VƯƠNG - KIM
TẬN – THẾ
Và
HỘI LONG – HOA
CUỘC TỔNG HỢP TƯ-TƯỞNG
Các đạo giáo : CƠ -ĐỐC –GIÁO PHẬT- GIÁO
CAO- ĐÀI- GIÁO PHẬT- THẦY TÂY-AN
PHẬT- GIÁO HÒA-HẢO
Các bực dị- nhân và nhà bác học
NHÀ XUẤT BẢN
TÂN- SANH
12,Bùi- Viện- SAIGON
Điện-thoại : 22.641
1 9 6 5
KÍNH BIẾU
VƯƠNG - KIM
TẬN – THẾ
Và
HỘI LONG – HOA
CUỘC TỔNG HỢP TƯ-TƯỞNG
Các đạo giáo : CƠ -ĐỐC –GIÁO PHẬT- GIÁO
CAO- ĐÀI- GIÁO PHẬT- THẦY TÂY-AN
PHẬT- GIÁO HÒA-HẢO
Các bực dị- nhân và nhà bác học
NHÀ XUẤT BẢN
TÂN- SANH
12,Bùi- Viện- SAIGON
Điện-thoại : 22.641
1 9 6 5
CÙNG MỘT TÁC – GIẢ
ĐÃ XUẤT – BẢN :
- TẬN - THẾ VÀ HỘI LONG- HOA
- ĐỨC PHẬT – THẦY TÂY – AN
(hiệp với Đào- Hưng)
- ĐỂ HIỂU PHẬT GIÁO HÒA - HẢO
(hiệp với Thanh – Sĩ)
- ĐỜI HẠ- NGUƠN
- ĐỜI NGƯỜI DƯỚI ÁNH – SÁNG ĐẠO PHẬT
SẮP XUẤT BẢN:
- BỬU – SƠN KỲ - HƯƠNG
- HỌC -THUYẾT ĐẠI – ĐỒNG TÂY PHƯƠNG
- HỌC -THUYẾT ĐẠI – ĐỒNG ĐÔNG PHƯƠNG
ĐƯƠNG SOẠN:
- PHẬT- HỌC TỪ -ĐIỂN
- PHÁP- MÔN TỊNH – ĐỘ
CHƯƠNG THỨ NHỨT
Cơ – Đốc – Giáo
NGÀY TẬN - THẾ CHẮC – CHẮN SẼ ĐẾN
Vấn – đề Tận- Thế kể ra chưa hẳn là một đầu-đề mới lạ, vì từ lâu ở trong sấm kinh của nhiều tôn- giáo đã từng nói đến, nhưng ít ai để ý, hoặc giả có quan – tâm chăng là những người ở trong tôn-giáo.
Vừa rồi ông Daniel Walther một ông nghè mà cũng là tín đồ Cơ-đốc Phục-lâm đem đầu đề ấy làm một cuộc diễn-giảng, tưởng cũng nên biết qua những lý-lẽ của ông trình bày và nhơn dịp này đem đối chiếu với bao nhiêu lời tiên-tri trong các sấm kinh mà từ lâu ít ai nói đến.
Vào đề ông Walther nhấn mạnh về những biến cố xã-hội, kinh-tế, chánh-trị của thời đại chúng ta, dồn dập đến nỗi các nhà quan-sát cũng phải hoang –mang không biết ngày mai xảy ra việc gì. Những nhà bác-học, những nhà phát-minh, đứng trước thời cuộc nghiêm trọng đến phải bi –quan mà cho rằng ngày Tận-Thế sắp xảy ra và trở lại ghê-tởm cho công-trình phát-minh của mình.
Nhưng nên hiểu thế nào là Tận-Thế?
Ông Walther không đồng ý với các nhà bác-học kia hiểu nghĩa Tận-Thế là một cuộc chiến chấm dứt vũ-trụ hay địa cầu.Theo ông, khi nói Tận-Thế có nghĩa là chấm dứt một thế-hệ do con người cai- quản để mở ra một thế-hệ minh-triết dưới sự chưởng-quản của Chúa.
Vào thời của Chúa, một hôm tín-đồ có hỏi Chúa rằng: “ Thế nào là điềm Ngài giáng-lâm và Tận-Thế?”
Chúa cho biết : “ Sẽ có những điềm trên Trời, trên mặt trăng và các vì sao. Trên quả địa-cầu thì nhiều nơi sẽ có bịnh dịch và nạn đói…sự đau thương của các nước không biết làm gì…con người thì tinh-thần khủng-hoảng trong sự mong chờ những điều xảy đến cho trái đất.”
Về những thời-triệu ấy, ông welther dẫn chứng bao nhiêu bằng-cớ xảy ra.Nào là nạn đói kém đã đe dọa hoàn-cầu: Hy-lạp, Nhật-bản, Trung-hoa, Ấn-độ, Nga…Nào là những trận động đất một ngày một lan rộng, phá hủy bao nhiêu công-trình kiến-trúc và giết hại biết bao sinh linh vào thế kỷ thứ XVIII.Người ta phải hoảng-hốt tự hỏi tại đâu có sự sát hại ấy,và sát hại để làm gì? Nào là những điềm Trời đã xảy ra ứng với lời tiên-tri của Chúa như cuộc Thiên-âm địa-hon ở thành Lisbonne năm 1755, những vì sao băng mà ông J.H.Fabre đã tường thuật.
Nhưng càng thảm-khốc và khủng-khiếp hơn nữa là những cuộc chiến tranh, những thảm hỏa xảy ra ở các nước.
Trong thế-hệ gần đây, loài người đã bước vào thời-kỳ chiến-tranh tàn-sát ghê-gớm. Liên tiếp không có lúc nào loài người không giết nhau; nào là trận giặc Tôn-giáo, trận giặc một trăm năm, những cuộc cách-mạng giết hại nhân-loại không biết cơ-man nào mà kể. Khi phát-minh thuốc súng và sử dụng đại-bác trong chiến-tranh, người ở thời kỳ ấy phải kinh-khủng mà thấy cuộc tàn-sát đã đạt đến phạm-vi quá rộng .
Nhưng nếu đem sánh với các cuộc phát-minh cận-đại, người ta mới hoảng hốt với sức tàn-phá sát hại của bom nguyên tử,khinh-khí là bực nào.Gần đây Tổng-thống Mỹ-quốc còn tuyên bố sẽ đem dùng một thứ bom có thể giết hại 150 ngàn sinh mạng dễ như chơi, sức tàn-phá của nó bằng cả 20 ngàn tấn chất nổ.
ÔngWalther còn dẫn lời tiên-tri của nhà bác-học Berthelot viết từ năm 1869 cho biết rằng: trong vòng một trăm năm, khi mà người ta phát-minh được nguyên tử-lực thì chính đó là thời kỳ tiêu-diệt.
Một điều thảm khóc cho nhơn-loại nữa là nạn đói hoành hành trên thế giới. Một con số không ai ngờ được là đã có 7 triệu người chết vì nạn đói. Trong lúc ấy, trái lại dân số tăng-gia quá sức tưởng tượng cho đến nguồn tài-nguyên không đủ cung cấp, mặc dù đã bị giết-hại vì chiến-tranh,và bịnh dịch…
Tình thế xã-hội đã vô cùng khốc-liệt, người ta nhận thấy càng ngày càng tiến đến chỗ sụp-đổ và tinh thần con người càng ngày càng hư-hỏng suy-đồi.
Nhưng ông Walther không lấy đó làm bi-quan, vì con người vẫn chưa đến tuyệt vọng.Ông cho biết hiệu-lực vô biên của một nguồn hy-vọng. Có nhận thấy sự an vui trong long và một nguồn hy vọng không lay chuyển chăng, là những ai đã biết đặt đức-tin của mình vào những giá-trị tinh-thần và vào sự giáng-lâm của Đấng Cứu-Thế, là con đường duy nhứt,là chơn-lý và là sự sống.
Nhưng ngày nào Đấng Cứu-Thế ra đời, ngày nào mới Tận-Thế?Không ai có thể biết được ngày giờ,chỉ trừ ra ngày Tận-Thế.
Những điềm xảy ra ở trên Trời, trên quả địa-cầu, trên xã-hội loài người, nhứt là những tai họa và đau khổ dập dồn đưa đến cho nhơn loại, là nhữing báo hiệu cho thời giờ cận rồi. Hãy nhìn lên Trời để theo dõi những biến động của vũ-trụ, hãy nhìn thời-triệu thì hẳn thấy ngày Tận-Thế đã gần lắm rồi.Hiện-trạng ngày nay không thể kéo dài hơn nữa.
TẬN-THẾ ĐÃ GẦN CHƯA?
Đó là quyển sách của ông Joseph Monnier viết, do Hội Cơ-đốc Phục-lâm cho phát hành, mà chúng tôi xin lược thuật dưới đây:
“ Kính Chúa, xin Ngài cho chúng tôi biết chừng nào sẽ đến và thế nào là điềm Ngài giáng-lâm và ngày Tận-Thế?”
Đó là câu hỏi quan trọng mà các tín đồ một hôm ngồi trên núi Oliviers hỏi Chúa.Ngài bèn giảng cho nghe về sự không bền bỉ của mọi vật ở dưới cõi đời này và cho biết trước một cuộc tàn phá thành Jérusalem và giáo hội của nó.
Nhưng ngày nào Chúa trở lại? Đó là điều không khỏan nào trong kinh thánh cho biết trước.Nếu nói rằng người ta không thể biết gì hết và không có điềm nào báo trước ngày giáng-lâm cấp bách của Chúa Cứu-Thế,tức là không hiểu khi Chúa phán: “Các ngươi hãy hiểu về sự tỷ-du về cây vải.Khi mà cành nó trở nên non xanh và lá mọc ra, các ngươi biết đó là mùa hạ đã gần.Cũng như khi các người thấy mọi điều ấy thì nên hiểu rằng Chúa của loài người đã đến gần bên cửa.”
Nhưng có điềm nào báo rằng Chúa đã đến gần bên cửa?
NHỮNG ĐIỀM DƯỚI ĐẤT.- Hãy nhìn trở ngược lại, chúng ta nhận rõ nguyên do và ý nghĩa của những cuộc nhiễu-loạn trong trật tự thiên-nhiên.Nổi loạn chống lại Chúa và luật của Ngài, con người cũng như trái đất,đã trở thành một đối tượng của sự bất hạnh rồi.Cho nên, ngay từ đó, trái đất sản xuất những lau sậy và gai gốc và con người phải làm hết sức mình mới kiếm được miếng ăn.Mỗi bước vượt qua luật tinh thần và tự nhiên là dìm nhơn loại trong một trạng-huống thấp hèn và yếu đuối về tinh thần và vật chất.
Con người từ đó trở đi không còn được chết thỏa thích như ông bà tổ-tiên nữa,mà bị xâm chiếm, cuốn lôi bởi tật bịnh, và nhơn loại sẽ tàn tạ bởi những bịnh dịch một ngày một nhiều và ghê gớm.Tuổi thọ sẽ xuống dốc và sự sanh sản thì đầu hàng trước những tấn triển đáng lo ngại của nạn rượu, bịnh phong tình, ho lao, ung thư…
Người ta càng tiến gần đến thời-kỳ mà Thánh kinh gọi là “thời giờ cuối cùng” hay “ ngày cuối cùng” thì những điềm ấy càng trở nên thống khổ.
Quả đất chừng như hòa-hợp với sự hỗn độn ấy.Không còn mùa tiết nữa.Trận địa-chấn càng ngày càng nhiều, gieo sự hỗn loạn, chết chốc…
Người ta kể không dưới 14 triệu sinh linh đã chết trong những trận địa chấn từ ngày Chúa cho đến nay.Một lần nữa lời của Chúa được xác nhận trong câu tiên-tri : “ Sẽ có những cuộc địa-chấn ở mọi nơi”.
Những biến cố này là triệu chứng của sự suy yếu, nó dạy ta rằng trái đất đã già cỗi cũng như một chiếc áo,hay lảo đảo như một cái chòi, vì tội của nó đã đè nặng lên nó.Một điều nữa là tiền bạc đã mất giá trị và những kẻ tôn thờ nó sẽ lâm vào nạn khủng hoảng.
Nhân loại sẽ lâm vào tình trạng hỗn độn.Dầu xây qua bên nào, người ta cũng gặp những tiếng uất hận, thở than, thoi thóp của một thế giới sắp tàn nhưng không muốn chết.
NHỮNG ĐIỀM TRÊN TRỜI._Chúa đã cho biết: Các người sẽ thấy “ những điềm trên mặt trời, trên mặt trăng và trên các vì sao”.Và Chúa thêm rằng: “ Liền sau những ngày nguy cấp ấy, mặt trời sẽ tối đi, mặt trăng sẽ không có phát ánh-sáng, các vì sao sẽ rơi rụng và quyền lực của các cõi Trời sẽ lung lay”.
Và một điềm lạ lung là cuối thế kỷ XVIII đã xảy ra điềm thứ nhứt mà Chúa đã báo trước: đó là cuộc thiên ám địa hôn.
Ông Herschel, nhà thiên-văn-học đã nhận thấy điềm ấy,có nói: Ngày thiên ám địa hôn ở Bắc Mỹ là một hiện tượng kỳ-dị của tạo-hóa mà không một nhà triết học nào có thể cắt-nghĩa được.
Về vấn đề này ông Noah Webster,tấn-sĩ luật nước Anh, cho biết:
Ngày thiên ám địa hôn hôm 19 Mai 1780 bao trùm cả nước Anh trong ngày ấy.Ở nhiều nơi, ngay ở ngoài trời cũng không đọc được một chữ thường, điều đó xảy ra trong nhiều giờ liên tiếp.Chim choc thì hót những giọng về chiều,ẩn nấp và trốn về tổ luôn; gà vịt thì kéo nhau lên gác,thú vật thì kéo vào chuồng,còn trong nhà thì phải thấp đèn.Cuộc thiên ám địa hôn này bắt đầu từ mười giờ mai cho đến nữa đêm sau…
Điềm thứ hai mà Chúa báo trước là mặt trăng mất ánh-sáng.
Báo Independent Chronicle ở Boston, ngày 8 Juin 1780, có kể:
Trong thời gian ấy một màu đen bao phủ vạn vật.Sự hôn ám của đêm này không phải là chẳng thường thấy và khủng-khiếp như điềm xảy ra ban ngày.Trăng tuy tròn hay hơi tròn, mà người ta chẳng thấy vật, nếu không nhờ ánh đèn.
Điềm trời thứ ba là nhiều vì sao rơi rụng.Hiện-tượng này đã xảy ra ngày 13 Novembre 1833, Bác-sĩ Seiss đã tường thuật:
Những người được diễm phúc trông ngắm các vì sao rơi rụng đêm 13 Novembre 1833 có thể nói đã dự một cuộc đốt pháo bong vô cùng uy-nghiêm mà từ tạo thiên lập địa đến giờ chưa từng có, hay ít nhứt từ thời-kỳ có sử.Về mặt lan rộng, hiện-tượng đã bao trùm một phần lớn mặt địa-cầu ,từ giữa Đại-tây-dương phía Đông cho đến Thái-bình-Dương phía Tây và từ bờ Mễ-tây-cơ phía Nam cho đến vùng vô-định của Gia-nã-đại phía Bắc.Cảnh-tượng rất rõ và nơi nào cũng thấy rõ như thế.
Trong ba giờ xảy ra, hàng trăm hàng vạn người thấy trong hiện tượng ấy , sự hoàn thành lời tiên-tri của Chúa.Họ đều hoảng-hốt,Chừng như các vì sao ấy thình lình thay hướng để rơi xuống trái đất.Những người mục kích cảnh tượng này đều mô-tả như một sự uy nghiêm ghê-gớm.
Đó là điềm tiên tri của Chúa.Nó đã hoàn-thành.Bây giờ chỉ còn chờ ngày giáng-lâm của Chúa.
Nhân-loại có biết hưởng và có hiểu rằng: “ Chúa không chậm trễ trong sự hoàn-thành lời hứa,cũng như nhiều người tin rằng: Ngài kiên-nhẫn đối với chúng ta, không muốn một ai phải chết, mà muốn cho mọi người tiến đến sự hối-cải”.
Chúa còn dặn những ai trông chừng: “ Khi những việc ấy khởi sự chưa đến, các ngươi hãy trổi dậy mà ngước đầu ngó lên, vì sự giải thoát của các ngươi đã đến”.
Những điều tiên-tri này có giống các tôn-giáo khác chăng? Và ngày Tận-Thế gần chưa?
CHƯƠNG THỨ HAI
Phật – Giáo
¬
THỜI-KỲ PHẬT DI-LẶC RA ĐỜI
Về vấn đề Tận-Thế, trong các kinh Phật cơ-đồ không có đề cập đến, mà chỉ thường nói đến định luật: thành, trụ, hoại, không, của vũ-trụ vạn-hữu là nhiều.Song trong kinh Phật có cho biết rằng: ở khoản đời hiền kiếp kể có năm vị Phật là: Câu-lưu-tôn Phật, Câu-na-hàm Phật, Ca-Diếp Phật, Thích-Ca-Mâu-Ni Phật và Di-Lặc Phật.Cứ theo lời Phật Thích-Ca mách trước trong kinh thì sau này vào đời mạt-pháp sẽ có Phật Di-Lặc ra đời là một vị Phật thứ năm trong hiền-kiếp để nối ngôi Phật Thích-Ca để giáo-hóa chúng sanh.
Chừng nào Phật Di-Lặc ra đời? Đó là một câu hỏi mà đến nay chưa thấy kinh nào định rõ ngày giờ.
Nhưng chiếu theo nhiều kinh điển đã có trong Đạo Phật để mà xét đoán, thì lúc Phật Thích-Ca còn đương tiền thuyết-pháp cho đến sau khi nhập-diệt tới nay chia ra ba thời-kỳ: chánh-pháp, tượng-pháp, và mạt-pháp.
Thời-kỳ Chánh-pháp là thời-kỳ đức Phật còn tại tiền thuyết-pháp, các đồ-chúng rất tinh-tấn hành y theo Phật-pháp, cho nên phần đông được ấn chứng Phật-quả.Thời-kỳ này phỏng được năm trăm năm sau khi Phật nhập Niết-bàn.
Thời-kỳ Tượng-pháp là thời-kỳ sau khi Phật nhập-diệt năm trăm năm, có các vị tổ được truyền y bát thỉnh thỏang nối nhau má xiển-dương Phật-pháp, các đồ-chúng nhờ đó mà tu hành đắc quả có nhiều, song không bằng thời Chánh-pháp. Thời-kỳ này dai-dẳng được một ngàn năm.
Thời-kỳ Mạt-pháp là thời-kỳ sau một ngàn năm của thời Tượng-pháp, Phật-pháp suy vi, đồ-chúng lảng mất chánh-tin quay lại tà-tưởng mà chia xẻ nhau ra từng khối rồi mạnh ai nấy lo tranh danh đoạt lợi bỏ luống Phật-pháp,cho nên ít có người được chứng quả.Thời-kỳ này kéo dài cả 10.000 năm.
Như thế, nếu chiếu theo Phật-lịch năm nay 2515 năm, thì đây là tới lúc của Phật Di-Lặc giáng sanh.
Nhưng sự phân định thời gian ấy có quả đúng chăng? Và thời-kỳ mạt-pháp diễn ra thế nào để nhận thức đã đến hay chưa đến? Và ngoài Đức Di-Lặc ra còn vị nào ra đời cứu-vãn cho thời-kỳ ấy nữa chăng?
Trong kinh Pháp-trụ có kể rằng:
“ Hội Phật gần nhập Niết-bàn có di chúc với Ngài A-Nan rằng: sau ta diệt rồi,đến đời mạt-pháp các môn-đệ của ta bỏ các giáo-pháp, cứ tập theo cái thuyết không chánh-đáng, chẳng chịu tu-giới, tu huệ, lại nhóm nhau những đồ hung đảng ác, thấy ai có giữ được giới hạnh thì sĩ-nhục chê-bai.Vì cớ ấy nên các vị Thiên-Long buồn sầu mà xa lìa, còn các vị Đại-Thần và Trưởng-giả thì không sanh long tin kính Tam-bảo, làm cho Chánh-pháp muốn diệt.
“ Từ đó về sau đám tỳ-kheo ấy tạo ác càng ngày càng lắm; rồi nhờ có những người Tỳ-kheo khác biết giữ gìn sự thanh-tịnh tu hành, lại đem giáo-pháp của Như-lai mà diễn nói cho loài hữu-tinh nghe, làm cho cả thảy đều được phần lợi-ích.
Khi ấy lại có các vị Quốc-vương, Đại-thần, Trưởng-giả, Cư sĩ và những thiện-nam tín-nữ đều sanh lòng thương tiếc chánh-pháp của Phật, thờ phượng ngôi Tam-bảo cúng-dường cung kính, tôn trọng ngợi khen hết lòng hết sức ra hộ-trì cho đặng trùng-hưng,Đó là các vị Bồ-tát lấy cái bổn-nguyện rất to lớn mà sanh ra đời ấy đặng giữ gìn Phật-pháp và làm lợi ích cho chúng sanh như vậy.”
Xem thế rồi nhìn lại cuộc đời hiện nay không khỏi khiến cho người đời băn-khoăn sanh ra nghi-vấn.
Huống chi, khi đọc qua kinh Đại-tập về khoản phân định thời-kỳ sau Phật diệt-độ càng làm cho người ta phân-vân hơn nữa.
Cứ theo Kinh Đại-tập, thời kỳ sau khi Phật tịch-diệt chỉ có hai ngàn năm trăm năm phân làm năm thời-kỳ như sau:
Một là năm trăm năm thứ nhứt, thuộc về thời-kỳ Giải-thoát kiên-cố,nghĩa là trong thời-kỳ này những người Đạo-nhơn căn-tánh cao siêu,trí tuệ sáng suốt,y theo giáo-lý của Phật mà tu-hành, đều tùy theo phẩm-hạnh mà chứng pháp giải-thoát.
Hai là năm trăm năm thứ hai, thuộc về thời-kỳ Thiền-định kiên-cố, nghĩa là trong thời-kỳ này, phần nhiều hành-giả căn-tánh tinh-cần,trí-tuệ điềm-tịnh, y giáo-lý mà tu tập các pháp thiền-na, đều tùy theo phẩm-hạnh mà chứng đặng định-quả hữu-lậu hay vô-lậu của hàng Đại-thừa hay Tiểu-thừa.
Ba là năm trăm năm thứ ba, thuộc về thời-kỳ Đa-văn kiên-cố, nghĩa là trong thời-kỳ này phần nhiều Hành-giả tâm-tánh sáng láng, tánh-chất lanh lợi, y theo mười hai bộ kinh của Phật dạy mà tu hành, hiểu thấu các môn giáo-lý hạnh quả và các phép đốn tiệm.
Bốn là năm trăm năm thứ tư thuộc về thời-kỳ Tháp-tự kiên-cố, nghĩa là trong khoản thời gian ấy, phần nhiều những người học đạo căn-tánh hẹp-hòi, chí-hướng cạn-cợt, chẳng gắng công tu tập, chỉ ưa làm mọi sự hữu-vi, đem của riêng mà lập chùa xây tháp, đức Phật ấn kinh.Vậy nên sau khi lâm chung nhờ phước duyên ấy mà hưởng quả-báo nho-nhỏ trong cõi Nhơn-Thiên.
Năm là năm trăm năm thứ năm, thuộc về thời-kỳ Đấu-tranh kiên-cố, nghĩa là trong thời kỳ này,phần nhiều những kẻ tu hành, tâm hay háo thắng, y thường ganh ghét, tuy là đồng tu một tôn giáo mà đối đãi nhau như kẻ ngoại đạo.Nhứt là chấp chỗ học-vấn của mình là phải mà cho sự kiến-giải của người ta là sai.
Cứ theo Kinh Đại-tập thì năm thời-kỳ này kéo dài cả đến hai ngàn năm trăm năm .Và theo Phật-lịch thì năm nay là năm 2515.Càng làm cho người đời băn khoăn hơn nữa là khi đem so-sánh thời-kỳ Đấu-tranh kiên-cố với hiện tình, lòng không khỏi ngạc nhiên mà nghi quyết cho lúc này đã lọt trong thời-kỳ mạt-pháp rồi và sắp đến giai-đoạn của Phật Di-Lặc ra đời giáo đạo trong một ngày gần đây.
Nhưng điều mà hầu hết giới người tu hành muốn biết khi Phật Di-Lặc ra đời, xã-hội loài người vẫn còn giữ nguyên-trạng hay có cuộc biến-thiên.
Cứ theo kinh-điển thì mỗi khi có một vị Phật ra đời là có mở Hội hóa-độ.Như Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật có lập Liên-Trì hội, Đức Phật Thích-Ca thì mở Hội Linh-Sơn để cu-hội các bực La-Hán và Bồ-tát.Đến Phật Di-Lặc cũng thế.Hội của Ngài sẽ lấy tên Hội Long-Hoa, bởi Ngài ngồi dưới cội cây Long-Hoa mà đắc đạo.Chính vì đó mà Hội của Ngài sẽ lấy tên là Hội Long-Hoa.
Mặc dầu trong kinh Phật không nói đến Tận-Thế nhưng khi biết rằng sau này Phật Di-Lặc ra đời nối ngôi Phật Thích-Ca lập ra Hội Long-Hoa hóa-độ chúng sanh và quốc-độ của Phật Di-Lặc vô cùng trang nghiêm khác hẳn cõi Diêm-phù-đề sẽ trở thành quốc-độ của Phật Di-Lặc bằng cách nào? Nếu không phải là một cuộc Tận-Thế hay là cuộc thay đổi địa-hình, hay xê-dịch vị-trí của quả địa-cầu?
Trong Kinh Di-Lặc, Phật cho biết rằng: sau này Phật Di-Lặc hạ-sanh lấy hiệu là Từ-thị.Quốc-đô của Ngài là một quốc-đô vô cùng trang nghiêm.Lầu đài đều làm bằng bảy báu . Đâu đâu cũng có ao trong, có đủ thứ hoa thơm.Mặt đất thì bằng phẳng chẳng có gai gốc , chỉ toàn mọc cỏ nhuyễn xanh, người đi cũng như đi trên thảm.Người sanh vào cõi này đều là người có duyên lành, sống một đời vô cùng an-lạc,không đau khổ,bịnh tật,phiền-não. Thân hình đầy đủ oai nghi đẹp-đẽ,sống lâu đến mười ngàn tuổi, có đủ các thứ mỹ-vị ngon lành, còn mặc thì khỏi cần phải dệt, vì có thứ cây sanh ra quần áo.Đến khi hết số phần thì vào rừng dành cho người đến đó nằm an nghĩ luôn.
Trong nước thì:
Thảy trong bốn biển bình yên,
Không hay chiến đấu cung tên chẳng dùng.
Bủa ra chánh-pháp trị chung,
Đem nền bình-đẳng rộng dung giáo đời (1)
Nhưng điều phước huệ nhứt ở đời đó là chúng sanh được Phật Di-
Lặc mở ra ba kỳ thuyết-pháp hóa-độ các linh-căn:
Kỳ đầu, thuyết-pháp phổ-thông,
Độ Thinh-văn chúng rất đông, rộng nhờ.
Chín mươi sáu ức con người,
Chẳng còn phiền-não bít nơi, ngăn đường.
Kỳ nhì, thuyết-pháp tỏ tường,
Cũng là độ rộng các hàng Thinh-văn.
Chin mươi bốn ức mạng căn,
Được qua khỏi biển tối tăm mê mù.
Kỳ ba, thuyết-pháp rộng sâu,
Độ Thinh-văn chúng số hầu cũng đông.
Chín mươi hai ức bổ đồng,
Tâm điều, ý phục, một lòng kính xưng.(1)
Trong quyển Qui nguyên Trực chỉ, Đức Tông- Bổn cũng cho biết sau Phật Thích-Ca là đến Phật Di-Lặc ra đời, lập Hội Long-Hoa mở ra ba trường thuyết-pháp hóa-độ các bực A-La-Hán.Người sanh ra ở quốc-độ ấy sẽ:
Ø Sống lâu đến tám muôn tuổi, thân cao 16 trượng, tướng dạng nghiêm-trang, không người xấu xa, con gái đến năm trăm tuổi mới lấy chồng.
Ø Đời đó không có tai họa, cũng không lạnh nực, cửa nẻo chẳng gài, không trộm cướp, y-phục hóa-sanh chẳng sự khó nhọc, vàng bạc châu báu đầy kho không người coi giữ,đất kia bằng thẳng không có gò hố, trên đất mọc cây hình tựa
(1) bản dịch của Đoàn-trung-Côn
rồng vàng, trên hình rồng trổ bong nên kêu là Long-Hoa thắng-hội, nhân dân ở cõi đó cũng như cung Trời thong-thả, trên cõi lợi-thiên.
Ø Chỉ có ba sự khổ chẳng đặng trọn hưởng vui vẻ: một là ăn uống,hai là lợi-tiện, ba là suy lão; bằng khi lợi-tiện thì đất nứt ra, tiêu rồi đất bèn hiệp lại, trên mọc hoa sen đỏ che chở mùi hôi; người hầu lâm-chung đến chỗ huyệt mà chết; thần thức sanh về cõi Trời, chẳng sa thú dữ,Bởi cớ sao? Là bởi người cõi ấy đều làm việc lành, cho nên sanh về cõi Trời.
Ø Đức Di-Lặc Phật, hội ban đầu nói phép, chin mươi sáu ức người đặng quả A-La-Hán, ba mươi sáu muôn vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người đặng bực nhị thừa tứ quả.Đại hội thứ hai nói phép, chin mươi bốn ức người đặng chứng quả A-La-Hán, sáu mươi bốn ức vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người đặng bực nhị thừa tứ quả.Đại hội thứ ba nói phép, chin mươi hai ức người đặng quả A-La-Hán, ba mươi bốn ức vị Thiên-nhân Bát-bộ phát tâm Bồ-đề, lại có nhiều người đặng bực nhị thừa tứ quả.
Ø Đức Di-Lặc trụ thế sáu muôn tuổi thuyết-pháp độ chúng sanh; khi Ngài trở lại cõi Niết-bàn rồi, chánh-pháp trụ thế cũng như vậy,tượng-pháp trụ thế cũng như vậy. Việc Long-Hoa tam hội nói sơ như vậy, còn nghĩa lý mầu nhiệm, đều đủ trong kinh văn thuật hết chẳng đặng vậy.(1)
Từ trên nhẫn đến đây cả bộ Kinh Di-Lặc và quyển Qui nguyên Trực chỉ, chỉ nói qua Hội Long-Hoa và quốc độ của Phật Di-Lặc, chớ không nói đến cuộc chuyển biến cõi Diêm-phù-đề ra quốc-độ của Phật Di-Lặc ra làm sao?
Duy có Hứa-Sử truyện, trong đoạn nói Hứa-Sử bị bắt lầm xuống Diêm-Vương, có nói đến sự chuyển-biến ấy , bằng mấy câu thơ này:
(1) Bản in của Thạnh-Mậu
Rồi đây trở lại Dương trần,
Rằng ta nhắn bảo nhân-dân trên đời.
Từ đây sắp xuống khốn nàn,
Đến sai hoai kiếp tiêu tan Đất Trời.
Sau Di-Lặc Phật ra đời,
Ba tràng thuyết-pháp độ người thiện-căn.
Phước duyên thọ mạng bội tăng,
Long-Hoa sanh hóa, mặc ăn lo gì.
Những quan-điểm này sẽ được xác-nhận trong sấm kinh của Cao-Đài giáo và Phật-giáo phái Phật-Thầy-Tây-An.
CHƯƠNG THỨ BA
Cao-Đài Giáo
Với Cao-Đài-Giáo thì danh từ Tận-Thế và Hội Long-Hoa không còn xa lạ nữa. Trong quyển Đại-Thừa-Chơn-Giáo, hai danh từ này được nhắc đến luôn.
Sở-dĩ các đấng thiêng liêng xuống cơ mở đạo, cũng chẳng qua là báo trước cho người trần biết cơ tận-diệt đã hầu kề và Hội Long-Hoa sắp mở, để thức tỉnh người đời trở về con đường đạo đức cho kịp Hội Long-Hoa.
Bởi thế trong bài Thánh-tựa là bài đầu của quyển Đại-Thừa-Chơn-Giáo, lời kêu tha thiết trước nhứt là lời :
Minh Chơn-Đạo thời-kỳ mạt-kiếp,
Thức tỉnh đời cho kịp Long-Hoa.
Luôn luôn danh-từ Tận-Thế, thời-kỳ mạt-kiếp được nhắc đến.Dưới đây chúng tôi trích một vài đoạn:
Gần Tận-Thế Ngôi Hai ra mặt,
Đặng toan phương dìu dắt chúng sanh.
Chỉ đường cội phước nguồn lành,
Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêu-thăng.
Cuộc tan-thương dữ dằn trước đó,
Mà nào ai có rõ chi đâu!
Rồi đây chúng chịu thảm sầu,
Không nương đạo-đức khó hầu tránh tai.
Nạn khổ cuộc tương-lai dữ-dội,
Nhân vật đồng thay đổi tiêu tan.
Có ai thấu máy hành tang?
Dinh bư tiêu trưởng rõ ràng không sai.
Và cơ tận-diệt được các đấng thiêng-liêng cho biết đã gần kề, như đoạn :
Nguồn Đạo-Đức thâm vi nhiệm-lý,
Bổn Chơn-truyền lập chí tìm ra.
Máy dinh hư chẳng có bao xa,
Nguồn tận diệt bày ra trước mắt.
Cuộc xáo trộn Đông, Tây, Nam, Bắc,
Nạn chiến-tranh đạo tặc đầy tràn.
Ôi ! Muôn nhà trăm họ lầm than,
Chịu khốn khổ tai nàn thảm thiết!
Đạo ra đời là đời tận-diệt;
Nên Phật, Tiên cho biết mà tu.
Nguời thế thường chác những hèn ngu,
Cắm cổ chết trong ngục tù tội lỗi.
Xem đó đủ thấy vấn-đề Tận-Thế đã được Cao-Đài giáo xác nhận, và ngày tận diệt cũng được báo nguy là chẳng còn xa, nhưng quyết định thời-kỳ nào thì không thấy nói đến.
NHỮNG LÝ-DO VỀ TẬN-THẾ
Về lý-do gì mà có cuộc Tận-Thế, có cuộc biến-thiên làm cho đời tận-diệt? Quyển Đại-Thừa-Chơn-Giáo cho biết nhiều lý-do mà chúng tôi xin được lược-trình dưới đây:
1- Đời sống vật-chất hỗn loạn.- Thứ nhứt là vì loài người càng xu hướng theo đường vật-chất, bỏ hết đạo nghĩa.
“ Cứ mãi đeo mang lấy thói thấp thường, chuộng cái hư danh giả-trá, toan lòng độc ác chém giết lẫn nhau vì phân màu da, nước tóc, chỗ ở miếng ăn, chớ không đem bổn phận làm người đối với nhân-quần-xã-hội. Càng ngày càng xa con đường Thiên-lý, bỏ hết sự tự-nhiên thanh-tịnh vô-vi mà mảng đắm say về thực-tế.Điểm linh hồn phải chịu dưới quyền hành của nhân-dục khiên sai, làm cho càng ngày càng tối-tăm mù-mịt thì mong chi thoát khỏi trầm luân nơi biển khổ được”.
Vì quá chạy theo thị-dục mà lòng người trở nên hung ác:
Càng ngày chí thiện càng xa,
Nhơn tình đạm-bạc lòng tà dấy lan.
Đời này hung bạo ngỗ-ngang,
Lòng người bất chánh, dạ càng bất nhơn.
Nên chi quỉ giận Thần hờn,
Trời ghen Đất ghét chịu cơn thảm sầu.
Họa tràn dẫy khắp năm châu,
Thiên tai, Đại ách khó hầu thoát thân.
Xanh kia một đấng cầm cân,
Thưởng răn cho kẻ hữu phần, vô duyên.
Thấy đời them luống não phiền,
Vô-hình Phật, Thánh, Thần, Tiên thở dài.
Mà một khi lòng người trở nên hung-ác rồi thì sự giết hại lẫn nhau càng ngày càng them chất-ngất.
“Ôi! Đời đã đến thế thì đời chỉ là một trường tranh-đấu kịch-liệt, một cuộc tàn sát ghê gớm, nạn khổ dẩy đầy, đao binh chất-ngất, đạo tặc lung-tung cho đến đỗi cùng chung một bọc, cùng chung một nòi mà cũng tương tàn tương sát lẫn nhau cho vừa lòng dục, thì còn chi phong tục kỷ-cương tình-nghĩa.
Đời đã đến thế thì dầu ai trí cả tài cao bực nào cũng đành thúc thủ vô sách, chớ có thế gì khiến nối nhơn tâm, dường ấy là đời sắp tàn vong tiêu-diệt đó.”
Lý-do về cõi đời tàn-tạ này của Cao-Đài-Giáo, chúng ta thấy không khác lý-do về Tận-Thế của Cơ-Đốc-giáo.
2- Đời sống tinh thần suy-đồi.- Ngoài lý-do về vật-chất còn lý do về tinh thần cũng là một lý-do làm cho đời con người tiến đến cơ tận diệt.Quá sùng phụng vật-chất, chỉ biết có vật chất, nên con người càng mất dấu tinh-thần đạo-đức.Các nền đạo-giáo cũng gì đó mà thất chơn-truyền, sa vào lối mê-lầm, hư-hại.
Không kể những đạo giáo khác, chỉ nhìn vào đạo-giáo ở Đông-phương, cái cơ suy-đồi của tam giáo: Nho, Thích, Đạo đã thấy rõ rệt lắm
§ Đạo Thích, Đạo Thiền bày dị-đoan từ đời Thần-Tú làm mê hoặc chúng sanh.Vậy cũng phổ-độ, cũng giựt-giành mà chỉ đem con người vào đường u-ám, lạc-lầm.Kinh sấm truyền lại mà không khảo-cứu, kiếm tầm cho ra chơn-lý, chẳng định-trí tham-thiền, không gom thần nhập-định.
§ Còn Nho giáo, sau đời Mạnh-Tử, càng ngày càng lạc-lầm, đường Thiên-lý chẳng cần, chỗ thâm nhiệm không rõ, chỉ học đặng khoe tài hay giỏi, dục lợi cầu danh, tổn-nhân ích-kỷ, chớ không chịu học để sữa mình, tầm hiểu cho tột cùng cái lý cao-siêu huyền-bí, cái cơ nguồn cội muôn loài.
§ Còn Đạo-giáo là huyền-bí, thậm chí ư huyền-bí, chỉ có bực thượng-trí mới thấu đáo chỗ căn-nguyên, còn bực thường-nhân hạ-trí rất khó thông cơ mầu-nhiệm, bởi vậy mới hiểu lầm , tưởng sai mà bày ra phép-tắc, phù-chú cho mê-hoặc thói đời thêm hư phong-tục khiến người nhiễm lấy dị-đoan, nào là hô-phong hoán-võ, tróc quỉ trừ ma, bày binh bố trận, mới biến ra tả-đạo bàn-môn, thiệt là rất hại.
3- Lý tam-nguơn.-“Các con khá biết: Đạo có ba nguơn, ba nguơn ấy là cái số cuối cùng của Trời, Đất.Trước hết mở đầu là THƯỢNG-NGUƠN.Thượng-nguơn đây chính là “nguơn tao-hóa” là nguơn đã gầy dựng cả Càn-Khôn Võ-Trụ.Vậy khi mới tao Thiên, lập Địa nhân loại sinh ra thì tánh-chất con người rất đỗi hồn-hồn ngạc-ngạc,còn đang thuần-phác thiện-lương, nên chi cứ thuận tùng Thiên-lý mà hòa-hiệp dưới trên, tương thân tương ái.Thời-kỳ ấy người người đồng hấp thụ khí thiên nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh-nhàn khoái-lạc mà vui say mùi Đạo tháng ngày.Bởi đó đời Thượng cổ mới có danh là đời Thượng-Đức, mà Thượng-nguơn ấy cũng kêu là nguơn “ THÁNH-ĐỨC” nữa.
Kế đó bước qua TRUNG-NGUƠN thì nhân tâm bất-nhứt, tập-quán theo thói đời, thâm nhiễm những nết xấu mới làm cho xa mất điểm thiện-lương bèn cậy ở sức mình mà hiếp bức lấy nhau, chém giết lẫn nhau, tương sát, tương tàn, mạnh còn yếu thì mới sanh ra biết bao trường huyết-chiến, không còn kể đồng loại, đồng chủng, đã lợt tình đồng nghĩa, đồng bào.Bởi đó đời Trung-Cổ mới có danh là đời THƯỢNG-LỰC, mà Trung-nguơn ấy cũng kêu là nguơn “ TRANH-ĐẤU” nữa.
Tiếp đến là HẠ-NGUƠN, sự tranh đấu ngày càng rao-riết, dữ-tợn, gớm ghê thì nhân-loại lại chê sức mạnh mà dùng não-cân, nên mới bày ra chước quỉ, mưu-tà, kế sâu, bẩy độc thiệt là khốc-liệt phi thường.Song đó cũng là lẽ tự nhiên, càng tranh-đấu mới càng tấn-hóa.Ngặt càng tranh-đấu lắm lại càng ác-liệt lắm, nên tranh-đấu thét phải đến ngay thời-kỳ tiêu-diệt.Bởi đó là đời hiện-tại là đời MẠT-KIẾP, còn Hạ-Nguơn này là nguơn “ĐIÊU-TÀN”.
Nhưng hễ loạn là tới trị, vọng tất phục hưng, nên nguơn tiêu-diệt tất sẽ bước đến nguơn bảo-tồn là nguơn Đạo-Đức phục hưng, để sắp lập lại như đời thượng-cổ, thế nên cũng gọi là nguơn “TÁI-TẠO”.
Vậy nhân-loại bước qua thời-kỳ này là thời-kỳ qui nhứt-thống, đại luân-hồi của Thiên-Địa đó.Mà ngày nay đã đúng số nhất định của Tạo-Đoan,đã tới nguơn cuối cùng của Thiên-Địa, vì tính ra đã là mười hai vạn chin ngàn sáu trăn năm, nên đã tới thời-kỳ tạo Thiên lập Địa một lần nữa.
Cái lý tam nguơn này cũng đồng một lý với Phật về sự phân chia ba thời-kỳ của Phật là : Thời-kỳ chánh-pháp, thời-kỳ tượng-pháp, thời-kỳ mạt-pháp.
Như ta đã thấy ở thời-kỳ chánh-pháp là thời-kỳ Phật ra đời phổ hóa chúng sanh.Chánh-pháp rất thạnh cho nên người sanh ở đời này mỗi tu mỗi đắc.Qua thời-kỳ tượng-pháp là thời-kỳ xa dần chánh-pháp, cho nên việc tu hành buông lơi, kẻ tu thì nhiều mà người đắc quả thì ít.Kịp đến thời-kỳ mạt-pháp lại càng xa chánh-pháp không biết bao nhiêu cho nên việc tu-tinh rất bê-trễ.
Con người sinh ra trong thời kỳ này háo danh háo lợi, dầu cùng ở trong một tông phái cũng chia phe kết đảng tranh-đấu nhau.Chính vì đó mà con người bước đến chỗ đốn mạt.Song luật tuần-hoàn của vũ-trụ vẫn không bao giờ dứt.Một khi đi đến chỗ cuối cùng thì chuyển sang qua một giai đoạn mới để trở lại thời-kỳ chánh-pháp rồi tượng-pháp và đi đến kết cục là mạt-pháp.Chính Phật Di-Lặc sắp ra đời là để trùng-hưng chánh-pháp hay Thượng-nguơn vậy.Cái lý của Cao-Đài giáo không xa cái lý của Phật.
Nhưng ngoài cái lý về tam-nguơn, Đức Cao-Đài Tiên Ông còn giải thích cái cơ mầu nhiệm về luật tiến-hóa của quả Địa-cầu mà Ngài gọi là “ quả Địa-Cầu 68”, và chính đó là lý do thứ tư về đời tận diệt.
4- Luật tiến-hóa của Địa-Cầu.- “ Đây Thầy luận qua “ quả Địa-Cầu 68 của các con” , nó gần ngày tiêu diệt.
· Thầy không nỡ để các con chung chịu vùi lấp trong cuộc tang thương nên phải giáng-thế độ đời, thả Linh-Thoàn mà đưa về Bồng-Lai Tiên-Cảnh.
· Cái quả Địa-Cầu của các con ở đây nó gần đúng thời-kỳ tan rã, ấy là Thiên-Thơ Thầy định trước ngày giờ, mà cũng vui cho các đấng chúng-sanh được trổi bước lên một nấc thang cao vọi. Hễ thế giới này tiêu diệt thì linh hồn nhân-loại tấn-hóa sang qua quả Địa-Cầu 67 là nơi tiền-định của Đạo mầu.
· Thầy mới đến đây lần chót mà đem các con sang qua thế-giai nhẹ-nhàng, còn những đứa mê muội, ngỗ ngang, tội tình thì lại bị tiêu tan ra gió bụi.Các con phải có ngày tận-tuyệt.Đứa nào thuận Thiên-cơ biết Đạo-Đức thiện-từ thì Phật, Tiên chực rước.Còn đứa nào cả ác-độc, truợc-trần khó mà an thân ngày chót…
· Vậy thì ngày nay thế giai đã đúng luật tuần-hoàn,Thầy đến để đặng sẽ đem theo các con vào một thế-giai khác mà cho an-nghĩ hầu tầm cơ siêu-xuất đến cảnh Thần Tiên.Các con chẳng nên khinh lời ấy là dị-đoan, một ngày kia sẽ có.”
Xem qua bốn lý-do vừa kể thì cơ tận-diệt đã rõ rệt quá rồi.Các đấng Phật, Tiên, Thần, Thánh giáng bút đều chẳng bao nhiêu lần nhắc nhở và báo trước ngày Tận-Thế sắp đến.Cái định-luật này đã dĩ nhiên của cơ tạo hóa, không có đấng thiêng liêng nào làm ra hay cưỡng lại được.Chính đấng Cao-Đài Bồ Tát đứng trước định-luật ấy cũng không biết phải làm sao, đến phải than:
Thời-kỳ nhân vật đổi thay,
Nên chi Thầy mới ra tay độ hồn.
Thầy là Chúa cả Càn-khôn,
Nhưng không thể sửa Phép công Thiên điều.
Thấy con phạm tội rất nhiều,
Thương con xuống thế dắt dìu các con.
Bởi là Thiên-điều, là phép công của tạo-hóa cho nên không làm sao sửa-chữa được vì tạo-hóa bao giờ cũng vô-tư, thưởng phạt rất công-minh.
Cầm-cân Tạo-hóa rất công-minh,
Lành thưởng phước ban, dữ phạt hành.
Một mảy không ly, đời tưởng dễ,
Nạn tai dường ấy cũng chưa kinh.
Mà luật thưởng-phạt ấy, do đâu mà có? Nếu nói là do đấng thần-linh làm ra là sai cả luật Tạo-hóa công-minh vô tư.Không đấng thần-linh nào bày ra cả.Mọi sự phản-khích trong đời đều từ con người mà ra.Hễ con người tạo ra cái nhân nào thì tất nhiên phải hưởng cái quả ấy.Các đấng Phật, Tiên, Thần, Thánh thấu triệt cái luật nhân quả muốn cứu đời cũng không biết làm sao được khi chúng-sanh đã gây ra rất nhiều tội lỗi.Các đấng thiêng-liêng chỉ còn cách là khuyên người đời bỏ ác về lành, sống đúng theo đường Đạo là con đường hướng –thiện.
Đứng trước cơ tận-diệt, các đấng thiêng-liêng không nỡ ngồi yên phải đành giáng-thế độ đời.
Thầy thương mở lượng từ-bi
Giáng-trần khai hóa Tam-kỳ Hạ-Nguơn.
Nay là đúng cuộc tuần hoàn
Phật,Tiên giáng thế ra ơn độ người.
Chấn hưng giáo lý Đạo-Trời,
Hầu toan đánh thức người đời tỉnh say.
Cách giáng-thế độ đời của Tiên, Phật có nhiều lối: hoặc ra cơ bút như Cao-Đài-Giáo, hoặc chuyển kiếp mượn xác trần như Phật-giáo phái Phật Thầy Tây-An.
Khi giáng bút thức tỉnh người đời, các đấng thiêng-liêng bằng báo cho hay trước sắp đến ngày tận-diệt:
Nguơn hội chót lập thành cơ Đạo-Đức,
Để độ đời thoát vực biển sông mê.
Cuộc tang thương nay cũng gấn kề,
Đường chánh đại chưa hề ai bước đến.
Hoặc giả thấy đời sắp thảm khổ mà phải than: “ Cuộc đời cay nghiệt, nhiều nỗi éo le, nạn nọ nạn kia kế đến ngày tạo Thiên lập Địa.Máy hành tàng chưa thấu đáo, phép nhiệm –mầu cơ Tạo đã bày ra.Ôi là thảm khổ cho đời sẽ chịu vùi chon trong cuộc tang thương biến đổi”.
Nhưng cơ tận-diệt ấy sẽ diễn ra thế nào? Và chúng-sanh sẽ bị tiêu diệt hết chăng?
HỘI LONG-HOA LÀ NGÀY PHÁN-ĐOÁN
Theo cơ bút của Cao-Đài-Giáo thì rồi đây sẽ có hội Long-Hoa để chọn người hiền-đức.Chỉ có người hiền-đức mới đi đến Hội Long-Hoa.Còn những kẻ hung ác thảy đều bị tiêu diệt.
Hiếm hoi cuộc thế xoay vần,
Long-Hoa đăng bảng Phong-Thần chẳng lâu.
Thấy đời có biết gì đâu?
Không lo luyện tập Đạo mầu thoát mê.
Cả mang tội lỗi nặng nề,
Trong vòng tứ khổ khó bề lánh tai.
Cuộc trần nhiều lối chông gai,
Trời hôm trước khéo lạc loài mang nguy.
Như thế đủ thấy Hội Long-Hoa là một Hội lập ra trong thời-kỳ tận-diệt để chọn người hiền, một cơ hội hiếm hoi, mấy muôn năm mới có một kỳ.Hội sỡ dĩ được lập ra là vì con người đã gây ra tội-lỗi quá nhiều , cũng như nhà ngục sỡ dĩ có là vì đã có người phạm tội.Như thế ai cũng có thể hiểu “ Hội Long-Hoa là ngày phán-đoán, ai mưu tà, chước quỉ bị đọa đày.Bảng Phong-Thần trước mắt, cuộc dữ dằn đã cuối buổi tương lai”.Đối với kẻ ác, Hội Long-Hoa là một cuộc phán quyết, nhưng đối với người hiền-đức, Hội Long-Hoa vốn là trường thi để chọn trang tu-mi Đạo cao Đức cả.
Ngọc-Hoàng Thượng-Đế vận thần thông,
Điểm`đạo nhân sanh thoát não nồng.
Mở cuộc Long-Hoa chiêu Thánh-Đức,
Hưng truyền chơn-ý phước cao phong.
Thế cho nên những “ kẻ hữu căn hữu phước khá lập chí lo tu luyện cho kịp kỳ” vì là một cơ hội hiếm hoi mà lại là:
Kỳ đại-xá Nam-bang hữu phước,
Mối chơn truyền gặp được là may.
Dầu người có tội tình mà biết ăn-năn cải hối lo lập đức tu thân cũng đều được ân xá, huống chi chính Nam-bang là nơi hữu phước hơn hết:
Lo lường thấu đáo đạo huyền-vi,
Từ thuở năm xưa chẳng dám bì.
Một nước nhỏ nhen trong vạn quốc,
Ngày sau làm chủ mới là kỳ.
Nhưng vì đâu Nam-bang hữu phước thì không thấy giải, chỉ thấy nói:
Động-phương hồng-phước cũng còn,
Nên chi Tiên, Phật chiu lơn độ nhơn.
Đã là một cơ hội hiếm hoi cho những người hữu phước nên Phật, Tiên khuyên chúng-sanh phải sớm cải ác tùng thiện, gắng chí tu hành cho kịp Hội Long-Hoa để cho khỏi đọa sa muôn thuở:
Đời vừa gặp lúc Hạ-nguơn,
Tang điền thương hải tuần huờn vần xoay.
Thiên-cơ khó nỗi tỏ bày,
May duyên mới gặp Đạo-Thầy kỳ ba.
Rang tu kịp hội “ Long-Hoa”,
Trễ rồi một kiếp đọa sa muôn đời.
Dầu cho vật đổi sao dời,
Tu hành cũng được Phật Trời chở che.
Nhưng khi Hội Long-Hoa đã mở, những người hiền-đức đã được chọn, đời sống tương lai sẽ thế nào? Đây là điều Đức Cao-Đài Thượng-Đế cho biết:
“ Đạo phục-hưng là vì lòng bác ái, từ-bi của Thầy thấy cuộc tuần huờn hầu mãn, cơ dĩ định cận kề, không lẽ để đám con thảy phải chung chịu trong cuộc tang điền thương hải, mà bị chôn lấp cả xác-hồn, nên mới giáng-thế phục-hưng chơn truyền để chỉnh đốn đời U-Lệ trở lại đời Nghiêu-Thuấn cho người người rõ Đạo Đức tu hành, hầu thuận theo Thiên-lý mà bỏ dữ làm lành và kềm nhơn-dục để xa đường tội lỗi.”
Chỉ biết đời hậu lai sẽ như đời Nghiêu, Thuấn, hay hơn nữa:
Dựng đời Ngủ-Đế Tam-hoàng,
Trăm nhà muôn họ vững vàng thảnh thơi.
Chưa ai thấu đáo cơ Trời,
Rồi ra kích bác lắm lời dị-đoan.
Chớ không biết gì nhiều hơn nữa.Duy có Sấm Giảng của Phật-giáo phái Phật-Thầy thì mới thấy giải rõ cõi đời Thượng-nguơn.
CHƯƠNG THỨ TƯ
Phật-Giáo
phái Phật-Thầy Tây-An
I.-ÔNG-SƯ-VÃI BÁN-KHOAI
Đức Phật-Thầy Tây-An mà dân chúng ở miền Tây Nam-Việt đều biết, chỉ là một kiếp trong nhiều kiếp của Đức Phật-Thầy.Theo sự hiểu biết của chúng tôi thì Đức Phật-Thầy còn nhiều kiếp nữa như: Đức Phật-Trùm ở Xà-tôn, Đức Bổn-Sư ở núi Tượng, Đức Phật-Thầy Tây-An ở núi Sam, ông Sư-Vãi Bán-Khoai ở Cao-miên…và gần đây Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo.Tôn-chỉ đạo của Đức Phật-Thầy là gìn đạo Thích-Ca tu theo phép vô-vi, thế nên ít chú trọng về mặt hữu-vi.Vì thế mà ít thấy lưu truyền Sấm Giảng, hoặc giả có nhờ môn đệ kết-tập chăng, cũng vì thất lạc mà không còn.Ngày nay chỉ thấy lưu-truyền quyển Sấm giảng người đời của ông Sư-Vãi Bán-Khoai là còn được đầy đủ.Cho nên về tài liệu để hiểu đạo của Đức Phật-Thầy, không thể vịn vào đâu hơn bút tích của ông Sư-Vãi Bán-Khoai.
Chắc sao cũng có người hỏi: Làm thế nào được biết ông Sư-Vãi Bán-Khoai là chuyển kiếp của Đức Phật-Thầy?
Có bằng chứng có thể tin được:
o Theo những lời của các môn-đệ được gần Ngài kể lại hay đươc ngay Ngài giảng dạy.
o Theo quyển Sấm giảng người đời của Ngài có nhiều đoạn Ngài đã bộc lộ, như:
Thương dân nói đã hết lời,
Tôi nay thế vị thế lời Thích-Ca.
Hoặc như:
Tôi nay vưng lịnh Phật, Trời,
Rao cho thiên-hạ dưới đời đặng hay.
Chỉ có Đức Phật-Thầy mới dám xưng như thế.
o Theo Sấm giảng của Đức Giáo-chủ Hòa-Hảo, có chỗ cho biết:
Ở Cao-miên vì mến Tần-hoàng
Trở về Nam đặng có sửa sang
Cho thiện-tín được rành chơn-lý.
Như thế đủ ám chỉ về ông Sư-Vãi Bán-Khoai và chính trong Sấm giảng,ông Bán-Khoai cũng có viết:
Tôi đâu mà có yên thân,
Bâygiờ Phật biểu tôi sang nước Tần(Cao-miên)
Mến là mến nghĩa Hoàng-Lân,
Thương là thương lấy vạn dân mắc nàn.
Cứ theo ba bằng chứng trên đây, không còn ai chẳng nhìn nhận ông Bán-Khoai là chuyển kiếp của Đức Phật-Thầy.
Phương chi giữa Đức Phật-Thầy Tây-An,Đức Phật-Trùm và ông Sư vãi Bán-Khoai vẫn có sự đồng nhứt:
· Hay xưng Khùng Điên là để chống đối lại người đời, ưa xưng khôn lanh, nhưng khôn lanh về đường tội ác.
Mặc dù là xưng Khùng Điên, nhưng mà thứ Khùng Điên của Phật, tỏ thấu cơ huyền.Trong Sấm giảng người đời, ông Bán-Khoai đã xưng Khùng:
Khùng là Khùng Phật Khùng Trời,
Cho nên Khùng biết việc đời hết trơn.
Và xưng Điên:
Điên này Điên Phật Điên Thầy,
Chẳng sợ ai rầy nên nói cù nhây.
Các Đức Phật Thầy Tây-An, Đức Phật-Trùm và Đức Giáo Chủ Hòa-Hảo, vẫn thường xưng như thế.
· Hay giả dạng khi trẻ khi già,khi kẻ ăn mày,đi hóa-độ chúng sanh, thức tỉnh người đời.Ông Bán-Khoai có viết:
Hết trẻ thì tôi lại già,
Hết già tới trẻ ai mà có hay.
Hoặc là:
Phật còn giả kẻ ăn mày,
Ai mà biết đặng kẻ này thiệt hơn.
Ai có ở miền Hậu Giang đều thường gặp những trường hợp Đức Bổn-Sư, Đức Phật-Thầy Tây-An giả dạng đi cứu dân độ thế.
· Các lời giáo truyền của Đức Phật-Thầy Tây-An, Đức Đức Giáo Chủ Hòa-Hảo vẫn giống nhau.Nhận định huyền-cơ cùng tiên tri hậu vận không có chỗ nào khác nhau.Bởi thế khi đọc quyển Sấm giảng người đời của ông Sư-Vãi Bán-Khoai,ta có thể hiểu được tôn-chỉ đạo của Đức Phật-Thầy.
Ta có thể nói quyển Sấm giảng người đời đại diện cho tư tưởng cùng quan niệm của cả phái Phật-Thầy.
Như vậy trong tình trạng thiếu sót tài liệu như hiện nay, ta có thể bằng vào quyển Sấm giảng người đời của ông Bán-Khoai để được Đức Phật-Thầy nói gì về Tận Thế và Hội Long-Hoa.
Cũng như quyển Đại-Thừa Chơn-Giáo của Cao Đài giáo, quyển Sấm giảng người đời của ông Sư-Vãi Bán-Khoai cũng mở đầu bằng câu đánh thức người đời rằng đời Hạ-nguơn đã đến:
Hạ-Nguơn Giáp-tý bằng nay,
Cơ Trời đã khiến lập đời Thượng-lai.
Và từ đầu chí cuối, danh từ Hạ-nguơn vẫn được lập đi lập lại mãi, ý chừng muốn nhấn mạnh cho người đời luôn luôn để ý:
Ha-Nguơn nay đã hết rồi
Minh-Hoàng cầu Phật lập đời Thượng-Nguơn.
Hoặc với câu:
Hạ-Nguơn Tuất-Hợi đổi đời,
Ngọc-Hoàng hội-nghị lập đời Thượng-Nguơn.
Cứ theo ba câu vừa dẫn,đủ cho ta thấy rằng sự nhận định của ông Sư-Vãi Bán-Khoai không khác với Cao-Đài-Giáo về lý tam-nguơn.Thời Hạ-Nguơn sỡ dĩ sắp mãn là để lập nên đời Thượng-Nguơn.Rồi cứ theo luật tuần-hoàn,sẽ bước qua thời kỳ Trung-Nguơn để lọt xuống thời-kỳ Hạ-Nguơn.Và luật tuần hoàn cứ như thể diễn tiến mãi.Nay thì thời cơ đã mỏng manh:
Hạ-Nguơn như sợi chỉ mành,
Sao không tu niệm tranh hành lam chi?
Và ông Sư-Vãi Bán-Khoai dám quả quyết rằng cơ Trời đã dĩ định.
Đời này như nước cờ cùng,
Nói cho già trẻ giữ gìn tu than.
Xem qua xét lại mấy lần,
Cơ Trời định chắc không lầm bớ dân!
Bởi thế mà ông không ngần ngại truyền rao:
Rao cho bá tánh đặng tường
Kinh này rốt việc rốt đời bớ dân!
Thời cơ đã mỏng manh, cơ trời đã định nhưng đã gần chưa và do đâu biết nó sẽ đến?
NHỮNG ĐIỀM BÁO TRƯỚC ĐỜI ĐÃ TỚI
Ông Sư-Vãi Bán-Khoai không ngần ngại mà cho biết đời đã cận lắm rồi.Quá cảm thương trần hạ nên ông không còn giấu nữa:
Cảm thương trần hạ gái trai,
Ra bài giáo thiện khỏi tai nạn sầu.
Bây giờ còn giấu chi đâu,
Từ đây riết tới không lâu mà chờ.
Nhưng sợ người đời vì chờ quá lâu mà đâm ra nghi ngờ,nên chi ông khuyên và quả quyết:
Trẻ già đừng có nghi ngờ,
Việc đời ngó thấy bây giờ tới đây.
Đã biết rằng đời Hạ-Nguơn sắp mãn, nhưng do đâu mà biết rằng đời đã tới?Ông Sư-Vãi cho biết hai việc: một việc xảy ra ở cõi tục-phàm và một việc xảy ra ở cõi Trời.
Về cõi đời thì con người ngày một trở nên hung ác tranh giành cướp giựt chém giết lẫn nhau, không còn thờ kính Phật Trời, nể kiêng cha mẹ,nói tóm lại là những điều gồm trong hai nhân tố: đời sống vật chất lẫy lừng và đời sống tinh thần đạo-đức suy đồi,như đã thấy trong bốn lý do của cơ tận-diệt mà Cao-Đài-giáo đã đưa ra.
Cơ tận-diệt ấy còn biểu hiện bằng những điềm Trời cũng như trước kia Chúa Giê-Giu đã tiên-tri.Ông Sư-vãi cho biết trước rằng:
Mây Trời mở hội đăng khoa,
Mười ba tháng chin Trời ra một điềm.
Trời chiều mây lặng gió êm,
Giờ Thân Trời mới nổi lên rõ rang.
Điềm hiện ba sắc lam quang,
Sắc đỏ sắc vàng lại với sắc xanh.
Rồi ông kết luận:
Nói cho già trẻ đặng tang,
Việc đời gần chứ không xa mà chờ.
Phật-Trời chiếu rõ tri-cơ,
Có nghe không ép,làm ngơ không nài.
Về điểm này, theo lời của một vài ông kỳ-lão kể lại,những người cùng thời với ông Bán-Khoai đều mục kích rõ ràng,và nhờ đó họ tăng trưởng đức-tín một dạ tin-tấn tu hành.
Nhưng muốn cho người đời nhận thức một cách thực tế hơn, ông Sư-Vãi còn chỉ cho người đời để ý về thời tiết đã đổi xoay:
Đời đã Tận-Thế vậy mà,
Mùa Nam gió bấc,Đông thời gió Tây.
Mây Trời nay đã đổi xoay,
Công danh có một hội này mà thôi.
Đó là những điều xảy ra trong cõi tục-phàm.Ngoài ra,cơ tận-diệt,theo ông Sư-Vãi Bán-Khoai còn nằm trong quyền định đoạt ở cõi Trời.Và chỉ có các đấng Phật, Tiên mới rõ được.Điều này ngoại trừ người có tôn giáo,không có thể hiểu nỗi.Ông Sư-Vãi cho biết rằng:
Cõi trần khi dể Phật,Tiên,
Cứ theo vụ việc kiêu dèm liên-miên.
Du-Thần tuần vãng chép biên,
Ghi tội ghi phước dưới miền trần-gian.
Mãn trăng sổ nạp một lần,
Thiên-đình hội-nghị phân tường hiền trung.
Sổ kia soạn trước vận-trung,
Tội nhiều phước ít khó dung cho trần.
Cứ theo các kinh Phật thì cõi trần tức là Nam Thiệm-Bộ châu nữa tức là: Đông-Thắng-Thần châu, Tây-Ngưu-Hóa châu và Bắc-Cu-Lô châu đều đặt dưới quyền chưởng quản Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.Chính Ngài nắm luật thưởng-phạt, nhưng cái luật ấy sỡ dĩ có cũng do nơi người trần.Hễ con người tạo nhân nào thì chịu quả nấy.Ngài chỉ giữ địa vị như một vị thẩm phán mà thi hành luật.Cứ theo bảng thượng tấu của các Du-Thần thì:
Dương-trần ít kẻ kính thành,
Mãng lo làm dữ việc lành bỏ đi.
Tội ác của người trần kể không xiết và không thể tha thứ được:
Tội dữ thiệt đã vô ngần,
Xem trong kinh sổ khó phần thứ tha.
Chính vì đó Đức Ngọc Hoàng Thượng-Đế định tiêu diệt:
Hạ-nguơn gian ác rất nhiều
Thiên-đình Ngài muốn xử tiêu cho rồi.
Nhưng với lòng từ bi bác ái, Phật rất thương sót chúng sanh không dành để cho đời tiêu diệt,nên:
Tâu qua Ngọc-Đế một khi,
Thứ dung trần thế nhơn dân đặng nhờ.
Và Phật xin xá tội cho trần gian,để Phật giáo khuyên một lần chót.Ông Sư-Vãi cho biết:
Năm nay đời đã tới rồi,
Phật sai xá tội vậy thời cho dân.
Hay là:
May mà Trời Phật bố-ân,
Xá bớt tội nọ thanh-nhàn tấm thân.
Về vấn đề xá tội, Cao-Đài-Giáo nhận là kỳ xá tội lần ba.
Chính với sứ mạng cứu vớt chúng sanh trong thời kỳ Hạ-nguơn này mà Phật Tiên lâm phàm, hoặc bằng cơ bút như đã thấy Cao-Đài-Giáo hoặc giáng sanh như trường hợp ông Sư-Vãi Bán-Khoai.Ông cho biết:
Thân tôi còn ở trong Trời,
Phật sai tôi phải đôi lời giáo-khuyên.
Hoặc là:
Tôi nay vưng lịnh Phật Trời,
Rao cho thiên hạ dưới đời đặng hay.
Cuộc đời các việc tỏ bày,
Dữ lành đâu có nào sai đâu là.
Sứ-mạng của ông rất lớn.Ông hoa-hiện hay chuyển kiếp chẳng biết bao nhiêu thân, đi giáo khuyên khắp cõi trần:
Phật Trời Tiên Thánh sầu bi,
Cậy ông Sư-Vãi mau đi giải trần.
Sư-Vãi vội vã ân cần,
Đi hết khắp bốn cõi trần van khuyên.
Thương ông Sư-Vãi nhọc nhằn,
Sao thân chẳng biết mấy thân dưới trần!
Ông đem hết lời Phật dạy mà khuyên răng chúng sanh.Ông cho biết những lời của ông nói ra không phải tự của ông mà lời của Phật:
Giảng này của Phật Tây-Phương,
Cho Khùng đặng dạy cứu an dương-trần.
Hoăc giả:
Giảng này Phật biểu truyền rày,
Thấy trong cuộc thế đời này nghinh ngang.
Cho nên Phật biểu lưu truyền,
Như trong bá tánh tin thời ghi coi.
Về phương pháp phổ hóa, ông Sư-Vãi Bán-Khoai hay nói rõ ra những ngài trong phái Phật-Thầy,thường hay giả dạng,khi kẻ ăn xin,khi người buôn bán, nhứt là xưng Khùng xưng Điên, đi từ xứ này qua xứ nọ, từ thành thị đến thôn quê,đem lời Phật mà khuyên răn đời.Ông Sư-Vãi Bán-Khoai cho biết:
Phật Tiên thôi mới đổi phiên,
Xuống ngay trần thế giả người bần nhơn.
Giả Điên rồi lại giả Khùng,
Cơ hàn rách rưới rất nên thảm sầu.
Riêng về phần ông thì ông giả người đi bán khoai, hoặc bán gạo,bán củi, thương lái vãng miệt Hậu giang:
Tôi là “ Ông Sãi bán-khoai”,
Bán gạo Ông-Chưởng ai ai cũng lầm.
Nhưng sứ mạng của ông có thể nói là ở Cao-miên hơn.Chính ông cũng nhận là Phật sao ông qua đó phổ độ:
Tôi đâu nào có an thân,
Bây giờ Phật biểu tôi sang nước Tần.
Mến là mến nghĩa Hoàng-Lân,
Thương là thương lấy vạn dân mắc nàn.
SƯ VÃI BÁN-KHOAI VỚI HỘI LONG-HOA
Ông Sư-Vãi không ngần ngại mà cho biết là Hôi Long-Hoa sẽ được mở ra để chọn người hiền-đức,vì đời Thượng-nguơn là đời vô cùng đẹp đẽ một xã hội của người hiền, không có kẻ ác.Sỡ dĩ Hội Long-Hoa lập ra là để chọn người hiền vậy:
Bởi trần lỗi quá muôn phần,
Cho nên lập Hội Long-Hoa chọn người.
Hiền từ thời đặng thảnh thơi,
Nghinh ngang khó trốn lưới Trời bớ dân!
Lưới hồng bủa khắp cõi trần,
Chuyển luân bát quái còn trông nỗi gì!
Hạ-nguơn sau chót xét suy,
Sự vong nào có khác chi sự tồn.
Nhưng cho được đi đến Hội Long-Hoa và được chọn chẳng phải là việc dễ.Vì là một trường thi để chọn người hiền, cho nên trước khi đi đến Hội Long-Hoa, phải trãi qua bao nhiêu giai đoạn thảm sầu ghê gớm.Đây là những báo hiệu của thời Hạ-Nguơn:
Hạ-Nguơn này thể như bèo,
Nay còn mai mất hiểm nghèo thon-von.
Lớp thì bịnh tật gầy mòn,
Lớp thời bão lụt nhân dân khốn nàn.
Lớp thời sưu thuế đa đoan,
Lớp kia lớp nọ khổ nàn biết bao.
Lớp thời tà quỉ lao xao,
Xui mưu làm loạn hại dân muôn ngàn.
Lớp nào là giặc nổi lên đámh tứ tung, không còn biết noơi nào mà tránh:
Giặc thời tứ phương vậy thì
Nhiều nước dị kỳ khác chẳng giống nhau.
Vừa chạy vừa khóc như mưa,
Trốn đâu cho khỏi binh ngừa bốn phương.
Nào là cha con chồng vợ lạc nhau, nhà tan cửa nát:
Làm cho nhiều việc tiêu điều,
Muôn ngàn thiên hạ chín chiều thon-von.
Kẻ thời khóc mẹ kiếm con,
Ruộng trâu đã hết chẳng còn món chi.
Cửa nhà tan nát vậy thì,
Đất bằng sấm dậy con gì Trời ôi!
Thiên-hạ chết như bèo trôi sông:
Ngồi trên đỉnh núi cheo leo,
Thấy trong thiên hạ như bèo trôi sông.
Và phần nhiều những người xấu số ấy, theo ông Bán-Khoai, là những người hung ác:
Đứa dữ chết đuối chết đường,
Lớp đau lớp chết xóm làng tan hoang.
Thây nằm như thể làng cang,
Nhà giàu thì lại tan hoang hơn nghèo.
Nhưng ngoài cuộc tàn sát bằng chiến tranh do loài người gây ra, còn nhiều tai trời ách nước nữa, như nạn nước lụt, lửa cháy khắp trời:
Truyền rao chẳng biết mấy lần,
Thương đời trần hạ muôn phần lao đao.
Nước đâu ngập lút gò cao,
Lửa đâu dậy cháy lao xao khắp ngàn.
Cảm thương trần hạ lăng xăng,
Mắc trong nước lửa biết đường là đâu?
Thứ lửa nó bay trên cao,
Đến đâu cháy đó chỗ nào cũng tiêu.
Lại còn âm binh nhiễu bại:
Lại có một mối âm binh,
Làm đau nhiều chứng trong mình chẳng an.
Kẻ thời nát ruột nát gan,
Người lại nát thịt tan xương chẳng còn.
Lại còn ác thú giết người không biết bao nhiêu mà kể:
Những kẻ hung ác chẳng bền,
Hổ lang ác thú bắt rày chẳng tha.
Thịt xương ăn bỏ dẫy đầy,
Nói cho bá tánh đời này tu thân.
Mà lại là những ác thú kỳ hình dị trạng chưa từng thấy:
Thú sao nhiều thứ dị kỳ,
Biết sao cho hết khác thi thú nay.
Lớp bay lớp chạy lăng xăng,
Chừng đó cầu nguyện Phật ngừa đặng đâu.
Những cảnh tượng ghê rợn ấy thật là ngoài sức tưởng tượng của con người.(1)
Khi xảy ra bao nhiêu cảnh tượng rùng rợn ấy, con người sẽ ra sao và cuộc đời sẽ ra thế nào?
Ông Sư-Vãi Bán-Khoai cho biết rằng trong lúc hỗn loạn chiến tranh giữa loài người thì có điềm Trời xuất hiện.Cái điềm ấy sẽ kinh Thiên động Địa, bởi nó là những tiếng sấm nổ:
Thương thay trần hạ hết tinh,
Sấm Trời sao lại thình lình nổ ra.
(1)Nhưng rồi đây chúng ta sẽ thấy nhà học giả duy vật Hồ Hữu Tường giải thích bằng phương pháp khoa học.
Chừng ấy mới thấy quỉ ma,
Ai lành ai dữ,ai là Phật,Tiên?
Chừng nào tiếng sấm nổ ra,
Thời là lành dữ kẻ tiêu người còn.
Nói ra nghĩ lại héo don,
Lành còn dữ mất khác rày với nhau.
Tiếng sấm ấy sẽ làm cho nhiều hòn núi phải vỡ, nhiều cù-lao,đất liền phải sụp.Quả địa-cầu vì đó mà thay hình.Chính trong lúc đó thì súng không còn nổ:
Đến đâu súng nổ đá chai,
Nói cho già trẻ gái trai hay mừng.
Có phải chăng vì thấy loài người dùng súng giết hại nhau, nay đá nổ nó phải chai không còn bắn giết được nữa,mà ông Bán-Khoai gọi đó là một điều mừng.Và ông còn báo một tin kinh ngạc khác nữa:
Nói cho già trẻ lo âu,
Minh-Vương khôi phục Hớn-Châu Phong-Thần.
Rán mà tu niệm ân cần,
Đặng mà coi Hội Long-Vân trên Trời.
Ở trên mây bạc giữa vời,
Tiêu thiều ca xướng khác nào Trường-An.
Chính là lúc Phật, Tiên lập Hội Long-Hoa để chọn người hiền đức:
Phật Trời nói chẳng sai lời,
Long-Hoa là Hội Phật Trời lập ra.
Lập rồi cái Hội Long-Hoa,
Chọn người tu niệm đặng mà bao nhiêu?
Chọn lựa coi thử ít nhiều,
Người lành kẻ dữ còn tiêu kẻ nào?
Như thế Hội Long-Hoa có thể gọi là một Hội chọn người hiền.Nhơn loại vì đó phải trãi qua bao nhiêu tai Trời ách Nước, chịu một cuộc sang sảy ghê gớm:
Sàng qua sảy lại bằng nay,
Hết xấu tới tốt hết vong tới tồn.
Chẳng qua để chọn cho thiệt người hiền đức:
Gạn cho hết đục tới trong,
Thương thay đồ đệ hết lòng chẳng buông.
Lựa đồng mà đúc lấy chuông,
Lựa người hiền đức mà thương lâu dài.
Nhưng sau cuộc sang sảy chọn lựa,người hiền đức còn lại chẳng bao nhiêu.Ông Sư-Vãi cho biết trong mười người chỉ còn có hai người:
Tôi buồn bốn phía không yên,
Kẻ dữ hết tám người hiền còn hai.
Và chỉ có hạng người hiền mới được đi đến Hội Long-Hoa:
Cuộc đời quả thiện hẳn hoi,
Hội mười tám nước tôn Vương Đế-Hoàng.
Đặng coi cái Hội Long-Hoa,
Chọn người tu niệm Hoàng gia tôn thần.
Lại còn cái Hội Long-Vân,
Quân thần cộng lạc thảy đều vui chơi.
Người lành mới được thảnh thơi,
Hoa, Vân hai Hội chúa tôi vui vầy.
Được đi đến Hội Long-Hoa đã là diễm phúc rồi, thế mà ông Bán-Khoai còn cho biết người nhân đức được một diễm phúc nữa:
Tu hành nhân đức thì hơn,
Thay hồn đổi xác nhớ ơn Cửu-trùng.
Hết tục rồi lại đến Tiên,
Giữ lời Phật dạy mới yên mới lành.
Chính đến lúc đó mới là đời Thượng-Nguơn, mở ra một thời kỳ thái bình vĩnh viễn.Ông Sư-Vãi cho biết:
Chừng nào núi Cấm hóa lầu,
Thời là bá-tánh đâu đâu thái bình.
Ông không dứt nhắc đi nhắc lại hiện tượng này cho chúng sanh để ý:
Chừng nào Bảy Núi thành vàng,
Thì mới đặng thanh nhàn tấm thân.
Nhưng mà điều mà ông Sư -Vãi Bán-Khoai vui mừng là khi thời kỳ Thượng-Nguơn đã lập, nước Nam sẽ là môt nước diễm phúc nhứt trên quả địa-cầu:
Nước Nam như thể cái lầu,
Ngày sau các nước đâu đâu phục tùng.
Sỡ dĩ nước Nam được diễm phúc là vì cơ Trời đã định cho nước Nam là cõi Trung-Nguơn sau này.Chính vì được cái diễm phúc đó mà chư Phật, chư Tiên đều lâm phàm ở nước Nam:
Bấy lâu Phật ở xa ngàn,
Bây giờ Phật lại bước sang Nam trào.
Hoặc giả:
Bấy lâu Phật ở nước Tần,
Bây giờ Phật lại trở lần về Nam.
Và cũng vì nước Nam có diễm phúc mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai vưng lịnh Phật đi phổ hóa khắp nơi.Ông rất đau khổ mà thấy đời không chịu nghe.Ông thường than-van:
Chừng nào đến việc biết đời,
Bây giờ không thấy nói thời không nghe.
Hay là:
Cõi trần nhiều kẻ thị khinh,
Thấy đời chưa đến biết chi làm lành.
Nhưng ông quả quyết là sẽ có.cho nên muốn cho đời tin, ông thề rất tha thiết:
Bấy lâu nói trước mà sau,
Bây giờ nói chuyện mau mau tới rồi.
Như ai mà có nghi ngờ,
Tôi thề chứng có Phật Trời nào sai.
Ông bảo cứ làm theo lời dạy, rồi đây coi sẽ có hay không cho biết:
Khuyên hết lớn nhỏ ai ai,
Giữ theo lời dạy nay mai coi đời.
Ông còn cẩn thận mà dặn trước: nếu không tin , sau này mang họa đừng có trách sao ông không có dạy trước:
Mấy bài khuyên khắp Đông Tây,
Nói cho nam nữ đặng hay giữ mình.
Nếu ai mà chẳng có tin,
Rồi sau mang họa chớ tình trách than.
Thật là những lời đầy lòng thương sót; nhưng chúng sanh có tin chăng? Riêng đối với tín đồ phái Phật-Thầy thì những điều nói trên không còn xa lạ, bởi nhiều điều tiên tri của ông đã được xác nhận và đương thực hiện.
Đây là lời tiên tri của ông về nước Tàu, tiên tri gần một trăm năm nay:
Thương thay Trung-quốc chẳng lành,
Bị Phù-Tang nhiều cách khổ hành lê dân.
Nhưng mà Trời chửa định phân,
Cho nên Trung-quốc lo cầu các nơi.
Và đây là lời tiên tri về Việt Nam:
Nói cho thiên hạ đặng tường,
Rán mà tu niệm khỏi đường đao binh.
Giặc kia phía Bắc chiến chinh,
Tu nhân thì đặng Thần linh hộ mình.
Mà tại đâu Trung quốc bị nạn và nhờ đâu Việt Nam được diễm phúc, ông Ba Thới, một môn đệ của phái Phật-Thầy sẽ nói rõ.
II.-ÔNG BA THỚI
Sanh năm Bính-dần(1866), ông Ba là người ở thôn Mỹ trà thuộc quận Cao-lảnh(Sa-đéc).Ông tên Nguyễn Văn Thới, sanh trưởng trong một gia đình bình dân, biết làm nghề thợ nguội và thợ chạm.Ông biết chữ nho.Ông có vợ sanh được bốn trai,một gái.
Ông thường đến vùng Láng thuộc làng Thạnh mỹ tây (Châu đốc) để mua cá về bán lại.Nhân đó ông được nghe danh cậu Hai ( Trần văn Nhu)con ông Quản Thành,một đệ tử của Phật-Thầy, là người đạo hạnh cao siêu.
Ông tầm đến cậu Hai và sau khi lãnh hội giáo-lý ông bèn qui-y với cậu Hai và dời cả gia đình về Láng vào khoảng năm 1905,ở gần chùa Bửu Hương Tự.(1) rồi.
Thường ngày ngoài việc ruộng rẫy để mưu sanh, ông gắng chí trau giồi đạo hạnh.Nhờ có một tấm lòng sùng tín với bản tính thông minh, ông sớm hiểu lẽ diệu huyền của Phật-Pháp.Lúc ở
(1) Mấy kỳ trước đề sai là Bửu Sơn Tự
Láng, ông sáng tác được ba quyển: Vân-Tiên, Thiện-từ, Cổ vãng-kim lai.
Ở đây trong tám năm, ông với cậu Hai rất tương đắc.Vì thế, cháu ruột của cậu Hai tên là sáu Phẩm đem lòng ghanh tỵ nên thừa lúc tại chùa Bửu Hương Tự có cuộc lễ Phật đông đảo bèn tố cáo với nhà cầm quyền tỉnh Châu-đốc rằng ở đó có cuộc nhóm hợp định chống lại chánh-phủ Pháp.
Chùa Bửu Hương Tự bị bao vây.Cậu Hai và ông Ba thoát khỏi, còn lại 56 người bị bắt trong đó có Hai Tuấn là con thứ hai của ông.Những người này bị giải về Châu đốc.Tòa kêu án 13 tháng tù.có 36 người chịu án, còn Hai Tuấn và những người kia chống án,nên bị đưa vào Sài Gòn.Tòa Sài-Gòn y án.Ở khâm Sài Gòn độ năm sáu tháng, những người ấy bị đưa ra Côn-Nôn cho đến mãn tù mới về.
Khi Hai Tuấn bị bắt và cậu Hai ẩn mặt,ông Ba rất buồn thảm, nên ba hôm sau ông dùng dao cạo tự cắt họng.Vết thương rất nặng vì cuốn họng của ông đứt hơn hai phần nên người nhà chở ông lên nhà thương Châu đốc.Ở đây lương y băng bó bao nhiêu đều bị ông gỡ bỏ hết.Ông cự tuyệt không dùng một vật gì của nhà thương.Thấy ông không thể sống được người ta đem bỏ ông ở nhà xác.Ông trốn ra ngoài và được người nhà đem về.
Chùa Bửu Hương Tự bị nhà cầm quyền để ý ông bèn dời nhà về làng Kiến an thuộc quận chợ mới (Long xuyên) vào năm 1912.Vết thương vẫn không lành, nên chỉ khi ăn uống ông phải dùng khăn rịt nó lại mới không rớt cơm ra ngoài.Trước khi tạ thế ông ở mãi trong buồng viết thêm sáu quyển nữa: Ngài-buồn, Kiểng-Tiên, Kim-cỏ kỳ-quan, Cáo-thị, Tứ-đại và Thừa-nhân.
Ông hưởng thọ 61 tuổi, mất 5 giờ ngày mồng chín tháng tư năm 1925.Hiện nay phần mộ của ông được sửa sang và tại nền nhà cũ của ông có dựng lên một cái đền thờ, hằng năm đều có cúng giỗ vào ngày mồng chín tháng tư.
(1) Kỳ rồi vì dựa theo bản chữ nôm sai nên viết quang,nay khảo chánh lại thì quan chớ không phải quang.
Trong phái Phật-Thầy, ông Ba có thể kể là người sáng tác nhiều nhứt và công trình trước thuật của ông là một áng văn chương không kém phần giá trị.Hiếm vì những áng văn ấy không phải là truyện diễm tình như Nhị-Độ-Mai hay Lục-Vân-Tiên mà là những lời tiên tri khuyến thiện, nên ít ai để ý đến.
Thật thế công trình sáng tác của ông Ba Thới là một áng văn có thể nói là ngang hàng với Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu.Câu văn đã điêu luyện thanh tao mà ý nghĩa rất thâm thúy nữa.Một điều đáng nói là ông Ba Thới đã phóng ra một lối thi lạ nhứt trong văn chương Việt Nam.Người ta thường thấy nhiều lối thi thuần túy Việt Nam như lục bát hay song thất lục bát.Ông Ba mở ra một thể thi mới: lối thất bát nghĩa là câu trên bảy chữ câu dưới tám chữ, đọc nghe vừa mạnh vừa véo-von.Dưới đây xin trích bốn câu để quí bạn đọc thử:
Từ Mạnh-Tử ra mắt nước Lương,
Nhan-Hồi đoản mạng cám thương thần đồng.
Tu quốc vương có vợ có chồng,
Có con có cháu nối dòng an bang.
Nếu phải nghiên cứu và trình bày những áng văn chương kiệt tác ấy, ít ra phải viết thành một quyển sách dạy.Ở đây chúng tôi chỉ xét về vấn đề Tận-Thế và Hội Long-Hoa thôi.
NÓI VỀ HẠ-NGUƠN VÀ TẬN THẾ
Cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai, ông Ba Thới nhận thời kỳ này là thời kỳ Hạ-Nguơn, thời-kỳ Tận-Thế:
Phật sanh Phật, ma lại sanh ma,
Hạ-Nguơn Tận-Thế Phật ma lộn cuồng.
Bởi thời kỳ Hạ-Nguơn, thời kỳ Phật ma lộn lạo nên ông Ba khuyên:
Ai ai nhẫn chí để dành,
Hạ-Nguơn Tận-Thế tu hành cần năng.
Danh từ Hạ-Nguơn Tận-Thế vẫn được lập đi lập lại mãi.Đứng trước cuộc đời này Phật cũng chắt lưỡi, bởi chúng sanh quá tham lam tàn ác:
Việc Hạ-Nguơn mỗi việc mỗi tham,
Phật chắt lưỡi khó đam lại đủ.
Kẻ lo ăn người thời lo ngủ,
Kẻ làm chủ, người phủ, làm quan.
Lại dụng mưu làm quấy làm gian,
Đoạt của thế lo toan bất-chánh.
Vì quá tham lam, mãi dụng mưu làm quấy, đã thế khuyên dạy lại không nghe, cho nên:
Đáo Hạ-Nguơn Trời Đất xử tiêu,
Nhiều lời giáo dụ chẳng siêu việc lành.
Chính đó là cơ tận-diệt, ông Ba cho biết để mà đừng có khinh khi:
Việc đời thậm tốc,
Dị bốc tiên tri.
Người nào khinh khi,
Hậu ly đạo Phật.
Ấy thế mà người đời vẫn khinh thường, mãi lo bề giữ của:
Người đời này gẫm chẳng bao lâu,
Lo bề giữ của lo sau không màng.
Ông Ba thương xót mà cho biết rẳng: không khéo rồi đây nước sẽ ngập tới cổ:
Việc thấy đó người phải lo âu,
Nước đã tới cổ ngập sâu hụt giò.
Người đời quá hửng hờ, vì người đời không thấy.Mặc dầu là chưa thấy, nhưng ông Ba cho hay sắp tới, rồi đây sẽ thấy:
Việc không thấy nói trước cho rồi,
Từ nay sắp tới lần hồi coi chơi.
Nhưng muốn coi đời, ông Ba khuyên hãy rán bền lòng, đừng nản chí, dầu phải trãi qua bao nhiêu cảnh gian lao:
Đói lòng ăn bắp với khoai,
Chờ cho tới lúc chiều mai coi đời.
NÓI VỀ HỘI LONG-HOA
Như ông Ba cho biết cuộc đời đã mỏng manh lắm rồi, nhưng cuộc đời sẽ đi về đâu? Ông cho biết, cũng như ông Sư-Vãi Bán-Khoai, rồi đây sẽ mở Hội Long-Hoa, dưng bảng Phong-Thần chọn người hiền đức.Ông cũng nhân đó là một cuộc thi:
Chí cầu may niệm Phật lần lẩn,
Lập đông mãn tiết Phong-Thần ứng khoa.
Những cuộc thi đây không phải là cuộc thi văn hay võ giỏi mà thi về đức, thi về tấm lòng hiền:
Phật thi đức, trào quốc thi văn
Nhơn tùng thi chánh, nhơn tăng thi lòng.
Một cuộc thi mà người đời muốn đi đến phải chịu bao nhiêu cuộc nhồi nhả để trả quả:
Người đổi người,lời lại đổi lời,
Phong-Thần trả quả thấy thời điếc tai.
Đó là một cuộc trả quả cho nên người đời phải chịu bao nhiêu cuộc thử thách gian lao khổ sở:
Thân nhồi nhả rời rã chưa thôi,
Mười sầu mười thảm thương ôi thân người!
Sự khổ ấy một ngày một tăng lên và tiến tới mãi mãi:
Bịnh khắc dược đã khó định phân,
Từ nay sắp tới khổ thân hoài hoài.
Nói rằng khổ, nhưng sự khổ ấy diễn ra bằng cách nào? Ông Ba cho biết sự khổ nhứt của người đời phải chịu là nạn đói:
Sợ ngày sau nhiều kẻ khóc la,
Nằm co chịu đói Phật ma tới tường.
Cái nạn đói này rất dai dẳng, nó kéo dài trong ba năm đăng đẳng.Mà sở dĩ xảy ra nạn đói là vì có nạn hạn hán làm cho đồng khô cỏ cháy:
Dạy làm lành niệm Phật Nam-mô,
Tam niên hạn hán phơi khô thân hình.
Người đời vì đó mà chết đói la liệt, đến nhà không người ở, xác không người chôn, chợ không người nhóm:
Thương ba năm không chợ nhóm chiều,
Nhà không người ở niệm nhiều Nam mô.
Thây không lấp mà để phơi khô,
Không nước mà uống Nam mô đạo nào.
Nhà đã không người ở, chợ không người nhóm, thì ruộng làm gì có người làm:
Tới đó thì hay việc gió đông,
Nhà không người ở ruộng không ai làm.
Bởi thế, ông Ba thường khuyên người đời hãy rán chịu kham khổ cho quen cố sống lây lát muối dưa hẩm hút, sau này mới chịu nổi nạn đói, người ta quá đói, không còn tìm chi ăn được đến phải ăn đá:
Đói ăn bắp đói nữa ăn khoai,
Hết khoai hết bắp, chiều mai ăn đá.
Nhưng danh từ “ Đá” đây theo ông Ba có nghĩa khác, duy những người tu theo phái Phật-Thầy mới hiểu được.
Chẳng chịu đói mà thôi, mà người đời còn chịu bao nhiêu tai nạn khác nữa như nạn âm binh:
Có Phật ra mới thấy việc linh,
Giặc Trời loạn động âm binh dấy loan.
Có nạn ác thú:
Có hổ lang ác thú tới nhà,
Hùm tha sấu bắt trẻ già thương ôi!
Những hiện tương này đã thấy ông Sư-Vãi Bán-Khoai nói đến rồi.Ngoài ra còn nạn nước lụt:
Nghèo sắm xuồng, giàu có sắm ghe,
Để chờ có nước chèo te lên giồng.
Còn nạn chiến tranh khốc liệt sát hại sanh linh:
Hạ-Nguơn hồn phách tiêu tro,
Chớ đừng thấy vậy ăn no vui cười.
Tới nơi có chứng chín mười,
Không phải một người nói chuyện bất minh.
Ngày sau các nước lai chinh,
Tây-dương Anh quốc chiêu binh qua rày.
Nữ-Phiên công chúa tài hay,
Trận đồ bát quái đánh nay nữa lừng.
Tương tranh quờn, ẩn trong rừng,
Lòng buồn nói chuyện nhớ chừng mà chơi.
Ai ai bền chí ở đời,
Chừng nghe sấm đất của Trời mở ra.
Trong các Thiên tai Địa ách mà người đời phải chịu,kể ra cũng thảm khổ quá rồi nhưng chưa quan trọng bằng tiếng sấm nổ, bời đó là sự biến chuyển của vũ trụ càn khôn.Tiếng sấm nổ ấy sẽ diễn ra nhiều cảnh tượng:
1-Làm thay đổi địa hình, như nhiều cù lao sụp đổ
Hậu nhứt thinh tiêu hết cù lao,
Nhị niên chí khổ đề lao chen người.
Như biển nổi thêm hòn:
Biển minh mông Phật nổi lên hòn,
Đất bằng sanh núi Trời còn không hay.
Như nhiều dãy núi vỡ tan:
Núi biển ít sao lại nổi thêm,
Đồng-nai Bắc-Địa không êm núi nào.
Trong lúc có nhiều núi vỡ thì trái lại có nhiều núi nổi lên:
Cửa Ngủ-bát có nổi nhị sơn,
Núi Sam tiêu mất, Thất Sơn điện đền.
Chí anh hùng lập chí cho bền,
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu Sơn.
2-Làm cho con người đê mê bất tỉnh:
Tam thinh quên tuổi quên tên,
Quên dòng quên họ khá nên cải tà.
Dầu cho có được tỉnh dậy đi nữa, ngay vợ chồng cũng không còn biết nhau:
Đạo vợ chồng con cháu buộc chum,
Ngủ đêm thức dậy dứt đùm không hay.
Đến lúc đó mới biết ai là người có căn.Theo ông Ba thì Nam-kỳ lại có căn nhiều hơn hết:
Xuất tam thinh mặc sức lăng-xăng,
Nam kỳ niệm Phật có căn giữ hình.
Những người có căn đều được Phật đến giải mê cho:
Khá bủa câu thả lưới đợi chờ,
Phật cho tài phép một giờ thoát mê.
Chẳng những thoát mê, mà những người hữu căn hữu phước còn thay hồn đổi xác nữa:
Tam giới hội xử việc bất miêng,
Thay hồn đổi xác cõi Tiên đem về.
Chính lúc đó tam giới mở hội để lập lên đời Thượng-Nguơn:
Mãn nhứt thinh các nước đều vô,
Dầu sơn giao chiến Nam-mô tranh tài.
Thập bát quốc vây phủ ở ngoài,
Thiền trung xuất trận phép tài quan thiên.
Đoái Ngũ-Long tiền trận nữ Phiên,
Giao chinh tam trận chư Tiên lai đầu.
Phật thâu phép chư quốc chư hầu,
Quy lai thiền nội ứng hầu Phật-Vương.
Đồng chúc Thánh vạn thọ an khương,
Tuế tăng vạn tuế Phật-Vương thọ trường.
Phán trư quốc cống lễ minh tường,
Tiểu bang lãnh sắc thường thường thọ ân.
Đãi yến diên chư quốc an phân,
Phân ngôi phân thứ định phần quan dân.
Chúc Hớn trào mien viễn hoàng ân,
Trường sanh thọ tuế muôn dân thanh nhàn.
Lập Thượng-Nguơn hưởng thọ khôn càn,
Đặt chung tứ bổn vẹn toàn hiếu trung.
Như thế là đời Thương-Nguơn đã lập, con người sẽ ra sao, đời sống của cõi đó ra thế nào?
NÓI VỀ ĐỜI THƯỢNG-NGUƠN
Trong hàng môn đệ của Đức Phật Thầy, ông Ba Thới kể ra là người viết nhiều về đời Thượng-Nguơn hơn hết.
Phải chăng ông Ba nghĩ rằng: nếu nói đời Thượng-Nguơn là đẹp mà không cho người đời biết thì làm sao người đời ham hố cố gắng tu hành để đi đến nên chi ông Ba viết rõ về đời Thượng-Nguơn?
Trong kinh Di-Lặc và quyển Qui-Nguyên Trực Chỉ quốc độ của Phật Di-Lặc đã được mô tả, là đẹp đẽ trang nghiêm nhứt.Đây chúng ta nghe ông Ba mô tả để so sánh coi có khác những điều mà kinh Di-Lặc và quyển Qui Nguyên Trực Chỉ đã nói không?
Ông Ba cho biết rằng khi lập đời lại thì đất địa bằng phẳng, không bồi không lở,biển không nổi cù lao nữa:
Sau đất bằng không thấp không cao,
Biển sông không nổi cù lao nữa rồi.
Mé sông không lở không bồi,
Sanh sao y vậy nói rồi sau coi.
Chẳng những thế, nước trong chớ không đục lại không ròng không lớn:
Nước một bực thanh-thủy biên Trời,
Không ròng không lớn thuận đời chảy xuôi.
Đất địa đã tốt đẹp, thời tiết lại chỉ có hai mùa: xuân và thu:
Lòng niệm Phật hản dạ chí tu,
Ngày sau lập lại xuân thu hai mùa.
Bời thế khi trời rất ấm áp:
Gió hai ngọn xuân nhựt nguyệt thu,
Không lạnh không nực chí tu để đời.
Có điều không thể tưởng tượng được là hễ ban ngày thì có mặt trời mọc, còn ban đêm khi mặt trời lặn thì mặt trăng mọc,đêm nào cũng như đạo nấy:
Đến chừng nào nhựt nguyệt hiệp căn,
Ngày thời ông mọc đêm trăng sáng hoài.
Chẳng những thế, lúc mọc lúc lặn không như thời gian vì thời tiết mà sai dịch:
Tới ngày sau Tý Ngọ bất di,
Thin thời ông mọc bất tri giờ nào.
Đêm giờ Tý,ngày Ngọ hiệp vào,
Tý Ngọ đứng bong giờ nào lại tranh.
Ngày sáu giờ, đêm sáu giờ canh,
Nguyệt xuất giờ Tuất, không tranh giờ nào.
Thời tiết điều hòa như thế nên năm không có tháng nhuần:
Tới ngày sau phong võ có trần,
Năm muời hai tháng không nhuần như nay.
Năm đã không nhuần, tháng cũng không có tháng thiếu:
Nhứt ngoạt tam thập nhựt chiều mai,
Không dư không thiếu, khỏi tai khỏi nàng.
Thời tiết đã điều hòa như thế, tất nhiên đất địa không phải như thời nay sanh cỏ hay gai góc mà sanh ra toàn là lúa trời,muốn ăn khỏi cần xây giã, vì nó lớn bằng trái dừa:
Hột lúa trời đỏ ruộc điểm khuyên,
Trái dừa nhắm sức của Tiên cho mình.
Lúa ấy chỉ có hai giống chớ không nhiều giống như đời nay:
Sau không nếp mà quết bánh phòng,
Còn hai giống gạo giữ long làm ăn.
Nhưng chẳng phải lúa ấy giữ nguyên hình mãi đâu, vì qua thời kỳ Trung – Ngươn, bởi chịu ảnh hưởng của thời tiết đổi thay mà nó biến hình đi:
Sau hột lúa vỏ trắng thiệt hình,
Trong ruột thời đỏ thế binh bất di.
Trước vỏ vàng ruột trắng phân ly,
Trung – Nguơn khiến biến người khi tiêu điều.
Mùa tiết đã thuận, đất đai đã tốt sanh toàn lúa thì hẵng không còn loại độc trùng hay các loại thú vô ích nữa. Ông còn cho biết chỉ có loài thú nào có ích cho loài nguời mới sanh ra cho người dùng mà thôi:
Núi lao xao lặp hậu Trời Nghiêu,
Cao điền đất Thuấn tiêu diêu độc trùng.
Sâu vật nào Trời Phật cho dùng,
Phật đem trở lại dưỡng cùng vạn gia.
Tồn nhị thú phạm luật quốc gia,
Con trâu con chó cõi ta không vìa.
Tại đâu đời sau không có loài trâu loài chó? Điều ấy rất dễ hiểu. Đã nói rằng loài thú nào có ích cho nguời mới sanh ra, ngày sau lúa đã mọc sẵn, người ta không còn cày cấy nữa thì con trâu dầu có được sanh cũng không còn lợi ích nữa. Còn loài chó sanh ra để giữ nhà mà đời sau là đời Nghiêu, Thuấn, nhà không đóng cửa, của rơi không người lượm thì còn đâu trộm cướp mà phải cần có con chó giữ nhà.
Quả thật là đời Nghiêu Thuấn; nào là nhà không đóng cửa:
Tri sự tiền lập hậu chánh minh,
Nhà không đóng cửa quảng thinh đêm ngày.
Nào là của rơi không ai lượm:
Họ hàng khơi chiều mai ngó thấy,
Qua ngày sau của rơi chẳng lấy.
Ông Ba cho biết ngày sau con người có tài trí cao siêu :
Lo việc hậu mới được lâu dài,
Ngày sau nhiều kẻ phép tài trí tri.
Và họ vẫn biết bay như xà đặng hóa rồng vậy:
Đạo trung dung xà đắc hóa long,
Người thời không cánh không long bay rày.
Muốn kiến thiết thế giới tốt đẹp như thế, ông Ba cho biết: việc sắp đặt phải mất ba năm mới xong:
Lập ba năm đều đủ dưới trên,
Đồng chư quốc lập nên một cuộc.
Thông minh tánh nhiều người không thuộc,
Vận Trời xuôi nhứt cuộc hưng bang.
Nơi nơi đều phú lúc hiển vang,
Chốn chốn hưởng an bang vận đạt.
Về gia đình thì năm bảy người cùng ở một nhà, thuận hòa trên dưới. Cái tục lệ hát ca như đời nay không còn nữa:
Qua ngày sau không hát không ca,
Năm bảy người ở lại nhứt gia.
Vọng Đức Phật Thích Ca chi lý.
Năm bảy chủ hiệp tinh nhất ý,
Phật độ người tận lý quang minh.
Vì người đời hiền lương, nhà nhà đều phú túc, cho nên không sanh ra trộm cướp. Bởi thế không có nhà ngục, nhưng ở mỗi tỉnh vẫn có lập tòa án để hòa giải những việc bất đồng ý kiến nhỏ nhặt, cùng xem chừng việc trị lý trong dân gian:
Có tòa án các tỉnh sâm soi,
Không đường ngục thất sau coi để đời.
Nhà ngục đã không có, cho nên cả pháp luật lập ra để răn phạt người, làm gì lại có:
Của người Tây trả cho người Tây,
Tân trào phế luật thẳng tay trổ tài.
Kiểng Tiên gia sau đặng lâu dài,
Vô cùng mưu trí phép tài mới nên.
Một điều mà xã hội này không có là đời sau dân chẳng có làm xâu nạp thuế chi cả:
Phật lập chánh chư quốc chư hầu,
Bán buôn lui tới phải đầu nước Nam.
Phật dạy đều lòng dạ đừng tham,
Không sưu không thuế nước Nam thanh nhàn.
Mười tám nước ăn ở một tràng,
Chợ nào không góp xóm làng an ninh.
Sở dĩ các nước cùng sống thuận hòa, người người đều hiệp ý không gây gỗ, không sanh ra chiến tranh, là vì ngày sau chỉ có một tôn giáo:
Qua ngày sau không miễu không đình,
Hội tề công sở nhứt tình quốc gia.
Nước Tây Phiên nhà thờ không cha,
Niệm Trời niệm Phật quốc gia an hòa.
Mười tám nước như con một nhà,
Đều thời niệm Phật Di Đà công phu.
Một nước chỉ tu có một chùa và các ngày lễ vẫn như nhau:
Một nước thì tu có một chùa,
Nhà không phượng tư hai mùa xen minh.
Có hai ngày lễ bái tưởng kinh,
Ba mươi mùng một chánh minh nhứt trường.
Ngày mười lăm mười sáu lập thường,
Niệm Trời, niệm Phật nhị truờng an khương.
Lễ nguơn đán hạ nhất xuân vương,
Chánh ngoạt sơ nhất lễ bà chánh chung.
Nhơn bất ác tích thiện vi trung,
Lễ xuân nguơn đán chánh chung hai mùa.
Lễ Thượng nguơn gia kiết tại chùa,
Trung nguơn thu nhựt thủ vừa hương rơi.
Nơi nơi đều ngợi chữ thảnh thơi,
Ca ngâm xứ xứ vui chơi thanh nhàn.
Đời sống đã vui thú như thế, còn con người thì tướng dạng ra sao? Ông Ba cho biết rằng: đời sau trầu thuốc đều bỏ nên răng thì trắng, tóc thì dài, da trắng và châu than thì không có long:
Nhịn trầu thuốc biếng nói biếng cười,
Ngày sau răng trắng như người Quảng Đông.
Nội châu than không có mọc long,
Tóc dài da trắng phụng long dạng hình.
Con mắt thì sang ngời, miệng thì thơm:
Con mắt sao ngó thấy sang ngời,
Trông như mắt cọp miệng cười ngọt thơm.
Răng thì trắng thiệt người ăn cơm,
Lưỡi sao răng vậy gạo thơm ngọt ngào.
Hình dạng đã đẹp đẽ như thế, người người lại không trẻ không già, tám mươi tuổi sấp lên mới có con so, song trong mười người mới có một người sanh, sống lâu đến muôn tuổi:
Đâu đâu không trẻ cũng không già,
Tám mươi mới có vậy mà con so.
Ngoài muôn dân lạc nghiệp đủ no,
Mười người sanh đặng con so một người.
Người tốt tươi ăn nói vui cười.
Nhưng tuổi thọ ấy qua Trung Nguơn thì so le, giảm xuống còn trên một ngàn, cũng như hột lúa bằng trái dừa qua Trung Nguơn biến hình trở lại nhỏ:
Người ăn nói bằng thẳng thiệt thà,
Trình thưa dặm dã giữ mà phép khuôn.
Lập Thượng Nguơn tuổi có một muôn,
Trung Nguơn giữ dạ phép khuôn trên ngàn.
Con người ăn ở đều có lễ nghi khuôn phép cho nên không có sự loạn luân loạn dâm:
Ngày sau nhơn bất loạn dâm,
Người nào nghịch tánh binh âm vật rồi.
Phật cho tâm tánh định hồi,
Man ri mọi rợ tiêu rồi sạch trơn.
Thiên sanh tiền hải hậu sơn,
Tiền Tần hậu Hớn mang ơn cũng nhiều.
Ông Ba cho biết rằng vợ chồng đời nay chỉ là oan khiên túc trái, vay trả lẫn nhau, chỉ qua đời sau mới là thiệt vợ thiệt chồng. Những vị làm quan có đến năm bảy vợ, đâu đấy đều hòa mục, giữ trinh tiết thờ chồng, có lẽ vì số đàn bà nhờ sự tu hành ở đời này mà được sống qua đời đó quá nhiều, sắp năm bảy lần số đàn ông. Phải chăng nay chúng ta thấy số đàn bà đi chùa và tín ngưỡng Trời Phật nhiều hơn đàn ông?
Qua ngày sau thiệt nợ thiệt duơng,
Đàn bà trinh tiết vì ơn nuôi chồng.
Năm bảy vợ hiệp ý một long,
Thượng hòa hạ mục nuôi chồng làm quan.
Một điều lạ nhứt là đàn bà ở đời Thượng Nguơn không có đường kinh nguyệt nữa:
Đường kinh nguyệt sau Phật xử tiêu,
Đời nầy ngang dọc phất diêu lỏa lồ.
Con người nhờ khí hậu điều hòa, đất đai tinh khiết chi nên được sống lâu đến muôn tuổi, không ai bịnh hoạn. Nhờ đó mà sau này không có thuốc men:
Việc thuốc Nam thuốc Bắc vô ân,
Ngày sau thôi cũng vô phân thuốc rồi.
Trên quốc độ vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ ấy, nước Việt Nam sẽ ra sao? Người Việt Nam sẽ có vai trò gì quan trọng chăng?
NÓI VỀ NƯỚC VIỆT NAM SAU NẦY
Sau khi quả địa cầu biến hình, trên thế giới sẽ ra sao ? Ông Ba cho biết sự sụp đổ đất liền thành biển, biển nổi lên đất liền, làm thay đổi địa hình: chừng đó trên thế giới chỉ còn mười tám nước mà thôi:
Cộng tồn thập bát quốc hội an,
Xử tiêu ma quỷ dị đoan tiêu điều.
Hay là:
Tồn thập bát quốc chỉ nói Nghiêu,
Ngọai trừ các nước quần yêu xử tà
Nhưng trong mười tám nước đó, Việt Nam lại hữu phước hơn hết, vì nước Nam có nhiều bậc thông minh tài trí thâu các nước phải phục tùng:
Sau nước Nam ít kẻ vụng về,
Thông minh trí tuệ nhiều người giỏi hay.
Không có cánh đi đặng trên mây,
Phép tài văn võ hơn nay nước nào.
Hữu quân sư thượng trí anh hào,
Dạy mười tám nước chỗ nào văn thơ,
Phật thâu trả quả ngẩn ngơ chư hầu.
Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang.
Phật thâu hết các chữ đa đoan.
Chỉ tồn nhứt tự Nam bang tiếng mình.
Người khác người ăn nói thật tình
Binh thơ đồ trận nước mình tài năng.
Quy nhứt thống hiệp lại nhứt căn,
Thượng thiên giáng thế tài năng trông trần.
Đến ngày sau có Thánh có Thần,
Ai lòng tà vây âm thần xử than.
Nhưng hưởng được cảnh vinh quang ấy, hỡi ôi! Người Việt Nam chúng ta trong mười người chỉ còn lại ba người. Đất Bắc Việt sau này đổi thành ruộng sâu, trong mười người chỉ còn một người, phải chăng vì tội làm thịt cáo cày mà trong kinh Phật đã cắm:
Việc Nam bang nhiều kẻ khôn lanh,
Thất phần dư tử thiểu sanh tam phần.
Thấy việc xa chẳng biết việc gần,
Việc Nam còn mấy việc Tần như nhau.
Đất Bắc kỳ sau lại ruộng sâu,
Mười phần thác chin khó âu cho người.
Về Bắc kỳ, ông Ba quả quyết như vậy, cho nên nhiều nơi ông thường lập lại:
Đất Bắc địa giăng câu đặt lọp,
Ăn cá đồng không cọp ở rừng.
Chắc sao cũng có người hỏi: nước Việt Nam nhỏ bé như thế nầy làm gì lại đứng đầu các nước? ông Ba cho biết rằng sau khi quả địa cầu biến hình, nhieùe chỗ đất bằng sụp đổ, nhiều nơi biển cả nổi lên đất liền, nước Việt Nam với sự thay hình đó sẽ trở thành một đại quốc.
Hậu Bắc địa tứ trấn cõi ngoài,
Nam bang đại quốc lâu dài trường sanh.
Ông Ba còn cho rằng: sau cuộc đại biến thiên, về đời thượng Nguơn, ranh giới nước Việt Nam sẽ lên đến Lèo hạ:
Có sông dọc lên khỏi Nam vang,
Lên đèo xuống dốc nhà sang dãy đày.
Tử Lèo hạ sấp xuống dưới này,
Kiểng vui Nam quốc lời Thầy di ngôn.
Và nước Nam ở thời kỳ Thượng Nguơn ấy sẽ lấy quốc hiệu là Hớn bang:
Mười tám nước lai giáng hàng đầu,
Thường năm cống lễ ứng hầu Hớn bang.
Không thấy ông Ba cho biết các nước sau này sẽ thay đổi ra sao, chỉ thấy nói nhiều về nước Nam thôi. Phải chăng ông Ba nghĩ rằng các nước khác dầu có nói cũng không quan thiết cẩn ích cho dân mình, tốt hơn là mình nên biết mình để mà sớm sửa sang lo liệu tu hành.
Về thế giới các nước sau này theo chúng tôi được biết, thì Đức Bổn Sư núi Tượng có để lại một bản Đồ thơ nghe đâu hiện nay trong môn đệ của Ngài còn giữ, nhưng tiếc vì chúng tôi không được thấy để coi cho biết nước nào còn nước nào mất và mười tám nước còn lại là những nước nào? Duy có nước Nam thì thấy ông Ba cho biết một vài biến đổi về địa hình, như vài đoạn trước đây.
Đây nói về Cần Thơ và Mỹ Tho:
Cửa Cần Thơ Phật khiến xuất sơn,
Mỹ Tho phát hậu kỳ an một hòn.
Về Bạc Liêu và Hà Tiên,ông Ba cho biết:
Sau lập lại Bạc Liêu thiếu muối,
Sau có nổi năm mười hòn núi;
Đem lộn về muối núi Hà tiên,
Phép Phật Trời nhiều kẻ chẳng kiêng.
Nói về sông rạch và đường xe lửa:
Có sông dọc nhiều chỗ dị kỳ,
Đường ngồi xe lửa chạy thi Bạc Liêu.
Về sông thì có sông dọc sông ngang:
Giác bần tiện, giác việc giàu sang,
Hồng ngự sau có sông ngang Sơn chà.
Giác lời vi việc chánh việc tà,
Sông dọc cần lỗ khỏi mà Mỹ Tho.
Ngoài sông dọc, dồng Cần Lố(Sa đéc) còn nổi lên nhiều núi:
Đồng Cần Lố núi nổi giáp vòng,
Sông ngang sông dọc tại lòng Phật Tiên.
Nói về sự biến đổi của Thất sơn ở Châu đốc:
Cửa Ngã bát có nổi nhị sơn,
Núi Sam tiêu mất thất sơn điện đền.
Chí anh hung lập chí cho bền,
Sông ngang ngay thẳng vô đền Bửu Sơn.
Và đây nói về sự thay dổi sau này của đất Sài Gòn và Châu đốc:
Gia định còn, sau mất Sài gòn,
Châu đốc mất trước tiếng còn An giang.
Ông Ba còn cho biết rằng sau này ở Nhà bàn (Châu đốc) sẽ là tràng ứng khoa luyện tập văn võ:
Lập chí trai tới chốn Nhà bàn,
Võ văn luyện tập viễn tràng ứng thi.
Như ông Ba cho biết, trong nước Việt Nam sau này, phần Nam Việt là tốt đẹp hơn hết. Nhưng chỗ nào ngày sau được hưởng cảnh an vui khóai lạc thì nơi đó phải chịu nhiều khổ cảnh cũng như hiện nay cảnh nào vui sướng thì sau này phải chịu nhiều sự biến thiên, và đó là luật tuần hoàn.
Chốn thị thành sau lại hóa rừng,
Chát chua trong dạ ớt gừng xát tâm.
Chính vì luật tuần hoàn đó mà phần đât Nam Việt chịu nhiều cảnh khổ hạ:
Xử việc trong Lục tỉnh hao mòn,
Nam bang khổ hạ chìu lôn hết hơi.
Mà cảnh khổ nhứt là thảm họ sau này của lộ Văn Giáo là con đường đi núi Sam vào Nhà bàn:
Mặc thế tình kẻ dọc người ngang,
Rồi đây tới đó ngay gian thời tường.
Kẻ thị phi niệm Phật đưa đường,
Qua lộ Văn Giáo, vô thường huyết lưu.
Về lộ Văn Giáo, ông Ba còn cho biết :
Qua hậu sử Văn Giáo giáo giăng,
Thây phơi ngọn cỏ vô căn Phật, Trời.
Con trong nhà nói chẳng nghe lời,
Huống chi hàng xóm nói đời ai nghe.
Đó là những điều mà ông Ba cho biết về nước Việt Nam ở đời Thượng Nguơn, nhưng chừng nào đến giai đoạn chuyển biến?
NHỮNG ĐIỀU TIÊN TRI
Muốn hiểu chừng nào mới đến giai đoạn chuyển biến, cần phải xét coi những điều tiên tri của ông Ba có phần nào thực hiện chưa? Đứng về phương diện nhận xét, đã thấy nhiều điều thực hiện rồi, như cuộc đảo chánh của Nhựt vừa qua là một; ông Ba cho biết:
Tây chưa mãn tới việc U phân,
Ngồi buồn thấy khổ muôn dân não nề.
Câu này đủ cho ta thấy tình hình Việt Nam từ ngày Nhựt để chơn lên đất nầy. Không còn lúc nào dân khổ cho bằng lúc đó trở đi. Ông Ba còn cho biết từ năm mươi năm về trước, thời kỳ chiếm đóng của Nhựt dây dưa cho đến năm Tuất(chó):
Trâu Nhựt bổn Nam Việt bắt cày,
Gay go chó sủa hằng ngày sủa dai.
Đó là giai đoạn người Việt Nam bắt trâu Nhựt bổn cày cho mình, ông Ba cho biết còn một giai đoạn nữa người Việt Nam bắt trâu Chệt cày:
Trâu của Chệt Nam Việt bắt cày,
Khỏi sưu khỏi thuế khỏi rầy lao đao.
Tuy ông Ba cho biết phải có trâu của Chệt cày, nhưng khi nói đến nước Tàu thì ông Ba không khỏi đau thương mà thống trách:
Đường gian nan dễ giấu khó bày,
Căm hờn Tàu tặc hại rầy Nam bang.
Ông thương hại cho Tàu là vì phải tội bầy ra bán hình bán tượng của Phật và tranh hành chiếm đoạt nước Nam:
Tội Tàu man ước chất như thành,
Bán hình bán tượng tranh hành nước Nam.
Bởi thế khi lập đời lại, người Tàu chỉ sống sót có một người trong mười người:
Tôi Đại-Thanh bán tượng bán tranh,
Họa hình bán Phật bất sanh chín phần.
Ngoài nước Tàu, ông Ba còn cho biết Ấn-độ cũng mang đại khổ:
Trời khiến xui ách nước từ đây,
Chà và hai nước mất thây chẳng còn.
Ông Ba không cho biết vì lý do gì Ấn độ bị đại nạn như Tàu, nhưng điều này làm cho con người ta kinh ngạc là ông Ba gọi Chà và không phải một nước mà là hai nước đúng như hiện linh chia rẻ của Ấn độ làm hai nước Hồi, Ấn.
Một nước ở gần ta nhứt là nước Tần, ông Ba cho biết sẽ gặp nhiều tai nạn như Tàu và Ấn độ:
Có ai từng ăn ốc không gai,
Ăn cơm không đũa đại tai nước Tần.
Và sau này nước Tần sẽ hiệp về với Hớn bang ở thời kỳ Thượng Nguơn:
Ai từng làm ruộng không trâu,
Nước Tần sau lại lai thâu Hớn trào.
Nhưng trước khi đi đến Hội Long-Hoa, nước Tần phải trãi qua một thời gian đói khổ:
Cao miêm phải lo dùng cơm gói,
Người khá lo đói trước bây giờ.
Việc minh mông chưa tới bực bờ,
Thấy Tần quốc vật vờ hồn phách.
Nhịn đói lạnh chớ than chớ trách,
Một con sâu làm đổ trách cạnh.
Chịu nạn đói lạnh như thế là vì con sâu làm đổ trách canh, do nước Tần khởi loạn trước làm cho Việt Nam phải lâm vào cảnh khổ:
Việc trước thi Tần khởi loạn ra,
Sát nhơn vật người ta thậm khổ.
Tần khởi loạn , theo ông Ba là một điềm mở màn cho biết cuộc đời đã tới.Nhưng muốn xác định thời giờ ông Ba cho biết rằng: khi đời tới thì tự nước nào đánh nước nấy:
Mình hại mình nói việc có căn,
Nước nào hại nấy lăng xăng trở đời.
Sự tận diệt của loài người, theo ông Ba sẽ diễn ra bằng cuộc nội chiến của mỗi nước,cùng một lúc xảy ra nước nào đánh nước nấy :
Giặc dậy lăng xăng,
Lăng xăng giặc dậy.
Đánh nhau tầm bậy,
Tầm bậy đánh nhau.
Nước nào ở đâu,
Ở đâu đánh đó.
Vận nghèo thấy ngó,
Thấy ngó vận nghèo.
Người thác bá bèo,
Bá bèo người thác.
Đâu đâu tan nát,
Tan nát đâu đâu.
…………………………………………………………………
Thật là những điều quá sức tưởng tượng, ngoài ý nghĩ của mọi người. Ông Ba cũng vẫn viết: người đời sẽ có kẻ không tin:
Tôi cho người thấy,
Việc máy thiên cơ.
Người cũng ngó lơ,
Tôi ngơ ngẩn dạ.
Nhưng vì quá thương đời cho nên ông phải tỏ bày để sau người đời không trách:
Thương chúng sanh Phật mới tỏ bày,
Chẳng nghe lời Phật hội nầy rã thây.
Với những người thiện căn, ông bảo ghi nhớ những lời của ông rồi sẽ biết:
Nói rồi cho nhớ lời ghi,
Chừng nào thấy việc loạn ly biết lời.
Nơi nơi khổ não cho đời,
Dư trăm việc khổ biết lời để ghi.
Nhưng hỡi ôi! Mặc dầu ông hết tiếnh nhắc nhở mà người đời vẫn hý hởn không lo:
Bây giờ hý hởn không lo,
Gặp cơn bát loạn nằm co kêu Trời.
Lo giàu ít kẻ lo đời,
Gặp cơn bát loạn kêu Trời thấu đâu.
Và chính vì đó mà các đấng Phật, Tiên, bởi quá thương sót chúng sanh nên lâm phàm chẳng dứt ra Sấm kinh.Cơ bút thức tỉnh người đời.Với sứ mạng cao cả ấy, các đấng thiêng liêng còn mượn xác một cận nhỏ chín tuổi để viết bộ Tứ Thánh cho người đời thấy có tin.
III.-TỨ THÁNH
Phải chăng vì thấy người đời còn ngờ vực, bán tín bán nghi mà lần này đấng thiêng liêng phải mượn xác chín tuổi ra thơ khuyến đời.Với xác chín tuổi thì không còn ai chẳng tin là có một đấng thiêng liêng nào trong đó, chớ làm gì từng tuổi ấy lại thông minh lỗi lạc, nói ra những giọng Phật Tiên, cứu dân độ thế một cách cao siêu thoát tục như vậy.Đây là lời tự thuật của đấng thiêng liêng ấy:
Thương dân khuyên nhủ hết tình,
Mượn xác chín tuổi một mình ra thơ.
Và đấng thiêng liêng ấy tự xưng là Tứ Thánh, vì buồn đời không chịu nghe lời khuyên nhủ, nên lâm phàm cảnh tỉnh:
Buồn đời coi lại làm ngơ,
Nói rằng: nói dối làm thơ bắc vần.
Để rồi cuộc loạn quân Tần,
Biết cho Tứ Thánh bắc vần hay không?
Thật là một điều mà nguời đời không ngờ.Càng làm cho người đời ngạc nhiên hơn nữa là những điều tiên tri, khuyên răng của Tứ Thánh đem so sánh lại không khác với những điều mà ông Sư-Vãi Bán-Khoai hay ông Ba Thới đã cho biết.
NÓI VỀ HẠ-NGUƠN VÀ HỘI LONG-HOA
Trước hết Tứ Thánh cũng nhận như ông Sư-Vãi Bán-Khoai và ông Ba Thới rằng: thời kỳ này là đời Ha-Nguơn sắp có cuộc biến thiên thay đổi cả núi sông:
Hạ-Nguơn mỗi việc mỗi mòn,
Mòn sông mòn biển lại còn mòn non.
Sự biến thiên ấy là do Thiên định, đã kề một bên rồi:
Bây giờ có kẻ Sở người Tề,
Đến kỳ Thiên-định cũng kề một bên.
Tứ Thánh cũng cho biết rằng rồi đây nhơn loại sẽ đi đến Hội Long-Hoa mở ra để chọn người hiền-đức; nhưng trước ngày hội-hợp, nhơn loại phải trãi qua bao nhiêu cuộc biến thiên thảm khổ.Nào là cảnh đói khó:
Lo đời sắp đói một bên,
Quần sao không bận lại quên ở truồng.
Nào là nạn Quỷ-Vương khuấy nhiễu:
Quỷ vương nào kể miễu đình,
Thánh Thần náo động inh inh vang tai.
Nào là sấm nổ làm cho cha con rã rời:
Cơ gian mặt biển đầu non,
Điền thinh chớp nhoáng cha con rã rời.
Nào là nạn chiến tranh tàn khốc mà Tứ Thánh không tả ra nước nào đánh với nước nào, lại ngụ ngôn trong một cuộc đánh cờ, người nào khéo tri cơ sẽ biết đâu là đâu:
Ngó dân ta lắm nổi buồn,
Trở về non đảnh lập tuồng cờ Tiên.
Cả kêu các vị Đạo Tiên,
Ai mà muốn đánh để tiền năm quan.
Có thua xin chớ thở than,
Sắp cờ ngồi lại năm quan để liền.
Các Tiên nghe nói chịu liền,
Nước đỏ nước trắng chớ phiền lộn con.
Đi đầu chốt trắng quá ngon,
Bên kia pháo đỏ lòng son cặp kề.
Chốt trắng ra bị xe nghề,
Xe đỏ chuyên nghiệp trở về chống ngăn.
Pháo đỏ tượng trắng đã ăn,
Xe nghề đương chống đón ngăn nứơc cờ.
Pháo đầu xuất tướng bơ phờ,
Xe đâm ngựa chết hẫng hờ tướng thua.
Thiếu tướng bắt sĩ làm vua,
Cờ ai đánh vậy mà thua uổng tiền.
Sở dĩ Tứ Thánh không chịu nói trắng là vì thiên cơ bất khả lậu:
Bá gia hãy rán chịu phiền,
Thiên cơ bất lậu khó quyền tôi phân.
Mặc dầu nói thiên cơ bất lậu, nhưng rốt rồi Tứ Thánh cũng lậu như thường:
Mây trắng chớp nháng như gương,
Tiếng vang nổ dậy Thái-dương ánh trời.
Thiên binh thiên tướng đổi đời,
Núi xương sông máu góc trời khá ghê.
Lìa gia chia rẽ phu thê,
Tiếng kêu khóc kể gia quê chẳng còn.
Xích tinh phưởng phất lố tròn,
Nguyệt tinh chớp nháng mọc tròn năm châu.
Lao xao dân chúng khó âu,
Sao giăng tứ hướng sức thâu ngân hàng.
Phiên bang, đảng Cộng đôi đàng,
Chiến tranh giành giựt xóm làng thác oan.
Hắc-Long giá võ một phang,
Lửa tuôn sầm chớp kêu vang góc trời.
Tân Kim phải chịu đổi dời,
Thành Thang biến cải biết đời ma chưa.
Ba màu phải chịu thớt thưa,
Cậy cùng nòi giống sớm trưa giúp rày.
Thanh-long nối gót trổ tài,
Thòng vòi lấy nước bân ngoài Âu quân.
Kim chi khó nổi bền quân,
Rút về Gia Định ngăn chừng Đồng Nai.
Trời ơi ! Sao ó biếng bay,
Xe kia biếng chạy tại ai xe ngừng.
Súng sao biếng nổ không chừng,
Chư bang thập bát ngập nhừng ngẩn ngơ.
Ngồi buồn nói chuyện bá vơ,
Cho ai hiểu chút thiên cơ tại Trời.
Tuy Tứ Thánh lộ thiên cơ nhưng thiên cơ ấy chẳng dễ gì đoán nổi với những danh từ: Xích tinh, Nguyệt tinh, Hắc long, Kim quân, Thanh long… Có điều người ta để ý là Tứ Thánh cho biết khi sấm nổ thì súng hết nổ, ó(phi cơ) biếng bay, xe tăng biếng chạy.
NÓI VỀ NƯỚC VIỆT-NAM SAU NÀY
Như đã thấy Tứ Thánh viện lý là thiên cơ bất lậu cho nên dùng cách đánh cờ để nói bong bãi về thời kỳ Nguơn hạ hay nói úp mở bằng cách dùng danh từ mà người đời chẳng dễ gì đoán cho ra; nhưng rốt lại Tứ Thánh lậu thiên cơ như thường khi nói về hậu nhựt của Việt Nam.Phải chăng cần phải bộc lộ thiên cơ cho người đời thức tỉnh mà Tứ Thánh cho biết cuộc biến đổi ở Việt Nam trong thời kỳ Hạ-Nguơn này:
Hạ-Nguơn mỗi việc mỗi mòn,
Mòn sông, mòn biển lại còn mòn non.
Đổi chồng, đổi vợ, đổi con,
Đổi non đổi núi đổi hòn Hà Tiên.
Đổi Châu-đốc, đổi Tịnh-biên,
Thất Sơn lại đổi qua lien Thất bàn.
Qua liền năm trước chật đàng,
Qua lộ Văn Giáo máu tràn như sông.
Đổi nhựt, đổi nguyệt, đổi phong,
Đổi năm, đổi tháng, đổi trong ngày giờ.
Đổi cha lai đổi nhà thờ,
Đổi cồn, đổi bãi, đổi cờ Nam bang.
Trời xoay Âu, Á bốn phang,
Nước tràn bờ cõi khó an thời kỳ.
Chuyển luân bỏ bực biên thùy,
Ngửa nghiêng Trời Đất lập kỳ Thượng-Nguơn.
Khuyên trong anh chị làm ơn,
Ăn ngay ở thật còn hơn làm giàu.
Giữ sao cho khỏi máu trào,
Giữ sao cho được cẩm bào Phật ban.
Mặc dầu Tứ Thánh không nói rõ, nhưng ai có đọc qua những đoạn của ông Ba Thới cho biết cũng đều nhận thấy giữa ông Ba Thới và Tứ Thánh vẫn cùng một nhận định về thời Thượng Nguơn.
Như ông Ba cho biết khi sấm nổ thì có cuộc biến đổi về địa hình như núi thì vỡ, cù lao thì sụp, còn biển thì nổi đất liền.Và cũng trong lúc ấy, con người thì đê mê bất tỉnh, giữa chồng vợ khi tỉnh dậy không còn biết nhau. Về những biến động này Tứ Thánh tóm lược trong những câu: mòn sông, mòn biển, đổi non, đổi núi:
Về lộ Văn Giáo, ông Ba cho biết:
Kẻ thị phi niệm Phật đưa đường,
Qua lộ Văn Giáo vô thường huyết lưu.
Còn ở đây thì Tứ Thánh nói:
Qua liền năm trước chật đàng,
Qua lộ Văn Giáo máu tràn như sông.
Cũng là một nhận định như ông Ba. Ta còn thấy Tứ Thánh cũng nhận có trận Đại Hồng thủy như ông Ba, với câu:
Nước tràn bờ cõi khó an thời kỳ.
Nhưng Tứ Thánh còn mạnh dạn hơn ông Ba về sự bộc lộ hậu vận của nước Việt Nam.Tứ Thánh dám nói Hội Long-Hoa lập ngay ở Nam bang:
Núi rừng trổ ngọc trổ ngà,
Long-Hoa lại trổ trên tòa Thượng Nguơn .
Nam bang một lá quế đơn,
Năm châu tựu hội Thất Sơn đông vầy.
Và Tứ Thánh lập lại một lần nữa:
Ngày sau co một không hai,
Thất Sơn duy nhứt Như Lai lập đời.
Trăng lặn rồi kế mặt trời,
Gió thời hai ngọn đổi dời cũng không.
Ngồi buồn nói chuyện mênh mông,
Kẻ lành nghe vậy thì mong tới đời.
Một lần nữa lời tiên tri của ông Ba Thới cho biết ngày sau đêm nào cũng có trăng, nay được Tứ Thánh xác nhận.
Nhưng đến thời kỳ nào mới có cuộc biến đổi đời Thượng-Nguơn được lập? Tứ Thánh cho biết là mỏng manh lắm rồi:
Cũng gần sắp trổ nhà Nam,
Nay còn phong kiến tứ tam tranh giành.
Sắp đời như sợi chỉ mành,
Treo chuông khó nổi chuông lành hỡi chuông.
Và nó sẽ báo hiệu bằng cuộc khởi loạn của quân Tần, đúng như nhận định của ông Ba Thới:
Để rồi cuộc loạn quân Tần,
Biết cho Tứ Thánh bắt vần hay không?
Và đến khi có thì nhơn sanh phải chịu nạn đói, thế nên Tứ Thánh khuyên:
Khoai lang lại với khoai mì,
Đến khi Tần khởi độ thì khẩu ta.
Cứ theo Tứ Thánh thì cuộc biến động vẫn xảy ra ở thị thành trước, rồi sau mới lan tràn đến thôn quê:
Châu thành pháo nổ khói bay,
Tiếng rền dậy đất họa lây xóm làng.
Trời ôi! Khó nỗi dân nhàn,
Giỏi chi thầy pháp đặt đàn tống ôn.
Tống Châu thành lại tống thôn,
Thuốc Nam rồi lại cũng huờn về Nam.
Nhưng chịu khốn khổ nhứt trong nước Việt Nam có lẽ là miền Long Châu (Long Xuyên và Châu Đốc):
Ghe thuyền kẻ tới người lui,
Giữ lời Phật dạy nhủi chui núi rừng.
Xử tiêu một cuộc không chừng,
Long Châu ướt giáp Phật trừng loài gian.
Thây nằm chật đất ngổn ngang,
Đầu trôi sóng dập ngổn ngang hai hồ.
Mà sở dĩ có cảnh núi xương sông máu như thế là vì người đời không ưa Phật Trời.
Nghĩ thương dân chúng thớt thưa,
Cũng vì bá tánh không ưa Phật Trời.
Nói rằng Phật ở xa vời,
Trời cao giấp giới vậy thời biết chi.
Hay có dạ ưa Phật Trời, nhưng tu không thực tâm, không thương đến kẻ nghèo đói:
Tu sao thây chết như bèo,
Ngỗ ngang dầu sống kẻ nghèo chẳng thương.
Rao cùng khắp hết bốn phương,
Sao không thức giấc hoàng lương dòm đời.
Ngoài hai tỉnh Long xuyên Châu đốc chịu đại nạn, Tứ Thánh còn cho biết một vài nơi khác như Sài Gòn và Gia Định:
Sài gòn Gia định ai ngờ,
Nước đâu mà lại lở bờ gốc cây.
Như Nam vang:
Nam vang nhà sạch nhà vôi,
Ngày sau kiếm trại lá ngồi không ra.
Như ai cũng biết quyển Tứ Thánh ra đời từ năm sáu mươi năm nay, trong lúc nước Việt Nam còn đặt dưới quyền bị trị, thế mà đã cho biết về cuộc độc lập sau này.Anh em cứ nghiệm lấy tình hình hôm nay với những câu Tứ Thánh nói đây coi có phần nào đúng không?
Nói ra nước mắt chan hòa,
Thương cho anh chị khó mà thoát thân.
Tang điền thương hải khó phân,
Không toàn độc lập nhơn dân như bèo.
Tại ai cầm lái phăng lèo,
Tìm Tân thế giới chịu nghèo lâu năm.
Và đây là lời tiên tri chỉ còn chờ lời đáp của thời gian:
Thương công chú Cộng chan dầm,
Vào sanh ra tử lại lầm kế ai.
Rồi đây Đức Giáo chủ Hòa Hảo còn tiên tri nhiều điều rất ứng nghiệm với thời cuộc hơn nữa.
No comments:
Post a Comment