Saturday, February 18, 2017

TÔ HOÀI * CHIỀU CHIỀU III * XII, XIII, XIV, XV, XVI, XVII



Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều



Chương XII


Bộ máy tổ chức ta dựng lên thì khoa học, trong ý nghĩ và trên giấy, nhiều cấp và cán bộ lại
thu thập tài liệu và dư luận bằng nghe ngóng. Chu Văn, trưởng ty văn hoá tỉnh Nam Định
được dự kiến đề cử tỉnh uỷ khoá mới. Đấy lên tin đồn anh ấy là Nhân Văn, thế là bị nhấc
ra. Chu Văn viết thư kể nỗi oan và đề nghị can thiệp- tôi đã được phân công xuống gặp bí
thư tỉnh, nhưng rồi cũng không lại được lời đồn. Can thiệp với dư luận “có tin bảo, có
người nói” thì như đánh nhau với bóng tối, cứ phòng sẵn cho chắc đã. Và cái việc Chu
Văn bị dính đến những lôi thôi mập mờ này, đã làm cho Chu Văn hóa ra cứng rắn khác
thường. Những ai đã công tác cùng Nguyễn Bính ở ty văn hoá Nam Định có thể biết Chu
Văn đã quần Nguyễn đến điều thế nào. Nguyễn Bính về Nam Định rồi quyết định ở hẳn
dưới ấy chỉ vì Nguyễn Bính đã sắp nên vợ nên chồng với cô hàng cà phê thành Nam.
Nguyễn Bính đã bỏ không ở nhà xuất bản Hội Nhà Văn với tôi để xin ra làm báo Trăm
Hoa. Khi Trăm Hoa hết tiền phải đình bản, Nguyễn Bính không còn ở biên chế nào thì Hội
Nhà Văn đã giới thiệu Nguyễn Bính về Nam Định.


