Friday, December 18, 2009

VẬN MỆNH I





Di ảnh ông Nguyễn Văn Thới (1866-1926) *




I.PHẦN THỨ NHẤT

GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC TÁC GIẢ & TÁC PHẨM

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tại miền Nam nổi lên một phong trào văn chương đại chúng. Văn chương này phát xuất từ những nông dân chất phác hoặc những hàn nho. Nội dung văn chương này có hai điểm chính : Văn chương yêu nước và văn chương tôn giáo.

Đây là lúc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam mà Nguyễn Đình Chiểu phải chạy về Bến Tre và sáng tác các bài văn tế Trương Công Định, văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đây cũng là lúc phát sinh các tác phẩm khác như Thơ Sáu Trọng, Thơ Năm Nhỏ, Thơ Năm Tỵ, Thơ Cậu Hai Miêng. . . thể hiện tinh thần yêu nước chống Pháp, và sinh hoạt xã hội..

Trước đó không lâu, Bửu Sơn Kỳ Hương với Đức Phật Thầy ra đời (1849), truyền xuống đến các đệ tử như Phật Trùm, Đức Bổn Sư , Sư Vãi Bán Khoai và Huỳnh Giáo Chủ . Và tại Tây Ninh, đạo Cao Đài ra đời. Hai tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài đã có nhiều tác phẩm tôn giáo.

Trong những tác phẩm tôn giáo Hòa Hảo như Vãn Núi Tà Lơn của ông Cử Đa, Giảng Xưa của Đức Sư Vãi Bán Khoai, Sấm Giảng của Hùynh Giáo chủ thì tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan có vị trí
khá quan trọng,


1. TÁC GIẢ

Tác phẩm này do ông Nguyễn Văn Thới ( Ba Thới), soạn thành. Trong Kim Cổ Kỳ Quan, ông tự giới thiệu như sau:
Quê ngụ miền Cao Lãnh
Tôi nay Ba Thới xưng danh

Từ theo Thầy học đạo minh thanh

Cửu thu mãn thính danh dư tuế
( Bổn tuồng, 5-8)

Tôi nay Ba Thới tùng Quới Mỹ-Trà
Tên Thạnh Phật bà chủ nhà Sa Đec
Nhiều người ghen ghét mở bét bạc bôi

Nhiều việc thương Vôi thương ôi ong bướm

Việc đời lụy ướm như bướm gầy ong

Tên Thành là ông Quan-Công thuở trước
Phò vua giúp nước thuở trước rất miêng
Phật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứ
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Láng linh
Hai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt
Hai Ngôn thậm ngặt oán giặc hỏa thiêu
Căm hờn quần yêu bao nhiêu chẳng cử
Chú tư biện xử tích cử tòa chương

Nhiều việc tủ thương lưới vương Châu đốc
Hai Nhơn tử tốc vị bốc cáo trình

Nhiều việc bất bình thương tình chú bảy dám bì

(Cáo thị, 687-702)

Có vài tài liệu của Hòa Hảo viết về Ông Nguyễn Văn Thới.

+Tài liệu thứ nhất: Các đại đệ tử cùa đức Phật Thầy Tây An
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_192_ArticleID_3549_.aspx
Tài liệu thứ nhất đơn giản và ghi năm sinh năm mất 1866-1927.

+Tài liệu thứ hai đơn giản, ghi năm mất là 1925.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4070_.aspx
+Còn tài liệu thứ ba:
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx
Tài liệu này ghi năm mất 1927 và chi tiết hơn.

Cả hai tài liệu thứ hai và thứ ba nói ông thọ 61 tuổi.
Tài liệu thứ hai ghi ông mất ngày mồng chín tháng tư năm 1925. Tài liệu này ghi ngày tháng âm lịch nhưng năm lại là dương lịch.
Tài liệu thứ ba ghi ngày mồng 9 tháng tư bính dần tức là ngày thứ năm 20 tháng 5-1926.
Vậy ông mất năm 1926.


Chùa Bửu Sơn do Trần Văn Nhu xây tại Láng Linh để thờ Quản Cơ Trần Văn Thành


Ông Nguyễn Văn Thới tức Ba Thới là một nông dân có học chữ Hán, sinh năm bính dần (1866) đời Tự Đức thứ 19 tại làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec). Ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng-nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.

Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba tìm đến ông Trần Văn Nhu là con của Quản cơ Trần Văn Thành, đại đệ tử của đức Thầy Tây An, và cũng là một nghĩa sĩ chống Pháp, xin quy-y với ông Hai ở Láng-linh. Sau ông đem cả gia đình về ở nơi đây.

Trong thời gian này, ông Ba viết ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim Lai.
Vì có sự ghen ghét của Nguyễn-văn-Phẩm (1) là cháu của ông Hai Nhu đưa đến việc Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Ông Ba thoát , ông Hai thì phải trốn tránh, nhưng con trai của ông ba là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vả buồn vì cảnh chùa tan nát, ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt-hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Ông không chấp nhận việc chữa trị của người Pháp, ông cự tuyệt và gở bỏ hết. Độ vài tháng sau liệu bịnh-tình ông Ba không thể chữa được, nhà thương đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.

Tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Trong chuỗi ngày tàn, ông ký thác lòng mình vào những quyển : Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-Đại và Thừa Nhàn
Ông mất vào lúc năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), thọ 61 tuổi. Ông để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.


2. NIÊN ĐẠI VÀ HIỆN TRẠNG TÁC PHẨM

Về năm viết, bản điện tử Hòa Hảo Cali đề ở đoạn cuối lời tựa:

Cất bút châu phụng tỏa (tả) một bài Di truyền để hậu lai tường khán “Phật ông diễn thế gian di chúc, Tiền kỷ tái hậu vô giai”. Từ Kỷ Dậu niên Phật Thầy truyền chí Du (vu) kim, Nhâm ngũ niên cọng, kế cứu thập tứ niên Nhâm ngũ niên hạ nguơn nhựt Kỷ Dậu niên tái bản.Bá nhì thập niên hậu ( 1849-1969 )

Nghĩa là đức Phật Thầy khai đạo năm kỷ dậu 1849. Câu "nhâm ngũ niên cộng kế cứu (cửu?) thập
tứ niên" e có lầm lẫn.
Nhưng tựa của Ông Ba Thới bản Quốc Ngữ ghi
Lời Phật Thầy năm kỷ dậu nhằm năm 1849. Phụng tả nhâm ngũ niên, thập nhị ngoạt. Nghĩa là sao chép vào tháng chạp năm nhâm ngũ . Nhâm ngũ nào?

Thời kỳ thứ nhất là sau 1907 là khi ông về Láng, làm nhà gần Bửu Sơn Tự. Và giai đoạn thứ hai là trong khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lỡ (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên) và trước khi mất . Điều này là đúng vì trong Kim Cổ Kỳ Quan có câu:
" Nặng nề mang nhục chữ dân
Trung-huê Dân-quốc khó phân vùi đầu.(2)
(Thừa nhàn, 3087-88)

Như vậy tác phẩm này gồm chín bổn viết trong khoảng từ 1907 đến 1926, trong đó
Thừa nhàn viết sau 1912.
Giác mê viết tại Láng Bà khoảng sau 1907.
Láng bà để kiển trung quân tựu
Ngọc xuất An-giang hựu thú vui.

Cáo thị viết khi ở Láng (sau 1907):
Trần Nhu chiếm cứ nhị tứ Lang (Láng ) linh Hai Lãnh trung tinh độ tinh gò sặt.

-In người chốn Láng ngán ỷ vinh.

Thừa nhàn là bản thứ bảy nhưng khi biết Thừa Nhàn ông đã có dự kiến sẽ viết chín bổn:
Ngồi buồn cất bút chép riêng
Đặt làm chín bổn bình yên coi đời.

(Thừa Nhàn, 2847)

Kim Cổ: cuối bổn Kim Cổ câu:
"Ất mão niên cơ thâm nay đủ".
Như vậy, bổn Kim Cổ viết xong năm ất mão (1915).

Ông Ba viết Kim Cổ Kỳ Quan từ 1907-1926, nghĩa là khoảng 60 năm sau khi Phật Thầy tịch diệt.
Như vậy việc sao chép từ nguyên bản chữ nôm (phụng tả nhâm ngũ niên) có thể vào khoảng sau 1926, tức nhâm ngọ 1930 . Sách đề là tái bản kỷ dậu, sau 120 năm kỷ dậu từ năm đức Phật Thầy khai đạo ( 1849+ 120= 1969. Vậy sách tái bản năm kỷ dậu 1969. Vậy xuất bản lần đầu năm nào?
Chúng đã có bản quốc ngữ 1957 và bản 1964. Bản 1957 in toàn trang, bản 1964 in hai cột. Không rõ trước 1957 có những bản nào?

Trong bản Kim Cổ Kỳ Quan, ở dưới các đoạn có ghi Chép xong ngày 19 tháng hai (nhuần) Năm Đinh Hợi , Châu Đốc. Đinh Hợi có lẽ là năm 1947 có tháng hai nhuần , do người đời sau chép lại .

Theo tài liệu thứ nhất, Tình Thầy nợ Nước miên man bao nỗi cảm hoài, ông ký thác lòng mình vào bộ sách Kim Cổ Kỳ Quan, gồm chín cuốn, cũng gọi chín bổn: Vân Tiên, Thiên Tứ, Cổ Vãng Kim Lai, Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ Ðại và Thừa Nhàn, toàn văn vần, tuy văn chương bình dân mộc mạc, có khi bí hiểm tiên tri, nhưng chứa đựng mối cảm hoài tha thiết tình Thầy nợ Nước, ưu đời ái đạo trong một hoàn cảnh xã hội bi đát, quốc phá gia vong, mà Phật Thầy đã nói trước về những khổ cảnh tai nạn đang chờ đợi chúng sanh trong những thời kỳ sắp tới.


Kim Cổ Kỳ Quan có nghĩa là Chuyện Lạ Xưa Nay, hoặc nhìn thấy những việc kỳ lạ từ xưa đến nay. Tại Trung Quốc cũng có tập truyện này viết về một số nhân vật Trung Quốc như Lý Bạch, Bá Nha, Tử Kỳ. . .Tại Việt Nam ông Ba Thới cũng đặt tên cho tác phẩm của ông là Kim Cổ Kỳ Quan để nói lên những điều ông suy nghĩ và nhìn thấy (tiên tri) về tương lai nước Việt.

Kim Cổ Kỳ Quan là tên chung 9 bổn nhưng Kim Cổ là một bổn chính, là bổn đầu trong chín bổn. Tác giả có cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và vị lai. Hiện tại của tác giả đã trở thành quá khứ của chúng ta. Tương lai của tác giả đã trở thành hiện tại của chúng ta. Và tương lai của chúng ta một thời gian nữa sẽ trở thành hiện tại. Tác giả nhiều lần nhấn mạnh các chữ Kim cổ, Cổ vãng kim lai, kim lai cũng là tương lai. Như thế, nội dung của Kim Cổ Kỳ Quan là nói những đổi thay trong vũ trụ, trong thế giới và quốc gia Việt Nam từ quá khứ đến tương lai :
Lóng tai nghe mỏn chốn thiền từ
Ngẩn ngơ cổ vãng đục ngừ kim lai.
(KCKQ,1929-30)
Minh tâm thánh trước đặt bày
Làm người suy cổ nghiệm kim thì tường.
(Vân Tiên, 3-4)

Giáp Tý hội Phật hội Trời
Qua năm Kỷ-Tỵ lập đời thanh nghiêm
Mãn cổ lập lại đời kim
Mãn kim lập cổ thanh nghiêm đời đời.
(Thừa nhàn ,2601-04)
-Tri kim cổ mới biết việc đời,
Sao người chẳng tưởng Phật Trời độ thân.

(Kim Cổ Kỳ Quan, 3B Calib câu 2470-71)

-Đậu câu trúng lý nghiệm suy
Kim lai cổ vãng luận tri Phật Trời

Thuở xưa giặc mọi tơi bời

Cũng vì tham sắc như đời trào nay
Cổ kim loạn quốc Nam Tây

Cựu thù tích oán thương thay đời này
. . . . . .
Cổ vãng ngũ hổ tam hùng
Kim lai dục đắc phục tùng bá nhân
(Thừa nhàn, 713- 20)

Suy cổ lở khóc lỡ cười
Nghiệm kim sợ lỡ nỗi người đời kim
(TG,229- 69; 2843-44)
Tác phẩm này ban đầu viết bằng chữ nôm, hay quốc ngữ? Chúng tôi nghĩ rằng ở thôn quê thời điểm 1920 quốc ngữ chưa phổ biến, có lẽ Kim Cổ Kỳ Quan được viết bằng chữ nôm. Trong bài "Mạn đàm với hai Giáo Sư Nguyễn Văn Sâm và Nguyễn Ngọc Bích" của Viễn Đông online có đoạn:
Nhờ để tâm nghiên cứu, năm 1971, Giáo sư Sâm đã tìm được bộ “Kim Cổ Kỳ Quan” bằng chữ Nôm ở trên xà nhà của một tín đồ Hòa Hảo tại Long Xuyên và một bản chữ Nôm khác là tuồng cổ Lộ Địch mà một gia đình ở Việt Nam coi là của gia bảo, đã đem sang Hoa Kỳ. Ngoài ra, Giáo sư Sâm còn tìm được một bản văn chữ Nôm của Thượng tọa Thích Quảng Đức trước năm 1963.
"http://www.viendongdaily.com/Contents.aspx?contentid=6168&item=0

Đọc Kim Cổ Kỳ Quan, ta thấy tác giả cho biết ông viết chữ nôm:

Đặt nôm na lộn lạo sử kinh
Dám khuyên thượng trí chớ khinh quê mùa.

(Kim cổ, 2407-08)
Nôm na chữ nghĩa lam nham
Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng.
(Giác mê, 299-300)

Nôm na chữ nghĩa lam nham
620. Dầu người chê dại cũng cam thửa lòng
(Cáo thi, 620-21)

Lúc ông viết Kim Cổ Kỳ Quan chỉ là bản thảo chữ nôm , không phải là sách in như Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, nhưng may mà sau này người ta đã in ra quốc ngữ mặc dầu bản nôm và quốc ngữ có bản đã bị mối mọt gặm nhắm:
Đừng chê tôi nói cằn nhằn
Nôm na lộn xạo sao bằng sách in
(Tiền Giang, 219- 50; 2063-64)

Nay thì hai nhóm Phật giáo Hòa Hảo ở Cali trình làng bản điện tử năm 2009
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_289_ArticleID_4100_.aspx
nhóm này cũng audio gồm 9 băng.
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_260_MenuID_260_.aspx

còn nhóm Texas thì giới thiệu các audio gồm 19 băng Kim Cổ Kỳ Quan phát hành 2005. http://www.phatgiaohoahaotexas.org/kim_co_ky_quan.htm

19 băng của nhóm Texas được phân bố như sau:

(1). Tựa: băng 1A
(2). Kim Cổ : băng 1A đến 4B
(3).Giác mê: băng 5A
(4). Thừa nhàn: băng 6A-10B
Như vậy là các nhóm đều chưa có đủ bộ Kim Cổ Kỳ Quan.

Nhóm Cali nay mới trình bày được 9 băng ( từ 1A đến băng 5A) . Như vậy 19 băng của nhóm Texas là khá đầy đủ. Cả hai nội dung giống nhau, do các ông Lê Văn Ngợi , Nguyễn Phúc Tâm, các cô Phạm Thị Ngọc Hà , Lương Thị Khởi ngâm.

Tác phẩm Kim Cổ Kỳ Quan hoàn thành gần một trăm năm, và đã ấn hành bằng quốc ngữ trong khoảng 1945 . Đó là phỏng đoán chứ chúng tôi không thấy ấn bản đầu tiên.
Ngày nay, bản điện tử của Hòa Hảo California cho biết có 9 bổn, nhưng thiếu hai bổn cuối là Tiền giang và Kiểng Tiên. Hai bổn Kim Cổ và Bốn tuồng giống nhau trong khi audio cho thấy Kim Cổ là một bản khác. Bản Cáo Thị, Thừa Nhàn của Hòa Hảo thiếu nhiều. Nói chung bản Hòa Hảo Mỹ Quốc thiếu nhiều.

Nay thì nhân duyên đầy đủ, chúng tôi so sánh, kiiểm điểm các đoạn, các câu trong các tài liệu để giới thiệu toàn bộ Kim Cổ Kỳ Quan để đồng bào trong và ngoài nước thưởng ngoạn một áng văn chương của Văn học Việt Nam, của Miền Nam, của Phật giáo Bủu Sơn Kỳ Hương ở đầu thế kỷ XX. Ngoài ra những ai có tâm đạo sẽ thấy sự nhiệm mầu của Phật pháp khiến cho một người tầm thường như ông Ba Thái nhờ công phu tu tập mà ông nghe được lời Phật dạy rồi ghi chép lại mà truyền hậu thế:
Phật dạy tôi trước tỏ bày,
Bút thần ký tự để rày hậu lai.
(Kim Cổ Kỳ Quan, 634)


3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ NỀN TẢNG SÁNG TẠO CỦA TÁC GIẢ


(1).Đường lối tu tập của đức Phật Thầy
Đức Phật Thầy tên là Đoàn Minh Huyên ((14 tháng 11 năm 1807 - 10 tháng 9 năm 1856), là tổ sáng lập Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương tại miền Nam; ngài còn có công khai phá miền Nam,. Ngài là một cư sĩ Phật giáo , đạo hiệu Giác Linh, quê ở Tòng Sơn, Cái Tàu thượng, tổng An Thạnh thượng, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Năm kỷ dậu 1849, tại An Giang, gặp lúc mất mùa và đại dịch, Ngài hết lòng chữa trị cho dân chúng. Dân chúng quy tụ quanh ngài, nên ngài bèn dạy dân tu Phật. Phái Bửu Sơn Kỳ Hương ra đời lúc này. Triều đình nghi ngài phản loạn nên bắt giam và sau đó thấy Ngài là bậc chân tu nên bắt Ngài phải quy y tại chủa Tân An (Châu Đốc)
Tác giả cũng như nhân dân gọi Thầy Tây An là Phật Thầy Cuối tựa, ông ghi:
Từ Kỷ dậu niên Phật Thầy truyền chí vu kim"

Ông Trần Văn Thành và Trần Văn Nhu là đệ tử đích truyền của Phật Thầy Tây An. Ông Ba theo học đạo với ông Trần Văn Nhu.
Trong Kim Cổ Kỳ Quan, tác giả gọi Trần Văn Thành là Sư ông":
Tỏ căn nguyên tam giáo sư ông"
(Tựa, câu 55)
Ông cũng gọi Quản cơ Thành là Phật thầy:
Phật Thầy Trần Nguyên dạy yên lê thứ
(Cáo thị, 694)


Đường lối tu tập của ông Nguyễn Văn Thới cũng như Sư Vải Bán Khoai đều là công việc tu tập của Phật giáo. Những tư tưởng của ông, những thành tựu của ông Nguyễn Văn Thời là do đường lối tu tập của đức Phật Thầy truyền dạy. Trong Kim Cổ Kỳ Quan, tác giả nhiều lần gọi đức Phật Thầy là Thầy:
Đêm nằm trằn trọc nhớ thầy,
Từ năm kỷ dậu châu mày đến nay.
(Vân Tiên, 562-563)


Gian nan Kỷ-dậu lại rày
Nhị ban nhẫn nhục lầm Thầy thương ôi!
(Thừa nhàn, 235-36)

(2).Thiền định đưa đến trí tuệ


Nhờ công phu thiền định, bậc tu hành mới đạt được định và tuệ. Có thiền định một số người đã hiểu được thiên cơ, đã nhập cảnh giới tiên Phật:
Máy thiên cơ trần thế bất tri
(Kim Cổ Kỳ Quan , câu 119)

Tu nhất kiếp ngộ nhất thời
Tìn lòng niệm Phật một đời gặp Tiên"
(Kim Cổ Kỳ Quan , c.261-262)

Chính trong thiền định, tác giả đã thấy nhiều sự kiện tương lai:
Biết làm sao tỏ hết việc đời,
Thấy đâu nói đó để lời coi chơi.
(Kim Cồ Kỳ Quan , câu 210)

Thấy trong Lục tỉnh nam kỳ
Chùa thiền rực rỡ cũng bì cù lao
Nhà thờ phố ngói thấp cao
Nam thanh nữ tú ra vào coi xinh.
(Vân Tiên , 657- 660)

(3). Ông là bậc khải thánh

Chính tác giả đã chứng ngộ, đã được nghe Phật khuyên dạy và ghi thành sách truyền hậu thế về thiên cơ. Tác giả là người được đức Phật giao cho sứ mạng truyền bá Phật pháp và cảnh tỉnh nhân loại:
Phật dạy tôi trước tỏ bày,
Bút thần ký tự để rày hậu lai.
(Kim Cổ Kỳ Quan , câu 634)

Tác giả nói nhiều lần rằng ông chỉ là người ngu dốt, tầm thường, được Phật cho phép ghi lại lời Phật dạy trong lúc hành thiền:
Phật cho nói việc cạn lời
Tôi nào có biết việc đời làm sao

(Thừa nhàn, 2301)

Ông có sứ mạng loan báo tai họa xảy đến để loài người thức tỉnh, đừng tham tiền bạc, danh lợi, đừng làm điều gian ác:
Phật cho kim bút đề câu
Giáo người thiện nghiệp đâu đâu hãn tường

(Thừa nhàn, 2595-96)

Thiệt tôi không giỏi người ôi
Phật Trời ngồi ẩn cao ngôi trao lời
Thiệt giỏi ông Phật bà Trời
Hạ sanh dân chúng nghe lời thời nên.
(Thừa Nhàn,3167-3170)


Thương chúng sinh Phật mới tỏ bày,
Chẳng nghe lời Phật hội này rã thây.
(KCKQ 249)

Phật thương dân mới tỏ bày,
Giác mê cho kẻ ở đời trường sanh .
KCKQ, 165)

Trong thiền định, ông còn được Quan Âm Bồ Tát chỉ dạy như loan báo việc Bửu Sơn Kỳ Hương đời thứ năm xuất hiện:

Khuyên trong bá tánh chư gia
Phật đà chỉ sử cho ta một lời
Thứ năm đến thứ ra đời
Phật Bà dạy bảo như lời ngày xưa
(Vân Tiên, 343-344)

Việc này, ông cũng nhắc lại trong Thừa nhàn:
Thứ nhứt tồn dĩ cơ thâm
Thứ ba giáo thế thứ năm ra đời
Thứ sáu hòa hiệp nước trời
Khuyên người giữ dạ nghe lời thảo ngay
(Thừa nhàn, c.2471-2474)

(4). Tác giả ghi lại lời Thầy:
Kim Cổ Kỳ Quan một phần là do đức Phật Thầy , Trần Văn Thành và Trần Văn Nhu truyền dạy, còn ông thì ghi chép lại:
Chẳng nhớ khi thầy dạy muôn lời
Lời nào không có khi trời cũng không.
(Kim Cổ Kỳ Quan, c. 5)

Nỗi buồn riêng xuất ý tỏ bày,
Bút sa để giấu nhờ lời thầy ghi.
(Kim Cổ Kỳ Quan, c.89-90)

Lời thầy ghi trước không e..
(Vân Tiên, 689)

Thầy xưa dạy bảo rõ ràng
Bắc phương gặp chuột ra đàng thời sang
(Vân Tiên, 454)
Thầy xưa lời để minh minh
Đố ai có biết giấy hình về đâu.
(Vân Tiên, 493- 494)

Tác giả đã ghi lại lời Thầy nói về loạn lạc, tai họa lớn lao xảy ra về sau :
Khói tàn phất gió bay tro
Làm người trí dõng phải lo hội nầy
Mất bảy còn sáu để bày

Nói theo đường cũ dấu Thầy di ngôn
(Thừa nhàn, 2379-2382)

Lời này giống như sấm truyền:
"Mười phần chết bảy còn ba,
Chết hai còn một mới ra thái bình".

Tác giả đã thuật lại việc này như đoạn nói về tương lai Việt Nam, Lào và Kampuchia:
Có sông dọc lên khỏi Nam Vang .
Lên đèo xuống dốc nhà sang giẫy đầy
Từ Lèo Hạ sấp xuống dưới nầy
Kiểng vui Nam-Quốc lời thầy di ngôn.
KCKQ, 1990-1994)

hoặc việc sau này Châu Đốc nói chung và Tây An nói riêng:

Phật lập Hưng Thới thôn trung
Từ năm kỷ dậu lập chung với làng
Thầy xưa dạy bảo tỏ tàng
Tây an viễn đại gần đàng đế cung
(Vân Tiên, 61-64)

Không những ông ghi lời thầy dạy khi thầy còn sanh tiền, mà thầy còn về dạy ông sau khi thầy về cõi Phật:
Ông trở về dạy việc trước sau
Làm đủ chín bổn tóm thâu mối đời.
(TG.tr.292, cột53, câu2148-49)

Ông cũng nói đến việc đức Phật Thầy tái sanh, và đó là lúc giáo thế thứ năm ra đời, nước ta thịnh trị:
Thầy đà phưởng phất nương mây
Biết sao cho đặng tôi nay theo Thầy
Chừng nào tôi mãn căn đày
Vái thầy trở lại độ rày chúng sanh
Lập thân hành đạo dương danh.
(Vân Tiên, 565-569)


Dặn dùng bổn đạo mọi nơi,
Thầy còn ở núi tới thời mới ra.
(Giác mê, 446- 447)
Ông trở về dạy việc trước sau
Làm đủ chín bổn tóm thâu mối đời
(Kiểng Tiên, tr.295; cột 53; câu 1149)

Lục tỉnh hiền Phật tổ quy lai.
(TG, 260, 132)

Ông Ba không phải là người hoang tưởng, hoặc cố ý tuyên truyền vì những điều ông viết đã đúng sự thật. Điều này cũng không lạ vì trong thế giới một số người có tài lạ, có khả năng tiên tri. Hơn nữa theo thuyết Yoga Ấn Độ, khi tu tập Yoga hay thiền định có thể khai mở các luân xa và từ đó, con người phát triển các khả năng siêu việt.

(5)-Luật nhân quả: ở hiền gặp lành, ở các gặp ác.

Đạo Phật, đạo Nho đều nói thuyết nhân quả. Ông Ba tinh thông Nho học và Phật học. Ông cũng như các đạo sư Bửu Sơn Kỳ Hương đều tổng hợp được tinh hoa tam giáo:

Tích thiện phùng thiện để dành,
Tùng ác nhi khứ nan hành cung ly.
(TG, 198,8; 307- 308)

Thiện ác đáo đầu có khi,
Tất chung hữu báo thanh ghi nan kỳ.
(TG 233; 77; 3185-86)

Chữ rằng "Thiên võng khôi khôi,
Sơ như bất lậu" thương ôi Phật Trời.
(TG 233, 78; 3253-54)

Tận thế đa khổ người ôi,
Lòng trong dạ đợi bạc vôi để dành.
Không có một việc làm lành,
Trông đời mau tới tan tành cái thân'
(TG, 200, 12; 485-88)

Từ thời còn sống, ông Ba đã thấy người Việt Nam mang nhiều tội và phải bị quả báo.
+ Bỏ đạo cha ông theo tà đạo:
Chẳng thương giữ Bửu Sơn Kỳ
Chữ Hương ngó thấy vị vi chữ vì"
(TG, tr. 195, cột 1; 19-20)


+Người dân không hiểu đạo, chạy theo tiền tài, danh vọng,
Niệm Phật it kẻ phân bì,
Phân bì tiền bạc tưởng gì tớ tôi
(TG tr. 196, cột 3, câu 103-04 )


+Ngay cả hạng tu hành Phật giáo và các tôn giáo khác cũng vậy:
Bữa niệm, bữa chẳng nam mô,
Bạc tiền có lợi, nam mô lợi gì!
(TG 196,3; 98-99)


Tôi nói anh em hờn nhiều,
Đời nay tu bạc, tu tiền biết chi".
(TG, 216; 44, 1827-1828)


Là một Phật tử, ông vẫn theo truyền thống tâm linh dân tộc, tin có Phật trời và thần thánh.
Trời, Phật, Thần, Thánh luôn luôn hiện hữu, cầm cân công lý, kẻ ác sẽ bị trừng phạt, còn người hiền sẽ được cứu vớt:

Gắng công mà ở với đời
Giàu nghèo thời để Phật trời định phân
Chớ đừng bạc nghĩa phi ân
Phật trời nay đã cầm cân công bình.
(Vân Tiên, 411-414)

Mãn trào Đại – Thánh ngài ra
Ngài tra việc Phật việc ma trong Trời
Phật ngài giải độ cứu người

Nước trà nước trắng giải mà tiêu ma
Phật giải tiêu bịnh tà ma

Huờn sanh cải tử người ta thiệt hồn
Phật giải bá bịnh bất tồn

Hườn thân giỏi mạnh giữ hồn cho dân
Chớ đừng đắc thế ỷ thân

Ngày sau đọa lại Phật phân rõ ràng.
(Thừa nhàn, 3691-3700)

(6).-Lẽ vô thường của vũ trụ và cuộc đời.

Phật giáo đã nhấn mạnh luật vô thường như Phật giáo , Nho, Lão cũng đã nói nhiều đến thịnh suy, bỉ thái, tang điền thương hải. Các đạo sư Cao Đài, Hòa Hảo đã nói nhiều về cuộc biến chuyển này. Nay thế giới đang buổi hạ nguyện mà Phật gọi là Mạt pháp thời đại. Thời này thế giới suy vong, nhân loại gặp nhiều tai kiếp. Sau thời hạ nguyên, thế giới chuyển qua thượng nguyên., là thời kỳ vũ trụ và muôn loài trở nên tốt đẹp, hòa bình và thịnh vượng.Thương nguyện , trung nguyên rối đến hạ nguyên, cứ như thế mà chuyển vận.
Hết thạnh rồi lại tới suy
Hết suy tới thạnh xiết chi nổi phiền
Hết dữ rồi lại tới hiền

Hết hiền tới dử tại tiên quả căn
Hết khuyết tròn lại là trăng

Hết tròn khuyết lại là căn đời nầy.
(Thừa nhàn, 3783-3788)

(7). Thiên định:
TRời Phật, Thánh Thần luôn hiện hữu, vẫn theo dõi hành vi của mọi người. Tác giả cho rằng Trời Phật quyết định mọi sự xảy ra trên thế gian:

Căn duyên Phật định vô cùng nghiệm suy.
(Thừa nhàn, 3250)

Hạ-ngươn đáo thủ Phật hành
Người lành hành trước chẳng lành hành sau
Hành còn hành mất biết đâu

Thiên cơ Phật định xét sâu thì tường.
(Thừa nhàn 1649-52)

Phật Trời, Thánh Thần cũng căn cứ vào hành động của con người. Tiền định vẫn để cho con người quyền tự do lựa chọn, hoặc làm lành, hoặc làm ác; làm ác sẽ gặp ác, ở hiền gặp lành. Muốn tương lai hạnh phúc, ta phải tu tập, phải biết kính Phật, sống theo đạo lành:

Cuộc đời trời khiến cơ thâm
Niệm sao nhứt tánh nhứt tâm trọn niềm
Hữu công trời Phật lại tìm
Nam mô nhớ Phật trọn niềm thủy chung.
Vẹn toàn hai chữ hiếu trung
10. Chữ tà chữ nịnh chữ hung làm gì.
(Vân Tiên, 5-10)
Phật ra ân xá cho đời
Tội ma ma xử tội Trời Trời phân
Phật cho loạn động quan dân

Xác phàm khá giữ cho thân tích tồn
Phật xử tiêu xác tiêu hồn

Giữ sao cho đặng tích tồn Đồng nai.
(Thừa nhàn, 2929-34)

Những người tu hành chân chính , những người ăn ở nhân đức sẽ thoát tai nạn:
Người nào lòng tưởng Tây phương
Có khi gặp phước khỏi vương lưới mành
Phật Trời minh chánh chẳng đành

Vong cha phản mẹ chẳng lành thọ ương.
(Thừa nhàn, 2955-58)


Nên hư Phật khiến vận thời
2970. Lòng người dời đổi đổi dời sao xong.
(Thừa nhàn , 2969-70)

(8). Thái độ của tác giả:

Ông là một nông dân nhưng là một nông dân có học, có kiến thức việc đời và kiến thức Thich Lão. Là Nho gia, ông biết thời loạn nên ẩn dật, nên làm người ngu:
Quốc loạn miệng chớ hở mai (môi)
Nhuyễn nhừ mối nước mặc ai tranh tài
Giấu gương hậu kiến soi ngoài
Phải dùng ẩn sỉ ẩn tài giả ngu.
(Thừa nhàn, 2911-14)

Ông cũng như các bậc tiền bối Bửu Sơn Kỳ Hương thường giả điên trong khi hành đạo. Chính ông tự xưng là khùng điên:
Tôi đặt mấy bổn không hay
Nôm na mấy lớp nói nay tật khùng
(Thừa nhàn, 4449-50)

Chính ông nói ông giả dạng khùng điên để che mắt thế, để thử đời:
Tới đây thay dạng đổi hình,
Dầu khôn giả dại thử tình quý nhơn.
(TG, tr.195- cột 1; câu 23-24)
Phật trời thì ở cao ngôi
Cõi trung tôi ở biết tôi tầm khùng.
(Tiền Giang, 211- 34; 1405-06)


Ngay lúc sinh thời, ông biết một số kính phục ông, nhưng một số chê bai, bảo ông điên khùng, không ai tin tưởng ông:
Nghe biết ông Thới tầm thường,
Khùng nói tầm bậy ai dùng nói nghe.
(TG 218, 48; 1979-80)

Chê tôi nói trước nói khùng
Cho nên dạ đó bất tùng di ngôn.
{Thừa nhàn, 3963-64)

Tiếng đồn lục tỉnh tôi khùng
Trượng phu chí cả thương cùng ngu si
(NGồi buồn, 693-94)

Thua buồn nói chuyện minh mông,
Tầm khùng làm biếng ở không nói hoài.
(Tiền Giang, 223-58; 401-402)


Thời ông, Pháp sang cai trị, một số theo Pháp giết người Việt, tố cáo người Việt, một số lo việc làm giàu, có người theo đạo mới, theo Tây phỉ báng đạo Phật. Có lẽ vợ con ông cũng buồn phiền vì ông chỉ lo việc tu mà không lo kiếm tiền.

Thấy lòng con vợ sầu đâu
Sầu nầy nghèo khổ chẳng âu đạo mầu
Nói ra vùi hốt chẳng cầu
Phủ ngang phủ dọc nhức đầu điếc tai.
(Thừa nhàn, 4461-64)
Thảm phiền một nỗi vợ con
Coi tôi như rác héo hon tấm lòng
Thấy đời ngao ngán bao đồng
Ai sao tôi biết trong lòng hết trơn.
(Thừa nhàn, 3993-3396)

Tuy vậy, tác giả không buồn phiền. Tác giả coi thường miệng thế khen chê, ông cương quyết theo chánh đạo:
Thấy đời đen bạc than ôi!
Mặc ai thương vạy ghét tôi không màng
(Thừa nhàn, 2323)
Như lươn chẳng luận thẹn lời,
Tôi như cá cạn lỡ vời trong ao.
. . . .. ... .... .....
Sợ trời Phật ghét lòng tôi,
Hạ trần người ghét thiệt tôi không sờn.
(TG,196,cột 3, câu111-29)

Ông không sợ đời khen chê vì ông đã thấy Phật, nghe Phật, những lời ông nói không phải là tưởng tưọng hoặc tâm bệnh mà là chân lý, là nguồn tâm linh Phật giáo chiếu rọi vào ông:
Tầm khùng nói thiệt có căn,
Lửa mau bén củi nóng ăn đổ dầu.
(TG 223, 58; 2401- 2414)

Mặc ai theo thuở theo thời,
Tôi nay theo Phật theo Trời cãi đây.
(TG 197, 6,c. 239-240)

Vì mến đạo, thương đời, ông phải viết các sách này để giáo huấn và cảnh tỉnh. Trong thiền định, ông đã thấy cơ nguy cho nên ông có nhiệm vụ thông báo cho thế giới, cho đồng bào. Ông Ba đã nói lên nỗi khổ tâm và lòng can đảm của ông:
Bầu linh dược Phật rưới bịnh điên.
Cõi trần giả dại giáo khuyên qua ngày
.. ... .... . . . . . . . . .
Người ở đời nhiều kẻ dễ khi.
Mặc tình thế sự làm chi thì làm.
Thân tôi nay như kẻ bán vàm.
Mỏi tay đậu nghĩ dễ làm khó ăn.
(Kim Cổ Kỳ Quan , câu.87-94)

Có lẽ ông cũng mang chút buồn của Khuất Nguyên thấy mọi người say hoặc điên riêng ông tỉnh:
4455. Người khôn chê đứa tầm khùng
Tầm khùng chê kẻ anh hùng khùng điên
Đêm nằm trăn trở chẳng yên
Tức cười đứa dại chê Điên chẳng dò.
(Thừa nhàn, 4455-4458)

Ông có chí hướng cao cả vì ông yêu nước, sùng bái Phật và nhất là vì ông đã thấy Phật, nghe Phật dạy. Ông lại được Thầy giáo huấn, ông lại chứng ngộ thiền định, được Phật và thầy giao cho sứ mạng cao cả là thông báo về những đổi thay và tai họa để loài người thức tỉnh mà theo con đường thiện:
Phật dạy tôi thời xét soi
Có không bá đạo không coi thì tường
Bảo tôi ra dấu chỉ đường
Việc đời khó dễ sau tường kiết hung.
(Tiền giang, tr.206-24; câu 997-1000)
Vì lý tưởng cao cả, vì sứ mệnh trọng đại, suốt mấy năm bệnh hoạn, nghèo khổ, một nông dân nơi hoang vu biên giới đã viết hơn 20 ngàn câu thơ để cảnh tỉnh người đời. Tâm của ông là tâm bồ tát vậy.

4. TƯ TƯỞNG TRONG KIM CỔ KỲ QUAN

(1). ĐƯỜNG LỐI NHẬP THẾ CỦA ĐỨC PHẬT THẦY

Điểm quan trọng trong tác phẩm của Kim Cổ Kỳ Quan là truyền bá tư tưởng của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, tức tư tưởng của đức Phật Thầy Tây An,



Đường lối của Phật Thầy Tậy An là tu tâm.
Các nhà nghiên cứu Phật giáo cho rằng đạo Phật trải qua ba giai đoạn:
+Chánh pháp: Thời Phật Thích Ca tại thế
+Tượng pháp: Thời mà các Phật tử chú trọng thờ tranh, tượng Phật
+Mạt pháp.:Thời đạo Phật suy đồi.

Ông Ba nêu lên cốt lõi của đạo Phật là "tu tâm", loại bỏ âm thanh săc tướng:
Việc âm thinh sắc tướng bất dùng
Đạo tại tâm tâm đạo xuất tùng.
(Tựa, 60-61)

Chùa linh chẳng kỳ tượng tranh
Có lòng Phật hiện rồng đoanh không chừng.
(Vân Tiên, câu 321-322)

Ông Ba Thới chỉ trích người Trung Hoa đã truyền bá việc thờ tranh tượng:
Tội Tàu man ước chất như thành,
Bán hình bán tượng tranh hành nước Nam.

. ............ ............ .................

Phật tức tâm, tâm tức Phật ấy là tà chánh tại tình
Lẻ nào dám họa hình tượng cốt.
Đến ngày nay nhà Tàu chê Nam Kỳ rằng dốt,
Tàu rất thiệt khôn lanh !
Phật sanh nhơn hà nhơn sanh Phật.
Bởi vậy nhà nam trào mắc đọa,
bị nhà Tàu dấy họa bất minh,
bị nhà Tàu đa kinh loạn chí đa sử loạn ngôn,
người vùng chôn nước Nam-Việt người chê rằng dốt nát.
Người lại tống kinh, thơ tượng ảnh qua bán cho nước Nam-Việt an tâm tùng lý
(Bốn tuồng, đoạn 65)


Ông chủ trương tu tại tâm mà nội dung là tu trì đạo đức.Ông chỉ trích một số giả dạng tu hành:

Tu cần kiệm gia đường phú túc
Tu ghét ghen tu chuốc gông cùm
Tu hiếu nghĩa bao trùm Tiên Thánh
Tu làm vậy Phật trời lưỡng tánh
Tu quỉ ma tránh chẳng khỏi tai
Tu thi ân mới đặng lâu dài
Tu phước đức mới là phương tiện
Tu nhẫn nhẫn khuyên đừng thưa kiện
Tu hưu hưu vạn sự thôi thôi
Tu trongtâm đừng ở ngoài môi
Tu nhân nghĩa lễ nghi trí tín
(Tựa, câu 91-101)

Đặc điểm của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương là trọng tứ ân, kết hợp đạo với đời, dung hòa xuất thế và nhập thế. Đường lối tu của Bửu Hương Kỳ Sơn là kết hợp Phật Nho :

Loài cầm thú còn hay biết ổ
Huống chi người nỡ bỏ tứ ân.
(Giác mê, 105-06)

Tu là tu tâm, không phải nhất thiết là vào chùa mới là tu. Ông chỉ trích lối tu hình thức:
Đừng chê tu mặn khen chay
Thượng thanh hạ trược dở hay tại lòng
Tu sao không vợ không chồng
Không con không cháu tuyệt dòng quốc gia
Tu tà tu quỉ tu ma
Lòng nào tu chánh Diêm la tương phò.
(Ngồi buồn ,117- 122)

Đây chính là đường lối tu hành của cư sĩ Phật giáo, của Phật giáo thuở nguyên thủy và của truyền thống Việt Nam tam giáo đồng nguyên.

Hiếu trung gánh nặng hai đàng
Lỡ bề báo hiếu lỡ tràng lập thân
Cơ hàn thất hiếu lỗi ân
Nguyện cùng tiên tổ lập thân minh tường,
Tử tôn kế hậu gia thường
Nhơn từ đức hạnh lập tường quốc gia
(Thừa nhàn, 1325-1330)

Tu quốc-vương có vợ có chồng,
Có con có cháu nối dòng an bang.
(KCKQ, câu 205-206 câu 2445-2446)

-Hữu công trời Phật lại tìm
Nam mô nhớ Phật trọn niềm thủy chung
Vẹn toàn hai chữ hiếu trung
Chữ tà chữ nịnh chữ hung làm gì.
(Ngồi buồn,7- 10)

-Gái trai giữ vẹn đạo hằng
Vàng thoi bạc nén chẳng bằng nghĩa nhân.
(Ngồi buồn, 131-32)

Trai ngay thờ chúa gái trinh thờ chồng
Thế suy cầu Phật hội đồng
Trung cang nghĩa khí giữ lòng tự nhiên
Chữ rằng hiếu chí ưu thiên
Hiếu chung thân hiếu thị nhiên nên người.
(Ngồi buồn, 700-704)

Tư tưởng của ông là tư tưởng của nhân dân Việt Nam, một tư tưởng nhập thế, đem đạo Phật vào đời sống thực:
Tu đâu bằng tu tại gia,
Thờ cha, kính mẹ ấy là chân tu!

Lên chùa thấy Phật muốn tu,
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.

Ông chú trọng vai trò của cư sĩ và đó chính là đường lối của đức Phật Thầy Tây An.
Ông cũng như dân Việt Nam chỉ trích những việc tu hình thức mà đức Phật đã bãi bỏ như việc tu khổ hạnh, việc ăn chay.

Niệm Phật không cần ăn chay
Niệm Phật thì giữ lòng ngay phận mình
(VAN TIEN, PHẦN I, câu 299-300)

Tu sao mà dụng ăn chay
Thượng thanh hạ trược gốc cây hôi rình
Chay là chánh trực tâm tình
Vật nào thuộc thổ bất bình thượng thanh
Làm sao rạng tiết thơm danh
Thượng đường chói chói quản thanh phước lành
(Thừa nhàn, 1643-48)

Kỷ dậu Thầy ra độ đời
Xét xem cho biết những lời gian ngay
Niệm Phật không cần ăn chay
Niệm Phật thì giữ lòng ngay phận mình
Bây giờ năn nỉ ai binh
Lá lay cũng bởi tại mình thuở xưa.
(Vân Tiên, 297-302)


(2). CHỐNG THỰC DÂN XÂM LƯỢC

Cũng như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị, tác giả sống vào thời Pháp xâm lăng Việt Nam, chiếm đất Nam Kỳ cho nên các đệ tử của Phật Thầy như Nguyễn Trung Trực, Trần Văn Thành đã đứng lên chống Pháp. Ông Ba Thới đã tôn ông Trần Văn Nhu con Trần Văn Thành làm thầy, tức là đã đứng vào hàng ngũ nhân dân yêu nước chống thực dân xâm lược. Ông không theo Pháp:
Dụng tây tà bĩ Thới chẳng theo.
(Cáo thị, 1988)

...Ít có kẻ xét đời
Nhưng ham lời trước mắt
Khéo khéo đua chen trào Tây tặc
Đừng đừng sanh giặc đấu tranh.
(Tựa)

Ông thấy nhiều kẻ gian ác theo Pháp giết hại đồng bào mà chính ông là nạn nhân:

Ăn cơm phải múa việc chúa cho dàng
Bạo phát bạo tàn ngày mủi nhiếm chúm chím lắc đầu
Ba hồi mõ hầu lầu không có
Miệng thời la ó, bắt nó nạp Tây vấn tội
Nhiều lòng phản bội lập hội lương điền
Kết sửa bạc tiền cảm phiền làng tổng.
(Tựa)

Xã hội Việt Nam thời Pháp vô đạo đức
Trào tây nhiều kẻ phi ân
Người Nam sao chẳng xét thân mà nhờ
(Vân Tiên, phần 2, câu 403-404)

Ông ca tụng quản cơ Trần Văn Thành chống Pháp:
Quản cơ anh hùng phục tùng quan quan lớn nào hay
Lòng chẳng đầu Tây giữ ngay một dạ.
(Cáo thị 990-91)

Tuy ghét Pháp, sau một thời gian thiền định và đắc phép màu, ông nhìn thấy người Pháp khá tốt so với Cộng sản. Việt Cộng tà vạy, gian ác hơn Pháp nhiều:

Nam Việt (4) chê Tây thương thay mình vạy
Việc làm tồi bại mình hại lấy mình.
(Cáo thị, 190-91)

Người Nam quốc gia và cộng sản đều ghét thực dân Pháp nhưng sau vài năm ở với cộng sản, người ta thấy Pháp tốt hơn nhiều vì thời Pháp dân ta tương đối sung túc. Sau khi Pháp về nước thì dân ta khổn khổ vì cộng sản chiếm nông thôn, và sau 1975 ở với cộng sản thì ăn bo bo và lao tù. Cộng sản tự xưng là trí tuệ và anh hùng, coi khinh Pháp Mỹ, miệt thị tôn giáo là thuốc phiện mà họ không biết rằng về khoa học, Nga Tàu đều thua Âu Mỹ. Vì kiêu căng, họ không chịu học hỏi, họ không biết rằng Âu Mỹ rất tài giỏi vì trong cõi ta- bà ai cũng có Phật tính:

Một năm súng nổ điếc tai
Hai năm điêu hảo chẳng ai tranh tài
Tây về đói khát nằm dài
Đừng lo mắng lén chưởi xài (hoài) người Tây
Chừng nào tới đó thì hay
Bây giờ chưởi lén người Tây hoài hoài
Chẳng lo học phép học tài
Để lo nói lén mắng xài (hoài) người Tây.
Đều chê phép Phật không hay
Tây hầu cận Phật người Tây cũng tài
(Thừa nhàn, câu 2935-44)

Nhân dân ta một số nghe theo cộng sản mà chống Tây phương, cho tư bản Âu Mỹ là bóc lột, là thực dân, đế quốc. Ông Ba trong thiền định đã giác ngộ một sự thật là tư bản tương đối tốt hơn cộng sản ma quỷ, ông khuyên dân ta phải phân biệt chánh tà đừng chống Âu Mỹ một cách cực đoan:

Phải tri việc chánh việc tà
Đừng theo ma quỉ bất hoà Tây-phương
(Thừa nhàn, 1600)



Ông Nguyễn Văn Thới đã vì nhân loại, dân tộc và đạo Pháp mà ghi thành Kim Cổ Kỳ Quan, tiếp theo ông nhiều người đã ghi chép, và truyền bá tác phẩm của ông để thắp sáng những ngọn đuốc trong đêm băng giá và tối tăm.

Ottawa ngày 10-5-2011
NGUYỄN THIÊN THỤ




____

* Hình ảnh trên lấy từ tài liệu của Diễn đàn Điện Bà Tây Ninh
http://dienbatnblog.blogspot.com/2011/04/nhung-ong-ao-va-su-hinh-thanh-ao-moi-o_06.html
trong bài giới thiệu đức Phật Thầy và ông Ba Thới.




KIM CỔ KỲ QUAN * PHỤ LỤC


Để quý độc giả có đủ tài liệu nghiên cứu, chúng tôi xin phép trích lục các tài liệu của Phật giáo Hòa Hảo vào đây.
Sơn Trung


Vài Vị Đắc Đạo Trong Phái BỬU SƠN KỲ HƯƠNG

GS Nguyễn Văn Hầu.

II. ÔNG NGUYỄN VĂN THỚI (1866-1927)




A. Thế-hệ

Ông Nguyễn-văn-Thới (tục gọi là ông Ba Thới) sanh năm Bính-dần (1866), đời vua Tự-Đức thứ 19. Thân sinh của ông là ông Nguyễn-văn-Đỏ, thân mẫu là bà Nguyễn-thị-Buôn, sanh được bốn người con: hai trai hai gái. Người trưởng là Nguyễn văn Chơi thứ là Nguyễn-văn-Thới (tức ông Ba đây) rồi thứ nữa là Nguyễn-thị-Tánh và Nguyễn-thị-Kẹo.

Khi ông Ba lớn lên, thân sinh của ông cưới Bà Nguyễn-thị-Thìn cho ông làm vợ. Bà nầy là con của ông Nguyễn-văn-Hóa và bà Thị-Nhứt, người đồng thôn. Về sau ông bà Ba sanh hạ được tám người con, nhưng mất đi từ lúc nhỏ hết bốn, nên chỉ còn biết được có bốn là ông Nguyễn văn Tuấn, Nguyễn-văn-Kiệt, Nguyễn-văn-Từ và bà Nguyễn-thị-Chín.

Quê-quán ở làng Mỹ-Trà, ấp Long-Hậu, tổng Phong-Thạnh quận Cao Lãnh (SaĐec), ông Ba tướng người cao lớn nước da trắng, râu tóc nhiều mỗi khi tóc buông ra thì chấm đất có dư, khi về già râu bạc và dài xuống tới rún. Tánh tình cương quyết, nóng-nảy thích ngắm kiểng xem hoa, thường hút thuốc điếu và một đôi khi cũng có ăn trầu.
Thuở nhỏ ông có học vừa hiểu biết chữ nho, lúc trưởng thành thì làm nghề thợ mộc rồi sau lại, cũng biết làm thợ chạm.

Bởi sống trong một gia-đình cần-lao kiệm-phác cho nên ông Ba đã quen sự chịu khó-nhọc từ buổi thiếu thời. Bình sinh việc chi ông không làm thì thôi, nếu đã làm thì làm cho kỳ được, không hề bỏ dở. Mặc dầu nóng tính, ông Ba vẫn có được một bộ óc thẩm-mỹ cùng đôi bàn tay rất tinh xảo.

B. Phát đạo tâm.

Mùa đông năm Binh-Ngọ (1906), ông Ba bỗng nhiên phát đạo tâm, ông từ-giã gia-đình rồi thẳng lên vùng núi Sam, vô trại ruộng Thới-Sơn (cạnh Thất-Sơn) để tầm sư học đạo (a). Đâu đâu ông cũng nghe người đời ca tụng đạo-đức cao-siêu của ông Hai Trần-văn-Nhu. Ông bèn trở xuống Láng-linh để tìm cho tận mặt, và sau khi biết rõ được giáo lý, ông xin quy-y với ông Hai.

Trở về nhà ăn Tết xong, mùa xuân năm Đinh-Mùi (1907), ông Ba dời cả gia-đình về Láng cất nhà gần chùa Bửu-Hương Tự. Ở đây, ông siêng-năng trau-giồi hạnh đạo, chất-phác làm ăn, được ông Hai coi là đại đệ-tử.

Một ngày nọ, ông Ba phát ra ngây ngây, ông bảo bà Ba dọn-dẹp cho ông một căn phòng sạch-sẽ, rồi ở luôn trong đó. Ngót ba năm dài đăng-đẳng, ông Ba không đi đâu hết. Thậm chí sự tắm rửa hay đại tiểu tiện, ông để đêm đến mới đi ra. Chính trong khoảng nầy, ông cũng viết được ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-Từ, Cổ Vãng Kim Lai, mà ngày nay nhiều người vẫn còn biết.

Ngày mùng một tháng giêng (Tết năm nào không nhớ), ông Ba ra khỏi buồng. Trước khi đến viếng ông Hai, ông Ba sắm một bộ khay hộp, trong có để ba trái ớt hiểm và ở trên có để ba cây roi rồi mới bưng vào trước mặt ông Hai mà quì xuống thọ tội, vì lẽ năm qua Ông không làm tròn hiếu-nghĩa đối với Thầy.
Lúc ấy ông Hai miễn tội, ông Ba cảm động lắm, ngâm lên hai câu Nam:
Nghiêng vai lãnh bức tờ mây.
Trung vương thổ giã Thầy ở lại (b)

Từ đây ông Ba rất sáng-suốt thấu được lẽ diệu-huyền của Phật pháp, ông có một bổn-phận quan-trọng đối với nhà chùa.

C. Bửu-Hương tự bị bao vây

Vì có sự tị-hiềm của Nguyễn-văn-Phẩm nên chùa Bửu-Hương Tự bị nhà cầm quyền Pháp bao vây (ngày 21 tháng 2 năm Quí-Sửu 1913). Lúc ấy tuy ông Ba thoát khỏi được, nhưng ông Hai thì phải xiêu-lạc khổ-sở còn con trưởng của ông là Nguyễn-văn-Tuấn lại bị bắt cùng một một lượt với 56 người đồng đạo đến cúng chùa.

Thấy tình đời đen bạc, vả lại đứng trước cảnh sư đệ rã-rời, phụ tử chia-ly, nên ba hôm sau (24-2-1913), vào giờ ngọ, ông Ba dùng dao cạo cắt họng để tự sát. Vết thương đứt tới phân nửa cuống họng, nhưng ông không chết. Người nhà hốt-hoảng, chiều tối lại chở lên nhà thương Châu-Đốc điều trị. Nơi đây, người ta thấy tóc ông đanh nhiều nên cắt đi cho gọn rồi băng bó thuốc men nhưng ông quyết định không dùng một món chi của người Pháp. Ông cự tuyệt và gỡ bỏ hết.
Độ vài tháng sau liệu bịnh-tình ông Ba không thể chữa được, lương-y cho đem bỏ ông ra nhà xác. Ông trốn được ra ngoài rồi nhờ người nhà chở về.

Từ ấy, vết thương của ông Ba mỗi ngày một giảm lần, mặc dầu cuống họng chưa lành (mỗi khi ăn uống đều phải dùng khăn bó rịt lại cho khỏi rớt vật ăn ra), tinh-thần ông Ba vẫn tĩnh-táo sáng suốt như thường.

Thấy chùa Bửu-Hương Tự bị Pháp nghi-nan dò xét mãi, và liệu ở đấy không yên được nên vào khoảng tháng bảy năm Giáp-Dần (1914) ông Ba dời nhà về doi Lộ-Lở (làng Kiến-An, tổng Định Hòa, Long Xuyên), giả dạng người thường, ruộng rẫy làm ăn cho qua ngày.

Hồi nầy, người ta có thấy ông Ba lên xuống nhà thờ Cù-lao-Giêng ba lần để tiếp-xúc với vị Linh-mục nơi đây, và nhờ can-thiệp với nhà cầm quyền Châu-Đốc đặng minh oan cho công việc của Thầy mình (ông Hai Nhu) và anh em đồng đạo (c) đã bị tên Phẩm vu cáo. Nhưng việc ấy nhà cầm quyền Pháp ở Châu-Đốc làm lơ.

D. Ông Ba với chuỗi ngày tàn

Tình Thầy nợ Nước, mênh-mang bao-mối cảm hoài, khiến tâm hồn ông Ba trong chuỗi ngày tàn hầu như tan nát. Ông ký thác lòng mình vào những quyển : Ngồi Buồn, Kiểng Tiên, Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị, Tứ-Đại và Thừa Nhàn, mà ngày nay, mỗi khi đọc qua, ta cảm thấy ngập-tràn bao nổi bi-thương ưu-ái.

Dưới đây là một ít lời lẽ về tâm trạng của ông Ba hồi ấy :

Đêm năm canh thổn-thức chẳng yên,
Ngày sáu khắc sầu riêng mỗi đạo.
Tưởng ái quốc cơ-đồ sáng tạo,
Nhìn lẽ dân cường-bạo đa đoan.
Chúa mỏi lòng chúa nghỉ thân an,
Tôi mệt dạ còn mang nạn cả.
Thời quân nhược quả kia báo quả,
Thế thần cường giày-giã trung cang.

Hay là :

Bước chân ra đoái lại nước nhà,
Chim xanh vỡ ổ rừng già thiết tha !
Ai đi
Nỡ chẳng tưởng quốc gia ngay thảo,
Dạ nào vong Tam-Bảo giáo truyền.
Thầy ôi !
Nước nghiêng-nghèo vận khiến đảo-điên,
Phân ly diện sầu tuôn đoạn đoạn !

Ngoài việc sáng tác những tác phẩm kể trên ra, ông Ba còn đương một tấm thành-vọng (mặt khại), chính giữa có ba chữ triện: Quốc (hàng trên) và Thần Vọng Sư (hàng dưới), dựng ngay trước bàn thờ để biểu-lộ tấm lòng ưu-ái giang-sơn Thầy-Tổ. Tấm thành-vọng nầy ngày nay còn thấy tại nhà con ông ở Láng-Linh.

Sau mười bốn năm, kể từ khi chùa Bửu Hương Tự bị bao vây, vết thương nơi cổ ông Ba vẫn chưa lành hẳn, nó gom lại bằng mút chìa vôi nhưng trong mình ông vẫn mạnh. Một đêm kia, ông Ba kêu người nhà mà hỏi thăm giờ. Người nhà cho biết là mười giờ đêm. Ông bảo: « Bây-giờ đến năm giờ sáng thì còn lâu quá !»

Thế là đúng năm giờ sáng (giờ dần), ngày mùng chín tháng tư năm Bính-Dần (1927), ông Ba tịch. Lúc ấy ông hưởng thọ vừa đúng 61 tuổi, sau khi đã để lại cho đời chín văn phẩm kiệt tác về đạo-đức lẫn văn-chương, và một tấm gương tiết-tháo kiên-trinh bất hoại.

Hiện giờ, mộ-phần của ông Ba còn tại doi Lộ-Lở, được bồi-đắp và có người ở săn-sóc cẩn-thận. Tại nền nhà củ ông (cũng ở Lộ-Lở gần ngôi mộ), có dựng lên một cái đền thờ rộng lớp, uy-nghi, hằng năm, đến ngày mùng chín tháng tư thì có hội, bá tánh thập phương đến chiêm-bái rất đông.


Ngoài các bậc siêu-phàm trong vùng Thất-Sơn mà chúng tôi đã chép trên đây, còn có nhiều vị khác nữa như: bà Hai Mun, nghĩa tử của Đức Phật-Thầy Tây-An, có tài trị bịnh và nuôi con (mộ phần nay còn ở sau Phước-Điền Tự), - ông Đạo Sang, lấy cốt trầu phun ra mà chữa bịnh và có lắm thần-thông (ở đình ngả ba Cái-Dầu, Châu-Đốc), - ông Đạo Thạch, tịch ở đình Thạnh-Mỹ, khi tịch có hào-quang, - ông Sáu Bình, đệ-tử của ông Hai Nhu có phép đốt chưn cháy thành than rồi đạp vào chỗ đau của người bịnh… Nhưng chúng tôi chưa tìm ra được tài liệu chính xác.

Trong phái Phật-Thầy, ông Ba có thể kể là người sáng tác nhiều nhứt và công-trình trước-thuật của ông là một áng văn-chương không kém phần giá-trị. hềm vì những áng văn ấy không phải là truyện diễm-tình như Nhị-Độ-Mai hay Lục-Vân-Tiên mà là những lời tiên-tri khuyến thiện, nên ít ai để ý đến. Thật thế công-trình sáng-tác của ông Ba Thới là một áng văn có thể nói là ngang hàng với Lục-Vân-Tiên của cụ Nguyễn-đình-Chiểu. Câu văn đã điêu-luyện thanh-tao mà ý nghĩa rất thâm- thuý nữa.

Một điều đáng nói là ông Ba Thới phóng ra một lối thi lạ nhứt trong văn-chương Việt-Nam. Người ta thường thấy nhiều lối thi thuần-tuý Việt-Nam như lục-bát, hay song thất lục bát. Ông Ba mở ra một thể thi mới : lối thất bát nghĩa là câu trên bảy chữ câu dưới tám chữ, đọc nghe vừa mạnh, vừa véo von. Dưới đây xin trích bốn câu để quí bạn đọc thử :

Từ mạnh-Tử ra mắt nước Lương,
Nhan-Hồi đoản mạng cám thương thần-đồng.
Tu quốc-vương có vợ có chồng,
Có con có cháu nồi dòng an bang.

Nếu phải nghiên-cứu và trình bày những áng văn-chương kiệt-tác ấy, ít ra phải viết thành một quyển sách dày. Ở đây chúng tôi chỉ xét về vấn-đề Tận-Thế và Hội Long-Hoa thôi.


Nói về Hạ-Nguơn và Tận-Thế Cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai, ông Ba Thới nhận thời-kỳ này là thời-kỳ Hạ-Ngươn, thời-kỳ Tận-Thế :

Phật sanh Phật, ma lại sanh ma/Hạ-Nguơn Tận-Thế Phật ma lộn cuồng.

Bởi thời-kỳ Hạ-ngươn, thời-kỳ Phật ma lộn lạo, nên ông ba khuyên :

Ai ai nhẫn chí để dành/Hạ-Nguơn Tận-Thế tu hành cần năng.

Danh từ Hạ-Ngươn Tận-Thế vẫn được lập đi lập lại mãi. Đứng trước cuộc đời này Phật cũng chắt lưỡi, bởi chúng-sanh quá-tham lam tàn ác :

Việc Hạ-Nguơn mội việc mỗi tham,
Phật chắt lưỡi khó đam lại đủ.
Kẻ lo ăn người thời lo ngủ,
Kẻ làm chủ, người phủ, làm quan,
Lợi dụng mưu làm quấy làm gian,
Đoạt của thế lo toan bất-chánh.
Vì quá tham-lam mãi dụng mưu làm quấy,
đã thế khuyên dạy lại không nghe,


cho nên :
Đáo Hạ-Nguơn Trời đất xử tiêu/Nhiều lời giáo dụ chẳng siêu việc lành.

Chính đó là cơ tận-diệt. Ông ba cho biết để mà dừng có khinh khi :
Việc đời thận tốc, Dị bốc tiên tri/Người nào khinh khi, Hậu ly đạo Phật.

Ấy thế mà người đời vẫn khinh thường, mãi lo bề giữ của :

Người đời vẫn gẫm chẳng bao lâu/Lo bề giữ của lo sau không màng.

Ông Ba thương-xót mà cho biết rằng :

không khéo rồi đây nước sẽ ngập tời cổ :
Việc thấy người phải lo âu,
Nước đà tới ngập cổ ngập sâu hụt giò.
Người đời quá hững-hờ,


vì người đời không thấy. Mặc dầu là chưa thấy, nhưng ông Ba cho hay sắp tời, rồi đây sẽ thấy : Việc không thấy nói trước cho rồi/Từ nay sắp tời lần hồi coi chơi.

Nhưng muốn coi đời, ông ba khuyên hãy rán bền lòng, đừng nản chí, dù phải trải qua bao nhiêu cành gian-lao :
Đói lòng ăn bắp với khoai,/ Chờ cho tời lúc chiếu mai coi đời.

Nói về Hội Long-Hoa Như ông Ba cho biết cuộc đời đã mỏng-manh lắm rồi, nhưng cuộc đời sẽ đi về đâu ? Ông cho biết, cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai, rồi đây sẽ mở Hội Long-Hoa, dựng bản Phong-Thần chọn người hiền đức. Ông cũng nhận đó là một cuộc thi :

Chí cầu may niệm Phật lần lần/Lập đông mãn tiết Phong-Thần ứng khoa.

Nhưng cuộc thi đây không phải là cuộc thi văn hay võ giỏi mà thi về đức, thi về tấm lòng hiền : Phật thi đức, trào quốc thi văn/Nhơn tùng thi chánh, nhơn tăng thi lòng.

Một cuộc thi mà người đời muốn đi đến phải chịu bao nhiêu cuộc nhồi nhả để trả quả :

Người đổi người, lời lại đổi lời/Phong-Trần trả quả thấy thời điếc tai.

Đó là một cuộc trả quả cho nên người đời phải chịu bao nhiêu cuộc thử thách gian-lao khổ sở : Thân nhồi nhả rời rả chưa thôi/Mười sầu mười thảm thương ôi! Thân người.

Sự khổ ấy một ngày một tăng lên và tiến tiến mãi mãi :

Bịnh khắc được đã khó định phân/Từ nay sắp tới khổ thân hoài hoài.

Nói rằng khổ, nhưng sự khổ ấy diễn ra bằng cách nào ? Ông Ba cho biết sự khổ nhứt của người đời phải chịu là nạn đói :
Sợ ngày sau nhiều kẻ khóc la/ Nằm co chịu đói Phật ma mới tường.

Cái nạn đói này rất dai-dẳng, nó kéo dài trong ban năm đăng đẳng. Mà sở-dĩ xảy ra nạn đói là vì có-nạn hạn hán làm cho đồng khô cỏ cháy :

Dạy làm lảnh niệm Phật Nam-mô/Tam niên hạn hán phơi khô thân hình.

Người đời vì đó mà chết đói la-liệt, đến nhà không người ở, xác không người chôn, chợ không người nhóm :

Thương ban năm không chợ nhóm chiều,
Nhà không người ở niệm nhiều Nam-mô.
Thây không lấp mà để phơi khô,
Không nước mà uống Nam-mô đạo nào.


Nhà đã không người ở, chợ không người nhóm, thì ruộng không ai làm gì có người làm :

Tới đó thì hay việc gió dông/Nhà không người ở ruông không người làm.

Bởi thế, ông Ba thường khuyên người đời hãy rán chịu tham-khổ cho quen, có sống lây lất muối dưa hẩm-hút sau này mới chịu nổi nạn đói. Người ta quá đói, không còn tìm chi ăn được đến phải ăn đá :

Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai/Hết khoai hết bắp, chiều mai ăn đá.

Nhưng danh-từ “đá” đây , theo ông Ba có nghĩa khác, duy những người tu theo phái Phật-Thầy mới hiểu được. Chẳng những chịu đói mà thôi, người đời còn chịu bao nhiêu tai nạn âm binh :
Có Phật ra mới thấy việc linh/Gặp Trời loạn động âm-binh dấy loàn.


Có nạn ác thú :
Có hổ lang ác thú tời nhà/ Hùm tha thú bắt trẻ già thương ôi!

Những hiện-tượng này đã thấy ông Sư-Vãi Bán-Khoai nói đến rồi. Ngoài ra còn nạn nước lụt :

Nghèo sắm xuồng, giàu có sắm ghe/ Để chờ có nước chèo le lên giồng.

Còn nạn chiến-tranh khốc-liệt sát hại sanh linh :

Hạ-Ngươn hồn phách tiêu tro,
Chớ đừng thấy vậy ăn no vui cười.

Tôi nói có chứng chín mười,
Không phải một người nói chuyện bất minh.
Ngày sau các nước lai chinh,
Tây-dương Anh-quốc chiêu binh qua rày.
Nữ-phiên công-chúa tài hay,
Trận đồ bát-quái đánh nay nửa lừng.
Tương tranh quờn, ấn trong rừng,
Lòng buồn nói chuyện nhớ chừng mà chơi.
Ai ai bền chí ở đời,
Chừng ghe sấm đất của Trời mở ra.


Trong các Thiên tai Địa ách mà người đời phải chịu, kể ra cũng thảm khổ quá rồi, nhưng chưa quan-trọng bằng tiến sấm nổ, bời đó là sự biến chuyển của vũ-trụ cán-khôn. Tiếng sấm nổ ấy đã diễn ra nhiều cảnh-tượng :

1. Làm thay đồi địa-hình, như nhiều cù-lao sụp đổ
Hâu nhứt thinh tiêu hết cù-lao/ Nhị niên chí khổ đề lao chen người.

Như biển nổi thêm hòn :
Biển minh mông Phật nổi lên hòn/Đất bằng sánh núi Trời còn không hay.

Như nhiều dãy núi vỡ tan :

Núi biển ít sao lại nổi thêm /Đồng-nai Bắc-địa không êm núi nào.

Trong lúc đó nhiều núi vỡ thì trái lại có nhiều núi nổi lên :

Cửa Ngả-bát có nổi nhị sơn,
Núi Sam tiêu mất, Thất sơn điện đền.
Chí anh hùng lập chí cho bền,
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu-Sơn.


2. Làm cho con người đê-mê bất tỉnh :

Tam thinh quên tuổi quân tên/Quên dòng quên họ khá nên cải tà.

Dầu cho có được tỉnh dậy đi nữa, ngay vợ chồng cũng không còn biết nhau :
Đạo vợ chồng con cháu buộc chùm/ Ngủ đêm thức dậy đứt đùm không hay.

Đến lúc đó biết ai là người có căn. Theo ông Ba thì Nam kỳ lại có căn nhiều hơn hết :

Xuất Tam thinh mặc sức lăng-xăng/Nam-kỳ niệm Phật có căn giữ hình.

Nhưng người có căn đều được Phật đến giải mẻ cho:

Khá bủa câu lả lưới đợi chờ/Phật có tài phép một giờ thoát mê.

Chẳng những thoát mê, mà những người hữu căn hữu phước còn thay hồn đổi xác nữa :

Tam giới hội xử việc bất miêng/Thay hồn đồi xác cõi Tiên đem về.

Chính lúc đó tam-giới mở hội để lập lên đời Thượng-Ngươn :

Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Đầu sơn giao chiến Nam-mô tranh tài.
Thập bát quốc vây phủ ở ngoài,
Thiền trung xuất trận phép tài quan thiên,
Đoái Ngũ-Long tiền trận nữ Phiên,
Giao chinh lam trận chư Tiên lai đều.
Phật thâu phép chư quốc chu hầu,
Qui lai thiền nội ừng hầu Phật-Vương.
Đồng chúc Thánh vạn thọ an khương,
Tuế tăng vạn tuế Phật-Vương thọ trường.
Phán chư quốc cống lễ minh tường,
Tiểu bang lãnh sắc thường thường thọ an.
Đãi yến diên chư quốc an phân,
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân,
Chúc Hớn trào miên viễn hoàng ân,
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh-nhàn.
Lập Thượng-Ngươn hưởng thọ khôn càn,
Đặt chung tứ bỗn vẹn toàn hiếu-trung.



Như thế là đời Thượng-Ngươn đã lập, con người sẽ ra sao, đời sống của cõi đó ra thế nào ? Nói về đời Thượng-Nguơn Trong hàng môn-đệ của Đứa Phật-Thầy, ông Ba Thới kể ra là người viết nhiều về đời Thượng-Ngươn hơn hết. Phải chăng ông Ba nghĩ rằng : Nếu nói đời Thượng-Ngươn là đẹp mà không cho người đời biết thì làm sao người đời ham-hố cố-gắng tu hành để đi đến, nên chi ông Ba viết rõ về đời Thượng-Ngươn ?

Trong kinh Di-Lặc và quyển Qui-Nguyên trực-Chỉ, quốc-độ của Phật Di-Lặc đã được mô tả, là đẹp-đẽ trang nghiêm nhứt. Đây chúng ta nghe ông Ba mô tả để so sánh coi có khác những điều mà kinh Di-Lặc và quyển Qui-Nguyên Trực-Chỉ đã nói không ?

Ông Ba cho biết rằng khi lập đời lại thì đất địa bằng thẳng, không bồi không lở, biển không nổi cù lao nữa :

Sau đất bằng không thấp không cao,
Biển sông không nỗi cù-lao nữa rồi.
Mé sông không lở không bồi,
Sanh sau y vậy nói rồi sau coi.


Chẳng những thế, nước trong chớ không đục, lại không ròng không lớn :

Nước một bực thanh-thuỷ biên Trời/Không ròng không lớn thuận đời chảy xuôi.

Đất địa đã tốt đẹp như thế, thời tiết lại chỉ có hai mùa : xuân và hạ :
Lòng niệm Phật hản dạ chí tu/Ngày sau lập lại xuân thu hai mùa.

Bởi thế khí trời ấm-áp :

Gió hai ngọn xuân nhựt nguyệt thu,
Không lạnh không nực chí tu để trời.

Có điều không thể tưởng-tượng được mà hễ ban ngày thì có mặc trời mọc, còn ban đêm khi mặc trời lặn thì mặt trăng mọc, đêm nào cũng như đêm nấy :

Đến chừng nào nhựt nguyệt hiệp căn,
Ngày thời ông mọc đêm trăng sáng hoài.


Chẳng những thế, lúc mọc lúc lặn không như thời nay vì thời-tiết mà sai dịch :

Tới ngày sau Tý-Ngọ bất di,
Thìn thời ông mọc bất tri giờ nào.
Đêm giờ Tý, ngày Ngọ hiệp vào,
Tý Ngọ đứng bóng giờ nào lại tranh.
Ngày sáu giờ, đêm sáu giờ canh.
Nguyệt xuất giờ Tuất, không tranh giờ nào.


Thời-tiết điều-hoà như thế nên năm không có tháng nhuần :
Tới ngày sau phong võ có chừng/Năm mười hai tháng không nhuần như nay.

Năm đã không nhuần, tháng cũng không có tháng thiếu :
Nhứt ngọc tam thập nhựt chiều mai/ Không dư không thiếu, khỏi tai khỏi nàn.

Thời-tiết đã điều-hoà như thế, tất nhiên đất địa không phải như thời nay sanh cỏ như gai gốc mà sanh ra toàn là lúa trời, muôn ăn khỏi cần xây giã, vì nó lớn bằng trái dừa :

Hột lúa trời đỏ ruột điềm khuyên/Trái dừa nhằm sức của Tiên cho mình.

Lúa chỉ có hai giống chớ không nhiều, giống như ngày nay :

Sao không nếp mà quết bánh phòng/Còn hai giống gạo giữ lòng làm ăn.

Những chẳng phải lúa ấy giữ nguyên hình mãi đâu, vì qua thời-kỳ Trung-Ngươn, bởi chịu ảnh hưởng của thời-tiết đổi thay mà nó biến hình đi :

Sau hột lúa võ trắng thiệt hình,
Trong ruột thời đỏ thế bình bất đi.
Trước vỏ vàng ruột trắng phân- ly,
Trung-Ngươn khiến biến người khi tiêu-điều.


Mùa tiết đã thuận, đất đai đã tốt, sanh toàn lúa thì hẳn không còn loại côn trùng hay các loại thú vô-ích nữa. Ông Ba cho biết chỉ có hai loài thú nào có ích cho loài người mới sanh ra cho người dùng mà thôi :

Núi lao xao lập hậu Trời Nghiêu,
Cao điền đất Thuấn tiêu diêu độc trùng.
Sau vật nào trời Phật cho dùng,
Phật đem trở lại dưỡng cùng vạn gia,
Tồn nhị thú phạm luật quốc-gia,
Con trâu con chó cỡi ta không vìa (về).


Tại đâu đời sau không có loài trâu loài chó ? Điều ấy rất dễ hiểu. Đã nói rằng loài thú nào có ích cho người mới sanh ra, ngày sau lúa đã mọc sẵn, người ta không còn cày cấy nữa thì con trâu dù có được sanh cũng không còn ích lợi nữa. Còn loài chó sanh ra để giữ nhà mà đời sau là đời Nghiêu, Thuấn, mà không đóng cửa, của rơi không người lượm thì còn đâu trộm cướp mà phải cần có con chó giữ nhà. Quả thật là đời Nghiêu, Thuấn; nào là nhà không đóng cửa :

Tri sự tiền lập hậu chánh minh/Nhà không đóng cửa quảng thinh đêm ngày.

Nào là của rơi không ai lượm :
Họ hàng khơi chiều mai ngó thấy/Qua ngày sau của rơi chẳng lấy.

Ông Ba cho biết ngày sau con người có tài trí cao-siêu lắm :
Lo việc hậu mới được lâu dài/ Ngày sau nhiều kẻ phép tài trí tri.

Và họ vẫn biết hay như xà đặng hoá rồng vậy :

Đạo trung-dung xà đắc hoá long/ Người thời không cánh không lông bay rày.

Muốn kiến-thiết thế-giới tốt đẹp như thế, ông Ba cho biết : việc sắp-đặt phải mất ba năm mới xong :

Lập ba năm đều đủ dưới trên,
Đồng chư quốc lập nên một cuộc.
Thông minh tánh nhiều người không thuộc,
Vận Trời xuôi nhứt cuộc hưng bang.
Nơi rơi đều phú lúc hiển vang,
Chốn chốn hưởng an bang vận đạt.


Về gia-đình thì năm bảy người cùng ở một nhà thuận hoà trên dưới. cái tục lệ hát ca như đời nay không còn nữa :

Qua ngày sau không hát không ca,
Năm bảy người ở lại nhứt gia.
Vọng Đức Phật Thích-Ca chí lý.
Năm bảy chủ hiệp tình nhứt ý,
Phật độ người tận lý quang minh.


Vì người đời hiền lương, nhà nhà đều phú túc, cho nên không sanh ra trộm cướp. Bởi thế không có nhà ngục, nhưng ở mỗi tỉnh vẫn còn lập toà-án để hoà-giải những việc bất đồng ý-kiến nhỏ nhặt, cùng xem chừng việc trị-lý trong dân-gian :

Có toà-án các tình sâm soi/Không đường ngục thất sau coi để đời.

Nhà ngục đã không có, cho nên cả pháp-luật lập ra để răn phạt người, làm gì lại có :

Của người Tây trả cho người Tây,
Tân trào phế luật thẳng tay trổ tài.
Kiểng Tiên gia sau đặng lâu dài,
Vô cùng mưu trí phép tài mới nên.


Một điều mà xã-hội này không có là đời sau dân chẳng có làm xâu nạp thuế chi cả :

Phật lập chánh chư quốc chư hầu,
Bán buôn lui tới phải đầu nước Nam.
Phật dạy đều lòng dạ đừng tham,
Không sưu không thuế nước Nam thanh-nhàn.
Mười tám nước ăn ở một tràng,
Chợ nào không góp xóm làng an-ninh.

Sở-dĩ các nước cùng sống thuận hoà, người người đều hiệp ý không gây-gổ, không sanh ra chiến tranh, là vì ngày sau chỉ có một tôn-giáo :

Qua ngày sau không miễu không đình,
Hội-tề công-sở nhứt tình quốc-gia.
Nước Tây Phiên nhà thờ không cha,
Niệm Trời niệm Phật quốc-gia an hoà.
Mười tám nước như con một nhà,
Đều thời niệm Phật Di-Đà công-phu.


Một nước chỉ tu có một chùa và các ngày lễ vẫn như nhau :

Một nước thì tu có một chùa.
Nhà không phượng-tự hai mùa xem minh.
Cỗ hai ngày lễ bái tưởng kinh,
Ba mươi mùng một chánh minh nhứt trường.
Ngày mười lăm mười sáu lập thường,
Niệm Trời, niệm Phật nhị trường an khương.
Lệ ngươn-đán hạ nhứt xuân vương,
Chánh ngoại sơ nhứt lễ bà chánh-chung,
Nhơn bất ác tích thiện vi trung,
Lệ xuân ngươn-đán chánh-chung hai mùa.
Lệ Thượng-ngươn gia kết tại chùa,
Trung-ngươn thu nhựt thủ vừa hương rơi.
Nơi nơi đều ngợi chữ thảnh thơi,
Ca ngâm xứ xứ vui chơi thanh nhàn.



Đời sống đã vui thú như thế, còn con người thì tướng dạng ra sao ? Ông Ba cho biết rằng : đời sau trầu thuốc đều bỏ cho nên răng thì trắng, tóc thì dài, da trắng và châu thân thì không có lông :
Nhịn trầu thuốc biếng nói biếng cười,
Ngày sau răng trắng như người Quảng-Đông.
Nội châu thân không có mọc lông,
Tóc dài da trắng phụng long dạng hình.

Con mắt thì sáng ngời, miệng thì thơm
Con mắt sao ngó thấy sáng ngời,
Trong như mắt cọp miệng cười ngọt thơm.
Răng thì trắng thiệt người ăn cơm,
Lưỡi sao răng vậy gạo thơm ngọt-ngào.



Hình dạng đã đẹp-đẽ như thế, người người lại không trẻ, không già, tám mươi tuổi sấp lên mới có con so, song trong mười người mới có một người sanh sống lâu đến muôn tuổi :

Đâu đâu không trẻ cũng không già,
Tám mươi mới có vậy mà con so.
Ngoài muôn dân lạc-nghiệp đủ no,
Mười người sanh đặng con so một người.
Người tốt tươi ăn nói vui cười,


Nhưng tuổi thọ ấy quan Trung-Ngươn thì so le, giảm xuống còn trên một ngàn, cũng như hạt lúa bằng trái dừa qua Trung-Ngươn biến hình trở lại nhỏ :

Người ăn nói bằng thẳng thiệt thà,
Trình thưa dậm dạ giữ mà phép khuôn.
Lập Thượng-Ngươn tuổi có một muôn,
Trung-Ngươn giữ dạ phép khuôn trên ngàn.


Con người ăn ở đều có lễ nghi khuôn phép cho nên không có sự loạn luân loạn dâm .

Ngày sau nhơn bất loạn dâm,
Người nào nghịch tánh binh âm vật rồi.
Phật cho tâm tánh định hồi,
Man-ri mọi rợn tiêu rồi sạch trơn.
Thiên sanh tiền hải hậu sơn,
Tiền Tần hậu Hớn mang ơn cũng nhiều
.

Ông Ba cho biết rằng vợ chồng đời nay chỉ là oan khiên túc trái, vai trả lẫn nhau, chỉ qua đời sau mới là thiệt vợ chồng. Những vị làm quan có đến năm bảy vợ, đâu đấy đều hoà-mục, giữ trinh-tiết thờ chồng, có lẽ vì số đàn bà nhờ sự tu-hành ở đời này mà được sống qua đời đó quá nhiều, sấp năm bảy lần số đàn ông. Phải chăng ngày nay chúng ta thấy số đàn bà đi chùa và tín-ngưỡng Trời Phật nhiều hơn đàn ông ?

Qua ngày sau thiệt nợ thiệt dươn,
Đàn bà trinh-tiết vì ơn nuôi chồng.
Năm bảy vợ hiệp ý một lòng,
Thượng hoà hạ mục nuôi chồng làm quan.


Một điều lạ nhứt là đàn bà ở đời Thượng-Ngươn không có đường kinh-nguyệt nữa :

Đường kinh-nguyệt sau Phật xử tiêu,
Đời này ngang dọc phất diêu lõa lồ.

Con người nhờ khí-hậu điều-hoà, đất đai tinh-khiết cho nên được sống lâu đến muôn tuổi, không ai bịnh hoạn. Nhờ đó mà sau này không có thuốc men :
Việc thuốc Nam thuốc bắc vô ân,
Ngày sau thôi cũng vô phân thuốc rồi.

Trên quốc-lộ vô cùng trang nghiêm đẹp-đẽ ấy, nước Việt-Nam sẽ ra sao ? Người Việt-Nam sẽ có vai-trò gì quan trọng chăng ? Nói về nước Việt-Nam sao này Sau khi quả địa-cầu biến hình, trên thế-giới sẽ ra sao ? Ông Ba cho biết sự sụp đổ đất liền thành biển, biển nổi trên đất liền, làm thay đổi địa-hình : chừng đó trên thế giới chỉ có mười tám nước mà thôi :

Cộng tồn thập bát quốc hội an/Xử tiêu ma quỉ dị-đoan tiêu-điều.
Hay là :
Tồn thập bát quốc chỉ noi Nghiêu/ Ngoại trừ các nước quần yêu xử là.

Nhưng trong mười tám nước đó, Việt-Nam lại hữu phước hơn hết, vì nước Nam có nhiều bật thông-minh tài-trí thâu các nước phải phục-tùng :

Sau nước Nam ít kẻ vụng về,
Thông-minh trí huệ người giỏi hay.
Không có cánh đi đặng trên mây,
Phép tài văn võ hơn nay nước nào.
Hữu quân-sư thượng-trí anh hào,
Dạy mười tám nước chỗ nào văn thơ.
Mười tám nước tài phép trơ trơ,
Phật thâu trả quả ngẩn-ngơ chư hầu.
Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.
Phật thâu hết các chữ đa đoan,
Chỉ tồn nhứt tự Nam-bang tiếng mình.
Người khác người ăn nói thật tình,
Binh thơ đồ trận nước mình tài năng.
Qui nhứt thống hiệp lại nhứt căn,
Thượng thiên giáng thế tài năng phong trần,
Đến ngày sau có Thánh có Thần,
Ai lòng tà vạy âm thần xử thân.



Những hưỡng được cảnh vinh-quang ấy, hởi ôi ! người Việt-Nam chúng ta trong mười người chỉ còn lại có ba người. Đất Bắc-Việt sau này đổi thành ruộng sâu, trong mười người chỉ còn có một người, phải chăng vì tội làm thịt cáo cầy mà trong kinh Phật đã cấm :

Việc Nam-bang nhiều kẻ khôn lanh,
Thất phần dư tử thiểu sanh tam phần.
Thấy việc xa chẳng biết việc gần,
Việc Nam còn mấy việc Tần như nhau.
Đất Bắc-kỳ sau lại ruộng sâu,
Mười phần thác chín khó âu cho người.


Về Bắc-kỳ, ông Ba quả-quyết như vậy, cho nên nhiều nơi ông thường lặp lai.
Đất Bắc-địa giăng câu đặt lọp,/Ăn cá đồng không cọp ở rừng.

Chắc sao cũng có người hỏi: nước Việt-Nam nhỏ bé như thế này làm gì lại đứng đầu các nước? ông Ba cho biết rằng sau khi quả địa-cầu biến-hình, nhiều chỗ đất bằng sụp đổ, nhiều nơi biển cả nổi lên đất liền, nước Việt-Nam với sự thay hình đó sẽ trở thành một đại-quốc.

Hậu Bắc-địa tứ trấn cõi ngoài,/ Nam-bang đại quốc lâu dài trường sanh.

Ông Bà còn cho rằng: sau cuộc đại chiến-thiên, về đời Thượng-Ngươn, ranh giới nước Việt-Nam sẽ lên đến Lèo hạ:

Có sông dọc lên khỏi Nam-vang,
Lên đèo xuống dốc nhà sang dẫy đầy.

Từ Lèo hạ sấp xuống dưới này,
Kiểng vui Nam-quốc lời Thầy di-ngôn.


Và nước Nam ở thời-kỳ Thượng-Ngươn ấy, sẽ lấy quốc-hiệu là Hớn-bang:

Mười tám nước lai giáng hàng đầu/ Thưởng năm cống lễ ứng hầu Hớn-bang.

Không thấy Ông Ba cho biết các nước khác sau này sẽ thay đổi ra sao, chỉ thấy nói nhiều về nước Nam thôi.Phải chăng Ông Bà nghĩ rằng các nước khác dầu có nói cũng không quan-thiết cần-ích cho dân mình,tốt hơn là mình nên biết mình để mà sớm sửa-sang lo-liệu tu-hành. Về thế-giới các nước sau này, theo chúng tôi được biết, thì Đức Bổn-Sư núi Tượng có để lại một bản Đồ-thơ(1) nghe đâu hiện nay trong môn-đệ của Ngài con giữ, nhưng tiếc vì chúng tôi không được thấy để coi cho biết nước nào còn nước nào mất và mười tám nước còn lại là những nước nào? Duy có nước Nam thì thấy Ông Ba cho biết một vài biến đổi về địa-hình, như vài đoạn dưới đây.

Đây nói về Cần-thơ và Mỹ-tho:

Cửa Cần-thơ Phật khiến xuất sơn/Mỹ-tho phát hậu ký an một hòn.

Về Bạc-liêu và Hà-tiên, Ông Bà cho biết:
Sau lập lại Bạc-liêu thiếu muối,
Sau có nổi năm mười hòn núi;
Đem lộn về muối núi Hà-tiên,
Phép Phật Trời nhiều kẻ chẳng kiêng.


Nói về sông rạch và đường xe lửa:
Có sóng dọc nhiều chỗ dị kỳ/ Đường ngồi xe lửa chạy thì Bạc-liêu.

Về sông thì có sông dọc, sông ngang:
Giác bần tiện, giác việc giàu sang,
Hồng-ngự sau có sông ngang Sơn-chà.
Giác lời ví việc chánh việc tà,
Sông dọc Cần-lố khỏi mà Mỹ-tho.


Ngoài sông dọc, đồng Cần-lố (Sađéc) còn nổi lên nhiều núi:

Đồng Cần-lố núi nổi giáp vòng,/ Sông ngang sông dọc tại lòng Phật Tiên.

Nói về sự biến đổi của Thất-Sơn ở Châu-Đốc:
Cửa Ngả-bát có nổi nhị sơn.
Núi Sam tiêu mất Thất-Sơn điện đền.
Chí anh hùng lập chí cho bền.
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bưu-Sơn
.

Và đây nói về sự thay đổi sau này của đất Sài-gòn và Châu-đốc:
Gia-đình còn, sau mất Sài-gòn,/Châu-đốc mất trước tiếng còn An-giang.

Ông Ba còn cho biết rằng sau này ở Nhà-bàn (Châu-đốc) sẽ là tràng ứng-khoa luyện-tập văn-võ: Lập chí trai tới chốn Nhà-bàn/ Võ-văn luyện-tập viễn tràng ứng thi.

Như Ông Ba cho biết, trong nước Việt-Nam sau này phần Nam-Việt là tốt đẹp hơn hết. Nhưng chỗ nào ngày sau được hưởng cảnh an vui khoái lạc thì nơi đó phải chịu nhiều cảnh khổ cảnh cũng như hiện nay cảnh nào vui sướng thì sau này phải chịu nhiều sự biến thiên, và đó là luật tuần-hoàn.

Chốn thị-thành sau lại hoá rừng/Chát chua trong dạ ớt rừng xát tâm.

C
hính vì luật tuần-hoàn đó mà phần đất Nam-Việt chịu nhiều cảnh khổ-hạ:

Xử việc trong Lục-tỉnh hao mòn/ Nam-bang khổ-hạ chìu lòn hết hơi.

Mà cảnh khổ nhất là thảm-hoạ sau này cửa lộ Văn-Giáo là con đường đi từ núi Sam vào Nhà-bàn:

Mặc thế tình kẻ dọc người ngang,
Rồi đây tới đó ngay gian thời tường.
Kẻ thị phi niệm Phật đưa đường,
Qua lộ Văn-Giáo vô thường huyết lưu.


Về lộ Văn-Giáo, Ông Bà còn cho biết:
Qua hậu xự Văn-Giáo giáo giăng,
Thây phơi ngọn cỏ vô căn Phật Trời.
Con trong nhà nói chẳng nghe lời,
Huống chi hàng xóm nói đời ai nghe
.

Dó là những điều mà Ông Ba cho biết về nước Việt-Nam ở đời thượng-Ngươn, nhưng chừng nào đến giao đoạn chuyển biến? Những điều tiên tri Muốn hiển chừng nào đến giai-đoạn chuyển-biến, cần phải xét coi những điều tiên-tri của Ông Ba có phần nào thực hiện chưa? Đứng về phương-diện nhận xét, đã thấy nhiều điều thực hiện rồi, như cuộc đảo chánh của Nhựt vừa qua là một; Ông Ba cho biết:

Tây chưa mãn tới việc U phân/ Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề.

Câu này đủ cho ta thấy tình-hình Việt-Nam từ ngày Nhựt để chơn lên đất này. Khô còn lúc nào dân khổ cho bằng lúc đó trở đi. Ông Ba còn cho biết từ năm mươi năm về trước, thời-kỳ chiếm đóng của Nhựt dây dưa cho đến năm tuất (chó):
Trâu Nhựt-bổn Nam-Việt bắt cày/ Gay go chó sửa hằng ngày sủa dai.

Đó là một giai-đoạn người Việt-Nam bắt trâu Nhựt-bổn cày cho mình, Ông Ba cho biết còn một giai-đoạn nữa người Việt-Nam bắt trâu Chệt cày:

Trâu của Chệt Nam-Việt bắt cày/ Khỏi sưu khỏi thuế khỏi rày lao-đao.

Tuy Ông Bà cho biết phải có trâu của Chệt cày, nhưng khi nói đến nước Tàu thì Ông Ba không khỏi đau thương mà thống trách:

Đường giang (gian) -nan dễ giấu khó bày/ Căm hờn Tàu tặc hại rày Nam-bang.

Ông thương hại cho Tàu là ví phải tội bày ra bán hình bán tượng của Phật và tranh hành chiếm đoạt nước Nam:
Tội Tàu man ước chất như thành /Bán hình bán tượng tranh hành nước Nam.

Bởi thế khi lập đời lại, người Tàu chỉ sống sót có một người trong mười người:
Tội Đại-Thanh bán tượng bán tranh/ Hoạ bán Phất bất sanh chín phần.

Ngoài nước Tàu, Ông Ba còn cho biết Ấn-độ cũng mang đại khổ:
Trời khiến xui ách nước từ đây/ Chà-và hai nước mất thây chẳng còn.

Ông Ba không cho biết vì lý do gì Ấn-độ bị đại nạn như Tàu, nhưng điều này làm cho người ta kinh-ngạc là Ông Ba gọi Chà-và không phải là một nước mà là hai nước đúng như hiện-tình chia rẽ của Ấn-độ làm hai nước Hồi, Ấn.

Một nước ở gần ta nhứt là nước Tần, Ông Bà cho biết sẽ gặp nhiều tai nạn như Tàu và Ấn-độ:
Có ai từng ăn óc không gai /Ăn cơm không đũa đại tai nước Tần.

Và sau này nước Tần sẽ hiệp về với Hớn-bang ở thời kỳ Thượng-Ngươn:

Ai từng làm ruộng không trâu/ Nước Tần sau lại lai thâu Hớn-trào.

Nhưng trước khi đi đến Hội Long-Hoa, nước Tần phải trải qua một thời gian đói khó:

Cao-miên phải lo dùng cơm gói,
Người khá lo đói trước bấy giờ.
Việc minh mông chưa tới bực bờ,
Thấy Tần-quốc vật-vờ hồn phách.
Nhìn đói lạnh chớ than chớ trách,
Một con sâu làm đổ trách canh.


Chịu nạn đói lạnh như thế là vì con sâu làm đổ trách canh, do nước Tần khởi loạn trước làm cho Việt-Nam lâm vào cảnh khổ:
Việc trước thì Tần khởi loạn ra,/ Sát nhơn-vật người ta thậm khổ.

Tần khởi loạn, theo Ông Ba là một điềm mở màn cho biết cuộc đời đã tới. Nhưng muốn xác định thời giờ ông Ba cho biết rằng: khi đời tới thì tự nước nào đánh nước nấy:

Mình hại mình nói việc có căn,/Nước nào hại nấy lăng xăng trở đời.
Sự tận-diệt của loài người theo ông Ba, sẽ diễn ra bằng cuộc nội chiến của mỗi nước, cùng một lúc xãy ra nước nào đánh nước nấy:

Giặc dậy lăng-xăng,
Lăng-xăng giặc dậy.
Đánh nhau tầm bậy,
Tầm bậy đánh nhau.
Nước nào ở đâu,
Ở đâu đánh đó.
Vận nghèo thấy ngó,
Thấy ngó vận nghèo.
Người thác bá bèo,
Bá bèo người thác.
Đâu đâu tan nát,
Tan nát đâu đâu.
…………

Thật là những điều quá sức tưởng tượng, ngoài ý nghĩ của mọi người. Ông Ba cũng vẫn biết: người đời sẽ có kẻ không tin:

Tôi cho người thấy/ Việc máy thiên-cơ/ Người cũng ngó lơ/ Tôi ngơ ngẩn dạ.

Nhưng vì quá thương đời cho nên ông phải tỏ bày để sau người đời không trách:

Thương chúng sanh Phật mới tỏ bày/ Chẳng nghe lời Phật hội này rã thây.

Với những người thiện-căn, Ông bảo ghi nhớ những lời của Ông rồi sẽ biết:
Nói rồi cho nhớ lời ghi,
Chừng nào thấy việc loạn ly biết lời.
Nơi nơi khổ não cho đời,
Dư trăm việc khổ biết lời để ghi.


Nhưng hỡi ôi! mặc dầu Ông hết tiếng nhắc-nhở mà người đời vẩn hí-hởn không lo:

Bây giờ hý-hởn không lo,
Gặp cơn bát loạn nằm co kêu Trời.
Lo giàu ít kẻ đời,
Gặp cơn bát loạn kêu Trời thấu đâu.


Và chính vì dó mà các đấng Phật, Tiên bởi quá thương xót chúng sanh, nên lâm-phàm, chẳng dứt ra Sấm kinh, Cơ bút thức tỉnh người đời. Với sứ mạng cao cả ấy, các đấng thiêng-liêng còn mượn xác một cậu nhỏ chín tuổi để viết bộ Tứ-Thánh cho ngừơi đời thấy thế có tin.


http://www.nguyetsanlonghoa.net/bt0708NguyenVanHauTSMN.htm
http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_310_ArticleID_4070_.aspx

__

Chú thích
(a).Có thuyết nói ông Ba nhân đi bán cá trên miền Láng, nghe danh ông Hai đạo-đức cao-siêu mà quy-y theo. Nhưng theo lời ông Nguyễn-văn-Tuấn là trưởng tử của ông ba thì ông tự nhiên phát đạo tâm rồi đi tầm sư học đạo như trên đã nói.
(b).Ý nói ông vì có sứ-mạng phải lãnh bức thư vẽ mây chép sự-trung thành cùng quốc vương thủy thổ cho nên mới phải giã Thầy một thời gian ấy.
(c).Lúc nầy ông Hai Nhu đã tịch rồi ở Trà-Bang, song công việc hành đạo của giáo-phái Phật-Thầy bị dòm ngó rất gắt và bổn-đạo tên-tuổi nhiều người phải bị bắt, bị đày.

http://www.hoahao.org/LanguageID_2_CatID_212_ArticleID_3429_.aspx




No comments: