bên gốc muỗm đền Voi Phục.
Tòa xử máy hôm, xử công khai, tôi có một tò mò oái oăm. Muốn đi nhìn cái mặt người
thượng cấp lúc nào cũng nghiêm nghiêm, lạnh lạnh mỗi lần tôi chạm trán hắn ở nhà ăn, ở
hành lang, bây giờ xem cái mặt ấy tròn méo thế nào. Tôi vẫn nhớ tôi bị Hùng đòi Kim
Ngọc phải choảng tôi vì tội “văn nghệ sĩ lãng mạn tự do chủ nghĩa". Thù đấy tôi cũng thù nó
chứ.
Cái nhà tòa án Tây hơn hai mươi năm trước tôi đã đi với anh Vũ Ngọc Phan đến dự
phiên xử nhà xuất bản Cộng Lực kiện tuần báo Hà Nội Tân Văn của anh Phan đã in từng
kỳ tiểu thuyết Chuyến tàu định mệnh của Lưu Trọng Lư, trong khi nhà xuất bản đã mua của
tác giả cả tiểu thuyết ấy và đương in. Anh Vũ Ngọc Phan thua kiện, phải bồi thường danh
dự cho nhà xuất bản một đồng bạc. Thày kiện Phan Anh cãi cho thân chủ Vũ Ngọc Phan,
ông mặc áo thụng đen, tôi cứ nhớ cái câu ông cãi cũng bình thường, nhưng ông hùng hổ
giơ tay và quật mình xuống bục, hết sức tuồng chèo cải lương.
Vụ xử án giết vợ này ở phòng khác to rộng, đông nghịt người, tôi chưa biết bao giờ. Tôi
chen vào. Trông lên bục cao, các vị tòa án ngồi. Nhìn xuống chỗ vành móng ngựa thấy hai
người cảnh sát, không thấy hắn ta đâu. Nhìn lại mới thấy hắn ngồi rù rù giữa hai người.
Tôi không thể nhận ra ngay vì con người thiểu não chẳng còn mảy may như trong trí nhớ
của tôi. Trông thấy rồi mà tôi vẫn ngỡ ngàng. Bộ quần áo xám có số tù trên lưng, thằng
người ọp ẹp, như sắp bị đám người lố nhố xung quanh giẫm lên.
Tôi lại chen ra. Tôi chen ra vì tôi sợ nhỡ lại phải nghe thằng ấy nói lời cuống cùng: Tôi đã
được Đảng giáo dục... tôi đã... tôi đã...
Thế là tôi hả hê, tôi ân oán xong rồi.
Tôi nghe kể lại - lại ông luật sư cái gì cũng biết Dương Văn Đàm- ả nọ cất tiếng:
- Thưa tòa, tôi là đứa con gái dại dột. Thằng dê già kia đã lừa tôi, chứ tôi có người yêu
tôi đây.
ả chỉ một người đàn ông ngồi ghế sau lưng gần đấy. Và chẳng biết có thật đến đâu. lúc
tòa cho tên tử tù được nói lời sau chót, hắn đã nói:
- Tôi mong được tòa khoan hồng để tôi chuộc tội, tôi xin đem hết khả năng ra phục vụ
cách mạng.
Hỏi thì Dương Văn Đàm cũng nói nghe có đứa kể lại Không hiểu câu ấy có thật hay là
người ta nói mỉa.
Chỉ chắc chắn cái án chém là có thật. Cũng như mắt tôi đã trông thấy cái bóng xám của
thằng người rũ rượi trong cái vành móng ngựa.
Đấy là việc đã xảy ra hơn một năm sau khi tan trường. Chóng quá, sắp mãn khóa. Theo
lịch học đã đến đợt đi thực tế, cơ sở nông thôn hay xưởng máy, kiểm tra mọi mặt lý luận
và thực tiễn của khóa học. Tôi được tổ phân công đi với học viên Thử về huyện Đan
Phượng. ở Phùng được mấy hôm, tôi bảo Thử: “Anh là “nông dân quân chủ lực” anh đi
đến làng người ta hay về làng mình cũng thế, anh biết cả. Tôi thì khác. Đất Thượng Hội,
Hạ Rội này gần vùng tôi quá, chẳng thấy gì mới. Tôi đi Thái Bình, xa xa một tý cho lạ mắt.
Hẹn ngày nào về trường thì ta về cùng cho có đoàn có đội".
Thử cười, không gật cũng không lắc. Anh tuổi chuột, tên Thử, người loắt choắt, dáng rụt
rè tinh tướng con chuột nhắt. Đã nhiều năm Thử ở khung cán bộ bên Lào, gần đây mới
được về tỉnh nhà. Công tác sắp xếp dường như khó khăn, nay ở tỉnh mai tỉnh đẩy xuống
huyện, bây giờ đi học dài hạn, mai kia đi học về rồi thế nào. Có lúc Thử thở dài với tôi:
“Hay là tôi về hưu?” Chả trách, tôi đi Thái Bình, Thử cũng chẳng buồn hỏi thêm nửa câu.
Những năm sau, tôi cũng hay hỏi thăm tin tức Thử. Có khi nghe anh về công nghiệp vào
ban phục trách các lò nung gạch trên tỉnh. Gần đây anh đã nghỉ hưu. Chú em tôi ở thị ủy thị
xã Sơn Tây lấy làm lạ sao tôi lại quen anh Thử. Chú ấy hỏi lại tôi như không tin:
“Bác Thử đã học trường Nguyễn ái Quốc với anh à? Bác ấy hiền lắm”
Thế là tôi đi Thái Bình. Có lẽ như thế còn biết cái gì hơn - như tôi đã bảo Thử. Nhưng cái
chính là hai năm bó cẳng không đi đâu, tôi muốn đi xa xa, đâu cũng được. Chỉ thế thôi.
Tàu thủy Phà Đen về bến cầu Bo thị xã. Mấy năm rồi, vẫn thưa thót, vẫn vậy. Chỉ khác các
tàu khách đều vào quốc doanh. Vẫn những cái tàu ọp ẹp từ thời thoát bom Đồng Minh
ném, vỏ tầu trắng bệch như con cành cạch chết xác đã khô. Trên vách tàu, chỗ bẻ lái, treo
cái bảng đề tên kíp lái, kíp trực. Dưới sàn, không thấy như hồi tàu còn ông chủ, có một
mâm mờ lồng bàn ra, đĩa thịt gà, chai rượu, nồi cháo ăn sáng. Hai bên hàng tàu vẫn
người xuống đông từ lúc chưa tan sương. Có vài người như cán bộ đi công tác xuống
bến cuối. Còn vẫn vài ba bến người xuống người lên hai bên sông, người buôn về thành
phố, người đem hàng đi các chợ quê. Những quảy sắn, cả bánh đa, miến dong riềng,
phuy dầu tây, nhiều nhất những đệp túi đựng quần áo may sẵn mua lại của nhà mậu bách
hóa.
Đôi khi cả tay nải lèm những cái nịt vú bằng miếng sốp bọc ni lông đỏ, không biết đã mua
ở nhà mậu hay cất hàng ở các lò khâu.
Cái thị xã ngủ yên vẫn bên đường mọc cỏ xanh lì và vườn hoang um tùm, chỉ lác đác nhà.
Bến ô tô đã sáng đèn, tôi vào hàng cơm. Tối rồi mà quán nào cũng toàn đùi chó, sườn
chó treo lủng lẳng. Chủ quán nói: “Cả tỉnh đương triệt để chó mà". Tôi ăn một bát bún chó
rựa mận. Lại đến nhà trọ năm trước. Tiêu điều, lụp xụp, những cái mái giấy dầu sắp đổ.
Chị chủ trọ lại lấy cái thừng cho tôi buộc cái khung xe vào thành giường. Tôi lại bỏ đôi
dép râu vào ba lô để trong màn, cũng như lần trước. Sớm hôm sau, tôi về Thái Ninh.
Đã xế trưa, nắng ấm. ở trên đê nhìn xuống xóm Đồng lố nhố một đám người đương kéo
ra. Như bọn đi đánh dậm, không phải người làm đồng. Những cánh ruộng đã gặt quang,
một màu chân rạ đen xạm. Chưa một khoảnh nào bừa vào mùa.
Đến gần thì trông rõ bọn ấy vác những đồ nghề nấu rượu. Hai chiếc đòn ngang bằng con
sào buộc cái mu rùa, người khênh quàng vai những xâu men rượu trắng như bỏng ngô.
Lại mấy cái nồi ba mươi, chảo gang bôông bêêng, lũ người bước lẫn lộn. Ai cũng hăm
hở, đùa cười, đuổi nhau loạn xạ. Ngỡ như họ đổi bếp đem lò rượu sang nấu bên kia bãi.
Tôi hỏi, mấy người cười rầm lên: “Bắt rượu! Bắt thằng nấu rượu nộp lên huyện. Không
trông thấy xã đội trưởng đeo túi dết vác cái ống trúc cất rưọu đi đằng trước à?”.
Mới nhớ đương cấm rượu bắt rượu dáo diết. Dáo diết nhưng chẳng làm ai khiếp sợ.
Ngày trước Tây đoan về khám rượu, cả xóm cả làng đâu ngồi đấy, không ai dám thò chân
ra cổng. Bác Cả tôi, thày đồ ngồi bảo học ở nhà, lính đoan vào thuốn lên hóc cột, mái nhà,
bói đất luống rau cải, nghi chôn rượu, chôn bã. Rồi được tang vật thì trói đi một xâu
người. Bây giờ bắt rượu đem lên huyện như đám rước. Người mang vác tang vật đi lẫn
với người nấu rượu, chẳng biết ai phạm pháp, ai đi xem. Như phường chèo đi làng xa hát
đám, như lò vật trảy hội.
Bắt rượu rồi phạt rồi lại bỏ đấy. ở Hà Nội làm nghiêm thế mà cũng như trò đùa. Tôi sẵn
thành kiến về bắt rượu lậu ơ hờ từ những cái trông thấy ở Hà Nội. Báo đăng tin bắt được
rượu lậu cả trong xe cứu thương. Rượu giấu trong xe cấp cứu thì thọ quá. Chẳng biết ở
chỗ nào, ông lái đã nếm, cái thèm uống vụng ăn vụng, cứ ngứa ngáy thòm thèm, có thế
mới thò đầu ra cười cợt với người gác cầu. Ông lái lên cầu Long Biên, mặt rượu đỏ gay,
vẫy tay cười hê hê vẫy anh công an gác cầu.
Cái xe bị ách lại. Trong xe kính màu, một ả
nằm ngửa trên cáng thương, dưới lưng đệm một bọc rượu. Chẳng phải đọc báo, tôi cũng
thường thấy ở quán nước bả hàng cạnh bến xe Kim Liên, có hôm Đăng Đình Hưng đeo bị
rượu đến bán, có hôm một cô quang gánh ở ngoại ô vào, thoạt trông tưởng bán miến
dong riềng. Cô hàng cũng như lái rượu Đặng Đình Hưng cứ bước tự nhiên vào gian
trong. Rượu đựng vào miếng ni lông Trung Quốc xanh lá cây đong ra. Lại cáì xe cấp cứu
màu hàng sữa của bệnh viện huyện in chữ thập đỏ hai bên sườn đậu chỗ rặng cây si bờ
hồ đằng kia. Xe rượu đấy, có hôm ở quán 81 lại thấy cô nọ xách tải rượu vào, đặt đấy rồỉ
ra. Cấm thì cấm, người bán rượu các phố cứ như thoi đưa.
Trong đám khuân đồ nghề rượu có tiếng gọi ra:
- Anh Tư, anh...
Trên dốc trông xuống, thì là ông Ngải. Ông Ngải đeo vai một tràng lủng củng, lởm nhởm
những miếng gỗ quai guốc. Ông Ngải cũng trong bọn vác mướn hay ông bị bắt rượu.
Trông ông không khác năm trước mảy nào. Cổ ông xạm nắng nhưng mặt vẫn nhọt nhạt
thế.
Ông Ngải luống cuống hỏi:
- Anh về chơi à? Một mình à? ở nhà có cái Hến. Tôi về ngay bây giờ...
Bọn người tất tưởi đem các thứ đồ nghề rượu lên trụ sở ủy ban xã. Ông Ngải nói "tôi về
ngay”, chắc ông không phải chủ bị bắt rượu. Thiếu đâu người mà lại lôi ông lão làm dân
công vác rượu.
Vẫn bụi tre lép giứa mảnh đất phẳng quanh chân tre, lưng tre nhẵn thín lốt người tựa lưng
hay con trâu cọ thành bụng vào. Có một mình cái Hến trong nhà. Cái Hến thì khác, năm
nao còn là đứa trẻ mới lớn nay đã sồ sề mặc cái áo bộ đội tàu tàu. Người con gái không
có thì con gái. Hến ngồi ngoài bóng nắng.
Cái lược bí đương chải chấy dừng lại giửa làn tóc, khi thấy người bước vào. Trong nhà,
chiếc võng lắc lư mảnh vải hoa.
- Chào cô Hến.
Tôi chào to thế, nhưng bụng lại thầm mong mình nhầm. Tưởng như mới gà gáy tan canh,
bà Ngải vào cạnh giường: “Trỗi! Trỗi. Sáng rồi! Sáng rồi! ” Quát mấy chặp cái Hến mới
lạt xạt cựa quậy. Có hôm cái Hến nhờ tôi khiêng với nó buồng chuối tây ngoài vườn.
Buồng chuối chẳng nặng, nhưng xách thì cồng kềnh.
Tôi phải gọi “chú Phùng Quán” ở trong nhà ra ghé vai giúp. Bởi cái vai thờ của tôi, nhỡ
một cái, gãy quả chuối của người ta. Vai thì vai thờ, chân tay thì thừa, người vô tích sự.
Cái năm ở Nông Cống, quảy nước làm vỡ nồi. Vội ra chợ Nưa mua đền cái nồi mới.
Quảy thứ, nước vẫn chảy tong tỏng. Cô Đăng soi nồi lên nhìn rõ lỗ châm kim. Cô Đăng
nói: “Anh mua nhầm cái nồi thủng. Bận sau mua nồi phải soi lên xem thế này.”
Chắc chẳng bao giờ trong đời tôi có lần nào đi mua nồi nữa. Tôi cũng chắc là tôi khác
Đặng Đình Hưng, dẫu các nơi sôi nổi văn nghệ sĩ đi thực tế, cũng không ai bảo Hưng đi,
Hưng ở nhà buôn rượu kiếm cái sống, cái uống. Hưng không vụng như Trần Đức Thảo
chăn bò nông trường Ba Vì. Có thư cơ quan gọi Thảo về, nông trường cho về ngay.
Không biết đàn bò gần móp bụng ngày ngày Thảo dồn đi dồn về đã thiếu mấy con, con
nào bị hổ vồ, mấy con bị trộm dắt mất.
Nhạc sĩ Đặng Đình Hưng và nhà triết học Trần Đức Thảo không biết nhau, đấy là tôi quen
hai người.
Họ đã gặp nhau trong tôi, rồi cuộc đời hai người dài dài phí hoài, mà tôi chứng kiến.
Khi đó, ở Trung ương trên Việt Bắc, nhiều cơ quan đương chỉnh huấn, theo cách làm của
các tỉnh Hoa Nam - mà chúng tôi gọi là phương pháp Hoa Nam.
Không có chuyên gia nước ngoài, nhưng cán bộ giáo vụ mặc áo bông ngắn bọc vải xanh
Sỹ Lâm ra lối ta mới học tập bên kia về. Tôi cũng dự cái khóa ba tháng đầu tiên theo
phương pháp ấy. Cán bộ đèn sách khóa này rồi tỏa khắp các chiến khu, có đoàn vào
chiến trường miền Nam mới đến khu Nam Trung Bộ thì hiệp định Giơnevơ được ký kết lại
quay ra. Đặng Đình Hưng công tác ở ban tuyên nghiên huấn giáo chuyên làm giáo vụ các
lớp chỉnh huấn văn nghệ sĩ. Không nhớ Hưng có mặc áo bông xanh Sỹ Lâm không, bấy
giờ Đặng Đình Hưng cũng là nhạc sĩ, tác giả bài hát Nông dân là quân chủ lực. Nhưng
chưa khi nào tôi nghe ở đâu hát bài ấy.
Về Hà Nội tôi cũng không gặp. Tôi chỉ biết Hưng có rắc rối về chuyện vợ, mà tôi làm công
tác đảng ủy, chắc Hưng có ý tránh mặt. Bấy giờ các chuyên ngành văn, họa, nhạc, sân
khấu, kiến trúc đã tách ra thành lập các hội riêng. Cũng không biết rồi tại thế nào mà
Đặng Đình Hưng vướng vào Nhân Văn. ở hội nhạc, Đặng Đình Hưng đã bị ra khỏi biên
chế, Hưng không đi hay là không được đi họp chi bộ, thế là mất cả đảng tịch.
Bây giờ dịch tài liệu cho cơ quan ăn tiền bài. Khi đó đã giao thiệp với ngoài mấy đâu mà có cái để
dịch và Hưng chỉ biết tiếng Pháp. Nghe nói Hưng đi cất rưọu quê đem ra bán các quán.
Một hôm, gặp Hưng. Khác hẳn trước, không còn râu hùm hàm én, cán bộ tuyên nghiên
huấn trợn mắt giơ tay phát biểu choang choác. ở một quán nước bán rượu chui, chỗ trông
sang rạp xiếc cạnh công viên Thống Nhất. Một người mặc áo ka ki đại cán cháo lòng, đội
cái mũ dạ rúm ró. Lấm láp như người đánh dậm ngoài cầu Giẽ vác cả cái dậm lên tận
phố. Nhưng không. Người ấy khoác một cái bị cói lẳng lặng bước vào nhà trong. Thông
thường, đấy là khách mua bán dấm dúi. Qua trước ghế tôi ngồi, cạnh bà hàng nước,
người ấy cất tiếng nghe quen quen:
- Chào ông anh..
Tôi ngầng lên, nhìn ra Hưng. Hưng ngồi ngay xuống với tôi. Hưng lấy trong bị ra một chai
rượu trắng. Hưng nói vừa đứng đắn vừa chót nhả, tự nhiên như vẫn gặp nhau thường
ngày.
- Chẳng nói giấu ông anh, dạo này thằng em đét lắm. Lấy cái này tận quê ra, vừa bán vừa
ghé gẩm đôi ba chén. Để cho ông anh một chai, thật cái tăm Chương Mỹ đấy.
Rồi Hưng đặt kín đáo chai rượu dưới gầm bàn, bên chân tôi. Tôi hỏi bao nhiêu. Hưng nói
“chỉ xin giá vốn thôi". Tôi đưa trả tiền Hưng như xưa nay vẫn sòng phẳng gọn ghẽ thế,
chuyện tiền bạc thì Hưng rành rọt tính đếm thạo. Hưng đã kể ngày trước vị Hồ Đắc Điềm
quan tổng đốc trẻ Hà Đông đã gọi Hưng làm chân thầu cơm trại lính khố xanh.
Và Hưng vẫn nhớ tôi biết ở lớp chỉnh huấn cho họa sĩ trường Mỹ Thuật đóng ở huyện Yên Bình một
hôm lên lớp, cán bộ Hưng mất đôi dép râu để dưới thang nhà sàn. Hưng bắt cơ quan
phải đền vì “đôi dép đã bị mất khi công tác". Những chuyện bình thường đã tháo vát lại
cũng lơ mơ, như hôm ấy Hưng nhận tiền chai rượu rồi lại ngồi thịt luôn chai ấy với đĩa lạc
luộc, quên cả đưa rượu bán, rồi bà chủ quán phải hỏi. Rồi quá chén, Hưng đi khật
khưỡng, tôi phải đỡ vai, Hưng bảo đưa về một nhà ở phố Nguyễn Thượng Hiền sau lưng
gần đấy, Hưng bước thẳng đến chân cầu thang cuốn lan can gô, cả người với cái bị chai
không và chiếc mũ bật ra, Hưng rụi xuống ngay chân tường. Nhà quen, Hưng vẫn tá túc ở
chỗ ấy.
Tôi quen Trần Đức Thảo ở lớp chỉnh huấn trí thức trên rừng huyện Chiêm Hóa. Thảo ở
Pháp về rồi từ Hà Nội lên Việt Bắc. Thảo mặc quân áo nâu, đội mũ lá gồi; đeo xắc cốt vải
chàm đã xin hay mua được của bà con người Tày, người Dao trong làng. “Tớ phải thế
này cho kịp các cậu” - đôi măt kính cũng cười lấp lánh.
Chẳng biết rồi còn bao nhiêu đêm Thảo không nằm màn mới kịp chúng tôi để đến được
những cơn sốt rét mặt bủng rứ.
Về Hà Nội mới gặp lại Thảo. Thảo vừa đi công tác Bắc âu về, đội mũ phớt, rõ ra Tây.
Nhưng vẫn áo đại cán may ở Thái Nguyên, trước khi về tiếp quản Hà Nôi. Bộ ka ki xi
măng này tôi còn thấy Thao mặc đến khi sờn cả cửa tay.
Mới gặp, tôi đã lạ và phục Trần Đức Thảo. Vì nghe đồn ở Pari, Thảo đã là bạn và tranh
luận triết học với văn hào Giăng Pônsác. Lại nghe nói triết của Thảo đã phát hiện và có
những phân tích mới về chức năng hai bàn tay trong quá trình từ con vượn lên con người.
Nhưng tôi gần Thảo hơn không phải chuyện nghe hơi tiếng tăm và cái triết lý hai bàn tay
vượn người. Chúng tôi chuyện về Hà Nội ngày trước. Thảo bảo thuở bé học trường Cửa
Đông, nhà ở phố Hàng Đường. Trường Cửa Đông tôi đã thi vào lớp bét mà trượt, bấy
giờ tôi ở Hàng Mã. Rồi sau tôi đi làm hiệu giày Bata. Thảo kể thì tôi nhận ra nhà Thảo là
chỗ nhà bưu điện tư, ngoài cửa để ghé cái tủ kính bán tạp hóa và giày Bata. Hàng tháng
tôi đi tính sổ các đại lý bán giầy ở Hàng đường, Hàng Bông. Thế là tôi ngỡ như đã biết
Thảo từ thuở ấy. Tôi bảo: “Tớ còn nhớ ông cụ nhà cậu. Ông cụ người đẫy, đeo kính hay
thắt cà vạt đen, ngồi trong quầy bán tem sau tấm kính".
Tôi hỏi Thảo:
- Bên Thụy Điển, bên Bắc âu có gì hay không?
Thảo nói:
- Mua được cái chăn, tuyệt lắm. Lông ngỗng hay lông chim, nhẹ chỉ độ một cân, đi công
tác rất tiện.
Thảo cho xem cái chăn lông chim của anh mà chắc anh lý thú nên mang đến tận nhà tôi.
Lại biểu diễn luôn ở trên giưòng tôi cạnh bàn viết. Anh mở cái chăn màu vàng nhạt, kéo
khuy bấm nằm thu lu vào giữa, dưới gáy sẵn cái gối thòi ra. Trông người nằm gói trong
chăn, cái chăn màu vàng tôi nhớ ngày trước, đi đêm trong thành phố Sài Gòn hay gặp
người nằm ngủ trong cái nóp trên vỉa hè. Tự nhiên, nghĩ đến cái triết lý bàn tay khi thấy anh
hể hả chui vào rồi gấp chăn mở chăn cho tôi xem.
- Cái này để đi công tác.
- Cho mượn nhé.
- Đi đâu cứ lấy.
- Đùa thôi. Bó không chịu được. Tờ hay đạp, hay gãi.
Thảo không nói. Thảo không cắt nghĩa thêm cho tôi về những cái tôi ngại, chắc anh biết
thế là tôi chê.
Nhưng mà đấy là Trần Đức Thảo, cái chăn Na Uy, Thụy Điển gì ở Hà Nội hay bộ quần áo
nâu và cái túi chàm ở Việt Bắc thì vẫn một người áy. Lâu lâu mới lại trông thấy Đặng Đình
Hưng. Nhưng tôi biết tin Hưng ốm, phải mổ phổi. ốm đau, bè bạn thì trông vào ai, bản
thân thì bị vứt đi rồi nhưng mà có mả cứu bần, dạo này Hưng được Đặng Thái Sơn gửi
tiền cho. Đã ra viện và bình thường.
Thế nhưng chợt trông thấy cũng không khỏi ngạc
nhiên. Hưng ở cái chợ cóc bên đường Giảng Võ đi ra, tay vung vẩy một mớ rau muống.
Không còn ốm o mảy may, người mới hiên ngang làm sao. Đầu đội mũ nan cao bồi Nam
Mỹ rộng vành bóng nhoáng, áo sơ mi thể thao hồng xẫm có cầu vai, quần bó xắn gấu. Đôi
giày da có cổ màu gan gà vàng bóng, gót cao đến năm đốt ngón tay.
Hưng đi đĩnh đạc như thả chân đếm từng bước giày chắc chắn. Mặt đẫy đà đỏ đắn, màu
rượu hay là đương thuốc bổ.
Khác lạ thế, nhưng tôi nhận ra Hưng ngay. Tôi chạy sang đường. Mắt Hưng vẫn nhanh
loang loáng.
Hưng giơ bó rau muống, reo to:
- A, ông anh. Nhà em gần đây, vào chơi cái đã.
Đặng Thái Sơn mua của nhà nước cho bố một căn hộ mười sáu thước vuông, lại tậu cả
điện thoại. ở tầng hai, trên lưng cửa hàng bách hóa nhà mậu Giảng Võ.
Qua hai ba lần khóa dãy, khóa cửa mới vào tới gian hai buồng tối âm thầm có một lỗ cửa
sổ trổ xuống đường treo miếng mành mành, tựa cái cửa ngăn ở khoang thuyền. Khách
đứng dưới đường gọi. Chủ nhìn trong mành ra xem ai. Không muốn gặp thì không lên
tiếng, mặc cho gọi.
Cả sàn nhà trải chiếu mộc. Không bàn ghế. “Như thế này hay. Lăn chỗ nào cũng được".-
Hưng nháy mắt, nói thế. Trên cái bục gỗ áp tường gian ngoài bày bình hương trước bức
ảnh truyền thần hình ông già chít khăn, râu ba chòm, chắc ảnh cụ thân sinh.
Trong nhà ra mở cửa, một cô dong dỏng người. Hưng không giới thiệu, và tôi cũng đã
đoán biết đại khái thế, đại khái vậy. Tôi nói thế này;
- Cô để ông ấy đi chợ vác có mỗi mớ rau muống?
Cô cười:
- Người khó tính lắm ạ. Đòi phải mua rau lấy người mới xơi được. Nhưng người khôn
lắm, không đòi luộc lấy.
- Nhà nó chỉ biết mua rau muống lợn. Nhà mà luộc thì tôi cũng ăn chiếu cố.
Nàng trẩu môi:
- Thế thì chiếu cố cả đời.
Hai người còn nói năng ỡm ở những gì nữa rồi Hưng vào khay rượu trong góc nhà, nhấc
ra cái chai trong cùng.
- Có chai đầy chai vơi là ý tứ cả đấy, không lộn xộn đâu. Rượu chợ thì thằng em bày đám
ngoài cho các bợm uống boóng. Còn anh em ta làm cái này, cũng Chương Mỹ, nhưng mà
hảo, tố hảo..
Hưng cắt nghĩa nguồn tiền mua rượu:
- Nhờ nó cả. Nhưng ở bên ấy thì nó cũng phải đi làm chứ có maphia đi cướp nhà băng
đâu. Đủ tiền ăn và thuốc men, nó gửi ngữ, gửi tháng thôi. Nhưng mà cái ngữ, cái tháng
của người ta...
Tôi không muốn nghe những chuyện ấy, tôi hỏi:
- Lái đem rượu trong quê ra?
- Chứ em ốm đau đi sao được! Thánh thiên tử lắm, hơn đứt rượu Tây..
Hưng giữ tôi lại ăn cơm. Tôi bảo để khi khác. Hưng trịnh trọng:
- Ông anh, ông là anh tôi. Ông là học trò lớp bét trường Yên Phụ học thày Đặng Đình
Hướng anh ruột tôi, ông là người nhà tôi rồi. Ông đã có một quyển sách để đời. Còn
thằng em ngần này tuổi mà còn đương bơi, không biết bơi vào chữ hay vào màu.
Những câu ấy Hưng cũng hay tụng tôi mỗi lần gặp.
Tôi hẹn, nhưng ngay lúc ấy cũng ngồi làm mấy chén vui. Hưng lại tán cái này rượu quê
ngâm củ ba kích.
- Cái trong kia, dái dê với ba kích thì lên một bậc nữa. Ông anh hãy nếm ba kích.
Tôi cười:
- Năm trước, nhạc sĩ Hồ Bông đã cho chén dái dê ở Sài Gờn. Chẳng ăn thua mẹ gì.
- Không, dái dê của thằng em thửa, đủ tháng đủ năm không già không trẻ. Nhưng ông anh
xơi cái nam y ba kích này đã, xem máu huyết dẫn đến đâu rồi hãy sực cái thằng hùng hổ
hơn. Em trông tạng ông anh thì ba kích là vừa.
Rượu ba kích hăng hăng, ngái ngái. Hôm sau, cái cô thổi cơm bữa trước ở nhà Hưng
đèo xe đạp đem cho tôi một bó củ ba kích tươi như mới đào ở vườn thuốc lên. Có củ to
bằng củ cải. Tôi hỏi đùa: “Cái này ăn sống có được không, hả cô?”. Cô ấy trả lời ngúng
nguẩy: “Những của quỉ này, em biết đâu".
Tôi cũng không nhớ mớ ba kích tươi ấy rồi tôi cứ thế ăn sống, tôi bổ ra phơi khô hay tôi
vứt đi. Vài hôm, tôi lại được Hưng gửi cho một bó ba kích. Mỗi lần lại một cô khác đem
tới. Và khi đến chơi nhà Hưng, có hôm thấy vắng vẻ, tôi hỏi: “Các nàng ba kích đâu cả
rồi?”.
Hôm ấy, tôi rủ Vạn Lịch, chúng tôi đem đến một bọc thịt chó - mua ngay ở chợ Giảng Võ.
Hưng cho ăn rồi hay chửi những thằng ăn vọ, tôi giữ ý không đến tay không. Hưng đúng
hẹn, lúc chúng tôi tới, cả ả người thanh mảnh đương mổ con ngan hay con ngỗng dưới
bếp. Tối ấy, cuộc chén thêm nhạc sĩ Huy Du, nhà ở gần. Và cả cô đầu bếp. Con gái
phường phố bây giờ lắm cô đã đoảng lại hư. Hai cẳng chân lão đã lạnh lên tận đầu gối
mà chúng họ vẫn lăn vào.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương IX
Tôi gặp Trần Đức Thảo ngoài cổng bệnh viện Hữu Nghị. Cả thành phố đã thuộc cái ông đi
chiếc xe đạp con vịt trẻ con sơn xanh, không phanh, ngồi phải doạng chân cho đầu gối
khỏi đụng lên ghi đông, đấy là nhà triết học Trần Đức Thảo. Ông dịch sách lý luận kinh
điển cho nhà xuất bản Sự Thật để lấy lương ăn. Người biết đôi chút thì thắc mắc: không
biết ông có được dạy, ông có được phong giáo sư không. Tôi thì biết bây giờ ông dông
dài lam làm chơi chơi thế thôi. Tôi cũng chẳng biết ông có Nhân Văn Giai Phẩm gì không
và tại sao ông lại càng ngày càng bị quên lãng dưới đáy.
Tôi làm sao biết được, mà tôi cũng không tò mò. Tôi chỉ là một người tẻ nhạt và yếu đuối
với những kỷ niệm Trần Đức Thảo. Gặp ai quen, đứng lại chuyện thì Thảo buông cái xe
kềnh xuống như con chó rô bốt nằm phủ phục bên chân ông chủ, nói như quát.
Thảo đương đi ra chỗ gửi xe đạp. Tôi lại nhận thấy có một vật nữa khiến người ta dễ
nhận ra ông Thảo. Ông Thảo đi đôi guốc mộc. Đi guốc mộc và hút thuốc lá cũng đương là
cái mết của mấy bác sĩ trẻ trong các bệnh viện. Nhưng đi guốc mộc và mặc bộ đại cán ra
đường và đã đứng tuổi thì chỉ có Trần Đức Thảo và bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Ông Thảo
đi guốc mộc mọi lúc, mọi chỗ. Bác sĩ Thạch thì lóc cóc đôi guốc và để đầu trần đi chơi
buổi tối trong các ngõ rạp hát, các cao lâu phố hàng Giầy, hàng Buồm. Ông Thạch lực
lưỡng, béo tròn khác ông Thảo gày gùa, mặt và mắt vàng nghệ màu bệnh gan.
Tôi chào và hỏi Thảo:
- Bệnh gì đấy?
- Vẫn cái gan mọi khi.
- Mới đi Đức về, không chữa ở bên ấy a?
- ờ, mới về. Người ta mời đi nghỉ, không phải đi chữa bệnh. Về lại phải vào đây xin thuốc.
Rồi cứ giữa đường thế, Thảo nói ầm ầm một hồi chẳng để ý người qua lại đứng nhìn.
- ở nhà nghỉ trong rừng cả tháng, bảo cho đi xem bức tường Beclin một cái thì không.
Chúng nó sợ tao chạy sang bên kia à? Có là con chó.
Thảo nói “chúng nó", tôi không hiểu đủ, tôi hỏi:
- Ai ngại ông?
- Chúng nó.
- Chúng nó là ai?
- Thằng Đức, thằng sứ quán.
- à ra vậy.
Cũng gần trưa. Tôi có ý nghĩ đi mua cái gì rồi rủ Trần Đức Thảo về ăn ở nhà Đặng Đình
Hưng. Có thể cũng hay. Tôi bảo Thảo: “Chúng ta đến nhà thằng...”, mới nghe thế, Thảo đã
lắc đầu. Tôi chợt nghĩ ra.
- Không được nhỉ, còn cụ ở nhà?
- Ông cụ mất đã bốn năm rồi.
- Có một mình ở nhà thì đi nhé.
- Đi đâu?
- Đến nhà Đặng Đình Hưng. Đặng Đình Hưng bố Đặng Thái Sơn ấy mà. Nó cũng ở một
mình như ông.
Thảo lắc đầu nói:
- Đã lâu, tao không muốn quen thêm một ai trên đời này nữa.
Nghe câu triết lý cùn mà xa xôi, mà lạnh lẽo, tôi đành chịu. Nhưng con người hiền lành này
không phải là kỹ tính khó khăn, tôi rủ ra quán cơm đầu ghế thì Thảo đi ngay. Phố Hàm
Long, cái quán bia, lòng lợn tiết canh và cơm bát của vợ chồng con gái bà Tân Việt.
Hồi này chưa có nhiều quán bụi, nhưng đã lác đác bia hơi, cháo lòng, bún nem, không
đến nỗi chỉ độc có phở mến dong riềng không ngườì lái.
Cũng chưa lần nào tôi ăn với Thảo, không kể hồi lớp chỉnh huấn ở rừng, cơm tập thể ăn
đứng, giữ vệ sinh gắp đổi đầu đũa. Tôi có cảm tưởng buồn cười nhà triết học như vẫn
ngơ ngác tròn mắt với xung quanh khác lạ ý nghĩa và không ý nghĩa của quá trình hai bàn
tay con người. Anh hay có nhận xét kết luận.
Anh không uống bia. Rượu thì chẳng biết nó có ở trên đời này. Anh ăn cơm, gẳp miếng
dồi lợn chấm nước mắm, không mắm tôm rau sống, không đụng đến lòng tràng, cổ hũ.
- Lòng lợn nhồi tiết là nhanh nhất. Mà cũng ngon, sống ở trên đời, ăn miếng dồi lợn mà. ở
nhà, hồi còn ông cụ, lắm hôm nấu nồi cơm trộn nước mắm, ăn mấy hôm mới hết. Rồi
quen, cái thói quen có được hay bỏ được cũng dữ dội lắm, cậu ạ.
Rồi nghe tin Trần Đức Thảo công cán đi Pháp gặp gỡ Việt kiều. Nhà trí thức Trần Đức
Thảo đã hoạt động lâu năm bên ấy. Nhưng không ai để ý và thấu nỗi từ cái năm ở nông
trường Ba Vì được về, Trần Đức Thảo chỉ tháng ngày quanh quẩn cơm niêu nước lọ một
mình lâu dần đến đỗi không muốn quen thêm một người nào nữa, người đã sợ cả người.
Giá mà hồi ấy gặp Thảo thì tôi bảo anh đừng đi. Bà con ở Pari về kể chuyện Thảo được
Việt kiều qui mến, lập nhóm giúp đỡ Thảo. Đã vận động được Chính phủ Pháp tặng Trần
Đức Thảo một giải thưởng khoa học lớn. Nhưng anh chưa kịp nhận. Trần Đức Thảo ở
nhà của sứ quán.
Các bạn đã mướn một bà người Việt bếp núc giỏi nấu nướng cơm nước cho Thảo. Anh
ăn món thịt bò bít tết và satôbriăng với rau sà lách dầu dấm mà anh rất khen. Nhưng thỉnh
thoảng lại đòi mì ăn liền và nấu lấy. Khi ăn, cầm cả xoong, đỡ một thao tác đổ mì ra bát.
Triết lý, triết lý đấy. ôi Thảo!
Đặng Đình Hưng thì ốm ở cái gác trong hũ. Cũng không gặp ai nữa. Người đứng dưới
cửa sổ gọi, mặc kệ. Có một đứa cháu trong quê Chương Mỹ ra trông nom ông. Hôm đưa
ma, tôi trông mặt anh trong khung kính quan tài, thấy đội cái mũ dạ to vành - chắc anh đã
dặn đội cho cái mũ ấy.
Cô Hến ngước mắt nhìn ra sân.
- Anh... anh mới về.
- Tôi chào ông trên đê rồi. Ông bị bắt rượu a?
- Không, bố em khiêng hộ xã đội. Bố thích người ta bắt rượu. Bố em ghét người nấu
rượu.
Tôi nhớ ông Ngải chỉ nghiện nước chè vò. Ông Ngải chửi những đứa rượu vào hay lè
nhè. Tôi hỏi:
- Cô Hến cưới chồng năm nao?
Hến nhìn tôi, đỏ mặt, không nói.
- Cháu ngủ trong võng a?
Tôi lại hỏi:
- Con giai hay con gái?
- Con giai.
- Anh ấy đâu?
Đi bộ đội.
Có đóng gần nhà không?
Hến lại không trả lòi. Ông Ngải đã vào đến đầu ngõ. Ông Ngải nói:
- Chỉ đem hộ ra xã, rồi dân quân vác cả lên huyện.
Hến kêu:
- Bắt với bớ, mấy hôm lại thấy rước về đủ lệ bộ cho mà xem. Anh có ở chơi được lâu
không?
- Cũng vài ngày.
- Thế thì vui rồi.
- Quà Hà Nội của tôi đây.
- Cái gì thế?
- Cái ga len.
Tôi lấy cuộn dây đồng trong ba lô ra. Rồi những mảnh thiếc ghép, lò so, cục pin, cái loa
con con, một hộp gỗ. Những thứ ấy lắp lại, cái thì đặt trong gầm giường cái thì tròng lọng
lên đầu cây tre, cắm ra ngoài bờ rào. Bắt được đài Tiếng nói Việt Nam cả ngày cả đêm,
tối đến tiếp âm đài Bắc Kinh, đài Matxcơva. Nghe rõ mồn một. Cái năm mới có người
đem ga len về làng, có cụ già sợ: “Nghe như ma xó nói, ghê cả tai”. Bây giờ thì các hàng
quán dọc đường từ trên tỉnh về đây và nhiều nhà trong xóm, trước cổng cắm lênh khênh
cây tre mắc dây ga len.
Tôi lắp các thứ và cắt nghĩa cho ông Ngải. Ông Ngải nói:
- Tài thật, chỉ có sợi dây thép mà thu được tiếng tận đâu đâu. Anh mua mất nhiều tiền
không?
- Cái đài đeo vai mới đắt, mà cũng không mua được. Còn ga len chẳng đáng bao, vì mình
làm lấy cả.
Ông Ngải lại hỏi:
- Thấy bảo cái này nó hút sét, có nơi đương mưa sét đánh chết cả nhà.
- Thế là ông thạo ga len rồi. Người ta đồn đại quá đi thôi. Đề phòng dễ lắm, tối nghe xong
thì nhổ cây tre đem vào nhà, thế vậy.
- Tôi cũng nghe nói làm vầy. Nằm trên giường cũng được nghe văn công, sướng chưa.
Trong nhà ông Ngải cũng nhiều đối thay. ốc đã đi bộ đội. Cả Toàn con rể, ông bà cho ở
gửi rể, cũng đi bộ đội. Chỉ ông bà Ngải vẫn ngày ngày nghe kẻng ra đồng làm. Nhưng ông
Ngải ghét nhất cái cảnh ra đầu xóm đứng lố nhố, chuyện râm ran, điểm danh mấy lần vẫn
chưa đủ người, đến khi cả tổ ra tới giữa đồng thì mặt trời đã lên ngang lưng tre. Ông Ngải
bực mình chửi làm ăn thế này thì đói rã họng ra đến nơi. Ông Ngải không đi với mọi
người. Ông hỏi hôm nay làm gì rồi ông xuống đồng trước.
Ông Ngải đi sớm về muộn,
Ông làm theo ý ông, không biết cái kẻng. Ông đã quá tuổi lao động, ông làm hay không
cũng thế, nhưng hôm nào không đi làm thì chân tay như uỗi ra. Cái gì ông cũng tự nghĩ rồi
làm. Ông chỉ cho con cái học cho biết mặt chữ. Ông gả chồng cho cái Hến cũng không
biết thế là tảo hôn, mà làng nước cũng chẳng ai bắt bẻ ông. Thằng ốc nhà độc đinh ông
vẫn cho đi bộ đội. Ông bảo “đi cho biết đó biết đây". Thời còn trẻ, ông đã đi nếm cơm
thiên hạ chẳng thiếu đâu. Tôi lại ngồi bên búi tre lép với ông Ngải. Đến nhà Sự, nhưng Sự
đi vắng. Xem ra công tác vẫn bận tối mắt. Về quê chóng đói, hôm nào cũng lại đánh ba
bốn bát với con tôm cái tép hầm nồi chát bùn. Ông Ngải không uống rượu. Như năm
trước, tôi cũng không uống, chẳng sao. Tôi là con ếch Cu Ba, ở rừng thì da xanh thẫm lá
rừng, ở ruộng mía thì lổ đổ màu lá mía, đến mùa hoa, lưng ếch chấm đỏ, chấm vàng như
cánh hoa rơi.
Năm trước, cả làng mới có xóm Đồng lâm thí điểm hợp tác xã. Rồi hợp tác xã cả xóm, rồi
khăp các xóm thành một hợp tác xã to. Đâu cũng đồn rồi cả huyện lên như công xã nhân
dân bên Trung Quốc mà thôi. Chuyện ấy còn chưa biết, mới chỉ một xã thành một hợp tác
xã đã lắm chuyện rồi. ủy ban chỉ giữ cái triện, mọi việc đều qua chủ nhiệm. Hợp tác xã
nắm nhân lực, cho đi bộ đội, đi học xa, cả các nơi về điều tra lý lịch để kết nạp vào đoàn,
vào đảng, lấy người vào biên chế cơ quan chủ tịch xã đóng dấu, chủ nhiệm cũng ký cùng.
Trụ sở ban chủ nhiệm đông người ra vào. Bên uỷ ban, ngày làm việc mà lắm hôm khoá
trái cửa. Ngay ở xóm Đồng, bà con chỉ biết đến tổ trưởng sản xuất, trưởng thôn cũng như
anh xã viên chay.
Chẳng bù với nhiều nơi cuối tỉnh cuối huyện, các hợp tác xã điển hình quẫy như cá úi. Mỗi
huyện, mỗi tỉnh đều thổi lên những cái bong bóng hợp tác xã điển hình. Một hình ảnh
tưởng tượng hùng vĩ đến ngây ngất, cả nước gồm ba trăm huyện là ba trăm pháo đài đầy
đủ mọi mặt như một bang. Cứ dóng dả lên thế, nhưng chẳng ngành nào điều được người
về huyện, tài chính, nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ... vẫn vắng bóng. Như thế, càng báo cáo phấn
khởi ăn gian nói dối tràn lan.
Các hợp tác xã được tỉnh, được huyện hay cơ quan, nhà máy đỡ đầu. Suốt tháng nhộn
nhịp, nông nhàn cũng chẳng khác ngày mùa. Ngày chủ nhật, cán bộ, nhân viên làm lao
động công ích đẩy những xe phân hố xí hai ngăn trên các cơ quan tỉnh, huyện về. Nhà máy
kết nghĩa thì ủng hộ than để nung gạch, cho bã hoa quả, vỏ cam, lõi dứa thức ăn nuôi
ngan, nuôi lợn.
Về đến nơi, xã viên rỡ bã cam, mắt dứa nhặt riêng, đem ra chợ bán. Hợp tác xã có tổ
nuôi ong. Bí thư tỉnh uỷ chủ nhật nào cũng về xã theo dõi điển hình. Ông đã gửi tổ ong của
hợp tác nuôi hộ ông một chục đõ. Chủ tịch huyện cũng có năm đõ nhờ nuôi. Ong chết dịch,
ong bốc bay mất bao nhiêu thì đõ ong của các thủ trưởng vẫn đông đàn và đến vụ quay
mật cứ là tố hảo, mật nhãn mạt hoa ngô sánh như kẹo mạ. Mọi sự được đắp vào, được
tiếng tăm, nhưng hoạn nạn ở đâu cứ kéo đến, trước nhất méo mặt vì nạn khách tham
quan. Báo chí càng thổi kèn đu đủ bốc thơm thì các nơi lập đoàn, lập đội kéo đến tìm hiểu
học tập càng nhiều, huyện bạn, tỉnh bạn ba trăm pháo đài huyện cả nước đổ đến.
Các xã láng giềng phải nghĩ ra mẹo trốn thành tích. ở hội nghị tổng kết trên huyện, các hợp tác xã
theo nhau báo cáo năng xuất đuối, không đạt mức thi đua - mới vụ trước thì vun vút vượt
chỉ tiêu. Cả các anh điển hình cũng co lại. Chẳng biết đâu thật, đâu vờ, mà cái cớ chính thì
cũng dễ hiểu. Tôi yếu rồi, thôi thôi đừng ai dòm ngó tôi nữa, tôi không nhất nhưng tôi
không bét, tôi cứ tà tà cả làng không lên mâm, không có cỗ với ai cả.
Ông Ngải vỗ vẩy cái ống điếu.
- Lắm nơi rắc rối nhỉ. Nhưng mà nghĩ ra thì ở đây cũng không khác đâu. Hôm nọ ông cán
bộ gà lại về dạy làm chuồng, cách cho gà ăn, cách chống gà toi.
Người ta nuôi gà cả đời nào phải học ai. Thôi thì cũng đồng ý, cũng phát cỏ, quét vôi, bắt
gà ăn thóc ngâm muối cho phải phép.
Tôi hỏi:
- ở đây có đoàn tham quan đến không? Dạo ấy thôn ta hợp tác xã thí điểm điển hình huyện
cơ mả.
Ông Ngải hút một điếu thuốc. Cái nõ kêu ròn tanh tách. Rồi ông bụm môi, thở khói, như
cái cười ngậm trong miệng theo khói ra.
- Tôi không biết. Ngày trước thằng Tây đóng bốt trên đê đầu làng, giữa làng, cuối làng, cả
hàng huyện này đồn bốt chi chít như đế giày đinh của nó. Thế mà rồi bỗng chốc ta về nhổ
sạch. Cho nên, tôi chỉ biết theo ta thôi.
- Nhưng cái gì thấy không đúng phải có ý kiến.
Ông Ngải lờ đờ mắt.
- Tôi chỉ ý kiến thế.
Tôi đã hiểu cái ý của ông Ngảí. Ông nói cái gì ông cũng theo, nhưng thật ra xưa nay ông
chỉ theơ ông, theo bàn tay ông mà thôi. Tôi quí ông cung vì thế, tôi đã bao lần nghe ông
Ngải kể về sự tích cái đất và những mảnh ruộng này của ông với cái cuốc, cái mai.
Đã bao nhiêu năm rồi, mỗi hôm ông Ngải lại ngồi tựa bụi tre lép, ngắm nghía cơ ngơi của
ông từ vườn ra ruộng xuống bãi sông. Những khi mát trời, ông ngồi đến lúc ngôi sao hôm
như một giọt sương sáng long lanh rỏ xuống mặt nước xa kia.
Tôi hỏi:
- Bây giờ đội nào làm mảnh ruộng này?
- Chẳng đội nào cả.
Tôi lấy làm lạ..
- Ông đã làm ban kiểm tra, ông giữ ruộng riêng sao?
Ông Ngải cười hề hề:
- Thế đấy. Mấy vụ tôi để các đội làm đều mất ăn, chỉ được vài gánh lúa lép. Chúng nó nói
quàng: bụi tre này ớm bóng làm cỏ áy, lúa áy. Nói láo, bóng tre chỉ bằng cái nón, lại ngả
xuống ao, đâu ra ruộng.
Tôi gọi anh Sự với cả ban chủ nhiệm ra tận ruộng.
Tôi bảo cái tay tôi đã làm nên đồng đất này, tôi biết nuôi nó lúc đói lúc no thế nào. Các
người tưởng ai cũng làm, làm thế nào cũng được sao. Cái cày máy có lia được vào bốn
góc ruộng đâu, lại phải cần đến thằng cày chìa vôi. Để đấy, vụ này tôi làm. Thế là tôi lại
vác cuốc ra. Ngày mùa, thóc quảy về chật nửa sân hợp tác, hạt thóc ken nhau, con đá
phải lăn hai ba lần mới sạch rơm.
- Các tay hợp tác có hỏi ông kinh nghiệm làm thế nào?
- Tôi làm thế nào thì bày ra đấy, chúng nó biết chứ. Có điều rằng người ta làm ruộng đất
thịt trong đồng, không ai thuộc tính nết cái soi bùn, lưỡi cày không lật được tới màu, độc
cái lưỡi cuốc mới len lỏi xuống đưa màu lên được. Chỉ có thế.
Tôi hỏi:
- Ông Ngải ngày trước có bao giờ lên tỉnh không?
Ông Ngải nhìn tôi:
Anh ngỡ tôi không đi tỉnh, tôi không biết mặt rượu a? Tôi đã nghiện lâu năm đấy.
- Ông cũng uống rượu?
- Mỗi hôm đánh ngã hai ba chai con hươu, đến lúc sờ thấy nóng tai mới đứng lên.
- Ôi trời!
- Rồi tôi bỏ rượu. Cái ấy hại tiền, chẳng ra gì. Bấy giờ còn đương sức bay nhẩy.
- Ông ra tỉnh.
- Xa bằng vạn ra tỉnh ấy. Tôi ra Uông đội than, vào rừng trong Thanh ngả gỗ vần xuống
sông đóng bè.
- Khiếp chưa!
- Hai chân đất, tôi cứ đi. Một đời tôi chưa biết cái tàu, cái xe, không biết cái màn.
Tôi đã ở nhà ông năm sáu tháng, thế thì những cái biết, cái nghĩ của tôi về ông đều phải
vứt đi ráo.
Tôi chưa biết gì về ông Ngải. Tôi tưởng người các miền quê ta đâu cũng như quê Thiệu
Hưng của lão AQ. Bên ấy đất nước mênh mông, người trong làng chẳng bao giờ đặt
chân lên đến trấn, đến huyện. Một nhà ở Hoa Trung chuyển vùng đi kinh tế mới lên Hoa
Bắc, vào Tân Cương ngày ngày ròng rã thăm thẳm mịt mùng biết đâu đưòng nào về.
Làng xóm ta thật khác, như ông Ngải đã tha phương cầu thực đến đâu cũng được.
Người gốc dưới Nam lên khai hoang trên Phong Thổ, Lai châu. Xa nhất thì vẫn đi đi về về
một chốn đôi quê. Đường ngược về, đeo đãy cao khỉ, hổ cốt, mật gấu, mật ong. Dưới
xuôi thì quảy lên những thứ trên rừng hiếm: lọ thuỷ tinh, bóng đèn, dây ni lông, gương
lược...
Lẽ nào tôi chẳng biết, mà tôi không biết thật. Tôi chỉ trông cái trước mắt. Tôi không biết về
ông Ngải, rõ là tôi đã biết gì đâu.
Mấy nhà trong xóm tối nào cũng đến trầm trồ quanh cái tai ga len treo trên cột.
Ông Ngải gật gù:
“Văn công hát chèo như người đứng trước mặt.”
Vợ chồng, cả nhà Dũng đã lên tỉnh mở hàng cơm chứa trọ. Chắc không ở cầu Bo, tôi
không gặp.. Sự vẫn không có nhà. Mấy hôm ấy có lớp huấn luyện trên huyện. Sự nhắn tôi
cố ở chơi được đến cuối tuần, Sự về. Vợ Sự và cái Soi đi gánh cỏ tóc tiên về bỏ làm
phân chuồng lợn. Mới năm nao, chẳng mấy hôm không bị mẹ đòn đánh, bây giờ cái Soi
đã lớn vổng, cao bằng mẹ.
Vợ Sự hỏi tôi:
- Anh mang cái máy hát về cho ông Ngải hả?
Cái Soi nói:
- Cái ga len nói như ma nói.
Tôi bảo:
- Sự về, vợ chồng tối sang chơi nhà ông Ngải, cả cháu nữa.
Cái Soi cười:
- Tối nào cháu cũng vào đấy. Thoạt nghe nó nói lợn cả tai.
Tôi mới nhớ ra cái cô bé mặt ngấn ngơ đứng ôm cột nhà, chốc lại nghé nghiêng nhìn lên
ga len, là cái Soi.
Tôi về Đan Phượng đúng hẹn với Thử, chúng tôi cùng vào trường vửa chuẩn bị lễ bế
giảng. Mỗi tổ được thông tri lịch từng ngày với những việc phải làm. Giấy giới thiệu sinh
hoạt lại với cơ quan, thanh toán tiền ăn tháng sau cùng. Có một điều căn dặn mà thoạt
đầu tôi thấy là kỳ quặc ở cái trường mà học viên đều đã nên ông nên bà và cán bộ cỡ.
Không được viết bậy, ỉa bậy ra nhà vệ sinh. Không phơi quần áo dưới sân.
Nhớ khoá xe đạp... Nên cẩn thận và đề phòng những ngày cuối bận rộn dễ mất cắp mất
trộm.
Có người thành thạo nói: trường người lớn hay trường trẻ con thì cũng cứ gặp bế giảng
lại như tháng củ mật áp Tết ở làng. Có người đưa gái điếm đến dọn dẹp hộ, bảo là con
nuôi. Cô Ngọc học trường này mất cái đài Mẫu Đơn. Về nhà, về cơ quan không dám hé
răng. ở nơi uy nghiêm thế này không thể có trộm cắp.
Nhưng tôi vẫn nhớ đến cái ông ăn vụng quả chuối ở căng tin.
Rồi mọi việc êm đềm trôi qua. Mỗi tối trò chuyện khuya hơn mọi khi. Ngoài vườn, những
luống ngô đương trổ cờ, hoa ngô thơm nồng nàn vào cửa sổ. Các bạn ở xa đi xin chữ ký
vào sổ tay. Dẫu già vẫn là cảnh trẻ con đi học.
Tôi làm tổng kết, viết tự nhận xét và nhận lời phê của tổ đảng, của chi bộ.
Bản chứng nhận học tập của tôi:
Đảng lao động Việt Nam- Trường Nguyên ái Quốc
- Bản chứng nhận học tập. Lớp 8 tháng khoá 3. Từ tháng mười 1961 dến tháng bảy 1963.
A- Kết quả học tập.
1- Duy vật biện chứng- ý chính đủ. Thiếu định nghĩa giữa phạm trù chung và riêng. Không
nhớ câu Lê Nin nói về chung và riêng. 2- Duy vật lịch sử- Đủ ý chính. Liên hệ thiên về vai
trò và đặc điểm văn học nghệ thuật trong phát triển xã hội. Phân tích tác dụng nghệ thuật
trong đòt sống còn sơ lược. 3 – Chíh trị kinh tế học- Đủ ý chính. Thiếu phân tích lao động
phức tạp, lao động giản đơn, giá trị và số lượng giá trị của hàng hoá. Sự tất yếu của công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đối với những nước kém phát triển nói chung và đối với Việt
Nam nói riêng, đủ ý chính. Thiếu phân tích nguồn vốn, tiến trình. 4- Kinh tế cụ thể- (học thiếu
2 bài kinh tế xí nghiệp vì về dự đại hội Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và đại hội Hội
Nhà văn Việt Nam ) 5- Đi công tác thực tế ở hợp tác xã thí điểm đã cải tiến quản lý- Làm
được đầy đủ nhiệm vụ tổ giao (Nghiên cứu về chăn nuôi, có báo cáo riêng).
6- Lịch sử Đảng- Đủ ý chính.
B- Tự nhận xét
l- Thời gian học toàn khoá. Nghỉ 10 ngày (Dự Đại hội Văn nghệ và Đại hội Hội nhà văn),
nghỉ hè ở Sầm Sơn về chậm 15 ngày (đã kiểm điểm). Những bài không học: 2 bài về kinh
tế xí nghiệp (kinh tế cụ thể), 2 bài về lịch sử Đảng.
2 – Kết quả nhận thức lý luận, vận dụng lý luận liên hệ thực tế và nâng cao tư tưởng.
a/ Lần đầu tiên nghiên cứu lý luận dài hạn, lĩnh hội được một cách có hệ thống. Mỗi môn
học đều có liên hệ, lại có đi thực tế kiểm tra lý luận trong thực tế. Với tôi, phần học triết và
kinh tế nông nghiệp thu hoạch được đầy đủ hơn cả.
b/ Cụ thể kết quả tất cả các bộ môn như sau:
Về duy vật biện chứng- Thấy sâu sắc hơn được sự vật có liên hệ và phát triển lẫn nhau
trên cơ sở những qui luật và phạm trù phép biện chứng duy vật, do đấy có cơ sở khoa
học và chính xác là xem xét theo qui luật mâu thuẫn, hạt nhân phép biện chứng, mối liên hệ
giữa các qui luật. và phạm trù, sự vận động và phát triển. Đặc biệt: phạm trù riêng chung
đã liên hệ được nhiều mặt về tính dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa của xã hội và của
đường lối văn nghệ của Đảng.
Về duy vật lịch sử – Thấy được tính tất yếu khách quan của tiến triển lịch sử loài người
thông qua đấu tranh giai cấp - động lực phát triển của xã hội. Mối quan hệ thượng tầng
kiến trúc và hạ tầng cơ sở với cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đặc biệt liên hệ
chức năng củ
a mỹ học trong phạm vi công tác và sáng tạo của văn học.
Về lịch sử Đảng- Thấy được cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng trong quá
trình từ khi Đảng ra đời đã phát triển theo quan điềm Mác - Lênin rất khoa học, đặc biệt
tốt với vấn đề nông dân và các chủ trương, chính sách liên minh công nông, mặt trận dân
tộc.
Về kinh tế cụ thể- Hiểu được hơn cả là các bài về nông nghiệp như: Sử dụng ruộng đất,
vấn đề thâm canh tăng năng suất, vấn đề kỹ thuật nông nghiệp (Các bài về lúa, phân,
giống đất, các phương thức canh tác, vấn đề chăn nuôi). Tất cả các vấn đề trên được liên
hệ, kiểm tra, so sánh, bổ sung trong đợt đi thực tế một hợp tác xã đã cải tiến quản lý ở
Đan Phượng (Hà Sơn Bình).
c- Tinh thần, thái độ học tập- Có tinh thần cố gắng, nhưng không đều. Phạm nội qui, nghỉ
hè quá hạn đã bị phê bình ở tổ.
d- Nhận xét của tổ, chi uỷ và ban giám đốc nhà trường:
- Đồng ý với tự nhận xét.
- Qua học tập, nhận thức lý luận tương đối tốt, có chú ý liên hệ lý luận với thực tế, nhưng
có phần thiếu hệ thống.
- Tinh thần, thái đô học tập nghiêm túc. Có việc phạm nội qui về thời gian nghỉ hè về trễ,
đã tự kiểm điểm.
- Cần hệ thống hoá lý luận, kết hợp tốt việc vận dụng lý luận đã học vào lĩnh vực sáng tác
văn học.
Cần nâng cao hơn nữa tự phê bình và phê bình.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương X
ở trường về, tôi lại được bầu vào ban chấp hành đảng bộ, lại tiếp tục như đã làm hai năm
trước khi đi học. Đã sát nhập Đảng đoàn Văn hoá và Văn nghệ.
Về Đảng bộ, đã thành lập Đảng bộ Văn hoá Văn nghệ. Bí thư Hà Huy Giáp, chịu trách
nhiệm chung, phó bí thư tôi nắm khu vực các hội văn học nghệ thuật.
Một đợt nghiên cứu học tập về bảo vệ Đảng. Yêu cầu là xem xét và đấu tranh đưa ra khỏi
Đảng những trường hợp đảng viên phức tạp về chính trị và lịch sử. Trên bàn tôi, những
đệp lý lịch xếp từng chồng, tôi đọc, tôi đọc, tôi đọc...
Đã bao nhiêu năm, những quyển lý lịch đảng viên, chẳng mấy khi không có trong cặp, trên
bàn. Mỗi bản một đời hoạt động, nhiều lần phải đọc vì những yêu cầu công tác khác nhau.
Tất cả đều viết tay và tự khai.
Có thể trông vào đấy thấy ra được biết được thời sự chính trị và quãng đời từng người
nhưng chịu không thể biết sự thật được tôn trọng đến đâu - nếu coi mỗi bản lý lịch phải
trải qua cuộc đấu tranh vì sự thực viết ra. Quen tay viết, cứ nhà nho thì “nhà nho nghèo”,
trung nông thì “trung nông lớp dưới”, địa chủ thì “địa chủ nhỏ”, mà những chữ nghèo, dưới,
nhỏ đều không phải những danh từ có vị trí trong lý lịch về ngôi thứ xã hội, theo cách viết
hành chính, luật pháp và khoa học. Khi chuyển cơ quan trên Việt Bắc về, xem lại các
quyển lý lịch, hầu hết đều thiếu. Không phải thiếu sổ cái, mà mất những bản kiểm điểm khi
chỉnh huấn, khi đi cải cách ruộng đất, những bản tự sỉ vả nặng hết cỡ. Chẳng biết các vị
chủ lý lịch đã rút trộm ra từ lúc nào. Nhưng tôi thì còn nhớ, vẫn nhớ, cứ nhớ...
Một hôm, một cán bộ ban tổ chức Trung ương đến.
Anh đã luống tuổi, gày yếu, mặt xạm màu sốt rét kinh niên. Anh quê ở dưới làng Sét. Anh
nói:
- Tôi trao đổi với anh về vấn đề hoạ sĩ Phan Kế An.
Rồi anh trình bày:
- Trên ban phụ trách vấn đề này. Đã gặp anh An nhiều lần, có bản kiểm điểm, có hồ sơ về
những sai phạm của anh ấy. Nhưng khai trừ một đảng viên thì do chi bộ cơ sở quyết định.
Đảng uỷ các đồng chí có trách nhiệm nghiên cứu tài liệu rồi thuyết phục chi bộ hội Mỹ
Thuật, chi bộ này sẽ khai hội thảo luận rồi biểu quyết. Tài liệu và hồ sơ này tuyệt mật, chỉ
đảng uỷ được đọc rồi phổ biến lại ở chi bộ.
- Tôi sẽ làm như thế!
Tôi cứ “vâng ạ” và “làm như thế", nhưng khách đi rồi mà còn chưa nghĩ ra thế nào. Việc
khó khăn phải làm, thế nào cũng phải làm. Những khi bối rối tôi hay nghĩ ra và nhớ lại
mênh mang mờ mịt thời còn trẻ con, tôi nằm ngửa trên gò cỏ Mũ Đồng Cân, nhìn lên trời
giữa cánh đồng. Đứa nào bịt mắt tôi, à tôi đưong chơi trò bịt mắt bắt dê, mở rnắt ra thì
trông thấy An, à thằng này vừa bịt mắt tao, không phải, tôi đương nghĩ cách giải quyết, tôi
muốn chạy trốn mà không chạy nổi, không chạy được. Những việc xảy ra quanh chuyện
Hoàng Minh Chính đã qua, tôi chỉ nghe loáng thoáng và cũng không tò mò. Chỉ để ý không
có ai giới văn nghệ dính líu thì tôi nghĩ Hoàng Minh Chính có kinh nghiệm hoạt động, về
mặt nào đó, bọn này đã móc nối các người làm báo, đài, thông tấn cơ động hơn.
Tôikhông quen Hoàng Minh Chính nhưng đã có lần nghe nói chuyện về trận tập kích sân bay
Gia Lâm sau đêm 19 tháng mười hai 1946 và ở trường Nguyễn ái Quốc vừa rồi, Hoàng
Minh Chính đến nói về triết học.
Nhưng Phan Kế An không liên can gì tới Hoàng Minh Chính. Không, An đã tu nghiệp mỹ
thuật ở Lêningrat. An thân với nhà văn Marian Tkachôp, Marian cũng là bạn tôi, dịch nhiều
quyển của tôi.
Tập hồ sơ là bản ghi những lời An đã báo cáo trình bày với ban Tổ chức các cuộc trò
chuyện mỗi lần đến sứ quán Liên Xô gặp người công sứ, ông này là Pôgôđin hay
Bôchep, tôi quên tên, ông ta có cái đầu bẹp dáng người Trung á. Mỗi dịp gặp tôi ông
thường đùa kêu lên một câu tiếng Việt: “ối giời ôi, một trăm năm nay mới lại được bắt tay
ông". Triều đại Goocbachôp, đọc báo thấy ông ta làm đại sứ bên Lào.
Tôi đi báo cáo và xin ý kiến bí thư Hà Huy Giáp.
Anh Giáp hỏi lại tôi thấy thế nào, tôi nói tôi chẳng biết làm thế nào và ngại làm. Anh Giáp
chịu trách nhiệm của Đáng mọi mặt bên bộ Văn Hoá, lại trực tiếp làm bí thư Đảng đoàn
và Đảng bộ cả bộ Văn Hoá và hội Văn Nghệ. Công tác nhiều và nặng, nhưng làm việc với
anh Giáp, tôi thấy thoải mái dễ chịu. Tôi thường tự động làm đỡ anh những việc trong
phạm vi tôi cũng có trách nhiệm. Sự gần gũi anh cứ như là tự nhiên đã cho tôi ý thức làm
việc thế. Một buổi tối đi tản bộ bên hồ Thiền Cuông, tôi kể anh nghe ở Mông Cổ, tôi gặp
cái cô ấy lấy chồng Mông Cổ, cô chửi chồng như hát, khiếp quá. Anh Giáp bảo: “Cô ấy
tên là... phải không? Tôi biết rồi. Cô này ngủ với chồng, thằng chồng không làm hạ được
cơn nó, nó xé cả quần, thế còn khiếp hơn".
Nhưng không phải anh chỉ tiếu lâm, trong đợt học tập này cũng như việc Phan Kế An, anh
Giáp chỉ nói một câu mà tôi luận ra mọi công việc:
- Kế hoạch chung anh cứ làm rồi trao đổi với tôi, trao đổi chứ không phải đợi ý kiến tôi.
Có điều, một điều thôi, cái gì khó hãy nên gặp tôi.
Miên man đọc tài liệu và đương nghĩ tới cuộc họp chi bộ hội Mỹ Thuật. Đọc những cái ma
quỷ này vào lúc đêm khuya ngày rạng gà gáy phảng phất tiếng trẻ hờn, dường như có
bóng thằng ba đầu sáu tay Phạm Nhan hiện về trong bụi cúc tần bên kia bờ ao, những sự
việc và những sắp xếp ai oán lo toan, may ra mới hiện lên được. Dường như đã sang
canh. Những con chim lợn không biết mới bay ra hay đã đi ăn đêm về tiếng kêu éc éc rời
rạc mỗi quãng rơi một tiếng rùng rợn. Tôi đã nghe tiếng ấy quanh năm hay là bây giờ,
đêm nay thành phố chỉ còn thảm thiết ngang trời tiếng chim lợn. Xung quanh ngoài thành
chẳng còn mấy mặt hồ nước, những đàn con giang con sếu trú đông về không đỗ xuống
đây nữa mà những tiếng kít kít gọi nhau rẽ lên hồ thuỷ điện, hồ Suối Hai, hồ Núi Cốc trên
kia.
Tôi mở đến một văn bản. Cuộc trò chuyện hôm ấy về tình hình văn học nghệ thuật Việt
Nam. Câu hỏi là: theo ý đồng chí Phan Kế An, ai bây giờ có thể lãnh đạo văn nghệ Việt
Nam. An trả lời: có thể là Nguyễn Tuân, là Tô Hoài.
Tôi nhìn trân trân những hàng chữ đánh máy đương bò ra ngoài tờ giấy dưới ánh đèn. Tôi
gấp cái tập ấy lại, rồi đi nằm.
Chi bộ hội Mỹ Thuật có bảy đảng viên. Vào họp, tôi tóm tắt những cái đã đọc ở hồ sơ rồi
hướng gợi ý những sai phạm như thế thì không thể kỷ luật nào khác là khai trừ ra khỏi
hàng ngũ đảng. Mọi người yên lặng một lúc lâu. Vài ý kiến lẻ tẻ. Tôi cũng không sốt ruột,
không mong đợi gì. Hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm đứng lên nói: “Những khuyết điểm ấy là nặng,
vi phạm điều lệ đảng và tư cách đảng viên. Nhưng đồng chí ấy làm cái sai ở đâu đâu,
không ở chi bộ này. Hôm nay nghe tôi mới biết. Tôi không thể có thái độ thế nào được".
Buổi họp có bí thư đảng uỷ Hà Huy Giáp và anh cán bộ trên Ban quê ở đầm Sét. Không ai
nói. Mọi người cũng như tôi, chứng kiến cuộc họp rời rạc quần nhau trong tưởng tượng.
Lúc biểu quyết, Huỳnh Văn Gấm đứng lên. Gấm đứng yên nhìn mỗi người, nhìn An. Nhưng
Gấm không giơ tay. An nói câu sau cùng, anh thấy “tôi không có khuyết điểm. Ngày mai,
ngày mai, thời gian sẽ ủng hộ tôi".
Trong vài cuộc chè chén, đôi khi tôi đi với An. Không khi nào ai nhắc lại hôm ấy. Nhưng
tôi vẫn nhớ một chuyện vẩn vơ. Mùi Cá kể với tôi: “Cái ông nhà văn Liên Xô này ghê lắm,
đã đưa Thanh Tịnh đem các thứ đồng hồ và vải cho vợ Lê Vinh Quốc, Văn Doãn, ông ấy
cho Phan Kế An một cái chân vịt to lắm bằng cao su. Chân vịt để làm gì, anh biết không? -
Chân vịt để đi bể lắp vào chân, bơi khoẻ hơn. Mùi lặng im, rồì nói: “Hay nhỉ". Vừa lấy làm
lạ, vừa như lại chưa tin câu cắt nghĩa của tôi.
Tôi cũng hay trông thấy anh cán bộ tổ chức quê ở đầm Sét, buổi chiều anh ấy đạp xe qua
phố Huế, chắc tan giờ, anh về nhà. Anh ấy làm như không nhìn thấy tôi. Tôi chắc anh đã
nhìn thấy vì xe tôi lướt trước mặt. Một năm, tôi nghỉ trên đầm Vạc ở Vĩnh Yên. Giáp mặt,
tôi chào, anh ấy đáp lại cẩn thận, nhưng như là không nhớ tôi và cũng không hỏi.
Lần này tôi nghĩ anh đã quên tôi thật. Mặt anh mọi khi mai mái bây giờ đổi màu vàng
bủng, màu ốm.
Hai con mắt người bệnh nặng cứ thờ ơ thế nào. Có thể không phải không biết, mà không
biết thật. Dẫu cho tâm trạng mỗi người mỗi khác, nhưng về việc này chắc cũng giống
nhau. Nghiên cứu bảo vệ đảng, thực hiện có việc lớn việc nhỏ, nhưng việc nhỏ nhất cũng
liên quan tới cuộc sống và tinh thần mỗi ngưòi. Tôi chắc là anh cũng như tôi mỗi khi nhớ
còn áy náy về cuộc họp chi bộ hôm ấy.
Anh Nam trong Nam tập kết ra, làm ở hành chính. Anh người Bắc, nói là đi kháng chiến ở
Sài Gòn. Nam công tác năng nổ, được bầu vào chi uỷ. Nhưng Nam hay chim chuột léng
téng lăng nhăng. Xem lại giấy tờ khi mới nhận về, chỉ có một giấy giới thiệu chung cả chục
người. Tên ai cũng đánh máy là đồng chí, đồng chí thì tự nhiên được hiểu là đảng viên.
Bây giờ lòi ra không phải đảng viên thì lại nghi quá, có thể. không phải anh tập kết. Rồi
Nam biến mất trước khi bị kỷ luật thế nào. Có người gặp ngoài phố, nghe nói bây giờ
Nam đi buôn tem phiếu. Hay là thật anh ấy ở đâu chui vào cơ quan?
Phong trào bảo vệ Đảng được phát động rộng khắp các đỉa phương và các cơ quan, lại
kêu gọi mọi người cung cấp tài liệu, ai thấy ai thế nào thì cứ phát hiện, bất kể có biết
người bị tố giác, có phải là đảng viên hay không. Có hai cái thư gửi đến tố cáo nhà viết
kịch Thế Lữ và nhà thơ Quang Dũng là quốc dân đảng thời kỳ phản động. Thư kể chi tiết,
người viết đã có tuổi ký tên và ghi địa chỉ, cam đoan chịu trách nhiệm về những việc đã
kể. Vậy phải xem xét kỹ lưỡng, có khi còn phải trả lời, dù các anh Thế Lữ và Quang Dũng
không là đảng viên:
Tôi đến hội Sân kháu và nhà xuất bản Văn Học mượn hồ sơ lý lịch của các anh ấy. Không
có gì khó khăn, trong lý lịch, Thế Lữ và Quang Dũng đã viết ra những việc tưởng là bí mật
chỉ có người tố cáo biết, một cách đầy đủ và rõ ràng đầu đuôi.
Năm 1946, Thế Lữ với đoàn kịch Anh Vũ ở Hà Nội biểu diễn qua các tỉnh vào tới Quảng
Nam rồi trở ra. Đến Quảng Nam giữa khi Chính Phủ ta ký tạm ước 6/3 với Chính phủ
Pháp, trong nhân dân có người không đồng tình, nói nặng là Việt Minh ký giấy bán nước
cho Pháp. Quảng Nam đương là nơi Quốc dân đảng công khai chống đối. Đoàn kịch nói
Anh Vũ trở ra đến Thanh Hoá, đêm biểu diễn ở thị xã có một tiểu phẩm về tạm ước 6/3
mà dư luận nói là vở kịch phản động. Công an Thanh Hoá định bắt đoàn kịch. Nhưng cả
đoàn đã thoát được lên tàu hoả. Thế Lữ chạy vào trụ sở Việt Nam quốc dân đảng ở thị xã
mà thủ lĩnh bấy giờ là nhà văn Tchya Đái Đức Tuấn. ở đấy, Thế Lữ viết thư về Hà Nội cho
anh Hoàng Hữu Nam, thứ trưởng bộ Nội Vụ. Anh Hoàng Hữu Nam đã can thiệp. Thế Lữ
trở ra được Hà Nội. Thư tố cáo cũng không có gì khác hơn những điều trong lý lịch Thế
Lữ. Tôi báo cáo anh Hà Huy Giáp rồi xếp hồ sơ lại.
Những năm đầu 1940, Quang Dũng giang hồ phiêu bạt đến Liễu Châu. ở Liễu Châu,
Quang Dũng gặp Nguyễn Tường Tam thủ lĩnh đảng Đại Việt Dân Chính. Quang Dũng
không biết về đảng phái, nhưng Quang Dũng yêu văn Nhất Linh với hình ảnh nhân vật
Dũng cách mạng phong trần dọc đường gió bụi trong các tiểu thuyết Đoạn tuyệt và Bướm
trắng, bởi Quang Dũng cũng đương phiêu lưu bắt chước các nhân vật ấy. Nhưng chỉ ít
lâu, Quang Dũng nhìn tỏ mặt thật của họ. Những mưu đồ ám hại lén lút và Nhất Linh bố đẻ
nhân vật Dũng nghiện rượu, say rượu, cứ sáng sớm ông Nhất Linh đã phải một cốc to
rượu trắng mới đã. Quang Dũng vỡ mộng, lại lang thang rồi trở về Hà Nội. Cách mạng
Tháng Tám, Quang Dũng vào quân đội, Quang Dũng được tuyển học sinh quân trường võ
bị Trần Quốc Tuấn trên Sơn Tây.
Rồi đi vào kháng chiến toàn quốc, năm 1951 thì ra quân, rồi hoà bình lập lại, anh đương
dạy học ở phố chợ Rừng Thông trong Thanh Hoá thì Vĩnh Mai chánh văn phòng hội Văn
nghệ, được đi tuyển người, Vĩnh Mai đưa Quang Dũng, Hữu Loan, Thanh Châu ra làm
biên tập báo của hội. Quang Dũng ghi lại vắn tắt nhưng rõ ràng như tôi vừa kể trên. Cơ
nhỡ và chìm nổi biết bao những nhận đường tìm đường của thanh niên trên bước đi của
cuộc đời và của lịch sử. Việc Quang Dũng cũng được xếp lại.
Trường hợp Đồ Phồn và Nguyễn Đình Lạp thì phải đợi ý kiến trên lâu hơn. Nguyễn Đình
Lạp đã mất bệnh trong kháng chiến nhưng vì đây là vấn đề lịch sử, thế nào thì cũng phải
xem lại các nhà văn này trước kia cộng tác với nhà xuất bản Hàn Thuyên có khuynh
hướng tờ-rốt-kít. Nhưng nhà Hàn Thuyên không phải một nhóm, một đảng chính trị hoạt
động công khai hay bí mật. Có tư tưởng hay hoạt động tờ-rốt-kít do cá nhân mỗi người.
Các anh ấy về sau, đến thời kỳ trước Tổng khởi nghĩa khuynh hướng mỗi người càng
phân tán. Có người đi vâo hành động. Có người chỉ “cách mạng thường trực” ở miệng.
Có người theo học thuyết khác. Có người vào đoàn thể Việt Minh. Và nhiều người cộng
tác với Hàn Thuyên chỉ in sách. Như Đặng Thai Mai, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đổng Chi.
Hôm tôi nói lại với Đồ Phồn việc kiểm tra đã xong, Đồ Phồn cảm động, trịnh trọng bắt tay
tôi. Nhưng tôi lại đùa nhả một câu không phải lúc, tôi bảo: “Ông thì cũng là bần cố nông tờ-
rốt-kít ấy mà". Đồ Phồn chau mày, nói: “Không, không phải thế".
Trường hợp nhà thơ Trịnh Đường thì thời sự và rắc rối. Trong lý lịch, Trịnh Đường viết rõ
như tự thuật: bản thân làm bang tá, là địa chủ. 1945, vào Việt Nam Quốc dân đảng ở
Quảng Nam, phụ trách quân sự huyện Duy Xuyên. Ba năm sau, vào đảng Lao Động, hoạt
động và sáng tác văn nghệ phục vụ kháng chiến. Trong một đợt Liên khu Năm học tập bảo
vệ Đảng, những điểm trên của lý lịch được đem ra phân tích, chi bộ biểu quyết đưa ra
khỏi Đảng. Giữa khi ấy là cuộc tập kết chuyển quân ra Bắc. Sự định đoạt về biểu quyết
của chi bộ cũng được Khu uỷ đưa ra theo.
Bắt đầu đợt sinh hoạt này, Trịnh Đường không đi họp chi bộ. Có thể anh đã thấy được
mục đích của đợt nghiên cứu. Nhưng tôi thì cứ phải thu thập việc và con số. Tôi đến báo
Văn Nghệ gặp Trịnh Đường. Tôi hỏi anh:
- Ra tạp kết, chi bộ nào giới thiệu anh trở lại sinh hoạt đảng?
- Tôi được tập trung và chỉnh huấn ở Chèm.
- Anh có nhờ người giới thiệu không?
- Một đồng chí người đẫy đà, tôi quên tên.
Anh trả lời miễn cưỡng, thờ ơ. Chi bộ đã biểu quyết cho Trịnh Đường thôi sinh hoạt
Đảng. Không khai trừ mà cho thôi, như là nhạt đảng. Mà anh đã tự ý bỏ sinh hoạt từ
trước. ở khu vực văn nghệ, cũng đã kỷ luật “cho thôi sinh hoạt đảng” các trường hợp Trần
Dần, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên...
Có một đảng viên trước kia đã bị án nặng về hủ hoá. Đến cuộc học này, chắc anh ngại có
thể cái tội cũ lại bị lôi ra. Anh đã đề nghị đi vào tuyến lửa mặt trận mấy tháng. Tôi định đợi
anh ấy về, làm cho xong trường hợp của anh rồi viết báo cáo tổng kết nhân thể.
Bí thư Hà Huy Giáp nói:
- Anh không nhớ à, đợt này chỉ tập trung giải quyết vấn đề chính trị, không đụng đến các
mặt khác. Thôi, anh cứ làm tổng kết...
Nhưng rồi anh ấy đã trở về cơ quan, lúc ấy tôi cũng chưa đốc thúc xong được sơ kết ở
các chi bộ, mà báo cáo thì vẫn còn để đấy. Tôi hay đận đà, việc đã ôm đồm lại cứ nước
đến chân mới nhảy. Tôi cũng không phải gặp anh ấy. Anh không ngờ đợt hợc tập ở cơ
quan kéo dài quá, nhưng thế là anh đã thoát nạn, đợt này không truy tội hủ hoá và chắc
anh đã biết từ hôm mới về rồi.
Thế mà đến lúc định viết, lại chưa viết được. Lại chuyện bất thường. Nhận được một thư,
mở ra thì là một cái đơn viết tay trên đầu tờ giấy đề hàng chữ:
Đơn tự tố cáo của Nguyễn Hải Trừng. Việc trình bày đại ý là trong dịp học tập bảo vệ
Đảng này, tôi thành khấn bộc lộ thời kỳ Mặt trận Dân chủ 1938 ở Sài Gòn tôi đã sinh hoạt
trong một tổ chức phản động là Quốc Dân đảng. Tồ phản động này gồm ba người là: Mai
Văn Bộ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Hải Trừng. Mai Văn Bộ đương là đại sứ nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà tại Pari. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước thì ở chiến trường B phụ trách
văn hoá văn nghệ miền Nam. Việc quan trọng và ghê gớm quá. Tôi đi gặp ngay bí thư.
Anh Hà Huy Giáp bảo tôi:
- Anh đừng lo. Việc này tôi cũng có thể chứng nhận và giải quyết được. Trước hết, xem.
xét tự cách và nhân thân anh Nguyễn Hải Trừng đã. Nhưng anh cứ gửi đơn này lên tổ
chức, rồi tôi sẽ lên trình bày.
Mấy hôm, Ban tổ chức có người xuống, nói:
- Ban đã nhận được thư này.
- Chúng tôi sẽ làm thế nào?
- Lưu hồ sơ, đồng chí ạ.
- Không phải điều tra?
- Không, xếp lại được rồi.
Nguyễn Hải Trừng thường hay có ý kiến và nhận xét quái lạ. Một hôm, uống bia ở quầy
phố Tôn Đản, Nguyễn Hải Trừng bảo tôi: “Từ năm ra tập kết tới giờ tôi chưa được ai mời
một cốc bia” Tôi hỏi lại: “Anh cữ nhớ anh đã mời những ai uống bia không?”. Nguyễn Hải
Trừng lặng im.
Nguyễn Hải Trừng đi đâu cũng hay sinh rắc rối, không lường trước được. Đi thực tế ở
Quảng Ninh, anh nói dối tuổi, lấy vợ, người ta kiện. Trước khi anh trở lại Sài Gòn, tôi còn
phải đại diện cơ quan ra toà dự xử vụ tiêu hôn - ly hôn không có giá thú của anh.
Thỉnh thoảng anh có thư cho tôi kèm cả tranh ký hoạ - anh bảo chỉ có tôi là người anh còn
thư từ. Nhưng tôi vẫn biết và được đọc thư anh gửi người khác. Tôi gặp ở Vĩnh Long con
trai của anh công tác ở đoàn nhạc sở Văn hoá. Tôi bảo sao cháu không đón ba về Vĩnh
Long, dưới này tĩnh mịch lắm. Anh ấy đáp: “Ba con là nhà văn lớn thì phải ở thành phố như
Sài Gòn".
Anh viết thư kể một chuyện đau đớn mà gần đây anh mới biết. Khi anh đi tập kết, chị ấy
đã ăn ở có con với người khác. Nghĩ đến nỗi đau lại ứa nước mắt. Tôi gọi điện thoại cho
Nguyễn Hải Trừng. Một người nào cầm máy quát tôi rầm rầm... không có ai tên Trừng...
không có ai... không được gọi.. rồi bỏ máy rộp một phát. Sau hỏi biết anh đã đề máy ra
cửa cho thuê, không biết người thuê tháng hay thế nào. Và hồi này Nguyễn Hải Trừng hay
xuống ở nhà con gái anh dưới Vũng Tàu. Anh mất bệnh ở Vũng Tàu. Chắc vẫn trong day
dứt bất mãn.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XI
Một hôm, Khang nhà ở phố ngoài bảo tôi: “Bác ra làm công tác phố cho vui". Tôi nói: “Cho
nó buồn cười thì có”
- Không, bác làm thì hay đấy. Để tôi đi đề nghị"
Khang là đảng viên ở nội thành thời Tây chiếm, sinh hoạt đảng chi bộ đường phố. Nhà
anh làm nan hoa, ổ bi xe thồ, xe bò cải tiến. Tổ đảng đường phố ấy có mười đảng viên.
Khang đã giới thiệu tôi cứ như cấp uỷ nói: “Đồng chí ấy xung phong làm trưởng ban đại
biểu khối ta". Mọi ngườỉ vỗ tay nhiệt liệt. ừ, thì làm. Về sau tôi mới biết, có tôi ngẫu hứng
“ừ thì làm", còn Khang thì cố ý. Gia đình anh sản xuất danh nghĩa tổ hợp tác xã thủ công,
nhưng thực thì ở nhà làm, bán cho người đến mua, tức là một tổ ma. Chính quyền ở phố
mà bạn bè với anh, có việc thì anh dễ nhờ. Nhưng tôi cũng chưa phải giúp anh ấy việc gì.
Thế là tôi làm ban đại biểu khối 98 quãng từ 1965 tới 1972, ít lâu trước khi thành phố gộp
khối phố thành cấp phường như bây giờ. Từ khi tiếp quản, địa giới hành chính và tổ chức
chính quyền cứ cộng lại rồi lại chia. Một làng tôi, tên gốc là xã Nghĩa Đô đã bao đời.
Pháp chiếm lại Hà Nội đổi là xã Hoàn ấn - vì tuyên truyền các báo đăng tin đã tìm thấy cái
ấn vàng của vua Bảo Đại ở đấy, - Hoàn ấn đăng đối với Hoàn Kiếm. Ta về, đổi là Nghĩa
Môn (cộng với Đoài Môn) rồi Thái Đô (cộng với Yên Thái), loay hoay rồi lại trở lại Nghĩa
Đô như cũ, nhưng bây giờ là phường Nghĩa Đô. Tên các làng Nghè, Tân, Dâu, Yên Phú,
Bái ân trong xã thì thành những con số xóm l, 2, 3... Trên thành phố yên vị, còn ở dưới
nhốn nháo lộn xộn các cấp khối, tiểu khu, khu, nhưng vẫn chỉ được coi là chính qui bộ máy
ba cấp (thành phố, khu, tiểu khu). Thay đổi linh tinh đến quên hay là không, cả những
người đương làm việc cũng không biết công tác mới cũ ra sao.
Năm trước, báo Hà Nội Mới đăng một bài nói về trật tự trị an rồi kiến nghị lập đội dân
phòng các phường, phân tích đội dân phòng ở cơ sở ích lợi và cần thiết thế nào. Đó là thủ
thuật tuyên truyền giới thiệu mào đầu rồi tiến tới tổ chức. Nhưng có lẽ nhiều người công
tác ở cơ sở không nỡ để thành phố mắc lỡm đã cho biết thành phố ta có đội dân phòng
từ ngày mới tiếp quản và chưa giải tán bao giờ. Tôi cũng gửi một thư tương tự. Rồi
chẳng thấy báo đăng tiếp về đội dân phòng sắp thành lập. Chắc người ta đã xem lại các
văn bảnvà sửa chữa bằng cách lờ đi.
Trưởng ban đại biểu khối phố cũng như trưởng thôn ở xóm - một hình thức tự quản,
nhưng công việc thì lại chẳng khác chủ tịch xã. Có lịch giao ban với tiểu khu, không được
có con dấu nhưng cứ ký chứng nhận, xác minh, giới thiệu đủ thứ: đăng ký kết hôn; xin
miễn phí cho người nghèo nằm nhà thương; mua bán nhà; đưa giấy gọi nghĩa vụ quân sự;
mở lớp xoá nạn mù chữ, lớp chống tái mù; phụ trách vệ sinh, đánh bả chuột, phun thuốc
muỗi; lập danh sách rồi lĩnh và phát tem phiếu lương thực cuối năm. ôi chao, một đống
việc phải mó tay vào. Có hôm đương họp, người chạy vào báo: phố bên kia cho người
lấy phân trộm, xe thồ cứt thối khắp xóm. Thế là lại phải chạy sang. Tôi không biết mặt chi
bộ đường phố, cũng chẳng khi nào chi bộ gặp tôi, không kể chỉ một lần ấy tôi đến họp tổ
đảng với Khang. Cuối năm, các trưởng khối được lên họp trên hội trường khu, có thường
vụ, có chủ tịch thành phố. Ông Mai giải thích cả một buổi tối về ý nghĩa cái Tết, Tết độc lập
khác Tết nô lệ và ở đâu có áp bức thì ở đấy có đấu tranh vân... vân...
Các trưởng khối cắm cúi ghi sổ tay để lẩy tài liệu về truyền đạt lại. Tôi chỉ ngồi nghe. Ông
nói xa xôi quá, chẳng đụng đậy chút nào đến bà con ở phố. Có năm thì ông khác về nói,
nhưng bài vở cũng đại khái vậy. Tôi nhận công tác cũng không một mảnh giấy tờ lên
xuống làm bằng. Anh Thắng cán bộ tiểu khu chấp nhận, báo cáo lên, thế là được. Tôi cũng
không vể báo cáo xin ý kiến cơ quan hay chi bộ đảng. Cơ quan tôi cũng biết tôi làm khu
phố, qua vài mẩu chuyện tôi nói vui, tếu táo với mọi ngưòi, cũng không khi nào tôi phải
trình bày mà cơ quan cũng chẳng hỏi. Trong những người ra làm việc khối cũng có một số
là đảng viên, họ công tác khác nhưng giống tôi, vì nể, vì những lẽ gì đó
Công tác kiểu này ở cơ quan cũng là những việc tôi thường làm, lại cũng bởi một thói
quen nhìn nhận của người xung quanh. Chẳng mấy khi trong cơ quan từ hội Văn nghệ đến
Hội Nhà Văn, trong ba mươi lăm năm công tác tôi không được bầu vào chi uỷ, đảng uỷ,
làm bí thư, qua từng thời kỳ, cái tên tôi và Hoàng Trung Thông, Vũ Tú Nam quanh đi quanh
lại đậu ở những chức danh trên. Tôi đã kết nạp Đảng và đã làm kỷ luật và kỷ luật đưa ra
khỏi Đảng cả chục đảng viên - nhưng chẳng qua cũng là chân chi uỷ cơ sở, chuyên làm
đầu sai tẻ nhạt. Tôi chưa thấy Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên, Xuân Diệu
làm chi uỷ bao giờ. Không phải vì quá bận hay không làm được. âu cũng là một thói ỷ lại
triền miên ở chi bộ, loại chi bộ cơ quan hành chính chúng tôi. Chỉ có một khoá tôi không
được ở cấp uỷ cái lần khối văn nghệ nghiên cứu nghị quyết 9 của Trung ương. Một lần
gặp bí thư Đảng uỷ Nông Quốc Chấn, tôi trông thấy trên bàn Chấn có bản danh sách phân
loại nhận thức học tập nghị quyết 9. ở mục cá biệt chú thích “lừng khừng, chưa rõ", có
mấy tên người, tôi đọc ngược thấy: Nguyễn Tuân, Phạm Văn Khoa và tôi. Nhưng khoá
sau, đã nhạt nghị quyết 9, lại bầu tôi.
Tôi làm trưởng phố, ông Đại đương trưởng xuống chân phó. Đại nghề mộc ở đội sửa
chữa nhà của khu, mà bộ dạng anh ta cũng rõ bác phó mộc. Hai bản tay thô, nước da
bánh mật, lúc nào cũng như rám nắng Đằng sau xe đạp chằng dây thép buộc chiếc hòm
gụ đựng cái tràng, cái đục, mảnh giấy giáp đồ nghề, trước ghi đông thì gài cái cưa. Chiều
thứ bảy Đại đạp xe về quê trên Phùng, sáng thứ hai xuống sớnl. Đại cũng đã đứng tuổi.
Những người kiểu Đại nếu ra đây đã vài năm có thể ở làng vì sợ Tây càn, sợ du kích ta
hay là vướng thành phần thế nào, cải cách xong rồi vẫn không dám trỏ về hẳn. Những năm
ấy có nhiều địa chủ, phú nông bị đấu hay bị đấu hụt ở các nơi trốn ra thành phố.
Đại ở cái gác xép, như cái cũi mèo, mỗi bề khoảng ba sải chân, đầu thang lên xuống có tấm cửa
gỗ vuông sập xuóng đội lên, lại tựa cái bẫy chuột. Một thân cặm cụi, quanh mình chỉ có
một rổ bát, cái dây vắt quần áo và cái xe đạp treo ngược, mỗi khi đi lại dòng thừng xuống
qua lỗ cửa. Đại là loại người nào ở quê ra cũng khó biết. Bởi Đại cũng không trống mồm,
hỏi một câu thì nói một câu, chỉ có phát biểu ở cuộc họp thì lê thê không có chỗ xuống. ở
cuộc họp hai ban, cán bộ Thắng tuyên bố tôi thay Đại, anh ta cũng dửng dưng. Thì cũng
thế, anh với tôi cũng chẳng có mấu cứ nào bận đến nhau để bằng lòng hay không.
Đại bàn giao cho tôi quyển sổ bìa các tông hoa chép biên bản các cuộc họp. Anh ghi lấy,
mỗi buổi họp dài ngắn không rõ, chỉ thấy độ nửa trang líp nhíp, mấp mô. Cuộc họp sau
cùng có mấy dòng mà đã quá nửa năm. Nghĩa là muốn ghi thì ghi, ông này cầm tràng đục
thạo hơn cái bút.
Cuộc họp ban cũ ban mới dài một khiêng việc. Cũng chỉ một lúc xong bởi không ai nói lại
và chỉ xướng lên đầu việc. Các công tác xã hội, y tế, vệ sinh, thông tin tuyên truyền, thống
kê, công tác các đoàn thể, bảo hiểm xã hội, quản lý thị trường cải tạo tiểu thương, trật tự
trị an, bổ túc văn hoá, phân công các uỷ viên phụ trách 6 tổ dân phố. Tôi phấp phỏng nhất,
báo cáo nổi cộm về trị an. Một người phản động tù mười lăm năm. Hai người năm năm
Hoả Lò tội tham ô, một thanh niên tù ba năm vì hiếp dâm trẻ con. Còn đương trong nhà
giam cả. Ba thanh niên phải tập trung lao động bởi tội ăn cắp, nạn mất cắp vặt cái đân,
cái phích, bẻ khoá cửa, mất quần áo phơt, phố nào cũng xảy ra.
Một người đánh nhau đâm người phải tù tám năm, đã về rồi nhưng vẫn lừng khừng. Hàng
ngày đi nhặt đá ngoài đường về đắp lò nung đem bán vôi cho các bà hàng trầu cau trên
chợ Đồng Xuân. Đã cảnh cáo, nó vẫn làm. Lại còn cãi bướng: Đá ngoài đường chứ của
nhà nào. Tôi không làm thì ai nuôi tôi. Đợt tiểu khu cho phép thì ban bảo vệ sẽ phá cái lò
vôi của nó chỉ to bằng cái chõ.
Tôi phụ trách chung và đặc trách các công tác nghĩa vụ quân sự, ban hoà giải và xây dựng
gia đình 5 tốt. Khi đi vắng thì Đại thay.
Chỉ hôm sau đã xảy ra hai việc. Việc thì mình khờ, việc thì chưa biết nỗi sâu nông. Một cô
ở phố ngoài đem sổ hộ khẩu đến làm bằng và tờ đơn xin việc để trưởng ban ký giới thiệu.
“Cháu đã hai mươi tuồi, cháu phải tự lập". Tôi ký luôn. Bảo vệ Dương bảo tôi: Con bé ấy
làm gái điếm, tối nào cũng ra đứng ngoài hồ. Anh ký giấy cho gái điếm vào làm cơ quan
a?”
Một việc khác. Có người gọi: “Ông hoà giải ơi, ông sang ngay cho”. Chị ấy ẵm con vừa đi
vừa kể: Thằng bé nhà em đi học mà nó cứ đổ cho thằng bé đái vào nhà tắm. Em nói thì nó
đấm em. Vết đấm còn đây này. Nhưng tôi không trông thấy má chị ta hằn chỗ nào.
Vừa về tới, chị xông vào tát anh thuê chung nhà một cái, rơi vỡ kính. Anh ấy bảo tôi: “Báo
cáo anh, anh mới ra làm chưa biết, con nặc nô này cốt tát tôi trước mặt anh rồi nó sẽ đi
khoe nó tát vào mặt chính quyền đấy Trước lúc nó chạy đi gọi anh, nó cứ réo thằng cán
bộ, thằng đảng viên ra chửi, tôi có cho nó một cái đấm, một cái đá thật.
Tôi hoà giải trước mớ bòng bong. Cuộc bàn giao chẳng có gì vẫn chưa xong, mỗi lúc lại
thòi ra những việc lắt nhắt.
Không có đồ đạc, không sổ quỹ. Trên cho tiền hay vật dụng để tiêu và dùng ngay. Tiền chè
nước họp, ba tháng được một tập giấy và cái bút chấm lọ mực Cứu Long. Tài sản có bảy
thước vải đỏ làm bặng, cắt chữ dán khẩu hiệu. Trước mười thước, giải luân chuyển các
nhà, không biết nhà nào xé trộm mất ba thước, hỏi không ai nhận. Một cái khay, mười
chén uống nước, không có ấm - trước cũng có, bị vỡ. Tôi cắp khay chén về nhà, mỗi lần
họp lại bưng đến rồi mượn chủ nhà cái ấm tích và nồi đun nước. Thế mà cũng vỡ chén
cũng bỏ quên, mất luôn. Hết qui lại xin tiền trên khu, sắm bộ chén mới.
Đại báo cáo:
- Tiền chè cuộc họp thì có biên bản họp trên mới chi. Giấy bút mỗi qui phát năm đồng. Qui
này đã tiêu hết.
Tôi biết thế và chỉ biết hơn mỗi khi có việc, cứ im thì thôi, càng hỏi càng lộn xộn ra lắm
chuyện. Việc trưởng thôn thì không thể có kế hoạch công tác, toàn các đầu mẩu trên sai
bảo và dồn xuống, có vẽ vời thêm rườm rà, lắm đầu việc đấy nhưng chỉ nói xong đứng
dậy là hết cũng được. Đại kể ra thì thấy như thế, nhưng đến tôi có thể còn đại khái nhanh
hơn vì Đại phát biểu ê a hấm hứ dây cà dây muống dài dòng văn tự.
Tôi đi đường, hôm nào cũng có người gọi. Đứng vỉa hè cũng giải quyết việc. Người ta tố
cáo với tôi những ông bà ở ban cũ.
Từ khi giải phóng đã mười mấy năm qua đến tôi trưởng ban là người thứ ba. Đầu tiên là
một ông công chức lưu dung ngành bưu điện. Cả thành phố không ai đeo cà vạt, ông ấy
lúc nào cũng thắt cái cà vạt đen. Ông bảo tôi: “Ông là người hiểu biết tôi mới nói. Đứa
nào bảo tôi thắt cà vạt đen để tang nhớ chế độ cũ là nó ngu. Cà vạt đen xã giao của châu
âu là đứng đắn lịch sự nhất, có phải không ông?”. Ngườì trưởng ban thứ hai là ông Đại
rồi đến tôi. Người ta rỉ tôi.. Ông An dân phòng buôn vàng, hải quan đã đến tận nhà cảnh
cáo. Ông Dương bảo vệ thì uống rượu, đã bị bắt vì đánh tổ tôm, ít xì... Ông Đại ăn cắp
mùn cưa của cơ quan đem về bán. Ông này ở làng không phải tên ấy, ông thay tên đổi họ
chui ra đây. Có người phàn nàn: Nhà nó lý lịch có vấn đề con cái học xong không xin đâu
được việc thì đi dạy học, toàn bọn thày giáo bất mãn, thì dạy dỗ thế nào. Anh em nhà kia
Tết năm nào công an cũng đến giải lên đồn nhốt mấy ngày để phố ăn Tết được yên ổn,
khổ thế..
Đội dân phòng đi dự hội thi phòng cháy chữa cháy trên khu. Tập vài tối ở phố rồi đi thi
toàn khu trên. Cửa Đông. Việc này bên bảo vệ làm, nhưng chính quyền phải đứng ra đại
diện. Người ta bảo ông giám đốc sở công an này trước làm trưởng phòng chữa cháy nên
tập chữa cháy hăng lắm.
Bảo vệ Dương quãng trên bốn mươi tuổi, làm canh cổng thường trực một cơ quan bộ
giao thông. Nhưng hồi này thấy ở nhà đi rà rà trong phố cả ngày. Dương tự giới thiệu:
- Tôi Nam Bộ tập kết. Quê ở Phú Lâm, cạnh Sài Gòn. Anh vào Sài Gòn bao giờ chưa?
Anh đã biết Phú Lâm, cả Hanh Thông Tây? Anh ra làm việc hay lắm. Trên cử về a?
Tôi có nhiều việc báo cáo riêng với anh. Phố này thì cán bộ, công nhân viên nhiều, nhưng phức
tạp rất phức tạp, mà phức tạp nhất là cái ông Đại trưởng ban đại biểu trước anh ấy. Trên
cũng sáng suốt thật, thay anh về. Nó mua chuộc Thắng cán bộ tiểu khu, chiều thứ bảy nào
cũng cùng nhau đạp xe về quê nhậu nhẹt, lại mua biếu đôi dêp râu mới. Anh ta đương cạy
cục xin vào đảng ở cơ quan. Được rồi, để đấy tôi điều tra đầy đủ sẽ báo cáo anh. Thằng
ấy là địa chủ có tội ác chạy ra Hà Nội từ thời Tây. Có khi mà Tây nó cài lại, chưa biết
chừng.
- Ông An đội phó của anh thì thế nào?
- Đội viên thôi không phải đội phó. Anh này có người nhà làm tướng ngụy quyền Sài Gòn,
ta phải cảnh giác, đội phó thế nào được.
- Ông Đĩnh làm đội phó a?
- Không phải, không phải. Lão này dân tạm chiếm cũ, buôn nhựa lậu, thuốc lậu, bây giơ
vẫn buôn. Báo cáo anh tôi không cần phó, một tôi, một tay tôi đâu vào đấy hết. Tối mai
mời anh ra dự buổi tập phòng cháy chữa cháy.
Chỉ hôm sau đã lại nhiều người thì thào với tôi về bảo vệ Dương. Nghe thấy nhiều việc
Dương lôi thôi quá, nhưng hỏi lại thì không ai nói được đích xác. Chỉ rõ ràng có việc ngày
mới đến đây, Dương cũng đi họp chi bộ. Nhưng rồi giấy tờ không đủ thế nào, Dương
không được họp nữa. Dương cũng thôi không cầu cạnh để được họp. Tôi cũng không hỏi
Khang.
Cái ông An “có người nhà làm quan to trong Nam” đến nói với tôi rành rọt từng chữ, như
nhà chức trách đọc văn bản:
- Ông Dương có án nặng, khu giải phóng trong kia chưa xử xong, đem ra đây, thế nào mà
lại sổng tù lên làm cán bộ. Trên đương điều tra xem ai đưa nó ra làm bảơ vệ. Anh ta thì
cứ doạ anh ta là cá chìm. Ông phải xác minh lại, chứ thế này...
ở khối không có mảy may hồ sơ lý lịch người công tác, biết hỏi thế nào mà cần gì phải
hỏi. ơ miền Nam ra tập kết cũng nhiều vấn đề, nhiều trường hợp tương tự. Đúng là ở
Nam Bộ, người vướng án nặng chưa xử xong, và cả những người nếu thấy để ở lại, có
thể bên kia lợi dụng đều được đưa ra, như trường hợp Nguyễn Bính. Nhưng các tỉnh
ngoài không làm kịp được như thế, nhất là các vùng tự do ta phải trao lại, mà trong khi
các tàu Nga, tàu Ba Lan chờ người tập kết vẫn ra vào cảng. Nhiều cán bộ được bố trí ở
lại mất tinh thần đã xô xuống tàu, không kiểm soát được, trong khi những người cần đem
ra thì bỏ lại.
Các trường hợp Lam Giang, Võ Phiến là như vậy. Ngày đấy người thì làm tỉnh trưởng,
người thì viết chống cộng. Nhưng đấy là những việc to tát còn cái anh Dương ban bảo vệ
đứng đường này thì đi đến đâu, tôi dò la, hỏi han làm gì. Có thể nó là đứa giết người, tôi
cũng chỉ nghĩ để đấy. Lại toàn những bới móc, chẳng thấy người nào tử tế. Soi mói nhau,
coi ai cũng không ra gì thì ở cơ quan tôi cũng chẳng thiếu người đeo kính đen kiểu này.
Cái ông Dĩnh “buôn lậu” mách tôi:
- Vợ ông bảo vệ Dương trước làm “mai dông đờ te" nhà thổ. Tôi ở trong này, lạ gì. Thằng
tù vớ được con đĩ, lại lên mặt bà bảo vệ, thối không chịu được.
Đại, phó ban của tôi nói về Dương:
- Báo cáo bác biết ông Dương hay đi dò dẫm bịa chuyện để tống tiền người ta. Trên tiểu
khu cũng đã nắm được từ lâu.
Mấy tối nay, tất cả những người bị Dương bảo với tôi là những phản động và ông
Dương, ông Đại và các ông An, ông Dĩnh đã bị người ta tố cáo đều có mặt, đều là các
chân chủ chốt ra tập luyện, ai cũng hăm hở và cười nói trò chuyện râm ran.
Bộ dụng cụ chữa cháy khá đẹp mắt, từ thùng đến gầu, đến bơm đều sơn đỏ bóng
nhoáng. Mười cái gầu sắt, một lô thùng xách nước, oai nhất cái xe hai bánh, trên lưng
cõng một thùng tô nô chứa nước với cái bơm phun, mọi người đến vuốt tay lên và xuýt
xoa gọi là cái máy bơm, ồ cái máy bơm. Nước đổ vào lòng thùng, hai đội viên dân phòng
hùng hổ liên liến bơm, một người cầm cái vòi cao su vẩy nước chĩa lên chiếc vòng vành
xe đạp treo trên đầu cái thang. Tia nước phọt được vào giữa vòng, thế là trúng đích.
Người được nhấc vòi xả nước trúng vòng phải là đội trưởng, đội phó. Cả đám xách
nước, bơm nước chen nhau, mặt phừng phừng như ốp đồng. Cuộc tập dượt làm cho
hàng phố nô nức ra xem. Cái gầu, cái bơm, cái xe, cái vòi và có đến một trăm mét ống
cao su đều của mọi người ủng hộ. Hội thi, trên khu phát tiền chè nước và một yến gạo,
mỗi tối tập đến khuya, tổ phụ nữ đã nấu chín nồi cháo hoa, giải lao húp cháo, mỗi bát rắc
vài hạt muối.
Tưng bừng nhất cái tối lên hội thi trên Cửa Đông. Đội dân phòng đồng phục ba mươi
người áo quần xanh công nhân, giày vải tím, có người đi bất lửng đầu đội mũ sắt trên
chỏm có mào con gà của lính cứu hoả Pháp ngày trước, cả mũ sắt nhựa quân đội khối
Varsovie nhẹ nhàng bóng lộn, tròn xoe. Trong đoàn có bốn nữ các cô tổ đan len, cô công
nhân nhà máy kẹo Hải Hà, cũng mũ sắt quần áo sơ mi xanh hệt nam giới. Vừa đi mượn
được, mọi khi tập không thấy diện một loạt khéo thế.
Đội viên sắp hàng ba, hai người đi đầu cầm cán băng vải đỏ đính dòng chữ: Đội dân
phòng khối 98.
Trong hàng, chốc lại phát ra tiếng hô một hai, một hai, chỉnh đốn bước đi đều phăm phắp.
Tôi và Dương đi đầu hàng, cánh tay đeo băng, ra lối các người phụ trách. Cái còi kền
trắng quàng dây đeo trước ngực, nhưng chưa thấy bảo vệ Dương thổi tiếng nào. Nhiều
người tận dưới phố tôi, đông nhất là trẻ con đuổi theo nhìn dân phòng đi đều bước, người
lớn thì tò mò lên xem thi thố ra sao, kết quả mấy hôm thức đổ mồ hôi tập. Mười bốn đội về
hội thi. Đội khối tôi đã được tập trung vào chỗ qui định có tờ giấy treo đánh số. Cả đoạn
đầu đường công an ngăn xe cộ qua lại bằng một hàng sáu chiếc xe đạp dựa ngang.
Đèn điện mắc sáng chói cả vào vòm lá sấu âm u. Các phố xung quanh đổ ra đông như hội.
Tôi nhận ra cái gác lấp ló lá sấu đầu nhà kia, ngày trước Huyền Kiêu thuê ở đấy, hồi đi
dạy lớp tiểu học trường Lui Patstơ. Đinh Hùng, Nguyệt Hồ, chúng tôi đến chơi hay ngồi
thành cửa sổ, nhìn xuống đường. Hiệu tạp hoá Sinômura của Nhật nhà hai tầng ở gác ngã
tư. Đằng kia, phố Thiên Tân, ngày xưa, ngơời ấy ở phố đấy. Chặp tối, đứng đợi chỗ ngã
ba Cửa Đông này. Rồi hai đứa lên vườn hoa Canh Nông.
Bây giờ tôi đi dẫn đội dân phòng vào. Một thoáng xa, chẳng bận bao giờ đến nhau, nhưng
cùng một chỗ này, kể cũng lạ một thoáng ngậm ngùi. Đội phố tôi bị xếp gần cuối. Chờ lâu,
càng hồi hộp. Đến lúc giật mình loa gọi... alô... a lô... 98, bảo vệ Dương nhảy phắt ra, thổi
cái còi kền tuýt tuýt, tiếng kêu anh ánh.
Cả đội răm rắp đẩy cái xe máy bơm. Rồi xách nước, đổ nước, thay nhau tuần tự bơm,
đội trưởng đội phó lần lượt cầm vòi vảy nước lên cái vành xe đạp bọc giấy thiếc lấp lánh
treo giữa bậc thang.
Năm lần vảy vòi, lần thứ tư cố nhất cũng không lên được cái vành sắt. Cứ gần đụng tới thì
ngọn nước lại cong xuống. Thế là thua, thua đứt đuôi rồi. Tôi như ù hai tai. Các tối tập ở
nhà lần nào cũng rọi nước vọt tung toé, cả các chị cũng vảy trúng vòng. Sao lên đây lại
đốn mả thế, mà anh em đã cố gắng hết sức.
Ngoài ngã tư, các đội được giải, chốc lại nghe gọi tên, người vỗ tay hoan hô rầm rầm.
Không biết phần thưởng thế nào, người tuôn lên chỗ loa réo. Chúng tôi chẳng còn ngõi
được đến nơi vinh quang ấy, thua tiu nghỉu, ngoảy ra ngay.
Tôi nhớ việc cúa tôi. Tôi trèo lên lưng cái thùng tô nô, bắc hai bàn tay làm loa. Cảm như
võ sĩ Bọ Ngựa, vừa ngố vừa oai, tôi hét: .
- Các đồng chí khối 98 trật tự... Cả đội đi đều, bước!
Đội dân phòng tiếp theo... một hai... một hai... Nhưng nghe như đuối hơi. Tôi còn ngấm
dư vị tiếng quát ra lệnh trước hàng quân. Nhưng đến lúc nhìn bánh sắt cộc cộc, cái xe máy
bơm đầu nghếch lên như con voi trận, bây giờ vẫn nó mà thấy như cái xe bò tơi tả không
ai buồn đẩy.
Về tới trụ sở, xe nước và vòi bơm quăng đấy, nhiều người vào húp vội bát cháo rồi đi
ngay, mà hôm ấy cháo bồi dưỡng có thịt lợn băm. Uất quá, bực quá. Phó ban Đại nói nhỏ
với tôi:
- Cái anh Dương nó xỏ lá. Bác mới ra làm việc mà nó cũng không kiềng, đểu thật.
- Thế nào?
- Những hôm tập ở nhà nó treo vòng thấp, anh em cứ cữ ấy vắt vòi phun lên. Đến đây thì
vòng chuẩn cao hơn ba gang tay. Thế là mất đà, mặt mo cả lũ.
- Sao anh biết?
- Thợ mộc chúng tôi đo bằng mắt, con mắt là cái thước, bác ạ.
- Dương cũng vào phun nước cơ mà?
- ấy thế mới thâm!
Đại bảo tôi phải làm cho ra nhẽ. Tôi nghĩ “cho ra nhẽ” cũng chẳng đi đến đâu, đằng nào
cũng thua rồi.
Chẳng bao lâu lại sắp Tết. Công tác ở phố đã được ngót một năm và gia đình tôi về ở
nhà này cũng gần mười năm rồi.
Các con tôi đã cọ gạch hoa, mua vôi vàng quét tường trước cửa- như phong tục ông
ngoại tôi ở quê ngày trước, sắp Tết lại quét vôi trắng vẽ vòng tròn cánh cung lên mặt
tường. Tôi xuống tận chợ Mơ tìm mua cái khánh, con cá đất nung về treo cây nêu, mà
không đâu có.
Nhà tôi cách một quãng phố ngắn ra bờ hồ Thiền Cuông. Tôi sinh ở nhà ông bà ngoại
xóm Giữa làng Nghè xã Nghĩa Đô. Cái nhà tôi ở thuở bé, mẹ tôi và các dì đã bán từ lâu.
Trở lại Hà Nội, tôi thuê nhà ngoài phố, đầu tiên ở trên gác gần chợ Hôm. Đan Hà, Đan
Thanh và các con chúng tôi mới bốn năm tuổi nghịch ngợm nhảy chơi sàn nhà gỗ, bà chủ
phàn nàn quá.
Tôi đi qua cuối phố gần chợ Đuổi, thấy một nhà treo mảnh các tông đề “nhà cho thuê” tôi
dọn xuống. ít lâu, Nguyễn Văn Tước - sinh viên mỹ học tôi quen ở Matxcơva tốt nghiệp về
đi tìm nhà ở mách tôi trên phố có nhà muốn bán. Trong ngõ hẻm, căn nhà một tầng hơn
sáu mươi thước vuông. Chủ nhà, một ông công chức về hưu đã luống tuổi, cũng mới ở
nhà này mấy năm muốn ra ở ngoại ô.
Tôi đã mua nhà bằng tiền kịch bản Vợ chồng A Phủ, vừa làm phim lại vừa in sách - cả
thảy trên hai nghìn đồng. Văn tự nhà, hai bên thoả thuận viết hạ xuống một nghìn rưỡi để
ttánh thuế - ông làm mối nhà xui thế. Trong ngõ có hơn mười cái nhà liền một bên, trước
mặt là tường một cơ quan. Có mấy nhà tư, lẫn nhà thuê của thành phố. Ngõ cụt, không
phải người ở trong ấy thì không ai đi vào làm gì. Bởi vậy, đi tìm phố, có khi hỏi công an
trật tự cũng không biết phố này. Trên đầu tường nhà tôi - miếng lá vả trát giữa, hai cột trụ
đắp nổi chữ số 1923 năm xây, mái lợp ngói Satic của nhà máy gạch Tây phố Quan
Thánh. Cái năm chữa làm gác xép, dỡ những cột rầm trong lòng tường ra đầu cột bọc
giấy trang kim chống mọt.
Các hoạ sĩ Huỳnh Văn Gấm, Trần Văn Lắm trong Nam ra học trường Mỹ thuật Đông
Dương đều đã trọ học ngõ này. Các anh còn nhớ trong nhà có cái giếng.
Nhà tôi ở, trần cót quét vôi còn hai cái móc sắt để mắc quạt kéo. ở sân bếp, một cái
giếng mạch ngang, nước sủi váng vàng ố, nước để giặt rũ, không làm nước tắm nước ăn
được.
Nhà như cái ống thế mà người ở phố này từ thời Tây nói nhà tôi có đến ba bốn chủ ở.
Chồng đống gồng gánh bán quà sáng, quà tối, góc nhà quây lại nuôi cả lợn ở chung với
người. Hôm nay đầu ngõ vẫn còn một vòi nước công cộng trước ở vỉa hè ngoài đường
được chuyển vào ngõ, tuổi cái vòi nước ấy phải ngót thế kỷ.
Những năm Mỹ ném bom thành phố, các con đi sơ tán, vợ tôi lắm đêm trực chiến cơ
quan, cái giếng làm hầm trú ẩn cho tôi. Nhà toán học Lê Văn Thiêm kể chuyện khi Berlin
bị quân Đồng Minh bao vây tấn công, nã đại bác và ném bom cả tháng liền. Ngày đêm,
Thiêm và các bạn học đã chui xuống ăn ngủ trong lòng giếng cạn giữa thành phố.
Chúng tôi dọn đến, đồ đạc chỉ một xe xích lô, hàng phố không ai biết. Mỗi người đến một
túi, một ba lô còn gọn hơn. Khi ở hẳn, hai bên láng giềng mới biết nhà có chủ mới. Vợ
chồng tải bằng xe đạp hay xách bộ, một cái giường nan vầu, một tủ đứng hai ngăn, một
bàn gỗ lim dài một thước, mấy túi xoong nồi, quần áo. Những đồ đạc ấy về sắm ở chợ
Giời. Đến bây giờ vẫn còn, chỉ vứt đi cái giưòng vầu gãy nan. Chiếc bàn gỗ lim cứng như
sắt, mối xông cúng không nhằn được, để làm bàn thờ.
Dẫu sao, nhà ở mới cũng thoáng hơn cái buồng bốn thước vuông chợ Đuổi. Nhưng hai
con gái tôi thì sợ. Những đứa trẻ nhìn cái nhà bằng con mắt hãi hùng như ngày trước tôi ở
túp nhà cô hồn như nhà hoang của ông bà ngoại, mà tôi đã nhớ lại trong những trang mở
đầu Cỏ dại. Khi nhà vắng, chỉ có hai chị em, chỗ nào cũng thấy ma hiện ra. Không dám ra
gần thành giếng, ma dìm chết. Cái cửa nách nhà rêu trơn u ám quá, trong kia, trên tường
lù lù dây móng rồng xanh eo éo như con ma xoã tóc. Đã tan học, bố mẹ đi làm chưa về, ở
trường về không đứa nào dám vào nhà, chị em ra đầu ngõ ngồi ngóng.
Có lẽ đến năm tôi làm công tác khu phố, các tổ trưởng tổ phó họp ngay cạnh bàn viết của
tôi kín ra đến cửa và rồi có đông các em hơn, mà bấy giờ cũng nhớn nhao rồi, các con tôi
mới thấy nhà đỡ u ám.
Người ta nói ngày trước lòng hồ ăn vào tận đầu phố, có cầu ao bắc ra, nước ăn nước
rửa đều ở hồ.
Bây giờ hồ lùi ra bên kia đường, nhưng mỗi khi mưa to lại như hồ ngày trước, nước dềnh
vào tận các phố, các ngõ, có khi ngập liền mấy ngày. Trẻ con lội chơi, cả lũ kêu loạn xạ,
gặp con rắn nước ở đâu ngoi ra.
Dáng dấp các phố vùng này cũng là kiến trúc phố cũ thời Pháp mà qui hoạch và bảo tàng
thành phố chưa để ý. Không đặt tên phố (rue) mà Tây gọi là khu vườn phố (cité
immobilière), không biết ai đã dịch ra là xóm, giữa phường phố có một cái xóm. Các ngõ
ngoắt ngoéo, có đến năm sáu lối thông ra các phố bên. Nhà xây đá tảng chống ngập
nước một tầng lửng, cột đá cột gạch đỡ sàn gỗ. Xung quanh mỗi nhà, vườn nho nhỏ, cây
nhãn, cây cau. ở đây trước xưa khi chỉ có người Pháp ở, thường là công chức các sở
Liêm phóng Bắc kỳ, công ty hoả xa Vân Nam, những công sở gần đấy.
Nhà thơ Ngô Linh Ngọc kể ngày trước trong phố có nhà của Jean Marquet mà anh ấy còn
nhớ cả số nhà, ông ta làm sở Đoan và là văn sĩ thuộc địa đã viết quyển Năm bông hoa
(Bắc, Trung, Nam kỳ, Ai lao, Cao Miên), có bài trích sách tập đọc tiếng Pháp và những
tiểu thuyết phong tục ngô nghê của mắt ông Tây xem người bản xứ. Học trò lớp ba lớp tư
chúng tôi phải học thuộc lòng, đọc ra rả như cuốc kêu, tận bây giờ còn nhớ: Il fait froid! Il
fait froid! De longues rafales parcourent le Ton Kin. Les feuilles du banian rougeoient le
sol... Trời lạnh rồi! Trời lạnh rồi! Từng cơn gió bấc đã thổi qua xứ Bắc Kỳ. Những lá đa
rụng đỏ mặt đất... Chắc lá bàng, Tây gọi là lá đa.
Những tên xóm Hạ Hồi, phốNguyễn Du, phố Nguyễn Gia Thiều đều là tên mà ông thị
trưởng thời Nhật bác sĩ Trần Văn Lai đã đặt. Năm 1945, phố Nguyễn Gia Thiều, nhưng
được gọi chức và tên hiệu là Ôn Như Hầu. Cái nhà ở gần đầu phố, công an đã ập vào bắt
hết bọn Quốc dân đảng ở đấy. Tôi là phóng viên báo Cứu Quốc, đã vào nhà này. Hồi ấy,
một số toà nhà tương tự, Quốc dân đảng đóng rải rác các phố. ở đây, ở hàng Bún, ở
đường Quan Thánh, trụ sở Trung ương Quốc dân đảng đóng ở trường Yên Thành, lại
chiếm cả khu các phố trong bán đảo Ngũ Xã hồ Trúc Bạch.
Còn nhiều nhà ở kín, khó biết,
mà cái nhà hai tầng ở Ôn Như Hầu này cũng là cơ quan bí mật của Quốc dân đảng.
Nhà có một vườn nhỏ đằng sau, liền hai bên hàng xóm. Những người bị giết trong nhà khi
đào xác lên còn thấy quang gánh, nón lá. Người sang trọng bị tống tiền, cả người bán
phở, cháo gà, bánh giày bánh giò, thức ăn đêm, bọn canh gác gọi vào, ăn rồi quịt tiền,
đánh chết người, vùi xác trong vườn. Nhà ở láng giềng đã phát giác ra tiếng gào khóc
đêm khuya. Đấy là mấy chục năm trước, hôm nay đi qua chỉ thấy một phố thoáng đãng,
yên tĩnh dưới hàng cây phượng lưa thưa. Nhưng mà chỉ cũng là bề ngoài của những sinh
hoạt đời thường.
Bỗng có người gọi: “Ông hoà giải ơi! ông ra mà can, không thì vợ chồng nhà nó giết nhau
kia kìa”. Tôi biết rồi, lão quét vôi thuê đi làm về, say rượn, doạ giết vợ. Trông lão gày kheo
khư, mà bà lão thì to béo như con trâu trương. Tôi quát: “Im đi! Trật tự! ". Bà lão mếu
máo: “Xin ông bắt nó lên đồn công an đêm nay, không có thì nó giết em mất". Lão đã nằm
quay mặt vào tường ngáy khò khò. Tôi lững thững về.
Đầu phố đằng này có toà nhà ba tầng, cửa sổ trổ ra như những lỗ tổ ong. Mỗi chủ ở một
buồng, buồng trong buồng ngoài, túi bụi, nhếch nhác. Dưới sân, người ngồi giặt, người
giã cua, người chẻ củi, trẻ con nhảy nhót, những cụ già móm mém nhìn ra đường. Chỉ
thiếu cảnh sưởi nắng lần tay áo nhá trứng rận, không thì chẳng khác sân làng quê một
ngày nắng hanh. Tôi đi quan sát qua các nhà trong khối phố. Đại bảo tôi nhà này của một
ông trước làm quan, cự phú, người ở nhờ không phải thuê, đều là các con cháu được gọi
đến cho ở, thành phố không lấy nhà được.
Tôi biết thế. Cô Đàng, công an, bảo:
- Lũ trẻ con phố này hay trêu ghẹo ông cụ ở chỗ nhà ba tầng. Bác doạ chúng nó phải lễ
phép với người già. Bác bảo thì chúng nó nghe hơn tôi nói.
Rồi cô Đàng kể:
- Cụ ấy ngồi đái ngoài vỉa hè, chúng nó hét đả đảo. Tôi bảo không được làm thế, chúng
nó cãi: ông này đái đường làm mất vệ sinh, cô công an không bắt thì để chúng cháu bắt.
Tôi trông thấy trong nhà thường đi ra một ông lão người nhỏ thó, mặt và râu nhọt nhạt, áo
sơ mi trong áo vét tử tế nhưng đã cũ. Cụ ra vỉa hè, ngồi xuống vén ống quần. Mấy đứa trẻ
như đã rình đằng kia, vừa chạy lại vừa la: “Chúng mày ơi! Lại xem cụ đái... cụ sắp đái! ”.
Nghe chúng nó gọi nhau thế, cụ lại đứng lên, thong thả đi vào trong. Nhưng quả là có hôm
khác tôi trông thấy cụ ngồi xuống, vạch quần ra đái tự nhiên.
Người già cũng như trẻ con, đứng đâu đái chẳng được.
Ta nhìn nhiều cũng đã quen. Chỉ còn ngượng, nếu khi nào đưa khách nước ngoài từ sân
bay vào thành phố, thỉnh thoảng trông thấy các chị đi trên đê, đương gồng gánh tong tả, lại
xắn quần, đứng giạng háng ra. Cô Đàng hỏi:
- Cụ ấy trước là cán bộ cao cấp đấy, bác đã bảo các cháu phải lễ phép chưa?
Cô biết cụ là cán bộ gì...
- Trong sổ hộ khẩu tên cụ là Vi Văn Định.
- à thế thì cụ là quan đế quốc, không phải cao cấp ta.
Tôi nghe tiếng Vi Văn Định tử thuở nhỏ, khi làm tổng đốc Hà Đông. Bây giờ mới biết mặt
cụ Vi Văn Định, mà tôi tưởng phải to con, dữ tợn, hách dịch, bởi cứ nhớ nghe chuyện
người làng tôi kể Vi Văn Định ghét bèo Nhật, đến làng nào trông thấy bèo Nhật dưới ao,
quan bắt nọc lý trưởng, phó lý phạt đánh roi giữa sân đình. Sau này, đi công tác lên Lạng
Sơn tôi đã vào Bản Châu huyện Lộc Bình quê ông ấy. Dinh cơ của Vi Văn Định khang
trang, như lâu đài, như toà thành, đoàn chuyên gia lão nông tri điền của tỉnh Quảng Tây
Trung Quốc sang giúp Lạng Sơn trồng ngô giống mới đã ở cả tháng trong trang trại ấy.
Nghe nói từ năm xuống xuôi làm quan rồi lên chức tổng đốc tỉnh Thái Bình thì ông không
về quê nữa. Nguyễn Công Hoan kể: ở thị xã Thái Bình, buổi trưa ai lê guốc ngoài đường
mà trong dinh nghe tiếng, tổng đốc Vi Văn Định cho lính bắt vào đánh..
Ra cái cụ gầy còm lù khù ấy là Vi Văn Định. Cụ lại ra vỉa hè, lừ đừ thong thả đi.
- Chào cụ Vi.
Ông cụ ngước mặt. Tôi nói:
- Tôi đã đuổi đám trẻ con hỗn với cụ, cụ cứ đái tự nhiên.
Cụ Vi nói khe khẽ:
- Ông nhặt cho tôi hòn đá, tôi ném vỡ đầu có thằng. Ông trông tay tôi cứng gân thế này.
Cụ giơ cánh tay, cổ tay cụ nổi gân xanh như que đóm, không cứng gân như cụ tưởng
tượng. Cụ lại nói:
- ăn thịt mỡ, ăn mỡ cả lá, ăn mỡ thì khoẻ cái ấy lắm, ông ạ.
Tôi quen ông nhiếp ảnh Lê Đình Chữ ở phố trên, người cũng trạc tuồi các cụ Vi, cụ Võ An
Ninh. Các cụ già đĩ mồm hay khoe khỏe cái ấy. Cụ Chữ chiều chiều đi ăn cơm bụi rồi
uống cà phê đen. Cụ Chữ, cụ Võ cũng khuyên tôi ăn nhiều mỡ, ăn mỡ lá... Các lão kễnh
tám chín mươi lẫn lộn hoài cổ với hoang tưởng.
Tôi không bắt chuyện ăn nhiều mỡ của cụ Vi, tôi hỏi:
- Cụ có hay về chơi Lạng Sơn không?
Cụ Vi nhìn tôi, lờ đờ mắt và lặng im. Cụ biết tôi biết cụ hay là cụ nhãng tính, nặng tai, hay là
cụ vờ nhớ nhớ quên quên không muốn nhắc chuyện cũ.
Chữ ký và chứng nhận, chứng nhận và chữ ký, tôi bận nhiều nhất công chuyện này.
Dường như ngày nào cũng có, tờ giấy đơn giản mà phức tạp.
Bà ải kể lể:
- Tôi với bà Lữ lên phố Lãn ông. Chúng tôi đương ăn cái ngô luộc thì cán bộ phòng
thương nghiệp ra khám túi. Chúng nó lấy của tôi 9 đồng bạc, nửa cân phiếu đường một
cân phiếu thịt, 20 cân phiếu bột mì. Oan ức tôi quá. Bà Lữ ấy mà, về nằm rên suốt đêm,
gần sáng thì chết.
- Tại sao bà ấy chết?
- Uất quá mà chết, chết thiệt thân, có bằng chứng giết người đâu mà kiện, có mà kiện củ
khoai.
- Thế bà đến kêu việc gì?
- Xin ông cái giấy chứng nhận tôi không buôn bán lề đường, tôi đã học tập, tôi không vi
phạm quản lý thị trường. Trả cho tôi các thứ...
Tôi nghĩ vài cái lặt vặt, bắt cũng chẳng ra thế nào.
Tôi nói:
- Bà vẫn buôn bán lề đường nên mới bị thu đấy. Người ta thuộc mặt bà rồi. Tôi chứng
nhân cho bà lần này, lần này nữa thôi.
Ông kia mới chuyển đến, xin chứng nhận cho con được học đúng tuyến. Một ông bỏ vùng
kinh tế mới trên rừng trở về, chưa nhập lại được hộ khẩu, không có sổ gạo.
Tôi nói:
- Ông thì việc con đi học, ông thì phải có gạo ăn, tôi cho giấy một lần rồi phải đi lo ngay hộ
khẩu đấy.
Một chị dược sĩ đến.
- Người nhà em bên Pháp gửi quà về. Xin ông chứng nhận cho em mới nhận quà lần đầu.
- Quà gì?
- Một cái xe ca mi ông, một ít thuốc.
Tôi trả lời:
- Tôi chứng nhận cho chị có hộ khẩu ở phố này.
- Em chưa nhận quà bao giờ.
- Tôi không biết, tôi không chứng nhận được.
Ngày mai, ngày kia lại những việc tương tự.
ở rải rác trong phố có mấy nhà có tên gọi là hộ đặc biệt. Hộ đặc biệt khác các nhà khác.
Nhà biệt thự, cửa sổ trên gác không mấy khi mở. Có ô tô đưa đón, cửa xe treo rèm vải
hoa, không trông thấy người ngồi trong. Cổng trấn song sắt, một tấm tôn che kín, khoá và
xích xủng xoảng, bên trên có nút bấm chuông điện.
Các hộ này không liên quan đến khối phố. Không có tên hộ khẩu ở sổ cái của ban bảo vệ.
Hàng năm, không phải bận lên danh sách tem phiếu. Chỉ mỗi dịp bầu cử thành phố hay
Quốc hội, chúng tôi phát thẻ cử tri cho các hộ ấy và vị chủ hộ được giấy mời ra dự khai
mạc, ngồi ghế danh dự trên hàng đầu và được bỏ phiếu trước. Đã mấy dịp thế, nhưng tôi
không biết, cũng chẳng làm quen với ai, chỉ đoán cụ nội chính, cụ thương nghiệp, cụ phó
thủ tướng...
Thế mà cũng vẫn có việc phải làm với các hộ này.
Việc thứ nhất là cái chuông bấm. Trẻ con hay với tay lên bám chơi một cái rồi chạy. Tôi
nhận được công văn cơ quan phê bình để “nhân dân cãi nhau mất đoàn kết” và “không
giáo dục thiếu nhi để trẻ nghịch bấm chuông cổng mất trật tự.
Đầu ngõ kia, một số nhà có nhiều hộ ở chân tường mà bên trong là một hộ đặc biệt ở cơ
quan. Cái số nhà lắm hộ này chật chội kinh khủng, suốt ngày đụng chạm lủng củng to tiếng
như có bệnh cãi nhau. Nhưng không khi nào xô xát dao gậy., họ loạn xạ chán rồi im dần.
Ban hoà giải đã đến mấy lần, chưa có cách nào dẹp được. Cơ quan nọ phê bình, tôi
không trả lời.
Lần sau, hàng xóm cách tường cãi nhau, cơ quan cho cán bộ bảo vệ sang tận nơi. Nhưng
các người ta chỉ ngồi một chỗ ném lời qua tiếng lại, tức quá thì văng xa xả, chưa phạm trị
an. Không đứng lên nắm tóc, đấm đá, cáo cấu, giằng xé. Đồng chí bảo vệ không biết can
thế nào, nói nhỏ nhẹ hay nói xẵng, chẳng ai chịu im mồm. Mấy lần sau cũng chẳng doạ
nổi, thôi không thấy sang nữa. Vị chủ hộ đặc biệt bên kia tường đành chịu đôi khi điếc tai,
hay là đã dọn đi, tôi không biết.
Việc thứ là cái chuông bấm thì tôi đánh máy trả lời như công văn, cũng đánh số, đề ngày
và ký tên cẩn thận. “Chúng tôi đã cấm thiếu nhi không được nghịch bấm chuông. Nhưng
về mặt chủ động, chúng tôi không có điều kiện canh cổng nhà đồng chí 24/24.
Chúng tôi đề nghị đồng chí gắn cái chuông bấm lên cao quá đầu người thì trẻ con sẽ
không nghịch được.
Kính chào quyết thắng".
Mấy hôm đi qua cổng, để ý thấy trên cổng sắt, chỗ bấm chuông đã gắn nhích lên lại đặt
hõm vào trong tường, trẻ con kiễng chân cũng không tới được. Chắc các nhà có chuông
bấm đã rỉ tai nhau, cổng nào cũng lắp chỗ bấm cao hơn. Các chú nhóc đành chịu. Không
thấy nhà nào có lời cám ơn khối phố có sáng kiến. Tôi đương phấn khởi việc ấy. Thì tổ
thanh niên báo cáo con gái vị thứ trưởng kia không họp thanh niên, mời ra giúp thiếu nhi
phố vui hè cũng không nhận, còn trả lời kênh kiệu. Chả là các cô các cậu ở các hộ đặc
biệt cũng đi học tiểu học các trường quanh đấy. Chặp tối, tôi cùng nhóm thanh niên đến
nhà vị thứ trưởng. Tôi bảo một hai cậu thủ cái gậy, phòng nhà này có chó béc giê.
Dương bảo tôi:
- Không nên cho con thằng tù vào nhà hộ đặc biệt, anh ạ.
ý Dương muốn nói Xuân, con ông Phong, ông Phong là công chức. Ông bị đi tù. Người ta
nói lờ mờ ông hai mang, ông đã làm cho Tây thời bị chiếm. Tôi ra làm việc phố, ông
Phong vào tù đã lâu. Đến năm ông được tha, tôi cũng thôi trưởng ban rồi. Ông đến chơi,
có ý cảm ơn tôi đã đối tốt với con cái ông. Tôi hỏi: “Ông phải vắng nhà mấy năm?” -
"Thưa cán bộ, mười năm rưỡi". Ông vẫn chưa quên cách thức thưa gửi trong trại tù.
Tôi trả lời Dương:
- Nó có phải tù như bố nó đâu, nó là thanh niên đường phố.
- Anh làm thế mạo hiểm quá.
Tôi cười.
- Mọi việc Xuân đều đầu tầu. Chôn chuột chết bả, đào sộng Tô Lịch, dạy thiếu nhi sáng bè
tập thể dục, thiếu nó thì rầy rà.
Dương nói theo ý nghĩ:
- Còn bố nó, còn lý lịch nhà nó. Anh mạo hiểm quá. Anh có phải là Nhân Văn không?
Tôi ngạc nhiên nhìn lại Dương. Dương thì chẳng biết Nhân Văn là thế nào, nhưng có thể
có người đã bảo với anh và Dương đã hiểu Nhân Văn là có tội nặng, cán bộ nhà văn nhà
báo mà lại phải vào hầm mỏ, đi nông trường, phải về công tác khu phố thì phải là có vấn
đề. Buổi họp phố chỉ có các bà nội trợ, trẻ con hay cụ già, nhưng ở nhà thì chẳng thiếu
người hiểu biết, cán bộ các ngành, người đi họp về kể lại và Dương.
Chắc đã nghe những lời đồn đoán về tôi. Với Dương, cho một đòn thế này thì hết thắc
mắc, và lại phấn khởi là cái chắc, tôi nói:
- Tôi làm việc cơ quan, tháng lĩnh lương, hay được đi nước ngoài, nhà treo bằng Huân
Chương Kháng Chiến Hạng Nhất, anh trông thấy đấy, anh bảo tôi Nhân Văn ở chỗ nào?
Dương phân trần:
- Có đứa nói láo thế, tôi báo cáo lại với anh.
Xuống đến mọi người thì mọi chuyện đều cứ mơ hồ và cụ thể lẫn lộn lạc ra nhiều nghĩa
khác nhau theo mỗi người. Một lần tôi tiếp ở cơ quan một người cháu Nguyễn Bính. Chị
ấy là đối tượng kết nạp đảng của chi bộ. Có người phát hiện nhà thơ Nguyễn Bính là
Nhân Văn. Hoang mang chẳng biết thế nào, cô đến hỏi cơ quan chúng tôi. Tôi đã trả lời:
“Báo Trăm Hoa của chú Nguyễn Bính cháu không phải là báo Nhân Văn". Rồi tôi phải viết
xác nhận, cô mới chịu ra về.
No comments:
Post a Comment