Nhưng có giai thoại rằng Nguyễn Bính bị đầy phải xuống xin việc dưới quê, Nguyễn Bính
chỉ được biên tập ca dao, hò vè. Nhưng mấy người biết được thời kỳ ở Nam Định,
Nguyễn Bính đã in nhiều sách trên Nhà xuất bản Phổ Thông ở Hà Nội. Trường ca Tiếng
trống đêm xuân, lại vở chèo Cô Son đương công diễn.
Mỗi lần lên lấy nhuận bút kha khá, tôi được Nguyễn Bính và Trúc Đường rủ đi đánh chén.
Có tiền, Bính đã đưa vợ con về Thiện Vịnh tậu đất, làm căn nhà có ao cấy cần, có giàn
mồng tơi, có vườn cải hoa vàng như trong thơ. Nhưng trong thơ và ngoài đời không như
nhau, chẳng bao lâu thì bán nhà, lại gồng gánh ra tỉnh. Cái năm Nguyễn Bính mất, tôi đi với
Phạm Lê Văn, Bùi Hạnh Cẩn về ăn giỗ trăm ngày còn được nghỉ trưa nhờ ông chủ sau
cái gian nhà tranh tre của Nguyễn Bính đã tàn tạ như cái lều vịt.. Rồi ở phố cũng không
yên, tam tứ phen chửi nhau đánh nhau, vợ chồng xé đôi chiếc chăn đắp. Cái tờ bướm của
ty văn hoá có bài vè diễu, tiếng đồn là của Chu Văn viết đấy.
ấy bị thành kiến như Chu Văn rồi người đâm ra lên gân thì cũng là lẽ thường của miếng võ
giữ mình.
Tôi bảo Dương:
- Các cháu chơi hè có liên quan đến trật tự, anh vào đây với tôi.
Nhưng Dương không vào. Không phải vì ngại tôi cứ đi vào cùng Xuân là con người tù
phản động. Mà chắc Dương ngại nếu có lôi thôi thì Dương mất chỗ đi lại Tôi được biết
các nhà hộ đặc biệt Dương thường ra vào. Nhưng lại hay giữ ý. Có nhà mời tôi đến ăn
giỗ. Tôi bảo Dương đi thay. Dương nói: anh cử tôi đấy nhé, không tự ý tôi, chẳng có
chúng nó lại quạc mồm bảo tôi chỗ nào có ăn thì la liếm.
Chị chủ nhà ra mở cổng, mời chúng tôi vào phòng khách. Thứ trưởng và cả nhà ở trên
gác, thấy ánh đèn sáng hắt ra hiên.
Tôi trình bày tôi đến đề nghị cháu ra sinh hoạt thanh niên giúp thiếu nhi khối phố vui chơi
trong dịp hè. Chị chủ nhà vui vẻ:
- Vâng, tôi sẽ bảo các cháu. Công tác hè thì của thanh niên rồi.
Câu nói nhẹ nhàng và trách nhiệm dịu hẳn cái dự định hăng hái phê bình, chất vấn của
mấy cậu thanh niên lúc nãy lăm le. Bây giờ các cậu ngồi im, nhìn tranh ảnh trên tương.
Tiễn ra cửa, chị chủ nhà hỏi tôi:
- Có phải đồng chí là nhà văn?
Tôi đáp:
- Không phải ạ.
Cũng chẳng bao giờ cô con gái vị thứ trưởng ra họp thanh niên khối, tôi cũng không biết
mặt nó.
Tôi đi tuần tra. Một tốp hai người đeo băng đỏ, tay cầm cái đèn hai pin của đội dân
phòng. Người đi tuần theo cắt lượt. Vào những dịp ngày lễ, ngày bầu cử hay có khách
Chính Phủ các nước đến Thủ Đô. Ai lờ đi hay gọi mãi không ra thì cũng thôi. Nhưng số
người đi tuần bao giờ cũng nhiều. Trưởng ban được chiếu cố không phải đi quá khuya.
Tôi cũng không để ý, mọi người tưởng tôi tích cực, thực ra chẳng đi tuần thì vào giờ ấy tôi
vẫn đi dạo hay là thức đọc sách.
Tôi đã bị bệnh áp huyết tử hồi ấy. Chữa bệnh, mỗi tốì tôi đi quanh hồ ba bốn vòng. Có khi
quá bước lên cả trên hồ Hoàn Kiếm. Một hôm trời rét, trông thấy trong quầng sáng điện
giữa đường một người đội mũ, quấn phu la. Một người đạp xe đằng sau lưng lên, quơ
tay giật cả mũ và khăn quàng. Người mất của đứng ở ra, rồi kêu: cướp! cướp! Đường thì
vắng tanh.
Sau đấy, tôi ngại quá bỏ không đi quanh hồ. Rồi lại đi, nhưng tránh giờ ấy. Đến mùa hè,
tôi để đầu trần. Không phải vì lo mất mũ, mà tôi muốn trật cái đầu hói ra cho đĩ điếm khỏi
mất công hỏi han. ấy thế mà không yên, vẫn bị quấy rầy.
Phó ban Đại hay đi tuần với tôi, có khi tôi rủ, có khi Đại đợi. Chẳng phải đến lượt đi đôi
với Đại, mà Đại thích đi với tôi. Đêm nằm khàn, Đại nhớ bia. Nửa đêm chúng tôi vào
quán Gió hàng bia nhà mậu, uống thả cửa, trả tiền không lấy. Chả là nhiều khi tôi đi với
công an khu tuần tra công viên tới đây vẫn uống thế. Năm trước, tôi đi Pnôm Pênh, buổi
sáng thấy người đội xếp dẫn bố mẹ, vợ và lũ con ra nhà hàng ăn hủ tíu, uống cà phê xong
rồi đứng dậy về. Tôi cười cái thời ông hoàng Sihanuc chẳng ra thế nào, thì bây giờ cái
chẳng ra thế nào ấy hiện về đây và chúng tôi cũng hoá ra người đội xếp Pnôm Pênh. Có
những lần tôi kéo cả Nguyên Hồng, Dương Bích Liên đi thưởng thức cái lộc của trưởng
ban.
Tôi vào trong phố. Phố đêm vắng vẻ thấp thoáng bóng cây. Các phố này không buôn bán,
không cửa hàng cửa hiệu, ban ngày cũng như bấy giờ, vỉa hè không so le nhấp nhô bàn
ghế hàng quán. Giữa bóng tối lặng lẽ, trong tôi bao nhiêu ý nghĩ vật vờ ngổn ngang. Mới
năm nao mà đã ra hơn năm mươi năm qua, tôi đi trong đoàn người thất nghiệp từ phố
Dã Tượng kia rẽ vào sân cỏ nhà Đấu Xảo mít tinh ngày 1 tháng năm 1938, mỗi khi nhớ lại
còn ám ảnh trong mắt ánh màu lá cờ đỏ bay đằng trước. Rồi tôi bị bắt vào xà lim sở Liêm
phóng, chỉ bên kia tường cái phố cụt nhà tôi bây giờ.
Mấy đêm nằm sàn xi măng, chân bị cùm, trước khi phải giải xuống đề lao Nam Định đối
chất việc tổ chức Văn hoá Cứu quốc.
Rồi cuối 1946 toàn quốc kháng chiến, tôi làm phóng viên báo mặt trận Hà Nội. Đêm ấy trú
ở một nhà trong phố bờ hồ Thiền Cuông, cả phố đã đi hết bỏ nhà hoang, thành phố không
người. Không nhớ đã ở nhà nào, hay nhà ấy đã bị bom đạn phá huỷ, chỉ nhớ các bãi cỏ
dọc bờ hồ ngày ấy là những luống khoai lang, những bụi cây chuối. Thành phố đương kêu
gọi mọi người tăng gia chống nạn đói. Tiếng xe bọc sắt, xe tăng đằng phố Duy Tân ầm
ầm trổ xuống. Sớm hôm sau, đến ban chỉ huy đơn vị chiến đấu đóng bên phố Khâm Thiên
cạnh trạm gác của địch ở nhà dầu Sen biết tin đoàn thiết giáp Pháp từ trong thành ra tới
ngã tư đầu hồ, chiến sĩ quyết tử Nguyễn Thành đã ôm một quả bom ba càng lao ra cản
đường. Tôi đã viết tin ấy gửi về báo Cứu Quốc.
Chỗ nào cũng mờ chồng lên những chuyện cũ, chuyện mới. Tôi vẫn đương đi qua các
phố. Tôi nhớ lại... tôi đương đi như bây giờ. Tôi ở trong làng đến năm ngoài hai mươi tuổi
thì đi kháng chiến lên Việt Bắc ngót mười năm, rồi trở về thành phố cũng đã chừng ấy
năm, bây giờ đến sinh sống tại phố này, đi tuần, đi họp phố chẳng khác trai tráng ngày
trước đi hộ đê, đi việc làng, đi dạy truyền bá quốc ngữ, đi khiêng đòn đám ma...
Rồi mỗi hôm đến cơ quan tôi là toà nhà ba tầng, ngày ngày mở cửa sổ ngồi vào bàn, các
thứ cuộc họp nối nhau, rồi lĩnh lương, đi uống bia, uống rưọu mà vẫn thấy lạnh lẽo thế nào.
Đời bàn giấy làm nhạt nhẽo cả ngòi bút.
Chẳng bao lâu đã lại đến cuối năm. Việc dồn dập, đương bình cứu tế lại đến những tờ
hướng dẫn kê khai, lên danh sách tem phiếu mua lương thực, tôi phải thuê các cháu học
sinh giúp rà soát, đối chiếu...
Phố này nhiều cán bộ công nhân làm các cơ quan và nhà máy khác nhau. Cái năm mới
về, nhà bỏ không, nhà treo bảng cho thuê, cứ vào hỏi, cứ đến ở. Có một số nhà vắng chủ
thành phố cũng lắp người ở. Mới thật, nhưng cái ở cái ăn bấy giờ cũng chưa phải đáng
lo.
Chúng tôi còn mải kéo lũ đi loăng quăng nhìn đây nhìn đó dẫu tôi trước kia đã ở Hà Nội.
Kỷ luật tiếp quản Hà Nội không được la cà hàng quán. Tôi đi công tác chống di cư ở Phúc
Nhạc về, vào hàng chén bát phở, sau mới biết không được thế. Kỷ luật chặt quá, đến lúc
không giữ được lại hoá lung tung. Khác nào nhiều nhà đón người họ, người làng cho ở,
qui vì đi kháng chiến về, lại cũng sợ nhà rộng bị qui tư sản, đến lúc ở lâu rồi sinh rắc rối,
kiện tụng nhau. ở khối, ban hoà giải tôi đã mất nhiều công về mấy vụ này.
Mới dần dần biết trong những số nhà có người mới về có những nhà đã ở đây lâu. Người
làm thuê, người thất nghiệp, người chạy chợ, mỗi nhà một nỗi nhưng đều không phải đã
ở thành phố nhiều năm, nhiều đời, mà số đông là những người di chuyển theo thời thế.
Họ ở trong làng ra hay năm trước đã hồi cư về. Chiến tranh tràn lan, ở quê không thở
được, phải nhao ra tỉnh, đến khi Tây rút đi, còn ta thì đi đâu, đi đâu chẳng phải lăn lưng
làm, thế là đâu vẫn đấy.
Có những nhà dường như khá giả - vẻ người thành thị, lối ăn mặc và cách ăn nói, cho là
sắp lên tư sản đến nơi, thế là không dám giao thiệp. Ông ấy thắt cà vạt đội mũ phớt, giày
đánh xi bóng, quần là phẳng.
Tôi đội mũ lá cọ, mặc đại cán đôi khi đánh quần áo nâu, mùa rét thêm cái áo bông ka ki
kẻ múi trám kiểu Liên Xô. Chúng tôi đồng loạt thế.
Người đi họp phố đông, đông nhất là những bà con ở trong này, ai cũng muốn biết chính
phủ thế nào, bởi đều phấp phỏng nghe những đồn thổi quái lạ: thịt con gà phải đi báo cán
bộ, ai cũng ra quét đường, hót rác, móc cống. Nghe ghê ghê thế nhưng bảy giờ a lô! a lô!
tổng vệ sinh, người ta cầm chổi ra quét cái hè, cái rãnh trước cửa, thấy chẳng có vẻ khác
mọi khi.
Bà con giờ mỗi nhà chỉ cắt một người đi họp chứ cái hồi mới giải phóng thì vui lắm, cả
nhà cùng đi.
Đến bây giờ ra làm việc khu phố và đi họp chỉ còn, chỉ có các bà trung niên, các bác thợ
may, công nhân khuân vác ngoài ga, có nhà cho trẻ con hay người già đi cốt đủ đầu
người. Nhiều người không biết trụ sở khối đâu. Thật ra thì cũng khó biết, vì nó chỉ là một
căn phòng trong một nhà ở.
Nơi họp, một gian nhà mượn, hàng ngày nhà chủ để làm gì không biết, tối nào báo họp,
đến đã thấy gian phòng quang đãng. Trưởng ban bảo vệ Dương tới sớm, mở cửa sổ, kê
mấy băng ghế dài, một cái bàn và mắc lên giữa nhà một bóng điện.
Người đến lác đác, tổ trưởng phải đi gọi từng nhà, có hôm hơn tám giờ còn thưa thớt.
Tôi báo cáo công việc xong phó ban Đại nói thêm mấy câu giải thích dài dòng rồi giải tán.
Lao động công ích đào sông Tô Lịch. Cấm thả rông chó. Danh sách đợt đi nghĩa vụ quân
sự. Lĩnh thuốc bả chuột về phải nhốt mèo, nhốt gà cẩn thận. Giới thiệu danh sách tổ hoà
giái. Các nhà treo cờ ngày Quốc tế Lao động...
Hộ nào cũng có người đi họp đã thành lệ, nhưng cũng thành tật đến đúng, đến muộn tuỳ
tiện. Có người hay kề cà, cũng có người đi làm ca kíp về còn lo cơm nước. Có người rỗi
rãi hẳn hoi cũng cứ đà đận đợi tổ trưởng gọi giục.
Tôi đặt thành giờ giấc bảy rưỡi đánh kẻng thì tám giờ họp. Có mấy người tôi cũng cho
họp và đến lúc nghe còi ủ thành phố báo chín giờ thì tan họp. Dần dần thành thói quen,
người ta chịu khó đến đúng giờ.
Khi thành phố bỏ còi ủ để tránh lẫn với còi báo động thì tôi xem đồng hồ, chín giờ đương
nói, đương còn việc cũng ra về, để hôm khác bàn tiếp.
Cái máy móc giờ giấc ấy cũng hay hay. Nhưng cũng có khi làm tôi ngượng, tội nghiệp.
Tôi mới đi Liên Xô về anh Nguyễn Xiển bảo đến câu lạc bộ đảng Xã Hội nói về quyển Dải
đất hẹp của Brơ-giê-nep vừa được giải thưởng Lê- nin. Tôi thật có duyên tai ách với
quyển này. ở Matxcơva, báo Sự Thật đã mời tôi viết bài phê bình. Hà Nội chưa dịch in hồi
ký Dải đất hẹp, mới có một đoạn trích dịch ở hoạ báo Liên Xô, hai bản tiếng Pháp, tiếng
Việt, nhưng báo này dịch nhạt nhẽo, tôi không mấy khi đọc. Thế mà tôi vẫn viết được bài
cho báo Sự Thật. Nhà văn Marian Tkchốp dịch, được đăng trang nhất báo, nhận nhuận
bút một trăm rúp. Tôi thưởng sáng kiến và nhiệt tình khuyến khích tôi viết của hai bạn
Marian và Misen, phóng viên báo Tin Tức đã ở Hà Nội nhiều năm, chúng tôi đi uống vốt
ca, ăn thịt cừu nướng rồi đến nhà hát Digan. Mẹ của Marian khen tôi “bây giờ làm to dám
viết về Tổng bí thư”.
Đến câu lạc bộ đảng Xã Hội, tám giờ tôi bắt đầu nói, vừa chín giờ nghe còi ủ tôi cám ơn
các bạn thính giả xin hết lời và bước xuống bục. ở đây, chẳng ai nói tan sớm thế. Có
người còn chưa đứng dậy. Tôi thì ngỡ đương họp ở khu phố!
Nguyễn Xiển hỏi tôi:
- Cậu say rượu à?
- Không, nói hết chuyện rồi..
Tôi không nói tôi quen cái đồng hồ ở khối phố, tôi đã nhầm giờ giấc. Ngồi họp, tan họp
đúng như nhau, đầu tiên lấy làm lạ rồi “còi chín giờ đã giải tán” ai cũng ra về, bà con thích
thú cái sự về sớm ấy nhiều hơn nhớ công việc.
Hôm ấy bàn tổ phục vụ nấu bánh chưng tết thì có lo cơm nồi nước sôi như mọi ngày
không. Bấn việc đấy. Nhà nào thì gửi gạo, đưa lá dong và phiếu thịt rồi chỉ việc nhận bánh,
nhà nào gói lấy rồi thuê luộc.
Tôi hô hào các nhà ra nhờ tổ phục vụ, nhưng nhà tôi thì vẫn nấu lấy cho các con tôi vui nồi
bánh, tôi thì nhớ ngày xưa. Bắc nồi ra giữa sân bếp, vợ tôi đèo củi về. Nhà mậu bán củi
phiếu, nhưng toàn củi rều vớt ở sông Cái, củi cành xà cừ còn cả lá, “Ông nhà nước” vơ
vội củi Tết mà phải đem phơi, sang giêng mới đun được. Nhà tôi có năm thì bác Ba trên
Nghĩa Đô đèo củi gộc tre xuống cho, có khi mua củi gốc cây, của những người đi chặt cây
thuê trong phố, củi này chắc và đượm lửa, ninh bánh chưng được rền.
Con gái con rể tôi làm ở bệnh viện, mượn về nồi hấp và ống truyền, những thứ để thay
cây nửa tép đục đốt với cái mu rùa, nồi đồng hai mươi. Tôi nấu rượu Tết, đổ mốc men
thơm cả sang hàng xóm. Cấm nấu rượu, mà tôi nấu để uống. Vả chăng, nhà trưởng ban
nấu rượu lậu, ai có biết chắc cũng chỉ thấy vui.
Nhưng tôi cũng chỉ nấu có một mẻ. Không phải ngại tai tiếng mà bởi rõ ràng làm lấy, bố
con ủ men, ống thuỷ tinh nước rượu lên sạch sẽ, mả ra rượu nếm vừa đắng vừa khét,
rượn chính phẩm lại như rượu rởm.
Không phải cứ có các thứ chính cống và đồ lề hảo hạng thì ai cũng nấu ra rượu ngon, nếu
thế thì tài nang vứt đi rồi.
Trưởng ban bảo vệ Dương báo với tôi tình hình an ninh cuối năm từng ngày.
- Phố còn một nhà nuôi chó. Phải triệt, không nhỡ ngày tết mà chó cắn ai thì lôi thôi.
- Bảo nó thịt hay bán đi, mà phải thịt sớm, tết nhiều nhà kiêng thịt chó.
Hôm sau, Dương đến lắc đầu.
- Tôi nói nó không nghe. Vừa đi ra nó còn chửi theo: tiên sư chúng mày!
Tôi ngờ chưa chắc đã phải thế. Dương hay kéo tôi di cùng. Cái khoé và cũng là hãnh
diện của Dương.
Có người mách, mấy chị quảy thúng bán ô mai, củ sắn luộc, kẹo vừng ở cửa trường học
Dương cứ lấy ăn tự nhiên lại phải đút tiền cho Dương mới được đỗ gánh ở đấy. Đêm
Dương đi tuần, đem về trụ sở cái mũ cát, đôi dép râu bảo có đôi trai gái đứng xó tường
đằng kia, thấy người chúng nó bỏ chạy. Có hôm sáng sớm Dương xách đến nhà tôi cái
khung xe đạp. “Kẻ trộm tháo hết phụ tùng rồi vứt khung xe ra đường. Lôi thôi quá, ta lại
phải trình báo". Dương lẩm bẩm thế rồi lại vác cái khung xe đi, chẳng biết có trình báo hay
đem xuống chợ Giời, tôi cũng không xét nét hỏi lại.
Bọn dân phòng nói với nhau: “Nhà lão những ba bốn cái tàu há mồm. lúc nào cũng hong
hóng thì phải xoay cái ăn chứ". .
Dương đưa tôi vào một nhà cuối phố, tôi cũng chưa vào trong này lần nào, phố ngóc
ngách quá. Lô xô những nhà một tầng, nhà hai tầng chĩnh chện, nhà này chỉ có mái giấy
dầu một phía ghếch vào đầu tường.
Nhà nuôi chó có hai vợ chồng, một ông bố và hai đứa con. Vợ chồng đi làm, hai con đi
học. Bố ở nhà cơm nước. Tôi ngỡ con chó cũng thằng nhôm thằng vện lau nhau, không
ngờ con chó ta mà to như chó bẹc giê, đứng cao ngang đầu gối ông lão.
Thấy khách vào nhà, ông lão vuốt vuốt một cái, con chó nằm mọp ngay xuống cạnh chân
ông. Người con cầm cái xích có cổ dề ngoằng xuống, dắt chó vào nhà trong.
Anh ấy nói nửa thật nửa đùa:
- Nó quái lắm. Nó mà nghe các vị bàn tán bán chó thịt chó, nó xông ra đợp các vị đấy.
Tôi ngại quá. Con chó khôn mà giằng cái xích mỏng mảnh kia ra thì làm thế nào. Thỉnh
thoảng tôi nhìn vào góc nhà, nhưng rồi lại không dám, hình như con sọm già đương đụng
đậy tai, nghe nghe. Nhưng chắc nó chả hiểu câu chuyện đương nói.
Tôi khen:
- Cụ nuôi được con chó to nhỉ?
- Thưa ông, đem trong quê ra đã ba năm nay. Cơm canh trẻ con rơi vãi, gọi là chó làm
cảnh ấy mà. Nó có ý lắm, biết là ở phố chật chội, ai vào trông thấy mới biết nhà có chó.
Nó chỉ rũ lông, không rít, không bao giờ cắn thành tiếng.
Tôi giải thích:
- Nhưng ở nông thôn khác ở thành phố, cụ ạ. ở thành phố không được nuôi chó. Nhỡ phải
con chó gió nó cắn tung lên thì khốn nhiều người lắm. Thuốc tiêm chó gió phải cầu kỳ tiêm
vào rốn, mà đắt tiền.
- Tôi không cho nó đi đâu bao giờ.
Dương láu táu chêm:
- Nó cắn ngay người nhà ấy chứ, chó dại mà.
Người con trai ở trong nhà ra, sẵng giọng:
- Xin phép ông trưởng ban, anh Dương nói đổ xuống sông xuống bể, phỉ phui, con chó
cũng không nghe được.
Dương đứng lên, giơ gậy. Gã kia xông đến. Tôi nói to:
- Trật tự nào!
Tôi còn giảng giải một lúc về cái vô tích sự nuôi chó trong thành phố. Người con trai hầm
hầm vào trong buồng, ông lão ngồi yên. Lát sau, ông lão chắp tay:
- Thưa ông, ông nôi thế cháu đã nghe ra, để rồi nhà cháu xin thu xếp.
Thật cũng khó khăn và khổ tâm, lão thu xếp thế nào. Gọi lái chó vào hay mấy nhà quanh
đây đánh đụng. Nhưng nghe ông lão nói nhà cháu thu xếp, coi như đã ổn, tôi đứng dậy.
- Cụ làm ngay, cụ ạ. Năm hết tết đến rồi.
- Thưa vâng.
Rồi có lúc ngẫm nghĩ, tôi cứ áy náy. Con chó vàng to như con Bô Tô ngày trước bố tôi
nuôi. Bố tôi đi Sài Gòn, để con chó ở nhà. Ông ngoại qui Bô Tô, nuôi Bô Tô nhiều năm
đến khi già, Bô Tô ốm chết thì đem chôn, mấy hôm tôi khóc nhớ Bô Tô. Thế là ông lão sợ,
nhà lão đem bán chó, nhà lão sẽ gọi đụng. Cứ bảo tết nhất ăn thịt chó hãm tài, nhưng năm
ngoái, hôm ba mươi, ông Hộ trên Nghĩa Đô đã đem xuống cho nhà tôi đôi bánh chưng
nhân thịt chó, nhà túng, không có tiền mua thịt lợn. Chẳng sao, tôi không sợ xúi quẩy
nhưng gói cái bánh chưng nhân thịt chó thì nghèo túng đến rớt mồng tơi rồi. Nghĩ xa nghĩ
gần, vấn vơ.
Dương gặp tôi.
- Nhà nó giải quyết xong con chó rồi.
- Thịt à?
- Nó đem gửi, dắt đi chiều qua.
Tôi cười:
- Thịt hay đem gửi cũng là con chó khuất đã mắt rồi. Đừng làm lôi thôỉ người ta nứa.
Dương không nói gì. Ông lão gửi con chó, có thể con chó không chết. Tôi nhớ mang
máng ngày trướcTây cho nuôi chó trong thành phố, nhưng chó ra đường phải buộc mõm,
luật lệ Tây ở đây hay tôi đã đọc trong truyện thấy nói như thế ở bên Tây. Giấc ngủ tôi chập
chờn. Buổi tối, tôi vào nhà ông lão. Thấy tôi, lão chắp tay, vái một cái..
- Báo cáo ông khỏi bận tâm...
- Ông đem gửi chó rồi chứ gì.
- Không, giết rồi ạ.
Tôi hỏi:
- Thế a? Tôi đến nói cho ông biết có thể nuôi chó.
- Nhà nước cho nuôi chó?
Tôi lại nhớ thêm: ngày trước thằng Tây đi chơi, dắt con chó cái rọ da đóng vào mõm, bên
cạnh có con đầm cầm bó hoa loa kèn trắng. Tôi nói
- Con chó phải có khoá mõm mới được ra đường.
- Chó nhà cháu quanh năm ở trong nhà.
- Vậy là được, nhưng mà làm thịt mất nó rồi.
- Từ hôm nọ cán bộ chẳng bảo nhà cháu.
Thế là nhà này thịt mất con chó. Nó dắt đi thịt chứ không phải đem gửi. Con chó vàng to
đẹp thế, đã vào bụng người cả, hoài của.
Một chặp tối rét co ro. Có tiếng gõ cửa khẽ. Tôi mở cửa, thấy ông lão tay cầm cái xích.
Con chó vàng cao lớn, quanh lưng xuống tận bụng buộc mảnh khố tải như áo ấm, cái rọ
da to xủ đóng quanh mõm. Ông lão cúi chào rồi hỏi tôi:
- Báo cáo ông thế này được chưa, đúng luậ t chưa ạ?
Tôi còn ngẩn người. Con chó hay hồn ma con chó, thế là thế nào? ông lão nói như trả lời
băn khoăn của tôi:
- May quá, nó sắp thịt.
Rồi ông lão vuốt đầu, ghé vào tai con chó, nói thầm:
- Con lạy ông nào!
Con chó bị đóng rọ mõm khuyu hai chân trước xuống, đến lúc ông lão lại vuốt nó, con chó
mới đứng lên như lúc nãy.
Con chó giỏi như người, hơn người. Tôi buột miệng:
- Tài quá.
- Thưa ông, nó ngoan, dạy được ạ.
Tôi nhìn theo ông lão dắt con chó, đóng cửa rồi vẫn như còn trông thấy ông lão và con chó
trong bóng tối rét mướt xa xa. Ông lão bảo giết chó rồi cơ mà, hay là con chó ma, chó ma
mới khôn thế.
Dương đến nói như khoe:
- Nhà nó lại đem chó về.
Tôi bảo:
- Chó ra đường phải rọ mõm. Ông lão ấy đến báo cáo tôi rồi.
Nói xong, tôi lại chột dạ. Dóng rọ mõm, không biết nhớ có đúng không. Dương không hỏi
thêm. Một tối, mừng cuộc họp đầu năm, có hai bao Tam Đảo, hộp mứt bí nhà mậu điểm
mấy cục đường giả làm hạt sen, quà Tết tiểu khu gửi xuống. Ông lão đến cạnh tôi:
- Báo cáo ông, tôi đã nộp hai đồng tiền thuế nuôi chó cho ông Dương.
- Ai bảo ông đóng thuế chó?
- Ông Dương ạ.
Tôi không bực mình Dương làm tiền tợn quá, mà tôi nghĩ lại mọi việc tôi thật chậm hiểu
hơn Dương và hai bố con ông lão nuôi chó. Chỉ có một con chữ mà người ta múa rối,
người ta đánh phép, tôi đần độn đi. Xử sự, đối phó, giải quyết... vẩn vơ trong đầu thế thôi
rồi tôi lại nghĩ bãi ra và tự yên ủi rằng việc gì cũng quấn vào mình thì có đến ba đầu sáu tay
cũng hết hơi. Vả chăng, lại năm cùng tháng tận đến rồi, cho nó kiếm chác đôi chút.
Lẫn lộn với giấy tờ và bản thảo, một đệp biên lai, một cặp tem phiếu gạo và thực phẩm,
một hộ mấy người trẻ con và người già, người không biên chế nhà nước, mỗi người một
từ, chưa tính các hộ độc thân. Vẫn chưa đủ so với thống kê. Mai phải đi lĩnh đợt nữa. Sai
số hay thừa thiếu thế nào, tôi lấy làm lạ trong ngần ấy năm làm tem phiếu, ký sổ, ký tờ rời
không thấy trên hỏi lại, truy lại lần nào. Chẳng lẽ tôi lại chỉ có đúng, hay là không biết
chừng trên đã có sổ cái, đã dò đã chữa hộ tôi. Ký miên man nhất vào các kỳ tem phiếu,
phóng hàng nghìn chữ nguệch ngoạc, đến bây giờ chữ ký tôi chưa run nét có lẽ cũng nhờ
những năm, những dịp luyện tay kịch liệt này..
Lại họp cán bộ cơ sớ, cả sáu tổ trưởng tổ phó, một đệp việc:
- Triệt để không còn chó thả rông, chó không tiêm phòng dại.
- Thông qua đăng ký đợt 1 tiểu thương (cua ốc, ngô luộc, chè tươi), tiếp tục lên danh sách
các tổ.
Liên hoan tiễn 2 chiến sĩ tân binh, lên khu lĩnh 2 gói chè Hưong Sơn, 5đ mua kẹo bánh.
Việc đột xuất: mức nước cuối thình lình lên báo động số 2, một tổ xung kích dân phòng đi
thường trực.
Dương cặm cụi sổ sách thì cô người hỏi. Chẳng ra giờ giấc gì cả. Đi cơ quan thì họp, bè
bạn thì ở quầy bia bọt chiều chiều, khách trưa khách tối người khu phố, đêm đọc sách và
đi ngủ lẫn lộn, không biết có ngày chủ nhật.
Vào cửa, một chị với hai đứa bé trạc năm, sáu tuổi. Ba mẹ con gày gùa, trong ánh đèn
mà cũng nhìn được nước da xạm, bởi những con mắt trong leo lẻo khác thường. Dáng
chị quen quen, chắc hay gặp đi họp phố.
- Thưa bác, mẹ con cháu đến xin bác...
- Việc gì thế?
- Có cái tem phiếu...
- Tem phiếu phát theo năm mới dương lịch mà.
- Cháu chỉ xin trước bác một tờ.
- Sao lại một tờ?
Thưa bác, nông nỗi nhà cháu...
Nghe chị kể, chị làm y tá cơ quan. Vừa rồi, đi khám, bị chớm bệnh lao. Hai tháng nay nghỉ
chữa bệnh, vẫn được lương. Hai con trai đứa lớn mới lớp bốn. Chồng cũng y tá, nhưng đi
tiêm tư. Anh ta bỏ nhà biền biệt cả năm, không biết đi đâu.
- Năm ngoái, cháu đã xin được, bác cho.
- Anh ấy nhận phiếu ở cơ quan nào?
- Không, nó ăn vào hộ khẩu ở nhà. Cháu phải bán phiếu của nó lấy vài đồng...
- Ngộ Tết anh ấy về thì sao?
- Mẹ con cháu cấm cửa nó rồi..
- Mà sao lại bán tem phiếu của nhà nước. Bán ở đâu?
- úi già, bác không biết chợ tem phiếu đông hơn chợ Đuổi dưới Vân Hồ. Cán bộ lĩnh tem
phiếu rồi đem bán ngay, nhiều lắm.
- Rồi cả năm xoay xở làm sao?
- Chỉ xin trước bác tờ phiếu của nó thôi, còn phiếu cả năm của mẹ con cháu thì khi nào
túng mới phải bán.
- Chị nói, tôi thông cảm hoàn cảnh. Hôm nào có thì tôi cầm đến cho.
Thật ra tôi đã có phiếu, nhưng tôi không dám đưa xé lẻ. Chị ta đã nói bịa “năm ngoái bác
cho", như thật.
Trưa hôm sau, tôi tạt vào nhà chị ấy. Mới nhận ra tôi đã biết ngõ này có một bác đạp xích
lô quê Thái Bình lên Hà Nội từ năm 14 tuổi, năm nay trên năm mươi mà chưa về lại quê
lần nào. Bác làm nghề xe từ thời kéo xe bánh sắt chỉ được vào đến đầu ô Khâm Thiên.
Thuê xe lùn của cai Mơ, cai Mơ người nhăn nhó như thằng bả gà, mà giàu nứt đố đổ
vách. Bây giờ, bác có cái xe xích lô của nhà, về thì xích vào sau cột vách. Xăm lốp nhà
mậu bán cung cấp. Mua chui xích Pháp, mới toanh chưa bóc giấy bóng. Đi họp nói toang
toang cứ như bác ấy thì trên đời chỉ có đạp xe xích lô là sướng nhất, vì “không có ai đè
nén” được.
Qua cái mái tôn nhà bác xích lô yêu đời, đến nhà chị ấy. Cái mái vảy ghếch vào lưng
tường nhà bên cạnh, nước mưa ẩm rườn rượt mặt tường nổi rêu tối như cái hang. Ba
mẹ con ở nhà, ngồi trước cái lò đun bằng giấy vụn, lá xà cừ.
Mẹ con nhà này trông ban ngày mới khiếp sao. Những đứa trẻ mặt ơ hờ như ngái ngủ,
người mẹ ngôi rúm ró, đầu gối trắng nhợt lồi ra như hai củ đậu. Đêm trước mới chỉ nhìn
thấy những con măt ho lao của người mẹ, con mắt trong veo bây giờ sáng rợn lên.
Chị ấy run run đứng dậy, nói:
- Bác đem phiếu cho các cháu.
- Chưa có đâu. Nhân tiện đi qua, tôi vào thăm ba mẹ con. Đun nồi gì đấy?
Người mẹ lặng yên như không nghe tiếng. Thằng bé lớn nhanh nhảu mở nắp cái xoong.
Nồi rau muống đã sôi, mấy hạt cơm nhào lên nhào xuống trên mặt rau. Gọi là nồi cháo rau
hay là nồi rau cháo cũng thế.
- Cơm trộn rau à?
Cái cười héo trên mặt người mẹ. Nhà cháu quanh năm cháo rau thế này, cũng quen rồi.
Chị lại kể về cái chợ tem phiếu ở trên đê. Không phải chỉ có tem phiếu đem bán, mà
người ta mua tem gạo, bán lại ngay đấy cho người khác. Đổi chác cò con thế mà cũng có
cai đầu dài, có buôn đi bán lại. Nhưng công an dẹp dữ, đương vơ vẩn vỉa hè, thoáng thấy
bóng áo vàng đã biến sạch. Tôi chưa biết mặt mũi những cái chợ nhỡ độ đường này.
Tôi đưa chị ấy năm chục bạc.
- Cháu cám ơn bác, cháu không dám lấy.
- Tôi cho vay thôi. Bao giờ có tem phiếu bán thì trả, tôi không lấy lãi đâu. Chị cứ cầm.
Tôi đã ra tận vỉa hè, ngoảnh lại còn thấy những con mắt nhìn theo, trắng nhả như mắt
người da đen ở tranh dân gian nước Kênia châu Phi.
Dương đi với một anh thấp bé, đội mũ tai bèo đã đứt một bên dây quai. Cái quần lính vá
hai miếng đầu gối, nham nhở vết dầu, tay anh ấy cầm chiếc vành xe đạp. Chưa hỏi, đã
biết anh nghề chữa xe.
- Giới thiệu anh: đồng chí Mẫn thương binh. Anh Thắng cán bộ tiểu khu bảo khối ta nhận
đồng chí Mẫn về làm phó ban bảo vệ.
Dương thêm một câu nịnh “anh Thắng cán bộ tiểu khu”, mặc dầu không có Thắng ở đây
và Dương đã quên mọi khi Dương vẫn khoe không cần phó chỉ một tay Dương làm hết,
xong hết. Mà Dương nói:
- Công tác nhiều, tôi mong có người đỡ. May quá.
Tôi và Mẫn chỉ chuyện một thoáng đã ra đầu đuôi.
- Anh Mẫn thương binh mặt trận nào?
- Khu Năm.
- Bao nhiêu lâu?
- ở trong ấy hơn ba năm.
- Thế thì đã đánh nhiều trận lắm..
- Cũng phiêu lưu sơ sơ vài trận thôi. ở ngoài này đi bộ ba tháng vào đến nơi được bổ
sung cho tỉnh Phú yên. Đi các xã huấn luyện, xây dựng dân quân. Hôm ấy đi vác gạo đến
bờ sông Ba thì lộ. Trực thăng quần, định móc lên bắt sống cả bọn. Tôi nhảy xuống khe
suối va vào đá, chết ngất. Tỉnh dậy, thấy nằm ở trạm quân y tiền phương. Gẫy xương đùi,
mảnh đạn bây giờ còn nằm trong vai, tay này không giơ lên được. Anh trông tôi bước lê
lê.
- Thế mà ra được tận ngoài này.
- Đâu chẳng đi được. Ra Bắc an dưỡng, nằm mấy tháng ở nhà dân trên Vĩnh Yên rồi tôi
xin ra quân.
- Anh đi nghĩa vụ ở phố hay ở cơ quan?
- Nhà máy xe đạp.
- Sao không trở lại nhà máy?
- Chúng nó bảo tôi mới ở tổ hợp tác vào nhà máy, khi đi bộ đội chưa vào biên chế thì bây
giờ nhà máy không phải nhận.
- Lạ nhỉ?
- Cần gì! Tôi lại ra vỉa hè chữa xe đạp. Công an đuổi, bực quá. Tôi thấy không ai dám
đuổi công an, tôi vào bốt xin làm công an. Các ông ấy cho tôi xuống đây
- Đây là ban bảo vệ thôi, không có lương.
- Ban gì cũng cân. Cốt ngồi đầu đường chữa xe đạp không đứa nào dám đuổi là được
rồi.
Tôi đùa vu vơ:
- Yên chí lớn!
Mẫn đi nửa buổi trở về với một cái xe đạp không có yên, không có xích - xe chỉ để dắt.
Khung xe buộc hai cái vỏ phuy xăng, trong lỉnh kỉnh kìm, búa, lắc lê, lọ nhựa, mảnh sắt để
vá chín, bó nan hoa. Đầu chiếc bơm xe đính cái hoa ni lông đỏ. Chất lên trên tất cả, một
thùng gô có khoá, trong đựng, mọi thứ gia tài và quần áo. Mọi đồ chữa xe dở ra ngổn
ngang vỉa hè. Các nhà trong phố đã biết anh phó ban bảo vệ mới, tối anh ngủ nhờ vỉa hè
nhà có mái hiên.
Ngay tối hôm ấy, tôi với Mẫn lên đê sông Hồng. Báo động số mấy không biết.. nước đã
vào lưng đê. Mùa kiệt mà nước lên, quái thật. Lối xuống bãi đã lấp, những chiếc xe lội
nước của bộ đội đứng trấn đầu đê. Các tổ xung kích khối phố lên cắt canh từng quãng, đề
phòng kẻ gian phá đê.
Hầu như ở mỗi gốc cây bên cột đèn điện buộc một con bò, những con bò người dưới bãì
nuôi để kéo xe đã chạy nước lên đây. Bò đứng nhai thong thả một đống cỏ tươi. Một
người đạp xe tới, hạ xuống cái thùng phuy, đổ ra một chậu đầy bia, vừa mua ở quầy. Con
bò đứng uống bia, nó oàm oạp một hơi cả chậu, xem ra con bò khoái bia như người.
Tối hôm sau, tôi lại đi với tổ dân phòng lên đê. Báo động vừa được báo tin khẩn. Bởi
không có báo động số 4, đến số 4 thì nước tràn đê vào phố rồi. Những ngấn đo nước
12m6, mà mặt bằng đê thành phố 13m50.
Mấp mé lắm, còn 90 phân nữa thì nước ngang mặt đê. Trông vào phố, vẫn êm ả như
không. Những chiếc xe lội nước của bộ đội đứng im như cái gò đất. Con bò buộc gốc cây
thong thả nhai cỏ, lại có ông bò với cái chậu bia, tiếng uống, tiếng thở oàm oạp. Hè phố
bên, tôi mới nhận ra những dãy lều bạt của người dưới bãi chạy lên. Một đám cắt tiết
những con ngỗng. Đằng kia đương mấy chỗ cạo lông lợn. Gà qué và lợn đem dưới bãi
lên, phải chạy nước dài ngày, không nuôi nữa.
Trên trời, máy bay lên thẳng lấp ló ánh đèn bay tuần nước cả đêm.
Cuộc họp cuối năm sớm nhất để xin cứu tế cho người thiếu đói, kịp phát trước Tết. Kinh
nghiệm lập danh sách cứ ghi cả chục người, trên cho ngữ từ hai đến bốn, nài thì được
thêm một. Con số như thế, chọn ra bình bầu, cân nhắc, đã thống nhất thì viết tên và lý do
túng đói rồi gửi lên. Kể ra người thiếu thốn khó khăn thì nhiều cả nút không biết hết. Bề
ngoài, cũng chỉ thấy được bề ngoài, bởi vì ở phường phố đèn nhà ai nhà ấy rạng, lại là
những nhà tứ chiếng ghép lại, khác ở trong làng xóm đã bao nhiêu đời thuộc nhau, cho
nên cứ lên danh sách rộng ra rồi bàn, rồi trên cho thì vừa.
Có cô Đàng và Thắng tiểu khu cũng về họp, họp xong cán bộ Thắng đến nhà tôi, xuống
bếp, có mấy con dao phay, dao rựa, anh cầm đi tất. Vài hôm sau đem trả, lưỡi con dao
nào cũng sắc như nước. Tôi đùa: “Cứ thấy ông đến thu dao thì biết là sắp Tết. Ngày trước
anh làm quân giới, phải không?”. Tôi hỏi tôn lên thôi, chứ tôi doán anh làm ở lò sát sinh vì
để ý thấy dao phay, dao bàu mổ lợn được mài sắc hơn. Anh cười hì hì, không trả lời. Anh
tên là Thắng, gọi là Thắng tiểu khu để khỏi lẫn với cụ Thắng điếc. Cô công an khối phố
chưa bằng tuổi Đan Hà con gái lớn của chúng tôi Cô Đàng người Quảng Trị, bố cô hoạt
động bên kia giới tuyến, vợ con được gửi sang Vĩnh Linh. Mẹ và các em còn bé, ra làm
ruộng ở Nghệ An. Cô được học trường trung cấp công an, học xong ra Hà Nội tập sự.
Phố tôi ít phức tạp, cô được về đây. Đến năm thống nhất, cô lấy chồng đồng hương, cùng
ngành lại cùng quê, vợ chồng chuyển vào Tây Nguyên, nghe nói rồi công tác ở Đắc Lắc.
Trong số người phái cứu tế tôi đề nghị có Dương ban bảo vệ. Kể ra đưa tên người làm
việc vào thì dễ bị nói mình lại chia phần cho mình, nhưng cả Đại cũng không phản đối, lại
vun vào: “Công tác khối phố, cơm nhà vác tủ và hàng tổng, ông Dương thi cơm nhà cũng
còn khó khăn, phải có cái cứu tế như cái thưởng cuối năm ấy mà". Cán bộ Thắng và cô
Đàng không nói gì.
Năm nay, tôi thêm Mẫn. Mẫn từ chối ngay: “Chữa xe đạp cũng có ăn rồi. Khi nào đói thì tôi
đem thẻ thương binh lên bộ Quốc Phòng, đừng lo cho tôi".
Chỉ một cụ Thắng năm nào cũng giơ tay: “Tôi có ý kiến. Tôi không đồng ý cứu tế anh
Dương. Anh ấy đã làm ban bảo vệ, thế là cán bộ rồi". Cụ Thắng điếc ngồi họp câu được
câu chăng, tuỳ cái máy nghe, nhưng cụ lại hay nói. Có lẽ cụ Thắng ngỡ Dương cũng đi
làm cơ quan có lương. Mọi người đều bằng lòng đề nghị Dương, không ai để ý cụ Thắng
phản đối. “Bàn với cụ điếc thì đến mai cũng không xong. Cho qua". Khi thấy xung quanh
đứng lên, ý kiến mình vẫn treo lơ lửng hay giải quyết rồi không biết, cụ Thắng cũng chống
gậy đứng lên.
Cụ Thắng về hưu, ở cơ quan nào tôi không hỏi. Thiệt thòi cái tai điếc đặc chứ cụ Thắng
tích cực lắm.
Đương bàn mở lớp Bình dân Học vụ, cụ Thắng đã yêu cầu định ngày chiến dịch đánh
chuột để cụ lên lịch đi lĩnh thuốc bả. Mọi việc cụ lo, cụ đều nóng nảy, sốt sắng. Tuy chưa
khuya, nhưng cũng chẳng ai muốn nói đến chuyện chuột bọ vội, cụ Thắng cũng cất máy
nghe vào túi xách, bước ra theo tôi.
Về nhà tôi, cụ Thắng lấy máy nghe đeo lên tai rồi hỏi tôi:
- Anh có biết anh Lệnh không, Trương Văn Lệnh.
Tôi ghé miệng, hét vào tai cụ Thắng:
- Tôi biết, tôi biết.
- Anh ấy mà còn sống thì tôi khác bây giừ rồi. Tôi vào Đồng Chi hội với Trương Văn Lệnh,
tôi là đảng viên trước khi đảng ra đời. Thế mà bây giờ tay không. Tôi chẳng đi vào uẩn
khúc. ở tuổi cụ, việc quen Trương Văn Lệnh có thể có. Không dưng, ai biết tên rõ ràng
như thế được. Nhưng lan man từ ngày xưa trở về bây giờ, thế thì... Việc khu phố chỉ có tối
mắt lại làm, làm mà thôi.
Có một người dân phòng vào gọi:
- Ông ơi! Có tiếng trẻ con khóc ngoài hồ. Đứa nào vứt trẻ con xuống hồ.
Mùa đông, chưa quá chín giờ, đã im ắng như khuya. Cụ Thắng thấy tôi đứng dậy, cụ lặng
lẳng về. Tôi chạy ra cùng mấy người nữa. Cái tin ghê gớm quá, mà đứa vào gọi đã đi
biến - nó sợ lôi thôi, hay nó đùa ác, hay lả nó trông ga hoá cuốc. Trên bờ đã lố nhố người.
Mặt hồ mênh mang, sương buông mủ mịt, tôi cũng chợt nghe một tiếng e é như tiếng kêu
chẹt chân, chẹt tay, rồi im. Làm sao lội ra được, trời rét thế này. Ai ra mượn thuyền đằng
nhà thuyền. Một người chạy.
Giữa lúc ấy, tiếng Dương nói to:
- Kia kìa, trăng trắng kia kìa.
Thoáng gần ánh điện, bóng trăng trắng trên mặt nước thật. Dương đã lấy đâu được cái
câu liêm. Dương men xuống bờ hồ cạn nước, gạt đưa được cát trăng trắng ấy vào, nó là
cái nón trôi ngửa. Hai tay Dương bưng chiếc nón lên. Dưới chân cột đèn, nhìn rõ trong
nón một cái thai cuộn mớ rẻ bê bết máu. Vừa còn khóc, chắc là tiếng kêu cuối cùng. Cái
xác đã lạnh như hòn cuội. Nhiều người xúm lại. Người nào đã nhanh tay gài mấy nén
hương lên chân cột đèn. Mùi hương ngai ngái, đã ra mùi hương đám ma.
Dương bảo Mẫn:
- Tôi cời được cái nón lên, thế là xong nhiệm vụ phần tôi. Bây giờ tôi đi báo công an tiểu
khu.
Mẫn khẩn khoản:
- Tôi xéo vào xác thằng Mỹ, thế mà tôi hãi thây trẻ con. Anh Dương làm nốt, tôi đi báo
công an.
Chẳng đợi Dương trả lời, Mẫn đi luôn. Dương chép miệng:
- Việc gì phải lôi thôi, cái thằng Mẫn bê quay thì làm chó gì. Cho tôi mượn xe đạp, tôi đem
luôn cái này đi lên khu báo cáo rồi bỏ xuống nhà xác Bạch Mai. Sáng mai anh hỏi tiền bồi
dưỡng công tác cho tôi.
Dương nói dễ như bỡn và rồi làm ngay. Chỉ bực Dương hay ganh tỵ, chỉn người khác
giữa chỗ đông. ừ, cái thai cung như con chuột chết, như cục máu. Anh An dân phòng về
dắt hộ cái xe đạ p của tôi ra cho Dương mượn, tay cầm thêm một bó hương đã cháy nghi
ngút. Dương gói cả cái nón vào miếng ni lông rách, ai đã đem ra cho. Dương buộc cái
gói, nịt vào dây cao su, với cả nắm hương đương cháy, nhảy lên đạp đi.
Người đã về cả, bờ hồ lại vắng lặng. Mặt nước sẫm như bóng tối, đôi chỗ ánh điện lung
lay. Đã gần nửa đêm. Cái nón trên gói cục máu hon hỏn. Cái nón còn mới, nón của nó
đội. Không biết đứa con gái ấy con cái nhà ai, phố nào.
Tự dưng tôi nhớ bài thư Cái thai hoang của Trần Huyền Trân và những chuyện buồn.
Tôi ít tuổi hơn Trân, nhưng một lứa hoạt động văn hoá cứu quốc ở Hà Nội thời kỳ chuẩn bị
Tổng Khởi Nghĩa rồi được kết nạp vào Đảng ở những cơ quan khác nhau cùng quãng
những năm 1945, 1946.
Cách mạng thành công, Trần Huyền Trân được phân công về sờ kiểm duyệt làm kiểm
duyệt về sân khấu - Nguyễn Công Hoan thì báo chí, Như Phong văn thơ.
Chỗ làm và công việc vẫn giữ như tổ chức thời Tây, thời Nhật. Đến kháng chiến, Trân
công tác về sân khấu, lên Việt Bắc phụ trách một đội kịch lưu động của Nha thông tin. Đội
kịch đi diễn những đâu mấy tháng, khi trở về, Trân bị chi đảng ở Nha khai trừ đảng viên vì
đã mất ba kỳ sinh hoạt. Trân giận dỗi, bỏ về với cơ quan văn nghệ bấy giờ đương ở Yên
Dã ( hay Yên giã? ? ? ? ) huyện Đại Từ trên Thái Nguyên. Trong công tác sân khấu, Trân
không ăn ý với Nguyễn Huy Tưởng, thường trực cơ quan.
Trân lại bỏ đi, lênh đênh đâu mất mấy năm. Tôi chỉ nghe tin Trân yếu phổi, bị ốm rồi về ở
trong núi chỗ Đa Năng. Suối Đa Năng ngang giữa chặng đường Tuyên Quang sang Thái.
Bên Tuyên xuôi Bình Ca đến bến Chương - để tránh máy bay, rồi vào cánh rừng Đa Năng.
ở đấy có lối xuống Thiện Kế chân núi Tam Đảo, có đường rẽ vào châu Tự Do an toàn khu
của Trung Uơng, thẳng thì qua Đèo Khế sang huyện Đại Từ đi Thái. Đa Năng, chặng
dừng chân của lái buôn Tuyên - Thái, của cán bộ đi công tác, của những đoàn quân chủ
lực lên Tây Bắc. Chiến dịch giải phóng Tây Bắc 1952, tôi theo Trung đoàn Thủ Đô xuất
quân từ Kép Le ngoại ô thị xã Thái Nguyên qua Đèo Khế sang Đa Năng ra bến Bình Ca đi
Yên Bái ngược sông Thao vào đèo Khau Vác xuống tấn công tiêu diệt tiểu khu Nghĩa Lộ.
Trần Huyền Trân ở phía trong Đa Năng, túp nhà tựa vách núi đá. Chỗ ấy cách dòng suối to
hay ngọn sông Phó Đáy - cảnh xinh xinh như non bộ. Trân có cái tài làm cho chỗ ở thế nào
ở đâu cũng gọn, cũng ưa mắt. Nhà tranh vách tre trúc, vườn cải, rau muống cạn ra bến đá.
Sau này, Trân về ở Nam Đồng cũng vẫn cái nết đẹp ấy. Giữa phố phường huyên náo mà
tựa như làng xóm, cửa sổ nhìn ra vườn, sau dậu trúc lưa thưa đưa lại mùi hoa sen, lá sen
ở đầm nước xa xa. Những chậu cảnh, cây cảnh, cái ống bút, hòn đá chặn giấy trên bàn
trông đều hay hay. Kim Lân cũng một tính đáng qui ấy. Mấy chục năm nay ở gian nhà như
trong hang mà tề chỉnh lồng chim, cây cảnh đâu ra đấy. Kim Lân đùa triết lý: “Không chơi
với người, nhát người thì vui thú con chim cây cảnh vậy".
Ngày ngày Trân ngồi câu bên suối, chỗ ấy tốt cá lắm. Năm 1954, sau chiến thắng Điện
Biên Phủ, sắp trở về, Lành giao cho tôi đi tìm một số văn nghệ sĩ không ở hẳn cơ quan
nào, cùng về tiếp quản Hà Nội.
Tôi đã đến “thảo lư” ở Đa Năng của Trần Huyền Trân. Tâm sự ông Lã Vọng với cái cần
câu thời thế. Nhưng chẳng thắc mắc gì, Trân đi ngay.
Trân đậm nghệ thuật chèo nhất. Có phải những nghĩ ngợi và tâm trạng mấy năm náu mình
đã đưa Trân đến mê chèo. Về thành phố, Trân lo nghệ thuật của đoàn chèo Cổ Phong. Và
cho đến cuối đời, dẫu có khi tham gia quản lý văn hoá văn nghệ thành phố miếng nghề
của Trân vẫn là chèo..
Tôi có vở kịch nói Giáng Kiều - loại kịch tôi viết để đọc. Trân bảo để Trân chuyển thể sang
chèo. Tôi đã xem chèo Thạch Sanh của Trân. Khi Trân dựng Giáng Kiều, đến đoạn kết,
tôi không biết nói thế nào, dẫu không được như ý mà cũng không muốn nói. Tú Uyên đã
lấy được Giáng Kiều, Trân thể hiện thực thà như đếm. Giáng Kiều khuyên can, nhưng Tú
Uyên không bỏ được rượu. Giáng Kiều thất vọng, Giáng Kiều lên tiên rồi lại thương, lại
trở về đoàn tụ.
Kịch tôi viết kết thúc khác. Tú Uyên được Giáng Kiều, nhưng Tú Uyên không hiểu được
Giáng Kiều chính là lý tưởng của mình. Thế là Giáng Kiều bỏ đi. Có lý tưởng nhưng tâm
hồn ta thấp hèn thì lý tưởng cũng bay mất.
ở rạp Đại Nam, băng quảng cáo Tú Uyên- Giáng Kíều, tôi bảo Trân đừng đề tên tôi cùng
tác giả - Trân đã đề quảng cáo. Vì ngay cách Trân đưa tên Tú Uyên sóng đôi với Giáng
Kiều đã làm xa thêm Giáng Kiều của tôi rồi. Bên hàng rượu bà quán 73 cạnh rạp Đại
Nam, Hoàng Trung Thông đương gật gù rượu suông với tôi Thông nói như vừa nghe sang
rạp: “Chúng ông uống đây mà rạp hát bên kia tường chúng nó đương chửi những thằng
uống rượu. Hay! Hay! ”. Thông không xem và không biết trong kịch những bợm rượu của
tôi chỉ là cái cớ. Tôi bảo Thông: - Không, người ta không chửi đứa uống rượu. Thông hỏi:
Thế chửi đứa nào? Tôi nâng chén lảng chuyện khác. Bởi không phải Thông hỏi thế rồi
sang ngay rạp xem sân khấu chửi ai. Còn Trân thì lận đận và thôi hăng hái đã lâu rồi.
Trân viết theo góp ý và có khi Trân không nghe ra. Hay nghe ra mà mỏi tay, không để tâm
viết lại. Vả chăng, xưa kia, dẫu Trần Huyền Trân đã viết nhiều câu thơ rất hay về rượu với
Tản Đâ, nhưng Trân cũng không phải những hũ rượu như Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Đinh
Hùng.
Năm 1957, thành lập hội Sân khấu Việt Nam. Trân vào thường vụ được cử phụ trách tuần
báo Sân Khấu, ra được vài số. Phải khi xảy ra Nhân Văn, Trân chẳng bận bịu đến, nhưng
đòn hội chợ đương được đà, Trân cũng tai bay vạ gió. Tờ Sân Khấu không tên không tuổi
bị chết bất đắc kỳ tử. Trân cứ mờ dần, ngụp dần, khô héo đi, chỉ còn áo quần tuy giản dị,
nhưng bao giờ cũng trang nhã.
Trân đã gõ nhiều cửa xin phục hồi đảng tịch. Xung quanh khối người lầm lỗi bề bề, mà lấp
liếm, dối trá, khéo ăn khéo nói họ đã được trở lại. Tôi cũng đã xác nhận giúp Trân nhiều
lần. Mãi chẳng được, đến độ Trân không muốn nhớ, muốn nhờ nữa. Chỉ có cái lỗi hai ba
kỳ không sinh hoạt chi bộ, mà việc xảy ra đã ba bốn năm rồi và từ ngày ấy vẫn công tác,
vân hoạt động mà không được trở lại đang. Người rầu rĩ, càng âm thầm mãi đi.
Nhưng dù cố quên, thì số phận cứ đeo đuồi, cứ hành hạ. Trong nghệ thuật, anh chỉ buộc
tội to nhất đến nhân vật bị ma men ám ảnh, thi trong đời, sấm sét đã khủng bố cả thân
phận, cả hình hài anh.
Anh chị đông con, có một con gái học khá, được ra nước ngoài học cao học. Cháu đã
yêu một thanh niên nước ấy. Một năm nghỉ hè, nó về Hà Nội, có ý ướm hỏi gia đình,
nhưng xem ra bố mẹ không đậm.
Hồi ấy dan díu với người nước ngoài còn là cái xấu, cái lo lắm. Chúng nó cạn nghĩ thế nào
mà khi trở lại bên Hung, con bé đã quyên sinh vào ngày sinh nhật, ngày cha mẹ đẻ ra nó.
Thằng kia cũng đem cái chết của mình để tạ lòng người yêu, chết luôn. Cái lọ đựng tro
đứa con gái được gửi về, anh chôn dưới chân giường ở Nam Đồng. Một hôm, nhà cháy.
Chẳng biết có bới được lọ tro khốn nạn ấy không. Chỉ có mẹ Trân, bà lão thọ cả trăm tuổi
ngồi tính từng ngày, đợi cháu, hỏi bao giờ cháu về.
Trân lâm bệnh hiểm nghèo rồi mất. Những tháng ngày cuối cùng của anh, tôi không dám
vào thăm. Nhìn trong hố mắt đen xạm nước mắt rỉ ra tôi không thể nhìn, tôi không nỡ dày
vò tâm tư anh khổ cực đến thế. Bệnh hoại thư đã lấy của anh mất hai bàn chân, rồi đầu
gối, rồi dỡ đến cả xương đùi, anh chỉ ngồi lên được giữa cái săm ô tô.
Lê Quang Đạo đến nhà viếng Trân. Bí thư ban cán sự đảng thành phố thời bí mật trong
bóng tối đã từng qua lại cái lều vó bè cúa mẹ Trân ở Cống Trắng. Trong mái tranh, Trân
đã cất những tờ báo Cứu Quốc, báo Cờ Giải Phóng. Nhớ cái tình của người đồng chí
thuở ấy, nhựng mấy ai thấu được cuộc đời Trân trầm luân đến thế.
Tôi thơ thẩn bên hồ đến mãi khuya. Những trang đời cũ mờ mờ trên mặt hồ sương, hay là
mưa, trong mưa còn cái bóng trăng trắng trôi bài thơ Cái thai hoang.
Hôm sau, cô Đàng đến hỏi: “Tối hôm qua có đứa trẻ con bị vứt xuống hồ, hả bác?”. Cô
Đàng trên tiểu khu xuống hỏi, thế là Dương không đi đến nơi rồi. Dương vứt cái xác vào
đâu. Tôi bảo cô Đàng:
- Đồng chí Dương đã lên trình khu. Cái thai chết ngoài hồ từ lâu.
Cô công an mở sổ ghi sự việc. Một chốc, Dương đem trả xe đạp, khuyết mất ba cái nan
hoa. Tôi hỏi:
- Đêm qua trình công an chưa?
- Tôi trình ngay rồi. Anh nhận tiền bồi dưỡng cho tôi không có thì anh cho mấy chữ, tôi lên
lấy.
Mẫn lắp cho tôi nan hoa mới. Mẫn bảo:
- Cái thằng tù sổng chỉnh tôi là bê quay sợ xác chết, là thẻ thương binh giả, còn nó...
Đứa nào đã hớt lẻo với Mẫn rồi. Tôi nói:
- Đâu có!
- Nó nói chỗ gốc cây, anh đứng đấy. Thằng tù sổng, tôi sẽ truy giấy tờ bắt nó đi tù thật mới
được.
Mẫn đã chữa xong. Mẫn nhảy lên, đạp đi thử một vòng rồi cúi xuống bơm dầu vào xích..
- Tôi sợ cả chuột chết. Cũng khỉ thật. Hôm lên đê chôn chuột chết bả, tôi nhường cho
thằng Dương đi đào hố. Anh tưởng tôi làm thế để giúp cho một mình thằng Dương được
nhận mấy xuất bồi dưỡng. Không, tôi ghê chuột chết. Cái thằng tù sổng, tôi phải làm cho
ra nhẽ, nó không yên được với tôi.
- Thôi, đoàn kết làm việc.
- Tôi không đoàn kết với thằng phản động.
- Được rồi.
ở cơ sở, tất tật mọi việc lại dội xuống, thuế nhà đất tiêm phòng dịch, dẹp hàng rong, bộ
mặt xã hội và cuộc sống thu nhỏ trong tổ dân phố. Tôi hay nói được rồi", “yên trí", “để đấy",
nói nhiều quen miệng. Mai rồi mai lại việc khác đè lên. Không quên, mà gác lại Chẳng làm
thì rồi cũng tới, cũng xong, không dở dang, cứ đưa đẩy, chống chế. Công việc cao su đã
thành thói quen và cứ thế, cứ thế, ngày tháng qua.
Làm đảng uỷ, lại công tác thường trực. Hà Nội mời giúp, tôi giữ một chân ở hội Văn Nghệ
và, với cơ cấu ban ngành của thành phố, tôi phó chủ tịch Mặt Trận phụ trách văn xã (đến
tận bây giờ 1997) và tôi uỷ viên hội đồng nhân dân. Các công việc cứ đi thành luồng
chẳng bận vướng nhau. Cuối năm, đoàn kiểm tra văn xã của Mặt Trận, ban Nếp Sống
Mới đi xem xét tĩnh hình lễ bái, mê tín. Tôi làm mọi việc, có ý nghĩ như tôi đọc sách.
Sang giêng, mở lớp học chữ quốc ngữ. Không bỡ ngỡ, tôi đã mấy năm chăn các lớp
truyền bá ở quê.
Chỉ khác thời Tây thì làm dấm dúi, bây giờ thành phố cấp không cho học viên giấy bút,
biết chữ rồi mở thêm lớp chống tái mù. Cụ Thắng là giáo viên, là trưởng ban, là cổ động
viên đi gọi học từng nhà. Bàn ghế và tiền điện, lớp ngay ở trụ sở, không phải đi quyên
đồng nào. Mẫn bảo tôi bắt Dương học lớp tái mù. Dương chỉ biết vạch một chữ ký, không
biết đọc, đích xác thế.
Mẫn nói Dương là ban bảo vệ, Dương phải học. Dương lắc đầu:
- Tôi không xấu hổ đâu, dốt thì tôi đi học. Nhưng bận quá, việc tư việc công vắt lên cổ, học
không nhớ nữa. Thôi thì có bằng nào chữ thì phục vụ bằng nấy.
Người đến học ngồi kín chỗ, lại còn người ngấp nghé đứng ngoài. Hai lớp mới đủ, lại
thêm lớp ở trụ sở dân phòng, đèn điện bắc ra cả vỉa hè. Tôi lên lĩnh bút giấy về phát cho
học sinh, buổi đầu tiên cũng là khai giảng.
Cả mấy chục người hai lớp mờ cùng một lúc. Mỗi người nhận tập giấy, cái bút quản gỗ
có ngòi, lọ mực xanh Cửu Long, như trẻ con đi học. Các bà các chị, người ở nhà, người
chạy chợ, ông phó may, ông thợ cúp, người khuân vác ngoài ga... Rồi đến hôm bế mạc
mà còn chục người đã là kết quả. Lớp truyền bá ngày trước cũng thế, không thể giữ đầu
voi, nhưng được cái đuôi chuột đã quí. Tôi đã nghĩ trước thế, sao cũng lắm người mù chữ
nhỉ?
Tôi phát biểu khai mạc. Nhìn mặt nhiều vị mọi khi đi họp thế mà hoá ra không biết chữ.
Chỉ được cái bẻm mép tán gẫu. Người ta nhận xét tôi kỹ lưỡng đến tức cười. “Lúc ông ấy
nói, ông ấy có cái gân nói nối với gân chân, cứ đương nói lại nhấc một bên gót.
“Các bà để ý mà xem". Bà xe gạo nói oang oang thế lúc đợi khai giảng. Tôi cũng để ý tật
tôi. Quả là khi nói, chốc chốc tôi lại nhấc một bên gót chân. Tôi đương đứng nói. Bỗng
“choang” một tiếng, vỡ cái bóng điện tối om. Nhớp nháp trên trán, tôi sờ thấy ươn ướt,
nhưng ngửi không tanh, không phải chảy máu.
Chánh phó bảo vệ chạy sục vào trong ngõ. Có người lấy ngay cái bóng đèn ra cho mượn.
Mẫn về nói:
- Một thằng vọt ra phố ngoài.
Dương hoảng hốt: “Quân phản động phá hoại... Anh có làm sao không?”. Tôi cúi nhặt
được nửa quả mõ ném vào mặt tôi. Quả mõ đã chín nát nhoe nhoét, trơ cái hạt cứng.
Trán tôi sưng bằng quả ổi. May. Nếu nh ích xuống một tý nữa thì trúng vào mắt. Về nhà, vợ
hỏi, tôi bảo: "Điện tắt, đi vấp trán vào tường".
Ai ném, đứa lưu manh ngứa tay hay đứa phá lớp, để nó khỏi phải đi học, nó uất ức thù
hằn tôi hay người nào, đoán già đoán non cũng không ra được căn do. Tôi chỉ lạ quanh
đây không có cây mõ, phải lên tận bờ hồ Hoàn Kiếm, cạnh chỗ mấy cây lộc vừng mới có
mỗi một cây mõ cổ thụ, mà chắc cũng ít người biết đấy là cây mõ, cây rừng.
Những lớp học bình dân mở ra vẫn kĩu kịt mỗi năm một kỳ thi tốt nghiệp. Quả là về sau
vắng nhiều, nhưng cũng đến dạo báo động có máy bay Mỹ ngày nào cũng vào trinh sát
thành phố, các nhà hát, rạp xiếc bị cấm tụ tập, các lớp mới nghỉ học.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XIII
Đầu năm ấy, chiến dịch lao động đào sông Tô Lịch. Lao động công ích, mỗi năm một
công dân thành phố góp bảy ngày bằng sức hoặc bằng tiền. Đào sông cũng như đắp
công viên Thống Nhất, được trừ điểm lao động công ích lại được trả công đào. Không đi,
thuê người khác đi hộ. Lấp mạch sủi đê sông Cái, đào hố chứa rác, vét bùn, đều được
tính cả. ấy thế nhưng phải tổng vệ sinh trước lễ Quốc Khánh đã Sáng chủ nhật, sáu tổ lấy
sáu người đem chổi và cái hót rác lên trường Trưng Vương tiễn đồng bào chạy nước về
lại dưới bãi- thông tri viết thế, nhưng cung cách chỉ dẫn các thứ vậy thì hiểu nghĩa là lên
quét dọn làm vệ sinh cho nhà trường các chỗ đồng bào đã tạm trú cả tháng qua.
Rồi tôi lên khu nghe về sông Tô Lịch và công việc đào sông. Sông Tô Lịch chảy qua làng
tôi. Bút danh tôi có chữ Tô cũng bắt đầu từ dòng sông này - nhưng ấy chỉ là dòng sông
mơ mộng trong sử sách và trong câu chuyện của ngườì già mà thôi. Sông Tô Lịch đã bị
lấp cửa từ bao đời. Khúc sông còn lại chui ngay dưới lòng phố đã thành cống nước thải
ra đến đầu làng Thụy thì nổi lên chảy qua các vạc nấu dó làng Hồ, làng Đông, làng Yên
Thái. Những đầm nước để ngâm dó, đãi bìa, vào mùa hạ, trẻ con các làng ra câu cá, chỉ
có sáng kiến của tôi là nói nhạt nhẽo không hung hăng như ông cán bộ nọ. Cái con sông
Tô Lịch trong tưởng tượng đẹp ấy đến bây giờ hơn bốn mươi năm sau vẫn chưa ai trông
thấy nó cũng những chuyện trên trời, như sự tích con Trâu Vàng mà sông Tô Lịch là vết
thừng, là cái đuôi Trâu Vàng, là chuyện của cán bộ bốc phét.
Người đi đào sông thành tlểu đội, tập trung ở ngă tư giữa phố. Tôi ra nói động viên mấy
câu rồi xuất phát. Mọi người lên xe đạp, buộc cái mai, cái sọt - công trường cũng phát
dụng cụ, nhưng của mình làm thuận tay hơn. Việc được giao khoán cho mỗi tiểu đội. Tát
nước, hót bùn, chặt cây, đào đất dánh đống xong ra trả thẻ, người công trường đến ngắm
nghía kiểm tra, rồi về lẻ tẻ, không phải đợi cả lũ như lúc đi.
ở mỗi ghi đông xe treo cái cặp lồng nhôm. Bấy giờ chẳng cứ buổi lao động, mà đến sờ
làm, đi bộ hay xe đạp, người người đều cặp kè cái cặp lồng ăn trưa. Tương tự, trong
chiếc hộp nhôm dưới để cơm, lẻ bo bo như xôi nếp cái hay bột mì xào hành mỡ. Ngăn
trên, miếng cà, vài ngọn rau muống xào, dúm tép kho, gói muốì rang. Đến trưa, mở cơm
ra ăn rồi ngả lưng đâu đấy.
Tôi chưa tường mặt cái công trường sông Tô Lịch. Tôi chỉ đưa người đến một lần. Không
ai bảo trưởng ban được miễn, nhưng tôi cũng không nghĩ tôi phải đi ít nhất tôi cũng khác
người. Tôi đi tuần, tôi muốn đi, chứ tôi bảo "bận làm nốt báo cáo” thì tôi ở nhà cũng chẳng
ai trên tôi nhắc tôi. Vả chăng, tôi vai thờ, đến chỗ gồng gánh khiêng vác, tôi biết xoay xở
thế nào. Lần sau cùng tôi đi với tổ đến nửa đường tôi về. Tôi lại trông thấy Tiến thứ
trưởng bộ ngoại giao, quần áo nâu, mũ lá, cái mai buộc dọc khung xe đạp, nhưng không
thấy cái cặp lồng. Tôi khó chịu. Rồi nghĩ: ông này trước bán thuốc lào ở phủ Từ, đã quen
quảy, thì lại thấy là thường. Ông không nhìn thấy tôi, mà tôi cũng không muốn trông thấy
ông ấy có cái mai buộc xe đạp.
Lại đến việc cưới cũng nhộn nhịp. Hồi ấy, cưới xin nhiều cái cũng hay. ở ngoài "hậu
phương” đưa vào thành phố mốt cưới tiệc trà vỗ tay "vui duyên mới không quên nhiệm
vụ".
Những đám cưới giản dị khiến tôi nhớ lại ngày chúng tôi lấy nhau, còn "mới” hơn cả các
đám cưới kháng chiến. Năm 1947, sau chiến dịch Thu Đông tôi ở chợ Rã trên Bắc Cạn
về nơi gia đình tản cư ở Phú Thọ. Chẳng cưới, không đăng ký kết hôn, chẳng có gì nhớ
mà nhớ suốt đời. Đã ra năm mươi năm qua, tình nghĩa đối với nhau, không có gì để soi,
để thử bởi không soi thử được, như là tự nhiên và đã là tự nhiên thì mãi mãi.
ở Hà Nội, nếp sống mới thêm cái thiếp báo tin họ hàng và bạn bè. Có nhà hôm sau sửa
vài mâm, thiệp đính kèm miếng giấy nhỏ mời dự "bữa cơm thân mật”. Đám cưới tất cả
các con trai con gái tôi rồi cũng vậy. Có thế thôi.
ở phòng cưới nhà hàng Phú Gia chiều thứ bảy nào cũng liền mấy đám cưới phải đặt
trước mới xếp được chỗ.
Cưới tiệc trà chỉ lắm trẻ con. Bàn ghế kê liền khít, khách hai họ chẳng ai biết ai. Tôi họp
tình hình trị an trên khu nghe báo cáo, phòng cưới nhà Phú Gia bên Bờ Hồ đông người
qua lại. Công an để ý một người mặc đại cán đóng khuy cổ cẩn thận đứng ngoài cửa, khi
đông người vào, người ấy cũng bước vào, đám tiệc trà trước và đám sau liền như thế.
Công an giữ lại, nhốt cho nhịn đói một đêm một ngày rồi thả. Tối thứ bảy, cũng như đi
chơi vào cắn mấy hạt bí, lấy mấy cái kẹo, "tôi không phải là trộm cắp”, anh ta khai thế.
Nhưng hôm lên nhận đăng ký trên khu thì long trọng và ý nghĩa. Hội trường lớn, hai họ và
bè bạn, cả ban đại biểu phố chúng tôi. Người nhà mời trầu nước, thuốc lá. Vị phó chủ tịch
khu đứng lên nhắc nhở và mừng hạnh phúc cô dâu chú rể rồi đưa giấy đăng ký kết hôn,
bắt tay chặt chẽ và chụp ảnh chung.
Năm cách mạng thành công, tôi đã đi dự đám cưới Trần Huyền Trân- Hạc Đính tổ chức
trên phòng đăng ký kết hôn của ủy ban Giải Phóng cũng trang nghiêm như thế.
Một thanh niên đợi tôi ở cửa.
- Bác xác nhận hộ khẩu cho cháu.
- Việc gì thế?
- Cháu đi xin giấy đăng ký kết hôn.
- à nhớ rồi, cậu này. Hôm nào lễ nhận đăng ký trên tiểu khu nhớ báo sớm tôi mới thu xếp
đi dự được. Hôm nào?
- Trên khu thôi không tó chức lễ đăng ký nữa ạ. Bảo tại đông quá, sắp hàng cũng hết chỗ,
tổ chức không xuể. Chúng cháu chỉ lên nộp đơn, trên ấy hẹn ngày lên lấy.
Thế là lại như cũ. Lại đến uỷ ban ngồi ghế băng đợi gọi như đi làm khai sinh, đi đóng thuế
thổ trạch, hay nhận biên lai chó đã tiêm phòng dại... Chẳng ra thể thống gì.
Nhưng việc cưới, ăn ở với nhau, đăng ký hay cưới, có hay không, ngổn ngang trăm nỗi
không bận đến khu, đến thành phố mà ở đường phố thì lúc nào cũng rối bời bời.
Có đơn của cô Dung kiện người ta bỏ thuốc độc vào bát nước cơm của con cô ấy. Mới
như hôm nào, Dung ở cữ thằng bé, thế mà đã được hơn một năm.
Bé kháu khỉnh như con chó con, lẫy cứng. Hàng phố bảo mặt thằng bé lau láu hệt mặt anh
Bá - Bá ở cùng số nhà với Dung. Dung bỏ chồng, lấy nhau không cưới, không đăng ký, bỏ
nhau cứ như không. Có lần người chồng lảng vảng về, mẹ con cô vác gậy, cầm dao đuổi
đánh kêu: cướp, làng nước ơi, cướp! Thằng kia chạy bán chết. ấy thế nhưng thỉnh thoảng
vẫn lại mò về, sáng sớm đi, có người nhìn thấy. Dung chạy chợ, gặp món buôn đi bán lại.
Thằng cu mới đẻ, Dung cũng chẳng đi khai sinh. Chặp tối Dung ẵm bé đứng vỉa hè, cười
nói nhởn nhơ với người qua lại..
Mấy hôm ấy vợ Bá ở quê ra. Mỗi vụ khi nông nhàn rảnh rỗi chị ra, có khi bốn mẹ con đi
cùng. Nghề đời, tiếng đồn có gió bay, không bỗng chốc mà tốn kém cả ngày đường tử
Ninh Bình ra, ở làng chị đã nghe tiếng thế nào rồi. Nhưng mà chị ấy hiền lành chít khăn
vuông mỏ quạ, chúng tôi vào nhà thấy đương ngồi, đầu rũ xuống bên tường, như con gà
dây. Bá đứng cạnh cửa điếu thuốc lá phập phèo, trông ra đường. Nhà này có ba hộ,
người lớn trẻ con chui rúc một cái buồng, mỗi hộ mỗi góc.
Dương yêu cầu mọi người phát biểu. Cô Dung cô đơn được nói trước. Đương tự dưng,
Dung nức nở vừa khóc vừa kể lể:
- Tôi đi chợ, bát nước cơm chắt để cho cháu ở chạn bát đầu hè, đậy cái rổ cẩn thận. Đến
trưa về, thấy bát nước đục vẩn, vón từng cục. Tôi không dám cho cháu ăn. Nó hại mẹ con
tôi, nó bỏ thuốc độc giết cháu ối giời ơi...
Dung bưng mặt khóc hu hu. Gian buồng đông ních người, thêm người ngoải cửa thò cổ
vào. Ba hộ ba góc trong nhà ngoài hiên, nằm trải chiếu xuống gạch, nhà rỗng tuyếch như
cái nhà trọ ngoài bến xe. Chẳng biết thổi nấu, ăn uống, ngủ nghê ra sao. Người hàng
rong, người chạy chợ đi vắng tối ngày. Cả chục người chui vào chui ra, thằng Bá có nằm
lẫn với cái Dung nửa đêm gà gáy lúc nào chẳng được.
Bát nước cơm bảo vệ Dương đã bưng vào đặt giữa chiếu. Trông lờ lờ màu bột nước
cơm loãng, biết sao.
Dương dõng dạc cất giọng.:
- Số nhà này có mấy hộ, tôi đã báo tối nay phải có mặt đầy đủ. Đủ chưa, thiếu ai không.
Người ngoài cửa không được ngồi lẫn vào đây. Việc này nghiêm trọng, phạm đến an
toàn, trật tự xã hội. Chị kia ở đâu đến, đến từ bao giờ, đã khai báo tạm trú chưa?
Vợ Bá ở quê ra, cả mấy nhà quanh đây đã biết mặt nhiều năm nay, có lần chị còn đi chào
hỏi láng giềng, mà Dương cứ dửng dưng hỏi thế.
Bá đáp:
- Dạ, chưa ạ.
- Thế thì không được. Ra khai báo tạm trú ở mấy ngày ngay bây giờ, không thì sáng mai
tôi đuổi.
Tôi nảy ra sáng kiến: Cho gà mổ thử bát nước cơm thì biết có độc hay không.
Dương nói vun vào:
- Sáng kiến ông trưởng ban hay đấy.
Tôi lại hỏi:
- Nhà này có nuôi gà không?
- Không ạ.
- Các nhà quanh đây có gà không? Cho thử, gà chết thì được đền. Nhà nào có gà?
- Không ạ.
ở ngoài cửa có người nói: "Gà chết thì được nhận cái giấy biên lai. Chả chơi! ”. Mọi khi,
tôi vẫn nghe bốn phía tiếng gà gáy ran nửa đêm như ở trong làng.
Gà nhốt chuồng, hầu như nhà nào cũng nuôi. Nhưng cách trả lời ấy là không ai muốn cho
mượn. Cái mẹo gà uống thử nước cơm của tôi đâm ra vu vơ, vớ vẩn, .
Ngoài cửa lại thì thào, rồi tiếng cười...
Dương lại nói như quan toà: .
- Cho gà uống nước cơm cũng chưa chắc. Có thuốc bả thì gà chết, nhưng có con chết
ngay, có con khặc khừ vài hôm. Không được. Bát nước cơm này mai sẽ đem lên trên bộ
Y tế xét nghiệm. Nhưng trong hộ từ hôm qua chỉ có chị này là người lạ, lại ở nhà cả ngày,
chị là đối tượng bị tình nghi. Từ nay cho đến hôm nào trên cho biết kết quả xét nghiệm,
cấm không được đến đây, chị phải về quê đợi toà án gọi. Chị mà thò mặt đến, đề nghị
đồng chí Đàng công an cho bắt ngay. Tôi kết luận thế, anh trưởng ban có phát biểu, cô
Đàng có ý kiến không?
Mẫn đã bỏ đi từ lúc nãy. Tôi và cô công an để im chẳng biết nói thêm thế nào. Thế là chính
quyền đồng ý rồi. Hôm nay Dương hoạt bát hách dịch điều khiển, ở các cuộc họp khác
Dương thường nhẹ nhàng... đề nghị anh cho... đề nghị đồng chí... Vợ Bá lại gục mặt
xuống nữa, hức hức nảy cái cổ. Cuộc họp xử kiện chỉ một mình cái Dung nói và Dương
phán xét.
Ra về, tôi hỏi Dương:
- Con Dung thuê anh mấy đồng đuổi vợ thằng Bá?
Dương đứng sững:
- ôi trời, trưởng ban phát biểu thế thì chết mẹ em. Không đâu, không...
- Có thì từ giờ chừa đi, không thì thôi. Trắng trợn quá.
- Thằng Đại, thằng Mẫn đã ton hót nói xấu em, em biết rồi.
Có hôm gặp Dung đi chợ, tôi nói:
- Cô Dung đuổi người ta khéo nhỉ?
Dung không chối giãy nảy như Dương, Dung cười tít mắt, ỡm ở hỏi lại:
- Bác phê bình em đấy a?
Vừa xong vụ hoà giải, đến một đám cưới buồn. Tôi nhận một cái phong bì đề giấy mời,
nhưng lại dán kín, nét chữ Nguyễn Sáng. Hôm nào chúng tôi cũng đi uống bia, mà lại viết
thư? Nguyễn Sáng đương ký hoạ tôi một tranh sơn dầu. Tôi không phải ngồi, Sáng nhớ
dáng mà vẽ. Sáng đã mang đến nhà tôi treo. Tôi mặc áo sơ mi trắng, một tay chống lên
má, trên một nền hoa cúc vàng. Sáng bảo: “Bà Cúc bà ấy gác đằng sau ông đấy". Nhưng
mấy hôm sau, Sáng thấy tôi mặc áo nhung đen kẻ, cổ ni lông nâu giả lông cừu, Sáng nói:
“Những màu này hay hơn”. Sáng xách cái tranh đi làm lại.
Hay là thư hẹn giả tranh, hẹn đánh chén mừng tranh. Không phải. Thư Nguyễn Sáng mời
vợ chồng tôi chủ nhật này dự đám cưói Nguyễn Sáng lấy Thuỷ. Việc vui lớn này, một tối
Nguyễn Sáng theo tôi đi tuần rồi vào uống bia ở ga Hàng Cỏ đã nói, lại một lần quán Gió
trong công viên, Sáng nói lại, nhưng cũng chưa hẹn hôm nào. Và tôi cũng ử hữ biết vậy.
Đã lâu, hoạ sĩ Sáng thôi ăn kem bùa mê hàng Tiến Đạt Nguyễn Sáng theo đuổi Thuỷ, một
cô ngồi mâu trường Mỹ Thuật. Thuỷ trắng trẻo, nhỏ nhắn, buồn bã gầy úa như giò hoa huệ
héo. Đến nhà Sáng, những khi Sáng vắng thấy Thuỷ nhặt rau, bắc lò thổi cơm. Tôi nhắn
hỏi Sáng xem cưới xin thế nảo, nếu nhố nhăng thì tôi không đi. Sáng bảo: cưới đời sống
mới, khẩu hiệu là thanh lịch, tiết kiệm, lịch sự. Chương trình và thực đơn sẽ: Uống nước
chè, cắn hạt bí, không kẹo bánh, không vỗ tay. Khách không mang đồ mừng. Không có hai
họ, chỉ có cô dâu chú rể ra chào khách. Chỉ mời- Sáng đếm ngón tay, độ tám hay mười
bạn, nếu đến đủ. Không tính dăm đứa cánh trẻ phù rể, phù dâu. Được không?
Tối hôm ấy cùng với vợ chồng tôi, có hai bác Nguyễn Tuân và Sỹ Ngọc, Mai Văn Hiến,
hình như thế, tôi không nhớ thêm có ai nữa. Tôi ngượng nghịu và buồn buồn thế nào,
không muốn trông tỏ mặt mọi người ngồi đấy Phòng họp của hội Văn Nghệ, đèn nêông
sáng trắng, chiếc bình hoa lay ơn tím giữa cái bàn dài và mọi thứ hạt bí, ấm nhôm nước
chè, cũng chị phục vụ mọi khi, như buổi họp thường ngày, đúng như Sáng đã báo trước.
Chú rể Sáng đầu vẫn đội mũ cát két vàng ố kẻ ca rô thường ngày che cái trán hói, nhưng
bộ đồ trôpican xanh nhạt còn mới, là thẳng nếp và đi giày da đen. Chú rể ra tận thềm đón
khách.
Không nghe tiếng cắn hạt bí ti tách, cũng không ai to nhỏ trò chuyện. Chuyện gì ở cái đám
cưới vừa như buồn cười lại như thương thương này.
Nguyễn Sáng trịnh trọng đứng dậy.
- Tôi thay mặt vợ tôi, xin cám ơn các bạn có lòng yêu đã tới dự lễ thành hôn của chúng tôi.
Đến giờ rồi, các bạn ngồi chơi tôi xin phép đi đón dâu.
Rồi Sáng với mấy thanh niên, cũng giầy và quần áo mới- chắc mấy cậu sinh viên Mỹ
Thuật, cả bọn ồn ào ôm những bó hoa xuống bậc thềm trước cửa. Không biết ra ngoài
đường họ lên ô tô hay đi xe đạp. Chúng tôi ngồi chờ phút trọng đại của đôi vợ chồng mới.
Nhà Thủy ở phía sau phố Lò Đúc, nhà đông anh em, bố cô hình như đạp xích lô hay xe ba
gác. Tôi đã uống rượu nem rán với bố Thuỷ ở cái gác con con nhà Sáng. Ông ấy kém tôi
hai tuổi, chưa chắc đã hơn tuổi Sáng. Thế nhưng Sáng lễ phép, khúm núm xưng “con” nhẹ
nhàng. Lần sau Sáng gọi tôi đến ăn bún chả, nhắn là Thuỷ làm và khách chỉ có “Ông cụ” và
tôi.
Tôi không đến nữa.
Có đến ngoài chín giờ mới thấy chú rể về. Cái mũ lưỡi trai lệch vẹo một bên, vẫn bộ quần
áo đẹp. Sáng ôm một bó hoa rực rỡ, mặt đỏ rừ. Chắc lại mới nạp thêm rượu. Các bạn
trẻ phù rể xúm hai bên, không ra khoác vai, không ra xốc nách. Họ vẫn cười cợt, vui nhộn.
Mọi người vào hết rồi mà chưa thấy cô dâu.
Nguyễn Sáng lại chắp tay, cất tiếng lễ phép như lúc đi:
- Kính thưa hai họ, đúng đến giờ đón dâu, Thuỷ bị mệt. Thuỷ nhờ tôi xin lỗi các bạn, vợ
chồng tôi xin lỗi các bạn đã đến mừng chúng tôi. Bây giờ thì mời hai họ giải tán.
Hôm sau, Mai Văn Hiến kể tôi mới biết. Sáng đã sửa soạn đám cưới thân mật như thế.
Buổi chiều, Thuỷ đi chợ Hôm, bị ngất ở chỗ hàng bán hoa. Thuỷ vốn bệnh tim. Xe cấp cứu
đến chở Thuỷ vào nhà thương Phủ Doãn. Sáng đã biết cả những trắc trở ấy, nhưng im
lặng, sợ nói ra ở chỗ vui mừng thì bị sái. Lúc Sáng bảo là đi đón dâu, nhưng Sáng và các
bạn trẻ đã đi uống ở đâu rồi quay về.
Hồi này, làm mạnh công tác chống mê tín. Tôi cũng vừa đi chống mê tín hụt về. Công tác
văn xă của Mặt Trận thành phố, chúng tôi chọn đi đền Ghềnh.
Tôi chẳng soạn kế hoạch thế nào, chỉ nghĩ nhẹ nhàng đến xem ra sao rồi về rút kinh
nghiệm, điều cốt yếu trên dặn là phải từ việc cụ thể phân biệt ra cái mê tín dị đoan, cái tín
ngưỡng. Đền Ghềnh bên kia sông, có tiếng xưa nay. Thuở trẻ, năm nào hội đền Ghềnh tôi
cũng đi. Nhưng chỉ còn nhớ quà hội đền có bánh đa, đa vừng, đa đường, bánh đa gối và
người trong làng ra bán những xâu khế cơm không ngọt không chua. Bao nhiêu năm rồi,
bây giờ, ngoài cửa đền vẫn bán bánh đa và những xâu khế cơm - nhưng bánh đa bột sắn
và con mắt, cái miệng tôi làm sao mà còn thấy được các thử ấy ngon ngọt như ngảy
trước nữa.
Đền đông người lễ, nhà đền có tiệc. Chúng tôi đi như những người đi lễ, không giới thiệu
trước, không ai biết đoàn công tác. Cho nên bị chèo kéo ngay vào chính điện, không kịp
xuống nhà hậu xem có nhảy đồng không. Có lẽ nhà đền có vẻ nghi ngờ dạng cán bộ, công
an, đã chặn khéo: “Nhà đền chúng tôi cúng thánh, không theo việc đường âm". Con công
đệ tử đến tuần về lễ, ăn cỗ chay. Có đến cả chục mâm bày ba gian giữa. Dưới nhà hậu
còn nghe tiếng hát, tiếng người nói, chắc dưới ấy cũng đương đánh chén. Chỉ không biết
cỗ chay hay cỗ mặn. Ngay bấy giờ tôi không nghĩ có thể có người đã báo cho nhà đền
biết trước đoàn kiểm tra đến.
Chúng tôi được mời ăn cỗ. Chúng tôi không phải đặt tiền thật vào mấy lá vàng lá đem để
vào án thư.
Cỗ chay có rượu, lúc đầu vò rượu để khuất sau cột. Tôi cười, bảo một cụ đi lấy rượu: “Ta
cứ tự nhiên, rượu cũng là cỗ chay không phải là sát sinh”. Được khách thành phố buông
cương, ông bưng luôn ra cả mấy vò. Đến lúc về tôi còn ngây ngất cả hai chân, thế là thất
bại, chẳng thu hoạch được cái mê tín, cái tín ngưỡng khác nhau thế nào.
Trên trời thì mênh mang nghe báo cáo được, nhưng việc ở sát sườn trong phố thì không
thể lơ mơ để yên.
Dương nói:
- Người ta bảo nhà mụ Na hay xách túi ra chợ, túi có maý nải chuối xanh, bó hương. Mụ
đứng trong cửa, mắt trước mắt sau rồi mới bước ra, tôi nghi mụ đi đồng bóng..
- Theo dõi kỹ xem sao.
Mấy hôm sau, Dương lại nói:
- Nhà mụ buôn chuối, buôn hương.
Tôi nói:
- Chắc là nó đi bán đồ cúng. ở bên đền Ghềnh người ta đem cúng nhiều chuối xanh, cứ
ngày ngày nhà đền lại quảy gánh chuối với từng túi hương thẻ sang chợ Đồng Xuân.
- á à! Thế là nhà này mê tín dị đoan rồi.
Tôi nói:
- Phải cẩn thận không có phạm vào tự do tín ngưỡng.
Cúng lễ là tín ngưỡng, ngồi đồng, xem bói, sóc thẻ mới là mê tín. Cái này cho đặc công
Mẫn lặn vào tận nơi xem đích xác ra sao.
Một buổi tối, Mẫn hí hửng nói:
- Đền thờ ở trên gác, lạ lắm. Chuông mõ rồi hát ê a, người ngồi đảo đầu như rượu say.
Nhà dưới đóng cửa cài chặt, nhưng ngoài đường cũng nghe được tiếng chuông mõ chập
cheng. Thế mà không ai đi báo.
- Ai dại mà đi báo để nó chửi cho ủng mả! Mụ Na đanh đá có tiếng.
Tôi nói như ra lệnh:
- Chúng ta phải giải tán cái mê tín dị đoan này, không để nó lây lan.
Tối rằm, tổ công tác đại biểu và bảo vệ đến nhà mụ Na. Một ông đứng tuổi, dáng bệ vệ
công chức cũ.
Nhưng ông không sẵn cái cười xã giao tứ thời, mà ông lé mắt nhìn trộm. Bộ ria huê kỳ
lốm đốm, hồi trẻ chắc du côn du kề, bây giờ trông còn cáo lắm. Ông chắp hai tay như ra
sân khấu:
- Chào chư vị.
- Chúng tôi kiểm tra sổ vãng lai.
Ông lấy trong ngăn kéo ra quyển sổ bọc giấy bóng cẩn thận, đặt lên mặt bàn. Trong khi cô
Đàng mở, chăm chú xem từng tờ các mục tạm trú, tạm vắng. Tôi hỏi:
- Nghe có tiếng mõ trên gác?
Ông ta cười hề hề:
- Các vị khéo vờ. Có bắt bỏ Hoả Lò bọn ngồi đồng ngồi kềnh thì xin cứ việc lên.
Rồi ông làm điệu giơ hai tay, xin mời. Lại lẩm bẩm, không biết rủa ai “Con giời đánh, cho
mày chết bỏ mẹ mày! ”
Chúng tôi xộc lên gác. Cái gác lửng cạnh sân thượng, trong phòng mù mịt khói hương.
Góc trong, người cung văn già, áo đại cán, chòm râu lưa thưa, quần vải nhuộm cậy, cây
đàn với người nghiêng ngả ê a bên một bà, tôi đã nhận ra mụ Na béo phục phịch. Mụ Na
kéo trên đầu xuống một vuông nhiễu điều, miệng nhai trầu, mặt đỏ như uống rượu. Xung
quanh, mấy bà nạ dòng đương rì rầm khấn vái.
Thấy người lố nhố, tất cả im bặt.
Trên bàn thờ, khói hương trắng mờ. Mấy nải chuối xanh chồng lên nhau giữa mâm ngũ
quả. Hai bên chân án thư dán hai con thanh sà bạch sà bằng giấy viền trang kim vàng
choé miệng há ngậm hòn ngọc giấy điệp nhấp nhánh. Cái đuôi con rắn ngoắt lên.
Mấy người quay ra, ơ mặt nhìn cô công an. Cô Đàng đội mũ lưỡi trai, áo kà ki vàng cứng
nếp, nom oai vệ nhất. Tưởng cô ấy sắp lấy còng số 8 ra xích cả lại.
Mụ chủ nhà bỏ hẳn vuông nhiễu trên đầu xuống, trông rõ không phải vuông lụa vuông
nhiễu, mà là hai ba cái khăn quàng đỏ của trẻ đi học khâu ríu lại.
Tôi hỏi:
- Bà là bà Na?
- Thưa vâng.
- Thế này là tụ tập trái phép làm mê tín dị đoan.
- Nhà cháu cúng người ốm.
Lúc ấy cái ông có bộ ria lởm chởm ở nhà dưới đã lên:
- Chúng nó đồng bóng nhảm nhi phạm luật nhà nước, các ông các bà cứ bắt đi cho tôi.
Bà Na bỗng cong cớn trỏ vào mặt lão:
- Bắt đứa nào! Bắt đứa nào! Bắt thằng tổ tôm, xóc đĩa, bắt thằng phản động việt gian đi tù
về kia kìa.
Trong lúc hai vợ chồng to tiếng xỉ vả nhau, mấy bà hầu bóng đã lủi đằng nào. Ông cung
văn già cũng biến mất, để lại cái nguyệt dựng trong tường. Cô công an Đàng mà mọi
người đều hãi, vẫn đương tò mò ngây nhìn cái bàn thờ sặc sỡ, trang kim óng ánh, có hai
con rắn...
Tôi nói:
- Tôi nhân danh chính quyền cấm gia đình từ nay không được phạm vào đồng bóng dị
đoan. Chúng tôi tịch thu các đồ mê tín. Yêu cầu các đồng chí bảo vệ làm việc.
Cái mõ gỗ, cái cảnh, cải tìu, những bát hương cúng vọng, cúng hậu trên bàn thờ thì đổ hoa
giấy và cát ra, Dương bỏ cả vào cái túi vải đã đem theo. Dương với tay lôi chiếc đàn
nguyệt. Tôi nói. “Cái này là nghệ thuật, không tịch thu”, Dương để đàn vào chỗ cũ. Hai con
mãng sà trơ ra hai bên chân bàn chưa ai đụng tới. Dương vơ vét mọi thứ, cả mấy nải
chuối, nhưng có vẻ ngại con rắn giấy.
Tôi bảo cô Đàng:
- Cô bóc nốt cái mê tín này đi!
Cô Đàng như mới hết ngơ ngác, cô bước đến lột hai con rắn cuộn lại, kẹp vào quyển sổ.
Nhà dưới chỉ còn ông bà chủ nhà. Vẫn như mất hồn, như còn sợ, như hầm hầm giận dữ.
Tôi nói an ủi:
- Chúng tôi chỉ tịch thu đồ mê tín.
Bà Na nhăn nhó:
- Các ông bắt nạt nhân dân. Chúng tôi không phải quân mê tín!
Cánh cửa vừa đóng lại, tiếng đàn ông quát: “Con giời đánh! Con chết chém! Chúng tôi...
chúng tôi... Ông bận gì đến cái mê tín của chúng mày”
Rồi huỵch huỵch, chát chát, không biết ai đánh ai, tiếng đấm đạp, tiếng phá tủ.
Tôi nói:
- Vào can người ta đánh nhau!
Mẫn bảo:
- Thằng chồng thế là tiến bộ, cho nó đánh con vợ mê tín dị đoan mấy cái.
Lệnh vào can của tôi không có hiệu quả, mà tiếng đấm đạp, tiếng kêu cũng im.
Tôi bảo cô Đàng:
- Cô cầm mấy thứ này lên khu báo cáo.
Dương nói:
- Cô cho tôi con rắn về làm mồi nhóm bếp.
Rồi chẳng đem thứ gì lên khu cả. Mấy cái bình hương mỗi ngưòì lấy một cái, đựng muối,
làm phạng muối dưa, tôi lấy một cái để trên bàn làm ống bút. Đại xin chiếc mõ, chiếc cảnh
đem về quê để gõ đuổi gà vào vườn bới.
Đến đợt kiểm tra vệ sinh chuấn bị toàn thành phun thuốc muỗi. Phát hiện ra ba nhà nuôi
lợn trên gác, một nhà nuôi chó, bốn nhà hố xí phè cứt ra ngoài.
Tôi đi cùng các tổ trưởng và cô Nghệ phụ trách vệ sinh, rồi hội ý..
Tôi nói:
- Không được nuôi lợn trên gác. Bà tổ trưởng phải vận động người ta bán lợn, không có
đến hôm phun thuốc trên khu về thấy thì không ra thế nào.
- Vâng, em sẽ vận động.
Bà ấy “vâng” rất nhẹ nhõm. Bà vâng để đấy, nếu tôi không đến xem lại, hỏi lại thì bà cũng
chẳng nhòm đến con lợn người ta nuôi trên gác đâu. Cứ ừ, cứ vâng văng mạng, tôi đã
dần dần quen như thế.
Tổ y tế xem đã phun thuốc được chưa. Thấy có thể phủn được. Đã hỏi cẩn thận, không có
nhà nào không chịu cho phun như năm ngoái. Chỉ một buổi sáng thì phun xong. Tất cả các
tổ trưởng, tổ phó, vệ sinh viên và hội viên chữ thập đỏ đeo băng đi hai ba người một kiểm
tra khắp các phố. Một chiếc xe tải đã đưa các phuy thuốc tới. Sinh viên trường Kinh tế
Quốc dân làm công tác xã hội, các cô các cậu cõng bình thuốc, tay cầm vòi, miệng đeo
khẩu trang, vệ sinh viên hướng dẫn vào từng nhà, phun khắp từ hố xí đằng sau lên trước
cửa, từ các phòng trên gác xuống nhà dưới. Mọi nhà đã được báo trước, nhưng cũng
không phải đã dễ dàng. Nhà cẩn thận, chỗ này cho phun chỗ kia không.
Có người sợ mùi thuốc, đóng kín cửa, ra ngồi ngoài hồ. Cũng có nhà khoá trái, không ai
ở nhà. Người ta không muốn cho phun thuốc, nhưng hôm nọ hỏi cũng cứ ừ.
Cả phố rộn rịch như đi mít tinh. Có người không phải ở ban vệ sinh cũng sốt sắng khuân
thùng thuốc, chỉ dẫn nhà phun, chỗ phun. Buổi trưa, cả xe tải ra máy rửa tay chân rồi vào
ăn liên hoan mỗi người một bát miến gà.
Vẫn cuối năm, nhiều việc dồn lại. Trật tự trị an lên hàng đầu chẳng khác dịp Quốc Khánh
và các ngày lễ ngày Tết, - đến Tết cả thì dân phòng tuần từ giữa tháng chạp sang tháng
giêng..
ở trụ sở dân phòng, bắc cái đèn, kê ra chiếc bàn với hai ghế băng, trên tường treo bảng
mới kẻ chữ: trụ sở dân phòng thường trực tuần tra. Bắt đầu cắt lượt hai tiếng một tua, từ
tám giờ tối. Hai ngưòì, bốn người hết tua về trụ sở đưa băng đỏ và chiếc đèn pin cho kíp
sau tớì sáng.
Tuần tra đêm đêm, những góc phố êm ả. Ban ngày chỉ có hàng rong mua đồng nát, sách
báo cũ, gánh củ khoai lang, lọ kẹo, ô mai, đôi khi hàng bánh tôm trước cửa trường học,
phố này không có chợ xanh, chợ cóc.
Có khi, nứa đêm nghe tiếng kêu thét lên rồi im lặng. Không biết trộm hay người mất của.
Bên cạnh, lô nhô những ngõ ngang, thoắt một cái đã lẩn sang phố khác. Có mỗi một lần
bắt được trộm, năm ấy, tôi vừa dọn nhà lên được mấy tháng. Tiếng chân chạy rậm rịch.
Lố nhố người dẫn ra một người bị tóm trói ngoặt tay, tóc xoã, máu chảy bê bết, không
trông thấy mặt. Thằng trộm không thuộc đường đã chạy húc đầu vào tường cuối ngõ cụt.
Đi tuần khuya tôi hay đến rủ Nguyễn Sáng ra quán Gió hay cửa ga hàng Cỏ, làm vại bia
thiu. Bia đêm không phải sắp hàng, mà những ông mua bia cánh tay đeo băng, chẳng biết
ông bẻ ghi, ông trưởng toa, trưởng tàu, ông “cờ đỏ", nhiều người đeo băng đỏ quá, và
đều là người phải nể, nếu sắp hàng cũng được vẫy lên ưu tiên. Nguyễn Sáng nói: “Bận
sau cho tớ mượn cái băng đỏ. Uống bia được mời, khoái quá".
Lại chuyện bất ngờ về trị an. Đằng sau những nhà lẫn lộn phố ga với vùng bờ hồ, có cửa
sau dãy hàng ngoài Hàng Lọng. Quán nhà mậu, cơm bát bán xuất.
Người đủ loại, các tỉnh, người công tác, người đi buôn, không đoán đếm xuể được, cả
đứa lang thang, gái điếm.
Cũng như chẳng phải địa phận cũng đánh dẹp cho chúng khỏi tràn lan. Cốt có công an,
nhưng việc này cô Đàng lại không làm nổi. Vào xét nhà lão Vinh quét vôi, có người báo
lão giặt xi líp thuê cho gái điếm. Cô Đàng đứng lại:
- Cháu không vào đâu. Phạt người đái đường, chỗ bến xe lúc nào cũng cả chục đứa uống
bia rồi đứng lên đái, thấy cháu chúng nó quay ra đái vung vãi, cháu hãi lắm.
Tôi thông cảm những khó khăn của cô gái hai mươi mốt tuổi quê miền đồng khô cát tráng
trồng ớt trong Quảng Bình. Trong nhà lão Vinh, Dương tịch thu đem ra cả túi những cái xì
líp, xú chiêng sặc sỡ. Dương ra kể cho cô Đàng viết báo cáo, rồi cô ấy ký.
Cô công an hộ khẩu này còn một tật nữa. Cô sợ chuột. đến kỳ diệt chuột, thế nào cũng
vắng mặt cô Đàng và Mẫn bảo vệ. Cô Đàng thì chẳng lạ, nhưng Mẫn sợ chuột thì thật quái
lạ.
ấy đêm qua, phổ biến kế hoạch diệt chuột. Năm ngoái đánh bả được ngót một nghìn con,
toàn chuột cống. Được giấy khen của hội chữ thập đỏ. Chỉ phải một khuyết điểm là để
người vứt chuột chết bừa bãi, lần này phải cúng cố khâu nhặt chuột, chôn chuột. Buổi
trưa, trên khu mang một bọc thuốc chuột xuống.
Cô Nghệ nấu một nồi cơm to, để nguội đổ ra ni lông rồi trộn thuốc đem phát. Cả phố đặt
mồi cùng một đêm, rồi ba hôm liền, tổ hội viên chữ thập đỏ đi từng nhà nhặt xác chuột.
Cuối ngày, xe đạp thồ những sọt chuột chết vôi bột rắc cả trong cả ngoài. Trên bờ sông,
một dẫy những huyệt chôn chuột đã được đào sẵn cho các phố đem lên. Năm nay không
đánh được cả nghìn con như năm trước. Không vứt bừa bãi hay chuột đã chết thối, đem
bỏ vào xe rác, hay đã báo cáo thổi phồng.
Không hiểu tại sao. Có lẽ đã đánh bả mấy năm liền, những con chuột thoát chết bảo nhau
thế nào, không đụng đến cơm bả. Năm nay, cơm bả nhà trộn lấy, hôm công bố kế hoạch
dặn phải phi hành mỡ lẫn vào cho mồi có mùi thơm. Mà số chuột chết cũng kém hắn. Con
chuột ở thành phố cũng ngày một khôn hơn.
Buổi sáng trông đồng hồ tôi thường có một ám ảnh buồn cười. Chợt nghĩ sắp có người
đến, sắp có người đến, nhiều khi y như rằng. Nhưng cái ám ảnh có người đến hôm nay
lại vào buổi trưa. Một người đàn ông mặc áo pydama, ung dung đi với Dương.
Anh này xúng xính quần áo ngủ pơpơlin lá mạ viền tím. Tôì nhớ năm trước người cửa
hàng trưởng cao lâu Bôđêga phố Tràng Tiền. Ông ta cũng mặc pydama xanh. Chặp tối,
Phạm Văn Khoa với Nguyễn Tuân và tôi vào nhà hàng. Cửa hàng trưởng ngồi ghế ngoài
hiên, đứng dậy chào. Nhưng Nguyễn Tuân đã quay ra ngay. Sang bên kia Bờ Hồ, Nguyễn
Tuân nói: “Mặc quần áo ngủ đón vào ăn, bẩn quá, không nuốt được". Lên quán cà phê
Nhân, uống một cái phin rồi về. Ông Nguyễn bỏ luôn bữa ăn tối ấy ở nhà. Bây giờ mới lại
trông thấy một ngườỉ mặc pydama đi công việc ngoài phố giữa trưa. Chàc là ông cửa
hiệu Bôđêga báo cáo thành tích thì đua cải tiến đã tiết kiệm thời chiến, mặc quần áo
pydama đi ngủ, ngồi bàn giấy, ra cửa chào khách, chỉ phải một bộ. Có thế nào, bộ quần
áo mới được nhiều người trong ngành ăn uống, hàng quán bắt chước nhanh thế. Ông này
cũng gày gù, khắc khổ, ngăm ngăm đen.
Nghe giọng nói đường trong, biết ông cùng quê với ông cửa hàng Bôđêga. Ông ấy nói:
Chào anh trưởng ban, tôi có việc đề nghị anh. Tôi phụ trách nhà trọ cửa hàng ăn uống Ga.
Tôi luôn luôn giữ trật tự trị an nhưng có một bọn càn quấy, cứ mười hai giờ trưa đến thuê
phòng ngủ. Chả là giờ nghỉ thì các đồng chí công an không đi xét giấy. Các anh phải đến
triệt cho hết giống đĩ bợm thì thành phố mới sạch được.
- Công an đã quy định: người có chứng minh thư ở Hà Nội không được thuê khách sạn,
nhà trọ. Nhà anh ở Hà Nội, sao đi ngủ lang, chơi gái à? Không được. Làm hắc vậy mà
vẫn khe hở ấy là giờ nghỉ trưa, bọn ăn chơi hay thuê chỗ trọ vào luc ấy.
Tôi hỏi:
- Anh cho chúng nó thuê phòng lại còn kêu gì!
Người ấy trợn mắt, giơ bàn tay khía vào cổ.
- Không cho thuê, chúng nó cắt cổ tôi. Có thế mới phải nhờ anh can thiệp.
Tôi hẹn trưa nào có đứa đến thuê buồng để hủ hoá thì anh vào báo, chúng tôi sẽ ra.
Ông ta cám ơn rồi bắt tay, đi ra với Dương. Nhưng lại quay đầu, nói: “Ngay bây giờ anh
ra cũng được, sắp mười hai giờ rồi.”
- Thôi hôm khác.
Chẳng lâu la gì, trưa hôm sau, người bồi xăm tự phong là phụ trách nhà buồng đã vào gọi:
“Chúng nó đến! ”
Tôi báo với Mẫn và cô Đàng. Nhưng Mẫn đương bận chữa xe, cô Đàng thì họp trên khu
chưa về. Chỉ có Dương và tôi Người pydama đưa chúng tôi vào nhà trong. Im lặng, trỏ tay
vào cái buồng trên cửa có số 5.
Dương đấm chát chát như phá cửa. ở trong có tiếng hỏi ra: “Đứa nào đấy?”- “Mở cửa
mau, kiểm tra hộ khẩu". Thấy lặng im, Dương lại đập cửa. Một cánh cửa bị đẩy hắt ra.
Trán Dương cộc bốp một cái vào mặt gỗ.
Dương sừng sộ:
- Chúng mày chống lại chính quyền a?
- Không biết, tôi nhỡ tay. Ông tha cho.
Người ấy cười gượng ngượng nghịu. Không thấy nó vẻ du kê, du côn như người bồi săm
nói. Nhìn vào gian buồng trống, trên giường góc trong có một người đàn bà đương ngồi
búi lại tóc, áo đại cán tím, quần đen, đôi dép có quai hậu, như cán bộ ở tỉnh lên.
- Anh đưa gái đi hủ hoá?
- Không ạ, vợ tôi.
- Giấy giá thú đâu?
- Tôi để ở nhà.
- Không có giấy giá thú thì là hủ hoá rồi. Chứng minh thư đâu?
- Tôi quên ạ.
- Anh tên gì? ở đâu? Làm gì?
Tôi...ở Hải Dương làm nhà máy đồ hộp.
- Chị kia?
Anh nọ đáp hộ:
- Vợ tôi cũng ở Hải Dương.
Tôi nói:
- Mỗi người một tờ khai viết những điều tôi vừa hỏi. Tôi sẽ ghi biên bản. Một gửi về nhà
máy ở Hải Dương, một gửi khu công an ở đây. Trước mắt, tôi cảnh cáo hai người từ giờ
không được đi ngủ lậu thế này.
- Vâng ạ.
Người pydama đi lấy tờ giấy, người đàn ông nọ ngồi chép hai bản đưa cho tôi. Dương
sẽ nộp khu và gửi về nhà máy. Người bồi săm cứ tấm tắc khen tôi giải quyết việc nhanh
gọn. Rồi lấy trong túi ra mười đồng đưa cho tôi để các anh uống bia". Tôi không cầm,
cũng không đưa cho Dương.
Có hôm đi qua hè phố lại thấy cái thằng nhà máy đồ hộp - nó không nhìn thấy tôi, hay là nó
đã nhìn thấy tôi trước. Nó chạy vào nhà trọ ấy. Tôi về bảo Dương
Dương hỏi tôi:
- Có ra khám nữa không, lần này thì bắt...
Không hiểu sao tôi lại nghĩ ra và gạt đi.
- Chúng ta đã bị lỡm. Thằng pydama chứa trọ nhờ ta khám doạ thằng kia để nặn thêm
tiền đấy thôi. Mà hình như cái dãy nhà này không thuộc địa phận phố ta.
Dương nói một câu lạ tai:
- Nó nhờ anh giúp mà, chỗ ấy là khối phố khác.
Tôi bực mình:
- Nó nộp anh bao nhiêu tiền?
- Anh lại nghi oan em. Em thề...
Tôi nghĩ bụng: “Nó đút tiền mày trước cả lúc vào gặp tao. Mà mày cũng vứt hai cái đơn
rồi". Nhưng tôi lại không nói.
Ngày ngày Dương tha thẩn trong phố và các ngõ như con gà, con chim đi kiếm mồi, nhặt
hạt thóc, hạt rền. Dạo này không thấy đi giữ xe đạp nữa. Tôi cũng không bao giờ cất công
đi dò hỏi xem ở trong Nam có phải Dương đã bị án, ngày trước vợ Dương đi làm nhà
thổ. Cái ngại của tôi cũng có lý vì ở đây túi bụi việc trước mắt- như thời hồng hoang,
không ai biết gốc gác ai và chẳng có lương lậu ngạch bậc để nhấp nhồm chèn cạnh nhau,
thế thì đi hỏi làm gì. Thằng Dương kiết xác không vơ váo kiếm ăn thì có khi phải đi ăn trộm
nuôi sáu miệng ăn cũng nên.
Vẫn việc trị an, cái này mới thật sự to chuyện.
Cô Đàng trên khu về truyền đạt công tác đặc biệt. Cái nhà góc phố, một cơ quan nước
ngoài thuê. Nhà này hay đem gái điếm vào. Chơi gái trong nhà ấy thì không ai làm gì
được vì nhà thuộc ngoại giao đoàn. Không biết đã từng thoát bẫy ở đâu hay họ biết ta có
thể chặn bắt ngoài đường, nên họ đề phòng lắm mẹo. Chở gái bằng ô tô, nhưng không
ngồi ô tô che vải hoa lên cửa kính - xe nước ngoài không có thói che rèm như ô tô các
cấp của ta, mà cửa xe Tây cứ thông thống, người nằm xuống ghế cũng trông thấy. Bọn ở
đây cao tay, nó đặt cái thùng gỗ đằng sau xe, chằng dây cho khỏi bung lên, như tải về cái
xe máy, cái tủ lạnh mọi khi vẫn làm thế. Chỉ khác, có lần ở trong ngồi một nàng Kiều..
Chúng tôi bố trí Mẫn gác ngoài đường, xế cửa, ngăn nó không tọt được vào cổng. Thấy
bóng cái xe có thùng đằng sau thì Dương huýt còi, chặn lại. Tôi ra nói tiếng Tây và làm
biên bản. Nếu xe cắm quốc kỳ thì tước ngay. Rồi yêu cầu mở thùng. Trong thùng không có
người thì cắm lại cái cờ và cho qua. Có sai luật thì chúng tôi cũng chỉ như dân phố không
biết pháp luật.
Cô Đàng và công an khu nấp đằng kia, có thế nào thì Mân chạy lại gọi. Kế hoạch tác
chiến đã bàn kỹ và bố trí như thế.
Phố vắng, chặp tối đã im lìm. Đèn đường thấp thoáng, những cây xà cừ xào xạc rụng lá,
vào mùa hạ nếu mưa to đường phố này có khi mấy ngày ngập ngang đầu gối. Có người
thắc mắc quãng phố ấy có mấy nhà hộ đặc biệt, sao để đường tệ thế. Nhưng lại có người
giải thích mỉa mai: ô tô kề thềm hè, biết lụt lội ra sao, đến tết Công Gô vẫn lụt, cũng chẳng
lo.
Nhưng công toi đã mất mấy hôm. Mỗi lần, có một hai xe về lúc chặp tối. Trong nhà lên đèn
sáng, tiếng máy hát mở to, chắc là họ vừa ăn vừa nhảy đầm. Vào khuya gần nửa đêm,
một xe nữa về, xe vào khoá cửa sắt ngay. Đèn trong nhà không sáng thêm. Xe này đi tiệc
đâu về. Không xe nào có cái hòm đằng sau.
Cô Đàng nói:
- Các anh ấy bảo gác nốt đêm nay thì rút.
Chặp tối, cũng hai xe, vẫn không có hòm xiểng buộc đằng đuôi. Xe bóp còi, trong nhà ra
mớ. Gần nửa đêm, lại một xe về, vào khoá cửa sắt, không có vẻ gì khả nghi. Hai cánh
cổng sắt đóng, ô tô đã tắt máy trong vườn. Dương đi từ hè bên kia đến. Dương đẩy một
cô gái trong bóng tối gốc cây ra sáng điện giữa đường.
Như ở đâu hiện ra, người con gái mặc áo vét, đầu phi dê mốt mới “u xi” xoắn lên đỉnh.
Dương lôi cô gái ra đứng giữa chúng tôi, nói to:
- Chị này núp gốc cây định theo cái xe vào.
Người con gái nói:
- Không phải. Tôi vừa đi đến đấy.
Tôi hỏi:
- Cô đi đâu khuya?
- Em đi làm ca về.
- Nhà ở đâu?
- Nhà em dưới Khâm Thiên.
Dương nói:
- Quần áo, đầu tóc thế kia không phải đi làm ca.
Tốp công an trên khu cũng đã ra tới. Một công an nói: “Việc tối nay thế là giải tán. Bây giờ
đem chị này về trụ sở Hôm sau chúng tôi không phải đi rình nữa, cô gái bị dẫn về trụ sở
rồi ra thế nào.
Có lúc tôi lại nghĩ hay đấy là công an thả người ra bẫy cò ke mấy ông Tây.
Không thì giờ đâu mà nghĩ lâu, những việc khác đã ập tới chúng tôi họp công tác bàu cử
hội đồng nhân dân thành phố. Tôi cũng đương Hội đồng Nhân dân, mà ứng cử huyện Tử
Liêm, khoá Quốc hội thì ra đại biểu trên huyện Thạch Thất. Chưa khi nào tôi thấy việc ở
khối phố tôi bận gì đến các chức danh và công tác ở trên của tôi.
Việc nhiều đấy, nhưng cứ làm theo trên bảo rồi cũng tuần tự trôi chảy cả. Tài liệu thì đã có
các tờ bướm chỉ dăn. Số người ứng cử có sáu thì lấy năm, bỏ một. Bỏ người nào thì
gạch một cái, ở chỗ viết phiếu đã sẵn chiếc bút bi buộc vào cọc chân bàn. Trước kia có
giải thích bỏ cho ai, bỏ cho ai. Nhưng lần này không thấy trên tiểu khu xuống bảo gì cả.
Hội đồng nhân dân thường họp ở hội trường uỷ ban thành phố. Đến năm xây xong khách
sạn Giảng Võ thì xuống dưới ấy. Nhớ lại các cuộc họp cũng chẳng nhớ công tác, chủ
trương thế nào, chỉ không quên những cái vớ vẩn. Lần nào tôi cũng chịu khó mấy hôm đi
họp. ở hội trường uỷ ban trên Bờ Hồ, buổi trưa được ăn bồi dưỡng bát phở gà, phở bánh
hẳn hoi và một quả chuối. Ngày ấy không phải ăn phở miến dong riềng, phở “không người
lái” là nhất Hà Nội rồi.
Cái bảng với hàng chữ to tổ bố “Khách sạn Giảng Võ” thực sự nó là cái hàng cơm chứa
trọ của ga bến Nứa. Cơm thì ngồi bàn ghép mâm, buồng thì nằm bốn người, sáu người.
Mép cửa sổ đóng hai cái đinh khoằm vào nhau, bên cạnh dán mảnh giấy “chỗ mở bia".
Nghiêng đầu chai vào, bật nút. Có hôm, tôi thấy bác sĩ Phạm Biểu Tâm- ở trong Nam ra
họp, rửa mặt ở vòi nước nhà ăn. Hỏi thì bảo nước ở buồng không chảy. Nội qui ghi khách
giả buồng thì giao chìa khoá cho nhà buồng.
Chúng tôi ra đứng ngoài cửa, cô nhà buồng cầm sổ vào đếm l, 2, 3 theo số: cái chén, cái
phích, cái gối... Đếm xong, cô bước ra tươi cười: “Đủ rồi ạ, các đồng chí về mạnh khoẻ”.
Đấy nhớ vẩn vơ cái hàng cơm chứa trọ Giảng Võ như thế. Và nhớ buổi họp mỗi lần giải
lao gặp nghệ sĩ chèo Diễm Lộc ra uống bia hơi. Cô Diễm Lộc uống hơi ác đấy.
Một buổi tối họp phố, tôi đương giải thích các tiêu chuẩn người ứng cử hội đồng nhân
dân. Một ông Tây mặc sơ mi hở cổ, ria mép trắng lốm đốm, mặt rượu đỏ thậm lù lù vào
ngồi xuống cái ghế băng cuối. Chết tôi rồi, đấy là lão tổng đại diện Pháp, lão P. Susini.
Hôm mới đây, Quốc khánh Pháp, tôi đến dự tiệc đứng trong vườn sứ quán. Tình cờ, ông
ta đến mời rượu rồi nán lại chuyện linh tinh. Ông nói ông chưa đọc tôi, nhưng biết tiếng.
Và hỏi tôi đương viết gì thú vị. Tôi bảo tôi đương làm một việc rất vui là làm đại biểu một
khu phố, mà ở trong làng thi như người trưởng xóm. Tôi khoe đương có cuộc vận động
bầu cử hội đồng thành phố. Ông hỏi: “Tôi đến xem được không?”- “Được, được lắm. Mời
ông". Rồi ông đi bàn khác. Tôi tiếp tục uống và coi như những câu nói gió bay lên trời.
Nhưng lão Susini đã đến. Tôi không lạ người ta đến, nhưng tôi ngại cái sự lão tò mò chui
vào cái phòng họp ở chỗ ngóc ngách và ngồn ngang như lớp học trong tranh thày đồ cóc.
Tôi ra chào ông. Và nói xin lỗi, tôi đương giải thích về bầu cử. Ông ấy nói không sao,
không sao, ông ấy đi bách bộ chơi, nhìn thâý tôi thì vào, tôi cứ làm việc, mặc ông ấy.
Rồi lão P. Susini đi lúc nào không biết. Ông ấy nói xã giao- khó lòng, vì cái buồng phòng
họp giữa nhà, ngoài đường không trông thấy người ở trong, hay là ông ấy thấy vẻ ngơ
ngác của tôi- tôi không ba hoa chích choè như hôm uống vang Boocđô ở sứ quán, ông ấy
đã lẳng lặng rút. Không có qui định luật lệ tiếp xúc với người nước ngoài, nhưng người ta
đều tránh.
Cô bán bia Bờ Hồ kể chuyện. Có một Tây không biết người nước nào nói tiếng ta sõi,
chiều chiều đến uống bia tán gẫu. Cô hàng bia bảo khách: “Đồng chí đến uống bao nhiêu
chai bia cũng được, nhưng không nên đến nói chuyện với tôi. Nói chuyện với tôi thì mai tôi
mất việc". Và cô đá mắt nhìn người công an đương thản nhiên như không đương đi đi lại
lại bên ngoài.
Hôm sau, cô Đàng hỏi tôi:
- Bác có biết người Tây tối hôm qua đến chỗ phố họp không?
- Tôi không biết.
- Ông âý là đại sứ nước Pháp. Sao nó biết ta họp?
- Biết được!
- Nó hỏi gì thế, hả bác?
- Nó có hỏi gì đâu!
- Nhân dân bảo bác ra nói chuyện với nó.
- à người ta vào nhà thì mình phải ra chào hỏi, phép lịch sự quốc tế mà.
Cô Đàng lại ghi vào sổ, không hỏi thêm rồi đi.
Một người đến. Không phải cô Đàng quay lại, mà cô Nghệ. Cô Nghệ đã trên năm mươi
tuổi, ai cũng quen miệng gọi là cô, bởi vì cô chưa có chồng. Người làng nhàng, quắt
queo, hay gắt gỏng, mặt khó đăm đăm, lại bệnh đau gan. Cô hay nhờ tôi tìm thuốc tiêm bổ
gan sêlêpa. Các hàng thuốc không có những thuốc quí hiếm ấy. Tôi mua hộ cô ở y tế cơ
quan. Cô Nghệ làm ban vệ sinh, thành phố chuẩn bị phòng không cô kiêm thêm ban cứu
thương. Lại có việc gì đây.
- Anh Vân đội viên dân phòng...
- Anh Vân lái xe ở phố bên ấy a?
- Vâng. Mấy hôm nay lôi thôi to. Cái hố xí hai ngăn của chung số nhà nước cứt đái ngấm
sang cả mặt tường nhà anh ấy. Mấy hôm đã cãi nhau ầm ĩ, mà anh Vân thì ốm, con còn
bé, nheo nhóc quá. Anh sang xem thế nào.
- Cô về báo số nhà ấy tối nay họp, tôi đến.
Cô Nghệ đã đi rồi, lại trở lại.
- Hay là trên đương giục báo cáo vệ sinh hố xí hai ngăn, anh để mai ta đi kiểm tra làm báo
cáo rồi vào nhà anh Vân một thể.
- Thế thì chiều mai ba giờ tôi sang bên nhà cô rồi cùng đi.
Mấy lâu nay thành phố vận động các nhà làm hố xí hai ngăn. Việc ỉa đái của đất Kẻ Chợ
từ thời Tây đã cứ không dưng như mưa nắng, như trời đất hết mùa hạ sang mùa thu. Hồi
xửa xưa, chỉ độc mấy phố hàng Đào, hàng Gai, các nhà quan cách khá giả trổ ngõ sau ra
phố tắt, ra vườn hoang, mọi đi lại, chợ búa, con cháu ở quê ra, người vào lấy phân tro
đều đi cửa khuất ấy. Rồi quan đốc lý Tây cho thầu phân, các nhà làm hố xí đằng sau, nửa
đêm có phu gọi cửa “đổi thùng! đổi thùng! ”- mà người nghe lúc ngái ngủ nhầm là “đổ
thùng". Nhà có cửa nách cho phu thùng, nhà chật chội thì mỗi đêm phu cứ xách thùng phân
qua suốt cảc phòng ra cửa trước. Năm 1956, về hoà bình rồi, buổi tối tôi vào hiệu vằn
thắn phố Huế, đương ăn còn thấy người công nhân vệ sinh quảy đôi thùng phân đi ra, qua
ngay giữa nhà. Đấy là nơi có phố, còn lều quán chưa thành phường thì vẫn ngồi nấp bờ
đầm, bờ sông, bụi rạm. Làng tôi ở ven nội, người lớn trẻ con đều ra các chân tre đầu
đồng, mỗi hôm có mụ “mũi thung"- những người đàn bà lam lũ trên mặt nổi vết chàm có
lông như miếng da lợn, họ ở các làng vùng trong quảy thúng tro đi gắp phân về bán.
Nhà người Tây có hố xí máy, còn người ta ở Hà Nội thì cả trăm năm thuộc Pháp các phố
cứ “đổi thùng” cho mãi đến những năm 1958. Không biết ai cải tiến ra cái hố xí hai ngăn
đến bây giờ còn người khen, ngườì thì bài bác kịch liệt đòi truy cho ra đứa có sáng kiến
ấy để bỏ tù. Tôi là người đứng giữa có thực nghiệm với tư cách nhà có một hố xí hai ngăn
và bây giờ trông nom hơn hai trăm cái hố xí hai ngăn của hàng phố, tôi thấy không phải tội
ở người nghĩ ra, mà tại những đứa xây và đứa cai quản với thói kẻ cắp bớt xén, thói lười
biếng. Lý nhẽ và lề lối nghe ra thuận tai, vẫn cái hố xí mọi khi đem chia thành hai ngăn.
Đầy ngăn này, đậy nắp lại cho phân ngấu. Khi ngăn kia sắp ứ lên thì ty vệ sinh đến hót hố
bên. Hàng tuần, đem tro và mùn đất rắc vào hố phân, lại trát vôi cho khít nắp. Mọi việc đều
được giải thích ra các thành tích và kết quả. Phân này đưa đến nông trường, tốt bằng trăm
phân hoá học nước ngoài phải bỏ tiền ra mua nhập.
Cái tưởng là sẽ tốt đẹp ấy đều đặn tử tế được vài tháng đầu. Các người ở ngoại thành
vào lấy trộm phân khốn khổ lắm. Công nhân vệ sinh bắt quang sọt, công an phạt tiền.
Nhưng vẫn có người đi chui, có các nhà cho vào múc lậu. Chỉ ít lâu, đến khi chểnh mảng
chẳng thấy công nhân đưa mùn đất, không đến chát nắp, lại những xe thùng cũng đỗ bất
thường. Cả hai hố đã phè ra, chủ nhà phải ngồi ở cửa hóng người hót phân chui, lại phải
dúi tiền để các bác ấy làm phúc vào lấy cho. Sự tích cái hố xí hai ngăn nẫu ruột là vậy, mà
đêm ngày nhà nào cũng phải dùng đến, mà cái hố xí tự hoại, cái hố xí máy thì xa vời chưa
bao giờ dám tưởng tượng đến, hoạ may chỉ có thật ở các nhà hộ đặc biệt cũng một phố
tôi thôi. Nhà tôi nêu gương đã đợt đầu làm ngay hố xí hai ngăn. Xây thành hai hố, hai cửa,
hai lỗ, lại chát xi măng lót tường, thợ xây đưa đến một xe ba gác mấy chồng gạch xỉ than.
Tôi bảo:
- Gạch xỉ than thì vỡ ngay, thấm hết.
Anh thợ nề và anh công nhân vệ sinh cắt nghĩa quả quyết:
- Gạch xỉ than nhẹ và xốp, phân hả hơi càng chóng khô, phân sẽ rất tốt, bác ạ.
Tôi không thề hiểu biết hơn những người miệng nói tay làm này. Nhưng cái hố xí hai ngăn
nhà tôi không thấm. Có lẽ người ta làm cẩn thận kỹ lưỡng cái hố xí nhà trưởng ban.
Tôi với cô Nghệ đến nhà Vân. Cái hố xí sát tường ấy không phải của một hai nhà mà
chung năm hộ trong một số nhà. Trên gác, tầng dưới, nhà ở bếp, nhà vẩy mái đằng góc
sân. Nhà anh Vân ở xưa kia là nơi để xe. Không biết chủ để xe nhà, xe đạp hay ô tô, nhà
này trước là cái biệt thự nhỏ một chủ.
Chỉ một gian thông thống, trong cùng kê cái thùng gỗ đựng xống áo. Hàng hiên là bếp, có
cái hoả lò đun củi. Anh Vân nằm, chưa phải mùa lạnh đã đắp chăn, chốc lại ho sù sụ- cái
chăn rung nảy lên mới biết có người bên trong. Mọi khi, có lần đêm gọi Vân đi tuần tra, tôi
chỉ đứng ngoài cánh cửa, không trông thấy cảnh tiều tuỵ này.
Tôi ngồi xuống.
- Chưa khỏi ho à?
Giọng Vân tự nhiên:
- Ho lao thì chỉ khi nào chết mới khỏi, anh ạ.
Tôi không dám động đến chuyện anh ốm nữa.
- Thế nào, cái hố xí...
Vân ngồi lên, trỏ tay bảo tôi và cô Nghệ vào chỗ góc tường. Tối như hũ nút. Bật điện cũng
không sáng tới Khi này người ở các buồng nhà trên thấy “chính quyền” tới đã xúm đến.
Một bà phân trần:
- Cái cô Nghệ nghe báo cáo báo mèo thế nào mà hoá ra tôi cãi nhau với anh Vân. Cãi
nhau đâu với cái anh ốm như con gà rù thế kia. Tôi chỉ nói rằng anh Vân ơi, anh làm ở sở
nhà nước có ô tô, có thế lực, nhờ anh đi báo cáo cho nhà này được làm cái hố xí chỗ
khác, cái hố xí này khốn khổ cả xóm, mà khổ nhà anh ấy trước. Có phải hố xí riêng của
nhà tôi đâu. Thế mà thiên hạ chúng nó đã nói bẻ queo ngay đi.
Có người đem đến cho mượn cái đèn pin. ánh đèn lia vào góc tường, tôi thoạt thấy đã
kinh hãi. Chân tường thâm kịt, tình cảnh này thì chỉ ít lâu nữa, chỗ thấm càng nhầy nhụa ra.
Bấy giờ tôi mới ngửi thấy hình như trong buồng có mùi thum thủm.
Bà hàng xóm mau miệng, lại nói:
- Ông xem có khốn nạn không, cháu nói vô phép ông, đứa nào ngồi phón bên kia, ở đây
cũng nghe tiếng phèn phẹt. Đã nhục chưa!
Cái bà lão chết toi, ăn với nói!
Tôi sang nhìn cái hố xí. Vốn là một mảnh đất toen hoẻn bằng bàn tay, công nhân vệ sinh
đã xây tường cửa, mặt ngồi, tường ngăn, nhưng không trát xi măng, lỗ hẹp quá, thế là
phía trong để mộc. Bên trên mái lợp miếng ni lông với que chống. Không có cửa, người
ngồi thò đầu gối ra thì ở ngoài biết trong có người.
- Hố bé quá, nó lại không lát đệm, cái tường con kiến để nguyên, không tráng xi măng...
Tôi nói như quan sát kết luận. Nhiều người thêm thắt:
Chúng tôi đi cả ngày, làm xong người ta giao cho thế thì biết thế...
- Tôi đã hỏi lại, chúng nó tô vẽ rồng phượng cái hố xí bền vững đâu ra đấy, cái quân bán
mồm.
- Trăm sự nhờ ông.
Tưởng như tôi có thể sai, có thể ra lệnh hay là gọi ngay uỷ ban, công ty vệ sinh đến mắng
cho một trận, bắt chữa lập tức. Tối hôm ấy tôi cũng làm một cái đơn kể sự tình- dùng chữ
thời sự hôm nay, “để ô nhiễm môi trường đến vậy, đề nghị! ... Đơn viết ba bản gửi đi ba
nơi. Mất hút, chẳng có tin trở lại. Tôi cũng đã đoán từ lúc chưa gửi kết quả sẽ như thế. ít
lâu sau, anh Vân ho ra máu, chết ở bệnh viện Bạch Mai. Chị Vân rồi ẵm con đi ở nơi
khác. Mỗi khi tôi đi qua vẫn thấy cái buồng đóng cửa, chưa có người đến ở. Cũng chẳng
khi nào tôi vào hỏi thăm xem cái chuồng xí thấm ra tường rồi thế nào.
ở số nhà này đi ra, cô Nghệ và tôi sang một ngõ phố khác, làm việc cho cái báo cáo vệ
sinh. Tôi đi suốt loạt hố xí một dãy nhà. Có đến mười mấy cái nhà một tầng, hố xí líền nhau
đằng sau các gian nhà giống hệt nhau. ở thành phố có nhiều nhà như thế, trước kia của
một chủ làm cho thuê. Các dãy phố quanh nhà thờ hàng Trống, ở Hăm Bốn Gian phố Huế,
ngõ Yên Thái, ngõ hàng Cỏ, bây giờ phần nhiều đằng trước đã sửa sang lại, nhưng phía
sau lưng thì vẫn như một trăm năm trước- một hẻm dài mỗi gian thò ra hai lỗ cửa chuồng
xí, đấy cũng là lối đi cửa sau lấy thùng.
Tôi bảo cô Nghệ:
- Ta vào xem hết cái hẻm này đã đủ làm báo cáo được.
Cô Nghệ nhăn mặt:
- Anh vào à? Anh cho tôi đửng ngoài này. Tôi có chứng rức đầu.
Cô Nghệ không dám vào. Bẩn kinh khủng. Mùi hôi thối không trông thấy, nhưng có thể
tưởng tượng như một cái cống, một cái bễ đương ngùn ngụt tuôn hôi thối nồng nặc ngạt
thở. Hai bên tường, không quét vôi lở lói dưới hàng gạch lâu đời đã vỡ khấp khểnh xanh


 xám nhờn nhọt như màu tường nhà anh Vân lúc nãy. Cái chuồng xí cũ thì trống hốc, cái hố
hai ngăn đã trát hai miếng vôi cát lờ tở, tôi đếm từng cái, mỗi thứ. Dưới rãnh, những con
ròi trắng hếu bò lổm ngổm.
Nhưng không thấy nhặng xanh bay ngang mặt, có lẽ bí hơi quá, nhặng cũng không dám
vào.
Đến cuối hẻm tôi quay ra. Cảm tưởng vừa xuống âm ty. Uám, nhơn nhớt, nghẹt cổ. ở Hà
Nội, phố nào cũng đằng trước mặt hoa da phấn, đằng sau là cái lối vào chuồng phân như
thế này, cả bao nhiêu năm nay thế.
Cô Nghệ bảo tôi:
Gớm cái anh, tôi ra kia mua nắm lá ngải cứu cho anh về đun nước tắm ngay đi.
Tôi cười:
- Có cái nãy khử hơi độc còn hay hơn. Mời cô sang bãi “chuồng cọp” uống bia với tôi.
- Chịu thôi, tôi không biết uống bia.
Việc chuẩn bị bầu cử đã vào độ rầm rộ cuống quít.
Tổ viết tên cử tri cả khối cọng lại, lên danh sách niêm yết ra trụ sở trước hai tuần lễ. Ai
xem có tên mình, có sai sót thì báo ngay. Rồi phiếu đưa đến từng hộ.
Hôm đi bầu, cử tri đem phiếu vào khu vực tổ mình để người ta đánh dấu vào sổ đã đi bàu
rồi. Quá trưa, soát thấy tổ nào còn người chưa đánh dấu thì tổ trưởng về gọi. Người đi
bầu ra chỗ viết phiếu đã kê bàn từng ô có ngăn giấy che. Chẳng phải viết chữ nào, chỉ
đọc một loạt sáu tên người rồi gạch một. Họp phố đã nghe dặn cách bầu nhiều lần.
Mỗi buổi chiều, đoàn thiếu nhi sắp hàng khua trống ếch inh ỏi. Chặp tối, đội dân phòng và
thanh niên nam nữ lại đồng phục sư mi trắng, quần xanh công nhân, giày ba ta trắng, -
không dội mũ sắt, hàng trăm người sắp hàng ba đi hô khẩu hiệu: Hoan hô bầu cử hội
đồng nhân dân khoá... Hoan hô! Trông đội dân phòng lại oai, khác hôm thi cứu hoả phụt
nước thua trên Cửa Đông, lỉnh kỉnh đẩy cáì xe máy bơm về, mặt ai nấy tiu nghỉu.
Bộn rộn nhất hôm sau cùng. Đêm trước đã họp các tổ trưởng, tổ phó, mọi người ra giúp
việc rà lại giấy tờ, giấy mời, lại diễn tập hướng dẫn đi vào, lối ra, đến bàn đưa đóng dấu
phiếu, vào viết phiếu, bỏ phiếu rồi hướng dẫn đi ra. Chặp tối mấy hôm nay các phố đã lên
cổng chào tết lá dừa, chăng đèn kết hoa.
Trẻ con đùa chơi đến khuya. Tôi khoan khoái bảo Đại:
- Thắng lợi, phải thắng lợi chứ".
Từ tinh mơ, tôi sang sân trường nơi bỏ phiếu. Những người được phân công chuẩn bị
các thử còn đến sớm hơn tôi, những cái thừng căng và những biển chỉ đường ra vào
cũng đã cắm cẩn thận rồi.
Người ở các hộ đặc biệt đều ra đông đủ. Vài ba năm những cái phố eo sèo thường ngày
mới có một lần long trọng thế này. Nhiều vị chủ hộ ăn mặc tinh tươm, có người thắt cà vạt
đỏ, đội mũ phớt. Thời ấy mặc oách thế còn hiếm, đấy là dấu hiệu tôn trọng cuộc mít tinh
bỏ phiếu. Các ông là bộ, thứ trưởng hay bí thư đáng đoàn, viện trưởng, vụ trưởng, trưởng
ban nội chính, đại khái thế, tôi cũng đoán biết sơ sơ.
Dương đến ghé tai tôi:
- Hay quá, các kễnh ra hết.
- Nhiệm vụ công dân của các vị ấy chứ.
- Mời anh đến chào khách.
- Miễn! Các ông ấy không đến chào tôi thì thôi.
Chẳng ai đến chào tôi cả. Tôi cũng như mọi người ở ban bầu cử lăng xăng chạy đi chạy
lại. Dương vẩn vơ muốn đến bắt tay các ông kễnh, nhưng thấy tôi không đến, Dương chỉ
lảng vảng gần dăy ghế hàng đầu.
Còi ủ nổi lên xa xa gần gần, còi hiệu toàn thành bắt đầu mít tinh. Tôi đọc một bài phát biểu
trước micrô.
Tôi đọc thong thả, rành rõ bài đã viết sẵn của trên khu gửi xuống. Năm trước, bài nói in
chú thích: “Đọc nguyên văn, không thêm bớt nội dung". Có ông trưởng ban đại biểu nọ đã
đọc nguyên tất cả câu ấy. Bây giờ chỉ dặn miệng.
Tôi đọc oang oang như lời mình viết, tai nghe cũng thấy oai. Tôi đọc xong, phó trưởng ban
Đại hai tay giơ cao trước đám mít tinh cái thùng phiếu bọc giấy đỏ lại mở toang nắp, lật
ngược lên, quay ra bốn phía để ai nấy chứng kiến cái hòm trong rỗng không có gì, không
mờ ám gì cả.
Mười giờ, các tổ đi bầu đương đông. Trong các bàn, chỗ nào cũng tíu tít, có người đi bầu
hộ cả nhà. Vẫn được ghi, vẫn bỏ phiếu vào hòm như thường. Có việc vội mới phải nhờ,
người nhờ bầu cũng là hàng phố, xóm giềng thông cảm, biết nhau hết. Mấy phiếu người
cao tuổi, có cả mẹ tôi, cụ yếu chân, lại không biết chữ, chốc nữa tổ công tác đưa hòm
phiếu vào tận nhà, trưởng ban đi cùng, bảo vệ Dương bồng súng đi sau.
Quá một giờ, Mẫn phóng xe lên khu báo cáo cuộc bỏ phiếu khối tôi đã xong hoàn toàn lúc
hai giờ bốn mươi phút. Nam nay sớm sủa, chắc ăn bằng khen rồi.
Còi ủ năm giờ, các nơi đều xong xuôi. Cái hòm phiếu được Đại dán giấy, niêm phong lại.
Tôi viết lên tờ giấy, dán cạnh chỗ niêm phong: Hòm phiếu khối... bầu cử hội đồng nhân
dân khoá... ngày... Theo chương trình, lúc ấy mít tinh bế mạc kết thúc cuộc bỏ phiếu thắng
lợi Nhưng gọi loa các ngõ, chẳng mấy người ra mừng nữa. Chỉ có trẻ con đã nhảy rỡn à
à. Tôi bảo ông Đại vác hòm phiếu, một bên vai khoác khẩu súng, đem vào trụ sở. Hai ban
và đại biểu các giới bấy giờ mới ra đi theo, như đám rước. Hòm phiếu được đặt ngay
ngắn lên- mặt bàn. Khi mọi người đã ra về, Đại cầm chìa khoá ra khoá trái cửa rồi bê
hòm phiếu vào cuối phòng.
Chúng tôi bóc miếng giấy dán niêm phong, đổ cả thùng phiếu ra mặt bàn. Hai chúng tôi
mở từng cái phiếu rồi lại bỏ vào thùng. Cả phiếu không gạch tên- phiếu trắng, cũng bỏ lại
vào. Chỉ để riêng ra cái phiếu nào viết vẽ nhảm nhi hay viết phản động. Những phiếu này
gói lại, tự tay trưởng ban đem nộp lên khu. Trong những năm tôi làm việc, mấy lần bỏ
phiếu thành pbố hay toàn quốc đều làm như thế, theo kế hoạch mật của khu. Chưa lần
nào tôi thấy có phiếu viết phản động, chính trị. Chỉ có vài phiếu để trắng. Phiếu vò lại rồi
nhét vào hòm. Có phiếu vẽ nguệch ngoạc cái thẹo.
Các đội viên dân phòng đeo băng đỏ đã ra đứng gác trước trụ sở, trong có để hòm
phiếu, cho đến lúc đưa hòm phiếu lên khu. Tôi về tắm, rồi đóng bộ đại cán xi măng xám,
như Đại, như Dương, chỉ Mẫn vẫn quần áo bộ đội xác xơ thường ngày. Đại ghếch xe
đạp, tôi ôm hòm phiếu ngồi sau xe. Dương và Mẫn hai xe đạp theo sau, mỗi người trên
lưng khoác khẩu mút cơ tông của khu đội cho mượn. Đoàn cán bộ khối chúng tôi rước
hòm phiếu lên khu.
Trời đã tối, trong ánh đèn đường nhấp nhánh người vào nhộn nhịp cũng thấy được vẻ
ngày hội khác thường.
Bàn giao hòm phiếu, cầm tờ biên lai có đóng dấu ủy ban rồi sang nhận một chai rượu
quít, hai bao thuốc lá Tam Đảo, quà của khu cho. Nhiều khối lúc ấy cũng đương lên. Có
người ngồi đèo xe đạp như tôi, có người đi xích lô, hai tay bưng hòm phiếu bọc giấy đỏ,
như cái quả đám ăn hỏi. Khối nào cũng có tay súng bảo vệ hòm phiếu.
Tôi bảo:
- Ta hoàn toàn thắng lợi rồi. Các cậu có uống rượu không?
Không ai trả lời. Tôi lại nói:
- Các cậu khéo vờ, sắp nói “không” đấy. Thắng lợi rồi, tôi thết các cậu chầu rượu.
Dương cười:
- Anh đoán sai. Tôi uống được chớ!
Tôi với ba vị chức việc khối phố vào quán rượu xế nhà thương Đau Mắt. Không phải lão
63 đặc sản ngầu pín, mà quán này có đậu nghệ nướng chấm muối, ông Be cắt tóc mách,
tôi đã vào vài lần.
Dương và Mẫn dựng hai khẩu súng vào tường. Bà chủ quán đỏ đắn, béo tròn, mau miệng
hỏi:
- Các ông đi giải tù về hả?
- ơ cái bà này lạc hậu! Súng danh dự gác hòm phiếu. Hôm nay ngày gì, không biết a?
- à à. ấy chết... tôi quên... Mà ai thuộc đâu được việc quan của các ông.
Phó Đại bảo tôi:
- Súng cho oai thôi, không có đạn. Tôi đã làm bầu cử, tôi biết.
Tôi hỏi:
- Thật á?
Dương đứng dậy, cầm một khẩu, kéo cò lách cách.
Tôi xua tay:
- Thôi đi ông!
Bà chủ quán quát to tướng:
Có ngươi nằm trên gác xép đấy. Đạn xuyên lên thì có mà vào nhà đá cả nút.
Nhưng đúng là không khẩu súng nào có đạn, như súng của trẻ con chơi. Tự dưng tôi thấy
yên tâm hơn.
Chiếc đậu mát lạnh, phảng phất mùi khét, mùì nghệ quen thuộc từ thuở bé đã theo mẹ đi
chợ Bưởi ăn đậu nướng. Bây giờ thì uống rượu giải nhiệt với đậu nướng, một ngày lôm
lam cật lực.
Tôi ốm, có lẽ chuyến bầu cử thức khuya nhiều mà thói quen tôi hay ngủ sớm. Bệnh áp
huyết tôi mắc từ năm trước, khi đang học trường Nguyễn ái Quốc. Thời gian đầu, thần
kinh tim rồi áp huyết thấp, ít lâu sau hết các bệnh ấy thì đến áp huyết cao và bệnh lâu năm
thành mãn tính. Mỗi lần bị choáng váng, đi khám, chẳng mấy khi không bị giữ lại. Đến lúc
đã ổn định lại lên nhà điều dưỡng trên Quảng Bá. Tôi đi bệnh viện, rồi bệnh lại khỏi, tôi
cũng thấy như việc phải tới, như thời gian qua.
Một lần kia, tôi có việc đi Cao Bằng với bác sĩ Phạm Khuê. Tôi hỏi Khuê:
- Tôi bệnh mà lại bia rượu, ông thấy sao?
Chỉ cấm không được nghiện nhưng cũng không nên kiêng.
Tôi thích thú người thày thuốc lão luyện nghề và đời đã nói như sấm truyền. Một câu có thể
bàn ra cả một quyển sách.
Lần này, ở bệnh viện rạ, tôi lên nhà điều dưỡng trên hồ Tây. Vẫn còn phảng phất hãi cái
chuyện mộng du - mộng du thật, mộng du không đẹp và và sầu não như người đàn bà
mộng du nhân vật trong truyện Nguyễn Minh Châu - mà đây là một cụ mộng du.
Cụ Lý đã ngoài bảy mươi. Cụ nằm cùng khoa với tôi. Cụ gày làng nhàng kinh niên và mặt
buồn hiu hiu kinh niên. Cụ là nhân sĩ trí thức. Thuở xưa làm tri huyện, bây giờ hoạt động
đoàn thể trong mặt trận.
Tôi quen cụ vì công tác ấy. Giữa trưa, trong các buồng, người thức người ngủ, lặng lẽ.
Một cô y tá lướt qua cửa. Tôi hỏi:
- Cái gì mà đi vội thế?
Cô ấy trỏ tay ra cửa sổ sau phòng, miệng suỵt suỵt khẽ:
- Ông Lý đương trèo tường. Bác sĩ bảo im hết, im hết, chẳng có...
Tôi ra cúi nhìn xuống thấy một cảnh hết sức kỳ quái. Cụ Lý đương lòng khòng bíu cái ống
máng, hai chân run run, lúc quắp quắp, lúc quờ quạng vào cái đai sắt ống máng. Cụ
đương tụt xuống tầng nhà dưói.
Trông mà rùng mình. Tôi quay đi, xuống cái ghế đá trong sân. Vẫn cứ thon thót sau lưng...
này ngã... ngã... này ngã...
Bỗng cả nhà reo lên. Thì ra các buồng hầu như đều biết cụ Lý trèo ống máng, mà theo
lệnh im hết, bấy giờ mới chạy cả xuống.
Cụ Lý không ngã. Cụ Lý ngồi giữa bãi cỏ, mặt tây ngây. Người ta xúm lại hỏi: Lúc leo
tường, cụ có biết gì không?
Cụ Lý người nhợt nhạt, làc đầu, mặt vẫn hiu hiu.
Một người ra vẻ hiểu biết:
- Các bệnh thần kinh này, bấy giờ ai vô ý gọi to, cụ tỉnh ra thì cụ rơi vào thẳng nhà quàn kia
rồi.
Lên nhà điều dưỡng, có nghĩa là bệnh đã lui, đi tẩm bổ ít ngày, thế mà còn cứ rợn cảnh cụ
Lý trèo tường.
Nhà điều dưỡng Quảng Bá tiêu chuẩn hạng thường tem phiếu C mà ngày nào cũng tiêm
thuốc bổ. Về sau và bây giờ bệnh viện bỏ lệ hàng ngày tiêm thuốc bổ. Khi đó y tá ném ống
thuốc xoang xoảng và cơm thì bứa ba bốn món. Tôi có ông người làng công tác bên
thương nghiệp, xưa ông đã làm chánh hội, ông cười to: “Bữa nào cũng ăn cỗ, chánh lý
ngày trước cũng chẳng có đâu mà chén thế này". Các cô y tá kể chuyện có bệnh nhân một
tháng, lên sáu cân. Hôm sau được ra viện thì nửa đêm ông lên cơn lăn lộn, đau đầu, nôn
oẹ. Thày thuốc khám cấp cứu, tiêm một phát. Buổi sáng, khám lại, tiêm phát nữa, rồi cho
xuất viện như đã định. Ông bệnh nhân nói: “Chân tôi còn run, đề nghị nằm thêm một tuần".
Bác sĩ bảo. “Yên chí. Hai phát tiêm ấy chặn hết rồi. Trưa nay đồng chí sẽ ăn năm bát cơm
cho mà xem". Bệnh nhân về rồi, các cô y tá đấm lưng nhau cười, nói vung lên: "Hai mũi
B1 ấy mà".
Tổ phụ nữ khối phố lên thăm tôi. Các bà quở quang:
- Ông trưởng ban ở bệnh viện một tháng nữa thì về chị em chúng tôi không nhận ra.
Tôi chỉ biết cười trả lời. Câu nói đùa trong lúc ở ngoài đương trăm thứ khó khăn, chỉ có
khu Ba Đình, khu Hoàn Kiếm là bộ mặt trung tâm thành phố, tem phiếu được đong gạo
đôi khi mới kèm bột mì. Các khu khác, bo bo và sắn, bột mì Liên Xô đem nặn làm bánh
luộc, bánh rán nhá cả tuần.
Dương đưa cho một nắm giấy tờ đọng lại từ hôm tôi đi bệnh viện. Cái cách cầm giấy mọt
nắm, khiến tôi đoán có khi Dương chưa cắp sách đi học bao giờ.
Mọi thử đều nhét túi quần, giấy nhầu như mớ bạc lẻ của các bà các cô đi chợ về vo viên
để khắp nơi.
- Có mấy giấy gọi nghĩa vụ quân sự, anh xem.
- Tôi đã bảo anh đừng đút công văn vào túi quần.
Tôi đã đưa anh cái cặp, sao không kẹp vào đấy.
Dương cười thật thà: “Tôi quên mất".
Thế là đợt này có năm giấy nghĩa vụ, ba người mới và hai người đợt trước đọng lại. Mỗi
lần cầm giấy gọi nghĩa vụ, lại lo lắng thế nào cho đi được đủ. Sao có thể lên đường,
những hô hào, những kêu gọi, những luật- lệ qui định, những đua anh đua em và tuổi trẻ ra
đi, không biết thế nào. Máy bay Mỹ đã bắn xuống vùng ngoại thành mấy lần, có hôm thành
phố báo động cả buổi. Dọc đường 5 xuống cầu Phú Lương, đường 1 ra cầu Giẽ, tiếng
bom rền rĩ.
Các cơ quan đã lo các nơi sơ tán. Những cơ quan nặng đã đi rồi. Nhưng phố xá vẫn
đông, tưởng như càng đông hơn mọi khi. Đã thêm nhiều lớp hầm nổi bên các ngã tư, ngã
năm, lại đặt vào hố cá nhân những vành hầm, nắp hầm trát xi măng trộn sỏi cát, xỉ than.
Khu vườn nhãn cạnh nhà hát lớn thành phố từ lúc nào đã thành công trường phơi những
giếng xi măng làm cốt hầm cá nhân. Những đợt gọi nghĩa vụ càng khít, không chỉ một năm
hai vụ, mà mỗi qui một. Mỗi lần soát lại các sổ hộ khẩu, xem năm sinh thanh niên nam nữ
đến tuổi thì báo cho nhà trường, cho cơ quan, nhà máy và khu đội, các nơi này trả lời
khớp thì lên danh sách. Khu đội chọn lựa, đối chiếu tiêu chuẩn rồi chuyển lên uỷ ban phát
giấy gọi nhập ngũ. ở nhà, ở khối liên hoan mặn và tiệc trà tiễn như mai đã lên đường
nhưng mới chỉ là đến nơi khám sức khoẻ.
Nghĩa vụ không gọi phụ nữ, nhưng cũng xét những đơn tình nguyện. Đợt nào cũng có, lần
này ba người.
It lâu sau, gặp hai cô bộ đội, mũ cát sao vàng, quần áo binh nhất, đi tới giơ tay ngang thái
dương, nhoẻn cười: “Chào bác, bác có nhớ chúng cháu không? Tháng trước chúng cháu
tình nguyện tòng quân âý mà".
- à bây giờ các đồng chí đóng ở đâu? – Chúng cháu về hậu cần...
Hai cô bộ đội trẻ, đi khỏi còn vẳng lại tiếng cười rúc rích. Có lẽ các cô cười cái tiếng “các
đồng chí” nghiêm túc của tôi.
Tôi nhận được thư chúc Tết của các chiến sĩ mà tôi chẳng nhớ mặt ai. Có người ở chiến
trường, có người được đi học chuyên môn, đi nước ngoài. Các thế hệ nhớn nhao nối
tiếp, tưởng như ở một làng quần tụ đời đời có trên dưới ngôi thứ, có gốc rễ, có qua đình
ghé nón trông đình... Các cụ ta ở quê ra Kẻ Chợ lập nghiệp đều xây đền miếu thờ vọng
thành hoàng ngày trước đã vun xới ý nghĩa sâu xa, tinh thần khu phố thì cũng khác nào
làng xóm.
Ba trường hợp mới không biết thế nào, nhưng hai tồn đọng thì cũng lôi thôi. Một trường
hợp đã tránh mấy đợt không phải là mới gọi. Cậu này ở nhà phụ việc xén dép lốp. Nhận
giấy báo gọi, người bố sốt sắng: “Cháu nó về quê mấy hôm. Vâng, chúng tôi nhắn cháu
ra...
- Hai bác đừng để quá mang tiếng khối ta.
- Vâng, vâng... chúng tôi...
Cách một hôm, lại tới. Bác chủ nhà mời uống nước.
- Cháu biết tin rồi, cháu đã hẹn ra...
- Cuối tuần này đã tập trung...
- Vâng ạ. Cháu ra kịp...
Một hôm, Dương bảo tôi:
- Đã trông thấy thằng con nhà ấy rồi.
- Anh vào nhà nó à?
- Tôi trông thấy, báo anh ngay. Công tác tòng quân, trưởng ban nắm mà. Tối nay anh đến
luôn, được không?
Dương đi cùng tôi. Chúng tôi uống nước, trong khi bác chủ nhà gọi lên gác:
- ấy ơi xuống bố bảo.
Một thanh niên trắng trẻo, hiền lành từ thang gác xép tụt xuống.
- Con chào hai bác chưa? Hai bác đến báo tin con đi nghĩa vụ đợt này. Qui hoá lắm.
Tôi lạ về cách nói niềm nở quá mức, không phải chỗ. Mà cũng không phải tôi mới chỉ đến
đợt này và nhà này. Cả bốn nhà kia đều vui vẻ, tôi tin một cách mê tín chắc là ảnh hưởng
dây chuyền tới đây. Không hiểu đối đáp thế nào cho hợp, tôi nói:
- Thứ sáu này, tôi đến đi đưa cháu ra tập trung nhé
Cả năm thanh niên khối đều đi đúng hẹn. Tôi ra tiễn tận bến xe tải đỗ trong sân trường
học, hàng trăm thanh niên ở các khối phố khác ríu rít như đi cắm trại. Không ai khóc. Có lẽ
những người mau nước mắt đã ở nhà, không đến đây. Nghe nói vào doanh trại luyện tập
ở Miễu Môn giáp rừng Hoà Bình.
- Tôi đương đi trên Bờ Hồ. Một anh bộ đội bước nhanh nhanh tới, giơ tay chào. Tôi ngờ
ngợ rồi nhận ra cái anh nhà làm dép lốp, dạo nọ tôi đã đến hôm sắp đi nghĩa vụ.
- Cháu chào bác.
- Cháu đóng gần đây à?
- Vâng, cháu được về thành đội.
- Thành đội ở chỗ kia hả?
- Không, cơ quan cháu ở xa. Đơn vị cháu sắp đi B.
Về thành đội lại sắp đi B, cậu ấy giấu đầu hở đuôi.
Vào lính mà ở cơ quan như thế người ta riễu cợt là “lính kiểng". ở đây cũng có lính kiểng,
có cậu tối về nhà ngủ. Phải rồi, có thế nào nhà nó mới bỗng dưng thoải mái. Tôi đã ngờ
ngợ. Việc cậu này “đi lính” ở nhà có người xì xào lão Dương ăn tiền. Nhà này có thể lo lót
có chỗ, nhưng chắc chắn không phải Dương. Dương chỉ cò con ăn quẩn loanh quanh,
chẳng ai đút lót đâu đến Dương. Có chăng, lúc con cái nhà họ đã trúng được ở gần, hôm
nào đấy, Dương đến doạ khéo, có thể cung ra vài đồng. Dương đi lẩn thẩn các phố. Có
khi trước cửa trường học, đứng bóc củ khoai luộc. Chị bán khoai vừa lót tay một củ khoai
còn nóng. Tôi đi tránh sang hè phố bên này.
Đột nhiên gay go, buổi chiều, máy bay Mỹ bắn rải rác lung tung nhiều nơi trong thành phố.
Bom bi rắc xuống cây đa cạnh đền Bà Kiệu, giắt khe rễ, tróc một mảng vỏ. Mái nhà và
bóng cây cơm nguội nắng nhạt loang lổ tưởng như mọi khi. Nhưng khác. Sau cơn bom
bắn, thành phố không vắng mà lặng lẽ hơn, mảnh nắng lao xao lặng lẽ vỡ ra trên mặt hồ và
đầu đường. ở một vòi nước công cộng ngay trên phố, một loạt đạn đã xả xuống mấy
người đương nhặt rau vo gạo làm cơm chiều. Mấy hôm không ai dám ra lấy nước, vòi
nước vẫn mở, nước xối xả lênh láng suốt đêm.
Các hầm nổi lại được hối hả xây thêm. Đầu ngõ Khâm Thiên, các ngã tư phố Huế, quanh
Bờ Hồ. Tưởng như làm thế cho người đi đường chỗ nào cũng có hố nấp, nơi nấp. Chao
ôi, Hà Nội. Những cái hầm thế này, hơn ba mươi năm trước quanh chợ Đồng Xuân, chợ
hàng Da... Cũng máy bay Mỹ - cái máy bay hai thân, bấy giờ là máy bay Đồng Minh đến
đánh phát xít Nhật và Pháp Pê Tanh. Bây giờ có chỗ vẫn còn những hầm trú ẩn ấy, như
cái gò cỏ nổi góc chữ nhật
Giữa vườn hoa bên hồ cạnh nhà bưu điện và trụ sở uỷ ban thành phố. Hầm của người
Pháp, khi báo động máy bay, công chức Tây bên nhà dây thép và toà thị chính chạy ra,
chui xuống.
Cả tổ vệ sinh cũng lên khu tập cứu thưong. Điểm danh mấy hôm, chỉ mấy chị trung niên
nội trợ ở nhà hay chạy chợ vẫn chăm đi họp. Việc và người công tác ở phố bao giờ cũng
đông và vắng chập chờn. Thanh niên đi học, người đi làm, theo thống kê hộ khẩu thì số
người này ở phố nhiều nhất nhưng họ chỉ trách nhiệm với cơ quan và nhà trường, nhà
máy đơn vị chẳng biết ở đường phố thế nào. Người thất nghiệp thì ngổn ngang không biết
đâu là phố xá. Thanh niên cũng khó, cậu nào cô nào chưa có việc làm mà có tinh thần thì
ra phụ trách thiếu nhi tập thể dục vui chơi dịp hè, dạy bình dân. Nhưng cũng nhấp nhem,
lập loè như đom đóm. Thành thử mọi công tác, quen mặt nhất vẫn chỉ có các cụ các ông
về hưu, các bà các chị ở nhà.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XIV
Chi bộ đảng viên đường phố gồm các thầy cô giáo ở trường và công an trong địa phận
với công chức hưu. Cũng lèo tèo vài người, không đại diện cho mọi tầng lớp người ở
trong phố. Tôi chỉ họp chi bộ có một lần, cái lần đầu tiên Khang dẫn tôi đến. Rồi không
bao giờ biết chi bộ ở đâu, có những aì. Bởi vì cả cái tổ chức ban đại biểu, ban bảo vệ
khối, mặc dầu phụ trách sáu tổ dân phố, nhưng chưa hẳn là chính quyền, cũng không phải
đoàn thể. Chỉ là tự nguyện và ngẫu hứng nhưng lại cáng đáng những công việc thiết thực
liên quan sau cùng đến mỗi công dân. Hơn mười năm qua, từ khi tiếp quản đến bây giờ
vẫn thế.
Những việc thật quyết liệt: sơ tán triệt để đối phó máy bay Mỹ có thể đánh mạnh. Thế mà
tôi sơ tán cũng được, không cũng được. Nhưng lại cứ phải có mặt vì không làm thì không
có ai khác. May, tổ len dạo này đói việc, thế là kéo cả lên học cứu thương.
Rồi cô Nghệ và mấy bà đi lĩnh đồ cứu thương về.
Bên dân phòng hỗ trợ lên khuân các thứ chất cồng kềnh một xích lô đem chia ra gửi các
nhà. Bốn băng ca cáng thương, những bó nẹp, những cuộn bông băng, cả chục túi cứu
thương..., các thứ mới nguyên nhãn hiệu Hungari, Balan, Tiệp Khắc...
Học trên khu, về tối lại tập. Tổ vệ sinh tập cáng thương, băng bó. Một cậu giả bị thương
nằm trên cáng, cười hô hố. Hai cô khiêng bực mình buông phịch cái cáng xuống. Đội dân
phòng lại đem đồ nghề ra luyện chữa cháy. Không có hội thi, tập ngay ở ngã tư đầu phố.
Tô nô nước, vòi bắc lên bơm phụt phụt. Mẫn trèo thang buộc hai vành xe đạp vào nấc
mười lăm, nấc mười tám thước. Lần nào nước bơm cũng phọt trúng vòng, có khi cao
hơn. Tiếng reo ầm ầm, hay, hay quá. Chuyến này trên mà mở hội thi, khối ta ăn đứt! Cứu
hoả, cứu thương, có đêm trong tiếng còi báo động, tai nạn thật sự đến nơi. Chuyện khẩn
trương mà như trò đùa. Bốn cái cáng lại đặt một dãy.
Người giả bị thương nằm thẳng cẳng dưới đường. Chị cứu thương đeo túi đàng hoàng,
lấy bông băng buộc bó garô cánh tay, ống chân xong rồi xốc lên cáng, hái người cáng đi.
Người nằm cáng kêu ối giời ôi đau quá, sướng quá, lại cười hà hà. Y tế khu về quan sát,
cho điểm. Lúc đọc lên, cáng nào đạt tiêu chuẩn động tác nhanh gọn, chính xác, được phần
thưởng tràng vỗ tay đốp đốp hoan hô.
Chúng tôi phân công ban chỉ huy tác chiến khi có bom bắn, dù ban ngày hay ban đêm.
Dương phụ trách cứu thương. Mẫn thì cứu hoả và tuần tra. Sắm thêm cả chục chiếc băng
đỏ. Tôi và Đại trưởng phó ban đại biểu đôn đốc chung.
Cứ nghĩ ra việc mà cắt đặt như thế.
Cơ quan tôi dạo nọ sơ tán sang Quế Võ bên kia sông, sau trở lại Phủ Quốc, rồi về gần
chùa Hương.
Vợ tôi làm ở cửa hàng thuốc cuối phố Khâm Thiên, luân phiên trực chiến thông tầm. Đến
chủ nhật, đạp xe cả đêm mấy chục cây số vào bến Đục, đèo gạo, nước mắm, mỡ, dầu
hoả, xà phòng. Các con lớn thì Phúc công nhân cơ điện đi bộ đội vào chiến trường Bình
Trị Thiên. Đan Hà theo trường dược sơ tán đi Mai Siu Biển Động bên Đông Bắc. Đan
Thanh sang học nghề ở Lêningrat. Mẹ tôi và ba con nhỏ của chúng tôi theo cơ quan,
chúng nó đi học trường làng. Tôi ở thành phố về hàng tuần một. Hồi ấy đến phiên tôi làm
tạp chí Tác Phẩm Mới, bài vở và việc nhà in phải đi lại luôn, khi ở phố khi sang nhà in bên
kia sông.
Nhiều lần một mình trở ra thành phố. Không mua ngoài được cái gì ăn. Có phiếu nhưng
cửa hàng chất đốt chưa có dầu hoả. Mà có cũng còn để nhà tôi đèo về nơi sơ tán cho bà
cháu đun nấu. Thỉnh thoảng, tôi thổi cơm bằng giấy báo, giấy vụn. Có hôm ba giờ sáng,
tôi đã đi mua mỡ cửa hàng thịt phố Tôn Đản mà người xúm xít đã vòng trong vòng ngoài.
Lại còn không thể thiếu sắp hàng bia... Dạo này người đường phố nạp bia rượu tợn,
không còn tập uống bia pha sirô, cũng không cốc, mà vại, tay cầm vại bia làm một hơi
mới đã và có hôm đôi ba vại thay cơm cũng thường. Đêm có báo động nghe tiếng bom
thì ngồi dậy, đeo cái băng lên cánh tay, vào quán Gió trong công viên làm một hai vại cho
tỉnh ngủ rồi mới lại ra đường. Vẫn còn báo động mà thấy người đi lướn phướn thì hơi bia
của tôi quát: Chết cả bây giờ Xuống hầm! Xuống hầm!
Cái đêm máy bay biệt kích Mỹ nhảy dù đánh úp trại giam tù binh Mỹ ở sông Tích ngoại ô
Sơn Tây, tôi đương công tác bên Li Băng. ở Saiđa lên thủ đô Bây Rút, thành phố ven Địa
Trung Hải, buổi sáng xuống quầy khách sạn mua báo. Tờ Thế Giới ở Pari đăng đầu đề tin
trang nhất: “Trận bất ngờ tập kích Sơn Tây ban đêm. Nhưng không kết quả". Trại tù bỏ
không, tù binh phi công Mỹ đã chuyển đi từ lâu. Một máy bay lên thẳng của Mỹ gãy cánh
quạt phải bỏ lại. Chúng nó lấy đi một cái vại và một con bò - có lẽ để kỷ niệm thành tích
thật đã đến chỗ ấy..
Một cái tin ngắn, đọc cứ tưởng cả Sơn Tây, Hà Nội đương còn rung chuyển. Hàng đàn
máy bay Mỹ đêm tối chui vào tận núi Ba Vì sâu như thế, trận đánh hiểm hóc, ác liệt như
thế. Đến hôm trở lại Hà Nội, sân bay Gia Lâm vẫn vắng tanh như mọi khi. Chiếc máy bay
IL 18 xuống, người đẩy cái thang, người ra đứng hai tay giơ hai mảnh cái quạt gỗ sơn
trắng làm hiệu cho máy bay lăn vào chỗ đậu. Những ông này vừa ở trong phòng ra đường
băng làm việc, sau lưng trên bàn nước còn cái bàn cờ quân gô và chiếc điếu cày dựng
bên chân bàn.
Mấy anh dân phòng và Đại với Dương, Mẫn đến chơi. Họ kể cái tối Mỹ nhảy dù Sơn Tây
ở Hà Nội có báo động, nghe máy bay ầm ì xa xa và vài đợt cao xạ rồi im suốt đêm. Sáng
hôm sau đọc báo mới biết đêm qua thằng Mỹ nhảy dù trộm xuống Sơn Tây rồi lại cút
ngay.
Lệnh trên xuống, diết dóng yêu cầu đi tuần đêm. Hà Nội lại thúc sơ tán. Người già, con trẻ
cứ đi ít lâu, thấy yên yên lại về, nay lại rục rịch đi. Ngoài đường, xe ba gác, xe xích lô chở
người qua câu Long Biên.
Không ai tản cư lên phía Sơn Tây. Lần này lại lục lại danh sách những nhà, những người
có vấn đề. Lung tung quá, mọi người đã đi sơ tán hay đi đâu cả, ai biết được, biết đằng
nào mà lần. Những mụ buôn lậu. Cũng chẳng có gì biết thêm nữa, không phải thuốc phiện
hay buôn vàng mà là mấy bà chạy chợ tem phiếu, bánh mì, buôn gà... Mấy người pạc ti
dăng, đội xếp cũ, xếp bốt dân vệ bỏ làng ra phố, có người thấy quyển sổ bảo vệ ghi từ
đời nào là chỉ điểm, là tâm lý chiến, công chức Pháp, là nhạc vàng... Hầu hết những ông
bà này đều đã ở dân phòng, ban vệ sinh và cũng gia đình năm tốt, vẫn đi họp mọi khi.
Thì cũng phải nắm lại.
Giữa trưa, vừa nổi còi báo động, lập tức nhoàng nhoàng tiếng bom, tiếng cao xạ dội vào
các góc tường, đinh tai. Người hớt hải chạy đằng đầu phố lại: “Sứ quán Pháp ăn bom
chết hết rồi". Cơ quan hội Văn nghệ ở láng giềng sứ quán Pháp. Bom rơi vào trong sứ
quán, xung quanh tường vẫn nguyên, nhiều người còn đương chạy ra. Những ngày căng
thẳng, ngưòì ở lại thành phố hay tránh quanh quẩn. Nhà gần cầu Long Biên thì xuống phố
Huế, chiều mới về. Đến hôm giữa phố Huế bị giội bom lại nhảo lên. Bây giờ thì kéo đến
ngồi ngoài tường các sứ quán, nhiều người đi đạo thì vào núp trong vườn nhà thờ hàng
Trống. Thấy nói nước ý theo đạo Tin Lành không đi đạo Thiên Chúa, Mỹ đã choảng bom
đổ cả nhà thờ dưới Phát Diệm, lại phân vân. Mỹ ném bom đến sứ quán Pháp, núp bờ
tường quán nước ngoài cũng không yên rồi.
Nhốn nháo bấn lên. Thúc thêm được một số người lớn trẻ con đi sơ tán. Mấy cụ phụ lão
trong phố ra ngoại ô. Cô Nghệ không đi. Cụ Thắng thì nhất định không đi rồi, ai hỏi cụ lắc
đầu, trỏ ngón tay vào tai.
Cụ bảo cụ điếc không nghe tiếng bom hay ai nói gì cụ không hiểu. Đội dân phòng vẫn
nguyên vị, mấy tay thủ công phất quạt giấy vót nan tre sửa soạn sang năm làm đèn tháng
tám thì chẳng đi đâu. Hai ông xích lô xung phong tải thương, nhờ các ông này mà đội dân
phòng, đội cứu thương không hụt người. Có hai người theo nhà máy, nhưng nhà máy
chia rời bộ phận cũng chỉ ở dưới bãi bên kia sông, tối không làm ca lại về nhà. Trẻ nhỏ
mỗi nhà cũng như nhà tôi, phải đi một nơi theo trường học, còn người lớn thì ai cũng thế,
người đi làm, người chạy chợ, mọi người mọi nghề, không mỗi chốc xa phố xá được.
Chúng tôi vẫn gần đủ quân số cắt lượt đêm tuần. Có thế vào mùa đông 1972, máy bay
B52 ném bom giải thảm vùng Khâm Thiên mới có lực xuống khối bạn cứu sập, tải
thương...
Hôm ấy máy bay bắn tên lửa giữa trưa đổ tầng chính toà nhà đại sứ quán Pháp. Ông tổng
đại diện P. Susini bị thương nặng. Cô bồ của ông, Aléa El Hakim, người Ai Cập thì chết
ngay lúc ấy. Con trai ông từ Pari bay sang, đưa bố về. Giữa đường, ông ta chết.
Có người chép miệng: “Lão này quan to mà số ăn mày, chết đường. Giá ở đây vào Xanh
Pôn, Phủ Doãn có khi lại không tỏi. Nó chê thày ta, thuốc ta cơ". Cô Đàng hỏi tôi: “Có
phải cái ông Tây đại sứ tối hôm ấy đến họp bầu cử ở phố ta? Tôi nói: “Hình như lão ấy
đấy".
Máy bay quần ám suốt ngày. Bảnh mắt đã còi rú.
Rồi liên miên, chốc lại... alô, máy bay địch bay xa... đã bay xa... Loa phóng thanh to bằng
cáì thúng úp treo trong cành cây khắp nơi công cộng, các loa hộp đài Hà Nội mắc ở mỗi
nhà cũng dóng dả luôn đến đỗi rồi câu báo động lặn lẫn cả vào trong câu người mẹ chín
đứa con ham chơi: cha đẻ mẹ mày, cứ suốt ngày đi xa về gần, bà mà tóm cổ được mày...
Mọi việc trong phố bận rộn chằng chịt không bao giờ một bề. Chợ đổi vai đêm ra họp ra
tận Cầu Giấy, Ngã Tư Sở, chợ Mơ, càng vất người kiếm ăn bám vào mớ rau, bó hành.
Thế mà cách ngày lại tập cứu hoả, tập cứu thương. Kinh nghiệm bom phố Huế được khu
phổ biến các khối tập thêm cửu sập, moi đất, trên phát cho cả chục cái xà beng.
Cụ Thắng điếc có sáng kiến, hỏi:
- Lúc đáo sự khó nhọc lắm, phải có người đem nước uống, tìm đâu ra chè tươi nhỉ, không
có thì chết khát.
Một người nói trêu:
- Trên trời thì bom nện, dưới đất thì người chết, lòng dạ nào mà ngồi uống nước được.
Thôi thế bây giờ chúng tôi phân công cụ nấu nước nhé.
Cụ Thắng hỏi lại: “Ông ấy nói gì thế?” Không dịch câu nói đùa cho cụ điếc nghe. Cụ Thắng
lại nói với tôi:
- Tôi có việc báo cáo tiếp với anh.
Tôi lại đoán chừng việc gì. Tôi ghé tai cụ Thắng:
- Hồi này căng lắm, cụ về sơ tán với các cháu.
Cụ Thắng không nghe thủng câu tôi nói hay cụ không muốn ai bảo cụ sơ tán, cụ chống
gậy, đủng đỉnh ra. Sơ tán gấp, sơ tán triệt để. Các cơ quan bàn giấy và các cửa hàng nhà
mậu vắng hẳn. Đóng cửa các hàng mậu đi thôi, cho đỡ đứng đám xếp hàng rồng rắn,
muốn đuổi theo đâu bán phiếu lít nước mắm, lạng mỡ, cân bột thì tìm ra ngoài kia. Nhưng
cũng chỉ lơ thơ mươi hôm rồi người lại lác đác thập thò, chỉ có các trường thì vắng lặng
hẳn. Biết bao người sinh sống ở thành phố không thể dứt đi được. Cụ Thắng đã tám
mươi tuổi, lại điếc lác, chỉ còn lấy việc khu phố làm vui, các cháu đã thuê cả chuyến xích lô
rước cụ đi. Cụ dửng dưng. Cụ cũng không biết hãi máy bay như tôi, vâng, cụ ung dung.
Vài hôm, lại thấy cụ Thắng chống gậy lò dò đến.
- Báo cáo anh, tôi mới ra. Có việc thì phân công cho tôi.
Cụ Thắng thong thả ngồi xuống, lấy cái máy nghe đeo lên tai. Tôi đã đoán chuyện cụ sắp
nói mà tôi biết khi nào cụ cũng ý tứ, chỉ lúc có một mình cụ với tôi.
Tôi nói trước công việc:
- Lớp bình dân phải nghỉ hẳn. Mà cũng không được phép tụ tập quá năm ngưòi. Chỉ bên
tổ phục vụ còn nhúc nhắc cơm nồi nước sôi nhưng công tác này không hợp với cụ. Để tôi
lên tiểu khu hỏi năm nay tem phiếu thế nào, nếu làm sớm tránh báo động thì nhờ cụ như
mọi năm, chưa có thì mòt cụ lại về sơ tán, bắt buộc đấy, cho được an toàn. Khi nào có thì
tôi cho nhắn.
Việc gì tôi cũng làm được.
Cái máy nghe hình như cũng chỉ giúp cụ câu được câu chăng. Cụ nhắc tôi:
Anh xem cái vệ sinh thế nâo, bây giờ sang mùa thu rồi chậm mất thuốc muỗi, nhưng còn
cái bả chuột.
Thế là năm nay không phun thuốc muỗi như mọi khi Cái cô Nghệ cũng đoảng, tôi cứ phải
giục cô ấy mới nhớ.
Tôi im lặng một lúc lâu, không đáp chuyện cụ. Nhưng cụ Thắng chưa về, cái máy nghe vẫn
áp bên tai.
Cụ Thắng nói: Đồng chí là người trí thức, tôi rất quí. Tôi hoạt động Thanh niên Cách mệnh
Đồng chi hội, tôi ở Thanh niên rồi sang cộng sản. Đồng chí biết Trương Văn Lệnh không?
Tôi có gặp Trương Văn Lệnh một lần. Sau khỏi nghĩa độ một hai tháng. Tôi làm phóng
viên báo Cứu quốc. Hôm ấy có một cuộc họp ở Bắc Bộ phủ. Xuân Thuỷ, chủ nhiệm báo
Cứu Quốc cho tôi biết một người to lớn bận đồ kaki kiểu áo Tôn Trung Sơn là Trương
Văn Lệnh mới ở hải ngoại về. Tôi chỉ biết có thế. Tôi cũng chưa biết gì về đời hoạt động
ngày trước của cụ Thắng. Việc khối phố hàng ngày có thế thôi, tôi cũng không muốn hỏi.
Nhưng có thể đoán đại khái: cụ Thắng vào Thanh Niên với Trương Văn Lệnh rồi cụ bị bắt,
đến khi được tha có thể là mất liên lạc, có thể là mất tinh thần, thực tế cũng là không hoạt
động nữa. Và những uẩn khúc thế nào đó văn là một u uất cho tới giờ. Tôi tự chắp nối lại
lý lịch cụ được đến vậy thôi.
Tôi cũng chưa khi nào trò chuyện hay hỏi han cụ về Trương Văn Lệnh, lúc ấy không hiểu
sao, tôi lại nói:
- Tôi có biết ông Trương Văn Lệnh, người cao cao...
Cụ Thắng nhìn tôi, rồi thở dài:
- Phải, Trương Văn Lệnh chết rồi, chết đã lâu rồi.
Nhưng mà chuyện oan khuất của tôi thì không nói ra được. Mỗi khi nghĩ đến lại đau thắt
ruột, không chợp được mắt. Khối đứa ngày trước là con chó, mà ngày nay...
- Chuyện cũ, bỏ đi, cụ ạ.
Nhưng nó sờ sờ trước mắt, nó chọc mắt trêu nguơi mình, có mù đi mới không trông thấy,
mà không trông thấy cũng không quên được. Anh có biết thằng Thúc nghỉ hưu chuyên viên
bảy trước cũng ra làm ban bảo vệ khối bên kia. Nó không phải Quốc dân đảng Nguyễn
Thái Học đâu, nó là phản động Quốc dân đảng. Hồi ở trong này, đáng nhẽ nó phải chết
với Nhượng Tống ở chỗ chợ Hôm, nó cùng cánh thằng ấy mà, ban ám sát của ta lại chỉ
khử có Nhượng Tống. Lý lịch nó khai láo thế nào hoá ra thành tích hoạt động nội thành...
Tôi không thể có điều gì hầu chuyện cụ Thắng được.
Cụ còn kể vô vàn những đầu lâu cuối lấu đâu đâu thế này thì tôi làm thế nào dứt ra. Vừa
hay, ông Đại phụ trách “cơm nồi nước sôi” đến. Có người vào, cụ Thắng chống gậy, đứng
dậy bắt tay tôi.
- Cơm nước ra sao đây ông?
- Ta bàn chuyện đóng cửa thôi.
Việc về kinh tế, tôi đã phân công cho Đại từ năm đầu. Cũng là cái cớ cho ông phó mộc có
thể nhặt nhạnh thêm đồng ra đồng vào. Hôm trước đã tính nếu có bom đạn thì Hà Nội cũng
vẫn còn người ở lại, ai cũng phải ăn phải uống thì vẫn duy trì, làm kinh tế, kế hoạch còn
đương mở mang mà. Đã vận động mọi người tham gia công tác khối phố và ở cuộc họp
dân phố kêu gọi mỗi người mỗi nhà đóng vài đồng hùn lại được một số tiền, như chơi họ,
tổ phụ nữ đứng làm hợp tác xã có mục đích giúp bà con. Kế hoạch thành phố gọi là hợp
tác xã mua bán đương vận động xây dựng khắp các nơi. Làm giỏi thì cũng như khiêng cả
cái chợ về phố, cái gì cũng có, lại tự tay mình bán, tự tay mình mua. Và còn nghĩ rộng
được nhiều sáng kiến, tổ phục vụ này cũng do nó mà ra. Tết nhất, các nhà đặt bánh, đưa
bánh chưng gói sẵn, tổ hợp luộc bánh lấy công luộc, công củi. Lò than đỏ rực suốt ngày?
nước sôi lúc nào cũng sẵn, nước phích, nước tắm gội bán phích, bán chậu. Cơm thì gạo
các nhà vo đổ nước bỏ vào nồi, vào xoong đem ra đặt lên lò, hẹn giờ lấy.
Thức ăn, nồi cơm chỉ việc xách về, lại nhận tem phiếu mua hộ dầu, củi, đong gạo... Nàng
dâu trăm họ, người khen trước mặt chửi sau lưng, người xói móc, nghi bớt xén. Nhưng
mà vẫn gửi, vẫn “cám ơn”, vân “quí hoá quá", bởi thật cũng đỡ vất vả cho người ta. Đấy,
đã được người tin, vốn hùn đã kha khá, mọi mặt đương trôi chảy.
Chúng tôi định sẽ lên một quán phở và bánh cuốn, phở bánh hẳn hoi không phải miến
dong riềng. Sẵn lò than cả ngày, lại tráng bánh cuốn, cũng tiện một công. Tổ phục vụ này
dựng lên được thế là tổ thứ 16, trong khu chỉ còn bốn khối chưa có. Làm quán phở đã.
Dạo trước họp bàn khai trương Đại mời bà thương nghiệp, bà lương thực và công an
khối. Họp xong, mỗi vị khách đã được mời chén một bát phở gà đầy có ngọn. Qui vị
thưởng thức tự tay phó Đại trổ tài nấu nướng. Nhưng rồi ông Đại lại nói: “Múa võ thế thôi,
chứ đến hôm làm phở thật thì miến dong riềng. Cái dong riềng hồi này trên Phùng quê tôi
làm khá lắm, chẳng khác miến Tàu ngày xưa. Cốt cái nước thật béo. Bây giờ có bát phở,
thịt gà thịt lợn ai cũng đều cân tất, thế đã hơn phở không người lái rồi”. Tôi gật gù khen tài
giỏi ăn nói và con dao pha tưởng tượng của Đại. “Nhưng không đến nỗi thế, tôi đã rủ
được một ông ở phố ta trước làm phở nhà mậu ở Quán Thánh mới về hưu. Ông ấy
chuyên nấu nước phở rồi đứng chan, chan một giờ trung bình được một nghìn năm trăm
bát, có nghề không- chiến sĩ thi đua chan phở mấy năm liền, ông ấy sẽ cộng tác với ta”
Đại hào hứng bốc, thế mà bàn chuyện đóng cửa.
Tôi bảo Đại:
- Máy bay máy bò thì mặc kệ chúng nó, việc ai nấy làm, gì mà phải đóng cửa mở cửa, hết
máu hăng rồi a?
Đại nói:
- Sơ tán loãng cả phố xá rồi. Bán hàng miếng sống mà ế một ngày thì thiu thối đi đứt vốn.
Hai ngày vắng khách rồi, chạy ra chợ Hôm bán lại thịt ế lo bằng chết ông ạ. Cơm nồi
nước sôi cũng chẳng còn mấy người gửi. Các bà nhà bếp ngồi giãi he cả buổi. Tính thế
này thôi, xưa nay làm ta chỉ ghi thu chi vào sổ nháp, không kế toán thanh toán ra từng
món, chuyến này xem lại sổ sách, rồi giữ lại nghe tình hình đã. Chẳng nhẽ thằng Mỹ cứ ở
trên trời mà doạ nhau mãi a.
Tôi khoái những cái nghĩ về tổ phục vụ, hợp tác xã mua bán đương phấn chấn. Nhưng
nghe Đại kể như thế tôi lại hình dung khác ra. Tôi đã trông thấy ông cháo gà Chữ cầm một
túi những mảnh thịt gà ông Trí bán buổi trưa không hết về luộc lại làm cháo đêm. Phải,
miếng hàng sống chỉ quá một buổi thì vứt đi, thì đóng cửa, thì mất khách. Chẳng biết bây
giờ quán bánh tôm hồ Tây ngon lành thế nào, nhưng mấy năm trước, một sáng sớm, tôi
chỉ nhá một miếng, biết ngay bánh ế hôm qua. Từ đấy, không đến cửa hàng này nữa. Thế
là mọi tốt đẹp của tôi về tổ phục vụ lại hoá ra màu xám. Tôi nói theo đuôi Đại: Thế thì ông
cho làm sổ sách đi. Tôi cũng chỉ biết nói vậy. Tôi đi qua chỗ đắp ụ than mọi khi lúc nào
cũng rừng rực người ra vào người ngồi chơi, trước cửa một miếng ni lông đỏ giải ra, trên
đặt lọ lạc rang, lọ ô mai hột mơ tẩm gừng và cái ấm giỏ chè chén- tiện lò than đấy, lúc nào
cũng có nước sôi tới số, có cả chai nước trắng giấu trong kia. Đã hay mắt ra phết. ở
trong làng cũng như ngoài chợ, chỗ nào dựng cái phên quán nước thì đấy có người đến,
người ngồi tán gẫu.
Hôm nay đã vắng ngắt, trên cửa treo miếng cót ép đề chữ vôi trắng: Tạm đóng cửa, lệnh
sơ tán. Tôi nhòm vào, một ông đeo kính trắng với ông Đại đương ngồi trước đống giấy
má. Đấy là ông kế toán ông Đại thuê về tính sổ.
Hồi ấy, ở phố ở làng, các hợp tác xã mua bán mọc nhua nhúa. Nhà mậu cung cấp vật chất
cho mọi nhà, cô đơn là lạc hậu, phải vào hợp tác mới hợp thời và tiến lên được. Đủ các
thứ, hợp tác thợ mũ, thợ khâu, đẽo guốc, cả những ông vá giày, ông cắt tóc cũng vào hợp
tác. Vì có vào hợp tác mới mua được cái làm. Sống cá lẻ bây giờ chỉ còn anh bán đóm,
chữa khoá, lão mài dao kéo, móc cống, bổ củi và các cô cầu Giẽ bán rượu chui cứ quảy
bìu rượu đựng ni lông xám hệt bọc phân đạm. đương phong trào như thế không vào chỉ
thiệt, giấy tờ có hợp tác xã, có chữ ký chủ nhiệm thì thươngnghiệp nhà mậu bán hàng cho.
Vào hợp tác, ông đánh máy chữ thuê ngoài vỉa hè mới mua được giấy pơluya, giấy than,
dầu lau máy, ông cắt tóc mới được thương nghiệp bán định kỳ khăn mặt, xà phòng, than
đá đun nước sôi.
Nhiều nghề kiếm ăn lần hồi mà vào hợp tác như là những trò chơi. Tôi đã lâu năm cắt tóc
hàng ông Be, tôi biết. Hiệu cắt tóc ông Be đúng kiểu hay ho một thời. Trước kia, ông Be
chủ hiệu, ông đứng cắt tóc và thuê hai ghế thợ. Đến đận cải tạo tư sản Be ta cũng ba đao
lắm. Làm chủ với hai người làm thuê thì đúng tẩy lên thang tư sản rồi. Ông chỉ còn phân
trần ông đứng một ghế, ông cũng lao động. Thế thì ông cũng như phú nông. Phú nông ngồi
cùng chiếu địa chủ, cũng ghê bỏ mẹ. Ông Be nhanh trí xoay làm ăn đời mới, coi như ông
canh ty với hai anh vẫn làm thường ngày, lại gọi thêm hai anh cắt rong nữa, cả nhà có
năm ghế. Thế là đóng sổ biên bản họp xã viên lên hợp tác xã, báo cáo thương nghiệp khu
rồi treo cái bảng kẻ chữ sơn đỏ: “Hợp tác xã cắt tóc Quyết Tiến". Hợp tác xã có cách hoạt
động riêng chỉ biết với nhau. ấy là khách vào ghế ai người ấy làm rồi người ấy bỏ tiền vào
túi. Khách thích một người làm, tôi chỉ cắt ông Be, mấy người tôi cũng đợi Chẳng bởi cầu
kỳ mai trắng mai xanh, mà chỉ mỗi lần cắt tóc xong tôi lại thành bạn rượu đậu nghệ nướng
chấm muối với Be. Bây giờ ông Be chỉ là xã viên, ông nhường anh khác làm chủ nhiệm
mà ông vẫn còn hãi. Đến kỳ mua các thứ đồ nghề, cái khăn mặt, miếng xà phòng... mua
bao nhiêu, cái gì, mỗi người xỉa tiền ra, một người mang sổ của hợp tác đi lĩnh mua cung
cấp.
Ba tháng hợp tác xã cắt tóc Quyết Tiến thuê một ông kế toán già về hưu đến lập sổ, dựng
lên các cột chi thu mua bán, cột lãi, cột cứu tế, cột linh tính... kẻ ngang dọc vui mắt. Rồi
đánh máy cái biên bản gọi là đại hội xã viên, mọi người ký tên, đem trình lên thương
nghiệp đóng dấu đỏ chứng nhận. Không có ông kế toán ấy đến vẽ vời cho vài con số ma
đúng qui lát thì không lên được khung đình đám hợp tác. Chắc chắn trên cũng biết nó làm
hợp tác xá dởm, nhưng năm thằng bờm đầu thì đến đời nào mới thành triệu phú được,
cho nên trên dưới đều giả vờ không biết thế là trò chơi và không ai bới ra.
Tôi nói với Đại cho phải phép: “Nhớ phải sòng phẳng, không hợp tác xã ma đâu nhé". Đại
cãi ngay và giải thích: “Các bà ấy kém chữ nghĩa, ông với tôi còn công tác cơ quan, thì giờ
đâu mà gò đầu gồ cổ tính sổ sách. Tất cả trong bếp ấy, còn mỗi đống than để ngoài cửa,
tối đã có người ngủ canh lò. Thuê người sổ sách mới ra tấm ra món được". Rồi Đại
cười, cười cái gì không biết. Tôi cũng nói trống không thế, chứ tôi biết đằng mù nào
những việc chi tiết và chuyện lén lút ma ăn cỗ.
Lại giữa trưa, như quen thói, máy bay Mỹ đến ném bom vào giữa thành phố, vùng Nhà hát
Nhân dân, bộ giao thông, ga hàng Cỏ sang ngõ hàng Đũa. Cái ngõ hàng Đũa ấy, thời
Nhật, máy bay Đồng Minh – cũng Mỹ đã thả bom triệt hạ cả phố. Hôm ấy, người ta nói Mỹ
thả bom tia la de, bom biết tìm đến mục tiêu mới nổ. Bộ Giao thông, nền Nhà hát Nhân
dân ngay bên kia, khác phố, nhưng cách nhà tôi vài ba trăm thước.
Tôi cũng đương ở nhà một mình. Nhớ như hồi ấy tôi đương viết cái tiểu thuyết Miền Tây.
Ngồi đây tôi tưởng tượng lên với nhân vật mẹ con bà Giàng Súa bên Đào San, Phong
Thổ, ở Sìn Hồ vùng thấp vùng cao.
Tôi kê mảnh ván bên thành giếng. Nếu bom rát quá thì trèo xuống giếng, cái giếng có hai
bậc, thành trên tôi ngồi xổm mới kín đầu, còn thành dưới trong giếng có nước thì sâu nữa.
Gió lật tốc cả dàn cây móng rồng trên tường, hơi bom trút xuống cùng lúc với tiếng nổ. Tôi
tụt vào giếng, trông lên vòm trời vòng tròn trên đầu. Bên cơ quan bộ Giao thông trúng bom
hay tên lửa không biết, tàn than giấy bay đen trời rơi lả tả xuống đầu tôi.
Tôi đeo băng, vơ cái còi quàng vào cổ chạy ra trông về ga hàng Cỏ, thấy lạ hẳn. Toà nhà
đồ sộ giữa ga vòm mái đá đen đã biến mất, chỗ ấy toang hoác như giữa bãi trống. Phía
hồ Văn Chương sau ga, cao xạ ta vẫn nhả đạn từng đợt đoàng đoàng. Thế là máy bay lại
bom bắn vào trong thành phố, lần này đánh nhiều chỗ. Có một cảm tưởng âm thầm cứ
dần dà nghiêm trọng hơn.
Ban bảo vệ các khối lên họp trên tiểu khu, ở khu đội và công an dự. Dương và Mẫn về
báo cáo: Trên thông báo lần này Mỹ sẽ đánh Hà Nội nữa mà đánh rộng có khi nó cho cả
B52 đánh ác liệt. Đề phòng nó có thể bất thần nhảy dù tập kích như trận Sơn Tây.
Khu ta gần các cơ quan trọng yếu cũng là trọn điểm mặt trận. Phải triệt để sơ tán nhân
dân, tuần tra mười hai tiếng suốt đêm, kiểm soát chặt chẽ sổ tạm trú, tạm vắng.
Nhiều việc “phải” nữa. Điều khó khăn, nhiều việc trái ngược và chồng chéo. Công tác chủ
chất khối phố hầu hết bà con có tuổi, kể cả đội dân phòng, bây giờ sơ tán triệt để thì ai
cũng vào diện đi, đi được, ấy là chưa kể những người bắt buộc phải theo cơ quan, theo
xưởng máy. Mà cả trăm việc dồn xuống.
Quá nửa đêm, tôi đi với bảo vệ Dương từ phía ga hàng Cỏ ra hồ. Bom đã ném bay cái
nhà thuyền góc phố đằng kia. Cửa hàng bia quán Gió vẫn đèn sáng, chỉ có quán bia cửa
ga và quán bia nhà thuyền có nem nướng không nhân ăn rất hay thì đã hóa ra một lỗ trống
hốc. Không biết các cô bán hàng cửa ga, các cô nhà thuyền mọi đêm, có ai còn sống?
ánh điện ban đêm sáng lạnh, trời dìu dịu sang thu, sương mù hay là khói bom nhà cháy
còn đọng luẩn quẩn trên các ngả đường
Nhưng đến gần thì không phải. Cái mờ mờ sương phủ ấy là lớp lớp những chiếc chông
cắm nhọn hoắt nhấp nhô liền nhau rỡn lên như màu sương. Những bàn chông la liệt khắp
nơi. Nhớ mùa đông năm 1946 trên đồng quanh các làng Nghĩa đô, Cổ Nhuế, sáng sớm
trông ra chì chít liền mấy cánh đồng xám mờ những bãi chông tre cắm đề phòng Pháp
nhảy dù. Bây giờ những chiếc chông sắt chống Mỹ nhảy dù cũng như sương phủ- không
phải chỉ là phòng xa, mà trận tập kích đã xảy ra ở Sơn Tây.
Chúng tôi vòng về Nhà hát Nhân dân, cái nhà hát giữa trời này đã dỡ bỏ tử lâu, chỉ còn
bãi cỏ hoang. Từ xa đã thấy trong ánh đèn phòng thủ nghiêng mờ mờ vun vút lên những
ngọn chông. Mấy xe tải quân đội vừa đỗ, trên thùng xe đẩy xuống, tiếng gỗ, tiếng sắt loảng
xoảng. Bộ đội khiêng vào trong bãi như những bó chông hay những bộ phận súng máy.
Khu vực này bên nhà tù Hoả Lò- khách sạn Hintơn Hà Nội” nổi tiếng giam nhiều lái Mỹ
không biết trong lúc quyết liệt này có còn người tù Mỹ nào trong ấy không. Vào Tết Noen
mỗi năm, tôi hay đi với Nguyễn Tuân vào Hoả Lò gặp phi công tù binh. Giam nó ở đây, hỏi
chuyện nó cũng ở đây, nhưng khi cho gặp chúng tôi thì người ta lại làm vờ cho chúng nó
tưởng đi xa lắm mới đến chỗ các nhà báo. Mấy phi công Mỹ, trên xe tải bước xuống từ
ngoài cổng vào, băng vải đen bịt mắt. Không biết nếu nghe tiếng loa phát thanh vang các
góc tường và tiếng động ngoài phố đưa vào, những tù binh đã bị nhốt nhiều năm ở đây có
nhận ra những tiếng quen tnuộc hàng ngày vẫn nghe không.
Tôi bảo Dương:
- Ta thử vào xem chỗ này chông tre hay chông sắt như chỗ kia.
Một bộ đội đứng gác trong gốc cây, đến tận nơi mới thấy bóng người và ánh lưỡi lê sáng
nhoáng.
Tiếng quát giựt giọng:
- Đứng lại
- Chúng tôi dân phòng đi tụần tra.
Có lẽ anh bộ đội đã trông thấy cái băng đỏ và hai chúng tôi cầm đèn pin Anh nói nhỏ,
tiếng vẫn đanh lạnh ngắt.
- Không được vào!
Chúng tôi quay ra, bước xuống đường. Dương nói: “Đằng kia thì chẳng thấy cấm". Và có
vẻ ấm ức. Tôi chẳng thấy là phiền lòng, bảo Dương:
- Người ta cấm là phải chứ.
Tôi không băn khoăn chông sắt hay chông tre, nhưng lại nảy ra cái vẩn vơ so sánh: súng
có lưõi lê của anh bộ đội hẳn đã lắp đạn, không phải súng lép như khẩu mút cơ toong
hôm nọ khu đội cho mượn.
Sáng hôm sau, đi qua cửa ga và bãi cỏ Nhà hát, chẳng thấy gì cả. Nền nhà ga cháy đen
và các bãi cỏ quạnh vắng. Như chuyện ma trong Liêu Trai. Mấy chiếc xe tải phủ bạt đậu
dưới bóng vòm cây xà cừ, như những chiếc xe ban ngày tránh máy bay.
Người sơ tán các nơi nhiều, khu yêu cầu làm tem phiếu sớm. Vì không họp các tổ được,
lên danh sách rồi phải nhắn đi các nơi soát lại người từng hộ, có di biến động thế nào.
Đưa đi đưa lại vòng vo mất cả tuần, mà năm nay cũng không nhờ được học sinh giúp.
Đại và tôi mở đống sổ sách năm ngoái. Tôi bảo Đại:
- Tôi phải bàn với ông gấp một tý. Tuần sau, tôi có công tác đi ấn Độ. Ông ở nhà làm cho
vào đà, đến hôm tôi về...
Đại nói:
- Ông yên chí, việc tem phiếu còn dài, ta chống Mỹ cũng còn dài. Chắc ông đi ấn Độ bằng
tàu bay, không sợ gặp tàu bay Mỹ đánh sao?
Tôi cắt nghĩa Trạng Lợn:
- Sáng sớm nó còn ngủ, chặp tối nó đỉ ăn cơm. Bay những lúc ấy được.
- Tôi chưa trông thấy cái tàu bay lên xuống bao giờ.
- Thứ bảy này ông sang tiễn tôi thì được xem. Ông đi nhé.
Sớm tinh mơ trên sân bay Gia Lâm, phó ban Đại đứng trong đám các con tôi.
Tàu bay IL 18 lênh khênh sừng sững trước mặt rồi từng chiếc một, bốn cánh quạt lần lượt
quay. Một ỉúc cả bốn cái cùng quay tít, bụi và lá khô mù mịt trước mặt.
Hôm về, Đại bảo tôi: “Nó rún lấy đà, quạt lên như bão. ừ, phải thế mới đẩy lên được".
Tối tối, tôi với Đại lại đếm lại các loại tem, đối chiếu từng hộ. Trong khi, các tổ đi tuần tra
đến năm giờ sáng.
Cuối năm, xong đợt tem phiếu đến sang giêng hai dương lịch, thành phố sắp xếp lại các
cấp hành chính được thông báo hết qui một, có thay đổi. Vẫn có uỷ ban trên thành phố,
các tiểu khu nhập thành quận, trong nội thành có bốn quận. ở dưới mấy khối cộng lại
thành phường. Các tổ vẫn còn. Ban đại biểu dân phố giải tán, ra đời bộ máy phường
tương tự như xã ở ngoại thành. Chủ tịch phường có con dấu và ăn phụ cấp như lương.
Cán bộ Thắng tiểu khu mà mỗi Tết lại đến nhà tôi lấy dao phay, dao bầu đi mài, anh vẫn
đến chơi Tết, anh đã xin đổi công tác về nhà máy sơn. Cái chạn bát, cánh cửa sổ nhà tôi
cuối năm được sơn xanh lại tươi tắn. Dương ra giữ xe đạp cửa rạp chiếu bóng. Mẫn đổi
chỗ lên ngồi chữa xe trên Bờ Hồ. Mẫn bảo dưới này đói quá, có hôm chỉ được vài nhát
bơm.
Mẫn nói với tôi: “Anh cho em thôi cái bảo vệ đường phố, em còn phải đi bảo vệ cái dạ
dày". Một năm, Dương đến mượn tôi cái va li, bảo là về Sài Gòn. Tôi đưa Dương cái va li
cũ. Rồi Dương có về Phú Lâm hay đi đâu, tôi không biết.
Tôi thôi trưởng ban bao giờ, không nhớ. Khi làm, không ai mời, đến khi thôi thì thôi cũng
không ai bảo.
Chỉ nhớ bấy giờ sau trận B52 máy bay Mỹ ném bom vùng Khâm Thiên, các khối dân phố
đi cứu khối bạn, đội dân phòng, cả cáng thương và túi thuốc, cả xà beng như mọi khi đã
tập, tôi vác cái câu liêm.
Chốc đã hơn bảy năm qua. Cái anh Khang đảng viên rủ tôi ra làm công tác phố ốm đã
mất ba bốn năm nay. Nhiều ngưòi, cụ Thắng điếc, cô Nghệ, ông An cũng qui tiên cả rồi.
Chẳng có cáo phó, khi ấy việc tang ma còn đơn giản, có người bảo tôi mới biết.
Nguyễn Văn Bổng và tôi vẫn hay vào quán Gió uống bia. Ngồi uống bia hiu hiu còm cõi,
nhưng bên hồ nước, bao giờ cũng có cảm tưởng xa khoi. Không còn khi nào vào hàng
nửa đêm. Mà các cô bán hàng thuở ấy không còn ai bây giờ và cũng không có bia hơi,
cửa hàng đã lên cấp. Chợt nhớ anh phó mộc Đại.
Tôi tạt đến rủ đi cho vui. Cái nhà Đại ở mọi khi đã biến mất, chỗ ấy thấy quây bạt, lủa tủa
cột bê tông, đương lên nhà tầng. Ông thợ may hàng xóm, trước ở đội dân phòng nhận ra
trưởng ban.
- Ông đấy à, ông vào xơi nước- ông có đi uống bia thì đi với tôi - Mời hai ông. Nhà cháu
bệnh áp huyết, bia rượu những cái ấy phải kiêng. Định vào rủ ông Đại- ông Đại thợ mộc
trên quận đã nghỉ hưu. Ông ấy về quê Phùng được mấy tháng rồi.
Mấy năm mới lại vào ngõ này, khác quá, khác quá.
Chúng tôi đến quán Gió. Đọc báo thấy đăng tin có đàn cò về đậu ngọn cây ở cái gò giữa
hồ. Đã bao nhiêu năm nay những đàn cò không về lòng hồ. Nguyễn Văn Bổng hỏi cô bán
bia hôm nay đã thấy cò về trong hồ chưa.
Cô hàng nói:
- Buổi sáng còn bay loạn ngọn cây, bây giờ chưa về.
Chập tối, đã lên đèn. Chẳng thấy một bóng cò. Cô hàng nói một câu có ý nghĩa thế nào
chăng.
Thời buổi này, con chim cũng vui đâu đậu đấy, có phải không hai bác?
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều



Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều

 
Chương XV



Đầu mùa đông 1957, tôi đi Matxcơva, dự hội nghị quốc tế về văn học thiếu nhi. Người
dịch tiếng Nga cho tôi là Marian Tkchôp. Năm ấy, Marich trên hai mươi tuổi đôi chút. Tốt
nghiệp khoa tiếng Việt ở Matxcơva rồi làm việc ban đối ngoại hội Nhà Văn Liên Xô. Thoạt
trông, tưởng người ít ra đã trạc bốn mươi. Một lọn tóc vắt che trán hói lên gần đỉnh đầu,
cái đuôi tóc còn thừa thòng lòng ra đằng gáy. Vừng trán cao phẳng lặng thật lạc lõng với
người trẻ tuổi mới có người yêu.



Năm 1994, ngót bốn mươi năm sau, một hôm chúng tôi ngồi trên gác nhà hàng Cây sấu
gần hồ Hoàn Kiếm. Cái đầu hói của Marich vẫn thế. Vẫn cái trán lồng lộng như ngày còn
trẻ. Chỉ khác đã lâu mất chiếc đuôi tóc hắt lên che trán. Vẫn như từ thuở trước nhưng giờ
không cần che nữa.
Marich đi với nhà văn Ke Babaep cao lớn đội mũ nan ra ga xe lửa đón. Ke Babaep,
người nước cộng hoà Tuyếcmêni. Ban Thường vụ Hội Nhà Văn Liên Xô có chế độ làm
việc luân phiên, uỷ viên thường vụ các nước cộng hoà mỗi năm về Matscơva thường trực
ba tháng.



Tôi vừa đi chuyến tàu hoả mười ba đêm ngày, từ Hà Nội lên Bắc Kinh qua mênh mông
rầu rĩ rừng taiga Sibêri tới Matxcơva. Ba ngày tàu Trung Quốc cơm với măng xào nấm, lạ
miệng nhưng ăn được. Mười hôm tàu Nga, bánh mì đen, thịt băm viên súp cải bắp, đã
chối đến ngắc ngư. Bữa ăn bán phiếu theo vé, chỉ bia Thanh Đảo, bia Matxcơva mua
được bằng tiền Tàu, tiền Nga. Thanh Đảo chỉ có chai to- hãng bia ra đời từ đầu thế kỷ vẫn
một kích cỡ ấy tới giờ.
Qua sông Tùng Hoa chập chờn ngước lên nhìn quan ải Sơn Hải cheo leo núi đỏ từng tảng
đến xa mờ, những chơi vơi đồn luỹ Trường thành đầu tiên, hơm năm trăm dặm nữa tới
Gia Cốc quan, con đường Tơ Lụa đời Tần vắt ngang đấy sang châu âu đã từ nghìn năm
trước.



Sibêri cuối thu, tuyết xuống tơi tả. Những vòm cối sắt nâng tàu thay bánh ở Dabaican.
Chốc lát, cả đoàn tàu đứng dừng như sắp lút trong tuyết, chỉ đen săm nhô lên mấy cái cọc
sắt. Tuần lễ sau đến Matxcơva, tuyết bắt đầu đóng băng như những miếng kính, người lội
trong bùn trắng. Khách sạn Ukraina trông xuống sông Matxcơva, những buổi sáng từng
mảng băng mỏng đọng trên mặt nước.
Cũng một cảnh, một việc ấy, nhưng thời gian qua đi lặng lẽ mà dữ dội. Cách mạng tháng
Mười Nga 1917 đã trên bảy mươi tuổi. Tôi biết Người từ tuổi thanh niên, bây giờ, hôm
nay bỗng nhiên tên Người bị xoá địa giới trên bản đồ. Làm sao mỗi chốc có thể dửng
dưng.




Phút chốc ai kia coi như ván bài tú lơ khơ, cái người mà trong chiến tranh thế giới lần thứ
hai mới lên mười, mẹ dắt chạy giặc vào Trung á. Goócbachôp bằng tuổi Marich. Marich
thường kể khi tản cư thèm đường hay ăn vụng đường phiếu. Nó bỏ chế độ của nó như
cất bàn cờ. Thế mà năm ngoái Goócbachôp lại ra ứng cử tổng thống. Nước Nga đã nhổ
vào mặt anh ta. Goócbachôp không được nổi 0, 51 phần trăm phiếu bầu!




Hôm trước, sang ga Nội Bài đi Sài Gòn. Thấy trên sân bay đậu những chiếc máy bay
Nga. Vẫn cái Airbus 87 và những họ hàng Tu, Il, An... nhưng thấy thiếu, thấy vướng thế
nào. Mới nhớ ra bên cạnh chữ Aeroflot, cái chỗ trống ở dưới dạo trước vẽ hình búa liềm.
Bao nhiêu năm đã nhìn cái hoa nở như thế. Cũng như tôi thật khó chịu – tất nhiên, một khó
chịu vô lý, người ngoặc ra ngoặc vào cạnh chữ Liên Xô thêm chữ cũ. ừ thì là cũ, là đã
qua, nhưng trong tâm tưởng tôi, tôi không biết có chữ ấy.



Trông cái 87 ở sân bay Nội Bài không hình búa liềm ngỡ như cái máy bay vừa bị cướp,
quả là chúng nó quân cướp ngày. Đã quen thuộc anh em IL, đi đâu đâu rồi về qua sân bay
Sêrêmêthêvô 2, đã như đến Gia Lâm, Nội Bài nhà mình. Sáng sớm, đêm khuya, đoán
được cả quãng máy bay sắp xiết bánh xuống đường băng lấy đà cất cánh.



Cái IL 18 bốn cánh quạt đến Hà Nội từ khi Nội Bài còn là sân bay dã chiến và chưa hẳn
hoi thành bãi ga trời giao du ra ngoài. ở Gia Lâm, tôi đáp chiếc Aigle d Adzur mà ủy ban
Quốc tế thuê của Pháp đi vòng Đông Dương mỗi tuần, lần ấy sang Pnôm Pênh. Trở lại
Hà Nội, các con tôi kể bà Năm và chúng nó đi tiễn, máy bay lên rồi về nhà bà Năm ra chợ
Hôm mua hương hoa về cúng cầu bình yên cho tôi. Chẳng như sau này, máy bay như con
thoi một lèo Hà Nội- Matxcơva rồi Hà Nội, Nam Ninh, Trường Sa, Bắc Kinh- Iếc Cút,
Ômsơ. IL 18 ngắn hơi hơn đỗ quãng một, nghỉ ăn ở Trường Sa, ở Tatsken. Những mùa
đông gặp bão tuyết, có khi chờ bão tan ở Sveclôp, ở Iếc Cút mấy ngày đêm. Chẳng sao,
máy bay nhà. Có hôm sắp tới Matxcơva lại ngược lên đỗ Lêningrat. Sau mới biết có máy
bay ở Kiep lên đáp xuống đâm vào rừng thông, sân bay phải đóng cửa.


Tôi đến Matxcơva ngót nửa thế kỷ sau Cách Mạng Tháng Mười Nga. Không biết quang
cảnh và sinh hoạt Matxcơva ngày trước thế nào, nhưng những năm này đã mỗi năm mỗi
khác. Chặp tối, ánh sáng điện hè phố như tạnh ráo hẳn. Những hạt tuyết khô bay loăng
quăng, ràn rạt vào mặt, thế là sắp lạnh nữa, chỉ vài hôm thì băng đóng kín trên sông. Rồi
trong chốc lát, trời lại xạm ngắt, mưa tuyết trơn ướt tơi bời. Sân bay vẫn đóng, không phải
vì mới xảy tai nạn, mà thời tiết dữ quá, máy bay không cất cánh được.
Ngoài đường đã thưa ngươi mặc đồng phục đội mũ lừỡi trai, nhưng váy áo vẫn tương tự.
Mùa lạnh, áo lông đen khoác, áo bông ô quả trám, mũ hai tai có dây buộc. Những cô gái
Nga mặc quần phăng, các ông gác cửa không cho vào khách sạn. Nhưng tối đến thì tha
hồ. Phòng ăn đông từ chặp tối, cả sàn nhảy giữa nhà. Các bà váy loà xoà đi qua sàn gỗ
chưa có nhạc thì nhún chân.


Nền nếp ăn mặc thời ấy ở Matxcơva vừa phải với quần áo của tôi mà bộ Tài Chính cho
mượn, cho thuê. Mũ lông, ủng da ủng nhựa, những cái áo khoác giả lông cừu nặng như
cùm. Bởi có mấy khi đi đâu và tiền đâu mà sắm, hàng đoàn cả chục, mấy chục người ở
đồng ruộng về chỉ đi dăm bữa nửa tháng thì nhà nước tất phảỉ lo. Tôi mượn Hoàng Cầm
cái va li tô tổ bố. Không biết tại sao lão có cái va li da bò bự thế. Chắc của Hoàng Yến vợ
lão. Nhưng hôm đến kho thử mỗi thứ một bộ, vừa cái va li giấy nhỏ, tôi đem trả anh.
Trong các bạn có dịp ra nước ngoài, Nguyễn Tuân không đến kho quần áo. Ông mượn
của người có quần áo tốt, sau đó ông đã sắm cho ông lần đầu tiên đi Hensênhky, một bộ
comlê chững chạc. Ông không coi thường cái kho, mà ông sợ.



 Những cái sơ mi trắng được đánh dấu bằng phẩm đen in hai chữ TC (tài chính) to tướng đằng lưng áo, ông đã hãi, ông miêu tả cả đoàn đại biểu áo sơ mi của ai cũng có cái dấu đằng lưng thế. Đôi
giày, cái píp, cái can, cái cà vạt, các bạn Hà Nội lịch sự biếu ông hoặc cho mượn không
bao giờ đòi. Có điều, không thấy ông Thiếu quê hương dán vào va li những mảnh bảng
tên nhà ga, khách sạn các nơi đã đi qua. Ngày trước chẳng được xê dịch bao nhiêu, chỉ
giang hồ trong sách, thì ông cho nhân vật Bạch cái thú dán nhãn phiêu lưu như thế.
Cái kho quần áo nhà nước to dần, bộ mặt thay đổi Đến kho mượn, rồi sau không cho
mượn mà nhà nước cho thuê. Khi đem trả, nhà kho soát lại, quần có lỗ thủng tàn thuốc lá,
rách sơ mi hay ố bẩn đều phải đền. Hồi đầu, kho cho mượn cả thứ lặt vặt mùi xoa, bít tất,
áo quần lót... Nhưng gíày không có dây.



Cả thành phố không đâu bán dây giày và hộp kem. Tôi lại phải xin đôi dây giầy và mượn
cái cà vạt của Nguyễn Văn Bổng, người hay chơi giày và cà vạt.
Kho quần áo những năm đầu chỉ một phòng, hai người thay nhau trông nom. Khách đến
khách đi với ông coi kho trò chuyện, quen mặt. Đến khi kho dọn về đường Thái Hà đã
thành lớp nhà tường bao cao cao như kho gạo, người nhộn nhịp, kho giày kho mũ và
khăn quàng ở bên kia, ngoài cổng chính có phòng thường trực.


Ngày kho còn ở phố trên, có một ông già người khu Năm- mà tôi không sành tiếng, không
phân biệt được ông người tỉnh nào. Chiếc khăn mặt bông được phát ở Sầm Sơn cái
ngày dưới tàu tập kết lên, ông vẫn giữ, vắt trên lao màn dầu giường. Cái giường của ông
ấy những đêm trực kê sau cánh cửa, khuất một mảnh ván gỗ. Cán bộ cao cấp đến thử
áo, giầy, lấy các thứ mượn bỏ vào va li, có người xách về sau. Một đoàn người, nông dân
công nhân đi công tác, tham quan, sắp hàng đôi bước đều, mỗi người ôm cái va li trước
ngực. Tôi không biết mọi người đến đây thoải mái hay khó khăn thế nào. Tôi chẳng khi
nào có gì phàn nàn, mà phàn nàn vào đâu. Ông coi kho lần nào đến cũng bắt tay tôi chặt
chẽ, thân mật như người cơ quan.


Ông ấy hóp má gầy gùa, da nhăn nheo ngăm ngăm đen. Đầu bạc, nhưng húi cua, chỉ thấy
chân tóc lấp lánh. Hai bàn tay gồ ghề xem chừng chẳng quen thuộc với những của hàng
hóa trong kho. Nhưng ông trật tự ngay ngắn có sách của ông ấy, một cái khăn thủng, một
cái khuy đứt cũng không qua được mắt ông. Ông hỏi tôi:
- Lần này đồng chí đi bao nhiêu ngày?
- Hai tuần.
- Hai tuần thì lĩnh một bộ vét, hai áo sơ mi, một đôi giày màu nào thì đồng chí vào kho
chọn.


Lần khác, tôi nói: “Đi sáu tuần, bên ấy có tuyết rét lắm", thì ông bảo: “Hơn một tháng thì
được mượn hai bộ, hai sơ mi. Rét thì áo dạ khoác, mũ lông mỗi thứ một cái". Ông lão
chẳng cần xem giấy tờ, mà cũng bởi có đi đến mấy tháng cũng chỉ một đôi giày, hai sơ
mi, lấy các thứ xong đem mở va li trước mặt ông coi rồi ông mới đưa chìa khoá. Cái dây
thép vắt cà vạt loè loẹt loăn xoăn như những dải rút màu, tôi cho qua. Vừa cà vạt bẩn mắt,
vừa tôi có thành kiến người châu á thắt cà vạt không đẹp.



Lấy va li trước rồi xách sang kho quần áo, kho giầy. Chọn giầy mà khó. Không vì kiểu
dáng hay màu, mà cái bí mật của độ bền. Cái lần đi Rumani tôi nảy sáng kiến mượn đôi
giày mới, chưa ai xỏ chân. Đến lúc vấp một cái, mỏm giày há như cái hộp mở. Thì ra
người đóng giày ăn cắp, đóng mớm quá. May, đường phố Bucaret cũng lắm người vá
giày và cũng được bà phiên dịch Madari sốt sắng, đã mượn khâu lại, ngồi đợi và lấy
ngay. Lại kinh nghiệm mới, nên mượn đôi giày có người đã đi và còn có mã. Ông giữ kho
đi theo người mượn, ông hay hỏi rồi lại trả lời lấy “Được chưa? Được rồi. Cái áo này thì
mưa tuyết to mấy cũng không thủng được. Bên ấy rét thế thì phải bít tất len, kho mới về bít
tất len có cổ, đồng chí có lấy không?”



Cứ kể mượn nữa cũng được, cánh hẩu mà. Nhưng đi về hai mươi cân không kể xách
tay, mà xách tay cồng kềnh quá bị đè ra cân thì rầy rà. Đây mới lượt đi, còn để chỗ cho về,
về mới là chính, bao nhiêu thứ đã tính toán, đã chờ mong. Thế thì phải phiên phiến. Tôi
vừa chọn, có khi ông lão chọn, lấy ra hộ. Chỉ có một lần tôi được cầm phiếu đi hiệu may
Tiến Thành, sắm bộ mới toanh- chuyến đi Campuchia 1963, cũng nhà nước cho mượn,
nhưng được cắt một bộ tôpican mới. Bộ đồ ấy khi về cũng toan khai là đánh mất, rồi lại
ngại, dẫu tôi cũng chẳng có bộ quần áo nào nên hồn.




Dần dà, sự trễ nải tạo cho tôi một ý nghĩ và thói quen cho mình yên trí và được bằng lòng.
Người Việt Nam mặc Tây không ra mẽ gì. Vả lại, trên thế giới cái sự mốt là thích thú của
trai gái đương thì hay của người giao thiệp ngoại giao, kinh doanh. Còn ta mặc thế nào
thì cũng chẳng ai buồn để mắt. Lại nữa, khi có tuổi, người ta thường ăn mặc theo kỷ niệm
một thời, ở nước nào cũng gặp những ông già đội mũ phớt lệch, gấu quần gấp lơvê, ve
áo nhỏ, thắt lưng có dây treo, cà vạt đen, tay chống can...
Tôi mua biếu ông lão coi kho một cái mũ giả lông cừu lông gấu ở Matxcơva.




Tôi vừa đội thử lên đầu ông, ông đã hỏi:
- Đồng chí trông có được không?
Tôi đáp:
- Đẹp lắm. Như ông chăn cừu.
Ông lão ấn cái chỏm mũ xuống, nói:
- Ngày nào tôi cũng ắm sửa cho người đi các nơi, chẳng khác đã đi các nơi, mình đã
thuộc cả. Đấy, tôi đội cái mũ tây vừa ngay. ở mà tàu thuỷ, tàu hoả biết cả rồi, chỉ chưa
được ngồi tàu bay, mà tàu bay thì cũng bay trên trời kia chứ gì, tôi nhìn thấy cả rồi.
- Đâu cũng chỉ có trời, có biển, có đất thôi.



Ông lão im lặng rồi hỏi:
- Đồng chí đã trông thấy tuyết, phải không?
Tôi đáp như một người tai ngễnh ngãng:
- Khi nào có tuyết thì người ta đội cái mũ này.
Ông xoay ngắm mũ, nét mặt ông ngẩn ngơ. Không phải lúc nào ông cũng chỉ càu nhàu khó
tính với người ta. Không, ông nghĩ đến bao nhiêu cái chưa biết mà tưởng như đã biết.
Ông mơ mộng. Nắm tay cám ơn tôi, ông nói: “Đánh xong thằng Mỹ rồi, bao giờ tôi về quê,
chắc tôi được đi tàu bay". Tôi nói: “Và đội cái mũ lông này”. Ông cười, cả hàm dưới
không còn cái răng nào.



Ông lão hay nhăn nhó mà hồn nhiên, chẳng mấy đám khách mà ông không cau có, làu
bàu, nhưng ông vẫn tìm từng cái khăn quàng và vác va ly hộ. Người thì ghét, người thì
buồn cười cái ông lão chỉ rúc xó nhà mà hay chuyện bên Tây bên Mỹ như đâu cũng đã
biết. Tôi biếu cái mũ, ông sướng ơ mặt, ông không biết cái mũ chẳng mấy tiền mà ông
thấy đẹp kỳ lạ đến thế, và cái chỗ của chiếc mũ ở va ly hay để túi cầm tay thì đêm sau
cùng đóng gói ra về mới công phu thử đi thử lại. Bây giờ ông đội mũ ngồi toẽ năm ngón
tay trên đầu gối. Cái mũ lông hoá học đen nhánh có tai, có dây buộc lên buông xuống
quanh chỏm cao chành ngang ra hai góc như mũ vua trên sân khấu, chỉ thiếu cái roi ngựa
hay thanh kiếm. Tôi thấy mấy ngày đầu mùa đông ông đội cả mũ trong nhà.
Không thấy ông coi kho mọi khi ngồi trước cửa. Một anh mũ tai bèo, chắc là thương binh
hay bộ đội chuyển ngành mới về đây. Anh đứng dậy, xem giấy.


Tôi liỏi:
- Cụ khu Năm chưa đến a?
- Cụ chết rồi. Chết bom.
Chủ nhật vừa đây ông về Tây Hồ. Quê vợ ông lão ở làng Tây Hồ. Bom ném, ông chết, mất
cả cái xe đạp trên đê Nhật Tân. Chắc cái mũ cũng tan tành ở đấy.



Ai đã qua lại mượn quần áo tài chính có còn nhớ ông lão khu Năm đầu tiên giữ kho?
Tôi còn cái mũ lông nữa tôi biếu Vù Mý Kẻ, cũng mũ có hai tai vẫy như thế. Vù Mý Kẻ và
tôi cùng một khoá Quốc Hội, tôi đưa chiếc mũ ở hội trường, nghĩ đến cái ]àng Sà Phìn
cao nguyên Đồng Văn không có mùa hạ. Chắc mũ này được việc lắm. Vù Mý Kẻ thú vị ra
mặt, cầm mũ, ngắm nghía. Chuyến ấy, một đoàn đại biểu Quốc Hội ta thăm châu Mỹ, đi từ
Cu Ba lên Nicaragoa. Về Hà Nội, đại biểu Vù Mý Kẻ đến chơi. Mấy hôm ấy không còn
những ngày nóng bức nhưng cũng chưa đã sang thu. Vù Mý Kẻ đi vào trong ngõ vẫn đội
ngất nghểu cái mũ lông vàng vện của tôi. Anh muốn khoe anh qui cái mũ, anh muốn tôi
nhìn thấy anh đã đội mũ đi công tác bên châu Mỹ về.


Tôi hỏi:
- Bên ấy nóng thế, đội mũ này hợp không?
Vù Mý Kẻ cười:
- Về Liên Xô thì rét, có mũ này mới chịu được.
- Quê nó ở đấy mà.
Nhiều năm nay, Vù Mý Kẻ nghỉ hưu đã về ở trên cao nguyên. Có người qua Sà Phìn, tôi
hỏi thăm. Thấy bảo buổi chiều ngồi uống rượu trước cửa, ông lão vẫn đội ngất ngưởng
cái mũ ấy.


Lần đầu đến Matscơva ăn bữa tối khách sạn Ukraina. Tôi hỏi Marich:
- Hôm nào phòng ăn cũng đông thế này a?
- Đông lắm. Còn người đứng đợi chỗ ngoài cửa. Nhưng không phải những người ngồi ăn
đây đều ở khách sạn.
- Họ ở đâu?
- Chúng nó là người làm các cửa hàng quanh đây.
- Nhà nước cho ăn xuất ở khách sạn a?
Chắc là bọn ăn cắp. Tôi đã nhẵn mặt họ, ăn và nhảy đến tận lúc tan.


Tôi để ý mỗi hôm tôi xuống sớm mới tìm được chỗ ngồi khuất, đỡ có hàng xóm và loa
nhạc hát chõ vào tai. Có khi bàn trống, người bồi bảo bàn đã có hẹn, và chỉ cho nhìn cái
giấy đã ghi: dành riêng. Nhưng đưa tiền boa trước boa sau thì chỗ hẹn ấy cũng là của
mình ngay. Diệu vợi thế, cho nên dến năm không còn kiểu ăn ghi sổ, khách văn được hội
chủ nhà phát tiền ăn, tiền tiêu vặt thì nhiều nhà vănViệt Nam đến Matxcơva đều ra quán
công cộng ngoài phố. Chịu khó chen vai và bưng bê lấy, được cái giá bèo bọt. Tôi cũng
đã theo Thu Bồn ra ăn bụi, nhưng hôm nào cũng chỉ món băm viên, tôi kinh cái cục thịt hổ
lốn ấy từ cái năm đầu tiên đi tàu hoả qua Sibêri.


Mai ngày họp, nhiều nhà văn các nước dự. Tôi gặp P. Nêruđa nhà văn Chi Lê hình như ở
lưu vong. Nhà văn Matxăc đưa về nhà chơi. Matxăc chuyên viết cho thiếu nhi, nhưng ông
cũng là một dịch giả nổi tiếng dịch thơ Anh. Mùa hè nào Matxăc cũng được nhà xuất bản
bên Luân Đôn mời sang nghỉ. ở hội nghị, tôi có sẵn bài diễn văn, nhưng không phải dùng
đến. Chỉ có một chuyện, tôi nhớ cả cái dáng B. Pôlêvôi đứng lên. Buổi tối khai mạc,
Pôlevôi phát biểu kể chuyện con trai ông học phổ thông mải đọc Dế mèn phiêu lưu ký đến
nỗi thiếu điểm thi học kỳ.


Dế mèn phiêu lưu ký vừa được in, Marich dịch, Ngô Mạnh Lân đương học mỹ thuật ở
Matxcơva vẽ tranh. Chuyện Pôlêvôi nói ở hội nghị được tường thuật trên tờ tạp chí Phụ
nữ Liên Xô rồi các phóng viên Lê Trung và Trần Đĩnh biên tập lại cho in trên báo Nhân
Dân. Bấy giờ ở ta đương quét những cái hơi hướng xét lại. Có người phát hiện: “Dế mèn
đi tìm thế giới đại đồng là quan điểm xét lại”. Hai chàng phóng viên bạn tôi bị kiểm điểm.
Nhà xuất bản ngừng tái bản Dế mèn... việc cứ thế tấy lên đến tai anh Lành. Lành phán:
“Không nên qui kết lịch sử các thời kỳ khác nhau". Có thế mới thôi. Tôi viết quyển ấy từ
năm 1940, khi nước ta còn thuộc Pháp, khi ấy Khơrutxôp còn dưới trướng Xtalin trên thế
giới chưa có danh từ xét lại trong lý luận chính trị. Có lần gặp, Lành nói chuyện ấy: “Dế
mèn thì vẫn Dế mèn, nhưng lôi thôi ở đứa viết quảng cáo bìa bốn". Trời ơi, ông ấy bấy giờ
ngày đêm lo những chuyện tày đình cả nước, mà vẫn đọc quái thế.


Sau hội nghị, tôi đi Lêningrat rồi xuống thành phố cảng Ôđetxa, sau đó sang nước cộng
hoà Cadăcxtăng.
Marich có nhiều bạn ở Leningrat- trong đó có nhà vật lý Borit bạn chí cốt cùng học và cùng
quê Ôđetxa.


Marich bố Nga, mẹ Do Thái. Bố mẹ đã ly dị từ thuở Marich lọt lòng, người mẹ ở vậy nuôi
con, Marich lớn lên giữa họ hàng đằng mẹ, quê mẹ. Cả cái tên Marian cũng gốc Do Thái.
ở Ba Lan, các trại tập trung Ôchiuych, Ôvetkin của phát xít Đức con số tù tới cả triệu, đã bị
thiêu sống hết. Do Thái ở Ba Lan, áo, Bỉ, Pháp, Hy Lạp, Nga, Ru, Hung cả người Di Gan.
Lại có lẫn một người Trung Quốc, một người Ai Cập... Tôi trông thấy những mảnh thiếc
viết chữ sơn đen tên những người Do Thái bị chết thiêu... những Marian... Marian...
Marian... treo cửa buồng khắp các trại tập trung.


Marich đã đưa tôi về Ôđetxa choi. Những chuyến đi hội nghị, chẳng nhớ bao nhiêu những
ăn nói đấu tranh, những lập luận và câu chữ ở hội nghị đã quên ngay, mà chỉ còn lại
những gặp gỡ, những vui buồn bạn bè. Trách nhiệm của tôi mờ nhạt hay là tôi không có
sáng kiến gì hơn ở các cuộc họp nghề nghiệp và công tác xã hội của các hội hữu nghị
châu á, châu Phi mà tôi có gánh vác. Chủ trương thì đã bàn ở nhà, mà là cần thiết. Tôi
đến hội nghị ở Ai Cập, đọc một bài phát biểu về G. Nêru trong dịp kỷ niệm một trăm năm
sinh Nêru, thì bài đã viết ở Hà Nội. Tôi làm sao được, có trao đổi cũng là những vặt vãnh.
Cái cần thiết là sự có mặt của Việt Nam ở đấy là uy tín của cả đất nước, không phải của
một nhà văn.


Cũng có khi chủ động đấy. Nhưng tôi chẳng mát tay, không nên cơm cháo gì. Nhớ lại có
một việc định làm, đã làm mà không làm được. Bấy giờ là những năm sau 1975, Nguyễn
Đình Thi có quen một nhà văn Anh trong ban chấp hành hội Văn bút quốc tế. Ông này gợi ý
Nguyễn Đình Thi: trong tình hình mới, việt Nam nên gia nhập tổ chức quốc tế này. Cũng
trong thời gian ấy một số nhà văn ở Sài Gòn đã ra nước ngoài cũng đương vận động vào
lại Văn bút với tư cách Văn bút của các nhà văn Việt Nam ở hải ngoại. Hội Nhà văn Việt
Nam được trên đồng ý cho tìm hiểu cách thức gia nhập, Nguyễn Đình Thi giao cho tôi lo
liệu.


Văn bút quốc tế là một tổ chức văn học ra đời đã lâu, trụ sở ở Luân Đôn. Không thu nhận
các hội nhà văn đã có sẵn, họ chủ trương kết nạp cá nhân nhà văn có tiếng hoặc các nhà
văn tập hợp lại thành nhóm và trở thành hội của Văn bút ở nước ấy. Văn bút Quốc tế
không có báo chí, không xuất bản. Nó chỉ họp hội nghị, đại hội bàn tròn, dung nạp mọi ý
kiến khác nhau, không có kết luận và ai đi họp thì bỏ tiền túi ra mà đi.


Tôi đã tham khảo thái độ một số nước xã hội chủ nghĩa đối với Văn bút quốc tế. Mỗi nước
một khác nhau. Ba Lan, Rumani, Đông Đức và ba nước biển Ban Tích đã vào Văn bút
quốc tế từ lâu. Ban đối ngoại hội nhà văn Ba Lan trả lời diễu cợt: “Chúng tôi cũng vào cho
biết cái hội tự do và tự túc này thế nào. Có tiền mua vé máy bay thì đi họp, không thì ở
nhà. Ngồi họp, ai công kích ai, ai bênh vực ai, cứ tha hồ”. Họ kể cho tôi tên những nhà văn
Ba Lan trong Văn bút quốc tế Ba Lan. Có cả nhà lý luận văn học Karon Giôdep Môgityla,
tức là Gioan Pôn 2 giáo hoàng ở La Mã bây giờ, ông ấy là hội viên hội nhà văn Ba Lan.


Tôi đã đến Ba Lan trong dịp ông đăng quang giáo hoàng. Vacsôvi mừng xả cờ vàng- cờ
công giáo, ra cửa sổ và các nhà đều đưa đài vô tuyến truyền hình dặt trước các vỉa hè.
Nhưng cũng không chỉ bông lơn hay lắm vẻ như hội nhà văn Ba Lan, hội nhà văn Liên Xô
nói: “Chúng tôi không vào Văn bút quốc tế. Văn bút này đã kết nạp nhiều nhà văn Nga lưu
vong. Nếu họ công kích chúng tôi, ở đấy đã có nhà văn các nước xã hội chủ nghĩa bênh
vực Liên Xô và văn học Xô viết".


Vào Văn bút Quốc tế, chủ chốt sẽ không là tổ chức có sẵn và không phải người có cương
vị chính của hội nhà văn Việt Nam. Tôi đã đề nghị danh sách ban chấp hành lâm thời Văn
bút Víệt Nam gồm một số nhà văn tiếng tăm và uỷ viên chấp hành Văn bút trước đây ở Sài
Gòn (Thanh Lãng , Mộng Tuyết, Sơn Nam, Vũ Hạnh) và các nhà văn lão thành (Chế Lan
Viên, Bùi Hiển, Xuân Diệu, Lý Văn Sâm), các nhà văn trưởng thành trong kháng chiến
chống Pháp chống Mỹ (Chu Văn, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng). Tôi đã trao đổi với
Nguyễn Văn Bổng và dự định Tổng thư ký là Nguyễn Văn Bổng.
Thường vụ Hội nhà văn được triệu tập bàn về vấn đề này. Hội nghị chưa thảo luận về tổ
chức cũng như mọi công việc thế nào, mà có ý kiến đầu tiên cho rằng vấn đề rất quan
trọng, ban thường vụ không thề quyết định mà cần có một hội nghị ban chấp hành mở
rông.


Một số ý kiến thì phân vân.
Đến bây giờ, đã hơn hai mươi năm, qua mấy khóa chấp hành và mấy Dại hội, cũng chưa
khi nào khoá nào đem bàn lại. Tôi cũng chẳng để tâm gì hơn, lại nghĩ bãi ra, thế cũng là
cái sự thường. Bởi vì đọc bản tin, chỉ sau hội nghị thường vụ của chúng tôi ít lâu, trong
cuộc họp Văn bút quốc tế ở Mêchxich, Minh Đức Hoài Trinh đại diện hội Văn bút các nhà
văn Việt Nam ở hải ngoại đả kích tưng bừng Văn nghệ Việt Cộng.


Công việc văn nghệ ngày rộng tháng dài, có có không không cứ đều phảng phất, hiu hiu.
Đại hội Nhà văn á Phi ở Bâyrút, đến hôm thông qua Tuyên bố Bâyrút, ở tổ văn kiện, đại
biểu Hoàng Trung Thông yêu cầu thêm một chữ - chữ gì, tôi quên. Mấy người trong tiểu
ban, trao đổi dằng co đến quá nửa đêm. Sáng hôm sau, báo buổi sáng được đưa các
phòng. Mở xem, vẫn nguyên thế Hoàng Trung Thông đi tìm hỏi nhà thơ Azimôp trưởng
đoàn nhà văn Xô Viết. Azimôp nói: “Khuya quá, nhà in in rồi. Khi in văn kiện này vào tạp
chí á Phi sẽ sửa". Hoàng Trung Thông băn khoăn hỏi tôi: Trưởng đoàn có ý kiến gì
không?”. Tôi bảo: “Thôi".
Mấy tháng sau, ở Hà Nội, đọc những tờ tạp chí á Phi được gửi tới, chẳng thấy sửa, thấy
thêm chữ nào.


ở Lêningrat, đêm đến chơi nhà cô Pecman Inna, kỹ sư hoá, thím của nhà vật lý nguyên tử
Biếcbơlai Bôrit. Người đàn bà đã quá lứa ở một mình với một con mèo đen to xù. Lúc mở
đĩa vui cũng ôm bế con mèo cùng nhảy. Tôi còn gặp ở nhiều nơi những người tuổi đã nhỡ
như Inna, đã bỏ tuổi đương thì vào giữa cuộc chiến tranh thế giới đương ác liệt.
Khách sạn Astôria vẫn cổ kính nguyên dáng thế kỷ trước. Nghe nói nhà thơ Exênhin đã
thắt cổ chết ở toà nhà bên cạnh. Tôi cũng không hỏi có còn giữ di tích tuần trăng mật với
người vợ lai Mỹ Jecđôra Duncan, Exênhin chết một mình hay chết cùng vợ và khách sạn
Astôria có phảì khách sạn Anh ngày trước.


Cái khách sạn này nhà chủ cũ vẫn có đơn kiện đòi lại. Các nước đương đòi nợ nhau dài
dài. Trung Quốc đã thu lại được cả vùng đất Hồng Kông. Nếu Trung Quốc không như bây
giờ thì con cáo già Anh đời nào chịu trả đất. Thế thì bây giờ Liên Xô đã vào dĩ vãng rồi,
các chủ cũ khách sạn Astôria Ôđetxa chắc lại sang Nga đòi nợ. Sự ấy đã nhãn tiền ở
nhiều nơi, báo đã đăng tin vua giày Bata lưu vong sang Canađa mới trở về nước Sec
chiếm lại các cơ ngơi nhà máy. Không biết thế nào, tôi bây giờ có nên đòi vài đồng lương
hưu nhà vua giày Bata đã nợ tôi không?


Sông Nêva đóng băng phẳng lặng như phủ cát trắng.
Sông thành con đường băng xe vận tải chạy được ra tới mặt hồ Lagôđa- con đường bí
mật mùa đông đã nuôi sống Lêningrat suốt ba năm bị phát xít Đức vây hãm. Giữa quãng
trời đất trắng ngần kia, một người đương cuốc băng khoét một lỗ xuống mặt nước.
Người ta ngồi câu cá giữa hồ.

Mấy hôm sau xuống Ôđetxa. Sân bay hải cảng này cũng như sân bay Simphêrôpôn ở bán
đảo Crưm, có cảm tưởng đương đến giữa một vườn hoa khổng lồ.
Ban đêm ngủ lại tưởng như Simphêrôpôn rạt rào gió biển. Sáng ra mới biết đương trông
ra cửa sổ giữa công viên và rừng thông, cách bến Yanta cả trăm cây số.
Cái ga trời vườn hoa Ôđetxa ở đất phương nam khi mùa đông tới, cả nước Nga về đây
tránh rét- ấy là thói quen và tập tục đã bao đời. Biệt thự nhà văn Sêkhôp trông ra biển.
Nhà văn M. Gooky từ hồi còn nghèo cũng có nhà nghỉ đông trên bờ biển. Khi cả nước
Nga đóng băng thì ở Ôđetxa, những cây catstan bờ hè mới bắt đầu rụng từng chiếc lá
vàng. Cây táo, cây mận mọc hoang, những chùm quả chín đỏ. Đứng đợi máy bay, Vlat ra
ngắt từng ôm: “Cái giống quả dại này chua lắm, ăn cho dã rượu thì chiều mới uống nữa
được".


Máy bay nhẹ nhàng đỗ, khách bước ra lặng lẽ. Thành phố vườn hoa trong tĩnh mịch.
Nhưng thời kỳ ấy đương còn cái lặng tờ ma quái, cách đây có một ga bay. Từ Đông Phi
lên, máy bay xuống lấy khách Bâyrut. Sân bay quốc tế này mới mở lại. Không một bóng
người. Thành phố sau lưng, khói những đám cháy nham nhở. Đã có vạch xanh hoà bình
kẻ ngang chia đôi mặt đường, con đường và từng vùng ngăn các phe công giáo và đạo
hồi tràn sang nhau, nhưng tiếng súng vẫn râm ran, cả súng cối. Chỉ một đường bay này
phẳng lặng, rùng rợn chết chóc. Người ả Rập xưa nay tự hào “Bâyrut, Thuỵ Sĩ Phương
Đông yên lành giàu có". Các cửa ống dẫn dầu Trung Cận Đông đều trổ ra cảng này. Các
nhà băng thế giới đều đặt bàn giấy ở đây. Những đêm yến tiệc cung đình. Tôi đã được
một đêm đội mũ vua ả Rập uống rượu hồi với nhà văn chúa đất Gium Blat. Bây giờ tan
tành dinh cơ Gium Blat trong khói súng, Gium Blat bị giết giữa lặng lẽ khủng khiếp kia.
Cảm tưởng về hoa và người thảnh thơi phải về tới Ôđetxa mới thấy lại. Chẳng biết đến
khi nào sân bay Bâyrut có lại được phong độ xưa.

Ôđetxa không thành chiến trường như Bâyrut năm ấy Nhưng Ôđetxa hôm nay cũng như
những cái máy bay hãng Aêrôflôt bị lột mất hoa búa liềm, cái đau thật thấm thía. Năm
ngoái, Marich đi Mỹ về, viết thư cho tôi, kể là vợ chồng Marich đương sửa soạn về
Ôđetxa mừng thọ dì Luxia 85 tuổi. “Ông có biết không, đi Ôđetxa quê tôi bây giờ phải có
hộ chiếu như đi Mỹ, đến Ôđetxa đã là sang nước khác rồi".
Những rắc rối của cuộc “cách mạng nhung” – chúng nó mỉa mai vẻ đắc thắng bằng cách
thêm chữ “nhung".
Cụ Nicôlai, nhà văn Grudia hội viên hội nhà văn Liên Xô đã ngoài tám mươi tuổi. Cụ
Nicôlai từ Tbilitxi lên ở Matxcơva đã hơn ba mươi năm nay. Chẳng biết cụ có bị trục xuất
về nước Grudia không. Và cụ còn ở đây ai nuôi cụ, có khi đành bò về chết ở quê cũ cũng
nên. Tôi đã đoán thế mà rồi đúng.

Thôi, ta trở lại ngày xưa. Mấy hôm ở Ôđetxa, ăn món Do Thái xúp lạnh, bánh manta nhà
ông bác, nhà bà dì và các con cháu. Bà ngoại của Marich, bà lão Phayin Chilia
Xôlômônôva quây quần họ hàng xa gần, họ Phayin cũng như người Digan thường đi và ở
từng bọn, khác nào ở cảng Ôđetxa cá scumbria nhiều hơn nơi khác. Người Do Thái ở
đâu cũng thành xóm, thành phố. Không phải tình cờ mà nhà văn Pautôpsky, những ngày
hoang mang vô định sau 1917 đã xuống Ôđetxa định chạy sang Trung âu. Luật pháp xô
viết, các dân tộc bình đẳng, nhưng trong đối xử và chung đụng thì có nghi ky. Người vợ lấy
lần thứ hai của Marich ở Lêningrat. Về Matxcơva, mẹ vợ cũng đi theo. Bà này ghét con rể,
thường ra công an quận báo cáo mật: thằng ấy tụ tập bọn Do Thái, bọn Do Thái nói xấu
nhà nước... thằng ấy... Do Thái... Rồi sau Marich mất vợ, mất cả nhà. Xử ly dị, pháp luật
bênh người phụ nữ hơn. Một đời, hai lần mất nhà, đắng quá.

Đấy là những sau này. Lần ấy, tôi đi với Marich về Ôđetxa thì Ira, người yêu và người vợ
đầu, hai người chưa cưới nhau. Mẹ Marich làm việc văn phòng hội mỹ thuật ở Mônđavia.
Gọi điện, bà về Ôđetxa được ngay, có bốn mươi phút máy bay. Cả bà nữa, người đàn bà
bị chồng bỏ từ thuở trẻ với các bà em đều nhỡ nhàng, người làm thợ máy, người bán
bách hoá.
Họ uống rượu rồi nhảy với nhau, chẳng biết nhảy nhót thế nào, cứ ôm quây tròn, béo núng
nính, ai cũng lôi vàọ vòng nhảy. Anh không biết nhảy a? Cứ ôm vai, nắm tay, đưa chân lên
xuống. Nhớ không giẫm chân người khác. Đấy, đấy, được rồi. Nhảy được đấy.
Cuộc vui tràn trề thâu đêm rồi thì người đi, người ngủ ngồi ở các ghế đệm quanh.



Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XVI
Mùa hè 1997 này tôi đương đánh vật với Chiều chiều đây ở thành phố cao nguyên Đà
Lạt. Tôi viết thư mừng sinh nhật bà Phayin Luxia Macôna tám mươi tám tuổi. Phòng tôi
trên gác tĩnh mịch giữa đồi thông và những cây liễu Nhật hoa đỏ. Bà công nhân Luxia tnà
tôi quen biết từ chuyến đi Ôđetxa ấy. Mỗi lần gặp lại ở Matxcơva, lại nghe bà kể chuyện
nước Đức. Hè năm nọ công nhân nhà máy được sang Đức chơi. Thế vậy từ đấy cái gì bà
cũng nói kèm... ở Đức... Cái nước Đức của bà Luxia không còn, bà có biết không. Có
biết thì chắc là bà bạn thân yêu cũng không tin, bà vẫn có cái nước Đức... bà chỉ có nước
Đức một lần đã được ở bên Đức... nước Đức của bà khác, mãi mãi thế. Bà Luxia cũng
đại khái người như ông lão quê khu Năm giữ kho quần áo tài chính nước tôi.
Cái thông minh và hóm hỉnh của Marich đã khiến nhiều người lầm Marich gốc Do Thái.
Trẻ con Do Thái học lớp nào cũng giỏi nhất và người Do Thái cư ngụ mỗi nước đều nhiều
những nhà tư tưởng, nhà văn, những triệu phú và chính khách có tiếng. ở Marich, tính nết
và nghị lực rất Do Thái. Marich khiêu vũ giỏi, nhưng không chơi. Marich uống rượu chẳng
kém Vlat và Mixen nhưng không rượu một mình và khi một mình thì ăn uống đạm bạc,
khắc khổ.
Marich lúc nào cũng chỉnh tề, kiểu diện đứng đắn của người làm ra vẻ có tuổi. Marich mê
mũ đẹp. Hàng chục cái mũ đặt trên giá như triển lãm mũ. Mũ của Marich hiệnđại, nhưng
không phải kiểu mốt xăng nghiêng vành mà Marich đội ngay ngắn, mốt mới nhất, mốt
không có mốt. ấy cũng vì mũ đẹp, diện mũ mà người đội mũ đã gặp tai nạn về mũ, suýt
chết. Đứa nào chắc thèm cái mũ đẹp, nó đã ngắm rồi tăm sẵn. Marich đến nhà cụ Nicôlai
ăn tối. ở thang máy ra, đi qua mấy bụi lila có đu trẻ con chơi, thằng trộm thình lình xông tới,
giựt mũ của Marich. Rồi nó phang một phát, không biết chiếc ba toong hay mảnh gỗ vào
cái trán đồ sộ của người đội mũ. May, chỉ chảy máu và phải buộc băng, nằm nhà ít hôm.
Tôi nghe kể rồi đến hôm gặp lại vẫn thấy Marich đội mũ và trên giá lại chiếc mũ mới, mũ
vơlưa mượt mà, cái đen thẫm, cái màu xám nhờ nhờ... Đắm đuối thì phải luỵ, cũng là cái
thú, cái oan nợ chăng. Chẳng khác chị Ba Valenska bên Ba Lan. Nhà văn Monica
Valenska chuyên viết phóng sự. Chị Ba đã đến khu giải phóng, chẳng những thế chị đã
đóng vai y tá đi với phái đoàn quốc tế Ba Lan vào ở nội thành Sài Gòn. Nhưng tác phẩm
về Việt Nam của chị là một phần quan trọng sự nghiệp nhà văn của chị. Chị thích khăn
quàng đẹp. Bọn lưu manh cũng chẳng cần biết chị thế nào. Mấy lần chị bị kẻ cắp lột khăn
quàng trong cầu thang máy. Chị vẫn chơi khăn đẹp nhưng rồi hôm nào quàng khăn đắt
tiền, chị đi bộ lên nhà ở tầng bốn.
Marich nuôi mộng rồi trở thành cây bút trào phúng. Nhưng trước mắt, Marích mới xin
được việc ở hội nhà văn, may mà công việc gần gũi với ước mơ. Marich sáng tác truyện
vui về bóng đá. Không đưa các báo ở Matxcơva, Marich gửi cho báo các nước cộng
hoà.
Có cái được đăng, có cái không. Marich cũng không có nhiều thì giờ, ở đây thì giờ cho
lao động trí óc cũng hơi hướng công nghiệp. Người ta trả lương cho công tác anh, không
cho anh ăn lương ngồi nhà viết.
Bước đầu, Marich dịch văn học Việt Nam. Đến năm anh thôi việc ban đối ngoại thì dịch
văn học Việt Nam là nguồn sống và giúp xây hoài bão cho nhà văn trào phúng. Dịch tiếng
Việt có thành tựu đã đưa anh vào hội viên hội nhà văn Liên Xô ngành dịch thuật.
Marich dịch không nhiều, cẩn thận nhưng chậm. Văn học hiện đại, Marich dịch chuyên một
số tác giả: Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi. Và Marich dịch cổ điển: truyện ngắn Lê Thánh
Tông, Truyền kỳ mạn lục, Vũ trung tuỳ bút. Không biết có người giới thiệu hay Marich đọc,
tác phẩm đầu tiên Marich dịch là Dế mèn phiêu lưu ký.
Của tôi, Marich dịch Đám cưới chuột, tiểu thuyết Miền Tây, tập truyện ngắn Người ven
thành, Tuyển tập Tô Hoài, tiểu thuyết Đảo hoang. Cái kỹ tính khi dịch của Marich thật cực
kỳ. Trong Đảo hoang tôi miêu tả một ngôi sao có tên là sao gông cỏ. Marich hỏi bằng thư:
“Xin anh trả lời cho tôi sao gông cỏ mọc lúc mấy giờ, ở vị trí phương hướng thế nào trên
trời. Và tên khoa học của sao gông cỏ. Tôi moi đâu ra tài liệu về sao gông cổ. Chỉ bởi vì
tôi muốn bạn đọc thiếu niên ta phân biệt gánh cỏ, quang cỏ, bó cỏ gông cỏ. Gông cỏ là
một từ cổ, cái gông cỏ, cũng như cái gông, cái cùm gông vào cổ, cùm vào cổ. Cái gông
cỏ là hai cặp tre kẹp cỏ vào giữa rồi gánh đi.
Tôi bịa ra tên ngôi sao cốt làm cho bạn đọc chú ý chữ gông. Tôi không thể bảo cho người
bạn nghiêm túc biết cái ẩu ma mãnh của tôi. Tôi đã cắt nghĩa ba hoa cho Marich rằng nhà
nông ở đồng bằng sông Hồng đêm đêm nhìn lên vòm trời thấy bao nhiêu là sao: sao tua
rua, sao gầu dai, sao gầu sòng, sao con vịt, sao mũ vua Thần nông, có ngôi sao hai tên
tối là sao hôm sớm là sao mai và cả một giải ngân hà chi chít li ti sao nổi lên một vòng
cung làm cầu Ô Thước cho vợ chồng Ngâu tháng bảy gặp nhau. Sao gông cỏ thuộc sự
tích chú Cuội. Chú Cuội ngồi gốc cây đa. Bỏ trâu ăn lúa gọi cha ời ời... Sao gông cỏ ở
trong đám sao các đồ nghề nhà nông... gầu dai gàu sòng, mũ vua Thần nông, Marich
được tôi cắt nghĩa kỹ lưỡng đến như thế, không thấy hỏi thêm.
Năm sau, Đảo hoang được in lại. Marich dịch tiếp tiểu thuyết Hoàng Văn Thụ cho nhà xuất
bản Văn học Matxcơva. Nhưng quyển này gặp trắc trở. Mọi bản thảo dịch đều được nhà
xuất bản tổ chức ban giám định kiểm tra dịch và nội dung sách. Tiểu thuyết của tôi không
lọt qua được ban này không phải vì trình độ dịch của Marich mà vì trong tiểu thuyết “nhân
vật Hoàng Văn Thụ hoạt động cách mạng ở Trung Quốc nhiều quá". Vào lúc ấy, Liên Xô
không muốn in một quyển sách nói đến Trung Quốc, đề cao Trung Quốc. Sách không in,
Marich chỉ được trả một số tiền công dịch như tài liệu.
Marich rủ Mixen và Vlat, chúng tôi đến nhà hàng Bắc Kinh. Không được in vì tác phẩm đề
cao Tàu thì chúng tôi đi cơm rượu Tàu cho hả. Những năm này, khách sạn Bắc Kinh
không còn đầu bếp Trung Quốc với các món thịt cá tươi và rau quả được máy bay hàng
ngày đưa từ Bắc Kinh sang. Nhưng vẫn sẵn hàng khô súp yến, long tu và rượu Mao Đài.
Không đủ tiền ăn sang, chúng tôi uống vốt ca Nga với miến sào mộc nhĩ, canh măng trúc,
ăn thì cầm đũa và cơm bát. Rồi bước vào những năm đầu thập kỷ, Matxcơva đương lên
cơn sốt cải tổ thì khách sạn và nhà hàng Bắc Kinh được sửa chữa lớn, sang trọng bội
phần. Thợ xây dựng và nhà bếp từ Bắc Kinh sang. Phòng ăn tầng lầu nguy nga như
những mái đình. Nhưng tôi đến Matxcơva chỉ dửng dưng đi qua cái nơi đã từng ghé, cũng
như năm vừa rồi Marich tới Hà Nội chỉ có nguyện vọng được vào cái khách sạn Thống
Nhất mà thôi.
Đến cái buồn sau cùng thì buồn quá. Giáo điều và xét lại căng nhau, không in tiểu thuyết
Hoàng Văn Thụ Marich bắt tay vào dịch tiểu thuyết Chuyện nỏ thần. Đất nước xô viết
đương rã rời ra từng mảnh, một hội nhà văn bỗng dưng thành năm bảy hội nhà văn- cải tổ
mà, khó lòng nhà xuất bản nào còn in một cuốn tiểu thuyết Việt Nam. Mọi sự đảo lộn,
người ta bận cãi nhau về cải tổ, cải tổ. Không biết số phận Chuyện nỏ thần ra sao.
ô hay, giữa những lung tung xòe như thế, Goócbachôp cấm rượu. Rượu không được bày
quảng cáo. Giá rượu trong và ngoài giờ làm việc đều đắt và khác nhau- một trăm gam
vôtca uống trong giờ trả nhiều tiền gấp đôi, người mua rượu sắp hàng dài cả dãy phố. ở
khách sạn chỉ bán rượu trong bữa ăn – cả bia và rượu đều bán có hạn. Chẳng biết ở các
nơi khác còn bao nhiêu điêu linh. Quanh tôi, khách sạn Nước Nga đồ sộ và hiện đại nhất
thành phố mà quanh cảnh tất tả như tan chợ vẫn chưa mua được gì. Không bán cho
người ngoài phố, nhưng người ta cứ vào, khách ở buồng phải giơ chìa khoá, mỗi người
chỉ được mua một bánh xà phòng tắm và một lọ nước eau de Cologne. Trong khi tôi trông
thấy những gói xà phòng thơm của người bán hàng nhét vào ngăn tủ riêng, rồi bán cho
người ngoài phố vào mua lén lút. Lọ nước thơm đem về đun lên tách cồn ra, không có
rượu thì người nghiện uống cái cồn nước rửa tay ấy.
Những sâu rượu không vào được cửa hàng, bâu cả ngoài cửa. Chán rồi kéo ra cuối phố.
Đằng ấy có một cái đài to như đài nước xây đá tảng ở vườn hoa hàng Đậu tại Hà Nộinhưng
cái đài to cao ngoại hạng này không bằng đá, mà chẳng biết là sắt hay tôn lá sơn
đen kịt đứng trên hàng cọc sắt chi chít. Đấy là trạm trung chuyển bia hơi đặt rải rác các
phố vành đai ngoại thành vào trung tâm, bia nhà máy theo đường ống ra đấy, các xe téc
đến đỗ chìa lưng ra cho vòi xả bia xuống, rồi phân phát đi các cửa hàng. Biết những các
téc ấy chạy đi đâu, vào hồi khó khăn này chẳng mấy khi cửa hàng nào có một giọt bia hơi.
Và cũng chẳng biết cái hồi chứa chan bia rượu thì thế nào, bây giờ người bu như kiến
quanh cái vòm bia này từ bảnh mắt. Họ mua xỉ qua người đánh xe, người bắc vòi bán
chui hay người ta hứng can dưới những cái bể tràn, chốc chốc lại một bọn rùng rùng xô
ra, mỗi tay xách một xô bia, mặt mũi bừng bừng. Cả một quãng hè, la liệt người uống bia
từ sáng sớm. Say rồi lăn ra đấy, lúc dậy lại uống, có khi qua ngày...
Tiểu thuyết Chuyện nỏ thần thế là gác lại.
Có thể Marich bận những chuyện khác. Marich cũng đương hung hăng ủng hộ cải tổ. Vẫn
ở cái trụ sở mọi khi, tượng L. Tôntôi ngồi trên bệ giữa vườn táo suất mùa hạ sang mùa
thu, những con chim sẻ, con bồ câu đến đậu trên đầu, trên vai ông. Nhưng mà trong nhà
bây giờ người ta chia buồng, ngăn vách ra thành những hội nhà văn khác nhau. Marich là
một tay hoạt động đả đảo kịch liệt hội Nhà văn Liên Xô. Marich thường nói lỡm: "Tôi bằng
tuổi lão Goócbachôp". Có nghĩa là trong chiến tranh, Goobachốp cũng như thằng bé
Marich lên mười đi tản cư vào Trung á với mẹ, lúc nào cũng thèm ăn đường. Marich hăng
hái trong một hội nhà văn nào đó mới được lập ra. Marich không phải đảng viên cộng
sản. Tôi cũng không bao giờ nghĩ anh có thể là một người có quan điểm macxit. Anh là
người vui tính, nhìn cái gì cũng trò đùa. Nhà văn trào phúng thì chưa thấy đâu, nhưng trong
cuộc đời thì Marich hay nhặt ra những triết lý khi nào cũng mỉa mai và buồn cười. Marich
chỉ cho tôi một câu trẻ con viết phấn nguệch ngoạc ở vách thang máy: "Tao không bằng
con chó. Con chó đứng đâu cũng đái, không ai cấm được” Khi xe buýt chạy qua phố nhà
in báo Sự thật, Marich nói: “Cứ hôm nào tôi buồn quá thì tôi lại phải đi qua đây, có thế tinh
thần mới lên được một chút".
Mất hút hy vọng in Chuyện nỏ thần. Không nghe Marich nói gì về nó nữa. Không phải cứ
truyện ngắn truyện dài Việt Nam là được người dịch và nhà xuất bản vồ lấy, nhất là tình
hình bây giờ. Tôi biết có tập truyện, có tiểu thuyết ta dịch ra tiếng Nga số in có 500 cuốnin
cho có đầu sách báo cáo. Cái lần Niculin sang bàn in một số tuyển tập của nhà văn Việt
Nam, Thường vụ Hội nhà văn Việt Nam gợi ý bạn nên in nhiều hơn các tác giả đương
thời và các tác phẩm đề tài mới. Niculin trình bày “cũng đã chú trọng, đã in nhưng các nhà
xuất bản của chúng tôi quan tâm hàng đầu vấn đề tác phẩm với đối tượng bạn đọc".
Tác phẩm văn học Việt Nam ra thế giới còn là cả một quá trình mà trước nhất phải có
được các nhà dịch thuật giỏi tiếng Việt, tiếng Việt văn học. Một nền văn học lớn như văn
học Trung Quốc, những người có trách nhiệm đến bây giờ vẫn nhận xét văn học Trung
Quốc chưa ra được thế giới bao nhiêu, bởi chưa có được lực lượng các nhà dịch thuật
giỏi.
Buồn hiu hiu, trời thì lạnh, ước lượng cả lũ sẽ uống hết chỗ rượu này mà không mua thêm
được. Chưa đủ liều, chẳng bõ chua miệng. Các bạn cử Marich và tôi đi lùng vôtca. Tôi đi
với Marich, không phải tôi là chủ tiền mà bởi dẫu tôi không biết tiếng, nhưng có việc phải
bàn thì còn có thể biến báo và có phải sắp hàng thì có thêm một nhân mạng. Cái cung
cách mua bán ở đây vào cửa hàng, mua mấy lưỡi dao cạo râu, nắm ruột bút bi đều qua
ba khâu nhà hàng ở ba nơi. Người bán ghi phiếu, người mua đem phiếu ra quĩ trả tiền,
cầm phiếu trở lại chỗ lấy hàng. Ba chỗ đều phải xếp hàng. Đi với Marich, một buổi sáng
chỉ mua được mấy cái dây mai so. Khuya rồi, chắc các cửa hàng có bán rượu đều đã
đóng cửa. Người nghiện thì đã ở nhà uống cồn, hay là chui lủi ở những đâu, người rượu
ở Matxcơva bây giờ như con chuột cống.
Marich bảo người lái taxi:
- Đi đâu à? Tôi đi tìm rượu. Anh giúp cho nhé.
Người taxi nhìn chúng tôi và nói:
- Bây giờ sang Mông Cổ may ra mới có rượu. Nhưng mà cứ đi xem.
Những dãy đèn huỳnh quang sáng trắng lần lượt tắt. Còn lại những ngọn đèn vàng khè.
Người taxi có vẻ thạo và thương người đi săn rượu đêm trong lúc khốn khó này. Qua mấy
phố, vào mấy cửa hiệu khác nhau, có cửa hàng đã đương đóng cửa. Nhưng không đâu
tìm được rượu.
Một lát, xe vào một ngõ hẻm. Phía bên tường cao cao sấp bóng, nhận ra đương đi vào
con đường cổ kính bên chân tường pháo đài điện Kremlin tối âm thầm.
Nhưng đằng xa còn có nhà mờ cửa sáng đèn. Xe đến trước một hiệu thực phẩm. Người
lái đỗ xe, lại nhanh nhẹn bước vào trước. Một lát quay ra vẫy Marich theo.
Rồi lát sau trở ra, mỗi người ôm một bọc ni lông. Lên xe mở gói, bốn chai vôtka loại 75,
ối giời ôi. Đã lâu mới trông thấy một người cầm mấy chai một túi rượu to như thế.
Người lái xe nói:
- Chẳng ai phải ngạc nhiên đâu. Goócbachôp cấm rượu, rượu chỉ bán có giờ, mỗi giờ
một giá, nhưng quán này ông đến lúc nào cũng được. Cửa hàng này dành riêng ông ta
mà.
- Goócbachôp đi mua rượu a?
Lái xe của ông ấy ra mua. Có thế cánh lái xe chúng tôi mới biết tận tổ quỷ chớ. Chúng nó
nhầm tôi đi mua rượu uống khuya cho Goócbachôp. Các ông được làm Goócbachôp một
lúc, oai không.
Ai cũng cười hê hê. Câu chuyện bịa tạc ba lơn của tôi Marich biếu anh taxi một chai.
Chúng tôi chỉ uống tiếp cho khỏi nhạt miệng. Người taxi còn quay đầu lại hỏi to: “Mai các
ông Goócbachôp có đi mua rượu không?”
Đêm ấy ngủ nhà Marich, khuya quá, không muốn về khách sạn. Tôi ở nhà Marich cũng đã
quen, có khi mê đọc ở luôn năm ba ngày. Phòng làm việc của Marich với thư viện là một,
tôi nằm ngồi giữa giá sách, nhiều sách Việt Nam xưa và nay. Có cả quyển “Năm Việt
Nam so sánh âm lịch dương lịch", tôi tò mò lần đầu tiên tìm ngày sinh năm dương lịch của
tôi. Khai sinh của tôi 16 tháng tám là năm âm lịch. Tôi được sinh ở làng, thời ấy chưa có
lệ làm giấy khai sinh. Đến năm ra học trường tiểu học Yên Phụ mới đi xin khai sinh và lậu
xuống ba tuổi cho không quá tuổi lớp bét. Mẹ tôi bảo: “Đẻ con chặp tối ngày 16 tháng tám
ta, hôm ấy trăng tròn hơn trăng đêm rằm". Nhớ thế, giấy tờ nào về sau, cả khai sinh tôi
đều lấy ngày tháng âm lịch như dương lịch và năm thân là 1920. Bây giờ nằm ở Matxcơva
mới tìm ra tôi sinh ngảy 23 tháng chín dương lịch.
Nhà Marich căn hộ bé bỏng tầng bốn, có một buồng ngủ và buồng khách cũng là phòng
làm việc. Buồng ăn và bếp cũng một. Bác sĩ khoa sản Ina Ivanôpna đi làm cả ngày. Tôi
làm khách, buổi tối chỉ việc ngả cái giường gấp bên cửa sổ. Trên tường gắn mẩu gỗ
chạm làn mây đuôi rồng sơn son thếp vàng nhặt được ở bãi cỏ trên đồi vườn đền Bà
Triệu ở Thanh Hoá, cái lần đi với Simônôp vào tuyến lửa Vĩnh Linh. Cạnh tường đặt chiếc
đôn sứ Bát Tràng mua ở chợ Đồng Xuân- kỷ niệm ê chề cho tôi. Tôi cắt nghĩa mãi, anh
cán bộ đối ngoại đi phục vụ đoàn cũng không cho đem ra cân gửi máy bay, vì “nó là đồ cổ
cấm xuất khẩu". Marich đã toan bỏ lại.
Chỉ gặp Marich ở nhà hàng và nơi chơi nhởi không thể hiểu được con người Nga có máu
Do Thái, thông minh và sinh hoạt đạm bạc. Bữa chiều lắm hôm dùng xúp lạnh vừng đen,
miếng bánh mata như chiếc bánh đa nướng. Có hôm tảng xương bò, xương cừu hầm
xúp, buổi tối uống nước chè đen, bánh ngọt. Marich lấy một thìa nước mắm nhưng phết
vào dăm bông hun khói nước mắm Marich đã mua trữ mỗi lần đi Hà Nội hay đôi khi quà
của Nguyễn Tuân, chè xanh và nước mắm Cát Hải mà bà Nguyễn đã chưng cô lại, một lít
nước chỉ còn được một lọ kem.
Chúng tôi không uống rượu. Bàn ăn chỉ có rượu những hôm thết bạn và thường rượu các
bạn mang tới. Có những bạn đã đến Việt Nam nhiều lần, như Marich đã trải biết mọi thời
tiết chính trị cũng như thiên nhiên đất nước ta và đã đến Hà Nội bằng nhiều đường khác
nhau. Lại Misen phóng viên thường trú báo Tin Tức ở Hà Nội liền ba khoá mười hai năm
rồi ở Hà Nội về đi thường trú ở ý đến tận bây giờ. Aliôsa- Simônôp con, nhà đạo diễn
điện ảnh kể: “Năm ngoái, một chiếc tàu đại dương mới hạ thuỷ, mang tên bố tôi, tàu
Simônôp. Tôi được mời đi chuyến khánh thành đầu tiên tàu Simônốp đi vòng quanh thế
giới". Chỉ thương Vlat và Êmin, bao giờ gặp cũng hỏi: “Tôi có nên đi Hà Nội không? Bao
giờ đi?”. Cán bộ Vlat ở bộ phận đối ngoại tiếng Pháp hay sang giúp ban tiếng Việt. Vlat
nói: “Tôi đến Việt Nam, tôi sẽ lấy vợ và ở đấy không về Matxcơva nữa".
Vlat thì còn may ra, nhưng cái người chẳng bận chút nào đến công việc chúng tôi mà vẫn
ao ước thế, ấy là Êmin. Êmin diễn viên kịch nói nhà hát thành phố. Không biết Êmin đóng
thế nào, nhưng tôi đã xem Êmin vào vai Đôngkixốt. Anh mảnh khảnh, cao lêu đêu, làm
Đôngkixôt chẳng cần độn vai, ủng cao gót.
Có điều Đôngkixôt đi chu du cứu nhân độ thế tưởng tượng, uống nước lạnh mà khen là
mỹ tửu vua chúa ban cho, còn Êmin Đôngkixôt thì uống rượu cả lít.
Tối ấy, Êmin có vai. Từ chiều, chúng tôi đã tụ tập trong quán bên kia đường trước nhà
hát. Êmin nốc như trút nước vào hũ, và chuyện tưng bừng. Marich dịch cho tôi nghe rằng
anh ta đương kể về những vui chơi thuở bé ở Ôđetxa. Êmin cũng là con một bà dì, một
ông bác nào đó của Marich. Lại những người quây quần ở một xóm Do Thái ngoài cửa
cảng, ở đấy chỉ đi quá vài bước, vài giờ thuyền thì đã sang nước khác. Êmin kể chuyện
ngày nào cũng kéo hội đi đánh nhau với trẻ con Nga, đánh nhau vui lắm. Bất chợt, Êmin
xem đồng hồ rồi đứng dậy. Chúng tôi theo Êmin vào nhà hát. Êmin bước như không vào
sau sân khấu. Nếu không cùng bàn rượu lúc nãy không thể biết Êmin vừa uống vô hồi kỳ
trận. Thế mà kìa kìa Êmin đã ra, Êmin trong cánh gà bước ra, ông Đôngkixôt Êmin lênh
khênh giữa sân khấu. Rượu hay không thì cái dáng Đôngkixôt cặp kè với thằng lùn đầy tớ
Păngsô vẫn ngất ngưởng lêu đêu thế.
Êmin vẫn đi bước một quay lưng, ngửa mặt, mỗi tiếng Đôngkixôt quát Păngsô thì cả rạp
rào rào vỗ tay.
Có lẽ vai kịch thành công được nhờ rượu lúc nãy. Tan hát, lại sang quán uống. Êmin nói
“Vai hôm nay giỏi, được thưởng". Rồi xoè ra mấy đồng rúp giấy bạc mới.
Một năm kia tôi nhận được thư Marich báo tin Êmin đã mất vì bệnh phổi. Cây rượu Hoàng
Trung Thông của tôi cũng mất bệnh phổi. Hay là cái rượu chỉ bổ máu, không bao giờ
thành bệnh gan bệnh ruột.
Nguyễn Văn Bổng gửi tôi đem đi một bình hương bằng sứ mua ngoài chợ để đặt ở mộ
Êmin. Nghĩa trang để Êmin cũng ở vùng trung tâm- một nghĩa trang vẫn nền nếp ngày
trước. Những cây cổ thụ âm u như rừng. Đương mùa thu, màu cây và mặt đất vàng rượi,
nhưng trên các lối đi được quét gọn ghẽ, người đến viếng nghĩa trang đông cả ngày chủ
nhật. Những dãy mộ giản dị. Êmin nằm giữa hai hòn đá tảng, cái đĩa sứ in hình Êmin vẫn
phảng phất ông hiệp sĩ Đôngkixôt trang nghiêm, say rượu cũng như không, thật cười ra
nước mắt. Sắm sửa ra mộ, Marich đã sẵn một thẻ hương- ở nhà Marich lúc nào cũng trữ
hương và trầm, Marich đã quen bà bán con bột giống và hàng hương bên cửa chợ Đồng
Xuân, và chúng tôi đem theo cái bình hương mới của Nguyễn Văn Bổng. Marich kể mỗi
chiều thứ bảy mẹ Êmin lại mang hoa đến mộ con. Chúng tôi ngồi bên mộ Êmin đến tàn
nén hương. Marich cầm cái bình hương, đổ đất ra rồi bỏ vào túi xách. Marich nói cắt
nghĩa: Để đây thì người ta lấy mất.
- Có thể gắn xi măng vào tảng đá này.
- Không được. Cái bình hương lạ mắt thế này có gắn vào tảng đá nó cũng nậy ra. Tôi đem
về, khi nào đi viếng lại mang theo, thế mới chắc chắn và bền lâu được. Ông về nói với
ông Bổng cách tôi giữ cái bình hương ông ấy cho Êmin như thế, chắc ông ấy bằng lòng.
Những chuyện mơ màng, bao nhiêu chuyện mơ màng.
Marich kể một chuyến ở Việt Nam về đã bay lên đậu Khatmanđu nước Nêpan chân dãy
Hymalaya. Trở về, chỉ có một chuyện làm quà: ở kinh đô nước này có cụ Dir Narayan
Chouhury, năm ấy được 138 tuổi- người đương già nhất hành tinh, ai đến Katmanđu nghe
tiếng cũng đến chơi. Hai nhà văn đến thăm người có tuổi thọ để cầu phúc. Nhưng cụ lại
muốn chết. Cụ nói: Chúa ơi, đời tôi dài quá. Chúa hãy nghe lời tôi nguyện, cho tôi về ngay
nước Chúa". Nhưng rồi hỏi khách: “Các ông đã gặp đức vua chưa? Tôi ước được thấy
đức vua ngồi tàu bay đến chơi với tôi”.
Những chuyện kỳ lạ nhưng vẫn chưa giang hồ bằng Marich với Acanôp ở Việt Nam về đã
đáp một tàu đại dương chở chuối và dứa, cả tháng trời lênh đênh ven Thái Bình Dương
lên cảng Vlađivôttôc, rồi sang tàu hoả về Matxcơva.
ở Hà Nội tôi quen M. Ilinki phóng viên thường trú báo Tin Tức. Misen ở tầng hai khách sạn
Thống Nhất, cửa sổ trông ra bụi tre đằng ngà vườn hoa Con Cóc.
Bây giờ đi qua khách sạn đã tân trang lộng lẫy nhưng vẫn giữ cái cửa sổ màu vàng nhạt
như thế. Năm đầu Misen ở một mình. Cô Nhã làm nhà phòng cho Misen ít lâu, rồi bị khách
sạn đuổi việc. Phòng khách nhà Misen ở Matxcơva treo bức ánh cô Nhã phóng to. Tôi chỉ
trông thấy và biết như thế thôi. Năm sau, vợ Misen sang và ở liền hơn mười năm, tới khi
Misen về. Con trai Misen học lớp mẫu giáo trên đại sứ quán. Nó nghịch hơn quỉ giãy, mọi
người làm ở khách sạn nói đùa: “Thằng bé này nó đốt khách sạn lúc nào không biết
chừng”.
Và người ta cũng gọi đùa Misen là “quan năm tình báo". Misen cười, nói thêm, “Tôi là
quan năm tình báo bằng giấy".
Tôi hỏi Misen:
- ăn thịt chó được không?
- Rựa mận thì cũng như sasơlich thịt cừu nướng.
- Hôm nào về quê chén thịt chó.
Misen đã xin được giấy phép xe ra ngoài Hà Nội.
Người nước ngoài ra khỏi thành phố phải có giấy, mà chỉ được phép từng chuyến. Nhà
thơ Eptuchenkô ra Hạ Long. Chương trình có cuộc thăm ủy ban tỉnh. Nhưng giấy phép chỉ
được đi đến khu nghì mát Băi Cháy, sang tỉnh thì phải có giấy khác. May thay, thoát được
việc cập rập xin giấy, bởi vì chàng Eptuchenkô tự do chủ nghĩa suốt cả ngày ở biển cởi
trần nằm trên mái thuyền ăn tôm hùm nướng chấm muối rồi mở đài và làm thơ. Anh ta xua
tay “Tôi không muốn nghe con số. Cứ cho tôi ngồi trên mui thuyền thế này! ”
Lúc về Hải Phòng lại rắc rối khác. ở Hà Nội, Eptuchenkô đã gặp người chỉ huy một tàu
đại dương của Liên xô. Vừa vào cảng, ông này mời Eptuchenkô có dịp thì xuống tàu nói
chuyện thơ với thuỷ thủ. Đến đây mới được gặp nhà thơ lớn này, chứ ở Nga không phải
dễ đã mỗi lúc gặp được. Qua Hải Phòng, người chỉ huy tàu chưa về mà Eptuchenkô thì
không có giấy vào cảng. Eptuchenkô nói: “Tôi là người Nga không phải người Mỹ".
Người gác cảng nói: “Tôi biết đồng chí là người Nga, nhưng chúng tôi cần giấy phép! ”.
Thế là chúng tôi đành chào thua.
Chúng tôi về Nghĩa Đô, nhà anh Ba- anh em họ tôi và đồng tuế. Anh Ba giỏi làm thịt chó.
Món anh nấu hợp với tôi, tôi ưa thịt chó mộc không gia giảm nước đường, bột ngọt.
Chẳng bao giờ, chẳng bao giờ có nữa, Nguyễn Tuân, Phạm Văn Khoa và anh Ba về đất
cả rồi. Những ngày tháng mười rét ngăn ngắt, Nguyễn Tuân, Kim Lân với tôi cùng anh Ba
ra đồng bắt chuột rồi về nhà đánh chén. Các nhà văn đi xem bắt chuột thôi, còn thì hai ông
bạn tôi uống rượu thịt gà. Đến hôm nay chỉ còn hiu hắt, nhóc nhách có tôi với anh Hạc-
Kim Lân đóng vai lão Hạc trong phim truyện Chi Phèo của Nam Cao. Những tối vào quán
Cây Sấu đi với nhạc sĩ Xuân Đào, Viện trưởng bộ Giao thông Vận tải con trai cụ Nguyễn
được các em, các cháu láo lếu gọi “Anh Hạc, anh Hạc ơi, anh Hạc! ”
Nghe cứ vui ít buồn nhiều thế nào ấy.
Quả là Misen bằng những người Tây táo tợn nhất, cũng chỉ đả được rựa mận và chả chó,
không ăn được thịt luộc. Hôm ấy cả vợ Misen, một cô bạn Nga và thằng nhóc nhà Misen.
Rựa mận, thịt nướng, bún mắm tôm, bún sáo. Misen vui chén, bốc: “Tôi sẽ đề nghị khách
sạn Thống Nhất làm món mới, thực đơn đề: Cừu nướng, cừu hấp Hà Nội. Tôi sẽ mời anh
Ba ra chuyên trách bếp".
Với tôi, ăn uống cũng là cái thú thưởng ngoạn. Quán Grudia thịt cừu nướng. Tranh
Pirômanivili vẽ hoành tráng hầm quán ăn phố Putordi, thịt cừu treo, ông lão vác bìu rượu,
những sừng rượu. Quán Praha xúc xích hun khói... nhạc Tiệp. Cũng như vào quán Bắc
Kinh ngự thiện nơi cung điện choáng lộn. Bây giờ mà “thịt cừu Hà Nội” của Mixen có tên
trong thực đơn khách sạn, cũng hay.
Có tiền thì nhung nhăng, nhưng mấy khi có tiền.
Theo cách trả tiền nhuận bút ở Matxcơva, nhà xuất bản trả công cao người dịch, bởi
người dịch là người lao động truyền đạt áng văn thơ tới bạn đọc. Tôi được một nghìn rúp
về Dế mèn phiêu lưu ký, trong khi Marich ăn mười nghìn. ấy là quyển sách in số lượng
lớn. Và không phải cứ tác phẩm Việt Nam in ở nước ngoài thì nhất thiết được nhuận bút.
Không có đâu. Chỉ vì Việt Nam không có chân hội bản quyền quốc tế. Mà ta cũng không
nên vào. Cả chục năm, chưa chắc đã có nước in một tác phẩm Việt Nam, mà một năm
các nhà xuất bản nước ta in hàng trăm, hàng trăm sách dịch. Thế thì người ta sẽ mở văn
phòng ở Hà Nội, ở Sài Gòn để thu tiền bản quyền. Chẳng chơi. Trước kia, các nước xã
hội chủ nghĩa đưa nhuận bút sách cho ta là vì tình, không phải vì luật. Một nhà xuất bản ở
Thái Lan in Dế mèn phiêu lưu ký, ở Nhật in Truyện Tây Bắc. Tôi nhận được mười quyển
sách biếu và thư cảm ơn trân trọng và “lấy làm tiếc không được trả bản quyền ông vì...” ấy
thế nhưng vẫn có những ngoại lệ lắt léo. Nhà văn Việt Nam nào đó có bài, có sách in ở
nước ngoài, một ngày kia nhận được nhuận bút qua bưu điện hay là có người đưa đến
tận tay. Nhà xuất bản Aube ở Pari mới năm ngoái 1996 in Tuyển tập Truyện ngắn Việt
Nam đã đưa sách và tiền đến Hà Nội trả các tác giả. Cũng nhà xuất bản này cũng mới
năm ngoái in Dế mèn phiêu lưu ký, không hỏi tôi, không một lời cám ơn tôi và cũng quịt
luôn tiền và sách biếu. Không lơ đãng đâu, họ có thủ đoạn của họ cả.
Và cũng lại vô khối những ngông nghênh ngang trời của người cầm bút mà tôi biết, các
nước khác thôi, tôi chuyện cho sướng tai. Cái năm tôi đến nhà xuất bản Văn học ở
Matxcơva nhận tiền bản quyền Tuyển tập Tô Hoài in lần thứ nhất. Trong chuyện qua lại,
được biết nhà xuất bản đợi nhà văn Hêminuây sang lấy bản quyền, ông ấy đang xem đấu
bò tót ở Tây Ban Nha. Rồi Hêminuây trả lời ông sẵn sàng đến Matxcơva, đề nghị nhà xuất
bản mời cùng đi với ông một người bạn của ông đấu bò tót, ông chịu tốn phí. Nhà xuất
bản đã không được phép mời như vậy. Hêminuây không đi Matxcơva. Lại như G. G
Mackêt đã bỏ tiền đi thăm Việt Nam. Đi chơi thôi, mà về G. G Mackêt cũng viết được một
phóng sự dài về Việt Nam. Vợ chồng con cái đáp tàu biển từ Thái Lan sang. Đi xem hát,
thằng bé mười tuổi thích cái sáo. Khôi Viên cán bộ hội Văn nghệ Hà Nội dẫn nó đến đoàn
chèo Hà Nội nghe thổi sáo và mua cho nó một cái sáo. Mackêt kể: Nhà xuất bản ở
Matxcơva đã mời ông đến lấy nhuận bút tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Thư ký của ông
xem lại tập sách dịch, thấy một số đoạn bị tước bỏ. Mackêt đã trả lời phản đối nhà xuất
bản lược dịch không đến lấy nhuận bút và huỷ bỏ chuyến đi Matxcơva. Mackêt cũng có
một ý muốn thú vị. Ông sẽ tặng giấy, nếu ta in tiểu thuyết Trăm năm cô đơn. Chỉ yêu cầu
không bỏ đoạn nào. Bấy giờ sau 1975 mới một hai năm. Hơn hai mươi năm đã qua, mọi
chuyện vào quên lãng..
Thỉnh thoảng qua lại Matxcơva nhận được đôi chút bổng lộc như thế. Các bạn còn nghĩ ra
cách lấy tiền nhuận bút sao cho thuận tiện. Bởi ở Matxcơva đi lấy tiền sách cũng lỉnh kỉnh
tương tự mua hàng. Trong tuần, có những buổi trả tiền nhất định. Đứng trước chấn song
lưới sắt, đưa hộ chiếu qua cửa mắt bò, nhặt cái bút bi đã buộc một đầu dây vào góc bàn,
ký ngoằng một chữ. Những tờ giấy bạc và đồng xu lại đưa ra qua cửa mắt bò. Làm thế
nào chỉ đi qua cũng có thể có tiền ngay được. Ira đã mua cho tôi hai sổ tiết kiệm, cái
đứng tên Marich, cái thì tên Ina Dimonina. Tôi có tiền nhuận bút sách hay bài báo, nơi lấy
tiền gần nhà bạn nào thì bạn ấy nhận hộ. Sáng kiến gửi tiền sổ tiết kiệm cũng gần gũi với
thói quen người thành phố bấy giờ. Người ta có tiền, cả tiền lương cũng gửi tiết kiệm,
thường tiêu đến đâu lại đi lấy.
Năm 1990, tôi còn một sổ tiết kiệm đứng tên Marich. Trong sổ chỉ có một rúp- một cách
giữ để khỏi mua sổ mới. Marich hỏi tôi: “Ông lấy một rúp ở sổ ra, giữ làm kỷ niệm Liên
Xô” Bây giờ cả nghìn rúp mới mua nổi mẩu bánh mì gối, tôi giữ cái thương đau ấy làm gì”.
Tôi bảo Marich đốt cái sổ tiết kiệm ấy đi..
Kể ra thì từ lâu sổ tiết kiệm đã cạn kiệt tiền. Chỉ còn vài ba đồng, mà anh em mừng lại
gặp mặt nhau thì đông đủ sẵn. May gặp khi nhà phóng viên Misen có ở Matxcơva. Làm
thế nào cho có tiền, mọi người tính kế. Tôi được đề nghị viết một bài “đọc sách” trên báo
Sự Thật. Marich đi lĩnh được một trăm rúp, vừa đủ tiền. Tôi “đọc sách” một quyển sách
chưa đọc bao giờ hồi ký Dải đất hẹp của Brơgiênep!
Misen đã hết nhiệm kỳ sau cùng ở Việt Nam, bây giờ thường trú ở Rôma. Trong cuộc
chén Misen doạ sẽ tìm cách cho tất cả bọn ngồi đây đi ý chơi. Rượu hẹn thế chứ chẳng
cơn cớ nào, mà Misen tiền đâu.
Thế mà Misen đã có mặt ở Sai Gòn ngay trong năm 1975. Có lẽ vì cả mười mấy năm ở
Hà Nội, việc của Misen, bài viết của Misen tất cả tinh thần vì sự nghiệp giải phóng miền
Nam Việt Nam, bây giờ Misen phải đến, Misen phải tận mắt nhìn thấy, phải bước chân
trên thành phố giải phóng, Misen đã từ Rôma bay sang Việt Nam.
Tình cờ làm sao, tôi gặp Misen ở Sài Gòn. Chúng tôi đưa nhau đến một địa chỉ đặc biệt
của thời cuộc, quán ăn của luật sư thượng nghị sĩ Phước Đại. Bà nghị sĩ và thày cãi có cỡ
ấy mở quán nhậu- quán nhậu vừa khai trương đã có tiếng. Bà Phước Đại hàng ngày đi
chợ mua thức ăn và phụ bếp. Khách vào phòng ăn ngồi giữa những giá sách đóng gáy
mạ vàng, có lẽ những bộ luật các nước trên thế giới. Những cô thiếu nữ bưng bê mà chủ
nhân giới thiệu là các cháu trong nhà, những sinh viên luật, những luật sư mới tốt nghiệp.
Rồi những năm về sau bà Phước Đại càng có tuổi càng đẹp lão và có duyên trong mọi
công việc, ly kỳ và mới mẻ hơn cả thời kỳ cái quán hàng mà tôi nghe đồn Tổng thống
Pháp Mittơrăng thăm Sài Gòn cũng đến đây nhậu. Có lúc muốn làm thiếu nữ, và đi thi nói
tiếng Pháp, giật giải nhất, được thưởng một chuyến đi thăm Pháp- đất nước mà bà đã ở
cả thuở thiếu thời. Bà đã đưa một đội các lão bà thái cực quyền và đồng ca của câu lạc
bộ ngoài trời vườn Tao Đàn ra giới thiệu với câu lạc bộ ngoài trời hồ Hoàn Kiếm. Và
không biết ai lĩnh xướng, bà hát, bà hát...
Hơn hai mươi năm trời, vẫn con người bay nhảy yêu đời Misen. Misen và tôi ngồi quán
Phước Đại đến khuya, khách đã vãn. Misen nói với Phước Đại chủ nhân: “Thưa bà, nếu
có thể được, xin bà cho xếp những chồng sách luật xuống đây kê làm giường, làm gối.
Nằm trên một núi trí thức thế, chắc ngày mai chúng tôi sẽ thông minh hơn".
Lâu lắm không gặp Misen. Nghe tin mẹ anh đã mất. Thằng con như quỉ sứ làm loạn khách
sạn Thống Nhất năm xưa đã vào đại học từ lâu. Lại biết chuyện không vui lúc này Misen
bệnh dạ dày, phải kiêng. Misen mà bỏ rượu thì còn đâu là Misen. Báo Tin tức vẫn ra.
Misen có còn làm việc hay là bị cánh cải tổ đuổi đi rồi?
Còn đến bây giờ là đời vợ thứ ba của Marich. Không phải Marich bỏ vợ mà Marich mất
vợ, mất cả nhà. Trở về mối tình đầu Marich với Ira, hai người lúc nào cũng quyến luyến
trân trọng đến với bạn bè. Dự tiệc nhà ông Simônôp, ăn cơm Grudia cụ Nicôlai nấu, đến
sinh nhật Sôlukhin hàng trăm khách. Sôlukhin đã viết bút ký Bưu thiếp Việt Nam rất thơ,
mà một lần ở Hà Nội tôi đưa vào hiệu nem Cát Tần ở phố Hàng Cót.
Thành phố đương qui đấu tư sản, nhà hàng lơ lửng hé cửa nghe ngóng. Trên bàn trơ trọi
mấy chai bia, chẳng thấy cái cốc nào. Chủ hàng thì đương sợ bạt vía, khách thì về khoe cả
trong sách là được uống bia bằng bát kiểu phương Đông.
Nghỉ hè, Marich đưa Ira đi chơi Buđapet. Oách quá. ừ anh ả đã cho cô ả thấy được cái
đáng yêu của nhà văn cũng đi du lịch nghỉ mát mùa hè, như ai. Đến khi tôi trở sang
Matxcơva đã thấy Marich ở một mình.
Thì ra chuyến chơi nước Hung, gã đại lý hàng không Hungari ở Matxcơva đã quyến được
lra. Đi nghỉ trở về Ira đòi ly dị. May mà cô ấy lấy chồng nước ngoài giàu có nên Marich lần
này chưa mất nhà. ở Liên Xô kiện ly dị thì cả đôi bên đều bị phạt nặng và toà án thường
xử bênh phụ nữ. Đồ đạc trong nhà phải chia đôi. Cô ấy lấy một số tranh và đĩa sơn mài
của Sỹ Ngọc, Nguyễn Sáng mà Nguyễn Tuân và tôi đã tặng Marich. Marích nói: “Tôi làm
vẻ cao thượng, không cần gì. Cứ để nó lục lọi. Sau xem lại mới biết nó ăn cắp của tôi
nhiều quá, tất cả đĩa sành, đĩa sơn mài mấy tập ký hoạ giấy đó tôi đi Việt Nam các bạn
cho".
Cô Ira ấy vỡ cái mộng lấy chồng nhà văn, dẫu cho họ đã từng yêu nhau. Cái cô thư ký kế
toán này đã làm con tính: nhà văn trẻ rồi thành nhà văn lớn, nhà hai buồng rồi nhà bốn
buồng, sáu buồng có nhà nghỉ, có xe riêng, như các ông Simônôp, Mikhancôp...
Nhưng đã mấy năm rồi vẫn chỉ tàng tàng, những sang trọng phú qui cứ bay phất phơ như
diều trên trời. Còn cái chàng gà tồ Marich thì mất tiền đưa vợ đi chơi, lại để mất vợ lúc
nào không hay.
Marich ngoài ba mươi tuổi đã lâu rồi. Cái trán hói đến đỉnh đầu không còn cần phải vắt
cái đuôi tóc lên che bớt. Chưa đến nỗi lụ khụ nhưng phải một quả đắng thế cũng đau
điếng, phờ phạc nhiều rồi, già rồi. Cô sinh viên Tania làm luận án tốt nghiệp bằng tiểu
thuyết Miền tây của tôi. Tania nhờ người dịch là Marich giúp đỡ Một lần đến làm việc
khuya quá, đón taxi về không được. ở phố nhà Marich không khuất nẻo mấy mà đêm gọi
taxi rất cực. Những năm ấy, taxi Matxcơva chưa có điện thoại đón đưa khách như bây
giờ ở Hà Nội.
Tania phải ngủ lại. Tania cầm chìa khoá buồng làm việc của Marich rồi khoá trái. Marich
bảo Tania: “Tôi sắp chết rồi, cô khoá buồng hay cô mở buồng cũng thế".
Nhưng Marich không chết. Marich chỉ bị một đòn chí tử. Đến khi lại người, lại được xơi
đòn khác. Một cuộc tình sét đánh. ở một đám cưới trên Lêningrat, Marich làm quen với
Ôcsana. Mươi hôm sau, nàng sách vali xuống Matxcơva ở với chàng.
Ôcsana kém Marich cả hai chục tuổi. Người đẫy đà, khuôn mặt không ra Trung á, không
ra Nga. Ông nội cô ấy là người Trung Quốc. Marich nói người Trung Quốc ở đâu chẳng
có, đội tự vệ đỏ bảo vệ Lênin những ngày đầu Cách mạng Tháng Mười cũng có hai
người Trung Quốc đấy thôi.
Cuộc tình mới êm đềm. Ôcsana sinh cho Marich được một con trai, thằng Alêchxanđơ.
Alêchxanđơ kháu khỉnh đáng yêu như con chó con. Bà nội ở Mônđavi về chơi luôn. Bà
ngoại trên Lêningrat thì xuống ở hàng tháng rồi ở hẳn. Tôi cũng được làm quen với bà ấy.
Bà nhỏ nhắn, nhẹ nhàng, chắc khi còn trẻ bà đẹp hơn cô con gái. Rồi mới biết ngày trước
bà là nghệ sĩ múa. Bà nói là nhớ con gái, nhớ cháu, bà qui con rể, bà phải xuống ở với
chúng nó. Bà thành người hộ khẩu Matxcơva. Nhà có một buồng, nhưng cái vui là chính.
Hai con mắt Alêchxanđơ lay láy hệt bố và mới đầy năm mà vầng trán to đã vằn ngang một
vệt mờ mờ, chắc rồi lại hói sớm như bố. Nhưng cái vui với trẻ thơ cũng không hẳn làm êm
thấm được trong nhà. Dần dần nảy ra những rắc rối, mà tất cả bởi bà mẹ vợ.
Ôcsana không có việc làm, bây giờ mới đương học đánh máy. Bức tranh tiền bạc tiêu sơ
trong nhà thì cũng tương tự như cái hồi Ira. Mẹ vợ có lương hưu tự cho là không phải nhờ
con cái. Nhưng nhà có con nhỏ thì tốn kém lắm không thể tính trước được. Mỗi tháng một
thứ tã lót, xống áo và đồ chơi- con cái người ta, ngồi xe dạo vườn hoa quần lành áo tốt
thế nào thì nhà mình cũng phải thế ấy. Mà tiền bạc của Marich lúc này có phần còn khó
khăn nhiều. Marich vẫn chỉ là người làm, lĩnh lương tháng. Lại đã thôi việc ở hội nhà văn,
sang tạp chí Văn học nước ngoài với hy vọng gần gũi hơn với giấc mộng văn chương.
Đến năm tôi gặp lại Marich thì anh chàng đã mất nhà, mất luôn cả vợ con rồi. Câu nói
bông lơn của Marich có thể thấu suốt mấy năm gian khổ vừa qua: Họ có mưu đổi
Lêningrat về Matxcơva, thế là Trung Quốc đã về Matxcơva chiếm nhà tôi, ông ạ". Ly dị
xong, Marich phải ra khỏi nhà. Alechxanđơ còn nhỏ, ở với mẹ. Tháng tháng, Marich đem
tiền ra bưu điện gửi cho Ôcsana nuôi con, như toà án đã qui định.
Nghe Marich kể thế. Và lại bao nhiêu năm đã qua, Marich bây giờ ở với bác sĩ khoa sản
Irina. Bác sĩ Irina Ivanôpna goá chồng có một con trai. Họ gặp nhau thế nào không biết, tôi
cũng không bao giờ hỏi. Marich ở nhà của Ina, tầng hai cạnh ga cuối xe điện ngầm ra
ngoại thành, cũng gần sân bay nào, ngày đêm máy bay thường qua. Marich bảo vùng này
có tên ngày xưa là rừng Vua Săn Cọp.
Lắm lúc nhìn cảnh mà ái ngại. Marich xuống hẻm trước nhà nghịch đá bóng với thằng con
trai Ina, trong khi thằng Alêchxanđơ thì chơi bóng ở đâu, với ai. Những năm sau, mẹ
Marich yếu, nghỉ việc, từ thành phố Kisinhiôc ở Mônđavi cũng về đấy. Rồi bà ốm, cô con
dâu săn sóc mẹ chồng cho đến khi mất.
Marich lại thôi việc ở tạp chí Văn học Nước ngoài. Marich muốn được hoàn toàn tự do,
dẫu cho biên tập tạp chí cũng ít phải khuôn phép giờ giấc. Marich đã là hội viên hội nhà
văn ngành dịch, từ dịch thuật đến sáng tác, Marich vẫn theo đuổi mơ ước mà Ira mối tình
đầu và Ôcsana đều đã tan mộng nhà văn nổi tiếng.
Nhưng với bác sĩ Ina thì đã êm đềm dài dài, họ không còn ở tuổi loăng quăng.
Việc mà Marich nghĩ bao giờ cũng giản dị nhưng thực thì công phu, kiên trì. Dịch văn học
Việt Nam, lấy đấy làm chỗ đứng cho tương lai nhà văn trào phúng sẽ vang lừng thế giớl.
Thỉnh thoảng, Marich lại khoe một truyện đả kích bóng đá tỉnh lẻ, một truyện diễu cợt và
khinh bỉ một giám đốc nhà xuất bản văn học như chỉ ham chơi ngựa thi. Đến năm không
còn Liên xô, các thứ in ấn loạn xạ tràn lan trong lúc “cải tổ”, tôi được Marich tặng một tập
truyện ngắn trào phúng khoảng trăm trang, in ở Matxcơva hẳn hoi. Tôi đã nhờ dịch in
truyện ông giám đốc văn học chơi ngựa thi trên báo Người Hà Nội.
Phạm Vĩnh Cư là anh em kết nghĩa của Marich, từ khi Cư còn ở tuổi thiếu niên. Cư học
phổ thông ở Matxcơva. Marich có hai bạn trẻ thân thiết là Cư và Tước. Tước học khoa
báo chí đại học Lômônôsôp. Tước về nước, hồi đầu Marich có dịp đến Hà Nội, Tước đều
gặp Nhưng đến khi có chuyện canh chừng thằng bệnh xét lại, Marich vào khách sạn
Thống Nhất phải xách va li và làm thủ tục lấy thì Tước cũng biến. Không bao giờ Marich
nhắc đến tên Tước nữa. Chỉ có Cư vẫn bền chặt tình nghĩa đến bây giờ. Cư cho tôi biết
Marich dịch cẩn thận, nhưng chậm, thêm cái tính rề rà bẩm sinh. Marich mua được cái
bàn viết cũ mà Marich nói bàn này từ thời Nga hoàng, vua Nga đã ngồi". Vua Nga đâu
không biết, nhưng anh ta cứ ngồi tha thẩn cả ngày không được một hột việc, dã đôi phen
khiến bác sĩ Ina phải mất công đi các nhà xuất bản khất hạn nộp bản thảo dịch cho Marich.
Ông nhà văn tự do và thất nghiệp, thế là Ina phải gánh mọi việc trong nhà. Ina quê ở một
tỉnh trên sông Đông. Hầu như anh em họ hàng nhà ấy đều làm nghề y Nghề này ở tỉnh nhỏ
còn lắm bổng lộc. Nhờ vậy, dưới quê thường có gửi đỡ đần. Rồi lại lâu năm trong nghề,
Ina đã là chủ nhiệm khoa sản một bệnh viện lớn. Ina mới tậu một chiếc Matda hàng ngày
lái đi làm. Marich bảo tôi: “Ông nên cố gắng có dịp trở lại đây mà ngồi xe của bà ấy. Tôi
thì không bao giờ đi xe phụ nữ lái. Tôi sợ chết”.
Bố mẹ thì già đi, trẻ con mỗi năm mỗi lớn. Alêchxanđơ của Marich đã vào đại học, bác sĩ
Ina đưa nó đi học y. Thằng bé mê bóng đá, đương sinh viên đại học y đã làm phóng viên
tường thuật bóng đá trên đài thành phố. Thằng con riêng của Ina thì tết nghiệp khảo cổ,
bây giờ có khi nó đi dạy ở Ixraen, khi sang Mỹ như thằng con trai anh vật lý Bôrit trên
Lêningrat. Từ lâu, vợ chồng Marich đã vào ở trung tâm, cái nhà gần ngoại ô hay có máy
bay bay qua nửa đêm, thằng khảo cổ ở.
Cho tới nay, vợ chồng Marich đã đi Mỹ mấy lần ở chơi hàng tháng. Không phải là theo
thằng con Ina sang Mỹ có lớp giảng bên ấy. Mà vì cùng lứa tuổi học với Marich ở Ôđetxa,
Marich có mấy người bạn thân như Bôrit vật lý. Bôrit bây giờ có tiếng, ở biệt thự trên
Lêningrat, nhưng cũng chẳng có mấy tiền. ở nhà Marich, tôi bổ quả dứa đem quà ở Hà
Nội sang, vợ chồng Bôrit nhặt vỏ dứa ăn hết cả mắt. Anh bạn Ilya cũng tốt nghiệp vật lý
như Bôrit nhưng không tìm được việc, phải di cư đi nước ngoài. ở Mỹ, Ilya chỉ làm chuyên
môn, nhưng đã triệu phú. Anh về nước chơi nhiều lần. Tôi có nghe điện thoại anh ấy chúc
sức khoẻ và gặp ở nhà Marich.
Marich cho tôi xem tập ảnh vợ chồng Marich chơi nhà bạn bên Mỹ. Thôi thì buồng khách,
bể bơi, vườn bên sườn núi và bãi cát giả, nhà có ba người thì ba ô tô...
Mới đây, tôi viết thư khoe với Marich tôi đi Quảng Châu về. Marich lại đùa một cách mỉa
như thói quen: Vợ chồng tôi lại sắp đi chơi nước Mỹ. ừ, những người danh tiếng như
chúng ta thì nhất định phải đi du lịch các cường quốc trên thế giới".
Cũng như Misen, khi Sài Gòn giải phóng, vợ chồng Marich đã cố tới Việt Nam. Bác sĩ Ina
kể lại chuyẽn đi huy hoàng, kỳ ảo đến đôi tôi nghe dịch lại không tưởng đấy là những
chuyện Việt Nam. Ina thích nhất cái áo dài và bãi biển Vũng Tàu. Tôi nói cho Ina sửng sốt
tiếc: “Trời ơi! Nếu cô được đến Đà Lạt nữa thì những cái đẹp kia xếp đằng sau hết”. Ina
tin như vậy, ước sao có ngày trở lại.
Nhưng Marich không thể hồn nhiên thế. Bao giờ trở lại, khi nào lại gặp nhau. Tình bạn hơn
ba mươi của chúng tôi phút chốc bồng bềnh như mây nổi ngang trời. Việt Nam và nước
Nga bây giờ cũng thường tình đậm nhạt như mọi nước. Sách báo Việt Nam, - ngoại ngữ
duy nhất mà Marich thuần thục, Marich không có tiền mua vì đắt và hiếm. Thỉnh thoảng
cũng trông thấy sách bán ở các ốp, các chợ người Việt, nhưng không mua nổi. Trước kia,
Marich có nhiều báo Văn Nghệ và nhận cả báo Nhân Dân hàng ngày. Tôi thì hàng tuần
báo tiếng Pháp Tin tức Maxcơva và hoạ báo Liên Xô tiếng Việt. ấy thế mà tình cờ ma quỉ
làm sao, năm 1996, tôi lại gặp Marich ở Hà Nội, trong phái đoàn văn hoá nước Nga đến
Việt Nam. Bởi vì Marich có bạn trước kia là phó giám đốc trường viết văn Gooky, bây giờ
là bộ trưởng văn hoá. Marich cũng là giảng viên và phụ trách sinh viên Việt Nam trường
ấy, chuyến đến Hà Nội này đã được bạn cánh hẩu kéo đi ké. Marich ở một nhà trọ mini
trong hẻm phố Hai Bà Trưng.
Mấy năm mới lại gặp, không nghĩ là còn gặp. Marich đã đến đây trải mưa trải nắng, khi thì
tấp nập cả ngày khách gõ cửa, khi thì vắng teo không một ai bén mảng, nhòm ngó, và bây
giờ thì có lẽ nhiều người đã quên hẳn rồi. Xa quá, khác quá, không dưng chỉ còn có ngậm
ngùi. Marich cũng đương một nỗi niềm ấy, Marich nói:
- Ông ạ, chỉ có tình nghĩa thì bao giờ cũng thế.
Chúng tôi đi vẩn vơ trong thành phố chẳng có mục đích gì, cũng không phải đi lùng xem
các hàng đồ cổ thật đồ cổ giả như mọi khi Marich hay tìm kiếm thế mà cứ muốn tha thẩn
mãi. Buổi trưa, Marich với Vương Trí Nhàn và tôi đến quán nhậu còm Cây Sấu có cái cầu
thang leo lên quanh co như tới đỉnh núi, như những gập ghềnh trong gặp gỡ của cuộc đời
chúng tôi.
Vương Trí Nhàn lần ấy ở Matxcơva đưa tôi đến cái hầm xưởng vẽ của hoạ sĩ Yuri chồng
Ina Dimônina.
Kể ra những người quen và thân ở Matxcơva của tôi chỉ có Marich, cô Ina và vợ chồng
Niculin- Nicôlai Ivanôvich Niculin và Ivêta Glêbôva, Glêbôva đã dịch truyện ngắn Truyện
Tây Bắc của tôi. Các bạn đều nói và dịch giỏi tiếng Việt. Và đã quen nhau lâu, thuộc mỗi
người một tính. Niculin không đùa, nhưng lại mê và dịch thơ Hồ Xuân Hương, truyện trào
phúng Nguyễn Công Hoan. Ina thay Marich ở ban đối ngoại khi Marich sang tạp chí Văn
học nước ngoài. Ina học tiếng Việt ở Matxcơva rồi sang Hà Nội thực tập. Hà Minh Đức
đưa Ina đến nhà tôi. Tóc vàng sáng như ánh nằng, sóng tóc các cô gái Lêningrat. Thế mà
lần ấy đón tôi ở sân bay tóc cô đen óng ả. Tôi không nhận ra, tưởng là vợ người lái xe. Ina
tức lắm. Nhưng về sau biết tôi hay quên mặt người, cứ sắp gặp ai, Ina phải rỉ tai nhắc tên
trước.
Ina gắt gỏng, khó tính, các nhà văn nữ Việt Nam sang thăm Liên Xô đều ngại. Nhưng Ina
nhanh nhẹn, thật được việc. Mọi người vừa phàn nàn lại cũng vừa bằng lòng cô. Cô dịch
văn học Việt Nam. Cô dịch cũng nhanh như mọi công việc. Marich loay hoay cặm cụi tra
cứu và viết cả năm chẳng xong bản thảo dịch Thánh Tông di cảo thì Ina đã dịch và đưa in
cả hai tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu và Ma Văn Kháng. Nhưng Ina vẫn chưa được là
hội viên hội nhà văn. Điều ấy khiến Ina bực bội, cáu kỉnh. Khi Ina lấy Iuri, có điều kiện sinh
sống dễ chịu, Ina đã bỏ việc ở đối ngoại, chán cái hội Nhà văn Liên Xô lắm rồi- Ina bảo
thế.
Tôi cũng còn đi với Ina nhiều chuyến khác. Tôi chứng kiến tính cứng cỏi của cô và cảm
thông những đau khổ trong đời tình của cô.
Ina hay nhăn nhó bẳn gắt, đáo để mồm miệng đến như Xuân Quỳnh cũng phải chịu. Có
những việc với tôi cô cũng tự ý làm băng băng. Hội nghị về ăn học á Phi họp ở Tăcken,
Ina đi cùng. Thông thường các hội nghị quốc tế họp ở nước nào thì các đại biểu sở tại
được đến đông. ở các nước Trung á, nhà văn các dân tộc Udơbêch, Tắcdich, Cadắc,
cũng nhiều nhà văn Nga gốc Đức, Nhật, Triều Tiên. Trong chiến tranh thế giới vừa qua,
nhiều người Đức ở sông Đông, người Nhật và người Triều Tiên ở Viễn Đông đều phải di
vào ở các vùng sâu trong Trung á. Đã mấy chục năm qua, các miền định cư ấy đã trở nên
những nông trường, nông trang giàu có ở lẫn với các dân tộc thiểu số. Tôi cũng thường
gặp ở câu lạc bộ Hội Nhà văn những nhà văn khuôn mặt Nhật mà quê ở Sveclôc, ở Iêccut,
ở Nôvôxibiếc...
Trong các đại biểu vào hội trường, có một người thâm thấp, bộ ria cắt ngắn, mắt một mí,
xách cặp và đội mũ lông phảng phất có thể người Uyagua, người gốc Nhật. Nhiều đại
biểu còn tụ tập ở các sảnh quanh hội trường. Nhà văn Aimatôp bước lại, bắt tay tôi muốn
nói gì. Lúc ấy Ina vừa đi đâu ra ngoài. Cái người thấp, đội mũ lông để ria trông như Nhật
cũng bước lại và nói với tôi:
- Chào anh. Tôi là Lê Vinh Quốc. Tôi có thể dịch hộ anh.
Tôi không quen Lê Vinh Quốc. Nhưng tôi đã đọc trên báo ở Hà Nội của anh bài thơ “thi sĩ
máy” hay “thi sĩ gỗ” thế nào đó, tôi không thuộc. Lê Vinh Quốc sang học bên này rồi ở lại.
- Vâng, nhờ anh hỏi giúp ông ấy...
- Aimatôp mời anh vào chỗ ban thư ký có tài liệu tiếng Pháp. Tôi xin đợi anh ở đây.
Tôi vào lấy tài liệu rồi trở ra chỗ lúc nãy. Không thấy Lê Vinh Quốc. Mà cô Ina nhỏ nhắn,
tươi cười của tôi đã đứng đấy.
- Cô có thấy một người Việt Nam...
- Lê Vinh Quốc.
- Phải.
- Tôi đuổi nó đi rồi.
- Sao cô lại đuổi khách của tôi?
Ina không trả lời câu hỏi, mà hỏi lại tôi một câu rất tinh và ác:
- Ông hỏi thật hay hỏi đùa?
Rồi lại nói:
- Tôi ghét những người ý kiến khác lại trốn đi ở nước khác.
Ina có hai chị em, đều sinh ở cảng Hacbin bên Trung Quốc. Bô Ina là thợ máy hàng
không- anh hùng không quân xô viết, nhiều năm ông làm chuyên gia trong hồng quân
Trung Quốc. Chị của Ina dạy học. Mẹ Ina làm báo đã nghỉ hưu, bệnh áp huyết. Trước kia
ở Lêningrat, khi tôi quen Ina thì cả nhà đã về Matxcơva. Cụ thợ máy tàu bay gày yếu
nhưng vui lắm. Có khi chơi nhà khuya, trời lạnh, cụ lấy quần áo ấm cho mặc thêm rồi đưa
tôi về khách sạn.
Tôi đi với Ina, đoàn tàu Mũi Tên Đỏ, tám trăm cây số một đêm Matxcơva- Lêningrat, mờ
sáng đã trông thấy mùa xuân về nở hoa vỡ ra đậu trên tảng băng trôi mặt sông Nêva.
Nhưng tôi nhớ nhất chuyến đi Mông Cổ. Chúng tôi ở nhà khách trong núi Chúa, hoàng hôn
xuống trông ra đồng cỏ mênh mông, những con hươu trước mặt đứng nghển đầu lên trên
ngọn cỏ tranh, ánh trăng lẫn bóng với người. Ina kề chuyện nỗi buồn thân phận và những
cuộc tình của mình.
Ina làm việc thay Marich được ít lâu thì lấy chồng, cũng lấy chồng muộn. Lêon người
Acmêni về Matxcơva học rồi ở lại. Lêon học triết học, tốt nghiệp đề tài về Giăng Pôn Sac.
Trời ơi, những đề tài Puskin, Giăng Pôn Sac, L. Tônxtôi cả nghìn người các nước theo
đuổi thì ra trường còn nhoi lên kiếm ăn làm sao. Tất nhiên, ở nhà ăn bám vợ. Lêon có bộ
râu rậm, mặt ngơ ngẩn vẻ triết nhân. Chỉ được cái uống rượu khoẻ. ở khách sạn Nước
Nga đồ sộ anh ấy đã uống với Hoàng Trung Thông đến độ chúng tôi không tìm thấy cửa
ra. Ina khó nhọc lắm vì nhà triết học ẩm ương này. Ina than thở: “Tôi đi làm, tôi dịch sách,
tôi làm ra tiền, nó không kiếm nổi một đồng rúp. Nó bắt tôi ngày ngày tỉa râu cho nó và
phải làm bếp. Nó bảo ở nhà này nó mới là trí thức". Đêm Mông Cổ, đêm thảo nguyên như
trở lại đêm cổ tích, nghe chuyện đời người đàn bà tưởng như nghìn năm vẫn u uất thế.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XVII






Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XVII
ít lâu sau, Ina và Lêon ly thân. Rồi Lêon nhảy cửa sổ tự tử. Không khi nào tôi hỏi Ina những
chuyện ấy Một lần Ina đến Hà Nội. Trong một buổi tiếp đoàn nhà văn Liên Xô trên khách
sạn Thắng Lợi, Hoàng Trung Thông đứng lên, nâng cốc, sốt sắng. Không ai kịp cản, bởi
không biết Hoàng Trung Thông nói một câu như thế. Thông nói: “Lêon dạo này thế nào?
Đã xong quyển sách về Sác chưa? Cho tôi gửi một chén chúc sức khoẻ Lêon". Ina cúi
mặt, không nói gì.
Mấy năm sau, Ina lấy hoạ sĩ Iuri. Rổ rá cạp lại, nhưng mà yên vui. Hoạ sĩ đồ hoạ Iuri chuyên
phục chế tranh cổ, nghe nói làm ăn khá. Vương Trí Nhàn đưa tôi đến gặp Ina chỗ đấy là
xưởng vẽ của Iuri. Vợ chồng có một nhà nghỉ cách trung tâm hai trăm cây số. Ina nói:
“Chúng tôi bây giờ ở chùa xa lánh trần gian". Thế cũng là thoả. Đời người ta còn có hậu.
Tôi với Ina vô duyên, nhiều khi chỉ vì những rắc rối không đâu rồi giận nhau. Có lần tôi gửi
thư đi Ba Lan lại bỏ nhầm phong bì cho Ina, Ina trả lại, đánh mấy dấu than. Có lần đi với
Iuri đón tôi đi chơi nhà ngoại thành, hôm sau tôi về Hà Nội. Khách sạn Nước Nga mênh
mang, cửa trông ra bốn phía. Vợ chồng đợi ở cửa tây, thì tôi lại ngóng cả buổi bên cửa
bắc, mà tôi yên trí đấy là cửa tây. Từ bấy tới bây giờ không lần nào gặp lại, thư chúc tết
cũng không thấy đáp lại.
Nếu Ina vẫn giận tôi cái tật không nhớ đường và quên mặt người thì có còn khi nào để xin
lỗi được. Nhưng biết đâu nhỉ, như cuộc gặp không hẹn với Marich đây.
Quán Cây Sâú, bác sĩ Nam Thanh mở quán chẳng biết để kinh doanh hay là một sự hoài
cổ cho nó khuây khỏa bóng chiều. Những khuya vui, bà đệm đàn hát cho vài người nghe
những bài hát ngày đầu kháng chiến của Phạm Duy, của Tử Phác... Lưng khoác chiến y.
Mà hồn mang bóng quốc kỳ... Quay quay thương nhớ quyến vào tơ... Bà đưa rót rượu
ngâm nam sâm, nhẹ và dịu của bà pha lấy. Marich khen ngon và bà biếu ông khách xa
một chai.
Marich lại khẩn khoản bảo:
- Làm thế nào cho tôi được trông lại cái khách sạn Thống Nhất, một phút cũng được.
Khách sạn Sôphiten Mêtrôpôn bốn sao nhất thành phố. Không nguy nga như Đai U, như
Bảo Sơn, Sôphiten Mêtrôpôn hơn người vì dinh cơ này đã vào hạng lão lai trăm tuổi, vẫn
dáng lâu đài Pháp thế kỷ 19. Bên trong chắc là bây giờ không còn những buồng hạng
cuối, quạt trần quay lọc cọc trên đầu và khăn trải giường lấm tấm những chấm ố vàng của
thời Hà Nội ngày nào cũng có báo động khách phải chạy ra hầm trú ẩn ngoài sân cạnh cái
chuồng khỉ mà Marich đã được nếm mùi. Cả cái cửa ra vào quay như cối xay gió mà
Đôngkixôt huơ gươm đánh, ngót trăm năm người trong làng ra Kẻ Chợ đã đứng xem cái
cửa quay cả buổi cũng bị vứt đi rồi. Sôphiten hiện đại lại có cả khách sạn nhánh trên Đà
Lạt.
Hôm sau, tôi điều đình được một chuyến cho Marich đi “xem” khách sạn. Chúng tôi vào
quầy rượu, ngồi lên cái ghế đẩu ngật ngưỡng. Trước kia, cô Linh Phi kịch sĩ đổi nghề đã
ngồi bên cái két trong kia. Tráng lệ quá, các cô bán hàng yêu kiều giữa cái quầy lóng lánh
như gian thờ mẫu đền Cửa ông. Cô đang nhoẻn nụ cười với một ông Tây. Cái khi tôi hay
còn lai vãng đây cô ấy chưa chắc đã đến tuổi học lớp 1.
Tôi giới thiệu với cô:
- Ông này người Nga, trước kia năm nào cũng sang và ở khách sạn này. Ông ấy muốn
nhìn lại chỗ ở cũ.
Cô hàng đon đả:
- Mời các ông lên gác hai, hỏi ông quản trị người Pháp. Ông ấy sẽ bảo met ô ten đưa đi.
Khách sạn này cũng hay có khách tham quan như các ông.
Nhưng Marich buồn buồn nói:
- Tôi ngồi đây cũng được. Ngày trước tôi vẫn ngồi đây uống bia và trông thấy tất cả. Cái
lối xuống nhà ăn, à cái chuồng khỉ ngoài sân, còn không?
Cô hàng đáp: “Không biết. Trước ở đây nuôi con khỉ à". Rồi cô khen: “Ông ấy nói tiếng ta
rành quá".
- Thì người Nga với ta là anh em một nhà mà".
Cô hàng cười, nửa ngờ: “Cháu có thấy mấy người Nga đâu. Ông nói đùa thế nào...”
Tôi bảo:
- Cô cho hai lon huyckên. Chúng ta uống bia như ngày xưa.
- Khách nước ngoài trả đô la.
- Tôi thì trả tiền Việt Nam chứ, cô?
Rồi chúng tôi cũng chỉ uống bia Hà Nội. Marich nhấm nháp vài ngụm rồi lặng im.
Khi trở ra, Marich nói:
- Chắc không bao giờ còn vào đây, mà cũng không vào nữa.
Tôi cũng nghĩ tương tự như Marich về những Matxcơva, Lêningrat, Ôđetxa... Bởi vì chẳng
may mà tôi đã chứng kiến những ngày tan rã năm 1990 ở những nơi đấy bây giờ ra sao?
Tôi sợ, tôi không muốn biết.
ở các quán Grudia nghe tiếng nhạc núi uống một sừng rượu, ăn lobiô đậu răng ngựa với
trađi bánh ngô, hào hứng chuyện văn chương Việt Nam ra thế giới tiếng Nga đương vùng
vẫy năm châu. Lại ra vùng Bachicharai thắng cảnh Yanta, lên cổng đá nhìn... Kéo quân ra
cửa Hùng quan. Chim muôn tiếng hót, hoa ngàn hương đưa... Bây giờ thì Chuyện nỏ thần,
Nhà Chử mà Marich đã dịch, bỏ xó. Tôi xin chào tôi nhớ lại buổi đầu xiết bao hớn hở gặp
Matxcơva năm kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga bốn mươi tuổi.
Tôi đưa Marich một ít tiền. Marich cầm tiền, nhìn tôi, mắt rưng rưng, nét mặt và cử chỉ
phảng phất ngượng nghịu, lại thân thương.
Marich nói: Tình bạn của chúng ta không biết có thời gian đâu. Tôi vẫn thế, ông ạ. Tôi
không buồn như lần sau cùng ông ở Matxcơva năm trước. Tôi không xin lỗi vì chẳng đại
diện cho ai mà xin lỗi được. Cho tôi gửi lời thăm ông Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Đình Thi,
Nguyên Ngọc.
Năm trước, cái lần sau cùng tôi rời Matxcơva, sự tan rã thật trở trêu và khốn khổ. Tôi đi
nghỉ Pitsunđa bờ Hắc Hải khu tự trị Apkhadi nước Grudia. Tôi đi với con gái tôi, con
Sông Thao. Bấy giờ thì còn yên, nhưng sau đấy, chiến tranh đã xảy ra. Apkhadi nổi lên
đánh nhau với cộng hoà Grudia đòi độc lập. Đã hơn mười năm rồi đôi bên vẫn giằng giựt
từng đường phốvà mỗi ngôi làng, không biết bây giờ bờ biển Pitsunđa đổ nát, hoang
vắng đến thế nào rồi.
ở Pitsunđa trở lại Matxcơva, bố con tôi mua vé xe hoả đi Đức. Con trai tôi, Đán đương
làm thợ bên Laixich. Từ Nga qua các nước Đông âu đương náo động lung tung. Những
mắt thấy tai nghe trên đường đi đã khác lạ lắm. Người nhà tàu Ba Lan uống rượu từ chặp
tối rồi suốt đêm chúi vào xó nào, chẳng thấy ai.
Hải quan đi từng tốp khám ráo riết. Nhiều người Việt Nam bên Ba Lan- sinh viên, người
đi lao động, cán bộ, sang Nga buôn thịt hộp, bánh mì. Vacsava đương khan tết cả cái ăn
cái uống. Họ chỉ cho tôi những người Hà Lan cùng toa, cũng những tay buôn, buôn lậu cò
con. Hai bên đã ăn với nhau, chỉ khám làm phép. Cả một toa buôn trá hình, hải quan soát
từng người, từng ghế mà chẳng bắt được ai, cái tàu rầm rập chạy thâu đêm. Các cô các
cậu si nh viên mời tôi: “Bác xuống Vacxava với chúng cháu vài hôm, hay lắm". Chẳng biết
hay thế nào. Đến Beclin vẫn thế, nhưng cảnh khác, những cô cậu ta bán hàng, đứng như
người gỗ trên vỉa hè, cánh tay vắt đệp khăn mặt, cà vạt, áo gió. Thuốc lá thì nhét ngực áo,
dưới mũ. Chốc chốc, cảnh sát xộc đến, lại chạy. Hàng xén rong và cảnh sát rình nhau,
đuổi nhau đến khuya. Cả người đương đi học cũng ra đứng đường hết. Không phải ham
buôn, mà không đâu cho phụ cấp, không trả lương, phải ra đường kiếm cái ăn lấy.
Đông Đức rỗng không chính quyền. Mọi mặt xã hội và đời sống sinh hoạt cứ trong cái
guồng có sẵn. Còn hai tuần nữa mới bầu cử. Trên tường, các thân cây dán chi chít áp
phích cồ động của các mặt trận, các đảng: PSD, CDV, CDS, đảng Xanh cổ động đi xe
đạp... Nếu ở Mỹ người ta vẽ con bò, bắp ngô để nhớ mà bỏ phiếu thì ở đây là những chữ
tắt ấy, in to tướng. Cũng không buồn hỏi xem đảng Xã hội Thống nhất nó là CD nào. Bởi
chắc chắn nó sẽ thua phiếu.
Đương nô nức “cải tổ”, vứt cái cũ đi mà. Phố xá vẫn tấp nập bình thường. Cái xe phun
nước, những chuyến tàu điện chạy đến khuya. ở các nhà nghỉ con con trong góc vườn,
bếp nấu đun củi, trên bờ rào lila một làn khói vẩn vơ. Chỉ lạ mắt có một đám đầu trọc một
nửa, tóc nhuộm đỏ. Năm ngoái tôi đã trông thấy bọn đầu trọc đi cả đàn thế này trong các
phố bên Tây Beclin.
Bây giờ chúng kéo lũ sang đây, có những đứa vác gậy, cái thang gấp, đi nhông nhông.
Trông thấy cảnh sát, chúng nó xỏ ngón tay vào lỗ mũi, cười hích hích.
Tôi ở ngoại ô Lai Xich một tuần. Con tôi có ý muốn ở lại Lai Xích vài năm. Nhà máy vỡ
nợ, đóng cửa. Nhưng nó đã tìm được việc ở một trại trồng hoa, bán hoa.
Tôi đã đến chơi chủ trại có hai đứa nhỏ rất quyến luyến con tôi. Chả là Đán nhiều tài vặt,
dễ làm vui bọn trẻ con.
Trở lại Matxcơva, phố xá chợ chiều, mua bánh mì sắp hàng. Cảnh nhốn nháo xảy ra trong
các cơ quan.
Một người ở ban đối ngoại gặp tôi và nói: đáng lẽ đồng chí về Việt Nam tuần trước, lại đi
Đức, thế là quá hạn một tuần, “chúng tôi không còn trách nhiệm với đồng chí nữa".
Tôi không nơi ở, không còn được đưa tiền ăn và dẫu muốn cũng không còn gặp được ai,
không phải vì không muốn gặp tôi, mà cả cơ quan hội nhà văn đương lung lay, nháo nhác,
không làm việc.
Ira cầm vé máy bay đi đăng ký cho tôi về Hà Nội. Thật ra vé máy bay không phải việc của
Ira, nhưng các bộ phận khác không còn ngưòì, Ira đã đến Hà Nội một lần và Ira đã lo mọi
việc hôm tôi đi Pitsunđa. Đến trưa, Ira về, nói hồi này nghỉ hè, người đi Việt Nam nhiều
quá. Cứ ghi tên ông vào đấy, nhưng có lẽ hàng tháng mới đến lượt. Ira lại nói: “Tôi đương
bận việc sửa cái nhà nghỉ ở ngoại ô. Tuần lễ sau tôi mới đến đây”. Đối ngoại ở bộ phận
này có mỗi mình Ira. Tôi không có chỗ ở. Không tiền ăn. Có nghĩa là cô ta bỏ khách thẳng
thừng. Marich đến hỏi đã đăng ký được vé Hà Nội chưa. Tôi kể chuyện. Marich nghĩ ngợi
gì một lát, rồi nói: “Ira nói dối thôi. Công việc đi đăng ký vé là của người khác. Con mẹ này
vẫn nói nó rất ghét Việt Nam. Thế là các mụ mất dậy bỏ việc đấy". Bây giờ mới nghe tận
tai có người nói ghét Việt Nam. Cũng có khi có người đã nói, mà tôi chỉ đi với các bạn,
nếu bạn không nói lại thì làm sao tôi biết được thế nhưng cũng có khi biết. Lần ấy, Marich
và tôi đi Lêningrat, buổi chiều xem tàu Rạng Đông rồi về nhà Bôrit. Trong bữa ăn, một anh
bạn Bôrit nói: “Chưa bao giờ nước Nga hùng mạnh nhất thế giới như bây giờ, nhưng tại
sao nước Nga vẫn nghèo, vẫn thiếu. Bởi vì của cải nước Nga bị đem rải ra khắp nơi,
châu á, châu Phi, Mỹ La tinh, trong đó có Việt Nam của mày”. Marich cười nói với người
kia câu gì rồi bảo tôi: “Thằng này say rồi nói mất lập trường, tôi không dịch".
Tôi cũng chỉ đảo qua đến hội nhà văn Liên Xô. Không còn là cơ quan như mọi khi, không
ai ngồi trong phòng, nhưng túm tụm ngoài sân. Marich cũng không đến đây, bởi anh nói:
“Tôi đả đảo cái hội nhà văn bảo thủ. Chúng tôi lập hội nhà văn đổi mới rồi”.
Marich đã tìm cho chỗ ở tạm tại trường Goocky.
Không phải ở phòng khách, mà cái phòng chứa đồ đạc, mền, đệm linh tinh. Marich và hai
bố con tôi khuân dọn lại cho gọn. Tôi ở đấy mấy hôm, hai lần người quản gia mời xuống
bảo phải đi. Marich nói thế nào đấy hay Marich đã đút tiền cho nó, thế là lại yên yên và hồi
hộp. Buồng bên cạnh, vợ chồng một người Trung á hay Mông Cổ và một đứa con nhỏ, ở
bình thường. Người chồng mặt lầm lầm, có vẻ lén lút, chắc cũng trọ chui như tôi. Mỗi ngày,
Marich đên, ngơ ngẩn chơi rồi chúng tôi ra quán nhà mâu ăn cơm bụi, Mỗi người bưng
một khay bánh mì đen và mấy viên rán thịt lợn băm viên. Bia rượu thì không ngửi thấy mùi
đâu nữa rồi. ở vỉa hè bên kia đường, một xe tec bia hơi đến đậu đấy. Người xúm xít như
những con kiến bâu quanh miếng mồi. Người tay không, người cầm chai, cầm cái xô.
Đám sâu bia kia mặt bệu đỏ đã uống ở đâu lại đến xông vào mua uống tiếp. Tôi chỉ nhìn
các bợm bia, sâu bia xoay xoả lộn bậy với tình thế này. Bia nhạt thếch, chỉ bia chai nhỏ
Matxcơva còn vị đậm một chút, nhưng không đâu đó. Nhìn người chen chúc, hung hăng,
đã xa lắm rồi, đã thôi rồi cái hồi cô Ina Dimonina cứ đi mua bán giữa đám đông sắp
hàng, nói Việt Nam, Việt Nam, là người dãn cả sang hai bên.
Đến ở chui ở nhà trường Goocky- tưởng như ở đấy là những chốn nơi, những gian buồng
có ma ghê rợn như nhà Hôp Man. ấy là đương dịp nghỉ hè, vắng người lên xuống tấp nập.
Các học viên Việt Nam còn ở lại có Trần Đăng Khoa và Trần Nhuận Minh mới sang chơi
với em. Đương giữa con sầu não được Khoa thết bữa cơm có canh tai chua, tưởng như
đã thoát được về đến nhà.
Trời rét cóng cá, nhưng tắm giặt vẫn phải theo lệ Cái ngày đến nông trường Cờ Đỏ ở
Udơbêkistan, cả lũ trần truồng tắm hơi, lại như thuở nhỏ đến trường bị đi tắm chữa ghẻ.
Cũng chưa kỳ hình dị tướng bằng tắm ở đây. Một chục người đứng dưới hai cái vòi,
nước xả xuống, người ghé vào, người chạy ra, như những con nhộng có chân. Tôi bỗng
liên tưởng năm xưa trông thấy tù binh Anh bị giam ở Pnôm Pênh, lính Nhật giải ra sông
tắm, nắng rám mình mẩy đỏ như con tôm luộc. Tôi thấp lũn chũn đứng vào một vòi giữa
đám thanh niên cao lớn, lông lá. Quần áo thì đút trên khe cửa sổ trước mặt. Cũng chẳng ai
để ý tôi.
Nhưng tởm nhất cái chuồng xí. Tôi đã được biết kiểu chuồng xí công cộng lộ thiên ở chân
Vạn lý Trường thành, liền cả chục cái lỗ, không vách, không tường, người đứng lên,
người ngồi xuống nhăn nhó, người lẳng lặng bước vào. Đằng này là một kinh rợn khác.
Mỗi lần đi phải mang một tệp giấy báo để lót chân, lót đít. Cái nhà xí hỏng đã lâu, nhưng
hàng ngày vẫn dùng, vẫn phóng vào đấy. Những ụ phân chồng chất, tràn trề, không biết
một ngày, mấy ngày người ta tháo đi thế nào, lấy đi thế nào.
Hơn ba mươi năm trước, ông thường vụ Kec Babaep ra ga xe lửa đón tôi, trang trọng
thân tình. Ông mất đã lâu, ông không được chứng kiến những ngày tàn tạ này. Tôi kể cho
Marich nghe những cái tôi thấy và tôi đương nghĩ. Marich phân trần khéo: “ ở Hà Nội của
ông, trước mặt cái nhà thì nhìn được, đằng sau cái nhà thì cũng nhiều thứ không được, à
nói cho chính xác, nhiều thứ chưa được". Nó nói cũng chẳng ngoa gì. Có lần tôi đến khách
sạn Hoà Bình thăm G. Buđaren. Anh ở tầng ba, nhưng phải xuống nhà vệ sinh tầng một.
Trên ấy ngập nước, khoá trái. Marich bảo tôi: “Hay là ông và con gái về nhà tôi đi vệ sinh,
tắm giặt".
Cũng đến phải như thế mới ra khỏi chỗ quỷ ám này, nhưng hôm sau chúng tôi được vé về
Hà Nội. Ban tiếp tân của sứ quán ta đăng ký được ngay. Không phải chờ hàng tháng như
cái người hội nhà văn đã doạ thế. Ira gọi điện thoại cho tôi. Vẫn nghỉ phép và ở ngoại
thành chữa nhà. Nó xin lỗi bảo có người khác đưa chúng tôi ra sân bay. Tên anh ta là
Vichto và Ira cho tôi số điện thoại. Thôi tôi chỉ mong đi được. Cũng chẳng có phàn nàn gì.
Cả nước người ta còn đương loạn lên cơ mà.
Marich gọi điện thoại cho Vichto rồi bảo tôi: “Chỉ có thằng say rượu lảm nhảm...”. Tôi cũng
gọi. Nghe đáp tiếng Nga, tiếng Pháp lè nhè líu lưõi.
Sớm tinh mơ, lại gọi điện thoại Vichto. Bây giờ thì không có tiếng đáp lại. Tôi nói: "Có thể
anh ta ra sân bay rồi". ở sân bay, chỗ cửa về Hà Nội chen chúc hỗn độn nhất. Người chạy
ra chạy vào như úi lên. Người đứng rình những ai hành lý nhẹ, đưa tiền cước nhờ mang
hàng hộ. Người đẩy hàng qua rào sắt, cái rào bị chen lung lay sãp đổ. Cảnh sát đến vung
roi cao su lên vi vút đánh xuống đầu, xuống vai. Tôi chưa trông thấy ở sân bay này cảnh
đánh người thế bao giờ. Người ngồi, người chạy, người khóc hu hu.
Vì bị đánh đau, vì lạc mất hàng...
Giữa đám nhốn nháo, tôi cầm mảnh bìa các tông có chữ Vích to giơ cao trên đầu. Chẳng
thấy Vichto đâu.
Không phải nó đi sân bay. Bây giờ Vichto ngủ giữa cơn say rồi. Và Ira đã nói dối, nói láo.
Mảnh giấy bìa tôi cố giơ lên kia như là cái dấu hiệu sau cùng gọi:
Vich to... Liên Xô... Liên Xô... Nhưng không có tiếng thưa. Rời Matxcơva, chỉ nghe trong
đầu tiếng adieu Moscou. Cái “vĩnh biệt Matxcơva” này mới thấm thía, mới đau làm sao.
Thôi thôi, để tôi kể nốt về những người bạn những thuở còn ngày tháng tiêu dao. Chính ra,
anh Vlat chẳng bận đến tôi. Cũng ở ban đối ngoại như Marich, như Ina, nhưng Vlat lo về
các nước châu Phi nói tiếng Pháp.
Mỗi khi châu Phi ngơi việc thì Vlat lại giúp bên này. Vlat có cái băn khoăn ngây ngô là Việt
Nam rất xa châu Phi, xa nước Pháp mà lại có người nói tiếng Pháp.
Vlat là người hướng dẫn và phiên dịch đoàn nhà văn Việt Nam đầu tiên thăm Liên Xô
năm 1956, trưởng đoàn Nguyễn Văn Bổng. Trong những bạn phiên dịch thường gặp, tôi
đã đi nhiều với Vlat.
Vlat không phải người Nga. Vlatlen nguời dân tộc nước cộng hoà tự trị Chu Va. Dân tộc
thiểu số ít người và ở phân tán, Vlat không biết quê ở đâu, nhưng chẳng bao giờ đi tìm.
Chỉ nói: “Thằng người Chu Va đã thành người Nga cả rồi, như tao". Bố Vlat là người hoạt
động trước 1917, có cương vị lớn ở khu tự trị nhưng ông đã bị xử bắn trong một đợt
thanh trừng của Xtalin.
Bấy giờ Vlat còn nhỏ, học tiểu học. Có lần đi thăm cộng hoà Grudia, Vlat đã cung tôi về
Gôri quê Xtalin. Chúng tôi ngắm bức tượng Xtalin đồ sộ đứng đầu làng- bức tượng hiếm
hoi, từ Matxcơva đến đây mới thấy một bức. Và xem túp nhà của bố Xtalin thợ giày, Xtalin
đã ở đấy cả thời niên thiếu. Nhà có mỗi một gian, ông cụ khâu giày, đóng đế, lại cũng ngủ
và ăn uống ở đấy.
Cả túp nhà được đặt trong một lồng kính sáng choang. Vlat nói: "Lịch sử là lịch sử, không
ai thù lịch sử bao giờ". Vlat ở Matxcơva với mẹ và em trai. Chiến tranh thế giới, em của
Vlat đương học đại học thì phát xít Đức đánh đến ngoại ô Matxcơva. Cả Matxcơva ra trận,
em Vlat đã hi sinh ở ven đường mà Vlat ra sân bay đưa đón khách thường đi qua, bây
giờ là những chiến luỹ và dây thép gai tượng trưng sáng đèn suốt đêm.
Còn lại một mình Vlat với mẹ. Khi tôi biết Vlat thì mẹ Vlat mất bệnh mới hơn một năm nay.
Từ khi mẹ chết, ít lúc Vlat về nhà. Đêm đêm, Vlat vạ vật ở nhà bạn nào đó.
Đi Lêningrat, tôi muốn có một vài cuốn sách đọc ban đêm. Vlat bảo về nhà tìm, có thể có.
Nhà Vlat trong một ngõ hẻm nhưng ở trung tâm thành phố, trông ra thấy tường điện Kremli
ngang trước mặt. Ngoài đại lộ lúc nào cũng ngộn người và xe cộ, trong hẻm thì yên tĩnh,
tiếng ồn ào chỉ vang lại, gợi một cảm tưởng hẫng kỳ lạ. Vlat ở căn phòng tầng hai một toà
nhà cổ. Vlat vừa cho khoá vào ổ, vặn lạch cạch, buồng bên
cạnh đã có người hé nhìn ra. Chủ nhà lâu không về, biết là ai động cửa, có thể kẻ trộm.
Nhà Aliôsa “Simônôpcon” ở tầng một, trần nhà treo chùm đèn đẹp ánh thuỷ tinh rực rỡ
gian phòng. Thế mà, trộm đã vào nẫng mất. Khi biết là Vlat, cánh cửa lại ập lại. Căn
buồng đã lâu không người. Cửa sổ mấy lần kính mà trên mặt chồng sách bụi phủ về vệt.
Cái điện thoại cắt dây từ bao giờ, chỏng trơ giữa bàn. Chiếc giường gấp dựng một xó.
Một chiếc giường đệm ở góc buồng. Vlat bảo: “Mẹ tôi nằm giường này, tôi vẫn để
nguyên". Chiếc gối ghếch một bên, tấm chăn hoa mỏng gấp một nửa, như người vừa trở
dậy.
Vlat lục được một quyển sách nghiên cứu về mèo đưa cho tôi mang đi. Vlat nói: “Nhà tôi
trước nhiều mèo lắm. Phải mua sách này để hiểu chúng nó. Mẹ tôi chết, chúng nó bỏ đi
cả. Anh đọc trong sách sẽ thấy những con mèo rất giang hồ cũng rất gia đình. Có thằng
mèo bỏ đi chơi mấy thành phố lúc quay lại vẫn tìm về được nhà cũ. Tôi thì ngủ đâu cũng
được, tôi đi khỏi thì quên nhà. Tôi không bằng những thằng mèo".
Không phải tôi đến Lêningrat lần đầu. Tập ký sự Thành phố Lênin của tôi xuất bản đã
được mấy năm.
Nhưng mà nhớ Lêningrat bao giờ cũng nhớ đầu mùa xuân, những tảng băng tan ngổn
ngang sông Nêva, suốt đêm va vào nhau như con sông nghiến răng, sáng ra còn rùng
rùng chuyển động. Mùa xuân đã về, sông nhánh Môica của tôi hé mặt nước sáng trong,
người đi đường cao hứng cũng không bước qua những tảng băng ngang sông được
nữa. Lại nhớ sáng sớm chiều tối ở Hà Nội uống bia hơi với hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười,
càng nhớ, chao ôi...
Thế là đi Lêningrat, để lại những lo toan và chơi nhởi hàng ngày ở Hà Nội mà vẫn vương
vấn Lêningrat.
Thế mới lạ. ở bờ tường bên kia viện Mắt, phía chợ Hôm đi xuống, thấy treo một cái bảng
con con chữ sơn xanh: “Ragu, bít tết thỏ và các món". Những năm ấy, cái quảng cáo thế
khá lạ mắt. Bởi vì trước các nhà dọc phố chỉ thường thấy thòi ra mảnh giấy dán cánh cửa
sổ: Nhận lộn cổ sơ mi hay một miếng bìa: Cơm nồi nước sôi – Khối phố...
Tôi nói với Nguyễn Tuân:
- Dưới kia mới có quán thịt thỏ, các thứ ragu, bít tết..
- Được đấy
Tôi khoe thịt thỏ với ông không phải vì biết ông ưa thịt thỏ mà chỉ vì biết răng ông đã kém,
đến cao lâu 202 chỉ nhấm nháp được món phá xi cua hấp. Ông Nguyễn bảo “được đấy”
có thể chỉ vì thịt thỏ mềm. Chúng tôi đến quán nọ. Cái bảng quảng cáo lắc lư đỏng đảnh
bên tường trên hai cửa sổ rèm vải hoa xanh nhạt. Nguyễn Tuân đứng lại ngắm rồi gật gù
“Được", sau mới bước vào.
Một ông đã đứng tuổi, áo đại cán kaki ximăng, người nhỏ nhắn, nhanh nhảu, lịch thiệp, hai
tay giơ mời khách.
Những chiếc bàn kê góc tường, khăn bàn trắng. Đằng kia, trên quầy bày hai hàng chai
rượu quí, có chai còn bọc rơm. Chắc chỉ là chai không để trang trí. Giời đất này đào đâu
ra những của hoạ may mớt có ở trên thiên đình. Đến nhà hàng Bôđêga trên Tràng Tiền
cũng chỉ bán một thứ vang nước Bun chua như dấm- mà mỗi lần được mua tiêu chuẩn có
một chai.
Không thấy ngưòì khách nào. Vừa chiều, chắc chúng tôi đến hơi sớm. Tôi hỏi:
- Mấy món đề ngoài bảng hôm nay có đủ chứ?
ông chủ vui vẻ đáp:
- Xin lỗi hai cụ, chẳng có món gì cả.
- Hôm nay nghỉ hàng à?
- Bẩm, nhà cháu đóng cửa rồi. Chưa kịp bỏ cái bảng.
Chúng tôi cũng chưa kịp tò mò đầu đuôi ra sao thì ông đã cắt nghĩa- nét mặt bình thản như
chuyện hàng phố, không phải chuyện nhà ông vỡ nợ.
Tại hàng ế thôi. Bán hàng sống mà vài hôm vắng khách thì đi đứt ạ.
Tư dưng, cũng cửa hàng này, lúc nãy trông trang nhã, đẹp đẽ gọn gàng thế bây giờ bỗng
đượm vẻ quạnh vắng, ủ ê, nhìn thương thương, tội tội như khi ta vào nhà hiếm trẻ, chỗ
nào cũng quá gọn ghẽ, quá ngăn nắp.
ông chủ quán cười cười, chào chúng tôi: .
- Tuần sau, nhà cháu với mậu dịch canh ty mở bia hơi. Mời hai cụ...
Cái thư ngày 26- 6- 1966, Nguyễn Tuân gửi lên Lai Châu cho tôi, có câu:
“Ông cao lâu nhà thương đau mắt chuyển thành nghề quốc doanh. Ông lại làm công ngay
tại đó, ấn vòi bia theo giờ nhà nước, tháng lĩnh 50 tờ như một người bỉnh bút không viết
bài nào...”
Ông cao lâu Ragu thỏ ấy đấy. Tôi cũng chưa bao giờ hỏi tên ông.
Tôi đến quán bia ông Ragu lâu dần thành lệ. Tôi đến theo thói quen, dửng dưng không để
ý, uống bia giết thì giờ, tôi lơ đãng cả với ông Ragu hễ vừa thấy tôi ông đã rảo bước ra,
mời vào một góc lau bàn, ông dẹp mấy cái cốc uống dở. Dần dà, tôi cũng nhận ra giữa
đám người uống đứng uống ngồi, cũng có người như tôi, đến uống vào quãng chiều. Cái
ông ngồi trước mặt cũng có tuổi, người cao xương xương, thanh mảnh, trắng trẻo. Nghe
tiếng Nam Bộ thì chắc là cán bộ tập kết. Ông uống từa tựa tôi, mỗi cốc làm một hai hơi rồi
ngồi thừ ra, không nhắm nhót lạc ngọt, nem chua, mực nướng gì cả.
Chúng tôi mỗi người đến một lúc, nhưng hàng ngày hay gặp nhau. Những khi ấy dù ông
Ragu có đương tíu tít rót sirô vào bia cho khách, ông cũng vội ra lấy hai cái cốc vại, bấm
vòi bia cho xuống đầy ngấn, ít bọt. Tôi tò mò đoán về ông uống bia ngày nào cũng gặp Bộ
đại cán không mới nhưng có nếp là, không dây dầu mỡ. Bàn tay chắc chắn, nhưng không
thô.
Người bàn giấy thì phải rồi. Nghề gì, làm kế toán, cán bộ nghiên cứu, nghề văn hoá hay
nghề y. Đây gần nhà thương, các con nhà y cũng hay ra uống tợn.
Nhưng nhất định cái ông nói giọng Sài Gòn này cũng dân chơi. Có khi ở tuổi ông, xưa đã
từng uống bia bốc buổi chiều ở cái xe téc đậu chỗ bùng binh chợ Bến Thành. Ông uống
khá điệu. Ông thảnh thơi uống lâng lâng, uống lẳng lặng. Được, được lắm, nhưng ông là
người thế nào. Xem ra ông cũng không để ý có hay không có ai trước mặt.
Không biết đã bao nhiêu buổi chiều. Đôi khi đi vắng lâu về, đến đấy vẫn thấy ông như dạo
trước. Rồi tôi chịu thua, không thể đoán ra ông và cũng không tài im lặng được như ông.
Một hôm, tôi hỏi:
- Anh công tác ở đâu?
Tôi là Mười, hoạ sĩ.
- A, anh Nguyễn Văn Mười.
- Dạ.
Rồi hoạ sĩ Mười cười dịu dàng, giơ tay cho tôi bắt, và nói:
Tôi cũng đã biết anh.
- Thế mà bao hôm nay không nói.
Hoạ sĩ Mười lại mỉm cười:
- Chúng ta đương uống bia. Uống bia chẳng bận gì đến vẽ, đến viết cả.
Câu nói chí lý tuyệt. Cứ cái sự anh uơng bia đúng kiểu từng hơi dài đã rõ can trường ấy.
Chúng tôi lại trầm ngâm uống. Chúng tôi đương uống bia, có bia vui, có bia buồn và thế
thôi. Hơi bia không bốc phét chích choè. Hơi bia chỉ phục vụ chúng tôi lặng im.
Có lần, Nguyễn Tuân đi với tôi uống bia hơi ở quán trước ga Hàng Cỏ. Nguyễn Tuân đến
chào một ông khách ngồi bàn gần, mọi khi tôi vẫn hay trông thấy, ông nhỏ nhắn, điềm
đạm, áo vét tông và mũ phớt. Nguyễn Tuân bảo tôi:
- Tiên sinh Cao Xuân Huy.
Mỗi buổi chiều, chúng tôi cũng uống bia im lặng. ừ uống bia chẳng bận đâu đến thế thái
nhân tình. Tôi chỉ nhận thấy một sự lạ, có lẽ Hà Nội còn mỗi một người mặc tề chỉnh đi
uống bia hơi và giữ vệ sinh như ông. Ông Cao Xuân Huy, khẽ ho rồi khạc đờm vào mảnh
giấy báo đã mang sẵn và gấp lại, bỏ vào túi áo.
Hoạ sĩ Mười cắp một cái cặp bìa đen cứng khổ rộng, trong đựng một tệp ký hoạ. Mười
nói:
- Tôi đem cho anh xem mấy cái vẽ sông Nêva và nhưng sông nhánh. Có những ba trăm
mấy con sông nhánh của Nêva, anh đã viết đấy.
Tôi hỏi lại:
Anh đã đến Lêningrat?
- Tôi đã ở Lêningrat lâu lâu.
Hoạ sĩ Mười chỉ bức ký hoạ một bến đá trơ trọi mấy thanh lan can sắt.
- Đây là sông Môica. Nơi anh đã gặp Vêrônica.
Trời ơi! Hoạ sĩ Mười đã đọc đến thế, những bút ký tôi viết về thành phố này. Mỗi lần, mỗi
hôm, mỗi lúc tôi lại biết thêm về hoạ sĩ, nếu anh có trò chuyện với tôi. Quả thế, không phải
cứ gặp ai thì đã là biết và chắc đâu đã biết. Mới cốc bia trước thôi, tôi chưa một chút nào
rõ được hồi đầu thập kỷ sáu mươi, hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã nhiều năm ở Lêningrat.
Hoạ sĩ kể những ngày ở cái lâu đài khổng lồ trên phương Bắc trái đất ấy, hoạ sĩ mê nhất
sông nước và những đầu mùa xuân, khuya nghe tiếng những tảng băng tan va vào nhau
gãy răng rắc, vang động dòng Nêva ban đêm qua thành phố.
Tôi lơ đăng nhìn qua bóng bia trong cốc thấy người hoạ sĩ đương tha thẩn bên dòng sông,
đôi lúc ngước nhìn ra những tảng băng trôi. Tôi cũng soi mặt vào bóng bia xem có thấy
cái cửa sổ nhà ai nhìn xuống bến sông Môica?
Vlat đi Lêningrat không va li. Đi đâu cũng xách mỗi cái túi, ấy thế mà kiểm lại các thứ cũng
thấy đã bỏ quên bộ dao cạo râu điện, không biết quên ở nhà ai. Chẳng lẽ sáng nào cũng
xuống tiệm cạo râu phòng ngoài khách sạn. Tôi không hỏi Vlat làm thế nào, nhưng mỗi
hôm đều thấy Vlat mày râu nhẵn nhụi.
Chúng tôi ở hồ Lagôđa về. Băng đóng trắng mờ chân trời, xe đi trên đường cũng như mặt
sông. Khi mùa đông tới, con đường tiếp tế qua mặt hồ này đã nuôi Lêningrat sống chiến
đấu được trong vòng vây mấy năm trời. Bây giờ chỉ có từng đàn hải âu. Bọn khách du lịch
ném bánh mì lên cao cho hải âu bay xúm lại xâu xé cái bánh tan biến giữa trời. Trẻ con chỉ
nhớ hồ Lagôđa có trò chơi ấy, chiến tranh đã qua ba mươi năm rồi. Vêrônica cùng đi với
chúng tôi. Marich đã cho tôi biết Vlat là bồ của Vêrônica. Vlat thì lắm bồ, đi đâu cũng có
được, kể cả ở bàn ăn câu lạc bộ. Những năm sau này, Vlat ở hẳn với cô Lọ Lem bồi bàn.
Chúng tôi gọi là Lọ Lem vì cô thấp bé, đen đủi. Vlat nói:
"Lúc túng thiếu và về già, tôi lại trở về với dân tộc tôi”. Nghe nói cô Lọ Lem cũng người
dân tộc Chu Va.
Mới được mấy ngày đã hết tiền. Mỗi hôm đều tốn chỉ vì uống, nếu để Vlat mỗi ngày uống
mấy lần, chắc còn hết tiền nhanh hơn. ở thì vẫn Astôria, tiền phòng trả séc, không lấy ra ăn
được. Nhưng tôi yên trí vu vơ thế nào và bao giờ Vlat cũng xoay xoả ra. Vlat cười:
“Có thể! Có thể! Chúng ta cũng như con hải âu, rồi cũng có người ném bánh lên trời cho
ăn.”
Buổi tối, Vlat bảo tôi:
- Chúng ta đến ăn tại nhà Vêrônica.
Tôi hỏi lại Vêrônica: có phải thế không? Vêrônica gật đầu.
- Tôi mời hai ông làm khách.
Chẳng biết Vêrônica có rõ chúng tôi đã cạn tiền. Vêrônica ở một phòng trong toà nhà ba
tầng. Nhiều phố Lêningrat được giữ cổ kính nguyên như cả trăm năm trước, chỉ sửa nội
thất. Cửa sổ phòng Vêrônica trông ra sông Môica. Con Nêva ngang qua thành phố toả ra
bao nhiêu sông nhánh nước trong xanh, hai bên bờ lan can sắt và dòng sông cũng thành
con đường khi mùa đông đóng băng. Hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười đã ký hoạ khúc Môica chỗ
bến này đây.
Tuyết cuối mùa còn phơi phới xuống trên sông mỗi lúc càng mù mịt hơn. Người lác đác
dưới đường, bóng lướt qua bên những thanh lan can đen xẫm. Tưởng tượng như
Đốttôepski đương với các nhân vật của ông lang thang trong Những đêm trắng. Hôm
trước, đã thăm nhà lưu niệm Đốt ở một chung cư năm tầng. Tường căn buồng nhỏ nhà
Đốt đương được bóc giấy báo ra, tìm lại ngày tháng ở những tờ báo hồi Đốt ở đây, mùa
lạnh đã dán cho ấm tường. Cũng như ở quảng trường Cỏ Khô, nơi tử tù Đốt đã đứng đợi
để đến lượt bị hành hình treo cổ, đã được khắc cái biển đá về sự tích ghê rợn ấy. Vào
mùa xuân năm này, các tác phẩm của Đốt mói được in lại, bán khắp các hiệu sách.
Thành phố bắt đầu gắn biển và sửa sang những nơi có dấu vết của ông. Tôi tưởng như,
nhớ như ở thành phố chỗ nào cũng trông thấy ông và các nhân vật, những cái bóng ngất
ngưởng, người gàn dở, một bà già không chồng, một trọc phú uống máu người không
tanh... tấm lòng thương bao phủ tất cả các con người, con sông, những lan can trơ trụi
bên đường, trên cầu ông đã vịn tay. Ông viết càng rùng rựn bao nhiêu, càng thương đau
bấy nhiêu. Heinơ nói rằng: “Người ta kể lại không bao giờ đúng, bỏi vì con người luôn
luôn nói dối khi nói về mình". Không, Đốt nói: “Người ta có cố gắng nói sự thật, chỉ có điều
là sự thật ấy không bao giờ đầy đủ". Vẫn một lòng thương cảm xâu thẳm, không biết đến
đâu.
Ngoài kia vẫn mờ mờ, chẳng biết đã đêm trắng hay còn ngày. Vêrônica uống cũng ra trò.
Một lúc, Vlat nói:
- Đêm nay mày ngủ ở đây với Vêrônica. Tao về chiếm cái giường của mày ở khách sạn.
Tôi không nói gì. Vlat không biết tôi đã khiếp sợ từ hôm mới đến chơi, trông thấy chiếc xe
đạp cuốc treo ở sau cánh cửa. Mỗi sáng sớm, Vêrônica đã cưỡi nó, đạp thể dục hai
mươi cây số ra ngoại ô. Những Vlađia ở ga Gian Côi trên tàu hoả qua Kiép, những
Vêrônica, những Madari xa lạ quá rồi.
Mấy năm sau, gặp lại Vêrônica ở Matxcơva. Cô đã đổi về làm cho đài truyền hình dưới
này. Tôi giật mình. Võ vàng, tiều tuy đến độ thoạt nhìn không nhận ra được. Hỏi thì cô ấy
khóc. Cô đã lấy chồng và sinh được bé gái. Đứa con chết và người chồng bỏ đi. Từ đấy
Vêrônica mê mụ không hồn như nhân vật mụ Tường Lâm trong truyện của Lỗ Tấn. Gặp lại
tôi, có điều cô được an ủi là tôi vẫn nhớ cô, tôi đã đem tặng cô bức tranh sơn dầu Cây
chuối của Nguyễn Sáng. Xem tranh Nguyễn Sáng, tôi có nhận xét Nguyễn Sáng ở rừng
Việt Bắc mà sao ít vẽ cây chuối. Nghyễn Sáng đã cho tôi đem đi bức tranh cây chuối,
cũng chẳng hỏi tôi mang bán hay mang cho ai. Khi về, xách về đền ít hộp sơn trắng, thế là
mừng rồi.
Dương Bích Liên bảo cái sơn trắng quét lót, lúc nào cũng cần. Biết thế, tôi hay mua sơn
màu trắng cho Sáng và Liên. Hồi ấy, cái tranh chẳng đáng một giá nào. Vẽ vì thèm vẽ, vẽ
rồi cho, vẽ rồi xếp lại. Tôi đã đem những đĩa sơn mài vẽ mèo, vẽ chân dung của Sỹ Ngọc
và Nguyễn Sáng cho Marich, cho Ina Dimônina.
ấy thế nhưng hoạ sĩ uống tách cà phê, ăn bữa cơm nhà Lâm Toét cũng được coi như bán
tranh, không phải là đem cho tranh không. Đồng tiền thời ấy hiếm vậy. Ai tò mò cũng biết
Lâm Toét bán cà phê đầu tiên chơi tem rồi chơi tranh. Nhưng ít người biết Lâm Toét chơi
tranh và chơi sách. Anh khoe với tôi lùng mãi mới săn được tập thơ Tản Đà và hai quyển
Tục ngữ phong dao của ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nhà Minh Đức xuất bản, có chữ ký
của ông Nguyễn Hữu Đang.
Tôi lên gác xem tranh bày trên ấy. Lâm Toét chỉ cho tôi một chồng báo cao cao. Anh ta nói
thì thào nhỏ nhẹ, lễ phép: “Ông Hoàng Trung Thông mới đề lại cho em đấy". Tôi ngơ ngẩn
cả người. Tôi không còn đủ sức lấy hơi đến nhìn xem nó là những báo gì. Cái thằng cho
tranh lấy vài đồng và tách cà phê thế mà còn bớt đau hơn thằng bán sách một bậc.
ấy thế mà rồi tôi và Vlat đã đi một chuyến vung vinh thú vị không lúc nào phải lo tiền, chúng
tôi làm khách nhà nước Udơbêkitstăng. Mỗi khi đi đường dài, xuống nghỉ ở sân bay
Tasken, máy bay là là dọc đường băng, trông thấy ven cỏ một toà nhà xinh xắn, đấy là lầu
đón khách Chính Phủ. Đêm ấy, đèn nhà khách sáng trưng, ô tô rước chúng tôi từ thang
máy bay tới.
Bộ trưởng ngoại giao Adimôp đón tôi, ông mời tôi chơi nước ông. Nhà thơ Udơbêch
Adimôp năm trước làm đại sứ ở Libăng, bây giờ về nước cộng hoà này làm bộ trưởng
ngoại giao. Gặp lại Adimôp ở câu lạc bộ hội nhà văn, Adimôp nói: “Có đi Tasken chơi
không?”. Thế là đi.
Nhà khách chính phủ thênh thang như cả chục cái đình làng ta, mà chẳng có một mống
khách. Vlat nói: “Có thể chúng ta uống rượu say ở đây rồi thắt cổ chết mấy ngày mới có
người biết". Mỗi đêm, xa xa tiếng gà gáy. Nếu có tiếng còi tàu hoả nữa thì chẳng khác
nghe đoàn tàu chạy đêm hun hút gió trên cánh đồng chiêm bên kia cầu Giẽ, cầu Guột...
Chẳng đâu lạ mà ngẩn ngơ thế nào, cũng không vì cơn cớ gì. Con người đương vui lại
buồn, nghĩ ngợi vẩn vơ vắt vào nhau chẳng ra làm sao. Không còn cái ông đại biểu
Adimôp tranh luận với Hoàng Trung Thông về một chữ trong thông báo của Đại hội các
nhà văn á Phi ở Bâyrut, cũng không phải ông đại sứ, ông bộ trưởng ngoại giao nước
cộng hoà. Chỉ thấy một lão chăn cừu ngồi giữa đồng cỏ, cốc rượu bằng sừng dê và đọc
thơ, đọc thơ, đọc thơ. Thơ ông về thảo nguyên, về cây dâu, cây thông và con cừu, đàn
cừu. Năm sau, tôi lại đi Apganixtăng, cũng với Adimôp và ở nhà nghỉ, Adimôp cũng đọc
thơ. Lạ thay, nghe giọng thơ mà một lúc tưởng như trên mặt đất bụi mù mịt, những con
cừu nhiều hơn con người ở làng mạc và thành phố. ở Adi Abba, ở Đaet Salam buổi chiều
người cõng cừu qua phố về nhà. ở Angiêri, ở Mông Cổ lúc nào trông xuống mặt đất cũng
thấy những đàn cừu chân bước liên liến, đi từng đàn, chập chờn vàng như khói, người
chăn cừu cầm gậy đứng chơ vơ như cái cọc, sóng cừu mênh mang xung quanh. Adimôp
đọc thơ cừu. Vlat dịch lại, chẳng biết thơ hay thế nào, lại chỉ thấy bề bộn những cừu là
cừu, cái cảm tưởng thơ cừu của mình là đúng. Quả là trên đồng cỏ những stăng của
người, những làng Udơbêch, đâu có cừu thì có người. Cũng hay.

Tôi đọc mấy câu thơ Nguyễn Bính. Tôi vốn không thuộc hết một bài thơ nào. Những câu
thơ tôi nhớ được chỉ vì ngày trước Nguyễn Bính đến chơi trên Nghĩa Đô đã viết chữ tung
hoành cả bài thơ vào tờ giấy lệnh dài cao hơn thước tây dán lên vách đầu giường tôi.
Lúc nào cũng nhìn thấy, nên phải nhớ mà cũng chỉ lõm bõm. Câu thơ Nguyễn Bính, cái
tranh Tô Vũ chăn dê đã vào ký ức đời mình.
... Mùa xuân chín vạn bông trời nở
Riêng có tình ta khép lại thôi...
Adimôp khen tôi hát hay lắm. Vậy là tôi bằng lòng rồi, các bạn đã được nghe cái tiếng
Việt trầm bổng như chim hót.
Tô Hoài
Chiều Chiều
Mây Chiều
Chương XVIII




No comments: